BỘ TƯ PHÁP
VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC PHÁP LÝ
ĐỀ TÀI
CẢI CÁCH TƯ PHÁP
*
* *
PHẦN ĐỔI MỚI TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN
ĐỀ TÀI CẤP BỘ
MÃ SỐ: 86 - 98 - 011
Tháng 12 - 1990
PHẦN THỨ NHẤT
BÁO CÁO KẾT QUẢ PHÚC TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẢI CÁCH TƯ PHÁP - PHẦN ĐỔI MỐI TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẢI CÁCH TƯ PHÁP
PHẦN ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN.
Nội dung báo cáo gồm:
I. Mục đích yêu cầu và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
II. Những căn cứ lý luận của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án.
III. Thực trạng tổ chức và hoạt động của toà án hiện nay.
IV. Một số kiến nghị cụ thể.
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Tiếp theo việc đề tài Những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý của toà án nhân dân địa phưong về tổ chức đã hoàn thành năm 1988, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý tiếp tục thực hiện đề tài 86-98-001 nghiên cứu về cải cách tư pháp. Đề tài này đã được Bộ Tư pháp và Uỷ ban khoa học nhà nước chấp nhận cho triển khai nghiên cứu trong nhiều năm, bắt đầu từ 1989.
Cải cách tư pháp là một bộ phận quan trọng và không thể thiếu được trong cải cách bộ máy nhà nước mà đại hội Đang lần thứ 6 đã chỉ ra.
Cải cách tư pháp mà trứoc hết là cải cách tổ chức hoạt động của cơ quan tư pháp (hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cơ quan điều tra, Viện KIểm sát, toà án, trọng tài kinh tế, hệ thống tổ chức tư pháp do Bộ tư pháp quản lý từ trung ương đến địa phương) là nhằm khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ và quan liêu trong phương pháp lề lối làm việc của các cơ quan này, tình trạng bộ máy cồng kềnh, quan liêu mà kém hiệu quả, đồng thời xây dựng một số công trình tổ chức cách thức hoạt động tối ưu để các cơ quan đó đáp ứng được nhiệm vụ và yêu cầu của công cuộc đổi mới đang diễn ra ở nước ta, góp phần bảo vệ vững chắc chế độ XHCN và quyền dân chủ của công dân .
Đề tài cải cách tư pháp bao gồm những nội dung cần nghiên cứu sau:
1. Đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án.
2. Đổi mới tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp từ trung ương đến địa phương do Bộ tư pháp quản lý .
3. Những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác thống kê tư pháp ở nước ta .
4. Đổi mới tổ chức hoạt động của các cơ quan điều tra, Viện KIểm sát, công chứng, tổ chức Luật sư, giám hộ hộ tịch để phục vụ tốt hơn nữa cho việc xét xử của toà án.
Theo kế hoạch tiến độ mà Viện nghiên cứu khoa học pháp lý đã đề ra năm 1989, đề tài cải cách tư pháp trong năm 1989, 1990 đã tập trung chủ yếu vào vấn đề đổi mới tô chức hoạt động của toà án. Những vấn đề còn lại cũng được triển khai ở chừng mực nhất định và sẽ được triển khai mạnh mẽ từ 1991.
Đổi mới tổ chức hoạt động của toà án bao gồm các nội dung sau:
1. Tổ chức, thiết kế lại toà án theo nguyên tắc 2 cấp xét xử để phù hợp với hoạt động đặc thù có tính chất tài pán của công ty này.
2. Phân tích đánh giá thực trạng và đề xuất các biện pháp bảo đảm cho Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử .
3. Nghiên cứu sửa đổi về thẩm quyền xét xử của các toà án trong điều kiện mới.
4. Nghiên cứu thực trạng và giải pháp để củng cố chế độ hội thẩm nhân dân .
5. Đổi mới công tác quản lý của các toà án nhân dân địa phương về tổ chức.
6. Đổi mới công tác thi hành án.
Việc nghiên cứu của đề tài lần này đã lựa chọn 1 số vấn đề có tính chất cấp bách trong phạm vi nội dung nêu trên:
1. Tổ chức, thiết kế lại các toà án theo nguyên tắc 2 cấp xét xử và nghiên cứu sửa đổi thẩm quyền của các cấp toà án.
2. Các biện pháp bảo đảm cho Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .
Những vấn đề lớn khác như đổi mới tổ chức hoạt động chấp hành án, thành lập toà án hành chính, kinh tế... cũng có đề cập đến, nhưng về cơ bản sẽ tập trung nghiên cứu vào năm 1991 và những năm tiếp theo
Báo cáo phúc trình này được chuẩn bị trên cơ sở nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của toà án ở nưóc ta từ 1945 đến nay và ý kiến của cán bộ nghiên cứu và thực tiễn tại các cuộc hội thảo khoa học tại Hà nội, TPHCM, các cuộc khảo sát thực tế ở 1 số tỉnh như Vĩnh phú, Hà nội, Tiền giang... đồng thời có tham khảo tài liệu về nền tư pháp ở 1 số nước.
II. NHỮNG CĂN CỨ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ĐỔI MỚI TÔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN.
1. Đổi mới toà án trong cải cách bộ máy nhà nước .
Những năm qua trong nhận thức của chúng ta về XHCN có rất nhiều quan niệm chưa phù hợp với tình hình ở nước ta, nhất là quan niệm về công nghiệp hoá, cải tạo XHCN, về cơ chế quản lý kinh tế, phân phối lưu thông, về vai trò và vị trí của nhà nước XHCN trong việc điều hành xã hội, về vị trí chức năng của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong bộ máy nhà nước... Ngoài ra, cơ chế tập trung, quan liêu đã ảnh hưởng rất lớn đến tác phong, lề lối làm việc và hiệu quả công việc của các cơ quan nhà nước. Như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã nhận xét là bộ máy nhà nước ta kồng kềnh và kếm hiệu lực và nặng nề nhiều tầng nấc. Chế độ trách nhiệm không rõ ràng, phong cách làm việc còn nặng về hình thức. Quyết định các vấn đề còn thiếu khoa học, tổ chức thực hiện lại yếu kém, công tác tổ chức cán bộ thì trì trệ chậm đổi mới, phong các làm việc của cán bộ thì mang nặng chủ nghĩa quan liêu.
Những điểm nói trên không thể không ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có Toà án.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI cũng đã chỉ rõ đổi mới mọi mặt của đời sống xã hội là nhiệm vụ hàng đầu, là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với nước ta. Đảng ta cũng khẳng địh nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN và một trong những nhiệm vụ cấp bách, cựuc kỳ quan trọng hiện nay là đổi mới kinh tế và từng bước vững chắc đổi mới hệ thống chính trị là điều kiện để tiến tới đổi mới.
Bộ máy nhà nước với những nhược điểm như đã nêu ở trên (quan liêu, bảo thủ, trì trệ...) sẽ không đáp ứng được công cuộc đổi mới. Do đó, trong việc đổi mới từng bước hệ thống chính trị, cần thực hiện một bước cải cách lớn về tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước đủ tầm để điều hành các quá trình, các quan hệ đã và đang phát sinh.
Trong bộ máy nhà nước Toà án giữ vai trò đặc biệt quan trọng với những nhiệm vụ không thể thay thế của nó được quy định tại Điều 127 Hiến pháp 1980 và Điều 1 Luật tổ chức Toà án nhân dân.
Với tính cách là một cơ quan nhà nước, một bộ phận trong bộ máy nhà nước, Toà án không thể nằm ngoài quỹ đạo của cuộc cải cách bộ máy nhà nước nói trên. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 khoá VI đã đề ra nhiệm vụ là phải "làm rõ và đổi mới một số chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của hệ thống tư pháp, Toà án, kiểm sát, trọng tài kinh tế...". Đó chính là tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho việc đổi mới các cơ quan tư pháp.
Trong cải cách tư pháp, đổi mới Toà án là vấn đề có tính cấp bách bởi lẽ trong hệ thống các cơ quan tư pháp, Toà án giữ vị trí đặc biệt. Nói một cách khác hình tượng, nếu như tập hợp các cơ quan tư pháp là một cái tháp thì Toà án là đỉnh của tháp. Toà án là nơi thể hiện rõ nhất nguyên tắc đan chủ và bình đẳng. Kết quả hoạt động của Toà án là nơi thể hiện sản phẩm của toàn bộ hoạt động của các tổ chức tư pháp. Vì thế, bằng hoạt động của mình, Toà án thể hiện cả chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống tư pháp trong nhà nước XHCN.
Như vậy đổi mới Toà án được coi là một đột phá quan trọng cải cách tư pháp.
2. Những yêu cầu đặt ra cho việc đổi mới Toà án.
a. a. aa
Đổi mới Toà án để góp phần phát huy dân chủ XHCN.
Đổi mới bộ máy nhà nước nói chung (trong đó có Toà án) là một bộ phận không thể thiếu được trong đổi mới hệ thống chính trị của nước ta.
"
Thực chất của đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, đảm bảo cho mọi công dân thực sự là người chủ trong công cuộc xây dựng xã hội mới, có nghĩa vụ và lợi ích trong lao động, có quyền tham gia quản lý nhà nước, có nhiệm vụ báo chí đất nước và các thành quả của cách mạng". Đổi mới Toà án cũng nhằm phát huy dân chủ XHCN, đảm bảo quyền dân củ của công dân trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội... mà Hiến pháp 1980 đã ghi nhận.
Pháp luật không chỉ ghi nhận các quyền dân chủ của công dân mà còn quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện và bảo vệ các quyền đó. Trong số các biện pháp bảo vệ các quyền dân chủ của công dân thì bảo vệ thông qua thủ tục tư pháp là một biện pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, ở thủ tục tư pháp quyền dân chủ của công dân được bảo vệ trên cơ sở một loạt các nguyên tắc dân chủ rất chặt chẽ: Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án được tranh luận bình đẳn, bất khả xâm phạm về thân thể của công dân; xét xử hai cấp, quyền bào chữa được bảo đảm; Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử... Có thể nói, thủ tục tư pháp là một trong những thủ tục có tính chất dân chủ nhất để bảo vệ quyền lợi của công dân.
Do đó, việc đổi mới đòi hỏi Toà án phải thực hiện các nguyên tắc tố tụng dân chủ mà pháp luật đã quy định để mỗi người dân có thể tin rằng quyền lợi của mình, tính mạng, tài sản của họ, danh dự và nhan phẩm của họ luôn luôn đặt dưới sự bảo vệ đáng tin cậy của nhà nước và pháp luật XCN.
b. Đổi mới để Toà án phục vụ tốt hơn công cuộc đổi mới kinh tế
Cách tổ chức Toà án trong nhiều năm qua chứng mực nào đó là thích hơp với cơ chế tập trung, quan liêu, nay không còn phù hợp với tình hình mới nữa.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đang làm phát sinh nhiều quan hệ xã hội đòi hỏi có sự điều chỉnh của pháp luật. Các tranh chấp phát sinh từ những quan hệ này cũng ngày càng đa dạng về hình thức, phức tạp về nội dung và tính chất (tranh chấp phát sinh trong những lĩnh vực sở hữu, tổ chức và hoạt động của các công ty, xí nghiệp, thuế, lao động, đất đai, đầu tư...) Một số tranh chấp này ltrước đây nếu có thì thường được giải quyết bằng một trình tự tư pháp (thông qua các cơ quan tài phán - Toà án) để bảo đảm quyền lợi bình đẳng của các bên tham gia quan hệ tranh chấp, thực hiện bình đẳng trong phiên toà công khai và quyết định vấn đề bằng một bản án nhân danh nhà nước với tính cưỡng chế nghiêm khắc trong việc thi hành bản án đó.
Với cách tổ chức và hoạt động của Toà án như hiện nay (ảnh hưởng của việc điều hành bằng mệnh lệnh của cơ quan hành chính, thẩm quyền xét xử còn bị hạn hẹp, trình độ văn hoá còn yếu kém, phương tiện làm việc còn thiếu, nguyên tắc độc lập xét xử chưa thực sự được chấp hành đầy đủ...) thì Toà án chưa đảm đương được nhiệm vụ của cơ quan tài phán trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Do đó Toà án cần được đổi mới, một mặt giải quyết được các tranh chấp nảy sinh trong kinh tế và xã hội, mặt khác đảm bảo công lý và đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
c. Đổi mới Toà án nhằm củng cố pháp chế và trật tự pháp luật XHCN.
Những năm qua, như Đại hội Đảng toàn quốc lần VI và các văn kiện tiếp theo của Đảng đã chỉ rõ ràng các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm, pháp luật kỷ cương không nghiêm. Nhiều hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ, nhân viên nhà nước, bọn làm ăn phi pháp vẫn chưa được trừng trị thoả đáng và kịp thời. Tình trạng bao che, ô dù vẫn còn làm cho các cơ quan của pháp luật, đặc biệt là Toà án rất khó hoạt động. Thực trạng nói trên làm giảm lòng tin của quând chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của các cơ quan nhà nước. Trong vấn đề này Toà án có một phần trách nhiệm của mình.
Trước tình hình ngày càng có nhiều biến đổi về mọi mặt trong xã hội, đứng trước những tình mới, khó khăn mới, Toà án phải tự đổi mới mình, hoạt động với tinh thần dũng cảm và độc lập, đấu tranh kiên quyết với những hành vi chống lại chế độ XHCN, vi phạm quyền dân chủ của công dân, lấy lại lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước, vào Toà án. Đã đến lúc phải tính toán, thiết ké, tổ chức một hệ thống các Toà án sao cho các Toà án đó thực sự là công cụ sắc bén đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo vệ chế độ XHCN và bảo vệ quyền dân chủ của công dân, thực hiện được yêu cầu mà đại hội Đảng lần thư VI đã đề ra là pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật... mọi vi phạm điều phải được xử lý... Cấm bao che hành động phạm pháp và người phạm pháp dưới bất cứ hình thức nào.
III. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG.
1. Nhận xét chung.
Sau khi nhà nước ta ban hành bản Hiến pháp mới (1980) và Luật tổ chức Toà án nhân dân địa phương từng bước đã được đổi mới về tổ chức và hoạt động.
Đội ngũ cán bộ Toà án, đặc biệt là Thẩm phán đã được nâng cao về số lượng và chất lượng. Trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ của đôi ngũ này thường xuyên được rèn luyện, nâng cao. Có thể nói một trong những thành tích rõ nét trong 10 năm vừa qua là đã bồi dưỡng và đào tạo được một đội ngũ cán bộ Toà án được tiêu chuẩn hoá để tạo điều kiện cho việc hoàn thành nhiệm vụ được giao. Các Toà án có khối lượng công việc lớn đã từng bước được tăng cường thêm cán bộ góp phần giải quyết hiện tượng án tồn đọng trong nhiều năm. Việc tuyển chọn cán bộ để làm Thẩm phán qua các nhiệm kỳ đã có sự phối hợp ngày càng chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao và cấp uỷ địa phương nên đã thu được những kết quả nhất định. Việc quản lý công tác cán bộ của Toà án nhân dân địa phương cũng đã được cải tiến từng bước và bắt đầu sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại để quản lý, đã trang bị thâm một số phương tiện, cơ sở vật chất tối thiểu cho các Toà án địa phương hoạt động mặc dù tình hình chung còn rất nhiều khó khăn.
Chức danh chấp hành viên đã được chế định hoá cùng với việc bổ nhiệm được thực hiện chặt chẽ đã làm cho công tác thi hành án có nhiều chủn biến.
Cán bộ Toà án, chấp hành viên đã thường xuyen được bồi dưỡng và nâng cao kiến thức pháp lý và kiến thức trong các lĩnh vực khác dưới nhiều hình thức. Việc chấp hành các quy định pháp luật tố tụng đối với các Toà án nhân dân địa phương có tiến bộ và nghiêm chỉnh hơn.
Các cơ quan bổ trợ cho hoạt động xét xử như công chứng, giám định, luật sư đã được hình thành và từng bước hoạt động có kết quả, góp phần nâng cao chất lượng công tác xét xử của Toà án.
Bộ Luật hình sự, Bộ Luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh thi hành án dân sự và một số văn bản khác của nhà nước trong lĩnh vực tư pháp đã đưa hoạt động của Toà án vào nề nếp, quy củ và thống nhất.
Với tất cả những khó khăn và thuận lợi nói trên, các Toà án nhân dân đã có nhiều cố gắng, hướng nhiệm vụ chính trị của mình vào việc cố gắng làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và bộ máy nhà nước, làm sạch các quan hệ xã hội góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra, phục vụ lựi ích cho công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta.
Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của các Toà án trong những năm qua đã bộc lộ một số bất hợp lý ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của các Toà án. Một hai năm gần đây nền kinh tế đã chuyển hướng mạnh mẽ bộ lộ thêm ra những nhược điểm về tổ chức của Toà án. Dưới đây xin nêu một số điểm:
2. Những bất hợp lý trong tổ chức Toà án nhân dân cấp huyện.
Theo tinh thần của Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức Toà án nhân dân 1981, các Toà án được tổ chức theo nguyên tắc hai cấp xét xử (sơ thẩm, chung thẩm). Đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt cách thức tổ chức của cơ quan tài phán So sánh với cách thức tổ chức của các cơ quan hành chính.
Trên thực tế từ những năm 1960 đến nay các Toà án nhân dân địa phương (không kể các Toà án quân sự) đã được tổ chức ở tất cả các khu (trươcs 1976), tỉnh, thành phố trung ươg và ở tất cả các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, lấy địa dư của tỉnh, huyện để phân định thẩm quyền theo lãnh thổ của các Toà án cấp tỉnh và huyện. ĐIều đó đã tạo ra một sự ngộ nhận cho rằng các Toà án nhân dân từ trên xuống dưới cũng được tổ chức như một ngành, một bộ thuộc Hội đồn Bộ trưởng và là một trong những nguyên nhân làm cho nguyên tắc độc lập xét xử của Toà án không được tuân thủ nghiêm ngặt do những áp lực và tác động khác nhau mà bản thân cơ chế tổ chức do quan niệm chưa đúng tạo ra.
Riêng đối với Toà án nhân dân cấp huyện, sự bất hợp lý của cách thức tổ chức như hiện nay thể hiện rất rõ, cụ thể là:
-
Mỗi quận, huyện có những đặc điểm khác nhau về địa lý, dân cư, điều kiện kinh tế xã hội, tâm lý, truyền thống..., đồng thời tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm và các hoạt động tranh chấp cũng diễn biến khác nhau như Quận Hoàn kiếm Hà Nội có diện tích 4,25 km2 dân số trên 17 vạn người mà số án hàng năm phải xét xử thường là trên dưới 1000 vụ. Trong khi đó có nhiều huyện dân khá đông, diện tích rộng nhưng số lượng án phải xét xử hàng năm rất ít, xin đơn cử một số địa phương của cả ba niềm làm ví dụ:
STT
|
Năm 1988 (Số vụ)
|
Năm 1989 (Số vụ)
|
Tỉnh Quảng Ninh
- Bình Liêu
- Ba chẽ
|
29
11
|
9
17
|
Tỉnh Nghệ An
- Quỳ Châu
Tương Dương
|
20
24
|
21
19
|
Tỉnh Bình Định
- An Lão
- Vĩnh Thạch
|
14
21
|
10
15
|
Tỉnh Đăk Lăk
- Krôngnô
- MĐ Rắk
|
5
18
|
7
18
|
Tỉnh Sơn La
- Mường La
|
7
|
5
|
Tỉnh Long An
- Vĩnh Hưng
- Tân Thạch
|
9
27
|
28
20
|
Qua khảo sát 114 Toà án quận, huyện của 10 tỉnh trong cả ba niềm cho thấy số lượng các loại án xét xử năm 1989 của các Toà án huyện như sau:
-
Từ 5 vụ đến dưới 100 vụ có 62/114 huyện = 54,4%.
-
Từ 100 vụ đến dưới 200 vụ có 45/114 huyện = 39,5%.
-
Từ 200 vụ đến dưới 300 vụ có 4/114 huyện = 3,5%.
-
Từ 300 vụ trở có 3/114 huyện = 2,6%
Như vậy số Toà án cấp huyện 1 năm xét xử dưới 200 vụ chiến 89%.
Từ đó có thể rút ra một số điểm sau:
-
Cùng một điều kiện vật chất như nhau (trụ sở, phương tiện làm việc...) cùng với nột cơ cấu tổ chức như nhau (Chánh án, Thẩm phán, thư ký, chấp hành viên, văn thư...) nhưng số việc của các Toà án rất khác nhau (dĩ nhiên những Toà án nhiều việc có thể được tăng biên chế nhưng thủ tục tăng biên chế không thể đuổi kịp ty lệ tăng của số vụ án được) vì thế đã gây ra sự lãng phí về cơ sở vật chất và làm cho biên chế kồng kềnh không cần thiết. Có những Toà án huyện vì ít việc nên địa phương điều động cán bộ Toà án đi làm những công việc đột xuất.
-
Cơ sở vật chất vừa lãng phí, vừa không được tập trung thành ra có tình trạng thiếu đều mà mấy chục năm qua chúng ta chưa giải quyết được hết cho các Toà án, nhất là trong tình hình hiện nay thì càng gặp khó khăn. Do vậy các Toà án lụp sụp về trụ sở làm việc, phương tiên làm việc thiếu, ảnh hưởng không nhỏ đến sự tô nghiêm của cơ quan xét xử. (Qua khảo sát toàn quốc cho thấy 14/544 Toà án cấp huyện không có trụ sở làm việc, 46/544 không có phòng xét xử, 39/114 trụ sở làm việc phải sửa chữa lớn, 30/544 Toà án phải sửa chữa lớn phòng xét xử, 37/544 Toà án huyện không có máy chữ, 132/544 Toà án huyện máy chữ bị hỏng không dùng được, máy tăng âm và ghi âm hầu như không có).
-
Các tổ chức Toà án rải đều như vậy vừa langc phí cán bộ, vừa không tập trung được cán bộ giỏi vì họ bị phân tán, chất lượng xét xử không nâng được nhanh chóng. Đặc biệt ở vùng cao và vùng sâu vừa thiếu về số lượng nhưng lại rất yếu về chất lượng, trong khi nó vẫn phải rải đều cán bộ cho các Toà án.
Như vậy, điểm bất hợp lý lớn nhất về cách thức tổ chức hiện nay rơi vào các Toà án nhân dân cấp huyện.
3.
Những điểm bất hợp lý trong việc phân định thẩm quyền của Toà án nhân dân.
Theo quy định hiện nay của pháp luật, thẩm quyền xét xử của các Toà án nhân dân được thực hiện như sau:
a.
Toà án nhân dân cấp huyện.
-
Xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, HNGĐ (trừ các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp tỉnh). Theo thống kê, năm 1989 các Toà án nhân dân cấp huyện xử 9739 vụ án dân sự, 21.000 vụ án về HNGĐ chiếm tổng số 96,5% tổng số các vụ án sơ thẩm dân sự và HNGĐ.
-
Xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo Điều 145 Bộ Luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn. Theo thống kê năm 1989 các Toà án nhân dân cấp huyện xét xử 10.095 vụ trên 14943 vụ.
b.
Toà án nhân dân cấp tỉnh
-
Xét xử sơ thẩm các vụ dân sự, HNGĐ, tranh chấp lao động nhưng tỷ lệ không nhiều lắm. Theo thống kê năm 1989, các Toà án nhân dân xét xử sơ thẩm khoảng 3,5% (1075 vụ trên 31814 vụ) trong tổng số các vụ án dân sự.
-
Xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Theo thống kê năm 1989 các Toà án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm khoảng 33% tổng số các vụ án hình sự sơ thẩm và thường là các vụ án lớn nghiêm trọng và phức tạp (4848/14943 vụ).
-
Xét xử phúc thẩm về dân sự và hình sự. Theo thống kế năm 1989, các toà án nhân dân cấp tỉnh xử phúc thẩm các loại án là 5720 vụ, trong đó dân sự 2830 vụ và hình sự 2890 vụ.
Ở đây có thể rút ra 1 số nhận xét là số vụ án hình sự mà các TAND xét xử sơ thẩm gần gấp đôi số vụ án mà họ xử phúc thẩm (4848 vụ/2890 vụ). Như vậy, các TAND cấp tỉnh phải tập trung khá nhiều công sức vào việc xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự .
- X
ét xử theo trình tự giám đốc thẩm và tái thẩm.
c. Toà án nhân dân tối cao:
-
Sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án hình sự đặc biệt ngiêm trọng, phức tạp.
-
Xét xử phúc thẩm những bản án và quyết định sơ thẩm của TAND cấp tỉnh.
-
Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm các bản án và quyết định của toà án nhân dân cấp tỉnh đã có hiệu lực pháp luật. Theo thống kế 3 năm 1987,88,89 số lượng xét xử phúc thẩm và giám đốc thẩm của TANDTC về tất cả các loại án như sau:
Phúc thẩm Giám đốc
1987 2085 vụ 255 vụ
1988 2558 vụ 231 vụ
1989 3143 vụ 343 vụ
Qua các con số trên có thể rút ra nhận xét là:
-
Số lượng án mà TANDTC xét xử ngày càng tăng lên.
-
TANDTC tập trung khá nhiều vào xét xử phúc thẩm. Vì số lượng án phúc thẩm đã xử gấp 10 lần số lượng án giám đốc thẩm. ĐIều này cũng phản ánh qua bố trí lực lượng thẩm phán của TANDTC. Trong số 60 Thẩm phán TANDTC (kể cả chánh phó án) thì đã bố trí 30 toà án ở 3 toà phúc thẩm. Còn ở toà hình sự có 5, toà dân sự có 7 Thẩm phán. Qua nghiên cứu thẩm quyền xét xử của các TAND cấp huyện, tỉnh và TANDTC, chúng tôi thấy 1 số điểm bất hợp lý sau:
-
Toà án nhân dân cấp tỉnh theo chức năng đáng lẽ phải xét xử phúc thẩm là chủ yếu thì hiện nay đang phải xét xử sơ thẩm 1 số khối lượng không nhỏ các vụ án hình sự .
-
Do TAND cấp tỉnh phải xét xử sơ thẩm nhiều nên buộc TANDTC phải tập trung rất nhiều vào xét xử phúc thâm, mà lẽ ra TANDTC cần tập trung vào chủ yếu của mình là hướng dẫn các toà án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật và đường lối xét xử, giám đốc việc xét xử của các tòa án đó và tổng kết kinh nghiệm xét xử (điều 20 Luật tổ chức toà án nhân dân).
Vì vậy, cần thiết phải phân định lại thẩm quyền xét xử của TAND các cấp tạo điều kiện tối ưu để các toà án thực hiện nhiệm vụ theo thẩm quyền của mình.
4- Về chế độ tuyên cử Thẩm phán.
Theo hiến pháp 1959, 1980 về Luật tố tụng TAND thì ở nước ta thực hiện chế độ Thẩm phán bầu ở toà án nhân dân các cấp.
Chế độ Thẩm phán bầu với tất cả những ưu việt của bản thân nó đã góp phần nâng cao tính chất dân chủ, bảo đảm sự tham gia của quần chúng lao động vào công tác xét xử.
Nhưng gần 30 năm qua, việc thực hiện chế độ Thẩm phán bầu đã bộc lộ 1 số điểm sau:
-
Thẩm phán toà án nhân dân cấp tỉnh, huyện được HĐND cùng cấp bầu ra tại kỳ họp của mình nhưng trên thực tế, các đại biểu rất ít hoặc hầu như không biết kỹ về những người được bầu làm Thẩm phán (kể cả hội thẩm nhân dân). Chương trình nghị sự họp HĐND lại rất nhiều vấn đề nên không thể xem xét kỹ và dành thời gian thích đáng cho việc bầu này. Do đó không thể tránh khỏi hình thức, có những người thiếu chuyên môn vẫn được bầu làm Thẩm phán.
-
Với nhiệm kỳ trước đây là 2,4 năm nay là 5 năm, người Thẩm phán chưa thật sự yên tâm công tác họ thưòng lo sao cho nhiệm kỳ tiếp theo được bầu lại. Chính điểm này đã ảnh hưỏng đến không nhỏ việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của họ: Họ sẽ chấp nhận những áp lực, những tác động của 1 số người lãnh đạo địa phương, của người có chức có quyền vào việc giải quyết vụ án. Bởi vì người có dũng khí nghề nghiệp, dám đấu tranh cho sự thật rất có thể bị trù dập, bị chuyển công tác như thực tế đã xảy ra.
Trước 1960, nhà nước ta có quy định cụ thể về tiêu đề Thẩm phán. Nhưng từ năm 1960 đến những năm gần đây không có quy định về vấn đề này (mới đây năm 1989 Bộ tư pháp mới hưóng dẫn tiêu chuẩn để bầu làm Thẩm phán và đã có những kết quả nhất định của các TAND địa phương). Chính thiếu sự hưóng dẫn tiêu chuẩn Thẩm phán nên nhiều năm qua chúng ta chưa xây dựng một đội ngũ xét xử đủ manh như mong muốn. Nhiều cán bộ trái ngành, không có chuyên môn vẫn ngồi xử nhiều năm. ĐIều đó làm cho họ khó độc lập khi xét xử vì không có năng lực chuyên môn và bản lĩnh nghề nghiệp.
Ở đây cần lưu ý 1 số điểm là chế độ bầu cử Thẩm phán ở các cấp toà án khác nhau cũng thực hiện khác nhau:
-
Chánh án toà án nhân dân tối cao do quốc hội bầu
- C
ác phó chánh án TANDTC, Thẩm phán TANDTC, Thẩm phán toà án quân sự, hội thẩm nhân dân TANDTC do HĐNN cử.
5.
Về chế định hội thẩm nhân dân .
Hiến pháp và Luật tổ chức TAND đều ghi nhận nguyên tắc việc xét xử do toà án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia, theo quy định của pháp luật. Khi xét xử hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán .
Hội thẩm nhân dân là: Một chế định pháp luật dân chủ, chế định này làm cho mọi công dân có thể tham gia vào hoạt động của toà án như Lênin đã nói.
Thực tế mấy chục năm qua, chế định hội thẩm nhân dân đã phát huy tác dụng của mình, góp phần tích cực vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của toà án.
Nhưng việc thực hiện chế định hội thẩm nhân dân đã bộc lộ những điểm sau:
-
Nhiều người (kể cả Thẩm phán) coi sự tham gia của HTND vào xét xử tại phiên toà chỉ là hình thức, cho đủ lệ bộ, coi hoạt động của HĐND như bánh xe phụ. Điều này được thể hiện ngay cả khi người được lựa chọn để bầu ra làm hội thẩm chưa quy định nên bầu nhiều. Nhiều nhiệm kỳ toà án có 1 số lượng HTND khá đông nhưng chất lượng còn thấp. Từ đó dẫn đến tình trạng vừa thừa vừa thiếu HTND, có HTND cả nhiệm kỳ do bận việc mà không đến toà án. Trong khi đó có HTND 1 tháng ngồi xử từ 8-10 vụ, cá biệt có người 1 ngày xử tới 3 vụ.
-
Về phía HTND, ngoài những vị tích cực và ngiêm túc vẫn còn những vị làm việc hời hợt, có tư tửơng ỷ lại Thẩm phán, nghiên cứu hồ sơ qua loa... mà không thấy hết được trách nhiệm của mình là 1 thành viên chính thức của HĐXX với 1 lá phiếu quyết định cho bản án.
-
Ngoài ra cũng có những HTND ngại đấu tranh, né tránh hoặc ngược lại, quay ra đối trọng ý kiến với Thẩm phán chuyên môn, gây khó khăn cho Thẩm phán chủ toạ phiên toà.
-
Một nhược điểm không nhỏ nữa là chúng ta chưa có tổng kết lớn về công tác HTND để tiến tới sửa đổi, bổ sung ý kiến này cho phù hợp.
Trong tình hình mới, cần có nghiên cứu phân tích rất cơ bản về thực trạng của chế định HTND và đề ra cũng kiến nghị đổi mới thiết thực, nhằm làm cho HTND tham gia thực sự vào việc xét xử các vụ án, có năng lực và bản lĩnh độc lập, góp phần làm cho toà án ra được những quyết định đúng đắn.
6. Về quan hệ giữa các cấp toà án, chế độ chỉnh thị án và duyệt án.
Như đã phân tích ở trên, các toà án nhân dân thực hiện chế độ 2 cấp xét xử, quan hệ giữa các cấp toà án là quan hệ tố tụng, không thể có quan hệ hành chính - mệnh lệnh giữa các cấp toà án đó với nhau.
Theo Luật định thì TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất (chứ không phải là cơ quan quản lý như 1 bộ) và các toà án quân sự áp dụng thống nhất pháp luật và đưong lối xét xử, giám đốc việc xét xử các toà án đó và tổng kết king nghiệm xét xử .
Khái niệm hưóng dẫn áp dụng pháp luật và đường lối xét xử ở đây cần được hiểu như sau:
-
TANDTC không dùng phương pháp mệnh lệnh hành chính buộc toà án cấp dưới phải xử theo một tội danh hay xử theo 1 bên nguyên hoặc bên bị được hưỏng 1 lợi ích nào đó trong vụ kiện dân sự .
-
TANDTC bằng công tác giám đốc thẩm sẽ ra quyết định giám đốc thẩm và từng vụ án cụ thể, thông qua đó mà hưóng dẫn các toà án nhân dân cấp dưới và đường lối xét xử.
-
TANDTC tổng kết kinh nghiệm xét xử từng loại án theo từng chuyên đề, thông qua đó bồi dưõng nâng cao trình độ cho Thẩm phán các TAND địa phương.
-
TANDTC không quản lý các TAND địa phương về tổ chức, hành chính và cũng không quản lý công tác xét xử .
-
TAND chỉ hứơng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật chứ không giải thích thêm chính thức như HĐNN.
-
Quan hệ giữa các cấp toà án trước hết và chủ yếu là quan hệ tố tụng theo các cấp xét xử. Đây là điểm rất quan trọng phân biệt cơ quan tài pán với cơ quan hành chính .
Nhưng thực tế mấy chục năm qua, do những hoàn cảnh lịch sử nhất định, TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất nhưng đã phải thực hiện những chức năng và nhiệm vụ vốn không phải là của mình, quản lý các toà án địa phương về tổ chức, ra thông tư hưóng dẫn áp dụng pháp luật và do có lúc coi chế độ thỉnh thị án như là 1 lề lối bắt buộc. Đây là 1 trong những yếu tố quan trọng dẫn đến việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử kém hiệu quả.
Riêng về chế độ thỉnh thị án. Tạp chí pháp chế XHCN 88,89 đã lần lượt công bố ý kiến của nhiều cán bộ thực tiễn- khoa học là qua khảo sát thì thấy phần lớn các toà án địa phương đều nhất trí với 1 số quan điểm sau:
+
Thỉnh thị án là cần thiết trong giai đoạn hệ thống các toà án chưa mạnh, đội ngũ Thẩm phán còn kém về mọi mặt, trình độ chưa đủ.
+
Nhưng thỉnh thị án cũng dẫn đến nhiều hậu quả chưa tốt đó là:
-
Vi phạm nguyên tắc độc lập xét xử của toà án và HTND.
- T
ạo ra sự ỷ lại, thái độ kém đấu tranh của người Thẩm phán, phát sinh thói quen tư duy hộ, không dám chịu trách nhiệm của họ.
-
Vô hiệu hoá hoạt động điều tra, kiểm soát, Luật sư.
-
Vi phạm nguyên tắc quyền bào chữa, nguyên tắc tự do tranh luận trước toà của bị cáo.
-
Gây ra thói bao biện của toà án nhân dân cấp trên đối với TAND cấp dưới, có khi cấp trên thấy bản án sai nhưng không sửa vì chính mình đã cho ý kiến chinh thị.
-
Toà án nhân dân cấp trên mất nhiều thời gian xử trứoc và xử hộ cấp dưới. Cấp dưới thì đi lại vất vả tốn kém mất thời gian.
-
Đôi khi do tiết lộ ý kiến thỉnh thị đã gây ra mất đoàn kết nội bộ, gây ra tội hối lộ và các hậu quả tiêu cực khác.
Thời gian gần đây, TANDTC đã nói rõ là: TANDTC từ lâu đã không quy định là TAND địa phương phải thỉnh thị bất cứ loại án nào, nhưng nếu toà án địa phương trong quá trình xét xử 1 vụ án, nếu có khó khăn, vướng mắc cần xin ý kiến hướng dẫn của TANDTC thì TANDTC vẫn phải đáp ứng yêu cầu đó, của toà án địa phương. Cố nhiên, sự hưóng dẫn khong mang tính chất áp đặt, không làm mất tính chủ động, độc lập của HĐXX... (kết luận của chánh án TANDTC tái hội nghị tổng kết công tác ngành toà án năm 1988).
Thực tế cho đến nay, việc thỉnh thị án đã giảm nhiều nhưng có những nơi, những lúc còn tồn tại khá nặng nề, cần có những biện pháp đồng bộ để khắc phục tình trạng này.
Về chế độ duyệt án (hay được gọi là bản án)
Nếu như chế độ thỉnh thị án là 1 lề lối làm việc phát sinh giữa TAND cấp trên và TAND cấp dưới thì chế độ duyệt án là 1 lề lối làm việc phát sinh trong quan hệ tập thể lao động một toà án với cá nhân người Thẩm phán được phân công xét xử vụ án cụ thể.
Cũng như việc thỉnh thị án, duyệt án đã tồn tại từ lâu trong mỗi toà án tỉnh, huyện. Nguyên nhân tồn tại của nó về khách quan và chủ quan cũng gần giống của chế độ thỉnh thị và hậu quả cũng tương tự như vây.
Ngoài ra có 1 số nguyên nhân khác cũng rất quan trọng là 1 số Thẩm phán đã hiểu không đúng tinh thần và nội dung của điều 131 Hiến pháp 1980 và điều 6 Luật tổ chức TAND năm 1981 khi xét xử Thẩm phán nhân dân và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Vậy hiểu không đúng ở điểm nào.
Những Thẩm phán nói trên cho rằng chỉ khi xét xử tức là trước phiên toà công khai thì Thẩm phán và hội thẩm nhân dân mới đươc độc lập, còn ở các khau khác thì pháp luật không được đề cập đến. Cộng vào đó họ hiểu sai cả nguyên tắc toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số (điều 132 Hiến pháp 1980, điều 7Luật tổ chức TAND 1981) nên cho rằng quyết định của ban duyệt án là quyết định theo đa số, Thẩm phán ra phiên toà chỉ là thể hiện kết quả của ban duyệt án. Chính vì nhận thức như vậy, nên chế độ duyệt án vẫn còn nặng nề, không kém chế độ thỉnh thị án.
Với những điểm đã phân tích ở trên, chúng tôi thấy cần bỏ càng sớm càng tốt chế độ thỉnh thị án và duyệt án.
7- Những vấn đề trong công tác quản lý của TAND địa phương về mặt tổ chức.
Từ năm 1945, khi mới thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, theo sắc lệnh số 13 (1946) của chủ tịch nước, các toà án sơ cấp, đệ nhị cấp, toà thượng thẩm đã được thành lập và đều được đặt dưới sự quản lý của Bộ tư pháp .
Đầu những năm 60, do điều kiện cụ thể Bộ tư pháp giải thể, công việc quản lý TAND địa phương giao cho TAND tối cao.
Năm 1981, quốc hội đã quyết định thành lập Bộ tư pháp .
Trong tờ trình trước UBTV Quốc hội, HĐBT đã nêu rõ: "...Thực tiễn 20 năm qua chứng minh rõ việc hội đồng chính phủ, cơ quan chấp hành nhà nước cao nhất, cơ quan quản lý toàn diện công việc của nhà nước không có Bộ tư pháp là điều rất không hợp lý, TANDTC với tư cách là toà án, 1 cơ quan xét xử của HIến pháp lại được giao chức năng, nhiệm vụ của Bộ của chính phủ mà theo pháp luật lại không chịu trách nhiệm trước chính phủ (chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội), trong khi đó thì Hội đồng chính phủ không nắm được tình hình thi hành pháp luật, không gắn được việc chấp hành pháp luật trong việc xét xử với việc điều hành công việc chung của chính phủ, từ đó không chỉ đạo được hoạt động đấu tranh chống tội phạm loại trừ các nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm và các hành vi phạm pháp khác".
Tình hình này kéo dài sẽ có hậu quả không tốt. HĐ chính phủ phải là người quản lý toàn diện mọi hoạt động của đời sống xã hội kể cả quản lý tư pháp. Hội đồng chính phủ phải có Bộ tư pháp để giúp cho Hội đồng chính phủ thống nhất quản lý công tác tư pháp .
Theo Luật tổ chức TAND (Điều 16) và nghị định 143/HĐBT ngày 22-11-1981 về chức năng, nhiệm vụ của Bộ tư pháp thì Việc quản lý các toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ tư pháp đảm nhiệm. Trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Bộ trưởng Bộ tư pháp phối hợp chặt chẽ với chánh án TANDTC .
