DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I. BAN CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
1. Chủ nhiệm: TS. Phạm Văn Lợi
Viện trưởng Viện khoa học quản lý môi trường
2. Thư ký: ThS. Nguyễn Văn Hiển
P.Trưởng ban TPHS - Viện khoa học pháp lý
II. DANH SÁCH CỘNG TÁC VIÊN CHÍNH
1. TS. Nguyễn Đình Lộc:
|
Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp
|
2. PGS. TSKH. Lê Cảm:
|
Nguyên Chủ nhiệm khoa Luật ĐH Quốc gia
|
3. PGS.TS. Hồ Trọng Ngũ:
|
Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội
|
4. PGS.TS. Nguyễn Văn Động:
|
Trường Đại học Luật Hà Nội
|
5. TS. Đinh Xuân Nam
|
P.Hiệu trưởng trường Cao đẳng kiểm sát
|
6. TS. Hoàng Thị Ngân:
|
P.Vụ trưởng Vụ tổ chức bộ máy VPCP
|
7. TS. Lê Hoàng Oanh:
|
P.Cục trưởng Cục xúc tiến thương mại - Bộ Công thương
|
8. TS. Trương Hồng Hải:
|
Giám đốc trung tâm nghề luật - Học viện Tư pháp, Bộ Tư pháp
|
9. TS. Nguyễn Cảnh Quý:
|
P.Viện trưởng Viện nhà nước và pháp luật - Học viện Chính trị quốc gia HCM
|
10. TS. Trần Mạnh Đạt:
|
Trưởng ban Tư pháp hình sự, Viện KHPL
|
11. Ths. Nguyễn Công Hồng:
|
P.Vụ trưởng Vụ HCHS, Bộ Tư pháp
|
12. Ths. Hoàng Minh Sơn:
|
Vụ Pháp chế và Chính sách - Bộ Tài nguyên và Môi trường
|
13. Ths. Nguyễn Tuấn Sơn:
|
Chuyên viên Cục Thi hành án dân sự, BTP
|
14. ThS. Nguyễn Văn Cương:
|
Nghiên cứu viên Viện Khoa học pháp lý
|
15. TS. Trịnh Tiến Việt:
|
Giảng viên Khoa luật, ĐH Quốc gia
|
16. ThS. Nguyễn Mạnh Cường:
|
Nghiên cứu viên - Viện khoa học pháp lý, BTP
|
17. ThS. Nguyễn Minh Khuê:
|
Nghiên cứu viên - Viện khoa học pháp lý, BTP
|
MỤC LỤC
|
PHẦN I: BÁO CÁO PHÚC TRÌNH
|
|
|
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
|
|
1.1
|
Khái niệm nhân dân và tiêu chí phân nhóm nhân dân trong việc tiếp cập hệ thống tư pháp hình sự
|
6
|
1.2
|
Khái niệm, đặc điểm của hệ thống tư pháp hình sự
|
17
|
1.3
|
Các yếu tố đảm bảo cho hoạt động của hệ thống tư pháp hình sự
|
22
|
1.4
|
Quan niệm về năng lực tiếp cận của nhân dân đối với cơ quan tư pháp và tiêu chí đánh giá hiệu quả năng lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự trong việc bảo vệ quyền con người
|
30
|
1.5
|
Quyền và trách nhiệm của các đối tượng có liên quan trong việc bảo đảm cho nhân dân được tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự
|
32
|
|
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG TIẾP CẬN HỆ THỐNG
TƯ PHÁP HÌNH SỰ CỦA NHÂN DÂN
|
|
2.1
|
Đánh giá tổng quan về thực trạng năng lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự
|
39
|
2.2
|
Đánh giá khả năng tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự theo các đối tượng tiếp cận
|
58
|
2.3
|
Đánh giá thực trạng năng lực tiếp cận của các nhóm nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự
|
62
|
|
CHƯƠNG III
THAM KHẢO KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI TRONG VIỆC TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC TIẾP CẬN CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ
|
|
3.1
|
Hoa kỳ
|
91
|
3.2
|
Canada
|
91
|
3.3
|
Anh
|
92
|
|
CHƯƠNG IV
QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC TIẾP CẬN CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ
|
|
4.1
|
Quan điểm, chính sách của Đảng và nhà nước về tăng cường năng lực tiếp cận của công dân đối với hệ thống tư pháp hình sự
|
97
|
4.2
|
Các giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự
|
105
|
4.3
|
Một số giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận của các nhóm nhân dân đặc thù đối với hệ thống tư pháp hình sự
|
124
|
|
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
|
137
|
|
PHẦN II: HỆ CHUYÊN ĐỀ CỦA ĐỀ TÀI
|
141
|
1
|
Khái niệm nhân dân và tiêu chí phân nhóm nhân dân trong việc tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự
TS. Hoàng Thị Ngân: Văn phòng Chính phủ
|
139
|
2
|
Những vấn đề lý luận về hệ thống tư pháp hình sự
PGS.TSKH. Lê Cảm – Khoa luật Đại học Quốc gia
|
147
|
3
|
Các yếu tố bảo đảm cho hoạt động của hệ thống tư pháp hình sự
PGS.TSKH. Lê Cảm – Khoa luật Đại học Quốc gia
|
158
|
4
|
Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự của nhân dân
PGS.TS. Hồ Trọng Ngũ - Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội
|
170
|
5
|
Thực trạng và giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận của những người tham gia tố tụng đối với các cơ quan tư pháp hình sự trong việc bản vệ quyền con người
ThS. Lê Tuấn Sơn - Cục Thi hành án dân sự
|
182
|
6
|
Thực trạng và khả năng tiếp cận của nhân dân đối với các phương tiện truyền thông nhằm bảo vệ quyền lợi của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự và giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận các phương tiện này
PGS.TS. Hồ Trọng Ngũ - Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội
|
199
|
7
|
Thực trạng khả năng tiếp cận của nhân dân đối với các thiết chế giám sát hoạt động tư pháp hình sự và giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận các thiết chế này
ThS. Hoàng Minh Sơn - Vụ pháp chế và Chính sách - Cục bảo vệ môi trường
|
211
|
8
|
Thực trạng tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự của nhóm thương nhân và giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận của nhóm đối tượng này
TS. Lê Hoàng Oanh - Bộ Thương mại
|
236
|
9
|
Thực trạng khả năng tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự của trẻ em và đối tượng chính sách ở Việt Nam
ThS. Nguyễn Minh Khuê - Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
|
253
|
10
|
Thực trạng khả năng tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự của nhóm nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa và giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận của nhóm đối tượng này
ThS. Nguyễn Mạnh Cường - Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
|
274
|
11
|
Phổ biến, giáo dục và giải thích pháp luật tư pháp hình sự nhằm nâng cao năng lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự
PGS. TS. Nguyễn Văn Động - Trường Đại học Luật Hà Nội
|
285
|
12
|
Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về tăng cường năng lực tiếp cận của công dân đối với hệ thống tư pháp hình sự và những kiến nghị
TS. Nguyễn Cảnh Quý - Học viện hành chính – chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
|
300
|
13
|
Tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự - Một số vấn đề lý luận từ cách nhìn của quốc tế
ThS. Nguyễn Văn Cương - Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
|
309
|
14
|
Những phương hướng cơ bản để nâng cao hiệu quả của hệ thống tư pháp hình sự Việt Nam
PGS.TSKH. Lê Cảm – Khoa luật Đại học Quốc gia
|
321
|
|
NHẬN XÉT CỦA CÁC CHUYÊN GIA PHẢN BIỆN ĐỘC LẬP
|
|
1
|
PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn: Giám đốc Nxb Tư pháp
|
|
2
|
ThS. Lê Thanh Sơn – Phó vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ Tư pháp
|
|
PHẦN I:
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. KHÁI NIỆM NHÂN DÂN VÀ TIÊU CHÍ PHÂN NHÓM NHÂN DÂN TRONG VIỆC TIẾP CẬN HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ.
1.1.1. Khái niệm nhân dân trong tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự.
1.1.1.1. Khái niệm nhân dân - cách tiếp cận chung.
Theo nghĩa thông thường, nhân dân là một cộng đồng người sinh sống trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định được hưởng những quyền và phải thực hiện những nghĩa vụ do pháp luật của quốc gia đó quy định. Theo nghĩa rộng nhân dân là cộng đồng người sinh sống trên trái đất như nhân dân lao động trên toàn thế giới. Như vậy nhân dân được hiểu là dân cư của một quốc gia hay của tất cả các nước trên thế giới. Theo đó, nhân dân được đồng nghĩa với “dân cư”.
Theo nghĩa triết học, nhân dân được hiểu là một cộng đồng người thay đổi trong lịch sử, bao gồm một bộ phận, những tầng lớp, những giai cấp dân cư mà theo địa vị của mình, có khả năng cùng nhau tham gia giải quyết nhiệm vụ phát triển của một quốc gia nhất định trong một thời kỳ nhất định[1]. Theo nghĩa này, “nhân dân” được dùng như một phạm trù xã hội học và khái niệm “nhân dân” phản ánh sự thay đổi kết cấu của xã hội.
Theo nhà tư tưởng J.J. Rousseau thì nhân dân được hiểu là “dân chúng”, là “toàn dân”, là tập hợp của các cá nhân - “con người”, công dân, thành viên xã hội.
Trong khoa học pháp lý, tùy theo từng ngữ cảnh mà nhân dân được giải nghĩa theo cách tương ứng. Cụ thể như, với việc bầu cử các cơ quan đại diện hay trưng cầu ý dân, nhân dân được hiểu là cử tri; đối với việc lấy ý kiến nhân dân về dự án, dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật, nhân dân được hiểu nghĩa là những đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản, trong khoa học hình sự nhân dân được hiểu là công dân cá nhân đồng thời là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự và pháp luật TTHS.
1.1.1.2. Nhân dân với tư cách là người tham gia tố tụng hình sự.
Để hiểu “nhân dân” trong tố tụng hình sự, trước hết, cần tiếp cận bản thân khái niệm, bản chất của hệ thống tư pháp hình sự xuất phát từ chức năng của hệ thống đó.
Trên phương diện lý luận, nhà tư tưởng Montesquieu gọi quyền tư pháp với chức năng trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân là “quyền lực thứ ba”. Do quan niệm cho rằng quyền xét xử là “một thứ quyền đáng sợ đối với người đời”, nên Montesquieu đi đến kết luận “quyền phán xét không nên giao cho một Viện Nguyên lão thường trực, mà phải do những người trong đoàn thể dân chúng được cử ra từng thời gian trong một năm” và “các Thẩm phán cũng cần phải ngang địa vị như bị cáo hoặc những người đồng đảng với bị cáo, để bị cáo không nghĩ rằng mình đang nằm trong tay những kẻ sẵn sàng làm hại mình”. Cũng vẫn với tư duy về sự “đáng sợ” của quyền xét xử mà khả năng “làm hại” của nó mà Montesquieu nhấn mạnh mối quan hệ giữa lập pháp và tư pháp với mục đích bảo vệ quyền tự do của cá nhân theo hướng làm giảm đi phần khắc nghiệt của bán án được tuyên trong bối cảnh “các ông quan tòa chỉ là cái mồm đọc luật một cách máy móc”. Liên quan đến sự tham gia của dân chúng, Montesquieu luận rằng: “Nếu án vẫn là quan điểm riêng tư của pháp quan thì người công dân trong xã hội không biết mình đã tham gia khế ước xã hội như thế nào”[2].
Xuất phát từ tư tưởng về quyền bình đẳng của mọi thành viên trong gia đình nhân loại. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền khẳng định “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ, không có bất kỳ sự phân biệt nào” (Điều 7). Với quy định “Mọi người đều được hưởng quyền bình đẳng, được xem xét công bằng và công khai vởi một Tòa án độc lập và không thiên vị trong việc quyết định các quyền và nghĩa vụ của họ cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ” (Điều 10), bản Tuyên ngôn đã khẳng định mối liên hệ giữa chức năng, hoạt động của cơ quan tư pháp với việc bảo vệ các quyền con người.
Theo quan niệm chung, tư pháp là hệ thống bảo vệ công lý và quyền tự do dân chủ của công dân. Cũng xuất phát từ đó mà bên cạnh việc quy định các nhiệm vụ chung, BLTTHS năm 2003 còn tuyên bố các nguyên tắc có tính bao trùm cho toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự mà đại đa số trong đó mang nội dung bảo vệ công lý và quyền con người như tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều 4); bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật (Điều 5); Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (Điều 6); Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân (Điều 7); bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11)…
Như vậy, xem xét dưới góc độ hoạt động của hệ thống tư pháp hình sự thì “nhân dân”, hiểu một cách khái quát, là những người tham gia các giai đoạn của tố tụng hình sự. Hiểu theo nghĩa rộng, họ là những chủ thể tham gia bảo vệ công lý và được hưởng công lý như chính chức năng và mục đích hướng tới của tư pháp hình sự. Theo nghĩa cụ thể, nhân dân trong tư pháp hình sự được hiểu là người có quyền và nghĩa vụ trong quá trình thực hiện tố tụng hình sự. Đó là những người chịu tác động trực tiếp của hệ thống tư pháp hình sự (người bị tình nghi là có tội, bị can, bị cáo); người bị hại được hưởng công lý (người bị hại); những người có quyền và nghĩa vụ liên quan (nhân chứng, công dân tích cực tham gia bảo vệ công lý…). Nhân dân còn có một ý nghĩa khác là những người có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội, tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm…
1.1.1.3. Nhân dân trong tư pháp hình sự - tiếp cận dưới góc độ nhân quyền.
Xuất phát từ tính phổ quát, tính toàn cầu của quyền con người mà các văn kiện quốc tế quan trọng về nhân quyền thường sử dụng các đại từ “cá nhân”, “mỗi người”, “mọi người” hoặc trong một số trường hợp, “không một ai…” hay “không một người”[3].
Việc các công ước quốc tế và các Nghị định thư bổ sung cho công ước đề cập đến các chủ thể tham gia tố tụng hình sự, đặc biệt là Công ước về các quyền dân sự, chính trị (Điều 14) là để tuyên bố, khẳng định và bảo vệ các quyền tự do của các chủ thể đó; trong đó phải kể đến quyền được suy đoán vô tội, được có mặt khi xét xử, tự bào chữa hay trợ giúp về pháp lý, quyền không đưa ra chứng cứ chống lại chính mình…
Là quốc gia thành viên, Việt Nam không là ngoại lệ, đã xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật tố tụng hình sự nói riêng, theo các chuẩn mực của pháp luật quốc tế. Mặc dù, theo cách tiếp cận chung về nhân quyền và xuất phát từ tính chất, nội dung vốn có, các văn kiện quốc tế đề cập tới các chủ thể tham gia tố tụng hình sự chủ yếu dưới góc độ bảo vệ quyền.
Từ khái niệm chung nhất về nhân dân kết hợp với khái niệm nhân dân trong tố tụng hình sự có thể đưa ra khái niệm nhân dân trong việc tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự như sau: Nhân dân trong việc tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự là những người đạt đến độ tuổi nhất định, có năng lực trách nhiệm hình sự để được hưởng những quyền và thực hiện các nghĩa vụ do pháp luật tố tụng hình sự quy định khi tham gia vào các hoạt động tố tụng cụ thể.
1.1.1.4. Đặc điểm của nhân dân trong việc tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự.
- Nhân dân với tính chất là một cộng đồng người sinh sống trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định vì vậy xét về số lượng thì nhân dân là số đông có thể là hàng vạn, hàng triệu, hàng chục triệu, hàng trăm triệu người; xét về giới tính có nam, nữ; xét về độ tuổi có trẻ em, người lớn, người già; xét về trình độ có người có trình độ lạc hậu, người có trình độ bình thường, người có trình độ cao; xét về yếu tố địa lý có người sinh sống ở thành thị, người sinh sống ở vùng nông thôn đồng bằng, người sinh sống ở vùng núi; xét về năng lực, trách nhiệm của hành vi có người có đầy đủ năng lực trách nhiệm, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần…
- Nhân dân trong việc tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự. Nhân dân là khái niệm chung, do đó chỉ có một bộ phận nhân dân nhất định có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hành vi phạm tội xảy ra thì mới trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và khi đó họ là những người tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự.
Tuy nhiên đặc điểm của nhân dân với tính chất là người tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự lại bị chi phối vởi các đặc điểm nhân dân nói chung. Chính vì vậy việc nghiên cứu đặc điểm nhân dân nói chung và đặc điểm nhân dân trong việc tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự là cơ sở để đưa ra các tiêu chí phân loại nhân dân khi tiếp cận với các cơ quan tư pháp hình sự nhằm bảo đảm cho việc tiếp cận có hiệu quả.
1.1.2. Tiêu chí phân nhóm nhân dân trong việc tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự.
Tùy thuộc vào vị trí, vai trò tham gia của nhân dân vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội mà các nhà nghiên cứu xác định các tiêu chí khác nhau để phân loại nhân dân như: Nhân dân tham gia xây dựng pháp luật, giám sát việc thực hiện pháp luật; nhân dân tham gia công tác phòng ngừa vi phạm, tội phạm; nhân dân tham gia vào các giai đoạn tố tụng hình sự; nhân dân tham gia xây dựng đời sống văn hóa…
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này có thể đưa ra hai tiêu chí chủ yếu để phân loại nhân dân. Cơ sở tiên quyết, cơ bản và vững chắc để xác định hai tiêu chí đó chính là quan niệm về bản chất của pháp luật hình sự; về đường lối chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; về chức năng, nhiệm vụ và mục đích hoạt động của hệ thống tư pháp hình sự. Ngoài ra còn có thể có những căn cứ bổ trợ khác cũng ảnh hưởng nhất định nhưng những căn cứ và cơ sở trên vẫn là trục chính xuyên suốt của các tiêu chí để phân loại nhân dân trong việc tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự.
Như đã nêu ở trên, hiểu theo nghĩa đầy đủ nhân dân trong việc tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự có nhiều nhóm người, mỗi nhóm người lại có những đặc điểm khác nhau và chịu sự tác động khác nhau của hệ thống tư pháp hình sự như: Bị can, bị cáo, người làm chứng, người bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự v.v… Việc tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự mà đề tài nghiên cứu là nhằm bảo vệ các quyền con người, bảo đảm cho họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tránh nguy cơ bị xâm hại từ hoạt động của các cơ quan tư pháp. Từ đó, tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự với mục đích hướng tới công lý, chịu sự phán xét của công lý cần được chú trọng vào các đối tượng có nguy cơ bị hạn chế các quyền.
Từ sự phân tích trên chúng ta có thể xác định hai tiêu chí để phân nhóm nhân dân trong việc tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự như sau:
- Tư cách pháp lý của chủ thể khi tham gia trong các giai đoạn tố tụng hình sự.
- Các nhóm người được hưởng các chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước và được pháp luật bảo vệ các quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ mang tính đặc thù khi tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự.
1.1.2.1. Phân nhóm nhân dân trong việc tiếp cận tư pháp hình sự.
- Phân nhóm nhân dân trong việc tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự theo tiêu chí về tư cách pháp lý khi tham gia trong các giai đoạn của tố tụng hình sự.
Tùy thuộc vào lịch sử xây dựng nhà nước và pháp luật, cũng như xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm mà tố tụng hình sự ở mỗi nước có cách phân chia các giai đoạn khác nhau. Ở nước ta nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 cũng như Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đều quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và cơ quan thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng (Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa); người tham gia tố tụng (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ có liên quan, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người làm chứng, người phiên dich, người giám định); của cá nhân, của cơ quan, cá nhân chịu trách nhiệm có nhiệm vụ thi hành bản án của Tòa án và cơ quan và tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của luật tố tụng hình sự. Sự phân chia các giai đoạn gắn liền với trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. Mỗi giai đoạn tuy độc lập nhưng vẫn nằm trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tạo thành một hoạt động thống nhất. Giai đoạn trước là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước.
Trên cơ sở nghiên cứu các giai đoạn của tố tụng hình sự có thể phân nhóm nhân dân như sau:
Giai đoạn tiền tố tụng bao gồm các hoạt động (tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, khám nghiện hiện trường). Trong giai đoạn này nhân dân tham gia vào các hoạt động trên là những cá nhân trực tiếp hoặc thông qua điện thoại, thông qua đơn thư thông báo cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát biết về sự kiện có dấu hiệu tội phạm đã xảy ra; cá nhân được mời tham gia khám nghiệm hiện trường với tư cách là người chứng kiến.
Trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nhân dân với tư cách là chủ thể tham gia vào các hoạt động tố tụng hình sự bao gồm:
+ Người thực hiện hành vi phạm tội cụ thể là (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo).
+ Người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ có liên quan.
+ Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người giám định, người phiên dịch.
Trong giai đoạn thi hành án hình sự, nhân dân với tư cách là chủ thể tham gia vào việc thi hành án là người bị Tòa án kết tội bằng bản án và bị áp dụng một trong số các hình phạt chính tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình, và bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung là tịch thu tài sản, phát tiền từ 5.000.000 đồng trở lên có hiệu lực thi hành.
Với cách phân loại thứ nhất mỗi chủ thể khi tham gia vào các giai đoạn tố tụng đều có những quyền và nghĩa vụ khác nhau do BLTTHS và Pháp lệnh thi hành án quy định. Chính vì vậy khi tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự, các cơ quan trong hệ thống tư pháp phải căn cứ vào pháp luật để bảo đảm cho họ được hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ đó, đặc biệt là bị can, bị cáo.
- Phân nhóm nhân dân theo các nhóm người được hưởng các chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước và được pháp luật bảo vệ các quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ đặc thù khi tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự.
Pháp luật hình sự của các quốc gia trên thế giới, cũng như pháp luật hình sự Việt Nam đều quy định những nguyên tắc cơ bản bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật. Bên cạnh đó cùng với việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội thì xu hướng phát triển của pháp luật ngày càng mở rộng cơ chế bảo vệ các quyền của các nhóm người khi tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự dựa trên cơ sở phân loại theo các tiêu chí, chỉ số về sinh học, xã hội học v.v… Dưới góc độ triết học về quyền, xác định nội dung quyền xuất phát từ hai phương diện: Phương diện thứ nhất về nhân bản học chú trọng tới mặt sinh lý, thể chất của con người; phương diện thứ hai nhấn mạnh tư tưởng, tinh thần, nhận thức.
Pháp luật nhân quyền quốc tế và cam kết của các quốc gia thời gian gần đây là hướng tới bảo vệ quyền của những nhóm người được gọi là “yếu thế” và dễ bị tổn thương; đó là phụ nữ, trẻ em, người già, người tàn tật, người dân tộc ít người… Việc tách các nhóm người nói trên là xuất phát từ cơ sở triết học về quyền dưới hai phương diện nhân bản học và góc độ xã hội và để hình thành cơ chế bảo vệ quyền một cách hữu hiệu, toàn diện.
Quyền trẻ em có quan hệ chặt chẽ với quyền con người bởi lẽ trẻ em, trước hết là con người, là một thành viên của xã hội, là công dân đặc biệt của quốc gia. Việc hình thành chế độ riêng bảo vệ quyền trẻ em với tư cách là một nhóm “nhân dân” đặc thù xuất phát từ quan niệm rằng “do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc…” và trẻ em “có quyền được chăm sóc đặc biệt”. Trẻ em là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống. Do những hạn chế đó mà khả năng kìm chế, bản lĩnh của trẻ em không cao, dễ bị lôi kéo, kích động tham gia vào các hoạt động mạo hiểm. Quy tắc Bắc Kinh (Quy tắc tối thiểu, phổ biến của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên ngày 29/11/1995), “người chưa thành niên là trẻ em hay người ít tuổi tùy theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vi phạm pháp luật theo một phương thức khác với việc xét xử người lớn”.
Tuyên bố Viên và chương trình hành động[4] bên cạnh nguyên tắc xuyên suốt “tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ bản không có bất cứ sự phân biệt nào” đã nhấn mạnh nhu cầu thiết lập cơ chế bảo vệ quyền của các nhóm người có đặc thù: “Các quyền của phụ nữ và trẻ em gái là một bộ phận cấu thành không thể chia cắt khỏi các quyền phổ cập của con người…”.
Thực hiện và bảo vệ quyền con người, xét trên bình diện chung, phải trung thành và dựa trên nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, nguyên tắc này không loại trừ, mà trái lại, cho phép nhà lập pháp đặt ra các quy định mang tính đặc thù cho từng nhóm đối tượng. Pháp luật quốc tế cũng được xây dựng và hoàn thiện theo hướng quan tâm, chú trọng bảo vệ quyền của những nhóm người.
Dựa trên những nền tảng lý luận triết học, các quy định của pháp luật quốc tế và xuất phát từ thực tiễn ở Việt Nam mà chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta nói chung và các chế định của BLHS, BLTTHS cũng như các văn bản pháp luật có liên quan đều có những quy định mang tính đặc thù cho một số nhóm đối tượng nhất định khi tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự cụ thể như sau:
+ Nhóm những người nước ngoài phạm tội được hưởng miễn trừ ngoại giao.
+ Nhóm bị can, bị cáo, người đang chấp hành án phạt tù là người nước ngoài nói chung.
+ Nhóm bị can, bị cáo, người đang chấp hành án phạt tù là phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi (Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 61 BLHS, khoản 2 Điều 88 BLTTHS).
+ Nhóm bị can, bị cáo, người chấp hành án phạt tù là người chưa thành niên (Điều 34, Điều 35, các điều quy định tại chương X BLHS; các điều quy định tại chương XXXII BLTTHS; những người làm chứng là người chưa thành niên khoản 3 Điều 211 BLTTHS…).
+ Nhóm bị can, bị cáo, người chấp hành án phạt tù là người già yếu, người bị bệnh nặng, bị bệnh hiểm nghèo, người lạc hậu (Điều 12 khoản 1 Điều 59; khoản 2 Điều 88 BLTTHS…).
+ Nhóm bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình; bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất (điểm a, b khoản 2 Điều 57 BLTTHS).
Như vậy việc phân nhóm nhân dân khi tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự như trên đòi hỏi các cơ quan tư pháp khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình phải bảo đảm cho họ được hưởng những quyền và thực hiện những nghĩa vụ mang tính đặc thù đã được pháp luật quy định.
1.1.2.2. Các rào cản đối với việc tiếp cận giữa nhân dân với hệ thống tư pháp hình sự hiện nay ở nước ta.
Việc tiếp cận của nhân dân với hệ thống tư pháp hình sự là xuất phát từ yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhằm mục đích bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện, khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời nghiêm minh theo đúng pháp luật; mọi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được đưa ra thi hành. Tuy nhiên trong thực tiễn có những rào cản mang tính khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự cần phải được nghiên cứu để làm rõ.
- Những rào cản mang tính khách quan.
Mặc dù BLHS, BLTTHS quy định các quyền của nhân dân khi tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự nhưng trên thực tế khi thực hiện các quyền này còn gặp một số khó khăn, vướng mắc sau đây:
+ Do trình độ nhận thức pháp luật của đại bộ phận nhân dân ở nước ta còn hạn chế, đặc biệt một bộ phận trong số họ vì lý do khách quan như sợ bị trả thù, vì các mối quan hệ họ hàng, láng giềng, một số khác mong muốn cuộc sống bình an, lo ngại liên lụy đến pháp luật vì vậy không muốn tiếp cận với các cơ quan tư pháp.
+ Đối với các nhóm người là chủ thể đặc biệt được hưởng các chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước và được pháp luật bảo vệ bằng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ đặc thù nhưng lại do những khiếm khuyết, hạn chế của bản thân do đó khi tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự không có khả năng và điều kiện để thực hiện các quyền và thực hiện các nghĩa vụ do pháp luật quy định.
+ Do tính phức tạp của thủ tục tiếp cận. Từ thực tiễn tiếp cận của những người tham gia tố tụng cho thấy, ngoại trừ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người đã bị kết án thì trình tự, thủ tục tiếp cận của nhân dân với hệ thống tư pháp hình sự theo quy định của BLTTHS và các văn bản luật có liên quan còn có nhiều hạn chế. Người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, đặc biệt là luật sư khi tiếp cận với hệ thống tư pháp phải có những giấy tờ nhất định do cơ quan tư pháp cấp. Trong khi đó những người này do yêu cầu của công việc, do hoàn cảnh gia đình và bản thân nên không thể cùng một lúc đáp ứng được các yêu cầu của các cơ quan tư pháp dẫn đến gây khó khăn cho việc tiếp cận.
- Các rào cản mang tính chủ quan.
+ Việc tiếp cận của nhân dân với các cơ quan tư pháp hình sự chủ yếu được thực hiện tại trụ sở các cơ quan này. Song trên thực tế, những người cần và phải tiếp cận thì ở xa điều kiện đi lại và chi phí cho việc đi lại rất hạn chế và chủ yếu do họ bỏ ra. Chính vì vậy nhân dân rất ngại khi phải tiếp cận. Nếu bắt buộc phải tiếp cận thì cũng chỉ mong muốn mau chóng kết thúc, dẫn đến hiệu quả, chất lượng của việc tiếp cận không đạt được như yêu cầu đề ra.
+ Một số cán bộ và nhân viên các cơ quan tư pháp khi triệu tập những người có liên quan đến trụ sở làm việc nhưng lại không thể hiện sự quan tâm đến những người tiếp cận, có khi còn có thái độ thờ ơ, hách dịch gây ức chế cho họ vì vậy ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các quyền và làm giảm lòng tin đối với các cơ quan tư pháp.
+ Phương tiện, trang thiết bị phục vụ cho việc tiếp cận như máy quay phim, ghi âm, ghi hình, địa điểm còn nhiều hạn chế dẫn đến cùng một việc nhưng phải thực hiện nhiều lần gây khó khăn cho người tiếp cận.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ.
1.2.1. Khái niệm hệ thống tư pháp hình sự.
Các vấn đề lý luận về tư pháp, hệ thống tư pháp đã được các nhà nghiên cứu về luật học quan tâm và đã được nhiều công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ và trên nhiều phương diện khác nhau. Trong phạm vi của đề tài này, giả định đây là vấn đề đã được giải quyết và là tiền đề để nghiên cứu những vấn đề tiếp theo của đề tài.
- Theo từ điển luật học do Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp biên soạn được Nhà xuất bản từ điển bách khoa và Nhà xuất bản tư pháp xuất bản năm 2006 thì tư pháp được quan niệm trên các phương diện sau đây:
Với nghĩa pháp lý chung nhất, tư pháp được quan niệm như là một ý tưởng về một nền công lý, đòi hỏi việc giải quyết những tranh chấp trong xã hội phải đúng pháp luật, phù hợp với lẽ công bằng, bảo đảm lòng tin của nhân dân và xã hội vào pháp luật, góp phần duy trì trật tự pháp luật, bảo đảm sự an toàn pháp lý cho cá nhân, sự ổn định và phát triển của xã hội.
- Theo thuật ngữ Hán Việt thì tư pháp là trông coi, bảo vệ pháp luật.
- Xét theo khía cạnh thể chế nhà nước, ở các nước thực hiện nguyên tắc phân quyền trong tổ chức bộ máy Nhà nước thì tư pháp được hiểu là một trong ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó quyền tư pháp được đồng nghĩa với quyền xét xử chỉ do Tòa án thực hiện. Vì vậy ở các nước này, nói đến cơ quan tư pháp tức là nói đến Tòa án.
Ở nước ta, quyền lực nhà nước thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Như vậy, quyền tư pháp là một trong ba quyền hợp thành quyền lực nhà nước, được hiểu là hoạt động xét xử của các Tòa án và những hoạt động của các cơ quan nhà nước khác trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án như: Điều tra, truy tố, bổ trợ tư pháp nhằm bảo vệ chế độ XHCN, pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tôn trọng và duy trì công lý. Để thực hiện quyền đó, hệ thống cơ quan tư pháp Việt Nam bao gồm: Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các tổ chức tư pháp bổ trợ (như luật sư, công chứng, giám định tư pháp, tư vấn pháp luật…). Trong đó, Tòa án nhân dân là nơi biểu hiện tập trung quyền tư pháp, sử dụng công khai các kết quả của hoạt động điều tra, công tố, bào chữa, giám định tư pháp thông qua các thủ tục tố tụng do luật định để đưa ra phán quyết cuối cùng thể hiện quyền lực nhà nước. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân cũng là nơi thể hiện quyền lực nhà nước. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân cũng là nơi thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống cơ quan tư pháp nói riêng và của toàn bộ hệ thống cơ quan nhà nước nói chung[5].
- Kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp nhà nước năm 2006 KX.04.06 “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” do TS. Uông Chu Lưu làm chủ nhiệm về cơ bản cũng nhất trí với quan điểm nêu trên về quan niệm thế nào là tư pháp, hệ thống cơ quan tư pháp. Theo đề tài này thì “tư pháp từ góc độ ngữ nghĩa Hán - Việt, được hiểu là trông coi, bảo vệ pháp luật. Từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh giải thích tư pháp là pháp đình y theo pháp luật mà xét định các việc ở trong phạm vi pháp luật. Tư pháp, dịch từ thuật ngữ Justice có hai nghĩa - theo nghĩa hẹp, tư pháp là xét xử; theo nghĩa rộng, từ góc độ triết lý, tư pháp được coi là ý tưởng cao đẹp về một nền công lý. Từ góc độ tổ chức quyền lực nhà nước, theo học thuyết phân chia quyền lực khá phổ biến ở các nhà nước tư sản, tư pháp là một nhánh quyền lực độc lập với quyền lập pháp, quyền hành pháp và đồng nghĩa với quyền xét xử (tài phán) do Tòa án thực hiện. Trong khi đó, ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và hiện nay, trong đó có Việt Nam, quyền tư pháp thường được giao cho các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện”[6]
Đề tài KX.04.06 còn phân tích sâu về các khía cạnh quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp, hệ thống cơ quan tư pháp… Cũng theo kết quả nghiên cứu của đề tài này thì các yếu tố hợp thành quá trình thực hiện quyền tư pháp bao gồm pháp luật (luật nội dung, luật tố tụng, luật tổ chức các cơ quan tư pháp); các thiết chế và những con người tham gia thực hiện quyền tư pháp; các thủ tục thực hiện quyền tư pháp. Tổng hợp của các yếu tố, các nguyên tắc, pháp luật, thiết chế, con người, các hoạt động, quy trình, thủ tục tạo nên sự vận hành của quyền tư pháp trong xã hội.
- Hiện nay, pháp luật nước ta chưa có văn bản nào quy định cơ quan tư pháp (hay hệ thống cơ quan tư pháp) là những cơ quan nào. Tuy nhiên, trong các văn kiện của Đảng thì các khái niệm “cơ quan tư pháp” đã được đề cập, chẳng hạn, theo Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 thì các cơ quan tư pháp được hiểu là bao gồm các cơ quan sau: Cơ quan điều tra; các Viện kiểm sát nhân dân; các Tòa án nhân dân; cơ quan thi hành án hình sự, dân sự; Cảnh sát tư pháp; các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp (các tổ chức luật sư, giám định tư pháp, cơ quan công chứng…).
- Đề tài độc lập cấp nhà nước về Cải cách tư pháp (Mã số 92-98-353) cho rằng hệ thống tư pháp bao gồm các cơ quan, thiết chế (pháp luật) thực hiện chức năng chủ yếu là duy trì và bảo vệ công lý bằng các biện pháp và thủ tục đặc thù dựa trên nguyên tắc tài phán công bằng, công khai, cụ thể gồm cơ quan tài phán (Tòa án) và các cơ quan khác có chức năng chủ yếu là phục vụ trực tiếp cho hoạt động tài phán.
Từ việc nghiên cứu các quan điểm trên đây, có thể đưa ra khái niệm hệ thống tư pháp hình sự như sau: “Hệ thống tư pháp hình sự bao gồm các cơ quan thực hiện chức năng chủ yếu là duy trì và bảo vệ công lý bằng các trình tự, thủ tục và các biện pháp đặc thù do pháp luật quy định dựa trên nguyên tắc tài phán công bằng, công khai bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, cơ quan thi hành án và các cơ quan khác có chức năng chủ yếu là phục vụ cho hoạt động tài phán như: (Cơ quan giám định, tổ chức luật sư, công chứng…).
1.2.2. Đặc điểm của hệ thống tư pháp hình sự.
Tổng hợp các quan điểm đã phân tích ở trên có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của hệ thống tư pháp hình sự như sau:
- Hệ thống tư pháp hình sự là tổng thể các cơ quan trực tiếp đấu tranh bảo vệ pháp luật như: Cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan thi hành án hình sự và các cơ quan bổ trợ tư pháp khác nhằm duy trì và bảo vệ công lý.
