• Thuộc tính
Tên đề tài Nghiên cứu mô hình quản lý dịch vụ công của Ngành tư pháp
Nội dung tóm tắt

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

1. Khái niệm dịch vụ công lần đầu tiên được ghi nhận trong Nghị quyết Hội nghị trung ương 7 (khóa VIII) năm 1999 và được đưa vào Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001). Việc ghi nhận khái niệm này trong các văn kiện của Đảng và trong các văn bản quy phạm pháp luật là một bước tiến quan trọng trong nhận thức về dịch vụ công và là điểm mấu chốt để thực hiện các hoạt động cải cách việc cung ứng dịch vụ công.

Dịch vụ công theo nghĩa chung nhất được hiểu là những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội, do nhà nước trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân thực hiện nhằm bảo đảm trật tự và công bằng xã hội phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân. Về lý luận, xét theo tiêu chí chủ thể cung ứng, dịch vụ công được chia thành: (1) dịch vụ công do cơ quan nhà nước trực tiếp cung cấpl; (2) dịch vụ công do các tổ chức phi chính phủ và khu vực tư nhân cung cấp; (3) dịch vụ công do tổ chức nhà nước, tổ chức phi chính phủ, tổ chức tư nhân phối hợp thực hiện. Xét theo tính chất và tác dụng của dịch vụ được cung ứng, có thể chia dịch vụ công thành: (1) dịch vụ hành chính công; (2) dịch vụ sự nghiệp công; (3) dịch vụ công ích. Ở Đề tài này, chúng tôi chỉ tập chung nghiên cứu về dịch vụ hành chính công.

2. Một trong những chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của các Bộ và cơ quan ngang bộ là thực hiện quyền quản lý nhà nước đối với dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực mình quản lý (Điều 8 Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 18/04/2012). Theo đó, về quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực, các Bộ có trách nhiệm: (1) Trình Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách về cung ứng các dịch vụ công; thực hiện xã hội hóa các hoạt động cung ứng dịch vụ công trong ngành, lĩnh vực; (2) Trình Thủ tướng Chính phủ quy hoạch mạng lưới tổ chức các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; (3) Hướng dẫn việc thực hiện chính sách, pháp luật và hỗ trợ cho các tổ chức thực hiện các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực theo quy định của pháp luật. Như vậy, Bộ, cơ quan ngang Bộ có trách nhiệm đối với việc bảo đảm các dịch vụ công được cung cấp đầy đủ theo đúng yêu cầu của nhà nước đáp ứng được các yêu cầu quản lý và phục vụ xã hội.

Đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ của ngành Tư pháp trong giai đoạn hiện nay, có thể thấy ngành Tư pháp hiện đang cung cấp rất nhiều loại dịch vụ hành chính công. Các loại hình dịch vụ hành chính công này chủ yếu ở các lĩnh vực như: (1) Lĩnh vực hoạt động hành chính tư pháp với các hoạt động công chứng, chứng thực, hộ tịch, lý lịch tư pháp (2) Lĩnh vực trợ giúp pháp lý (3) Lĩnh vực đăng ký giao dịch có bảo đảm (4) Lĩnh vực thi hành án dân sự  (5) Lĩnh vực bổ trợ tư pháp với các hoạt động Luật sư, giám định tư pháp. Cụ thể, theo công bố trên trang thông tin hướng dẫn các thủ tục hành chính của Bộ Tư pháp cho thấy, hiện nay, Bộ Tư pháp đang cung cấp 181 thủ tục hành chính, các Sở Tư pháp đang cung cấp 208 thủ tục hành chính, các phòng tư pháp cấp quận, huyện cung cấp 60 thủ tục hành chính và tư pháp cấp xã cung cấp 65 thủ tục hành chính[1] trong đó có nhiều thủ tục thuộc về dịch vụ hành chính công của ngành.

Như vậy, có thể thấy rằng dịch vụ công trong ngành Tư pháp khá đa dạng, bao gồm nhiều loại hình dịch vụ công khác nhau. Các dịch vụ công này chủ yếu do các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, sở, phòng và cán bộ Tư pháp hộ tịch cấp xã đảm nhiệm. Tuy nhiên, cũng có một số thủ tục/dịch vụ hiện nay đã và đang được trao cho các tổ chức và cá nhân hành nghề thực hiện (đã xã hội hóa). Tuy nhiên, theo đánh giá tại Báo cáo Tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015 (Báo cáo số: 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp) cho thấy công tác Tư pháp trong năm 2014 vẫn còn các tồn tại như:

- Công tác quản lý nhà nước về hộ tịch, chứng thực còn chậm được đổi mới; còn có sai sót trong đăng ký hộ tịch, nhất là ở cấp xã[2]; vẫn còn tình trạng không đăng ký khai sinh cho trẻ em, sai sót về giấy tờ hộ tịch do UBND một số xã, phường, thị trấn cấp;

- Nhiều địa phương chưa thực sự quan tâm, chú trọng xây dựng, quản lý, sử dụng, khai thác cơ sở dữ liệu; số lượng thông tin lý lịch tư pháp chưa được xử lý, cập nhật còn tồn đọng khá lớn. Tình trạng chậm thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp vẫn diễn ra phổ biến tại nhiều Sở Tư pháp.

- Công tác chuyển giao việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch từ UBND cấp xã, huyện sang tổ chức hành nghề công chứng còn gặp khó khăn; còn có ý kiến khác nhau giữa các Bộ, ngành về thẩm quyền chứng nhận, xác nhận các giao dịch trong khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao.

- Hệ thống tổ chức TGPL chưa phù hợp và hoạt động chưa hiệu quả so với yêu cầu thực tiễn, thiếu sự kết nối giữa Trung ương và địa phương; công tác xã hội hóa hoạt động TGPL còn chậm; quản lý chất lượng vụ việc TGPL còn nhiều bất cập, chất lượng một số vụ việc tham gia tố tụng chưa đảm bảo; việc triển khai thực hiện các Chương trình giảm nghèo còn gặp nhiều khó khăn.

- Quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực như hộ tịch, chứng thực còn chậm được đổi mới; việc thực hiện chính sách xã hội hóa công tác giám định tư pháp, thiếu tính bền vững; thủ tục hành chính trong nhiều lĩnh vực vẫn còn rườm rà, chi phí tuân thủ lớn, việc thực thi chưa nghiêm; việc triển khai thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính còn lúng túng, có phần bị động; chất lượng nguồn nhân lực và các nguồn lực khác phục vụ công tác pháp luật, tư pháp còn hạn chế.

Cũng tại Báo cáo số: 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp đã xác định các nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan của các tồn tại hạn chế trên. Trong đó nguyên nhân về chủ quan là công tác chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo một số đơn vị có lúc, có việc chưa chủ động; sự tham mưu của một số tổ chức pháp chế, Sở Tư pháp cho Lãnh đạo các Bộ, ngành và cấp ủy, chính quyền địa phương chưa kịp thời, đầy đủ, cá biệt có trường hợp chưa theo đúng trọng tâm, trọng điểm theo chỉ đạo của Chính phủ, của Bộ.

Đây cũng là nguyên nhân cơ bản làm cho hiệu quả quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp chưa cao.

3. Về định hướng chỉ đạo, dịch vụ công lần đầu tiên được ghi nhận trong Nghị quyết Hội nghị trung ương 7 (khóa VIII) năm 1999 và được đưa vào Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: "Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa… Định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ theo hướng Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc, cung cấp dịch vụ công"[3]. Bên cạnh đó, "khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức thực hiện một số dịch vụ công gắn với sự giám sát của cộng đồng như vệ sinh môi trường, tham gia giữ gìn trật tự an ninh xóm, phường…[4]”. Các định hướng này tiếp tục được khẳng định tại các văn kiện của Đảng các khóa X và XI.

Tại Báo cáo chính trị tại Đại hội XI (tháng 01 năm 2011) xác định“Đẩy mạnh đổi mới tổ chức, cơ chế hoạt động của các đơn vị dịch vụ công phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các đơn vị này có quyền chủ động và được khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để tham gia thị trường, cung cấp ngày càng nhiều và tốt hơn dịch vụ công cho xã hội, nhất là dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ…”[5]. Cụ thể hóa định hướng của Đảng, Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 -2020 (Nghị quyết 30c/NQ-CP của Chính phủ ngày 08/11/2011 Ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020) đã xác định "nâng cao chất lượng dịch vụ công" là một trong những mục tiêu trọng tâm (Điều 2 NQ 30c).

Xuất phát từ thực tiễn trên, thì việc nghiên cứu mô hình quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp có ý nghĩa cả về lý luận và thực thiễn và có ý nghĩa cấp thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Mục tiêu mà đề tài hướng tới là xác định rõ về dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp; xác định rõ các mô hình quản lý dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp trong giai đoạn hiện nay; đề xuất, kiến nghị hoàn thiện mô hình quản lý dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp trong thời gian tới.

Với mục tiêu đó, kết quả nghiên cứu của đề tài hướng tới các mục tiêu cụ thể như sau:

a. Làm rõ các vấn đề lý luận về dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp và mô hình quản lý dịch vụ hành chính công của ngành; từ đó, đánh giá các mô hình quản lý trong giai đoạn hiện nay; chỉ rõ những thành công, những hạn chế, tồn tại và xác định rõ các nguyên nhân của các hạn chế, tồn tại đó;

b. Đề xuất phương hướng và kiến nghị hoàn thiện mô hình quản lý dịch vụ hành chính công phù hợp của ngành Tư pháp trong thời gian tới; đồng thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số văn bản có liên quan về tổ chức và quản lý của ngành phù hợp với giai đoạn tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2.2.1. Đối tượng nghiên cứu của Đề tài được xác định là các cơ quan quản lý nhà nước về dịch vụ công trong ngành Tư pháp (Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân các cấp và các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp) và các tổ chức, cá nhân đã và đang thực hiện dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

2.2.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác định cụ thể như sau:

(1) Các vấn đề lý luận về dịch vụ hành chính công và quản lý dịch vụ hành chính công trong ngành Tư pháp (chủ thể, đối tượng, nội dung quản lý); 

(2) Các mô hình quản lý dịch vụ hành chính công trong ngành Tư pháp giai đoạn hiện nay;

Do giới hạn về thời gian và nhân lực, Đề tài này xin được giới hạn chỉ nghiên cứu, đánh giá về các mô hình quản lý dịch vụ hành chính công của ngành tư pháp. Các dịch vụ công khác hiện do Bộ, ngành đang thực hiện như: dịch vụ công trong đào tạo, bồi dưỡng; báo chí, xuất bản; dịch vụ pháp lý xin được nghiên cứu ở một đề tài khác. Mặt khác, Đề tài cũng xin không nghiên cứu, đánh giá về trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ đã và đang thực hiện việc cung cấp các dịch vụ công trong Bộ và ngành Tư pháp. Việc đánh giá về đội ngũ cán bộ này được nghiên cứu ở một đề tài khác.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) để xem xét về lý luận và thực tiễn quản lý các dịch vụ công của ngành Tư pháp; đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, bình luận, so sánh để làm rõ các nội dung nghiên cứu của đề tài.  

Ngoài ra, Đề tài cũng sử dụng: (1) phương pháp nghiên cứu các văn bản, các quy định pháp luật; khảo cứu các thông tin, tư liệu và kết thừa các kết quả nghiên cứu đã có; (2) phương pháp quan sát thực tiễn và tham khảo ý kiến chuyên gia với quy mô thích hợp để đánh giá, tổng kết tình hình và xác định định hướng nghiên cứu, hoàn thiện nội dung Đề tài; (3) phương pháp phân tichsm, tổng hợp, so sánh, suy luận loogic.

4. Nội dung nghiên cứu chính của đề tài

Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, kết quả nghiên cứu chính của đề tài được kết cấu thành 3 chương, cụ thể:

Chương I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG, DỊCH VỤ CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP

Trong chương này, tập chung giải quyết các vấn đề lý luận về: (1) Dịch vụ công; (2) Dịch vụ hành chính công; (3) Dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp (gọi tắt là dịch vụ công của ngành Tư pháp) và (4) Quản lý nhà nước về dịch vụ công và mô hình quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp

Chương II. THỰC TRẠNG VỀ CÁC MÔ HÌNH QUẢN LÝ DỊCH VỤ CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Trong chương này, tập chung đánh giá thực trạng về:

1. Các mô hình quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp

2. Làm rõ những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó.

Chương III. PHƯƠNG HƯỚNG ĐỐI MỚI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN LÝ DỊCH VỤ CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP

Trong chương này, tập chung nhận định rõ về Chủ trương, định hướng của Đảng về dịch vụ công và yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính đối với ngành tư pháp; đề xuất hoàn thiện mô hình quản lý tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công của ngành Tư pháp trong thời gian tới và đưa ra một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công của ngành Tư pháp.

 

CHƯƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1. DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP

1.1. Dịch vụ công

Trong nội dung này, chung tôi đi vào phân tích, làm rõ về khái niệm "dịc vụ công". Việc phân tích, lập luận được tiếp cận từ khái niệm được thừa nhận trong các từ điển và tổng hợp từ các tài liệu nghiên cứu đã được công bố ở trong và ngoài nước. Qua đó, thống nhất đưa ra khái niện dịch vụ công.

Theo đó: dịch vụ công những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội, do nhà nước trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân thực hiện nhằm bảo đảm trật tự và công bằng xã hội phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân.

1.2. Dịch vụ hành chính công

Như đã làm rõ ở phân lý luận, dịch vụ hành chính công là loại dịch công vụ gắn liền với chức năng quản lý nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân. Theo đó, dịch vụ hành chính công là hoạt động thực thi pháp luật nhằm phục vụ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân, do các cơ quan hành chính nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật[6].

Dịch vụ hành chính công có những nét đặc thù riêng biệt, phân định nó với các loại hình dịch vụ công khác như sau:

Thứ nhất, việc cung ứng dịch vụ hành chính công luôn gắn với thẩm quyền hành chính - pháp lý của các cơ quan hành chính nhà nước.

Thứ hai, dịch vụ hành chính công là các hoạt động phái sinh từ chức năng quản lý nhà nước và có tính bắt buộc các tổ chức và cá nhân thực hiện nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý của Nhà nước.

Thứ ba, dịch vụ hành chính công là những hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận, mà là nghĩa vụ có tính pháp lý của Nhà nước trước nhân dân.

Thứ tư, mọi người dân có quyền ngang nhau trong việc tiếp nhận và sử dụng các dịch vụ này với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền.

Theo quy định tại khoản 6 Điều 3 Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/04/2007 của Chính phủ ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, thì “dịch vụ hành chính công được hiểu là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước (hoặc tổ chức, doanh nghiệp được ủy quyền) có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong các lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý.

Khái niệm này, tiếp tục được khẳng định tại khoản 3 Điều 34 Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước và bổ sung thêm tiêu chí: "Mỗi dịch vụ hành chính công gắn liền với một thủ tục hành chính để giải quyết hoàn chỉnh một công việc cụ thể liên quan đến tổ chức, cá nhân".

Đặc điểm quan trọng nhất để phân biệt giữa dịch vụ hành chính công các dịch vụ công khác là: kết quả của dịch vụ hành chính công là việc cấp cho tổ chức, cá nhân các loại giấy tờ có giá trị pháp lý còn dịch vụ công là những dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân và cộng đồng, bảo đảm ổn định và công bằng xã hội do Nhà nước chịu trách nhiệm, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận.

Căn cứ vào khái niệm, nguyên tắc và các đặc trưng nêu trên của dịch vụ công, có thể thấy các hoạt động cung ứng dịch vụ hành chính công hiện nay, theo chúng tôi[7] có thể được phân chia thành các loại hình cơ bản như sau:

Thứ nhất, các hoạt động cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề.

Thứ hai, hoạt động cấp đăng ký và giấy chứng nhận

Thứ ba, hoạt động công chứng, chứng thực

Thứ tư, các hoạt động tư vấn, hỗ trợ

1.3. Dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp.

1.3.1. Khái niệm, đặc điểm, phạm vi dịch vụ hành chính công của ngành tư pháp

Với vị trí là cơ quan của Chính phủ, Bộ Tư pháp có chức năng quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. Do vậy, trước hết phải khẳng định các dịch vụ công trong ngành Tư pháp thuộc về nhóm Dịch vụ hành chính công  của ngành Tư pháp mang đầy đủ các đặc điểm của dịch vụ hành chính công; đồng thời cũng phải tuân thủ các nguyên tắc hoạt động của dịch vụ hành chính công.

Từ chức năng, nhiệm vụ của ngành Tư pháp, có thể thấy ngành Tư pháp hiện đang cung cấp rất nhiều loại dịch vụ hành chính công. Các loại hình dịch vụ hành chính công này chủ yếu ở các lĩnh vực như: (1) Lĩnh vực hành chính tư pháp với các hoạt động như đăng ký hộ tịch, chứng thực; cấp phiếu lý lịch tư pháp... (2) Lĩnh vực trợ giúp pháp lý (3) Lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm (4) Lĩnh vực thi hành án dân sự (5) Lĩnh vực bổ trợ tư pháp với các hoạt động công chứng, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý... Các dịch vụ công này chủ yếu do các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và cán bộ tư pháp hộ tịch cấp xã đảm nhiệm. Tuy nhiên, cũng có một số thủ tục/dịch vụ hiện nay đã và đang được trao cho các tổ chức và cá nhân hành nghề thực hiện (đã xã hội hóa).

Từ cách phân chia các loại hình cung cấp dịch vụ hành chính công như đã nêu trên, Chúng ta có thể xác định danh mục các nhóm dịch vụ hành chính công thuộc phạm vi của ngành Tư pháp như sau:

1) Nhóm dịch vụ cung ứng cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề của ngành tư pháp gồm:

- Cấp, cấp lại, thu hồi chứng chỉ hành nghề đối với các chức danh tư pháp, như luật sư, tư vấn viên, giám định viên, chấp hành viên, công chứng viên...;

- Cấp, cấp lại, gia hạn, thu hồi giấy phép thành lập đối với các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật như: cấp giấy phép thành lập chi nhánh của công ty luật nước ngoài tại Việt Nam; cấp giấy phép thành lập công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh; cấp giấy phép thành lập công ty luật trách nhiệm hữu hạn một trăm phần trăm vốn nước ngoài…;

2) Nhóm dịch vụ cung ứng cấp đăng ký và giấy chứng nhận, giấy xác nhận thuộc lĩnh vực quản lý của ngành tư pháp gồm:

- Cấp, cấp lại, thu hồi giấy đăng ký hoạt động đối với các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật, như giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư và chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư…;

- Cấp, cấp lại, thu hồi giấy chứng nhận, như giấy chứng nhận bào chữa… hoặc giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam; giấy xác nhận trình trạng hôn nhân…;

- Đăng ký hộ tịch; đăng ký xóa đăng ký thông tin giao dịch, tài sản đăng ký.

3) Nhóm dịch vụ cung ứng nhu cầu công chứng, chứng thực, gồm:

- Công chứng hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật cho cá nhân, tổ chức; công chứng việc hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch...;

- Công chứng văn bản từ chối, khai nhận, thỏa thuận phân chia di sản theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức

 - Công chứng di chúc; nhận lưu giữ di chúc...

- Chứng thực bản sao, chữ ký, di chúc...;

- Cấp bản sao từ sổ gốc; 

- Chứng thực hợp đồng theo quy định của pháp luật;

4) ) Nhóm dịch vụ tư vấn, hỗ trợ, gồm:

- Cung cấp phiếu lý lịch tư pháp theo yêu cầu của tổ chức, công dân;

- Cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm; tài sản đăng ký...

Như vậy, có thể nói phạm vi cung cấp dịch vụ hành chính công[8] của ngành Tư pháp có mặt trên hầu hết ở các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, ngành theo thẩm quyền.

3.2. Phân biệt dịch vụ công và các dịch vụ khác của ngành Tư pháp.

3.2.1. Phân biệt với dịch vụ pháp lý.

Theo Từ điển luật học do Nxb. Từ điển Bách khoa và Nxb. Tư pháp ấn hành năm 2006 thì: Dịch vụ pháp lý là loại hình dịch vụ do những tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật được nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện, nhằm đáp ứng nhu cầu được biết, được tư vấn hoặc giúp đỡ về mặt pháp lí của các tổ chức, cá nhân trong xã hội". Cũng trong tài liệu này đã chỉ rõ: "Trong kinh tế thị trường, dịch vụ pháp lý được coi là một loại dịch vụ mang tính thương mại. Người cung cấp dịch vụ pháp lý nhằm mục đích thu lợi và được coi như là một nghề. Người được hưởng dịch vụ pháp lý được thỏa mãn những yêu cầu hiểu biết hay công việc cụ thể và phải trả phí (giá) dịch vụ cho người cung cấp"[9]. Điểm đặc thù của dịch vụ pháp lý là khi cá nhân, tổ chức sử dụng dịch vụ này phải trả phí cho người cung cấp theo biểu phí do Nhà nước quy định. Với cách hiểu như vậy, dịch vụ pháp lý có thể mang tính chất công hoặc tính chất tư (ví dụ: luật sư khi tham gia trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách, người có công là dịch vụ có tính chất công). Dịch vụ pháp lý có tính chất tư là các dịch vụ phục vụ trực tiếp bảo vệ quyền, nghĩa vụ của từng chủ thể mà thị trường tư nhân có thể đảm nhận.

Trong bối cảnh hiện nay, việc phân định các dịch vụ pháp lý do tổ chức, cá nhân cung cấp với dịch vụ công của ngành Tư pháp có ý nghĩa quan trọng để xác định ranh giới giữa Nhà nước và tư nhân cũng như trách nhiệm của Nhà nước trong lĩnh vực này. Đồng thời, việc phân định này cũng góp phần xác định cụ thể loại dịch vụ công nào có thể chuyển giao cho tư nhân – xã hội hóa và mức độ chuyển giao trong từng giai đoạn. Theo chúng tôi, chỉ có thể xã hội hóa những hoạt động nào là hoạt động dịch vụ công và không phải mọi dịch vụ công đều có thể xã hội hóa. Việc xã hội hóa dịch vụ công của ngành Tư pháp chỉ nên thực hiện khi thoả mãn ba đặc trưng sau:

- Tư nhân có đủ năng lực để thực hiện hoạt động này (có đủ trình độ, năng lực và bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị...);

- Hoạt động đó không gây ảnh hưởng về mặt chính trị, quốc phòng, an ninh trật tự xã hội.

- Hoạt động đó có thể xác định được các đặc tính đầu ra.

Những loại dịch vụ nào thoả mãn ba đặc trưng trên đều có thể chuyển giao cho tư nhân thực hiện, tuy nhiên, Nhà nước vẫn cần có sự can thiệp trực tiếp bằng các quy định thể. Nói cách khác, các dịch vụ này có thể được Nhà nước uỷ quyền cho các tổ chức tư nhân thực hiện, song vẫn phải tuân thủ các quy định cụ thể và sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước, chịu trách nhiệm trước Nhà nước về tính hợp pháp của dịch vụ.

3.2.2. Phân biệt hoạt động dịch vụ công của ngành với các hoạt động khác

a) Hoạt động thi hành án dân sự. Hiện nay, theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự số 64/2014/QH13 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 25/11/2014 có hiệu lực, thì thi hành án dân sự được xác định là công đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng, gắn liền với việc thực hiện quyền tư pháp của Toà án. Do vậy, có một số công việc cụ thể trong hoạt động thi hành án dân sự mang tính chất hành chính, thuộc về nghiệp vụ thi hành án dân sự có thể xã hội hóa.

Thực hiện chủ trương xã hội hóa một số công việc có liên quan đến thi hành án dân sự, từ năm 2010, các Văn phòng Thừa phát lại được thực hiện một số dịch vụ pháp lý về: xác minh điều kiện thi hành án, yêu cầu thi hành án, tống đạt giấy tờ của Tòa án, cơ quan Thi hành án dân sự và lập vi bằng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do vậy, theo chúng tôi, hoạt động thừa phát lại là thực hiện dịch vụ pháp lý.

b) Hoạt động bồi thường nhà nước. Bồi thường nhà nước là việc bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án (bản chất là quan hệ bồi thường dân sự). Do vậy, hoạt động bồi thường nhà nước cũng do cơ quan nhà nước thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và kết quả cũng là giấy tờ có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, không thể coi đây là dịch vụ hành chính công.

c) Hoạt động giám định tư pháp. Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật (khoản 1 Điều 2 Luật Giám định tư pháp năm 2012).

Khi có nhu cầu thực hiện giám định tư pháp, người có yêu cầu giám định phải có đơn yêu cầu đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định đối với các vụ án hình sự hoặc người yêu cầu giám định phải gửi văn bản yêu cầu giám định kèm theo đối tượng giám định, các tài liệu, đồ vật có liên quan (nếu có) và bản sao giấy tờ chứng minh mình là đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ đến cá nhân, tổ chức thực hiện giám định.

Do vậy, về bản chất, hoạt động giám định tư pháp trong tố tụng hình sự là hoạt động nghiệp vụ hỗ trợ cho hoạt động tố tụng nhằm bảo đảm sự chính xác, khách quan trong hoạt động tố tụng. Còn hoạt động giám định tư pháp trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính là dịch vụ pháp lý.

d) Hoạt động bán đấu giá tài sản. Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai theo phương thức trả giá lên, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục được pháp luật quy định. Bản chất của bán đấu giá tài sản là quan hệ dân sự về mua bán tài sản thông qua hình thức đấu giá nhằm bán được tài sản với giá cao nhất. Do vậy, hoạt động bán đấu giá tài sản không phải hoạt động dịch vụ hành chính công.

đ) Hoạt động xin nhập, xin trở lại, xin thôi quốc tịch Việt Nam, tước quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.

 Việc giải quyết các vấn đề có liên quan về quốc tịch không chỉ liên quan đến pháp luật trong nước mà còn được giải quyết theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, trường hợp chưa có điều ước quốc tế thì được giải quyết theo tập quán và thông lệ quốc tế. Do vậy, hoạt động xin nhập, xin trở lại, xin thôi quốc tịch Việt Nam, tước quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam không phải là hoạt động dịch vụ hành chính công.

2. MÔ HÌNH QUẢN LÝ DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP

2.1. Mô hình quản lý

Ngày nay, trong khoa học quản lý, chúng ta còn thấy xuất hiện nhiều mô hình quản lý. (i) Từ tiêu chí quản lý hướng tới mục tiêu, có mô hình quản lý theo mục tiêu hoặc mô hình quản lý dựa theo kết quả đầu ra; (ii) từ tiêu chí quản lý chất lượng sản phẩm, có mô hình quản lý chất lượng toàn bộ hoặc mô hình quản lý theo hợp đồng…; (iii) Từ tiêu chí phân cấp quản lý, có các mô hình như mô hình quản lý tập trung; mô hình quản lý phân tán hay mô hình quản lý hỗn hợp; Từ tiêu chí chi phí, có mô hình chi phí – kết quả trong quản lí… Phù hợp với đặc thù chính trị –  kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển mà hoạt động quản lý hành chính mỗi nước có những nét riêng. Tính thích ứng của hành chính với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý. Từ lý luận Nhà nước và Pháp luật thì quản lý hành chính nhà nước là một thiết chế để thực hiện quyền lực nhà nước, bao gồm hoạt động quản lí của các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Cho dù xem xét dưới góc độ nào thì yếu tố quan trọng nhất của quản lý hành chính nhà nước vẫn là việc thực thi quyền hành pháp và quản lí, cung ứng các dịch vụ công cho xã hội.

Trong lĩnh vực quản lý dịch vụ công, một trong những hướng đi mà nhiều Nước trên thế giới đang quan tâm là thay đổi cách thức quản lý của nhà nước đối với hoạt động cung cấp dịch vụ công. Đối với các loại dịch vụ do chính nhà nước cung ứng, các nước đang tìm kiếm cách thức cung ứng theo Mô hình 3E: tiết kiệm, kết quả và hiệu quả (Economy - Effectiveness - Efficiency). Những kinh nghiệm như quản lý theo mục tiêu (MbO), quản lý theo kết quả (MbR), quản lý chất lượng toàn bộ (TQM) hay quản lý theo hợp đồng (MbC)… vốn rất thành công trong khu vực tư nhân đang được nhiều chính phủ xem xét áp dụng[10].

2.2. Mô hình quản lý dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp

Thực hiện nhiệm vụ được giao về quản lý nhà nước các tổ chức thực hiện dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, (khoản 25 Điều 2 Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13 tháng 3 năm 2013 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp[11]) Bộ Tư pháp đã áp dụng các mô hình như Mô hình quản lý tập trung (mô hình một cấp quản lý); Mô hình quản lý phân tán (Mô hình hai cấp, mô hình nhiều cấp quản lý) và Mô hình quản lý hỗn hợp (Mô hình liên tịch quản lý) trong quản lý nhà nước các tổ chức thực hiện dịch vụ công và dịch vụ hành chính công của ngành.

Với 4 nhóm dịch vụ hành chính công thuộc phạm vi của ngành Tư pháp như đã phân tích ở trên, trong thực tế quản lý của Bộ, cho thấy, về mô hình quản lý, để giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý dịch vụ công của Bộ, ngành, Bộ Tư pháp đã áp dụng không chỉ một mô hình quản lý. Đối với một số hoạt động dịch vụ công của ngành áp dụng mô hình quản lý độc lập và thống nhất theo:

Mô hình một cấp quản lý (mô hình quản lý tập trung), như mô hình quản lý dịch vụ đăng ký giao dịch bảo đảm;

Mô hình hai cấp quản lý (mô hình quản lý phân tán), như mô hình quản lý dịch vụ lý lịch tư pháp, trợ giúp pháp lý, công chứng;

Mô hình nhiều cấp quản lý (mô hình quản lý phân tán), như mô hình quản lý dịch vụ hộ tịch, chứng thực;

Mô hình liên tịch quản lý (Mô hình quản lý hỗn hợp) giữa Bộ, ngành và tổ chức xã hội nghề nghiệp như, mô hình quản lý luật sư.

Với các mô hình này, để giúp Bộ trưởng thực hiện các nhiệm vụ được giao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ủy quyền cho các đơn vị tham mưu, giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước và tổ chức thi hành pháp luật về các lĩnh vực hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, luật sư, tư vấn pháp luật, công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm, trợ giúp pháp lý, lý lịch tư pháp ... Các nhiệm vụ này hiện được giao cho các đơn vị tương ứng như:

- Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực;

- Cục Bổ trợ tư pháp;

- Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm;

- Cục Trợ giúp pháp lý;

- Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia.

 

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG VỀ CÁC MÔ HÌNH QUẢN LÝ

DỊCH VỤ CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP

 

I. VỀ MÔ HÌNH MỘT CẤP QUẢN LÝ, Mô hình quản lý lĩnh vực Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm.

Về mô hình tổ chức hoạt động đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm có thể được mô hình hóa như sau: (Mô hình 1)

MÔ HÌNH 1

 

 
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Theo Quyết định số 2471/QĐ-BTP ngày 03/10/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thì, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm; tổ chức thực hiện việc đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Do vậy, ngoài các nhiệm vụ tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký giáo dịch bảo đảm[12], thì Cục và các tổ chức sự nghiệp thuộc Cục còn được giao thực hiện các nhiệm vụ về đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm (thực hiện dịch vụ công) theo quy định tại Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 05/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ và các quy định khác của pháp luật[13].

a) Kết quả đạt được.

Thứ nhất, hệ thống thể chế về đăng ký giao dịch đã bảo đảm phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và xu hướng hội nhập, phát triển kinh tế, góp phần thúc đẩy thị trường vốn vận hành an toàn, minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Thứ hai, mô hình tổ chức và hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm theo hướng hiện đại, tiện ích và thân thiện với khách hàng, phù hợp với mục tiêu cải cách hành chính, cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, đảm bảo sự vận hành của hệ thống các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện đăng ký đối với động sản, bất động sản, tàu bay, tàu biển với một đội ngũ cán bộ đăng ký thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ và đạo đức nghề nghiệp.

 Thứ tư, đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính theo hướng đảm bảo tính chuyên nghiệp, khoa học, thuận tiện và giảm chi phí cho người dân, tổ chức khi thực hiện các quyền, giao dịch liên quan đến tài sản.

Thứ năm, công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm; cũng như công tác tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra bảo đảm thông suốt, kịp thời...

Thứ sáu, mô hình cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm theo mô hình một cấp quản lý, gọn nhẹ, đã bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Việc đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi hành án tại các trung tâm đăng ký có giá trị pháp lý như nhau.

Về kết quả hoạt động, Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp Tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015 của Bộ Tư pháp đã khẳng định "Thể chế công tác đăng ký giao dịch bảo đảm tiếp tục được hoàn thiện với việc ban hành nhiều thông tư, thông tư liên tịch[14]. Năm 2014, các Trung tâm Đăng ký giao dịch tài sản đã tiếp nhận và giải quyết 307.332 đơn yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin, trong đó số thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo kê biên tài sản thi hành án là 249.424 đơn, tăng 53% so với năm 2013. Số lượng tra cứu thông tin miễn phí trên hệ thống đăng ký trực tuyến là 395.931 lượt, tăng 60% so với năm 2013.

b) Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc tiếp nhận thông tin đăng ký giao dịch bảo đảm (thông tin đầu vào) được thực hiện phân tán theo từng loại hình tài sản (quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tàu bay, tàu biển và các động sản) thuộc quyền quản lý của các Bộ, ngành khác nhau, bao gồm: Bộ Tài nguyên và Môi trường (quản lý cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất), Bộ Giao thông vận tải (quản lý cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển), Bộ Tư pháp (quản lý cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng các động sản khác).

Mặt khác, việc chưa quy định về cơ chế trao đổi thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản giữa cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và hệ thống thông tin tín dụng tiềm ẩn nguy cơ gây rủi ro cho các bên tham gia giao dịch liên quan đến tài sản bảo đảm, đồng thời gây tốn kém về thời gian và chi phí cho xã hội, chưa đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính của Đảng và Nhà nước, chưa đảm bảo quyền tiếp cận thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, cá nhân.

Bên cạnh đó, hiện tại, Việt Nam chưa xây dựng được hệ thống dữ liệu tập trung, thống nhất thông tin về giao dịch bảo đảm bằng tất cả các loại tài sản trong phạm vi cả nước, có sự kết nối, chia sẻ thông tin với hệ thống thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước. Thực trạng này dẫn đến trong nhiều trường hợp cũng đã gây ra nhiều rủi ro cho các tổ chức tín dụng.

Nguyên nhân của tồn tại này là do:

- Việc quy định về tổ chức và nguyên tắc vận hành hiện nay của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm ít nhiều vẫn chịu sự chi phối của tư duy hành chính bao cấp (theo cơ chế xin - cho), chưa đáp ứng đầy đủ và toàn diện mục tiêu phục vụ thị trường, do đó dẫn đến khó khăn khi tổ chức, cá nhân có nhu cầu tìm hiểu, tiếp cận thông tin. Điều này trong chừng mực nhất định đã dẫn đến hệ quả là hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm nói chung và hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản nói riêng chưa thực sự phát huy hết ý nghĩa, vai trò của nó trong việc tăng cường khả năng, cơ hội tiếp cận tín dụng an toàn, minh bạch cho nền kinh tế.

- Một số cán bộ quản lý vẫn còn thiếu kinh nghiệm và chưa nhận thức đầy đủ về chỉ đạo, điều hành nền kinh tế, do vậy, đã tác động không tốt đến công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm, thể hiện ở những hạn chế về pháp luật, về nhận thức và triển khai thực hiện. Điều này đã ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng một hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm đảm bằng động sản hiện đại, an toàn của Việt Nam.

- Cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản vẫn còn mới mẻ so với truyền thống pháp lý của Việt Nam. Trong khi truyền thống pháp lý của Việt Nam theo hệ thống luật thành văn (civil law) thì cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản lại có nguồn gốc từ khu vực Bắc Mỹ, nơi các quốc gia theo hệ thống luật thông lệ (common law).

- Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm của nước ta vẫn đang vận hành trong quá trình chuyển đổi tư duy quản lý từ đăng ký phục vụ mục tiêu quản lý hành chính nhà nước sang mục tiêu công khai hoá thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản, phục vụ thị trường. Một số cán bộ đăng ký lại nhận thức vấn đề thành đăng ký là “cho” người dân.

2. Mô hình hai cấp quản lý như: Mô hình quản lý lý lịch tư pháp, trợ giúp pháp lý, công chứng.

Về tổ chức và hoạt động lý lịch tư pháp và trợ giúp pháp lý được quy định bởi Luật Lý lịch tư pháp số 28/2009/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 17/06/2009 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2010; Luật Trợ giúp pháp lý số 69/2006/QH 11 đã được Quốc nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam  hội khóa XI kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/06/2006 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành của hai luật này; Luật Công chứng số 53/2014/QH13 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 20/06/2014 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Về mô hình tổ chức và hoạt động trong lĩnh vực lý lịch tư pháp và trợ giúp pháp lý, có thể sơ đồ hóa như sau (Mô hình 2).

MÔ HÌNH 2

 

- Ở trung ương có:

 

 

 

- Ở địa phương cấp tỉnh có:

 

 

 

       
 
 
   

 

 

 

 

 

 

Ở mô hình này, luật và các văn bản hướng dẫn thi hành đã phân cấp cụ thể về mô hình quản lý. Theo đó, Bộ Tư pháp được giạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước; các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) thực hiện quản lý nhà nước tại địa phương.

Cụ thể hóa quy định của Luật, ở Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã giao cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia[15] và Cục Trợ giúp pháp lý[16] giúp Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước và thực hiện các hoạt động nghiệp vụ theo thẩm quyền. Ở địa phương, Sở Tư pháp là cơ quan giúp UBND cấp tỉnh thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước ở địa phương và Phòng/bộ phận lý lịch tư pháp[17], Trung tâm trợ giúp pháp lý cấp tỉnh thực hiện các hoạt động nghiệp vụ theo quy định của pháp luật.

2.1. Về quản lý lý lịch tư pháp.

a) Về kết quả đạt được

b) Một số tồn tại, hạn ché và nguyên nhân

2.2. Về trợ giúp pháp lý,

a) Về kết quả đạt được

b) Một số tồn tại, hạn ché và nguyên nhân

2.3. Về quản lý công chứng.

a) Về kết quả đạt được

b) Một số tồn tại, hạn ché và nguyên nhân

1.3. Về mô hình nhiều cấp quản lý, như: Mô hình quản lý dịch vụ hộ tịch, chứng thực.

Điểm đặc thù của mô hình này là Bộ Tư pháp chỉ thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước thống nhất, không thực hiện các hoạt động nghiệp vụ. Thẩm quyền đăng ký và quản lý hộ tịch cũng như việc cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký được phân cấp toàn bộ cho UBND các cấp.

Về tổ chức, ở trung ương, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ủy quyền cho Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước và tổ chức thi hành pháp luật về các lĩnh vực hộ tịch, quốc tịch, chứng thực theo quy định của pháp luật (Điều 1 Quyết định số 1491/QĐ-BTP ngày 18/6/2013 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực. Ở địa phương (cấp tỉnh, huyện, xã) có Sở, Phòng Tư pháp ở cấp tỉnh và huyện và Cán bộ tư pháp – hộ tịch chuyên trách ở cấp xã giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Có thể sơ đồ hóa mô hình quản lý như sau (Mô hình 3):

Ở mô hình này, pháp luật đã quy định cụ thể về thẩm quyền quản lý nhà nước trong các lĩnh vực hộ tịch và chứng thực. Theo đó, Bộ Tư pháp được giao chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước; các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước theo lĩnh vực. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, huyện và xã (sau đây gọi là Uỷ ban nhân dân các cấp) thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch và chứng thực theo thẩm quyền.