Trong gần 10 năm qua, Bộ tư pháp đã có những cố gắng nhất định trong việc quản lý các toà án nhân dân địa phương về nhiều mặt. Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ cho các toà án được tập trung cao độ và đạt được những kết quả nhất định. Trình độ Thẩm phán được nâng lên rõ rệt, có thể nêu lên 1 vài số liệu về trình độ chuyên môn pháp luật của Thẩm phán toà án nhân dân địa phương như sau:
a.
Thẩm phán toà án nhân dân cấp tỉnh.
|
Đại học pháp luật và tương đương
|
Trung học pháp luật
|
Sơ cấp pháp luật và chưa hoc pháp luật
|
năm 1985
|
24%
|
38%
|
38%
|
năm 1990
|
86,5%
|
9%
|
4,5%
|
Như vậy số Thẩm phán tỉnh có trình độ ĐHPL năm 1990 tăng 3,6 lần với năm 1985.
b. Thẩm phán TAND cấp huyện:
|
ĐHPL và tương đưong
|
Trung học pháp lý
|
Sơ cấp Pháp luật và chưa học
|
1984
|
13%
|
42%
|
45%
|
1990
|
41,5%
|
39,5%
|
19%
|
Như vậy số Thẩm phán huyện có trình độ ĐHPL năm 1990 tăng 3,1 lần với 1984.
Công tác bầu cử Thẩm phán các toà án nhân dân địa phương trong những nhiệm kỳ vừa qua đã được Bộ tư pháp chỉ đạo chăt chẽ, nhiệm kỳ 1989-1994 của TAND địa phương đã có sự thay đổi về tiêu chuẩn hoá Thẩm phán và việc bầu cử Thẩm phán đã đạt những kết quả rõ rệt như đã nếu trên.
Công tác thi hành án, chế độ chấp hành viên đã được kiện toàn 1 bước quan trọng hoạt động thi hành án đang dần đi vào nền nếp. Chấp hành viên đã được bổ nhiệm với số lượng nhất định, đã có sắc phục riêng và hoạt động bước đầu đã có hiệu quả.
Cơ sở vật chất cho các TAND địa phương và chế độ chính sách cho các toà án đã được quan tâm đặc biệt. Mặc dù trong tình hình cực kỳ khó khăn, cơ sở vật chất của các TAND địa phương đã nghèo lại phân tán nhưng Bộ tư pháp đã cố gắng tìm mọi biện pháp để từng bước tăng cường cơ sở vật chất cho các TAND địa phương. Đồng thời kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm của Đảng và nhà nước giải quyết chế độ cho cán bộ toà án, Hội thẩm nhân dân để góp phần từng bước nâng cao đời sống của cán bộ toà án.
Tuy nhiên, công tác quản lý các toà án nhân dân địa phương còn 1 số vướng mắc cần giải quyết .
-
Luật quy định Bộ trưởng Bộ tư pháp phối hợp với chánh án TANDTC trong việc quản lý các toà án nhân dân địa phương về tổ chưc nhưng cho đến nay quy chế phối hợp chưa được ban hành. ĐIều đó làm cho việc quản lý các ngân sách TAND địa phương hiện nay chưa tập trung và thống nhất ở Bộ tư pháp nên các TAND địa phương gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, ảnh hưỏng không nhỏ đến hoạt động xét xử .
8. Về mối quan hệ giữa toà án và các cơ quan Đảng và chính quyền ở địa phương.
a. a.
Về sự lãnh đạo của Đảng với toà án.
Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1980: Đảng cộng sản Việt Nam đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam được vũ trang bằng học thuyết mac lênin là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước lãnh đạo xã hội .
Vậy đôi với toà án thì sự lãnh đạo của Đảng để Đảng không bao biện và làm thay toà án.
Trước mắt cần ngiêm khắc phê phán quan niệm giản đơn cho rằng toà án độc lập với sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời cũng phải phê phán hiện tưọng trong thực tế đã xảy ra là có nhiều Thẩm phán vì động cơ không đung nên đối với 1 số vụ án nhất định, khi cấp uỷ cho ý kiến chưa sát thậm chí sai (có thể la do nghe trình bày chưa hết hoặc người trình bày nói không rõ, chứng cứ vụ án lại yếu nhưng vẫn báo cáo cấp uỷ để xử mà không trình bày lại, không báo cáo lại cho rõ. Như vậy các Thẩm phán đó biết sai mà vẫn xử theo hưóng sai. Đây là thái độ thiếu trách nhiệm của Thẩm phán, thái độ đó cần phải được phê phán ngiêm khắc và ngăn chặn để không tiếp tục diễn ra trên thực tế, để không làm tổn hại đến uy tín của cơ quan Đảng và toà án, đồng thời bảo đảm pháp chế và công minh trong xét xử .
Theo Lênin thì toà án là 1 cơ quan của nhà nước, hoạt động của toà án là 1 hoạt động của nhà nước. ĐảNg cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước. Do vậy sự lãnh đạo của Đảng đối với toà án là vấn đề không phải tranh luận.
Đảng lãnh đao toà án là để cho toà án thực hiện có hiệu quả nhất nhiệm vụ chính trị trọng tâm của mình là xét xử. Cần phân biệt sự lãnh đạo của Đảng với việc làm thay toà án, can thiệp vào việc giải quyết các vụ án cụ thể như mức hình phạt, bồi thưòng, án treo...
(Lênin toàn tập; tập 4 tr.120 - tiếng nga).
Trong tình hình hiện nay đối với 1 số vụ án. Toà án cần báo cáo cấp uỷ, xin ý kiến về đường lối xét xử cho phù hơp với yêu cầu của Đảng trong mỗi giai đoạn để tránh được những sai sót đáng tiếc và những hậu quả xấu sau khi xét xử. ĐÃ là những vụ án quan trọng, phức tạp mà việc xét xử có liên quan hay ảnh hưỏng trực tiếp đến tình hình chính trị ở địa phương (bị cáo là người đứng đầu hay là người có uy tín trong các tổ chức tôn giáo, có uy tín trong dân tộc thiểu số). hoặc là những vụ án phức tạp mà các cơ quan công an, kiểm soát, toà án không thống nhất về đưòng lối giải quyết .
Vấn đề xin ý kiến về đường lối xét xử trên đây khác với việc 1 vài người có chức vụ trong Đảng nhân danh cấp uỷ can thiệp quá sâu, thậm chí thô bạo vào việc xét xử vào vụ án cụ thể nhằm hướng phiên toà có lợi cho cá nhân mình mà bât chấp pháp luật. Lênin đã từng nói sẽ khai trừ ra khỏi Đảng những ai có chút mưu toan tác động đến toà án làm giảm nhẹ trách nhiệm của Đảng viên cộng sản.
Đảng lãnh đạo toà án không chỉ bằng đường lối xét xử mà còn việc chăm lo, lựa chọn, đào tạo và bồi dưõng đội ngũ cán bộ toà án, trước hết là Thẩm phán, xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh trong các toà án, kiểm tra các đảng viên làm việc trong toà án, làm cho toà án phối hợp chặt chẽ với cơ quan nhà nước, trước hết là các cơ quan bảo vệ pháp luật, và các tổ chức đoàn thể xã hội khác trong hoạt động của toà án. Đương nhiên các cấp uỷ Đảng cũng cần được bồi dưõng và nâng cao kiến thức pháp lý cần thiết thì sự lãnh đạo với cơ quan pháp luật sẽ tốt hơn.
Các quan niệm nói trên về sự lãnh đaọ của đảng với toà án cần được thống nhất trong thực tiễn nhận thức và hoạt động của tất cả các cán bộ toà án.
b. Về quan hệ giữa toà án và cơ quan chính quyền địa phương.
ĐIều 19 Luật tổ chức TAND quy định các toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo trước HĐND các cấp.
Thực tế, trong những năm qua không chỉ có 1 số người nhân danh cấp uỷ mà còn có cả những người nhân danh chính quyền mà can thiệp vào công việc xét xử. Những người này ít nhiều gây sức ép cho Thẩm phán và hội thẩm nhân dân và họ đã thực hiện những ý đồ của mình do những nguyên nhân sau:
-
Thẩm phán kể cả Chánh phó án do HĐND cùng cấp bầu ra và bãi miễn. Do đó những người có chức quyền này dễ gây sức ép về tâm lý với họ. Thẩm phán lo nhiệm kỳ tiếp theo không được tái cử nên đã phải nghe theo ý kiến của cá nhân người can thiệp vào vụ án.
-
Phần lớn những người có quyền lợi, sự đãi ngộ về vật chất với Thẩm phán (nhà ở, nâng lương, các chế độ ưu đãi nếu có...) trên thực tế chủ yếu do chính quyền địa phương giải quyết. Do vậy, nếu người Thẩm phán dám đấu tranh bảo vệ sự thật, chống lại sự can thiệp từ 1 số người có chức có quyền ở địa phương rất có thể bị thiệt thòi những quyền lợi nói trên.
-
Cơ sở vật chất và trang bị cho toà án cũng chủ yếu do chính quyền địa phương giải quyết, do vậy một khi chính quyền địa phương đã có ý kiến, nếu toà án khước từ thì chắc chắn vấn đề tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho toà án sẽ gặp nhiều khó khăn.
-
Do vậy, cần thiết phải có những quy định pháp luật về quan hệ giữa toà án với cơ quan chính quyền, địa phương để góp phần làm cho toà án thực hiện tốt nguyên tắc độc lập xét xử .
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ
1.
Thành lập các toà án sơ thẩm khu vực, và mở rộng thẩm quyền cho toà án nhân dân cấp huyện.
Như đã phân tích ở trên, việc bố trí rải đều 544 toà án huyện ở 544 huyện, quận, thị xã trong cả nước gây ra những lãng phí về cán bộ cơ sở vật chất, cồng kềnh về bộ máy, khả năng thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử bị hạn chế.
Do đó chúng tôi đề nghị: Đối với các toà án nhân dân cấp huyện căn cứ vào địa bàn dân cư, giao thông, số lượng các vụ án trong 1 năm phải xét xử của mỗi toà án cóthể lập các toà án sơ thẩm khu vực (gọi tắt là toà án khu vực). Toà án khu vực ngang thẩm quyền xét xử với TAND cấp huyện (thẩm quyền về việc), và hoạt động trên địa bàn 2 hay nhiều huyện (thẩm quyền hoạt động rộng hơn toà án nhân dân cấp huyện).
Toà án khu vực có thể được thành lập trên cơ sở lấy số lượng vụ án xét xử hàng năm làm tiêu chuẩn chính, kết hợp với các yếu tố địa bàn dân cư, giao thông... Do vậy 1 toà án khu vực có thể được lập ra trên cơ sở sát nhập 1 hay nhiều TAND cấp huyện với mức xét xử dưới 200 vụ án/ năm để làm thế nào 1 toà án khu vực xét xử hàng năm khoảng 3-400 vụ (là mức không thấp và cũng không quá cao đối với 1 toà án huyện hiện nay).
Việc lập các toà án khu vực có lợi thế là:
-
Làm cho bộ máy toà án nhân dân cấp huyện gọn nhẹ, phát huy hết khả năng làm việc của Thẩm phán.
-
Khi sát nhập các TAND huyện lại thì tiết kiệm được cơ sở vật chất, phương tiện làm việc. Thẩm phán giỏi cũng được tập trung về 1 nơi không còn bị phân tán lực lượng như trước nũa.
-
TAND sơ thẩm đỡ phụ thuộc hơn vào địa phương do đó sẽ độc lập hơn khi xét xử .
Qua khảo sát ở 1 tỉnh miền núi Tây nguyên là Đắk Lắk chúng tôi xin thuyết minh những căn cứ thực tiễn thành lập các toà án ở khu vực.
ĐắK a¨ks¨
Lắk hiện có 17 toà án nhân dân cấp huyện. Theo các điều kiện điạ bàn, dân cư, giao thông, số vụ án phải xét xử trong 1 năm (lấy số lượng vụ án phải xử trong 1 năm) 1989 làm chuẩn... có thể lập ra 5 toà án khu vực. Việc thành lập ra 5 toà án khu vực có lợi là:
-
Tiết kiệm được gần 30 biên chế.
-
Tiết kiệm được gần 12 trụ sở với phương tiện làm việc của 12 toà án.
-
Bớt được các chức danh quản lý (chánh, phó án)
-
Tập trung được Thẩm phán giỏi về các toà án khu vực.
Nhưng việc thành lập toà án sơ thẩm khu vực cũng có những điểm cần phải tính đến và có giải pháp từng bước cụ thể là:
-
Thưòng những huyện ở vùng núi, vùng sâu thì cần lâp toà án khu vực, nhưng vì địa bàn rộng nên khả năng giao thông khó khăn. Qua khảo sát ở 1 huyện miền núi cho thấy cách giải quyết khó khăn này như sau: Trang bị cho mỗi toà án sơ thẩm khu vực 1 xe con loai tốt để xử lưu động. Vừa bảo đảm cho nhân dân đỡ phải đi lại, vừa làm cho nhân dân đỡ được nhiều hơn với toà án, thông qua các phiên toà đó mà giáo dục nhân dân. ĐÃ là hiêu quả trực tiếp của công tác xét xử .
-
Khi lập các toà án khu vực thì biên chế dư ra 1 số lượng nhất định. Cách giải quyết có thể tiến hành như sau: Những ai có khả năng công tác thì cho đi học, những người không có nguyện vọng học tiếp thì giải quyết chế độ cho họ hoặc thuyên chuyển công tác.
-
Về quan hệ giữa toà án khu vực với cơ quan điều tra và Viện KIểm sát ở huyện; Việc thành lập toà án khu vực không ảnh hưỏng đến cơ quan điều tra và Viện KIểm sát bởi lẽ 1 toà án khu vực có hoạt động trên địa bàn nhiều huyện. Cơ quan điều tra của mỗi huyện khi kết thúc điều tra là chuyển vụ án cho Viện KIểm sát huyện đó. Viện KIểm sát mỗi huyện sau khi làm cáo trạng thì sẽ truy tố bị can ra toà án khu vực và duy trì công tố tại toà án khu vực đó.
2.
Đối với chế độ tuyển cử Thẩm phán .
Để có 1 đội ngũ xét xử vững vàng về chính trị, có phẩm chất tốt, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi và có bản lĩnh nghề nghiệp, cần có 1 cách thúc đào tạo, lựa chọn và tuyển cử đặc biệt .
a. Về tiêu chuẩn hoá Thẩm phán :
Trước hết cần có những quy định chính thức về tiêu chuẩn hoá cán bộ được bầu làm Thẩm phán. Theo chúng tôi những tiêu chuẩn chủ yếu là:
-
Có trình độ chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt.
-
Đã tốt nghiệp Đại học pháp lý .
-
Trước khi được lựa chọn vào danh sách Thẩm phán cần phải qua 1 kỳ thi do hội đồng thi quốc gia tổ chức. Bộ tư pháp trù trì hội đồng thi quốc gia. Hội đồng sẽ gồm những Thẩm phán giỏi, công tác lâu năm trong toà án và các nhà quản lý kinh qua công tác toà án và 1 số nhà khoa học chuyên ngành tư pháp .
Những tiêu chuẩn nói trên cần được áp dụng cho tất cả các toà án địa phương (kể các toà án quân sự quân khu hay khu vực).
b
. cách thức tuyển cử:
Về vấn đề này có 2 ý kiến khác nhau:
-
Ý kiến thứ nhất cho rằng nên giữ lại chế độ tư pháp bầu như hiện nay và chỉ cần đổi mới cách thức bầu cử để việc bầu cử Thẩm phán tránh được những hình thức và có tác dụng tích cực. Như thế sẽ không dẫn đến sự xáo trộn về ổ chức và sự thay đổi của pháp luật, đồng thời vẫn tạo điều kiện cho cơ quan quyền lực địa phương giám sát hoạt động của Tà án.
-
Loại ý kiến thứ 2 cho rằng cần từng buớc thay thế chế độ Thẩm phán bầu bằng chế độ Thẩm phán bổ nhiệm như ở nhiều nước đã áp dụng (Qua nghiên cứu 58 nước trên thế giới thấy có 53/58 nước thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán .
Qua nghiên cứu khảo sát, chúng tôi nghiêng về loại ý kiến thứ 2 vì:
+
Bổ nhiệm sẽ chọn được những người thực sự đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán .
+
Thẩm phán được bổ nhiệm với 1 nhiệm kỳ dài (từ 10 năm trở lên) sẽ yên tâm công tác không phải lo lắng trước môĩ kỳ bầu.
+
Thẩm phán được bổ nhiệm sẽ độc lập hơn vì họ không bị rơi vào sự chi phối của cơ quan địa phương, của 1 số ít người có chức có quyền can thiệp vào việc cụ thể của toà án. Cách thức bổ nhiệm do đó tạo nên cho Thẩm phán có bản lĩnh hơn.
+
Bổ nhiệm Thẩm phán sẽ kịp thời khắc phục được những trường hợp án tồn đọng do khuyết Thẩm phán, do quá nhiều mà Thẩm phán lại quá ít, do thành lập TANd mới mà chưa kịp họp HĐND để bầu... góp phần thực hiện đúng những quy định về thời hạn xét xử trong pháp luật tố tụng. Đẩi với những trường hợp bãi miễn Thẩm phán có thể làm mà không chờ đến kỳ họp của HĐND.
Chấp nhận ý kiến thứ 2 tức là phải giải quyết được 2 vấn đề .
Thứ nhất: trình độ Thẩm phán của TAND địa phương đã được nâng lên rất nhiều, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu chung hiện nay. Nếu thực hiện chế độ bổ nhiệm thì trước hết sẽ có khó khăn trước mắt về cán bộ, nhất là ở vùng cao và vùng sâu. Để khắc phục điểm này Bộ tư pháp cần sớm có kế hoạch củng cố và đổi mới chương trình, giáo trình, cách giảng dạy của khoa đào tạo cán bộ toà án trường Đại hoc pháp lý Hà nội và bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ toà án. Tiến tới lập 1 trường bồi dưỡng Thẩm phán cho Bộ tư pháp .
Thứ hai: Chế độ Thẩm phán bổ nhiệm và vấn đề dân chủ trong tổ chức và hoạt động của toà án.
Thực tế cho thấy trước 1960, nước ta đã áp dụng chế độ Thẩm phán bổ nhiệm. Hiện nay, Thẩm phán toà án nhân dân tối cao và các Thẩm phán toà án Quân sự cũng đang vào chế độ bổ nhiệm.
Tính chất dân chủ của toà án xét cho đến cùng được thể hiện ở chỗ toà án xét xử công minh, đúng pháp luật trên cơ sở thực hiện 1 loạt nguyên tắc dân chủ trong tố tụng mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định. Vì vậy, nếu chế độ Thẩm phán bổ nhiệm loại bỏ được những yếu tố hình thức của chế độ bầu cử trong mấy chục năm qua và làm cho Thẩm phán độc lập hơn thì vẫn có ý nghĩa thiết thực hơn là việc bầu và hình thức. Một kiểu làm dân chủ hình thức thì không thể có hiệu quả được.
Như vậy, việc bổ nhiệm Thẩm phán không phải là thu hẹp trong tổ chức và hoạt động của toà án. Hơn nữa chế độ bổ nhiệm chỉ áp dụng đối với Thẩm phán TAND địa phương chứ không áp dụng với hội thẩm nhân dân TAND địa phương.
Qua khảo sát và hỏi ý kiến ở nhiều địa phương kể cả Thẩm phán và cán bộ toà án khác, chúng tôi thấy có 89% số người được hỏi đều nhất trí chế độ Thẩm phán bổ nhiệm.
Nếu chấp nhận chế độ Thẩm phán bổ nhiệm, chúng tôi đề nghị đi những bước sau.
1. Trong những năm trước mắt cần sửa đổi Luật theo tinh thần tiếp tục kết hợp bầu và bổ nhiệm Thẩm phán như hiện nay nhưng thu hẹp diện bầu lại:
-
Chánh án TANDTC do quốc hội bầu (như hiện nay) theo nhiệm kỳ quốc hội.
-
Các phó chánh án TANDTC, Thẩm phán TANDTC các Thẩm phán TAQS do HĐND bổ nhiệm (như hiện nay) với nhiệm kỳ 10 năm.
Hội thẩm nhân dân TANDTC do HĐNN cử nhiệm kỳ. Chế độ hội thẩm quân nhân giữ nguyên như hiện nay.
-
Thẩm phán toà án nhân dân cấp tỉnh do ĐBÅI THưấNG THIệT HạI bổ nhiệm nhiệm kỳ 10 năm. Hội thẩm nhân dân toà án nhân dân cấp tỉnh do HĐND tỉnh bầu nhiệm kỳ 5 năm.
-
Thẩm phán toà án nhân dân cấp huyện (kể cả các toà án khu vực) do HĐND cấp tỉnh bầu 5 năm (cơ quan quyền lực trên 1 cấp bầu).
-
Hội thẩm nhân dân toà án nhân dân cấp huyện do HĐND huyện bầu nhiệm kỳ 2 năm rưỡi (Nhưng nơi có toà án khu vực sơ thẩm thì HĐND các huyện trên địa bàn toà án khu vực sẽ bầu HTND của huyện mình cho toà án khu vực.
2. Đến năm 2000, cần có tổng kết lớn về vấn đề này và sửa đổi Luật về căn bản để sau năm 2000, tất cả Thẩm phán toà án nhân dân các cấp sẽ theo chế độ bổ nhiệm. Còn chế định hội thẩm nhân dân sẽ có nghiên cứu cơ bản để phù hợp hơn với chế độ bổ nhiệm lúc đó.
3. Thay đổi thẩm quyền của các toà án nhân dân địa phương .
Hiện nay, cần tăng cường thẩm quyền cho các TAND cấp huyện bởi các lý do sau:
-
Theo pháp luật hiện hành, TAND cấp huyện xử phần lớn các vụ án dân sự và các vụ án hình sự theo điều 145 Bộ Luật tố tụng hình sự, do đó toà án nhân dân cấp tỉnh phải xử khá nhiều các vụ án sơ thẩm mà ít xét xử phúc thẩm theo chức năng cuả mình. Vì vậy buộc TANDTC phải xét xử rất nhiều vụ án (như đã phân tích ở phần III). Nếu tập trung thẩm quyền xét xử đa số các vụ án hình sự, dân sự, HNGD cho toà án cấp huyện... thì các toà án tỉnh sẽ tập trung xử phúc thẩm là chủ yếu. Việc quy định loại án nào thì TAND cấp tỉnh xử sơ thẩm sẽ được tính toán cụ thể khi sửa đổi Luật tố tụng hình sự. Khi đó TANDTC sẽ tập trung thực hiện chức năng chính của mình là hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và đường lối xét xử, giám đốc công tác xét xử cho các TAND cấp dưới. Chắc chắn là hiệu quả hoạt động, chất lượng xét xử của các toà án sẽ tốt hơn.
-
Phương án này có thể thực hiện trong thực tế vì hiện nay trình độ của Thẩm phán toà án nhân dân cấp huyện đã khá hơn nhiều So sánh với trước đây, và nếu thành lập các toà án khu vực thì đội ngũ Thẩm phán sẽ được tăng cưòng hơn nữa về chất lượng. Đặc biệt khi thực hiện chế độ Thẩm phán bổ nhiệm thì chắc chắn chất lượng Thẩm phán sẽ còn cao hơn.
-
Một với đặt ra là khi TANDTC chủ yếu làm giám đốc thẩm thì phúc thẩm của TANDTC không còn tồn taị. Lúc đó Thẩm phán của 3 toà sẽ tập trung về toà án nhân dân tối cao. Như vậy, vừa tiết kiệm được cơ sở vật chất, vừa tinh giảm được bộ máy và cán bộ, vừa làm cho TANDTC tập trung được lực lượng thực hiện nhiệm vụ mà điều 20 Luật tổ chức toà án TAND đã quy định .
Cùng với việc tăng thẩm quyền về xét xử sơ thẩm hình sự của các TAND cấp huyện, cần thiết phải nghiên cứu thành lâp toà án kinh tế, hành chính, lao động .
Trong 1 nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì các tranh chấp phát sinh rất khác nhau về loại hình, tính chất, đối tưọng... đòi hỏi phải được giải quyết theo trình tụ tư pháp. Hiện nay chúng ta chưa có nghiên cứu sâu và cơ bản về các loại toà án này, đồng thời cũng chưa có đội ngũ Thẩm phán có kinh nghiệm chuyên môn và chuyên trách về các tranh chấp nói trên. Vì vậy, cần có nghiên cứu cơ bản về các luận cứ khoa học và thực tiễn để tiến tới thành lập các toà kinh tế, hành chính và lao động . Trong dự thảo chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của nước ta đến năm 2000 đã nói rõ là phải tổ chức toà kinh tế thay cho hệ thống trọng tài kinh tế. Nhà nước cần có sự phan công cho các cơ quan có trách nhiệm nghiên cứu về tổ chức và thiết kế của toà kinh tế, hành chính và lao động .
4. Khắc phục triệt để lề lối làm việc cũ và thỉnh thị án duyệt án.
Mấy năm gần đây, việc thỉnh thị án và duyệt án được hiểu 1 cách mềm dẻo hơn, không áp đặt như trước đây. ĐIều đó khẳng định vấn đề nhận thức vai trò của mỗi cấp đã rõ ràng và đầy đủ hơn, trình độ của Thẩm phán đã được nâng cao hơn 1 bước và pháp luật tố tụng cũng hoàn thiện hơn
Nhưng hiện nay ở 1 số nơi vẫn còn hiện tượng thỉnh thị án, và đặc biệt việc duyệt án vẫn còn nặng nề.
Bộ tư pháp và TANDTC cần phối hợp hướng dẫn lại lề lối làm việc cho các TAND địa phương để thực hiện nguyên tắc trọng tâm của toà án khi xét xử, Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Trong đó trước hết cần bỏ lề lối làm việc duyệt và thỉnh thị án.
5. Kiện toàn và nâng cao công tác quản lý các TAND địa phương về mặt tổ chức.
a. a.a
Cần thống nhất về nhận thức và thực hiện ngiêm chỉnh điều 16 Luật tổ chức TAND.
Một vài năm gần đây, có 1 số ý kiến nêu lên việc chuyển công tác quản lý TAND địa phương cho TANDTC, tức là trở về Luật tổ chức TAND năm 1960, số ý kiến khác cho rằng Bộ tư pháp vẫn quản lý các toà án địa phương như đã quản lý các TAND cấp tỉnh, còn việc quản lý các TAND cấp huyện sẽ uỷ nhiệm lại cho chánh án TAND tỉnh...
Ở đây không đi sâu phân tích những lý lẽ của các ý kiến khác nhau đó. Nhưng cần khẳng định 1 điều: Trong lúc ý kiến còn khác nhau, phải lấy những quy định của Luật làm chuẩn mực chứ khôn được làm khác Luật. Do đó, trong khi Đảng và nhà nước chưa có ý kiến chính thức về vấn đề này thì cả Bộ tư pháp cũng như toà án địa phương phải chấp hành ngiêm chỉnh điều 16 Luật tổ chức TAND. Trong quá trình thực hiện các cơ quan tư pháp và toà án có thể phát biểu những ý kiến của mình nhưng không được làm khác quy định của pháp luật hiện hành.
b.
Về quy chế phối hợp giữa Bộ tư pháp và TANDTC.
Bộ tư pháp và TANDTC cần sớm ban hành quy chế phối hợp trong việc quản lý các toà án nhân dân địa phương về 1 loạt vấn đề: công tác cán bộ, điều động Thẩm phán, thi đua khen thưỏng, tổng kết thực tiễn công tác xét xử... Bởi vì nếu quy chế này chậm ban hành thì các cơ quan toà án và tư pháp vẫn còn lúng túng và vướng mắc trong việc thực hiện điều 16 Luật tổ chức TAND.
c. Về vấn đề quản lý tập trung thống nhất ngây sách của các TAND địa phương.
Như đã nêu ở phần II, hiện nay kinh phí của các TAND địa phương gặp nhiều khó khăn, trụ sở và phương tiện làm việc còn thiếu thốn. Tình hình này có nhiều nguyên nhân và 1 trong những nguyên nhân đó là do việc quản lý chưa tập trung và thống nhất ngan sách của các toà án nhân dân địa phương. Qua quản lý các TAND địa phương cho thấy chi phí của toà án có 2 loại chính.
1. Chi phí cho hành chính sự nghiệp.
Theo con số tính toán bước đầu, tổng chi phí hành chính sự nghiệp của các toà án nhân dân địa phương trong 1 năm nhu sau:
-
Chi nghiệp vụ (chi phí cho xét xử cưõng chế thi hành án): 2,8 tỷ
-
Chi lương và phụ cấp lương: 2,6 tỷ
-
Chi phí hành chính (40nghìn/năm/cán bộ): 2,6 tỷ đồng
Tổng cộng là:
80 tỷ đồng
2. Chi phí xây dựng cơ bản : khoảng 4 tỷ đồng.
Để bảo đảm đến năm 2000, trụ sở các toà án nhân dân địa phương cần khang trang thì ngay từ năm 1991 phải bắt tay vào xây dựng từng bước. Theo tính toán thì hằng năm nâng xây dựng và sửa chữa cơ bản lên 3-5 trụ sở TAND cấp tỉnh, 30-50 trụ sở TAND cấp huyện, tức là hàng năm kinh phí xây dựng cho các Toà án nhân dân địa phương khoảng 4 tỷ đồng.
Như vậy, tổng kinh phí hành chính sự nghiệp và xây dựng cơ bản cho các TAND địa phương trong 1 năm khoảng 12 tỷ đồng.
Với kinh phí lớn như vậy, nếu không để cho 1 cơ quan thống nhất 1quản lý thì kết quả không thể đạt được như mong muốn. Dĩ nhiên trong quản lý cần ngiêm túc với các hiện tượng quan liêu, cửa quyền. Cần có kế hoạch tổng thể và bước đi thích hợp trong xây dựng cơ bản cho các toà án để trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
Trong 2 cách quản lý: gián tiếp và trực tiếp thì nên chọn cách quản lý trực tiếp, toàn bộ công việc này đòi hỏi Bộ tư pháp phải có vụ kế hoạch tài vụ để thực hiện nhiệm vụ của đơn vị dự toán cấp I. Sở tư pháp và toà án nhân dân tỉnh là đơn vị dự toán cấp II. Các toà án nhân dân huyện là đơn vị báo sổ. Trong việc quản lý này, cần có kiểm tra, thẩm kế và đôn đốc việc thanh quyết toán 1 cách chặt chẽ.
Từ năm 1991 đề nghị nhà nước sử dụng ngân sách trung ương cấp cho các toà án địa phương (cuối năm 1990 đã cấp 2 tỷ đồng từ ngân sách trung ương bổ sung cho một số toà án địa phương có nhu cầu cấp bách)
Bộ tư pháp sẽ cùng với Bộ tài chính, UBKH nhà nước... nghiên cứu trình HĐBT quyết định cụ thể việc này.
Những kiến nghị trên đây nằm trong 1 thể thống nhất và đồng bộ, vì thế không thể thực hiện kiến nghị này mà bỏ qua những kiến nghị khác. Trong việc thực hiện các kiến nghị nói trên, cần phải tiến hành 1 loạt các biện pháp xử lý, tổ chức, tư tưỏng... Trong khi thực hiện cần đặt mỗi toà án trong khuôn khổ cải cách toà án và cải cách Bộ máy nhà nước nói chung có như thế mới bảo đảm được cho việc đổi mới vững chắc vào toà án.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC KHI XÉT XỬ THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT
Trần Đông- UVBCHTƯ Đảng,Thứ trưởng thứ nhất Bộ tư pháp
Khi xét xử, Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc mà HIến pháp 1946, 1959, 1980 đều quy định. Luật tổ chức TAND năm 1960 và năm 1981 cùng quy định nguyên tắc này. ĐạI hội VI của Đảng đã nhấn mạnh phải chấp hành ngiêm chỉnh pháp luật, cấm bao che hành động phạm pháp và người phạm pháp dưới bất cứ hình thức nào, đồng thời cần nhấn mạnh nguyên tắc nói trên.
Tôi phát biểu 1 vài ý kiến về vấn đề này:
1. Về sự lãnh đạo của đảng đối với toà án.
Trước hết, cần phê phán quan niệm cho rằng toà án độc lập với sự lãnh đạo của Đảng. Thực tế cho thấy bên cạnh những đồng chí Thẩm phán nhận thức đúng về thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình thì vẫn còn 1 số Thẩm phán hiểu máy móc nguyên tắc độc lập xét xử nên có biện pháp muốn tách khỏi sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và đường lối xét xử, làm cho 1 số đồng chí ở cấp uỷ địa phương không đồng tình. Ngược lại, cũng còn 1 số Thẩm phán vì động cơ không đúng nên khi cấp uỷ cho ý kiến không sát, thậm chí sai cũng cứ xử theo hướng đó mà không mạnh dạn trình bày. Biết sai mà vẫn sử để rồi toà án cấp trên sửa hay huỷ án. ĐÃ là thái độ vô trách nhiệm của Thẩm phán mà chúng ta không thể chấp nhận được.
Điều 4 Hiến pháp 1980 ghi rõ: Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và Bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam được vũ trang bằng học thuyết maclênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước lãnh đạo xã hội ...
Các tổ chức đảng hoạt động trong khuôn khổ HIến pháp.
Vai trò của Đảng cũng được khẳng định trong cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý và theo lênnin thì toà án là 1 cơ quan nhà nước, hoạt động của toà án là 1 bộ phận của hoạt động nhà nước (tập 4 trang 120 tiếng nga).
Như vậy Đảng lãnh đạo toà án là 1 vấn đề không phải bàn cãi.
Đảng lãnh đạo là để toà án thực hiện có hiệu quả nhất nghiên cứu chính trị của mình, là để toà án thực hiện đúng nguyên tắc độc lập xét xử. Đảng lãnh đạo toà án nhưng không làm thay toà án, không can thiệp vào việc giải quyết cụ thể một vụ án cụ thể như định trước mức hình phạt, bồi thưòng...
Đảng đề ra nguyên tắc toà án độc lập xét xử trong pháp luật, Đảng có trách nhiệm thực hiện và tạo điều kiện để tòa án thực hiện nguyên tắc đó.
Có 1 số vụ án, toà án xin ý kiến cấp uỷ về đường lối xét xử như:
-
Những vụ án quan trọng, phức tạp,ảnh hưỏng đến tình hình chính trị ở địa phương (bị cáo là người đứng đầu các tổ chức tôn giáo, có uy tín trong dân tộcthiểu số...)
-
Khi các cơ quan công an, toà án, kiểm sát có ý kiến về giải quyết nội dung vụ án.
Vấn đề nêu trên đây khác với việc 1 vài người có chức vụ trong Đảng có thể nhân danh cấp uỷ để can thiệp vào việc xét xử vụ án cụ thể: Lênin trong thư gửi Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Nga đã yêu cầu phải khẳng định với tất cả các tỉnh uỷ rằng Ban chấp hành trung ương sẽ khai trừ ra khỏi Đảng những ai có chút mưu toan tác dụng đến toà án nhân dân làm giảm nhẹ trách nhiệm của các Đảng viên cộng sản (toàn tập tập 45, tr4-5, NXB tiến bộ N.1987 tiếng việt).
Tư tưởng đảng lãnh đạo để toà án thực hiện tốt nguyên tắc độc lập xét xử đã thể hiện ra trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội 6, các chỉ thị số 84 của ban bí thư (1986), chỉ thị số 133 (1986) và chỉ thị số 300 (1987) của chủ tịch HĐBT... là đảng viên chúng ta phải thực hiện nghị quyết của Đảng. Là cán bộ tư pháp chúng ta phải chấp hành đúng pháp luật .
Đảng lãnh đạo toà án không chỉ bằng đường lối xét xử mà còn bằng việc chăm lo, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ toà án, trước hết là Thẩm phán xây dựng tổ chức đảng vững mạnh trong toà án, kiểm tra các đảng viên làm việc trong toà án, lãnh đạo toà án phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đoàn thể khác tốt hơn... Đương nhiên, các cấp uỷ Đảng cũng cần được bồi dưỡng nâng cao kiến thức pháp lý, có quy chế lãnh đạo để lãnh đạo đúng đắn đối với toà án địa phương .
2. Về vấn đề thỉnh thị án, các đồng chí đã phát biểu nhiều ý kiến xác đáng. Rõ ràng đã thỉnh thị toà án cấp trên thì Thẩm phán toà án cấp dưới khó mà độc lập xét xử, hội thẩm nhân dân càng bị xem nhẹ, Luật sư cũng bị vô hiêu hoá. Người Thẩm phán dần dần càng né tránh, dựa dẫm thụ động và dễ dẫn đến làm sai pháp luật.
Vì vậy, cần phải bỏ việc toà án cấp dưới thỉnh thị toà án cấp trên và từng vụ án như là lối làm việc.
3. Thẩm phán và hội thẩm nhân dân có quyền độc lập khi xét xử, nhưng họ phải có năng lực thực sự để độc lập.
Có quyền độc lập, nhận thiết sự cần thiết phải độc lập nhưng nếu có năng lực (trình độ, kiến thức, kinh nghiệm, bản lĩnh... ) thì rất khó thực hiện quyền độc lập, năng lực thấp kém thì thực hiện quyền độc lập ở mức độ thấp kém. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra là phải đào tạo đội ngũ Thẩm phán đáp ứng yêu cầu mới, đặc biệt là đội ngũ chánh án. Có đồng chí chánh án từng nhiều năm không xét xử vụ án nào, càng ngại xét xử càng thiếu kinh nghiệm lãnh đạo, không thể hoàn thành nhiệm vụ chánh án, không xét xử không phải là Thẩm phán.
Đi đôi với việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán cần lựa chọn, bồi dưỡng đội ngũ hội thẩm nhân dân, tạo mọi điều kiện để hội thẩm nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ theo Luật định, thực sự phát huy quyền năng của hội thẩm nhân dân trong xét xử .
Để góp phần thực hiện tốt công tác điều ra, truy tô xét xử cần phải khẩn trương triển khai, thực hiện pháp lệnh và quy chế đoàn Luật sư, hoàn thiện công tác giám định tư pháp ...
4. Vấn đề cơ bản có ý nghĩa quyết định để các toà án nhân dân địa phương thực hiện tốt chức năng chủ yếu của mình khi xét xử khẩn trương xây dựng quy hoạch cán bộ toà án, xây dựng tiêu chuẩn chức danh trong các toà án - trước hết là đội ngũ Thẩm phán và chấp hành viên. Thực hiện lựa chọn, bồi dưỡng đào tạo cán bộ toà án theo quy hoạch. Nghiên cứu lai bảng lương và các chế độ đãi ngộ khác về vật chất và tinh thần đối với cán bộ toà án. Từng bước tạothêm cơ sở vật chất và điều kiện làm việc cho các toà án. Các cơ quan tư pháp trong đó các toà án nhân dân cần tập trung thực hiện có hiệu quả trong nội bộ cơ quan, đơn vị mình vận động làm nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức Đảng và nhà nước, làm lành mạnh các mối quan hệ xã hội, phát huy chức năng và bằng biện pháp của ngành mình phục vụ đắc lực cuộc vận động trong tòan xã hội .
ĐỔI MỚI TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN
Trần Văn Nho
Phó chánh toà án nhân dân thành phố Hà Nội.
I. VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP XÉT XỬ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN .
Để đảm bảo cho toà án làm tốt chức năng xét xử Hiến pháp năm 1980 của nhà nước ta quy định ; Khi xét xử Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 131). Đây là nguyên tắc lớn xuyên suốt, trong toàn bộ hoạt động của toà án. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào nguyên tắc này đều phải được quán triệt và phải đượcơthj 1 cách triệt để. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật phải được xem xét như 2 mặt của 1 thể thống nhất. Độc lập trên cơ sở tuân theo pháp luật, chỉ tuân theo pháp luật vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của Thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Tuy nhiên, để thực hiện được quyền lợi và nghĩa vụ của mình, Thẩm phán và hội thẩm nhân dân phải có đầy đủ mọi điều kiện để thực hiện công việc cụ thể, trước hết là sự độc lập trong nghiên cứu, trong đấu tranh làm rõ sự thật.
Việc thực hiện nguyên tắc HIến pháp này trong thực tiễn hiện nay còn gặp khá nhiều khó khăn. Đó là:
-
Trình độ nghề nghiệp của Thẩm phán và hội thẩm nhân dân hiện nay thấp (kể cả hiểu biết pháp luật), áp dụng pháp luật, kiến thức về thực tiễn cuộc sống, về kinh tế và quản lý kinh tế, về phương pháp tổ chức và điều hành 1 phiên toà ...
-
Những tác động tiêu cực khác từ bên ngoài đối với Thẩm phán và hội thẩm nhân dân, sự can thiệp không đúng pháp luật của 1 số cán bộ có chức có quyền (kể cả cấp trên trựctiếp của mình), lợi dụng đời sống khó khăn 1 số người dùng tiền, hàng để hối lộ dưới nhiều hình thức và sự vu khống, đe doạ thậm chí còn xúc phạm Thẩm phán và hội thẩm nhân dân ...
-
Bản thân người Thẩm phán và hội thẩm nhân dân chưa thực sự đòi hỏi được độc lập như 1 vấn đề thiết thân tới lợi ích của mình.