- Tòa án là cơ quan tư pháp hình sự thể hiện tập trung quyền tư pháp, sử dụng công khai kết quả hoạt động của Cơ quan điều tra, truy tố, bào chữa, giám định… Thông qua trình tự, thủ tục tố tụng do BLTTHS quy định để đưa ra phán quyết cuối cùng nhân danh quyền lực nhà nước.
- Tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp hình sự do pháp luật quy định.
- Hoạt động của hệ thống tư pháp hình sự nhằm mục đích bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật.
1.2.3. Các yếu tố cấu thành của hệ thống tư pháp hình sự.
- Các thiết chế hình thành nên hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng tư pháp hình sự bao gồm .
+ Các cơ quan nhà nước có chức năng thực hiện các quyền tư pháp, trực tiếp bảo vệ pháp luật, trực tiếp đấu tranh chống tội phạm như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, cơ quan thi hành án.
+ Các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp (đó là các cơ quan, tổ chức có thể hoặc không thuộc cơ cấu bộ máy Nhà nước) nhưng có chức năng hỗ trợ cho các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đồng thời hỗ trợ cho công dân về mặt pháp lý trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp như: Cơ quan Công chứng, giám định, tổ chức luật sư.
- Các thể chế pháp lý về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp và các thể chế bổ trợ có liên quan, bao gồm:
+ Pháp luật về tổ chức các cơ quan tư pháp như (Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự, Luật tổ chức VKSND, Luật tổ chức Tòa án nhân dân…).
+ Pháp luật hình sự bao gồm: Luật nội dung, luật tố tụng và các văn bản hướng dẫn thi hành.
+ Các quy phạm xã hội khác như: Quy tắc, quy phạm, quy chế hoạt động của các đoàn luật sư, tổ chức luật sư; quy tắc, chuẩn mực về đạo đức, ứng xử của Kiểm sát viên, Thẩm phán, luật sư…; các quy tắc tổ chức và hoạt động của các tổ chức khác liên quan đến lĩnh vực tư pháp hình sự.
- Các chủ thể tham gia thực hiện các quyền tư pháp như: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán…
- Các điều kiện bảo đảm khác cho sự hoạt động bình thường của các cơ quan tư pháp như: Trụ sở làm việc, phương tiện, trang thiết bị phục vụ làm việc, ngân sách…
1.3. CÁC YẾU TỐ ĐẢM BẢO CHO HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ.
1.3.1. Khái niệm và phân loại các yếu tố đảm bảo cho hoạt động của hệ thống tư pháp hình sự.
Đây chính là những vấn đề mà từ trước đến nay vẫn chưa được soạn thảo về mặt lý luận để hiểu một cách đầy đủ và sâu sắc trong các chuyên ngành KHPL về tư pháp nói chung và TPHS nói riêng của Việt Nam. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu và làm rõ khái niệm yếu tố đảm bảo (YTĐB) và phân loại các YTĐB cho hoạt động của hệ thống TPHS.
1.3.1.1. Khái niệm yếu tố đảm bảo cho hoạt động của hệ thống tư pháp hình sự. Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về hệ thống TPHS, đồng thời xuất phát từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp nói chung và hệ thống TPHS nói riêng ở các NNPQ trên thế giới và ở Việt Nam (đặc biệt là trong những năm cuối thế kỷ XX-đầu thế kỷ XXI này). Theo quan điểm của chúng tôi khái niệm đang nghiên cứu có thể được định nghĩa như sau: Yếu tố đảm bảo cho hoạt động của hệ thống TPHS trong NNPQ là một bộ phận cấu thành mà tổng thể chúng (các YTĐB đó) giúp cho hệ thống TPHS có thể thực hiện tốt các chức năng tương ứng bằng việc áp dụng các quy định của pháp luật về đấu tranh chống tội phạm (ĐTrCTP) để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động xét xử và đưa ra các phán quyết đối với những vụ án hình sự nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự (TNHS) của người phạm tội, một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật, bảo vệ chế độ hiến định, nhân thân, các quyền và tự do của con người và của công dân, cũng như hòa bình và an ninh của nhân loại, hỗ trợ cho cuộc đấu tranh phòng và chống các tội phạm, cải tạo-giáo dục tốt những người bị kết án và tái hòa nhập họ trở về với cuộc sống của cộng đồng, góp phần đưa các nguyên tắc được thừa nhận chung của NNPQ vào đời sống thực tế.
1.3.1.2. Phân loại các yếu tố đảm bảo cho hoạt động của hệ thống tư pháp hình sự. Như vậy, từ khái niệm đã nêu trên đây, đồng thời xuất phát từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của hệ thống TPHS ở các NNPQ trên thế giới và ở Việt Nam (đặc biệt là trong những năm cuối thế kỷ XX-đầu thế kỷ XXI này) chúng ta có thể nhận thấy rằng, để cho hệ thống TPHS của một quốc gia đạt được hiệu quả cao trong cuộc ĐTrCTP, thì cần phải có rất nhiều YTĐB cho hoạt động của nó. Chẳng hạn, đó là các YTĐB có tính chất gián tiếp như: hệ thống chính trị, hệ thống kinh tế, hệ thống pháp luật (nói chung), các chính sách về xã hội, đường lối đối ngoại, các điều kiện trang thiết bị, phương tiện về ứng dụng khoa học-kỹ thuật-công nghệ tiến tiên, v.v… Tuy nhiên, trong phạm vi của mục này chúng ta chỉ có thể nghiên cứu các YTĐB nào có tính chất trực tiếp và liên quan thiết thực nhất đến hoạt động của hệ thống TPHS. Chính vì vậy, theo quan điểm của chúng tôi đó có thể chỉ ra các yếu tố YTĐB cho hoạt động của hệ thống TPHS như sau:
- Các quy định của pháp luật (thực định) về ĐTrCTP.
- Thực tiễn áp dụng pháp luật (ADPL) về ĐTrCTP.
- Đội ngũ cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực ĐTrCTP của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Để nhận thấy rõ bản chất của năm YTĐB cho hoạt động của hệ thống TPHS này, chúng ta cần đi sâu phân tích nội hàm của từng YTĐB đó. Tuy nhiên, nội hàm của mỗi YTĐB cần xoay quanh một trục - phải nhằm đạt được các mục đích của hệ thống TPHS.
1.3.2. Các quy định của pháp luật (thực định) về đấu tranh chống tội phạm.
Khi nghiên cứu nội hàm các quy định của pháp luật thực định về ĐTrCTP với tư cách là một YTĐB cho hoạt động của hệ thống TPHS trong NNPQ, chúng ta cần có nhận thức-khoa học đúng đắn về vấn đề này dưới hai góc độ sau đây.
Thứ nhất, về cơ bản, cần phải xem xét YTĐB này với tư cách là một hệ thống các quy phạm pháp luật thống nhất thuộc lĩnh vực TPHS với ba hệ thống pháp luật cơ bản về ĐTrCTP hợp thành (PLHS, pháp luật TTHS và pháp luật THAHS), đồng thời trong một số trường hợp - cả một số quy định pháp luật khác có liên quan đến hoạt động TPHS được ghi nhận trong các văn bản luật và dưới luật của Nhà nước. Dưới góc độ này, các quy định của pháp luật về ĐTrCTP đóng vai trò là một YTĐB quan trọng cho hoạt động của hệ thống TPHS vì nó chính là các quy phạm và các chế định của ba ngành luật trong lĩnh vực TPHS được các cơ quan BVPL và Tòa án áp dụng trong thực tiễn ĐTrCTP.
Thứ hai, cần phải xem xét YTĐB này với tư cách là một nguồn của các ngành pháp luật về ĐtrCTP trong một quốc gia như là những căn cứ pháp lý cho hoạt động thực tiễn về TPHS của các cơ quan BVPL và Tòa án trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Dưới góc độ này, các quy định của pháp luật về ĐTrCTP đóng vai trò là một YTĐB quan trọng cho hoạt động của hệ thống TPHS vì các quy định này (nằm trong các VBPL về hình sự, TTHS, THAHS và đối với một số trường hợp - nằm cả trong một số VBPL khác có liên quan đến hoạt động TPHS như: tổ chức các Cơ quan điều tra hình sự, tổ chức Viện kiểm sát, tổ chức Tòa án được các cơ quan TPHS có thẩm quyền áp dụng trong thực tiễn để: Thông qua thực tiễn hoạt động TPHS (mà chủ yếu là thực tiễn xét xử) kiểm tra tính đúng đắn và hiệu quả của các quy định hiện hành của các ngành luật về ĐTrCTP; Bằng cách đó hỗ trợ cho việc tiếp tục hoàn thiện các quy định đó; Góp phần sửa đổi, bổ sung các luận điểm hiện hành, đồng thời đề xuất các luận điểm mới của các chuyên ngành khoa học trong lĩnh vực TPHS - tội phạm học, khoa học luật hình sự, khoa học luật TTHS và khoa học luật THAHS.
- Khái niệm và chức năng của YTĐB này. Như vậy, trên cơ sở nghiên cứu hai PPhTC vấn đề đã nêu trên đây và các quy định của pháp luật về TPHS[7] ở một số NNPQ là các nước văn minh và phát triển cao trên thế giới cho phép đưa ra khái niệm đang nghiên cứu như sau: Các quy định của pháp luật về ĐTrCTP có thể được hiểu là hệ thống các quy phạm pháp luật thống nhất thuộc lĩnh vực TPHS tạo thành HTPL về ĐTrCTP (bao gồm PLHS, pháp luật TTHS và pháp luật THAHS), cũng như một số quy định pháp luật khác có liên quan đến tổ chức-hoạt động của hệ thống TPHS) với tư cách là những căn cứ pháp lý nhằm đảm bảo cho hoạt động của hệ thống TPHS đạt được hiệu quả và các mục đích của nó. Từ khái niệm đã nêu và trên cơ sở phân tích YTĐB đang nghiên cứu cho thấy, các quy định của pháp luật về ĐTrCTP bao gồm một loạt chức năng cơ bản tương ứng với từng loại cơ quan TPHS có thẩm quyền là:
+ Chức năng thứ nhất - các quy định của pháp luật về ĐTrCTP đóng vai trò quan trọng là các nguồn trực tiếp của luật hình sự, luật TTHS và luật THAHS quốc gia trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm.
+ Chức năng thứ hai - các quy định của pháp luật về ĐTrCTP là công cụ pháp lý hữu hiệu để bảo vệ một cách vững chắc chế độ hiến định, nhân thân, các quyền và tự do của con người và của công dân, cũng như hòa bình và an ninh của nhân loại tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm, đồng thời cải tạo-giáo dục những người bị kết án và tái hòa nhập họ trở về với cuộc sống của cộng đồng, góp phần đưa các nguyên tắc được thừa nhận chung của NNPQ vào đời sống thực tế.
+ Và cuối cùng, chức năng thứ ba - các quy định của pháp luật về ĐTrCTP với tư cách là những cơ sở (căn cứ) pháp lý và bằng cách đó, hình thành nên hệ thống các VBPL thực định của Nhà nước về ĐTrCTP để đảm bảo cho các cơ quan BVPL và Toà án thực hiện tốt các thẩm quyền tương ứng do luật định để đạt được các mục đích của hệ thống TPHS.
1.3.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu tranh chống tội phạm.
Khi nghiên cứu nội hàm của thực tiễn áp dụng pháp luật (ADPL) về ĐTrCTP với tư cách là một YTĐB cho hoạt động của hệ thống TPHS trong NNPQ, chúng ta cần có nhận thức-khoa học đúng đắn về PPhTC vấn đề dưới hai góc độ sau đây.
Thứ nhất, cần phải xem xét YTĐB này với tư cách là một lĩnh vực của hoạt động ADPL nói chung thuộc nhánh quyền hành pháp của các cơ quan BVPL (các cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát và cơ quan THAHS) và nhánh quyền tư pháp (Tòa án). Dưới góc độ này, thực tiễn ADPL về ĐTrCTP đóng vai trò là một YTĐB quan trọng cho hoạt động của hệ thống TPHS vì nó chính là việc các cơ quan TPHS có thẩm quyền áp dụng trong thực tiễn các quy định trong các VBPL về hình sự, TTHS, THAHS và trong một số trường hợp - cả một số các quy định pháp luật khác có liên quan đến hoạt động TPHS (như: Tổ chức các Cơ quan điều tra hình sự, tổ chức các hoạt động đảm bảo cho quá trình điều tra sơ bộ - truy nã kẻ phạm tội, kiểm tra tin nhắn - điện thoại - thư tín của công dân, v.v…) nhằm các mục đích sau: Đạt được hiệu quả cao trong hoạt động xét xử; đưa ra các phán quyết đối với những vụ án hình sự; giải quyết vấn đề TNHS của người phạm tội một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật; Bảo vệ chế độ hiến định, nhân thân, các quyền và tự do của con người và của công dân, cũng như hòa bình và an ninh của nhân loại; Hỗ trợ cho cuộc đấu tranh phòng và chống các tội phạm, cải tạo -giáo dục tốt những người bị kết án và tái hòa nhập họ trở về với cuộc sống của cộng đồng; Góp phần đưa các nguyên tắc được thừa nhận chung của NNPQ vào đời sống thực tế.
Thứ hai, cần phải xem xét YTĐB này với tư cách là một dạng của thực tiễn pháp lý trong lĩnh vực TPHS (mà trong đó thực tiễn xét xử là cơ bản, điển hình và quan trọng nhất). Dưới góc độ này, thực tiễn ADPL về ĐTrCTP đóng vai trò là một YTĐB quan trọng cho hoạt động của hệ thống TPHS vì nó chính là việc các cơ quan TPHS có thẩm quyền cụ thể hóa trong thực tiễn các quy định trong các VBPL về hình sự, TTHS, THAHS và trong một số trường hợp cả một số quy định pháp luật khác có liên quan đến hoạt động TPHS (như: Tổ chức các Cơ quan điều tra hình sự, tổ chức Viện kiểm sát, tổ chức Tòa án để: Thông qua thực tiễn ADPL trong lĩnh vực TPHS (mà chủ yếu là thực tiễn xét xử) kiểm tra tính đúng đắn và hiệu quả của các quy định của pháp luật về ĐTrCTP; Bằng cách đó hỗ trợ cho việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của HTPL hiện hành về ĐTrCTP; Góp phần chấn chỉnh, bổ sung và sửa đổi các luận điểm hiện hành, đồng thời đề xuất các luận điểm mới của các chuyên ngành khoa học trong lĩnh vực TPHS - tội phạm học, khoa học luật hình sự, khoa học luật TTHS và khoa học luật THAHS.
- Khái niệm và chức năng của thực tiễn ADPL về ĐTrCTP. Từ hai PPhTC vấn đề đã nêu trên đây và hoạt động ADPL về TPHS[8] ở một số NNPQ là các nước văn minh và phát triển cao trên thế giới cho phép đưa ra khái niệm đang nghiên cứu như sau: Thực tiễn ADPL về ĐTrCTP có thể được hiểu là hoạt động áp dụng các phạm pháp luật trong lĩnh vực TPHS (PLHS, pháp luật TTHS, pháp THAHS và các quy phạm pháp luật khác có liên quan) nhằm đảm bảo cho hoạt động của hệ thống TPHS đạt được hiệu quả và các mục đích của nó. Từ khái niệm đã nêu và trên cơ sở phân tích YTĐB đang nghiên cứu cho thấy, thực tiễn ADPL về ĐTrCTP bao gồm một loạt chức năng cơ bản tương ứng với từng loại cơ quan TPHS có thẩm quyền là:
+ Chức năng thứ nhất - áp dụng các quy định trong VBPL về hình sự, TTHS và THAHS để tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử những vụ án hình sự và giải quyết vấn đề TNHS của những người phạm tội (như: định tội danh, quyết định hình phạt, các biện pháp cưỡng chế về hình sự khác hay các biện pháp THAHS hoặc các biện pháp tha miễn).
+ Chức năng thứ hai - đưa ra những giải thích các quy định đã được nhà làm luật ghi nhận trong các VBPL đó bởi cơ quan tư pháp cao nhất của đất nước (TANDTC) ở cấp độ ADPL.
+ Và cuối cùng, chức năng thứ ba - hình thành nên hệ thống những giải thích của thực tiễn xét xử với tư cách là những hướng dẫn có tính chất chỉ đạo đối với việc áp dụng thống nhất các quy phạm pháp luật về ĐTrCTP và băng cách đó, đảm bảo cho các cơ quan BVPL và Toà án của đất nước thực hiện tốt các thẩm quyền tương ứng do luật định, đồng thời đạt được các mục đích của hệ thống TPHS.
1.3.4. Đội ngũ cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm của các cơ quan tư pháp.
Khi nghiên cứu nội hàm đội ngũ cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực ĐTrCTP của các cơ quan tư pháp với tư cách là một YTĐB cho hoạt động của hệ thống TPHS trong NNPQ, chúng ta cần có nhận thức khoa học đúng đắn về PPhTC vấn đề dưới hai góc độ sau đây.
+ Thứ nhất, cần phải xem xét YTĐB này với tư cách là một bộ phận hợp thành trong tổng thể đội ngũ cán bộ, công chức của bộ máy công quyền chuyên thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến việc ĐTrCTP. Dưới góc độ này, có thể nhận thấy rằng, đội ngũ cán bộ này là một YTĐB rất quan trọng cho hoạt động của hệ thống TPHS vì nó bao gồm: Các cán bộ, công chức chuyên làm công tác nghiên cứu, soạn thảo và ban hành các VBPL về TPHS thuộc cơ quan lập pháp (Quốc hội, Nghị viện, v.v…); Các cán bộ, công chức chuyên làm công tác nghiên cứu, công tác thực tiễn BVPL thuộc các cơ quan hành pháp (các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, cơ quan THAHS, v.v…).
+ Thứ hai, cần phải xem xét YTĐB này với tư cách chỉ là một số người chuyên các nhiệm vụ tiến hành tố tụng đối với các vụ án hình sự và thi hành các bản án hình sự đang trực tiếp làm công tác thực tiễn ĐTrCTP. Dưới góc độ này, có thể nhận thấy rằng, đội ngũ cán bộ này là một YTĐB rất quan trọng cho hoạt động của hệ thống TPHS vì nó bao gồm: Các cán bộ, công chức chuyên làm công tác thực tiễn BVPL (các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, cơ quan THAHS, v.v…).
- Khái niệm và chức năng của đội ngũ cán bộ đã nêu. Như vậy, từ hai PPhTC vấn đề đã nêu trên đây và đội ngũ cán bộ đang công tác trong hệ thống TPHS[9] ở một số NNPQ là các nước văn minh và phát triển cao trên thế giới cho phép đưa ra khái niệm đang nghiên cứu như sau: Đội ngũ cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực ĐTrCTP của các cơ quan Tư pháp, những người chuyên thực hiện các chức năng và nhiệm vụ nghiên cứu, soạn thảo và ban hành các văn bản về TPHS, cũng như nghiên cứu và trực tiếp tiến hành tố tụng đối với các vụ án hình sự và thi hành các bản án hình sự nhằm góp phần đảm bảo cho hoạt động của hệ thống TPHS đạt được hiệu quả và các mục đích của nó. Từ khái niệm đã nêu và trên cơ sở phân tích YTĐB đang nghiên cứu cho thấy, đội ngũ cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực ĐTrCTP có một loạt chức năng cơ bản tương ứng với từng loại cơ quan TPHS có thẩm quyền là:
+ Chức năng thứ nhất - chuyên trách thực hiện hoạt động STPL về ĐTrCTP như công tác nghiên cứu và trực tiếp xây dựng và ban hành các VBPL về hình sự, TTHS, THAHS và một số VBPL khác pháp luật có liên quan đến lĩnh vực TPHS.
+ Chức năng thứ hai - chuyên trách thực hiện hoạt động thực tiễn BVPL, tức là trực tiếp ADPL về ĐTrCTP (bao gồm các VBPL về hình sự, TTHS, THAHS và một số VBPL khác pháp luật có liên quan đến lĩnh vực TPHS như điều tra và truy tố những vụ án hình sự, cũng như thi hành các bản án hình sự.
+ Và cuối cùng, chức năng thứ ba - chuyên trách thực hiện hoạt động thực tiễn xét xử (tài phán) và đưa ra các phán quyết đối với những vụ án hình sự, tức là trực tiếp ADPL về ĐTrCTP (bao gồm các VBPL về hình sự, TTHS, THAHS và một số VBPL khác pháp luật có liên quan đến lĩnh vực TPHS để giải quyết vấn đề TNHS của người phạm tội như: định tội danh, quyết định hình phạt, các biên pháp cưỡng chế về hình sự khác hoặc các biện pháp tha miễn).
1.4. QUAN NIỆM VỀ NĂNG LỰC TIẾP CẬN CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN TƯ PHÁP VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ NĂNG LỰC TIẾP CẬN CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI.
1.4.1. Quan niệm và các yếu tố cấu thành của năng lực tiếp cận của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp hình sự.
Tiếp cận pháp luật nói chung và tiếp cận tư pháp hình sự nói riêng là khả năng của người dân có thể bảo vệ các quyền của mình theo các nguyên tắc và chuẩn mực về quyền con người thông qua hệ thống tư pháp chính thức và không chính thức. Nền tảng cơ bản của tiếp cận pháp luật và tư pháp hình sự là sự tồn tại khuôn khổ pháp lý quy định các quyền cơ bản của người dân và sự tồn tại các thiết chế thực thi các quyền đó. Tuy nhiên để bảo đảm việc tiếp cận pháp luật và tư pháp hình sự thì người dân cần có sự hiểu biết về các quyền và nghĩa vụ của mình và biết tiếp cận thời gian nào? cơ quan nào? ở đâu? để bảo vệ các quyền của mình; người dân cần có khả năng tiếp cận các thiết chế hoặc cơ chế hiện có khi cần; và cuối cùng là họ phải có niềm tin đối với hệ thống tư pháp và tư pháp hình sự mà họ tiếp cận để thực thi các quyền của mình.
Năng lực là một thuật ngữ được dùng trong nhiều lĩnh vực hoạt động của con người. Theo nghĩa tiếng Việt thì năng lực là “Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó”[10] Như vậy năng lực thể hiện bốn yếu tố sau đây:
- Hoặc là khả năng (cái mà chủ thể vốn có) để thực hiện một hoạt động nào đó;
- Hoặc là điều kiện khách quan để thực hiện một hoạt động nào đó;
- Hoặc là điều kiện chủ quan để thực hiện một hoạt động nào đó;
- Hoặc là vừa khả năng, vừa điều kiện chủ quan và khách quan để thực hiện một hoạt động nào đó.
Trên thực tế, năng lực bao giờ cũng được thể hiện cụ thể thông qua hoạt động nào đó, không thể có năng lực chung chung chỉ tồn tại trong ý thức con người. Nói đến năng lực bao giờ cũng đi liền (gắn liền) với một chủ thể nhất định và một hoặc nhiều hoạt động cụ thể. Nếu thiếu theo yếu tố chủ thể hoặc thiếu hoạt động nào đó thì không thể nói đến năng lực.
Nghiên cứu khái niệm năng lực chung nêu trên có thể vận dụng để xác định quan niệm năng lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự trong việc bảo vệ quyền con người. Theo đó năng lực tiếp cận của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp hình sự được hiểu là “khả năng của nhân dân và các điều kiện khách quan khác để tiếp cận hiệu quả nhất với cơ quan tư pháp hình sự trong việc bảo vệ quyền con người được pháp luật quy định”.
- Năng lực tiếp cận của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp hình sự được cấu thành bởi các yếu tố sau:
+ Trình độ học vấn, nghề nghiệp, giới tính, dân tộc, kiến thức xã hội.
+ Trình độ nhận thức pháp luật, ý thức pháp luật và tinh thần thái độ về các quyền và bảo vệ các quyền được pháp luật quy định.
+ Cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền của con người khi tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự (trình tự, thủ tục phương thức đảm bảo cho nhân dân thực hiện các quyền khi tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự.
+ Nhận thức pháp luật, tinh thần, thái độ của cán bộ, nhân viên các cơ quan tư pháp trong việc bảo đảm cho nhân dân thực hiện các quyền khi họ tiếp cận các cơ quan tư pháp hình sự.
+ Các yếu tố khác như: Không gian, thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện đảm bảo sự thuận lợi cho nhân dân khi tiếp cận với cơ quan tư pháp hình sự.
1.4.2. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả năng lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự trong việc bảo vệ quyền con người.
- Tính minh bạch, cụ thể, đồng bộ và khả thi của hệ thống pháp luật tư pháp hình sự (luật hình sự, luật TTHS, pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, các thiết chế bổ trợ tư pháp, thi hành án);
- Sự thuận tiện, hiệu quả, minh bạch, linh hoạt và cụ thể của các trình tự thủ tục tố tụng bảo đảm cho nhân dân thực hiện đầy đủ các quyền trong việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm; tham gia vào các giai đoạn của tố tụng và khiếu nại tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hình sự và những người chịu trách nhiệm quản lý và giáo dục người chấp hành hình phạt tù và các hình phạt khác.
- Sự chuyên nghiệp, trong sạch và ý thức, tinh thần trách nhiệm cao của những người tiến hành tố tụng (Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án) của Giám thị, Quản giáo trại giam.
- Hiệu quả hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành án hình sự.
- Sự chủ động, tích cực và ý thức tinh thần trách nhiệm công dân trong việc bảo vệ quyền lợi của mình trong công tác đấu tranh chống tội phạm và sự tham gia của người làm chứng trong các giai đoạn tố tụng hình sự.
- Hiệu quả hoạt động của các thiết chế bổ trợ tư pháp: Luật sư, công chứng, giám định, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật.
- Hiệu quả hoạt động của các cơ quan giám sát (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp), các cơ quan thanh tra, kiểm tra chuyên ngành của các cơ quan tư pháp, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực hoạt động tư pháp hình sự.
- Hiệu quả hoạt động của các cơ quan thông tấn, báo chí, các cơ quan phát thanh, truyền hình trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
1.5. QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC ĐỐI TƯỢNG CÓ LIÊN QUAN TRONG VIỆC BẢO ĐẢM CHO NHÂN DÂN ĐƯỢC TIẾP CẬN HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ.
1.5.1. Quyền được tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự của nhân dân.
- Quan niệm về nhân dân và quyền của nhân dân được quy định trong Hiến pháp - Đạo luật cơ bản của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; theo đó công dân nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.
Theo quy định tại chương V Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quyền được tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự của nhân dân bao gồm: Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; bất khả xâm phạm về chỗ ở; có quyền khiếu nại tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước. Các quyền trên của nhân dân được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ.
- Quyền của những người tham gia tố tụng. Nhân dân với tư cách là người tham gia tố tụng đó là những người có liên quan đến vụ án hình sự đã xảy ra, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan) và những người có liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự (người làm chứng, người bào chữa, người giám định, người phiên dịch) do đó họ vừa có tư cách pháp lý chung của người tham gia tố tụng vừa có tư cách pháp lý riêng do pháp luật tố tụng quy định. Chính vì vậy, những người tham gia tố tụng đều có những quyền chung và có những quyền cụ thể tùy thuộc vào tư cách pháp lý riêng của họ.
+ Các quyền chung của những người tham gia tố tụng. Các quyền chung của những người tham gia tố tụng hình sự được quy định trong BLTTHS là sự cụ thể các quy định của Hiến pháp về các quyền cơ bản của công dân. Các quyền chung của những người tham gia tố tụng là những quyền mang tính nguyên tắc xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng, bao gồm các quyền sau đây:
Quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật.
Quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân.
Quyền không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Quyền được dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình.
Quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại do cơ quan, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền gây ra.
+ Các quyền riêng của những người tham gia tố tụng tùy thuộc vào tư cách pháp lý khi tham gia vào các giai đoạn tố tụng hình sự, cụ thể như sau:
Quyền của người bị tạm giữ bao gồm: Được biết lý do mình bị tạm giữ; được giải thích về quyền và nghĩa vụ; trình bày lời khai; tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa; đưa ra tài liệu đồ vật, yêu cầu; khiếu nại về việc tạm giữ…
Quyền của bị can bao gồm: Được biết mình bị khởi tố về tội gì; được giải thích về quyền và nghĩa vụ; trình bày lời khai; đưa tài liệu, đồ vật, yêu cầu; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa; được nhận quyết định khởi tố, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn…
Quyền của bị cáo bao gồm: Được nhận các quyết định tố tụng và bản án của Tòa án; tham gia phiên tòa; được giải thích về quyền và nghĩa vụ; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, phiên dịch; đưa tài liệu, đồ vật, yêu cầu; tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa; nói lời sau cùng trước khi nghị án; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án…
Quyền của người bị hại bao gồm: Đưa tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được thông báo kết quả điều tra; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, phiên dịch; đề nghị mức bồi thường; khiếu nại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường cũng như hình phạt đối với bị cáo…
Quyền của nguyên đơn dân sự bao gồm: Đưa tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được thông báo về kết quả điều tra; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, phiên dịch; đề nghị mức bồi thường; tham gia phiên tòa, phát biểu ý kiến, tranh luận; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình…
Quyền của người làm chứng: Được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; được thanh toán chi phí đi lại.
Quyền của người bào chữa: Được có mặt khi lấy lời khai người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can; đề nghị Cơ quan điều tra về thời gian địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa; đưa ra tài liệu đồ vật, yêu cầu; gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; đọc; ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến bào chữa khi kết thúc điều tra; tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần, thể chất.
Quyền của người bảo vệ quyền lợi của đương sự: Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; đọc ghi chép và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự sau khi kết thúc điều tra; tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; khiếu nại quyết định hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng.
Quyền của người giám định: Tìm hiểu tài liệu của vụ án có liên quan đến đối tượng giám định; yêu cầu cơ quan trưng cầu giám định cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc kết luận; tham dự vào việc hỏi cung lấy lời khai và đặt câu hỏi về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám định; từ chối việc giám định trong trường hợp thời gian không đủ để tiến hành giám định; ghi riêng ý kiến của mình vào kết luận chung.
Quyền của người phiên dịch: Có quyền từ chối tham gia tố tụng khi thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 và 3 Điều 42 BLTTHS.
1.5.2. Trách nhiệm và nghĩa vụ của cơ quan công chức nhà nước trong việc bảo đảm cho nhân dân được tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự.
- Trách nhiệm và nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm cho nhân dân được tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự được quy định thành các nguyên tắc của tố tụng hình sự, cụ thể như sau:
+ Khi tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không cần thiết nữa.
+ Việc bắt, giam giữ người phải theo đúng quy định của pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình.
+ Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân; việc khám xét chỗ ở, khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện tín phải đúng quy định của pháp luật.
+ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan toàn diện và đầy đủ. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng.
+ Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do pháp luật quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội.
+ Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do mình gây ra.
- Các cơ quan, công chức nhà nước khác có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân được tiếp cận trong trường hợp thực hiện các quyền có liên quan đến tư pháp hình sự.
1.5.3. Quyền và trách nhiệm của các thiết chế bổ trợ tư pháp (tổ chức luật sư, giám định, trợ giúp pháp lý) và các phương tiện thông tin đại chúng.
- Quyền và trách nhiệm của các thiết chế bổ trợ tư pháp như: Các đoàn luật sư, văn phòng luật sư, các công ty luật và các cơ sở, trung tâm giám định (y khoa, pháp y, pháp y tâm thần, giám định kỹ thuật…) là những thiết chế bổ trợ tư pháp có chức năng và nhiệm vụ khác nhau nhưng hoạt động của các thiết chế này góp phần quan trọng làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Trong việc bảo đảm cho nhân dân được tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự, các thiết chế này có trách nhiệm và nghĩa vụ sau đây:
Khi nhân dân (những người có liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự) cần sự giúp đỡ để thực hiện các quyền do pháp luật quy định mà tự bản thân họ không thực hiện được, hoặc thực hiện không có hiệu quả, thì các cơ quan này căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình tiến hành các hoạt động trực tiếp để giúp đỡ họ như: Tiến hành công chứng, hướng dẫn, giải thích cho họ hoặc cử người của cơ quan, tổ chức đứng ra bảo vệ quyền lợi cho nhân dân như cử luật sư bào chữa, cử người đại diện bảo vệ quyền và lợi ích của họ trong các vụ án hình sự…
Xuất phát từ yêu cầu của công tác điều tra, truy tố, xét xử hoặc xuất phát từ yêu cầu làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án mà những người tham gia tố tụng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng mời người bào chữa, yêu cầu giám định, trợ giúp pháp lý thì Cơ quan điều tra, truy tố, xét xử có thể làm văn bản đề nghị các đoàn luật sư cử người bảo vệ quyền lợi cho họ; yêu cầu trưng cầu giám định thương tật, giấy tờ, tài liệu, tâm thần… Trong những trường hợp này các cơ quan tổ chức bổ trợ tư pháp có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu do các cơ quan tiến hành tố tụng đề ra và phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình nhưng cũng có quyền từ chối khi thuộc một trong các trường hợp do BLTTHS quy định.
- Quyền và trách nhiệm của các phương tiện truyền thông. Để bảo đảm cho nhân dân tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự thuận lợi và có hiệu quả, các phương tiện truyền thông (các đài phát thành, truyền hình, báo chí…) trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình phổ biến tuyên truyền pháp luật, giúp đỡ hướng dẫn nhân dân đặc biệt là nhân dân thuộc các dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa để họ nhận thức và hiểu biết được các quyền của họ được pháp luật bảo vệ; các cơ quan, tổ chức mà họ cần tiếp cận để giúp đỡ; đưa tin, đăng các bài viết về hoạt động của các cơ quan tổ chức bổ trợ tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho họ khi cần giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức này. Tuy nhiên hoạt động của các phương tiện truyền thông không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật tố tụng, do đó việc đưa tin, đăng bài phổ biến tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải đảm bảo tính chính xác, khách quan thì việc tiếp cận của nhân dân với hệ thống tư pháp hình sự mới có hiệu quả.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG TIẾP CẬN HỆ THỐNG
TƯ PHÁP HÌNH SỰ CỦA NHÂN DÂN.
2.1. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN VỀ THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TIẾP CẬN CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ.
2.1.1. Thực trạng năng lực tiếp cận của những người tham gia tố tụng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong việc bảo đảm quyền con người.
Quyền con người hiện nay đang là vấn đề được tất cả các quốc gia trên thế giới đặc biệt coi trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Để bảo đảm tốt nhất các quyền cơ bản của con người, quan điểm chung của các nước là phải hoàn thiện các cơ chế, thể chế phù hợp với các chuẩn mực được thừa nhận chung, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và nâng cao khả năng tiếp cận của công dân đối với các thiết chế bảo vệ các quyền con người trên các lĩnh vực kinh tế, dân sự, chính trị, văn hóa xã hội. Đòi hỏi quan trọng nhất trong một xã hội dân chủ và Nhà nước pháp quyền là mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, việc thực thi nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật được đảm bảo bởi hệ thống các cơ quan tư pháp độc lập, công dân không bị bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố và xét xử trái pháp luật, nếu phạm tội thì phải được xét xử công khai, nhanh chóng, được đối diện và tranh luận trực tiếp hay thông qua người đại diện của mình với những người buộc tội.
Ở nước ta, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một trong những vấn đề có tính thời sự hiện nay là đảm bảo quyền con người trong lĩnh vực tư pháp, bởi vì, đây là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến các quyền con người cơ bản nhất (tính mạng, danh dự, nhân phẩm, sở hữu...). Vì vậy, việc đổi mới tổ chức và hoàn thiện thể chế liên quan đến hoạt động tư pháp ở nước ta trong những năm gần đây không ngoài mục đích tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tư pháp và tăng khả năng tiếp cận của công dân đối với các cơ quan tư pháp trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo quy định của pháp luật.
Mục đích tiếp cận của công dân đối với các cơ quan tư pháp trong xu thế bảo vệ các quyền con người hiện nay là đảm bảo cho công dân tham gia bình đẳng vào quá trình tố tụng; tiếp nhận thông tin, thủ tục trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng để gia tăng cơ hội có một kết quả tố tụng công bằng; khiếu nại, thi hành, thay đổi hoặc huỷ bỏ nghĩa vụ pháp lý ở bất cứ thẩm quyền tố tụng nào. Do đó, để đảm bảo khả năng tiếp cận của công dân đối với các cơ quan tư pháp, đòi hỏi các cơ quan, cán bộ tư pháp phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.