MÔ HÌNH 3

 

- Ở trung ương có:

 

 

- Ở địa phương có:

 

 

 

 

 

 

 

Chỉ mối quan hệ chỉ đạo quản lý nhà nước

Chỉ mối quan hệ chỉ đạo nghiệp vụ

3.1. Về quản lý hộ tịch

Điểm đặc thù của mô hình quản lý này là phân cấp/phân tán quản lý. Ở trung ương, Bộ Tư pháp được giao thống nhất quản lý nhà nước về hộ tịch, phối hợp với Bộ ngoại giao tổ chức thực hiện; ở địa phương hiện nay, thẩm quyền quản lý nhà nước về hộ tịch được giao cho cả 3 cấp chính quyền tỉnh, huyện và xã. Từ ngày 1/1/2016 khi Luật hộ tịch[18] có hiệu lực thì việc quản lý nhà nước về hộ tịch vẫn được giao cho cả ba cấp chính quyền, nhưng cơ quan đăng ký hộ tịch chỉ được giao cho cấp huyện và cấp xã. Theo đó, việc quản lý nhà nước về hộ tịch được thực hiện ở cả 4 cấp (trung ương, tỉnh, huyện và xã).

a) Về kết quả đạt được

b) Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

3.2. Về quản lý chứng thực

Cũng như mô hình quản lý nhà nước về hộ tịch, mô hình quản lý chứng thực là phân cấp/phân tán quản lý. Ở trung ương, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; Bộ Ngoại giao có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ; Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký;  Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện việc quản lý nhà nước về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký tại địa phương.

a) Về kết quả đạt được

b) Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

1.4. Về mô hình liên tịch quản lý, như: Mô hình quản lý luật sư .

Về mô hình quản lý luật sư và hành nghề luật sư, (1) ở trung ương, có Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư; có Liên đoàn luật sư Việt Nam là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư trong phạm vi cả nước, đại diện cho luật sư, các Đoàn luật sư. (2) Ở địa phương, có Sở Tư pháp là cơ quan chuyên mô của UBND cấp tỉnh, giúp UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư tại địa phương; có Đoàn luật sư là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tổ chức và hoạt động theo Luật này và Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam. Có thể sơ đồ hóa mô hình quản lý như sau (Mô hình 4):

Ở mô hình quản lý này, Liên đoàn Luật sư Việt Nam (tổ chức xã hội - nghề nghiệp) đã được Nhà nước trao quyền tham gia quản lý nhà nước và quản lý hoạt động nghề nghiệp của Luật sư và có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư. Cũng tương tự như vậy, ở địa phương là cơ chế phối hợp giữa Sở Tư pháp và Đoàn Luật sư cấp tỉnh. Đến nay, trên cả nước đã có 63 Đoàn luật sư/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đánh dấu sự hoàn thiện của hệ thống tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư từ Trung ương tới địa phương, tạo cơ sở cho sự phát triển nghề luật sư trong cả nước theo mục tiêu đã đề ra.

a) Về kết quả đạt được

b) Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

 

MÔ HÌNH 4

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG III

PHƯƠNG HƯỚNG ĐỐI MỚI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

MÔ HÌNH QUẢN LÝ DỊCH VỤ CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP

 

1. CHỦ TRƯƠNG, ĐỊNH HƯỚNG CỦA ĐẢNG VỀ DỊCH VỤ CÔNG VÀ YÊU CẦU CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP, CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGÀNH TƯ PHÁP

1.1. Chủ trương, định hướng của Đảng về dịch vụ công

- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: "Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa… Định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ theo hướng Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc, cung cấp dịch vụ công"[19].

Bên cạnh đó, "khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức thực hiện một số dịch vụ công gắn với sự giám sát của cộng đồng như vệ sinh môi trường, tham gia giữ gìn trật tự an ninh xóm, phường…[20]”. Các định hướng này tiếp tục được khẳng định tại các văn kiện của Đảng các khóa X và XI.

Tại Báo cáo chính trị tại Đại hội XI (tháng 01 năm 2011) xác định: “Đẩy mạnh xã hội hóa các loại dịch vụ công phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa[21]”. “Đẩy mạnh đổi mới tổ chức, cơ chế hoạt động của các đơn vị dịch vụ công phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các đơn vị này có quyền chủ động và được khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để tham gia thị trường, cung cấp ngày càng nhiều và tốt hơn dịch vụ công cho xã hội, nhất là dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ…[22]”. Cụ thể hóa định hướng của Đảng, Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 -2020 (Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020) đã xác định "nâng cao chất lượng dịch vụ công" là một trong những mục tiêu trọng tâm (Điều 2).

1.2. Yêu cầu của cải cách hành chính và chủ trương xã hội hóa đối với ngành Tư pháp

Yêu cầu đặt ra trong đổi mới quản lý dịch vụ công hiện nay là:

- Xác định rõ trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền trong quản lý dịch vụ công, đẩy mạnh phân cấp thẩm quyền và trách nhiệm quản lý dịch vụ công cho chính quyền địa phương các cấp.

- Đổi mới, hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, cơ chế quản lý và tổ chức cung ứng phù hợp với đặc điểm, tính chất của dịch vụ công và từng loại hình dịch vụ. Quy định rõ trách nhiệm, mục tiêu, nội dung hoạt động, chất lượng, giá, phí... dịch vụ; đồng thời đảm bảo quyền tự chủ của các tổ chức cung ứng dịch vụ công.

- Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống các tổ chức cung ứng dịch vụ công trong cả nước phù hợp với từng lĩnh vực, từng vùng, từng địa phương theo yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả của mạng lưới dịch vụ công.

- Đổi mới cơ chế quản lý đối với lĩnh vực dịch vụ công, phát huy tốt mọi nguồn lực của toàn xã hội cho hoạt động dịch vụ công. Đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia cung ứng dịch vụ công. Xây dựng cơ chế hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận cho từng loại hình tổ chức cung ứng dịch vụ công.

- Đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công như là một trong những giải pháp chủ yếu để huy động mạnh mẽ các nguồn lực và phát huy năng lực xã hội, khu vực thị trường tham gia cùng với Nhà nước vào việc phát triển dịch vụ công để đáp ứng tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân, nhưng không hạ thấp hoặc giảm bớt vai trò, trách nhiệm của Nhà nước đối với khu vực này.

- Xây dựng các chính sách thích hợp đối với lực lượng lao động trong các lĩnh vực dịch vụ công về đào tạo, bồi dưỡng, tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm, khen thưởng, tôn vinh, thu hút nhân tài, chuyên gia... phù hợp với đặc điểm, tính chất của từng ngành nghề, từng vùng, miền khác nhau.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước đối với việc chấp hành luật pháp, chính sách của các tổ chức cung ứng dịch vụ công. Thực hiện công khai, minh bạch, tăng cường vai trò giám sát của người dân và các tổ chức xã hội trong quản lý việc cung ứng dịch vụ công.

Điều này một lần nữa khẳng định chỉ đạo đúng đắn của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị toàn quốc triển khai công tác tư pháp năm 2013: “Thực tế cho thấy, việc thúc đẩy nhanh, hiệu quả hay cản trở, làm chậm đi quá trình phát triển đất nước, trước hết cũng từ thể chế, pháp luật".

2. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN LÝ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP

Theo chúng tôi, việc hoàn thiện mô hình quản lý dịch vụ công của ngành phải bảo đảm các nội dung chủ yếu sau đây:

- Đổi mới mô hình tổ chức và phương thức quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp theo hướng chuyển đổi từ hoạt động hành chính quản lý sang hoạt động mang tính dịch vụ hành chính, vì bản chất của dịch vụ công là bảo đảm công bằng đối với mọi tổ chức, cá nhân khi sử dụng dịch vụ, góp phần duy trì trật tự và an toàn xã hội;

- Xây dựng mô hình quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp bảo đảm thống nhất, tập trung trong sự kết nối, chia sẻ thông tin với cơ quan nhà nước, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện dịch vụ và tìm hiểu thông tin về dịch vụ đó. Mặt khác, phải bảo đảm nguyên tắc phân cấp trong cung ứng dịch vụ công của ngành như: (1) Dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của tổ chức, công dân thì sẽ do chính quyền cấp gần dân nhất tổ chức thực hiện; (2) Phạm vi sử dụng dịch vụ của tổ chức, cá nhân, càng lớn thì càng phân cấp nhiều cho cấp dưới; (3) Mức độ phức tạp trong việc cung ứng dịch vụ công càng lớn thì càng được giao cho cơ quan có tính chuyên môn cao thực hiện; (4) Dịch vụ phục vụ cho những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cấp nào thì giao cho cấp đó thực hiện; (5) Các tổ chức và công dân do cấp nào trực tiếp quản lý thì cấp đó có trách nhiệm cung ứng dịch vụ công.

Với định hướng đổi mới và nguyên tắc phân cấp như trên, chúng tôi đề nghị áp dụng mô hình quản lý dịch vụ công của ngành trong thời gian tới như sau:

- Áp dụng mô hình một cấp quản lý đối với việc quản lý tổ chức, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm; lý lịch tư pháp và trợ giúp pháp lý;

- Áp dụng mô hình liên tịch quản lý[23] đối với việc quản lý tổ chức, hoạt động công chứng, luật sư;

- Áp dụng mô hình nhiều cấp quản lý đối với việc quản lý tổ chức, hoạt động hộ tịch và chứng thực.

3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP

3.1. Hoàn thiện các quy định về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công nói chung và của ngành Tư pháp nói riêng

- Pháp luật phải phân định rõ giữa quản lý nhà nước về dịch vụ với hoạt động quản lý nội bộ (quản trị) trong các cơ quan hành chính, giữa cơ quan hành chính với các tổ chức dịch vụ công thuộc cơ quan hành chính được giao cung cấp dịch vụ khi thực hiện việc cung cấp dịch vụ theo hướng tăng cường quyền tự chủ cho các bộ phận, tổ chức trực tiếp cung cấp dịch vụ. Theo hướng khẳng định rõ, quản lý nhà nước cần thực hiện những hoạt động cụ thể như xây dựng chính sách, pháp luật, triển khai việc thực hiện chính sách pháp luật về dịch vụ công; xây dựng kế hoạch, quy hoạch phát triển các dịch vụ công để điều tiết vĩ mô sự phát triển của các dịch vụ; thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật của các bên...

Tăng quyền tự chủ cho các tổ chức dịch vụ công của nhà nước, giúp các tổ chức này có thể linh hoạt trong việc đáp ứng yêu cầu của cá nhân, tổ chức về dịch vụ, những hoạt động quản lý nội bộ nên chuyển giao cho chính các cơ quan, tổ chức thực hiện, cơ quan quản lý nhà nước chỉ giữ quyền kiểm tra, giám sát.

- Bổ sung cơ chế phối hợp giữa quản lý nhà nước và hoạt động tự quản của các tổ chức dịch vụ công. Khi cá nhân, tổ chức tham gia cung cấp dịch vụ công thì nhà nước không thể bằng các mệnh lệnh hành chính can thiệp trực tiếp vào các công việc nội bộ của tổ chức dịch vụ công của cá nhân, tổ chức. Nhà nước ban hành pháp luật làm chuẩn mực cho các tổ chức dịch vụ tự quản lý, giải quyết các công việc nội bộ nhằm đảm bảo cung cấp dịch vụ đúng pháp luật, có chất lượng.

- Phối hợp giữa quản lý nhà nước với quản lý của các tổ chức cung cấp dịch vụ công là phát huy tính chủ động, trách nhiệm xã hội của cá nhân, tổ chức trong việc hình thành và bảo vệ trật tự pháp luật. Để tạo ra cơ sở pháp lý cho sự phối hợp này, pháp luật cần bổ sung các quy định phù hợp về quyền, nghĩa vụ của tổ chức dịch vụ, nội dung quản lý nhà nước. Cụ thể, pháp luật cần quy định quyền của tổ chức dịch vụ công được quyết định cơ cấu tổ chức, biên chế nhân sự phù hợp với quy định của pháp luật; nghĩa vụ bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của các cá nhân được bổ nhiệm để thực hiện dịch vụ, nghĩa vụ thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi phát hiện thấy có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình cung cấp dịch vụ...

- Cần quy định cụ thể hơn về sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức xã hội nghề nghiệp. Để đảm bảo cơ chế phối hợp trong quản lý hành chính, trước hết pháp luật phải quy định về các tổ chức xã hội, đặc biệt là các hội nghề nghiệp liên quan đến từng dịch vụ, nhóm dịch vụ công cụ thể. Việc pháp luật xác định cụ thể giới hạn của quản lý nhà nước đối với dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính cũng góp phần nâng cao vai trò của các tổ chức xã hội trong cung cấp dịch vụ, quản lý nhà nước với việc cung cấp dịch vụ. Mặt khác, pháp luật phải bổ sung những quy định rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các tổ chức dịch vụ công, các hội nghề nghiệp để thông qua việc thực hiện những quyền và nghĩa vụ đó tạo ra cơ chế phối hợp giữa các tổ chức dịch vụ, các tổ chức xã hội với các cơ quan có thẩm quyền trong quản lý nhà nước.

3.2. Cần quy định thống nhất về bảo hiểm nghề nghiệp bắt buộc đối với người hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ công

Pháp luật cần quy định thống nhất bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp là nghĩa vụ bắt buộc. Về lâu dài, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cần thiết phải được quy định là nghĩa vụ của mọi tổ chức dịch vụ công của cá nhân, tổ chức khi được Nhà nước cho phép tham gia cung cấp một dịch vụ cụ thể (ví dụ như đối với hoạt động tư vấn pháp luật của tổ chức xã hội, các trường đại học, viện nghiên cứu chuyên ngành luật). Song song với quy định về bảo hiểm nghề nghiệp đối với dịch vụ công thì kiến nghị pháp luật về kinh doanh bảo hiểm cũng phải được hoàn thiện để bảo đảm sự thống nhất.

3.3. Hoàn thiện các quy định về xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ cung cấp và quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công

Việc xây dựng các hệ cơ sở dữ liệu thông tin về từng dịch vụ hành chính công, liên thông giữa các dịch vụ cho phép các cơ quan nhà nước, các tổ chức dịch vụ công có thể tra cứu nhanh chóng và chính xác thông tin cần thiết để quyết định từ chối hay chấp nhận cung cấp một dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính cụ thể. Hệ thống thông tin cho phép kết nối giữa người yêu cầu dịch vụ, người cung cấp dịch vụ với Nhà nước là người quản lý. Nhà nước không cần trực tiếp tham gia cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính vẫn có thông tin cần thiết để kiểm tra, kiểm soát việc cung cấp dịch vụ công, cũng như kiểm soát các giao dịch dân sự, thương mại mà cá nhân, tổ chức tham gia vào với sự đảm bảo của các dịch vụ công.

Để thống nhất hệ thống thông tin của các cơ quan nhà nước, của các tổ chức đơn vị phù hợp với xu thế phát triển của khoa học, công nghệ hiện nay, pháp luật về dịch vụ công cần bổ sung những quy định liên quan đến việc xây dựng, quản lý, khai thác hệ cơ sở dữ liệu thông tin. Trong đó, xác định rõ trách nhiệm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ quan quản lý hệ cơ sở dữ liệu, quy định nghĩa vụ cung cấp, trao đổi thông tin cho hệ cơ sở dữ liệu và quy định về việc khai thác, sử dụng các thông tin từ hệ cơ sở dữ liệu đối với từng dịch vụ, nhóm dịch vụ cụ thể hoặc tất cả các dịch vụ có liên quan.

3.4. Quy hoạch, bồi dưỡng nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, cá nhân trực tiếp thực hiện dịch vụ công

Để bảo đảm đủ nhân lực có chất lượng cho cung cấp dịch vụ công thì các cơ quan phải thực hiện đồng bộ nhiều chính sách về tuyển dụng, về chế độ lương, bảo đảm thu nhập, việc làm có chú ý đến điều kiện đặc thù của các địa phương, của từng dịch vụ.

Thực hiện đồng bộ, đa dạng các hình thức đào tạo, dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người được bổ nhiệm đang trực tiếp thực hiện dịch vụ công trong các cơ quan, tổ chức phải được thực hiện một cách linh hoạt, kết hợp giữa đào tạo cơ bản, chuyên sâu với bồi dưỡng thường xuyên.

Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức, viên chức, người trực tiếp thực hiện dịch vụ phù hợp với từng công việc, nhiệm vụ, dịch vụ được giao thực hiện. Đảm bảo việc đào tạo, bồi dưỡng vừa chú trọng cung cấp tri thức chuyên môn, nghiệp vụ, vừa chú trọng rèn các kỹ năng cần thiết, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp, xử lý tình huống trong giao tiếp với nhân dân trong quá trình cung cấp các dịch vụ.

3.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật

Các cơ quan quản lý nhà nước cần xây dựng kế hoạch thanh tra và thực hiện thanh tra định kỳ đối với các tổ chức dịch vụ công của cá nhân, tổ chức.

Cùng với công tác thanh tra, kiểm tra việc xử lý các vi phạm pháp luật cũng phải được thực hiện nhanh chóng, nghiêm minh.

Với các cán bộ, công chức, viên chức tham gia cung cấp dịch vụ, cơ quan, tổ chức quản lý sử dụng gắn chất lượng, số lượng dịch vụ, sự hài lòng của khách hàng làm tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức, viên chức hàng năm và là một trong những căn cứ để khen thưởng hoặc xử lý kỷ luật.

Với các cá nhân thực hiện dịch vụ công trong các tổ chức dịch vụ công của cá nhân, tổ chức nếu vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, cũng cần thiết quy định về trách nhiệm kỷ luật đối với những cá nhân này. Cơ quan nhà nước có thảm quyền bổ nhiệm có thẩm quyền kỷ luật cảnh cáo, tước quyết định bổ nhiệm, tước thẻ hành nghề.

Mặt khác, để huy động được sự tham gia quản lý nhà nước của tổ chức, công dân thì việc thực hiện việc đo lường và xác định chỉ số hài lòng của người dân (SIPAS) đối với một số dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp là rất cần thiết và có ý nghĩa. Do vậy, cần định kỳ thực hiện và tổ chức công bố, qua đó góp phần nâng cao ý thức và trách nhiệm cung cấp dịch vụ công của Ngành.

3.6. Tiếp tục thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính, kiểm soát chặt chẽ các thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện dịch vụ công của ngành Tư pháp

Như đã phân tích ở phần trên, các nhóm dịch vụ công thuộc phạm vi của ngành Tư pháp gồm có: (1) Nhóm dịch vụ cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề thuộc lĩnh vực quản lý của ngành tư pháp và (2) Nhóm dịch vụ cấp đăng ký và giấy chứng nhận, giấy xác nhận thuộc lĩnh vực quản lý của ngành tư pháp. Do vậy, việc tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính, kiểm soát chặt chẽ các thủ tục hành chính sẽ tạo thuận lợi tối đa, giảm chi phí cho người dân và tổ chức, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Tiếp tục phát huy và tổ chức triển khai thực hiện các sáng kiến cải cách hành chính, đặc biệt là trong lĩnh vực cải cách thủ tục hành chính với việc triển khai thực hiện trên toàn quốc mô hình liên thông các thủ tục hành chính.

Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả việc xây dựng, quản lý, cập nhật, khai thác các cơ sở dữ liệu điện tử và các phần mềm ứng dụng phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ trong các lĩnh vực công chứng, hộ tịch, lý lịch tư pháp, đăng ký giao dịch bảo đảm, trợ giúp pháp lý… theo các đề án đã được phê duyệt./.

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

I. VĂN KIỆN VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT

1.      Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X và XI

2.      Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, sửa đổi năm 2011; và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

3.      Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan và các Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về tổ chức bộ máy;

II. SÁCH, CÁC BÀI NGHIÊN CỨU VÀ TÀI LIỆU KHÁC

1.      Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên), Hành chính công, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, năm 2006; Vai trò của nhà nước trong cung ứng dịch vụ công - nhận thức, thực trạng & giải pháp, H, 2002.

2.      PGS. TS Lê Chi Mai, Chuyển giao dịch vụ công cho các cơ sở ngoài nhà nước, Nxb Lao động xã hội , 2002;  Dịch vụ hành chính công, Nxb.Lý luận chính trị, H, 2006

3.      TS. Chu Văn Thành, Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb.CTQG, H, 2004;

4.      Xã hội hóa dịch vụ công ở Việt Nam/ Đỗ Trung Hiếu // Lý luân chính trị Số 4/2011. - H.; 2011. - tr.48-53.

5.      Xã hội hóa và chất lượng cung ứng dịch vụ công/ Đinh Mai Lan // Nghiên cứu lập pháp Số 21(182)/T11-2010 . - H.; 2010. - tr.42-44.

6.      Tiêu chí đánh giá chất lượng cung ứng dịch vị công tại các cơ quan hành chính nhà nước/ Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hoà // Tổ chức nhà nước Số /2010. - H.; 2010. - Tr. - Tr.39-42.

7.      Đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công ở nước ta hiện nay/ Nguyễn Minh Phương // Tổ chức Nhà nước Số 11/2008. - H.; 2008. - tr.17 - 19.

8.      Quan niệm và thực tiễn dịch vụ công ở nước ta/ Nguyễn Phước Thọ // Nghiên cứu lập pháp Số 9/2003. - H. , 2003. - tr.38-43.

9.      Vai trò của Nhà nước và vấn đề dịch vụ công ở nước ta hiện nay / TS. Hoàng Thị Kim Quế // Nhà nước và pháp luật số 2/2003. - H.: Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, T2/2003. - tr.20-24.

10.  Báo cáo thực trạng thi hành Luật Trợ giúp pháp lý và định hướng sửa đổi - Hội nghị định hướng sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý ngày 05/12/2014.

11.  Báo cáo tổng kết công tác Tư pháp năm 2012  và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2013 của Bộ Tư pháp.Báo cáo tổng kết công tác Tư pháp năm 2013  và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2014 của Bộ Tư pháp.

12.  Báo cáo tổng kết công tác Tư pháp năm 2014  và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2015 của Bộ Tư pháp.

13.  Báo cáo số 158-BC/BCS ngày 27/12/2014 của Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp kết quả công tác cải cách tư pháp năm 2014 và phương hướng nhiệm vụ cải cách tư pháp năm 2015 của Bộ Tư pháp. Tr 6.

14.  Tài liệu Hội  thảo “Thực hiện chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020” ngày 18/11/2014 tại Nhà khách Văn Phòng Quốc Hội, số 2 Hoàng Cầu, thành phố Hà Nội.



[1] Nguồn từ trang thông tin hướng dẫn các thủ tục hành chính của Bộ Tư pháp (thống kê ngày 1/10/2014): http://moj.gov.vn/tthc/Lists/ThutucHanhChinh/View_detail.aspx

[2] Như tại Bạc Liêu, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cà Mau, Hà Nội, Sóc Trăng, Thừa Thiên Huế, Thanh Hóa, Tiền Giang, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc...

[3] Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG 2001, Tr 133

[4] Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG 2001, Tr  217

[5] Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG 2001, Tr 272

[6] Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên), Hành chính công, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, năm 2006, tr 453.

[7] Đây cũng trùng với quan điểm của TS. Nguyễn Ngọc Bích - Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính ở việt nam hiện nay.

[8] (i) là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, (ii) không nhằm mục tiêu lợi nhuận,(iii) do cơ quan nhà nước (hoặc tổ chức, doanh nghiệp được ủy quyền) có thẩm quyền thực hiện (iv) cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý.

[9] Trang 218, Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách khoa và Nxb. Tư pháp, năm 2006

[10] Ở Iceland, chính phủ đã xây dựng và thực thi chiến lược cung ứng dịch vụ công và từng bộ hiện đang chuẩn bị cho các chiến lược nhằm phục vụ tốt nhất các nhu cầu của khách hàng - công dân. Cải cách ở Nhật Bản được thực hiện mạnh hơn bởi sự thành lập Trung tâm Xúc tiến cải cách hành chính, bao gồm tất cả các bộ trưởng, liên quan đến toàn bộ nội các chính phủ, dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng. Các bộ và cơ quan ngang bộ của Anh và Australia buộc phải trả lại tiền lãi hiệu quả mỗi năm 1,5% trên tổng chi phí hoạt động cho Bộ Tài chính hay Kho bạc (tại Australia, số tiền lãi này lên tới 80 triệu đôla một năm). Chính phủ New Zealand đòi hỏi các bộ hạch toán việc sử dụng vốn, bao gồm cả khấu hao. Bộ Tài chính Phần Lan thực hiện quản lý hướng tới kết quả, trong đó chi phí hoạt động của tất cả các cơ quan sẽ được dựa trên ngân sách cấp theo kết quả thực hiện của năm trước.

Tất cả các bộ đều được yêu cầu vạch ra chương trình chất lượng và năng suất lao động cho 5 năm sau. Chính phủ Canada đã coi phân tích chi phí - hoạt động trong quản lý công là một phương pháp cơ bản để hạch toán chi phí và lựa chọn các phương án cung cấp dịch vụ công tốt cho cộng đồng. Ở Mỹ, nếu chính phủ đạt được mục tiêu tăng hiệu suất hoạt động của khu vực công lên 15% thì hàng năm ngân sách liên bang sẽ tiết kiệm được 134 tỷ đôla trong dự kiến chi tiêu liên bang 900 tỷ đôla năm 2010

[11] khoản 25 Điều 2 Nghị định số 22/2013/NĐ-CP

a) Tổ chức, hướng dẫn thực hiện các cơ chế, chính sách về cung ứng các dịch vụ công; về xã hội hoá các hoạt động cung ứng dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ;

b) Trình Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch mạng lưới tổ chức sự nghiệp dịch vụ công;

c) Hướng dẫn, tạo điều kiện và hỗ trợ cho các tổ chức thực hiện các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ hoạt động theo đúng quy định của pháp luật.

d) Theo dõi, kiểm tra, giám sát, đo lường chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

[12] Như: xây dựng, trình Bộ trưởng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm về đăng ký giao dịch bảo đảm; Chủ trì hoặc tham gia soạn thảo các đề án, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm; Tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm; Xây dựng, trình Bộ trưởng ban hành, quản lý và hướng dẫn việc sử dụng các mẫu đơn, giấy tờ, sổ đăng ký về giao dịch bảo đảm; ban hành theo thẩm quyền văn bản cá biệt, văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm)

[13] Nội dung đăng ký giao dịch bảo đảm được quy định trong các văn bản có hiệu lực pháp lý cao như Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005, Luật Đất đai năm 2013, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006, Luật Nhà ở năm 2005 (sửa đổi, bổ sugn năm 2009), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/11/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm và các văn bản hướng dẫn thi hành.

[14] Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT ngày 25/4/2014 của Ngân hàng nhà nước, Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên môi trường hướng dẫn thủ tục thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai; Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 06/6/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên môi trường, Ngân hàng nhà nước hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm...

[15] Theo quy định tại Điều 2 Quyết định số 97/QĐ-BTP ngày 26/01/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia;

[16] Theo quy định tại Điều 2 Quyết định số 1989/QĐ-BTP ngày 17/08/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Trợ giúp pháp lý

[17] Về tổ chức, cán bộ làm công tác lý lịch tư pháp, 05 Sở Tư pháp các thành phố trực thuộc Trung ương và Sở Tư pháp tỉnh Đắk Lắk đã thành lập Phòng Lý lịch tư pháp; hầu hết các Sở Tư pháp khác đã được kiện toàn bộ phận lý lịch tư pháp tại phòng Hành chính tư pháp để thực hiện nhiệm vụ quản lý lý lịch tư pháp. Tính đến ngày 01/7/2013, toàn quốc có 169 biên chế làm công tác lý lịch tư pháp (bằng khoảng 1/2 số lượng biên chế theo Quyết định số 2369/QĐ-TTg), trong đó có 16/63 Sở Tư pháp có đủ số biên chế chuyên tách tối thiểu làm công tác tư pháp, đặc biệt 03 Sở Tư pháp đã bố trí vượt số biên chế tối thiểu (thành phố Hồ Chí Minh: 10 biên chế; Tây Ninh: 05 biên chế; Đắk Lắk: 05 biên chế)

[18] Luật Hộ tịch đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20/11/2014 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2016.

[19] Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị, quốc gia – Sự thật 2001, Tr 133.

[20] Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Tlđd, Tr  217.

[21] Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Tlđd, Tr 250.

[22] Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Tlđd, Tr 272.

[23] Liên tịch quản lý ở đây được hiểu là việc phối hợp thực hiện quản lý nhà nước giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tổ chức xã hội nghề nghiệp được Nhà nước trao quyền.

 

Nội dung toàn văn

 

 

 

 

 

 

 

PHẦN I

 

BÁO CÁO PHÚC TRÌNH ĐỀ TÀI

 

 

 

PHẦN MỞ ĐẦU

 

1. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Khái niệm dịch vụ công lần đầu tiên được ghi nhận trong Nghị quyết Hội nghị trung ương 7 (khóa VIII) năm 1999 và được đưa vào Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001). Việc ghi nhận khái niệm này trong các văn kiện của Đảng và trong các văn bản quy phạm pháp luật là một bước tiến quan trọng trong nhận thức về dịch vụ công và là điểm mấu chốt để thực hiện các hoạt động cải cách việc cung ứng dịch vụ công.

Dịch vụ công theo nghĩa chung nhất được hiểu là những giao dịch trực tiếp về dịch vụ giữa Nhà nước (hoặc các tổ chức được Nhà nước ủy nhiệm) và công dân với tư cách là khách hàng. Nói rộng hơn, khi Nhà nước đứng ra với tư cách là người bảo đảm cung cấp các dịch vụ công thì các dịch vụ đó được gọi là các dịch vụ công. Khái niệm dịch vụ công bao gồm một số loại dịch vụ khác nhau, thậm chí rất khác nhau về tính chất. Tuy nhiên, các dịch vụ này có các đặc điểm chung như sau:

Thứ nhất, đây là những hoạt động phục vụ nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các dịch vụ này cho xã hội.

Thứ hai, việc Nhà nước cung ứng dịch vụ công thường không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ. Người sử dụng có thể phải thanh toán một phần hoặc toàn bộ chi phí; tuy nhiên, trong mọi trường hợp, Nhà nước vẫn có trách nhiệm bảo đảm các dịch vụ này không nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.

Tóm lại, có thể hiểu dịch vụ công là dịch vụ do Nhà nước trực tiếp đảm nhận việc cung ứng hay ủy nhiệm cho các cơ sở ngoài Nhà nước thực hiện nhằm bảo đảm trật tự và công bằng xã hội phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân. Trong đề tài này, chúng tôi chỉ tập chung nghiên cứu, làm rõ về dịch vụ công với hàm ý thứ nhất đó là "dịch vụ hành chính công" gắn với chức năng, nhiệm vụ của ngành Tư pháp.

1.2. Một trong những chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của các Bộ và cơ quan ngang bộ là thực hiện quyền quản lý nhà nước đối với dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực mình quản lý (Điều 8 Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 18/04/2012). Theo đó, về quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực, các Bộ có trách nhiệm: (1) Trình Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách về cung ứng các dịch vụ công; thực hiện xã hội hóa các hoạt động cung ứng dịch vụ công trong ngành, lĩnh vực; (2) Trình Thủ tướng Chính phủ quy hoạch mạng lưới tổ chức các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; (3) Hướng dẫn việc thực hiện chính sách, pháp luật và hỗ trợ cho các tổ chức thực hiện các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực theo quy định của pháp luật. Như vậy, Bộ, cơ quan ngang Bộ có trách nhiệm đối với việc bảo đảm các dịch vụ công được cung cấp đầy đủ theo đúng yêu cầu của nhà nước đáp ứng được các yêu cầu quản lý và phục vụ xã hội.

Đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ của ngành Tư pháp trong giai đoạn hiện nay, có thể thấy ngành Tư pháp hiện đang cung cấp rất nhiều loại dịch vụ hành chính công. Các loại hình dịch vụ hành chính công này chủ yếu ở các lĩnh vực như: (1) Lĩnh vực hoạt động hành chính tư pháp với các hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch, chứng thực, lý lịch tư pháp (2) Lĩnh vực trợ giúp pháp lý (3) Lĩnh vực đăng ký giao dịch có bảo đảm (4) Lĩnh vực bổ trợ tư pháp với các hoạt động Luật sư, công chứng, giám định tư pháp... Cụ thể, theo công bố trên trang thông tin hướng dẫn các thủ tục hành chính của Bộ Tư pháp cho thấy, hiện nay, Bộ Tư pháp đang cung cấp 181 thủ tục hành chính, các Sở Tư pháp đang cung cấp 208 thủ tục hành chính, các phòng tư pháp cấp quận huyện cung cấp 60 thủ tục hành chính và Tư pháp cấp xã cung cấp 65 thủ tục hành chính[1] trong đó có nhiều thủ tục thuộc về dịch vụ hành chính công của ngành. Như vậy, có thể thấy rằng dịch vụ công trong ngành Tư pháp khá đa dạng, bao gồm nhiều loại hình dịch vụ công khác nhau. Các dịch vụ công này chủ yếu do các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, sở, phòng và cán bộ Tư pháp hộ tịch cấp xã đảm nhiệm. Tuy nhiên, cũng có một số thủ tục/dịch vụ hiện nay đã và đang được trao cho các tổ chức và cá nhân hành nghề thực hiện (đã xã hội hóa). Ví dụ như: các dịch vụ công chứng, một số hoạt động chứng thực; một số hoạt động trong quy trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự; trợ giúp pháp lý...

Tuy nhiên, theo đánh giá tại Báo cáo kết quả công tác tư pháp sáu tháng đầu năm và nhiệm vụ, giải pháp công tác 6 tháng cuối năm 2012 của Bộ Tư pháp (Báo cáo Số: 137/BC-BTP ngày 23/07/2012 của Bộ Tư pháp) cho thấy công tác Tư pháp trong năm 2012 vẫn còn các tồn tại như:

- Công tác quản lý hộ tịch ở một vài địa phương vẫn còn hạn chế, dẫn đến xảy ra tình trạng đăng ký hộ tịch sai thẩm quyền, sai về trình tự thủ tục, dẫn đến việc phải hủy các giấy tờ hộ tịch; còn tình trạng đăng ký chưa kịp thời, chưa đầy đủ, thiếu chính xác. Còn tình trạng tiêu cực trong khâu giải quyết hồ sơ yêu cầu kết hôn có yếu tố nước ngoài ở một số địa phương. Việc áp dụng biện pháp phỏng vấn trong đăng ký kết hôn có xu hướng bị hành chính hoá;

- Quy định pháp luật về chứng thực với các văn bản pháp luật khác có liên quan đến lĩnh vực chứng thực chưa thống nhất, dẫn đến việc thực hiện còn gặp phải những khó khăn, vướng mắc (ví dụ Luật Hôn nhân và Gia đình; Luật Đất đai; Luật Nhà ở…).

- Việc hướng dẫn triển khai thực hiện quy định của Luật Nuôi con nuôi về vấn đề đăng ký con nuôi thực tế chưa kịp thời theo quy định của Luật nên chưa được quan tâm triển khai đúng mức, đồng bộ trong toàn quốc. Chưa có hướng dẫn quản lý và sử dụng phí đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài và chi phí giải quyết việc nuôi con nuôi nước ngoài dẫn đến các địa phương còn khó khăn khi triển khai thực hiện.

- Một số địa phương gặp khó khăn đối với việc chuyển giao chứng thực sang các tổ chức hành nghề công chứng do thiếu đồng bộ trong các quy định pháp luật; hoạt động công chứng còn để xảy ra nhiều sai sót; tình trạng làm giả hồ sơ hoặc giả người để làm thủ tục công chứng mua bán, thế chấp nhà đất diễn ra ngày càng nhiều.

- Công tác quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư ở một số địa phương còn lỏng lẻo, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Chất lượng đội ngũ luật sư chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế, quốc tế.

- Vẫn còn tình trạng các Hội đồng bán đấu giá cấp huyện hoặc tự thành lập Hội đồng bán đấu giá tài sản hoặc mời các doanh nghiệp không có chức năng bán đấu giá tự đứng ra tổ chức bán đấu giá mà không mời đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá;

- Hiện tượng tiêu cực trong thi hành án vẫn có chiều hướng gia tăng như: bản án đã có hiệu lực nhưng cơ quan thi hành án không (hoặc chậm trễ) tổ chức thi hành; sai phạm trong việc cưỡng chế thi hành án; ...

Cũng tại Báo cáo kết quả công tác tư pháp sáu tháng đầu năm 2012, Bộ Tư pháp đã xác định các nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan của các tồn tại hạn chế trên. Trong đó nguyên nhân do: "Thể chế trong một số lĩnh vực chưa chưa đầy đủ, chưa thống nhất, làm ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước và việc triển khai thống nhất ở các địa phương (như lĩnh vực theo dõi thi hành pháp luật, hộ tịch, bồi thường nhà nước, giám định tư pháp...)". Hoặc :"Việc phân cấp trong giải quyết công việc chưa thực sự khoa học. Một số thủ trưởng đơn vị chưa sát sao trong công tác chỉ đạo, điều hành công việc; chưa tập trung nguồn lực vào nhiệm vụ trọng tâm trong điều kiện nguồn nhân lực của Ngành còn hạn chế".

Đây cũng là nguyên nhân làm cho hiệu quả quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp chưa cao.

1.3. Về định hướng chỉ đạo, dịch vụ công lần đầu tiên được ghi nhận trong Nghị quyết Hội nghị trung ương 7 (khóa VIII) năm 1999 và được đưa vào Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: "Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa… Định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ theo hướng Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc, cung cấp dịch vụ công"[2]. Một trong những chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của các Bộ và cơ quan ngang bộ là thực hiện quyền quản lý nhà nước đối với dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực mình quản lý. Như vậy, Nhà nước có trách nhiệm đối với việc bảo đảm các dịch vụ công được cung cấp đầy đủ theo đúng yêu cầu của nhà nước đáp ứng được các yêu cầu quản lý và phục vụ xã hội. Bên cạnh đó, "khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức thực hiện một số dịch vụ công gắn với sự giám sát của cộng đồng như vệ sinh môi trường, tham gia giữ gìn trật tự an ninh xóm, phường…[3]”. Các định hướng này tiếp tục được khẳng định tại các văn kiện của Đảng các khóa X và XI.

Tại Báo cáo chính trị tại Đại hội XI (tháng 01 năm 2011) xác định: “Đẩy mạnh xã hội hóa các loại dịch vụ công phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG 2001, Tr 250). “Đẩy mạnh đổi mới tổ chức, cơ chế hoạt động của các đơn vị dịch vụ công phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các đơn vị này có quyền chủ động và được khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để tham gia thị trường, cung cấp ngày càng nhiều và tốt hơn dịch vụ công cho xã hội, nhất là dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ…”  (Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG 2001, Tr 272). Cụ thể hóa định hướng của Đảng, Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 -2020 (Nghị quyết 30c/NQ-CP của Chính phủ ngày 08/11/2011 Ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020) đã xác định "nâng cao chất lượng dịch vụ công" là một trong những mục tiêu trọng tâm (Điều 2 NQ 30c).