Trước những vấn đề thực tiễn này, thời gian qua toà án nhân dân thành phố Hà nội đã áp dụng 1 số biện pháp cụ thể là:
+
Từ 1983-1988: 100% bản án trước khi xử (kể cả sơ thẩm, phúc thẩm) phải đưa ra bàn trong nội bộ toà chuyên trách, tất cả Thẩm phán tham gia ý kiến. Hội nghị này gần như quyết định về đường lối xét xử. Ra phiên toà muốn tuyên khác phải báo cáo lại. Bàn mà không nhất trí thì báo cáo Uỷ ban Thẩm phán và ý kiến uỷ ban Thẩm phán là quyết định, uỷ ban Thẩm phán bàn không nhất trí thì thỉnh thị toà án tối cao hoặc quyết định đường lối theo đa số.
+
Từ 1988 đến nay, do số lượng án quá nhiều nên không thể bàn ở nội bộ toà được mà chỉ quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm bàn trước với đồng chí lãnh đạo chuyên trách (Chánh hoặc phó toà) hoặc cả 2 người cùng nghe. Việc báo cáo uỷ ban Thẩm phán quy định là bắt buộc đối với các án điểm, trọng án, án phức tạp, án nhà đất mà 1 bên phải di chuyển chỗ ở.
Cách làm này có những kết quả tốt là:
Khắc phục được tình trạng non yếu của Thẩm phán, tập trung được trí tuệ cho việc xét xử 1 vụ án, nhất là án khó. Bồi dưỡng nâng cao trình độ cho Thẩm phán, từ đó hạn chế được những sai sót trong bản án.
Hạn chế được những tác động bên ngoài của bản án.
Thông qua việc báo cáo án mà lãnh đạo nắm chắc được trình độ Thẩm phán, đánh giá được mặt mạnh, mặt yếu của Thẩm phán, giúp cho Thẩm phán kịp thời sửa chữa khắc phục được những sai sót trong công tác xét xử. Song cũng có những mặt không tốt là:
+
Gây tâm lý ỷ lại cho Thẩm phán (lãnh đạo bảo xử sao thì xử thế...). Không gắn trách nhiệm cá nhân với bản án. Khi án bị sửa, huỷ thì lại cho rằng: Đã xử theo đường lối của uỷ ban Thẩm phán .
+
Người cho ý kiến (lãnh đạo toà, uỷ ban Thẩm phán ) thường là ít tiếp xúc với hồ sơ (có đồng chí không đọc hồ sơ) mà chủ yếu là nghe ý kiến Thẩm phán trình bày. Có tình trạng Thẩm phán muốn xử theo ý nào thì trình bày có lợi cho hướng đó. Trường hợp này án có thể sai song lại phản ánh sự nhất trí cao trong uỷ ban Thẩm phán .
Trong 1 số trường hợp, sự quy định này là điều kiện để người cho ý kiến xem cá nhân của mình và vụ án, dùng cách thuyết phục Thẩm phán, thậm chí thuyết phục cả hội thẩm nhân dân (thực tế đã có 2 vụ án hội thẩm nhân dân kiệnlãnh đạo toà án Hà nôị vi phạm pháp luật xử theo ý của mình- Thậm chí lãnh đạo còn yêu cầu Thẩm phán quận mang hồ sơ đến để nghiên cứu trước khi quận xử sơ thẩm, với lý do là nhận được đơn của đưong sự.
Dưới danh nghĩa này bàn tập thể ở toà, 1 số trường hợp được coi là lá chắn để che cho những tiêu cực trong vụ án khó bị phát hiện. Thậm chí còn là kẽ hở cho hành vi hối lộ. Kể cả hối lộ có tổ chức để dễ bề len lỏi, khi đã lọt vào được rồi thì khó bề phát hiện. ĐIều đó làm giảm trách nhiệm của Thẩm phán đối với vụ kiện. Nỗ lực chủ quan của Thẩm phán bị hạn chế. Có vụ Thẩm phán chuẩn bị chưa kỹ vụ án nhưng đến lượt cứ đi báo cáo, xem hướng dẫn thế nào về chuẩn bị thêm. kết quả xét xử nếu đúng (y án sơ thẩm), thành tích đó là của uỷ ban Thẩm phán, thành tích của cá nhân bị xem nhẹ, và nếu sai thì Thẩm phán cũng không bị đánh giá gì, vì đó là sai của uỷ ban thẩm phán. Bởi vậy mà án bị huỷ nhiều Thẩm phán vẫn là lao động tiên tiến, vẫn được tăng lương, cất nhắc đề bạt...
Vì vậy, trước mắt và lâu dài phải nâng cao trình độ Thẩm phán, hội thẩm nhân dân bằng các biện pháp chủ động, tích cực như bồi dưỡng kiến thức qua lớp tuyên huấn, ngắn hạn, chuyên tu, tại chức về pháp lý và quản lý kinh tế, tiêu chuẩn hoá Thẩm phán, hội thẩm nhân dân để tiến tới không cần bàn án trong toà mà không cần thỉnh thị án cấp trên trước khi xử, Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về bản án của mình.
II.
VIỆC QUẢN LÝ VỀ MẶT TỔ CHỨC CÁC TOÀ ÁN ĐỊA PHƯƠNG CÓ LIÊN QUAN MẬT THIẾT ĐẾN VIỆC THUỘC NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN .
Toà án là cơ quan xét xử - Mỗi cấp toà án có thẩm quyền xét xử riêng của mình, thẩm quyền ấy là hoàn toàn độc lập (riêng rẽ với nhau). Và mỗi cấp xét xử đều có yêu cầu Thẩm phán và hội thẩm nhân dân khi xử án phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .
Từ đặc điểm này cho thấy, về mặt tổ chức làm sao cho sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán và hội thẩm nhân dân ở mỗi cấp không có liên quan và có ảnh hướng đến nhau. Do đó việc ngành tư pháp quản lý về mặt tổ chức các toà án địa phương là cần thiết. Bởi lẽ, nếu người lãnh đạo cấp trên (hoặc toà án cấp trên) mà lại có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng, nâng lương, đề bạt... đối với Thẩm phán cấp dưới với lãnh đạo, có sự ràng buộc về kỷ luật lao động ý thức tổ chức... Mối quan hệ này ảnh hưởng không nhỏ đến sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đối với Thẩm phán cấp dưới.
Hiện nay, có 1 số người cho rằng ngành tư pháp quản lý về mặt tổ chức các toà án địa phương còn chưa tốt hơn trước đây. ĐÃ là thực tế, còn bản chất thì không phải ngành toà án quản lý không tốt bằng để cho toà án làm việc này, mà ở chỗ là: Chưa dứt khoát giao hẳn cho ngành tư pháp, vẫn còn để song trùng lãnh đạo cùng nhau chọn Thẩm phán, chấp hành viên, cùng nhau đề bạt cán bộ, chia nhau quyền khen thưỏng và kỷ luật cán bộ...
Mặt khác ngành tư pháp còn chưa được đầu tư mạnh để đảm đường nhiệm vụ. Một đòi hỏi cấp bách là ngành tư pháp phải tiếp tục đổi mới công tác quản lý toà án địa phương phải có đội ngũ quản lý nắm vưng pháp luật, có trình độ kinh nghiệm và quản lý xét xử để đánh giá đúng người Thẩm phán, phát hiện mặt mạnh, yếu để có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ cho Thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Việc thông qua toà án cấp trên để xem xét cán bộ cấp dưới của toà án chỉ coi là sự bổ nhiệm cho toà án để có thể tổ chức ngành toà án tốt hơn.
III. THỬ NÊU 1 SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỔ CHỨC CÁC TOÀ ÁN
1. Tên gọi của toà án:
Toà án là cơ quan tài pán, cách thức tổ chức không giống như tổ chức các cơ quan nhà nước. Quan hệ giữa toà án cấp trên và cấp dưới là quan hệ tố tụng chứ không phải là quan hệ hành chính. Do vậy, cần tổ chức toà án theo cách thức riêng với tên gọi như sau:
-
Toà án cấp I khu vực huyện (hoặc liên huyện...) ví dụ toà án cấp I khu vực Hoàn kiếm Hà nội.
-
Toà án cấp II khu vực tỉnh (thành phố) hoặc liên tỉnh... (ví dụ, toà án cấp II khu vực tỉnh Hà sơn bình.
-
Toà án tối cao nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (toà án quân sự cũng tổ chức theo 2 cấp theo khu vực đơn vị... ).
2. Về thẩm quyền của toà án:
a. thẩm quyền chung: Ngoai thẩm quyền đã giao cho toà án xét xử hiện nay (hình sự, dân sự, lao động, HNGD) nên xem xét thêm trong việc tranh chấp khác do chưa toà án xét xử, hoặc do cơ quan khác giải quyết mà có hiệu lực của việc giải quyết không cao... mà giao thêm co toà án xét xử .
Như vậy thì toà án sẽ có thêm 1 số toà chuyên trách. Hiện nay toà án cấp tỉnh có 2 toà chuyên trách: Toà quân sự và toà hình sự. Toà án tối cao còn có thêm 3 tòa phúc thẩm đặt ở 3 nơi.... Nếu giao thêm thì có thêm toà chuyên trách hành chính, toà kinh tế hoặc chỉ cần có thêm toà chuyên trách hành chính giải quyết cả các tranh chấp hành chính, về kinh tế (thay trọng tài kinh tế ) về lao động (tách án lao động không để ở toà dân sự như hiện nay) và các tranh chấp về sử dụng đất đai.
Giao thêm cho toà án việc trên vẫn không thay đổi gì đối với điều 1 Luật tổ chức toà án.
b. thẩm quyền riêng: Tạm gọi toà án cấp I thuộc khu vưc huyện, toà án cấp II thuộc khu vực tỉnh... thì thẩm quyền riêng ngoài những quy định như hiện nay có thể theo hướng như sau.
-
Toà án cấp I: Xử tất cả các bản án hình sự, dân sự, HNGD (hiểu như xử sơ thẩm) Về hình sự không nên giao theo mức hình phạt để giao thẩm quyền. Song trong tình hình hiện nay, toà án cấp I còn yếu, Luật dân sự chưa hoàn chỉnh, thì có thể có 1 số loại việc cần có trình độ cao hơn để xét xử do đó mà giao cho toà án cấp II để xử lý. Ví dụ như về dân sự án có nhân tố nước ngoài, án có yêu cầu phải xử kín, án thấy cần thiết phải để cho toà án cấp II xử sẽ có lợi chung nhiều hơn... Về hình sự loại án thuộc về an ninh quốc gia, án có hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, án cần xử kín...
-
Toà án cấp II:
+
Xử lại các bản án có kháng cáo, kháng nghị về dân sự, dân sự, HNGD của toà cấp I.
+
Xử các bản án chưa giao cho cấp I về dân sự, hình sự, HNGD.
+
Xử các án về lao động, hành chính, kinh tế, đất đai.
+
Giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án cấp I có hiệu lực pháp luật mà có vi phạm .
-
Toà án tối cao:
+
Xử lại các bản án của toà án tối cao xét xử có KC,KN.
+
Giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án của toà cấp I, cấp II có hiệu lực mà có sai phạm (và của toà án cấp I, cấp II trong khu vực quân sự).
Không nên duy trì toà án tối cao xử án có hiệu lực ngay (nay gọi là sơ thẩm đồng thời là chung thẩm).
c. Về hội thẩm nhân dân: Với tổ chức và thẩm quyền xét xử của toà án như các phương án trên thì HTND chủ yếu là ở toà án cấp I. ở toà án cấp II chỉ cần 1 số ít, và ở TATC sẽ không có HTND nữa.
3. Về chế độ tuyển cử và nhiệm kỳ của Thẩm phán .
a. Chế độ tuyển cử Thẩm phán:
Không nên duy trì chế độ tuyển cử Thẩm phán như hiện nay. Chế độ bầu cử này ảnh hưỏng nhiều đến quá trình hoạt động của toà án cả về tốc độ xét xử và sự ổn định lâu dài của toà án, có thể thực hiện theo các phương án như sau:
-
Theo đề nghi của tỉnh uỷ (thành uỷ), sau khi thống nhất với chánh án toà án tối cao, Bộ trưởng Bộ tư pháp quyết định bổ nhiệm thẩm quyền toà án cấp II (tỉnh) kể cả chánh án, phó chánh án.
-
Theo đề nghị của giám đốc sở tư pháp và của chánh án thành phố (tỉnh), Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm Thẩm phán cấp I (huyện).
- Hội đồng nhà nước bổ nhiệm Thẩm phán toà án nhân dân tối cao.
b. Nhiệm kỳ của Thẩm phán toà án nhân dân địa phương :
Phương án 1: Có thể theo nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân 5 năm
Phương án 2: Bổ nhiệm không thời hạn, việc bổ nhiệm bãi miễn Thẩm phán chỉ tiến hành thường xuyên trong không khí ổn định, luôn bổ sung kịp thời bảo đảm đủ Thẩm phán xét xử, công việc chạy đều.
4. Đề nghị khác; Việc đào tạo để có đội ngũ cán bộ toà án cũng như Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có tính cấp bách mà không những trước mắt mà lâu dài. Đề nghị Bộ tư pháp thành lập Trường cán bộ toà án trưòng này có chương trình đào tạo riêng cho học viên đã tốt nghiệp các trường học về pháp lý và được bổ nhiệm là Thẩm phán và được bầu cử vào hội thẩm nhân dân .
TOÀ ÁN- THỰC TRẠNG VÀ ĐỔI MỚI.
Nguyễn Thành Vĩnh - Chủ tịch hội Luật gia TPHCM, nguyên chánh án toà án nhân dân thành phố HCM.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, từ Bắc chí Nam ngành toà án chưa được tổ chức thành hệ thống. Pháp luật để cho toà án xét xử cũng chưa nhiều.
Từ khi nửa nước được giải phóng, ngành toà án cũng được xây dựng dần song song với công tác xây dựng pháp luật. Suốt 20 năm trên mặt trận tuyên truyền, ngành toà án được đề cao nhưng quá nhiều đợt tổng kết công tác, ngành toà án đều thấy chưa được quan tâm đầy đủ về mọi mặt, từ cán bộ, trụ sở, phương tiện làm việc đến lương của Thẩm phán ...
Miền Nam được giải phóng, số cán bộ Thẩm phán phải nhân lên gấp đôi, cán bộ cho miền bắc còn thiếu nhiều thì làm gì có người trang trải cho miền nam.
Trong hoàn cảnh như vậy không thể phê phán ngành toà án chưa vươn lên ngang tầm với nhiệm vụ, còn dựa dẫm nhiều vào cấp uỷ, thường hay thỉnh thị cấp trên, hoặc chỉ căn cứ vào ý kiến của tập thể, chưa độc lập xét xử .
Thêm vào đó ở tòa án có tình trạng nhiều việc ít người, nhưng phải áp dụng theo lối bình quân chủ nghĩa giảm biên chế.
Tóm lại ngành toà án:
-
Chưa có đủ thẩm quyền tưong ứng với nhiệm vụ, sự đãi ngộ chưa tưong xứng với trách nhiệm. Chính sách đào tạo chưa được hoạch định rõ ràng.
-
Trừ 1 đôi nơi, trụ sở của toà án chưa tưong xứng với nhiệm vụ quan trọng quyết định về sinh mạng con người nhân danh nhà nước .
- Thiếu phương tiện làm việc
Trong hoàn cảnh ấy yêu cầu công tác lại rất cao: Khi xét xử phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Về hình sự phải xét xử đúng người, đúng tội đúng pháp luật không xử oan người ngay và không để lọt tội.
Trong các vấn đề trên, trước mắt cần quan tâm là khâu cán bộ, trước hết là đội ngũ Thẩm phán .
I. VỀ CÁN BỘ THẨM PHÁN
a. Luật pháp là 1 môn khoa học xã hội. Cán bộ làm công tác pháp luật phải được đào tạo tại trường pháp lý có hệ thống. Thẩm phán là người giải quyết những việc có liên quan đến con người nên cũng phải am hiểu tâm lý con người, cuộc sống, ở từng giai đoạn, từng địa phương .
Do đó cần rà soát lại phương tiện đào tạo của ta hiện nay. Theo tôi, Thẩm phán phải tốt nghiệp Đại học pháp lý, có phẩm chất chính trị và đào tạo tốt và phải học 1 khoá tại trường bồi dưỡng Thẩm phán, xét xử là một nghệ thuật nên giảng viên trường này phải là người có nghiệp vụ xét xử, không phải giảng lý thuyết chung chung.
b. Công việc của Thẩm phán không chấm dứt sau 8 giờ làm việc mà Thẩm phán có lương tâm sẽ luôn nghĩ cách giải quyết vụ án cho đến khi tìm ra lối giải quyết .
c. Riêng Thẩm phán phải có nhận thức đúng đắn về bản thân mình. Quyền hành lớn lao của Thẩm phán là do nhân dân, Đảng và Nhà nước giao cho để phục vụ tốt nhân dân. Nó không cho phép Thẩm phán tự xem mình là quan lớn tuỳ ý quyết định bất chấp sự việc, pháp luật.
d. d.
Quyết định bằng bản án của toà án cấp trên phải là mẫu mực cho cấp dưới học hỏi để làm sao vì vậy trinh độ của Thẩm phán cấp trên phải giỏi hơn cấp dưới.
Thực trạng hiện nay chưa phản ánh đúng quan niệm trên cho nên cần có biện pháp điều chỉnh trước mắt và lâu dài
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CỤ THỂ.
1. Những yếu tố làm cho Thẩm phán không thể độc lập xét xử là:
-
Non yếu về trình độ nghiệp vụ và chính trị.
-
Từ lâu tồn tại 1 nếp hoạt động gần như là thủ tục, đó là; đối với nhiều vụ án phải thỉnh thị toà án cấp trên. Mặc dầu toà án cấp trên không có điều kiện nghiên cứu hồ sơ, chỉ nghe báo cáo nhưng vẫn quyết định và Thẩm phán phải tuân theo hoặc nghiên cứu hồ sơ ở mức nhất định (vì thưòng là cán bộ chứ không phải là Thẩm phán làm việc nghiên cứu và báo cáo lại) nên việc đánh giá sự việc chưa thật chính xác, không kể ý kiến của tòa án cấp trên chưa qua khâu thẩm vấn rất quan trọng tại phiên toà.
-
Thường khi đã thỉnh thị toà án cấp trên thì Thẩm phán thường ỷ lại vào sự sáng suốt của lãnh đạo, không đi sâu vào sự việc và có trường hợp gò sự việc cho phù hợp với ý kiến của lãnh đạo.
-
Có Thẩm phán vì phải đảm đương xét xử quá nhiều viêc nên không có đủ thời giờ để nghiên cứu hồ sơ, phải nhờ thư ký của mình nghiên cứu và báo cáo lại. Do đó không nắm vững hồ sơ, lúng túng khi xuất hiện những sự việc hay ý kiến không xuôi chiều. Để đối phó Thẩm phán không cho khai báo đầy đủ hoặc dùng quyền chủ toạ để khống chế.
- Cũng có định kiến về Thẩm phán đối với người được thẩm vấn không chịu nghe ý kiến trái ngược để tìm ra sự thật, nên hướng giải quyết cũng khách quan.
Vì vậy để bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật phải giải quyết tận gốc các yếu tố nói trên, trong đó vấn đề chủ yếu là Thẩm phán phải nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ của mình, nắm vững hồ sơ, dám đấu tranh bảo vệ sự thật, bảo vệ công lý.
2. Cần lựa chọn người có trình độ chính trị, nghiệp vụ tương xứng với nhiệm vụ, trong sạch thật sự cầu thị để bầu làm Thẩm phán .
Cần quy định thâm niên công tác của Thẩm phán, thâm niên phải được coi là 1 trong những tiêu chuẩn để lựa chọn Thẩm phán .
Như đã nói ở trên, Thẩm phán cấp trên phải có trình độ cao hơn Thẩm phán cấp dưới trong các mặt trong đó có vấn đề kinh nghiệm sống. Do đó tôi nghĩ Thẩm phán tỉnh phải từ 30 tuổi trở lên, có tối thiểu 5 năm công tác ở cơ sở và Thẩm phán toà án nhân dân tối cao phải có 10 năm công tác ở toà địa phương .
3. Án bị sửa, huỷ và trình độ Thẩm phán .
Án bị huỷ thưòng là đánh giá sai sự việc trong vụ án hoặc vận dụng sai pháp luật. ĐIều này chứng minh nghiệp vụ của Thẩm phán không cao. Nếu nhiều án của Thẩm phán ấy bị huỷ cần chuyển vị Thẩm phán ấy sang nghành khác hoặc bồi dưỡng thêm nghiệp vụ ở trường. Các án bị sửa thừơng là đúng phần lớn, sai phần nhỏ, trừ trường hợp cải sửa toàn bộ.
Ở đây có 1 vấn đề về quyền hạn giữa toà phúc thẩm (đều là tỉnh thành hay toà án tối cao) với toà giám đốc của toà án nhân dân tối cao.
Tôi nghĩ toà phúc thẩm có trách nhiệm y án, hoặc cải sửa toàn bộ hay 1 phần án sơ thẩm. Còn toà giám đốc TANDTC chỉ nên huỷ những án sơ thẩm sai pháp luật, không cải sửa toàn phần như toà phúc thẩm. Hiện nay có sự lẫn lộn như vậy không lợi vì toà giám đốc không nên xử lại vụ án như phúc thẩm.
4. Sắc phục cho cán bộ toà án.
Khi tuyên án, Thẩm phán có vị trí thay mặt nhà nước để quyết định. Nó đòi hỏi 1 hình thức uy nghi nhất định. Việc dành cho Thẩm phán 1 loại sắc phục riêng là cần thiết. Tuy nhiên sắc phục không nên rườm rà.
5. Tiêu chuẩn về chuyên môn của Thẩm phán .
Như đã nói ở phần trên, hiện nay nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Vì vậy cán bộ hầu hết các ngành đều am hiểu pháp luật. Do đó cần mở trường Trung cấp và Đại học pháp lý đào tạo càng nhiều càng tốt để phục vụ cho các ngành.
Riêng ngành toà án những người phuc vụ với cương vị Thẩm phán cần qua những bước sau:
-
Tốt nghiệp Đại học pháp lý .
-
Phải được học và tốt nghiệp trường bồi dưỡng Thẩm phán (chuyên dạy về nghiệp vụ toà án).
Được như vậy người Thẩm phán mới tưong xứng với nhiệm vụ về mặt chuyên môn và chính trị.
6. Vấn đề hội thẩm nhân dân .
Tính chất nhân dân của toà án nhân dân dựa vào các yếu tố Thẩm phán bầu và khi xét xử sơ thẩm thì bên cạnh Thẩm phán chủ toạ có 2 hội thẩm nhân dân cũng được bầu. ĐÃ chỉ là nguyên tắc. Thực tế HTND ít có điều kiện thực hiện nhiệm vụ được pháp luật quy định. Bấy lâu vai trò của HTND là hình thức. Nó bắt nguồn từ tổ chức không sát với thực tế, HTND không phải là người cần am hiểu pháp luật. HTND là cán bộ của 1 ngành nghề nào đó và hiểu biết nhiều về nghề nhất định ấy. Khi 1 vụ án liên quan đến 1 ngành nghề thì HTND chuyên về ngành nghề ấy được mời tham gia phiên toà. Thực sự các yêu cầu ấy chưa bao giờ đạt được vì HTND thưòng bận rộn với công việc của mình không sao thoả mãn đòi hỏi của Thẩm phán. Phải xét xử với 2 HTND là nguyên tắc được thực hiện nhưng rõ ràng trong nhiều vụ HTND cũng không hiểu biết được những nganh nghề quan hệ đến vụ án. Hơn nữa, HTND ít có thì giờ nghiên cứu hồ sơ (trừ 1 số ít vụ án đặc biệt nào đó). Từ đó HTND hoàn toàn phụ thuộc vào Thẩm phán mà trong quyết định án, HTND là đa số.
Vì vậy, cần sớm cải thiện tổ chức của HTND.
7. Giải quyết việc các cơ quan nhà nước vi phạm pháp luật .
Pháp lệnh quy định nếu xét và giải quyết các khiếu nai, tố cáo của công dân đối với các vi phạm pháp luật về mặt hành chính đụng chạm đến các quyền lợi của nhân dân thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết là chinh quyền hay cơ quan có liên quan. Trường hợp đưong sự chưa thoả mãn thì được quyền khiếu nại lên cấp trên. Tôi nghĩ quy định này chưa thoả đáng trên lý thuyết và thực tiễn.
Về lý thuyết, tự giải quyết những vi phạm do cơ quan mình phạm phải thưòng thiếu khách quan. Hơn nữa trong nhiều loại vụ việc, quy định của pháp luật còn chung chung, chưa cụ thể, cho phép hiểu nhiều cách nên từ đó ra những quy định cụ thể. Ngoài ra còn nhiều lý do phức tạp khác cản trở việc xử lý nghiêm minh. Biện pháp cưỡng chế không phù hợp vì trách nhiệm cũng chưa cụ thể.
Về thực tiễn, có nhiều trường hợp đơn khiếu nại do uất ức ghi đây là đơn thứ mấy trăm. Có những vụ từ 8,9 năm không ai giải quyết. ít có cơ quan có bộ phận chuyên theo dõi. Nhiều cơ quan kể cả cơ quan trung ương không có điều kiện tổ chức bộ phận điều tra để có cơ sở hướng dẫn cách giải quyết. Từ đó nhiều cơ quan đã công văn in sẵn để trả lời và đã nhận đơn và chuyển đến 1 cơ quan nào đó. Làm như vậy là coi như xong việc.
Về mặt này tôi cũng hiểu được là cơ quan trung ương không thể tổ chức 1 bộ phận làm nhiệm vụ điều ra đối với hang vạn việc của 40 tỉnh, thành.
Cho nên tồn tại lớn hiện nay là hàng vạn đơn khiếu nại của nhân dân nằm chưa giải quyết nên quần chúng không haì lòng và tiếp tục đi gửi đơn ở khắp nơi.
Tôi nghĩ biện pháp tốt nhất là xây dựng ở mỗi tỉnh thành 1 tổ chức có trách nhiệm nhận đơn, điều tra và giải quyết vụ việc như 1 toà án.
8. Về tổ hoà giải.
Ở Việt Nam có tổ hoà giải là làm nhiệm vụ hoà giải và giải quyết nhiều vụ tranh chấp nhỏ. Hiện nay cán bộ hưu trí đều ở khắp nơi. Nhiều cán bộ còn có sức khoẻ muốn tiếp tục phục vụ. Tuỳ trình độ hiểu biết pháp luật có hạn nhưng họ có trình độ pháp luật và am hiểu về cuộc sống. Các cán bộ ấy nếu được hiểu đúng mức sẽ tham gia vào các tổ hoà giải. Vấn đề quan trọng là nhà nước cần có quy chế rõ ràng cụ thể về hoạt động của tổ hoà giải.
Trên đây là những ý kiến đóng góp về vấn đề chung, cần lưu ý đến những tồn tại (yếu nhược điểm) để tìm cách khắc phục đó là:
-
Cán bộ toà án
-
Tổ chức toà
-
Tổ chức điều tra
-
Xây dựng pháp luật có hệ thống.
Tôi nghĩ nên có hướng giải quyết các vấn đề có tính lâu dài và các vấn đề có tính cấp bách.
H¬Hí
Hướng lâu dài
I. Về cán bộ Thẩm phán
Tất cả phải tốt nghiệp Đại học pháp lý, và sau đó phải học tại trưòng giảng dạy về nghiệp vụ toà án về tâm lý học, tốt nghiệp trường này rồi mới làm Thẩm phán. Không để xảy ra tình trạng bầu Thẩm phán những người không đạt hay không có các tiêu chuẩn trên.
II. Về tổ chức toà án
Nên tổ chức 3 cấp
Toà án nhân dân liên quận, liên huyện.
Toà án nhân dân tỉnh hay thành
Toà án nhân dân tối cao.
a. Toà án nhân dân liên quận hay liên huyện.
Hiện nay ở mỗi quận hay mỗi huyện đều phải cấp toà án tưong đương trong lúc cán bộ Thẩm phán có nghiệp vụ không nhiều. Phải 1 thời gian khá dài nữa mới mong cán bộ có đủ trình độ đảm nhiệm tốt nhiệm vụ. Vì vậy hướng xây dựng là nên sát nhập 2 đến 3 toà án liên quận huyện. Chọn Thẩm phán có năng lực để giữ lại còn số khác đuợc cho đi học theo tiêu chuẩn hay chuyển ngành.
Ngoài ra cấp toà án này là cấp sơ thẩm có thẩm quyền xét xử tất cả các vụ án hình sự và dân sự, trình độ của Thẩm phán nhất định phải cao tưong xứng với nhiệm vụ .
b. Toà án nhân dân tỉnh hay thành.
Toà án như vậy chủ yếu xét xử về hình sự và dân sự. Ngoài ra, cũng xét xử sơ thẩm 1 số vụ án ngiêm trọng, phức tạp.
c. Toà án nhân dân tối cao.
Là cấp toà án lãnh đạo không xét xử thông qua 2 toà giám đốc hình sự. Do đó nên bỏ các toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao.
Những cán bộ Thẩm phán thừa ở các toà phúc thẩm này sẽ đưa vào tỉnh thành để củng cố toà án địa phương, chỉ giữ những Thẩm phán có năng lực để lãnh đạo xét xử qua giám đốc án, như vậy sẽ tránh được tình trạng hiện nay là có Thẩm phán cấp trên kém Thẩm phán cấp dưới do sự tuyển chọn trước đây.
III. Việc xây dựng pháp luật
Toà án là cơ quan xét xử. xét xử là vân dụng pháp luật. Phải đối chiếu các sự viêc với pháp luật hiện có, Trên thực tế trừ có loại việc liên quan đến hình sự hay hôn nhân gia đình có Luật pháp tương đối rõ ràng, các vụ án liên quan nhiều đến các lĩnh vực khác thì không có pháp luật, hoặc chỉ có quy định từng mảng. Thí dụ nhiều vụ án dân sự, thương mại không đủ Luật pháp làm chỗ dựa. Trong 1 số trưòng hợp từ TANDTC hướng dẫn cách xử lý, vượt thẩm quyền của mình vì TANDTC không phải là cơ quan lâp pháp.
Thực sự lãnh đạo chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề dựng pháp luật. Nếu quyết tâm thực hiện công tác này thì không phải là không có khả năng làm được, dầu chưa hoàn chỉnh. Trong hoàn cảnh đất nước phải đương đầu với nhiều công tác, xây dựng pháp luật nên không cầu toàn.
Như đã nói ở trên, về ngành toà án phải quan tâm sớm đến việc đào tạo cán bộ Thẩm phán. Cần giải quyết sớm việc điều chỉnh mức đãi ngộ (lương và quyền lợi khác) đồng thời tạo cho ngành toà án 1 vị trí tưong xứng với nhiệm vụ .
Hướng giải quyết 1 số vấn đề trước mắt.
a. a.
Đối với cán bộ Thẩm phán .
-
Chuyển ngành các Thẩm phán (bất luận cấp nào), không có năng lực về nghiệp vụ, không thể công tác trong ngành toà án được nữa.
-
Cho đi học dài han ở trường Đại học pháp lý hay trường toà án đối với Thẩm phán chưa có nghiệp vụ.
b. Đối với các cấp toà án.
-
Nghiên cứu hướng sát nhập 1 số toà án cấp quận huyện.
-
Nghiên cứu để kiến nghị tăng quyền hạn xét xử về hình sự và dân sự cho cấp toà án này.
-
Bố trí lại cán bộ Thẩm phán
-
Những và kiến nghị lãnh đạo quyết định đối với toà án tỉnh thành chủ yếu xét xử phúc thẩm.
-
Những việc bãi bỏ các toà phúc thẩm TANDTC.
-
Nghiên cứu lại chế độ xét xử ở sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm.
-
Nghiên cứu cải tiến chế độ HTND hiện nay.
-
Kiến nghị với trung ương sớm ban hành Luật dân sự thương mại và hành chính
ĐỔI MỚI ĐỂ TOÀ ÁN THỰC SỰ ĐỘC LẬP
Trần Quốc Thuận
Thẩm phán tand thành phố HCM -
Thưòng vụ hội Luật gia thành phố HCM.
Trong khí thế đổi mới hiện nay, việc đổi mới công tác tư pháp trong đó có đổi mới công tác toà án là vấn đề được mọi người mong đợi và rất quan tâm.
Đổi mới công tác toà án chính là để các toà án thực sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử, đảm bảo việc xét xử được công minh, kịp thời và đúng pháp luật .
Tôi xin nếu vấn đề thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử qua thực tiễn tại toà án TPHCM và các biện pháp bảo đảm độc lập xét xử .
I- Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đã được ghi vào Hiến pháp (điều 131). Luật tổ chức toà án nhân dân (điều 6) Bộ Luật tố tụng hình sự (điều 17). Nhưng trên thực tế trước khi mở phiên toà công khai xét xử lại thực hiện thỉnh thị và duyệt án là 1 lề lối làm việc được duy trì khá lâu và đã trở thành chế độ trong các toà án ở nước ta, trong đó có ngành toà án tại TPHCM.
Về thỉnh thị án. Trước khi xét xử gặp 1 số vụ kiện án phức tạp, toà án cấp quận, huyện gửi công văn cùng toàn bộ hồ sơ lên toà án thành phố (phòng giám đốc kiểm tra). Tại phòng giám đốc kiểm tra có 1 đồng chí nghiên cứu và báo cáo cho đồng chí phó hoặc chánh án toà án thanh phố để cho hướng giải quyết, mức án... rồi viết thành 1 công văn gửi xuống toà án cấp quận huyện lưu trong hồ sơ. Có khi cho ý kiến trực tiếp khi các đồng chi Thẩm phán , chánh, phó án mang hồ sơ lên báo cáo. Việc cho ý kiến này từ năm 1977-1987 chiếm khoảng 5-10% số vụ án, vụ kiện của các toà án quận huyện.
Việc làm trên đã bộc lộ 1 số nhược điểm:
-
Vi phạm nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán và hội thẩm nhân dân
-
Hội thẩm nhân dân trở thành hình thức, Luật sư bị vô hiệu, bị cáo, đương sự bị dồn ép theo 1 hướng định sẵn.
-
Không sát thực tiễn, không quan tâm đến diễn biến của phiên toà, các vấn đề mới nảy sinh không dám quyết định .
-
Kìm hãm, không phát huy trình độ chuyển môn, trông chờ, ỷ lại dựa dẫm cán bộ cấp trên.
Toà án phúc thẩm ngại sửa bản án, vì đã có ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo. Mất nhiều công sức vào sự vụ xét xử hộ cấp dưới biến nhiều vụ án, vụ kiện thành sơ chung thẩm. Từ đó buông lỏng nhiệm vụ chính của UBTP là tổng kết hội nghị chuyên đề, hướng dẫn xét xử, giám đốc các vụ kiện có sai sót
Vì các lý do nêu trên ngành toà án thành phố đã chấm dứt việc hưóng dẫn bằng văn bản cho cấp dưới trươc khi xét xử từ đầu năm 1988 và đã chuyển cho toà án chuyên trách (HS-DS) hướng dẫn, không cho đường lối cụ thể, mức án và chỉ xem như là giá trị tham khảo trong khi xét và không có ý kiến bắt buộc tuân theo như trước.
Về duyệt án: tưong tự thỉnh thị án, trước khi xét xét xử trong nội bộ toà án đã tổ chức họp thảo luận và định trước đường lối xử lý, mức án, cho ly hôn, bác đơn... Đối với vụ án, vụ kiện thông thưòng Thẩm phán chủ tọa phiên toà báo cáo nội dung hồ sơ trực tiếp với cá nhân đồng chí chánh, phó án hoặc chánh, phó toà- vụ án hình sự thưòng là đọc cáo trạng hoặc bản án nếu là án phúc thẩm- rồi đồng chí lãnh đạo cho đường lối, mức án ghi vào sổ rồi cứ thế mà xét xử .
Cách làm này từ nhiều năm qua cũng đã bộc lộ 1 số nhược điểm như đã nếu ở trên và thêm 1 số nhược điểm sau:
-
Viện KIểm sát ngại kháng nghị, bị cáo, bị đơn, nguyên đơn ngại kháng cáo vì biết án đã được duyệt.
-
Từ việc trên, nhiều khi do bản lĩnh cũng như trình độ pháp lý yếu, toà án đã hợp lý hoá những sai trái của cơ quan điều tra, dẫn đến sai, oan, lọt.
-
Toà án không hoặc đầy đủ quyền lực của mình đã ghi trong Hiến pháp, Luật .
II. Đứng trước tình hình nêu trên, chúng tôi thấy cần nếu 1 số biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử như sau:
1. Cần có kế hoạch đào tạo Thẩm phán trước mắt và lâu dài.
Để Thẩm phán làm chức năng như ta mong muốn, phải quan tâm đặc biệt đến đào tạo Thẩm phán, có quy chế nghiêm ngặt để tuyển chọn.
2. Phải qua 1 vòng thi tuyển thì mới đượclàm Thẩm phán .
3. Về tuổi, Thẩm phán quận huyện nên từ 30 tuổi, Thẩm phán tỉnh nên từ 40 tuổi trở lên.
4. Phải qua thời gian công tác nhất định làm công tác nghiệp vụ tại toà án.
Và để đảm bảo cho Thẩm phán làm tốt nhiệm vụ của mình phải giải quyết 2 vấn đề .
1. Tăng số lượng Thẩm phán vì Thẩm phán hiện nay làm việc quá tải, ví dụ ở toà án thành phố HCM mỗi Thẩm phán xét xử thưòng dưới 12 vụ có khi trên 20 vụ 1 tháng.
2. Nâng lương cho Thẩm phán để bảo đảm tương xứng với cường độ làm việc và tính chất lao động của họ.
Về tiêu chuẩn Thẩm phán: ở thành phố HCM, nguồn Thẩm phán đa số là chọn từ cán bộ chính trị, quân đội. Số được đào tạo chính quy chiếm tỷ lệ thấp (10-20%) tuỳ từng án. Để khắc phục tình trạng này nên mở lớp đào tạo từ 1 năm trở lên để bảo đảm giải quyết dứt điểm trong 1,2 năm sắp đến tất cả mọi Thẩm phán phải qua trường, lớp.
Thẩm phán phải qua thi tuyển nghiệp vụ pháp lý nhất là Thẩm phán xử phúc thẩm thì phải qua xét xử sơ thẩm 1 số năm (có Thẩm phán chưa học pháp lý đã ngồi xét xử phúc thẩm). Thường chúng ta chỉ nói đến lỗi cố ý (đã có chế tài hình sự ) còn lỗi vô ý, do nghiệp vụ yếu kém thì không chú ý, theo tôi nên có quy chế rõ ràng về tỷ lệ sai, mức độ sai đúng để xem xét trong việc đề bạt, nâng lương...
Về nguyên tắc cử Thẩm phán và nhiệm kỳ của Thẩm phán :
Dù là chế độ Thẩm phán bầu hay bổ nhiệm đều nhằm mục đích làm cho toà án thực sự độc lập, chỉ tuân theo pháp luật chứ không phụ thuộc 1 cách tuỳ tiện vào 1 tổ chức, cơ quan, cá nhân nào.
Theo ý kiến chúng tôi thì Thẩm phán nên do cơ quan quyền lực cao nhất bầu hoặc do Hội đồng nhà nước bổ nhiệm, nhiệm kỳ cùng nhiệm kỳ của cơ quan bổ nhiệm cũng có thể bầu hay bổ nhiệm 1 lần (suốt đời) trên cơ sở bảo đảm ngiêm ngặt tiêu chuẩn người Thẩm phán .
Về vai trò của Luật sư và quyền công dân .
Trước đây người ta quan niệm sai lầm rằng làm Luật sư làm cản trở công tác điều tra, xét xử. Nhưng qua thực tế, người ta rút ra việc tham gia quá trễ của Luật sư dẫn đến có vi phạm tố tụng hình sự. Dân sự, HNGD phải thấy rằng Luật sư giúp ích trong tất cả các khâu từ điều tra, truy tố đến xét xử. Luật sư góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan, làm cho mọi người có ý thức hơn trong việc chấp hành pháp luật .
Theo quy định ở Liên xô cứ 1 Thẩm phán có 3 Luật sư, hiện nay mới đạt 1 Thẩm phán , 1,8 Luật sư. ở thành phố HCM cứ 4 Thẩm phán mới có 1 Luật sư. Chắc chắn Bộ tư pháp sẽ tập trung hướng dẫn đẩy mạnh công tác Luật sư để phục vụ tốt hơn cho toà án xét xử là:
-
Do trình độ nghiệp vụ thấp của cán bộ (kể cả điều tra viên, Thẩm phán, kiểm soát viên).
-
Sự tham gia của bào chữa viên yếu, thụ động.
-
Những nguyên tắc tố tụng chưa được chấp hành ngiêm chỉnh.
-
Toà án chưa thực sự độc lập do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan.
-
Toà án chưa thực sự độc lập do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan.