Trong hoạt động tư pháp, hoạt động tố tụng hình sự có tính chất đặc trưng là phát sinh từ việc thực hiện các hành vi phạm tội, vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu các giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự trong việc bảo vệ quyền con người, chúng tôi tập trung nghiên cứu khả năng tiếp cận của những người tham gia tố tụng (với tư cách là nhóm người quan trọng nhất) đối với các cơ quan tố tụng trong lĩnh vực tư pháp hình sự - các cơ quan tố tụng hình sự. Những người tham gia tố tụng hình sự có thể chia thành: người bị cho là có hành vi phạm tội (tuỳ vào từng giai đoạn tố tụng mà có địa vị pháp lý nhất định: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, phạm nhân), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tới hành vi phạm tội (người bị hại, người có quyền lợi liên quan, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự) và người tham gia đảm bảo cho quá trình tiến hành tố tụng được khách quan, đúng pháp luật (người bào chữa, người đại diện cho đương sự, người phiên dịch, người làm chứng, người giám định). Khả năng tiếp cận của những người tham gia tố tụng đối với các cơ quan tố tụng hình sự được thể hiện ở các quyền tiếp cận được pháp luật quy định, khả năng thực hiện những quyền này và sự đảm bảo từ phía các cơ quan tố tụng - khả năng có quyền và thực hiện quyền của chủ thể trong mối quan hệ với các cơ quan tố tụng hình sự.
2.1.2. Quyền tiếp cận của những người tham gia tố tụng và khả năng đảm bảo từ các cơ quan tố tụng hình sự.
Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (viết tắt là BLTTHS), hoạt động tố tụng hình sự là quá trình chứng minh sự việc phạm tội và người phạm tội, do các cơ quan tiến hành tố tụng (gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân) trực tiếp tiến hành để ra các văn bản về tố tụng như: Quyết định khởi tố (quyết định khởi tố vụ án và quyết định khởi tố bị can), cáo trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử, bản án, các quyết định thi hành án (thi hành án phạt tù, thi hành án tử hình).
Hoạt động tố tụng hình sự bao gồm nhiều giai đoạn: Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự với sự tham gia của những người tham gia tố tụng (người tạm giữ, bị can, bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bị hại, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch) và của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân. Các giai đoạn tố tụng hình sự đó liên quan chặt chẽ đến việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, vì vậy, việc quy định các quyền sẽ là cơ sở đảm bảo khả năng tiếp cận của các chủ thể đối với các cơ quan tố tụng hình sự.
Khả năng tiếp cận của những người tham gia tố tụng đối với cơ quan tố tụng hình sự theo quy định của Chương IV BLTTHS có thể được khái quát thành các quyền cơ bản là: Quyền được yêu cầu giải thích lý do, quyền và nghĩa vụ về những vấn đề liên quan; Quyền được nhận các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng; Quyền trình bày ý kiến, đưa ra quan điểm tranh luận; Quyền được xem, đọc các biên bản và có ý kiến sửa chữa, bổ sung; Quyền được yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng; Quyền bào chữa; Quyền khiếu nại, tố cáo, kháng cáo; Quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, khả năng về các quyền nêu trên của những người tham gia tố tụng có được thực hiện trên thực tế hay không còn phụ thuộc vào địa vị pháp lý của mỗi chủ thể và sự đảm bảo của các cơ quan tố tụng hình sự trong việc thực thi các quy định pháp luật có liên quan.
2.1.2.1. Quyền được yêu cầu giải thích lý do, quyền và nghĩa vụ về những vấn đề liên quan trong tố tụng.
Để thực hiện đầy đủ, đúng pháp luật các quyền và nghĩa vụ của mình, những người tham gia tố tụng có quyền được giải thích về những vấn đề liên quan đến việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình, ví dụ như: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền được biết lý do tạm giữ, được biết mình bị khởi tố về tội gì, được giải thích về quyền, nghĩa vụ (Điều 48, 49 và 50 BLTTHS); người làm chứng, người giám định được giải thích về quyền và nghĩa vụ tham gia làm chứng và giám định (Điều 55 và 60 BLTTHS)....Mục đích của việc quy định quyền được giải thích lý do, quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng là nhằm đảm bảo cho họ thực hiện có hiệu quả hơn các quyền, nghĩa vụ pháp lý khi tham gia các quan hệ tố tụng hình sự. Chính vì vậy, Điều 62 BLTTHS quy định cơ quan, người tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng; việc giải thích phải được ghi vào biên bản.
Tuy nhiên, trên thực tế thực hiện quyền này, vì nhiều lý do khác nhau (người tham gia tố tụng không quan tâm, quy định của luật không cụ thể và khả thi) nên hầu như những người tham gia tố tụng không đề nghị cơ quan, người tiến hành tố tụng giải thích cho mình, đặc biệt là đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bởi vì họ luôn bị động, ở vị thế yếu hơn so với những người tiến hành tố tụng. Đồng thời, một nguyên nhân khác dẫn đến những hạn chế trong việc thực hiện quyền này là những người tiến hành tố tụng không thực sự làm hết trách nhiệm phải giải thích cặn kẽ cho những người tham gia tố tụng mà thường chỉ thông báo về quyền và nghĩa vụ (chủ yếu là đọc cho người tham gia tố tụng nghe) hoặc khuyến cáo về trách nhiệm hình sự nếu người tham gia tố tụng không chịu khai báo, hoặc khai báo gian dối nên trong thực tế có nhiều biên bản của cơ quan tiến hành tố tụng không thể hiện đúng quy định của pháp luật là phải ghi rõ về việc giải thích vào biên bản.
Một minh chứng nữa cho sự giải thích không đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng có thể thấy trong nhiều vụ án là hầu như không có trường hợp nào người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam mời người bào chữa thông qua những người tiến hành tố tụng, kể cả các trường hợp họ cho rằng mình bị oan, thậm chí trong trường hợp pháp luật quy định buộc phải có người bào chữa (khoản 2, Điều 57 BLTTHS). Bởi vì, nếu được giải thích đầy đủ, được hiểu rõ quyền bào chữa của mình thì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phải thông qua người tiến hành tố tụng mời người bào chữa hoặc yêu cầu những người tiến hành tố tụng thực hiện các quyền này cho mình.
Theo khoản 2, Điều 57 BLTTHS, đối với trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người bị nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần hay bị can về tội theo khung hình phạt của điều luật có mức cao nhất là tử hình, hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Như vậy, nếu sau khi được giải thích về quyền, nghĩa vụ của mình, nếu bị can hay người đại diện hợp pháp của bị can không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra phải là cơ quan đầu tiên có trách nhiệm yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa. Tuy nhiên, trên thực tế quyền này của bị can thường không được Cơ quan điều tra đảm bảo, bởi vì nội dung của Điều 57 mang tính tuỳ nghi, không có quy định hướng dẫn cụ thể nên các cơ quan tiến hành tố tụng thường chờ bị can hoặc người đại diện hợp pháp mời người bào chữa. Chỉ đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử mà bị can hay người đại diện hợp pháp không mời người bào chữa thì Toà án mới thực hiện nghĩa vụ mời người bào chữa, và lúc này thân phận của người được quyền bào chữa không còn là bị can mà là bị cáo[11].
2.1.2.2. Quyền được nhận quyết định, văn bản của các cơ quan tố tụng hình sự:
Theo quy định của BLTTHS thì các quyết định của các cơ quan tố tụng hình sự, tuỳ từng giai đoạn tố tụng, bao gồm: quyết định tạm giữ; quyết định khởi tố bị can; kết luận điều tra; quyết định truy tố; quyết định đưa vụ án ra xét xử; cáo trạng; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Toà án… Các quyết định trên liên quan đến thân phận của một con người trong các giai đoạn tố tụng hình sự và phản ánh những nội dung, sự việc cụ thể có liên quan đến quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án. (Ví dụ như theo quy định của pháp luật thì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ có quyền được nhận các quyết định, văn bản của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có liên quan). Mục đích của việc quy định quyền được nhận quyết định, văn bản của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự là nhằm để cho những người tham gia tố tụng xem xét nội dung, đánh giá về các quyết định, văn bản đó; nếu thấy các văn bản, quyết định đó không đúng hoặc chưa phù hợp với thực tế thì họ có quyền khiếu nại, tố cáo, yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng trả lời và đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, nêu ý kiến, tranh luận, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, bào chữa, nhờ người bào chữa, kháng cáo….Tuy nhiên, những người tham gia tố tụng có nhận được các quyết định, văn bản của cơ quan tiến hành tố tụng hay không thì tuỳ thuộc hoàn toàn vào những người tiến hành tố tụng. Trong thực tế có nhiều trường hợp, quyền được nhận bản kết luận điều tra, bản cáo trạng và các quyết định khác của cơ quan tiến hành tố tụng đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giam chưa được tôn trọng. Bởi vì, đối với bị can, bị cáo bị tạm giam, tất cả các văn bản trên sau khi được các cơ quan tiến hành tố tụng tống đạt thì bị Giám thị trại giam thu giữ nên không thể nắm rõ những nội dung, viện dẫn các căn cứ, lý lẽ và đánh giá các chứng cứ, quyền và nghĩa vụ của mình để có cơ sở đưa ra đề nghị, kháng cáo, kháng nghị...và như vậy đã hạn chế việc thực hiện các quyền khác của bị can, bị cáo (ví dụ như quyền bào chữa).
Ngoài ra, thực tế các quy định pháp luật hiện nay còn cho thấy rằng khả năng tiếp cận các quyết định, văn bản của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự giữa những người tham gia tố tụng cũng không có sự bình đẳng về quyền. Ví dụ như quyền được cấp bản án, trích lục án. Bản án, trích lục án là căn cứ để người tham gia tố tụng biết được nội dung cơ bản của vụ án, các căn cứ pháp luật mà Hội đồng xét xử đã viện dẫn để đánh giá chứng cứ, quyền, nghĩa vụ pháp lý của các đương sự. Vì vậy, căn cứ vào bản án, trích lục án, người tham gia tố tụng thực hiện các quyền kháng cáo, yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp xem xét, xét xử lại một phần hay toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm mà họ thấy chưa thoả đáng, chưa đúng pháp luật. Do đó, về nguyên tắc, tất cả những người tham gia tố tụng đều có quyền được nhận bản án, trích lục án nhưng pháp luật (Điều 229 BLTTHS) không quy định quyền này cho một số người tham gia tố tụng như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch là không bình đẳng. Bởi vì, những người tham gia tố tụng này cũng góp phần làm sáng tỏ vụ án, họ cũng có nhu cầu nhận được bản án, trích lục án để nghiên cứu những đánh giá của hội đồng xét xử về các chứng cứ, kết luận giám định mà mình cung cấp xem có sát thực tế, phù hợp với các tình tiết của vụ án hay không và trên cơ sở đó có thể đề xuất, yêu cầu Toà án xem xét lại các tình tiết có liên quan; đồng thời đây cũng có thể coi là một biện pháp để kiểm tra tính chính xác của việc ghi chép tại phiên toà, tránh tình trạng án bỏ túi trong trường hợp người giám định có những bổ sung cho kết luận giám định tại phiên toà hay người làm chứng đã thay đổi lời khai tại phiên tòa nhưng bản án vẫn viện dẫn những lời khai, kết luận giám định trước đó ở giai đoạn điều tra.
2.1.2.3. Quyền trình bày ý kiến, đưa ra quan điểm tranh luận.
Trình bày ý kiến và đưa ra quan điểm tranh luận là quyền quan trọng nhằm đảm bảo cho quá trình tố tụng nói chung và quá trình xét xử nói riêng được khách quan, đúng pháp luật. Vì vậy, BLTTHS quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được quyền đưa ra ý kiến, đồ vật, yêu cầu, đồng thời quy định: kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án; Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án (Điều 19 BLTTHS). Tuy nhiên, trên thực tế thực hiện các quyền này, do ở vị thế yếu hơn so với những người tiến hành tố tụng, đặc biệt trong trường hợp này liên quan đến tố tụng hình sự nên những người tham gia tố tụng như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thường chỉ thực hiện "nghĩa vụ trả lời" những người tiến hành tố tụng. Còn đối với người bào chữa, việc đưa ra ý kiến tranh luận cũng chỉ thường tập trung vào giai đoạn xét xử, bởi vì họ cho rằng xét xử là quá trình thẩm vấn, tranh luận công khai, trực tiếp giữa những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng về tất cả các chứng cứ đã được thu thập trong quá trình điều tra nhằm xác định sự thật khách quan của vụ việc để trên cơ sở đó hội đồng xét xử ra phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Về nguyên tắc, tất cả những người tham gia tố tụng đều có quyền đưa ra ý kiến, quan điểm tranh luận nhưng trên thực tế nếu sự tham gia, đưa ra ý kiến tranh luận vì những quyền lợi liên quan thì họ tham gia, thực hiện tích cực còn nếu tham gia, thực hiện vì nghĩa vụ thì họ thường trì hoãn, trốn tránh, chỉ khi không thể trốn tránh được thì họ mới thực hiện nghĩa vụ tham gia của mình (ví dụ sự tham gia của người làm chứng; người bào chữa trong trường hợp được cơ quan tiến hành tố tụng mời bào chữa theo quy định của pháp luật). Hơn nữa, Điều 218 BLTTHS quy định những người sau được tham gia đối đáp: Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày những ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến. Nhưng qua thực tiễn các phiên tòa hình sự thì những người làm chứng, người giám định hầu như không được tham gia đối đáp, tranh luận khi có ý kiến khác nhau về một sự việc. Theo thứ tự tham gia tranh tụng tại Điều 217 BLTTHS[12] thì người làm chứng, người giám định, người phiên dịch không được tham gia tranh tụng. Bởi vì quan niệm cho rằng họ chỉ có nghĩa vụ khai báo những gì mà họ biết về vụ án, có trách nhiệm thực hiện các tác nghiệp chuyên môn theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng liên quan đến vụ án, vì vậy pháp luật không quy định vai trò của người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong việc tranh luận làm rõ giá trị pháp lý của những chứng cứ, kết luận giám định, thông tin mà họ cung cấp.
Như vậy, quy định của Điều 217 BLTTHS đã hạn chế những “nguồn tranh luận” góp phần làm sáng tỏ vụ án. Bởi vì, sự tham gia tranh tụng của họ sẽ góp phần đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, dân chủ trong tranh tụng hình sự, đồng thời cũng là một biện pháp để chứng minh họ đã khai báo, thực hiện trách nhiệm của mình một cách trung thực trước các cơ quan tiến hành tố tụng mà không phải vì bất kỳ sự chi phối hay mưu cầu lợi ích cá nhân nào, nếu không họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: trong phiên toà hình sự có đông người làm chứng, khi lời khai của những người làm chứng có sự mâu thuẫn thì cần thiết phải có sự đối đáp, tranh luận để làm sáng tỏ những tình tiết buộc tội hay gỡ tội đối với bị cáo liên quan đến lời chứng, xác định lời chứng nào là đúng với các tình tiết và sự thật khách quan của vụ án, tránh được sự kết tội không đúng cho bị cáo.
2.1.2.4. Quyền được xem, đọc và có ý kiến sửa chữa, bổ sung vào biên bản làm việc của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Các biên bản làm việc với các cơ quan tiến hành tố tụng, biên bản phiên toà là văn bản ghi lại diễn biến của buổi làm việc, phiên toà theo trình tự, thủ tục luật định. Các loại biên bản đó là cơ sở pháp lý để xác định nội dung vụ việc, nội dung bản án. Theo quy định của pháp luật, để xác định lại quyền và nghĩa vụ của mình các đương sự có quyền được xem biên bản, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung, bảo lưu vào biên bản để làm cơ sở cho việc khiếu nại, tố cáo, kháng nghị sau này. Tuy nhiên, trên thực tế, những người tiến hành tố tụng thường chỉ đọc quyền này cho những người tham gia tố tụng nghe và rất ít khi giải thích quyền này nên trong hầu hết các vụ án từ giai đoạn điều tra, những người tham gia tố tụng không yêu cầu xem lại biên bản làm việc với các cơ quan tố tụng, kể cả trường hợp không đồng tình với những diễn biến trong quá trình điều tra, tại phiên toà cũng như phần nhận định, phần quyết định của bản án, nhất là đối với những vụ án mà bị cáo bị tạm giam, trừ trường hợp người tiến hành tố tụng chủ động yêu cầu họ đọc, xem lại biên bản. Bởi vì, ở vị thế của những người tham gia tố tụng, nhất là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì họ không dám đề nghị được xem, đọc lại các biên bản của các cơ quan tiến hành tố tụng vì sợ những đề nghị của mình sẽ gây ấn tượng không tốt đối với người tiến hành tố tụng và có thể bất lợi cho mình. Ngoài ra, việc quy định về quyền được xem, đọc lại và có ý kiến sửa chữa, bổ sung vào biên bản làm việc của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng có sự phân biệt, chưa bình đẳng giữa những người tham gia tố tụng. Ví dụ: theo quy định của khoản 4 Điều 200 BLTTHS thì chỉ những người sau đây được đọc Biên bản phiên toà: Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bảo vệ quyền lợi của đương sự hoặc đại diện hợp pháp của những người đó được xem biên bản phiên toà, có yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bàn phiên toà và ký xác nhận. Tuy nhiên, trong thực tế sau khi tuyên án, bị cáo hầu như không được xem lại biên bản phiên toà và thực tế cũng cho thấy rằng có những bản án đã trích dẫn sai ý kiến của người làm chứng, người phiên dịch, người giám định nhưng việc yêu cầu sửa đổi bổ sung chủ yếu do đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo hay bảo vệ quyền lợi cho đương sự, còn chính những người tham gia tố tụng này với tư cách công dân đầy đủ của mình lại không có quyền đọc lại biên bản và yêu cầu sửa đổi, bổ sung những sai sót nên có thể sẽ ảnh hưởng đến quyền của bị can, bị cáo và tiềm ẩn dẫn đến việc xét xử oan, sai. Vì vậy, để tránh tình trạng các biên bản phiên tòa được ghi chép không chính xác (thực tế có nhiều thư ký ghi không kịp diễn biến phiên toà, ghi thiếu, ghi sai ý, thậm chí còn bỏ trống để sau phiên toà sẽ hoàn chỉnh sau), đôi khi trở thành bất lợi cho bị cáo thì rõ ràng việc quy định bổ sung cho người làm chứng, người giám định người phiên dịch quyền được xem lại, yêu cầu sửa đổi, bổ sung cho chính xác biên bản phiên tòa cũng như những biên bản làm việc khác của cơ quan tiến hành tố tụng là cần thiết khách quan.
2.1.2.5. Quyền được yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng.
Theo quy định của pháp luật, người tiến hành tố tụng là người tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, vì vậy, trong hoạt động tố tụng hình sự hoạt động của những người này mang đậm tính “quyền lực nhà nước”, còn người phiên dịch, người giám định là những người sử dụng khả năng chuyên môn của mình để thực hiện các sự việc theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, phục vụ cho quá trình tố tụng. Tất cả những kết luận của những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch đều ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người tham gia tố tụng. Do đó, để đảm bảo sự vô tư, khách quan của những người tiến hành tố tụng, pháp luật quy định cho những người tham gia tố tụng có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người giám định khi có căn cứ cho rằng họ không thực sự khách quan, trung thực khi thực hiện những nhiệm vụ trong quá trình tố tụng nên sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Quyền này của người tham gia tố tụng được thực hiện trong cả quá trình tố tụng hình sự từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử (Điều 43 BLTTHS).
Tuy nhiên, thực tế cho thấy người tham gia tố tụng thực hiện quyền này rất khó khăn, đặc biệt là các bị can, bị cáo bị tạm giam, bởi vì hầu hết những người giám định trong những vụ án cần trưng cầu giám định đều không được triệu tập ra toà, hơn nữa việc chứng minh những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch không khách quan, vô tư thì vô cùng khó khăn, một mặt là do trình độ nhận thức, ý thức pháp luật của người tham gia tố tụng là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phần lớn còn hạn chế và mặt khác là họ không muốn có sự va chạm với những người tiến hành tố tụng khi mà những quyền, nghĩa vụ của mình đang bị phán xét bởi các cơ quan tố tụng. Điển hình cho thực tế này là trong nhiều vụ việc xét xử mà bị cáo là người chưa thành niên, theo quy định của Điều 307 BLTTHS thì Hội đồng xét xử phải có một hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Việc quy định này nhằm đảm bảo sự khách quan, toàn diện, có tính đến yếu tố tâm sinh lý của người chưa thành niên để đảm bảo tốt nhất quyền, lợi ích của họ. Tuy nhiên, trong thực tế quyền của bị cáo trong nhiều trường hợp chưa được đảm bảo nghiêm túc, các phiên toà xử bị cáo là người chưa thành niên phổ biến không đúng thành phần như quy định của pháp luật nhưng không chỉ bị cáo mà ngay cả những người khác biết được điều này cũng không thực hiện quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng bởi vì họ đều có tâm lý sợ rằng việc yêu cầu của mình sẽ gây rắc rối, bực tức cho hội đồng xét xử và cũng bất lợi cho bị cáo, đồng thời việc đề nghị thay đổi hội thẩm sẽ dẫn đến việc hoãn phiên toà đã lên lịch từ trước mà nếu thay đổi thì không thể ngay lập tức mời được thành phần thay thế trong khi mỗi thành phần của hội đồng xét xử nếu muốn hiểu nội dung vụ việc thì phải có thời gian chuẩn bị nghiên cứu hồ sơ vụ việc từ trước.
Ngoài ra, việc quy định về quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng cũng có sự không bình đẳng. Ví dụ: theo quy định của Điều 43 BLTTHS thì người làm chứng không có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng. Pháp luật không quy định quyền của người làm chứng được mời luật sư tham gia trong hoạt động làm chứng nên chỉ người làm chứng mới biết được người tiến hành tố tụng có thật sự khách quan, vô tư trong khi lấy lời khai hay không, nên trong trường hợp có căn cứ rõ ràng người tiến hành tố tụng không khách quan trong việc lấy lời khai của nhân chứng và không tuân thủ quy định của pháp luật tố tụng nhằm buộc tội cho bị cáo (những hành vi biểu hiện sự không vô tư khách quan thường xảy ra là: Hỏi nhân chứng có tính chất gợi ý, nhân chứng biết nhiều thì không hỏi hoặc hỏi qua loa, nhân chứng không biết rõ và có thể đưa ra ý kiến phù hợp với hướng điều tra thì lại được hỏi nhiều...) thì việc không quy định cho người làm chứng có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng đã hạn chế sự khai báo trung thực của người làm chứng và ảnh hưởng đến tính khách quan của vụ án. Do đó, việc quy định cho người làm chứng quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng là cần thiết, đảm bảo sự bình đẳng giữa những người tham gia tố tụng và đề cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, Chương III BLTTHS quy định những trường hợp thay đổi người tiến hành tố tụng, tuy nhiên tại Chương II BLTTHS lại có quy định một số trường hợp người tham gia tố tụng có quyền đề nghị thay đổi người giám định, người phiên dịch nhưng lại chưa quy định cụ thể về quyền của người giám định, người phiên dịch được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng.
2.1.2.6. Quyền bào chữa.
Quyền bào chữa là quyền quan trọng của các đương sự trong quá trình tố tụng hình sự nhằm đảm bảo cho quá trình tố tụng được khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Việc đảm bảo quyền bào chữa là một trọng tâm trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay nhằm nâng cao tính dân chủ trong tố tụng hình sự, đảm bảo các quyền con người, đặc biệt là đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Theo nội dung của quyền này thì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được đưa ra các chứng cứ để chứng minh trước cơ quan, người tiến hành tố tụng về việc họ không phạm tội hoặc không đúng như lời buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, theo Điều 10 BLTTHS thì trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Do đó, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trực tiếp hoặc nhờ người khác bào chữa (Điều 48, 49 và 49 BLTTHS). Theo quy định của khoản 2, Điều 57 BLTTHS thì trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người bị nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần; bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì ngoài quyền tự bào chữa, họ còn có quyền được người khác bào chữa.
Như vậy, pháp luật quy định quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là mang tính bình đẳng nhưng về mặt tâm lý và thực tế thì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo luôn ở trạng thái bị động (bị động khi phải trả lời các câu hỏi của cơ quan tố tụng, phần lớn số người bị tạm giữ, bị can, bị cáo do hạn chế về trình độ nhận thức nên không thể có đầy đủ tri thức liên quan đến vụ việc như những người tiến hành tố tụng, bị động về những diễn biến xảy ra trong quá trình làm việc với các cơ quan tiến hành tố tụng….) và với vị thế yếu hơn nên trong hầu hết các trường hợp họ không thể tự bào chữa cho mình, đồng thời cũng ít thực hiện quyền mời luật sư bào chữa cho mình do chi phí thuê luật sư tương đối cao so với điều kiện của phần lớn những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, hoặc có luật sư bào chữa thì do những người thân thích của họ bỏ tiền mời và hầu như chỉ mời luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi ở giai đoạn xét xử. Thực tế trên không chỉ thể hiện ở giai đoạn điều tra mà còn thể hiện rõ ở phiên toà mặc dù việc thực hiện quyền bào chữa là trực tiếp, công khai, không bị hạn chế về thời gian hay bị chi phối, ảnh hưởng của bất cứ cơ quan nào về toàn bộ nội dung, căn cứ pháp lý của vụ việc để bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Trên thực tế quyền nhờ người khác bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đặc biệt là đối với những bị can, bị cáo bị tạm giam là quyền quan trọng nhất nhưng trong nhiều trường hợp không được tôn trọng. Các yêu cầu mời người bào chữa của bị can đang bị tạm giam trong nhiều trường hợp không được điều tra viên đáp ứng, những yêu cầu về việc mời luật sư không được điều tra viên chuyển hay trì hoãn chuyển cho luật sư, người thân thích thậm chí nếu điều tra viên yêu cầu bị can, bị cáo không mời luật sư thì bị can, bị cáo dễ dàng chấp nhận do không muốn tình trạng của mình bị xấu đi hoặc nếu được người đại diện hợp pháp mời người bào chữa thì thủ tục đối với người bào chữa cũng rất phức tạp.
Đối với những trường hợp theo quy định của khoản 2, Điều 57 BLTTHS thì nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình và có quyền có sự tham gia của người giám hộ (trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hay có nhược điểm về thể chất hay tâm thần) để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của họ. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, luật sư bào chữa bắt buộc thường chỉ tham gia bào chữa tại phiên toà theo sự phân công và trong những trường hợp này luật sư thường miễn cưỡng thực hiện sứ mệnh bào chữa của mình đối với bị cáo; sự chuẩn bị và tận tâm cho việc bảo vệ quyền lợi của người được bào chữa trong những trường hợp này phần nhiều mang tính chiếu lệ, thủ tục và không thực sự vì quyền của người được bào chữa.
Theo quy định của pháp luật, một quyền quan trọng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là mời người bào chữa cho mình và để thực hiện tốt nhiệm vụ bào chữa cho thân chủ khi được mời tham gia bào chữa thì người bào chữa có những quyền nhất định. Người bào chữa có quyền: có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ và hỏi cung bị can; nếu điều tra viên đồng ý thì người bào chữa được hỏi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và có mặt trong các hoạt động điều tra khác; được xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định liên quan đến thân chủ; được đề nghị cơ quan điều tra thông báo trước thời gian, địa điểm hỏi cung để họ được có mặt khi Điều tra viên tiến hành hỏi cung bị can; có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; được quyền thu thập tài liệu, đưa ra yêu cầu và chứng cứ; được gặp người tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tam giam; được đọc, ghi chép và sao chụp các bút lục trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa; có quyền tham gia hỏi và tranh luận tại phiên toà; khiếu nại các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án và quyết định của Toà án đối với người chưa thành niên, người bị nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 57 BLTTHS; thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa… nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác; đưa ra các tài liệu, đồ vật, yêu cầu phục vụ cho việc bào chữa (Điều 58 BLTTHS). Về nguyên tắc, người bào chữa được sử dụng các quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và các quyền khác trong tố tụng hình sự để bảo vệ có hiệu quả nhất quyền, lợi ích thân chủ của họ, vì vậy, pháp luật quy định người bào chữa có quyền tham gia tố tụng từ khi một người bị tạm giữ, trừ trường hợp đặc biệt do luật định (Điều 56 BLTTHS).
Những quy định về quyền của người bào chữa như nêu trên có ý nghĩa nâng cao trách nhiệm của người bào chữa, tăng tính dân chủ của việc tranh tụng trong tố tụng hình sự, đồng thời đảm bảo cho người bào chữa khả năng tiếp cận tốt nhất đối với các cơ quan tiến hành tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, người bào chữa muốn thực hiện các quyền tiếp cận nêu trên cũng gặp nhiều khó khăn: một là, ở giai đoạn điều tra, người bào chữa (luật sư) thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận Cơ quan điều tra để có mặt khi lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; đọc ghi chép, sao chụp tài liệu, đánh giá các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án vì theo Điều 56 để được thực hiện quyền của mình thì người bào chữa còn phải được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án cấp giấy chứng nhận bào chữa, mặc dù trong hầu hết những người bào chữa là luật sư đã có Thẻ luật sư. Chính vì vậy, trên thực tế Cơ quan điều tra thường từ chối, viện nhiều lý do để không đáp ứng quyền mời người bào chữa của bị can, bị cáo, bởi vì, về mặt tâm lý, nhiều điều tra viên không muốn có sự xuất hiện của người bào chữa chứng kiến công việc của họ nếu không muốn nói là sự tham gia đó sẽ gây khó khăn cho công việc điều tra. Thậm chí để vượt qua sự tiếp cận của luật sư đối với vụ án là việc không hợp tác lẫn nhau. Ví dụ như điều tra viên không muốn cho luật sư biết về thời gian, địa điểm, chương trình thẩm vấn; khi các luật sư muốn điều tra viên thực hiện việc thẩm vấn để họ có thể tham dự thì điều tra viên thường lấy lý do là quá bận, hoặc làm từ chối sự tham gia của luật sư bằng lý do không có sự thoả thuận thuê luật sư do chính bị can ký mà chỉ do người thân thích của bị can ký. Những khó dễ trong việc tiếp cận đó làm cho luật sư phải mệt mỏi và nhiều trường hợp phải bỏ cuộc, khả năng tiếp cận vụ án không thực hiện được. Từ đó, để thực hiện được khả năng tiếp cận của mình đối với vụ án để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho thân chủ, nhiều luật sư tìm cách tiếp cận, xây dựng các mối quan hệ cá nhân với những người tiến hành tố tụng. Hai là, trong giai đoạn xét xử, vai trò của luật sư còn mờ nhạt. Tại phiên toà luật sư chỉ được hỏi sau khi hội đồng xét xử và kiểm sát viên đã hỏi xong, chỉ được đối đáp với kiểm sát viên hai lần trong khi tranh luận, hầu như không được tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm (người bào chữa chỉ được thẩm phán triệu tập tham gia phiên toà giám đốc thẩm khi xét thấy cần thiết - Điều 280 BLTTHS)[13].
Cũng như các quyền khác nêu trên, việc quy định về quyền bào chữa cũng chưa có sự bình đẳng giữa những người tham gia tố tụng. Ví dụ như về nguyên tắc, người làm chứng với tư cách công dân đầy đủ nên họ phải có đầy đủ quyền như những người tham gia tố tụng nhưng trên thực tế họ không có một số quyền nhất định như: quyền được mời người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình tố tụng; quyền đề nghị trưng cầu giám định để xác định mức độ hạn chế về tâm thần và thể chất của mình; quyền được mời người giúp đỡ trong trường hợp có hạn chế về thể chất (như bị câm, điếc); quyền được mời và thay đổi người giám hộ (đối với người làm chứng là người chưa thành niên)...
2.1.2.7. Quyền khiếu nại, tố cáo, kháng cáo.
Để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được toàn diện, đầy đủ, khách quan, đúng pháp luật, tránh sự lạm quyền của cơ quan, người tiến hành tố tụng, pháp luật quy định: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng, người phiên dịch, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng; bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về những vấn đề có liên quan. Tuy nhiên, trên thực tế những người tham gia tố tụng ít khi thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo mà chủ yếu thực hiện quyền kháng cáo khi có bản án. Về mặt tâm lý, những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thường lo sợ, không dám thực hiện các quyền khiếu nại, tố cáo của mình vì cho rằng việc khiếu nại, tố cáo có thể làm cho tình trạng thân phận của mình gặp nhiều rắc rối hơn, thậm chí trong trường hợp họ có khiếu nại, tố cáo thì quyền của họ cũng chưa thực sự được tôn trọng, không được các cơ quan, người tiến hành tố tụng quan tâm giải quyết đúng pháp luật; nếu có được xem xét thì chủ yếu là sự đối phó chứ chưa phải là trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng, có trường hợp việc khiếu nại, tố cáo của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo còn bị gây khó dễ, trù dập. Trong trường hợp kháng cáo bản án, quyết định của Toà án, nếu không có luật sư hay những người bảo vệ quyền lợi hợp pháp, người thân thì hầu hết các trường hợp bị cáo chỉ viết đơn kháng cáo với nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, kêu oan mà không nêu ra được những cơ sở pháp lý hay những tình tiết cụ thể, bởi vì như trình bày ở trên, việc cấp bản án, quyết định cho người bị kết án thường chậm, bị cáo đang bị tạm giam phần nhiều không biết đến các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, ngoài bản án được nhận và không có những tài liệu khác và không có thời gian để nghiên cứu kỹ bản án nên khó có thể thực hiện tốt quyền kháng cáo của mình. Ngoài ra, những quy định về việc giao bản án đã hạn chế quyền kháng cáo của người bị kết án, bởi vì theo quy định của Điều 229 BLTTHS thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày tuyên án, Toà án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị cáo, trong khi đó theo quy định tại Điều 239 thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án nên đã hạn chế quyền kháng cáo của bị cáo. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3, Điều 229 BLTTHS thì giữa những người tham gia tố tụng cũng không có sự bình đẳng về quyền kháng cáo. Bên cạnh đó, quyền khiếu nại, tố cáo, kháng cáo của một số người tham gia tố tụng cũng chưa được pháp luật quy định một cách bình đẳng. Ví dụ như: theo quy định của Điều 231 BLTTHS[14] thì hầu như những người tham gia tố tụng đều có quyền kháng cáo nhưng người phiên dịch, người giám định, người làm chứng không có quyền này mặc dù trên thực tế họ hoàn toàn có quyền kháng cáo đối với phần nhận định về kết luận giám định, lời chứng hay lời phiên dịch của họ nếu có sự sai sót hay đánh giá không khách quan. Chính vì vậy, việc quy định bổ sung cho người làm chứng, người giám định, người phiên dịch quyền kháng cáo là sự cần thiết để bảo đảm tuân thủ nguyên tắc bình đẳng về quyền, tính dân chủ trong tố tụng hình sự, đồng thời cũng là biện pháp đề cao vai trò của họ trong việc chứng minh tội phạm, tính khách quan, đúng pháp luật của quá trình tố tụng, bởi vì, việc thực hiện quyền kháng cáo của họ có thể vì lợi ích chung chứ không nhất thiết là phải có quyền lợi liên quan thì mới được kháng cáo. Một minh chứng nữa cho sự chưa bình đẳng về quyền khiếu nại, tố cáo của những người tham gia tố tụng là theo quy định của Điều 55 BLTTHS thì người làm chứng không có quyền tố cáo. Việc không quy định quyền tố cáo là một hạn chế đối với quyền của người làm chứng, như vậy không đảm bảo nguyên tắc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng theo quy định tại Điều 55 BLTTHS. Vì theo quy định của điều này nếu việc lấy lời khai của người làm chứng, lập biên bản, giải thích quyền và nghĩa vụ và các hoạt động khác mà không đúng trình tự thủ tục mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định thì sẽ bị xử lý tùy theo mức độ vi phạm. Bảo đảm cho người làm chứng quyền được tố cáo đối với quyết định, hành vi tố tụng trái pháp luật sẽ có tác dụng trở lại hạn chế các hành vi trái pháp luật xảy ra trong hoạt động tố tụng hình sự, góp phần đề cao trách nhiệm cụ thể của từng người tiến hành tố tụng.