Từ định hướng đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động mang tích chất dịch vụ của Đảng và từ mục tiêu của Chương trình cải cách hành chính của Chính phủ; từ thực trạng quản lý của Bộ Tư pháp hiện nay thì việc đặt ra hoạt động nghiên cứu đề xuất xây dựng mô hình quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp trong thời điểm hiện nay có tính cấp thiết cao và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI ĐỀ TÀI ĐẶT RA ĐỂ NGHIÊN CỨU

2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

a) Về dịch vụ công

Ở Việt Nam, nghiên cứu về dịch vụ công cũng chỉ mới được quan tâm từ những năm 90 của Thế kỷ 20. Các nghiên cứu được tập trung trước tiên ở các cơ sở nghiên cứu, đào tạo như: Học viện Hành chính Quốc gia (nay là Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh); sau đó được vấn đề này được các Bộ, ngành quan tâm nghiêm cứu đề phục vụ cho việc đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của bộ, ngành. Các tài liệu tham khảo chủ yếu có liên quan đến dịch vụ công có thể được kể đến như: (i) TS. Nguyễn Ngọc Hiến, Vai trò của nhà nước trong cung ứng dịch vụ công - nhận thức, thực trạng & giải pháp, H, 2002. (ii) PGS. TS Lê Chi Mai, Chuyển giao dịch vụ công cho các cơ sở ngoài nhà nước, Nxb Lao động xã hội , 2002;  Dịch vụ hành chính công, Nxb.Lý luận chính trị, H, 2006 (iii) TS. Chu Văn Thành, Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb.CTQG, H, 2004.... Các tài liệu này, chủ yếu cung cấp các lý luận về dịch vụ công phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức và đào tạo sau đại học.

Mặt khác, trong thời gian qua cũng đã có một số công trình nghiên cứu đánh giá về thực trạng thực hiện dịch vụ công ở Việt Nam. Có thể kể đến tác phẩm của TS. Chu Văn Thành, Dịch vụ công - đổi mới quản lý và tổ chức cung ứng ở VN hiện nay, Nxb.CTQG, 2007. Hoặc các bài nghiên cứu, trao đổi được công bố trên các tạp chí chuyên ngành như:

(i) Xã hội hóa dịch vụ công ở Việt Nam/ Đỗ Trung Hiếu // Lý luân chính trị Số 4/2011. - H.; 2011. - tr.48-53. (ii) Xã hội hóa và chất lượng cung ứng dịch vụ công/ Đinh Mai Lan // Nghiên cứu lập pháp Số 21(182)/T11-2010 . - H.; 2010. - tr.42-44. (iii) Tiêu chí đánh giá chất lượng cung ứng dịch vị công tại các cơ quan hành chính nhà nước/ Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hoà // Tổ chức nhà nước Số /2010. - H.; 2010. - Tr. - Tr.39-42.  (iV) Đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công ở nước ta hiện nay/ Nguyễn Minh Phương // Tổ chức Nhà nước Số 11/2008. - H.; 2008. - tr.17 - 19. (v) Quan niệm và thực tiễn dịch vụ công ở nước ta/ Nguyễn Phước Thọ // Nghiên cứu lập pháp Số 9/2003. - H. , 2003. - tr.38-43. (vi) Vai trò của Nhà nước và vấn đề dịch vụ công ở nước ta hiện nay / TS. Hoàng Thị Kim Quế // Nhà nước và pháp luật số 2/2003. - H.: Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, T2/2003. - tr.20-24. ... Các công trình nghiên cứu này đã tiếp cận dịch vụ công ở tẫm vĩ mô hoặc được tiếp cận với từng bình diện khác nhau. Theo đó, ở mỗi quốc gia trên thế giới, tuỳ thuộc vào nhận thức, quan điểm chính trị cũng như các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, truyền thống, tập quán, những nhu cầu cụ thể của người dân và cộng đồng ở mỗi khu vực, mỗi vùng, miền khác nhau mà có những cách tiếp cận khác nhau về dịch vụ công, cũng như phạm vi dịch vụ công. Nhìn chung, có ba cách tiếp cận khác nhau về dịch vụ công:

- Cách tiếp cận thứ nhất theo quan điểm “Nhà nước phục vụ” cho rằng: tất cả các hoạt động của cơ quan nhà nước đều thuộc lĩnh vực dịch vụ. Do vậy, dịch vụ công bao gồm tất cả các hoạt động nhằm thực hiện các chức năng vốn có của Nhà nước, từ xây dựng chính sách, pháp luật và thực thi chính sách, pháp luật cho đến các hoạt động y tế, giáo dục, điện, nước..., các hoạt động phúc lợi xã hội khác phục vụ nhu cầu, lợi ích cơ bản, thiết yếu của người dân và cộng đồng.

- Cách tiếp cận thứ hai lại quan niệm: dịch vụ công chỉ bao gồm các hoạt động thực thi luật pháp, chính sách và hoạt động cung ứng các dịch vụ, hàng hoá công cộng có tính chất phúc lợi xã hội, phục vụ các nhu cầu cơ bản, thiết yếu của người dân và cộng đồng. Theo cách tiếp cận này thì các hoạt động xây dựng chính sách, tạo lập thể chế và môi trường pháp lý cho xã hội là các hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước, không phải là dich vụ công. Chúng tôi đồng quan điểm với cách tiếp cận này;

- Cách tiếp cận thứ ba quan niệm đơn giản hơn: dịch vụ công không bao gồm các hoạt động công quyền mang tính bắt buộc, cưỡng chế, mà chỉ là những loại công việc có tính "phục vụ" của người cung ứng (Nhà nước) cho người sử dụng (nhân dân) như: giáo dục, y tế, môi trường, điện sinh hoạt, nước sạch, giao thông công cộng... Vì vậy, không thể có loại dịch vụ công do cơ quan hành chính nhà nước cung ứng mà chỉ do tổ chức sự nghiệp hoặc doanh nghiệp đảm nhiệm.

b) Về dịch vụ hành chính công  

Các công trình nghiên cứu đã khẳng định, dịch vụ hành chính công là một loại dịch vụ công do các cơ quan hành chính nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền thực hiện để phục vụ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân. Nói cách khác, dịch vụ hành chính công là hoạt động thực thi pháp luật nhằm phục vụ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân, do các cơ quan hành chính nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật[4].

Các công trình nghiên cứu cũng đã chỉ rõ dịch vụ hành chính công có những nét đặc thù riêng biệt, phân định nó với các loại hình dịch vụ công khác như sau:

Thứ nhất, việc cung ứng dịch vụ hành chính công luôn gắn với thẩm quyền hành chính - pháp lý của các cơ quan hành chính nhà nước.

Thẩm quyền hành chính - pháp lý là quyền tổ chức điều hành đời sống xã hội theo pháp luật, bằng pháp luật nhằm đạt được các mục tiêu hợp lý đã đề ra. Thẩm quyền hành chính - pháp lý là đặc trưng (đặc quyền) của hệ thống hành chính nhà nước. Thẩm quyền hành chính - pháp lý được sử dụng trên hai phương diện:

-      Tổ chức và chỉ đạo thực thi các chính sách, pháp luật của Nhà nước để quản lý và điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra.

-      Thực hiện các quyền và nghĩa vụ có tính pháp lý của các tổ chức và công dân như cấp các loại giấy phép, giấy khai sinh, chứng minh thư, công chứng..., nhằm bảo đảm tự do, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, là hoạt động phục vụ công dân từ phía các cơ quan hành chính nhà nước.

Thứ hai, dịch vụ hành chính công là các hoạt động phái sinh từ chức năng quản lý nhà nước và có tính bắt buộc các tổ chức và cá nhân thực hiện nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý của Nhà nước.

Dịch vụ hành chính công xuất phát từ yêu cầu của quản lý nhà nước và được tiến hành nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước. Tuy đây là những hoạt động phục vụ trực tiếp nhu cầu, đòi hỏi của khách hàng, nhưng những nhu cầu, đòi hỏi này không phải là nhu cầu tự thân của họ, mà là nhu cầu phái sinh xuất phát từ các quy định của Nhà nước. Nói cách khác, dịch vụ hành chính công là những dịch vụ mà Nhà nước bắt buộc và khuyến khích người dân phải làm để bảo đảm trật tự và an toàn xã hội.

Thứ ba, dịch vụ hành chính công là những hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận, mà là nghĩa vụ có tính pháp lý của Nhà nước trước nhân dân. Nhà nước trang trải chi phí thực hiện các hoạt động này bằng ngân sách có nguồn thu từ thuế. Việc thu tiền chỉ thực hiện dưới dạng lệ phí (chỉ dành cho những người cần dịch vụ) nhằm tạo ra sự công bằng giữa người sử dụng dịch vụ với người không sử dụng dịch vụ. Khoản thu này phải nộp vào ngân sách nhà nước, nơi làm dịch vụ không trực tiếp hưởng lợi từ nguồn thu này.

-      Thứ tư, mọi người dân có quyền ngang nhau trong việc tiếp nhận và sử dụng các dịch vụ này với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền. Cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm và nghĩa vụ phục vụ cho mọi người dân, không phân biệt đó là người như thế nào. 

c) Về dịch vụ công trong ngành Tư pháp.

Trong năm 2006, lần đầu tiên Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp tổ chức Hội thảo khoa học cấp Bộ về "Dịch vụ công trong ngành Tư pháp". Hội thảo cũng chỉ mới bước đầu đặt ra các vấn đề về nhận diện các dịch vụ công trong ngành Tư pháp để trao đổi, thảo luận trong cơ quan Bộ về các vấn đề có liên quan. Kết quả của Hội thảo đã được biên tập và pháp hành dưới dạng số thông tin khoa học Pháp lý chuyên đề: "Nhận diện và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, chất lượng dịch vụ công trong ngành Tư pháp" - Số 12 năm 2007. Mặt khác, vấn đề dịch vụ công trong ngành Tư pháp cũng đã được đề cập đến trong đề tài Chiến lược xây dựng và phát triển ngành Tư pháp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, về mô hình quản lý dịch vụ công trong ngành Tư pháp cũng chỉ mới được đề cập đến ở phần kiến nghị, chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo.

Kề thừa kết quả của Hội thảo, Văn phòng Bộ cũng đã triển khai hoạt động rà soát, đánh giá các hoạt động cung cấp dịch vụ hành chính công của Bộ. Kết quả đã xác định được danh mục 27 nhóm công việc hiện do các đơn vị thuộc bộ thực hiện trực tuyến[5]. Tuy nhiên, hoạt động này, cũng chỉ dừng lại ở việc xác định nhóm các công việc chứ chưa đề cập đến mô hình quản lý.

2.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước

Về dịch vụ công nói chung, qua nghiên cứu các tài liệu chung về dịch vụ công có được, có thể hiểu, khái niệm dịch vụ công được dịch ra từ tiếng Anh là Public services, tiếng Pháp là Service publique, theo đó dịch vụ (services) nguyên nghĩa là phục vụ. Theo Từ điển Petit Larousse: “Dịch vụ công là hoạt động vì lợi ích chung, do một cơ quan nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm” (1992, trang 892). Theo Từ điển Oxford, Dịch vụ công được định nghĩa là: 1. Các dịch vụ như giao thông hoặc chăm sóc sức khoẻ do nhà nước hoặc tổ chức chính thức cung cấp cho nhân dân nói chung đặc biệt là xã hội; 2. Việc làm gì đó được thực hiện nhằm giúp đỡ mọi người hơn là kiếm lợi nhuận; 3. Chính phủ và cơ quan chính phủ[6]. ...

Nghiên cứu dịch vụ công và quản lý dịch vụ công trong mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực trong bộ máy nhà nước (quyền hành pháp với quyền lập pháp, quyền hành pháp với quyền tư pháp), qua tìm hiểu chúng tôi thấy có một số tài liệu sau: (i) David & Ted Gaebler “Reinventing Government” (Sáng tạo lại Chính phủ), xuất bản năm 1992 tại Hoa Kỳ, bàn về việc cải thiện hoạt động nói chung của Chính phủ trong đó có đề cập tới việc phát huy vai trò của Chính phủ trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý hành chính tư pháp; (ii) Matthew James Tanielian (Đại học Hoa Kỳ), “Separation of powers and the supreme court: one doctrine, two visions” (thuyết tam quyền phân lập và toà tối cao: một học thuyết, hai cách nhìn) (đăng trên tạp chí “Adminstrative Law Journal” của Đại học Hoa Kỳ), trong đó có bàn về nhiệm vụ quản lý của Chính phủ trong lĩnh vực hoạt động tư pháp.

Ngoài ra, các thông tin trên các website về tổ chức bộ máy của chính quyền trung ương các nước như các website của Nghị viện và Tổng thống Hoa Kỳ, Nghị viện và Chính phủ Nhật Bản, Quốc hội và Chính phủ Trung Quốc, Nghị viện và Chính phủ Anh, Pháp v.v. cùng các thông tin về cơ cấu tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ của chính phủ các nước trên thế giới được đăng tải tại website www.wikipedia.org cũng chứa đựng rất nhiều thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài trong việc quản lý hành chính tư pháp, trong đó có đề cập đến dịch vụ do Bộ Tư pháp các nước cung cấp cho công dân.

2.3. Những vấn đề mới đề tài đặt ra nghiên cứu

- Làm rõ và nhận diện cụ thể về các hoạt động cung ứng dịch vụ hành chính công và hoạt động dịch vụ khác của ngành ngành Tư pháp;

- Làm rõ mô hình quản lý dịch vụ hành chính công của ngành ngành Tư pháp hiện nay và vấn đề xã hội hóa dịch vụ hành chính công của Ngành.

- Đề xuất, kiến nghị nghị hoàn thiện mô hình quản lý tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp trong thời gian tới.

II. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Mục tiêu mà đề tài hướng tới là xác định rõ về dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp; xác định rõ các mô hình quản lý dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp trong giai đoạn hiện nay; đề xuất, kiến nghị hoàn thiện mô hình quản lý dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp trong thời gian tới.

Với mục tiêu đó, kết quả nghiên cứu của đề tài hướng tới các mục tiêu cụ thể như sau:

a. Làm rõ các vấn đề lý luận về dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp và mô hình quản lý dịch vụ hành chính công của ngành; từ đó, đánh giá các mô hình quản lý trong giai đoạn hiện nay; chỉ rõ những thành công, những hạn chế, tồn tại và xác định rõ các nguyên nhân của các hạn chế, tồn tại đó;

b. Đề xuất phương hướng và kiến nghị hoàn thiện mô hình quản lý dịch vụ hành chính công phù hợp của ngành Tư pháp trong thời gian tới; đồng thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số văn bản có liên quan về tổ chức và quản lý của ngành phù hợp với giai đoạn tới.

2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2.2.1. Đối tượng nghiên cứu của Đề tài được xác định là các cơ quan quản lý nhà nước về dịch vụ công trong ngành Tư pháp (Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân các cấp và các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp) và các tổ chức, cá nhân đã và đang thực hiện dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

2.2.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác định cụ thể như sau:

(1) Các vấn đề lý luận về dịch vụ hành chính công và quản lý dịch vụ hành chính công trong ngành Tư pháp (chủ thể, đối tượng, nội dung quản lý); 

(2) Các mô hình quản lý dịch vụ hành chính công trong ngành Tư pháp giai đoạn hiện nay;

Do giới hạn về thời gian và nhân lực, Đề tài này xin được giới hạn chỉ nghiên cứu, đánh giá về các mô hình quản lý dịch vụ hành chính công của ngành tư pháp. Các dịch vụ công khác hiện do Bộ, ngành đang thực hiện như: dịch vụ công trong đào tạo, bồi dưỡng; báo chí, xuất bản; dịch vụ pháp lý xin được nghiên cứu ở một đề tài khác. Mặt khác, Đề tài cũng xin không nghiên cứu, đánh giá về trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ đã và đang thực hiện việc cung cấp các dịch vụ công trong Bộ và ngành Tư pháp. Việc đánh giá về đội ngũ cán bộ này được nghiên cứu ở một đề tài khác.

2.2.3. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) để xem xét về lý luận và thực tiễn quản lý các dịch vụ công của ngành Tư pháp; đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, bình luận, so sánh để làm rõ các nội dung nghiên cứu của đề tài. Trong quá trình nghiên cứu của đề tài, phương pháp nghiên cứu so sánh pháp luật sẽ được đặc biệt chú ý và sử dụng trong tất cả các quá trình nghiên cứu của Đề tài.

Ngoài ra, Đề tài cũng sử dụng: (1) Phương pháp nghiên cứu tại chỗ, gồm có: Nghiên cứu các văn bản, các quy định pháp luật, thông tin, tư liệu về tình hình phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực tư pháp; (2) Tổ chức phát phiếu lấy ý kiến và tổ chức các cuộc tọa đàm khoa học với quy mô thích hợp để đánh giá, tổng kết tình hình và xác định định hướng nghiên cứu, hoàn thiện nội dung Đề tài.

 

 

          III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI

Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết quả nghiên cứu chính của đề tài được kết cấu thành 3 chương, cụ thể:

Chương I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

Trong chương này, tập chung giải quyết các vấn đề lý luận về: Dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp và mô hình quản lý dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp.

Chương II. THỰC TRẠNG VỀ CÁC MÔ HÌNH QUẢN LÝ DỊCH VỤ CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Trong chương này, tập chung đánh giá thực trạng về:

1. Các mô hình quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp

2. Làm rõ những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó.

Chương III. PHƯƠNG HƯỚNG ĐỐI MỚI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN LÝ DỊCH VỤ CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP.

Trong chương này, tập chung nhận định rõ về Chủ trương, định hướng của Đảng về dịch vụ công và yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính đối với ngành tư pháp; đề xuất hoàn thiện mô hình quản lý tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công của ngành Tư pháp trong thời gian tới và đưa ra một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công của ngành Tư pháp.

 

CHƯƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

 

1. DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP

1.1. Dịch vụ công

Như trên đã nêu, ở mỗi quốc gia trên thế giới, tuỳ thuộc vào nhận thức, quan điểm chính trị cũng như các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, truyền thống, tập quán, những nhu cầu cụ thể của người dân và cộng đồng ở mỗi khu vực, mỗi vùng, miền khác nhau mà có những cách tiếp cận khác nhau về dịch vụ công, cũng như phạm vi dịch vụ công[7]. Về lý luận, như trên đã nêu đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Theo đó, dù tiếp cận dưới góc độ nào thì dịch vụ công cũng phải đáp ứng được các đặc trưng cơ bản sau đây:

- Thứ nhất, là các dịch vụ do Nhà nước chịu trách nhiệm tổ chức cung ứng một cách trực tiếp thông qua các cơ sở công lập, hoặc gián tiếp (thông qua việc cung cấp tài chính và hỗ trợ các nguồn lực cần thiết cho các tổ chức xã hội và khu vực tư nhân thực hiện). Dịch vụ công có thể do Nhà nước trực tiếp thực hiện thông qua một tổ chức của mình (có thể là cơ quan hành chính hoặc cơ quan sự nghiệp hoặc có thể giao cho các tổ chức, cá nhân không phải của Nhà nước, nhưng Nhà nước vẫn phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về chất lượng, giá cả mà Nhà nước cam kết cung cấp cho xã hội, người dân, thậm chí phải chịu trách nhiệm về công vụ, phải bồi thường thiệt hại cho những đối tượng bị thiệt hại do các hoạt động của những tổ chức, cá nhân được uỷ quyền thực hiện gây ra.

- Thứ hai, là các hoạt động có tính chất phục vụ trực tiếp đáp ứng các nhu cầu, lợi ích cơ bản, thiết yếu của người dân và cộng đồng. Một cá nhân, một cộng đồng, một tổ chức có thể hưởng dụng lợi ích do dịch vụ công đem lại, nhưng Nhà nước chỉ thực hiện dịch vụ công khi có nhu cầu của toàn xã hội. Mọi người dân có cơ hội bình đẳng trong việc tiếp nhận và sử dụng các dịch vụ công;

- Thứ ba, là các hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm bảo đảm tính công bằng và tính hiệu quả trong cung ứng dịch vụ. Do Nhà nước là người đứng ra chịu trách nhịêm cung cấp nên các dịch vụ công được cung cấp theo nguyên tắc không vì mục tiêu lợi nhuận và bình đẳng cho tất cả mọi người. Nguyên tắc này được quyết định bởi trách nhiệm bình ổn và phát triển xã hội của Nhà nước và bởi người dân đã gián tiếp đóng tiền của mình thông qua việc nộp thuế cho Nhà nước. Tuy nhiên, mức độ thực hiện nguyên tắc không vì mục tiêu lợi nhuân ở mỗi loại dịch vụ và trong từng thời gian khác nhau là khác nhau.

Có thể thấy rằng khái niệm và phạm vi các dịch vụ công cho dù được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, chúng đều có tính chất chungnhằm phục vụ cho nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của xã hội, của cộng đồng dân cưNhà nước có trách nhiệm đảm bảo các dịch vụ này cho xã hội. Ngay cả khi nhà nước chuyển giao một phần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân, thì Nhà nước vẫn có vai trò điều tiết nhằm bảo đảm sự công bằng trong phân phối các dịch vụ này và khắc phục các bất cập của thị trường.

Tóm lại, dịch vụ công theo nghĩa chung nhất được hiểu là những giao dịch trực tiếp về dịch vụ giữa Nhà nước (hoặc các tổ chức được Nhà nước ủy nhiệm) và công dân với tư cách là khách hàng[8]. Hay nói cách khác, dịch vụ công những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội, do nhà nước trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân thực hiện nhằm bảo đảm trật tự và công bằng xã hội phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân.

Từ góc độ khoa học quản lý thì từ tính chất và tác dụng của dịch vụ được cung ứng, có thể chia dịch vụ công thành các loại như sau:

Thứ nhất, dịch vụ hành chính công: đây là loại dịch vụ gắn liền với chức năng quản lý nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân. Đối tượng cung ứng duy nhất dịch vụ công này là cơ quan công quyền, hay các cơ quan do Nhà nước thành lập được ủy quyền thực hiện cung ứng dịch vụ hành chính công; đây là một phần trong chức năng quản lý nhà nước.

Thứ hai, dịch vụ sự nghiệp[9]công: bao gồm các hoạt động cung cấp các dịch vụ phúc lợi xã hội thiết yếu cho người dân như giáo dục, văn hóa, khoa học, chăm sóc sức khoẻ, thể dục thể thao, bảo hiểm, an sinh xã hội…

Thứ ba, dịch vụ công ích: là các hoạt động cung cấp các hàng hoá, dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho người dân và cộng đồng như: vệ sinh môi trường, xử lý rác thải, cấp nước sạch, vận tải công cộng đô thị, phòng chống thiên tai… chủ yếu do các doanh nghiệp nhà nước thực hiện…

1.2. Dịch vụ hành chính công

Như trên đã nêu, dịch vụ hành chính công là loại dịch công vụ gắn liền với chức năng quản lý nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân. Theo đó, dịch vụ hành chính công là một loại dịch vụ công do các cơ quan hành chính nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền thực hiện để phục vụ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân. Nói cách khác, dịch vụ hành chính công là hoạt động thực thi pháp luật nhằm phục vụ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân, do các cơ quan hành chính nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật[10].

Dịch vụ hành chính công có những nét đặc thù riêng biệt, phân định nó với các loại hình dịch vụ công khác như sau:

Thứ nhất, việc cung ứng dịch vụ hành chính công luôn gắn với thẩm quyền hành chính - pháp lý của các cơ quan hành chính nhà nước.

Thẩm quyền hành chính - pháp lý là quyền tổ chức điều hành đời sống xã hội theo pháp luật, bằng pháp luật nhằm đạt được các mục tiêu hợp lý đã đề ra. Thẩm quyền hành chính - pháp lý là đặc trưng (đặc quyền) của hệ thống hành chính nhà nước. Thẩm quyền hành chính - pháp lý được sử dụng trên hai phương diện:

-      Tổ chức và chỉ đạo thực thi các chính sách, pháp luật của Nhà nước để quản lý và điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra.

-      Thực hiện các quyền và nghĩa vụ có tính pháp lý của các tổ chức và công dân như cấp các loại giấy phép, giấy khai sinh, chứng minh thư, công chứng..., nhằm bảo đảm tự do, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, là hoạt động phục vụ công dân từ phía các cơ quan hành chính nhà nước.

Thứ hai, dịch vụ hành chính công là các hoạt động phái sinh từ chức năng quản lý nhà nước và có tính bắt buộc các tổ chức và cá nhân thực hiện nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý của Nhà nước.

Dịch vụ hành chính công xuất phát từ yêu cầu của quản lý nhà nước và được tiến hành nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước. Tuy đây là những hoạt động phục vụ trực tiếp nhu cầu, đòi hỏi của khách hàng, nhưng những nhu cầu, đòi hỏi này không phải là nhu cầu tự thân của họ, mà là nhu cầu phái sinh xuất phát từ các quy định của Nhà nước. Nói cách khác, dịch vụ hành chính công là những dịch vụ mà Nhà nước bắt buộc và khuyến khích người dân phải làm để bảo đảm trật tự và an toàn xã hội.

Thứ ba, dịch vụ hành chính công là những hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận, mà là nghĩa vụ có tính pháp lý của Nhà nước trước nhân dân. Nhà nước trang trải chi phí thực hiện các hoạt động này bằng ngân sách có nguồn thu từ thuế. Việc thu tiền chỉ thực hiện dưới dạng lệ phí (chỉ dành cho những người cần dịch vụ) nhằm tạo ra sự công bằng giữa người sử dụng dịch vụ với người không sử dụng dịch vụ. Khoản thu này phải nộp vào ngân sách nhà nước, nơi làm dịch vụ không trực tiếp hưởng lợi từ nguồn thu này.

-      Thứ tư, mọi người dân có quyền ngang nhau trong việc tiếp nhận và sử dụng các dịch vụ này với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền. Cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm và nghĩa vụ phục vụ cho mọi người dân, không phân biệt đó là người như thế nào. 

Về pháp lý, theo quy định tại khoản 6 Điều 3 Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/04/2007 của Chính phủ ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, thì “dịch vụ hành chính công được hiểu là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước (hoặc tổ chức, doanh nghiệp được ủy quyền) có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong các lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý.

Khái niệm này, tiếp tục được khẳng định tại khoản 3 Điều 34 Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước và bổ sung thêm tiêu chí: "Mỗi dịch vụ hành chính công gắn liền với một thủ tục hành chính để giải quyết hoàn chỉnh một công việc cụ thể liên quan đến tổ chức, cá nhân".

Với khái niệm như vậy, đặc điểm quan trọng nhất để phân biệt giữa dịch vụ hành chính công các dịch vụ công khác là: kết quả của dịch vụ hành chính công là việc cấp cho tổ chức, cá nhân các loại giấy tờ có giá trị pháp lý còn dịch vụ công là những dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân và cộng đồng, bảo đảm ổn định và công bằng xã hội do Nhà nước chịu trách nhiệm, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận.

Chính phủ với vai trò là cơ quan quản lý hành chính nhà nước cao nhất, có nhiệm vụ[11] thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện nhiệm vụ được giao, Chính phủ đã ủy quyền cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực"[12]. Do vậy, tùy theo phạm vi quản lý nhà nước của từng Bộ mà mỗi Bộ cung cấp các loại dịch vụ cho các đối tượng là khác nhau.

Căn cứ vào khái niệm, nguyên tắc và các đặc trưng của dịch vụ công, có thể thấy các hoạt động cung ứng dịch vụ hành chính công hiện nay, theo chúng tôi[13] có thể được phân chia thành các loại hình cơ bản như sau:

Thứ nhất, các hoạt động cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề.

Giấy phép là một loại giấy tờ do các cơ quan hành chính nhà nước cấp cho các tổ chức và công dân để thừa nhận về mặt pháp lý quyền của các chủ thể này được tiến hành một hoạt động nào đó phù hợp với các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này. Giấy phép là một công cụ để Nhà nước quản lý và điều tiết hoạt động của các chủ thể theo chính sách và pháp luật trong các lĩnh vực có ảnh hưởng đáng kể đến đời sống xã hội, mà nếu Nhà nước không kiểm soát được các hoạt động này thì có thể dẫn đến những hậu quả tai hại cho xã hội. Cấp giấy phép (hay cấp phép) là nhóm dịch vụ thể hiện rõ nét nhất yếu tố quản lý hành chính. Phạm vi cấp phép rộng hay hẹp ảnh hưởng đến sự phát triển có trật tự của xã hội. Nếu quá rộng sẽ hạn chế quyền lợi cá nhân của công dân. Nếu quá hẹp gây tổn hại đến lợi ích công cộng.

Thứ hai, hoạt động cấp đăng ký và giấy chứng nhận

Cấp đăng ký và cấp giấy chứng nhận là nhóm dịch vụ bao gồm nhiều dịch vụ nhất và liên quan đến hầu hết các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương. Trong dịch vụ này, cá nhân, tổ chức phải đăng ký với cơ quan nhà nước các thông tin về nhân thân (như tên, tuổi, giới tính, quê quán, trình độ học vấn của cá nhân; tên, ngày thành lập, người sáng lập, khả năng tài chính, lĩnh vực hoạt động của tổ chức); về tài sản (tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng, tài sản đi vay, mượn... là đối tượng của giao dịch), hoặc về những hành vi, những sự kiện nhất định liên quan đến cá nhân, tổ chức (sự kiện sinh, tử, kết hôn, xuất cảnh, nhập cảnh...). Cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau khi tiếp nhận đăng ký của cá nhân, tổ chức sẽ căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành để thực hiện việc kiểm tra, xác nhận trước khi cấp giấy chứng nhận hoặc xác nhận phù hợp.

Thứ ba, hoạt động công chứng, chứng thực

Về tính chất cả công chứng, chứng thực đều là chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng, giao dịch hay các văn bản, giấy tờ mà theo quy định của pháp luật phải công chứng, chứng thực. Quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức có liên quan xác lập thông qua các hợp đồng, giao dịch hay văn bản, giấy tờ. Khi các giao dịch, hợp đồng, các văn bản, giấy tờ được công chứng, chứng thực thì phát sinh hiệu lực pháp lý, các quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng, văn bản chính thức có hiệu lực ràng buộc các bên.

Thứ tư, các hoạt động tư vấn, hỗ trợ của cơ quan, tổ chức nhà nước

Những hoạt động tư vấn, hỗ trợ của cơ quan, tổ chức nhà nước đảm bảo việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức và tạo ra sự bình đẳng trong hưởng thụ các quyền và lợi ích của mọi cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, không phải tất cả các hoạt động tư vấn, hỗ trợ được thực hiện trong quản lý hành chính đều được coi là các dịch vụ công. Chỉ những hoạt động tư vấn, hỗ trợ có tính chất phục vụ, trực tiếp hướng tới việc đảm bảo quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức trong quản lý hành chính do các cơ quan hành chính, các cơ quan, đơn vị của Nhà nước hoặc các tổ chức xã hội thực hiện, hoặc những hoạt động tư vấn, hỗ trợ được Nhà nước bảo đảm từ ngân sách nhà nước mới được coi là dịch vụ công.

1.3. Dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp.

1.3.1. Khái niệm, đặc điểm, phạm vi dịch vụ hành chính công của ngành tư pháp

Với vị trí là cơ quan của Chính phủ - thuộc hệ thống hành pháp, Bộ Tư pháp có chức năng quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. Do vậy, trước hết phải khẳng định các dịch vụ công trong ngành Tư pháp thuộc về nhóm Dịch vụ hành chính công và mang đầy đủ các đặc điểm của dịch vụ hành chính công; đồng thời cũng phải tuân thủ các nguyên tắc hoạt động của dịch vụ hành chính công.

Như trên đã phân tích, hoạt động cung ứng dịch vụ hành chính công là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước (hoặc tổ chức, doanh nghiệp được ủy quyền) có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong các lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý. Và, mỗi dịch vụ hành chính công gắn liền với một thủ tục hành chính để giải quyết hoàn chỉnh một công việc cụ thể liên quan đến tổ chức, cá nhân. Với các tiêu chí như vậy, có thể thấy, các hoạt động cung cấp dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp tập chung ở bốn nhóm dịch vụ cơ bản như: (i) các hoạt động cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề; (ii) các hoạt động cấp đăng ký và cấp giấy chứng nhận; (iii) hoạt động công chứng, chứng thực và (iv) các hoạt động tư vấn, hỗ trợ. Đối chiếu với vị trí, vai trò của Bộ Tư pháp[14] trong hệ thống cơ quan hành pháp, chúng ta có thể thấy rõ trách nhiệm của Bộ, ngành trong việc quản lý và cung cấp dịch vụ công phục vụ tổ chức và công dân.

Từ chức năng, nhiệm vụ của ngành Tư pháp trong giai đoạn hiện nay, có thể thấy ngành Tư pháp hiện đang cung cấp rất nhiều loại dịch vụ hành chính công[15]. Các loại hình dịch vụ hành chính công này chủ yếu ở các lĩnh vực như: (1) Lĩnh vực hành chính tư pháp với các hoạt động như đăng ký hộ tịch, chứng thực; cấp phiếu lý lịch tư pháp... (2) Lĩnh vực trợ giúp pháp lý (3) Lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm (4) Lĩnh vực thi hành án dân sự (5) Lĩnh vực bổ trợ tư pháp với các hoạt động công chứng, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý... Cụ thể, theo công bố trên trang thông tin hướng dẫn các thủ tục hành chính của Bộ Tư pháp cho thấy, hiện nay, Bộ Tư pháp đang cung cấp 181 thủ tục hành chính, các Sở Tư pháp đang cung cấp 208 thủ tục hành chính, các phòng tư pháp cấp quận huyện cung cấp 60 thủ tục hành chính và Tư pháp cấp xã cung cấp 65 thủ tục hành chính[16] trong đó có nhiều thủ tục thuộc về dịch vụ hành chính công của ngành.

Như vậy, có thể thấy rằng dịch vụ công trong ngành Tư pháp khá đa dạng, bao gồm nhiều loại hình dịch vụ công khác nhau. Các dịch vụ công này chủ yếu do các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và cán bộ tư pháp hộ tịch cấp xã đảm nhiệm. Tuy nhiên, cũng có một số thủ tục/dịch vụ hiện nay đã và đang được trao cho các tổ chức và cá nhân hành nghề thực hiện (đã xã hội hóa). Ví dụ như: các dịch vụ công chứng, một số hoạt động chứng thực; một số hoạt động trong quy trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự; tư vấn pháp luật...

Từ cách phân chia các loại hình cung cấp dịch vụ hành chính công như đã nêu trên, Chúng ta có thể xác định danh mục các nhóm dịch vụ hành chính công thuộc phạm vi của ngành Tư pháp như sau:

1) Nhóm dịch vụ cung ứng cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề của ngành tư pháp gồm:

- Cấp, cấp lại, thu hồi chứng chỉ hành nghề đối với các chức danh tư pháp, như luật sư, tư vấn viên, giám định viên, chấp hành viên, công chứng viên...;

- Cấp, cấp lại, gia hạn, thu hồi giấy phép thành lập đối với các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật như: cấp giấy phép thành lập chi nhánh của công ty luật nước ngoài tại Việt Nam; cấp giấy phép thành lập công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh; cấp giấy phép thành lập công ty luật trách nhiệm hữu hạn một trăm phần trăm vốn nước ngoài…;

2) Nhóm dịch vụ cung ứng cấp đăng ký và giấy chứng nhận, giấy xác nhận thuộc lĩnh vực quản lý của ngành tư pháp gồm:

- Cấp, cấp lại, thu hồi giấy đăng ký hoạt động đối với các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật, như giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư và chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư…;

- Cấp, cấp lại, thu hồi giấy chứng nhận, như giấy chứng nhận bào chữa… hoặc giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam; giấy xác nhận trình trạng hôn nhân…;

- Đăng ký hộ tịch; đăng ký xóa đăng ký thông tin giao dịch, tài sản đăng ký.

3) Nhóm dịch vụ cung ứng nhu cầu công chứng, chứng thực, gồm:

- Công chứng hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật cho cá nhân, tổ chức; công chứng việc hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch...;

- Công chứng văn bản từ chối, khai nhận, thỏa thuận phân chia di sản theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức

 - Công chứng di chúc; nhận lưu giữ di chúc...

- Chứng thực bản sao, chữ ký, di chúc...;

- Cấp bản sao từ sổ gốc; 

- Chứng thực hợp đồng theo quy định của pháp luật;

4) ) Nhóm dịch vụ tư vấn, hỗ trợ, gồm:

- Cung cấp phiếu lý lịch tư pháp theo yêu cầu của tổ chức, công dân;

- Cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm; tài sản đăng ký...

Như vậy, có thể nói phạm vi cung cấp dịch vụ hành chính công[17] của ngành Tư pháp có mặt trên hầu hết ở các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, ngành theo thẩm quyền.

1.3.2. Phân biệt dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác của ngành Tư pháp.

a) Phân biệt với dịch vụ pháp lý.

Trong các lĩnh vực quản lý dịch vụ của ngành Tư pháp hiện do các cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp, ngoài thủ tục hành chính thông thường còn thực hiện "dịch vụ pháp lý". Về dịch vụ pháp lý, theo Từ điển luật học do Nxb. Từ điển Bách khoa và Nxb. Tư pháp ấn hành năm 2006 là loại hình dịch vụ do những tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật được nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện, nhằm đáp ứng nhu cầu được biết, được tư vấn hoặc giúp đỡ về mặt pháp lí của các tổ chức, cá nhân trong xã hội". Cũng trong tài liệu này đã chỉ rõ: "Trong kinh tế thị trường, dịch vụ pháp lý được coi là một loại dịch vụ mang tính thương mại. Người cung cấp dịch vụ pháp lý nhằm mục đích thu lợi và được coi như là một nghề. Người được hưởng dịch vụ pháp lý được thỏa mãn những yêu cầu hiểu biết hay công việc cụ thể và phải trả phí (giá) dịch vụ cho người cung cấp"[18]. Điểm đặc thù của dịch vụ pháp lý là khi cá nhân, tổ chức sử dụng dịch vụ này phải trả phí cho người cung cấp theo biểu phí do Nhà nước quy định. Hiện nay, để trợ giúp cho người nghèo và các đối tượng chính sách, người có công, Nhà nước đã tổ chức ra những cơ sở, những hình thức trợ giúp pháp lý nhằm giúp họ tiếp cận được những nhu cầu pháp lý khi cần thiết. Điển hình của dịch vụ pháp lý là dịch vụ do các luật sư cung cấp cho các tổ chức và cá nhân khi có nhu cầu; dịch vụ bán đấu giá tài sản, dịch vụ công chứng hợp đồng, giao dịch...

Với cách hiểu như vậy, dịch vụ pháp lý có thể mang tính chất công hoặc tính chất tư (ví dụ: luật sư khi tham gia trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách, người có công là dịch vụ có tính chất công). Dịch vụ pháp lý có tính chất tư là các dịch vụ phục vụ trực tiếp bảo vệ quyền, nghĩa vụ của từng chủ thể mà thị trường tư nhân có thể đảm nhận. Ví dụ: hoạt động tư vấn pháp luật về hôn nhân, gia đình, tư vấn pháp luật về dân sự, tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân trong các vụ án hình sự…của các luật sư. Bên cạnh đó cũng tồn tại các dịch vụ pháp lý thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của đa số gắn với thẩm quyền hành chính - pháp lý của Nhà nước nhằm bảo đảm sự ổn định và công bằng trong xã hội: cấp giấy phép hoạt động cho các tổ chức hành nghề; đăng ký hộ tịch... Về nguyên tắc có thể phân biệt riêng loại dịch vụ pháp lý, song điều đáng lưu ý là dịch vụ công về pháp lý luôn gắn với thẩm quyền hành chính - pháp lý của Nhà nước. Vì vậy, trên thực tế không thể tách biệt rạch ròi giữa dịch vụ hành chính công và dịch vụ pháp lý. Bởi lẽ mọi dịch vụ hành chính đều dựa trên các quy định của pháp luật và do đó có tính chất pháp lý. Đồng thời các dịch vụ pháp lý lại được thực thi bởi các chủ thể có thẩm quyền hoặc được Nhà nước trao quyền.