-
Hội thẩm nhân dân yếu về nghiệp vụ.
-
Pháp luật còn chưa hoàn chỉnh và đầy đủ (nhất là trong lĩnh vực dân sự ), có những quy định không còn phù hợp, Thẩm phán khó vận dụng khi xét xử .
Để khắc phục tình trạng trên, có nhiều biện pháp như chặt chẽ hơn nữa tiêu chuẩn nghiệp vụ trong việc tuyển chọn Thẩm phán, đẩy mạnh hơn công tác Luật sư, tăng cường bồi dưõng kiến thức cho Hội thẩm nhân dân, tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật ... Ngoài ra cần tăng cường công tác giám đốc kiểm tra, nếu cần thì lập 1 toà án riêng chuyên giải quyết các bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm.
TOÀ ÁN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT
Cố giáo sư Nguyễn Ngọc Minh.
Ở nước ta, cũng như ở nhiều nước anh em, Hiến pháp hiện hành (điều 131) đều trang trọng ghi khi xét xử Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Luật tổ chức toà án còn nhắc lại nguyên tắc này trong điều 6.
Nhưng đó vẫn là mục tiêu- hình như còn xa vời- mà phải phấn đấu gian khổ lắm mới mong đạt được. ở Liên xô người ta còn nói đến cái nạn điện thoại, các nước khác với các danh từ khác nhau, người ta cũng nói đến cái áp lực từ nhiều phía, hoặc hữu hình hoặc vô hình, để làm cho toà án không xét xử độc lập, ở nước ta cái nạn này còn trầm trọng hơn. Tôi rất mong các toà án hãy thử thống kê xem:
1. Trong mỗi năm, 1 toà án có bao nhiêu vụ toà án không được độc lập trong công tác xét xử :
Và đồng thời cũng nên thống kê xem có bao nhiêu vụ tuy được độc lâp nhưng xét xử vẫn sai pháp luật .
2. Có bao nhiêu vụ vì Thẩm phán muốn độc lập trong xét xử mà bị trù, bị chuyển công tác...
Đảng ta cho phép nói thẳng, nói thật. Có như thế mới thấy rõ nguyên nhân và khắc phục được cái bệnh trầm trọng này.
Xin kể 1 số vụ án đã được nêu công khai trên báo, đài phát thanh và truyền hình:
1/ Nguyễn sỹ Lý bị toà án nhân dân tỉnh Nghệ tĩnh kết tội là đã giết người, bị kết án 17 năm tù, đã ngồi tù được 4 năm. Cuối cùng TANDTC đã kết luận anh Lý không phạm tội giết người. Vừa rồi trên tạp chí cộng sản, đài truyền hình Việt Nam đã nêu rõ anh Lý bị những người nào tra tấn, bị ép cung, mớm cung... Đến nay công luận đang chờ tin anh Lý được khôi phục danh dự, vật chất thế nào, và những người xét xử oan, dùng nhục hình, tra tấn sẽ bị xét xử ra sao.
2/ Anh Nguyễn Văn Nhiên ở Hậu giang, bị TAND tỉnh Hậu giang kết án 12 năm tù, đã ngồi tù 2 năm vì tội giết em vợ, cơ quan điều tra đã đào thấy cả bộ xương người em. Bỗng nhiên 2 năm sau em đó trở về, hoá ra em đó bị lạc, bộ xương được đào lên của em khác. ĐIều tra cách ấy, xét xử cách ấy có lẽ thật hiếm có.
3/ Thái văn Hùng chuẩn uý công an biên phòng ở Minh hải giữa thanh thiên bạch nhật trưa ngày 27.3.79 bắn chết thiếu uý công an biên phòng Lữ anh Dồi tại thị trấn đông người, giữa đưòng giao thông thuỷ bộ mà hơn 9 năm sau ngày 12,13.8.88 mới được đưa ra xét xử. Trong thời gian đó Nguyễn Ngọc kẻ chủ mưu lại viết báo cáo số 5 ngày 29.5.79 lên cấp trên nói Lữ anh Dồi là tên phản quốc bị bắn bỏ. Nguyễn Ngọc phó trưỏng ty công an và Thái văn Hùng được đề bạt, tăng lương sống ung dung ngoài vòng pháp luật. Tại phiên toà đồng chí Hoàng nguyên Viện trưởng Viện KIểm sát nhân dân tỉnh Minh hải hỏi Vụ án kéo dài hơn 9 năm mới được xét xử vì có sự bao che của ngành công an và đề nghị phải xử cả những người bao che làm khó khăn kéo dài vụ án này. Toà tuyên án phạt Thái văn Hùng tù chung thân, Nhưng Nguyễn ngọc kẻ chủ mưu lại bị 18 năm tù giam.
Cho đến nay nhân dân tỉnh Minh hải vẫn thắc mắc và nói thật ra cái gốc của vụ án vẫn chưa được giải đáp. Tại sao kẻ chủ mưu giết người lại phạt nhẹ hon kẻ thừa hành. Tại sao kẻ giết người lại được bao che suốt 9 năm.
4/ Đại tá Phạm văn Tợn và 4 người (quân khu 9) 2 năm bị oan. Toà đã kết luận Phạm văn Tợn không những không có tội, mà lại có công. Viện KIểm sát quân khu 9 làm sai, trong vụ việc này có nhiều vu khống. Công luận đang chông chờ Đại tá Phạm văn Tợn đã được khôi phục danh dự và bồi thưòng thiệt hại ra sao. Những kẻ vu khống, làm sai bị xử lý như thế nào.
5/ Ông Trương văn Nhân, đảng viên cán bộ chuyển ngành, đã nghỉ hưu, người bị oan bị thành phố Huế xử sơ thẩm ngày 28.11.1985, cùng kháng cáo lên cấp trên ngày 18.3.1986 toà án Bình trị thiên xử phúc thẩm y án sơ thẩm.
ÔNg Nhân tiếp tục kêu oan. Trước yêu cầu của ban đọc, báo Bình trị thiên cử cán bộ đến tìm hiểu sự thật, xin xem hồ sơ nhưng cán bộ toà án cứ hẹn nay hẹn mai. Vụ án có nhiều điều mờ ám. Cuối cùng đồng chí phó chánh án phải xem hồ sơ. Từ đó báo Bình trị thiên phát hiện toà án làm mất hồ sơ gốc. Trong biên bản xác nhận hồ sơ bị thất lạc chỉ có cán bộ của toà án ký. Nhiều người đặt câu hỏi hồ sơ bị thất lạc hay không có hồ sơ.
Có lẽ nêu 1 số vụ như vậy cũng đủ để thấy tình hình thật đáng lo ngại, để hiểu được phần nào công tác xét xử của ta hiện nay là để tìm biện pháp khiến cho toà án có thể xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .
Toà án không độc lập trong xét xử được là vì đâu:
Qua thực tế cuộc sống, có thể nêu lên 5 nguyên nhân sau:
1. Có sự can thiệp quá sâu, quá cụ thể của 1 số cấp uỷ Đảng, hoặc của cấp uỷ viên, thậm chí 1 cá nhân nhân danh đảng. Mà toà án cứ phải xét xử nếu không sẽ bị phê phánlà thoát ly sự lãnh đạo của đảng, không thấy rằng đảng lãnh đạo là lãnh đạo chính sách xét xử, lãnh đạo qua tinh thần về nội dung pháp luật mà Đảng chủ trương, và được nhà nước thể chế hoá thành tập Luật, can thiệp vào từng vụ án là không đúng, vì trong 1 vụ án có rất nhiều tình tiết rất cụ thể, phải xem xét nhiều mặt, đối chiếu nhiều yếu tố, nếu không thì không thể có 1 phán quyết đúng đắn.
Tình trạng bao che, hay tình trạng xử oan 1 phần cũng bắt nguồn từ đây. Không làm đúng những chỉ thị đã nhận được, thì người Thẩm phán khó mà đứng ở vị trí của mình.
2. Ỷ lại vào cơ quan điều tra, hoặc phu thuộc vào cơ quan điều tra, thoả mãn với kết quả cơ quan điều tra chuyển cho, nhất là khi cơ quan điều tra lại do 1 đồng chí có cương vị cao lãnh đạo. Một số ví dụ vừa nêu trên cho thấy rõ điều đó. Đáng lẽ toà án phải xem xét lại hết, phải kiểm tra lại, phải lắng nghe ý kiến của mỗi bên truớc mỗi phiên toà, xem bị cáo có bị ép cung, mớm cung... hoặc có bị 1 áp lực tinh thần nào không. Các chứng cứ có bị giả mạo không, hoặc lam cho sai lệch không... Nhưng vì tắc trách, ỷ lại không chịu thực hiện quyền độc lập của mình nên đã xảy ra tình trạng nêu trên.
3. Có bị phụ thuộc hoặc phụ hoạ với kiểm soát, nhất là Viện KIểm sát cấp trên. ở nhiều nước anh cả người ta cũng rút kinh nghiệm, Thẩm phán thuờng hay có thái độ thiên về bên buộc tội, củng cố thêm lập luận của bên buộc tội. Vừa rồi rút kinh nghiệm Liên xô cho rằng Thẩm phán phải giữ vai trò trọng tài. Nhiều bản án sai lầm xảy ra là do Thẩm phán không giữ được đứng vai trò này.
4. Có khi ỷ lại vào ý kiến của Thẩm phán cấp trên hoặc không phục tùng sự lãnh đạo của cấp trên. ĐIều này thể hiện rõ qua việc thỉnh thị án và duyệt án, từ lâu tồn tại như 1 lề lối làm việc. Không hiểu rằng toà án cấp trên khi cần hướng dẫn thì hướng dẫn chung về thi hành Luật, áp dụng Luật trong xét xử, còn khi đi vào 1 vụ án cụ thể, toà án có trách nhiệm xét xử phải tìm hiểu thật khách quan, cân nhắc mọi khía cạnh, mọi tình tiết, nghe mọi bên rồi mới có 1 phán quyết đúng đắn được.
Đây có thể là 1 thái độ sự trách nhiệm, nếu có xử sai thì đổ cho là cấp trên chỉ thị như vậy.
5. Nguyên nhân cuối cùng có thể là do trình độ chuyên môn của Thẩm phán kém, không hiểu Luật, dựa dẫm vào ý kiến này, ý kiến khác. ĐÃ cũng là sự thiếu bản lĩnh.
Làm gì để toà án được độc lập trong xét xử
Đây là 1 vấn đề nước sôi lửa bỏng ở nước ta cũng như ở nhiều nước trên thế giới. Tôi xin mạnh dạn đưa ra 1 số kiến nghị như sau, không phải trong 1 thời gian ngắn mà thực hiện được, mà phải qua 1 quá trình đấu tranh gian khổ.
a. a.
Về bản thân người Thẩm phán
1- Phải có trình độ hiểu biết pháp luật nhất định.
2- Phải hết sức thận trọng, chí công vô tư như Bác hồ đã dạy.
3- Phải dũng cảm bảo vệ công lý
Nếu không có lẽ không nên đi vào lĩnh vực này.
b. Về phần Đảng và nhà nước .
1. Cần kiên quyết chấm dứt nạn can thiệp vào công tác xét xử của toà án, Đảng và nhà nước đã giao cho toà án làm công tác xét xử, thì phải để họ làm và phải giáo dục họ làm với tất cả lương tâm và trách nhiệm của người có chức năng xét xử dưới CNXH.
Phải ngiêm minh thi hành điều 233 Luật hình sự tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật (bị phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm). Đồng thời thi hành ngiêm chỉnh điều 232 Tội ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật (khung 1, phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm, khung 2; phạt tù từ 2 năm đến 7 năm). Qua các vụ án oan uổng đã nếu ở trên và nhiệm vụ khác, xin hỏi những ai đã bị phạt theo điều 232, 233 của Luật hình sự .
Đây là vấn đề đổi mới cơ chế.
2. Phải lo đào tạo 1 cách thật ngiêm túc những cán bộ sẽ hướng vào ngành toà án. Tôi nghĩ giữa toà án nhân dân tối cao và tư pháp có thể hợp lực làm tốt công tác này, từ khi học sinh còn ngồi ở nghế trường Đại học pháp lý do Bộ tư pháp phụ trách đến các lớp bồi dưỡng và bổ túc từng đợt do toà án tối cao phụ trách. Nên huy động những giáo sư và nhà Luật giỏi nhất và Thẩm phán có nhiều kinh nghiệm vào công tác đào tạo này.
3. Còn chế độ bầu hay bổ nhiệm Thẩm phán, Đảng và nhà nước ta sẽ cân nhắc và quyết định, nhưng hướng là nên 10 năm và không để lệ thuộc vào bất cứ tổ chức cá nhân nào, và phải qua kỳ sát hạch ngiêm túc.
4. Cải tiến chế độ lương với Thẩm phán các cấp để họ có thể sống 1 cách chững chạc, không lệ thuộc vào đời sống vật chất.
c. Về toàn xã hội, tăng cường vai trò giám sát của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội và toàn thể mọi nhân dân. Nhưng khi có người phát hiện việc làm sai pháp luật hoặc những vụ oan ức kéo dài, các cơ quan có trách nhiệm phải xem xét ngiêm chỉnh, xử lý theo đúng pháp luật, không để người bị oan ức kéo dài, và những kẻ phạm tội hoặc làm sai pháp luật vẫn ung dung sống ngoài vòng pháp luật .
Trong cải cách tư pháp, thì toà án độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật là khâu then chốt. Nó là 1 đòi hỏi cấpbách của nhân dân hiện nay, vì nó quan hệ đến sinh mạng chính trị, thậm chí đến tính mạng của rất nhiều người.
THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC KHI XÉT XỬ THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT .
Nguyễn Quốc Thuỳ
Khi xét xử Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật - Là nguyên tắc Hiến pháp (điều 131) đã được ghi lại trong nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VI, gần đây trong nghị quyết ban chấp hành trung ương Đảng (thứ 6) tháng 3.1989 khi nói về nhiệm vụ đổi mới chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của hệ thống tư pháp đã nhấn mạnh phải tôn trọng hoạt động độc lập của toà án khi xét xử .
Như vậy, nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán không còn phải tranh cãi mà phải tôn trọng và chấp hành ngiêm túc, làm trái là hành vi vi hiên. Trong hoàn cảnh Việt Nam ta hiện nay do nhận thức chưa đồng đều, do điều kiện cán bộ, vật chất còn thiếu, các ngành hữu quan phải có trách nhiệm tìm biện pháp để bảo đảm cho Thẩm phán có điều kiện, khả năng thực hiện đầy đủ, đúng đắn nguyên tắc trên là chủ trương thiết thực.
Vì vậy, tôi hoàn toàn tán thành phạm vi nghiên cứu của Viện nghiên cứu khoa học pháp luật đề ra. Trong buổi hội thảo hôm nay tôi xin phát biểu 3 vấn đề :
1. Khẩn trương nâng cao trình độ Thẩm phán và các thành viên khác (trong cơ quan nhà nước) tham gia tố tụng ngang tầm nhiệm vụ là điều kiện quan trọng hàng đầu.
a. a.
Trước hết là trình độ Thẩm phán vượt lên tầm cao có khả năng phân tích phát hiện sai lầm thiếu sót của giai đoạn điều tra, truy tố và tự điều tra về dân sự, có khả năng nắm và vận dụng pháp luật không dựa dẫm mà có khả năng quyết đoán bảo đảm chính xác tuyệt đối.
(Tiêu chuẩn chính trị, pháp lý, văn hoá như hội nghị tư pháp toàn quốc lần thứ 6 đã đề ra)- Trước mắt là phải thanh toán 560 Thẩm phán tỉnh và huyện chỉ có trình độ sơ cấp pháp lý, vài chánh án tỉnh chỉ có trình độ pháp lý chung chung. Phải tiến tới đại hội hoá Thẩm phán toàn quốc và nâng cao sau Đại học và trên đại học.
b. Hội thẩm nhân dân không nên bầu quá nhiều như hiện nay (30,40 người /huyện)- số lượng ít nhưng có trình độ được bồi dưỡng pháp lý và cần có chế độ cho hội thẩm nhân dân thưong trực ở toà án.
c. Đồng thời phải nâng cao trình độ cán bộ điều tra, truy tố, công chứng, giám định, Luật sư (phải tạo được 1 hệ thống về tính đồng đều, sáng sủa quang Thẩm phán xét xử ).
2. Sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Luật pháp.
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật như vậy phải có pháp luật để tuân theo, là cơ sở để thực hiện nguyên tắc độc lập, nhưng hiện nay Luật dân sự, tố tụng dân sự và nhiều lĩnh vực khác chưa có, nhiều văn bản dưới Luật chắp vá, khấp khểnh, sai trái... vậy thì Thẩm phán lấy gì mà tuân theo: K.Mark..nói; ... quan toà độc lập... đối với quan toà khôn có cấp trên nào khác, ngoài pháp luật ... chừng nào còn thiếu pháp luật, chừng đó còn gây khó khăn cho Thẩm phán thực hiện nguyên tắc đôc lập xét xử, đó là lẽ di nhiên.
ĐyâY là vấn đề rất lớn, rất thiết thân của công tác xét xử, nhà nước phải quan tâm đúng mức, khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật .
3. Xây dựng quy chế hoạt động để đảm bảo giữ ngiêm quan điểm của Đảng và pháp luật của nhà nước trong mối quan hệ với đảng, các ngành:
a. Đối với sự lãnh đạo của Đảng:
Một lần nữa Nghị quyết 6 ban châp hành trung ương Đảng 3/1989 khẳng định; Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi... Đảng hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và theo đúng pháp luật ... Đảng là cơ quan lãnh đạo chứ không phải là cơ quan pháp lý ... Như vậy nếu để cấp uỷ Đảng ngồi xét xử cho mức án cụ thể từng vụ việc là trái với nghị quyết của Đảng và là hạ thấp vai trò của Đảng. Cần có quy chế, bảo đảm sự lãnh đạo của các cấp uỷ đối với công tác xét xử của toà án, không bao biện làm thay công tác xét xử .
b. Với toà án cấp trên.
Toà án cấp nào phải chịu trách nhiệm chất lượng bản án cấp đó, nếu bản án xử sai pháp luật thì phải xét xử lại theo trình tự tố tụng: phúc thẩm, giám đốc thẩm.
Phải có văn bản giải thích đúng đắn nhiệm vụ; hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và đường lối xét xử của toà án nhân dân tối cao (điều 20) Luật tổ chức toà án nhân dân. Theo tôi toà án tối cao thực hiện nhiệm vụ này bằng tổng kết xét xử, hướng dẫn bằng nghị quyết của hội đồng Thẩm phán, uỷ ban Thẩm phán ( có Bộ trưởng Bộ tư pháp + Viện trưởng Viện KIểm sát tối cao tham gia ) Toà án tối cao hướng dẫn không chỉ bằng thông tư, chỉ thị có tính chất quy phạm mới hoặc cho mức án, cách giải quyết cụ thể vụ án, vụ kiện. Phải bỏ ngay chế độ thỉnh thị án của toà án tỉnh, huyện, nhưng trong điều kiện hiện nay cần cải tiến tổ chức lề lối làm việc trong toà án tỉnh, huyện để Thẩm phán có điều kiện nghiên cứu án, xâm nhập vào cơ sở và mở rộng trao đổi, tham khảo ý kiến toà án các cấp (đối với những vấn đề không tiết lộ bí mật trước khi xét xử ).
c. Hội đồng bộ trưởng và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện.
+
Hội đồng bộ trưởng thực hiện tốt hơn nữa trách nhiệm quản lý tổ chức toà án nhân dân địa phương trên 3 phương diện.
- Đào tạo, bồi dưỡng phải làm khẩn trương, toàn diện để có đội ngũ cán bộ toà án vững vàng nhất là Thẩm phán, trong những năm trước mắt nên mở rộng hình thức luân huấn và tại chức để giải quyết số Thẩm phán chưa được học tập.
-
Tăng cường công tác kiểm tra xét xử phối hợp toà án tối cao tổng kết xét xử, xây dựng nhiều quy chế cải tiến chế độ công tác, chế độ thi đua khen thưởng Thẩm phán theo định kỳ với danh hiệu Thẩm phán ưu tú, Thẩm phán nhân dân, kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán cao cấp.
-
Cải tiến nâng cao tiền luơng, phụ cấp theo đặc điểm lao động, xét xử để bảo đảm cho cuộc sống thanh thản, hạn chế làm những nghề để bảo đảm tư chất Thẩm phán, đồng thời tăng thêm cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật cho hoạt động xét xử .
+
Hội đồng nhân dân .
+
Tăng cưòng giám sát hoạt động xét xử của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện.
+
Đổi mới chế độ bầu cử Thẩm phán và hội thẩm nhân dân.
+
Hội đồng nhân dân trên 1 cấp bầu cử Thẩm phán toà án nhân dân, Bộ trưởng bộ tư pháp cử chánh án, phó chánh án trong số Thẩm phán được bầu.
-
Hội đồng nhân dân bầu cử hội thẩm nhân dân của toà án nhân dân cung cấp .
Từ thực tiễn nghiên cứu trong công tác xét xử và quản lý tôi xin mạnh dạn trình bày 1 số ý kiến sau.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN, HUYỆN
Nguyễn Thị Bảo
Chánh án toà án nhân dân quận Hoàn kiếm -
Thành phố Hà nội
Theo quy định của pháp luật, cac toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền .
1. Xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự và những tội phạm theo quy định tại điều 145 Bộ Luật tố tụng hình sự .
2. Xét xử sơ thẩm những vụ án dân sự, lao động, hôn nhân gia đình và những vụ án khác do pháp luật quy định, trừ những việc mà đương sự là người nước ngoài hoặc người Việt Nam ở nước ngoài .
Còn chánh án toà án nhân dân cấp huyện có nhiệm vụ .
1. Tổ chức hoạt động xét xử và thi hành án của toà án.
2. Chủ toạ phiên toà hoặc phân công các Thẩm phán chủ toạ phiên toà.
3. Báo cáo công tác của toà án trước Hội thẩm nhân dân cùng cấp với hội đồng nhân dân cấp trên.
Có thể nói, càng ngày khối lượng công việc của 1 toà án nhân dân cấp huyện càng lớn, nhiệm vụ càng nặng nề hơn. Nếu không đổi mới kịp thời về tổ chức và hoạt động thì toà án nhân dân cấp huyện khó có thể đáp ứng được yêu cầu của tình hình. ở đây chúng tôi xin nêu 1 số vấn đề có tính cấp bách trong việc đổi mới 1 toà án cấp huyện, quận.
Hoàn kiếm là 1 quận trung tâm của thủ đô Hà nội. Đây là địa bàn tập trung khá phức tạp của tội phạm hình sự với các tranh chấp dân sự. Đơn cử 1 vài số liệu như sau:
-
Năm 1987 tổng số có trên 800 vụ, trong đó 505 vụ hình sự .
-
Năm 1988 tổng số có 1056 vụ, trong đó có 663 vụ hình sự .
-
Quý 1/1989 thụ lý 25 vụ kiện dân sự thì 21 vụ là tranh chấp nhà đất.
Với 1 toà án như quận Hoàn kiếm chúng tôi thấy cần nêu 1 số vấn đề sau:
Về tổ chức công tác cần thành lập các bộ phận:
1. Bộ phận hoạt động xét xử (Thẩm phán thư ký).
2. Bộ phận thi hành án (chấp hành viên, cán bộ đôn đốc thi hành án, cán bộ phụ trách kho tang, tài vật).
3. Bộ phận hành chính phục vụ (nhân viên đánh máy, kế toán, thủ quỹ, lưu trữ hồ sơ, nhân viên bảo vệ).
Về cơ sở vật chất tối thiểu cần thiết cho hoạt động xét xử :
1- Phòng xử án
2- Phòng nghị án
3- Phòng nghiên cứu hồ sơ của hội thẩm nhân dân, Luật sư
4- Phòng nghiên cứu hồ sơ và tiếp dân của Thẩm phán
5- Phòng làm việc của chánh án.
6- Phòng làm việc và tiếp dân của cán bộ thi hành án
7- Kho lưu trữ hồ sơ
8- Kho bảo quản tang, tài vật.
Nếu cơ sở vật chất tối thiểu như trên không đảm bảo được thì toà án làm việc sẽ khó khăn vì chật chội, khi có phiên toà sẽ lộn xộn khó bảo vệ, công tác bảo quản tang tài vật gặp khó khăn, dễ phát sinh các hiện tưọng tiêu cực.
Về đội ngũ Thẩm phán :
Trước yêu cầu mới, việc tiêu chuẩn hoá đội ngũ Thẩm phán là rất cần thiết. Về chuyên môn các Thẩm phán huyện, quận tiến tới phải có trình độ đại học pháp lý. Trước mắt riêng chánh án toà án nhân dân huyện, quận phải có trình độ đại học pháp lý. ở đây cũng cần chú ý 1 điểm là Thẩm phán nhân dân hiện nay làm việc ở 3 cấp : quận, huyện và toà án nhân dân tối cao. Họ xét xử theo thẩm quyền của mỗi cấp toà án do pháp luật quy định. Nhưng xét về thực chất 1 vụ án do toà án nhân dân cấp huyện xét xử, sau đó do có kháng cáo kháng nghị mà toà án nhân dân cấp tỉnh và cả toà án nhân dân tối cao xét xử theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm thì rõ ràng cả 3 cấp đều tham gia giải quyết được trực tiếp 1 vụ án mà điểm xuất phát là xét xử sơ thẩm ở toà án nhân dân cấp huyện ( có nhiều vụ án giám đốc thẩm của toà án nhân dân tối cao lại huỷ án phúc thâm của toà án cấp tỉnh và y án phúc thẩm của cấp huyện). Từ đó đặt ra, vấn đề đào tạo và bồi dưõng cho cả 3 cấp phải theo 1 chương trình thống nhất, không nên coi nhẹ bồi dưỡng chuyên môn cho Thẩm phán cấp huyện.
Một khâu công tác rất quan trọng của toà án nhân dân cấp huyện là thi hành án, ý nghĩa của việc thi hành án tôi xin miễn nói vì chúng ta đã thấy từ lâu. Có điều chúng ta vẫn chưa nói được công tác thi hành án trở lại đúng vị trí của nó. ĐIêu này có nhiều nguyên nhân, ở đây xin nêu 1 vài điểm của nó:
-
Nhà nước, đương sự được thi hành án và công luận luôn đòi hỏi phải tổ chức thi hành án kịp thời nhưng có 1 số cán bộ nhân danh cơ quan Đảng, nhà nước can thiệp vào làm cho vụ án khó thi hành, đồng thời người bị thi hành án thì ít khi tự nguyện thi hành, tìm mọi cách cản trở, thậm chí chống đối. Bên cạnh đó, công luận có khi chỉ mới nghe 1 phía mà đã phê phán toà án, là vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân .
-
Đối với người cán bộ thi hành án thì không yên tâm công tác. nhiệm vụ của họ thực sự khó khăn, khi đi thi hành án hay bị kẻ xấu công kích, xuyên tạc, bôi nhọ thậm chí bị hành hung như ở 1 số tỉnh mà báo đài đã nêu.
Chính sách đãi ngộ đối với thi hành viên quá thấp. Hiện tượng khá phổ biến là khi cán bộ được bầu làm Thẩm phán thì cảm thấy vinh dự, còn cán bộ được bổ nhiệm làm chấp hành viên thì băn khoăn, nhận nhiệm vụ do ý thức tổ chức kỷ luật nhiều hơn là do phấn khởi.
Về thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử chúng tôi thấy có 3 nguyên nhân làm cho người Thẩm phán không thực hiện được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình đã được Hiến pháp 1980 quy định (điều 131) đó là:
-
Kiến thức pháp lý chưa vững nên muốn dựa dẫm vào tập thể lãnh đạo.
-
Ý thức trách nhiệm chưa cao.
-
Còn lo ngại cho sự tiến thân của mình.
Ngoài ra còn có những nguyên nhân khác mà các đồng chí đã nêu trong buổi hội thảo vừa qua.
Chúng tôi cho rằng khắc phục 3 nguyên nhân trên đây thì chắc chắn sẽ bảo đảm tốt hơn nguyên tắc độc lập xét xử, nhất là đối với Thẩm phán của 1 toà án nhân dân cấp huyện, quận- nơi dễ bị chi phối bởi nhiều yếu tố địa phương .
Về chế độ tuyển cử Thẩm phán, các đồng chí tham luận nêu nhiều ý kiến khác nhau; bầu, bổ nhiệm, kết hợp giữa bầu và bổ nhiệm. Chúng tôi cho rằng vẫn nên duy trì chế độ bầu Thẩm phán như trước đến nay, bảo đảm cho nhân dân được trong xét xử như lời Lênin chúng ta phải tự mình xét xử lấy... Các hội thẩm nhân dân sẽ hoạt động tốt hơn nếu chúng ta thực hiện cải tiến về căn bản đối với tiêu chuẩn và thể lệ bâù. Cũng như điều kiện để họ tham gia xét xử. Có lẽ trong tình hình hiện nay, với 1 trình độ dân trí khá cao, nhiều người dân có khả năng tiếp cận nhanh nhạy với các vấn đề chính trị, pháp luật, kinh tế, nếu ngồi vào ghế hội thẩm và được hưóng dẫn đâỳ đủ hoặc sẽ tham gia xét xử không đến nỗi kém và toà án cũng không phải chật vật đi mời hội thẩm.
Về sắc phục của Thẩm phán và chấp hành viên.
Trong khi các ngành bảo vệ pháp luật khác như công an, Viện KIểm sát, kiểm lâm... có sắc phục khi làm nhiệm vụ thì Thẩm phán và chấp hành viên lại chưa có. Sắc lệnh số 13 ngày 24.1.1946 về tổ chức các toà án và các ngạch Thẩm phán đã quy định sắc phục của các toà án ngạch thượng thẩm và toà đệ nhị cấp và phù hiệu của Thẩm phán sơ thẩm. Chúng tôi cho rằng cần phải nghiên cứu 1 mẫu quần áo cho Thẩm phán khi xét xử vừa phải bảo đảm sự tôn ngiêm và bản sắc dân tộc vừa phù hợp với tính chất công việc.
Riêng đối với chấp hành viên thì sắc phục phải khác Thẩm phán và có càng sớm càng tốt để chấp hành viên thuận lợi khi thi hành nhiệm vụ .
Về đào tạo bồi dưỡng cho cán bộ toà án và chấp hành viên chúng tôi thấy:
1. Khoa đào tạo cán bộ toà án của trường Đại học pháp lý Hà nội cần đưa vào chương trình và giáo trình giảng dạy về nghiệp vụ thư ký, kỹ thuật phiên toà, kỹ thuật viết án và đặc biệt là phần thi hành án. Đồng thời giảng dạy thêm phần khoa học quản lý đối với tất cả các toà án và đặc thù của nó.
2. Đối với cán bộ Thẩm phán cần thưòng xuyên bồi dữơng kiến thức và nâng cao nghiệp vụ cho họ bằng nhiều hình thức, học tập trong nuớc, ngoài nước, tổ chức các hôi thảo khoa học về 1 số chuyên đề... Nếu người Thẩm phán dễ bị đi vào đường mòn, xét xử sẽ kém hiệu quả.
VỀ ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TUYỂN CỬ THẨM PHÁN
Chu văn Gia
Thẩm phán toà án nhân dân tối cao.
Nói về trách nhiệm và tư cách của người Thẩm phán tôi nhớ 1 Luật gia Xô viết đã nhận xét; người Thẩm phán trong chế độ XHCN phải có những tiêu chuẩn đạo đức liêm chính, trung thực, phải có lòng dũng cảm bảo vệ chân lý, không để cho bất kỳ 1 thế lực nào bên ngoài tác động làm sai lệch cán cân công lý) và người Thẩm phán phải là người có lòng nhiêt tình cách mạng, giầu lòng nhân ái, gương mẫu trong sinh hoạt, thừong xuyên trau dồi lý luận chuyên môn và chính trị nắm vững chính sách pháp luật để xét xử công minh.
Quy tụ lại người Thẩm phán cũng như cán bộ khác phải có đức, tài.
Người Thẩm phán có bằng cấp nhất định, song bằng cấp mới chỉ là điều kiện để phát huy năng lực vả lại trong 1 truờng không phải ai cũng tiếp thu như nhau. Tôi nói ngắn gọn là người Thẩm phán từ cấp huyện trở lên phải nắm vững đường lối chính sách pháp luật của đang nhà nước ta. ĐÅng thời phải là người cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, vì nước vì dân mà xét xử. Phong thái trước phiên toà đàng hoàng, điều khiển phiên toà mạch lạc, chính xác, thành công, vì toà án cấp nào cũng là nhân danh nhà nước khi ra bản án.
Tiêu chuẩn người Thẩm phán như vậy nhưng nhiều năm qua cách chọn của chúng ta còn hình thức. Ví dụ hội đồng nhân dân các cấp họp nhiều là 3,4 ít là 2 ngày. Mấy ngày đầu còn nghe báo cáo chung, còn lại 1 buổi là việc khác và bầu các Thẩm phán. Thời gian ngắn như vậy, còn những ngày trước phải mải mê công việc sản xuất hay lao động thì khó có thể lựa chọn người đủ tiêu chuẩn để bầu Thẩm phán .
Theo ý kiến cá nhân tôi, tôi thấy hội thẩm nhân dân vẫn nên duy trì chế độ bầu, còn Thẩm phán các cấp thì nên bổ nhiệm.
Thẩm phán bổ nhiệm có lợi ở chỗ:
1. Nhà nước ta sẽ tìm được nhân tài làm công tác xét xử, việc xét xử sẽ được sắc bén, làm tăng uy lực của nhà nước, góp phần đấu tranh chống tội phạm giữ gìn kỷ cương xã hội .
2. Bổ nhiệm thời gian dài hay vĩnh viễn để người Thẩm phán có thời gian trau dồi nghiệp vụ, tích luỹ kinh nghiệm xét xử, yên tâm xét xử. Ngược lại bất kỳ lúc nào cơ quan có quyền bổ nhiệm thì có quyền bãi miễn luôn nếu thấy năng lực không đảm đuương được nhiệm vụ hay phạm sai lầm ngiêm trọng. Để tránh tình trạng có Thẩm phán bầu ra sau phát hiện năng lực yếu nhưng họ không phạm sai lầm về đạo đức nên toà án cứ kéo dài đến hết nhiệm kỳ mới thôi, từ đó làm trở ngai hoạt động của toà án.
3. Người Thẩm phán được bổ nhiệm họ sẽ được độc lập hơn, họ sẽ không ngại ý kiến áp đặt của những người có chức có quyền . Họ không chạy ngược chạy xuôi lo toan tranh thủ vào những ngày bầu lại. Họ dám đấu tranh thẳng thắn, không dĩ hoà vi quý như 1 số người hiện nay. Có những người Thẩm phán trung thành với pháp luật, xử đúng pháp luật nhưng người thưa kiện sẽ tung tin xấu đối với họ do thù hằn cá nhân, hoặc nội bộ mất đoàn kết. đến ngày bầu người ta tố giác tung dư luận không hay nên hội đồng nhân dân không bầu, nỗi oan này đến bao giờ cấp trên mới biết đến, khi biết thì đã muộn mất. đặt giả thiết cấp trên biết kịp thời can thiệp, nhưng hội đồng nhân dân không bầu thì cũng khôg làm gì được. Do hoàn cảnh ấy người Thẩm phán có thể nghĩ thôi cứ xử theo ý lãnh đạo theo ý hội đồng nhân dân để tránh va vấp.
Có đồng chí lãnh đạo tỉnh đã nói với tôi tôi không sợ xử sai. Phúc thẩm sửa án mặc kệ, miễn là hội đồng nhân dân vẫn bầu tôi, cấp uỷ vẫn tín nhiệm tôi.
Muốn để Thẩm phán xử chí công minh, vô tư không bị vật chất hay tác động khác làm đảo lộn cán cân công lý thì ngoài việc bổ nhiệm Thẩm phán thì người Thẩm phán phải có những điều kiện nhất định sau thì họ mới hoàn thành nhiệm vụ .
a) Người Thẩm phán có đặc quyền tài pán (phán quyết) và bất khả xâm phạm danh dự, thân thể nếu người Thẩm phán không phạm tội quả tang. Việc xâm phạm thân thể đối với người Thẩm phán phải có sự đồng ý của cơ quan bổ nhiệm người Thẩm phán .
b) Phải đãi ngộ tưong xứng nhiệm vụ được giao, có nghĩa lương cao hơn cán bộ ngành khác có thâm niên, phụ cấp nghề nghiệp, phụ cấp phiên toà làm sao cho người Thẩm phán đủ ăn tưong đối và nuôi được 1 người con. Quần áo xét xử 2 bộ hè, đông 3 năm 1 lần, quần áo cùng 1 kiểu thống nhất và được ghi vào Luật .
c) Các cơ quan nhà nước tổ chức xã hội và mọi công dân Việt Nam có nghĩa vụ giúp mọi phương tiện cho người Thẩm phán hoàn thành công viêc được giao.
d. d.
Cấp giấy chứng nhận Thẩm phán cho Thẩm phán .
Cơ quan bổ nhiệm Thẩm phán là hội đồng nhà nước bổ nhiệm Thẩm phán toà án các cấp nhiệm kỳ vô thời hạn, danh sách do toà án tối cao và Bộ tư pháp đề nghị sau khi đã được sát hạch, trúng tuyển đủ tiêu chuẩn Thẩm phán sơ, trung, cao cấp. Mỗi nưm 1 lần hội đồng sát hạch tổ chức sát hạch trong cán bộ ngành để làm nguồn bổ sung Thẩm phán.
Chánh án toà án nhân dân tối cao do quốc hội bầu ra còn chánh án toà án nhân dân tỉnh, huyện, quận, thị xã do hội đồng nhân dân cùng cấp lựa chọn trong hàng Thẩm phán đã được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ của quốc hội, hội đồng nhân dân cùng cấp. Còn các phó chánh án toà án các cấp do hội đồng nhà nước bổ nhiệm Thẩm phán .
Vấn đề Thẩm phán bổ nhiệm trên đây là để xử đúng người đúng tội đúng pháp luật phục vụ chính tri từng giai đoan cách mạng của từng địa phương là điều cơ bản để thực hiện nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nói độc lập xét xử có nghĩa là xử đúng Luật không vì ngoại cảnh tác động làm sai lệch pháp luật chứ không có nghĩa độc lập muốn xử thế nào thì xử. Do đó muốn xử đúng pháp luật thì phải có năng lực, phải có đạo đức cách mạng như trên đã nói.
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TOÀ ÁN
Trần ngọc tấn
Phó chánh án toà án nhân dân TPHCM
Để đổi mới công tác toà án, trước hết cần xác định lại vị trí của toà án trong hệ thông các cơ quan nhà nước. Theo ý kiến tôi chức năng duy nhất của toà án lầ xét xử, toà án do cơ quan quyền lực cùng cấp bầu ra chịu sự quản lý của cơ quan tư pháp cấp trên. Như vậy có nghĩa là toà án không phụ thuộc vào cơ quan toà án cấp trên và quan hệ với toà án cấp trên chỉ là quan hệ tố tụng.
Trong công tác cán bộ ở toà án, việc lựa chọn các Thẩm phán có đủ tiêu chuẩn về năng lực lẫn phẩm chất là vấn đề mấu chốt. Vấn đề này gồm 3 mặt có liên quan chặt chẽ với nhau là đào tạo, lựa chọn và đãi ngộ. Công việc đầu tiên cần thực hiện là xây dựng chức danh tiêu chuẩn của Thẩm phán và cán bộ toà án các cấp, ví dụ về nghiệp vụ:
-
Thẩm phán quận, huyện phải có trình độ Đại học hoặc ít nhất là trung học pháp lý.
-
Thẩm phán tỉnh, thành phố phải có trình độ Đại học pháp lý trở lên.
-
Về chính trị; Thẩm phán quận, huyện và tỉnh thành phải qua các lớp trung cấp chính trị.
Nhà nước cần có kế hoạch đào tạo cán bộ toà án lâu dài, toàn diện và chủ đáo trên cơ sở tôn trọng ngành toà án, coi nghề Thẩm phán như 1 ngành lao động trí tuệ cao cấp chứ không phải 1 nghề đơn giản, thuần tuý hành chính sự vụ. Các Thẩm phán phải là người đã qua trường lớp đào tạo về chuyên môn chứ không phải làm Thẩm phán rồi mới bắt đầu tham dự các khoá học 1 cách hình thức. Hiện nay có tình trạng 1 số cán bộ được cử đi học ngành khác toà án đôi khi giữ các chức vụ chủ chốt lại không có kiến thức pháp lý và không có lòng yêu nghề nên không thể thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. ĐôI khi những đồng chí này trúng cử được cử đi học để bổ sung trình độ nghiệp vụnhưng lại tìm cách thoái thác và xin chuyển ngành.