2.1.2.8. Quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần.
Để đảm bảo quyền con người trong quá trình tố tụng hình sự, các cơ quan tố tụng hình sự phải đặc biệt tuân thủ các quy định của pháp luật, người bị oan sai do người có thẩm quyền gây ra thì có quyền được bồi thường và phục hồi danh dự, quyền lợi (Điều 72 Hiến pháp 1992, Điều 29 BLTTHS). Theo nội dung của những quy định này thì cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan. Đồng thời, quyền này được quy định trong Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Theo Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 thì trong trường hợp bị oan thì người bị oan, thân nhân của người bị oan hoặc đại diện hợp pháp của họ thực hiện quyền yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị oan, thân nhân của người bị oan; người bị oan được tạo điều kiện ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, trên thực tế đối với những người bị oan, việc yêu cầu bồi thường nếu không thương lượng được mà phải yêu cầu Toà án xét xử thì phải mất nhiều thời gian, công sức để có thể có được phán quyết về việc bồi thường và trên thực tế mức bồi thường theo quy định hiện nay chưa thực sự tương xứng với những tổn thất cả về vật chất và tinh thần của người bị oan…
2.2. ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG TIẾP CẬN CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ THEO CÁC ĐỐI TƯỢNG TIẾP CẬN.
Ngoài sự hiểu biết thì việc tiếp cận thực sự của người dân đối với pháp luật và các thiết chế là rất quan trọng trong việc xây dựng một xã hội pháp quyền. Nếu như người dân không mong muốn hoặc không có khả năng tiếp cận các cơ quan pháp luật thì khó có thể nói rằng pháp luật đang vận hành tốt. Qua khảo sát việc tiếp cận, những người được hỏi đã trả lời các câu hỏi về việc họ tiếp cận thông tin pháp luật ở đâu và họ có sử dụng các thiết chế pháp luật hay không. Nhằm đảm bảo ý kiến của người dân về các yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận, những người được hỏi đã trả lời các câu hỏi về tầm quan trọng của một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến quyết định của họ có khởi kiện hoặc đưa vụ việc ra cơ quan có thẩm quyền giải quyết hay không và tầm quan trọng của một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ việc.
Kết quả khảo sát cho thấy mức độ tiếp cận thông tin pháp luật và các thiết chế pháp luật là thấp và người dân cho rằng kết quả giải quyết vụ việc phụ thuộc chủ yếu vào tính minh bạch và sự công minh hơn là yếu tố chi phí cần thiết để giải quyết vụ việc.
2.2.1. Thực trạng khả năng tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống pháp luật về tư pháp hình sự.
Nhằm đánh giá việc tiếp cận thông tin, khảo sát đã tìm hiểu ý kiến của người dân về các nỗ lực phổ biến pháp luật về tư pháp hình sự cũng như việc tiếp cận của người dân với một số nguồn thông tin pháp luật tư pháp hình sự hiện có, bao gồm: Thông qua bạn bè, hàng xóm và người thân, tủ sách pháp luật ở Ủy ban nhân dân xã/phường, thư viện, trung tâm trợ giúp pháp lý, các cơ quan của nhà nước, văn phòng luật sư/công ty luật, phương tiện thông tin đại chúng, cơ sở dữ liệu đĩa CD (“Luật sư của bạn”), và Internet.
60% số người được hỏi cho rằng các biện pháp phổ biến pháp luật là tốt[15]. Đa số những người được hỏi cho rằng họ đã tiếp cận thông tin pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và bạn bè. Một số nguồn thông tin pháp luật như văn phòng luật sư/công ty luật, trung tâm trợ giúp pháp lý, đĩa mềm CD và tủ sách pháp luật đặt tại Ủy ban nhân dân xã phường ít được người dân tiếp cận, và những người đã tiếp cận các nguồn tin này chủ yếu là những người sống ở thành thị chứ không phải là những người sống ở nông thôn hoặc miền núi. Internet có vẻ dành được vị trí khá quan trọng so với thư viện và các cơ quan của nhà nước. Tuy nhiên, việc sử dụng Internets để tiếp cận thông tin pháp luật nói chung và pháp luật tư pháp hình sự nói riêng rõ ràng chỉ là xu hướng của thành thị với tỷ lệ 37% số người được hỏi sống ở thành thị đã từng tiếp cận Internet để tìm kiếm thông tin pháp luật so với 8% số người được hỏi sống ở nông thôn và không có người nào ở miền núi đã tiếp cận Internet. Nói chung, sự khác biệt về địa lý có ảnh hưởng đến mức độ tiếp cận thông tin pháp luật nói chung và pháp luạt về tư pháp hình sự nói riêng. Những người sống ở thành thị tiếp cận thông tin pháp luật nhiều hơn so với những người sống ở nông thôn và ở miền núi.
Ngoài ra, mức độ tiếp cận thông tin có mối liên hệ qua lại với mức thu nhập của người dân. Kết quả khảo sát cho thấy những người có thu nhập cao hơn thường tiếp cận những nguồn thông tin kể trên nhiều hơn. Ví dụ, chỉ có 13% số người có thu nhập thấp đã tiếp cận các cơ quan có thẩm quyền, trong khi có đến 35% số người có thu nhập cao đã tiếp cận các cơ quan đó; và 6% số người có thu nhập thấp so với 22% số người có thu nhập cao đã tiếp cận đến văn phòng luật sư/công ty luật; 12% số người có thu nhập thấp so với 35% số người có thu nhập cao đã tiếp cận Internet. Ngược lại, người dân có vẻ tiếp cận thường xuyên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc trong chừng mực nào đó thông qua bạn bè, hàng xóm hoặc người thân để tìm kiếm thông tin pháp luật, 68% số người có thu nhập thấp so với 70% số người có thu nhập cao đã tiếp cận phương tiện thông tin đại chúng, và 30% số người có thu nhập thấp so với 45% số người có thu nhập cao đã tiếp cận bạn bè, hàng xóm hoặc người thân để tìm hiểu thông tin pháp luật mà họ cần.
Cuối cùng, khoảng 71% số người được hỏi không trả lời được câu hỏi về việc họ có thể tìm kiếm thông tin pháp luật ở đâu. Do vậy, mặc dù có những nỗ lực tốt nhất đã được thực hiện và sự đánh giá khá tích cực về công tác phổ biến pháp luật nhưng kết quả khảo sát đã cho thấy việc tiếp cận thông tin pháp luật của người dân là rất hạn chế.
2.2.2. Thực trạng khả năng tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống cơ quan tiến hành tố tụng.
Chỉ có 14% số người được hỏi trả lời họ hiểu biết nhiều về Tòa án và 29% số người được hỏi trả lời họ không biết đến Tòa án. Chỉ có 10% số người được hỏi trả lời họ biết nhiều về cơ quan kiểm sát và 46% số người được hỏi cho rằng họ không biết gì về cơ quan kiểm sát.
Mức độ hiểu biết về Tòa án và cơ quan kiểm sát giảm tương ứng với mức giảm thu nhập của người được phỏng vấn. 42% số người có thu nhập thấp trả lời là họ không biết Tòa án, trong khi chỉ có 9% số người có thu nhập cao không biết Tòa án. Tương tự, 60% số người có thu nhập thấp trả lời là họ không biết cơ quan kiểm sát, trong khi chỉ có 28% số người có thu nhập cao không biết cơ quan kiểm sát.
Nếu so sánh mối tương quan giữa sự hiểu biết với yếu tố địa lý thì thấy rằng những người sống ở nông thôn, đặc biệt là ở miền núi có vẻ biết đến Tòa án và cơ quan kiểm sát ít hơn những người sống ở thành thị. Cụ thể, 51% số người sống ở miền núi, 36% số người sống ở nông thôn và 10% số người sống ở thành thị không biết về Tòa án. Tỷ lệ không biết về cơ quan kiểm sát của các đối tượng nêu trên tương ứng là 64%; 61% và 8%.
Mức độ hiểu biết về cơ quan Công an khá hơn nhiều, 34% số người được hỏi cho rằng họ hiểu biết nhiều về cơ quan Công an, và chỉ có 8% số người được hỏi không biết gì về cơ quan Công an.
2.2.3. Thực trạng khả năng tiếp cận của nhân dân đối với các thiết chế bổ trợ tư pháp.
Khi xem xét các thiết chế bổ trợ, kết quả khảo sát cho thấy luật sư, trung tâm trợ giúp pháp lý và tổ hòa giải ở cơ sở đóng vai trò còn hạn chế khi chỉ một số ít người dân đã tiếp cận với chúng.
Chỉ 6% số người được hỏi đã từng sử dụng dịch vụ luật sư. Những người có thu nhập cao và những người sống ở thành thị có vẻ tiếp cận dịch vụ luật sư nhiều hơn những người khác. 13% số người có thu nhập cao so với 3% số người có thu nhập thấp, 12% số người sống ở thành thị so với 2% số người sống ở nông thôn và 1% số người sống ở miền núi đã từng tiếp cận dịch vụ luật sư. Những con số này có thể có mối liên hệ với kết quả khảo sát cho rằng 35% số người được hỏi cho rằng chi phí sử dụng dịch vụ luật sư là cao[16].
Chỉ có 4% số người được hỏi cho rằng họ đã từng tiếp cận các trung tâm trợ giúp pháp lý. Kết quả khảo sát có vẻ chỉ ra rằng mặc dù các trung tâm trợ giúp pháp lý được thành lập rộng rãi nhưng các trung tâm này chưa phát triển ở mức độ cần thiết để bảo đảm rằng người dân sử dụng dịch vụ này ở mức cao. Kết quả khảo sát còn cho thấy những người có thu nhập thấp hơn thì có vẻ càng ít tiếp cận trung tâm trợ giúp pháp lý hơn. Một điều đáng chú ý là chỉ có 2% số người có thu nhập thấp so với 7% số người có thu nhập cao và không có một ai trong số những người được hỏi sống ở miền núi đã từng tiếp cận trung tâm trợ giúp pháp lý. Tỷ lệ tiếp cận các trung tâm này của những người sống ở thành thị là 7% và những người sống ở nông thôn là 4%. Có thể một trong lý do của mức độ tiếp cận thấp này là thiếu hiểu biết , nhưng cũng có một phần có thể là do điều kiện tiếp cận về mặt vật lý đối với các trung tâm này. Chỉ có 6% số người được hỏi cho rằng số lượng các trung tâm trợ giúp pháp lý và địa điểm đặt các trung tâm này là hợp lý[17], trong khi có đến 67% số người được hỏi không thể hoặc không muốn trả lời câu hỏi này.
Những kết quả nêu trên có lẽ cho thấy rằng hệ thống tư pháp cũng như các thiết chế bổ trợ, bao gồm trung tâm trợ giúp pháp lý, tổ hoà giải ở cơ sở và luật sư, được coi là bước trông cậy cuối cùng. Có thể có nhiều nguyên nhân lý giải tại sao hệ thống tư pháp mà cụ thể là Tòa án lại ít được lựa chọn bởi người dân, nhất là những người sống ở nông thôn và những người sống ở miền núi. Thiếu hiểu biết về Tòa án có thể là một trong số các nguyên nhân. Người dân nhờ nhiều vào cơ quan Công an và Uỷ ban nhân dân có lẽ là bởi vì các cơ quan này giải quyết trực tiếp những vấn đề liên quan đến cuộc sống hàng ngày của người dân. Hơn nữa, các cán bộ, viên chức của các cơ qua này thường sống cùng với dân trong địa bàn quản lý của họ và do đó, họ có thể hiểu những vấn đề mà người dân hàng ngày đang phải đối mặt.
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TIẾP CẬN CỦA CÁC NHÓM NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ.
2.3.1. Thực trạng khả năng tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự của nhóm nhân dân miền núi, vùng sâu vùng xa.
Việc đánh giá năng lực tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự được thực hiện trên các cấp độ: sự hiểu biết về hệ thống tư pháp hình sự; khả năng sử dụng hệ thống tư pháp hình sự trong việc tự bảo vệ quyền (trong đó phân định rõ nhóm nhân dân là các đương sự trực tiếp tham gia vào quá trình tố tụng và nhóm nhân dân chủ động phòng ngừa, phát hiện tội phạm...); khả năng kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của hệ thống tư pháp hình sự; khả năng tham gia của nhân dân vào việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống tư pháp hình sự
Công tác phổ biến giáo dục pháp luật của nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều hạn chế về mặt bằng dân trí, khó khăn về đời sống kinh tế - xã hội, gắn đậm với những phong tục tập quán truyền thống - đặt ra yêu cầu cần có phương pháp, cách làm phù hợp với đặc điểm, đặc thù của từng vùng, từng đối tượng cụ thể. Do đó cách thức tiếp cận của nhân dân các vùng này về hệ thống tư pháp hình sự của từng nơi cũng khác nhau.
Vấn đề phổ biến hệ thống tư pháp hình sự để cho nhân dân ở vùng núi, vùng sân, vùng xa hiện nay chưa mang tính hệ thống mà việc phổ biến chủ yếu vẫn dựa vào các điều kiện kinh tế, xã hội, đặc điểm về vùng miền; chưa có những chương trình phổ biến pháp luật theo một hệ thống riêng biệt giữa các ngành luật với nhau để nhân dân ở những vùng này được tiếp cận theo hướng hoàn thiện bởi vì khi Nhà nước ban hành một văn bản luật thì để tuyên truyền, phổ biến được thì phải chờ văn bản dưới luật hướng dẫn văn đó nên các địa phương vẫn mang tính thụ động, mà chủ yếu tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hệ thống tư pháp hình sự thông qua các hình thức sau:
Một là, Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật thông qua hình thức truyền thanh là đọc các văn bản pháp luật trong Công báo được phát hoặc đăng tải các văn bản lên các trang báo của địa phương;
Hai là, Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật thông qua các tờ rơi, in hình các phiên Toà xét xử, băng rôn, khẩu hiệu hoặc các hành vi vi phạm pháp luật thường gặp đối với nhân dân ở vùng núi, vùng sâu và vùng xa;
Ba là, Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật thông qua các buổi họp dân do già làng, trưởng bản triêu tập (những buổi triệu tập này có thể lồng ghép với các chương trình khác của làng, bản như vấn đề xoá đói, giảm nghèo, tư vấn hoặc khám sức khoẻ miễn phí cho đồng bào...) để già làng, trưởng bản hoặc cán bộ Tư pháp tuyên truyền các vấn đề liên quan đến hệ thống tư pháp hình sự;
Bốn là; Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật thông qua các buổi xét xử lưu động đối với các đối tượng vi phạm pháp luật liên quan đến an ninh trật tự, vấn đề khủng bố và xâm phạm an ninh quốc gia... nhằm răn đe các phần tử vi phạm an ninh trật tự, có ý định chống phá, chia rẽ dân tộc. Hình thức tuyên truyền này có hiệu quả vì đối tượng vi phạm pháp luật, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người dân, gia đình người vi phạm pháp luật sẽ nắm được tội danh của người vi phạm và chế tài mà điều luật quy định.
Tuy nhiên các hình thức tuyên truyền, phổ biến giáo dục người dân ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa về hệ thống tư pháp hình sự nước ta còn gặp nhiều khó khăn, nguyên nhân chính là do:
Thứ nhất, Các cấp uỷ đảng, chính quyền, các ngành, các đoàn thể quần chúng ở cơ sở vùng núi, vùng sâu, vùng xa đã buông lỏng công tác nắm tính hình cơ sở, không sát dân, quan liêu, xa rời quần chúng. Có nơi cả năm không tổ chức họp tuyên truyền, phổ biến các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nên không nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của người dân cho nên nhân dân không hiểu biết nhiều về pháp luật;
Thứ hai, năng lực của đội ngũ cán bộ vùng núi, vùng sâu, vùng sa còn yếu kém. Tỷ lệ có trình độ đại học, cao đẳng trở lên thấp hơn nhiều so với các khu vực khác: vùng núi phía Bắc là 12,3%; Bắc trung Bộ là 9,2%; Duyên Hải miền Trung là 9,5; Tây Nguyên là 2,1. Trình độ cán bộ ở các xã đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc miền núi còn thấp hơn nhiều như tỉnh Bắc Kạn, Lào Cai, Phú Thọ, Sơn La cho thấy cán bộ cơ sở có trình độ cấp I, II trung bình là 79,17%, cán bộ chưa qua đào tạo chiếm 61,9%[18]. Nhiều cán bộ không biết tiếng dân tộc, thiếu am hiểu phong tục tập quán, của đồng bào nên không yên tâm gắn bó với đồng bào, với địa phương nơi công tác.
Thứ ba, Đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số vừa thiếu lại vừa yếu. Hiện nay ở nước ta, tỷ lệ cán bộ người các dân tộc thiểu số tham gia vào hệ thống chính trị các cấp đã được cải thiện đáng kể (Quốc hội nhiệm kỳ 1998 - 2003 có 17,3% đại biểu quốc hội là người dân tộc thiểu số). Tỷ lệ cán bộ người dân tộc tham gia vào hệ thống chính trị cấp tỉnh thường ít hơn nhưng lại có xu hướng tăng ở cấp xã nơi có mật độ dân số của đồng bào các dân tộc thiểu số rất cao nhưng trình độ cán bộ còn thấp, chưa được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đúng mức. Cơ cấu các loại hình cán bộ là người dân tộc về cơ bản còn thiếu. Đây là những điểm yếu rất nhạy cảm, kẻ xấu có thể lợi dụng, kích động. Mặt khác, trình độ cán bộ là người dân tộc cũng không đồng đều và còn nhiều hạn chế, khả năng thuyết phục, tập hợp quần chúng yếu. Do đó, khi gặp phải những vấn đề mới, phức tạp thì tỏ ra lúng túng. Một số cán bộ đảng viên ở những điểm nóng đã từng bị khống chế, tránh va chạm, hoạt động cầm chừng, bản lĩnh chính trị, lòng trung thành bị lu mờ. Vai trò cán bộ tự quản ở buôn, làng còn yếu, có một số bị lũng đoạn, hoạt động hai mặt. Một số cán bộ ở với dân, hằng ngày gần dân, nhưng không nắm được hoặc không chịu phản ánh với cấp trên về hoạt động tiêu cực của bọn xấu, bọn phản động.
Thứ tư, ngoài việc đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào vùng núi, vùng sâu, vùng xa thì hàng năm Nhà nước cần phải dành một phần kinh phí cho việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân hiểu, biết các văn bản Nhà nước đã ban hành để chấp hành.
Thứ năm, hình thức tổ chức tuyên truyền, phổ biến còn nghèo nàn, không có tính sáng tạo do năng lực cán bộ cơ sở yếu. Do trình độ học vấn, có nhiều nơi người dân chưa biết tiếng phổ thông; mức thụ hưởng thông tin (báo, đài, ấn phẩm và các phương tiện truyền thông đại chúng) còn thấp, ít ỏi và chậm; lực lượng cán bộ làm công tác truyền thông còn rất thiếu và yếu. Bên cạnh đó các thế lực thù địch lợi dụng, kích động, xuyên tạc chống phá ta bằng nhiều cách len lỏi vào các vùng sâu, vùng xa xôi hẻo lánh. Cho nên cần nhận thức đúng và có biện pháp kịp thời, đủ sức, đủ lực cho cuộc đấu tranh “ai thắng ai” trên mặt trận giáo dục chính trị tư tưởng nói chung và công tác phổ biến giáo dục pháp luật nói riêng cho nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa.
2.3.2. Thực trạng khả năng tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự của nhóm doanh nhân.
2.3.2.1. Sự nhận thức của doanh nhân về lĩnh vực tư pháp hình sự liên quan đến hoạt động kinh doanh.
Tình hình thực tế cho thấy số lượng doanh nghiệp hiện đang hoạt động tại Việt Nam là rất lớn nhưng số doanh nghiệp sử dụng dịch vụ pháp lý và có hệ thống tư vấn pháp lý riêng còn rất ít. Hơn nữa hệ thống tư vấn này cũng chỉ tập trung hoạt động trong lĩnh vực tư vấn về hợp đồng, đảm bảo việc ký kết và thực hiện hợp đồng đúng pháp luật, mục đích thu được lợi nhuận cao nhất… tức là chủ yếu tập trung vào lĩnh vực kinh tế. Nhưng trên thực tế, cùng với quá trình hoạt động kinh doanh thì những việc làm của họ lại luôn đi song song và thậm chí đã bị hệ thống tư pháp hình sự điều chỉnh nhưng chính bản thân họ lại không hề biết điều này. Như vậy thì chúng ta cần phải đánh giá sự hiểu biết của họ đối với hệ thống tư pháp hình sự này như thế nào?
Nhìn thẳng vào thực tế cho thấy sự hiểu biết của giới thương nhân về pháp luật hình sự là rất thấp. Một ví dụ rất đơn giản như việc doanh nghiệp trốn thuế. Một điều chắc chắn rằng bản thân doanh nghiệp đó không biết rằng mình đang tiến gần đến với hành vi phạm tội mà chỉ biết cố gắng làm sao trốn được càng nhiều thuế càng tốt để nâng lợi nhuận lên tới mức tối đa. Nếu bản thân doanh nghiệp mà không có sự hiểu biết về pháp luật hình sự thì họ cứ đi xa mãi và đến một giới hạn nhất định họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trốn thuế theo quy định tại Điều 161 BLHS; Hoặc ở một số doanh nghiệp giám đốc và kế toán trưởng thường liên kết với nhau làm trái với nguyên tắc quản lý kinh tế và nguyên tắc kế toán với mục đích cá nhân hoặc làm lợi cho công ty. Tuy nhiên, dù với mục đích cá nhân hay vì mục đích chung nhưng họ đã làm trái nguyên tắc pháp luật thì đến một giới hạn nhất định họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuỳ từng trường hợp, họ có thể bị truy cứu về tội: Tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng Điều 165 BLHS; Tội lập quỹ trái phép Điều 166 BLHS hoặc Tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế Điều 167 BLHS .v.v…
Điều này thực ra không khó để lý giải. Bởi lẽ mục đích của giới thương nhân khi tham gia vào thương trường là làm sao lợi nhuận đẻ ra lợi nhuận và lợi nhuận tối đa. Vì thế hệ thống pháp luật được họ quan tâm hàng đầu phải là ngành luật điều chỉnh các quan hệ làm ăn kinh tế của họ, là hành lang pháp lý về kinh doanh thương mại an toàn cho họ bước theo. Hệ thống tư pháp hình sự không được giới thương nhân quan tâm vì họ không nhận thấy tính thiết thân của ngành luật này trong việc điều chỉnh hành vi của chính bản thân họ hay thậm chí sử dụng chúng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi bị các đối tượng khác xâm hại. Hệ thống pháp luật hình sự điều chỉnh mọi mặt của đời sống xã hội và mọi lĩnh vực hoạt động của các chủ thể, những cái mà có thể một hệ thống pháp luật khác không điều chỉnh. Tuy nhiên, ở một giới hạn nhất định nào đó thì những hoạt động này mới bị hệ thống pháp luật hình sự điều chỉnh. Chính điều này đã làm cho các thương nhân khó có thể nhận biết được mình phạm tội từ lúc nào tức là đến khi nào mình bị hệ thống pháp luật hình sự điều chỉnh.
Giới thương nhân vì không quan tâm đến pháp luật hình sự nên đồng nghĩa với việc đó họ cũng hầu như không hiểu rõ các quy định của pháp luật sự liên quan đến hoạt động của mình. Điều đó được thể hiện ở việc họ không biết giới hạn cho những hành vi của chính họ, tức là giới hạn khi nào thì hành vi của họ là hành vi vi phạm pháp luật hình hình sự và họ trở thành tội phạm.
Việc doanh nhân không hiểu biết các quy định của pháp luật hình sự xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- Thứ nhất, là do họ lầm tưởng rằng chỉ có pháp luật về kinh tế điều chỉnh họ. Điều này có thể rất dễ dàng nhận thấy qua các hợp đồng các chủ thể kinh doanh thường đưa vào điều khoản tranh chấp nội dung như sau: “Nếu phát sinh tranh chấp thì các bên thương lượng hoà giải .. hoặc đưa ra giải quyết tại Toà án kinh tế..”. Điều này cho thấy nơi mà họ nghĩ đến duy nhất khi phát sinh tranh chấp chỉ là toà kinh tế chứ họ không biết được rằng hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế có thể dẫn đến hậu quả là nó có khả năng bị pháp luật hình sự điều chỉnh và người thực hiện hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải làm gì để khắc phục tình trạng này? Bởi lẽ điều này không những giúp các thương nhân tự bảo vệ mình mà còn góp phần giảm bớt những vi phạm pháp luật do nhóm đối tượng này gây nên.
Trên thực tế thi hành pháp luật cũng như áp dụng pháp luật nhiều khi chính các nhà làm luật cũng chưa đồng nhất quan điểm trong việc phân biệt tranh chấp kinh tế với tội phạm về kinh tế ở một số tội danh cụ thể. Tức là họ chưa xác định được một cách rõ ràng hệ thống pháp luật điều chỉnh hành vi vi phạm của các chủ thể. Xin nêu một ví dụ về việc ký kết Hợp đồng kinh tế:
Việc giao kết Hợp đồng kinh tế làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia Hợp đồng. Khi ký kết Hợp đồng kinh tế các bên đều có mục đích kinh doanh và lợi nhuận. Trong quá trình thực hiện Hợp đồng một trong các bên có sự vi phạm Hợp đồng. Khi vi phạm Hợp đồng kinh tế bên vi phạm phải chịu trách nhiệm vật chất. Trách nhiệm vật chất phát sinh từ các Hợp đồng kinh tế là trách nhiệm của bên vi phạm đối với bên bị vi phạm chứ không phải trách nhiệm đối với nhà nước như trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm vật chất này được xác định theo căn cứ và trình tự của Luật kinh tế. Như vậy, vấn đề đặt ra là khi nào thì sự vi phạm Hợp đồng kinh tế trở thành vi phạm pháp luật hình sự - tội phạm kinh tế.
Thực tế cho thấy ranh giới tội phạm và vi phạm Hợp đồng kinh tế ở đây được biểu hiện tập trung vào việc xác định ranh giới giữa một số tội danh có liên quan trực tiếp đến Hợp đồng kinh tế (như hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản) với vi phạm về thực hiện nghĩa vụ trong Hợp đồng kinh tế. Theo quy định của pháp luật hình sự thì ranh giới này được xác định ở một dấu hiệu cơ bản là người thực hiện hành vi vi phạm có “ý thức chiếm đoạt tài sản” của người khác hay không? Mặt khác, người vi phạm phải có hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho người chủ tài sản tin tưởng mà giao tài sản.
- Thứ hai, là do nhận thức của thương nhân đối với pháp luật hình sự còn rất hạn chế. Điều này cũng rất dễ hiểu bởi lẽ mục tiêu hàng đầu mà các thương nhân của chúng ta quan tâm chính là lợi nhuận trong kinh doanh chứ không phải bất cứ lĩnh vực nào khác. Chính vì vậy, họ đã dồn hết tâm lực vào việc kinh doanh làm sao để thu được lợi nhuận cao nhất. Đây cũng chính là con đường ngắn nhất dẫn họ đến với hệ thống pháp luật hình sự. Họ đang hàng ngày chạy lợi ích trước mắt cùng với siêu lợi nhuận mà không biết rằng có một hệ thống pháp luật với quyền năng nhà nước đang giám sát và theo dõi hoạt động của họ.
Trên thực tế chỉ có một số ít Doanh nghiệp lớn như Tổng Công ty, các Công ty lớn có phòng Pháp chế hoặc có luật sư tư vấn thường xuyên. Còn lại họ chỉ thuê luật sư khi cần thiết. Tuy nhiên, hoạt động của Phòng Pháp chế hay các luật sư tư vấn cho các thương nhân này vẫn chủ yếu là tập trung vào việc hỗ trợ hoạt động kinh doanh cho các thương nhân. Phần lớn các doanh nghiệp còn lại họ thường tinh giảm bộ máy quản lý đến mức tối thiểu nhằm hạn chế chi phí đến mức tối đa.
Đối với các doanh nghiệp nhỏ hoặc các cá nhân kinh doanh thì hoạt động hỗ trợ pháp luật của luật sư hầu như là không có. Cụ thể là: Theo thống kê của các Đoàn luật sư thì kể từ khi thực hiện pháp lệnh Luật sư 2001 đến năm 2005 các luật sư thực hiện được 10.966 vụ việc về dân sự, 728 vụ việc về kinh tế, 296 vụ việc về lao động, 388 vụ việc về hành chính. Mà trong đó với hơn 150.000 doanh nghiệp lớn nhỏ hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội chỉ có 300 vụ việc được doanh nghiệp mời luật sư tư vấn, đại diện tham gia giải quyết tranh chấp.
Trên thực tế số lượng doanh nghiệp sử dụng dịch vụ pháp lý chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, TP Bà Rịa Vũng Tàu ... Còn lại các doanh nghiệp ở các tỉnh và thành phố khác họ đã có ít điều kiện tiếp xúc với các thông tin văn hoá, chính trị, pháp luật... lại ít sử dụng dịch vụ pháp lý thì khả năng vi phạm pháp luật trong qúa trình kinh doanh của họ là rất cao và không thể tránh khỏi. Trên thực tế, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn hoạt động kinh doanh cho các doanh nghiệp được ban hành thường xuyên nhưng lại không được các doanh nghiệp cập nhật. Trên thực tế thì chỉ các nhà làm luật và những người hành nghề tư vấn pháp luật cập nhật và nắm bắt trọn vẹn những nội dung này. Còn các doanh nghiệp thậm chí có cập nhật, trong nhiều trường hợp cũng không hiểu và không nắm bắt được nội dung một cách trọn vẹn. Như vậy, việc vận dụng các văn bản này vào thực tế hoạt động kinh doanh là rất ít và có nhiều khi các văn bản này lại được vận dụng không đúng tinh thần của nó do bị hiểu sai hoặc thậm chí là cố tình hiểu sai. Với tình hình hiện nay, khi nền kinh tế nước ta tham gia hội nhập, thì các thương nhân cần nắm vững các quy định của pháp luật để không những cạnh tranh trong nước mà còn cạnh tranh và đẩy mạnh hoạt động ra nước ngoài, nắm bắt cơ hội kinh doanh. Làm được điều này thì chúng ta mới có cơ hội thúc đầy nền kinh tế đi lên và cạnh tranh được với các nước phát triển. Thời gian vừa qua có một sự kiện nổi bật là ông Bửu Huy - phó giám đốc công ty XNK Nông sản và Thực phẩm An Giang (Agifish)đã bị các nhà chức trách tại Bỉ câu lưu và đưa ra xét xử để có quyết định dẫn độ sang Mỹ và phải chịu trách nhiệm hình sự trong việc làm sai lệch tên của sản phẩm khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ nhằm mục đích trốn thuế. Mặc dù đến nay ông Bửu Huy đã được phía Bỉ trả tự do và không chấp nhận yêu cầu dẫn độ từ phía Mỹ, nhưng vấn đề nằm ở chỗ cá nhân ông Bửu Huy và Công ty Agifish An Giang phải có trách nhiệm đưa ra các chứng cứ theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật quốc tế chứng minh việc không vi phạm pháp luật kinh doanh thương mại và pháp luật hình sự.
- Ngoài ra, việc thương nhân ít quan tâm đến pháp luật hình sự và việc thương nhân ít sử dụng các dịch vụ tư vấn pháp luật của luật sư và các tổ chức tư vấn pháp lý khác còn có một nguyên nhân nữa rất quan trọng đó là: Thực trạng hiện nay ở nước ta số lượng luật sư và các tổ chức hành nghề tư vấn pháp lý là rất đông nhưng chất lượng dịch vụ thì lại chưa thật đáng tin cậy. Có thể nói một cách cụ thể hơn: Chúng ta mới chỉ quan tâm đến mặt số lượng nhưng lại chưa củng cố và nâng cao được chất lượng của luật sư. Trong một thời gian dài, việc đào tạo luật sư gần như bị bỏ trống, cho đến thời điểm cuối năm 2001, Trung tâm đào tạo Thẩm phán (nay là Học viện tư pháp) mới mở lớp đào tạo nguồn luật sư. Từ đó đến nay số lượng luật sư được tăng lên đáng kể nhưng chất lượng thì chưa thể kiểm soát được. Một số người học luật ra thất nghiệp sau đó đi làm ăn buôn bán đủ các ngành nghề cũng học "lớp luật sư" và chỉ sau một thời gian đã trở thành luật sư. Không chỉ thế mà có một số người đã hoạt động trong một lĩnh vực khác thậm chí là hành nghề kỹ thuật, y tế ... cũng tranh thủ đi học tại chức luật và chớp thời cơ đi học "lớp luật sư" và chuyển nghề một cách nhanh chóng? Chính vì vậy, chất lượng của đội ngũ luật sư không đồng đều, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn nhiều bất cập, thiếu tính chuyên nghiệp. Chính điều này đã làm cho niềm tin vào đội ngũ luật sư và các dịch vụ tư vấn của luật sư trong các doanh nghiệp bị giảm sút và từ đó không tạo được một thói quen vô cùng cần thiết là sử dụng dịch vụ tư vấn của luật sư trong mọi hoạt động của thương nhân.
Qua thực tế hành nghề luật sư cho thấy: Đối với các doanh nghiệp có sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư thì mức độ sử dụng cũng không thường xuyên, mà chủ yếu là theo từng vụ việc cụ thể. Chỉ rất ít doanh nghiệp thuê luật sư là người cố vấn pháp lý thường xuyên cho mình trong hoạt động kinh doanh, thậm chí ngay cả khi doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh với các tổ chức kinh tế nước ngoài.
Các thương nhân của chúng ta chỉ nhờ đến luật sư khi đã xảy ra tranh chấp mà bản thân họ không thể tự giải quyết được. Trong khi đó ở nước ngoài như Anh, Mỹ...các tổ chức kinh tế nước ngoài thì việc sử dụng luật sư làm cố vấn pháp lý là việc làm đầu tiên khi họ tham gia bất kỳ hoạt động kinh doanh nào. Việc sử dụng dịch vụ pháp lý là điều mà các tổ chức kinh tế quốc tế luôn luôn quan tâm và đặt lên hàng đầu.
Chính vì không có thói quen sử dụng dịch vụ tư vấn là thường xuyên và một số dịch vụ chất lượng không cao nên những thương nhân này cho rằng chi phí cho việc sử dụng dịch vụ pháp lý là quá tốn kém. Do vậy, khi không thấy thật sự cần thiết và chưa ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh thì các thương nhân này sẽ không quan tâm đến loại hình dịch vụ này. Như vậy là họ đã tiết kiệm được một khoản chi phí lớn trong một thời gian dài. Tuy nhiên, các thương nhân này họ đã không nhận thức được rằng đằng sau việc sử dụng dịch vụ tư vấn là một khoản tiền kếch xù về cơ hội đã bị mất như: Mất cơ hội mà lẽ ra họ đã nắm bắt được do có sự tư vấn của luật sư; hoặc nếu có luật sư tư vấn, có hiểu biết pháp luật thì họ đã không bị đối tác lừa ... Đó là những giá trị vô hình mà không phải bất kỳ thương nhân nào khi bắt tay vào kinh doanh đều nghĩ rằng mình cần phải chuẩn bị trong suốt quá trình kinh doanh.
2.3.2.2. Sự vận dụng hệ thống tư pháp hình sự của thương nhân trong việc tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như vai trò chủ động phòng ngừa, phát hiện tội phạm, tham gia giám sát hoạt động của cá cơ quan tư pháp.
Một thực trạng đặt ra là do bản thân không hiểu biết các quy định về pháp luật hình sự điều chỉnh hành vi của giới doanh nhân nên việc vận dụng pháp luật hình sự để tự bảo vệ mình, để phòng ngừa phát hiện tội phạm và giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp là quá xa vời.
Bản thân pháp luật hình sự là một ngành luật khá hoàn chỉnh và đầy đủ. Vấn đề là ở chỗ thương nhân không nắm bắt được các quy định của chúng, không biết vận dụng các quy định này để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc không biết vận dụng này thể hiện ở hai khía cạnh: hoặc là không biết hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với hành vi của mình có đúng đắn không hoặc là không biết hành vi của các đối tượng khác trong cạnh tranh với mình đã vi phạm pháp luật hình sự và những đối tượng đó phải chịu chế tài của pháp luật hình sự.