Trong bối cảnh hiện nay, việc phân định các dịch vụ pháp lý do tổ chức, cá nhân cung cấp với dịch vụ công của ngành Tư pháp có ý nghĩa quan trọng để xác định ranh giới giữa Nhà nước và tư nhân cũng như trách nhiệm của Nhà nước trong lĩnh vực này. Đồng thời, việc phân định này cũng góp phần xác định cụ thể loại dịch vụ công nào có thể chuyển giao cho tư nhân – xã hội hóa và mức độ chuyển giao trong từng giai đoạn. Theo chúng tôi, chỉ có thể xã hội hóa những hoạt động nào là hoạt động dịch vụ công và không phải mọi dịch vụ công đều có thể xã hội hóa. Việc xã hội hóa dịch vụ công của ngành Tư pháp chỉ nên thực hiện khi thoả mãn ba đặc trưng sau:

- Tư nhân có đủ năng lực để thực hiện hoạt động này (có đủ trình độ, năng lực và bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị...);

- Hoạt động đó không gây ảnh hưởng về mặt chính trị, quốc phòng, an ninh trật tự xã hội.

- Hoạt động đó có thể xác định được các đặc tính đầu ra. Chẳng hạn về dịch vụ công chứng: đây là loại dịch vụ công có tính pháp lý thông thường: chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch dân sự trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật. Có thể nêu ra các đặc tính đầu ra rõ ràng cho loại dịch vụ này. Việc giao cho tư nhân cung ứng dịch vụ này không ảnh hưởng gì đến tính hiệu quả và công bằng trong xã hội, cũng như không có tác động tiêu cực về chính trị. Vì vậy, Nhà nước có thể chuyển giao cho tư nhân. Các tổ chức tư nhân có thể được phép công chứng và bảo đảm trước Nhà nước về tính xác thực của các văn bản được công chứng.

Những loại dịch vụ nào thoả mãn ba đặc trưng trên đều có thể chuyển giao cho tư nhân thực hiện, tuy nhiên, Nhà nước vẫn cần có sự can thiệp trực tiếp bằng các quy định thể. Nói cách khác, các dịch vụ này có thể được Nhà nước uỷ quyền cho các tổ chức tư nhân thực hiện, song vẫn phải tuân thủ các quy định cụ thể và sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước, chịu trách nhiệm trước Nhà nước về tính hợp pháp của dịch vụ.

b). Phân biệt hoạt động dịch vụ công của ngành với các hoạt động khác

* Hoạt động thi hành án dân sự. Hiện nay, thi hành án dân sự được xác định là hoạt động hành chính tư pháp (không là công đoạn cuối cùng của thực hiện kết quả hoạt động của quyền tư pháp) nên đã có sự “cắt khúc, tách rời” giữa hoạt động xét xử và hoạt động thi hành án[19]. Tuy nhiên, sau ngày 30/6/2015, khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự số 64/2014/QH13 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 25/11/2014 có hiệu lực, thì thi hành án dân sự được xác định là công đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng, gắn liền với việc thực hiện quyền tư pháp của Toà án. Theo đó, Tòa án là cơ quan xét xử, cơ quan thi hành án là cơ quan chấp hành, tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Dù được hiểu dưới góc độ nào thì hoạt động thi hành án dân sự cũng do cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp tổ chức thực hiện (cơ quan hành chính) và do vậy, có một số công việc cụ thể trong hoạt động thi hành án dân sự mang tính chất hành chính, thuộc về nghiệp vụ thi hành án dân sự có thể xã hội hóa. Thực hiện chủ trương xã hội hóa một số công việc có liên quan đến thi hành án dân sự, từ năm 2010, các Văn phòng Thừa phát lại đã được thành lập tại thành phố Hồ Chí Minh và đến nay đã đi vào hoạt động nề nếp; tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại đã giúp người dân thực hiện quyền công dân trong việc lựa chọn và yêu cầu một số dịch vụ pháp lý về: xác minh điều kiện thi hành án, yêu cầu thi hành án, tống đạt giấy tờ của Tòa án, cơ quan Thi hành án dân sự và lập vi bằng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhằm mục tiêu xã hội hóa mạnh mẽ hơn nữa hoạt động tư pháp nói chung và thi hành án dân sự nói riêng, đảm bảo việc thực hiện Thừa phát lại có hiệu quả, phục vụ người dân và hỗ trợ các cơ quan nhà nước tốt hơn. Từ kết quả tổng kết thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh, theo Nghị quyết của Quốc hội, chế định này được mở rộng thí điểm tại 12 địa phương (gồm các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Bình Dương, Đồng Nai, Tiền Giang, An Giang, Vĩnh Long). Đến nay, Bộ Tư pháp đã bổ nhiệm 207 trường hợp làm Thừa phát lại, trong đó có 120 Thừa phát lại đang hành nghề tại các Văn phòng Thừa phát lại. Tại 13 địa phương thực hiện thí điểm đã thành lập 51/63 Văn phòng Thừa phát lại theo đề án được phê duyệt[20]. Do vậy, theo chúng tôi, hoạt động thừa phát lại là thực hiện dịch vụ pháp lý.

* Hoạt động bồi thường nhà nước. Bồi thường nhà nước là việc bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án (bản chất là quan hệ bồi thường dân sự). Hay có thể nói, bồi thường nhà nước là một loại hình trách nhiệm pháp lý đặc biệt của Nhà nước với tổ chức, công dân. Khi đó, Nhà nước - chủ thể của quan hệ pháp luật, khi tham gia các quan hệ pháp luật cũng đều có những quyền và nghĩa vụ nhất định và phải gánh chịu những hệ quả pháp lý tất yếu phái sinh từ những quan hệ pháp luật đó. Do vậy, hoạt động bồi thường nhà nước cũng do cơ quan nhà nước thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và kết quả cũng là giấy tờ có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, không thể coi đây là dịch vụ hành chính công.

* Hoạt động giám định tư pháp. Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật (khoản 1 Điều 2 Luật Giám định tư pháp năm 2012).

Về mặt tổ chức, theo quy định của Luật (Điều 12 và Điều 14) thì hiện có hai hình thức: (1) Tổ chức giám định tư pháp công lập được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự; và (2) Văn phòng giám định tư pháp là tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập, được thành lập trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, cổ vật, di vật, bản quyền tác giả. Văn phòng giám định tư pháp được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh (dịch vụ tư).

Khi có nhu cầu thực hiện giám định tư pháp, người có yêu cầu giám định phải có đơn yêu cầu đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định đối với các vụ án hình sự hoặc người yêu cầu giám định phải gửi văn bản yêu cầu giám định kèm theo đối tượng giám định, các tài liệu, đồ vật có liên quan (nếu có) và bản sao giấy tờ chứng minh mình là đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ đến cá nhân, tổ chức thực hiện giám định.

Do vậy, về bản chất, hoạt động giám định tư pháp trong tố tụng hình sự là hoạt động nghiệp vụ hỗ trợ cho hoạt động tố tụng nhằm bảo đảm sự chính xác, khách quan trong hoạt động tố tụng. Còn hoạt động giám định tư pháp trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính là dịch vụ pháp lý.

* Hoạt động bán đấu giá tài sản. Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai theo phương thức trả giá lên, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục được pháp luật quy định. Phương thức trả giá được thực hiện từ thấp lên cao cho đến khi có người trả giá cao nhất. Việc bán đấu giá tài sản được thực hiện theo nguyên tắc công khai, liên tục, khách quan, trung thực, bình đẳng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.

Bản chất của bán đấu giá tài sản là quan hệ dân sự về mua bán tài sản thông qua hình thức đấu giá nhằm bán được tài sản với giá cao nhất. Hoạt động bán đấu giá tài sản được diễn ra theo ý chí của chủ sở hữu và người được chủ sở hữu ủy quyền yêu cầu tổ chức có chức năng bán đấu giá hoặc tài sản thực hiện việc bán đấu giá. Do vậy, hoạt động bán đấu giá tài sản không phải hoạt động dịch vụ hành chính công.

* Hoạt động xin nhập, xin trở lại, xin thôi quốc tịch Việt Nam, tước quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.

 Quốc tịch là mối liên hệ pháp lý giữa cá nhân với nhà nước nhất định, biểu hiện tổng thể ở các quyền và nghĩa vụ của người đó được pháp luật của Nhà nước quy định và bảo đảm thực hiện[21]. Việc giải quyết các vấn đề có liên quan về quốc tịch không chỉ liên quan đến pháp luật trong nước mà còn được giải quyết theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, trường hợp chưa có điều ước quốc tế thì được giải quyết theo tập quán và thông lệ quốc tế. Do vậy, hoạt động xin nhập, xin trở lại, xin thôi quốc tịch Việt Nam, tước quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam không phải là hoạt động dịch vụ hành chính công.

2. MÔ HÌNH QUẢN LÝ DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP

2.1. Mô hình quản lý

"Mô hình" về mặt ngữ nghĩa, là mẫu khuôn, tiêu chuẩn theo đó mà chế tạo ra sản phẩm hàng loạt; là thiết bị, cơ cấu tái hiện hay bắt chước cấu tạo và hoạt động của cơ cấu khác (của nguyên mẫu hay cái được mô hình hóa) vì mục đích khoa học và sản suất”. Nghĩa rộng là hình ảnh (hình tượng, sơ đồ, sự mô tả, v.v…) ước lệ của một khách thể (hay một hệ thống các khách thể, các quá trình hiện tượng).

Ở góc độ thuật ngữ khoa học, mô hình được hiểu: “Là một đối tượng được 
tạo ra tương tự với đối tượng khác về một số mặt nào đó. Khái niệm “Mô hình” được áp dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học  khác nhau. Trước tiên về mặt triết học, mô hình được hiểu là “Sự hiển thị mối quan hệ giữa tri thức của con người về các khách thể và bản thân các khách thể đó. Mô hình không chỉ là phương tiện mà còn là một trong những hình thức của sự nhận thức của tri thức, là bản thân tri thức. Trong quan hệ với lý thuyết, mô hình không chỉ là công cụ tìm kiếm những khả năng thực hiện lý thuyết mà còn là công cụ để kiểm tra các mối liên hệ, quan hệ, cấu trúc, tính qui luật được diễn đạt trong lý thuyết ấy có tồn tại thực hay không”. Có nhiều cách hiểu về "mô hình", nhưng tựu chung lại được quy về ba nhóm cơ bản. Đó là (i) Mô hình hệ thống; (ii) Mô hình cấu trúc và (iii) Mô hình lôgic. Theo đó:

- Mô hình hệ thống là mô hình phản ánh một hệ thống, trong đó nêu được các phần tử bên trong, bên ngoài và các quan hệ tương tác giữa chúng. Chúng ta có thể thấy có rất nhiều hệ thống như: hệ thống chính trị, hệ thống quản lý, hệ thống pháp luật, hệ thống thông tin, hệ thống giáo dục, hệ thống đường sá… Mô hình hệ thống có nhiều hình thức, tùy theo sự lựa chọn để thể hiện.

- Mô hình cấu trúc là mô hình thể hiện các thành phần bên trong của hiện tượng, của sự vật. Không nhất thiết hiện tượng hoặc sự vật đó có là hệ thống hoặc không phải là hệ thống.

- Mô hình lôgic là mô hình thể hiện chủ yếu thứ tự diễn ra các hiện tượng sự vật. Mô hình lôgic còn có tên gọi khác là mô hình mạng lưới. Mô hình lôgíc thường được sử dụng để thể hiện quá trình sản xuất có rất nhiều công việc diễn ra đồng thời hoặc nối tiếp, thể hiện trình tự nghiên cứu giải quyết vấn đề trong khoa học, thể hiện các bước lập kế hoạch tối ưu v.v…Trong khoa học xã hội, khi bàn về mô hình thường được xem xét dưới mô hình hệ thống.

Về mô hình quản lý, giai đoạn 1900 – 1925 xuất hiện hai mô hình quản lý đầu tiên áp dụng các nguyên lý của Frederick Taylor vào quá trình sản xuất  (Taylor là cha đẻ của trào lưu quản lý theo khoa học - Scientific management).

Thứ nhất là mô hình mục đích lý tính (Rational goal model). Giả định phương tiện - mục đích trong cách tiếp cận này là niềm tin rằng nếu tổ chức có chủ trương, định hướng rõ ràng thì sẽ mang lại các kết quả năng suất cao. Do đó, các tổ chức phải liên tục chú trọng vào các quá trình như: (i) phân loại mục đích, (ii) phân tích lý tính và (iii) hành động. Các hoạt động trong tổ chức được định hướng theo tính hợp lý kinh tế và tất cả các quyết định được ban hành trên cơ sở xem xét đến nhân tố chủ đạo – năng suất, lợi nhuận (The bottom line). Giá trị tột cùng trong mô hình mục đích lý tính là sự hoàn thành công việc và tối đa hoá lợi nhuận. Công việc của nhà quản lý ở đây giống như một người giám đốc quyết đoán và nhà sản xuất định hướng vào nhiệm vụ phải hoàn thành.

Mô hình thứ hai là mô hình quy trình nội bộ (Internal process model). Mặc dù mô hình kiểu tôn ti trật tự đã được áp dụng trước đó nhiều thế kỷ nhưng trong giai đoạn này, những cấu trúc tổ chức tháp thứ bậc tiến triển rất nhanh, trở thành mẫu hình được biết đến với tên gọi “bộ máy thư lại chuyên môn hoá” (Professional bureaucracy). Tuy nhiên, phải đến giữa thế kỷ XX những khái niệm cơ bản của mô hình này mới được hệ thống hoá đầy đủ khi các tác phẩm của Max Weber và Henri Fayol được dịch. Mô hình quy trình nội bộ bổ trợ nhiều cho mô hình mục đích lý tính.

Mô hình này có biểu tượng của hình kim tự tháp và tiêu chí của hiệu quả tổ chức là tính ổn định và tính liên tục. Giả định phương tiện - mục đích được dựa trên niềm tin rằng nếu giải quyết công việc theo thông lệ thì sẽ dẫn tới tính ổn định. Mô hình này chú trọng đến các quy trình xác định rõ trách nhiệm, đo lường, văn bản hoá và lưu giữ dữ liệu. Các mối quan hệ công tác trong tổ chức diễn ra theo trật tự thứ bậc và mọi quyết định chịu ảnh hưởng từ các quy định, cơ cấu và truyền thống hiện còn tồn tại. Nếu hiệu suất của một nhân viên bị suy giảm, công tác kiểm soát được tăng cường thông qua việc áp dụng một loạt các chính sách và thủ tục. Trong mô hình này, giá trị tột cùng của tổ chức là hiệu suất công việc và nhà quản lý đóng vai trò như người theo dõi chuyên môn kỹ thuật và người điều phối đáng tin cậy.

Trong giai đoạn từ 1926 – 1950, Chester Barnard chỉ ra tầm quan trọng của các tổ chức không chính thống và thực tế là những mối quan hệ không chính thức, nếu được quản lý thích hợp, có thể trở thành công cụ đầy uy lực của nhà quản lý. Cũng trong thời gian này, Elton Mayo và Fritz Roethlisberger tiến hành các nghiên cứu tìm hiểu về những yếu tố thực sự khơi gợi, truyền cảm hứng làm việc của nhân viên. Kết quả nghiên cứu cho thấy cần tăng cường hơn nữa vào uy lực của các mối quan hệ và các quá trình không chính thức của các nhóm nhân sự khi thực thi công việc. Mô hình các mối quan hệ con người (Human relations model) hình thành vào cuối giai đoạn này. Điểm nhấn chính của mô hình này là sự cam kết, tính liên kết và lòng nhiệt huyết. Giả định phương tiện - mục đích của mô hình này là sự can dự sẽ tạo nên sự cam kết và các giá trị chính yếu ở đây là sự tham gia rộng rãi, giải quyết mâu thuẫn và xây dựng sự đồng thuận. Do coi trọng sự bình đẳng và tính cởi mở nên hình tròn là biểu trượng phù hợp với mô hình này. Bầu không khí trong các tổ chức theo mô hình này như của một tập thể gắn bó (kiểu thị tộc), hoạt động theo định hướng nhóm, trong đó việc ra quyết định có sự tham gia sâu sắc của các thành viên. Nếu hiệu suất của một nhân viên sa sút thì nhà quản lý sẽ quan tâm xem xét theo triển vọng phát triển và tìm kiếm những yếu tố thúc đẩy, động viên họ. Công việc của nhà quản lý giống như người cố vấn đồng cảm và người tạo điều kiện thuận lợi, định hướng theo quá trình làm việc. Đến năm 1949, mô hình này vẫn chưa mấy rõ ràng và đối lập với các giả định trong mô hình mục đích lý tính và mô hình quy trình nội bộ. Vì còn khó hiểu mô hình này chưa được áp dụng nhiều trong thực tiễn quản lý. Tuy nhiên, vào giai đoạn tiếp theo, các học giả đã quan tâm nghiên cứu khuynh hướng này, đưa vào thử nghiệm trong quản lý và đạt được những kết quả đầy ý nghĩa trong các tổ chức lớn.

Giai đoạn 1951 – 1975, khoa học quản lý đã sử dụng nhiều thuật ngữ quản lý lý tính, chẳng hạn như quản lý theo kết quả (MBO) và quản lý hệ thống thông tin quản lý (MIS). Trước nhu cầu hiểu biết về cách thức quản lý trong một thế giới tri thức, thay đổi nhanh chóng, khôn lường, nhiều nhà khoa học như Katz và Kahn (Đại học Tổng hợp Michigan), Lawrence và Lorsch (Đại học Harvard) bắt đầu phát triển mô hình các hệ thống mở của tổ chức. Mô hình này năng động hơn các mô hình trước. Nhà quản lý không còn được nhìn nhận như người ra quyết định lý tính, kiểm soát tổ chức như một cỗ máy. Trong mô hình các hệ thống mở (Open systems model), các tổ chức phải ganh đua trong môi trường cạnh tranh và không dễ đoán định. Tiêu chí chủ yếu của hiệu quả tổ chức là tính thích ứng và nhận được sự trợ giúp từ bên ngoài. Giả định phương tiện - mục đích của mô hình này là nếu tổ chức liên tục thích ứng và đổi mới thì có thể thu thập và duy trì được các nguồn lực bên ngoài. Các quá trình chủ yếu ở đây là thích ứng chính trị, giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, đổi mới và quản lý sự thay đổi. Tổ chức theo mô hình này có bầu không khí đổi mới. Trong điều kiện tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro cao và các quyết định cần được ban hành nhanh chóng, việc xây dựng được tầm nhìn chung và chia sẻ các giá trị của mô hình này là rất quan trọng. Nếu hiệu suất của một nhân viên giảm sút, sự việc đó có thể được đánh giá là do hệ quả của một thời gian dài làm việc với cường độ cao, quá nhiều căng thẳng, hoặc thậm chí bị coi là kiệt sức. Nhà quản lý được trông đợi đóng vai trò của người đổi mới sáng tạo và người môi giới sắc sảo về chính trị (người sử dụng quyền lực và gây ảnh hưởng trong tổ chức).

Ngày nay, trong khoa học quản lý, chúng ta còn thấy xuất hiện nhiều mô hình quản lý. (i) Từ tiêu chí quản lý hướng tới mục tiêu, có mô hình quản lý theo mục tiêu hoặc mô hình quản lý dựa theo kết quả đầu ra; (ii) từ tiêu chí quản lý chất lượng sản phẩm, có mô hình quản lý chất lượng toàn bộ hoặc mô hình quản lý theo hợp đồng…; (iii) Từ tiêu chí phân cấp quản lý, có các mô hình như mô hình quản lý tập trung; mô hình quản lý phân tán hay mô hình quản lý hỗn hợp; Từ tiêu chí chi phí, có mô hình chi phí – kết quả trong quản lí… Phù hợp với đặc thù chính trị –  kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển mà hoạt động quản lý hành chính mỗi nước có những nét riêng. Tính thích ứng của hành chính với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý. Từ lý luận Nhà nước và Pháp luật thì quản lý hành chính nhà nước là một thiết chế để thực hiện quyền lực nhà nước, bao gồm hoạt động quản lí của các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Cho dù xem xét dưới góc độ nào thì yếu tố quan trọng nhất của quản lý hành chính nhà nước vẫn là việc thực thi quyền hành pháp và quản lí, cung ứng các dịch vụ công cho xã hội.

Trong lĩnh vực quản lý dịch vụ công, một trong những hướng đi mà nhiều Nước trên thế giới đang quan tâm là thay đổi cách thức quản lý của nhà nước đối với hoạt động cung cấp dịch vụ công. Đối với các loại dịch vụ do chính nhà nước cung ứng, các nước đang tìm kiếm cách thức cung ứng theo Mô hình 3E: tiết kiệm, kết quả và hiệu quả (Economy - Effectiveness - Efficiency). Sự thay đổi này đang diễn ra theo hướng áp dụng kinh nghiệm quản lý của khu vực tư nhân vào việc quản lý cung cấp dịch vụ bằng nguồn ngân sách nhà nước và do chính các chủ thể của nhà nước cung cấp. Những kinh nghiệm như quản lý theo mục tiêu (MbO), quản lý theo kết quả (MbR), quản lý chất lượng toàn bộ (TQM) hay quản lý theo hợp đồng (MbC)… vốn rất thành công trong khu vực tư nhân đang được nhiều chính phủ xem xét áp dụng[22].

Một sự thay đổi trong phương pháp quản lý mà nhiều nước đang triển khai áp dụng là chuyển một số thẩm quyền quản lý dịch vụ công từ chính quyền trung ương sang cho chính quyền địa phương. Quá trình này được biết đến với tên gọi là quá trình phân quyền và phi tập trung hóa trong quản lý của các Chính phủ. Phương pháp này tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách giữa người được thụ hưởng dịch vụ công với người ra quyết định, quản lý và cung cấp dịch vụ. Dịch vụ được cung cấp phù hợp hơn với nhu cầu địa phương, tạo điều kiện phản hồi từ phía người dân sử dụng, huy động được sức sáng tạo địa phương, nâng cao tinh thần của cán bộ địa phương và tạo điều kiện kết hợp với các đối tác địa phương. Củng cố và trao thêm trách nhiệm cho các cấp chính quyền cấp dưới là nguyên tắc chủ yếu trong cải cách cơ cấu khu vực công ở rất nhiều nước OECD.

2.2. Mô hình quản lý dịch vụ hành chính công của ngành Tư pháp

Với vị trí là cơ quan của Chính phủ - thuộc hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, Bộ Tư pháp có trách nhiệm thực hiện quyền quản lý nhà nước đối với dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực mình quản lý và trực tiếp thực hiện một số dịch vụ hành chính công theo thẩm quyền. Do vậy, về cơ bản, việc quản lý ở Bộ Tư pháp cũng như các Bộ ngành khác là áp dụng mô hình quản lý tập chung đối với các đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước.

Tuy nhiên, thực hiện nhiệm vụ được giao về quản lý nhà nước các tổ chức thực hiện dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, (khoản 25 Điều 2 Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13 tháng 3 năm 2013 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp[23]) Bộ Tư pháp đã áp dụng các mô hình như Mô hình quản lý tập trung (mô hình một cấp quản lý); Mô hình quản lý phân tán (Mô hình hai cấp, mô hình nhiều cấp quản lý) và Mô hình quản lý hỗn hợp (Mô hình liên tịch quản lý) trong quản lý nhà nước các tổ chức thực hiện dịch vụ công và dịch vụ hành chính công của ngành.

Với chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Tư pháp đã:

(1) Chủ động xây dựng văn bản trình Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền để điều chỉnh, quy định chi tiết hoặc hướng dẫn thi hành việc thực thi các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. Đến nay, tất cả các lĩnh vực dịch vụ công của ngành đã có luật và các văn bản quy định chi tiết hoặc hướng dẫn thi hành cụ thể. Hệ thống các thủ tục hành chính đã được công bố trực tuyến ở cấp độ I và II và về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính.

(2) Trình Thủ tướng phê duyệt quy hoạch mạng lưới các tổ chức sự nghiệp dịch vụ công của ngành, như: Quy hoạch mạng lưới Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm; Quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng...

(3) Ban hành các văn bản hướng dẫn và quy định rõ các điều kiện, tiêu chuẩn và chế độ đối với các tổ chức, cá nhân hành nghề...

(4) Thực hiện kiểm tra, thanh tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo và khen thưởng theo quy định của pháp luật.

Cụ thể, với 4 nhóm dịch vụ hành chính công thuộc phạm vi của ngành Tư pháp như đã phân tích ở trên (điểm 1.3.1), trong thực tế quản lý của Bộ, cho thấy, về mô hình quản lý, để giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý dịch vụ công của Bộ, ngành, Bộ Tư pháp đã áp dụng không chỉ một mô hình quản lý. Đối với một số hoạt động dịch vụ công của ngành áp dụng mô hình quản lý độc lập và thống nhất theo:

Mô hình một cấp quản lý (mô hình quản lý tập trung), như mô hình quản lý dịch vụ đăng ký giao dịch bảo đảm;

Mô hình hai cấp quản lý (mô hình quản lý phân tán), như mô hình quản lý dịch vụ lý lịch tư pháp, trợ giúp pháp lý, công chứng;

Mô hình nhiều cấp quản lý (mô hình quản lý phân tán), như mô hình quản lý dịch vụ hộ tịch, chứng thực;

Mô hình liên tịch quản lý (Mô hình quản lý hỗn hợp) giữa Bộ, ngành và tổ chức xã hội nghề nghiệp như, mô hình quản lý luật sư.

Với các mô hình này, để giúp Bộ trưởng thực hiện các nhiệm vụ được giao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ủy quyền cho các đơn vị tham mưu, giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước và tổ chức thi hành pháp luật về các lĩnh vực hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, luật sư, tư vấn pháp luật, công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm, trợ giúp pháp lý, lý lịch tư pháp ... Các nhiệm vụ này hiện được giao cho các đơn vị tương ứng như:

- Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực;

- Cục Bổ trợ tư pháp;

- Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm;

- Cục Trợ giúp pháp lý;

- Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia.

 

 

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG VỀ CÁC MÔ HÌNH QUẢN LÝ DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP

 

Như đã phân tích ở phần trên, với vai trò là cơ quan của Chính phủ, trong lĩnh vực quản lý dịch vụ công, Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực trong việc đổi mới và hoàn thiện các mô hình quản lý dịch vụ công của ngành với mục tiêu “xây dựng, hoàn thiện về thể chế thực hiện dịch vụ công; chỉ đạo, hướng dẫn và tạo các điều kiện nhằm hỗ trợ cho các tổ chức thực hiện dịch vụ công của ngành”. Cụ thể:

I. VỀ MÔ HÌNH MỘT CẤP QUẢN LÝ, Mô hình quản lý đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm.

Về mô hình tổ chức hoạt động đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm có thể được mô hình hóa như sau: (Mô hình 1)

MÔ HÌNH 1

 

 
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Theo Quyết định số 2471/QĐ-BTP ngày 03/10/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thì, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm; tổ chức thực hiện việc đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Do vậy, ngoài các nhiệm vụ tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký giáo dịch bảo đảm[24], thì Cục và các tổ chức sự nghiệp thuộc Cục còn được giao thực hiện các nhiệm vụ về đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm (thực hiện dịch vụ công) theo quy định tại Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 05/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ và các quy định khác của pháp luật[25]. Thực tiễn đã chứng minh, dịch vụ đăng ký giao dịch bảo đảm trong thời gian qua đã là một trong những thiết chế tích cực hỗ trợ sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng nhu cầu bảo đảm an toàn pháp lý đối với nhiều loại hình giao dịch dân sự, kinh doanh, thương mại, qua đó, tăng cường khả năng và cơ hội tiếp cận tín dụng của người dân và doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.

Thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp đã chru động xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực thi những cải cách về chính sách và thể chế trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm, cụ thể như sau:

Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và xu hướng hội nhập, phát triển kinh tế, góp phần thúc đẩy thị trường vốn vận hành an toàn, minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm theo hướng hiện đại, tiện ích và thân thiện với khách hàng, phù hợp với mục tiêu cải cách hành chính, cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, xây dựng hành lang pháp lý và đảm bảo sự vận hành của hệ thống các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện đăng ký đối với động sản, bất động sản, tàu bay, tàu biển với một đội ngũ cán bộ đăng ký thường xuyên được được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ và đạo đức nghề nghiệp.

 Thứ tư, cải tiến quy trình đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính theo hướng đảm bảo tính chuyên nghiệp, khoa học, thuận tiện và giảm chi phí cho người dân, tổ chức khi thực hiện các quyền, giao dịch liên quan đến tài sản, ví dụ như đơn giản và minh bạch hoá hồ sơ, thủ tục đăng ký; loại bỏ các giấy tờ không cần thiết trong hồ sơ; rút ngắn thời hạn giải quyết từ 3 đến 5 ngày xuống còn ngay trong ngày nhận hồ sơ hợp lệ; thực hiện đăng ký liên thông; quy định rõ ràng quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu đăng ký và trách nhiệm của cơ quan đăng ký, của cán bộ đăng ký giao dịch bảo đảm...

Mặt khác, Bộ Tư pháp (Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm) đã triển khai nhiều hoạt động hướng dẫn, giải đáp pháp luật về giao dịch bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm cho các cơ quan thực hiện đăng ký là các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh, cấp huyện và các tổ chức tín dụng, cá nhân, tổ chức có liên quan trên phạm vi toàn quốc; tiến hành kiểm tra việc thi hành pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất đối với cơ quan có chức năng quản lý nhà nước tại địa phương, các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh, cấp huyện. Song song đó, Cục Đăng ký cũng thường xuyên tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra toàn diện việc tổ chức thi hành pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản thuộc Cục.

Thông qua công tác hướng dẫn, kiểm tra hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm cho thấy, nhiều cơ quan, tổ chức được kiểm tra đã chấp hành tốt quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm, hoạt động ngày càng đi vào nề nếp, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của người dân, doanh nghiệp. Ngoài ra, qua kiểm tra đã kịp thời phát hiện những hạn chế, thiếu sót, bất cập từ phía cơ quan và cán bộ thực hiện đăng ký. Trên cơ sở kết quả kiểm tra, Cục Đăng ký đã có kiến nghị, đề xuất biện pháp khắc phục nhằm chấn chỉnh hoạt động đăng ký, đồng thời phối hợp với các cơ quan hữu quan đề xuất việc sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này với mục tiêu đưa công tác đăng ký giao dịch bảo đảm ngày càng đi vào hiệu quả, góp phần phục vụ tốt hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước.

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật luôn được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm. Do vậy, trong thời gian qua, Cục Đăng ký đã chủ động phối hợp với đơn vị chức năng có liên quan triển khai các hoạt động tập huấn, tuyên truyền theo hướng ngày càng mở rộng hơn về đối tượng (không chỉ đối với tổ chức tín dụng, mà còn đối với các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân trong xã hội), đa dạng về hình thức (tổ chức tọa đàm, mở các lớp tập huấn, phát hành sách, phát hành tạp chí chuyên đề, gửi đăng tin bài trên báo...). Cho đến nay, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của các tổ chức, cá nhân trong xã hội về ý nghĩa, vai trò và nội dung của các quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm. Thực tiễn cho thấy, hiểu biết của cá nhân, tổ chức về pháp luật đăng ký giao dịch bảo đảm, nhận thức về ý nghĩa của công tác đăng ký và ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân ngày càng được nâng cao một cách rõ rệt.

a) Kết quả đạt được.

Thứ nhất, hệ thống thể chế về đăng ký giao dịch đã bảo đảm phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và xu hướng hội nhập, phát triển kinh tế, góp phần thúc đẩy thị trường vốn vận hành an toàn, minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Thứ hai, mô hình tổ chức và hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm theo hướng hiện đại, tiện ích và thân thiện với khách hàng, phù hợp với mục tiêu cải cách hành chính, cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, đảm bảo sự vận hành của hệ thống các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện đăng ký đối với động sản, bất động sản, tàu bay, tàu biển với một đội ngũ cán bộ đăng ký thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ và đạo đức nghề nghiệp.

 Thứ tư, đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính theo hướng đảm bảo tính chuyên nghiệp, khoa học, thuận tiện và giảm chi phí cho người dân, tổ chức khi thực hiện các quyền, giao dịch liên quan đến tài sản, ví dụ như đơn giản và minh bạch hoá hồ sơ, thủ tục đăng ký; loại bỏ các giấy tờ không cần thiết trong hồ sơ; rút ngắn thời hạn giải quyết từ 3 đến 5 ngày xuống còn ngay trong ngày nhận hồ sơ hợp lệ; thực hiện đăng ký liên thông; quy định rõ ràng quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu đăng ký và trách nhiệm của cơ quan đăng ký, của cán bộ đăng ký giao dịch bảo đảm...

Thứ năm, công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm; cũng như công tác tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra bảo đảm thông suốt, kịp thời...

Thứ sáu, mô hình cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm theo mô hình một cấp quản lý, gọn nhẹ, đã bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Theo đó, người dân và doanh nghiệp có quyền lựa chọn một trong các trung tâm đăng ký thực hiện việc đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng và thông báo việc kê biên tài sản thi hành án. Việc đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi hành án tại các trung tâm đăng ký có giá trị pháp lý như nhau.

Về kết quả hoạt động, Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp Tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015 của Bộ Tư pháp đã khẳng định "Thể chế công tác đăng ký giao dịch bảo đảm tiếp tục được hoàn thiện với việc ban hành nhiều thông tư, thông tư liên tịch[26]. Năm 2014, các Trung tâm Đăng ký giao dịch tài sản đã tiếp nhận và giải quyết 307.332 đơn yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin, trong đó số thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo kê biên tài sản thi hành án là 249.424 đơn, tăng 53% so với năm 2013. Số lượng tra cứu thông tin miễn phí trên hệ thống đăng ký trực tuyến là 395.931 lượt, tăng 60% so với năm 2013.

b) Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc tiếp nhận thông tin đăng ký giao dịch bảo đảm (thông tin đầu vào) được thực hiện phân tán theo từng loại hình tài sản (quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tàu bay, tàu biển và các động sản) thuộc quyền quản lý của các Bộ, ngành khác nhau, bao gồm: Bộ Tài nguyên và Môi trường (quản lý cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất), Bộ Giao thông vận tải (quản lý cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển), Bộ Tư pháp (quản lý cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng các động sản khác). Việc này làm cho người dân và doanh nghiệp phải đến nhiều cơ quan, nộp nhiều bộ hồ sơ, thực hiện nhiều thủ tục khác nhau trong trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất bao gồm cả động sản. Mặt khác, việc chưa quy định về cơ chế trao đổi thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản giữa cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và hệ thống thông tin tín dụng tiềm ẩn nguy cơ gây rủi ro cho các bên tham gia giao dịch liên quan đến tài sản bảo đảm, đồng thời gây tốn kém về thời gian và chi phí cho xã hội, chưa đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính của Đảng và Nhà nước, chưa đảm bảo quyền tiếp cận thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, cá nhân.

Bên cạnh đó, hiện tại, Việt Nam chưa xây dựng được hệ thống dữ liệu tập trung, thống nhất thông tin về giao dịch bảo đảm bằng tất cả các loại tài sản trong phạm vi cả nước, có sự kết nối, chia sẻ thông tin với hệ thống thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước. Thực trạng này dẫn đến trong nhiều trường hợp cũng đã gây ra nhiều rủi ro cho các tổ chức tín dụng.

Nguyên nhân của tồn tại này là do:

- Việc quy định về tổ chức và nguyên tắc vận hành hiện nay của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm ít nhiều vẫn chịu sự chi phối của tư duy hành chính bao cấp (theo cơ chế xin - cho), chưa đáp ứng đầy đủ và toàn diện mục tiêu phục vụ thị trường, do đó dẫn đến khó khăn khi tổ chức, cá nhân có nhu cầu tìm hiểu, tiếp cận thông tin. Thực tiễn cho thấy, yếu tố phục vụ thị trường chưa được đề cao một cách hợp lý trong tổ chức và hoạt động của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm ở nước ta thời gian qua. Điều này trong chừng mực nhất định đã dẫn đến hệ quả là hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm nói chung và hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản nói riêng chưa thực sự phát huy hết ý nghĩa, vai trò của nó trong việc tăng cường khả năng, cơ hội tiếp cận tín dụng an toàn, minh bạch cho nền kinh tế.

- Một số cán bộ quản lý vẫn còn thiếu kinh nghiệm và chưa nhận thức đầy đủ về chỉ đạo, điều hành nền kinh tế, do vậy, đã tác động không tốt đến công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm, thể hiện ở những hạn chế về pháp luật, về nhận thức và triển khai thực hiện. Điều này đã ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng một hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm đảm bằng động sản hiện đại, an toàn của Việt Nam.

- Cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản vẫn còn mới mẻ so với truyền thống pháp lý của Việt Nam. Trong khi truyền thống pháp lý của Việt Nam theo hệ thống luật thành văn (civil law) thì cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản lại có nguồn gốc từ khu vực Bắc Mỹ, nơi các quốc gia theo hệ thống luật thông lệ (common law). Tuy việc kết hợp, giao thoa giữa các hệ thống pháp luật là một xu hướng tất yếu trong quá trình toàn cầu hoá, nhưng để cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản kết hợp hài hoà, phù hợp với truyền thống pháp lý và điều kiện thực tế của Việt Nam thì cần phải có một quá trình nghiên cứu, hoàn thiện và tuyên truyền phổ biến rộng rãi.

- Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm của nước ta vẫn đang vận hành trong quá trình chuyển đổi tư duy quản lý từ đăng ký phục vụ mục tiêu quản lý hành chính nhà nước sang mục tiêu công khai hoá thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản, phục vụ thị trường. Chính tư duy này đã ảnh hưởng đến tâm lý pháp lý của những người làm công tác đăng ký giao dịch bảo đảm về vai trò và ý nghĩa của việc đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo đó, thay vì tư duy đăng ký là “phục vụ” người dân thì hiện tại, một số cán bộ đăng ký lại nhận thức vấn đề thành đăng ký là “cho” người dân.

II. VỀ MÔ HÌNH HAI CẤP QUẢN LÝ như: Mô hình quản lý lý lịch tư pháp, trợ giúp pháp lý, công chứng.

Về tổ chức và hoạt động lý lịch tư pháp và trợ giúp pháp lý được quy định bởi Luật Lý lịch tư pháp số 28/2009/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 17/06/2009 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2010; Luật Trợ giúp pháp lý số 69/2006/QH 11 đã được Quốc nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam  hội khóa XI kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/06/2006 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành của hai luật này; Luật Công chứng số 53/2014/QH13 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 20/06/2014 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Về mô hình tổ chức và hoạt động trong lĩnh vực lý lịch tư pháp và trợ giúp pháp lý, có thể sơ đồ hóa như sau (Mô hình 2).

 Ở mô hình này, luật và các văn bản hướng dẫn thi hành đã phân cấp cụ thể về mô hình quản lý. Theo đó, Bộ Tư pháp được giạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước; các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) thực hiện quản lý nhà nước tại địa phương.

 

BỘ TƯ PHÁP

MÔ HÌNH 2

 

 

       
 
   
 

 

 

 

 

Trung tâm LLTP quốc gia

Cục Trợ giúp pháp lý

 

Cục Bổ trợ Tư pháp

- Ở trung ương có:

 

 

 

 
 

 

 

 

 

Sở Tư pháp

- Ở địa phương cấp tỉnh có:

 

 

 
 

 

 

 

 

 

 

 

Cụ thể hóa quy định của Luật, ở Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã giao cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia[27] và Cục Trợ giúp pháp lý[28] giúp Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước và thực hiện các hoạt động nghiệp vụ theo thẩm quyền. Ở địa phương, Sở Tư pháp là cơ quan giúp UBND cấp tỉnh thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước ở địa phương và Phòng/bộ phận lý lịch tư pháp[29], Trung tâm trợ giúp pháp lý cấp tỉnh thực hiện các hoạt động nghiệp vụ theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, ở mô hình quản lý này, do địa vị pháp lý khác nhau lên các nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao trong mỗi lĩnh vực cũng khác nhau. Cụ thể:

2.1. Về quản lý lý lịch tư pháp.

Theo quy định tại Điều 9 Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 thì, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp và Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp; Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm phối hợp với Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp; Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) thực hiện quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp tại địa phương.