Để lựa chọn được Thẩm phán vừa có phẩm chất đạo đức vừa có năng lực và trình độ chuyên môn có nhiều cach nhưng theo tôi cách tốt nhất là tổ chức thi tuyển. Ngoài ra điều đáng lưu ý là trong số những người có trình độ và phẩm chất tốt có người không phải là đảng viên, nhưng điều đó không thể gây trở ngại đến việc mạnh dạn đề bạt họ vào các chức vụ quan trọng mà trái lại cần thể hiện thái độ tôn trọng những người lao động có tài, đức. Sau nữa vấn đề tổ chức cán bộ và phân bổ biên chế vào từng toà án phải xuất phát từ sự công bằng của địa phương mà quyết định chứ không chỉ ước lượng theo số bình quân chủ nghĩa ( ví dụ toà án nhân dân TPHCM hàng năm thụ lý giải quyết gần ẳ số án trong toàn quốc mà tổng biên chế chỉ có 95người là chưa hợp lý) Ngoài ra mỗi toà án địa phương phải có cả biên chế đào tạo để sẵn sàng bổ sung cán bộ khi cần thiết. Về nhiệm kỳ của Thẩm phán theo tôi nên bằng 2 nhiệm kỳ của HĐND cùng cấp, ngoại hình của cán bộ toà án cũng là điều cần cân nhắc khi lựa chọn.
Về vấn đề quản lý toà án địa phương về mặt tổ chức theo tôi nếu công tác này được giao cho Bộ tư pháp nắm thì có lợi hơn cho sự xét xử của toà án ở những điểm sau:
-
Công tác đào tạo cán bộ toà án do ngành tư pháp đảm nhiệm.
-
Trong điều kiện Bộ tư pháp đủ mạnh để quán xuyến mọi công việc có liên quan đến tổ chức, các toà án có thể yên tâm giải quyết nhiệm vụ chính của mình là công tác xét xử .
Một điểm cần lưu ý nữa là hiện nay mức lương của cán bộ toà án không phù hợp với lao động trí óc căng thẳng của họ. Cần có chế độ đãi ngộ cao hơn với cán bộ toà án và có quy định rõ ràng, cụ thể mức lương của Thẩm phán, thư ký toà án cũng như chấp hành viên. Ngoài mức lương chính ra có thể bổ sung thu nhập bằng phụ cấp xét xử .
QUẢN LÝ THỐNG NHẤT KINH PHÍ CỦA CÁC TOÀ ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG - MỘT BIỆN PHÁP QUAN TRỌNG TRONG ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN.
Phạm Văn Kha
Vụ quản lý các toà án nhân dân địa phương.
Bảo đảm cơ sở vật chất tối thiểu cho các toà án hoạt động bình thường là 1 yếu tố quan trọng để các toà án thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử. Hiện nay việc quản lý về kinh phí và cơ sở vật chất cho các toà án có nhiều ý kiến khác nhau về cách thức mô hình quản lý. Trong bài này, chúng tôi xin nêu 1 số điểm và thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của vấn đề quản lý kinh phí và cơ sở vật chất cho các toa án nhân dân địa phương .
Qua nghiên cứu khảo sát chúng tôi thấy có 1 số nhận xét sau:
I. Về trụ sở và phương tiện làm việc của toà án:
Qua tài liệu của đoàn khảo sát (Bộ tư pháp và Bộ tài chính) ở 31 tỉnh và 34 toà án quận, huyện, thị xã và các báo cáo tình hình của các đồng chí chánh án TAND tỉnh, giám đốc sở tư pháp có thể đánh giá chung về cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ cho sự hoạt động của toà án địa phương cho đến nay như sau:
1. Toà án cấp tỉnh: Tổng số 44 đơn vị thì có 7 không có trụ sở làm việc, 16 đơn vị trụ sở và phòng án bị hỏng nặng phải sửa chữa lớn, 17 đơn vị xe ô tô con bị hỏng nặng đã trùng tu nhiều lân nhưng không thể khắc phục được, máy tăng âm 15 đơn vị chưa có, 15 đơn vị tuy có máy nhưng bị hỏng chỉ còn 14 đơn vị máy còn sử dụng được, máy đánh chữ yêu cầu mỗi đơn vị phải có 2 nhưng hiện nay số máy còn giá trị sử dụng là 58 thiếu 30.
2. Ở cấp huyện; Tổng số toà án cấp huyện 540 thì 21 đơn vị không có trụ sở, 51 đơn vị không có trụ sở, 51 đơn vị không có phòng xử án phải xét xử tại phòng làm việc hoặc nhờ vào cơ quan bạn, 83 đơn vị trụ sở và phòng xử án đã bị sập lở, dột nát cần sửa chữa, máy đánh chứ mỗi đơn vị phải có 1 cái nhưng hiện nay 162 đơn vị không có hoặc có nhưng không có giá trị sử dụng.
Máy tăng âm mỗi đơn vị cần có 1 bộ để phục vụ các phiên toà xử trọng điểm hoặc lưu động nhưng đến nay hầu như là không có hoặc có mà không còn giá trị sử dụng vì đã quá lâu.
Trang phục chế độ cho Thẩm phán, hội thẩm, thư ký ở nhiều tỉnh (nhất là ở các tỉnh miền núi) không có kinh phí để chu cấp.
-
Tình hình khó khăn thiếu thốn về trụ sở, phòng xử án nên trên đã ảnh hưỏng lớn đến uy tín của toà án. Sự thiếu thốn các phương tiện hoạt động cũng hạn chế nhiều đến kết quả xét xử, thi hành án và vi phạm về mặt tố tụng (thiếu máy đánh chữ không bảo đảm thời gian quy định về gửi các bản án, hồ sơ...). Khắc phục được tình trạng trên, qua tập hợp các yêu cầu của toà án địa phương ở mức khôi phục lại có thể hoạt động bình thưòng được cho toà án nhân dân cấp địa phương cũng chi phí hết 11.095.000000 đ. Các địa phương đều có văn bản xin trợ giúp của trung ương để có điều kiện xây dựng và chống xuống cấp cho các toà án.
II. Về cấp phát kinh phí;
Tình trạng cấp phát kinh phí cho toà an nhân dân trong những năm qua không đồng đều và chậm. Đa số các tỉnh, huyện cấp kinh phí áp dụng như các đơn vị hành chính sự nghiệp đơn thuần nên cấp theo phương thức 1 đ lưong cấp 1 đ kinh phí hoặc kinh phí hàng tháng cấp theo đầu người cán bộ nhân viên trong cơ quan. Một số tỉnh, huyện nhất là những nơi ngân sách khó khăn không tự cân đối được phải xin tự bổ sung thì toà án ở nơi đó càng khó khăn, chỉ được cấp lương. (Có thời kỳ chậm từ 2,3 tháng) và 1 số chi phí khác cho hành chính phí, không có kinh phí chi cho hoạt động nghiệp vụ. Ngược lại có 1 số địa phương (ngân sách ổn định) cũng cấp kinh phí thường xuyên như hành chính sự nghiệp đơn thuần và nếu toà án khéo tranh thủ cơ quan tài chính hoặc những vụ án cần phục vụ cho nhiệm vụ chính trị địa phương thì được bổ sung đợt suất khá lớn, dẫn tới chi tuỳ tiện, quá mức. Có khi chi tới hàng triệu đ cho 1 phiên toà trong đó chi ăn uống quá mức.
Về mặt pháp lý giữa Bộ tư pháp với Bộ tài chính cũng chưa có văn bản quy định kinh phí cấp phát cho ngành toà án cụ thể như thế nào để có sự thống nhất. Riêng chế độ bồi dưỡng cho hội thẩm nhân dân và các cán bộ tham gia xét xử trang phục cho Thẩm phán chấp hành viên tuy đã có văn bản của Bộ tài chính, Bộ tư pháp nhưng việc giải quyết còn chậm, có 1 số địa phương đến nay không còn kinh phí để trang cấp.
ở toà án cấp huyện, nhiều nơi không có dự toán thánh quyết toán kinh phí cũng là đơn vị báo sổ hàng tháng, quý chỉ sang tài vụ huyện tạm ứng 1 số tiền về cho cho hợp chứng từ lại sang thanh toán rồi tạm ứng cho hợp chứng từ. Cuối năm toà án cũng không được nắm được tổng số tiền được cấp và chi bao nhiêu. Do không chủ động được kinh phí nên nhiều lúc gặp khó khăn về tiền mặt không xin được tài chính nên không mở được các phiên toà để xét xử. Có 1 số nơi đã tuỳ tiện tạm vào tiền thu thi hành án hoặc vay nợ của công dân một thời gian khá daì.
Qua tập hợp kinh phí địa phương chi cho các toà án trong năm 1989 thể hiện như sau: Đối với toà án cấp tỉnh mới tập hợp 39/44 đơn vị đã chi 3 tỷ đ (còn thiếu toà án tỉnh Lai châu, Bến tre, Đồng tháp) chưa báo cáo. Toà án cấp huyện mới tập hợp 36/44 tỉnh (thiếu Vũng tàu, Côn dảo, Hậu giang... do sở tư pháp chưa gửi báo cáo) đã chi hết 3,2 tỷ đồng.
Theo số liệu chưa đầy đủ kinh phí đã chi 1989 là 6,3 tỷ. Nếu dự kiến lấy mức trụng bình của các đơn vị còn thiếu (toà án trung bình có 80 triệu/đơn vị. Tất cả các toà án huyện ở 1 tỉnh trụng bình có 100 triệu) thì tổng chi phí 1989 tới 7 tỷ rưỡi đông. Số kinh phí này chủ yếu chi phí hành chính. Sữa chữa nhỏ, và chi cho xét xử, cưỡng chế thi hành án. Xây dựng cơ bản trụ sở mới còn dở dang. Nếu tính cả xây dựng cơ bản bình thưòng hàng năm kể cả sữa chữa lớn, xây dựng và mua sắm phương tiện lớn (ô tô)... phải chi khoảng 3 tỷ nữa. Số 3 tỷ cho xây dựng cơ bản nêu trên là tham khảo qua thực tế chi tiêu của Viện KIểm sát nhân dân tối cao (đang quản lý kinh phí ngành dọc).
Trong khi đó số thu trong công tác thi hành án của 1989 chỉ mới được tập hợp ở 34 toà án cấp tỉnh đã thu đưọc 1,1 tỷ đồng cấp huyện, sở tư pháp chưa tập hợp được (có 4 đơn vị báo cáo) nhưng cấp huyện thu nhiều hơn cấp tỉnh.
III. Nguyên nhân việc xuất cấp về cơ sở vật chất của toà án nhân dân các địa phương.
Tình hình xuống cấp về cơ sở vật chất của toà án nhân dân các địa phương tất nhiên có nhiều. Song tập trung 1 số điểm chủ yếu sau:
1. Do ngân sách không tập trung, kinh phí cho hoạt động của toà án nhân dân các địa phương không thống nhất, phụ thuộc vào ngân sách địa phương và sự quản lý cấp phát của các sở tài chính. Nhiều địa phương không hiểu hết tính chất đặc thù trong hoạt động xét xử của toà án (xét xử về thi hành án, trang phục cho Thẩm phán, hội thẩm, thư ký và chấp hành viên phải theo quy định chung) nên dự toán kinh phí nghiệp vụ hàng năm của toà án thưòng bị cắt xén và chậm trong khâu xuất phát. Tình trạng cấp phát bình quân theo đầu người hoặc theo quỹ lương, không cấp phát kinh phí nghiệp vụ và xây dựng trong nhiều năm nay đã gây khó khăn trở ngại lớn cho công tác xét xử các vụ án và cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động của toà án. Cũng do không nắm được hoạt động nghiệp vụ nên cấp phát kinh phí chưa trúng và chưa đúng. Cái cần chi tiêu lại chi không đúng.
2. Kinh phí do các địa phương cấp phát, địa phương nào tự cân đối được ngân sách thì toà án ở những nơi đó việc chi tiêu bảo đảm được sự hoạt động bình thưòng, chỉ khó khăn về cơ sở vật chất vì không được cấp kinh phí xây dựng cơ bản. Cũng có 1 số địa phương giữ được mối quan hệ hoặc toà án khéo tranh thủ thì được cấp phát thường xuyên cộng với xin đột xuất nên việc ch tiêu rộng rãi hơn.
Ngược lại, ở những địa phương không tự cân đối được ngân sách, hàng năm ngân sách trung ương phải hỗ trợ thì toà án ở các nơi đó gặp rất nhiều khó khăn, chỉ được cấp lương và một ít chi tiêu hành chính .
3. Trụ sở làm việc và phòng xử án của toà án nhân dân địa phương xây dựng đã quá lâu. ở phía Bắc hầu hết xây dựng từ 1960 (đến nay trên 30 năm), toà án cấp huyện xây dựng phần lớn là nhà cấp 4, nhà tranh tre nứa lá, ở phía nam trụ sở của toà án là nhà xây dựng từ thời Pháp thuộc đã gần hết niên hạn sử dụng tư lâu. Sau miền nam nhiều toà án cấp huyện được phân làm việc vào nhà của tư nhân không phù hợp các hoạt động đạc thù của toà án.
Về mặt thời gian thì xây dựng nhà cửa đã quá lâu lại qua nhiều đợt bão lũ hàng năm và chiến tranh biên giới (thiên tai dịch hoạ) nên hư hại nhanh mà không có kinh phí để sửa chữa, bổ sung kịp thời.
4. Bộ tư pháp chưa quản lý trực tiếp ngân sách đối với toà án nhân dân địa phương, vụ quản lý toà án giúp lãnh đạo cấp Bộ nắm tình hình về cơ sở vật chất của các toà án địa phương cũng chưa thường xuyên và chưa chắc. Một số trường hợp phát hiện được tình hình rất khó khăn, có sự can thiệp trao đổi với cấp uỷ địa phương quan tâm nhưng kết quả chưa được như mong muốn.
IV. Quản lý thống nhất kinh phí để đáp ứng kịp thời về cơ sở vật chất, bảo đảm sự hoạt động theo chức năng của toà án nhân dân địa phương .
Trước tình hình cơ sở vật chất, nhất là trụ sở làm việc và phòng xử án của TAND các địa phương hiện nay chúng ta thấy không thể phó mặc trách nhiệm cho địa phương, không thể duy trì cơ chế cấp phát kinh phí bình quân, nhỏ giọt. Nếu càng kéo dài tình trạng này thì càng có nguy cơ đe doạ đến sự tồn tại trong hoạt động của TAND.
Yêu cầu về Luật pháp ngày càng cao, phát triển đồng bộ, có hệ thống các văn bản pháp quy. Pháp chế XHCN phải được tăng cưòng và tôn trọng. Toà án nhân dân các cấp theo chức năng, quyền hạn của mình, hình sự mang tính đặc thù. Có những công việc phải bắt buộc tuân theo những quy định theo trình tự tố tụng ghi trong các Bộ Luật không thể tuỳ tiện vận dụng 1 cách trái pháp luật. Từ việc phân công xét xử chuẩn bị xét xử, quyết định đưa vụ án ra xét xử, mở phiên toà công khai, ra 1 bản án đến tổ chức thi hành quyết định xong bản án của toà án đều quy định chặt chẽ, nghiêm ngặt. Trụ sở làm việc của cơ quan, của chánh phó án của các Thẩm phán và các Bộ phận cua toà án cũng phải được nghiên cứu thống nhất cho phù hợp và tạo điều kiện naang cao chất lượng nghiên cứu, xét xử vừa trang nghiêm về mặt hình thức. Các trang phục cho cán bộ làm công tác xét xử và thi hành án theo 1 quy cách chung.
Vì vậy ngân sách cấp phát cho các toà án nhân dân địa phương phải tập trung, điều hành thống nhất trong phạm vi cả nước do 1 cơ quan quản lý về tổ chức, nắm chắc về tính chất công việc trong hoạt động của các toà án chịu trách nhiệm trước ban quản lý .
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC HỘI THẨM NHÂN DÂN
Trần Quang Lê - HTND
I. Đổi mới về tư tưởng nhận thức.
Hoạt động của HTND nhiều năm qua chưa có hiệu quả thiết thực là do chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ về chức năng, vị trí, vai trò của HTNd trong công tác xét xử .
Nhiều người còn coi sự có mặt của HTNd trong phiên toà như hình thức để có vẻ toà án nhân dân, coi hoạt động của toà án nhân dân như bánh xe phụ. ĐIều này biểu hiện cụ thể ở ngay khâu đầu tiên là lựa chọn và giới thiệu người ra ứng cử HTND không theo 1 tiêu chuẩn nhất định về trình độ, về Thẩm phán mà lại theo lối cơ cấu, mỗi đoàn thể, cơ quan ban ngành sở đều có vài người.
kết quả là theo sự chỉ định và giới thiệu của các đơn vị kể trên, ta có đội ngũ HTND có thể nói là khá đông, nhưng chất lượng lại chưa đáp ứng được yêu cầu chưa bổ sung cho cái đang yếu và thiếu của toà án chưa phát huy thế mạnh của đội ngũ HTND để có 1 tập thể chất lượng. Thực tế cho thấy, chúng ta đang ở vào tình trạng vừa thiếu, vừa thừa HTND. Thừa vì có đồng chí HTNd xuân thu nhị kỳ tham gia xét xử, có đồng chí không tham gia phiên nào, lấy lý do bận, thậm chí có đồng chí cả khoá không có mặt mà có khi toà án cũng không biết nữa. Trong khi đó lại có HTND 1 tháng ngồi 7,8 vụ đến 10 vụ. Cá biệt có khi sáng ngồi 2 vụ chiều 1 vụ. Như vậy làm sao phát huy hiệu quả thiết thực. Từ thiếu sót về nhận thức cơ cấu trên dẫn đến thiếu sót thứ 2 là: bên cạnh nhiều đồng chí HTND phát huy được tác dụng của mình, cũng có 1 số đồng chí chưa phát huy đươc góc độ, chỗ đứng và trách nhiệm của mình, trách nhiệm trong nghiên cứu hồ sơ, trách nhiệm trong thẩm vấn, nghị án, với chỗ đứng cách nhìn của mình để có góp phần làm công tác xét xử được toàn diện hơn.
Hậu quả là HTND thường ỷ lại vào Thẩm phán để tình cảm chi phối, quá dễ dãi với bản án thiếu trách nhiệm với số phận con người. Hơn nữa ở mỗi phiên toà HTND lại chiếm số đông, vì vậy nếu có bản án sai, thì HTND cũng phải lãnh phần trách nhiệm của mình trước nhân dân và pháp luật .
Vì đâu có tư tưởng ỷ lại trên:
- Thiếu học tập, bồi dưỡng về nghiệp vụ pháp luật. Thường được mời tham gia vụ án không phù hợp nên không phát huy được mặt mạnh của mình.
- Vì không đủ thời giờ để nghiên cứu hồ sơ hoặc không chịu để thời giờ để nghiên cứu hồ sơ.
- Toà án chưa hưóng dẫn cho HTND cách nghiên cứu hồ sơ hợp lý, khoa học để làm mất ít thời gian nhất mà lại nắm được nhiều thông tin nhất (sẽ nói ở dưới).
- Mặt khác Thẩm phán và HTND còn chưa chú trọng đến các biện pháp giáo dục , cải tạo người phạm tội chỉ lo xử cho xong.
- Sau nữa là HTNd còn thiếu dũng cảm. Nói là không để lọt người lọt tội, cũng không làm oan dân, biết có lệch lạc nhưng vì lý do này nọ không mạnh dạn đấu tranh.
Một lệch lạc khác trong HTND tuy ít nhưng có đó là khuynh hướng đối lập với Thẩm phán hoặc nặng phần bảo vệ lợi ích của nhân dân,nhẹ phần bảo vệ chế độ, bảovệ chuyên chính vô sản, ngay trong bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhân dân. Cuối cùng là chưa phát huy được giáo dục phòng ngừa để kết hợp với bảo chí làm chức năng tuyên truyền giáo dục nhân dân tôn trọng pháp luật, bảo vệ những nguyên tắc chính sách của nhà nước, phát huy hiệu quả của công tác xét xử .
II. Về đổi mới tổ chức và lề lối làm việc.
Cần giải quyết sớm tình trạng vừa thừa, vừa thiếu trên bằng cách rà lại lực lượng HTNd, phân công công tác theo các chuyên đề, theo các nhóm tội danh, xem ai còn làm việc được, ai quá bận, hoặc không có điều kiện làm việc. ĐâY là vấn đề tự nguyện, tự giác không ép buộc, đã nhận thì làm việc với đầy đủ trách nhiệm. Nên có những quy định về tiêu chuẩn và yêu cầu nhất đinh đối với HTND để các đơn vị giới thiệu và tạo điều kiện cho họ làm việc.
Nhiều cơ quan đã tạo điều kiện để HTND làm việc ở toà án nhưng tích cực giúp đỡ, nhất là khi các cơ quan đã đi vào khoán việc, khoán lương, không ít dư luận đã có như cơm nhà lưong cơ quan việc toà án. Vậy điều kiện cho HTND làm việc phải có công văn của toà án yêu cầu các cơ quan tạo điều kiện cho HTND làm việc. Nếu bổ sung vào luận điểm này thì rất tốt.
Để tạo điều kiện cho HTND nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ, nên nên lịch mời sớm và tránh kéo dài tình trạng chữa cháy gây bị động, ra ngồi xử mà chưa kịp nghiên cứu hồ sơ. Ngược lại HTND cũng phải cho toà án biết sớm nếu có việc đột xuất để tránh bị động cho toà án.
Khi mời HTND tham gia xét xử, cũng nên căn cứ vào sở trường, sở đoản, chuyên đề, vụ việc mà mời cho thích hợp để phát huy đuợc chất lượng xét xử .
Về hình thức, cần có sắc phục riêng cho HDXX, đây không phải là hình thức phù phiếm, mà là sự kính trọng cần thiết với những người thay mặt nhà nước cầm cán cân công lý, sử dụng cho cả Thẩm phán và hội thẩm nhân dân để tỏ sự bình đẳng trong xét xử chỉ có khác chữ Thẩm phán và hội thẩm ở ve áo hay gù vai.
Sau mỗi vụ án quan trọng, HTND nên cùng Thẩm phán chủ toạ phiên toà làm trách nhiệm tuyên truyền giải thích nội dung vụ án và nhất trí với báo ddài để giáo dục pháp luật rộng rãi trong nhân dân. Mỗi vụ án quan trọng phải rút bài hoc kinh nghiệm cho nhân dân và cơ quan quản lý .
Một vấn đề quan trọng nữa là cần họp rút ý kiến về mỗi vụ án đã xử. Sau 3,4 tháng nên nêu ra 1 kinh nghiệm điển hình có báo cáo chuyên đề và trao đổi kinh nghiệm chung đối với HTND. ĐÃ cũng là cách học thực tế sinh động để bồi dưõng nghiệp vụ và rút kinh nghiệm chung. Chính ở hội nghị này cũng là nơi để rút kinh nghiệm những sai sót đáng tiếc về các văn kiện, về trật tự văn minh, lịch sư của các phiên toà...
Cuối cùng là vấn đề khen thưỏngkỷ luật về vật chất đề nghị thưòng xuyên xem mức phụ cấp cho thích hợp. Có phân biệt những vụ bình thừong và những vụ trọng án phải có đầu tư công sức nhiều. Bằng khen, giấy khen đề nghị cũng cần khuyến khích, tăng ý thức trách nhiệm cho HTND. Ngược lại nếu có sai lầm cũng nên xử lý ngiêm túc.
Tóm lại nên có biện pháp tăng chất lượng của HTND hơn là tăng số lượng. Nâng cao thêm ý thức vai trò của HTND.
PHẦN THỨ BA
LƯỢC THUẬT 1 SỐ CUỘC HỘI THẢO KHOA HỌC
BÁO CÁO
VỀ NỘI DUNG HỘI THẢO KHOA HỌC NGÀY 28.4.1989
Đề tài; Cải cách tư pháp
Chủ đề hội thảo: thực hiện Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Địa điểm; Thành phố Hà nội
I. Những người dự hội thảo.
1.Phùng Văn Tửu - Phó chủ tịch Quốc hội
2.Trần Đông UVBCHTW Đảng, thứ trưởng thứ nhất Bộ tư pháp
3.Nguyễn thị Chơn Thứ trưởng Bộ tư pháp
4. G.S Nguyễn Ngọc Minh Viện Nhà nước và PLUBKHXH Việt Nam
5. Nguyễn Văn Doãn Giám đốc sở tư pháp Hà nội
6. Trần Văn Nho Phó chánh án toà án nhân dân thành phố Hà nội
7 Trần thế Môn Chủ nhiệm đoàn Luật sư Hà nội
8. Nguyễn Khắc Công Vụ trưởng vụ Nghiên cứu pháp luật TANDTC
9. Nguyễn Quốc Thuỳ Vụ trưởng vụ QLTA địa phương BTP
10. Nguyễn Văn Thảo Viện trưởng Viện nghiên cứu khoa học pháp luật
11. Nguyễn Tất Viễn Phó viện trưởng viện nghiên cứu khoa học pháp luật
12. Nguyễn Đức Tuấn PTS Luật học VNCKHPL
13. Uông Chu Lưu PTS Luật học Viện NCKHPL
14. Lê Tiến Nhôm Chánh án TAND quận Ba đình Hà nội
15. Hoàng Thị Sơn Trường ĐHPL Hà nội
16. Nguyễn Thị Bảo Chánh án TAND quận Hoàn kiếm Hà nội
17. Cao Cuân Phong Viện NCKHPL
và nhiều cán bộ của VNCKHPL và BTP
II. Nội dung
1. Đồng chí Nguyễn văn Thảo Khai mạc
+ Tiếp theo đề tài những vấn đề lý luận về quản lý TAND địa phương về tổ chức, đề tài cải cách hệ thống tư pháp đã được triển khai.
Cuộc hội thảo hôm nay tập trung vào những vấn đề biện pháp bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật cuả Thẩm phán và hội thẩm nhân dân .
+ Nguyên tắc độc lập xét xử là nguyên tắc chung trong hoạt động xét xử của tất cả các nước, bất kỳ nằm trong hệ thống nào.
- Cấp trên của các quan chức hành chính là 1 người nào đó ở 1 cấp nào đó cụ thể, nhưng cấp trên của quan toà chỉ là pháp luật
- Ở nước ta còn thiếu nhiều yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới quá trình độc lập xét xử của Thẩm phán cụ thể là:
+ Chế độ thỉnh thị án
+ Chế độ phụ thuộc của toà án cấp dưới vào toà án cấp trên về mặt tổ chức.
+ Chế độ duyệt án ở ngay trong toà án địa phương
+ Vấn đề bầu cử Thẩm phán vẫn còn 1 số khó khăn
Có người đề nghị áp dụng chế độ bổ nhiệm Thẩm phán để tăng cường tính độc lập
+ Nhiệm kỳ của Thẩm phán quá ngắn
+ Vấn đề độc lập xét xử của hội thẩm nhân dân, kèm theo đó là tính tập thể trong xét xử (quyết định theo đa số).
+ Sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng, phụ trách từ phía UBND địa phương có ảnh hưởng nhiều mặt trực tiếp tới đời sống vật chất của các Thẩm phán (lương bổ, các chế độ đãi ngộ khác... )
- Cuộc hội thảo hôm nay cố gắng đề cập 1 cách toàn diện tới các yếu tố nêu trên.
2. Báo cáo của ban chủ nhiệm đề tài do đồng chí Nguyễn Tất Viễn trình bày:
- Toà án có 1 vị trí đặc biệt trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Công tác của các toà án có những nét đặc thù So sánh với công tác ở các cơ quan khác, thực hiện triệt để nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán và hội thẩm nhân dân là trọng tâm của việc đổi mới công tác toà án.
- Quan niệm về sự lãnh đạo đúng đắn của đảng đối với toà án trong hoạt động xét xử, đó không phải là sự can thiệp của đảng vào công việc cụ thể của toà án mà là sự chỉ đạo đường lôí và đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ toà án.
- Thỉnh thị án là 1 việc làm trái với nguyên tắc độc lập xét xử nên cần phải bỏ càng sớm càng tốt.
- Chế độ duyệt án: không còn phù hợp với tình hình thực tế hiện nay vì vi phạm 1 loạt nguyên tắc tố tụng.
- Độc lập khi xét xử liệu đã đầy đủ chưa. Vậy trước và sau khi xét xử có cần độc lập không.
- Hội thẩm nhân dân cũng là 1 người tham gia tố tụng và có ngang quyền với Thẩm phán, vậy họ cũng được quyền độc lập xét xử .
- Trong tình hình hiện nay nên có:
+ Toà hành chính ; giải quyết những vụ công dân kiện người có chức quyền
+ Toà đất đai: xét xử những vụ tranh chấp quyền sử dụng đất
- đặt giả thiết bản án giám đốc thẩm của toà án nhân dân tối cao có sai sót sự việc sẽ được giải quyết như thế nào.
- Tổ chức toà án cơ cấu nhân dân địa phương như thế nào cho tốt nhất để bảo đảm cho hoạt động xét xử có hiệu quả cao nhất.
3. Đồng chí Trần văn Nho;
+ Tổ chức toà án cấp thành phố
- Các chức năng chính của các bộ phận trong toà án là lãnh đạo xét xử, tham mưu cho lãnh đạo trong xét xử và tổ chức xét xử. Để thực hiện tốt 3 chức năng trên cần có cán bộ giỏi có uy tín.
- Phương thức tổ chức toà án thành phố: 2 toà chuyên trách (hình sự, dân sự ), 2 phòng (tổng hợp, thi hành án). Nhưng phòng tư pháp tốt nhất là chuyển cho sở tư pháp quản lý .
+ Vấn đề độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật
- Những khó khăn trong việc thực hiện hiện nay:
+ Trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán và hội thẩm nhân dân còn thấp
+ Sự can thiệp của bên ngoài (cán bộ có chức quyền tiêu cực trong xã hội )
+ Bản thân Thẩm phán chưa thấy được đòi hỏi cấp thiết để thực hiện nguyên tắc này.
+ Quản lý TADP về mặt tổ chức.
- Tư pháp quản lý toà án nhân dân địa phương là cần thiết.
- Cần làm cho Bộ tư pháp đủ mạnh để có thể quản lý tốt hơn TANd địa phương về mặt tổ chức.
4. Đ/c Nguyễn thị Bảo:
+ Tổ chức toà án cơ sở (quận, huyện).
- Toà án cơ sở hiện nay thực hiện 2 nhiệm vụ chính là xét xử và thi hành án.
- Cơ sở vật chất của toà án cơ sở chưa đáp ứng được việc thi hành nhiệm vụ, trình độ cán bộ còn chưa cao vì vậy còn gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện 2 nhiệm vụ trên.
_ Các nguyên nhân khác:
+ Khách quan: Tình hình xã hội phức tạp, tội phạm hình sự và tranh chấp dân sự có xu hướng tăng, pháp luật chưa đổi mới kịp thời, toà án cơ sở chưa được quan tâm đúng mức
+ Chủ quan: Chưa sắp xếp hợp lý cơ cấu của toà án, chưa thấy hết tầm quan trọng của công tác thi hành án.
- Hướng giải quyết
+ Nâng cấp cơ sở vật chất của toà án nhân dân quận huyện.
+ Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thích đáng đối với từng loại cán bộ toà án.
+ Thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử :
- Nguyên nhân dẫn tới thiếu độc lập trong xét xử
+ Kiến thức chuyên môn chưa vững
+ ý thức trách nhiệm còn thấp
+ Còn lo ngại sự tiến thân.
- Vấn đề bầu Thẩm phán : Hiện nay có sự thiếu thống nhất trong việc đề cử Thẩm phán từ cấp tối cao đến cấp quận huyện.
+ Nếu bổ nhiệm sẽ chưa có cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm bổ nhiệm.
- Trong tình hình mở rộng dân chủ hiện nay giữ nguyên chế độ bầu cử Thẩm phán là hợp lý.
5. Đ/c Nguyễn quốc Thuỳ
- Nguyên tắc độc lập chỉ tuân theo pháp luật của toà án là nguyên tắc hiến pháp- phải tạo mọi điều kiện để thực hiện tốt.
+ Biện pháp bảo đảm độc lập xét xử :
- Nhanh chóng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của Thẩm phán, hạn chế số lượng hội thẩm nhân dân, nâng cao chất lượng điều tra, giám định.
- Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện Luật pháp, muốn Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật phải có pháp luật đầy đủ.
- Phải đổi mới quan hệ của Đảng, chính quyền với toà án nhân dân địa phương .
6. Đ/c Trần thế Môn
+ Toà án sinh ra là để thực hiện công lý, không có công lý thì không cần toà án
+ tán thành việc tích cực loại bỏ sự can thiệp từ bên ngoài (cấp uỷ, ban nội chính) vào công việc xét xử của toà án.
+ Cấp uỷ can thiệp vào vụ án là 1 thói quen,vì vậy muốn xoá bỏ phải có việc làm cụ thể chứ không phải là ra văn bản .
- Chế độ thỉnh thị án: cũng là 1 lề lối làm việc cần bỏ, nhất là những trường hợp án bỏ túi.
- Dư luận cũng gây ảnh hưởng, làm Thẩm phán do dự khi quyết định .
+ Kiến nghị: Báo chí không được kết luận, kết tội trước khi xét xử mà chỉ có ý kiến sau phiên toà. Mọi kết luận hay tín tức nhằm kích động đều bị xử lý.
- Do việc Thẩm phán không độc lập, 1 loạt nguyên tắc hiến pháp bị vi phạm (xét xử tập thể, tranh luận, Luật sư...)
- Vấn đề gay cấn nhất là trình độ của Thẩm phán
+ Phải có trình độ đại học
+ Do hội đồng nhân dân cấp trên bầu
- Quy chế lập bản án chưa thống nhất nên có bản án lặp lại nguyên văn cáo trạng.
- Quan tâm hơn nữa đến cơ sở vật chất của toà án địa phương
Đ/c Nguyễn văn Doãn:
- GIữa toà án cấp dưới và cấp trên chỉ có quan hệ tố tụng chứ không có quan hệ hành chính, tránh sự can thiệp của toà án cấp trên vào việc xét xử cụ thể.
- Kiến nghị; yêu cầu về năng lực phẩm chất đối với Thẩm phán phải được đặt song song với nhau (Thẩm phán phải vững vàng với những cám dỗ cũng như de doạ từ bên ngoài).
+ Những người có trình độ Đại học pháp lý chỉ có thể được giữ trách nhiệm Thẩm phán sau 1 thời gian dài (5-10 năm) làm quen với công tác ở toà án.
+ Điều kiện hiện nay không cho phép Thẩm phán có thời gian nâng cao chất lượng nghiệp vụ tại các lớp học dài hạn vì vậy nên bố trí tham quan tổng kết rút kinh nghiệm.
+ Chế độ lương bổng và đãi ngộ khác về đời sống phải thích hợp với công tác ở toà án.
+ Phải nâng cao chất lượng của công tác điều tra, kiểm sát, Luật sư.
8. Đ/c Lê tiến Nhôm:
Kiến nghị; - thời hạn thực tập của Thẩm phán sau khi tốt nghiệp Đại học 5 năm.
- Gắn liền năng lực chuyên môn với phẩm chất.
- Nhiệm kỳ của Thẩm phán cần được kéo dài, bãi nhiệm cần hợp lý.
- Đời sống vật chất của toà án cần được nâng cao
- Nâng cao trách nhiệm và trình độ chuyên môn của hội thẩm nhân dân .
- Bãi bỏ chế độ thỉnh thị án
9. Đ/c Nguyễn ngọc Minh (đã đọc tham luận trong tập này).
10. Đ/C Hoàng thị Sơn:
TATC cần ra thông tư để giải quyết nhất thời và thống nhất quyền độc lập xét xử .
- Nâng cao trình độ hội thẩm nhân dân và có chế độ đãi ngộ thích đáng.
- Phải có tiêu chuẩn về mọi mặt đối với người được bầu làm Thẩm phán (cụ thể hoá điều 40 Luật tổ chức toà án).
+ Biện pháp cụ thể:
- Bồi dưõng kịp thời và thường xuyên về nghiệp vụ, phổ biến kinh nghiệm công tác .
- Cụ thể hoá tiêu chuẩn ứng cử viên Thẩm phán, và hội thẩm nhân dân .
- Bản án cần có sức thuyết phục và logic
- Cơ sở vật chất của toà án cần nâng cao.
11. Đ/C Trần Đông ; Qua thảo luận của các đồng chí có thể nêu mấy vấn đề :
- đã trách nhiệm quan niệm về sự lãnh đạo của đảng đối với toà án, đảng lãnh đạo là để cho toà án độc lập nhưng đảng không bao biện và làm thay toà án.
- Đã thống nhất bãi bỏ chế độ thỉnh thị án.
- Các chế độ khác như vấn đề tuyển cử Thẩm phán, nhiệm kỳ, quy hoạch, tiêu chuẩn, bồi dưỡng đào tạo Thẩm phán, thẩm quyền của toà án... sẽ tiếp tục trao đổi trong các hội thảo sắp tới.
12. Đ/C Nguyễn văn Thảo đã bế mạc và nêu dự kiến hội thảo đợt 2 tại TPHCM vào tháng 5- 1989.
LƯỢC THUẬT CUỘC
Hội thảo khoa học ngày 26.5.1989 của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý tại thành phố Hồ chí Minh
Đề tài; Cải cách tư pháp 86-98-001
Chuyên đề: Các biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .
Chủ toạ;
Đồng chí Nguyễn Đức Tuấn PTS Luật học Viện nghiên cứu khoa học pháp lý .
Những người dự hội thảo:
1. Trần Đông- UVBCHTW Đảng thứ trưởng thứ nhất Bộ tư pháp .
2. Nguyễn thị Chơn Thứ trưởng Bộ tư pháp
3. Luật sư Nguyễn thành Vĩnh chủ tịch hội Luật gia thành phố Hồ chí Minh, Nguyên chánh án toà án nhân dân thành phố HCM.
4. đồng chí Sáu Ngọc trưởng ban nội chính thành uỷ thành phố HCM.
5. Đồng chí Nguyễn văn Hội chánh án toà án nhân dân thành phố Hà nội.
6. Đồng chí Trần ngọc Tấn phó chánh án toà án nhân dân thành phố HCM
7. Đồng chí Nguyễn mạnh Bách Tiến sỹ Luật khoa, đoàn Luật sư thành phố HCM.
8. Đồng chí Trần quang Lê Hội thẩm nhân dân
9. Đồng chí Lại thanh Hồng chánh án toà án nhân dân quận 1 thành phố HCM.
10. Đồng chí Đặng thành Công chánh án toà án nhân dân quận III thành phố HCM
11. Đồng chí Lê hải yến Viện nghiên cứu khoa học pháp lý
12. Đồng chí Nguyễn tấn Diệp chánh án toà án nhân dân quận 10 thành phố HCM
13. Đồng chí Trần quốc Thuận Thẩm phán toà án nhân dân thành phố HCM
14. Đồng chí Hoàng trung Tiến chi hội trưởng hội Luật gia quận I thành phố HCM.
15. Đồng chí Nguyễn ngọc Hiến Hiệu trưởng trường Đại học pháp lý Hà nội.
16. Đồng chí Phan Tánh Thẩm phán toà án nhân dân thành phố HCM.
17. Đồng chí Lê thúc Anh thành phố HCM
18. Đồng chí Nguyễn Minh Chương phó chủ tich hội Luật gia thành phố HCM
19. Đồng chí Uông chu Lưu PTS Luật học Viện NCKHPL
20. Đồng chí Lại thu Hà Trưởng phòng Viện nghiên cứu khoa học pháp luật
Và nhiều đồng chí khác đang công tác tại cơ quan pháp luật ở thành phố HCM.
- Đồng chí Nguyễn đức Tuấn được thay mặt ban chủ nhiệm đề tài cải cách tư pháp đọc báo cáo thử nêu 1 số vấn đề về đổi mới tổ chức hoạt động của toà án hiện nay.
Các đồng chí Nguyễn thành Vĩnh, Trần quốc Thuận, Nguyễn tấn Diệp, Hoàng trung Tuấn, đặng thành Công, Trần quang Lê, nguyễn mạnh Bách, Trần ngọc Tân, Lại thanh Hồng đã đọc tham luận (1 số bài đăng trong tập phúc trình này).
Đồng chí Trần Đông phát biểu ý kiến về sự lãnh đạo của Đảng đối với toà án.
- Cần phê phán 2 khuynh hướng:
1. Tuyệt đối hoá tính độc lập của toà án, từ đó dẫn đến sự thoát ly của đảng
2. Một số cá nhân nhân danh Đảng mà can thiệp vào hoạt động xét xử của toà án.
- Cần bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử trong quan hệ giữa toà án cấp trên với toà án cấp dưới.
- Cần sớm xây dựng 1 quy chế lãnh đạo của đảng đối với từng cơ quan : toà án, kiểm sát, công an. Có thể thành phố HCM làm thí điểm trước để rút kinh nghiệm.
- Thẩm phán phải rèn luyện thể chất chính trị, trình độ chuyên môn, bản lĩnh nghề nghiệp để có đủ năng lực độc lập khi xét xử . Cần đổi mới việc tuyển chọn người để làm Thẩm phán .
- Hiện nay trong cả nước chỉ có khoảng 2/3 hội thẩm nhân dân hoạt động. Cần đổi mới cơ chế bầu Thẩm phán, chọn người thực sự làm việc có nhiệt tình và trách nhiệm .