Có thể thấy một ví dụ rất điển hình trong việc vi phạm các quy định về sở hữu trí tuệ lĩnh vực nhãn hiệu hàng hóa : doanh nghiệp bị đối tượng khác vi phạm về nhãn hiệu hàng hóa đã được đăng ký. Bản thân hành vi vi phạm nhãn hiệu hàng hóa đã vi phạm Điều 171 Bộ luật hình sự (Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp) và đối tượng này phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng doanh nghiệp do không hiểu các quy định này của pháp luật hình sự nên đã không biết vận dụng để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó thường các hành vi này chỉ bị xử lý hành chính mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự dẫn đến không thể chấm dứt các vi phạm dạng này. Việc chỉ xử lý hành chính không mang tính chất giáo dục và phòng ngừa cao, do đó bản thân các doanh nghiệp nếu nắm vững các quy định của pháp luật hình sự sẽ tố cáo hành vi vi phạm pháp luật hình sự (tố giác tội phạm), một mặt vừa bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mặt khác góp phần làm trong sạch môi trường kinh doanh, loại bỏ cạnh tranh không lành mạnh và đẩy lùi tội phạm.
Việc thương nhân sử dụng hệ thống tư pháp hình sự có thể được đánh giá qua các cấp độ sau:
- Thương nhân trực tiếp tham gia vào quá trình tố tụng để tự bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thông thường khi có sự điều chỉnh của pháp luật đặc biệt là pháp luật về hình sự thì các thương nhân này ngay lập tức tìm đến với dịch vụ tư vấn pháp lý - đặc biệt là luật sư. Có lẽ đến lúc này họ mới nghĩ rằng họ cần phải có luật sư tư vấn và hỗ trợ về mặt pháp lý. Còn việc thương nhân trực tiếp tham gia vào quá trình tố tụng với vai trò tự bào chữa cho mình là rất ít bởi lẽ trên thực tế sự hiểu biết về pháp luật hình sự đối của họ là rất hạn chế. Nếu tự mình tham gia vào tố tụng họ sẽ rất lúng túng và chỉ biết làm theo sự điều khiển của các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc chỉ biết vận động theo diễn biến của phiên toà còn việc tự bào chữa hoặc bảo vệ quyền lợi của mình là việc làm hết sức khó khăn và hầu như không có.
- Thương nhân với việc phòng ngừa, phát hiện tội phạm: Có thấy rằng sự hạn chế trong nhận thức về pháp luật hình sự đã làm cho những khả năng nói trên cũng hạn chế rất nhiều. Bởi lẽ, ngay bản thân họ cũng không biết rằng mình đã làm sai, đang làm sai và sẽ làm sai và trong tương lai sẽ chịu sự điều chỉnh của hệ thống tư pháp hình sự. Chính vì vậy họ khó có thể nhận ra người khác cũng đang làm sai và có thể đang xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Qua những lý do đó, thiết nghĩ việc chủ động phòng ngừa, phát hiện tội phạm không được đặt ra đối với thương nhân. Đây là điểm hạn chế rất lớn trong nhận thức của giới thương nhân về hệ thống pháp luật hình sự, từ đó vai trò phát hiện tội phạm mà trước hết vì quyền lợi của chính bản thân họ cũng đã bị bỏ qua.
- Thương nhân với việc tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp. Vấn đế này nằm ở hai phía : giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử đối với hành vi của mình và đối với hành vi của các đối tượng khác xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên vì nhận thức pháp luật hình sự là rất hạn chế nên ở cấp độ này thương nhân hầu như cũng không có vai trò trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan này và đương nhiên điều đó là một thiệt thòi rất lớn cho chính giới doanh nhân. Bởi lẽ trên thực tế không phải bao giờ hoạt động của các cơ quan này cũng tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật. Điều này có thể xuất phát từ nhận thức của các cá nhân tiến hành tố tụng mặt khác cũng có thể do họ cố tình vì một lý do nào đó mà làm trái các quy định của pháp luật gây thiệt hại đến quyền lợi của các doanh nhân trong một vụ việc cụ thể.
Xin nêu một ví dụ thực tế: Đó là trường hợp ông Lương Ngọc Phi - Giám đốc Công ty khai thác, chế biến nông - hải sản xuất nhập khẩu Hoà Bình. Toà sơ thẩm Thái Bình khép ông vào hai tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN” và “Trốn thuế”. Vụ án khởi nguồn từ việc, ông Phi bị công an tỉnh Thái Bình khởi tố, bắt giam với hai tội danh: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN” và “Trốn thuế”. Tại bản án hình sự sơ thẩm năm 1999, TAND tỉnh Thái Bình đã tuyên phạt ông Phi 17 năm tù. Ngoài ra, ông còn phải bồi thường cho các bên bị hại số tiền hơn 5,6 tỷ đồng. Ông Phi đã kháng án lên TANDTC.
Sau khi xem xét các tài liệu, tình tiết liên quan đến vụ án, tháng 4/2000 Toà phúc thẩm TANDTC, tuyên ông Phi không phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN”. Tội “Trốn thuế” của ông Phi được yêu cầu điều tra lại từ đầu. Ông Phi vẫn tiếp tục bị giam giữ để điều tra “hành vi trốn thuế” cho tới ngày 30/03/2001. Hơn 2 năm sau VKSND tỉnh Thái Bình ra quyết định đình chỉ điều tra. Như vậy, ông Phi đã phải mang án tù oan suốt 4 năm từ ngày 01/05/1998 đến ngày 30/03/2001.
Qua đó chúng ta thấy sự tắc trách của các cơ quan tố tụng tỉnh Thái Bình trong việc khởi tố, điều tra vụ án của ông Lương Ngọc Phi. Tuy nhiên, cũng thật đáng tiếc bởi nếu ông Phi có một sự hiểu biết nhất định về pháp luật hình sự thì ông Phi có thể tự bảo vệ được mình, giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp trong tiến trình tố tụng hoặc ông Phi có thói quen sử dụng dịch vụ tư vấn pháp lý thì có lẽ điều đáng tiếc đó đã không xảy ra.
Phải chăng đây là một cái giá phải trả cho sự thờ ơ với pháp luật mà đặc biệt là hệ thống tư pháp hình sự. Mặc dù cái giá đó là quá đắt nhưng lại là một bài học lớn cho nhiều thương nhân khác đang ngày đêm hết mình với hoạt động kinh doanh nhưng rất hiếm khi họ quan tâm đến việc phải tìm hiểu pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng.
2.3.3. Thực trạng khả năng tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự của nhóm phụ nữ, trẻ em, đối tượng chính sách.
2.3.3.1. Quyền tiếp cận hệ thống tư pháp của các đối tượng chính sách theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2004 là sự pháp điển lần thứ hai các quy định về trình tự thủ tục điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 được ban hành có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong đó, các quyền tiếp cận pháp luật tố tụng hình sự của công dân được bảo đảm. Nghiên cứu quyền tiếp cận tố tụng tư pháp hình sự của các đối tượng chính sách cho thấy, tố tụng hình sự của Việt Nam, không quy định thủ tục, trình tự tố tụng đặc biệt để áp dụng riêng đối với các đối tượng chính sách (ngoại trừ là đối tượng trẻ em), có nghĩa là, về cơ bản các quyền của các đối tượng này không khác so với các công dân bình thường khác.
Riêng đối với đối tượng là người chưa thành niên, Bộ luật tố tụng hình sự có một số quy định để bảo đảm quyền tiếp cận của người chưa thành niên trong trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách là nạn nhân hoặc nhân chứng. Đặc biệt, khi họ là bị can, bị cáo thì Bộ luật tố tụng hình sự quy định hẳn một Chương riêng để đảm bảo các quyền và lợi ích của họ.
- Quyền tiếp cận của người chưa thành niên trong trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách là nạn nhân hoặc nhân chứng.
Theo quy định của BLTTHS năm 2003, trong trường hợp nạn nhân là người chưa thành niên thì người đại diện hợp pháp của họ sẽ thay thế họ thực hiện những quyền năng tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự như quyền đưa tài liệu, đồ vật, yêu cầu, được thông báo về kết quả điều tra, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, đề nghị bồi thường và các biện pháp đảm bảo việc bồi thường, tham gia phiên toà, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án quyết định của toà án về phần bồi thường cũng như hình phạt đối với bị cáo (Điều 51 khoản 2 BLTTHS năm 2003). Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 của BLTTHS năm 2003 thì người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà (Điều 51 Khoản 3 BLTTHS năm 2003.
Về việc hỗ trợ nạn nhân và nhân chứng là trẻ em trong quá trình thẩm vấn, theo quy định tại Điều 133 khoản 3 và Điều 137 BLTHS năm 2003, việc triệu tập các em để lấy lời khai được thực hiện thông qua cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp khác của các em. Khi lấy lời khai của người dưới 16 tuổi phải mời cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp khác hoặc thầy giáo, cô giáo của người đó tham dự (Điều 135 khoản 5, Điều 137 BLTTHS năm 2003). Trong trường hợp trẻ em là nạn nhân có người bảo vệ quyền lợi thì người bảo vệ quyền lợi có quyền có mặt khi cơ quan tố tụng lấy lời khai của em đó (Điều 59 điểm d khoản 3 BLTTHS năm 2003). Cơ quan điều tra có thể yêu cầu tất cả nạn nhân và nhân chứng trong đó có trẻ em tham gia đối chất trong trường hợp lời khai của họ mâu thuẫn với lời khai của người khác (Điều 138 BLTTHS năm 2003).
Tại phiên toà, theo quy định tại điều 210 BLTTHS năm 2003 thì người đại diện hợp pháp của trẻ em là nạn nhân có quyền trình bày những tình tiết của vụ án có liên quan đến người mà họ đại diện. Đối với trẻ em là nhân chứng thì chủ toạ phiên toà có thể yêu cầu cha, mẹ, người đỡ đầu hoặc thầy giáo, cô giáo giúp đỡ để hỏi (Điều 211 BLTTHS năm 2003). Đối với đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người bảo vệ quyền lợi của họ có quyền có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; kháng cáo phần bản án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ (Điểm d Khoản 3 Điều 59 BLTTHS năm 2003). Như vậy, theo pháp luật tố tụng thì người hỗ trợ cho trẻ em là nạn nhân hoặc nhân chứng trong vụ án hình sự có thể có mặt cùng với họ trong tất cả các giai đoạn tố tụng từ điều tra cho đến xét xử.
Nạn nhân bị lạm dụng là trẻ em nhiều khi phải đứng trước nguy cơ bị kẻ lạm dụng đe doạ và do đó các em luôn phải sống trong một tâm trạng bất an, lo âu. Điều này có thể khiến các em, gia đình các em hoặc những người đại diện hợp pháp của các em lo sợ không dám khai báo với cảnh sát, bị doạ dẫm để buộc phải rút yêu cầu khởi kiện hay tố cáo, không dám ra khai tại cơ quan điều tra hoặc trước toà án. Do đó, việc bảo vệ an toàn cho nạn nhân bị lạm dụng là trẻ em, người thân trong gia đình hoặc người đại diện hợp pháp của các em đóng vai trò quan trọng, góp phần vào việc tạo cho họ khả năng tiếp cận hệ thống tư pháp một cách tự do theo ý chí của họ. Vì thế, biện pháp bảo đảm an toàn mọi mặt cho trẻ em bị lạm dụng, xâm hại cũng như những thành viên gia đình của nạn nhân hoặc người đại diện hợp pháp của các em trước, trong và sau tố tụng là hết sức quan trọng.
Trước hết, nạn nhân bị lạm dụng là trẻ em, người thân thích hoặc người đại diện hợp pháp của các em được pháp luật Việt nam bảo vệ về tính mạng, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 71 Hiến pháp và tại Điều 7 BLTTHS năm 2003. Trẻ em bị lạm dụng, xâm hại hoặc người thân, người đại diện hợp pháp của các em có thể tố giác việc bị xâm hại hoặc bị đe doạ xâm hại tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án hoặc với cơ quan, tổ chức khác và yêu cầu được giúp đỡ, bảo vệ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản (Điều 101 BLTTHS năm 2003).
Những kẻ xâm phạm tính mạng, danh dự, nhân phẩm của nạn nhân bị lạm dụng là trẻ em, người thân hoặc người đại diện hợp pháp của các em đó sẽ bị xử phạt theo pháp luật hình sự của Việt Nam về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người quy định tại Điều 93 BLHS năm 1999 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Với những kẻ mua chuộc hoặc cưỡng ép trẻ em bị lạm dụng, xâm hại khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật cũng bị xử phạt theo quy định tại Điều 303 BLHS năm 1999 với hình phạt tối đa đến bảy năm tù.
Khi tham gia tố tụng với tư cách là nạn nhân hoặc nhân chứng, nạn nhân bị lạm dụng là trẻ em, người thân hoặc người đại diện hợp pháp của các em đó được bảo vệ theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo vệ nạn nhân, nhân chứng và thân nhân của những người này. Theo quy định tại Điều 7 BLTTHS năm 2003 thì cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phải áp dụng những biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo vệ những người này khi tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của họ bị đe doạ xâm phạm. Riêng đối với nhân chứng thì các em đó hoặc người đại diện hợp pháp của các em có quyền yêu cầu cơ quan đã triệu tập nhân chứng bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 55 Khoản 3 BLTTHS. Tại phiên toà, trong trường hợp cần thiết phải bảo đảm an toàn cho nhân chứng và người thân thích của họ, Hội đồng xét xử phải quyết định thực hiện biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp luật (Điều 211 BLTTHS năm 2003). Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam có quy định về vấn đề bảo vệ bí mật điều tra tại Điều 124 BLTTHS năm 2003. Theo quy định của điều này thì trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên phải báo trước cho người tham gia tố tụng, người chứng kiến không được tiết lộ bí mật điều tra.
Tuy nhiên theo chúng tôi, các quy định về thủ tục xét xử cac vụ án mà NCTN là nạn nhân hay là nhân chứng còn có những bất cập sau:
+ Nhìn chung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam tương đối đầy đủ để đảm bảo cho nạn nhân nói chung, nạn nhân là người chưa thành niên nói riêng được quyền thông báo và tham gia vào quá trình tố tụng, được quyền bày tỏ quan điểm và những quan điểm này được xem là một nguồn chứng cứ. Việc tham gia vào quá trình tố tụng của người chưa thành niên do cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp thực hiện, trong trường hợp họ trực tiếp tham gia thì có sự trợ giúp từ phía những người này. Tuy nhiên, những quy định này còn hạn chế và chưa đầy đủ. Ví dụ: Tại Khoản 2 Điều 52 BLTTHS năm 2003 quy định nạn nhân có quyền nhận được thông báo về kết quả điều tra, tuy nhiên, tại các quy định chi tiết về điều tra thì chỉ quy định việc gửi quyết định tạm đình chỉ điều tra cho nạn nhân (Điều 160), còn trong trường hợp Cơ quan điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra thì luật lại không quy định phải thông báo cho nạn nhân (Điều 162).
+ Mặc dù BLTTHS có các quy định nhằm bảo đảm việc bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của nạn nhân là trẻ em, nhưng theo chúng tôi các quy định này vẫn chưa đủ bởi các lý do sau:
Thứ nhất, pháp luật mới chỉ quy định việc bảo vệ bí mật do yêu cầu của hoạt động tố tụng mà chưa quy định việc bảo vệ bí mật vì lợi ích của nạn nhân, do đó mới chỉ giới hạn ở những trường hợp cần giữ bí mật điều tra.
Thứ hai, trẻ em là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ vì thế việc bảo vệ bí mật đời tư của trẻ em là nạn nhân rất quan trọng. Nhưng hiện nay pháp luật chưa ghi nhận quyền của nạn nhân là trẻ em bị lạm dụng được yêu cầu cơ quan điều tra giữ bí mật đời tư của mình thông qua người đại diện hợp pháp.
Trong giai đoạn xét xử, Điều 18 BLTTHS năm 2003 quy định “trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Toà án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai”. Như vậy, trẻ em bị lạm dụng với tư cách là đương sự của vụ án có thể thông qua người đại diện hợp pháp hợp pháp yêu cầu Toà án xét xử kín với lý do bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng. Mặc dù vậy, việc Toà án có chấp nhận yêu cầu xét xử kín của đương sự hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào việc Toà án có cho rằng yêu cầu đó là chính đáng hay không. Hơn nữa, việc tuyên án vẫn được tiến hành công khai đã dẫn đến việc bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của trẻ em bị lạm dụng không được toàn diện và triệt để.
Điều 7 Luật báo chí có quy định "đối với những vụ án đang được điều tra hoặc chưa xét xử thì cơ quan tiến hành tố tụng có quyền không cung cấp thông tin cho báo chí, nhưng báo chí có quyền thông tin theo các nguồn tài liệu của mình". Như vậy, trong quá trình điều tra hoặc chưa xét xử những vụ án có nạn nhân bị lạm dụng là trẻ em thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể không cung cấp thông tin cho báo chí. Nhưng như vậy cũng không có nghĩa là bí mật đời tư và nhận dạng của nạn nhân bị lạm dụng là trẻ em được bảo vệ vì báo chí vẫn có quyền thông tin về vụ án đó theo kênh điều tra riêng của họ.
Ngoài ra, Điều 7 Luật báo chí cũng có quy định "báo chí có quyền và nghĩa vụ không tiết lộ tên người cung cấp thông tin nếu có hại cho người đó, trừ trường hợp có yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân hoặc Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và tương đương trở lên cần thiết cho việc điều tra, xét xử tội phạm nghiêm trọng". Theo quy định này, trong trường hợp người cung cấp thông tin là trẻ em bị lạm dụng thì báo chí không được cung cấp tên của các em. Tuy nhiên, quy định này vẫn chưa đủ để bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng trẻ em là nạn nhân bị lạm dụng vì ngoài tên ra thì còn rất nhiều thông tin khác có thể cho phép xác định nhận dạng của trẻ em. Thêm vào đó, Luật chỉ giới hạn việc tiết lộ tên của trẻ em với tư cách là người cung cấp thông tin chứ không phải với tư cách là nạn nhân.
+ Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng khẳng định quyền được pháp luật bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của mỗi cá nhân. BLTTHS năm 2003 mới bổ sung một số quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo vệ nạn nhân, nhân chứng, những người tham gia tố tụng khác, quyền của nhân chứng được yêu cầu bảo vệ, việc bảo vệ nhân chứng tại phiên toà. Có thể cho rằng việc bổ sung những quy định này vào BLTTHS năm 2003 là một điểm tiến bộ của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, những quy định này vẫn còn một số thiếu sót khiến cho khó có thể bảo đảm việc bảo vệ an toàn cho nạn nhân, nhân chứng trong vụ án hình sự nói chung và cho nạn nhân bị lạm dụng, xâm hại là trẻ em, người thân trong gia đình hoặc người đại diện hợp pháp của các em đó nói riêng một cách đầy đủ và toàn diện. Trước hết, những quy định trên mới chỉ dừng lại ở những nguyên tắc chung mà chưa có những hướng dẫn cụ thể, do vậy chỉ có thể được thực hiện khi có văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết về đối tượng được bảo vệ (trong đó cần giải thích rõ khái niệm người thân thích của nạn nhân, người làm chứng), các biện pháp bảo vệ cụ thể (thay đổi tên tuổi, nhận dạng, chỗ ở, các thủ tục thu thập chứng cứ đặc biệt như lấy lời khai thông qua kết nối video...), thủ tục yêu cầu được bảo vệ, kinh phí thực hiện những quy định này. Thứ hai, BLTTHS không quy định quyền của nạn nhân của tội phạm nói chung và trẻ em bị lạm dụng nói riêng được yêu cầu bảo vệ khi bị xâm hại hoặc bị đe doạ xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm. BLTTHS năm 2003 cũng mới chỉ quy định việc bảo vệ nhân chứng tại phiên toà mà chưa đặt ra vấn đề cần phải bảo vệ nạn nhân của vụ án nói chung và nạn nhân bị lạm dụng là trẻ em nói riêng tại phiên toà. Ngoài ra, bản thân những quy định trên cũng còn có mâu thuẫn, chưa hợp lý, cụ thể là theo quy định tại Điều 7 thì đối tượng được bảo vệ bao gồm không chỉ nhân chứng mà cả người thân của họ, nhưng theo quy định tại Điều 55 Khoản 3 thì nhân chứng chỉ có quyền yêu cầu bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm cho chính bản thân mình mà thôi.
+ Trẻ em là những người chưa phát triển một cách toàn diện và đầy đủ cả về thể chất lẫn tinh thần, chính vì vậy các em là những đối tượng dễ bị tổn thương. Bất kỳ hành vi lạm dụng nào đối với trẻ em đều có nguy cơ gây hại cho sức khoẻ, sự phát triển về đạo đức, tinh thần, trí tuệ, thể chất và tâm lý xã hội của trẻ. Do vậy, việc đào tạo chuyên biệt cho những cán bộ làm công tác tư pháp và công tác xã hội như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư, Thẩm phán, các nhân viên cảnh sát, nhân viên dịch vụ y tế, xã hội để có khả năng nắm bắt một cách tinh tế, nhạy cảm những nhu cầu của trẻ em để có những hướng dẫn có thể trợ giúp các em một cách thích hợp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giải quyết các vụ án mà trẻ em là nạn nhân bị lạm dụng như giúp các em xoá bỏ mặc cảm, tự ti trong cuộc sống để phát triển một cách lành mạnh và toàn diện về xã hội, đạo đức, tinh thần, trí tuệ, thể chất và tâm lý xã hội, hoà nhập với cộng đồng.
Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 (Điều 302) mới chỉ quy định trong qúa trình tiến hành tố tụng đối với người phạm tội là người chưa thành niên, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng phải là những người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người chưa thành niên mà không có yêu cầu tương tự đối với những người tiến hành tố tụng trong các vụ án có nạn nhân là trẻ em. Đồng thời, trên thực tế việc đào tạo chuyên biệt cho Điều tra viên, Luật sư, Kiểm sát tố viên, Thẩm phán, và các Hội thẩm toà án trong việc giải quyết các vụ án có NCTN nói chung cũng chưa được chú trọng. Chính vì vậy, việc bảo đảm quyền tiếp cận của các đối tượng này đối với hệ thống tư pháp vẫn còn có một khoảng cách nhất định so với những tư tưởng nhân văn của Nhà nước dành cho đối tượng này.
- Quyền tiếp cận của người chưa thành niên trong trường hợp họ là bị can, bị cáo.
Nhận thức rõ những đặc điểm hết sức riêng biệt của người chưa thành niên phạm tội, BLTTHS năm 2003 đã dành hẳn một Chương XXXII qui định về thủ tục đặc biệt đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, ngoài những qui định đặc biệt tại chương XXXII, các cơ quan tiến hành tố tụng còn có thể vận dụng những qui định chung khác của BLTTHS để áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Những qui định này phải không trái với những qui định tại chương XXXII BLTTHS.
Trong quá trình tố tụng, bị can, bị cáo là người chưa thành niên được biết mình khởi tố vì tội gì, có quyền trình bầy lời khai, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án . Đồng thời họ còn có quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Toà án; các quyết định tố tụng khác theo qui định của BLTTHS năm 2003. Họ cũng có quyền tham gia phiên toà để bảo vệ quyền lợi của mình; được Toà án giải thích về quyền và nghĩa vụ; được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch khi có căn cứ cho rằng họ không khách quan khi thực thi nhiệm vụ; được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; được trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà; được nói lời sau khi cùng trước khi nghị án; được kháng cáo bản án, quyết định của Toà án, và được khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều 49, 50 BLTTHS năm 2003)
Quyền tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự của người chưa thành niên phạm tội còn được thể hiện chế định bào chữa. Bộ luật TTHS năm 2003 quy định, đối với các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, thì bắt buộc phải có sự tham gia của người bào chữa trong tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng. Người bào chữa có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của bị cáo; bào chữa viên nhân dân. Trong trường hợp người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Người chưa thành niên hoặc đại diện hợp pháp của họ có quyền thay đổi hoặc từ chối người bào chữa cho mình. Nếu việc từ chối có lý do chính đáng thì Đoàn luật sư có trách nhiệm cử người khác thay thế. Người đại diện hợp pháp của bị cáo có thể lựa chọn người bào chữa, hoặc người đại diện hợp pháp có quyền tự mình bào chữa cho người chưa thành niên phạm tội (Điều 56, 57, 58 và Điều 305 BLTTHS năm 2003). Việc quy định cho phép sự hiện diện của cha mẹ và người đại diện pháp lý cùng với người chưa thành niên là một biện pháp nữa để bảo đảm rằng người chưa thành niên sẽ được xét xử một cách công bằng và có thể tham gia một cách có ý nghĩa vào quá trình tố tụng. Sự hiện diện của cha mẹ là rất cần thiết để tạo một sự hỗ trợ về tâm lý và tình cảm đối với người chưa thành niên, trong khi đó, sự hiện diện của luật sư bào chữa là rất cần thiết để bảo đảm rằng người chưa thành niên có thể đưa ra tất cả những ý kiến biện hộ pháp lý thích hợp và trình bày quan điểm bào chữa.
Như vậy, quyền tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự của người chưa thành niên phạm tội đã được pháp luật quy định khá rõ ràng và đầy đủ. Các ý kiến và quyền tham gia của các em trong tố tụng hình sự được tôn trọng và là thủ tục bắt buộc trong quá trình tố tụng.
Tuy nhiên, nếu chỉ đơn giản cho người chưa thành niên tham gia vào quá trình xử lý và quyền phát biểu thôi thì chưa đủ - toà án và các cơ quan tố tụng khác phải tạo một không khí để người chưa thành niên cảm thấy thoải mái và có thể tham gia. Bởi vì, nếu người chưa thành niên không hiểu các thủ tục tố tụng hoặc cảm thấy sợ hãi hay e ngại khi phát biểu thì sẽ không thể tham gia một cách thiết thực. Chính vì thế mà Quy tắc Bắc Kinh đã nhấn mạnh rằng các thủ tục tố tụng phải được tiến hành trong một bầu không khí thông hiểu và theo cách thức cho phép người chưa thành niên tham gia và bày tỏ quan điểm một cách thoải mái. Trong khi đó pháp luật tố tụng hình sự hiện hành mặc dù có một chương riêng quy định thủ tục áp dụng đối với người chưa thành niên, tuy nhiên, cách thức và phương pháp tiến hành tố tụng vẫn như đối với người đã thành niên. Hơn nữa, những người tiến hành tố tụng trong các giai đoạn điều tra và truy tố đối với người chưa thành niên phạm tội không bắt buộc phải có trình độ cần thiết về tâm lý học, giáo dục học và phải có các kỹ năng khác trong quá trình làm việc với người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Do vậy, người chưa thành niên là bị can, bị cáo không có tâm lý thoải mái để có thể tham gia, đưa ra ý kiến để bảo vệ quyền của mình trong quá trình tố tụng.
2.3.3.2. Chính sách trợ giúp của nhà nước nhằm bảo đảm cho các đối tượng chính sách tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự.
- Các quy định của pháp luật.
Giúp đỡ, hỗ trợ người nghèo, người dân tộc thiểu số, ở vùng sâu vùng xa và những người có công lao đóng góp, hy sinh cho đất nước đã trở thành đạo lý truyền thống của dân tộc và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta . Trong kỷ nguyên đổi mới và phát triển đất nước, với những chủ trương, chính sách đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước ta, mức sống, quyền lợi của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Trong bối cảnh đó, bên cạnh việc hỗ trợ tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện bảo đảm đời sống vật chất, văn hoá xã hội cho người nghèo và những đối tượng chính sách, Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm, tạo cơ chế giúp đõ họ trong việc tiếp cận pháp luật, bảo vệ công lý và công bằng xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Vì vậy, hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho hoạt động trợ giúp pháp lý đã được ban hành, như: Luật trợ giúp pháp lý năm 2006; Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật trợ giúp pháp lý; Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT- BTP – BCA – BQP – BTC- VKSNDTC – TANDTC ngày 28/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng; Thông tư số 07/2008/TT- BTP ngày 21/8/2008 hướng dẫn thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006-2010 và Chương trình mục tiêu phát triển quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010...
Theo các quy định hiện hành và tuỳ từng nội dung vụ việc, người được trợ giúp pháp lý được hưởng các dịch vụ sau:
+ Tư vấn pháp luật
Các đối tượng chính sách có thể được hướng dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin pháp luật, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến các vấn đề về tư pháp hình sự. Đặc biệt việc tư vấn pháp luật được pháp luật quy định cũng như thực tiễn áp dụng rất đa dạng, không phụ thuộc vào nhu cầu của đối tượng. Hay nói cách khác, đây là một hình thức tuyền truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nói chung cũng như trong vấn đề tư pháp hình sự nói riêng. Khoản 1 điều 38 Luật Trợ giúp pháp lý quy định: “Tư vấn pháp luật được thực hiện bằng miệng hoặc bằng văn bản; tư vấn trực tiếp, bằng thư tín, điện tín hoặc thông qua phương tiện thông tin khác; thông qua trợ giúp pháp lý lưu động, sinh hoạt chuyên đề pháp luật, Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý và các phương thức khác”. Trong đó, tư vấn pháp luật tại các đợt trợ giúp pháp lý lưu động, trong các buổi sinh hoạt chuyên đề pháp luật, sinh hoạt câu lạc bộ trợ giúp pháp lý được Trung tâm trợ giúp pháp lý tổ chức thực hiện ngay tại địa bàn các xã, hay cụm dân cư nơi tập trung nhiều đối tượng trợ giúp pháp lý.
+ Tham gia tố tụng
Các đối tượng chính sách có thể được các trợ giúp viên pháp lý, Luật sư tham gia tố tụng hình sự để bào chữa cho người được trợ giúp pháp lý là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc để bảo vệ quyền lợi của người được trợ giúp pháp lý là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
+ Đại diện ngoài tố tụng
Các đối tượng chính sách có thể yêu cầu được cử một người đại diện ngoài tố tụng cho người được trợ giúp pháp lý khi họ không thể tự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Ví dụ : đại diện trong việc thương lượng mức bồi thường thiệt hại trong vụ án cố ý gây thương tích mà đối tượng chính sách là nạn nhân…
+ Các hình thức trợ giúp pháp lý khác
Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư thực hiện các hình thức trợ giúp pháp lý khác cho người được trợ giúp pháp lý bằng việc giúp đỡ họ hoà giải, thực hiện những công việc liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
- Đánh giá. Qua 10 năm thực hiện công tác trợ giúp pháp lý, đến nay trên toàn quốc có 63 Trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước thuộc Sở Tư pháp các tỉnh thành phố trực thuộc TW với 1675 chi nhánh, tổ, điểm, câu lạc bộ trợ giúp pháp lý cấp huyện, xã, đã xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ gồm 483 chuyên viên và 7786 cộng tác viên trợ giúp pháp lý. Đến hết tháng 6/2006 trong toàn quốc đã có 721.006 vụ việc với 769.178 đối tượng được trợ giúp trong đó có 641.430 vụ việc tư vấn, 48.214 vụ việc đại diện, bào chữa, 10.565 vụ việc kiến nghị, 20.797 vụ việc hoà giải và hàng triệu lượt người được hướng dẫn, giải đáp pháp luật miễn phí….
Thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý cho thấy việc thành lập hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách là sự kiện pháp luật quan trọng, mở đầu cho hướng đi rất tích cực và thiết thực của công tác tư pháp, gắn với đời sống pháp luật của nhân dân đã đáp ứng kịp thời nhu cầu khách quan của nhân dân và thiết thực đưa pháp luật vào cuộc sống, trong đó có pháp luật về tư pháp hình sự.
Về bản chất hoat động trợ giúp pháp lý phù hợp với truyền thống, đạo lý đoàn kết, hỗ trợ, tương thân, tương ái, đền ơn, đáp nghĩa của dân tộc ta và xuất phát từ bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân. Với mục tiêu thực hiện dân chủ, công bằng và văn minh xã hội, hoạt động này cũng phù hợp với xu thế phấn đấu hướng tới xã hội văn minh chung của nhân loại hiện nay.
Với bản chất tốt đẹp đó, qua việc trực tiếp hướng dẫn pháp luật, giải toả vướng mắc pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo và các đối tượng chính sách, trợ giúp pháp lý đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao ý thức pháp luật, góp phần giảm bớt khiếu kiện trong cộng đồng dân cư, bảo đảm công bằng cho mọi tầng lớp xã hội có thể được tiếp cận với pháp luật, hình thành nếp sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Hoạt động này cũng tạo điều kiện cho nhận thức của người dân được nâng cao, giúp họ có khả năng lựa chọn những hành vi xử sự đúng pháp luật, tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và xã hội, tạo niềm tin vào pháp luật.
Hiện nay, mặc dù Luật trợ giúp pháp lý đã có hiệu lực thi hành, các văn bản hướng dẫn có liên quan đã được ban hành. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn một số bất cập, cụ thể là:
+ Trong quá trình thực hiện Thông tư số 05/2008/TT-BTP có những vướng mắc sau:
- Nhiều khi do đối tượng không biết quy định phải nộp các giấy tờ tài liệu có liên quan cho tổ chức trợ giúp pháp lý nên không mang theo khi đề nghị trợ giúp pháp lý. Có trường hợp, đối tượng cố tình không cung cấp tài liệu có liên quan hoặc cung cấp những tài liệu, văn bản có lợi cho mình nên đã gây khó khăn cho tổ chức trợ giúp pháp lý trong quá trình giải quyết vụ việc. Để thực hiện tốt quy định này, các tổ chức trợ giúp pháp lý cần tăng cường hơn nữa công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân biết. Trường hợp đối tượng cố tình cung cấp tài liệu sai sự thật thì phải từ chối và chấm dứt việc thực hiện trợ giúp pháp lý.
- Một số trường hợp khác do nguyên nhân bất khả kháng, ví dụ đề nghị tổ chức trợ giúp pháp lý cử luật sư giúp đỡ đối tượng ngay từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự (tạm giữ, tạm giam) mà yêu cầu phải có quyết định tạm giam, tạm giữ thì rất khó. Bởi vì, quyết định tạm giam, tạm giữ thường chỉ giao cho bị can và nếu bị can đang bị tạm giam thì việc luật sư gặp bị can là phức tạp và mất nhiều thời gian, công sức. Quy định này bảo đảm cho hồ sơ vụ việc đầy đủ, thực hiện trợ giúp pháp lý đúng đối tượng. Để thuận lợi cho việc cung cấp giấy tờ, tài liệu có liên quan (nhất là liên quan đến cơ quan tố tụng) thì cần phải có sự phối hợp giữa các bộ, ngành để vừa bảo đảm cơ sở pháp lý cần thiết trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý, vừa tạo thuận lợi cho người dân.
+ Thủ tục thực hiện đại diện, bào chữa: theo quy định hiện hành, sau khi thụ lý hồ sơ vụ việc trợ giúp pháp lý nếu đối tượng cần luật sư đại diện, bào chữa và đáp ứng đầy đủ các điều kiện thì lãnh đạo tổ chức trợ giúp pháp lý sẽ giới thiệu đối tượng đến Văn phòng luật sư để cử luật sư thực hiện đại diện, bào chữa cho đối tượng. Trên cơ sở hợp đồng cộng tác giữa tổ chức trợ giúp pháp lý với các Văn phòng luật sư, khi nhận được giấy giới thiệu của tổ chức trợ giúp pháp lý, Văn phòng luật sư có trách nhiệm cử luật sư tham gia đại diện, bào chữa cho đối tượng trợ giúp pháp lý.
Trong qúa trình thực hiện việc đại diện, bào chữa cho đối tượng có những bất cập sau:
- Trình tự, thủ tục luật sư, cộng tác viên tham gia đại diện, bào chữa cho đối tượng theo quy định hiện hành còn gây phiền hà cho luật sư. So với quy định trong BLTTHS 1988 thì thủ tục để luật sư tham gia đại diện, bào chữa theo BLTTHS 2003 phức tạp hơn. Cụ thể: luật sư phải trình: thẻ luật sư; giấy chứng nhận hành nghề luật sư; giấy giới thiệu của tổ chức trợ giúp pháp lý; giấy cử luật sư của Văn phòng luật sư… Đây là những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên phải rất chặt chẽ. Tuy nhiên, để thuận lợi cho việc đại diện, bào chữa cho người nghèo và đối tượng chính sách, thủ tục bào chữa trong những trường hợp này cần đơn giản hơn, ví dụ: chỉ cần xuất trình thẻ luật sư và giấy giới thiệu của tổ chức trợ giúp pháp lý.