Ở Bộ Tư pháp, theo Quyết định số 97/QĐ-BTP ngày 26/01/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia thì Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia là đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ, có chức năng xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong phạm vi cả nước. Mặc dù là đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ, tuy nhiên do đặc thù của hoạt động, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ theo chức năng được giao (quản lý chuyên ngành về lý lịch tư pháp và quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp), còn được Bộ trưởng giao thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước. Cụ thể, các nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp (tương tự như thẩm quyền của một Cục thuộc Bộ).

Ở địa phương, Sở Tư pháp pháp được giao giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp tại địa phương. Cụ thể: tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp; quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.

a) Về kết quả đạt được

Thứ nhất, về công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế. Sau hơn 04 năm thực hiện Luật Lý lịch tư pháp, các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật đã cơ bản đầy đủ. Đặc biệt, ngày 19/02/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành “Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030” (kèm theo Quyết định số 338/QĐ-TTg). Đây là văn bản rất quan trọng, mang tính định hướng và xác lập các điều kiện về vật chất, kỹ thuật và nguồn nhân lực cho sự nghiệp phát triển lý lịch tư pháp ở hiện tại và tương lai.

Thứ hai, về tổ chức, biên chế. Tổ chức bộ máy, biên chế làm công tác lý lịch tư pháp tại Bộ Tư pháp và tại các Sở Tư pháp đã từng bước được hình thành và kiện toàn. Hiện nay, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia thuộc Bộ Tư pháp và 05 Phòng Lý lịch tư pháp thuộc Sở Tư pháp 05 thành phố trực thuộc Trung ương đã được thành lập và hoạt động ngày càng hiệu quả. Tại các tỉnh, đa phần các Sở Tư pháp đã kiện toàn bộ phận lý lịch tư pháp tại Phòng Hành chính tư pháp, bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác lý lịch tư pháp để thực hiện nhiệm vụ quản lý lý lịch tư pháp. Điều này thể hiện công tác lý lịch tư pháp đã nhận được sự quan tâm nhất định của các cấp ủy, chính quyền ở Trung ương và địa phương.

Thứ ba, về công tác phối hợp liên ngành trong tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin để xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong công tác phối hợp với cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong cung cấp, tiếp nhận, phối hợp tra cứu, xác minh thông tin lý lịch tư pháp ngày càng được chú trọng, nâng cao và đi vào nền nếp. Nguồn thông tin lý lịch tư pháp đã được khai thông, số lượng thông tin lý lịch tư pháp từ các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an, Quân đội, Thi hành án dân sự cung cấp cho cơ quan quản lý lý lịch tư pháp để xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp ngày càng nhiều, thường xuyên và kịp thời hơn. Tính đến ngày 31/10/2014 các cơ quan đã cung cấp cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp gần 1.200.000 thông tin lý lịch tư pháp.

Thứ tư, về công tác xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Công tác xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp đã được Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và một số địa phương trong cả nước quan tâm, chú trọng thực hiện và đã dần đi vào nền nếp. Với chức năng xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong phạm vi cả nước, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia đang thực hiện tiếp nhận, cập nhật và xử lý thông tin lý lịch tư pháp từ các Sở Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các trại giam, trại tạm giam, cơ quan Thi hành án hình sự công an cấp tỉnh cung cấp. Tính đến ngày 31/10/2014, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia đã nhận được 467.613 thông tin, trong đó có 434.451 thông tin lý lịch tư pháp về án tích. Trên cơ sở các thông tin lý lịch tư pháp nhận được, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia đã thực hiện cập nhật 169.447 bản Lý lịch tư pháp; cập nhật, xử lý 168.377 thông tin chấp hành xong hình phạt tù, đặc xá, 32.181 thông tin chứng tử, cải chính hộ tịch và đưa vào lưu trữ 132.551 hồ sơ lý lịch tư pháp bằng giấy, 161.336 thông tin chấp hành xong hình phạt tù, đặc xá, ....Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia đã tổ chức lưu trữ hồ sơ lý lịch tư pháp bằng giấy (trang bị kho lưu trữ, tủ đựng hồ sơ lý lịch tư pháp) và đã đưa vào lưu trữ theo đúng nguyên tắc của hoạt động này, bảo đảm thuận tiện cho việc tra cứu, khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.

Với chức năng xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại địa phương, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang thực hiện việc tiếp nhận, cập nhật và xử lý thông tin lý lịch tư pháp từ các cơ quan Tòa án, kiểm sát, thi hành án dân sự và cơ quan Thi hành án hình sự công an cấp huyện cung cấp. Tính đến ngày 31/10/2014, các Sở Tư pháp trên toàn quốc đã tiếp nhận, kiểm tra, phân loại được 1.143.319 thông tin lý lịch tư pháp; thực hiện lập Lý lịch tư pháp và cập nhật thông tin lý lịch tư pháp bổ sung được 572.687 thông tin (trong đó lập được 291.898 Lý lịch tư pháp, cập nhật được 129.852 thông tin lý lịch tư pháp bổ sung); cung cấp cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia là 281.185  thông tin (bao gồm: 194.916 bản Lý lịch tư pháp và 86.269 thông tin lý lịch tư pháp bổ sung . Công tác lưu trữ hồ sơ lý lịch tư pháp bằng văn bản giấy bước đầu được các Sở Tư pháp thực hiện theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp và Thông tư số 06/2013/TT-BTP.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý lý lịch tư pháp đã được triển khai, đạt được những kết quả bước đầu, phục vụ cho công tác xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp theo hướng chuyên nghiệp, từng bước hiện đại.

Thứ năm, về công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Theo Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp Tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015 của Bộ Tư pháp, trong năm 2014, Bộ Tư pháp đã cấp 129 Phiếu lý lịch tư pháp cho người nước ngoài đã từng cư trú tại Việt Nam; các Sở Tư pháp cấp được 300.108 Phiếu lý lịch tư pháp (tăng 11,5% so với năm 2013), trong đó có 230.387 Phiếu lý lịch tư pháp số 1 và 69.721 Phiếu lý lịch tư pháp số 2. Công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp cơ bản đáp ứng yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức, từng bước được cải cách thủ tục, đơn giản hóa và thuận tiện hơn, một số địa phương đã thực hiện việc chuyển phát kết quả giải quyết hồ sơ lý lịch tư pháp qua đường bưu điện. Công tác xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp được chú trọng thực hiện; việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, cấp phiếu lý lịch tư pháp bước đầu được triển khai và đạt được một số kết quả cụ thể[30].

b) Mộ số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

Ở mô hình cụ thể này, mặc dù được xác định là đơn vị sự nghiệp công lập – không thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, tuy nhiên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp vẫn ủy quyền giúp Bộ trưởng thực hiện một số nhiệm vụ quản lý (Điều 2 Quyết định số 97/QĐ-BTP ngày 26/01/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp). Điều này dẫn đến việc không thống nhất, đồng bộ trong việc áp dụng và thực thi pháp luật. Mặt khác, Sở Tư pháp với vị trí là cơ quan chuyên môn, thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có phòng hoặc bộ phận lý lich tư pháp thực hiện nhiệm vụ cấp Phiếu lý lịch tư pháp, quản lý, lưu trữ hồ sơ lý lịch tư pháp theo quy định của pháp luật. Quy định này hiện nay đang vướng cả về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hiện nay. Cụ thể:

(1) Khó khăn trong  việc tạo ra hệ thống đồng bộ trong hoạt động xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong phạm vi toàn quốc. Một số địa phương chưa thực sự quan tâm, chăm lo đến công tác lý lịch tư pháp, đặc biệt là hoạt động xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp; số lượng thông tin lý lịch tư pháp còn tồn đọng, chưa được xử lý, cập nhật vào cơ sở dữ liệu tại các Sở Tư pháp còn khá lớn.

(2) Khó khăn trong bảo đảm tính đồng bộ của dữ liệu cũng như chất lượng của cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Với mô hình hai cấp như hiện nay, việc xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp đã bị phân tán, dẫn đến tình trạng không có sự thống nhất về thông tin giữa Trung tâm và các Sở Tư pháp, tạo ra tình trạng thông tin có quá nhiều đầu vào, quá nhiều đầu ra, các đầu vào và đầu ra phụ thuộc vào số lượng, chất lượng, trình độ chuyên môn thiếu đồng đều của nhân viên chuyên môn ở nhiều địa phương, vùng miền khác nhau dẫn đến thông tin của các đầu mối không khớp nhau, thiếu thông tin, thiếu chính xác, thiếu độ tin cậy. Việc này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của cơ sở dữ liệu cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và kết quả cấp phiếu lý lịch tư pháp cho công dân.

(3) Khó khăn trong thực hiện kiểm tra, kiểm soát hoạt động xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong phạm vi toàn quốc. Mô hình quản lý cơ sở dữ liệu 02 cấp sẽ dẫn đến hoạt động xử lý, tiếp nhận, lưu trữ cơ sở dữ liệu bị phân tán tại 64 đầu mối (bao gồm Trung tâm Lý lịch tư pháp và 63 Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương). Vấn đề này gây ra khó khăn trong việc quản lý thống nhất dữ liệu tại 02 cấp, không có cơ chế kiểm tra, kiểm soát kịp thời tính chính xác, đầy đủ, thống nhất, đồng bộ của thông tin được lập, cập nhật và cung cấp tại 63 Sở Tư pháp. 

(4) Công tác phối hợp giữa các cơ quan chưa đi vào nền nếp, lượng thông tin do các cơ quan đầu mối cung cấp cho Trung tâm, Sở Tư pháp chưa đầy đủ, kịp thời thông tin lý lịch tư pháp phát sinh trên thực tế. Thực tế hiện nay cho thấy, hoạt động phối hợp, chỉ đạo cung cấp, trao đổi thông tin về lý lịch tư pháp còn manh mún, chưa có tính tổng thể, nhất quán. Thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp đòi hỏi phải có sự phối hợp cung cấp, trao đổi thông tin của các cơ quan có liên quan, do đó, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan Toà án, thi hành án … với Sở Tư pháp phải được quan tâm, chú trọng. Việc cung cấp thông tin vẫn còn thiếu, không thường xuyên và còn manh mún dẫn đến cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Sở còn thiếu hụt không đầy đủ, không đáp ứng kịp thời nhu cầu của công việc. Mặt khác, cùng với sự mạo nhận các thông tin về lý lịch tư pháp của người khác là sự thiếu vắng một hệ thống quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp khiến cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc và sự nhầm lẫn về lai lịch bị cáo là điều không thể tránh khỏi, dễ dẫn đến việc xét xử và tuyên án "không đúng người" hoặc lượng hình không đúng tội.

(5) Việc quy định Trung tâm là một đơn vị sự nghiệp đã gây ra không ít khó khăn trong việc phối hợp với các cơ quan nhà nước liên quan đến quản lý lý lịch tư pháp. Do tính chất đặc thù của công tác quản lý lý lịch tư pháp là tích hợp thông tin về án tích từ các cơ quan tiến hành tố tụng nên hoạt động phối hợp giữa cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và các cơ quan hữu quan có tầm quan trọng đặc biệt. Ngoài ra, việc quy định Trung tâm là đơn vị sự nghiệp và các cán bộ của Trung tâm chỉ có tư cách viên chức để thực thi các nhiệm vụ quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp giao đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của công tác quản lý, hướng dẫn nghiệp vụ, đôn đốc, kiểm tra hoạt động lý lịch tư pháp của Trung tâm đối với các địa phương.

(6) Tổ chức bộ máy, biên chế nhân sự phục vụ công tác lý lịch tư pháp chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh đó, chất lượng của đội ngũ công chức, viên chức làm công tác lý lịch tư pháp tại các địa phương chưa có được trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu do nhiều người chưa được đào tạo bài bản về chuyên môn nghiệp vụ lý lịch tư pháp hoặc có người đã được đào tạo chuyên nghiệp và thành thạo chuyên môn về lý lịch tư pháp thì lại bị điều chuyển đi công tác ở vị trí khác.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế này là do:

- Nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức, kể cả những người làm công tác tư pháp, cán bộ lãnh đạo ở địa phương còn hạn chế, chưa đầy đủ và đúng mức về vai trò, ý nghĩa của lý lịch tư pháp trong quản lý nhà nước, trong đời sống xã hội và trong hoạt động tố tụng hình sự. Một số địa phương chưa thực sự quan tâm, chú trọng tới công tác xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp hoặc đã quan tâm nhưng chưa đúng mức, chưa năng động, tranh thủ sự ủng hộ và chưa kịp thời phản ánh những khó khăn, vướng mắc, bất cập cho các cấp Ủy đảng, chính quyền của địa phương. Một bộ phận lãnh đạo và cán bộ làm công tác lý lịch tư pháp chưa nhận thức hết tầm quan trọng của công tác xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.

- Công tác phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong công tác lý lịch tư pháp chưa đi vào nền nếp, chưa thực hiện đầy đủ, đúng quy định của Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật.

- Cán bộ làm công tác lý lịch tư pháp còn thiếu về số lượng và tính chuyên nghiệp. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng về tin học của đội ngũ công chức, viên chức làm công tác lý lịch tư pháp hiện nay chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ.

          - Cơ sở vật chất bảo đảm cho công tác lý lịch tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động xây dựng, quản lý, lưu trữ, sử dụng, khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp còn hạn chế, chậm và chưa đồng đều giữa các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.

          - Nhiệm vụ cung cấp thông tin để xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp là nhiệm vụ mới của các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an, Quốc phòng, Thi hành án dân sự... nhưng kinh phí và nhân lực để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ mới chưa được bổ sung nên tại các cơ quan có liên quan, cán bộ làm nhiệm vụ cung cấp thông tin để xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp hiện nay đang hầu hết là kiêm nhiệm.

          - Hoạt động xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp là nhiệm vụ hoàn toàn mới đối với ngành Tư pháp, đồng thời là nghiệp vụ rất chuyên sâu, phức tạp, có liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức. Các quy định của pháp luật hiện hành về lý lịch tư pháp mới tạo được khung pháp lý cho hoạt động xây dựng cơ sở dữ liệu, nhưng quy mô, cấu trúc, nguyên tắc vận hành của cơ sở dữ liệu vẫn chưa được xác định một cách rõ ràng, chưa có tiêu chí, căn cứ cụ thể để kiểm soát và đánh giá chất lượng. Bên cạnh đó, quy định của pháp luật còn tồn tại một số bất cập, chưa phù hợp giữa quy định pháp luật về lý lịch tư pháp và quy định của pháp luật hình sự, tố tụng dân sự…

- Những nội dung cải cách tư pháp liên quan đến hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, cải cách mô hình tổ chức hệ thống tòa án đang trong quá trình hoàn thiện, đã ảnh hưởng đến tổ chức cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, ảnh hưởng đến công tác xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.

2.2. Về quản lý trợ giúp pháp lý.

Theo quy định tại Điều 47 Luật trợ giúp pháp lý năm 2006 thì, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý; các Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại địa phương; có trách nhiệm bảo đảm biên chế, kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước; thực hiện thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, kỷ luật và xử lý vi phạm về trợ giúp pháp lý trong phạm vi địa phương.

Ở Bộ Tư pháp, theo Quyết định số 1989/QĐ-BTP ngày 17/08/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Trợ giúp pháp lý thì, Cục Trợ giúp pháp lý là đơn vị trực thuộc Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác trợ giúp pháp lý trong phạm vi cả nước; thực hiện quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật. Tại Điều 2 của Quyết định này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ủy quyền cụ thể cho Cục trong việc giúp Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trong công tác trợ giúp pháp lý, trong đó nhấn mạnh đến nhiệm vụ "Hướng dẫn, tạo điều kiện để các hội nghề nghiệp về trợ giúp pháp lý, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các cá nhân thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý và tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ". Đồng thời, cũng tại điều này, quy định rõ về nhiệm vụ quản lý chuyên ngành trợ giúp pháp lý của Cục[31].

Ở địa phương, theo quy định tại Điều 46 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật trợ giúp pháp lý (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 05/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 và Nghị định số 14/2013/NĐ-CP ngày 05/02/2013) thì, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại địa phương; quyết định thành lập Trung tâm Trợ giúp pháp lý theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp (khoản 1 Điều 7). Tại khoản 2 Điều 7 cũng xác định rõ, Trung tâm là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp. Trung tâm trợ giúp pháp lý chịu sự quản lý nhà nước của Sở Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, sự quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Tư pháp.

Về tổ chức, ở trung ương có Cục Trợ giúp pháp lý là cơ quan quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành với 6 đơn vị trực thuộc; ở địa phương, hiện có 63 Trung tâm trợ giúp pháp lý cấp tỉnh với 199 Chi nhánh. Toàn quốc hiện có 483 Trợ giúp viên pháp lý và 8.980 cộng tác viên, trong đó có 1.055 luật sư. Chất lượng công tác trợ giúp pháp lý được nâng cao từng bước thu hút được sự tham gia của các ngành, các cấp, bảo đảm thông tin pháp luật và thông tin chung của Đảng, nhà nước được kịp thời, chính xác đến người nghèo, đối tượng chính sách. Mô hình tổ chức và hoạt động của Trung tâm đã được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật trợ giúp pháp lý và được định hình rõ nét đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 trong Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (kèm theo Quyết định số 678/QĐ-TTg ngày 10/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ).

a) Về kết quả đạt được

Thứ nhất, thể chế pháp lý điều chỉnh tổ chức, hoạt động của Trung tâm Trợ giúp pháp lý (TGPL) tương đối đầy đủ, toàn diện, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, phù hợp với điều kiện giai đoạn đầu thực hiện Luật TGPL. Mô hình tổ chức và hoạt động của Trung tâm đã được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TGPL; Đề án Quy hoạch mạng lưới Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008-2010, định hướng đến năm 2015 (kèm theo Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày 23/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ); Thông tư liên tịch số 08/2008/TTLT-BNV-BTP ngày 07/11/2008 của Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp hướng dẫn về tổ chức và biên chế của Trung tâm TGPL Nhà nước; Thông tư liên tịch số 81/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 25/9/2008 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan TGPL Nhà nước; các Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp: Quyết định số 02/2008/QĐ-BTP ngày 28/02/2008 ban hành Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động của Trung tâm TGPL Nhà nước; Quyết định số 05/2008/QĐ-BTP ngày 13/5/2008 ban hành Quy chế Cộng tác viên TGPL của Trung tâm TGPL Nhà nước. Mô hình tổ chức và hoạt động của Trung tâm TGPL Nhà nước được định hình rõ nét đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 trong Chiến lược phát triển TGPL Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (kèm theo Quyết định số 678/QĐ-TTg ngày 10/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ). Uỷ ban nhân dân (UBND) các tỉnh đã ban hành Quyết định phê duyệt Đề án quy hoạch mạng lưới Trung tâm TGPL Nhà nước và Chi nhánh; đổi tên, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Trung tâm; thành lập các phòng chuyên môn, nghiệp vụ, thành lập các Chi nhánh; xếp hạng đơn vị sự nghiệp đối với Trung tâm. Một số tỉnh đã phê duyệt phương án tự chủ trong quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế và kinh phí bảo đảm cho hoạt động của Trung tâm (Lào Cai) hoặc ban hành Kế hoạch công tác TGPL hằng năm để huy động các nguồn lực, giao trách nhiệm cho các cấp, các ngành trong triển khai thực hiện (Nghệ An) hoặc giao bổ sung thêm nhiệm vụ cho Trung tâm trong thực hiện TGPL cho một số đối tượng đặc thù như trẻ em, người lao động trong các doanh nghiệp (Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương); thậm chí thí điểm sẽ thực hiện việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho một số doanh nghiệp và đối tượng khác từ năm 2014 trở đi (Nghệ An); hoặc tham gia tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp cùng lãnh đạo UBND tỉnh (Kiên Giang). Giám đốc Sở Tư pháp một số tỉnh đã ban hành theo thẩm quyền hoặc phân cấp để Giám đốc Trung tâm ban hành Quy chế làm việc; Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Phòng chuyên môn, các Chi nhánh của Trung tâm cũng như các quy chế nghiệp vụ, Quy chế chi tiêu nội bộ của Trung tâm.

Thứ hai, tổ chức bộ máy của Trung tâm TGPL được củng cố, kiện toàn đáp ứng yêu cầu những năm đầu thực hiện Luật TGPL. Đến nay, 100% Trung tâm đã đổi tên, khắc con dấu mới và hoạt động theo Luật TGPL; có Quy chế tổ chức và hoạt động riêng. Bộ máy lãnh đạo được kiện toàn với Giám đốc và Phó Giám đốc. Các Phòng chuyên môn và Chi nhánh được thành lập, bảo đảm chuyên môn hóa, tách hoạt động quản lý hành chính với hoạt động nghiệp vụ TGPL hướng mạnh hoạt động TGPL về cơ sở với 120 Phòng chuyên môn; 161 Chi nhánh được thành lập. Trung bình mỗi Trung tâm có từ 15 - 20 biên chế (80% - 90% có trình độ cử nhân Luật). Một số Trung tâm có trên 30 biên chế (Lào Cai, Cần Thơ, Quảng Nam, Hà Nội). Đội ngũ người thực hiện TGPL tăng về số lượng, có đủ năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ TGPL. Cả nước đã có 304 Trợ giúp viên; 8.535 cộng tác viên TGPL (cấp tỉnh: 2.713 người; cấp huyện: 3.043 người và cấp xã 3.319 người), trong đó luật sư: 1.045 người; tư vấn viên pháp luật: 150 người. Công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực TGPL đã được coi trọng với trên 1.000 đợt tập huấn được tổ chức cho trên 91.000 lượt người tham dự. Chất lượng nguồn nhân lực TGPL tại cơ sở được nâng lên đáng kể, về cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ nhất là tham gia tố tụng để đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL.

Thứ ba, các hoạt động nghiệp vụ TGPL đã được triển khai khá bài bản, theo Chương trình, Kế hoạch đã được UBND tỉnh hoặc Sở Tư pháp phê duyệt. Công tác tiếp dân, tiếp nhận, thụ lý và thực hiện TGPL đã đi vào nề nếp, bài bản hơn. Việc phân công, kiểm tra, giám sát người thực hiện TGPL được chú trọng hơn. Hồ sơ sổ sách thụ lý vụ việc, hồ sơ vụ việc được lập, quản lý, khai thác, sử dụng và lưu trữ theo đúng quy định và hướng dẫn của Cục TGPL. Hoạt động tư vấn pháp luật, nhất là TGPL lưu động được quan tâm, chất lượng được nâng lên. Hoạt động tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng ngày càng đi vào nề nếp, ổn định và bảo đảm chất lượng với việc Trợ giúp viên ngày càng tích cực và chủ động trong các hoạt động nghiệp vụ TGPL. Đến hết tháng 6/2011, cả nước đã thực hiện được gần 490.000 vụ việc cho 498.000 đối tượng. Trong đó có trên 464.000 vụ tư vấn pháp luật (chiếm 93,28%); gần 26.000 vụ việc tham gia tố tụng (20.399 vụ bào chữa, 5.366 vụ đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp), chiếm 5,18%; trên 380 vụ việc đại diện ngoài tố tụng (chiếm 0,08%); gần 1.700 vụ việc kiến nghị (chiếm 0,34%) và trên 5.600 vụ việc khác (chiếm 1,13%).

Thứ tư, công tác đánh giá chất lượng và quản lý nhà nước về chất lượng vụ việc TGPL được hầu hết các Trung tâm triển khai thực hiện nghiêm túc, nhờ vậy, chất lượng vụ việc TGPL được nâng lên; không để xảy ra những sai sót, vi phạm pháp luật để người được TGPL phải khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị hoặc yêu cầu bồi thường thiệt hại. Theo báo cáo của 59/63 Trung tâm TGPL nhà nước, sau 04 năm triển khai thực hiện Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc TGPL, các Trung tâm đã đánh giá 57.126 vụ việc/218.502 tổng số vụ việc đã hoàn thành (chiếm tỷ lệ 26,13%). Trong đó tự đánh giá: 45.948 vụ việc; Trung tâm TGPL đánh giá: 35.389 vụ việc; các tổ chức tham gia TGPL đánh giá: 885 vụ việc. Số vụ việc đạt chất lượng tốt chiếm từ 60-70%; số vụ việc đạt chất lượng từ 30-40% và không đạt chất lượng chiếm gần 1%.

Thứ năm, quan hệ giữa Trung tâm với các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thông tin, truyền thông, báo chí và chính quyền cơ sở và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong quá trình thực hiện các hoạt động nghiệp vụ TGPL ngày càng chặt chẽ, bài bản hơn và phát huy hiệu quả trên thực tế. Hội đồng phối hợp công tác TGPL trong hoạt động tố tụng và Tổ giúp việc cho Hội đồng được thành lập (63/63 tỉnh, thành phố) và đi vào hoạt động thường xuyên hơn theo chương trình, kế hoạch hằng năm và từng bước đi vào nề nếp, chất lượng được nâng lên. Các cơ quan thông tin, báo chí truyền thông đã dành thời lượng nhiều hơn để phổ biến, truyền thông về tổ chức và hoạt động của Trung tâm TGPL Nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm. Đến nay, các Trung tâm đã phối hợp với cơ quan thông tin, báo chí để thông tin, truyền thông về tổ chức và hoạt động TGPL đến với nhân dân với 1.711 chuyên trang, chuyên mục và số lần phát sóng; đã phối hợp chặt chẽ với Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên…, đặc biệt là chính quyền cơ sở khi triển khai các hoạt động nghiệp vụ TGPL với trên 1.000 đợt TGPL lưu động, sinh hoạt chuyên đề pháp luật và hướng dẫn sinh hoạt Câu lạc bộ TGPL được tổ chức, cũng như trong phát triển đội ngũ cộng tác viên và thực hiện các vụ việc TGPL.

Thứ sáu, kinh phí, cơ sở vật chất bảo đảm cho hoạt động của Trung tâm được quan tâm hơn, phù hợp với lộ trình phát triển về tổ chức bộ máy, cán bộ và yêu cầu thực hiện các hoạt động nghiệp vụ TGPL tại cơ sở. Ngân sách trung ương đã dành nguồn kinh phí nhất định cho các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Ngân sách địa phương bảo đảm tương đối đầy đủ kinh phí chi cho tổ chức bộ máy, cán bộ và một nguồn kinh phí nhất định cho hoạt động nghiệp vụ TGPL. Theo báo cáo, tổng kinh phí cấp cho 63 Trung tâm trong 05 năm là 335.455.447.200 đồng (địa phương gần 200 tỷ đồng; Chương trình mục tiêu quốc gia gần 30 tỷ đồng; Quỹ TGPL Việt Nam gần 8 tỷ đồng, dự án hỗ trợ hệ thống TGPL ở Việt Nam gần 98 tỷ đồng. Một số Trung tâm, Chi nhánh đã có trụ sở riêng, đủ về diện tích, thuận lợi cho tiếp người được TGPL. Trang thiết bị, cơ sở vật chất của Trung tâm cũng được quan tâm hơn trước. Cả nước đã có 24/63 Trung tâm có trụ sở làm việc riêng, độc lập, thuận tiện cho người được TGPL tiếp cận; 39 Trung tâm vẫn chung trụ sở làm việc với Sở Tư pháp; 21 Trung tâm được trang bị xe ôtô để đi TGPL lưu động và phục vụ các hoạt động TGPL ở cơ sở.

Thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp của Đảng và Nhà nước, bên cạnh việc xã hội hóa nhanh mạnh hoạt động luật sư thì việc xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp  cũng là lĩnh vực được Bộ Tư pháp quan tâm. Từ năm 2006 đến nay, Bộ Tư pháp đã giúp Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 với quan điểm tạo cơ chế từng bước thực hiện xã hội hóa hoạt động TGPL, huy động các nguồn lực xã hội tham gia thực hiện TGPL và hỗ trợ phát triển các hoạt động TGPL. Luật trợ giúp pháp lý quy định: Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện, tổ chức thực hiện TGPL; khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức và cá nhân tham gia thực hiện, đóng góp, hỗ trợ hoạt động TGPL. Bên cạnh hoạt động TGPL của Trung tâm TGPL nhà nước và Trợ giúp viên pháp lý, các tổ chức hành nghề luật sư, Trung tâm tư vấn pháp luật và các cá nhân có trình độ, kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật và có đăng ký tham gia TGPL tại Sở Tư pháp được khuyến khích, tạo điều kiện trong việc tham gia TGPL.

Trên cơ sở quy định của Luật Trợ giúp pháp lý, năm 2011, Bộ Tư pháp đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 678/QĐ-TTg ngày 10/5/2011). Chiến lược đã xác định rõ quan điểm phát triển TGPL theo hướng xã hội hóa là: “Nhà nước đóng vai trò nòng cốt trong việc tổ chức thực hiện TGPL, phát huy tính chủ động, tự giác, tích cực tham gia thực hiện của người thực hiện TGPL, tiến tới giai đoạn Nhà nước đóng vai trò thu hút, điều phối nguồn lực để mô hình tổ chức tham gia TGPL của xã hội ngày càng phát triển... Nhà nước huy động, khuyến khích mọi nguồn lực hiện có, các tổ chức đoàn thể xã hội và cộng đồng tham gia TGPL, nhất là các luật sư, luật gia, các chuyên gia ở các lĩnh vực và các lực lượng xã hội khác”

Về kết quả thực hiện, theo Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp Tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015 của Bộ Tư pháp, trong năm 2014, thể chế công tác trợ giúp pháp lý tiếp tục được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh; năm 2014, Bộ Tư pháp đã ban hành 04 văn bản quy phạm pháp luật về trợ giúp pháp lý; tổ chức Hội nghị Sơ kết 02 năm triển khai thực hiện Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý; trình Thủ tướng Chính phủ Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý theo hướng nâng cao năng lực, kiện toàn tổ chức bộ máy của cơ quan quản lý về trợ giúp pháp lý, tập trung điều phối nguồn lực, nâng cao hiệu quả và chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý. Trong năm 2014, các Trung tâm trợ giúp pháp lý đã thực hiện 125.508 vụ việc (giảm 1.219 so với năm 2013) cho 131.967 lượt người (tăng 2.113 so với năm 2013).

Công tác phối hợp trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng tại các địa phương từng bước được nâng cao, góp phần bảo đảm quyền của đối tượng được trợ giúp pháp lý khi tham gia tố tụng. Nhiều địa phương đã tăng cường đưa hoạt động trợ giúp pháp lý về cơ sở, chú trọng tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của người dân.

b) Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

Một là, sau khi Luật Công chức, Luật viên chức có hiệu lực pháp luật, thể chế pháp lý về tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập có sự điều chỉnh, trong khi đó thể chế pháp lý điều chỉnh về mô hình tổ chức và hoạt động của Trung tâm TGPL Nhà nước vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Thực trạng này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của Trung tâm, nhất là chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ, viên chức của Trung tâm chưa được điều chỉnh tương xứng với yêu cầu và trách nhiệm của công việc (không có chế độ phụ cấp công vụ; chưa có chế độ phụ cấp thâm niên theo nghề để Trợ giúp viên gắn bó với công tác TGPL; đội ngũ cán bộ, viên chức khác không được hưởng chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề…).

Hai là, tiến độ củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ của Trung tâm vẫn chưa bảo đảm tiến độ đề ra, nhất là trong thực hiện Đề án quy hoạch mạng lưới Trung tâm TGPL Nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm. Việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng gắn với sử dụng đội ngũ lãnh đạo, quản lý còn lúng túng, bị động. Tình trạng Giám đốc Trung tâm do lãnh đạo Sở Tư pháp kiêm nhiệm vẫn còn. Một số lãnh đạo Trung tâm nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò và trách nhiệm của mình trước yêu cầu phát triển ngày càng nhanh chóng và phức tạp của công tác TGPL nên chưa thực sự thay đổi tư duy; nỗ lực tự hoàn thiện mình để đổi mới và nâng cao năng lực quản lý, chỉ đạo điều hành đáp ứng yêu cầu phát triển của mạng lưới TGPL tại địa phương.

Ba là, chất lượng nguồn nhân lực làm công tác TGPL phát triển chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ công tác TGPL trong tình hình mới. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tìm kiếm nguồn lực cán bộ để bổ sung cho đội ngũ Trợ giúp viên còn bị động, lúng túng, thiếu tính tổng thể trong tầm nhìn dài hạn, thậm chí chắp vá. Đội ngũ Trợ giúp viên phát triển chậm, chất lượng hoạt động chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ hoặc thiếu ổn định, chưa có đủ số lượng cần thiết. Đội ngũ Cộng tác viên TGPL tuy đông đảo nhưng số thực chất hoạt động ít hoặc làm việc với tinh thần trách nhiệm chưa cao, thiếu kinh nghiệm tham gia tố tụng, một số cộng tác viên giỏi thì phải kiêm nhiệm nhiều việc trong cơ quan, đơn vị nên không có điều kiện tham gia thường xuyên. Chất lượng hoạt động của một số Cộng tác viên còn chưa bảo đảm; thiếu cộng tác viên là luật sư; chưa thu hút được người có kiến thức, hiểu biết pháp luật tham gia TGPL. Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên cho đội ngũ người thực hiện TGPL còn chưa được chú trọng đúng mức, nội dung thường tập trung vào cập nhật văn bản mới, thời lượng cho các kỹ năng thực hiện TGPL cụ thể chưa nhiều.

Bốn là, vẫn còn một số Trung tâm triển khai hoạt động TGPL theo phong trào, chất lượng chưa cao, thậm chí còn chạy theo số lượng mà chưa chú trọng đến chất lượng vụ việc. Chất lượng và hiệu quả của các đợt TGPL lưu động, tổ chức và duy trì sinh hoạt Câu lạc bộ TGPL, sinh hoạt chuyên đề pháp luật, đặc biệt là công tác đánh giá chất lượng vụ việc và quản lý nhà nước về chất lượng vụ việc TGPL vẫn là những vấn đề cần phải được lưu tâm trong những năm tới.

Năm là, kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc của Trung tâm và Chi nhánh ở một số tỉnh còn chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ (kinh phí cấp cho hoạt động nghiệp vụ TGPL rất thấp, không đủ để triển khai nhiệm vụ, trong khi nhu cầu TGPL của người dân là rất lớn). Một số Trung tâm, Chi nhánh chưa có trụ sở làm việc riêng, chưa thuận lợi cho người dân tiếp cận, trang bị máy tính, phương tiện làm việc không đủ theo định mức tiêu chuẩn. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý về tổ chức và hoạt động của Trung tâm chưa được quan tâm đúng mức.

Sáu là, Chính sách xã hội hóa trong hoạt động TGPL mặc dù đã được ghi nhận nhưng chưa có đầy đủ các quy định để bảo đảm việc thực hiện việc xã hội hóa trên thực tế. Số tổ chức hành nghề luật sư, Trung tâm tư vấn pháp luật tham gia TGPL còn ít, luật sư chủ yếu tham gia với tư cách cộng tác viên TGPL chứ không thực hiện TGPL với tư cách là người thực hiện TGPL của tổ chức đăng ký tham gia TGPL. Hoạt động TGPL chưa thu hút được luật sư giỏi tham gia nên đã làm ảnh hưởng phần nào đến chất lượng hoạt động tham gia TGPL. Cơ chế điều phối, phối hợp hoạt động TGPL còn chưa đầy đủ và rõ ràng, các tổ chức tham gia TGPL chưa có sự kết nối thông tin với Trung tâm TGPL nhà nước để bảo đảm sự phối hợp trong việc giới thiệu đối tượng TGPL, thực hiện TGPL lưu động, tránh trùng lặp, lãng phí nguồn lực.

Tại Báo cáo thực trạng thi hành Luật Trợ giúp pháp lý và định hướng sửa đổi khi đánh giá về hạn chế, tồn tại trong hoạt động quản lý TGPL đã chỉ rõ[32]:

(1) Công tác quản lý nhà nước về các hoạt động có tính chất trợ giúp pháp lý chưa thống nhất, đồng bộ; hiện được quy định tản mát ở các văn bản khác nhau...

(2) Mô hình tổng thể về tổ chức trợ giúp pháp lý chưa hợp lý, chưa tính đến đặc thù vùng, miền nên một số nơi tổ chức bộ máy cồng kềnh, hoạt động chưa hiệu quả, chưa huy động được nhiều nguồn lực luật sư, cán bộ pháp lý hiện có trên địa bàn, chưa có định hướng trọng tâm của công tác trợ giúp pháp lý.

(3) Một số Trung tâm trợ giúp pháp lý chưa chú trọng đến việc cung cấp dịch vụ việc trợ giúp pháp lý nhất là vụ việc tham gia tố tụng mà mới tập trung vào công tác truyền thông. Năng lực, trình độ và kỹ năng, kinh nghiệm của đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý chưa cao. Chức danh Trợ giúp viên pháp lý còn bất cập. Một số Trợ giúp viên pháp lý chưa đủ kinh nghiệm, năng lực và sự tự tin tham gia tố tụng hoăc còn bị chi phối nhiều bởi các công việc hành chính của Trung tâm.

(4) Vai trò điều phối các nguồn lực ở Trung ương đối với các hoạt động trợ giúp pháp lý của địa phương còn mờ nhạt. Cục trợ giúp pháp lý không điều phối kinh phí thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý trong cả nước, do đó không quản lý được các vụ việc. Kinh phí Trung ương cấp cho hoạt động trợ giúp pháp lý còn quá hạn chế, chưa có nguồn ngân sách riêng cho trợ giúp pháp lý.

(5) Còn thiếu các chính sách và giải pháp, cơ chế thích hợp để huy động các nguồn lực xã hội cho công tác trợ giúp pháp lý, chưa có cơ chế hỗ trợ cho các tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý từ phía Nhà nước.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế ở trên là do:

Thứ nhất, thể chế và chính sách TGPL còn bất cập, khái niệm TGPL, hình thức TGPL quá rộng, chưa định hướng rõ trọng tâm nhiệm vụ của hoạt động TGPL là TGPL theo vụ việc, do đó việc triển khai trên thực tế còn dàn trải, phân tán nguồn lực. Quy định pháp luật về công tác TGPL chưa thống nhất, đồng bộ; trong một số trường hợp chưa toàn diện, kịp thời, bám sát thực tiễn dẫn đến một số quy định chưa khả thi, việc triển khai thực hiện công tác TGPL còn chậm.

Quy định pháp luật tố tụng về TGPL chưa đầy đủ, sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với Trung tâm ở các địa phương chưa thật chặt chẽ, do vậy, hiệu quả trong việc phát hiện đối tượng được TGPL là bị can, bị cáo trong vụ án hình sự, là đương sự trong các vụ việc dân sự, hành chính để kịp thời phối hợp hướng dẫn họ về quyền được TGPL và cách thức tiếp cận, sử dụng dịch vụ TGPL miễn phí của Nhà nước dành cho họ còn hạn chế.

Thứ hai, các quy định của pháp luật liên quan TGPL chưa đồng bộ, thống nhất như: nghĩa vụ thực hiện TGPL của luật sư được quy định trong Luật Luật sư còn hoạt động TGPL của tổ chức thực hiện TGPL và tổ chức tham gia TGPL được thực hiện theo quy định của Luật TGPL; chưa có sự kết nối giữa hoạt động TGPL theo nghĩa vụ và hoạt động TGPL tự nguyện của Luật sư, hoạt động TGPL của Trợ giúp viên pháp lý.