Đồng chí Sáu Ngọc; Hoan nghênh hội thảo của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, cần tiếp tục mở các cuộc hội thảo khoa học để giải quyết nhiều vấn đề lý luận cũng như thực tiễn.
Trước hết cần có phân loại những kiến nghị cái gì có thể thực hiện được trước, cái gì phải làm từng bước để đổi mới toà án.
- Ngành tư pháp cần tập trung hoàn thiện pháp luật để toà án thuận lợi hơn trong việc xét xử .
- Hoạt động của toà án phải hướng vào dân chủ hoá đời sống xã hội, bảo vệ kỷ cương và pháp luật, góp phần đấu tranh chống tiêu cực, chống những vi phạm quyền dân chủ của công dân .
- Thành uỷ thành phố HCM luôn mong muốn và ủng hộ sự đổi mới của ngành tư pháp .
Đồng chí Nguyễn ngọc Hiến:
- Hiện nay cán bộ toà án của ta trình độ còn yếu Bộ tư pháp cần có hướng dẫn cụ thể về tiêu chuẩn hoá Thẩm phán ở mỗi cấp toà án.
- các địa phương cần phối hợp liên kết với trường đại học pháp lý Hà nội mở lớp bồi dưỡng riêng cho cán bộ toà án.
- Cần có chế độ đãi ngộ xứng đáng với lao động xét xử của Thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Đồng thời cũng phải xử lý nghiêm minh Thẩm phán, HTND nào vi phạm pháp luật .
Đồng chí Nguyễn minh Chương:
- Hiện nay ta chưa có quy chế về tiêu chuẩn và hoạt động của hội thẩm nhân dân, cần sớm ban hành quy chế này.
- Bộ tư pháp cần ra thông tư hướng dẫn thi hành điều 40 Luật tổ chức toà án nhân dân, phần nói về hội thẩm p .
- Cần thành lập 1 toà án xét xử các khiếu nại, tố giác của công dân để bảo đảm dân chủ và kỷ cương trong xã hội ta.
Đồng chí Nguyễn văn Hội: Những năm qua, chúng ta có những khuyết điểm trong quản lý nhà nước bằng pháp luật. Toà án với tính cách là 1 cơ quan trong bộ máy nhà nước cũng bị ảnh hưởng bởi những khuyết điểm đó. Nguyên tắc độc lập xét xử tham gia những năm qua chưa được thực hiện đầy đủ do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân về khách quan (như hoàn cảnh lịch sử cụ thể) và chủ quan (con người, nhận thức... ). Nếu không tìm phân tích kỹ những nguyên nhân này thì khó tìm ra giải pháp hợp lý để phát triển.
Đồng chí Phan Tánh:
Hiện nay cần sớm giải quyết những mâu thuẫn giữa yêu cầu độc lập xét xử và trình độ của Thẩm phán và hội thẩm nhân dân .
- Cần xem xét lại vấn đề duyệt án và thỉnh thị án. Nói là mang ý kiến chỉ đạo mang tính chất tham khảo nhưng trên thực tế thì lại có ý nghĩa quyết định đôí với Thẩm phán ra xử.
Hội thảo chưa bàn đến thư ký phiên toà, đây là 1 nhân vật tố tụng quan trọng, cần phải có quy chế hoạt động nghiệp vụ đối với họ cần phải sát hạch trước khi được cử làm thư ký phiên toà.
Đồng chí Trần Đông:
Cần hiểu và làm đúng nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VI về cải tạo XHCN. Chúng ta vẫn phải cải tạo xây dựng XHCN. Vấn đề là thực hiện cải tạo thế nào cho đúng. Toà án phải quán triệt nghị quyết của vấn đề này và xử cho đúng.
Về vấn đề giám đốc kiểm tra, Bộ tư pháp và toà án nhân dân tối cao đều thống nhất là phải tăng cường công tác này. Trong hội thảo có đồng chí phát biểu công tác giám đốc kiểm tra bị buông lơi vì bỏ phòng giám đốc kiểm tra là không đúng. Phải tăng cưòng công tác này, có thể tăng cả về số lượng và chất lượng cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát, nhưng bỏ trung gian (cấp phòng và trưởng phòng) mà chánh án và phó chánh án phải trực tiếp chỉ đạo bộ phận giám đốc kiểm tra.
Ngày 26.5.1989
Thư ký hội thảo
Lê Hải Yến
LƯỢC THUẬT HAI CUỘC HỘI THẢO KHOA HỌC
Ngày 18.6.1990 và 14.9.1990 Tại Hà nội
Những người tham gia ;
Trần Đông Nguyễn văn Doãn
Nguyễn văn Thảo Vũ văn Tuấn
Nguyễn quốc Thuỳ Lê ngọc Hải
Nguyễn văn Yểu Đoàn xuân Toan
Trần thư Nguyên Phạm nhẫm
Nguyễn đức Tuấn nguyễn Tất Viễn
Uông chu Lưu Nguyễn thi Bảo
Cao xuân phong
Nội dung thảo luận về các vấn đề :
1. Chế độ Thẩm phán bổ nhiệm:
Các đại biểu đều nhất trí về lâu dài nên thực hiện chế độ Thẩm phán bổ nhiệm ở TAND các cấp: Ngoài những lý do đã nêu ở các cuộc hội thảo trước, đồng chí Thuỳ còn nêuc chế độ bổ nhiệm tránh được hiện tương cục bộ địa phương. Còn nếu bầu thì những người ở tỉnh khác rất khó trúng thực tế đã có nhiều ví dụ;
Một số đại biểu đề nghị thời gian trước mắt có thể thực hiện chế độ Thẩm phán bầu kết hợp chế độ bổ nhiệm nhưng bầu hay bổ nhiệm đều phải qua đào tạo và sát hạch (thi tuyển): Trường hợp nếu bầu Thẩm phán toà án nhân dân địa phương thì danh sách đưa bầu cần được Bộ tư pháp xem xét.
Có 1 vài ý kiến cho rằng trong năm tới, Nên đề nghị HĐNN cho phép bổ nhiệm Thẩm phán toà án nhân dân địa phương trong những truòng hợp thật cần thiết (Khuyết Thẩm phán, lập các toà án mới mà chua có Thẩm phán ).
Ngoài ra nhiều ý kiến nêu lên việc bầu hội thẩm nhân dân cần tiến hành như thế nào để họ hoạt động thực sự có chất lượng. Vấn đề giáo dục chính trị và đạo đức của hội thẩm nhân dân cũng nên lưu ý đặc biệt vì trong các phiên toà sơ thẩm, hội thẩm nhân dân chiếm đa số hội đồng xét xử .
2. Về việc thành lập các toà án sơ thẩm khu vực.
Nhiều ý kiến đồng tính về việc thành lập các toà án khu vực ở những nơi ít vụ án, nhất là hiện nay đang xem xét lại vai trò của cấp huyện trong đổi mới tổ chức nhà nước. Tập trung 1 số huyện lại lập 1 toà án sơ thẩm khu vực sẽ tiết kiệm được cơ sở vật chất, biên chế. Tập trung được Thẩm phán giỏi về 1 nơi, phát huy được hiệu quả và công tác của Thẩm phán .
Một số đồng chí cho rằng cần giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa cơ quan điều tra, Viện KIểm sát với các toà án sơ thẩm khu vực, đồng thời giải quyết việc bất hợp lý ở chỗ toà án khu vực nằm trên 1 địa bàn riêng đi lại khó khăn. Giải pháp có thể là: Cơ quan điều tra và Viện KIểm sát từng huyện (trong phạm vi khu vực đặt toà án) tiến hành hoạt động bình thưòng theo Luật tố tụng. Và việc của Viện KIểm sát nào thụ lý thì sẽ truy tố ra toà án khu vực .
Việc đi lại xa xôi thì giải quyết bằng cách toà án khu vực sẽ xử lưu động (sẽ trang bị xe con tốt).
Có ý kiến cho rằng nên làm thử 1 số toà án khu vực để rút kinh nghiệm và sau đó sẽ triển khai trong phạm vi toàn quốc.
3. Về thẩm quyền của các cấp toà án.
Đa số ý kiến cho rằng nên tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự cho toà án nhân dân cấp huyện. Riêng về dân sự có thể chọn 1 số toà án quận, huyện có đội ngũ cán bộ vững để xử cả những việc hiện nay cấp tỉnh xử.
Có ý kiến cho rằng cần giao thêm cho toà án thẩm quyền xét xử các tranh chấp đất đai, các vi phạm hành chính và vi phạm hợp đồng .
Cần xem xét lại thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm của toà án nhân dân tối cao.
Cũng có ý kiến đề nghị bỏ xét xử chung thẩm mà duy trì toà án đặc biệt vì HIến pháp vẫn quy định vấn đề này, nhất là trong tình hình hiện nay.
4. Về công tác quản lý các toà án nhân dân địa phương .
Đa số ý kiến cho rằng chưa có tổng kết, So sánh 2 thời kỳ 1960-1980 và từ 1981 đến nay trong công tác quản lý TANd địa phương nên vẫn còn những ý kiến khác nhau. Hơn nũa TANDTC và Bộ tư pháp cho đến nay vẫn chưa ban hành được quy chế phối hợp nên vẫn còn vướng mắc trong khi thực hiện điều 16 Luật tổ chức TAND.
Tất cả đều thống nhất cầntập trung quản lý ngân sách của các TAND địa phương, nếu không thì toà án khó có điều kiện cải thiện cơ sở vật chất được. Việc này cần làm ngay không chậm trễ.
Nhiều đồng chí cho rằng nên chọn Thẩm phán từ khi họ là học sinh Đai học pháp lý, sau cho học qua lớp bồi dưỡng, có thi tuyển: Chấp hành viên cũng nên làm chặt chẽ như vậy.
5. Về vấn đề thỉnh thị án và duyệt án.
ĐA số ý kiến cho rằng tình hình hiện nay vẫn còn tồn tại lề lôi thỉnh thị án và duyệt án, tuy không còn nhiều nhưng nếu không loại bỏ dần thì vẫn tiếp tục vi phạm nguyên tắc độc lập xét xử. Hiện nay ta đã tương đối đủ điều kiện khách quan và chủ quan để loại bỏ lề lối làm việc cũ.
6. Kết luận:
Đồng chí Trần Đông phát biểu tại 2 hội thảo nói trên như sau:
- Đề tài cải cách tư pháp rất cần thiết và kịp thời và đáp ứng 1 phần yêu cầu của đảng và nhà nước từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Vì vậy nên tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa. Cần thêm nhiều thông tin hơn nữa về hoạt động của toà án trong và ngoài nước.
- Các biện pháp đổi mới toà án nêu ra cần có sức thuyết phục và phuương án đổi mới phải đồng bộ. Tiếp theo việc nghiên cứu đề tài, trên kết quả nghiên cứu đó, nên cần xây dựng phương án tổng thể về đổi mới toà án để trình cho cơ quan có thẩm quyền xem xét.
- Cần có tổng kết rút kinh nghiệm về công tác quản lý của các TAND địa phương để tiếp tục đổi mới công tác này.
- Đề tài cần có thêm số liệu về Thẩm phán, cơ sở vật chất của toà án, tỷ lệ số án đã giải quyết So sánh với số thụ lý để chứng minh các kiến nghị.
Hà nội ngày 21.9.1990
Người lược thuật
Nguyễn Tất Viễn
PHẦN THỨ TƯ
THÔNG TIN- TƯ LIỆU
MỘT SỐ NÉT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TOÀ ÁN NƯỚC TA
Cao Xuân Phong
Hơn 40 năm qua, cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác, các toà án ở ta đã góp phần khong nhỏ vào sự nghiệp bảo vệ và củng cố chính quyền, bảo vệ chế độ XHCN và quyền lợi chính đáng của nhân dân .
Qua mỗi giai đoạn phát triển của nhà nước XHCN, toà án lại được củng cố thêm 1 bước để đáp ứng kịp thời nhiệm vụ được cách mạng giao phó.
Ngay từ khi cách mạng tháng 8 thành công và nhà nước dân chủ đã ra đời, toà án đã được thiết lập với tính cách là 1 công cụ sắc bén bảo vệ thành quả cách mạng bảo vệ chinh quyền dân chủ nhân dân còn non trẻ.
Sau khi nhà nước ta tuyên bố độc lập chưa đầy 2 tuần, các toà án quân sự đã được thành lập ở nhiều nơi trong cả nước theo sắc lệnh số 33-c ngày 13.9.1945 của chính phủ lâm thời (sau đó được bổ sung bằng sắc lệnh số 21 ngày 14.2.1946), tại Bắc bộ Hà nội, Hải phòng, Thái nguyên, Ninh Bình; Tại trung bộ Vinh Huế, Quảng ngãi, Tại Nam bộ Sài gòn, Mỹ tho, toà án quân sự có thẩm quyền xét xử tất cả những người nào có hành vi phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, mọi nghị quyết của toà án quân sự đều có hiệu lực thi hành ngay, không có chống án. Trường hợp toà tuyên án tử hình thì tội nhân có quyền đệ đơn lên chủ tịch chính uỷ xin ân giảm, trong trường hợp này bản án sẽ được chấp hành sau khi có quyết định của chủ tịch chính phủ.
Song song với việc trừng trị bọn phản quốc. Việc trấn áp các tội phạm hình sự, xét xử hình sự, dân sự, thương mại và hôn nhân gia đình cũng được nhà nước chú trọng. Thời gian đầu công việc này được tạm giao cho các BHC phụ trách, sau đó hệ thống tư pháp toà án đã được thành lập theo sắc lệnh số 13 - SL ngày 24.1.1946 và sắc lệnh số 51 ngày 17.7.1946 và đảm nhận trách nhiệm xét xử này. Các sắc lệnh 13và 51 quy định rõ cách thức tổ chức hệ thống các toà án và các ngạch Thẩm phán, việc phân định thẩm quyền xét xử và quan hệ tố tụng giữa các cấp toà án, đồng thời quy định sự phân công công tác giữa các nhân viên trong tòa án (xem các sơ đồ 1,2). Theo sắc lệnh số 13, ở mỗi xã, ban thường vụ của UBHC xã gồm chủ tịch, phó chủ tịch và thư ký sẽ kiêm luôn cả việc tư pháp và thành lập ban tư pháp xã có thẩm quyền hoà giải các việc dân sự thương mại, phạt vi cảnh, thi hành mệnh lệnh của Thẩm phán cấp trên. Hệ thống toà án thời kỳ này gồm có 3 toà thượng thẩm (cấp ký) các toà án đệ nhị cấp tỉnh và các tòa án sơ cấp (huyện). ậ những nơi chưa có điều kiện thành lập toà án thì UBHC tạm kiêm việc tư pháp theo sắc lệnh số 228 ngày 18.2.1946. Việc quản lý các toà án do Bộ tư pháp đảm nhiệm. Hiến pháp 1946 đã quy định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của toà án trong giai đoạn này là: toà án độc lập xét xử , các Thẩm phán do chính phủ trung ương đảm nhiệm, việc xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia, xét xử công khai, quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm... Còn sắc lệnh số 13 lại quy định khá cụ thể về ngạch các bậc Thẩm phán, các tiêu chuẩn và chế độ tuyển cử, quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người Thẩm phán, các hình thức khen thưỏng, kỷ luật đối với Thẩm phán, chế độ kiêm nhiệm, thay đổi chức vụ, y phục của Thẩm phán các cấp. Theo quy định của sắc lệnh 13 và sắc lệnh số 51 các toà án sơ cấp và đệ nhị xét xử cả cơ thẩm (bị cáo có quyền kháng cáo), còn toà thượng thẩm chỉ xét xử phúc thẩm. Như vậy có nghĩa là ngoài vụ hình sự nhỏ (phạt tiền dưới 9 đ và bồi thường dưới 150 đ) và dân sự nhỏ (giá gạch dưới 150 đ) phần lớn các vụ án nếu có khác sẽ được xét xử qua 2 cấp (sơ thẩm và chung phúc thẩm). Các phụ thẩm nhân dân (hội thẩm) chỉ tham gia xét xử những phiên toà hình sự, còn các vụ án dân sự, thương mại thì Thẩm phán tự tham gia quyết định không có sự tham gia của phụ thẩm.
Ngày 23.8.1946 theo sắc lệnh 163 toà án binh lâm thời ở Hà nội đã thành lập với thẩm quyền xét xử các quân nhân phạm bất kỳ tội gì và những người khác khi phạm pháp có liên quan đến quân đội hay gây thiệt hại cho quân đội. Thành phần xét xử của toà án binh lâm thời ở Hà nội do Bộ trưởng quốc phòng và Bộ trưởng tư pháp cùng bổ nhiệm trong số các quân nhân chỉ huy hay các Thẩm phán cao cấp.
Bước vào giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, cấp kỳ tạm bỏ nên công việc toà án của các toà thượng thẩm bị tạm thời đình chỉ theo nghị định số 5- đặc biệt ngày 1.1.1947, việc phúc thẩm các án có kháng cáo giao cho hội đồng phúc án của từng khu đảm nhiệm (Nghị định số 44-đặc biệt ngày 12.4.1947 của Bộ tư pháp ). Hệ thống toà án được tăng cường cho phù hợp với tình hình kháng chiến. Bên cạnh hệ thống toà án tư pháp và toà án quân sự sẵn có, chính phủ đã thành lập thêm nhiều toà án binh. Ngay từ ngày đầu kháng chiến, toà án binh mặt trận đã được thành lập theo thông lệ liên bộ quốc phòng- tư pháp số 11 ngày 26.12.1946 để xét xử những người quả tang phạm tội phản quốc, gián điệp hoặc cướp của của các địa điểm dân chúng ở các nơi đang tác chiến. Bản án của toà án binh mặt trận mặt trận do hội đồng xét xử gồm có uỷ viên quân sự và chính trị từ cấp trung đoàn trở lên ở nơi đang tác chiến tuyên có hiệu lực thi hành ngay sau khi tuyên án. Ngoài ra trong mỗi khu có thể đặt ra thêm hoặc nhiều toà án binh (sắc lệnh số 19 ngày 16.12.1947). Các toà án binh này đều thuộc quyền quản lý của các uỷ ban kháng chiến- hành chính khu về chuyên môn thuộc quyền cục quân pháp, Bộ quốc phòng. Ngày 5.7.1947 sắc lệnh số 59 đã đặt ra toà án binh khu trung ương để xét xử các nhân viên phạm pháp thuộc các cơ quan trung ương của Bộ quốc phòng và Bộ tổng chỉ huy, kể cả cấp trung đoàn trưởng trở lên.
Năm 1950 là năm có những biến động quan trọng về tổ chức toà án. Sắc lệnh số 85 ngày 22.5.1950 quy định đổi tên các toà án sơ cấp, đệ nhị cấp và thượng thẩm trước đây thành các toà án nhân dân huyện, toà án nhân dân tỉnh (thành phố) và toà án nhân dân liên khu. Phụ thẩm nhân dân trước kia nay gọi là hội thẩm nhân dân, hội thẩm nhân dân có quyền xét xử cả về hình sự và dân sự, có quyền tham gia xét xử xem xét hồ sơ và biểu quyết (ngang quyền với Thẩm phán ). các hội thẩm nhân dân đều do hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp hoặc cùng cấp bầu ra mỗi năm 1 lần. Số lượng hội thẩm nhân dân ở các toà án nhân dân cấp tỉnh, huyện đều tăng hơn trước kia và nhiều hơn số lượng Thẩm phán, ở huyện ngoài ra còn có hội đồng hoà giải có thẩm quyền hoà giải các vụ kiện dân sự và ly hôn (trước đó các vụ ly hôn do chánh án toà án đệ nhị cấp trực tiếp cấp đơn và hoà giải), ở cấp xã trước đây có toà án hoà giải nay chỉ là uỷ viên trong ban hành chính xã phụ trách công tác tư pháp để giải quyết những xích mích và mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân bằng các biện pháp hoà giải.
Toà án nhân dân liên khu (theo sắc lệnh số 150 ngày 22.11.1950) trên thực tế là sự hợp nhất toà thượng thẩm và toà án quân sự để việc xét xử được thực hiện 1 cách nhonh chóng, tập trung và gọn nhẹ. Toà án nhân dân liên khu có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các bản án và quyết định sơ thẩm của các toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc thanh phố và xét xử các tội phản cách mạng.
ở những vùng địch tạm chiếm để tranh thủ chính quyền với địch, thi hành Luật pháp chính quyền nhân dân, để bảo vệ nhân dân và trừng trị bọn nguỵ quyền, sắc lệnh số 157 ngày 17.11.1950 thành lập toà án nhân dân vùng bị địch tạm chiếm có thẩm quyền như toà án nhân dân huyện, Toà án nhân dân tỉnh và toà án quân sự và xét xử với thủ tục đơn giản. Năm 1953 cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất được tiến hành. Sắc lệnh 151 ngày 12.4.1953 quy định việc trừng trị bọn địa chủ phạm pháp và sắc lệnh số 150 cùng ngày quy định tổ chức toà án nhân dân đặc biệt chuyên trách nhiệm vụ trừng trị những kẻ phản cách mạng, những kẻ chống phá chính sách ruộng đất và phân định thành phần giai cấp trong khi thực hiện chính sách ruộng đất. Toà án đặc biệt xét xử với thành phần gồm 1 chánh án và từ 6-10 Thẩm phán do hội nghị đại biểu nông dân cử ra.
Tháng 4 năm 1958 quốc hội quyết định thành lập toà án nhân dân tối cao và Viện công tố nhân dân trung ương, tách hệ thống toà án nhân dân và hệ thống công tố khỏi Bộ tư pháp thành 2 cơ quan trực thuộc hội đồng chính phủ. Sau đó, Hiến pháp 1959 đã quy định lại vị trí, chức năng và nhiệm vụ của hệ thống toà án nhân dân và hệ thống Viện KIểm sát nhân dân: 2 hệ thống cơ quan này không phụ thuộc hội đồng chính phủ mà chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước - quốc hội (điều 104, 108 Hiến pháp 1959). Theo hiến pháp 1959, hệ thống các cơ quan xét xử của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà gồm có: Toà án nhân dân tối cao, các toà án nhân dân địa phương, các toà án quân sự và trong trường hợp cần thiết quốc hội có thế thành lập toà án đặc biệt. Để đảm bảo cho nhân dân tham gia tích cực hơn nữa vào công tác xét xử và làm việc triệt để xét xử đúng pháp luật Hiến pháp nêu ra những chế định mới như: Thẩm phán bầu, toà án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử, 2 cấp xét xử ...
Ngày 14.7.1960 Luật tổ chức toà án nhân dân được ban hành. Luật này đã cụ thể hoá những quy định về tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân được ghi trong chương VIII của HIến pháp 1959. Luật này đánh dấu sự phát triển quan trọng trong việc kiện toàn và dân chủ hoá tổ chức vào hoạt động của ngành toà án. Lần đầu tiên pháp luật đã quy định rõ nhiệm vụ của mình trong giai đoạn mới là bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, trật tự xã hội, tài sản XHCN và quyền lợi hợp pháp của nhân dân, góp phần bảo đảm công cuộc xây dựng CHXH ở miền bắc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà được tiến hành thuận lợi. Các nguyên tắc tổ chức toà án và xét xử như, nguyên tắc bình đẳng, quyền bào chữa của bị cáo, xét xử công khai, 2 cấp xét xử, sự tham gia của hội thẩm nhân dân vào phiên toà với quyền tố tụng ngang với Thẩm phán chuyên nghiệp đều được nêu lên 1 cách rõ ràng và cụ thể trong Luật này.
Cho tới đầu năm 1960 Bộ tư pháp đã giải thể vì vậy việc quản lý các toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức được giao cho toà án tối cao đảm nhiệm. ĐIều 21 của Luật quy định toà án nhân dân tối cao nghiên cứu những quy định về tỏ chức tư pháp, thủ tục tố tụng, phụ trách việc huấn luyện, đào tạo cán bộ tòa án nhân dân .
Do đặc điểm của tổ chức hành chính nước ta thời kỳ đó, các toà án địa phương gồm có toà án nhân dân tỉnh(thành phố) toà án nhân dân quận (huyện) và toà án nhân dân khu vực tự trị (việt bắc, tây bắc), ở các khu vực tự trị tổ chức các toà án nhân dân địa phương sẽ do hội đồng nhân dân khu vực tự trị quy định căn cứ vào điều 95 HIến pháp và những nguyên tắc tổ chức toà án nhân dân. thẩm quyền xét xử sơ thẩm và phúc thẩm của các toà án nhân dân các khu tự trị được quy định trong các điều lệ quy định tổ chức của toà án nhân dân các cấp trong khu tự trị Việt bắc (được quốc hội phê chuẩn ngày 2.3.1963) và trong khu tự trị tây bắc (được quốc hội thông qua ngày 9.7.1963).
Luật tổ chức toà án 1960 không quy định 1 số điểm có liên quan đến chế độ Thẩm phán như; ngạch hạng, chế độ tạm quyền và thay đổi chức vụ y phục...
Sau hiến pháp 1980, Luật tổ chức toà án nhân dân mới đã được ban hành năm 1981 nhằm nâng cao hiệu lực hoạt động của hệ thống những cơ quan xét xử bảo đảm cho nó thực hiện đầy đủ chức năng của mình trong giai đoạn mới. Một số quy định mới đã được ghi nhận như các bản án và quyết định của toà án nhân dân khi đã có hiệu lực phải được nghiêm chỉnh thi hành (điều 13), toà án nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước khắc phục thiếu sót trong khâu quản lý làm phát sinh tội phạm và các cơ quan này có nhiệm vụ trả lời các kiến nghị đó (điều 14), phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các toà án với Viện KIểm sát, công an, thanh tra, Thẩm phán và các cơ quan khác trong việc phòng chống tội phạm (điều 18). Theo quy định của Luật mới, thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm của các toà án nhân dân địa phương được mở rộng hơn So sánh với trước. Từ giữa năm 1981 Bộ tư pháp đã được thành lập lại và việc quản lý toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ tư pháp đảm nhiệm (điều 16).
Cũng như Luật tổ chức toà án 1960, Luật mới cũng không đề cập đến sự phân chia ngạch hạng cũng như sự thay đổi chức vụ và y phục của Thẩm phán .
Hiện nay, theo Luật tổ chức TAND đã sửa đổi và bổ sung thì các toà án nhân dân bao gồm:
Toà án nhân dân tối cao:
Các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương.
Các TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Các toà án quân sự.
Trong tình hình đặc biệt trong những trường hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt. Quốc hội hoặc hội đồng nhà nước có thể quyết định thành lập toà án đặc biệt .
QUẢN LÝ TOÀ ÁN ĐỊA PHƯƠNG VỀ TỔ CHỨC NHỮNG CĂN CỨ KHOA HỌC - THỰC TIỄN- LỊCH SỬ.
(Tài liệu của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ tư pháp )
Trong bộ máy nhà nước, chính phủ là cơ quan quản lý cao nhất, quản lý toàn bộ các lĩnh vực; kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, đời sống xã hội, an ninh, ngoại giao, quốc phòng trong đó có quản lý tư pháp .
Từ năm 1945, khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong nghị định số 37 ngày 1.12.1945, đã giao cho Bộ tư pháp công tác quản lý bao gồm các nhiệm vụ sau:
- Công tác viên chức bao gồm việc bổ nhiệm viên chức các toà án, định cách thức tuyển cử các Thẩm phán và viên chức trong ngạch tư pháp, thăng thưởng các Thẩm phán viên chức tư pháp, kỷ luật, nghỉ phép, nghỉ hưu, ấn định các chức danh tư pháp .
- Công tác kế toán gồm việc soạn ngân sách của Bộ, phân chia các thu chi của các toà án, việc cấp dưỡng cho Thẩm phán và gia đình của họ, việc mua sắm vận dụng của các toà án.
- Công việc tổ chức toà án hình sự, dân sự, thương mại .
- Công việc kiểm soát thủ tục và thi hành các bản án hình sự .
- Công việc biện hộ trước toà (Luật sư, bào chữa).
- Công việc quản lý văn khế, hộ giá viên, thừa phát lại (thi hành án dân sự ).
- Công việc thống kê tư pháp và tư pháp lý lịch.
- Công việc quản trị các nhà lao và giáo dục tù nhân.
- Công việc thi hành các hiệp ước quốc tế về dân sự, thương sự. Thực hiện uỷ thác và tiến hành uỷ thác tư pháp với nước ngoài. Các việc xin bồi hoàn tổ hại chiến tranh.
- Việc xin nhập quốc tịch Việt Nam và các việc về quốc tịch .
- Việc xin đại xá và phóng thích.
Khối lượng lớn và công tác quản lý tư pháp, tập trung vào công tác quản lý toà án.
Về cơ quan toà án các cấp, theo sắc lệnh số 13 năm 1946 không kể toà án quân sự và toà án binh gồm có:
- Toà án sơ cấp ở quận, huyện, thị xã.
- Toà án đệ nhị cấp ở tỉnh.
- Toà thượng thẩm ở cấp kỳ- Toà thượng thẩm ở Bắc kỳ đặt ở Hà nội. Toà thượng thẩm trung kỳ đặt ở Huế- Toà thượng thẩm Nam kỳ đặt tại Sài gòn.
Các cơ quan toà án đều đặt dưới sự quản lý của Bộ tư pháp. Theo sắc lệnh kể trên Bộ trưởng Bộ tư pháp sẽ thiết lập các toà án kể trên dần dần ở các nơi, tuỳ điều kiện thuận lợi.
Trong các cơ quan toà án, ngạch Thẩm phán lúc đó chia ra 2 loại Thẩm phán buộc tội (như kiểm soát viên hiện nay) và Thẩm phán xử án. Những năm đó chưa có cơ quan kiểm soát như hiện nay, toàn bộ công tác thực hành công tố đều đặt dưới sự quản lý của Bộ tư pháp .
Hiến pháp đầu tiên của nước ta (1946) và sắc lệnh số 13 1946 đã ấn định toà án hoạt động trên các nguyên tắc :
- Trong khi xét xử phúc thẩm chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp (điều 69 Hiến pháp). Nguyên tắc naỳy được cụ thể hoá trong sắc lệnh số 13, ghi rõ toà án độc lập với cơ quan hành chính. Thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý (điều 47).
- Thẩm phán đều do chính phủ và Bộ tư pháp bổ nhiệm, Thẩm phán ở toà đệ nhị cấp (gồm cấp tỉnh và toà thượng thẩm) do chính phủ duyệt, chủ tịch nước bổ nhiệm, Bộ tư pháp trông nom toàn bộ vấn đề nhân sự và vật chất của các toà án (lương, tăng thưởng, kỷ luật, đào tạo... ) (sắc lệnh số 13).
_ Xử các việc hình sự có phụ thẩm nhân dân tham gia (điều 65 Hiến pháp).
Những nguyên tắc kể trên cho thấy rõ, ngay từ những năm tháng đầu tiên của chính quyền cách mạng, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chủ tịch Hồ chí Minh thể chế dân chủ đã được xem trọng trong tổ chức tư pháp. Thể chế đó thể hiện ở những điểm sau:
- Bảo đảm tôn trọng và thực hiện triệt để công bằng xã hội trong xét xử. Việc xét xử chỉ tuân theo pháp luật quy định, không bị 1 tác động nào, 1 sự can thiệp nào từ bên ngoài. Nếu xét xử sai, đã có 1 trình tự sửa chữa do cơ quan toà án cấp trên đảm nhiệm, phải làm theo đúng trình tự tố tụng. Quan hệ giữa toà án cấp này với toà án cấp khác là quan hệ tố tụng.
Thẩm phán chỉ trọng pháp luật và công lý- Như thế có nghĩa là quá trình thụ lý 1 vụ án, người Thẩm phán không chịu sự chỉ đạo của Thẩm phán cấp trên mà chỉ sự truyền phán của pháp luật .
- Các hoạt động quản lý xoay quanh công tác xét xử là hết sức đa dạng và phức tạp nhằm phuc vụ cho công tác xét xử có chất lượng, nói tóm tắt là công tác quản lý tư pháp. Nguyên tắc độc lập xét xử cũng có nghĩa là không việc quản lý xét xử. Quản lý tư pháp bao gồm việc tổ chức các toà án, đào tạo và bố trí cán bộ, chăm lo các điều kiện vật chất cho toà án, ấn định các quy chế hoạt động, kiểm tra công tác ...
Những năm 60, do điều kiện cụ thể, Bộ tư pháp đã giải thể và chuyển ggiao công việc quản lý tư pháp cho toà án nhân dân tối cao đảm nhiệm.
Đầu những năm 70, do thấy cong việc quản lý tư pháp không thể đặt trong toà án được, vì thế làm lẫn lộn công tác xét xử với công tác quản lý, đã lập ra uỷ ban pháp chế, sau đó đã chuyển uỷ ban pháp chế thành bộ tư pháp. Năm 1981 quốc hội đã ra quyết định thành lập lại Bộ tư pháp .
Trong tờ trình trước uỷ ban thường vụ quốc hội, Hội đồng bộ trưởng đã nêu rõ:
... Thực tiễn 20 năm qua chứng minh rõ viêc Hội đồng chính phủ, cơ quan chấp hành nhà nước cao nhất, cơ quan quản lý toàn diện công việc của nhà nước không có Bộ tư pháp là điều không hơp lý...
Việc thành lập uỷ ban pháp chế năm 1972 đã bước đầu thống nhất trở thành nhiều công tác quản lý tư pháp của chính phủ. Tuy vậy việc quản lý các toà án vẫn do toà án nhân dân tối cao phụ trách. Toà án nhân dân tối cao, với tính chất là 1 toà án, 1 cơ quan xét xử theo quy định của Hiến pháp, lại được giao làm chức năng, nhiệm vụ của 1 Bộ thuộc chính phủ, mà theo pháp luật thì lại không chịu trách nhiệm trước hội đồng chính phủ (chỉ chịu trách nhiệm truớc quốc hội), trong khi đó thì hội đồng chính phủ không nắm được tình hình thi hành pháp luật, không nắm được tình hình xét xử của các toà án, không gắn được việc chấp hành pháp luật với việc điều hành công việc chung của chính phủ, từ đó không chỉ đạo được hoạt động đấu tranh chống tội phạm và loại trừ các nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm và các hành vi phạm pháp khác.
Ở địa phương, uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương không nắm được tình hình thi hành pháp luật, tình hình xét xử ở toà án địa phương, từ đó không chỉ đạo được hoạt động đấu tranh, chống tội phạm và loại trừ các nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm và các hành vi phạm pháp khác ở địa phương .
Tình hình này kéo dài sẽ có hậu quả không tốt.
Hội đồng chính phủ phải là người quản lý toàn diện mọi hoạt động của đời sống xã hội kể cả quản lý tư pháp, Hội đồng chính phủ phải có Bộ tư pháp để giúp hội đồng chính phủ thống nhất quản lý công tác tư pháp .
quyết định của quốc hội dựa trên những luận cứ khoa học và đời sống thực tiễn của quản lý tư pháp, có thể tóm tắt trên những điểm lớn sau:
Thứ nhất, nguyên tắc xét xử chỉ tuân theo pháp luật của các Thẩm phán, là nguyên tắc HIến pháp truyền thống của nước ta xuyên suốt trong 3 bản Hiến pháp 1946,1959,1980. Nhìn rộng ra, tất cả các nước XHCN, đều công bố Nguyên tắc này trong Hiến pháp của mình.
Nguyên tắc xét xử như vậy bảo đảm dân chủ khách quan trong xét xử, đặc biệt là bảo đảm tính Đảng trong xét xử. ĐÃ là mọi hoạt động của đảng ta, nhà nước ta đều nhằm vào nhân tố con người vì mục tiêu phục vụ cho sư phát triển con người. Đúng người, đúng tội, đúng pháp luật luôn là điểm căn bản trong hoạt động xét xử .
Để bảo đảm cho nguyên tắc này phát huy tác dụng,phải tổ chức các toà án như thế nào để nó không phụ thuộc vào nhau. Mỗi cấp toà án, trong phạm vi thẩm quyền do Luật định có toàn quyền căn cứ vào pháp luật để tiến hành xét xử. Nếu 1 toà án nào xét xử có khuyết điểm, sai lầm thì đã có 1 trình tự tố tụng bảo đảm tính đúng đắn, chính xác. ĐÃ là trình tự chống án của đương sự, kháng nghị của Viện KIểm sát, xử phúc thẩm của toà án cấp trên, tiến hành giám đốc thẩm và tái thẩm đối với những bản án đã có hiệu lực...
Nguyên tắc xét xử chỉ tuân theo pháp luật của các Thẩm phán được bảo đảm và hoàn thiện thêm do chúng ta có chế định hội thẩm nhân dân, trong đó hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán chuyên môn.
Lao động xét xử là 1 loại lao động đặc biệt. đặc trưng của nó là việc nghiên cứu , đánh giá của cá nhân con người Thẩm phán đối với toàn bộ hồ sơ vụ án, 1 việc không thể nhờ thư ký làm thay, mà việc đó cũng là việc đánh giá kết quả hoạt động của cơ quan điều tra và cơ quan kiểm soát. Diễn biến của vụ án đối với toàn bộ quá trình điều tra, khởi tố dự thẩm làm quá trình điều tra làm cáo trạng là hết sức phức tạp mà người Thẩm phán lại đánh giá nó thông qua 1 tập hồ sơ. Do đó lao động xét xử là 1 loại lao động tổng hợp nghiên cứu .
Cùng với đặc điểm đó, lao động xét xử là huy động nhiều tổ chức (kiểm soát, Luật sư, bào chữa, giám định... ) tham gia tranh luận công khai trước phiên toà, và tìm ra chân lý thông qua sự tranh luận đó. ĐÃ là 1 quá trình dân chủ, đồng thời là 1 quá trình bảo đảm công lý. Lao động xét xử có tính khoa học và là nghệ thuật của Thẩm phán khi xét xử. Những đặc điểm đó của lao động xét xử đòi hỏi người Thẩm phán phải giao thẩm quyền độc lập và có trách nhiệm cá nhân trước pháp luật, nếu xử sai.
Thứ hai, - Mối quan hệ giữa toà án nhân dân cấp trên với toà án cấp dưới, xuất phát từ nguyên tắc xét xử kể trên là mối quan hệ tố tụng chứ không phải là mối quan hệ quản lý .
Trong quan hệ tố tụng, mỗi toà án theo thẩm quyền Luật định, xét xử theo pháp luật - Toà án cấp trên muốn xử phúc thẩm, muốn cải sửa, sửa án, huỷ án phải làm đúng trình tự tố tụng, không thể ra lệnh.
Trong quan hệ quản lý, các hoạt động diễn ra theo phương pháp hành chính (chứ không diễn ra theo phương pháp tư pháp tức là tranh tụng), Các quan hệ giữa cấp trên, cấp dưới là quan hệ ra lệnh, phục tùng và chịu sự chỉ huy.
Nếu trong cơ quan toà án lại áp dụng phương pháp hành chính, toà án cấp trên ra lệnh cho toà án cấp dưới, toà án cấp trên chiu sự chỉ huy, phục tùng của toà án cấp trên sẽ mất tính khách quan, đồng thời vô hiệu hoá hoạt động của hội thẩm nhân dân, cơ quan kiểm soát và cơ quan điều tra.
Thứ ba, - Trong bộ máy nhà nước, hoạt động quản lý (HIến pháp thường gọi là chấp hành và hành chính ) là hoạt động chủ yếu của Hội đồng bộ trưởng.
Hoạt động Bộ trưởng là cơ quan quản lý cao nhất có trách nhiệm quản lý toàn diện, quản lý kinh tế , văn hoá, giáo dục, y tế, đời sống xã hội, an ninh quốc phòng, ngoại giao và quản lý tư pháp .
Không thể tách quản lý tư pháp ra khỏi hội đồng bộ trưởng vì nếu để toà án cấp trên quản lý toà án cấp dưới sẽ biến toà án là cơ quan xét xử đồng thời lại là cơ quan quản lý, trái nguyên tắc Hiến pháp quy định toà án chỉ là cơ quan xét xử .
Quản lý tư pháp (trong đó có quản lý toà án địa phương là trách nhiệm của HĐBT và UBND là để phối hợp việc quản lý này với toàn bộ việc quản lý khác kinh tế, xã hội ... làm cho mọi hoạt động ăn khớp, nhịp nhàng, không có tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Biểu hiện tập trung của sự phối hợp quản lý các mặt, các lĩnh vực thường được chúng ta minh hoạ là công tác xét xử phải phục vụ kịp thời các nhiệm vụ chính trị của cả nước và từng địa phương .
Nếu các toà án nằm ngoài quỹ đạo của cơ quan quản lý (chính phủ và các UBND) không thấu suốt các yêu cầu quản lý sẽ rất dễ đi vào khuynh hướng chuyên môn đơn thuần, quản lý một đường xét xử 1 nẻo.
Quản lý tư pháp còn phải tạo nhiều điều kiện để cho hoạt động xét xử, phối hợp nhiều cơ quan khác (công chúng, giám định, Luật sư bào chữa, hộ giá... ) góp phần nâng cao chất lượng xét xử , công việc phối hợp và chỉ đạo của các cơ quan đó không thể giao cho cơ quan xét xử mà phải do cơ quan quản lý phụ trách.