- Do số lượng luật sư của nước ta là quá thấp so với tỷ lệ dân số (3000 luật sư/84 triệu người, bình quân 28.000 người/1 luật sư) và tập trung và hoạt động chủ yếu ở các thành phố, thị xã lớn; độ tuổi luật sư tương đối cao nên họ thường ngại đi xuống các huyện vùng sâu, vùng xa. Do đó, việc mời luật sư, cộng tác viên thực hiện đại diện, bào chữa rất khó khăn (có nơi không mời được luật sư như Sơn La, Lai Châu…). Cơ chế này cũng có hạn chế vì việc cử luật sư phụ thuộc vào Văn phòng luật sư mà tổ chức trợ giúp pháp lý không chủ động được. Do đó, có nhiều trường hợp Văn phòng luật sư cử luật sư tập sự, luật sư trẻ ít kinh nghiệm để trợ giúp pháp lý cho đối tượng nên không bảo đảm hiệu quả.
Do tình trạng thiếu luật sư và để thuận lợi cho công tác phối hợp giữa trợ giúp pháp lý với các cơ quan tiến hành tố tụng đã có 43 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ký chương trình (kế hoạch) phối hợp giữa Sở Tư pháp với các cơ quan tiến hành tố tụng về việc trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách trong quá trình tố tụng. Những quy định đó đã giúp cho nhiều đối tượng trợ giúp pháp lý biết và tiếp cận với tổ chức trợ giúp pháp lý cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức trợ giúp pháp lý cử luật sư (nhiều tỉnh như Lào Cai, Điện Biên, Nghệ An, Toà án cho phép chuyên viên trợ giúp pháp lý được thực hiện) bào chữa trước toà án cho bị can, bị cáo, người bị tạm giam, tạm giữ… là đối tượng trợ giúp pháp lý.
Để khắc phục những bất cập trên, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính xây dựng Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT- BTP – BCA – BQP – BTC – VKANDTC – TANDTC ngày 28/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng.
+ Về trách nhiệm đối với các cơ quan có liên quan. Theo quy định của pháp luật, các cơ quan, tổ chức tạo điều kiện cho tổ chức trợ giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý xác minh, tìm hiểu vụ việc hoặc thu thập tài liệu có liên quan.
Tuy nhiên, trong thực tế việc thực hiện quy định này còn có một số bất cập: đối với cộng tác viên trợ giúp pháp lý khi nhận được vụ việc cần phải xác minh, trao đổi, tham khảo ý kiến với các cơ quan, ban ngành có liên quan hoặc muốn nghiên cứu hồ sơ lưu trữ tại các cơ quan này nhưng nhiều khi chưa được tạo điều kiện giúp đỡ. Luật sư, cộng tác viên thực hiện đại diện, bào chữa xong muốn xin xác nhận bảng kê về thời gian làm việc tại cơ quan tiến hành tố tụng trong một số trường hợp bị từ chối với lý do bận nên không xác nhận.... Cơ quan điều tra chưa tạo điều kiện cho luật sư tham gia đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tượng. Trong một số trường hợp, điều tra viên không muốn có mặt luật sư tham gia hỏi cung vì cho rằng luật sư tham gia chỉ làm cho vụ việc phức tạp thêm... Thực tế cho thấy nếu có luật sư tham gia hỏi cung và tham gia vào các giai đoạn tố tụng sẽ giúp cho việc xét xử tránh được oan sai, bảo đảm cho Toà án xét xử đúng người, đúng tội, đúng theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG III
THAM KHẢO KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI TRONG VIỆC
TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC TIẾP CẬN CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI
HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ.
3.1. HOA KỲ.
Tại Hoa Kỳ, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của luật sư (Model Rule of Professional Conduct) tại điểm 6.1 quy định rằng, mỗi năm, một luật sư nên dành ra ít nhất 50 giờ cho hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí. Hình thức này tuy không có tính bắt buộc pháp lý nhưng được nhiều luật sư thực hiện và đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu trợ giúp pháp lý cho người nghèo ở Hoa Kỳ. Trong năm 2003, 100 công ty luật hàng đầu của Hoa Kỳ đã thực hiện được 1,7 triệu giờ trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, trong đó phần lớn là dành cho việc trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực hình sự[19].
3.2. CANADA.
Tại Canada, trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực hình sự (criminal legal aid) được coi là một phương thức truyền thống đảm bảo sự tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự của bị can, bị cáo[20].
Chương trình trợ giúp pháp lý tại Canada được thúc đẩy mạnh từ năm 1973 do chính quyền liên bang quản lý và được tiến hành ở hầu hết các bang. Lượng ngân sách chi cho hoạt động này được nâng từ mức 15 triệu đô (1 đô la Canada, bằng khoảng 0,9 - 1 USD) của năm 1974 lên mức 215 triệu đô của năm 1999. Hiện tại, ngân sách hàng năm chi cho hoạt động này vẫn ở con số khoảng 200 triệu đô la. Hoạt động trợ giúp pháp lý này chủ yếu tập trung vào 2 loại dịch vụ chính là: bào chữa và đại diện trước Toà. Tuy nhiên, dịch vụ tư vấn pháp lý (nhất là tư vấn qua điện thoại về việc bắt, giam giữ đối với bị can, bị cáo) cũng được thực hiện.
Trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực hình sự chủ yếu thực hiện việc trợ giúp cho các vụ việc cụ thể. Số liệu thống kê cho thấy, số đơn yêu cầu trợ giúp pháp lý về mặt hình sự được chấp thuận liên tục tăng từ năm 1973 và đạt đỉnh điểm ở mức 372.861 đơn vào năm 1991-1992 sau đó giảm dần xuống mức của năm 1997-1998 là 228.787 đơn.
3.3. ANH.
Tại Anh[21], trước năm 1989, hệ thống trợ giúp pháp lý của Anh và xứ Wales được quản lý bởi giới luật gia, thông qua cơ quan điều hành là Hội luật gia (Law Society). Tuy nhiên, Luật trợ giúp pháp lý năm 1988 đã thay đổi thông lệ này bằng việc lập ra một cơ quan trợ giúp pháp lý công có tên là “Hội đồng trợ giúp pháp lý” (the Legal Aid Board – LAB) hoạt động từ ngày 1/4/1989. Lý do cơ bản của việc chuyển đổi này là những phàn nàn về hiệu năng trong hoạt động quản lý của hệ thống trợ giúp pháp lý lúc đó. Dư luận chung lúc đó muốn có hệ thống trợ giúp pháp lý thân thiện hơn với người sử dụng. Hệ thống ấy phải đáp ứng 3 tiêu chí cơ bản là: (1) được quản lý tốt (cả về nhân sự, tài chính, bộ máy tổ chức) và (2) việc xử lý đơn yêu cầu trợ giúp pháp lý phải nhanh chóng hơn (tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc cho người có đơn yêu cầu) và (3) việc thanh toán các khoản thù lao trợ giúp pháp lý cho các luật sư (cả luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn) phải được tiến hành nhanh chóng hơn nữa.
Theo Luật trợ giúp pháp lý năm 1988, bất cứ tổ chức nào cũng có thể tiến hành các hoạt động trợ giúp pháp lý miễn là: tổ chức ấy có luật sư đang hành nghề hoặc tổ chức ấy đứng ra thuê luật sư hành nghề. Nguyên tắc ấy mở rộng cho các trung tâm luật, các tổ chức tư vấn cũng có thể tiến hành các hoạt động trợ giúp pháp lý.
Việc trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực hình sự được thực hiện theo 4 chương trình:
- Chương trình thẻ xanh (the Green Form Scheme): cho phép người trợ giúp pháp lý được tiến hành cung cấp dịch vụ tư vấn và trợ giúp nhưng không được tiến hành hoạt động đại diện. Theo chương trình này, người trợ giúp có thể cung cấp dịch vụ cho một yêu cầu tối đa không quá 2 giờ làm việc (trị giá khoảng 70 bảng) về bất cứ vấn đề pháp luật nào mà không cần đăng ký trước với Hội đồng trợ giúp pháp lý.
- Chương trình đồn cảnh sát (the Police Station Scheme): chương trình này cho phép bất cứ ai bị bắt hoặc tạm giữ tại đồn cảnh sát được quyền yêu cầu tư vấn miễn phí (thông qua luật sư riêng của người này hoặc luật sư trợ giúp pháp lý). Việc trợ giúp này được tiến hành thông qua điện thoại. Trường hợp người bị bắt giữ không có luật sư riêng, người này có thể yêu cầu trợ giúp bằng cách liên lạc với Hội đồng trợ giúp pháp lý và Hội đồng này sẽ cử luật sư trợ giúp pháp lý để tiến hành các hoạt động trợ giúp. Hệ thống trợ giúp pháp lý sẽ chi trả cho mọi chi phí phát sinh từ việc trợ giúp pháp lý miễn phí này.
- Chương trình luật sư trợ giúp pháp lý hoạt động tại các Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp (The Magistrates’ Court Duty Solicitor Scheme).
- Chương trình đại diện tại các Toà đại hình.
Trong năm 1989/1990, các vụ hỗ trợ pháp lý về hình sự và ngân sách chi cho các vụ việc này cụ thể như sau:
Chương trình
|
Số hoá đơn được thanh toán
|
Tổng số tiền
|
Thẻ xanh
|
225.500
|
10,5 triệu Bảng
|
Đồn cảnh sát
|
345.000
|
31 triệu Bảng
|
Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp
|
62.000
|
6,5 triệu Bảng
|
Đại diện tại toà đại hình
|
435.000
|
152 triệu Bảng
|
|
Tổng cộng
|
200 triệu Bảng
|
Trong năm đó, tổng ngân sách trợ giúp pháp lý của nhà nước chi trả là 531,2 triệu Bảng (phần 331,2 triệu Bảng còn lại là trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực dân sự).
Kinh phí trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực hình sự đã liên tục tăng trong những năm qua. Dưới đây là số liệu ngân sách trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực hình sự của năm 1999/2000 trong mối tương quan với số liệu của năm 1989/1990:
Chương trình
|
Năm 1989/1990
|
Năm 1999/2000
|
Thẻ xanh
|
10,5 triệu Bảng
|
27 triệu Bảng
|
Đồn cảnh sát
|
31 triệu Bảng
|
109 triệu Bảng
|
Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp
|
6,5 triệu Bảng
|
25,5 triệu Bảng
|
Đại diện tại Toà đại hình
|
152 triệu Bảng
|
245 triệu Bảng
|
Chương trình tại Toà hoàng gia
|
Chưa có
|
370 triệu Bảng
|
Tổng cộng
|
200 triệu Bảng
|
804,7 triệu Bảng
|
Trong năm 1999/2000, ngân sách chi cho hoạt động trợ giúp pháp lý tại Anh là 1.420,4 triệu Bảng (phần 616,7 triệu Bảng còn lại được chi cho hoạt động trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực dân sự).
Trong năm 2002/2003, ngân sách chi cho hoạt động trợ giúp pháp lý đã lên tới 1.931 triệu Bảng, trong đó, chương trình trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực hình sự là 1,1 tỷ Bảng, chương trình trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực dân sự là 821 triệu Bảng.
Luật Tiếp cận công lý năm 1999 (Access to Justice Act 1999), đã thay Hội đồng trợ giúp pháp lý (LAB) bằng Hội đồng dịch vụ pháp lý (Legal Services Commission – LSC). Hội đồng này được quyền thành lập 2 bộ phận là: Dịch vụ pháp lý cộng đồng (Community Legal Service) và Dịch vụ bào chữa (Criminal Defense Service). Một trong những điểm tranh cãi của Luật tiếp cận công lý năm 1999 chính là việc trao cho Hội đồng dịch vụ pháp lý được quyền trực tiếp tuyển dụng Luật sư để cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý. Quy định này gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ phía Hiệp hội luật sư bởi e ngại rằng luật sư mà Hội đồng dịch vụ pháp lý tuyển chọn sẽ tham gia cạnh tranh với các luật sư độc lập khi cung cấp dịch vụ cho người dân.
Một số kết luận rút ra từ việc tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài trong việc tăng cường năng lực tiếp cận của người dân đối với hệ thống tư pháp hình sự.
- Tiếp cận với công lý được hiểu là hệ thống các bảo đảm mà nhà nước cung cấp cho người dân có vấn đề về pháp luật (khi quyền lợi bị xâm phạm, khi tham gia các tranh chấp hoặc khi vướng vào các vấn đề pháp luật khác) có thể thực hiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách công bằng.
- Trong thực tiễn lịch sử, các loại bảo đảm tương tự đã từng tồn tại, nhất là trong các phường hội thời trung cổ. Tuy nhiên, bảo đảm bởi nhà nước về việc tiếp cận công lý đó chỉ thực sự ra đời cùng với thực tiễn áp dụng mô hình nhà nước phúc lợi (welfare state) ở các quốc gia phát triển[22]. Tiếp cận với công lý thường được hiểu là tiếp cận với toà án và cách thức tiếp cận chính là đảm bảo cho người có nhu cầu tiếp cận được hưởng dịch vụ luật sư (dịch vụ đại diện, dịch vụ bào chữa v.v.) một cách cơ bản nhất[23]. Trong khi đối với lĩnh vực dân sự, thương mại, các tranh chấp được giải quyết ngày càng nhiều bằng con đường ngoài toà án, việc hỗ trợ tiếp cận toà án với ý nghĩa là cách thức tiếp cận công lý rõ ràng sẽ là không đầy đủ.
- Trợ giúp pháp lý là một phương thức quan trọng đảm bảo sự tiếp cận của người dân đối với hệ thống tư pháp hình sự. Trong lịch sử tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự của các nước trên thế giới, phương thức này được coi là phương thức có lịch sử sớm nhất, được sử dụng phổ biến và rộng rãi nhất. Tuy nhiên, đây là chỉ một trong những phương thức tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự cho người dân. Chỉ dựa vào phương thức này sẽ không đảm bảo được năng lực tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự của người dân một cách đầy đủ nhất.
- Các phương thức tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự khác:
+ Phương thức phòng ngừa: thiết lập hệ thống thông tin cảnh báo về tội phạm (những chỉ dẫn khu vực có thể gặp nguy hiểm vì bị tội phạm tấn công), các chương trình giúp đỡ nạn nhân (chương trình chống bạo hành trong gia đình chẳng hạn), việc thiết lập các trạm điện thoại công cộng có thể liên lạc trực tiếp với lực lượng công an, v.v.
CHƯƠNG IV
QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC TIẾP CẬN CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ.
4.1. QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC TIẾP CẬN CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ.
Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo đảm sự tiếp cận của công dân đối với hệ thống tư pháp hình sự được đề cập ngay sau ngày đất nước giành được độc lập, đầu tiên nó được thể chế hoá và ghi nhận trong bản Hiến pháp 1946 như: "Tất cả các công dân đều bình đẳng trước pháp luật" (Điều 7) hoặc "Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ giam cầm công dân Việt Nam, nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật" (Điều 11).
Hiến pháp 1946 đặc biệt đề cao vai trò của nhân dân trong hoạt động xét xử: Trong khi xử việc hình thì phải có phụ phẩm nhân dân để tham gia ý kiến" (Điều 65) hoặc "Công dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước toà án" (Điều 66) với quy định này rõ ràng không chỉ bảo đảm cho người Kinh mà còn bảo đảm cho tất cả mọi công dân được tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự. Để bảo đảm cho mọi người dân đều có thể tham gia phiên toà và các bị cáo có thể tự bào chữa. Hiến pháp 1946 đã ghi: "Các phiên toà án đều phải công khai trừ những trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư" (Điều 67).
Theo tiến trình phát triển của lịch sử thì các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về tạo điều kiện cho công dân tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự ngày càng phát triển. Hiến pháp 1959 đã thể chế hoá và tiếp tục ghi nhận các quan điểm trên tại rất nhiều điều như: Các Toà án nhân dân thực hiện chế độ thẩm phán bầu theo quy định của pháp luật (Điều 198); "việc xét xử ở các Toà án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật" (Điều 99); "Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm".
Tiếp theo Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 cũng đã có nhiều quy định tạo cơ sở pháp lý để cho công dân được tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự như: Chế độ bầu cử thẩm phán, và hội thẩm nhân dân được thực hiện ở toà án nhân dân các cấp. (Điều 129 và Điều 130) hay "khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" (Điều 131) với những quy định này cho thấy ở nước ta nhân dân là chủ thể đích thực của các cơ quan xét xử và công dân ngày càng được tăng cường tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự. Hiến pháp 1980 đã quy định cụ thể khả năng tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự của công dân " Công dân các dân tộc có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của mình trước toà án" (Điều 134).
Khi chúng ta bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta cũng đã có những chính sách nhằm tạo điều kiện cho công dân tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự, các chính sách đó được ghi nhận trong bộ Luật hình sự năm 1986, điều này đã được thể hiện rất rõ trong lời nói đầu của Bộ luật hình sự 1986: Luật hình sự bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân... Thấu suốt quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân. Để nhân dân tiếp cận và trở thành chủ thể đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, tại Điều 1 của Bộ luật hình sự năm 1986 đã ghi rõ: Luật hình sự có nhiệm vụ "giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm".
Đặc biệt trong những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ 20, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách để nâng cao năng lực tiếp cận của công dân đối với hệ thống tư pháp hình sự. Các quan điểm của Đảng trong Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã được thể chế hoá trở thành những quy định cụ thể trong Hiến pháp 1992 bảo đảm cho công dân hoạt động ở các hình thức khác nhau, như dân sự hoặc quân sự đều có quyền tiếp cận các hoạt động tư pháp: "Viện xét xử của Toà án nhân dân có hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có hội thẩm quân nhân" (Điều 129). Hay "Toà án xét xử công khai" (Điều 131) hoặc: Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa (Điều 132). Để tạo thuận lợi cho công dân tiếp cận và kiểm tra giám sát các hoạt động tư pháp Điều 135 đã khẳng định: Chánh án Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội; Chánh án Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo trước Hội đồng nhân dân địa phương. Còn đối với Viện kiểm sát nhân dân thì Hiến pháp cũng quy định: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo trước Hội đồng nhân dân địa phương (Điều 139 và Điều 140).
Tiếp theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII nêu lên một số quan điểm về bảo vệ quyền con người trong đó nhấn mạnh vấn đề tiếp cận của công dân đối với hệ thống tư pháp bằng cách hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật để làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tư pháp và bảo đảm sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật: " Nghị quyết khẳng định tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật đều được xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật"[24]. Để công dân tiếp cận được hệ thống tư pháp, có thể tham gia vào một số hoạt động tư pháp Nghị quyết chỉ rõ: "Phải kiện toàn bộ máy cơ quan tư pháp... xây dựng đội ngũ thẩm phán, thư ký toà án... Công chứng viên, giám định viên, luật sư, có phẩm chất chính trị và đạo đức chí công vô tư có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng bảo đảm cho bộ máy trong sạch vững mạnh"[25].
Dựa trên cơ sở các chủ trương chính sách quan điểm của Đảng Quốc hội đã ban hành Bộ luật hình sự năm 1999. Bộ luật có 24 chương và 344 Điều. Trong đó tại Điều 1 đã khẳng định rõ công dân có nhiệm vụ đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, tức là đã cho phép công dân có quyền tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự, hoặc quy định các cơ quan công an, viện kiểm sát, toà án có trách nhiệm giúp đỡ, hướng dẫn công dân nhằm tăng cường sự tiếp cận của công dân trong hoạt động tư pháp như đấu tranh phòng chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng. Vấn đề này được nêu rõ tại Điều 4 của Bộ luật: Các cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Toà án, Tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn giúp đỡ "công dân đấu tranh phòng chống tội phạm, giám sát giáo dục người phạm tội tại cộng đồng".
Để bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không xử oan cho người vô tội, văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ đạo cải cách tư pháp để nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan Công an, Toà án, Viện kiểm sát "cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, sắp xếp lại hệ thống Toà án nhân dân phân định hợp lý thẩm quyền của Toà án nhân dân các cấp"[26].
Trong những năm gần đây, Đảng ta luôn luôn chú trọng tới vấn đề cải cách tư pháp để đảm bảo các quyền của công dân khi tham gia hoạt động tố tụng hình sự. Đảng đã chỉ đạo xây dựng chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong đó chú trọng đổi mới hoạt động xét xử, kiểm sát và điều tra Nghị quyết nhấn mạnh: "xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh dân chủ, nghiêm minh bảo vệ công lý và quyền con người, đẩy mạnh thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cải cách tư pháp khẩn trương đồng bộ, lấy hoạt động xét xử làm trọng tâm. Thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra"[27].
Với quan điểm xây dựng hệ thống tư pháp "dân chủ" bảo vệ "công lý và quyền con người" chính là những quan điểm chủ trương lớn của Đảng nhằm tăng cường sự tiếp cận của công dân đối với hệ thống tư pháp nói chung và tư pháp hình sự nói riêng.
Hiện nay vấn đề tham nhũng đang trở thành "quốc nạn". Các tội phạm tham nhũng phát triển mạnh đã ảnh hưởng lớn tới tình hình kinh tế, chính trị xã hội của đất nước và gây mất lòng tin của nhân dân. Chính vì vậy, trong 20 năm đổi mới vừa qua văn kiện Đại hội Đảng khoá nào cũng nhấn mạnh tới vấn đề phòng chống tham nhũng. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X không chỉ nhấn mạnh vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng, mà còn nhấn mạnh xây dựng cơ chế để tăng cường sự tiếp cận của công dân đấu tranh phòng chống loại tội này, đồng thời phải có biện pháp bảo vệ các công dân đã phát hiện, tố cáo các hành vi tham nhũng. Nghị quyết nêu rõ: " Xử lý nghiêm minh, kịp thời công khai cán bộ công chức tham nhũng... thiết lập cơ chế khuyến khích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng, đồng thời xử lý nghiêm những người bao che tham nhũng ngăn cản việc chống tham nhũng hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, ám hại người khác"[28].
Thể chế các quan điểm, chủ trương của Đảng năm 2003 Nhà nước ta đã ban hành bộ luật Tố tụng hình sự với các quy định và chính sách nhằm tăng cường sự tiếp cận của công dân đối với hệ thống tư pháp hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định việc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật. Không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội (Điều 5). Tại các Điều 6, Điều 7, Điều 8 của bộ luật đã quy định quyền bất khả xâm phạm về thân thể và quyền được bảo hộ tính mạng sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm tài sản của công dân. Thực hiện sự tiếp cận của công dân đối với hệ thống tư pháp dưới hình thức đại diện. Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định sự tham gia của hội thẩm nhân dân trong xét xử (Điều 15), Hội thẩm nhân dân chính là người đại diện cho nhân dân đã tiến hành tham gia xét xử các vụ án hình sự. Hội thẩm nhân dân cũng có quyền ngang với thẩm phán: "Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập chỉ tuân theo pháp luật". Để mọi người dân đều có thể tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự đã khẳng định: "Việc xét xử của Toà án được tiến hành công khai mọi người đều có quyền tham dự trừ những trường hợp do bộ luật này quy định".
Bộ luật Tố tụng hình sự đã có những quy định ưu việt để công dân khi tham gia tố tụng hình sự được quyền bình đẳng đưa ra chứng cứ tài liệu và tranh luận dân chủ trước phiên toà "bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước phiên toà" (Điều 19).
Điều 25 của Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định rõ quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, như có quyền và nghĩa vụ phát hiện và tố giác hành vi phạm tội, tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm. Điều luật cũng đã khẳng định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện để công dân tham gia các hoạt động tố tụng hình sự, phải trả lời về việc giải quyết các tin báo, tố giác tội phạm cho người đã tố giác. Với những quy định này cho thấy Nhà nước ta đã có nhiều quy định, nhiều chính sách để tạo điều kiện cho công dân tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cũng quy định rất cụ thể về cho phép công dân có quyền khiếu nại, tố cáo những việc làm sai trái pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Các cơ quan có thẩm quyền phải xem xét trả lời kịp thời các khiếu nại, tố cáo của công dân (Điều 31). Công dân có quyền giám sát gián tiếp các hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tố tụng bằng cách thông qua Mặt trận tổ quốc, các thành viên của mặt trận tổ quốc, đại biểu dân cử. Nếu phát hiện có sai trái thì cơ quan tố tụng phải trả lời những yêu cầu của các cơ quan là thành viên của mặt trận tổ quốc, hoặc đại biểu dân cử. Ngoài những quy định trên Bộ luật tố tụng hình sự còn có những quy định rất cụ thể như trong trường hợp phạm tội quả tang thì mọi công dân đều có quyền bắt giữ hoặc người làm chứng được mời tham gia hoạt động điều tra. Người chứng kiến có quyền nêu ý kiến của mình trong hoạt động tố tụng hình sự.
Có thể nói Bộ luật Tố tụng năm 2003 đã có nhiều quy định nhằm tăng cường khả năng tiếp cận của công dân trong hệ thống tư pháp hình sự, đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để cho việc tiếp cận của công dân đối với hệ thống tư pháp hình sự được triển khai trên thực tế.
Thực hiện chủ trương chung của Đảng về quản lý Nhà nước và xã hội bằng pháp luật, ngày 24/5/2003, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ-TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã đề cập nhiều vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nhưng trong đó Nghị quyết đặc biệt nhấn mạnh phải cải cách hệ thống tố tụng tư pháp để đảm bảo sự giám sát của công dân. Đối với hoạt động tư pháp; đảm bảo dân chủ công khai minh bạch trong tố tụng tư pháp: Nghị quyết số 48/NQ-TW khẳng định: "Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp, bảo đảm chất lượng tranh tụng tại phiên toà xét xử; lấy kết quả tranh tụng làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án".
Để bảo vệ quyền con người, nâng cao khả năng tiếp cận của công dân đối với các cơ quan Nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng, khắc phục những oan sai trong việc xét xử, xử lý những hành vi xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân. Nghị quyết số 48/NQ-TW nói trên đã nhấn mạnh: Hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, nhất là toà án trong việc bảo vệ các quyền đó; xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, khắc phục việc xử lý oan sai; khẩn trương ban hành luật bồi thường Nhà nước.
Có thể nói chưa lúc nào Đảng quan tâm tới quyền tiếp cận của công dân với các cơ quan Nhà nước, nói chung cũng như hệ thống cơ quan tư pháp hình sự như trong giai đoạn vừa qua; điều này được thể hiện qua quan điểm: "Hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của cơ quan dân cử, quyền trực tiếp giám sát, kiểm tra của công dân đối với các hoạt động của cơ quan, cán bộ công chức, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc của Nhà nước" (Nghị quyết 48/NQ-TW).
Khi nghiên cứu các quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về năng lực tiếp cận của công dân đối với hệ thống tư pháp hình sự thì cần đặc biệt chú ý Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong Nghị quyết đã nhấn mạnh phải có chính sách hình sự thích hợp để đề cao tính phòng ngừa tính tự cải tạo và tính hoàn lương trong việc giải quyết các vụ án hình sự: "Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục Tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội". Nghị quyết chỉ rõ là phải có cơ chế để công dân có thể tố giác tội phạm nhất là tội phạm tham nhũng có biện pháp bảo vệ và các hình thức khen thưởng đối với những công dân có thành tích trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và tham nhũng "Xây dựng cơ chế phát huy sức mạnh của nhân dân, cơ quan. Các tổ chức quần chúng trong phát hiện phòng ngừa tham nhũng, bảo vệ người trung thực phát hiện, tố cáo, người điều tra, truy tố xét xử hành vi tham nhũng, bảo vệ người trung thực, phát hiện, tố cáo, người điều tra, truy tố xét xử hành vi tham nhũng, khen thưởng người có công đấu tranh phòng chống tham nhũng". Nghị quyết luôn luôn nhấn mạnh vấn đề "công khai dân chủ" trong hoạt động tố tụng tại các phiên toà nói chung và trong các phiên toà hình sự nói riêng.
Để tăng cường sự tiếp cận của công dân đối với cơ quan tư pháp, Nghị quyết đã chỉ rõ phải tăng cường sự giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đối với cơ quan tư pháp bằng nhiều hình thức như thông qua hoạt động chất vấn tại các kỳ họp, thông qua hoạt động của đoàn đại biểu thông qua hoạt động tiếp xúc cử tri. "Đổi mới nâng cao chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn đối với hoạt động của cơ quan tư pháp tại kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Quốc hội và Hội đồng nhân dân nên có Nghị quyết riêng về hoạt động tư pháp sau khi nghe báo cáo và trả lời chất vấn".
Nghị quyết 49/NQ-TW cũng nhấn mạnh mối quan hệ giữa tăng cường khả năng tiếp cận của công dân đối với hệ thống tư pháp hình sự và hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp. Nghị quyết nêu rõ: " Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật; không ngừng nâng cao trình độ dân trí pháp lý, ý thức sống làm việc theo Hiến pháp và pháp luật".
Có thể nói trong 20 năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều quan điểm, chủ trương chính sách về hình sự về Tố tụng hình sự nhằm tăng cường sự tiếp cận của công dân đối với hệ thống tư pháp hình sự. Những quan điểm, những chính sách của Đảng và Nhà nước nêu trên là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp hình sự.
4.2. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC TIẾP CẬN CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ.
4.2.1. Những giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu qủa phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự.
Trong thời gian qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự chưa được tập trung đúng mức; trách nhiệm của các cấp, các ngành đối với công tác này chưa được xác định cụ thể, rõ ràng nên kết qủa đạt được còn thấp so với yêu cầu; sự hiểu biết pháp luật tư pháp hình sự của cán bộ và nhân dân còn nhiều hạn chế. Chỉ thị số 32 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ rõ: "Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần được tăng cường thường xuyên, liên tục và ở tầm cao hơn, nhằm làm cho cán bộ và nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, thông qua đó mà kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật".
Đối với phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự, trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng và hiệu qủa của công tác này, cần thực hiện tốt các biện pháp dưới đây:
Một là, tiếp tục xây dựng, củng cố, mở rộng lực lượng tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự.
Trong lực lượng cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự thì đội ngũ báo cáo viên ở các bộ, ngành, địa phương và tuyên truyền viên pháp luật ở các xã, phường, thị trấn đóng vai trò quan trọng nhất. Bởi thế cho nên, trước hết phải củng cố đội ngũ này về mọi mặt và nâng cao hiệu hoạt động của họ. Bên cạnh đó cũng cần kiện toàn tổ hoà giải ở các thôn, bản, tổ dân phố, cụm dân cư và nâng cao vai trò của các hoà giải viên trong việc tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự. Thời gian qua, lực lượng thanh niên tình nguyện và thanh niên xung kích có nhiều đóng góp quan trọng vào việc nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân và vận động nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, cho nên, trong thời gian tới, cần đưa nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự vào chương trình hành động của họ, đồng thời kịp thời khen thưởng, động viên họ bằng vật chất và tinh thần. Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật tư pháp hình sự nói riêng cho người lao động trong các doanh nghiệp, cần có những biện pháp tích cực khuyến khích, động viên cán bộ công đoàn trong các doanh nghiệp để họ phát huy hơn nữa vai trò của mình trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự cho người lao động.
Để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự ngày càng có chất lượng và hiệu qủa hơn, thì đối với lực lượng làm công tác này cần thường xuyên bồi dưỡng kiến thức pháp luật nói chung, pháp luật tư pháp hình sự nói riêng; nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự và cung cấp đủ tài liệu cần thiết.
Hai là, đa dạng hoá các hình thức thông tin, phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự theo hướng kịp thời, thuận tiện cho các đối tượng.
Trước hết phải tích cực phát huy và sử dụng có hiệu qủa tất cả các phương tiện thông tin đại chúng, các báo, tạp chí, tập san chuyên ngành; tăng thời lượng phát thanh, truyền hình, trang viết về pháp luật tư pháp hình sự, về gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến trong việc chấp hành pháp luật nói chung, pháp luật tư pháp hình sự nói riêng; nâng cao hơn nữa tính định hướng, hướng dẫn dư luận xã hội của báo chí khi phổ biến, thông tin pháp luật tư pháp hình sự; củng cố và sử dụng có hiệu qủa hệ thống truyền thanh cơ sở trong việc phổ biến, thông tin pháp luật tư pháp hình sự. Cần hoàn thành việc xây dựng tủ sách pháp luật ở 100% xã, phường, thị trấn và tiếp tục xây dựng, củng cố tủ sách pháp luật ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học. Phải nâng số lượng đầu sách pháp luật tư pháp hình sự trong các tủ sách pháp luật và có cơ chế quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, bảo đảm thuận tiện cho việc tìm hiểu pháp luật tư pháp hình sự của cán bộ và nhân dân. Việc đưa sách pháp luật tư pháp hình sự đến nhân dân cũng cần được đa dạng hoá về hình thức, đồng thời phải phối kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa tủ sách pháp luật với các loại hình đọc sách pháp luật tư pháp hình sự ở cơ sở như điểm bưu điện văn hoá xã, thư viện xã, tủ sách bộ đội biên phòng, túi sách pháp luật ở thôn, bản, cụm dân cư. Tiếp tục nâng cao chất lượng biên soạn, phát hành các loại tài liệu pháp luật tư pháp hình sự phù hợp với từng đối tượng; đẩy mạnh công tác biên dịch và xuất bản tài liệu pháp luật tư pháp hình sự bằng tiếng dân tộc thiểu số. Thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng, phổ biến nội dung pháp luật tư pháp hình sự theo chuyên đề, theo văn bản đã được ban hành và theo đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự. Tăng cường tổ chức các cuộc thi, hội thi tìm hiểu pháp luật tư pháp hình sự; giao lưu, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ có lồng ghép nội dung pháp luật tư pháp hình sự thiết thực, phù hợp với từng đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự. Đưa nội dung pháp luật tư pháp hình sự vào sinh hoạt của các tổ chức, đoàn thể, các câu lạc bộ, các hội nghề nghiệp. Khai thác có hiệu qủa các văn bản quy phạm pháp luật tư pháp hình sự được cập nhật, lưu trữ trên mạng tin học diện rộng của Chính phủ, mạng intenet. Xây dựng và đưa vào sử dụng rộng rãi các cơ sở dữ liệu pháp luật điện tử về tư pháp hình sự. Xây dựng và đưa vào thực hiện chương trình giải đáp pháp luật tư pháp hình sự qua mạng điện thoại.
Ba là, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập pháp luật tư pháp hình sự trong nhà trường ở các cấp học, bậc học.
Ở đây, cần chú ý thực hiện nghiêm túc nội dung giáo dục pháp luật tư pháp hình sự chính khoá; đẩy mạnh hoạt động ngoại khoá và có các hình thức phù hợp để học sinh, sinh viên được tham gia hoạt động xã hội, được tiếp cận, tìm hiểu các hoạt động xây dựng pháp luật tư pháp hình sự và tổ chức thực hiện pháp luật tư pháp hình sự; trang bị đủ sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo, giáo cụ trực quan, các phương tiện phục vụ việc giảng dạy và học tập pháp luật tư pháp hình sự trong các nhà trường; đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy pháp luật tư pháp hình sự trong các trường, lớp chuyên luật và không chuyên luật. Đối với các trường, lớp chuyên luật cần đặc biệt chú ý tới việc áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực có tác dụng kích thích tinh thần tự giác, chủ động, sáng tạo của người học như diễn án, nêu vấn đề (phương pháp tình huống), thảo luận và tranh luận theo chủ đề hoặc theo từng vụ việc hình sự cụ thể hay theo từng bản án hình sự cụ thể,v.v.
Bốn là, mở rộng và nâng cao chất lượng các loại hình tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý.
Mở rộng diện đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí về tư pháp hình sự. Theo khoản 1 Điều 4 Luật trợ giúp pháp lý ngày 29 - 6 - 2006, một trong những nguyên tắc trợ giúp pháp lý là "Không thu phí, lệ phí, thù lao từ người được trợ giúp pháp lý". Cũng theo Luật này, những người được trợ giúp pháp lý gồm người nghèo, người có công với cách mạng, ngưòi già cô đơn, ngưòi tàn tật, trẻ em không nơi nương tựa, người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (Điều 10). Việc mở rộng diện đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí về tư pháp hình sự là một trong những phương hướng mở rộng diện đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí nói chung, nhằm nâng cao dân trí pháp lý của người dân trong nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Ngoài ra, cần tăng cường các hình thức trợ giúp pháp lý lưu động về tư pháp hình sự phù hợp với điều kiện địa lý và trình độ dân trí của người dân trên từng địa bàn, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; phát triển các loại hình trợ giúp pháp lý tư pháp hình sự, tư vấn pháp luật tư pháp hình sự thuộc các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể để trợ giúp pháp lý tư pháp hình sự, phổ biến và giáo dục pháp luật tư pháp hình sự cho thành viên, hội viên; xây dựng và phát huy hiệu qủa mạng lưới tư vấn pháp luật tư pháp hình sự cho các doanh nghiệp; thựck hiện có hiệu qủa việc cung cấp thông tin pháp luật tư pháp hình sự, phổ biến và giáo dục pháp luật tư pháp hình sự thông qua hoạt động của các trung tâm tư vấn, trung tâm dịch vụ và giới thiệu việc làm, trung tâm hướng nghiệp cho thanh niên.