Thứ ba, nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của TGPL nói chung của các ngành, các cấp và một số cán bộ cấp ủy, chính quyền địa phương chưa đầy đủ nên chưa quan tâm, chỉ đạo, theo dõi sát sao để tổ chức thi hành các quy định về TGPL.

Thứ tư, ngân sách cấp cho hoạt động TGPL quá thấp, mới chỉ trang trải cho các hoạt động phụ trợ như truyền thông, sinh hoạt Câu lạc bộ, tổ chức TGPL lưu động. Kinh phí Trung ương cấp cho hoạt động TGPL còn hạn chế, chưa có nguồn ngân sách riêng cho TGPL. Nguồn kinh phí được cấp từ nguồn theo Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg và Quyết định số 59/2012/QĐ-TTg còn mang tính chất riêng của từng chính sách.

Thứ năm, tổ chức bộ máy TGPL hiện đang áp dụng chung mô hình trong toàn quốc mà chưa tính đến đặc thù từng vùng, miền nên một số nơi tổ chức bộ máy cồng kềnh không tương thích với hiệu quả công việc, chưa có định hướng trọng tâm của công tác TGPL; một số Trung tâm chưa chú trọng đến việc thực hiện vụ việc TGPL, nhất là các vụ việc tham gia tố tụng mà chỉ tập trung vào công tác truyền thông, vào số lượng đợt TGPL lưu động và số lượng sinh hoạt Câu lạc bộ TGPL. Việc nắm bắt nhu cầu TGPL theo vụ việc hiện nay chưa được coi trọng, nhiều địa phương không nắm bắt được nhu cầu TGPL của người dân trên địa bàn.

Thứ sáu, năng lực, trình độ và kỹ năng, kinh nghiệm của đội ngũ người thực hiện TGPL chưa cao. Một số Trợ giúp viên pháp lý chưa đủ kinh nghiệm, năng lực và sự tự tin tham gia tố tụng hoặc còn bị chi phối nhiều bởi các công việc hành chính của Trung tâm. Chức danh Trợ giúp viên pháp lý còn bất cập, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế về người thực hiện TGPL có chức danh luật sư, dẫn tới nhiều bất cập trong hành nghề của Trợ giúp viên pháp lý. Mặt khác, tính chất hoạt động TGPL là miễn phí, do đó, ở một số nơi vẫn còn tình trạng chưa đề cao vai trò, trách nhiệm trong việc thực hiện hoạt động này và người được TGPL chưa được coi là khách hàng như đối với hoạt động hành nghề luật sư.

Thứ bảy, việc huy động, khuyến khích các tổ chức tham gia thực hiện TGPL mới là chủ trương chưa có biện pháp thu hút, khuyến khích các tổ chức xã hội, đoàn thể tham gia TGPL, chưa có cơ chế hỗ trợ cho các tổ chức luật sư đăng ký tham gia TGPL từ phía Nhà nước (Ví dụ: Chính sách giảm thuế, chế độ bồi dưỡng vụ việc luật sư của các tổ chức đăng ký tham gia thực hiện TGPL). Một số địa phương, mối quan hệ phối hợp của Sở Tư pháp, Trung tâm và các Đoàn Luật sư chưa được chặt chẽ.

2.3. Về quản lý công chứng.

Ngay sau khi Luật công chứng được Quốc hội thông qua năm 2006[33], để triển khai thi hành Luật công chứng, Bộ Tư pháp đã chủ động, khẩn trương tham mưu cho các cơ quan có thẩm quyền ban hành và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật công chứng[34]. Về mô hình quản lý tổ chức và hoạt động công chứng, (1) ở trung ương, để giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về công chứng có Cục Bộ trợ Tư pháp. Cục có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước và tổ chức thi hành pháp luật về công chứng và thực hiện các nhiệm vụ quản lý chuyên ngành về lĩnh vực công chứng[35]. (2) Ở địa phương, để giúp UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công chứng tại địa phương, có Sở Tư pháp. Tổ chức hành nghề công chứng hiện có hai loại hình, đó là: Phòng công chứng được xác định là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập và Văn phòng công chứng được xác định là công ty hợp danh do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập.

Để bảo đảm phát triển mạng lưới các tổ chức hành nghề công chứng rộng khắp và phân bố hợp lý trên cả nước; bảo đảm thuận tiện cho nhân dân trong việc thực hiện các yêu cầu công chứng, ngày 29/12/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2104/QĐ-TTg phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020”, theo đó đến năm 2020, tổng số quy hoạch phát triển khoảng 1.700 tổ chức hành nghề công chứng trên cả nước, lộ trình Quy hoạch theo 2 giai đoạn: Giai đoạn 2011 - 2015: Quy hoạch phát triển khoảng 1.000 tổ chức hành nghề công chứng; Giai đoạn 2016 - 2020: Quy hoạch phát triển khoảng 700 tổ chức hành nghề công chứng. Thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020, đến nay, trên toàn quốc đã có 1.770 công chứng viên (tăng 307 so với năm 2013) đang hành nghề tại 846 tổ chức hành nghề công chứng (tăng 116 so với năm 2013). Năm  2014, các tổ chức hành nghề công chứng đã công chứng được 3.453.722 hợp đồng, giao dịch, tăng nhiều so với năm 2013 (tăng 939.567 hợp đồng, giao dịch, tương ứng tăng 37,37%), đóng góp cho Ngân sách nhà nước hoặc nộp thuế gần 300 tỷ đồng (tăng gần 100 tỷ đồng so với năm 2013)[36].

a) Về kết quả đạt được

Có thể khẳng định rằng, sau hơn 5 thi hành Luật công chứng, hoạt động công chứng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, nổi bật lên một số điểm cụ thể như sau:

- Hoạt động công chứng được phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa. Một trong những điểm đổi mới căn bản, quan trọng của Luật công chứng là đã tách bạch và phân biệt rõ về bản chất, chức năng, nhiệm vụ, đối tượng và nguyên tắc hoạt động của công chứng so chứng thực. Theo đó, công chứng từ chỗ bị hiểu như là một hoạt động mang tính chất thủ tục hành chính đơn thuần thì nay được coi là một nghề, một ngành chuyên môn sâu. Điều này đã tạo điều kiện cho các tổ chức hành nghề công chứng tập trung thực hiện đúng chức năng của mình theo hướng chuyên nghiệp hóa. Nhiệm vụ chứng nhận hợp đồng, giao dịch giờ đây đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu của các tổ chức hành nghề công chứng. Giá trị của hoạt động công chứng trong xã hội được nâng cao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, tạo tiền đề quan trọng cho việc đưa hoạt động công chứng phát triển theo xu hướng hội nhập với khu vực và thế giới.

- Hoạt động công chứng được phát triển theo hướng xã hội hóa. Thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng theo quy định của Luật công chứng, ngoài việc tiếp tục duy trì, củng cố và phát triển mô hình Phòng công chứng do Nhà nước thành lập, hoạt động theo cơ chế đơn vị sự nghiệp công, việc phát triển các Văn phòng công chứng trong thời gian qua tại một số địa phương đã góp phần phục vụ kịp thời nhu cầu công chứng của nhân dân trong khi không đòi hỏi sự đầu tư về nhân lực và tài lực của Nhà nước, không còn hiện tượng ùn tắc, quá tải, “cò” công chứng. Việc cho phép thành lập các Văn phòng công chứng (thay vì thành lập thêm các Phòng công chứng) góp phần giảm bớt gánh nặng cho biên chế và ngân sách nhà nước, tăng nguồn thu ngân sách của các địa phương, giải quyết công việc cho nhiều người lao động, đồng thời tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, góp phần nâng cao nghiệp vụ, chất lượng phục vụ người dân của các công chứng viên.

Sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức hành nghề công chứng phụ thuộc vào chất lượng công chứng các văn bản, sự nhanh chóng, thuận tiện, chính xác trong hoạt động công chứng của mình, do đó đã khơi dậy tính chủ động, tích cực và ý thức trách nhiệm của công chứng viên khi thực hiện nhiệm vụ. Các tổ chức hành nghề công chứng đều lấy yếu tố “phục vụ khách hàng” là tiêu chí phục vụ hàng đầu và là một trong những yếu tố để cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động công chứng.     

- Hoạt động công chứng có tác động tích cực đến kinh tế - xã hội. Sau hơn 5 năm triển khai thực hiện Luật công chứng, hoạt động công chứng ở nước ta đã có sự chuyển biến rõ rệt, những kết quả bước đầu về công chứng thu được từ chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng là đáng khích lệ, tạo bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính, cải cách tư pháp. Việc xã hội hóa công chứng đã tạo điều kiện thuận tiện cho người dân trong việc thực hiện các yêu cầu công chứng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Đặc biệt, hoạt động công chứng đã góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa các tranh chấp, khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, nhà ở - lĩnh vực vốn phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ tranh chấp. Không thể phủ nhận công chứng là “lá chắn” phòng ngừa hữu hiệu, đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, tiết kiệm thời gian, chi phí cho xã hội, giảm thiểu “gánh nặng” pháp lý cho Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự.

Đánh giá chung, hoạt động công chứng đã được phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, tạo tiền đề quan trọng cho việc đưa hoạt động công chứng phát triển theo xu hướng hội nhập với khu vực và thế giới. Mặt khác, việc phát triển các Văn phòng công chứng trong thời gian qua (thực hiện chủ trương xã hội hóa) tại một số địa phương đã góp phần phục vụ kịp thời nhu cầu công chứng của nhân dân, giảm bớt gánh nặng cho biên chế và ngân sách nhà nước, tăng nguồn thu ngân sách của các địa phương, giải quyết công việc cho nhiều người lao động, đồng thời tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, góp phần nâng cao nghiệp vụ, chất lượng phục vụ người dân của các công chứng viên. Đồng thời, tạo điều kiện thuận tiện cho người dân trong việc thực hiện các yêu cầu công chứng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

b) Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

Ở mô hình quản lý này, trong thời gian qua, công tác quản lý tổ chức và hoạt động công chứng vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như:

- Các quy định về quản lý nhà nước còn có những sơ hở, lỏng lẻo, thiếu những chế tài mạnh để xử lý các hành vi vi phạm của công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, người yêu cầu công chứng, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước phần nào còn bị hạn chế.

- Công tác kiểm tra, thanh tra về tình hình tổ chức, hoạt động công chứng của cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương còn chưa chặt chẽ, thường xuyên nên dẫn đến việc tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, phát hiện, chấn chỉnh những hành vi vi phạm pháp luật, quy tắc đạo đức hành nghề công chứng đôi khi còn chưa hiệu quả.

- Việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về công chứng (cơ sở dữ liệu thông tin ngăn chặn, thông tin về hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản đã công chứng, cơ sở dữ liệu thông tin chung về bất động sản) tại nhiều địa phương chưa được quan tâm triển khai thực hiện. Công tác tin học hóa hoạt động công chứng còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành, giải quyết các công việc liên quan đến hoạt động công chứng.

- Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về công chứng với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên còn hạn chế do chưa phân định rõ giữa công tác quản lý nhà nước với trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên.  

- Chủ trương xã hội hoá công chứng được triển khai chưa hợp lý tại các địa phương trong cả nước, nhất là trong thời kỳ đầu thực hiện xã hội hóa, dẫn đến việc trong khoảng 1-2 năm đầu sau khi Luật Công chứng có hiệu lực; mặt khác, có những địa phương trong vòng 1-2 năm sau khi Luật có hiệu lực vẫn chưa có Văn phòng công chứng được thành lập. Mô hình Văn phòng công chứng còn manh mún, đa số Văn phòng do một công chứng viên thành lập, hoạt động theo mô hình doanh nghiệp tư nhân nên còn thiếu tính bền vững.

- Một số công chứng viên còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề, thậm chí còn vi phạm đạo đức nghề nghiệp, còn có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề công chứng.

- Hệ thống pháp luật liên quan đến công chứng còn bất cập, chưa hoàn thiện và đồng bộ cho việc đổi mới và xã hội hóa nghề công chứng (Luật đất đai, Luật Nhà ở...). Công tác quản lý nhà nước còn bất cập, nhận thức về quản lý nhà nước đối với loại hình nghề nghiệp đặc thù này tại một số địa phương chưa đầy đủ, dẫn đến việc buông lỏng quản lý hoặc chưa kiểm tra, giám sát thường xuyên.

III. VỀ MÔ HÌNH NHIỀU CẤP QUẢN LÝ, như: Mô hình quản lý dịch vụ hộ tịch, chứng thực.

Hoạt động hộ tịch và chứng thực là hoạt động hành chính tư pháp được giao cho Bộ Tư pháp thống nhất quản lý. Hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch được quy định tại Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 29/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch[37] (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012), theo đó, Bộ Tư pháp chỉ giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước, còn các công việc cụ thể trong đăng ký và quản lý hộ tịch được phân cấp cho chính quyền địa phương (cấp tỉnh, huyện, xã) và cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam. Cũng như vậy, hoạt động chứng thực được quy định tại Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/05/2007 của Chính phủ về việc cấp bản sao từ sổ gốc[38] (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 04/2012/NĐ-CP ngày 20/01/2012), chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, theo đó, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, còn hoạt động cụ thể được phân cấp cho cơ quan Tư pháp cấp huyện và cấp xã.

Điểm đặc thù của mô hình này là Bộ Tư pháp chỉ thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước thống nhất, không thực hiện các hoạt động nghiệp vụ. Thẩm quyền đăng ký và quản lý hộ tịch cũng như việc cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký được phân cấp toàn bộ cho UBND các cấp.

Về tổ chức, ở trung ương, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ủy quyền cho Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước và tổ chức thi hành pháp luật về các lĩnh vực hộ tịch, quốc tịch, chứng thực theo quy định của pháp luật (Điều 1 Quyết định số 1491/QĐ-BTP ngày 18/6/2013 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực. Ở địa phương (cấp tỉnh, huyện, xã) có Sở, Phòng Tư pháp ở cấp tỉnh và huyện và Cán bộ tư pháp – hộ tịch chuyên trách ở cấp xã giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.  Có thể sơ đồ hóa mô hình quản lý như sau (Mô hình 3):

MÔ HÌNH 3

 

 
 

BỘ TƯ PHÁP

 

 

 

 

Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực

Cơ quan đại diện ngoại giao

- Ở trung ương có:

 

 

           
   
 
     
 
 

 

 

 

 

 

Phòng/Bộ phận hành chính tư pháp thuộc Sở Tư pháp

- Ở địa phương có:

 

 

 
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chỉ mối quan hệ chỉ đạo quản lý nhà nước

Chỉ mối quan hệ chỉ đạo nghiệp vụ

Ở mô hình này, pháp luật đã quy định cụ thể về thẩm quyền quản lý nhà nước trong các lĩnh vực hộ tịch và chứng thực. Theo đó, Bộ Tư pháp được giao chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước; các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước theo lĩnh vực. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, huyện và xã (sau đây gọi là Uỷ ban nhân dân các cấp) thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch và chứng thực theo thẩm quyền.

3.1. Về quản lý hộ tịch

Điểm đặc thù của mô hình quản lý này là phân cấp/phân tán quản lý. Ở trung ương, Bộ Tư pháp được giao thống nhất quản lý nhà nước về hộ tịch, phối hợp với Bộ ngoại giao tổ chức thực hiện; ở địa phương hiện nay, thẩm quyền quản lý nhà nước về hộ tịch được giao cho cả 3 cấp chính quyền tỉnh, huyện và xã. Từ ngày 1/1/2016 khi Luật hộ tịch[39] có hiệu lực thì việc quản lý nhà nước về hộ tịch vẫn được giao cho cả ba cấp chính quyền, nhưng cơ quan đăng ký hộ tịch chỉ được giao cho cấp huyện và cấp xã. Theo đó, việc quản lý nhà nước về hộ tịch được thực hiện ở cả 4 cấp (trung ương, tỉnh, huyện và xã).

a) Về kết quả đạt được

Thể chế về công tác đăng ký và quản lý hộ tịch. Ngoài những quy định có tính nguyên tắc liên quan đến hộ tịch và đăng ký hộ tịch tại Bộ luật Dân sự năm 2005 (quy định về quyền nhân thân), Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 (quy định về quyền được đăng ký khai sinh và có quốc tịch), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (quy định về kết hôn; nhận cha, mẹ, con), Luật Nuôi con nuôi năm 2010 (quy định về nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài), Chính phủ đã ban hành tổng cộng 08 Nghị định điều chỉnh trực tiếp trong lĩnh vực hộ tịch[40] (cả hộ tịch trong nước và hộ tịch có yếu tố nước ngoài), trong đó quan trọng nhất phải kể đến là Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 29/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch, đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 (sau đây gọi chung là Nghị định số 158/2005/NĐ-CP). Các văn bản này đã tạo hành lang pháp lý cho việc đăng ký và quản lý hộ tịch; các quy định đã phát huy hiệu quả, góp phần tích cực cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, cụ thể là:

- Tạo hành lang pháp lý bảo đảm cho sự quản lý của Nhà nước về công tác hộ tịch;

- Bảo đảm sự thống nhất trong toàn quốc và các cơ quan đại diện trong việc thực hiện các văn bản pháp luật về hộ tịch;

- Bảo đảm công khai, minh bạch về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết các yêu cầu đăng ký hộ tịch;

- Dữ liệu hộ tịch được hình thành với hệ thống sổ sách hộ tịch được lưu trữ, sử dụng lâu dài;

- Cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký và quản lý hộ tịch được đẩy mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân khi có yêu cầu đăng ký hộ tịch;

- Định hướng lành mạnh hóa quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, phù hợp với thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; góp phần vào hội nhập quốc tế.

(i) Về công tác đăng ký và quản lý hộ tịch

Về kết quả đăng ký hộ tịch, theo Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp Tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2015 của Bộ Tư pháp, thì ước tính trong năm 2014 các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện đăng ký khai sinh, đăng ký lại việc sinh cho 2.474.377[41] trường hợp (tăng đột biến 485.151 trường hợp so với năm 2013), trong đó có 1.585.021 trường hợp đăng ký khai sinh đúng hạn; khai tử cho 502.035 trường hợp (tăng 68.835 trường hợp so với năm 2013); đăng ký kết hôn cho 807.545 cặp (giảm 20.095 cặp, tương ứng giảm 2,4% so với năm 2013), trong đó có 13.786 trường hợp có yếu tố nước ngoài (tăng 1.229, tương ứng tăng 9,77% trường hợp so với năm 2013). Lãnh đạo cấp ủy và UBND các cấp nhiều địa phương đã nhận thức tốt hơn về tầm quan trọng của công tác hộ tịch, từ đó quan tâm, đầu tư cho công tác này, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch, đáp ứng yêu cầu quản lý cũng như yêu cầu đăng ký hộ tịch của người dân; hiện tượng cán bộ hộ tịch gây khó khăn, phiền hà cho người dân đã từng bước được hạn chế. Một số tỉnh, thành phố (TP.Hồ Chí Minh, Long An, Bình Thuận, Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre...) đã tổ chức mô hình thí điểm “một cửa liên thông” qua việc liên thông 03 thủ tục “đăng ký khai sinh - đăng ký thường trú/ tạm trú - cấp thẻ bảo hiểm y tế” và liên thông thủ tục “đăng ký khai tử - xoá đăng ký thường trú/tạm trú”, giúp người dân thực hiện các thủ tục hành chính được nhanh, gọn, hiệu quả, tiết kiệm.

(ii) Về tổ chức và cán bộ hộ tịch.

- Về hệ thống cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch theo quy định của pháp luật, hiện có các cơ quan sau có thẩm quyền quản lý và tổ chức việc đăng ký hộ tịch: (1) Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về hộ tịch trong phạm vi cả nước. Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực (trước đây là Vụ Hành chính tư pháp) là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước và tổ chức thi hành pháp luật về hộ tịch. (2) Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài. Tại Bộ Ngoại giao, Cục Lãnh sự là cơ quan được Bộ trưởng Bộ Ngoại giao ủy quyền hướng dẫn, quản lý công tác quốc tịch, hộ tịch tại các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. (3) Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch trong địa phương mình. Sở Tư pháp giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước về hộ tịch và thực hiện đăng ký các việc hộ tịch thuộc thẩm quyền của Sở Tư pháp. Về thẩm quyền, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc đăng ký các sự kiện hộ tịch có yếu tố nước ngoài (kết hôn, nhận cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; khai sinh, khai tử, giám hộ; thay đổi, cải chính hộ tịch; bổ sung, điều chỉnh hộ tịch…). (4) Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch trong địa phương mình và thực hiện đăng ký việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên. Phòng Tư pháp giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước về hộ tịch trong phạm vi địa phương. (5) Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch trong địa phương mình. Công chức tư pháp - hộ tịch có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện quản lý Nhà nước về hộ tịch. Về thẩm quyền, Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện đăng ký hộ tịch cho người dưới 14 tuổi và bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch cho công dân Việt Nam cư trú ở trong nước (bao gồm cả trường hợp đăng ký khai sinh cho con của người nước ngoài cư trú ổn định, lâu dài tại Việt Nam và con của công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài)… (6) Cơ quan đại diện thực hiện việc quản lý nhà nước về hộ tịch. Về thẩm quyền, cơ quan đại diện Việt Nam thực hiện đăng ký hộ tịch cho trẻ em sinh ra ở nước ngoài và có quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam; đăng ký hộ tịch cho công dân Việt Nam trong thời gian cư trú ở nước ngoài...

(iii) Về đội ngũ cán bộ công chức làm công tác hộ tịch, (1) Tại Bộ Tư pháp: Phòng Quản lý Hộ tịch thuộc Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực có 07 công chức đều có trình độ cử nhân Luật trở lên. (2) Tại Sở Tư pháp: Phòng Hành chính tư pháp thuộc Sở Tư pháp có trung bình từ 03 đến 04 công chức (2 thành phố lớn là thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có số công chức nhiều hơn). (3) Tại UBND cấp huyện: Phòng Tư pháp (ngoại trừ Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) có từ 3-4 công chức. (4) Tại UBND cấp xã có cán bộ Tư pháp – Hộ tịch – Đây là đội ngũ cán bộ thực hiện chủ yếu công tác đăng ký hộ tịch.  Hiện trong cả nước có 16.820 cán bộ làm công tác hộ tịch trên tổng số 11.118 đơn vị hành chính cấp xã (trong đó có 15.249 công chức Tư pháp - Hộ tịch và 1.571 cán bộ hợp đồng[42]). Trong số 15.249 công chức Tư pháp - Hộ tịch có 4.090 người có trình độ Đại học Luật (chiếm 27%), 7.633 người có trình độ Trung cấp Luật (chiếm 50%), còn lại là chuyên môn khác 3.526 công chức (chiếm 23%). Số công chức Tư pháp - Hộ tịch có thời gian làm công tác Tư pháp - Hộ tịch trên 5 năm là 8.224 công chức (54%), số còn lại 7.025 công chức đảm nhiệm công việc này dưới 5 năm (46%). (5) Tại các Cơ quan đại diện: mỗi Cơ quan đại diện có ít nhất 01 cán bộ làm công tác lãnh sự trong đó có công tác hộ tịch, cá biệt có những nơi công tác lãnh sự nhiều và đa dạng, đông bà con Việt Nam làm ăn, sinh sống, còn bố trí tới 2 hoặc nhiều cán bộ làm công tác lãnh sự.

3.2. Về quản lý chứng thực

Về hành lang pháp lý cho công tác chứng thực, hiện đang áp dụng Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực; Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/05/2007 của Chính phủ về việc cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ sửa đổi Nghị định về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực và các văn bản hướng dẫn thi hành. Thẩm quyền chứng thực hiện nay được giao cho UBND cấp xã và huyện; Cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã và Phòng Tư pháp cấp huyện được giao nhiệm vụ giúp UBND cấp xã và huyện thực hiện nhiệm vụ này.

Cũng như mô hình quản lý nhà nước về hộ tịch, mô hình quản lý chứng thực là phân cấp/phân tán quản lý. Ở trung ương, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; Bộ Ngoại giao có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ; Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký;  Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện việc quản lý nhà nước về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký tại địa phương.

a) Về kết quả đạt được

Theo đánh giá tại Báo cáo số 15/BC-BTP ngày 20/1/2014 của Bộ Tư pháp Tổng kết công tác tư pháp năm 2013 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2014 thì "Công tác chứng thực đã đi vào ổn định, nề nếp, cơ bản giải quyết kịp thời nhu cầu của người dân, tránh ùn tắc; nhiều địa phương bố trí địa điểm thực hiện chứng thực thuận tiện, thực hiện theo tinh thần cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho tổ chức, cá nhân, không để xảy ra sai sót". Cũng tại Báo cáo này, cho thấy trong năm 2013, các cơ quan tư pháp cấp huyện, cấp xã đã thực hiện chứng thực 135.189.100 bản sao (tăng 106% so với ănm 2012), 3.284.041 chữ ký (tăng 10% so với năm 2012). Công tác kiểm tra, thanh tra trong lĩnh vực hành chính tư pháp được đẩy mạnh, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, Bộ Tư pháp đã tiến hành khảo sát và xây dựng định hướng dự án Luật Chứng thực.

b) Về hạn chế, tồn tại và nguyên nhân

Bên cạnh những mặt đã đạt được như đã nêu ở trên, hiện tại công tác đăng ký và quản lý hộ tịch cũng như về công tác chứng thực vẫn còn những hạn chế, yếu kém nên đã ảnh hưởng đến chất lượng công tác, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả công tác quản lý dân cư, quản lý xã hội. Những hạn chế, yếu kém trong công tác này thể hiện trên những mặt sau đây:

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên quan còn phức tạp, gây khó khăn cho cơ quan hộ tịch khi áp dụng (ví dụ: người dân khó phân biệt việc hộ tịch của mình sẽ được áp dụng theo văn bản nào);

- Việc phân cấp thẩm quyền về đăng ký hộ tịch chưa triệt để (Hiện nay, cả 03 cấp chính quyền đều có thẩm quyền đăng ký hộ tịch[43], thậm chí có việc Bộ Tư pháp phải cho ý kiến trước khi địa phương giải quyết; 02 cấp chính quyền có thẩm quyền chứng thực). Chính vì vậy, đã dẫn đến chồng chéo chức năng quản lý và đăng ký; cũng do việc phân cấp chưa triệt để nên từng cấp chủ yếu lo việc đăng ký, ít quan tâm đến nhiệm vụ quản lý, đặc biệt là công tác kiểm tra, chỉ đạo đối với cấp dưới, từ đó không kịp thời uốn nắn những sai sót (nếu có), đồng thời dẫn đến đùn đẩy nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn lên cấp trên.

- Ở một số địa phương, việc lựa chọn, bố trí cán bộ làm công tác hộ tịch đặc biệt là công chức tư pháp - hộ tịch ở cấp xã chưa thực sự xuất phát từ yêu cầu công việc. Do sự toàn quyền của UBND cấp xã trong việc bố trí công chức tư pháp - hộ tịch, nên có tình trạng công chức tư pháp - hộ tịch chưa đủ tiêu chuẩn vẫn được làm việc, trong khi hàng năm có hàng ngàn sinh viên tốt nghiệp Đại học Luật vẫn khó xin việc làm; thậm chí có địa phương còn có tình trạng dành chỗ để chờ con em đủ điểu kiện để bố trí. 

- Một số địa phương vẫn còn coi nhẹ công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, có địa phương chỉ tổ chức triển khai khi có những văn bản mới mà không định kỳ tổ chức bồi dưỡng về nghiệp vụ hộ tịch; chính vì không được kịp thời bồi dưỡng nghiệp vụ nên số công chức mới thay không đáp ứng được yêu cầu công việc.

- Quy định về thủ tục đăng ký các loại việc hộ tịch còn quá nhiều loại giấy tờ khác nhau, lệ thuộc vào nơi cư trú đã dẫn đến trường hợp công dân không đáp ứng đủ thì không được đăng ký. Bên cạnh đó, việc quản lý các thông tin biến động hộ tịch còn bất cập, chưa có được sự liên thông giữa các ngành ở Trung ương và địa phương. Cùng với hệ thống sổ hộ tịch chưa được cải tiến hợp lý như đã nói ở trên và việc lưu sổ hộ tịch và hồ sơ đăng ký hộ tịch cũng chưa khoa học đã dẫn đến hệ thống dữ liệu hộ tịch (thực chất là những kho dữ liệu độc lập) bị phân tán, không tập trung, không kết nối được với nhau nên không tích hợp được thông tin về hộ tịch của từng cá nhân; khả năng tra cứu, khai thác phục vụ cho yêu cầu của người dân và của các cơ quan, tổ chức là rất hạn chế.

IV. VỀ MÔ HÌNH LIÊN TỊCH QUẢN LÝ, như: Mô hình quản lý luật sư.

Theo quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 83 Luật Luật sư năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2012, thì Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư; Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư tại địa phương. Theo quy định tại Điều 84 của Luật này thì tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư (nay là Liên đoàn Luật sư Việt Nam) thực hiện tự quản luật sư và hành nghề luật sư theo quy định của luật và điều lệ của mình, có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư.

Về mô hình quản lý luật sư và hành nghề luật sư, (1) ở trung ương, có Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư; có Liên đoàn luật sư Việt Nam là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư trong phạm vi cả nước, đại diện cho luật sư, các Đoàn luật sư. (2) Ở địa phương, có Sở Tư pháp là cơ quan chuyên mô của UBND cấp tỉnh, giúp UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư tại địa phương; có Đoàn luật sư là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tổ chức và hoạt động theo Luật này và Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam.

Mục tiêu của mô hình quản lý này hướng tới việc (1) Phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, trong đó chú trọng việc nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư, chất lượng hành nghề luật sư, tăng cường trách nhiệm xã hội của luật sư qua đó nâng cao vị thế, vai trò của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; (2) Tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động hành nghề của luật sư, bảo đảm cho luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình; nâng cao chất lượng tranh tụng của luật sư tại phiên tòa; có chính sách thúc đẩy hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư; (3) Tạo cơ sở pháp lý cho việc kiện toàn tổ chức, tăng cường tính thống nhất của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư từ trung ương đến địa phương; nâng cao trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, đồng thời tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư. Có thể sơ đồ hóa mô hình quản lý như sau (Mô hình 4):

Ở mô hình quản lý này, Liên đoàn Luật sư Việt Nam (tổ chức xã hội - nghề nghiệp) đã được Nhà nước trao quyền tham gia quản lý nhà nước và quản lý hoạt động nghề nghiệp của Luật sư và có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư. Cũng tương tự như vậy, ở địa phương là cơ chế phối hợp giữa Sở Tư pháp và Đoàn Luật sư cấp tỉnh. Đến nay, trên cả nước đã có 63 Đoàn luật sư/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đánh dấu sự hoàn thiện của hệ thống tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư từ Trung ương tới địa phương, tạo cơ sở cho sự phát triển nghề luật sư trong cả nước theo mục tiêu đã đề ra.

MÔ HÌNH 4

 

 

 

 

 

Đoàn luật sư

UBND cấp tỉnh

(Sở Tư pháp)

 

 

 

 
 

 

 

 

 

 

 

a) Về kết quả đạt được

Về tổ chức hành nghề, theo Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp Tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2015 của Bộ Tư pháp thì tính đến nay, cả nước có 3.417 tổ chức hành nghề luật sư với 9.375 luật sư, tăng 1.219 luật sư so với năm 2013, bảo đảm đúng định hướng phát triển luật sư tại Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020. Nhận định chung, các tổ chức hành nghề luật sư đã hoạt động ổn định. Công tác quản trị, điều hành tổ chức, hoạt động của văn phòng luật sư, công ty luật được cải tiến theo hướng chuyên nghiệp. Một số văn phòng luật sư, công ty luật đã có quy mô khá với gần 100 luật sư.

Về kết quả hoạt động, cũng theo Báo cáo Tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2015 của Bộ Tư pháp, thì ước tính năm 2014, các luật sư tham gia 196.706 việc (tăng 44.188 việc so với năm 2013), đạt tổng doanh thu gần 751,5 tỷ đồng, nộp thuế gần 79 tỷ đồng. Riêng 10 tháng đầu năm 2014, các luật sư đã tham gia 165.922 việc, trong đó có 20.374 việc tham gia tố tụng, 93.517 việc tư vấn pháp luật, 22.024 việc trợ giúp pháp lý miễn phí.

Công tác quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở các địa phương được chú trọng, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong hoạt động hành nghề luật sư. Các Sở Tư pháp đã tích cực tham mưu cho UBND tỉnh thực hiện tốt Chiến lược phát triển nghề luật sư tại địa phương như: đề xuất hỗ trợ kinh phí đào tạo luật sư trên địa bàn tỉnh nhằm bổ sung nguồn lực phát triển đội ngũ luật sư; đề xuất bố trí trụ sở và hỗ trợ kinh phí hoạt động cho Đoàn luật sư. Trong quá trình tổ chức, hoạt động, đa số các Đoàn luật sư đã có sự nỗ lực đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của Ban chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật; lập các ban chuyên môn để giúp Ban chủ nhiệm trong công tác quản lý, ban hành một số quy định nội bộ để điều chỉnh những quan hệ cụ thể trong hoạt động của Đoàn.

Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư, định kỳ hàng năm, Bộ Tư pháp xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện thanh tra, kiểm tra tổ chức và hoạt động luật sư. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã quan tâm, chỉ đạo Sở Tư pháp xây dựng và thực hiện Kế hoạch kiểm tra, thanh tra về tổ chức và hoạt động luật sư để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư cũng như tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư trong quá trình hoạt động, góp phần bảo đảm trật tự kỷ cương, bảo vệ thương hiệu, uy tín cho các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư nghiêm túc trong hoạt động hành nghề (điển hình là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh).

Công tác đổi mới, kiện toàn và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ tư pháp được quan tâm, chú trọng thông qua việc tổ chức các lớp bồi dưỡng, hội thảo, tập huấn về cập nhật văn bản pháp luật, bồi dưỡng kỹ năng quản lý nhà nước và trình độ ngoại ngữ, thực hiện thi đua, khen thưởng để có sự động viên, khích lệ kịp thời đối với các cán bộ, công chức có thành tích tốt, qua đó, phát huy tối đa năng lực, tinh thần trách nhiệm, sáng tạo của đội ngũ cán bộ tư pháp phục vụ hiệu quả cho hoạt động quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư. Bên cạnh đó, việc tăng cường cơ sở vật chất và các điều kiện cần thiết khác để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư cũng được Trung ương và địa phương quan tâm. Có thể nói, trong thời gian qua các cơ quan quản lý nhà nước đã có sự đổi mới, thực hiện những nội dung quản lý “đích đáng” và lấy hiệu lực, hiệu quả quản lý làm tiêu chí đánh giá chất lượng quản lý[44]. Cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương tập trung vào việc xây dựng và hoạch định chính sách phát triển nghề luật sư, hoàn thiện thể chế, đào tạo nghề luật sư và tranh thủ mọi nguồn lực nhằm hỗ trợ phát triển nghề luật sư. Đa số Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng đã thực hiện trách nhiệm trong việc nâng cao năng lực quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư tại địa phương.

b) Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

Cũng theo Dự thảo “Báo cáo Tình hình triển khai thực hiện Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020, Đề án “Phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế” thì bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác quản lý nhà nước về tổ chức và hành nghề luật sư trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế, bất cập sau đây:

Một là, việc triển khai Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 chưa được một số Bộ, ngành, Liên đoàn luật sư Việt Nam quan tâm thích đáng, một số hoạt động, nhiệm vụ được đề ra trong Chiến lược chưa có kết quả cụ thể. Tại một số địa phương, các văn bản triển khai Luật luật sư, Chiến lược phát triển nghề luật sư được ban hành tương đối đầy đủ, tuy nhiên, việc triển khai các nhiệm vụ cụ thể trong các văn bản này chưa được quan tâm thực hiện, kết quả đạt được chưa cao. Hầu hết các địa phương chưa xây dựng được những chính sách trong việc tạo điều kiện cho luật sư tham gia vào các dự án, công việc của cơ quan, doanh nghiệp nhà nước cũng như hỗ trợ phát triển nghề luật sư tại địa phương như Kế hoạch tổng thể triển khai Chiến lược đã đề ra.

Hai là, số lượng luật sư ở nhiều tỉnh, thành phố phát triển chưa đạt được mục tiêu mà Chiến lược phát triển nghề luật sư đã đề ra. Nguồn phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế, quốc tế của các tỉnh, thành phố gặp nhiều khó khăn do trình độ ngoại ngữ còn hạn chế, tính chuyên nghiệp chưa cao. Các luật sư hành nghề vẫn chủ yếu tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Chất lượng của đội ngũ luật sư còn nhiều hạn chế. Khi tham gia tố tụng trong vụ án theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, một số luật sư bào chữa còn có tâm lý bào chữa qua loa, chưa thực sự đầu tư thời gian, công sức và chuyên môn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được bào chữa… Số lượng luật sư thông thạo ngoại ngữ, am hiểu pháp luật quốc tế, đủ khả năng tham gia đàm phán, ký kết hợp đồng, giải quyết các tranh chấp quốc tế, luật sư chuyên sâu trong các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại còn ít.

Ba là, các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam đa số có quy mô nhỏ, chủ yếu hoạt động dưới hình thức văn phòng luật sư, chỉ có từ 1-2 luật sư, ít có tính liên kết trong hành nghề, doanh thu còn thấp, thậm chí có nhiều tổ chức hành nghề luật sư báo cáo không có doanh thu trong suốt thời gian dài. Về cơ bản, chưa xây dựng được các tổ chức hành nghề luật sư có quy mô lớn, chuyên sâu trong một lĩnh lực hành nghề nhất định.

Bốn là, hoạt động quản lý, điều hành của một số Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư còn kém hiệu quả. Một số Ban Chủ nhiệm chưa thực sự đoàn kết nên chưa tạo được sức mạnh tập thể trong quản lý, điều hành, đồng thời, cũng chưa quy tụ được luật sư của Đoàn. Hơn thế, những quy chế quản lý nội bộ cần thiết cho việc quản lý, điều hành Đoàn Luật sư như Quy chế làm việc của Ban Chủ nhiệm, Quy chế giám sát việc tập sự, Quy chế phối hợp hoạt động giữa Đoàn luật sư với Sở Tư pháp trong hoạt động quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư... chưa được quan tâm xây dựng hoặc đã được ban hành nhưng nội dung còn sơ sài, chưa phát huy tác dụng trong thực tế. Một số tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư thực hiện chưa nghiêm túc chế độ báo cáo về tổ chức và hoạt động luật sư. Một số ít tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư còn có biểu hiện quá đề cao vai trò tự quản hoặc chưa có sự phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước dẫn đến việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư kém hiệu quả.

Năm là, công tác quản lý nhà nước tại một số địa phương mới tập trung vào quản lý hành chính mà chưa xây dựng được những chính sách mang tính đột phá trong việc tạo điều kiện, hỗ trợ phát triển nghề luật sư tại địa phương. Một số ít cơ quan quản lý nhà nước chưa sát sao trong công tác quản lý luật sư và hành nghề luật sư; việc áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý còn có những hạn chế nhất định. Công tác kiểm tra, thanh tra về tổ chức, hoạt động luật sư chưa được thường xuyên; công tác phối hợp quản lý nhà nước với Đoàn Luật sư một số địa phương chưa được đồng bộ, kịp thời, hiệu quả.