Những quan điểm kể trên tuy đã được chấp nhận chúng thì thói quen tổ chức cải cách toà án như hệ thông một Bộ đã tồn tại quá lâu thành 1 nếp mòn trong nhận thức. Gần đây nghị quyết của đảng nêu cơ quan nào nắm việc thì phải nắm cán bộ. Do đó đã có ý kiến là toà án tối cao quản lý xét xử cần quản lý tổ chức.
Về sự thống nhất giữa quản lý công việc và quản lý con người cần hiểu như thế nào cho đúng. Nghị quyết của đảng từ lâu quản lý nghiệp vụ phải quản lý tổ chức là nguyên tắc của hoạt động quản lý, hoạt động chấp hành và điều khiển, không thể áp dụng cho việc xét xử. Trong hoạt động xét xử không có quản lý các khâu các cấp độc lập và chỉ có các quan hệ tố tụng.
Cũng phải thấy rằng nắm hoạt động xét xử không phải chỉ có toà án cấp trên mới nắm được tình hình xét xử của toà an cấp dưới. Muốn nắm được công tác xét xử của toà án cần phải thông qua những biện pháp gì. Theo Luật định những toà án cấp trên chỉ có quan hệ với toà án cấp dưới bằng các quan hệ tố tụng, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và thông qua việc hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và đưòng lối xét xử .
Thông qua các quan hệ đó đã đủ để nắm được công việc chưa. Thực tiễn đã chứng minh là chưa đủ còn phải thông qua hệ thống Luật sư bào chữa, giám định tư pháp, cơ quan chấp hành án và nhiều cơ quan khác (viện kiểm soát, công an) nhất là cơ quan chính quyền địa phương mới nắm được thực chất công việc xét xử .
Mặt khác, ngoài hoạt động xét xử là chủ yếu, cơ quan toà án còn có nhiều công việc khác, quan hệ rất mật thiết với quan hệ xét xử. Mỗi toà án đều có phân công trách nhiệm, có quy chế làm việc, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, có chương trình công tác, phong trào thi đua... Những hoạt động đó là hoạt động của tổ chức quản lý .
Như thế muốn nắm được công việc của cơ quan toà án thì phải thông qua hàng loạt các biện pháp, các tổ chức không hẳn là chỉ thông qua các quan hệ tố tụng. Nắm công việc theo các biện pháp toàn diện như vậy mới nắm chắc được con người, thực chất về cán bộ Thẩm phán .
Hoạt động xét xử là hoạt động xét xử. Hoạt động quản lý là hoạt động quản lý. Đồng nhất nó làm lẫn lộn nó như trên đã nói, không thể nào thuộc được nguyên tắc về tính độc lập của người Thẩm phán .
Cơ quan tư pháp khi tiến hành quản lý hoàn toàn không can thiệp vào quá trình đang xét xử 1 vụ án, do đó không phải là cơ quan cấp trên của toà án đang xét xử .
Toà án là cơ quan thực hiện chế độ Thẩm phán bầu do đó nó còn nhiều quan hệ về mặt tổ chức phụ thuộc vào cơ quan quyền lực địa phương .
VỀ CẢI CÁCH TOÀ ÁN Ở 1 SỐ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Cải cách tư pháp là 1 trong nghiên cứu vấn đề đặt ra cấp thiết trong toàn bộ hệ thống chính trị ở Liên xô và 1 số nước XHCN anh em khác.
Trong cải cách tư pháp, cải cách toà án có 1 vị trí đặc biệt quan trọng. Mấy năm gần đây ở Liên xô cũng như 1 số nước XHCN anh em đã thực hiện 1 cuộc cải cách lớn về toà án, coi cải cách toà án nói riêng và cải cách tư pháp nói chung là 1 bộ phận không thể tách rời khỏi công cuộc cải tổ.
Cải cách toà án trước hết nhằm làm cho toà án thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh các nguyên tắc mà Hiến pháp đã đề ra; Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử, xét xử công khai, suy đoán vô tội vạ, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm quyền bào chữa của các bị cáo...
Cải cách toà án là nhằm làm cho toà án trở lại vị trí đích thực của mình trong nhà nước pháp quyền XHCN, làm cho toà án thực sự là công cuộc bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền dân chủ, thực sự là niềm tin của công dân. Bởi lẽ không thể nói đến sự tôn trọng và niềm tin của pháp luật nếu không có sự tôn trọng và niềm tin của nhân dân đối với toà án.
Cải cách toà án đòi hỏi phải thực hiện 1 loạt biện pháp, đổi mới pháp luật về tổ chức và hoạt động của toà án, tăng cường cơ sở vật chất-kỹ thuật cho toà án, đổi mới công tác cán bộ trong tòa án. Cuộc cải cách này không chỉ là khắc phục những yếu kém của toà án trong nhiều năm qua mà còn là sự đôỉ mới về căn bản chất lượng xét xử của toà án, để toà án vươn lên ngang tầm với yêu cầu của cải tổ.
Mấy năm trở lại đây Liên xô cũng như 1 số nước XHCN anh em đã bước đầu thực hiện cải cách toà án, coi việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử là trọng tâm của cuộc cải cách này.
Các biện pháp bảo đảm cho tthj nguyên tắc độc lập xét xử là :
1. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ trong toà án.
A) Đổi mới chế độ tuyển cử Thẩm phán .
Theo Hiến pháp Liên xô mới sửa đổi, tất cả Thẩm phán các toà án địa phương (cấp quận, tỉnh) do Xô viết đại biểu nhân dân trên 1 cấp bầu ra (Thẩm phán nhân dân quận Xô viết do đại biểu nhân dân tỉnh bầu, Thẩm phán toà án tỉnh do Xô viết tối cao nước cộng hoà bầu).
ở Bungari từ 1982 tất cả Thẩm phán do quốc hội bầu. ở Balan theo hiến pháp mới, tất cả Thẩm phán do hội đồng nhà nước bổ nhiệm.
B) Về tiêu chuẩn nghiệp vụ của Thẩm phán .
ở liên xô Thẩm phán toà án các cấp phải có trình độ đại học pháp lý. Thẩm phán TAND quận phải từ 25 tuổi trở lên và có kinh qua công tác toà án 2 năm. Thẩm phán toà án nhân dân tỉnh cũng phải từ 25 tuổi trở lên và kinh qua công tác toà án 5 năm (trong đó ít nhất là 2 năm làm Thẩm phán).
Tại các toà án từ cấp tỉnh trở lên thành lập uỷ ban sát hạch và kiểm tra tư cách Thẩm phán, uỷ ban này có nhiệm vụ :
- tiến hành sát hạch kết luận về chuyên môn của ứng cử viên Thẩm phán .
- Kết luận vấn đề bãi miễn Thẩm phán
- Xem xét vấn đề kỷ luât Thẩm phán .
ở Balan, Thẩm phán toà án hiến pháp phải là các giáo sư, các nhà khoa học có nhiều cống hiến cho khoa học pháp lý .
c) Về chế độ đãi ngộ với Thẩm phán , Liên xô quy định phải bảo đảm những điều kiện vật chất ăn ở nhất định cho Thẩm phán, các xô viết địa phương chậm nhất là 6 tháng kể từ ngày bầu Thẩm phán phải phân phối nhà ở cho Thẩm phán. Chế độ tiền lương của Thẩm phán cũng đang đề nghị phải cải tiến theo hướng gấp đôi hiện nay.
2. Về thẩm quyền của các toà án.
Trong điều kiện cải tổ, các quan hệ xã hội càng trở lên đa dạng, phức tạp đòi hỏi pháp luật phải điều chỉnh. Các tranh chấp phát sinh trong quan hệ ấy cũng cần được giải quyết 1 cách nhanh chóng, chặt chẽ, bảo đảm pháp chế XHCN và dân chủ.
ở Liên xô đã ban hành Luật về khiếu nại của công dân vào toà án về những hành vi của những người có chức có quyền trái pháp luật, xâm phạm quyền dân chủ của công dân và giao cho toà án nhân dân xét xử vụ việc này.
ở CHDC Đức từ tháng 7 năm 1989 đã ban hành đạo Luật quy định toà án nhân dân sẽ xét xử những vụ nhân dân khiếu nại đối các khiếu nại hành chính. Bộ tư pháp CHDC Đức có trách nhiệm ban hành những quy định cụ thể để thi hành Luật này.
Đẩi với các văn bản pháp luật trái hiến pháp ở Liên xô thành lập uỷ ban kiểm tra hiến pháp, ở Balan thành lập toà án hiến pháp để giải quyết .
Cũng có những ý kiến đề xuất thành lập 1 số toà chuyên trách như toà án để xét xử người chưa thành niê, xét xử các vụ giao thông, đất đai...
Đối với cơ quan trọng tài kinh tế, có những ý kiến đề xuất nên đổi thành toà án kinh tế .
3. Về hội thẩm nhân dân : ở Liên xô đã tranh luận khá gay gắt về chế định hội thẩm nhân dân nhưng tựu trung có 2 ý kiến:
ý kiến thứ nhất; cho rằng cần khắc phục những nhược điểm trong hoạt động của HTND như; nặng về hình thức, thụ động, kém chuyên môn. Do đó cần khắc phục tình trạng này và nâng tầm hoạt động của hội thẩm lên cho đáp ứng với yêu cầu của cải cach toà án. Tức là vẫn giữ nguyên chế độ hội thẩm nhân dân nhưng có đổi mới, cải tiến về tổ chức và hoạt động. Cụ thể là tăng số lượng HTND lên trong mỗi vụ án (từ 3-5 người), lựa chọn lại các ứng cử viên để làm hội thẩm nhân dân .
ý kiến thứ hai; cho rằng trước tình hình hoạt động yếu kém của hội thẩm nhân dân, để toà án xét xử thực sự có chất lượng, nên thay thế chất lượng của hội thẩm nhân dân bằng việc lập đoàn hội thẩm nhân dân (toà án hội thẩm). ĐOàn này có thể có từ 7 người trở lên, họ sẽ tham gia xét xử những vụ án hình sự ngiêm trọng và chỉ làm nhiệm vụ kết tội. Còn kết án là quyền của toà án với các Thẩm phán chuyên trách. Tiêu chuẩn nghiệp vụ của hội thẩm viên phiên toà phải đảm bảo cho họ tham gia xét xử 1 cách thực sự.
Các cuộc tranh luận về việc đổi mới chế độ hội thẩm chưa ngã ngũ. Hiện nay Liên xô đang chuẩn bị dự thảo Luật tổ chức toà án và Luật về tố tụng, vấn đề hội thẩm nhân dân đã được giải quyết trong đạo Luật này.
4. Vấn đề quản lý các toà án địa phương .
Trong cải cách toà án, không có nước XHCN nào thay đổi việc quản lý các toà án địa phương của Bộ tư pháp .
Để bảo đảm cho các toà án thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử trong điều kiện mới, Bộ tư pháp đã bước đầu thực hiện 1 số biện pháp như sau:
- Đề ra những biện pháp cụ thể về tổ chức và cán bộ của toà án và cải tiến các biện pháp bảo đảm cơ sở vật chất cho các toà án để bảo đảm cho toà án được độc lập khi xét xử. Quy trách nhiệm cho những người vì động cơ này hay động cơ khác mà can thiệp vào việc xét xử của toà án.
- Tăng cường công tác kiểm tra hoạt động xét xử của toà án và công tác thi hành án.
- Đổi mới việc đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ của cán bộ toà án cho các hội thẩm nhân dân .
TOÀ ÁN TRONG CÔNG CUỘC CẢI TỔ.
Theo thông tin về tổ chức tư pháp các nước
V:I Tê-rê-to lôp
Nguyên chánh án toà án tối cao Liên xô
1. Vị trí của toà án trong nhà nước pháp quyền .
Nói 1 cách trừu tưọng, nếu các cơ quan pháp luật là hình nón thì toà án là đỉnh của hình nón ấy. Để làm đúng vị trí đó, toà án phải thực sự độc lập và nguyên tắc chủ đạo của tố tụng hình sự phải là suy đoán vô tội, 1 nguyên tắc đã có thời kỳ bị người ta người ta cố tình lãng quên, Hiện nay chúng ta hay nói với nhau về nguyên tắc này, nhưng không phải lúc nào nó cũng được thực hiện trong thực tế.
Trong công cuộc cải tổ, những hiện tượng như có ai đó qua điện thoại hướng cho toà án xét xử khác với yêu cầu của pháp luật đã ít hơn. Nhưng dù sao chúng tôi thấy cũng còn phải ban hành 1 đạo Luật về trách nhiệm do không tồn trọng toà án và gây áp lực đối với toà án.
Toà án cần phải ra những bản án công minh và đúng pháp luật không những đối với ngày hôm nay mà còn đối với 10, 20 là lâu hơn nữa.
Cũng cần phải nói tới các hình thức khác xâm phạm tới nguyên tắc độc lập xét xử của toà án. Chúng không thô bạo như kiểu gọi điện thoại, nhưng cũng rất đáng lưư ý, toà án của chúng ta chịu trách nhiệm trước xô viết và phải báo cáo với xô viết về việc hoạt động của mình. Một mặt, tôi cảm thấy chẳng lẽ toà án lại không chịu trách nhiệm truớc cơ quan nào. Mặt khác cũng không nên quên rằng, nếu toà án có nghĩa vụ phải báo cáo công việc của mình, có nghĩa là toà án sẽ định hướng làm sao để giải quyết được cùng chiều với quan điểm chủ đạo trong xô viết đó. Ngoài ra, các vấn đề về vật chất,tài chính thì toà án lệ thuộc nhiều vào cơ quan chính quyền. Do vậy, nếu nói về quy phạm pháp luật nói trên (về chế độ báo cáo trước xô viết) trong pháp luật của chúng ta thì cần phải quy định rất chặt chẽ chế độ báo cáo này, kể cả nội dung và hình thức, không ảnh hưởng đến việc xét xử các vụ án hình sự và dân sự .
Hiện nay, UBTW đảng cộng sản liên xô đã xem xét vấn đề liên quan đến hình thức công tác của cơ quan đảng. Tôi muốn được nhấn mạnh rằng các cơ quan đảng thực hiện sự tác động đến công việc của toà án không phải thông qua bộ máy, mà thông qua các đảng viên được bầu làm Thẩm phán và đang làm việc trong các toà án. Ngoài ra, sự tác động của đảng chỉ có thể là sự mong muốn cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh. Nếu làm khác đi thì có thể lại sinh ra những sai sót, sơ hở trước đây mắc phải.
Theo quy định của pháp luật thì Bộ tư pháp thực hiện quản lý các toà án địa phương về tổ chức. Chúng tôi thấy cần cụ thể hoá các quan hệ quản lý để tạo ra những bảo đảm tối đa cho các toà án được độc lập xét xử .
2. Vấn đề độc lập của Thẩm phán đối với kết luận của cơ quan buộc tội.
Tiếc rằng vẫn có hiện tượng bê nguyên si các lâp luận buộc tội vào bản án của 1 số toà án. ĐIều này không thể hiện được tính độc lập của Thẩm phán và hội thẩm nhân dân trước kết luận của cơ quan điều tra và Viện KIểm sát. Hiện nay toà án các nước cộng hoà liên bang hàng năm trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung tới 80.000 vụ, tuyên khoảng 3000 bản án không có tội, nhiều vụ án bị đình chỉ tại toà án. Những số liệu đó là bằng chứng sống chứng minh rằng toà án đã độc lập hơn, nghiêm túc hơn khi đánh giá hồ sơ của cơ quan điều tra và kiểm soát.
3. Vai trò của Luật sư ở toà án.
Hiện nay, trong đoàn Luật sư có khoảng 25 000 người làm công tác bào chữa, ngoài ra có khoảng 70 000 đến 80 000 làm cố vấn pháp lý, thực chất cũng làm công tác Luật sư, giúp đỡ pháp lý cho cán bộ điều tra nhân viên trong xí nghiệp nơi họ làm việc. Như vậy có gần 100000 người làm công tác Luật sư, bào chữa hiện nay ở Liên xô. Theo tôi con số đó còn ít toà án ít quan tâm tới việc củng cố các đoàn Luật sư và nâng cao trình độ của Luật sư. Tôi cho rằng nguồn để bầu Thẩm phán trước hết lấy 1 phần từ Luật sư. Cần cải tiến chế độ trả lương cho họ.
4. Vấn đề độc lập của hội thẩm nhân dân .
Một số nước phương tây có các đoàn bồi thẩm, nhưng nó cũng không được hoàn thiện lắm và vai trò của nó cũng không được lớn lắm. Ví dụ ở Canada chỉ 1% số vụ án có đoàn bồi thẩm tham gia còn 99% do Thẩm phán xét xử. Chủ yếu toà án bồi thẩm ở đó tồn tại theo truyền thống và theo các đoàn Luật sư Canada thì toà án bồi thẩm nên xét xử chủ yếu các vụ giết người.
Theo tôi chế độ hội thẩm nhân dân vẫn dân chủ hơn vì hội thẩm nhân dân tham gia giải quyết tất cả các vấn đề phát sinh trong phiên toà, kể cả việc định tội và giải quyết hình phạt. Tính tích cực và chủ động của hội thẩm nhân dân là vấn đề luôn cấp bách cần phải giải quyết . Điều đó phụ thuộc nhiều vào chúng tôi. Hiện nay hàng nghìn, vạn người rất sắc sảo và có ý kiến riêng của mình về các vấn đề góc cạnh nhất của cuộc sống, vậy có gì chúng ta không chọn những công dân sắc sảo như vậy làm hội thẩm, vấn đề là cần phải tiếp tục hoàn thiện chế độ hội thẩm, tăng số lượng đề ra các quy định riêng và việc xem xét các ý kiến bảo lưu của họ. Nếu chế độ hội thẩm được hoàn thiện, nó sẽ dân chủ hơn chế độ đoàn bồi thẩm.
TOÀ ÁN HIẾN PHÁP HUNGARI
(theo thông tin khoa học pháp luật số 5,6/1989- Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ tư pháp )
Vừa qua quốc hội Hungari đã quyết định sửa đổi 1 số điều của HIến pháp để có thể thực hiện được việc thành lập toà án hiến pháp: Dự thảo về việc thành lập 1 toà án hiến pháp đã được đệ trình cho quốc hội xem xét vào cuối năm qua và nếu được thông qua thì ngay sau đó chúng ta sẽ bầu Thẩm phán vào toà án hiến pháp.
Toà án hiến pháp là cơ quan xét xử quan trọng nhất, toà án hiến pháp giữ 1 vị trí đặc biệt độc lập trong hệ thống của bộ máy nhà nước. Toà án hiến pháp không hoạt động như chức năng của quốc hội và cũng không phải là bộ phận của cơ quan xét xử thưong xuyên. Khái niệm điều chỉnh của bản hiến pháp mới đã đưa ra nguyên tắc này thì phải xem xét lại phạm vi quyền lực của quốc hội.
Hiến pháp mới tồn tại sự thừa nhận 1 toà án xét xử độc lập mà toà án này có quyền kiểm soát cả những xu hương lập hiến của quốc hội. Việc độc lập này của toà án hiến pháp được duy trì bằng những bảo đảm pháp lý, mà điều quan trọng trước hết là toà án hiến pháp không lệ thuộc vào bộ máy nhà nước nào. Mặc dù quốc hội bầu các Thẩm phán của toà án hiến pháp nhưng ngay sau khi bầu thì họ được độc lập chứ không lệ thuộc vào quốc hội, không như trước đây quốc hội uỷ nhiệm cho họ phụ trách công việc cho tới lúc nghỉ hưu.
Cũng theo hiến pháp mới Thẩm phán sẽ không phải lo lắng việc được tái cử sau mỗi nhiệm kỳ 5 năm nữa và như thế mỗi lo lắng đó sẽ không ảnh hưởng tới việc phán xét của họ về tính hiến pháp của pháp luật. Lẽ dĩ nhiên họ sẽ không được là thành viên của quốc hội và cũng không được kiêm nhiệm chức vụ nào của cơ quan nhà nước. Tất nhiên không có sự chống án đối với những quyết định của toà án hiến pháp.
Phạm vi quyền lực của toà án hiến pháp gắn liền trực tiếp với những quy phạm pháp luật mà các quy phạm này là những chế định về thời hạn, tính hợp hiến của những quy định pháp lý và sau đó là những sắc lệnh có hiệu lực. Trong những trường hợp ngoại lệ được đưa ra trong 1 đạo Luật, chẳng hạn như trường hợp được yêu cầu của quốc hội toà án hiến pháp sẽ được đưa ra tham gia về tính chất hơp hiến của 1 dự thảo Luật hoặc bàn về tính hợp hiến của 1 đạo Luật mà tính chất đó chưa được công bố. Tuy nhiên thời gian xem xét của toà án hiến pháp không những hạn chế đối với việc điều tra tính hợp hiến mà còn mở rộng những nhiệm vụ quan trọng khác, nhiệm vụ liên quan tới công pháp. Cụ thể như việc đăng ký của các tổ chức chính trị và trong trường hợp hoạt động của tổ chức này bị coi là vi hiến thì bãi bỏ tổ chức này, hoặc ra quyết định về việc tranh chấp hợp pháp giữa các cá nhân liên quan tới việc bầu cử hoặc liên quan tới phạm vi quyền lực của thủ tục xét xử và đứng ra bảo vệ những quyền cơ bản của công dân .
HỆ THỐNG TOÀ ÁN THUỴ ĐIỂN
Theo thống kê tính tới ngày 1.7.1989, thuỵ điển có 150 toà án. Trong đó bao gồm:
1 toà tối cao
6 toà phúc thẩm
104 tòa tư pháp (toà án có thẩm quyền xét xử chung)
97 toà án huyện
29 toà hành chính :
1 toà hành chính tối cao
4 toà thượng thẩm hành chính
24 toà phúc thẩm hành chính địa phương
4 toà bảo hiểm xã hội :
1 toà bảo hiểm xã hội tối cao
3 toà bảo hiểm xã hội khu vực.
13 toà xét xử nhà đất:
1 toà án cấp cao
12 toà xét xử tranh chấp thuê mướn nhà đất.
Cơ cấu tổ chức.
Thuỵ điển tổ chức bộ máy xét xử theo ngành dọc, từ trên xuống dưới ở các lĩnh vực:
+ Toà án tư pháp phân theo 3 cấp:
- Toà án tối cao
- Toà phúc thẩm (toà đê nhị cấp)
- Toà sơ thẩm (toà cấp 1).
+ Toà án hành chính cũng phân theo 3 cấp.
- Toà hành chính tối cao
- Toà hành chính thượng thẩm quốc gia
- Toà hành chính phúc thẩm địa phương .
+ Toà án bảo hiểm phân theo 2 cấp:
- Toà bảo hiểm xã hội tối cao
- Toà bảo hiểm xã hội khu vực.
+ Toà án xét xử về nhà đất
- Toà án xét xử về nhà đất cấp cao
- Toà án xét xử tranh chấp nhà đất thuê mướn ở địa phương
Đối với các toà án có thẩm quyền xét xử chung thì ở mỗi huyện, tỉnh đều có toà án được thành lập theo địa hạt hành chính . Còn đối với toà án hành chính và toà án bảo hiểm xã hội được thiết lập theo khu vực.
Toà sơ thẩm
Chánh án toà án huyện là Thẩm phán trưởng. Cùng làm việc với Thẩm phán trưởng còn có ít nhất 1 Thẩm phán giúp việc, ngoài ra còn những sinh viên mới ra trường tập sự tại toà án huyện.
Một đặc điểm nổi bật của toà án huyện ở thuỵ điển là sự tham gia của hội thẩm trong quá trình xét xử những vụ án cụ thể. Sư tham gia của hội thẩm trong các phiên toà là truyền thống của công tác xét xử ở Thuỵ điển và đã được định ra như là 1 yếu tố quan trọng của nền dân chủ trong đời sống xã hội. Tuy nhiên vai trò của họ không giống như các thành viên trong toà bồi thẩm ở mỹ và châu Âu. Các hội thẩm không chỉ tham gia vào việc kết án mà còn cùng Thẩm phán cần nhắc khi đưa ra khung hình phạt theo đúng tội đã được quy định trong Luật .
Hội thẩm được bầu với nhiệm kỳ 6 năm và do hội đồng nhân dân địa phương bầu. Họ là những người có đủ tư cách là khả năng đảm nhận công việc. Hầu hết hội thẩm được bầu lại cho các nhiệm kỳ sau. Mỗi năm hội thẩm phải tham gia công tác ít nhất là 10 ngày. Họ chủ yếu tham gia vào việc xét xử các vụ án hình sự khá nghiêm trọng và các vụ xét xử về hôn nhân gia đình. Thành phần xét xử gồm 1 Thẩm phán được đào tạo chuyên với tư cách là chủ toạ phiên toà và 3 hội thẩm.
Trong những trường hợp hội thẩm không tham gia xét xử thì thành phần 3 Thẩm phán được đào tạo chuyên hoặc với những vụ án ít nghiêm trọng thì cũng phải có 3 Thẩm phán và có ít nhất 1 Thẩm phán đào tạo chuyên.
Trong các vụ án có liên quan tới các ngành chuyên môn khác thì thành phần xét xử còn có thêm các chuyên môn khác với tư cách là giám định. Các chuyên gia này có thẩm quyền ngang với Thẩm phán .
Trung bình hàng năm có khoảng 10% số vụ án của toà án huyện được chuyển cho toà phúc thẩm.
Toà phúc thẩm
Thuỵ điển có 6 toà phúc thẩm tổ chức theo khu vực. ĐIển hình là toà phúc thẩm Stockhôm, thành lập năm 1614 kháng án bản án sơ thẩm sẽ được toà phúc thẩm xem xét giải quyết .
Thành phần xét xử gồm 3 Thẩm phán hoặc 3 Thẩm phán và 2 hôi thẩm. Trường hợp đặc biệt có 4 Thẩm phán. Đẩi với mỗi vụ án cu thể có thể có thêm giám định viên tham gia vào hội đồng xét xử. Trước khi đưa ra xét xử thì phần lớn công việc do những Thẩm phán giúp việc (những người kế cận) đảm nhiệm. Đội ngũ Thẩm phán giúp việc ở toà phúc thẩm là những Thẩm phán trẻ hoặc những Luật sư đã có thời gian công tác 2 năm tại toà án huyện. Họ được đào tạo để làm nguồn cho các bộ, các uỷ ban điều tra, thanh tra hoặc thư ký... trong tương lai.
Toà án tối cao.
Kháng án của toà phúc thẩm được chuyển giao cho toà án tối cao. Tuy nhiên khả năng có những trường hợp đặc biệt cũng được toà án tối cao xử phúc thẩm. Về mặt nguyên tắc, trường hợp đặc biệt đó chỉ được xem xét khi thấy tình tiết vụ án có những phức tạp So sánh với án lệ. Trước khi đưa ra xét xử thì 1 bộ phận quan trọng của toà án tối cao gồm 3 Thẩm phán sẽ xem xét có nên đưa ra xét xử lại hay không. Nếu quyết định đưa vụ án ra xét xử lại thì thành phần xét xử có 5 Thẩm phán. Hầu hết công việc chuẩn bị cũng được giao cho các Thẩm phán trẻ, kế cận đảm nhiệm.
Công tác quản lý
Về mặt chuyên môn thì các toà án tổ chức theo ngành dọc. Từ toà án tối cao ở trung ương, toà án cấp cao (về nhà đất) xuống cấp cơ sở là toà án huyện. Các toà án có vai trò rất quan trọng trong việc thi hành pháp luật và trong công tác xây dựng Luật .
Về mặt tổ chức, hành chính, đội ngũ cán bộ, tài chính... thì tất cả các toà án đều nằm dưới sự quản lý của cơ quan quản lý các toà án quốc gia. ĐâY là cơ quan trực thuộc Bộ tư pháp. Kinh phí hàng năm cụ thể là năm tài chính 1989 1990 chi cho Bộ tư pháp là 1,36% ngân sách quốc gia .
Trong số kinh phí của Bộ tư pháp được nhà nước cấp sẽ chi 43,53% cho cơ quan quản lý các toà án quốc gia để chi cho việc trả lương, kinh phí cho trang thiết bị, trả cho Luật sư, nhân chứng, và cho hoạt động của ban tư pháp ở địa phương .
Các toà án
. Toà án tối cao
. Các toà phúc thẩm
. các toà án huyện
Các toà đã xử trong 5 năm qua.
Năm
Các cấp toà
|
1984
|
1985
|
1986
|
1987
|
1988
|
toà án tối cao
|
3793
|
3934
|
3694
|
3715
|
3736
|
các toà phúc thẩm
|
18784
|
18799
|
17317
|
17715
|
19269
|
Các toà án huyện
|
151426
|
148958
|
150692
|
149236
|
143232
|
xử các vụ án hình sự, dân sự và ruộng đất.
Đội ngũ cán bộ tính đến ngày 1.7.1989
cán bộ
|
Toà án tối cao
|
các toà phúc thẩm
|
Các toà án huyện
|
Tổng cộng
|
Thẩm phán
|
63
|
383
|
612
|
1058
|
Thẩm phán toà hình sự
|
|
|
631
|
631
|
cán bộ khác
|
68
|
335
|
2924
|
3327
|
|
|
|
|
|
Trong đó có 38 người làm công tác lãnh đạo
Số Thẩm phán không chuyên đến ngày 1.7.1989.
Các toà án huyện
|
các toà phúc thẩm
|
Tổng cộng
|
6405
|
457
|
6862
|
Về cán bộ
- Hội thẩm viên sẽ do hội đồng nhân dân ở địa phương bầu với nhiệm kỳ 6 năm và có thể được bầu lại với nhiệm kỳ tiếp theo.
- Thẩm phán là những người được đào tạo chuyên sâu. Sau khi tốt nghiệp ra trường, tất cả phải trải qua thời kỳ tập sự là 2 1/2 năm (30 tháng). Thời gian tập sự sẽ làm việc tại các toà án huyện. Hết hạn tập sự họ được bổ nhiệm làm thư ký toà án, hoặc làm công tác pháp chế của các cơ quan Bộ, cơ quan điều tra. Thẩm phán công tác ở các cơ quan toà án tối cao hoặc toà án đệ nhị cấp và toà sơ thẩm đều được bổ nhiệm công tác suốt đời và hưởng lương như nhau. Họ chỉ làm công tác của mình không kiêm nhiệm và chỉ bị bãi miễn khi:
- Không đủ khả năng, tư cách giữ vị trí và vai trò nhiệm vụ được giao.
- Khi đến tuổi nghỉ hưu theo Luật định.
Nếu vì lý do tổ chức thì 1 Thẩm phán đã được bổ nhiệm sẽ được chuyển sang vị trí tương đương của 1 cơ quan tư pháp .
Nếu 1 cấp chính quyền nào ra quyết định bãi miễn thì Thẩm phán có quyền đòi toà án xem xét lại quyết định .
Nguồn;
Đình lương tổng thuật.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUY CHẾ THẨM PHÁN Ở PHÁP
I. VỀ TƯ CÁCH THẨM PHÁN
- Tuyển cử Thẩm phán
1. Điều kiện tuyển cử Thẩm phán .
Muốn được tuyển vào ngạch Thẩm phán phải có đầy đủ các điều kiện sau:
- Là người mang quốc tịch pháp từ 5 năm trở lên, bất luận với tư cách gì.
- Có đầy đủ quyền công dân và phẩm chất đạo đức tốt.
- Có điều kiện thể chất cần thiết và không bị mắc bệnh truyền nhiễm.
Moi người Pháp, không phân biệt giới tính, có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật, đều có thể được tuyển cử vào ngạch Thẩm phán .
2. Tính chất bất khả kiêm nhiệm của người Thẩm phán
Có 3 trường hợp bất khả kiêm nhiệm tuyêt đối và 1 trường hợp bất khả kiêm nhiệm tương đối.
A) các trường hợp bất khả kiêm nhiệm tuyệt đối:
- Tuyệt đối không kiêm nhiệm bất kỳ chức vụ nào khác trong cơ quan nhà nước và bất kỳ 1 nghề nghiệp trong chuyên môn naò khác hoặc 1 công việc được hưởng lương nào khác, Nguyên tắc này cũng có 2 ngoại lệ trước hết Thẩm phán có thể tham gia giảng dạy theo khả năng của mìn sau khi được phép của người tổ chức lớp học và như vậy là Thẩm phán hoàn toàn được tự do nghiên cứu khoa học, văn học, nghệ thuật mà không cần phải xin phép trước. Thứ hai là nhìn chung Thẩm phán có thể đảm nhận những chức vụ hoặc những công việc không ảnh hưởng đến phẩm giá và tính độc lập của người Thẩm phán .
- Tuyệt đối không kiêm nhiệm các chức vụ dân cử, chức uỷ viên hội đồng kinh tế xã hội, chức nghị sỹ quốc hội. Thẩm phán có vợ (chồng) là đại biểu quốc hội sẽ không được bổ nhiệm hoặc nếu bổ nhiệm rồi thì sẽ không đuực tiếp tục làm Thẩm phán ở cơ quan tài pán mà toàn bộ hoặc 1 phần tỉnh mà vợ (chồng) mình là đại biểu quốc hội lại thuộc quản hạt của toà án nơi mình làm Thẩm phán. Tuyệt đối không kiêm nhiệm chức nghị sỹ nghị việc châu âu, chức uỷ viên hội đồng hàng tỉnh, hàng xã ở địa phương thuộc quán hạt của toà án nơi mình làm Thẩm phán. ĐIều này không áp dụng đối với Thẩm phán toà phá án.
Về thời hạn bất khả kiêm nhiệm. Không ai được bổ nhiệm làm Thẩm phán hoặc tiếp tục giữ chức vụ Thẩm phán có quản hạt là địa phương nơi mình đã từng giũ 1 chức vụ dân cử cách đó không quá 5 năm hoặc đã từng ra tranh cử vào 1 trong những chức vụ đó không qúa 3 năm về trước.
- Tuyệt đối không kiêm nhiệm những nghê tư pháp khác như Luật sư, người đại tụng công chúng viên, chấp hành viên. ĐIều cấm kiêm nhiệm này chỉ giới hạn địa phương nơi hành nghề nói trên.
B) Trường hợp bất khả kiêm nhiệm tương đối.
Trừ trường hợp có sắc lệnh quy định miễn, vợ chồng, bố mẹ bà con thân thích đến đời thứ 3 không được đồng thời cũng là thành viên của toà án, bất luận ở cương vị nào. Không được miễn chấp hành điều cấm kiêm nhiệm này trong trường hợp toà án chỉ có 1 phòng hoặc trường hợp vợ chồng, cha mẹ, hay bà con thân thích đến đời thứ 3 là chánh án hoặc biện lý (hay tổng biện lý) của toà án đó.
3. Đối tưọng tuyển của Thẩm phán .
a) Tuyển Thẩm phán trong số những người đã tốt nghiệp trường Thẩm phán quốc gia
- Những người tốt nghiệp trường Thẩm phán quốc gia sẽ được bổ nhiệm làm Thẩm phán hạng nhì, bậc nhất.
Số lượng Thẩm phán bổ nhiệm theo cách này không vươt quá 1/3 số lưọng thí sinh được tuyển vào trường Thẩm phán quốc gia năm học trước không quá thời gian 1/2 số lượng Thẩm phán cần bổ sung trong ngân sách.
- Các tiến sỹ Luật khoa đã công tác 30 năm trong ngành pháp lý, hành chính, kinh tế hoặc xã hội. Sau khi qua chương trình bồi dưỡng tại trường Thẩm phán quốc gia sẽ được bổ nhiệm làm Thẩm phán hạng nhì, bậc hai.
B) Tuyển cử trực tiếp.
- Có thể được bổ nhiệm trực tiếp vào các chức vụ Thẩm phán hạng nhất và hạng nhì:
- Những cong chức vàviên chức cũ đã đương nhiệm có bằng cử nhân Luật và có ít nhất là 8 năm công tác trong các ngành Luật kinh tế, xã hội và tỏ ra có năng lực thực hiện các chức năng tư pháp .
- Các giáo sư và giảng viên Luật khoa, các chủ nhiệm bộ môn Luật đã qua ít nhất 2 năm giảng dạy và các trợ lý giảng viên Luật khoa đã qua ít nhất 4 năm giảng dạy.
- Các Luật sư bào chữa, cố vấn, tham chính viên và toà phá án, những người đại tụng, công chứng viên, lục sự và những nguời đặt đụng, ở các toà án thương mại đã có ít nhất 8 năm công tác ở nhiều hoặc 1 chức vụ kể trên tại các toà án pháp hoặc toà án các nước đã ký kết hiệp ước hợp tác tư pháp với pháp, các Luật sư, Luật sư bào chữa, người đại tụng công chứng viên đã qua ít nhất 8 năm công tác ở 1 hoặc nhiều cương vị kể trên tại các cơ quan tài pán của các nước mà người pháp được làm các nghề nói trên.
- Những người đã qua ít nhất 8 năm công tác tư pháp hoặc công tác pháp luật tại các cơ quan đại diện của pháp ở nước ngoài, hoặc tại các nuớc có ký kết các hiệp định tư pháp với pháp, hoặc các tổ chức quốc tế .
- Các trợ lý giảng viên hoặc trợ lý nghiên cứu viên tại các đơn vị giảng dạy và nghiên cứu đã qua ít nhất 8 năm công tác treen cương vị này.
- Đặc biệt ở những người được giao 1 nhiệm vụ thường xuyên tại các toà án thành niên hoặc tại 1 cơ quan tư pháp có liên hệ trực tiếp đến hoạt động của toà án vị thành niên ít nhất là 10 năm trong công tác pháp luật hoặc xã hội .
- Những người vốn là đại tụng, có năng khiếu về khoa Luật, được công nhận là Luật sư theo Luật cải cách tư pháp năm 1971.
Số lượng người được bổ nhiệm trực tiếp làm hạng nhì bậc nhất bằng cách này không vượt quá 1/3 số ghế Thẩm phán cùng hạng bậc cần bổ nhiệm trong năm. Số lượng người được bổ nhiệm trực tiếp làm Thẩm phán hạng nhì, bậc 2 theo cách này không vượt quá 1/5 số ghế Thẩm phán cùng hạng cần bổ nhiệm trong năm.
Có thể được bổ nhiệm trực tiếp vào các chức vụ Thẩm phán ngoại hạng nếu có đầy đủ những điều kiện chung về năng lực quy định tại điều 40 nghị định ngày 22.12.1958.
- các uỷ viên tham chính viện;
- Các vụ trưởng, cục vụ trưởng Bộ tư pháp và hiệu trưởng trường Thẩm phán quốc gia .
- Các kháng nghị viện là công tác ít nhất 10 năm tại tham chính viện.
- Các giáo sư Luật học đã qua ít nhất 10 năm giảng dạy,
- Các Luật sư đã qua ít nhất 20 năm công tác tại tham chính viện và toà phá án.
Đối với 3 đối tưọng sau (kháng nghị viện, giáo sư, Luật sư) chỉ được bổ nhiệm trong chức vụ Thẩm phán ngoại hạng sau khi có ý kiến của hôi đồng thăng thưởng.
C) Tuyển cử tạm thời.
Việc tạm tuyển Thẩm phán chỉ áp dụng cho hết ngày 31.12.1991. Thẩm phán được bổ nhiệm tạm thời trong thời gian 3,6 hoặc 9 năm và không được gia hạn các Thẩm phán tạm tuyển không được vào làm việc quá 70 tuổi. Thẩm phán tạm tuyển sẽ do nghị định của Bộ trưởng tư pháp tạm tuyển và đối với Thẩm phán bổ nhiệm sẽ căn cứ vào ý kiến của hội đồng Thẩm phán tối cao. Các Thẩm phán tạm tuyển sẽ được bổ sung vào các toà án dân sự có thẩm quyền rộng (toà án tỉnh), các toà án sơ thẩm (quận huyện) trong trường hợp cần số lượng Thẩm phán nhiều hơn quy định chung trong Luật tổ chức toà án.
Thẩm phán tạm tuyển có thể được bổ nhiệm vào làm Thẩm phán hạng nhất và hạng nhì.
- Có thể được bổ nhiệm làm Thẩm phán hạng nhì, bậc 1 bằng cách tạm tuyển với những người có đủ điều kiện và năng lực cần thiết. Những người nguyên là Thẩm phán các toà tư pháp và có bằng cử nhân Luật, những công chức cũ hoặc nhân viên đương chức cũng như các trợ lý trong ngạch tư pháp trên 52 tuổi.
- Những người có đủ điều kiện quy định tại điều 21 Luật tổ chức toà án ngày 17.7.1970 cũng sẽ được bổ nhiệm theo cách tạm tuyển vào các chức vụ Thẩm phán hạng nhì và bậc nhất.
B/ Quá trình hành nghề Thẩm phán .
1. Nhậm chức Thẩm phán .
Các Thẩm phán xét xử do tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị hoặc sau khi có ý kiến của hội đồng Thẩm phán tối cao. Các Thẩm phán buộc tội (kiểm soát viên) do nguyên thủ quốc gia bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng tư pháp. Các sắc lệnh bổ nhiệm Thẩm phán đều được đăng trên công báo.