Năm là, thưỡng xuyên đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự.
Việc đổi mới này là tất yếu vì bản thân pháp luật tư pháp hình sự luôn thay đổi về nội dung và hình thức cho phù hợp với sự biến đổi của xã hội; nhu cầu, đòi hỏi của nhân dân đối với sự hiểu biết pháp luật tư pháp hình sự và trình độ dân trí của nhân dân ngày một nâng cao. Ví dụ: một trong những nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự là truyền đạt cho nhân dân những quy định pháp luật về cơ cấu, tổ chức các cơ quan tư pháp hình sự, nhưng khi phổ biến, giáo dục thì không chỉ nói lại nội dung các quy định pháp luật về cơ cấu tổ chức các cơ quan tư pháp hình sự mà còn nói thêm những ưu điểm, nhược điểm của cách thức tổ chức như vậy theo quy định của pháp luật và cả ưu, khuyết điểm trong hoạt động của từng loại cơ quan tư pháp hình sự hiện nay; nêu ra được những nguyên nhân cơ bản dẫn tới ưu, khuyết điểm đó và phương hướng, giải pháp khắc phục trong thời gian tới.
Sáu là, phân loại cụ thể các đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự căn cứ vào lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, trên cơ sở đó xây dựng nội dung và sử dụng các hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục phù hợp.
Chẳng hạn, đối với cán bộ làm việc trong các cơ quan tư pháp hình sự thì nội dung phổ biến, giáo dục phải bảo đảm được các yêu cầu: sâu sắc, đầy đủ, toàn diện và thiết thực đối với công việc hàng ngày của họ; đối với người học trong các trường chuyên luật thì ngoài những yêu cầu như sâu sắc, toàn diện, đầy đủ, thiết thực đối với công việc học tập, nghiên cứu, họ còn phải được trang bị đầy đủ các phương pháp tư duy, phương pháp giải quyết, tiếp cận những vấn đề cụ thể của pháp luật tư pháp hình sự, khả năng phân tích, đánh giá, nhận xét các sự kiện, hiện tượng xảy ra trong đời sống pháp luật tư pháp hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật đó.
Bảy là, thực hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ và thống nhất Đề án thứ thư của Chính phủ.
Việc thực hiện này nhằm các mục tiêu chung là phát huy vai trò của cơ quan và cán bộ tư pháp trong phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật tư pháp hình sự cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn trên cơ sở tăng cường năng lực phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự của cán bộ tư pháp, khai thác có hiệu qủa giáo dục pháp luật tư pháp hình sự của các hoạt động tư pháp, qua đó góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Bên cạnh đó còn có các mục tiêu cụ thể như: nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự, vận động nhân dân chấp hành pháp luật tư pháp hình sự của cán bộ các cơ quan tư pháp (phấn đấu đến năm 2010, 100% cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn được tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, trong đó có pháp luật tư pháp hình sự và nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật trong đó có pháp luật tư pháp hình sự); lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự phù hợp với đặc thù từng loại hoạt động tư pháp để phát huy tác dụng, hiệu qủa phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự của các hoạt động này khi thực hiện ở xã, phường, thị trấn; hình thành được cơ chế phối, kết hợp hiệu qủa giữa các cơ quan tư pháp và các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật tư pháp hình sự cho nhân dân ở xã, phường, thị trấn.
Tám là, tăng cường sự đầu tư của Nhà nước cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự.
Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của Thủ tướng Chính phủ quy định rằng phải bảo đảm kinh phí từ nguồn ngân sách thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo chế độ. Theo Thông tư số 63/2005 của Bộ tài chính, nguồn kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; kinh phí hoạt động của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thuộc cấp nào do ngân sách cấp đóbảo đảm và được tổng hợp vào dự toán ngân sách hàng năm của cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ; kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật tư pháp hình sự nói riêng phải được sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ và quy định tại Thông tư này. Dựa vào Thông tư số 63/2005, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự được chi theo 13 khoản. Một là, chi cho hoạt động của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp (gồm tổ chức các cuộc hội thảo, văn phòng phẩm và biên soạn tài liệu của Hội đồng; hoạt động chỉ đạo và kiểm tra; sơ kết, tổng kết, thi đua, khen thưởng). Hai là, chi cho thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng (gồm các báo, tạp chí, tập san, phát thanh truyền hình, thông tin lưu động, triển lãm chuyên đề); biên soạn, in, phát hành đề cương giới thiệu văn bản quy phạm pháp luật mới về tư pháp hình sự, các tài liệu, ấn phẩm phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự theo từng đối tượng; biên dịch, xuất bản, in và phát hành tài liệu pháp luật tư pháp hình sự bằn tiếng dân tộc; xây dựng trong trang Web về hỏi đáp pháp luật tư pháp hình sự. Ba là, chi xây dựng và củng cố tủ sách pháp luật tư pháp hình sự ở các cơ quan, đơn vị, trường học, xã, phường, thị trấn. Bốn là, chi tổ chức thu thập thông tin, tư liệu, lập hệ cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác giải đáp, phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự. Năm là, chi tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật tư pháp hình sự, thi hoà giải viên giỏi; giao lưu, sinh hoạt văn hoá có lồng ghép nội dung tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật tư pháp hình sự; xây dựng và duy trì hoạt động của các câu lạc bộ phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự. Sáu là, chi tổ chức các khoá bồi dưỡng, đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự ở các cấp, báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật tư pháp hình sự, hoà giải viên. Bảy là, chi tổ chức các hội nghị công tác viên; hội nghị tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự; triển khai kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự; thực hiện Chương trình, Đề án; các cuộc hội thảo khoa học để trao đổi nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự. Tám là, chi thù lao cho đội ngũ cộng tác viên tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự, gồm báo cáo viên, tuyên truyền viên. Chín là, chi cho công tác hoà giải ở cơ sở, gồm thù lao cho hoà giải viên; sơ kết, tổng kết các hoạt động hoà giải; thi đua, khen thưởng; mua tài liệu, văn phòng phẩm phục vụ hoà giải viên; in ấn các biểu mẫu, sổ sách báo cáo. Mười là, chi thực hiện các cuộc điều tra, khảo sát trong nước để thực hiện kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự và triển khai thực hiện các Đề án để được phê duyệt. Mười một là, chi cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự cho giáo viên và học sinh, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ giáo viên; biên soạn tài liệu tham khảo và hướng dẫn phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự; tổ chức các hoạt động hỗ trợ tìm hiểu pháp luật tư pháp hình sự trong nhà trường; xây dựng chương trình, rà soát cập nhật chương trình bài giảng; tổ chức các cuộc điều tra, khảo sát nhận thức pháp luật tư pháp hình sự của học sinh, sinh viên; điều tra, khảo sát việc thực hiện chương trình và sách giáo khoa môn giáo dục công dân và pháp luật tư pháp hình sự. Mười hai, chi cho sơ kết, tổng kết, thi đua, khen thưởng theo ngành, lĩnh vực, địa phương và toàn quốc về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự. Mười ba, chi cho quản, điều hành Chương trình, Đề án, gồm: xây dựng Chương trình, kế hoạch triển khai Chương trình, Đề án; chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thực hiện kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự; viết báo cáo tổng kết đánh giá thực hiện Chương trình, Đề án; bồi dưỡng làm đêm, làm thêm giờ; văn phòng phẩm, vật tư, trang thiết bị và các chi phí khác phục vụ trực tiếp hoạt động của bộ phận giúp việc của Chương trình, Đề án.
Trong đầu tư của Nhà nước, cần chú trọng đầu tư cho công tác đào tạo cán bộ phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự, cung cấp phương tiện vật chất - kỹ thuật cho phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự, xuất bản và phát hành tài liệu liên quan tới pháp luật tư pháp hình sự, thực hiện chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự,… Hiện nay, nhìn chung, Nhà nước còn chưa đào tạo được một đội ngũ chuyên làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật tư pháp hình sự nói riêng. Các cán bộ ít ỏi đang có thì vừa yếu về chuyên môn nghiệp vụ, vừa kém về kỹ năng nói, viết, diễn thuyết, nói chuyện,… Cần chú ý đầu tư hợp lý các phương tiện, điều kiện phục vụ phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự ở những vùng dân tộc ít người, miền núi, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; huy động sự tài trợ của các tổ chức nước ngoài, các nguồn lực của cộng đồng tham gia tích cực vào công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự, vận động chấp hành pháp luật tư pháp hình sự ở xã, phường, thị trấn.
Chín là, xã hội cần hỗ trợ đắc lực cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự theo hướng xã hội hóa công tác này.
Xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự được hiểu là sự huy động toàn bộ sức người, sức của cả xã hội cho việc đưa các quy định pháp luật tư pháp hình sự vào cuộc sống, tạo ra sự nhận thức chung, thống nhất của toàn xã hội về tính hữu ích của pháp luật tư pháp hình sự, trên cơ sở đó vận dụng có hiệu qủa các quy định pháp luật đó trong những trường hợp cụ thể của đời sống nhà nước và đời sống xã hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Mười là, cần thường xuyên tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự cho cán bộ và nhân dân và có chế độ khen thưởng kịp thời, hợp lý, thoả đáng cho cá nhân, tổ chức có nhiều đóng góp vào công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự.
Trong thời gian qua, việc tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự cho cán bộ, nhân dân, cũng như việc khen thưởng chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục, làm cho chất lượng và hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự bị hạn chế. Thực tế đã cho thấy nơi nào làm tốt việc tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thì nơi đó ít bị vấp váp về sau trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự, và ngược lại, thì mắc không ít khiếm khuyết, làm ảnh hưởng không tốt tới việc phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự trên phạm vi cả nước. Đồng thời, nơi nào, khi nào mà công tác khen thưởng được thực hiện kịp thời, thường xuyên, liên tục thì nơi đó, khi đó việc phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự được thực hiện có chất lượng và hiệu qủa cao, và ngược lại thì chất lượng và hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự không ngừng được nâng cao.
4.2.2. Giải thích pháp luật tư pháp hình sự.
Năng lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự ở nước ta còn phụ thuộc rất lớn vào tính đúng đắn và tính thống nhất trong nhận thức của nhân dân về pháp luật tư pháp hình sự. Điều này có ý nghĩa đặc biệt lớn lao đối với cán bộ các cơ quan tư pháp hình sự và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp hình sự. Trong thời gian qua, sở dĩ còn không ít hiện tượng vận dụng sai hoặc chưa thống nhất pháp luật tư pháp hình sự trong hoạt động của các cơ quan tố tụng hình sự, một phần là do sự nhận thức chưa đúng hoặc chưa thống nhất của cán bộ làm việc trong các cơ quan này. Ngoài ra, cũng còn khá nhiều người dân chưa hiểu đúng và hiểu không thống nhất pháp luật tư pháp hình sự, dẫn đến việc thực hiện pháp luật tư pháp hình sự không thống nhất.
Trước tình hình đó, để cho cán bộ và nhân dân nhận thức pháp luật tư pháp hình sự một cách đúng đắn và thống nhất thì cần đẩy mạnh hơn nữa việc giải thích pháp luật tư pháp hình sự.
Giải thích pháp luật tư pháp hình sự cho nhân dân là làm rõ nội dung và ý nghĩa của từng quy phạm pháp luật tư pháp hình sự, chế định pháp luật tư pháp hình sự, văn bản quy phạm pháp luật tư pháp hình sự về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp hình sự (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án, thi hành án); tội phạm và hình phạt; thủ tục và trình tự của việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự; các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp hình sự ở nước ta hiện nay;… nhằm để mọi người nhận thức và thực hiện pháp luật tư pháp hình sự một cách đúng đắn, thống nhất.
- Chủ thể giải thích pháp luật tư pháp hình sự bao gồm nhiều loại cá nhân, tổ chức. Đối với cá nhân, đó có thể là cán bộ, công chức nhà nước, cán bộ các tổ chức chính trị - xã hội, nhà khoa học, nhà giáo, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào khác khi họ có nhu cầu giải thích pháp luật tư pháp hình sự cho đối tượng nào đó, nhằm đạt được mục đích nhất định. Đối với tổ chức, đó có thể là cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội,…
- Đối tượng được giải thích pháp luật tư pháp hình sự là mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, giới tính, tuổi tác, tín ngưỡng tôn giáo, thành phần xã hội, nghề nghiệp, nơi cư trú, trình độ học vấn,…
- Giải thích pháp luật tư pháp hình sự được tiến hành dưới hai hình thức là giải thích không chính thức và giải thích chính thức. Cả hai hình thức này đều có ý nghĩa và tầm quan trọng như nhau, nhưng hình thức giải thích chính thức luôn luôn được đề cao và được đánh giá là hình thức giải thích pháp luật chính yếu.
Giải thích pháp luật tư pháp hình sự không chính thức là sự giải thích bằng văn nói hoặc văn viết của bất cứ cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước nào mà lời giải thích đó không có giá trị pháp lý bắt buộc phải thực hiện đối với đối tượng được giải thích. Ví dụ: sách hỏi - đáp các văn bản quy phạm pháp luật về tư pháp hình sự hoặc sách bình luận những văn bản quy phạm pháp luật về tư pháp hình sự (như Bình luận Bộ luật hình sự năm 1999, Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003), hay lời giải thích của chuyên gia pháp luật trên truyền hình, đài phát thanh, báo chí,… Mặc dù lời giải thích pháp luật tư pháp hình sự không chính thức không có ý nghĩa pháp lý bắt buộc phải thực hiện đối với đối tượng được giải thích, nhưng nó cũng có giá trị nhận thức to lớn, nhất là lời giải thích của các nhà khoa học pháp lý, các luật gia, các luật gia kiêm nhà thực tiễn áp dụng pháp luật.
Giải thích pháp luật tư pháp hình sự chính thức là sự giải thích bằng văn viết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức mà lời giải thích đó được ghi lại thành văn bản giải thích pháp luật chính thức và nó có giá trị pháp lý bắt buộc phải thực hiện đối với các đối tượng được giải thích (ví dụ: Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về giải thích Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
- Để giải thích pháp luật tư pháp hình sự có chất lượng và hiệu qủa cần áp dụng một số các phương pháp sau đây:
+ Phương pháp lịch sử - chính trị - xã hội. Phương pháp giải thích này được sử dụng để giải thích nội dung tư tưởng của quy phạm pháp luật tư pháp hình sự , chế định pháp luật tư pháp hình sự từ việc phân tích những điều kiện, hoàn cảnh về lịch sử, chính trị, xã hội mà trong đó sinh ra quy phạm pháp luật tư pháp hình sự, chế định pháp luật tư pháp hình sự, văn bản quy phạm pháp luật tư pháp hình sự luật được giải thích.
+ Phương pháp lôgíc. Phương pháp giải thích này được sử dụng để giải thích nội dung tư tưởng của quy phạm pháp luật tư pháp hình sự, chế định pháp luật tư pháp hình sự bằng cách suy đoán lôgíc khi lời văn của luật không thể hiện trực tiếp ý chí của Nhà nước.
+ Phương pháp ngôn ngữ, văn phạm. Phương pháp giải thích này được sử dụng để giải thích nội dung tư tưởng của quy phạm pháp luật tư pháp hình sự, chế định pháp luật tư pháp hình sự bằng cách làm rõ nghĩa từng chữ, từng từ, từng câu trong nội dung của mỗi quy phạm luật, chế định luật và phân tích mối liên hệ về mặt ngữ pháp giữa các chữ, các từ và các câu đó.
+ Phương pháp hệ thống. Phương pháp giải thích này được sử dụng để giải thích nội dung tư tưởng của quy phạm pháp luật tư pháp hình sự, chế định pháp luật tư pháp hình sự thông qua việc đối chiếu (so sánh) quy phạm pháp luật đó với các quy phạm pháp luật khác trong một chế định luật hoặc chế định luật đó với các chế định luật khác trong một ngành luật, đồng thời xác định vị trí của quy phạm pháp luật được giải thích trong chế định luật hoặc của chế định luật được giải thích trong ngành luật cũng như trong toàn bộ hệ thống pháp luật.
Trong thời gian tới, để nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu qủa của công tác giải thích pháp luật tư pháp hình sự cho cán bộ và nhân dân, theo chúng tôi, cần thực hiện tốt các biện pháp sau đây:
Một là, nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn nữa ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giải thích pháp luật tư pháp hình sự cho cán bộ và nhân dân, nhất là đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức và các nhà chuyên môn về pháp luật. Thời gian vừa qua, do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, nên công tác giải thích pháp luật tư pháp hình sự, nhất là giải thích chính thức chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến sự nhận thức chưa đúng đắn và chưa thống nhất của cán bộ và nhân dân về nhiều vấn đề của pháp luật tư pháp hình sự, như các khái niệm, cụm từ trong các điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác về tư pháp hình sự. Nguyên nhân sâu xa là do chúng ta nhận thức chưa hết giá trị to lớn của công tác giải thích pháp luật tư pháp hình sự.
Hai là, tăng cường hơn nữa công tác giải thích chính thức pháp luật tư pháp hình sự, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng năm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải thích pháp luật tư pháp hình sự chính thức. Công tác này cần được tiến hành kịp thời, thường xuyên với chất lượng và hiệu qủa cao. Thực tế thời gian qua cho thấy, công tác giải thích pháp luật tư pháp hình sự chính thức bị thụt lùi so với giải thích pháp luật tư pháp hình sự không chính thức, trong khi đó thì các cơ quan áp dụng thực tiễn pháp luật tư pháp hình sự lại đang rất cần loại giải thích này để vừa nhận thức pháp luật thống nhất, vừa áp dụng pháp luật thống nhất trong các cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật. Trong thời gian tới, chúng tôi kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức cần xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể từng năm về giải thích pháp luật chính thức và tổ chức quy củ hơn, chặt chẽ hơn việc triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch đó.
Ba là, đẩy mạnh hơn nữa công tác giải thích không chính thức pháp luật tư pháp hình sự của các nhà khoa học, các nhà giáo, các nhà thực tiễn áp dụng pháp luật tư pháp hình sự và các cá nhân, tổ chức khác với sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo và có hiệu qủa cao các phương pháp giải thích pháp luật. Thời gian qua, trên thị trường sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng đã xuất hiện nhiều loại sản phẩm của hoạt động giải thích không chính thức pháp luật tư pháp hình sự, phục vụ đắc lực cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, vận dụng pháp luật tư pháp hình sự của công chúng và được công chúng đánh giá cao. Tuy nhiên, nếu đi sâu vào từng loại hình sản phẩm đó thì vẫn thấy không ít nhược điểm, như phân tích, đánh giá, nhận xét chưa sâu sắc và toàn diện nội dung và hình thức của những quy phạm pháp luật tư pháp hình sự, chế định pháp luật tư pháp hình sự; chưa vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, hài hoà các phưong pháp giải thích pháp luật; hình thức nhiều loại sản phẩm trên thị trường chưa hấp dẫn người mua. Bởi vậy, trong thời gian tới, cần nâng cao hơn nữa chất lượng nội dung và chất lượng hình thức của tất cả các loại hình sản phẩm của giải thích không chính thức pháp luật tư pháp hình sự.
- Nhà nước đầu tư sức người, sức của nhiều hơn nữa cho công tác giải thích pháp luật tư pháp hình sự. Đối với giải thích chính thức pháp luật tư pháp hình sự thì quan trọng nhất là tổ chức tập trung được các chuyên gia pháp luật có uy tín để giúp cơ quan chức năng tiến hành giải thích phap sluật chính thức và có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với họ, cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi khác để cho họ làm việc. Đối với giải thích không chính thức pháp luật tư pháp hình sự, thì quan trọng nhất vẫn là đầu tư tài chính xứng đáng, hợp lý cho các đề tài nghiên cứu lý luận và thực tiễn của pháp luật tư pháp hình sự, các công trình bình luận các văn bản quy phạm pháp luật tư pháp hình sự tiêu biểu, quan trọng, đồng thời có chế độ thù lao xứng đáng cho những người tham gia các đề tài và các công trình đó. Bên cạnh đó, cũng cần tăng đầu tư của Nhà nước cho việc xuất bản, in ấn, phát hành các sách báo pháp lý; tăng tiền thù lao cho các tác giả viết, nói; khen thưởng kịp thời những công trình khoa học có giá trị cao về lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật tư pháp hình sự.
- Thường xuyên tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm công tác giải thích pháp luật tư pháp hình sự. Trách nhiệm này trước hết thuộc về các cơ quan có thẩm quyền giải thích chính thức pháp luật tư pháp hình sự và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan tới việc tổ chức giải thích không chính thức pháp luật tư pháp hình sự. Trong thời gian qua, các cơ quan này chưa dành sự quan tâm đúng mức cho công việc này, cho nên việc xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch giải thích pháp luật tư pháp hình sự gặp nhiều khó khăn, lúng túng, vì còn thiếu căn cứ thực tế. Trong thời gian tới, cần khắc phục tồn tại nêu trên và công khai hoá kết quả tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm công tác giải thích pháp luật tư pháp hình sự.
4.2.3. Những giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận của người tham gia tố tụng đối với các cơ quan tố tụng hình sự.
Thực tế thực hiện các quyền của những người tham gia tố tụng cho thấy rằng khả năng tiếp cận của những người tham gia tố tụng đối với các cơ quan tố tụng hình sự phải được đảm bảo bởi các quy định pháp luật, sự bình đẳng về quyền tiếp cận và trách nhiệm của các cơ quan tố tụng hình sự theo hướng công khai, dân chủ, nghiêm minh. Vì vậy, mục tiêu của việc nâng cao khả năng tiếp cận của những người tham gia tố tụng đối với các cơ quan tố tụng hình sự là hướng đến sự phán quyết công bằng, gia tăng quyền tiếp cận một cách bình đẳng đối với các cơ quan tố tụng hình sự. Các giải pháp cơ bản để thực hiện mục tiêu trên là:
Thứ nhất, khẩn trương tạo cơ sở pháp lý để thực hiện cơ chế tiếp cận thông tin cởi mở và minh bạch, chính xác, thuận lợi và rõ ràng cho quần chúng nhân dân, nhất là đối tượng tham gia tố tụng; mở rộng quyền của những người tham gia tố tụng trong việc tiếp cận các cơ quan tố tụng hình sự trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân; bảo đảm sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân; bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an tòan và bí mật tư tín, điện thoại, điện tín của công dân, đảm bảo quyền bào chữa, quyền tố cáo đối với những hành vi trái pháp luật. Cụ thể như:
+ Bổ sung quy định về người làm chứng, người giám định, người phiên dịch được quyền nhận các biên bản, quyết định tố tụng, bản án liên quan đến vụ việc được tham gia; quyền tranh luận tại phiên toà; được quyền kháng cáo, khiếu nại, tố cáo đối với các quyết định, hành vi của cơ quan, người tiến hành tố tụng hình sự; quyền được mời người bào chữa hay được hưởng sự trợ giúp của luật sư (ví dụ trong trường hợp người làm chứng có nhược điểm về thể chất, tinh thần, người làm chứng là vị thành niên); quyền được cơ quan, người tiến hành tố tụng giữ bí mật về đời tư và các quyền cơ bản khác (ví dụ: người làm chứng có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng giữ bí mật về đời tư để đảm bảo an toàn tính mạng); quyền được yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng nếu có căn cứ cho rằng người đó không vô tư khách quan trong khi làm nhiệm vụ; quyền được xem biên bản phiên toà, được bổ sung, sửa đổi biên bản làm việc với các cơ quan tiến hành tố tụng.
+ Do vai trò quan trọng của người làm chứng trong quá trình làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nên cần bổ sung quy định cho người làm chứng “quyền được trở thành người làm chứng” trong vụ án hình sự và được đảm bảo bởi các biện pháp tương ứng (đảm bảo chi phí đi lại và các chi phí khác theo quy định của pháp luật, khuyến khích vật chất đối với những người làm chứng có thái độ khai báo tích cực và cung cấp các thông tin có giá trị giúp cơ quan tố tụng nhanh chóng xác định tội phạm...) để khuyến khích công dân tiếp cận với các cơ quan tiến hành tố tụng, coi việc ra tòa làm chứng là nghĩa vụ đồng thời cũng là quyền của công dân, hạn chế việc phải triệu tập công dân với tư cách nhân chứng như hiện nay. Sửa đổi quy định tại Điều 135 BLTTHS trong trường hợp giao giấy triệu tập người làm chứng chưa đủ 16 tuổi là trẻ em lang thang, cơ nhỡ; trách nhiệm tạo điều kiện cho người làm chứng thực hiện nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức khi người làm chứng phải bỏ công việc để tham gia làm chứng trong vụ án hình sự trong khi Bộ luật lao động chỉ quy định thời gian hưởng nguyên lương là nghỉ phép, nghỉ thai sản...
+ Bổ sung quyền của bị can và những người tham gia tố tụng được cung cấp kết luận giám định nhằm xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan trưng cầu giám định (Điều 158 BLTTHS quy định nếu bị can, những người tham gia tố tụng yêu cầu thì cơ quan đã trưng cầu giám định phải thông báo cho họ về nội dung kết luận giám định; trong khi đó điều này cũng quy định bị can, những người tham gia tố tụng khác được trình bày những ý kiến của mình về kết luận giám định, yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại); quy định quyền của người làm chứng hoặc người bị hại được đưa ra yêu cầu giám định, lựa chọn cơ quan giám định, đề nghị giám định bổ sung hoặc giám định lại nhằm tránh cho người làm chứng, người bị hại phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 và Điều 308 của Bộ luật hình sự[29].
+ Cụ thể hoá các chế độ mà người tham gia tố tụng được hưởng theo quy định của pháp luật. Ví dụ như: các chi phí mà người làm chứng được thanh toán theo khoản 3, Điều 55 BLTTHS (chi phí đi lại, tiền lương, thu nhập bị mất trong thời gian đi làm chứng); bảo vệ người làm chứng, người giám định và những người thân của họ khi họ được triệu tập làm chứng hay trưng cầu giám định....
+ Quy định quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng khi thực hiện Điều 227 BLTTHS. Cụ thể là theo Điều 227 BLTTHS thì Hội đồng xét xử phải tuyên bố trả tự do ngay tại phiên toà cho bị cáo đang bị tạm giam khi bị cáo không có tội, nếu bị cáo không phạm tội khác. Vì vậy, trong trường hợp này nếu người bị hại yêu cầu khởi tố vụ án không đồng tình với bản án sơ thẩm thì họ có quyền kháng cáo không? Những bị cáo được tuyên bố trả tự do tại phiên toà sơ thẩm khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian bị cáo bị tạm giam thì tư cách của họ là gì khi tham gia phiên toà phúc thẩm, họ có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm không? (bởi vì về nguyên tắc họ đã chấp hành xong hình phạt tù nên không thể là bị cáo, cũng không phải là người bị kết án).
Thứ hai, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo cho những người tham gia tố tụng thực hiện tốt nhất các quyền tiếp cận theo quy định của pháp luật, góp phần hạn chế oan, sai trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Cần phải có những biện pháp cụ thể để nâng cao trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, quy định chặt chẽ trách nhiệm cá nhân và các căn cứ ngăn ngừa sự vi phạm quyền của công dân, khắc phục sự tuỳ tiện trong các hoạt động tố tụng hình sự (ví dụ hành vi gây khó khăn, cản trở luật sư tham gia tố tụng ngay từ giai đoạn điều tra hay tiếp xúc toàn bộ hồ sơ vụ việc; chỉ triệu tập những nhân chứng có khả năng cung cấp chứng cứ bất lợi cho bị can, không triệu tập nhân chứng có thể cung cấp chứng cứ có lợi cho bị can); tăng cường tính minh bạch của hoạt động xét xử theo hướng công khai các bản án, quyết định của Toà án để những người tham gia tố tụng nói riêng và công dân nói chung có thể biết và đánh giá, kiến nghị về kết quả xét xử của Toà án theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020.
4.2.4. Các kiến nghị nhằm tăng cường năng lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự.
Nghiên cứu những quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước về khả năng tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự là rất quan trọng, nhưng vấn đề là làm sao để những quan điểm, chính sách đó trở thành hiện thực lại càng quan trọng hơn, vì vậy chúng tôi muốn đưa ra một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, phải nâng cao trình độ năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức và những người làm việc trong hệ thống tư pháp hình sự. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Cán bộ là cái gốc của công việc, muôn sự thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Thấu suốt quan điểm này đòi hỏi những người làm việc trong hệ thống tư pháp hình sự phải có trình độ năng lực thực sự. Bởi vì có trình độ năng lực sẽ động viên khuyến khích và tạo điều kiện để công dân tham gia vào các hoạt động trong hệ thống tư pháp hình sự một cách đúng pháp luật. Đồng thời họ đủ trình độ để giải thích các quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân trong việc tham gia vào hệ thống tư pháp hình sự. Các cán bộ, công chức có phẩm chất "có tâm", thì họ sẽ nhiệt tình trong việc tuyên truyền giải thích và tạo điều kiện để công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Thứ hai, phải tiếp tục hoàn thiện các quan điểm, các chủ trương chính sách để làm sao các quan điểm, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tăng cường năng lực tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu thì mới dễ đi vào lòng người dân; Còn nếu các quan điểm các chính sách dài dòng, hoặc có những cụm từ khó hiểu thì sẽ rất khó khăn cho sự tiếp cận của công dân. Vì vậy cần phải tiến hành hệ thống hoá các quan điểm các chính sách của Đảng về sự tiếp cận của công dân đối với hệ thống tư pháp hình sự thành những cuốn sách để tuyên truyền cho nhân dân.
Đặc biệt nên tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật để tạo sự tiếp cận của công dân đối với hệ thống tư pháp hình sự, để công dân không ngại tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự, xem việc tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự là một công việc bình thường. Chẳng hạn cần bổ sung một số quy định như cho phép công dân không phải trả lời khi cơ quan công quyền hỏi, mà chưa có luật sư, người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình ở bên cạnh. Hoặc quy định cụ thể hơn về các biện pháp xử lý đối với cán bộ, công chức làm việc trong hệ thống cơ quan tư pháp hình sự không trả lời các khiếu nại, tố cáo của công dân.
Thứ ba, cần tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ quan trong hệ thống tư pháp hình sự, như Hội trường, phòng làm việc, các máy móc thiết bị như máy tính, máy phôtô, màn hình... để tạo điều kiện trong việc tiếp xúc, làm việc hay tuyên truyền phổ biến các chính sách quan điểm của Đảng về khả năng tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự cho công dân.
Cần phải đầu tư kinh phí cho các hoạt động này, để có những chi phí thích hợp cho các công dân tham gia vào các hoạt động tố tụng hình sự, hoặc triển khai các biện pháp khuyến khích, khen thưởng thì mới động viên được công dân tích cực tham gia tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự.
Có thể nói rằng trong những năm vừa qua Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều quan điểm, chính sách nhằm tăng cường năng lực tiếp cận của công dân đối với hệ thống tư pháp hình sự. Các quan điểm này đang từng bước được triển khai trong hoạt động của hệ thống của cơ quan tư pháp hình sự và ngày càng trở thành những hiện thực sinh động thể hiện tính ưu việt của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa. Vì vậy một vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục hoàn thiện tốt các quan điểm chính sách và đưa ra các quan điểm chính sách này vào trong đời sống thực tế của đất nước.
4.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC TIẾP CẬN CỦA CÁC NHÓM NHÂN DÂN ĐẶC THÙ ĐỐI VỚI HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ.
4.3.1. Nhóm doanh nghiệp.
Thương nhân là một nhóm đối tượng chiếm lực lượng khá đông chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống tư pháp hình sự nói riêng. Vì vậy, chúng ta cần quan tâm trang bị được cho nhóm đối tượng này một hành trang pháp lý nhất định thì không những chúng ta phòng ngừa được tội phạm mà còn tạo ra được một lực lượng hùng hậu giúp phòng chống tội phạm và giám sát việc thực hiện pháp luật của các thương nhân khác.
Bằng chính sự hiểu biết của mình thương nhân không những tự mình tránh xa con đường dẫn đến vi phạm mà còn tạo ra khả năng kiểm tra giám sát của thương nhân đối với hệ thống tư pháp hình sự mà đặc biệt là sự kiểm tra chéo của nhóm đối tượng này. Kiểm tra chéo là một biện pháp khá hữu hiệu vì trong thị trường cạnh tranh sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp phát hiện đối tác của mình vi phạm pháp luật - đây chính là hoạt động phát hiện tội phạm. Điều này giúp cho các cơ quan chức năng kịp thời xử lý những vi phạm pháp luật và còn tránh được nhiều hậu quả đáng tiếc xảy ra cho các doanh nghiệp.
Các hình thức nâng cao sự hiểu biết của giới thương nhân về pháp luật hình sự:
- Phổ cập giáo dục pháp luật về hình sự cho giới thương nhân trong các nhóm tội mà thương nhân thường mắc phải như trình bày ở trên. Việc phổ cập này có thể được tiến hành qua các phương tiện thông tin đại chúng hay các cuộc thi về tìm hiểu pháp luật hình sự trong giới thương nhân, có thể do các tổ chức xã nghề nghiệp, các hiệp hội nghề chuyên biệt tổ chức phù hợp với ngành nghề của mình. Ngoài ra các kênh tư vấn pháp luật trực tiếp qua điện thoại, website, mail của các công ty luật, văn phòng luật sư hay các tổ chức trợ giúp pháp lý cũng là một đóng góp quan trọng trong việc phổ cập pháp luật hình sự cho giới thương nhân.
- Các cơ quan tiến hành tố tụng cần hết sức thận trọng khi tiến hành các hoạt động nghiệp vụ đối với các vụ án điển hình về kinh tế trong giới thương nhân. Bởi vì bên cạnh việc thực thi các quy định của pháp luật hình sự còn cần phải hướng tới mục đích giáo dục và ngăn ngừa tội phạm. Qua đó thương nhân sẽ hiểu được các hành vi kinh doanh của mình đến giới hạn nào thì bị pháp luật hình sự điều chỉnh để tránh việc vi phạm pháp luật hình sự.
Nếu có sự hiểu biết nhất định về hệ thống tư pháp hình sự thì ngoài chức năng giám sát và kiểm tra chéo thương nhân còn tự bảo vệ được quyền của mình mỗi khi bị xâm phạm. Ví dụ, trong tình hình hiện nay, thực trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ trong thương nhân thường xảy ra rất nhiều nếu chúng ta có một khung pháp lý chặt chẽ và một hành trang pháp lý nhất định cho doanh nghiệp sẽ giảm bớt rất nhiều vi phạm đối với lĩnh vực này.
Nhà nước nên quan tâm để có chương trình hỗ trợ pháp luật cho các doanh nghiệp, tạo ra một sự phối hợp chặt chẽ giữa các thương nhân và các cơ quan công quyền nhằm tạo ra một mắt xích nhịp nhàng giữa nhà làm luật, những người nhân danh nhà nước thực thi pháp luật và người thực hiện pháp luật, có như thế mới hạn chế được vi phạm pháp luật do nhận thức pháp luật của họ.
- Huy động sự tham gia tích cực của các thương nhân tham gia vào quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Bởi lẽ, họ là những người trực tiếp chịu sự điều chỉnh của pháp luật nếu họ được tham gia xây dựng pháp luật thì họ sẽ giúp bổ sung những lỗ hổng của pháp luật, bổ sung những điều mà thực tế kinh doanh họ vấp phải nhưng các nhà làm luật lại chưa dự liệu được.
Việc tham gia của thương nhân còn có ý nghĩa về mặt chính trị giúp thương nhân thấy được tầm quan trọng của việc tìm hiểu và xây dựng pháp luật. Từ đó, không những bản thân họ có ý thức thực hiện pháp luật mà còn có ý thức hoàn thiện pháp luật. Điều này chúng ta có thể dễ dàng thực hiện bằng cách tăng cường, mở rộng thành phần Đại biểu Quốc hội là các thương nhân, đặc biệt là đại diện các doanh nghiệp lớn tham gia các kỳ họp của Quốc hội giúp cho các thương nhân có cơ hội đại diện cho giới nói lên tiếng nói của mình.