 

CHƯƠNG III

PHƯƠNG HƯỚNG ĐỐI MỚI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN LÝ DỊCH VỤ CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP

 

1. CHỦ TRƯƠNG, ĐỊNH HƯỚNG CỦA ĐẢNG VỀ DỊCH VỤ CÔNG VÀ YÊU CẦU CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP, CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGÀNH TƯ PHÁP

1.1. Chủ trương, định hướng của Đảng về dịch vụ công

Về định hướng chỉ đạo, dịch vụ công lần đầu tiên được ghi nhận trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa VIII) năm 1999 và được đưa vào Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: "Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa… Định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ theo hướng Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc, cung cấp dịch vụ công"[45]. Một trong những chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của các Bộ và cơ quan ngang Bộ là thực hiện quyền quản lý nhà nước đối với dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực mình quản lý. Như vậy, Nhà nước có trách nhiệm đối với việc bảo đảm các dịch vụ công được cung cấp đầy đủ theo đúng yêu cầu của Nhà nước, đáp ứng được các yêu cầu quản lý và phục vụ xã hội. Bên cạnh đó, "khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức thực hiện một số dịch vụ công gắn với sự giám sát của cộng đồng như vệ sinh môi trường, tham gia giữ gìn trật tự an ninh xóm, phường…[46]”. Các định hướng này tiếp tục được khẳng định tại các văn kiện của Đảng các khóa X và XI.

Tại Báo cáo chính trị tại Đại hội XI (tháng 01 năm 2011) xác định: “Đẩy mạnh xã hội hóa các loại dịch vụ công phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa[47]”. “Đẩy mạnh đổi mới tổ chức, cơ chế hoạt động của các đơn vị dịch vụ công phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các đơn vị này có quyền chủ động và được khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để tham gia thị trường, cung cấp ngày càng nhiều và tốt hơn dịch vụ công cho xã hội, nhất là dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ…[48]”. Cụ thể hóa định hướng của Đảng, Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 -2020 (Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020) đã xác định "nâng cao chất lượng dịch vụ công" là một trong những mục tiêu trọng tâm (Điều 2).

1.2. Yêu cầu của cải cách hành chính và chủ trương xã hội hóa đối với ngành Tư pháp

Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy mạnh xã hội hoá việc cung ứng dịch vụ công, ngày càng có nhiều thành phần kinh tế, lực lượng xã hội tham gia cung ứng dịch vụ công thì vai trò quản lý nhà nước đối với dịch vụ công càng trở nên quan trọng và nặng nề hơn. Yêu cầu đặt ra trong đổi mới quản lý dịch vụ công hiện nay là:

- Xác định rõ trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền trong quản lý dịch vụ công, đẩy mạnh phân cấp thẩm quyền và trách nhiệm quản lý dịch vụ công cho chính quyền địa phương các cấp.

- Đổi mới, hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, cơ chế quản lý và tổ chức cung ứng phù hợp với đặc điểm, tính chất của dịch vụ công và từng loại hình dịch vụ. Quy định rõ trách nhiệm, mục tiêu, nội dung hoạt động, chất lượng, giá, phí... dịch vụ; đồng thời đảm bảo quyền tự chủ của các tổ chức cung ứng dịch vụ công.

- Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống các tổ chức cung ứng dịch vụ công trong cả nước phù hợp với từng lĩnh vực, từng vùng, từng địa phương theo yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả của mạng lưới dịch vụ công.

- Đổi mới cơ chế quản lý đối với lĩnh vực dịch vụ công, phát huy tốt mọi nguồn lực của toàn xã hội cho hoạt động dịch vụ công. Đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia cung ứng dịch vụ công. Xây dựng cơ chế hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận cho từng loại hình tổ chức cung ứng dịch vụ công.

- Đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công như là một trong những giải pháp chủ yếu để huy động mạnh mẽ các nguồn lực và phát huy năng lực xã hội, khu vực thị trường tham gia cùng với Nhà nước vào việc phát triển dịch vụ công để đáp ứng tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân, nhưng không hạ thấp hoặc giảm bớt vai trò, trách nhiệm của Nhà nước đối với khu vực này.

- Xây dựng các chính sách thích hợp đối với lực lượng lao động trong các lĩnh vực dịch vụ công về đào tạo, bồi dưỡng, tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm, khen thưởng, tôn vinh, thu hút nhân tài, chuyên gia... phù hợp với đặc điểm, tính chất của từng ngành nghề, từng vùng, miền khác nhau.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước đối với việc chấp hành luật pháp, chính sách của các tổ chức cung ứng dịch vụ công. Thực hiện công khai, minh bạch, tăng cường vai trò giám sát của người dân và các tổ chức xã hội trong quản lý việc cung ứng dịch vụ công.

Điều này một lần nữa khẳng định chỉ đạo đúng đắn của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị toàn quốc triển khai công tác tư pháp năm 2013: “Thực tế cho thấy, việc thúc đẩy nhanh, hiệu quả hay cản trở, làm chậm đi quá trình phát triển đất nước, trước hết cũng từ thể chế, pháp luật".

2. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN LÝ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP

2.1. Hoàn thiện mô hình quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp

Như trên đã phân tích, hiện Bộ Tư pháp đang áp dụng bốn mô hình cơ bản để quản lý tổ chức và hoạt động cung cấp các dịch vụ công thuộc chức năng quản lý của Ngành[49]. Mỗi mô hình quản lý hiện được vận hành dựa trên các quy định của pháp luật và kế thừa quy trình quản lý trước đó. Do vậy, việc đổi mới mô hình quản lý trước tiên phải nghiên cứu, sửa đổi các quy định của pháp luật hiện hành, mà nhiều lĩnh vực quản lý hiện nay đang được điều chỉnh bằng các luật. Mặt khác, việc đổi mới mô hình quản lý phải xuất phát từ mục tiêu quản lý của của Chính phủ, của Bộ, ngành phù hợp với các chủ trương, định hướng của Đảng và định hướng cải cách hành chính và chủ trương xã hội hóa dịch vụ công của Nhà nước. Theo chúng tôi, việc hoàn thiện mô hình quản lý dịch vụ công của ngành phải bảo đảm các nội dung chủ yếu sau đây:

- Đổi mới mô hình tổ chức và phương thức quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp theo hướng chuyển đổi từ hoạt động hành chính quản lý sang hoạt động mang tính dịch vụ hành chính, vì bản chất của dịch vụ công là bảo đảm công bằng đối với mọi tổ chức, cá nhân khi sử dụng dịch vụ, góp phần duy trì trật tự và an toàn xã hội;

- Xây dựng mô hình quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp bảo đảm thống nhất, tập trung trong sự kết nối, chia sẻ thông tin với cơ quan nhà nước, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện dịch vụ và tìm hiểu thông tin về dịch vụ đó. Mặt khác, phải bảo đảm nguyên tắc phân cấp trong cung ứng dịch vụ công của ngành như: (1) Dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của tổ chức, công dân thì sẽ do chính quyền cấp gần dân nhất tổ chức thực hiện; (2) Phạm vi sử dụng dịch vụ của tổ chức, cá nhân, càng lớn thì càng phân cấp nhiều cho cấp dưới; (3) Mức độ phức tạp trong việc cung ứng dịch vụ công càng lớn thì càng được giao cho cơ quan có tính chuyên môn cao thực hiện; (4) Dịch vụ phục vụ cho những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cấp nào thì giao cho cấp đó thực hiện; (5) Các tổ chức và công dân do cấp nào trực tiếp quản lý thì cấp đó có trách nhiệm cung ứng dịch vụ công.

Với định hướng đổi mới và nguyên tắc phân cấp như trên, chúng tôi đề nghị áp dụng mô hình quản lý dịch vụ công của ngành trong thời gian tới như sau:

- Áp dụng mô hình một cấp quản lý đối với việc quản lý tổ chức, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm; lý lịch tư pháp và trợ giúp pháp lý;

- Áp dụng mô hình liên tịch quản lý[50] đối với việc quản lý tổ chức, hoạt động công chứng, luật sư;

- Áp dụng mô hình nhiều cấp quản lý đối với việc quản lý tổ chức, hoạt động hộ tịch và chứng thực.

2.1.1. Áp dụng mô hình một cấp quản lý đối với việc quản lý tổ chức, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm, lý lịch tư pháp và trợ giúp pháp lý

a) Tiếp tục hoàn thiện mô hình quản lý một cấp đối với việc quản lý tổ chức, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm theo hướng phù hợp với bản chất và mục tiêu của hoạt động đăng ký (mô hình như hiện nay).

 

 
 


Như phân trên đã phân tích, theo chúng tôi, hiện nay, hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản đã được xây dựng theo mô hình một cấp hiện đại, tiện ích, khoa học và hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của người dân trong quá trình thực hiện đăng ký, tìm hiểu thông tin về giao dịch bảo đảm. Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản được xây dựng theo mô hình gồm ba Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản (là các đơn vị sự nghiệp thuộc Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm) đặt tại thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Các Trung tâm Đăng ký có thẩm quyền đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức trong phạm vi cả nước, không phân biệt thẩm quyền theo địa giới hành chính nơi Trung tâm Đăng ký đặt trụ sở. Theo đó, cá nhân, tổ chức có quyền lựa chọn một trong các Trung tâm Đăng ký thực hiện việc đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm. Thực tiễn cho thấy, việc xây dựng mô hình cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm theo mô hình nói trên tránh được tình trạng “độc quyền” dẫn đến “cửa quyền” trong việc cung ứng dịch vụ đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng động sản của các cơ quan đăng ký. Mặt khác, mô hình này tăng cường tính cạnh tranh trong việc cung ứng dịch vụ đăng ký và cung cấp thông tin giữa các cơ quan đăng ký, phát huy tính chủ động, tích cực của các đăng ký viên, nâng cao trách nhiệm và tinh thần phục vụ người dân trong hoạt động cung ứng dịch vụ của cơ quan đăng ký, qua đó, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, góp phần tạo thuận lợi cho người dân trong quá trình thực hiện các quyền liên quan đến tài sản bảo đảm.

 

Như vậy, việc đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm không những tạo ra sự minh bạch đối với các giao dịch đó, mà còn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khuyến khích hoạt động đầu tư vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh hoặc cho vay để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, đồng thời nâng cao được tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo thuận lợi cho sự phát triển lành mạnh, bền vững của thị trường tín dụng, ngân hàng, từ đó, hạn chế được những tranh chấp phát sinh trong đời sống dân sự, kinh doanh, thương mại. Mặt khác, còn giúp Nhà nước có thể theo dõi đầy đủ hơn sự chuyển dịch của tài sản để thu thuế và có điều kiện để quản lý tốt hơn các giao dịch về tài sản cũng như những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình hoạch định các chính sách mang tính vĩ mô, đặc biệt liên quan trực tiếp đến chính sách bảo đảm an toàn tín dụng và có thêm biện pháp phòng, chống các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng.

b) Áp dụng mô hình quản lý một cấp đối với việc quản lý tổ chức, hoạt động lý lịch tư pháp.

Như các hạn chế, tồn tại đã đề cập trong phần thực trạng, trong tổ chức và hoạt động cấp lý lịch tư pháp, cần có đơn vị giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước trong hoạt động này với địa vị pháp lý được quy định rõ trong Luật Lý lịch tư pháp. Theo chúng tôi, mô hình quản lý lý lịch tư pháp nên là mô hình Cục thuộc Bộ Tư pháp (sau đây gọi là Cục Quản lý Lý lịch tư pháp).

Đồng thời, thành lập các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Cục (sau đây gọi là Trung tâm) là đầu mối tiếp nhận, xử lý, cung cấp thông tin và cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo thẩm quyền đặt tại 05 thành phố trực thuộc trung ương là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Cần Thơ, Đà Nẵng.

Mô hình quản lý cụ thể như sau:

- Dự kiến thành lập Cục Quản lý lý lịch tư pháp thuộc Bộ Tư pháp, trong đó thành lập 01 Trung tâm tích hợp dữ liệu trực thuộc Cục đặt tại Bộ Tư pháp (sau đây gọi là Trung tâm tích hợp dữ liệu lý lịch tư pháp) và 05 Trung tâm trực thuộc Cục đặt tại 05 thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Trung tâm Lý lịch tư pháp khu vực).

Về chức năng, nhiệm vụ: (1) Cục Quản lý lý lịch tư pháp: là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp, quản lý chuyên ngành và quản lý cơ sở dữ liệu về lý lịch tư pháp trong phạm vi cả nước; Cục có tư cách pháp nhân, có trụ sở tại thành phố Hà Nội, có con dấu và tài khoản riêng tại Kho bạc nhà nước theo quy định của pháp luật. (2) Trung tâm Tích hợp dữ liệu lý lịch tư pháp: Là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Cục, quản lý biên chế, tài chính của Trung tâm theo quy định của pháp luật về đơn vị sự nghiệp công lập. (3) Trung tâm Lý lịch tư pháp khu vực: Là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Cục, quản lý biên chế, tài chính của Trung tâm theo quy định của pháp luật về đơn vị sự nghiệp công lập.

Tại địa phương, Sở Tư pháp vẫn là cơ quan tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các chức năng, nhiệm vụ trong quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp như tổ chức triển khai thi hành Luật Lý lịch tư pháp; có quyền sử dụng, khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về lý lịch tư pháp; thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận yêu cầu, giải quyết yêu cầu cấp Phiếu và trả kết quả cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo thẩm quyền.

c) Áp dụng mô hình quản lý một cấp đối với việc quản lý tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý

Với mục tiêu nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đặt biệt là người nghèo và các đối tượng khác yếu thế trong xã hội; tăng cường vai trò chỉ đạo, quản lý nhà nước trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý; đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa công tác trợ giúp pháp lý, xây dựng cơ chế thiết thực, phù hợp để thu hút mọi nguồn lực hiện có tham gia vào cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý cần thiết phải đổi mới mô hình quản lý ở lĩnh vực này.

Theo chúng tôi, mô hình quản lý trợ giúp pháp lý vẫn duy trì là mô hình Cục Trợ giúp pháp lý thuộc Bộ Tư pháp. Đồng thời, thành lập các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Cục (sau đây gọi là Trung tâm) đặt tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (mô hình dọc). Với mô hình này, bảo đảm Nhà nước tập trung quản lý, điều phối, phân bổ nguồn lực và kiểm soát chất lượng trợ giúp pháp lý và vẫn thực hiện trợ giúp pháp lý cùng với lực lượng xã hội. Về chức năng, nhiệm vụ: (1) Cục Trợ giúp pháp lý là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, quản lý chuyên ngành và quản lý Quỹ Trợ giúp pháp lý; Cục có tư cách pháp nhân, có trụ sở tại thành phố Hà Nội, có con dấu và tài khoản riêng tại Kho bạc nhà nước theo quy định của pháp luật. (2) Trung tâm trợ giúp pháp lý ở các tỉnh, thành phố trự thuộc trung ương là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Cục, quản lý biên chế, tài chính của Trung tâm theo quy định của pháp luật về đơn vị sự nghiệp công lập. Tại địa phương, Sở Tư pháp vẫn là cơ quan tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các chức năng, nhiệm vụ trong quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý. Mô hình quản lý cụ thể như sau:

2.1.2. Áp dụng mô hình liên tịch quản lý đối với việc quản lý tổ chức, hoạt động công chứng, luật sư

Mô hình quản lý luật sư như hiện nay đã khẳng định được tính đúng đắn và hợp lý. Vấn đề đặt ra trong thời gian tới là cần khắc phục các hạn chế, tồn tại[51] trong hoạt động quản lý như đã nêu ở phần trên (điểm 1.4 mục II).

Về mô hình quản lý công chứng, với mục tiêu đổi mới hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng theo hướng bảo đảm quản lý nhà nước đồng bộ, hiệu quả và đi vào thực chất, khắc phục những hạn chế, bất cập trong hoạt động quản lý nhà nước về công chứng hiện nay; tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020 (ban hành kèm theo Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ) thì việc chuyển đổi mô hình quản lý từ mô hình hiện tại sang mô hình liên tịch quản lý là phù hợp với với quan điểm và mục tiêu đã được xác định[52]. Với chủ trương: ở trung ương, thành lập Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên toàn quốc (Hiệp hội công chứng toàn quốc) và ở địa phương, thành lập Hội công chứng tỉnh; tiến tới gia nhập Liên minh công chứng quốc tế, nhằm phát huy tính tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp công chứng viên sẽ khắc phục được các hạn chế như đã được chỉ ra ở phần trên (điểm 1.2. mục II).

Theo chúng tôi, mô hình quản lý công chứng vẫn duy trì là mô hình Cục (vẫn giao cho Cục Bổ trợ Tư pháp như hiện nay) thuộc Bộ Tư pháp. Ở địa phương các tổ chức hành nghề công chứng do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập và giao Sở Tư pháp giúp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công chứng tại địa phương. Về chức năng, nhiệm vụ: (1) Cục Bổ trợ Tư pháp là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về công chứng, thực hiện các nhiệm vụ quản lý chuyên ngành về lĩnh vực công chứng; (2) Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giúp UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công chứng tại địa phương. Giao Hiệp hội công chứng toàn quốc và Hội đồng công chứng của tỉnh thực hiện một số hoạt động quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về công chứng. Mô hình quản lý cụ thể như sau:

2.1.3. Áp dụng mô hình nhiều cấp quản lý đối với việc quản lý tổ chức, hoạt động hộ tịch, chứng thực

Xuất phát từ mục tiêu và yêu cầu của hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch đã được khẳng định trong Luật Hộ tịch năm 2014, có hiệu lực từ ngày 01/01/2016 và các văn bản về chứng thực thì việc áp dụng mô hình quản lý về hộ tịch và chứng thực như hiện nay là hợp lý. Mô hình quản lý như sau:

3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC, HIỆU QUẢ VÀ CHẤT LƯỢNG CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP

3.1. Hoàn thiện các quy định về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công nói chung và của ngành Tư pháp nói riêng

Thực tiễn cung cấp dịch vụ công trong thời gian vừa qua, cũng như xu thế phát triển của các dịch vụ trong giai đoạn tới đặt ra các yêu cầu mới với pháp luật về quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính trên ba khía cạnh sau:

- Pháp luật phải phân định rõ giữa quản lý nhà nước về dịch vụ với hoạt động quản lý nội bộ (quản trị) trong các cơ quan hành chính, giữa cơ quan hành chính với các tổ chức dịch vụ công thuộc cơ quan hành chính được giao cung cấp dịch vụ khi thực hiện việc cung cấp dịch vụ theo hướng tăng cường quyền tự chủ cho các bộ phận, tổ chức trực tiếp cung cấp dịch vụ. Theo hướng khẳng định rõ, quản lý nhà nước cần thực hiện những hoạt động cụ thể như xây dựng chính sách, pháp luật, triển khai việc thực hiện chính sách pháp luật về dịch vụ công; xây dựng kế hoạch, quy hoạch phát triển các dịch vụ công để điều tiết vĩ mô sự phát triển của các dịch vụ; thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật của các bên...

Tăng quyền tự chủ cho các tổ chức dịch vụ công của nhà nước, giúp các tổ chức này có thể linh hoạt trong việc đáp ứng yêu cầu của cá nhân, tổ chức về dịch vụ, những hoạt động quản lý nội bộ nên chuyển giao cho chính các cơ quan, tổ chức thực hiện, cơ quan quản lý nhà nước chỉ giữ quyền kiểm tra, giám sát. Luật Viên chức năm 2010 đã xóa bỏ biên chế với các viên chức, trong đó có các viên chức đang thực hiện các dịch vụ công, và quy định quan hệ lao động của viên chức với tổ chức sự nghiệp công lập trên cơ sở hợp đồng làm việc ký với người đứng đầu tổ chức, nhưng các quy định này của Luật cần được quy định chi tiết cho phù hợp với đặc trưng của các tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính. Bên cạnh đó, các chính sách, pháp luật về khoán kinh phí, khoán sử dụng tài sản công cũng cần được mở rộng cùng với việc cho phép các tổ chức dịch vụ công của nhà nước được thực hiện các dịch vụ gia tăng phù hợp với hoạt động của tổ chức và phù hợp với các quy định của pháp luật.

- Bổ sung cơ chế phối hợp giữa quản lý nhà nước và hoạt động tự quản của các tổ chức dịch vụ công. Khi cá nhân, tổ chức tham gia cung cấp dịch vụ công thì nhà nước không thể bằng các mệnh lệnh hành chính can thiệp trực tiếp vào các công việc nội bộ của tổ chức dịch vụ công của cá nhân, tổ chức. Nhà nước ban hành pháp luật làm chuẩn mực cho các tổ chức dịch vụ tự quản lý, giải quyết các công việc nội bộ nhằm đảm bảo cung cấp dịch vụ đúng pháp luật, có chất lượng.

- Phối hợp giữa quản lý nhà nước với quản lý của các tổ chức cung cấp dịch vụ công là phát huy tính chủ động, trách nhiệm xã hội của cá nhân, tổ chức trong việc hình thành và bảo vệ trật tự pháp luật. Để tạo ra cơ sở pháp lý cho sự phối hợp này, pháp luật cần bổ sung các quy định phù hợp về quyền, nghĩa vụ của tổ chức dịch vụ, nội dung quản lý nhà nước. Cụ thể, pháp luật cần quy định quyền của tổ chức dịch vụ công được quyết định cơ cấu tổ chức, biên chế nhân sự phù hợp với quy định của pháp luật; nghĩa vụ bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của các cá nhân được bổ nhiệm để thực hiện dịch vụ, nghĩa vụ thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi phát hiện thấy có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình cung cấp dịch vụ...

- Cần quy định cụ thể hơn về sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức xã hội nghề nghiệp. Để đảm bảo cơ chế phối hợp trong quản lý hành chính, trước hết pháp luật phải quy định về các tổ chức xã hội, đặc biệt là các hội nghề nghiệp liên quan đến từng dịch vụ, nhóm dịch vụ công cụ thể. Việc pháp luật xác định cụ thể giới hạn của quản lý nhà nước đối với dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính cũng góp phần nâng cao vai trò của các tổ chức xã hội trong cung cấp dịch vụ, quản lý nhà nước với việc cung cấp dịch vụ. Mặt khác, pháp luật phải bổ sung những quy định rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các tổ chức dịch vụ công, các hội nghề nghiệp để thông qua việc thực hiện những quyền và nghĩa vụ đó tạo ra cơ chế phối hợp giữa các tổ chức dịch vụ, các tổ chức xã hội với các cơ quan có thẩm quyền trong quản lý nhà nước.

3.2. Cần quy định thống nhất về bảo hiểm nghề nghiệp bắt buộc đối với người hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ công

Trong tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công, mặc dù pháp luật đã quy định rất chặt chẽ quyền, nghĩa vụ của các bên, thủ tục thực hiện từng dịch vụ cụ thể để hạn chế đến mức thấp nhất các, vi phạm nhưng sai sót, rủi ro là điều không thể tránh khỏi. Hiện nay, về cơ chế bồi thường thiệt hại khi có rủi ro xảy ra trong dịch vụ công của ngành, pháp luật quy định có hai cách thức khác nhau: (1) Nếu thiệt hại do các cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức dịch vụ công của Nhà nước hay cán bộ, công chức, viên chức nhà nước gây ra thì việc bồi thường thực hiện theo Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009. Nhà nước sẽ bồi thường cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại, sau đó cán bộ, công chức, viên chức có lỗi trong việc gây thiệt hại sẽ hoàn trả cho nhà nước. (2) Trong hoạt động công chứng, Luật Công chứng năm 2014 quy định trách nhiệm mua bảo hiểm nghề nghiệp của các tổ chức hành nghề công chứng cho các công chứng viên của tổ chức mình (khoản 5 Điều 33), nếu rủi ro xảy ra thì bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm chi trả. Tương tự như vậy, hiện nay các trung tâm tư vấn pháp luật theo Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/07/2008 của Chính phủ cũng có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại cho cá nhân, tổ chức do hành vi của tư vấn viên gây ra. Tuy nhiên, nhưng pháp luật chưa quy định rõ cách thức bồi thường.

Vì vậy, pháp luật cần quy định thống nhất bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp là nghĩa vụ bắt buộc. Về lâu dài, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cần thiết phải được quy định là nghĩa vụ của mọi tổ chức dịch vụ công của cá nhân, tổ chức khi được Nhà nước cho phép tham gia cung cấp một dịch vụ cụ thể (ví dụ như đối với hoạt động tư vấn pháp luật của tổ chức xã hội, các trường đại học, viện nghiên cứu chuyên ngành luật). Song song với quy định về bảo hiểm nghề nghiệp đối với dịch vụ công thì kiến nghị pháp luật về kinh doanh bảo hiểm cũng phải được hoàn thiện để bảo đảm sự thống nhất.

3.3. Hoàn thiện các quy định về xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ cung cấp và quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công

Việc xây dựng các hệ cơ sở dữ liệu thông tin về từng dịch vụ hành chính công, liên thông giữa các dịch vụ cho phép các cơ quan nhà nước, các tổ chức dịch vụ công có thể tra cứu nhanh chóng và chính xác thông tin cần thiết để quyết định từ chối hay chấp nhận cung cấp một dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính cụ thể. Hệ thống thông tin cho phép kết nối giữa người yêu cầu dịch vụ, người cung cấp dịch vụ với Nhà nước là người quản lý. Nhà nước không cần trực tiếp tham gia cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính vẫn có thông tin cần thiết để kiểm tra, kiểm soát việc cung cấp dịch vụ công, cũng như kiểm soát các giao dịch dân sự, thương mại mà cá nhân, tổ chức tham gia vào với sự đảm bảo của các dịch vụ công.

Hiện nay, đối với nhiều dịch vụ cụ thể pháp luật chưa quy định về việc xây dựng hệ cơ sở dữ liệu quốc gia hoặc địa phương về dịch vụ công đó. Với các cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức dịch vụ công của nhà nước thực hiện việc xây dựng hệ thống thông tin theo các quy định tại Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/04/2007 của Chính phủ về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 15/06/2011 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử đã cho kết quả tốt. Để thống nhất hệ thống thông tin của các cơ quan nhà nước, của các tổ chức đơn vị phù hợp với xu thế phát triển của khoa học, công nghệ hiện nay, pháp luật về dịch vụ công cần bổ sung những quy định liên quan đến việc xây dựng, quản lý, khai thác hệ cơ sở dữ liệu thông tin. Trong đó, xác định rõ trách nhiệm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ quan quản lý hệ cơ sở dữ liệu, quy định nghĩa vụ cung cấp, trao đổi thông tin cho hệ cơ sở dữ liệu và quy định về việc khai thác, sử dụng các thông tin từ hệ cơ sở dữ liệu đối với từng dịch vụ, nhóm dịch vụ cụ thể hoặc tất cả các dịch vụ có liên quan.

3.4. Quy hoạch, bồi dưỡng nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, cá nhân trực tiếp thực hiện dịch vụ công

Để bảo đảm đủ nhân lực có chất lượng cho cung cấp dịch vụ công thì các cơ quan phải thực hiện đồng bộ nhiều chính sách về tuyển dụng, về chế độ lương, bảo đảm thu nhập, việc làm có chú ý đến điều kiện đặc thù của các địa phương, của từng dịch vụ.

Thực hiện đồng bộ, đa dạng các hình thức đào tạo, dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người được bổ nhiệm đang trực tiếp thực hiện dịch vụ công trong các cơ quan, tổ chức phải được thực hiện một cách linh hoạt, kết hợp giữa đào tạo cơ bản, chuyên sâu với bồi dưỡng thường xuyên. Việc bồi dưỡng có thể dưới hình thức các lớp bồi dưỡng tập trung, có kiểm tra, đánh giá, cấp chứng nhận, chứng chỉ. Bồi dưỡng có thể thực hiện ngay tại cơ quan, tổ chức để cập nhật kịp thời những văn bản pháp luật mới, trang bị tại chỗ những kiến thức, nghiệp vụ mà đội ngũ nhân lực của cơ quan, tổ chức còn thiếu hoặc yếu. Việc bồi dưỡng cũng có thể thực hiện theo hình thức cầm tay chỉ việc, là hình thức giúp người được bồi dưỡng có ngay kỹ năng cần thiết để giải quyết công việc. Hình thức này đặc biệt thích hợp với những địa phương đang thiếu nhân lực làm việc trong khi đội ngũ hiện có trình độ học vấn chỉ hết phổ thông, chưa qua đào tạo chuyên môn, nghề nghiệp hoặc ở những địa phương có khó khăn về kinh tế - xã hội.

Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức, viên chức, người trực tiếp thực hiện dịch vụ phù hợp với từng công việc, nhiệm vụ, dịch vụ được giao thực hiện. Đảm bảo việc đào tạo, bồi dưỡng vừa chú trọng cung cấp tri thức chuyên môn, nghiệp vụ, vừa chú trọng rèn các kỹ năng cần thiết, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp, xử lý tình huống trong giao tiếp với nhân dân trong quá trình cung cấp các dịch vụ.

3.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật

Thanh tra, kiểm tra đã được quy định trong nội dung quản lý nhà nước với các dịch vụ công. Việc đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức dịch vụ công của ngành chủ yếu dựa vào báo cáo của chính các cơ quan, tổ chức đó, khi nào có khiếu nại, tổ cáo của cá nhân, tổ chức thì công tác thanh tra, kiểm tra mới được cơ quan quản lý nhà nước thực hiện. Với các tổ chức dịch vụ công của cá nhân, tổ chức thì thanh tra, kiểm tra có thể coi là cách thức duy nhất để các cơ quan quản lý nhà nước nắm bắt được hoạt động của tổ chức, đánh giá được chất lượng dịch vụ mà tổ chức cung cấp. Các cơ quan quản lý nhà nước cần xây dựng kế hoạch thanh tra và thực hiện thanh tra định kỳ đối với các tổ chức dịch vụ công của cá nhân, tổ chức.

Cùng với công tác thanh tra, kiểm tra việc xử lý các vi phạm pháp luật cũng phải được thực hiện nhanh chóng, nghiêm minh. Với các cán bộ, công chức, viên chức tham gia cung cấp dịch vụ, cơ quan, tổ chức quản lý sử dụng gắn chất lượng, số lượng dịch vụ, sự hài lòng của khách hàng làm tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức, viên chức hàng năm và là một trong những căn cứ để khen thưởng hoặc xử lý kỷ luật. Nếu xét thấy cán bộ, công chức, viên chức vi phạm pháp luật đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm kỷ luật thì cơ quan, tổ chức phải thực hiện xét kỷ luật ngay để kịp thời răn đe người vi phạm, cán bộ, công chức, viên chức khác, đặc biệt là để đảm bảo uy tín của cơ quan, tổ chức trước nhân dân. Với các cá nhân thực hiện dịch vụ công trong các tổ chức dịch vụ công của cá nhân, tổ chức nếu vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, cũng cần thiết quy định về trách nhiệm kỷ luật đối với những cá nhân này. Cơ quan nhà nước có thảm quyền bổ nhiệm có thẩm quyền kỷ luật cảnh cáo, tước quyết định bổ nhiệm, tước thẻ hành nghề.

Mặt khác, để huy động được sự tham gia quản lý nhà nước của tổ chức, công dân thì việc thực hiện việc đo lường và xác định chỉ số hài lòng của người dân (SIPAS) đối với một số dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp là rất cần thiết và có ý nghĩa. Do vậy, cần định kỳ thực hiện và tổ chức công bố, qua đó góp phần nâng cao ý thức và trách nhiệm cung cấp dịch vụ công của Ngành.

3.6. Tiếp tục thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính, kiểm soát chặt chẽ các thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện dịch vụ công của ngành Tư pháp

Như đã phân tích ở phần trên, các nhóm dịch vụ công thuộc phạm vi của ngành Tư pháp gồm có: (1) Nhóm dịch vụ cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề thuộc lĩnh vực quản lý của ngành tư pháp và (2) Nhóm dịch vụ cấp đăng ký và giấy chứng nhận, giấy xác nhận thuộc lĩnh vực quản lý của ngành tư pháp. Do vậy, việc tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính, kiểm soát chặt chẽ các thủ tục hành chính sẽ tạo thuận lợi tối đa, giảm chi phí cho người dân và tổ chức, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Từng bước nâng cao dịch vụ hành chính công trực tuyến, tiến tới áp dụng cung cấp các dịch vụ hành chính công ở các cấp độ 3 và 4.

Tiếp tục phát huy và tổ chức triển khai thực hiện các sáng kiến cải cách hành chính, đặc biệt là trong lĩnh vực cải cách thủ tục hành chính với việc triển khai thực hiện trên toàn quốc mô hình liên thông các thủ tục hành chính: đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi và triển khai Hệ thống quản lý và đánh giá về công tác kiểm soát thủ tục hành chính ở tất cả các cấp.

Khẩn trương rà soát một cách tổng thể và sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy trình ISO trong hoạt động thực hiện dịch vụ công của cơ quan Bộ Tư pháp nhằm bảo đảm việc cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề; cấp đăng ký và giấy chứng nhận, giấy xác nhận thuộc lĩnh vực quản lý của ngành tư pháp được thực hiện một cách đồng bộ, nhịp nhàng và kiểm soát được chất lượng cũng như tiến độ của các hoạt động, góp phần giảm ách tắc, phiền hà cho tổ chức và công dân.

Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả việc xây dựng, quản lý, cập nhật, khai thác các cơ sở dữ liệu điện tử và các phần mềm ứng dụng phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ trong các lĩnh vực công chứng, hộ tịch, lý lịch tư pháp, đăng ký giao dịch bảo đảm, trợ giúp pháp lý… theo các đề án đã được phê duyệt./.

 

 

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

I. VĂN KIỆN VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT

1.      Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X và XI

2.      Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, sửa đổi năm 2011;

3.      Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

4.      Bộ luật Dân sự năm 2005,

5.      Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005,

6.      Luật Đất đai năm 2013,

7.      Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), Luật Nhà ở năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009),

8.      Luật Công chứng số 53/2014/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 20/06/2014.

9.      Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014.

10.  Luật Hộ tịch năm 2014

11.  Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 18/04/2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.

12.  Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp

13.  Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/11/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm và các văn bản hướng dẫn thi hành.

14.  Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch;

15.  Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn

16.  Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình;

17.  Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số;

18.  Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài;

19.  Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006  của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP;

20.  Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch;

21.  Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân gia đình và chứng thực;

22.  Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.

23.  Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng.

24.  Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp (sửa đổi, bổ sung các chế tài xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng).

25.  Nghị định số 04/2013/NĐ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng (thay thế Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008).

26.  Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT ngày 25/4/2014 của Ngân hàng nhà nước, Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên môi trường hướng dẫn thủ tục thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai;

27.  Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 06/6/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên môi trường, Ngân hàng nhà nước hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm...

28.  Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 17/10/2008 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng.

29.  Thông tư số 11/2011/TT-BTP ngày 27/6/2011 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số nội dung về công chứng viên, tổ chức và hoạt động công chứng, quản lý nhà nước về công chứng.

30.  Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19/01/2012 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng (thay thế Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 17/10/2008).

31.  Thông tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 của Bộ Tư pháp ban hành Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng.

32.  Quyết định số 1489/QĐ-BTP ngày 18/6/2013 của Bộ Tư pháp Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Bổ trợ tư pháp.

33.  Quyết định số 1989/QĐ-BTP ngày 17/08/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Trợ giúp pháp lý

34.  Quyết định số 97/QĐ-BTP ngày 26/01/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia;

35.  Quyết định số 01/2008/QĐ-BTP ngày 20/02/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành một số mẫu giấy tờ dùng trong hoạt động công chứng.

36.  Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày 10/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020”.

37.  Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày 17/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành “Tiêu chí quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020”.

38.  Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020”.

39.  Quyết định số 1989/QĐ-BTP ngày 17/08/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Trợ giúp pháp lý .

 

II. SÁCH, CÁC BÀI NGHIÊN CỨU VÀ TÀI LIỆU KHÁC

1.      Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên), Hành chính công, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, năm 2006;

2.      TS. Nguyễn Ngọc Hiến, Vai trò của nhà nước trong cung ứng dịch vụ công - nhận thức, thực trạng & giải pháp, H, 2002.

3.      PGS. TS Lê Chi Mai, Chuyển giao dịch vụ công cho các cơ sở ngoài nhà nước, Nxb Lao động xã hội , 2002;  Dịch vụ hành chính công, Nxb.Lý luận chính trị, H, 2006

4.      TS. Chu Văn Thành, Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb.CTQG, H, 2004;

5.      Xã hội hóa dịch vụ công ở Việt Nam/ Đỗ Trung Hiếu // Lý luân chính trị Số 4/2011. - H.; 2011. - tr.48-53.

6.      Xã hội hóa và chất lượng cung ứng dịch vụ công/ Đinh Mai Lan // Nghiên cứu lập pháp Số 21(182)/T11-2010 . - H.; 2010. - tr.42-44.

7.      Tiêu chí đánh giá chất lượng cung ứng dịch vị công tại các cơ quan hành chính nhà nước/ Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hoà // Tổ chức nhà nước Số /2010. - H.; 2010. - Tr. - Tr.39-42.

8.      Đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công ở nước ta hiện nay/ Nguyễn Minh Phương // Tổ chức Nhà nước Số 11/2008. - H.; 2008. - tr.17 - 19.

9.      Quan niệm và thực tiễn dịch vụ công ở nước ta/ Nguyễn Phước Thọ // Nghiên cứu lập pháp Số 9/2003. - H. , 2003. - tr.38-43.

10.  Vai trò của Nhà nước và vấn đề dịch vụ công ở nước ta hiện nay / TS. Hoàng Thị Kim Quế // Nhà nước và pháp luật số 2/2003. - H.: Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, T2/2003. - tr.20-24.

11.  Báo cáo thực trạng thi hành Luật Trợ giúp pháp lý và định hướng sửa đổi - Hội nghị định hướng sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý ngày 05/12/2014.

12.  Báo cáo tổng kết công tác Tư pháp năm 2012  và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2013 của Bộ Tư pháp.Báo cáo tổng kết công tác Tư pháp năm 2013  và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2014 của Bộ Tư pháp.

13.  Báo cáo tổng kết công tác Tư pháp năm 2014  và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2015 của Bộ Tư pháp.

14.  Báo cáo số 158-BC/BCS ngày 27/12/2014 của Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp kết quả công tác cải cách tư pháp năm 2014 và phương hướng nhiệm vụ cải cách tư pháp năm 2015 của Bộ Tư pháp. Tr 6.

15.  Niên độ báo cáo thống kê - tháng 10 năm 2013

16.  Tài liệu Hội  thảo “Thực hiện chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020” được tổ chức ngày 18/11/2014 tại Nhà khách Văn Phòng Quốc Hội, số 2 Hoàng Cầu, thành phố Hà Nội.

 

 

 

 

 

Phụ lục I

DANH MỤC CÁC DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG CỦA BỘ TƯ PHÁP

(Từ kết quả rà soát của Văn phòng Bộ năm 2012-2013)

 

TT

Tên dịch vụ

Tình hình triển khai trên thực tế

Cung cấp trực tuyến

Đã được triển khai

Chưa được triển khai

Cục Con nuôi

1.             

Giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

Đã triển khai

 

Cấp độ II

2.       

Cấp, gia hạn, sửa đổi giấy phép hoạt động tại Việt Nam của tổ chức con nuôi nước ngoài

Đã triển khai

 

Cấp độ II

Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm

3.       

Đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm

((1) Đăng ký giao dịch bảo đảm, hợp đồng, văn bản thông báo kê biên tài sản thi hành án; (2) Cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm; (3) Thông báo về việc thế chấp phương tiện giao thông theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức)

Đăng ký, cung cấp thông tin

Thanh toán trực tuyến về phí, lệ phí

Cấp độ III

4.       

Chấp nhận khách hàng thường xuyên

Cấp mã số, khoản đăng ký trực tuyến cho khách hàng thường xuyên

Thanh toán phí trực tuyến

Cấp độ III

Cục Bổ trợ tư pháp

5.       

Cấp chứng chỉ hành nghề luật sư

Đã triển khai

 

Cấp độ II

6.       

Cấp lại chứng chỉ hành nghề luật sư

Đã triển khai

 

Cấp độ I

7.       

Cấp giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam cho luật sư nước ngoài

Đã triển khai

 

Cấp độ II

8.       

Cấp giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam cho luật sư nước ngoài

Đã triển khai

 

Cấp độ I

9.       

Gia hạn giấy phép hành nghề luật sự tại Việt Nam cho luật sư nước ngoài

Đã triển khai

 

Cấp độ I

10.   

Cấp Giấy phép thành lập chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài

Đã triển khai

 

Cấp độ II

11.   

Cấp Giấy phép thành lập công ty luật nước ngoài

Đã triển khai

 

Cấp độ II

12.   

Cấp Giấy phép thành lập chi nhánh của công ty luật nước ngoài tại Việt Nam

Đã triển khai

 

Cấp độ II

13.   

Bổ nhiệm công chứng viên

Đã triển khai

 

Cấp độ II

14.   

Miễn nhiệm công chứng viên

Đã triển khai

 

Cấp độ II

15.   

Cấp Thẻ công chứng viên

Đã triển khai

 

Cấp độ II

16.   

Cấp lại Thẻ công chứng viên

Đã triển khai

 

Cấp độ II

17.   

Cấp Chứng chỉ hành nghề đấu giá

Đã triển khai

 

Cấp độ II

18.   

Cấp Giấy phép thành lập Trung tâm trọng tài

Đã triển khai

 

Cấp độ II

19.   

Cấp Giấy phép thành lập chi nhánh của tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam

 

Chưa có tổ chức, cá nhân đăng ký hoạt động

 

20.   

Cấp Giấy phép thành lập Văn phòng đại diện của tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam

 

Chưa có tổ chức, cá nhân đăng ký hoạt động

 

Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia

21.   

Thủ tục cấp Phiếu Lý lịch tư pháp cho người nước ngoài đã cư trú tại Việt Nam

Đã triển khai

 

Cấp độ II

22.   

Thủ tục cấp Phiếu Lý lịch tư pháp cho cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội (đối tượng là công dân Việt Nam không xác định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú)

Đã triển khai

 

Cấp độ II

23.   

Thủ tục cấp Phiếu Lý lịch tư pháp cho cơ quan tiến hành tổ tụng (đối tượng là công dân Việt Nam không xác định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú; người nước ngoài đã cư trú tại Việt Nam)

Đã triển khai

 

Cấp độ II

Vụ Pháp luật quốc tế

24.   

Tiếp nhận và chuyển hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự của Việt Nam ra nước ngoài và hồ sơ ủy thác tư pháp của nước ngoài vào Việt Nam

Đã triển khai

 

Cấp độ I

25.   

Tiếp nhận hồ sơ và hồ sơ yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định đân sự của Tòa án nước ngoài

Đã triển khai

 

Cấp độ I

26.   

Tiếp nhận đơn và hồ sơ yêu cầu không công nhận tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam

Đã triển khai

 

Cấp độ I

27.   

Tiếp nhận đơn và hồ sơ yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài

Đã triển khai

 

Cấp độ I

 

 

Phụ lục II

DANH MỤC CÁC DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CỦA NGÀNH TƯ PHÁP

(do Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phòng tư pháp và cán bộ Tư pháp – Hộ tịch thực hiện)

(Nguồn từ trang thông tin hướng dẫn các thủ tục hành chính của Bộ Tư pháp (rà soát ngày 1/10/2014): http://moj.gov.vn/tthc/Lists/ThutucHanhChinh/View_detail.aspx)

 

1.    LĨNH VỰC QUẢN LÝ LUẬT SƯ – 29 DỊCH VỤ

1.    Cấp Giấy phép hành nghề tại Việt Nam cho luật sư nước ngoài

2.    Cấp Giấy phép thành lập chi nhánh của công ty luật nước ngoài tại Việt Nam

3.    Cấp Giấy phép thành lập công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh

4.    Cấp Giấy phép thành lập công ty luật trách nhiệm hữu hạn một trăm phần trăm vốn nước ngoài

5.    Cấp Giấy phép thành lập chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài

6.    Cấp Giấy phép thành lập cơ sở đào tạo nghề luật sư

7.    Cấp lại Chứng chỉ hành nghề luật sư cho người được miễn đào tạo nghề luật sư và miễn tập sự hành nghề luật sư trong trường hợp Chứng chỉ hành nghề luật sư bị mất, bị rách, bị cháy hoặc vì lý do khác không cố ý

8.    Cấp lại Chứng chỉ hành nghề luật sư cho người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư trong trường hợp Chứng chỉ hành nghề luật sư bị mất, bị rách, bị cháy hoặc vì lý do khác không cố ý

9.    Cấp lại Chứng chỉ hành nghề luật sư trong trường hợp đã bị thu hồi do bị kết án về tội phạm do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng do cố ý nhưng đã được xóa án tích

10.    Cấp lại Chứng chỉ hành nghề luật sư trong trường hợp đã bị thu hồi do bị tước quyền sử dụng Chứng chỉ hành nghề luật sư có thời hạn

11.    Cấp lại Chứng chỉ hành nghề luật sư trong trường hợp đã bị thu hồi Chứng chỉ vì lý do bị Đoàn luật sư xử lý kỷ luật bằng hình thức xóa tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn

12.    Cấp lại Chứng chỉ hành nghề luật sư trong trường hợp đã bị thu hồi Chứng chỉ vì lý do không còn đủ sức khỏe để hành nghề

13.    Cấp lại Chứng chỉ hành nghề luật sư trong trường hợp đã bị thu hồi Chứng chỉ vì lý do không còn thường trú tại Việt Nam.

14.    Cấp lại Chứng chỉ hành nghề luật sư trong trường hợp đã bị thu hồi Chứng chỉ vì lý do là cán bộ công chức

15.    Cấp lại Chứng chỉ hành nghề luật sư đối với người đã bị kết án về tội phạm do vô ý, tội phạm ít nghiêm trọng do cố ý, nhưng đã được xóa án tích

16.    Cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư đối với người được miễn đào tạo nghề luật sư và miễn tập sự hành nghề luật sư

17.    Cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư đối với người phải qua khóa đào tạo nghề luật sư, được giảm một nửa thời gian tập sự hành nghề luật sư và đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư

18.    Cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư đối với người được miễn đào tạo nghề luật sư, được giảm 2/3 thời gian tập sự hành nghề luật sư và đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư

19.    Cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư đối với người phải qua khóa đào tạo nghề luật sư và đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư (thời gian tập sự đủ 18 tháng)

20.    Cấp lại Giấy đăng ký hoạt động do thay đổi nội dung Giấy đăng ký hoạt động của công ty luật nước ngoài.

21.    Cấp lại Giấy đăng ký hoạt động do thay đổi nội dung Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài.

22.    Cấp Giấy đăng ký hoạt động cho chi nhánh của công ty luật nước ngoài

23.    Cấp Giấy đăng ký hoạt động cho công ty luật trách nhiệm hữu hạn một trăm phần trăm vốn nước ngoài, công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh (sau đây gọi tắt là công ty luật nước ngoài)

24.    Cấp Giấy đăng ký hoạt động cho chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài

25.    Đăng ký hành nghề luật sư với tư cách cá nhân

26.    Cấp Giấy đăng ký hoạt động cho chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư

27.    Cấp lại Giấy đăng ký hoạt động cho tổ chức hành nghề luật sư khi thay đổi nội dung đăng ký hoạt động

28.    Cấp Giấy đăng ký hoạt động của công ty luật hợp danh hoặc công ty luật trách nhiệm hữu hạn (sau đây gọi tắt là công ty luật)

29.    Cấp Giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng luật sư

 

2. LĨNH VỰC CÔNG CHỨNG – 39 THỦ TỤC

1.    Thủ tục cấp lại thẻ công chứng viên

2.    Thủ tục cấp thẻ công chứng viên

3.    Đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng sau khi được phép chuyển đổi loại hình Văn phòng công chứng

4.    Đăng ký hoạt động Văn phòng công chứng (đối với Văn phòng do 2 công chứng viên trở lên thành lập)

5.    Thành lập Văn phòng công chứng (Văn phòng do 2 công chứng viên thành lập)

6.    Đăng ký hoạt động Văn phòng công chứng (đối với Văn phòng do 1 công chứng viên thành lập)

7.    Bổ nhiệm công chứng viên (trường hợp được miễn đào tạo và tập sự)

8.    Thành lập Văn phòng công chứng (Văn phòng do 1 công chứng viên thành lập)

9.    Bổ nhiệm công chứng viên (trường hợp không được miễn đào tạo và tập sự)

10.    Cấp lại Giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng do thay đổi trụ sở

11.    Cấp bản sao văn bản công chứng

12.    Công chứng hợp đồng ủy quyền

13.    Công chứng việc hủy bỏ hợp đồng, giao dịch

14.    Công chứng việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch

15.    Công chứng văn bản từ chối nhận di sản

16.    Công chứng văn bản khai nhận di sản

17.    Công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản

18.    Nhận lưu giữ di chúc

19.    Công chứng di chúc

20.    Công chứng hợp đồng góp vốn bằng nhà ở

21.    Công chứng hợp đồng thế chấp nhà ở

22.    Công chứng hợp đồng tặng cho nhà ở

23.    Công chứng hợp đồng thuê nhà ở

24.    Công chứng hợp đồng cho mượn, cho ở nhờ nhà ở

25.    Công chứng hợp đồng mua bán nhà ở

26.    Công chứng hợp đồng đổi nhà ở

27.    Công chứng hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

28.    Công chứng hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất

29.    Công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

30.    Công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất

31.    Công chứng hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

32.    Công chứng hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất

33.    Công chứng hợp đồng thuê quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

34.    Công chứng hợp đồng thuê quyền sử dụng đất

35.    Công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

36.    Công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

37.    Công chứng hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp

38.    Công chứng hợp đồng, giao dịch do công chứng viên soạn thảo theo đề nghị của người yêu cầu công chứng

39.    Công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn

 

3. LĨNH VỰC CHỨNG THỰC – 48 DỊCH VỤ

1.    Chứng thực hợp đồng cho mượn, cho ở nhờ nhà ở (ở nông thôn)

2.    Chứng thực hợp đồng cho thuê nhà ở (ở nông thôn)

3.    Chứng thực hợp đồng thế chấp nhà ở (ở nông thôn)

4.    Chứng thực hợp đồng đổi nhà ở (ở nông thôn)

5.    Chứng thực hợp đồng tặng cho nhà ở (ở nông thôn)

6.    Chứng thực hợp đồng mua bán nhà ở (ở nông thôn)

7.    Chứng thực hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất

8.    Chứng thực hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất

9.    Chứng thực hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất

10.    Chứng thực hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất

11.    Chứng thực hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất

12.    Chứng thực hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp

13.    Chứng thực hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

14.    Cấp bản sao từ sổ gốc

15.    Cấp bản sao từ sổ gốc

16.    Chứng thực hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất

17.    Cấp bản sao từ sổ gốc

18.    Chứng thực hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp

19.    Cấp bản sao từ sổ gốc

20.    Chứng thực hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

21.    Chứng thực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

22.    Chứng thực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

23.    Chứng thực văn bản từ chối nhận di sản

24.    Chứng thực di chúc

25.    Chứng thực điểm chỉ (trong giấy tờ, văn bản tiếng Việt)

26.    Chứng thực bản sao từ bản chính (tiếng Việt)

27.    Chứng thực điểm chỉ (tại cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài)

28.    Chứng thực chữ ký người dịch (tại cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài)

29.    Chứng thực chữ ký tại cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài

30.    Chứng thực bản sao từ bản chính (tại cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài)

31.    Chứng thực điểm chỉ (trong giấy tờ, văn bản tiếng nước ngoài)

32.    Chứng thực chữ ký (trong giấy tờ văn bản tiếng nước ngoài)

33.    Chứng thực bản sao từ bản chính (bộ hồ sơ cả tiếng Việt và tiếng nước ngoài)

34.    Chứng thực bản sao từ bản chính (tiếng nước ngoài)

35.    Chứng thực bản sao từ bản chính (song ngữ)

36.    Chứng thực hợp đồng do người thực hiện chứng thực soạn thảo theo đề nghị của người yêu cầu chứng thực hoặc theo mẫu.

37.    Chứng thực hợp đồng đã được soạn thảo sẵn (đối tượng hợp đồng không phải là bất động sản)

38.    Chứng thực hợp đồng do người thực hiện chứng thực soạn thảo theo đề nghị của người yêu cầu chứng thực hoặc theo mẫu.

39.    Chứng thực hợp đồng đã được soạn thảo sẵn (đối tượng hợp đồng không phải là bất động sản)

40.    Chứng thực hợp đồng cho mượn, cho ở nhở nhà ở (ở đô thị)

41.    Chứng thực hợp đồng cho thuê nhà ở (ở đô thị)

42.    Chứng thực hợp đồng thế chấp nhà ở (ở đô thị)

43.    Chứng thực hợp đồng đổi nhà ở (ở đô thị)

44.    Chứng thực hợp đồng tặng cho nhà ở (đối với nhà ở tại đô thị)

45.    Chứng thực hợp đồng mua bán nhà ở (đối với nhà ở tại đô thị)

46.    Chứng thực hợp đồng uỷ quyền

47.    Chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản

48.    Chứng thực văn bản khai nhận di sản

 

4. KĨNH VỰC ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM – 67  DỊCH VỤ

1.    Cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên

2.    Cấp bản sao chứng nhận kết quả đăng ký

3.    Xóa đăng ký giao dịch bảo đảm, hợp đồng, xoá thông báo việc kê biên tài sản thi hành án

4.    Sửa chữa sai sót về giao dịch bảo đảm, hợp đồng đã đăng ký, thông báo việc kê biên tài sản do lỗi của người thực hiện đăng ký

5.    Đăng ký thay đổi nội dung giao dịch bảo đảm, hợp đồng đã đăng ký, nội dung đã thông báo về tài sản kê biên thi hành án

6.    Đăng ký văn bản thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm

7.    Đăng ký giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên

8.    Cung cấp thông tin về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất (cấp huyện)

9.    Sửa chữa sai sót nội dung đăng ký thế chấp do lỗi của người thực hiện đăng ký(cấp huyện)

10.    Xóa đăng ký thế chấp (cấp huyện)

11.    Đăng ký văn bản thông báo về việc xử lý tài sản thế chấp trong trường hợp đã đăng ký thế chấp (cấp huyện)

12.    Cấp tài khoản đăng ký trực tuyến cho khách hàng thường xuyên

13.    Cung cấp thông tin về thế chấp tàu biển

14.    Đăng ký thay đổi nội dung thế chấp đã đăng ký (cấp huyện)

15.    Xóa đăng ký thế chấp tàu biển

16.    Cung cấp thông tin về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất (cấp tỉnh)

17.    Đăng ký văn bản thông báo về việc xử lý tài sản thế chấp là tàu biển trong trường hợp đã đăng ký thế chấp

18.    Đăng ký thế chấp tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai (cấp huyện)

19.    Sửa chữa sai sót nội dung đăng ký thế chấp do lỗi của người thực hiện đăng ký (cấp tỉnh)

20.    Sửa chữa sai sót về đăng ký thế chấp tàu biển

21.    Xóa đăng ký thế chấp (cấp tỉnh)

22.    Đăng ký văn bản thông báo về việc xử lý tài sản thế chấp trong trường hợp đã đăng ký thế chấp (cấp tỉnh)

23.    Đăng ký thế chấp tài sản gắn liền với đất trong trường hợp chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất không đồng thời là người sử dụng đất (cấp huyện)

24.    Đăng ký thay đổi nội dung thế chấp tàu biển đã đăng ký

25.    Đăng ký thay đổi nội dung thế chấp đã đăng ký (cấp tỉnh)

26.    Đăng ký thế chấp tàu biển

27.    Cung cấp thông tin về cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay

28.    Đăng ký thế chấp tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai(cấp tỉnh)

29.    Đăng ký văn bản thông báo về việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp là tàu bay trong trường hợp đã cầm cố, thế chấp

30.    Đăng ký thế chấp tài sản gắn liền với đất trong trường hợp chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đồng thời là người sử dụng đất (cấp huyện)

31.    Xóa đăng ký cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay

32.    Đăng ký thế chấp tài sản gắn liền với đất trong trường hợp chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất không đồng thời là người sử dụng đất (cấp tỉnh)

33.    Sửa chữa sai sót về đăng ký cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay

34.    Đăng ký thay đổi nội dung cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay đã đăng ký

35.    Đăng ký thế chấp tài sản gắn liền với đất trong trường hợp chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đồng thời là người sử dụng đất (cấp tỉnh)

36.    Đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, thế chấp quyền sử dụng đất đồng thời với tài sản gắn liền với đất hoặc thế chấp quyền sử dụng đất đồng thời với tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai (cấp huyện)

37.    Đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, thế chấp quyền sử dụng đất đồng thời với tài sản gắn liền với đất hoặc thế chấp quyền sử dụng đất đồng thời với tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai (cấp tỉnh)

38.    Đăng ký cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay

39.    Yêu cầu cung cấp thông tin về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh

40.    Xoá đăng ký thế chấp bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh

41.    Yêu cầu cung cấp thông tin về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện

42.    Sửa chữa sai sót trong nội dung đăng ký thế chấp bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh

43.    Xoá đăng ký thế chấp bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện

44.    Đăng ký văn bản thông báo về việc xử lý tài sản thế chấp bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh

45.    Sửa chữa sai sót trong nội dung đăng ký thế chấp bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện.

46.    Đăng ký thay đổi nội dung thế chấp đã đăng ký bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh

47.    Đăng ký thế chấp tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh

48.    Đăng ký văn bản thông báo về việc xử lý tài sản thế chấp bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện.

49.    Đăng ký thay đổi nội dung thế chấp đã đăng ký bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện

50.    Đăng ký thế chấp tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh

51.    Đăng ký thế chấp bằng quyền sử dụng đất hoặc bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh

52.    Đăng ký thế chấp bằng tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện

53.    Đăng ký thế chấp bằng tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện

54.    Xoá đăng ký thế chấp tàu biển Việt Nam tại Cảng vụ hàng hải

55.    Đăng ký thế chấp tàu biển Việt Nam tại Cảng vụ hàng hải

56.    Yêu cầu cung cấp thông tin về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại UBND cấp xã

57.    Sửa chữa sai sót trong Sổ đăng bạ tàu bay Việt Nam

58.    Cung cấp thông tin trong Sổ đăng bạ tàu bay Việt Nam

59.    Đăng ký văn bản thông báo xử lý tài sản bảo đảm bằng tàu bay

60.    Thay đổi nội dung giao dịch bảo đảm bằng tàu bay đã đăng ký

61.    Đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay

62.    Đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản (trừ tàu bay, tàu biển)

63.    Đăng ký thay đổi thông tin về khách hàng thường xuyên (trừ tàu bay, tàu biển)

64.    Đăng ký khách hàng thường xuyên (trừ tàu bay, tàu biển)

65.    Xoá đăng ký thế chấp tàu biển Việt Nam tại Chi cục hàng hải

66.    Đăng ký thế chấp tàu biển Việt Nam tại Chi cục hàng hải

67.    Đăng ký thế chấp bằng quyền sử dụng đất hoặc bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện

 

5. LĨNH VỰC HỘ TỊCH – 71 THỦ TỤC

1.    Đăng ký kết hôn đối với các trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình

2.    Cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân Việt Nam trong thời gian cư trú ở nước ngoài tại cơ quan đại diện

3.    Đăng ký việc nhận cha, mẹ, con có yếu tố nuớc ngoài ở khu vực biên giới

4.    Đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới

5.    Cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân Việt Nam cư trú trong nước để đăng ký kết hôn với người nước ngoài tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài

6.    Chấm dứt hoạt động của Trung tâm Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài

7.    Thay đổi nội dung Giấy đăng ký hoạt động của Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài

8.    Đăng ký hoạt động của Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài

9.    Ghi vào sổ hộ tịch việc nhận cha, mẹ, con của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tại Việt Nam

10.    Đăng ký việc nhận cha, mẹ, con có yếu tố nuớc ngoài tại Việt Nam

11.    Công nhận việc kết hôn của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài tại Việt Nam

12.    Đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam

13.    Ghi vào sổ hộ tịch việc nhận cha, mẹ, con của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tại cơ quan đại diện

14.    Công nhận việc kết hôn của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài tại cơ quan đại diện

15.    Đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại cơ quan đại diện

16.    Thủ tục Đăng ký kết hôn trong nước

17.    Cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân

18.    Đăng ký việc nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài tại cơ quan đại diện

19.    Thủ tục Đăng ký lại việc kết hôn

20.    Thủ tục Đăng ký lại việc sinh

21.    Thủ tục Đăng ký khai sinh

22.    Thủ tục Đăng ký việc chấm dứt giám hộ

23.    Thủ tục Đăng ký việc xác định lại dân tộc

24.    Thủ tục Đăng ký việc bổ sung hộ tịch

25.    Thủ tục Ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch đã đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài

26.    Thủ tục ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài

27.    Đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình (hôn nhân thực tế)

28.    Cấp bản sao các giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch

29.    Điều chỉnh nội dung trong sổ hộ tịch và các giấy tờ hộ tịch khác (Không phải sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh)

30.    Đăng ký việc bổ sung hộ tịch

31.    Đăng ký việc thay đổi, cải chính hộ tịch

32.    Đăng ký việc nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới

33.    Đăng ký việc nhận cha, mẹ, con

34.    Đăng ký việc giám hộ

35.    Đăng ký kết hôn đối với đồng bào dân tộc thiểu số theo quy định tại Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ về áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình.

36.    Đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới

37.    Đăng ký kết hôn trong nước

38.    Đăng ký lại việc tử

39.    Đăng ký khai tử quá hạn (Việc tử chưa đăng ký trong thời hạn 15 ngày).

40.    Đăng ký khai tử cho người bị toà án tuyên bố là đã chết

41.    Đăng ký khai tử trong nước

42.    Đăng ký lại việc sinh (Việc sinh đã được đăng ký, nhưng sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đã bị mất hoặc hư hỏng không sử dụng được, thì được đăng ký lại)

43.    Đăng ký khai sinh quá hạn

44.    Đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú

45.    Đăng ký khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi

46.    Đăng ký khai sinh trong nước

47.    Chấm dứt hoạt động của Trung tâm hỗ trợ kết hôn

48.    Thay đổi nội dung hoạt động của Trung tâm hỗ trợ kết hôn

49.    Gia hạn hoạt động của Trung tâm hỗ trợ kết hôn

50.    Cấp Giấy đăng ký hoạt động cho Trung tâm hỗ trợ kết hôn

51.    Đăng ký việc xác định lại giới tính có yếu tố nước ngoài

52.    Đăng ký việc xác định lại dân tộc, bổ sung hộ tịch có yếu tố nước ngoài.

53.    Đăng ký việc thay đổi, cải chính hộ tịch có yếu tố nước ngoài.

54.    Thủ tục Đăng ký lại việc tử có yếu tố nước ngoài

55.    Thủ tục Đăng ký khai tử có yếu tố nước ngoài

56.    Ghi vào sổ hộ tịch các việc hộ tịch đã đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài các việc sinh, kết hôn, nhận cha, mẹ, con.

57.    Cấp bản sao các giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch có yếu tố nước ngoài.

58.    Thủ tục Cấp lại bản chính Giấy khai sinh có yếu tố nước ngoài

59.    Thủ tục Đăng ký lại việc sinh có yếu tố nước ngoài

60.    Đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài

61.    Đăng ký việc thay đổi, chấm dứt giám hộ có yếu tố nước ngoài

62.    Đăng ký giám hộ có yếu tố nước ngoài

63.    Đăng ký việc nhận cha, mẹ, con có yếu tố nuớc ngoài

64.    Công nhận việc kết hôn đã được tiến hành ở nước ngoài (ghi chú kết hôn)

65.    Thủ tục Đăng ký lại việc kết hôn có yếu tố nước ngoài

66.    Đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài

67.    Cấp lại bản chính giấy khai sinh

68.    Cấp bản sao các giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch

69.    Điều chỉnh nội dung trong sổ hộ tịch và các giấy tờ hộ tịch khác (không phải Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh)

70.    Thủ tục Đăng ký việc xác định lại giới tính

71.    Thủ tục Đăng ký việc thay đổi, cải chính hộ tịch

 

6. LĨNH VỰC LÝ LỊCH TƯ PHÁP – 6 THỦ TỤC

1.    Thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho cơ quan tiến hành tố tụng (đối tượng là công dân VN, người nước ngoài cư trú tại VN)

2.    Thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (đối tượng là công dân VN, người nước ngoài đang cư trú tại VN)

3.    Thủ tục cấp phiếu lý lịch tư pháp cho công dân Việt Nam, người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam

4.    Thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho cơ quan tiến hành tố tụng (đối tượng là công dân VN không xác định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú, người nước ngoài đã cư trú tại VN)

5.    Thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (đối tượng là công dân VN không xác định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú))

6.    Thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho người nước ngoài đã cư trú tại Việt Nam

 

7. LĨNH VỰC NUÔI CON NUÔI – 15 THỦ TỤC

1.    Thủ tục xin nhận con nuôi đích danh

2.    Thủ tục Đăng ký việc nuôi con nuôi thực tế

3.    Thủ tục Đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới

4.    Thủ tục Đăng ký lại việc nuôi con nuôi trong nước

5.    Thủ tục Đăng ký nuôi con nuôi trong nước

6.    Thủ tục Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi

7.    Thủ tục Ghi chú việc nuôi con nuôi đã đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài

8.    Thủ tục Đăng ký lại việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

9.    Thủ tục Công dân Việt Nam nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi

10.    Thủ tục Đăng ký nuôi con nuôi tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài

11.    Thủ tục Sửa đổi giấy phép hoạt động cho tổ chức con nuôi nước ngoài

12.    Thủ tục Gia hạn giấy phép hoạt động cho tổ chức con nuôi nước ngoài

13.    Thủ tục Cấp giấy phép hoạt động cho tổ chức con nuôi nước ngoài

14.    Thủ tục Đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài (không đích danh)

15.    Thủ tục Đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài (đích danh)

 

8. LĨNH VỰC TƯ VẤN PHÁP LUẬT – 6 THỦ TỤC

1.    Thủ tục cấp lại Thẻ tư vấn viên pháp luật

2.    Thủ tục thu hồi Thẻ tư vấn viên pháp luật

3.    Thủ tục cấp Thẻ tư vấn viên pháp luật

4.    Thủ tục thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của Trung tâm tư vấn pháp luật, Chi nhánh

5.    Thủ tục Đăng ký hoạt động cho Chi nhánh của Trung tâm tư vấn pháp luật

6.    Thủ tục Đăng ký hoạt động của Trung tâm tư vấn pháp luật

 



[1] Nguồn từ trang thông tin hướng dẫn các thủ tục hành chính của Bộ Tư pháp (thông kê ngày 1/10/2014): http://moj.gov.vn/tthc/Lists/ThutucHanhChinh/View_detail.aspx

[2] Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG 2001, Tr 133

[3] Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG 2001, Tr  217

[4] Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên), Hành chính công, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, năm 2006, tr 453.

[5] Xem thêm phụ lục II của Báo cáo

[6]  Xem thêm Từ điển Larousse, 1995, tr. 934): Activité d’intérêt général, assurée par un organisme public ou privé; organisme assurant une activité de ce genre.

   Public service (từ điển Oxford, 2000, tr. 1024): 1. Service such as transport or health care that a government or an official organization provides for people in general in a particular society 2. Something that is done to help people than to make a profit 3. The govermnent or government departments

[7] Xem Báo cáo tổng quan nghiên cứu về dịch vụ công và dịch vụ công trong ngành tư pháp ở Phần II. Các chuyên đề nghiên cứu

[8] Xem thêm Báo cáo tổng quan nghiên cứu về dịch vụ công và dịch vụ công trong ngành tư pháp ở Phần II. Các chuyên đề nghiên cứu.

[9] Sự nghiệp là một từ gốc Trung Quốc, được dùng theo nhiều nghĩa. Theo nghĩa hẹp, từ “sự nghiệp” dùng để chỉ những hoạt động chuyên môn nhằm đáp ứng những nhu cầu của xã hội và cá nhân con người, chủ yếu là về những lĩnh vực liên quan đến sự phát triển con người về văn hoá, tinh thần và thể chất.

[10] Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên), Hành chính công, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, năm 2006, tr 453.

[11] Khoản 3 và 6 Điều 96 Hiến pháp năm 2013

[12] Điều 2 Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 18/04/2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.

[13] Đây cũng là quan điểm của TS. Nguyễn Ngọc Bích - Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính ở Việt Nam hiện nay.

[14] Điều 1 Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp: "Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật; quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án và các công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ"

[15] Xem cụ thể tại Phụ lục I kèm theo.

[16] Nguồn từ trang thông tin hướng dẫn các thủ tục hành chính của Bộ Tư pháp (thông kê ngày 1/10/2014): http://moj.gov.vn/tthc/Lists/ThutucHanhChinh/View_detail.aspx

[17] (i) là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, (ii) không nhằm mục tiêu lợi nhuận,(iii) do cơ quan nhà nước (hoặc tổ chức, doanh nghiệp được ủy quyền) có thẩm quyền thực hiện (iv) cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý.

[18] Trang 218, Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách khoa và Nxb. Tư pháp, năm 2006

[19] Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự số 64/2014/QH13 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2014 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2015.

[20] Báo cáo số 158-BC/BCS ngày 27/12/2014 của Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp kết quả công tác cải cách tư pháp năm 2014 và phương hướng nhiệm vụ cải cách tư pháp năm 2015 của Bộ Tư pháp. Tr 6.

[21] Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa và Nxb. Tư pháp, năm 2006, Trang 640.

[22] Ở Iceland, chính phủ đã xây dựng và thực thi chiến lược cung ứng dịch vụ công và từng bộ hiện đang chuẩn bị cho các chiến lược nhằm phục vụ tốt nhất các nhu cầu của khách hàng - công dân. Cải cách ở Nhật Bản được thực hiện mạnh hơn bởi sự thành lập Trung tâm Xúc tiến cải cách hành chính, bao gồm tất cả các bộ trưởng, liên quan đến toàn bộ nội các chính phủ, dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng. Các bộ và cơ quan ngang bộ của Anh và Australia buộc phải trả lại tiền lãi hiệu quả mỗi năm 1,5% trên tổng chi phí hoạt động cho Bộ Tài chính hay Kho bạc (tại Australia, số tiền lãi này lên tới 80 triệu đôla một năm). Chính phủ New Zealand đòi hỏi các bộ hạch toán việc sử dụng vốn, bao gồm cả khấu hao. Bộ Tài chính Phần Lan thực hiện quản lý hướng tới kết quả, trong đó chi phí hoạt động của tất cả các cơ quan sẽ được dựa trên ngân sách cấp theo kết quả thực hiện của năm trước.

Tất cả các bộ đều được yêu cầu vạch ra chương trình chất lượng và năng suất lao động cho 5 năm sau. Chính phủ Canada đã coi phân tích chi phí - hoạt động trong quản lý công là một phương pháp cơ bản để hạch toán chi phí và lựa chọn các phương án cung cấp dịch vụ công tốt cho cộng đồng. Ở Mỹ, nếu chính phủ đạt được mục tiêu tăng hiệu suất hoạt động của khu vực công lên 15% thì hàng năm ngân sách liên bang sẽ tiết kiệm được 134 tỷ đôla trong dự kiến chi tiêu liên bang 900 tỷ đôla năm 2010

[23] khoản 25 Điều 2 Nghị định số 22/2013/NĐ-CP

a) Tổ chức, hướng dẫn thực hiện các cơ chế, chính sách về cung ứng các dịch vụ công; về xã hội hoá các hoạt động cung ứng dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ;

b) Trình Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch mạng lưới tổ chức sự nghiệp dịch vụ công;

c) Hướng dẫn, tạo điều kiện và hỗ trợ cho các tổ chức thực hiện các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ hoạt động theo đúng quy định của pháp luật.

d) Theo dõi, kiểm tra, giám sát, đo lường chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

[24] Như: xây dựng, trình Bộ trưởng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm về đăng ký giao dịch bảo đảm; Chủ trì hoặc tham gia soạn thảo các đề án, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm; Tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm; Xây dựng, trình Bộ trưởng ban hành, quản lý và hướng dẫn việc sử dụng các mẫu đơn, giấy tờ, sổ đăng ký về giao dịch bảo đảm; ban hành theo thẩm quyền văn bản cá biệt, văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm)

[25] Nội dung đăng ký giao dịch bảo đảm được quy định trong các văn bản có hiệu lực pháp lý cao như Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005, Luật Đất đai năm 2013, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006, Luật Nhà ở năm 2005 (sửa đổi, bổ sugn năm 2009), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/11/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm và các văn bản hướng dẫn thi hành.

[26] Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT ngày 25/4/2014 của Ngân hàng nhà nước, Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên môi trường hướng dẫn thủ tục thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai; Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 06/6/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên môi trường, Ngân hàng nhà nước hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm...

[27] Theo quy định tại Điều 2 Quyết định số 97/QĐ-BTP ngày 26/01/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia;

[28] Theo quy định tại Điều 2 Quyết định số 1989/QĐ-BTP ngày 17/08/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Trợ giúp pháp lý

[29] Về tổ chức, cán bộ làm công tác lý lịch tư pháp, 05 Sở Tư pháp các thành phố trực thuộc Trung ương và Sở Tư pháp tỉnh Đắk Lắk đã thành lập Phòng Lý lịch tư pháp; hầu hết các Sở Tư pháp khác đã được kiện toàn bộ phận lý lịch tư pháp tại phòng Hành chính tư pháp để thực hiện nhiệm vụ quản lý lý lịch tư pháp. Tính đến ngày 01/7/2013, toàn quốc có 169 biên chế làm công tác lý lịch tư pháp (bằng khoảng 1/2 số lượng biên chế theo Quyết định số 2369/QĐ-TTg), trong đó có 16/63 Sở Tư pháp có đủ số biên chế chuyên tách tối thiểu làm công tác tư pháp, đặc biệt 03 Sở Tư pháp đã bố trí vượt số biên chế tối thiểu (thành phố Hồ Chí Minh: 10 biên chế; Tây Ninh: 05 biên chế; Đắk Lắk: 05 biên chế)

[30] Nhằm giảm thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho công dân, một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã nghiên cứu áp dụng những giải pháp cụ thể như: thực hiện thử nghiệm phương thức tra cứu, xác minh và nhận kết quả tra cứu qua đường điện tử, triển khai dịch vụ chuyển phát kết quả giải quyết hồ sơ lý lịch tư pháp đến địa chỉ người dân qua bưu điện (thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hà Nội, Quảng Bình, Sóc Trăng,...); triển khai cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 qua bưu điện cho học sinh, sinh viên đang du học ở nước ngoài, người Việt Nam đang cư trú tại nước ngoài (thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến Tre); công khai kết quả cấp phiếu lý lịch tư pháp trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh (Hà Nam, Long An) – Báo cáo Tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015, Tr 17-18.

[31] Khoản 10 Điều 2 Quyết định số 1989/QĐ-BTP ngày 17/08/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Trợ giúp pháp lý .

[32] Báo cáo thực trạng thi hành Luật Trợ giúp pháp lý và định hướng sửa đổi - Hội nghị định hướng sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý ngày 05/12/2014.

   [33] Luật này sẽ hết hiệu lực từ ngày 01/01/2015 và được thay thế bởi Luật Công chứng số 53/2014/QH13 đã được Quốc hội thông qua ngày 20/06/2014.

[34] - Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng.

- Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp (sửa đổi, bổ sung các chế tài xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng).

- Nghị định số 04/2013/NĐ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng (thay thế Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008).

- Quyết định số 01/2008/QĐ-BTP ngày 20/02/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành một số mẫu giấy tờ dùng trong hoạt động công chứng.

- Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày 10/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020”.

- Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày 17/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành “Tiêu chí quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020”.

- Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020”.

- Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 17/10/2008 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng.

- Thông tư số 11/2011/TT-BTP ngày 27/6/2011 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số nội dung về công chứng viên, tổ chức và hoạt động công chứng, quản lý nhà nước về công chứng.

- Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19/01/2012 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng (thay thế Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 17/10/2008).

- Thông tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 của Bộ Tư pháp ban hành Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng.

[35] Điều 2 Quyết định số 1489/QĐ-BTP ngày 18/6/2013 của Bộ Tư pháp Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Bổ trợ tư pháp.

[36] Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp tổng kết công tác Tư pháp năm 2014  và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2015 của Bộ Tư pháp.

[37] Luật Hộ tịch số 60/2014/QH13 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2014 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2016

[38] Theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP thì thẩm quyền và trách nhiệm cấp bản sao từ sổ gốc thuộc về cơ quan, tổ chức đang quản lý sổ gốc đó – Ở trong nội dung nghiên cứu này, chỉ đề cập đến việc cấp bản sao từ sổ gốc các giấy tờ hộ tịch.

[39] Luật Hộ tịch đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20/11/2014 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2016.

[40] Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch; Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số; Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006  của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP; Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch; Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân gia đình và chứng thực; Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.

[41] Đăng ký khai sinh mới cho 1.979.195 trường hợp, đăng ký lại việc sinh cho 495.182 trường hợp.

[42] Nguồn: Tổng hợp báo cáo của các Sở Tư pháp – Niên độ báo cáo thống kê - tháng 10 năm 2013

[43] Luật Hộ tịch số 60/2014/QH13 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2014 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2016 đã khắc phục được hạn chế này.

[44] Theo Dự thảo “Báo cáo Tình hình triển khai thực hiện Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020, Đề án “Phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế” được trình bày tại Hội  thảo “Thực hiện chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020” được tổ chức ngày 18/11/2014 tại Nhà khách Văn Phòng Quốc Hội, số 2 Hoàng Cầu, thành phố Hà Nội.

[45] Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị, quốc gia – Sự thật 2001, Tr 133.

[46] Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Tlđd, Tr  217.

[47] Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Tlđd, Tr 250.

[48] Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Tlđd, Tr 272.

[49] Mô hình một cấp quản lý; mô hình hai cấp quản lý; mô hình nhiều cấp quản lý và mô hình liên tịch quản lý.

[50] Liên tịch quản lý ở đây được hiểu là việc phối hợp thực hiện quản lý nhà nước giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tổ chức xã hội nghề nghiệp được Nhà nước trao quyền.

[51] Xem thêm các kiến nghị cụ thể ở phần sau.

[52] Điều 1 Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 "Quan điểm: công chứng là một dịch vụ công đặc biệt... Tổ chức và hoạt động công chứng phải có tính ổn định và bền vững cao, cần sự quản lý, định hướng, điều tiết chặt chẽ của Nhà nước trong một quy hoạch phát triển tổng thể của quốc gia và được triển khai thực hiện theo đúng quy hoạch ở từng địa phương, bảo đảm việc xã hội hóa hoạt động công chứng có bước đi phù hợp, theo quy hoạch và lộ trình cụ thể;

Mục tiêu: Phát triển hoạt động công chứng theo hướng dịch vụ công, chuyên nghiệp hóa, xã hội hóa, đưa hoạt động công chứng Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới, phù hợp với thông lệ quốc tế".

 

File đính kèm downloadTải về