Cần phải chấn chỉnh lại hoạt động của một số cơ quan tiến hành tố tụng. Xu hướng gia tăng các tội phạm về kinh tế trong giới doanh nhân nhiều khi lại xuất phát từ nguyên nhân các cơ quan tiến hành tố tụng đã hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự hoặc là sự thiếu thống nhất giữa các cơ quan pháp luật trong việc xử lý các loại án cụ thể.
Tình trạng này đã và đang gây nên những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt trong đó đáng kể nhất là sự xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các thương nhân. Mặt khác tình trạng này làm cho nhận thức pháp luật của giới thương nhân bị hạn chế rất nhiều thậm chí làm họ hiểu sai về một số quy định của pháp luật, họ không tin tưởng vào việc thực thi pháp luật của các cơ quan công quyền hoặc tạo ra một tiền lệ không tốt trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh. Do đó cũng cần đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp cả về trình độ cũng như phẩm chất đạo đức. Ngoài ra, cần phải đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ND, Toà án nhân dân trong việc phân loại xử lý vi phạm pháp luật. Trong trường hợp có sự nghi ngờ tội phạm và vi phạm pháp luật khác thì phải tiếp tục điều tra làm rõ và thống nhất áp dụng pháp luật.
4.3.2. Nhóm trẻ em và đối tượng chính sách.
4.3.2.1. Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự bảo đảm quyền tiếp cận tư pháp hình sự đối với các đối tượng chính sách.
Như đã nêu ở trên, Bộ luật tố tụng hình sự không có các quy định áp dụng riêng đối với các đối tượng chính sách, ngoại trừ đối với đối tượng là người chưa thành niên. Chính vì vậy, trong phạm trong phần kiến nghị, chúng tôi xin đưa ra những kiến nghị đảm bảo quyền tiếp cận tư pháp hình sự đối với NCTN như sau:
- Về lâu dài pháp luật tố tụng hình sự nên có phần mục riêng dành cho đối tượng là người chưa thành niên trong đó quy định rõ những vấn đề liên quan đến họ, quyền và lợi ích, nghĩa vụ của họ trong quá trình tố tụng bao gồm cả việc thông báo về các quyền và vai trò của họ, phạm vi, thời gian và tiến trình của các thủ tục tố tụng. Trước mắt, trong quá trình ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành BLTTHS năm 2003 cần phải cân nhắc để quy định về việc gửi bản sao, quyết định đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ vụ án cho nạn nhân, cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp trong trường hợp nạn nhân là người chưa thành niên, Các quy định về bảo vệ nạn nhân, nhân chứng, bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của nạn nhân cũng cần phải được cụ thể hoá và hoàn thiện.
- Mặc dù BLTTHS năm 2003 đã có một số quy định có thể áp dụng để bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của trẻ em bị lạm dụng, tuy nhiên những quy định này chưa đủ để bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của các em một cách triệt để. Trong khi đó việc bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của nạn nhân bị lạm dụng là trẻ em có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc bảo đảm rằng các em sẽ không bị kẻ phạm tội đe doạ hay trả thù, đồng thời đối với một số tội phạm có tính nhạy cảm như hiếp dâm, cưỡng dâm... thì việc bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của các em trong qúa trình tố tụng là một biện pháp hết sức có ý nghĩa trong việc giúp các em xoá bỏ mặc cảm, tái hoà nhập cộng đồng và từ đó đảm bảo rằng các em đó sẽ được phát triển một cách lành mạnh, toàn diện cả về thể lực và trí lực. Do vậy, theo chúng tôi, trong tương lai BLTTHS năm 2003 sự cần được sửa đổi theo hướng tăng cường hơn nữa việc bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của trẻ em là nạn nhân trong quá trình tố tụng, mà cụ thể là cần quy định rõ việc bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của trẻ em là nạn nhân là bắt buộc trong các giai đoạn tố tụng, từ giai đoạn điều tra đến giai đoạn xét xử, tuyên án. Nhưng trước mắt, việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành BLTTHS năm 2003 là rất cần thiết, trong đó cần giải thích Điều 18 theo hướng quy định rõ trong trường hợp có yêu cầu của nạn nhân là trẻ em bị lạm dụng thì Toà án phải tiến hành xét xử kín. Nếu việc tuyên án công khai là cần thiết thì cần phải có biện pháp để bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của nạn nhân là trẻ em, chẳng hạn như khi tuyên án chỉ đọc phần đầu và phần cuối của bản án hoặc chỉ đọc những phần liên quan đến kẻ phạm tội mà không đọc tên, địa chỉ hoặc các thông tin khác liên quan đến nạn nhân bị lạm dụng là trẻ em. Đồng thời cũng cần phải quy định các biện pháp để bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của nạn nhân bị lạm dụng là trẻ em trong quá trình điều tra, truy tố, ví dụ như không nêu các thông số về nhận dạng của nạn nhân là trẻ em vào biên bản điều tra, tiến hành các biện pháp bảo đảm an toàn cho nạn nhân khi tham gia nhận dạng...
Về việc giữ bí mật đời tư và nhận dạng của trẻ em bị lạm dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng, cần phải có những quy định cụ thể, rõ ràng trong việc thông tin trên báo chí và trên các phương tiện thông tin đại chúng khác những vấn đề liên quan đến trẻ em, đặc biệt là trẻ em bị lạm dụng. Như đã giới thiệu ở trên, ngoài yêu cầu giữ bí mật về tên của người cung cấp thông tin nếu có hại cho người đó, Luật báo chí hiện hành không có quy định nào khác để bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của nạn nhân trẻ em bị lạm dụng. Thậm chí Luật Báo chí cho phép báo chí được đưa tin theo các nguồn của mình ngay cả trong trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng không cung cấp thông tin cho báo chí. Để tăng cường bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của trẻ em bị lạm dụng, trong tương lai cần sửa đồi Luật Báo chí theo hướng không cho phép các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp các thông tin về tên, tuổi, địa chỉ và các thông tin khác có thể dẫn đến việc nhận dạng trẻ em bị lạm dụng, cho dù nguồn thông tin là do cơ quan tiến hành tố tụng cung cấp hay do phương tiện thông tin đại chúng tự khai thác.
- Để bảo đảm việc bảo vệ an toàn cho nạn nhân, nhân chứng trong vụ án hình sự nói chung và nạn nhân bị lạm dụng, xâm hại là trẻ em nói riêng, cũng như thân nhân của họ, trước mắt cần phải ban hành Thông tư liên ngành hướng dẫn thi hành BLTTHS năm 2003 trong đó quy định cụ thể về việc bảo vệ nạn nhân trong vụ án hình sự, trong đó có nạn nhân là trẻ em bị lạm dụng, xâm hại nhân chứng và những người thân thích của họ. Thông tư liên ngành cần giải thích rõ đối tượng cần được bảo vệ an toàn bao gồm những ai và các biện pháp cụ thể để bảo vệ là gì, thủ tục yêu cầu bảo vệ và tài chính để thực hiện các biện pháp này…(các biện pháp có thể tiến hành ngay bao gồm tạo nơi trú ẩn an toàn trong trường hợp khẩn cấp tạm thời hoặc lâu dài; đưa người cần bảo vệ đi địa phương khác; cấm tiết lộ thông tin liên quan đến bí mật đời tư và nhận dạng của người cần được bảo vệ; thay đổi nhận dạng của người cần được bảo vệ. Một số biện pháp khác tuy chưa thể tiến hành được ngay do điều kiện tài chính hoặc do cần sửa đổi một số văn bản hiện hành có liên quan, tuy nhiên cũng cần được cân nhắc trong thời gian tới, bao gồm việc quy định các nguyên tắc về chứng cứ để cho phép sử dụng băng video ghi việc khai báo làm chứng cứ, sử dụng kết nối video, thông báo cho người được bảo vệ biết việc người phạm tội được trả tự do khỏi trại giam hoặc trại tạm giam). Bên cạnh đó, Thông tư liên ngành cũng cần quy định trách nhiệm của cơ quan điều tra trong việc thông báo cho nạn nhân bị lạm dụng là trẻ em thông qua cha mẹ hoặc thông qua người đại diện hợp pháp của nạn nhân trẻ em đó về quyền được bảo vệ của họ, về các biện pháp bảo vệ có thể được áp dụng, cũng như các thủ tục yêu cầu bảo vệ. Trong thời gian tới, BLTTHS năm 2003 cần được sửa đổi để ghi nhận quyền được yêu cầu bảo vệ an toàn về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của nạn nhân cúa tội phạm nói chung và nạn nhân bị lạm dụng là trẻ em nói riêng. Đồng thời, cũng cần sửa đổi Điều 55 khoản 3 BLTTHS năm 2003 để quy định quyền của nhân chứng được yêu cầu bảo vệ trong trường hợp thân nhân của họ bị đe doạ xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm.
Ngoài ra cũng cần nghiên cứu khả năng thiết lập một Chương trình Hỗ trợ nạn nhân để hỗ trợ nạn nhân là người chưa thành niên. Nhân viên của Chương trình này có thể bao gồm những người làm công tác xã hội và các nhà tâm lý học. Họ sẽ hỗ trợ kiểm sát viên và cảnh sát trong việc chuẩn bị cho nhân chứng và tiến hành các hoạt động tư vấn. Vai trò của chương trình này là thông tin cho các nạn nhân biết về tiến trình của vụ án, giúp nhân chứng làm quen với phòng xử án và tiến trình xét xử, thu xếp các cuộc gặp gỡ tiền xét xử với kiểm sát viên, tham dự phiên toà với tư cách là người hỗ trợ cho nạn nhân... Họ cũng cung cấp, chỉ dẫn cho nạn nhân về các vấn đề dịch vụ tư vấn, nhà tạm lánh, các dịch vụ hỗ trợ khác trước và sau xét xử. ở nhiều nước, Chương trình này hoạt động phối hợp với các tổ chức phi chính phủ có kinh nghiệm trong việc hoạt động trong lĩnh vực trẻ em khó khăn.
- Các cơ quan có chức năng cần đưa chương trình đào tạo chuyên biệt cho các cán bộ làm công tác tư pháp như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Luật sư và các nhân viên cảnh sát trong việc giải quyết các vụ án có nạn nhân bị lạm dụng là trẻ em vào chương trình đào tạo chuyên ngành cho các đối tượng này là hết sức cần thiết, đặc biệt cần chú trọng đào tạo những vấn đề như những kiến thức về các văn bản về quyền con người có liên quan, hiểu biết về ảnh hưởng, hậu quả và sang chấn của tội phạm đối với trẻ em; những kiến thức về biện pháp và kỹ năng đặc biệt để hỗ trợ nạn nhân hoặc nhân chứng là trẻ em bị lạm dụng trong hệ thống tư pháp hình sự; những kiến thức về các vấn đề nhạy cảm về giới cũng như về các nền văn hoá giao thoa; những hiểu biết và kỹ năng phỏng vấn để giảm thiểu sang chấn cho trẻ em là nạn nhân bị lạm dụng mà vẫn có thể nắm bắt tối đa lượng thông tin từ trẻ một cách có hiệu quả ... và từ đó họ có thể nắm bắt được các nhu cầu chính đáng của nạn nhân bị lạm dụng là trẻ em để có thể đưa ra những trợ giúp hoặc những hướng giải quyết thích hợp và nhanh chóng. Trước tiên, các Bộ, ngành chủ quản như Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Toà án nhân dân Tối cao cần phải phối hợp trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình đào tạo trong đó bao gồm cả việc đào tạo chuyên biệt về việc giải quyết các vụ án mà nạn nhân là trẻ em cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Luật sư.
Về lâu dài, BLTTHS năm 2003 việc tiến hành các hoạt động tố tụng đối với các vụ án có người chưa thành niên là nạn nhân cần được xấy dựng thành một Chương riêng, trong dó quy định các trình tự thủ tục đặc biệt từ cán bộ điều tra, kiểm sát viên, thẩm phán tiến hành tố tụng phải có kỹ năng và kiến thức tâm lý về người chưa thành niên, việc phỏng vấn, lấy lời khai đối với đối tượng này cũng phải được tiến hành theo cách thức riêng và thực hiện ở nơi kín, khả năng cho phép sử dụng băng video ghi lời khai của trẻ em và xuất trình trước toà án như bằng chứng, sử dụng tivi mạch kín, sử dụng màn chắn, hay không cho công chúng tham dự phiên toà, không cho phép đối chất trực tiếp giữa bị cáo và nạn nhân là trẻ em, không cho các phương tiện thông tin đại chúng tham dự phiên toà. Riêng quy định tại Điều 18 về xét xử kín, về lâu dài theo chúng tôi cần sửa theo hướng cho phép xét xử kín đối với tất cả các vụ án có nạn nhân là trẻ em theo yêu cầu của đương sự hoặc của gia đình các em. Bên cạnh đó, pháp luật tố tụng hình sự cũng phải có quy định về việc ưu tiên xử lý các vụ án có liên quan đến trẻ em là nạn nhân, để bảo đảm cho các vụ án đó được giải quyết nhanh chóng, tránh trì hoãn không cần thiết trong tất cả các giai đoạn của quá trình truy tố.
- Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, người chưa thành niên có thể nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân trợ giúp, bảo vệ quyền lợi cho mình, tuy nhiên, không phải người nào cũng có đủ điều kiện để thuê luật sư tư vấn để bảo vệ quyền và lợi ích của mình tại phiên toà. Để tăng cường trợ giúp nạn nhân của tội phạm là người chưa thành niên, cần cân nhắc để đưa các đối tượng này vào diện được hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí. Với tư cách là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong công tác trợ giúp pháp lý, trước mắt Bộ Tư pháp cần ban hành thông tư hướng dẫn việc trợ giúp, tư vấn pháp lý cho các đối tượng là người chưa thành niên để họ có thể được cung cấp đầy đủ các thông tin như: các hình thức giúp đỡ sẵn có dành cho họ như các dịch vụ xã hội, y tế, nhà tạm lánh, tư vấn, bảo vệ thể chất...; thông tin về các biện pháp bảo vệ đời tư và đảm bảo an toàn; vai trò, quyền và nghĩa vụ của họ trong quá trình tố tụng, thủ tục yêu cầu bảo vệ, quyền được bồi thường. Đồng thời, để có thể đảm bảo sự tham gia của nạn nhân vào quá trình tố tụng cũng cần có thông tư quy định trách nhiệm của cán bộ thực thi pháp luật trong việc cung cấp những thông tin và hỗ trợ cần thiết một cách sớm nhất và chỉ dẫn họ liên hệ với các cơ quan nhà nước hay địa phương có thể hỗ trợ họ.
Việc thành lập Chương trình hỗ trợ nạn nhân như đã kiến nghị ở trên thực sự cần thiết và quan trọng hơn để thực hiện việc tư vấn và trợ giúp cho nạn nhân là người chưa thành niên.
Về lâu dài, như các phần ở trên đã đề cập BLTTHS năm 2003 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng cần có một phần quy định về người chưa thành niên là nạn nhân trong tố tụng hình sự trong đó bao gồm cả các quy định về vấn đề tư vấn và trợ giúp.
Pháp luật cũng chưa có những quy định đặc biệt để bảo đảm tính riêng tư của việc thẩm vấn trẻ em và tạo cho trẻ em môi trường thoải mái khi được thẩm vấn, chẳng hạn như quy định về địa điểm thẩm vấn, cách bài trí của phòng thẩm vấn. Phương pháp thẩm vấn trẻ em như cách đặt câu hỏi, việc sử dụng các biện pháp hỗ trợ để thẩm vấn, việc ghi hình buổi thẩm vấn và quy chế sử dụng băng ghi hình buổi thẩm vấn... cũng chưa được đề cập trong pháp luật. Các quy định về đối chất, nhận dạng cũng chưa chú trọng đến việc bảo vệ nạn nhân và nhân chứng là trẻ em. Pháp luật cũng còn thiếu các quy định để tạo thuận lợi cho trẻ em là nạn nhân hoặc nhân chứng trong vụ án hình sự đưa ra lời khai trước toà. Các quy định về bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của trẻ em là nạn nhân hoặc nhân chứng trong vụ án hình sự cũng còn nhiều hạn chế. Trong tương lai, những khiếm khuyết trên cần nhanh chóng được khắc phục để tạo ra một thủ tục điều tra và xét xử phù hợp đối với những trẻ em là nạn nhân hoặc nhân chứng trong vụ án hình sự, tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích của các em này trong tố tụng hình sự
4.3.2.2. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách trợ giúp của Nhà nước đối với các đối tượng chính sách nhằm bảo đảm quyền tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự.
Hiện nay, Luật trợ giúp pháp lý có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn cho đến nay vẫn chưa được ban hành đày đủ. Vì vậy, để khắc phục những khó khăn bất cập trong quá trình trợ giúp pháp lý như đã đề cập ở trên, chóng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau:
- Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần nhanh chóng ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng.
- Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có cơ chế quy định thống nhất việc cấp Sổ hộ nghèo trong toàn quốc, tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo không chỉ thuận lợi khi có yêu cầu trợ giúp pháp lý mà còn thuận lợi trong việc vay vốn, khám chữa bệnh…
- Có cơ chế quy định các cơ quan nhận được kiến nghị của tổ chức trợ giúp pháp lý phải trả lời đúng thời gian quy định (trong thời hạn 30 ngày) để tổ chức trợ giúp pháp lý có cơ sở trả lời cho đối tượng trợ giúp pháp lý…
4.3.2.3. Nhóm đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa...
Đảng và Nhà nước ta nhận thức rõ được những ưu thế tiềm năng cũng như những khó khăn thách thức đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã và đang thực thi nhiều giải pháp thúc đẩy nhịp độ phát triển kinh tế xã hội và giải quyết những vấn đề bức xúc ở những vùng này. Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Bên cạnh những giải pháp phát triển kinh tế nâng cao đời sống cho nhân dân ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, Đảng và Nhà nước ta đang triển khai nhiều chính sách xã hội như giáo dục đào tạo nâng cao dân trí, chăm lo sức khoẻ cộng đồng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc tuyên truyền phổ biến pháp luật, nhất là chính sách hình sự. Do đó, vấn đề tuyên truyền phổ biến được hệ thống tư pháp hình sự đến được với người dân vùng núi, vùng sâu, vùng xa cần phải có các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần phải nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng vùng, miền. Ví dụ: đối với những vùng núi, vùng sâu, vùng xa điều kiện phát triển kinh tế chủ yếu bằng nông nghiệp, lâm nghiệp; hoạt động văn hoá, xã hội vẫn mang tính chất hủ tục, lạc hậu, thói quen sinh hoạt được duy trì qua nhiều thế hệ thì việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tư pháp hình sự nên theo các chương về Tội liên quan đến hôn nhân và gia đình; tội liên quan đến an ninh, trật tự; tội liên quan đến sở hữu; tội liên quan đến ma tuý và áp dụng xét xử lưu động là chủ yếu… Còn đối với những vùng núi, vùng sâu, vùng xa thì ngoài việc phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp mà những vùng này còn phát triển kinh tế hàng hoá, buôn bán vì nằm ở những vùng biên, nơi có nhiều cửa khẩu thì cần phổ biến, giáo dục pháp luật đối với những tội liên quan đến an ninh trật tự; tội liên quan đến hôn nhân và gia đình; tội liên quan đến sở hữu; tội liên quan đến ma tuý; tội liên quan đến buôn lậu; tội liên quan đến buôn bán phụ nữ, trẻ em… và cũng áp dụng việc xét xử lưu động ;
Thứ hai, xây dựng lực lượng cán bộ làm công tác truyền thông ở cơ sở, đội ngũ báo cáo viên trực tiếp phổ biến đến bà con dân tộc, tốt nhất nên là người địa phương, tại chỗ. Lưu ý khuyến khích động viên những người có uy tín trong cộng đồng (già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ) tham gia việc phổ biến giáo dục pháp luật. Cần biên soạn tài liệu phổ biến giáo dục pháp luật phù hợp với đối tượng, theo hướng “đơn giản, dễ hiểu”, thậm chí phải dịch sang tiếng dân tộc ở một số vùng đồng bào ít biết tiếng phổ thông. Khi phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa, cần liên hệ đối chiếu, so sánh giữa Luật pháp Nhà nước với Luật tục nhằm mục đích phát huy phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp, loại bỏ hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan... đi đôi với việc làm theo luật, làm đúng luật.
Thứ ba, phối hợp lồng ghép công tác phổ biến giáo dục pháp luật tư pháp hình sự với các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể thao trong các dịp lễ hội, phiên chợ vùng cao, sinh hoạt văn hoá nhà Rông Tây Nguyên, văn hoá Nhà Chùa ở vùng đồng bào dân tộc Khmer... Kết hợp và phát huy tác dụng các loại hình: Nhà Bưu điện-Văn hoá xã, Nhà Văn hoá thôn bản, Tủ sách pháp luật ở xã, Báo chí phát không thu tiền theo Quyết định 975 của Thủ tướng Chính phủ đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Trung tâm học tập cộng đồng ở xã, phường, thị trấn... trong quá trình thực hiện công tác phổ biến giáo dục pháp luật.
Thư tư, phối hợp các hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật tư pháp hình sự với việc thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hoá”, thực hiện “Quy chế dân chủ ở cơ sở” và “Xây dựng xã hội học tập”. Sự phối hợp có thể trên nhiều mặt, trước hết với một số nội dung: Thống nhất một số tiêu chuẩn, tiêu chí chung đối với cả 4 hoạt động (ví dụ: Khu phố văn hoá, gia đình văn hoá thì ở đó cũng đồng thời là thường xuyên học tập và chấp hành pháp luật, làm tốt công tác phổ biến giáo dục pháp luật; phát huy quyền làm chủ ở cơ sở của mọi người dân; nơi có nhiều gia đình hiếu học, làm tốt phong trào khuyến học khuyến tài).
Thứ năm, thực hiện có hiệu quả việc“Nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa, đồng bào vùng biên giới” với 7 nội dung chính: (1) Phổ biến giáo dục pháp luật đối với đồng bào các dân tộc thiểu số (2) Phổ biến giáo dục pháp luật đối với đồng bào vùng biên giới (3) Phổ biến giáo dục pháp luật đối với cán bộ chính quyền cơ sở vùng dân tộc và biên giới (4) Phổ biến giáo dục pháp luật đối với các tổ chức xã hội vùng dân tộc và biên giới (5) Phổ biến giáo dục pháp luật đối với thanh thiếu niên vùng dân tộc và biên giới (6) Phổ biến giáo dục pháp luật đối với cán bộ, công chức công tác ở vùng dân tộc và biên giới (7) Phổ biến giáo dục pháp luật đối với các tổ chức Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân và Hội Liên hiệp Phụ nữ ở vùng dân tộc và biên giới. Mục đích nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa, đồng bào vùng biên giới là: Xây dựng các mô hình phổ biến giáo dục pháp luật có hiệu quả, góp phần nâng cao nhận thức hiểu biết pháp luật cho mọi đối tượng ở vùng dân tộc và biên giới; tổng kết đánh giá thực trạng và kết quả công tác phổ biến giáo dục pháp luật vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, nghiên cứu đề xuất giải pháp, mô hình phổ biến giáo dục pháp luật có hiệu quả, góp phần tạo chuyển biến căn bản về ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của mỗi thành viên trong xã hội.
Thứ sáu, tăng cường kinh phí cho việc thực hiện chương trình phát thanh, truyền hình và làm băng hình tiếng dân tộc ở địa phương đưa xuống tận xã, làng;
Thứ bảy, tăng thời lượng phát sóng truyền thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc trong vùng; hỗ trợ kinh phí để tăng cường các đoàn nghệ thuật, các đội xung kích điện ảnh phục vụ cho đồng bào dân tộc, nhất là vùng sâu, vùng cao, vùng biên giới.
+ Chương trình phủ sóng truyền hình cho vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa;
+ Chương trình phủ sóng truyền thanh cho miền núi;
+ Chương trình giáo dục cho vùng dân tộc với hệ thống các nhà trường trong đó nổi bật là hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú.
Giải quyết khả năng tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự của nhân dân vùng núi, vùng sâu, vùng xa là một việc làm khó khăn, đòi hỏi mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong việc tuyên truyền phổ biến cần phải nghiên cứu, định hướng và đưa ra những kế hoạch cụ thể, chi tiết những vấn đề chủ yếu liên quan đến nhân dân ở các vùng này và có những hình thức tuyên truyền, phổ biến đạt hiệu quả cao nhất, đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Tài liệu nghiên cứu các Nghị quyết Hội nghị Trung ương khoá IX, Nxb, Chính trị Quốc gia, H 2003.
2. Đề tài cấp bộ 2003 "Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam: Thực trạng, nhu cầu và định hướng phát triển" - Bộ Tư pháp;
3. Đề tài cấp bộ 2004 "Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự 2003" - Chủ nhiệm: TS. Phạm Văn Lợi – Phó Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý;
4. Đề tài cấp bộ 2005 "Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" - Chủ nhiệm: TS. Phạm Văn Lợi – Phó Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý;
5. Đề tài khoa học cấp nhà nước năm 2006 KX.04.06 “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” - Chủ nhiệm: TS. Uông Chu Lưu - Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
6. GS.TSKH Đào Trí Úc: "Cải cách tư pháp hình sự và vấn đề phòng, chống oan, sai" – Tạp chí Nhà nước & Pháp luật số 4/2005;
7. Hội thảo khoa học năm 2003 "Những yêu cầu và điều kiện bảo đảm cho luật sư tranh tụng bình đẳng trước Toà theo yêu cầu của cải cách tư pháp" - Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.
8. Hội thảo khoa học năm 2003 "Vai trò của thực tiễn xét xử trong việc hoàn thiện và áp dụng thống nhất pháp luật" - Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.
9. Luận án Tiến sĩ luật học: "Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay" - Nguyễn Huy Hoàn, Hà Nội, 2004.
10. Montesquieu. Tinh thần pháp luật. NXB. Giáo dục, Hà Nội, 1996.
11. Nguyễn Thị Minh: Vì sao luật sư chưa phát huy hết vai trò của mình trong hoạt động tố tụng hình sự, Tạp chí Pháp luật và phát triển, số 1/2006.
12. TS. Khuất Văn Nga: "Hệ thống tư pháp hình sự Italia" – Tạp chí kiểm sát số 10/1998.
13. Từ điển luật học - Nxb Từ điển bách khoa và Nxb Tư pháp năm 2006.
14. Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Năng năm 1998.
15. Từ điển triết học. NXB. Tiến bộ, Matxcova, 1975.
16. Tuyên bố của Hội nghị nhân quyền thế giới tại Viên ngày 25/6/1993.
17. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb chính trị quốc gia 1996
18. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX Nxb CCQG năm 2001
19. Văn kiện nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb CCQG năm 2006.
20. Albert Currie, Principal Researcher for Access to Justice and Legal Aid: Rethinking Criminal Legal Aid within an Access to Justice Framework (Suy nghĩ lại vấn đề trợ giúp pháp lý hình sự trong khuôn khổ tiếp cận công lý) – đăng trên website của Bộ Tư pháp Canada: http://www.justice.gc.ca/en/ps/rs/rep/2003/rr03-5/rr03-5_01.html.
21. D.Wall, “Legal aid, social policy, and the architecture of criminal justice: the supplier induced inflation thesis and legal aid policy” (1996) Journal of Law and Society 23:4 at 549.
22. J. Stein, The Future of Social Justice in Britain: A new mission for the Community Legal Service, (London: Centre for the Analysis of Social Exclusion, London School of Economics, 2001).
23. L.Bridges, “The reform of criminal legal aid” in Young & Wall, eds., Access to Criminal Justice: Legal Aid, Lawyers and the Defence of Liberty (W.M. Gaunt & Sons, 1992).
24. Leo Milonas, “Ethics, Access to Justice and Pro Bono Work: The U.S. Legal Profession”, http://www.abcny.org/VanceCenter/PDF/probono
25. M. Mears, “Advantages from Adversity” Law Society Gazette 91 (1994).
26. S.Yarrow, “Access to Justice: Consumers and Conditional Fees” (2000) 10:3 Civil Policy Review 86-91.
27. Sherr, et al, “Lawyers – the Quality Agenda” 1 (1994), London: HMSO.
28. Steve Orchard and Aoife O’ Grady, “Development of legal services policies in England and Wales, 1989-2002”, in Julia Bass, W.A. Bogart, and Frederick H. Zemans (ed.), Access to Justice for a new century – the way forward, The Law Society of Upper Canada, 2005, p.177-196.
29. Survey from a people perspective access to justice in Vietnam – UNDP, Hanoi, 2004.
30. U.K., Policy Studies Institute, Fast, Friendly and Expert? Legal Aid Franchising in Advice Agencies without Solicitors by J. Steele & G. Bull (London: Policy Studies Institute, 1996).
[1] Từ điển triết học. NXB. Tiến bộ, Matxcova, 1975, Tr.401.
[2] Xem. Montesquieu. Tinh thần pháp luật. NXB. Giáo dục, Hà Nội, 1996, Tr. 102-109.
[3] Ví dụ: Không một người nào bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm mà một bản án có hiệu lực pháp luật đã tuyên hoặc về tội phạm mà người đó đã được tuyên trắng án phù hợp với pháp luật và tố tụng hình sự của mỗi nước.
[4] Tuyên bố của Hội nghị nhân quyền thế giới tại Viên ngày 25/6/1993.
[5] Từ điển luật học - Nxb Từ điển bách khoa và Nxb Tư pháp năm 2006, tr. 828, 829.
[6] Báo cáo tóm tắt Đề tài khoa học cấp nhà nước năm 2006 KX.04.06 “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” do TS. Uông Chu Lưu làm chủ nhiệm, tr.12.
[7] Xem: Chẳng hạn như, Củng cố pháp chế và đấu tranh chống tội phạm… (Sách đã dẫn); Tư pháp hình sự: Những khía cạnh hợp tác quốc tế… (Sách đã dẫn); Các nghiên cứu tội phạm học trên thế giới... (Sách đã dẫn); Gutxenkô K.Ph., Kôvalev M.A. Các cơ quan bảo vệ pháp luật… (Sách đã dẫn); Xavitxki V.M. Tổ chức quyền tư pháp ở Liên Bang Nga… (Sách đã dẫn); Insakôv X.M. Tội phạm học nước ngoài… (Sách đã dẫn); Tkatrevxki Iu.M. Hệ thống tiến bộ của việc thi hàn hình phạt… (Sách đã dẫn); Krưlôva N.E., Xerebrennhikôva A.V. Luật hình sự của các nước ngoài đương đại… (Sách đã dẫn); Lukasuk I.I., Haumôv A.V. Dẫn độ các bị cáo và những người bị kết án trong luật hình sự quốc tế… (Sách đã dẫn); Chỉ dẫn về công tác công tố. Hiệp hội Công tố viên quốc tế… (Sách đã dẫn); Xét xử hình sự tại Hoa Kỳ… (Sách đã dẫn); Milintruk V.V. Chế định tương trợ tư pháp đối với các vụ án hình sự… (Sách đã dẫn); Luật hình sự trong thế kỷ XXI… (Sách đã dẫn); Trunôv I.L. Bảo vệ các quyền cá nhân trong tố tụng hình sự… (Sách đã dẫn); v.v…
[8] Xem: Chẳng hạn như, Củng cố pháp chế và đấu tranh chống tội phạm… (Sách đã dẫn); Tư pháp hình sự: Những khía cạnh hợp tác quốc tế… (Sách đã dẫn); Các nghiên cứu tội phạm học trên thế giới... (Sách đã dẫn); Gutxenkô K.Ph., Kôvalev M.A. Các cơ quan bảo vệ pháp luật… (Sách đã dẫn); Xavitxki V.M. Tổ chức quyền tư pháp ở Liên Bang Nga… (Sách đã dẫn); Insakôv X.M. Tội phạm học nước ngoài… (Sách đã dẫn); Tkatrevxki Iu.M. Hệ thống tiến bộ của việc thi hàn hình phạt… (Sách đã dẫn); Krưlôva N.E., Xerebrennhikôva A.V. Luật hình sự của các nước ngoài đương đại… (Sách đã dẫn); Lukasuk I.I., Haumôv A.V. Dẫn độ các bị cáo và những người bị kết án trong luật hình sự quốc tế… (Sách đã dẫn); Chỉ dẫn về công tác công tố. Hiệp hội Công tố viên quốc tế… (Sách đã dẫn); Xét xử hình sự tại Hoa Kỳ… (Sách đã dẫn); Milintruk V.V. Chế định tương trợ tư pháp đối với các vụ án hình sự… (Sách đã dẫn); Luật hình sự trong thế kỷ XXI… (Sách đã dẫn); Trunôv I.L. Bảo vệ các quyền cá nhân trong tố tụng hình sự… (Sách đã dẫn); v.v…
[9] Xem: Chẳng hạn như, Củng cố pháp chế và đấu tranh chống tội phạm… (Sách đã dẫn); Tư pháp hình sự: Những khía cạnh hợp tác quốc tế… (Sách đã dẫn); Các nghiên cứu tội phạm học trên thế giới... (Sách đã dẫn); Gutxenkô K.Ph., Kôvalev M.A. Các cơ quan bảo vệ pháp luật… (Sách đã dẫn); Xavitxki V.M. Tổ chức quyền tư pháp ở Liên Bang Nga… (Sách đã dẫn); Insakôv X.M. Tội phạm học nước ngoài… (Sách đã dẫn); Tkatrevxki Iu.M. Hệ thống tiến bộ của việc thi hàn hình phạt… (Sách đã dẫn); Krưlôva N.E., Xerebrennhikôva A.V. Luật hình sự của các nước ngoài đương đại… (Sách đã dẫn); Lukasuk I.I., Haumôv A.V. Dẫn độ các bị cáo và những người bị kết án trong luật hình sự quốc tế… (Sách đã dẫn); Chỉ dẫn về công tác công tố. Hiệp hội Công tố viên quốc tế… (Sách đã dẫn); Xét xử hình sự tại Hoa Kỳ… (Sách đã dẫn); Milintruk V.V. Chế định tương trợ tư pháp đối với các vụ án hình sự… (Sách đã dẫn); Luật hình sự trong thế kỷ XXI… (Sách đã dẫn); Trunôv I.L. Bảo vệ các quyền cá nhân trong tố tụng hình sự… (Sách đã dẫn); v.v…
[10] Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Năng năm 1998, tr. 639.
[11] Nguyễn Huy Hoàn: "Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay" - Luận án Tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2004.
[12] Bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bào chữa thì người này bào chữa cho bị cáo. Bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình; nếu có người bảo vệ quyền lợi cho họ thì người này có quyền trình bày, bổ sung ý kiến.
[13] Nguyễn Thị Minh: Vì sao luật sư chưa phát huy hết vai trò của mình trong hoạt động tố tụng hình sự, Tạp chí Pháp luật và phát triển, số 1/2006.
[14] Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Người bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ. Người được Toà án tuyên bố là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã tuyên bố là họ không có tội.
[15] Nhận xét “tốt” bao gồm “rất tốt” và “tốt”, trừ khi mô tả khác.
[16] Nhận xét “cao” bao gồm “rất cao” và “cao”.
[17] Tỷ lệ này bao gồm những người đã trả lời rằng số lượng trung tâm trợ giúp pháp lý hiện nay và địa điểm đặt các trung tâm đó là “rất hợp lý” và “khá hợp lý”.
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam; Tài liệu nghiên cứu các Nghị quyết Hội nghị Trung ương khoá IX, Nxb, Chính trị Quốc gia, H 2003, tr71.
[21] Steve Orchard and Aoife O’ Grady, “Development of legal services policies in England and Wales, 1989-2002”, in Julia Bass, W.A. Bogart, and Frederick H. Zemans (ed.), Access to Justice for a new century – the way forward, The Law Society of Upper Canada, 2005, p.177-196.
[22] Steve Orchard and Aoife O’ Grady, “Development of legal services policies in England and Wales, 1989-2002”, in Julia Bass, W.A. Bogart, and Frederick H. Zemans (ed.), Access to Justice for a new century – the way forward, The Law Society of Upper Canada, 2005, p.177-196.
[24] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb chính trị quốc gia, tr. 132
[25] Sách DĐD, tr 132 - 133
[26] Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX Nxb CCQG năm 2001, tr. 49
[27] Văn kiện nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb CCQG năm 2006, tr. 127
[28] Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb CCQG, năm 2006, tr. 256 - 257
[29] Điểm c, khoản 3, Điều 155 BLTTHS quy định bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc người bị hại trong trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn về tình tiết của vụ án. Tuy nhiên, Điều 155 chỉ quy định quyền ra quyết định trưng cầu giám định là Cơ quan tiến hành tố tụng mà không quy định người làm chứng, người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu trưng cầu giám định.