Khi được bổ nhiệm làm Thẩm phán lần đầu, mọi Thẩm phán trước khi nhậm chức đều phải tuyên thệ như sau; Tôi xin thề hoàn thành xuất sắc và trọn vẹn bổn phận được giao phó, nghiêm chỉnh giữ gìn bí mật nghề nghiệp, luôn tỏ ra xứng đáng là người Thẩm phán trung thực. Về nguyên tắc việc tuyên thệ tiến hành tại toà thượng thẩm nơi vị Thẩm phán mới bổ nhiệm sẽ làm việc. Trường hợp cần thiết có thể làm là tuyên thệ ngay tại toà thượng thẩm nơi cư trú của người Thẩm phán mới được bổ nhiệm. Thẩm phán được bổ nhiệm trực tiếp tại toà phá án sẽ tuyên thệ tại toà phá án. Việc tuyên thệ trước khi nhậm chức Thẩm phán làm cho tư pháp cố gắng hoàn thành ngay mọi công việc được phân công công tác chức năng của mình ở cương vị mới.
Việc tổ chức lễ nhậm chức và tuyên thệ phải đuợc tiến hành trọng thể. Lễ tyên thệ chỉ được tổ chức 1 lần khi được bổ nhiệm lần đầu vào chức vụ Thẩm phán. Lễ nhậm chức có thể tổ chức nhiều lần mỗi khi có thuyên chuyển hoặc bổ nhiệm vào 1 chức vụ mới.
2. Việc thuyên chuyển và thăng thưởng.
Trong cuộc đời Thẩm phán, ngoài việc được nâng bậc theo hạng ngạch Thẩm phán, Thẩm phán có quyền đề nghị thuyên chuyển công tác đến 1 cơ quan tài pán khác cùng ngạch bậc. Ở vị trí công tác mới Thẩm phán có thể được giao nhiệm vụ tương đương như cơ quan cũ, nhưng cũng có thể giao thêm những nhiệm vụ mới. Khi thuyên chuyển nơi công tác , Thẩm phán có thể chuyển từ ngạch Thẩm phán xét xử sang Thẩm phán buộc tội (kiểm soát viên) hoặc ngược lại. Mỗi lần thuyên chuyển đều phải có quyết định bổ nhiệm vào chức vụ mới theo đúng thủ tục quy định .
Trường hợp thuyên chuyển sang vùng hạng bậc ở một cơ quan tài pán mới, nếu đương sự có tên trong danh sách thăng thưởng theo đề nghị của cơ quan cũ thì nay vẫn được bảo lưu trong danh sách đó.
Trường hợp Thẩm phán khước từ vị trí công tác của chính mình đề đạt nguyện vọng sẽ không được cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm chức vụ chấp nhận, nếu không có lý do chính đáng, bởi lẽ nguyện vọng của Thẩm phán cũng được xem như nơi đề nghị và hơn nữa về sau Thẩm phán vẫn có quyền xin thuyên chuyển nhưng không phải ngay sau khi bổ nhiệm theo đúng nguyện vọng cá nhân.
Trường hợp Thẩm phán được bổ nhiệm vào 1 chức vụ khác ở 1 hạng bậc cao hơn mà khước từ có thể bị xoá tên khỏi danh sách thăng thưởng theo quyết định của hội đồng thăng thưởng, nếu lý do khước từ không chính xác.
3. Các cương vị công tác của Thẩm phán .
Theo quy định trong quy chế Thẩm phán, Thẩm phán có thể được bố trí vào các cương vị công tác khác trong cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan quản lý hành chính đặc biệt phái sang cơ quan khác, tạm nghỉ việc, hoặc làm nghĩa vụ quân sự. Trường hợp Thẩm phán được bố trí vào các cương vị công tác trong cơ quan quản lý nhà nước, họ phải tuân theo quy chế chung, đối với công nhân viên chức nhà nước nếu không trái với quy chế Thẩm phán .
Việc biệt phái Thẩm phán vào các cương vị công tác khác phải tuân thủ 1 số nguyên tắc riêng; số lượng Thẩm phán biệt phái sang cơ quan khác không vượt quá 20% tổng số Thẩm phán, không kể số Thẩm phán làm công tác pháp chế tại các Bộ và các tổ chức khác. Hơn nữa Thẩm phán biệt phaí sang các bộ hoặc các cơ quan khác nhất thiết phải có ít nhất 4 năm trực tiếp công tác tư pháp từ khi được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán. Thông thường Thẩm phán được biệt phái sang Bộ quốc phòng làm công tác quân pháp hoặc sang nước ngoài theo Hiệp định hợp tác tư pháp .
Việc nghỉ chờ việc của Thẩm phán phải tuân thu 1 số quy định riêng. Hết thời gian nghỉ chờ việc Thẩm phán sẽ được bổ nhiệm vào 1 chức vụ đúng ngạch bậc của người Thẩm phán đó, nếu từ chối sẽ được bổ nhiệm ngay tức khắc vào 1 vị trí tương đương khác với hạng ngạch của mình. Nếu Thẩm phán vẫn khước từ sẽ phải thôi việc hoặc nghỉ hưu nếu có đủ điều kiện nghỉ hưu.
Nhìn chung việc biêt phái, nghỉ chờ việc hoặc làm nghĩa vụ quân sự đều phải được công bố tuỳ theo trường hợp theo đúng thủ tục bổ nhiệm. Quyết định biệt phái Thẩm phán còn phải có chữ ký của Bộ trưởng ngân sách và Bộ trưởng có Thẩm phán biệt phái sang làm việc. Trường hợp gia hạn quyết định biệt phái cùng với các điều kiện ban đầu không cần chữ ký của Bộ trưởng ngân sách và Bộ trưởng nơi có Thẩm phán được biệt phái đến công tác. Ngoài ra Thẩm phán cũng có thể được tạm thời điều động từ cơ quan tài pán này sang cơ quan tài pán khác nếu cần thiết. Thời hạn điều động tạm thời không quá 2 tháng theo quyết định của chánh nhất toà thượng thẩm nếu là Thẩm phán xét xử và theo quyết định của tổng biện lý nếu là Thẩm phán buộc tội. Trong trường hợp vì nhu cầu công tác cần thiết có thể tạm thời cử 1 Thẩm phán xét xử sang làm chức năng buộc tội theo quyết định của chánh nhất toà thượng thẩm giao cho tổng biện lý sử dụng và phân công công tác. Trường hợp đặc biệt này không được kéo dài quá 1 tháng và không được gia hạn trong 1 năm.
Về việc nghỉ chờ hưu trí; Thẩm phán có đủ những điều kiện quy định có thể xin nghỉ 1 thời gian trước khi về huu. Trong thời gian nghỉ chờ về huu, Thẩm phán được hưởng lương tuỳ theo hạn bậc và công tác trước lúc xin nghỉ, chờ về hưu. Thời hạn nghỉ chờ về hưu kết thúc khi Thẩm phán đến tuổi quy định đối với hạng bậc Thẩm phán của mình đang hưởng, tuy nhiên thời hạn chờ nghỉ hưu tối đa kông quá 4 năm.
4. Thôi chức Thẩm phán
Trừ trường hợp bị kỷ luật cách chức Thẩm phán, buộc phải thôi chức Thẩm phán không được hưởng hưu trí và từ chức nói chung, Thẩm phán thường thôi giữ chức Thẩm phán khi về nghỉ hưu. Quyết định nghỉ hưu đối với Thẩm phán phải đăng trên công báo dưới hình thức nghị định. Thẩm phán nghỉ hưu khi đến tuổi quy định; 65 tuổi đối với Thẩm phán toà thượng thẩm và các toà án tỉnh, huyện; 68 tuổi đối với Thẩm phán ngoại hạng toà phá án, các Thẩm phán sẽ tiếp tục làm việc đến hết ngày 30.6hoặc 31.12 cùng nămtuỳ theo việc Thẩm phán đủ tròn tuổi nghỉ hưu vào nửa đầu hay nửa cuối năm. Khi về hưu, Thẩm phán được giữ chức Thẩm phán danh dự. Tuy nhiên cũng có trường hợp Thẩm phán về hưu nhưng không giữ chức Thẩm phán danh dự theo quyết định của cấp có thẩm quyền quyết định hưu trí nếu có lý do chính đáng sau khi đã có ý kiến hoặc theo đề nghị của hội đồng Thẩm phán cấp cao. Thẩm phán danh dự tiếp tục được hưởng các danh dự và đặc quyền của người Thẩm phán được mặc ý phục Thẩm phán trong các dip lễ hội trọng thể tại cơ quan tài pán nơi mình công tác .
Cũng như mọi công chức, Thẩm phán có thể tự nguyện thôi chức Thẩm phán. Trường hợp Thẩm phán tự nguyện từ chức phải có đơn gửi đến cơ quan có thẩm quyền bổnhiệm Thẩm phán và việc tụ nguyện từ chức có hiệu lực từ ngày cơ quan có thẩm quyền chấp nhân đơn xin từ chức.
C) Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán
1 Quyền của người Thẩm phán .
1/ Quyền độc lập của người Thẩm phán .
Quyền bất khả bãi miễn Thẩm phán là 1 trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật nhằm bảo đảm cho Thẩm phán thành sự vô tư và độc lập khi xét xử . Quyền bất khả bãi miễn của Thẩm phán được quy định trong hiến pháp và khẳng định lại trong quy chế Thẩm phán .
2/ đặc quyền tài pán.
Chỉ Thẩm phán mới có quyền tài pán, ngay cả trong trường hợp Thẩm phán và các công chức phạm tội cũng do Thẩm phán xét xử, tất nhiên là trường hợp này phải áp dụng những nguyên tắc và thủ tục tố tụng đặc biệt theo quy định tại Bộ Luật hình sự .
3/ Quyền được bảo vệ.
Thẩm phán được bảo vệ trước mọi sự đe doạ và tấn công khi thi hành nhiệm vụ hoặc khi còn đương chức. Nhà nước phải bồi thường thiệt hại trực tiếp cho Thẩm phán nếu có những trường hợp mà pháp luật về trợ cấp không quy định. Thẩm phán không thể bị điều động sang bất kỳ công việc nào khác trừ trường hợp làm nghĩa vụ quân sự. Việc điều động Thẩm phán tham gia vào công việc phải có sự đồng ý và chữ ký của Bộ tư pháp .
Tất cả Thẩm phán hệ tư pháp cho dù làm việc tại cơ quan tài pánhy tại cơ quan Bộ tư pháp đều được trang bị và mang theo vũ khí (hạng nhất và hạng tư khi thi hành nhiệm vụ ).
4/ Trang phục.
Thẩm phán được cấp tiền mang y phục Thẩm phán theo mẫu quy định khi mới nhâm chức lần đầu cũng như khi được bổ nhiệm vào làm Thẩm phán toà thượng thẩm.
5/ Lương bổng.
Thẩm phán được hưỏng luơng và các khoản phụ cấp khác. Lương của Thẩm phán được trả tuỳ theo cấp bậc và được quy định của hội đồng bộ trưởng. Thẩm phán được hưởng phụ cấp, chức vụ tuỳ theo chức vụ và trả theo hàng quý.
2. nghĩa vụ của Thẩm phán .
1/ nghĩa vụ nghề nghiệp của Thẩm phán .
Thẩm phán không thể từ chối việc xét xử với cớ là không có Luật, Luật quy định không rõ ràng, đầy đủ, nếu không sẽ bị truy tố về tội cự tuyệt xét xử .
Thẩm phán có nghĩa vụ giữ bí mật nghề nghiệp trước những chứng cứ và nguyên nhân phạm tội có đựoc, Thẩm phán phải đưa ra lời phán quyết của chính mình, không được quyết định 1 cách chung chung theo quy định có tính hướng dẫn chung của pháp luật .
Thẩm phán không được xét xử những vụ liên quan đến bản thân mình, đến vợ (chồng), bố mẹ hoặc bà con thân thích với mình, không được bào chữa hay cố vấn cho những vụ kiện nêu trên cho dù bằng lời hay bằng văn bản .
Thẩm phán không được xâm hại bằng bất kỳ cách gì đến hoạt động của cơ quan hành pháp, nếu không muốn bị kết tội.
2/ nghĩa vụ thận trọng.
Thẩm phán là người được giao những chức năng và quyền hạn cao cả khác thường. Vì vậy hơn ai hết Thẩm phán phải rất thận trọng để bảo đảm tính vô tư với các quyết định của mình khi xét xử. Vì lẽ đó Thẩm phán phải là người không đảng phái, không hoạt động chính trị, không tham gia những hoạt động chống đối chính phủ dưới bất cứ hình thức nào.
3/ Nghĩa vụ khác.
Thẩm phán phải có mặt thường xuyên tại cơ quan tài pán nơi mình làm viêc. Trường hợp đặc biệt cần phải vắng mặt dài hạn phải được sự đồng ý của chánh án và phải có quyết định của Bộ tư pháp .
Thẩm phán có nghĩa vụ theo các chương trình đào tạo bồi dưỡngbắt buộc sau khi tốt nghiệp trường Thẩm phán quốc gia và theo đó có thể theo các chương trình bồi dưỡng Thẩm phán hàng năm.
4/ Nghĩa vụ nghề nghiệp của Thẩm phán buộc tội.
Thẩm phán buộc tội có những nghĩa vụ nghề nghiệp riêng của ngạch Thẩm phán buộc tội kỷ luật.
Thẩm phán nếu mắc sai lầm tuỳ theo mức độ có thể chịu 1 trong nghiên cứu hình thúc kỷ luật sau: Khiển trách và ghi vào hồ sơ cá nhân, chuyển sang công tác khác, cách chức, hạ bậc, giáng cấp, buộc phải nghỉ hưu, thôi việc nếu chưa đủ các điều kiện để được hưởng trợ cấp hưu trí, bãi miễn chức Thẩm phán và Luật hưởng quyền trợ cấp.
Trường hợp Thẩm phán mắc nhiều sai phạm cũng chỉ áp dụng 1 trong những hình thức kỷ luật trên đây, trừ trường hợp buộc phải thuyên chuyển công tác thì vẫn có thể kèm theo các hình thức kỷ Luật khác. Cơ quan có thẩm quyền xử phạt Thẩm phán xét xử là Hội đồng Thẩm phán tối cao, đối với Thẩm phán buộc tội và Thẩm phán công tác tại cơ quan Bộ tư pháp, cơ quan có thẩm quyền kỷ luật là Bộ trưởng Bộ tư pháp .
Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp, nếu xét thấy cần thiết Bộ trưởng tư pháp có thể ra quyết định tạm đình chỉ công tác đối với Thẩm phán mắc sai lầm chỉ là quyết định có tính chất nội bộ, không được công bố công khai. Thẩm phán bị đình chỉ công tác có quyền hưởng nguyên lương trong thời gian tạm bị đình chỉ công tác. Đối với Thẩm phán xét xử Bộ trưởng tư pháp chỉ được ra quyết định đình chỉ công tác sau khi có ý kiến của Hội đồng Thẩm phán tối cao.
Ngoài các hình thức kỷ luật nêu trên, các chánh nhất, tổng biện lý, vụ trưởng, cục trưởng Bộ tư pháp có thể cảnh cáo các Thẩm phán dưới quyền mình. Tuy nhiên hình thức cảnh cáo này không được quy định cụ thể trong quy chế Thẩm phán nên dễ dẫn đến tình trạng tuỳ tiện, có khi Thẩm phán bị cảnh cáo theo kiểu này lại cũng bị ghi vào hồ sơ cá nhân. Vì vậy hình thức cảnh cáo này không phải là 1 trong số những hình thức kỷ luật Thẩm phán nêu trên. Mặc dù có quyền cảnh cáo các Thẩm phán dưới quyền mình, nhưng các chánh nhất, tổng biện lý hay vụ trưởng, cục trưởng cũng có thể bị đưa ra xét xử theo trình tự kháng nghị tại tham chính viện vì lạm quyền .
II. Về hạng ngạch Thẩm phán
A/ Các hạng ngạch Thẩm phán .
Đội ngũ Thẩm phán bao gồm 2 ngạch Thẩm phán: Thẩm phán xét xử và Thẩm phán buộc tội (kiểm soát viên) trong đó kể cả các Thẩm phán cơ quan tại cơ quan Bộ tư pháp (Về nguyên tắc Thẩm phán công tác tại cơ quan Bộ tư pháp là Thẩm phán viên công tố, nhưng thực tế lại thực hiện các chức năng quản lý dân sự hoặc soạn thảo văn bản. Vì vậy ngoài quy chế tư pháp chung họ còn phải tuân theo quy chế riêng khá độc đáo). Ngoài ra dự thẩm cũng thuộc đội ngũ Thẩm phán và cũng phải tuân theo quy chế Thẩm phán .
Thẩm phán chia làm 3 hạng: hạng nhì hạng nhất và ngoại hạng. Mỗi hạng Thẩm phán lại chia thành 2 bậc. Một và bậc hai.
B/ Chức năng Thẩm phán theo hạng bậc.
1. Thẩm phán hạng nhì bậc một có thể được bố trí vào các chức vụ sau: Thẩm phán địa bộ (toà nhà phố), Thẩm phán toà án cấp tỉnh, dự thẩm và Thẩm phán vị thành niên, Thẩm phán bên cạnh chánh nhất toà thượng thẩm, biện lý dự khuyết, Thẩm phán dự khuyết phòng tư liệu và nghiên cứu phá toà án, Thẩm phán dự khuyết cơ quan Bộ tư pháp .
Lưu ý; Không được bổ nhiệm vào các chức vụ Thẩm phán hạng nhì bậc 1 ở toà án cấp tỉnh Paris, Nanterre, Bobigni nếu chưa qua 2 năm công tác xét xử. ĐIều kiện về thời gian 2 năm thực tế công tác xét xử cũng áp dụng với trường hợp bổ nhiệm Thẩm phán làm Thẩm phán hay Thẩm phán dự khuyết hạng nhì bậc 1 bên cạnh các chánh nhất và tổng biện lý toà thượng thẩm ở Paris và toà thượng thẩm Vécailles.
2. Thẩm phán hạng nhì bậc 2 được bố trí vào các chức vụ sau:
Chánh án và biện lý toà án tỉnh ở tỉnh nhỏ mà toà án chỉ có 1 phòng, phó chánh án toà án cấp tỉnh, Thẩm phán thứ nhất, dự thẩm thứ nhất toà vị thành niên, Thẩm phán thứ nhất bên cạnh chánh nhất toà thượng thẩm, Thẩm phán dự khuyết thứ nhất bên cạnh tổng biện lý toà thượng thẩm, cố vẫn tham lý toà phá án, toà thượng thẩm Paris, Thẩm phán dự khuyết cơ quan Bộ tư pháp .
Điều kiện về thời gian công tác. Muốn được bổ nhiệm vào Thẩm phán hạng nhì bậc 2 phải có ít nhất 7 năm công tác tư pháp (thời gian làm nghĩa vụ quân sự được cộng vào để tính thời gian công tác ).
3. Thẩm phán hạng nhất bậc 1. được bố trí vào các chức vụ sau:
Chánh án và biện lý toà tỉnh loại vừa (có 2 phòng), phó chánh án thứ nhất và phó biện lý toà án tỉnh ngoại hạng, tham lý và dự thẩm phiên toà, thượng thẩm, Thẩm phán dự khuyết văn phòng tổng hợp toà phá án, toà thượng thẩm Paris và toà án tỉnh Paris.
4. Thẩm phán hạng nhất bậc hai:Chánh án và biện lý toà án tỉnh ngoại hạng, phó chánh án, Thẩm phán thứ nhất, dự thẩm thứ nhất, Thẩm phán toà án vị thành niên, Thẩm phán dự khuyết thứ nhất, toà án tỉnh ngoại hạng, chánh phòng và trưởng lý toà thượng thẩm, cố vấn và cố vấn dự khuyết toà thượng thẩm Paris, cố vấn tham lý toà phá án, Thẩm phán dự khuyết thứ nhất cơ quan Bộ tư pháp.
ĐIều kiện nâng bậc Thẩm phán hạng nhất. Thẩm phán hạng nhì chỉ được nâng bậc lên hạng nhất nếu có tên trong danh sách thăng thưởng và đã qua 10 năm công tác ở cương vị Thẩm phán hạng nhì trong đó có 8 năm thực tế công tác tư pháp từ khi được đề bạt làm Thẩm phán hạng nhì.
5. Thẩm phán ngoại hạng. Được xếp vào Thẩm phán ngoại hạng các Thẩm phán toà phá án ( trừ các cố vấn thẩm lý), các chánh nhất toà thượng thẩm, các tổng biện lý bên cạnh các toà án nói trên, các chánh phòng và tổng biện lý toà thượng thẩm Paris, các biện lý và các phó biện lý toà án tỉnh Paris, các chánh án và biện lý các tỉnh lớn Marseille, Lyon, Lille, Verailles.
Người xử lý; Nguyễn Văn Bình
CHẾ ĐỘ TUYỂN CỬ THẨM PHÁN VÀ ĐÀO TẠO THẨM PHÁN Ở 1 SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.
I. Châu á,
1. Trung quốc:
Phương thức tuyển cử chính; Bổ nhiệm Thẩm phán xét xử và công tố viên theo đề nghị của hội đồng nhân dân các cấp ( Bổ nhiệm Thẩm phán toà án nhân dân tối cao theo đề nghị của quốc hội, bổ nhiệm Thẩm phán nhân dân theo đề nghị của hội đồng nhân dân cùng cấp.
Đào tạo; Việc đào tạo Thẩm phán do các trường pháp lý thuộc vụ giáo dục pháp luật Bộ tư pháp đảm nhiệm. Thời gian đào tạo Thẩm phán 2 năm.
2. Nam triều tiên:
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển Thẩm phán bằng cách thi tuyển trong số sinh viên Luật khoa.
Đào tạo; Thẩm phán được đào tạo trong môi trường sư phạm có khoa tư pháp đào tạo cả Thẩm phán và các thành viên đoàn Luật sư. Thời gian học và thực tập là 2 năm, mỗi năm tuyển 350 sinh viên.
3. Nhật bản;
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển cử Thẩm phán qua thi tuyển trong sô các sinh viên Luật khoa.
Đào tạo: Công việc đào tạo Thẩm phán được thực hiện tại trung tâm nghiên cứu tư pháp quốc gia với thời gian 2 năm vừa học lý thuyết vừa thực tập tại các toà án. Hàng năm trung tâm thường tổ chức bồi dưỡng Thẩm phán theo hình thức hội thảo (1 tuần).
4. Thái lan
Phương thức tuyển cử chính; Tuyển Thẩm phán bằng hình thức thi tuyển trong các sinh viên Luật khoa.
Đào tạo: Không có trường đào tạo Thẩm phán chính quy. Đào tạo bằng hình thức thực tập tại toà án 1 năm .
5. Pakistan.
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển Thẩm phán bằng hình thức thi tuyển trong số những người có bằng pháp lý chọn người trẻ tuổi.
Đào tạo; Không có trường đào tạo Thẩm phán chính quy. Đào tạo bằng hình thức thực tập tại toà án 2 năm.
II: Châu âu:
1. CHLB Đức:
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển cử theo từng vùng bằng việc tổ chức thi tuyển trong số sinh viên Luật khoa.
Đào tạo: Không có trường đào tạo Thẩm phán riêng mà công việc đào tạo Thẩm phán được tiến hành ngay tại các toà án và các hoạt động nghề nghiệp tư pháp theo kiểu thử trình độ thực tế và sau đó sẽ tổ chức tuyển trình độ Thẩm phán quy thi tuyển. Bộ tư pháp chịu trách nhiệm bồi dưỡng thường xuyên những trí thức mới cho đội ngũ Thẩm phán đương chức.
2. Anh:
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển Thẩm phán trong số những người làm công tác pháp luật và có ít nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp.
Đào tạo: Không có trường đào tạo Thẩm phán chính quy mà đào tạo theo kiểu kinh nghiệm nghề nghiệp.
3. Hylạp:
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển Thẩm phán bằng hình thức thi tuyển trong số những người có bằng pháp lý .
Đào tạo: Không có trường đào tạo Thẩm phán chính quy mà đào tạo bằng hình thức thực tập tại toà án 18 tháng.
4. Italy:
Phương thức tuyển cử chính: Thẩm phán bằng hình thức thi tuyển trong số các sinh viên Luật khoa.
Đào tạo: Không có trường đào tạo Thẩm phán chính quy mà đào tạo bằng hình thức thực tập tại toà án 18 tháng.
5. Nauy:
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển Thẩm phán trong số những người tốt nghiệp đại học bằng hình thức thi tuyển chọn Thẩm phán .
Đào tạo: Đào tạo qua thực tế tại các toà án đối với các toà án đệ nhị cấp
6. Bồ đào nha:
Phương thức tuyển cử chính:
Tuyển Thẩm phán bằng hình thức thi tuyển trong số các Luật gia trẻ.
Đào tạo: Thẩm phán được đào tạo tại trung tâm nghiên cứu tư pháp :
- 10 tháng lý thuyết
- 10 tháng thực tập tại toà án
- 6 tháng tập sự trước khi được bổ nhiệm chính thức
- Trong 5 năm đầu sau khi được bổ nhiệm, mỗi năm phải dành ra 3 tháng bổ túc thêm nghề nghiệp. Trung tâm nghiên cứu tư pháp cũng đảm nhận cả việc bồi dưỡng thêm cho Thẩm phán .
7. Thụy điển:
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển Thẩm phán trong số các Luật gia trẻ.
Đào tạo: Đào tạo Thẩm phán bằng thực tế công tác tư pháp
- 1 năm thực tập sinh trợ lý tư pháp
- 3, 5 năm trợ lý tư pháp tại các toà thượng thẩm và toà án huyện.
- 9 tháng thực tập tại đoàn Luật sư.
- Bổ nhiệm làm trợ lý Thẩm phán toà thượng thẩm tuỳ theo khả năng chuyên môn của thực tập sinh.
8. Thổ nhĩ kỳ.
Phuơng thức tuyển cử chính: Tuyển Thẩm phán bằng hình thức thi tuyển trong số những người có bằng pháp lý .
Đào tạo: Đào tạo bằng hình thức thực tập tại toà án 2 năm.
III: Châu Mỹ La Tinh:
1. Achentina.
Phương thực tuyển cử chính: Tuyển Thẩm phán trong số các thành viên của đoàn Luật sư đã có ít nhất 4 năm thực tế công tác và tỏ ra có kinh nghiệm về công tác tư pháp .
Đào tạo; Không có trường đào tạo Thẩm phán riêng mà Thẩm phán được đào tạo bằng công tác xét xử .
2. Braxin.
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển Thẩm phán bằng hình thức thi tuyển trong số các thành viên đoàn Luật sư đã qua ít nhất 5 năm công tác thực tế.
Đào tạo: đào tạo tại khoa tư pháp .
3. Mêhico.
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển Thẩm phán trong số những người có bằng pháp lý và có it nhất 3 năm kinh nghiệm thực tế công tác pháp lý .
Đào tạo: Thẩm phán được đào tạo tại trung tâm nghiên cứu tư pháp về mặt lý thuyết và thực tập tại toà án.
4. Vênêduêla.
Phương thức tuyển cử chính; Tuyển Thẩm phán trong số các thành viên của Luật sư đoàn.
Đào tạo: Có trường đào tạo Thẩm phán đảm nhận cả việc đào tạo ban đầu và đào tạo bồi dưỡng Thẩm phán .
5. Chilê.
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển theo chức danh trong số các thành viên đoàn Luật sư đã qua ít nhất 5 năm công tác thực tế.
Đào tạo : Không có trường đào tạo Thẩm phán riêng, việc đào tạo Thẩm phán tiến hành theo kinh nghiệm nghề nghiệp
IV: Châu phi.
1. Cộng hoà Nam phi
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển theo trình độ của những ngườicó bằng đại học pháp lý
Đào tạo: Không có trường đào tạo Thẩm phán riêng mà Bộ tư pháp chịu trách nhiệm mở các lớp đào tạo về lý thuyết và tổ chức thuực tập cho những người đã được tuyển vào ngạch Thẩm phán .
2. Angiêri.
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển theo trình độ của sinh viên Luật khoa và các Luật gia trẻ.
Đào tạo: Đào tạo Thẩm phán trong 1 trường sư phạm đồng thời đảm nhận cả việc đào tạo các công chức cao cấp tương lai (kiểu trường hành chính quốc gia có khoa tư pháp ).
3. Trung phi.
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển Thẩm phán trong số các sinh viên Luật khoa.
Đào tạo: đào tạo Thẩm phán tai trường sư phạm nhưng đảm nhận cả việc đào tạo các công chức cao cấp tương lai, có chương trình đào tạo Thẩm phán (khoa tư pháp ) 3 năm kể cả học lý thuyết và thực tập.
4. Ai cập
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển Thẩm phán buộc tội (uỷ viên công tố) bằng hình thức thi chọn trong số sinh viên Luật khoa. Tuyển Thẩm phán xét xử đào tạo số các uỷ viên công tố.
Đào tạo: Thẩm phán buộc tội (uỷ viên công tố) được đào tạo tại trung tâm nghiên cứu tư pháp quốc gia với thời gian 1 năm (6 tháng lý thuyết, 3 tháng hướng nghiệp, 2 tháng thực tập, 1 tháng ôn thi tốt nghiệp). Việc đào tạo bồi dưỡng Thẩm phán được tiến hành hàng năm tại trung tâm nghiên cứu tư pháp quốc gia với thời gian 3 tháng cho 50 Thẩm phán buộc tội và Thẩm phán xử án mới được bổ nhiệm. Các toà thượng thẩm hàng năm cùng tổ chức với lớp bồi duỡng ngắn hạn cho Thẩm phán ở địa phương mới được bổ nhiêm.
5. Madagaxca.
Phương thức tuyển cử chính; Tuyển Thẩm phán trong số những người có bằng pháp lý .
Đào tạo: Trung tâm nghiên cứu tư pháp quốc gia đảm nhận việc đào tạo Thẩm phán về mặt lý thuyết, sau đó Thẩm phán tương lai sẽ thực tập tại toà án, cuối khoá học sẽ thi tốt nghiệp tại trung tâm.
6. Marốc
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển Thẩm phán trong số sinh viên đã tốt nghiệp trường đại học pháp lý .
Đào tạo: Thẩm phán được đào tạo tại học viện tư pháp quốc gia (một trường sư phạm nhưng đồng thời đào tạo cả cán bộ toà án) Chương trình đào tạo Thẩm phán gồm 2 phần ; phần lý thuyết học tại trương và phần thực tập tại toà án. Học viện tư pháp quốc gia Marốc có khoa quốc tế dành cho sinh viên nước ngoài .
7. Xômali.
Phương thức tuyển cử chính: Tuyển Thẩm phán trong số các sinh viên Luật khoa.
Đào tạo: đào tạo bằng hình thức thực tập tại toà án 6 tháng, không có trường đào tạo chính quy.
NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI THẨM PHÁN TOÀ ÁN CẤP HUYỆN
Những yêu cầu về chuyên môn đối với Thẩm phán toà án cấp huyện có thể tạm chia thành 5 nhóm phù hợp với hướng hoạt động khác nhau của Thẩm phán. Trong số đó có thể kể đến những yêu cầu liên quan đến việc giáo dục chính trị- tư tưởng và đạo đức, đào tạo pháp lý, hình thành kinh nghiệm tổ chức công việc và giao tiếp với người tham gia tố tụng và mọi người dân (tính năng giao tiếp).
1. yêu cầu chính trị- tư tưởng thuộc phạm trù thế giới quan và nó đòi hỏi Thẩm phán phải có tính tư tưởng cao, tính đảng, ý thức công dân, phải ý thức được cả tính quyết định có ý nghĩa xã hội của hoạt động xét xử và các nhiệm vụ đặt ra cho toà án.
Thực tiễn áp dụng pháp luật chứng tỏ rằng các quan điểm, hệ thống các giá trị của Thẩm phán giữ 1 vị trí đáng kể trong việc giải thích các quy phạm pháp luật, lựa chọn các phương án giải quyết. Là 1 bộ phận của thế giới quan, chúng thường quyết định tính chất của việc lựa chọn quyết định xét xử. Pháp luật thể hiện chính sách của nhà nước và xã hội ở từng giai đoạn lịch sử, chứng minh các quy luật và khuynh hướng phát triển chính trị xã hội và kinh tế, và vì thế để giải quyết đúng đắn, phù hợp với ý nghĩa của nó cần làm thế nào để các quan điểm, định hướng, phương trâm của Thẩm phán phù hợp với thế giới quan cộng sản.
Thẩm phán phải là người có tư tưởng tiến bộ để tạo cho họ khả năng đánh giá từ cách nhìn hiện tại các sự việc, sự kiện và hành động của con người cũng như hiểu và đánh giá đúng các tình huống kinh tế xã hội xử sự của con người nói chung và từng con người cụ thể trong hoạt động, những nhu cầu của họ và những động cơ dẫn đến hoạt động cụ thể.
Sự tin tưởng của Thẩm phán đóng vai trò là người điều khiển xử sự của họ trong các tình huống gay cấn để đảm bảo nguyên tắc công bằng xã hội .
Việc hình thành thế giới quan khoa học cho Thẩm phán bảo đảm sự nghiêm ngặt các điều kiện chứng minh trong tố tụng và dựa trên phương pháp luận nó dựa trên điều kiện nhận thức Mac-Lênin. ĐIều đó được thể hiện rõ nét trong việc đánh giá các sự việc và sự kiện khi quyết định hình phạt.
Như vậy, việc giáo dục chính trị- tư tưởng cho Thẩm phán đặt cơ sở thế giới khách quan khoa học đồng thời tạo điều kiện cho việc kết hợp 1 cách hữu cơ các vấn đề lý luận về pháp luật với thực tế, hình thành niềm tin của Thẩm phán vào tính khoa học và có căn cứ của thế giới khách quan Maclênin, còn tính công khai của việc xét xử làm cho sự tin tưởng đó trở thành của chung của mọi người, điều đó bảo đảm cho toà án thực hiện chức năng giáo dục .
Sự trưởng thành về chính trị, tư tưỏng của Thẩm phán góp phần nâng cao mức độ tích cực xã hội của các Thẩm phán nhân dân khi xét xử và khi sử dụng những hinh thức phòng ngùa tố tụng các vi phạm pháp luật .
2. giáo dục đạo đức cho Thẩm phán toà án cấp huyện, hình thành cho họ 1 hệ thống giáo dục về đạo đức phù hợp cơ sở của thế giới khách quan khoa học tạo điều kiện hình thành những tính cách cần thiết về chuyên môn cho Thẩm phán như trình độ nhận thức đạo đức cao (có lương tâm), tinh thần vì công bằng cao, có quan niệm về cái thiện và cái ác, tính nghiêm khắc và tương xứng của hình phạt. V:G.Beclixnki cho rằng, có nhiều thể loại giáo dục và phát triển và mỗi thể loại tự thân nó là quan trọng, nhưng đứng trên tất cả nó phải là giáo dục đạo đức. Nó xác định thái độ đối với thực tại xã hội, lý tưởng, các nguyên tắc và chế định pháp lý với những người mình giao tiếp. Nguyên tắc đạo đức xác định cả thái độ đối với chính mình, với hành động của mình, mức độ trách nhiệm đối với việc thực hiện đúng các hành động đó.
Cần đặc biệt nhấn mạnh rằng, đạo đức cộng sản thể hiện trong hoạt động của Thẩm phán toà án cấp huyện mang tính nhân đạo, nó đề cao người lao động, thấm nhuần tư tưởng coi trọng người lao động không tha thứ mọi sự xâm phạm nhân phẩm, vi phạm các quyền của người lao động, khơi dậy tinh thần sẵn sàng không chấp thuận các hiện tương trái với lối sống XHCN.
ý thức đạo đức cao của Thẩm phán tạo điều kiện cho việc giải thích đứng đắn các quy phạm pháp luật, hình thành niềm tin nội tâm. Quan điểm đạo đức của Thẩm phán làm cơ sở để đánh giá xử sựvà hành vi của con người và mối quan hệ của họ.
Xử sự của Thẩm phán trái với chuẩn mực đạo đức, sự thờ ơ của số phận con người, sự định kiến là dấu hiệu không thích hợp với nghề nghiệp của Thẩm phán .
Trình độ văn hoá đạo đức cao giúp cho họ cắt nghĩa được hành vi vi phạm của con người, thông cảm với họ và trở lên nhân từ.
3. Những yêu cầu liên quan đến việc đào tạo pháp lý cho Thẩm phán toà án cấp huyện thể hiện ở mức độ thông thạo về chuyên môn của Thẩm phán. Thông thường người ta hạn chế những yêu cầu đó ở sự hiểu biết pháp luật và biết vận dụng pháp luật trong từng tình huông cụ thể. Thực tế những yêu cầu đó đòi hỏi sự hiểu biết rộng về pháp luật để giúp cho Thẩm phán nhận thức được ý nghĩa của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội như là 1 điều kiện hoạt động quan trọng của xã hội và nhà nước theo tiêu chuẩn, làm rõ vị trí của pháp luật trong hệ thống chung các chế định của nhà nước và xã hội, nắm vững những quy định nguyên tắc chế định cơ bản của các ngành Luật khác nhau và làm rõ vai trò thực tế của chung trong hoạt động lập pháp và hành pháp, phân biệt các quy phạm mang tính quy định, hiểu được ý nghĩa của văn hoá chung để giải thích đứng đắn pháp luật, nghiên cứu và đánh giá các sự kiện pháp lý có ý nghĩa.
Sự thông thạo về chuyên môn của Thẩm phán được thể hiện rất rõ trong khi chuẩn bị tiến hành xét xử và ra các quyết định về vụ án.
Các hoạt động chuẩn bị xét xử được xác định bởi những phẩm chất về chuyên môn như khả năng bao quát các giai đoạn của hoạt động sắp tới căn cứ vào sự hiểu biết rộng trong lĩnh vực pháp luật, xác định thứ tự các hoạt động tố tụng, kế hoạch hoá các điều kiện đó và điều đặc biệt quan trọng là xác định nội dung chính trong từng giai đoạn nghiên cứu, tìm phương pháp tối ưu để đạt được chân lý. Sự phát triển những cá tính của Thẩm phán như có chí hướng, cẩn thận, chững chạc, có trí sáng tạo, tạo điều kiện để nắm được những kỹ năng nghê nghiệp quan trọng đó. Việc xây dựng mô hình hoạt động tương lai dựa trên cơ sở phân tích các tài liệu của hồ sơ vụ án là 1 bảo đảm đề đạt tới chân lý trong quá trình chứng minh tại phiên toà.
Hoạt động chứng minh tại phiên toà trong giai đoạn những nhằm nghiên cứu 1 cách đầy đủ, khách quan và toàn diện các tình tiết của vụ án và ra quyết định hợp pháp và có căn cứ với điều kiện bảo đảm phap chế, bảo vệ quyền và lơi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. Nhận thức trong việc xét xử đối với vụ án hình sự thể hiện ở chỗ nghiên cứu 1 cách độc lập, đầy đủ và khách quan các chứng cứ thu thập ở các giai đoạn điều tra, các chứng cứ được bổ sung và do toà án yêu cầu. Còn nhận thức trong vu án dân sự thể hiện ở việc nghiên cứu các chứng cứ mà đương sự tự thu thập được và xuất trình cũng như các chứng cứ mà toà án yêu cầu .
Nhận thức trong xét xử không bị hạn chế ở việc thu thập và phân tích thông tin có ý nghĩa pháp lý cũng như trong các lĩnh vực hoạt động nhận thức. Nhận thức trong xét xử liên quan đến việc giải quyết các vấn đề, các nhiệm vụ sáng tạo, xây dựng và kiểm tra các giả thuyết mới khác với những giả thuyết đã được trình bày trong bản cáo trạng, sử dụng mô hình chứng minh.
Việc những 1 cách đầy đủ, khách quan và toàn diện các tình tiết của vụ án chứng tỏ rằng đối với nghề Thẩm phán cần phải có mức độ phát triển cao về nhân cách, hiểu biết về nhiều vấn đề, xây dựng có tính tư duy, logic và độc lập trong phán xét, tránh rập khuôn, biết phân tích thông tin xác định vấn đề chủ yếu.
Việc xét xử đòi hỏi phải có quyết định trung gian và cuối cùng đối với giai đoạn tố tụng này. ĐÃ là giai đoạn phức tạp nhất của hoạt động xét xử. Quá trình ra những quyết định bao gồm 3 giai đoạn, xác định mục đích cần đạt tới (mục đích chung đã được hình thành trong pháp luật, các mục đích cụ thể do toà án xác định), chuẩn bị các phương án giải quyết và lựa chọn 1 trong số các phương án đó. Việc xác định mục đích và các phương án giải quyết liên quan mật thiết với nhân cách của Thẩm phán, mức độ phát triển của của họ, với hệ thống các giá trị mà họ có nhu cầu. Ví dụ nếu Thẩm phán cho rằng mục đích của việc nghiên cứu tại phiên toà là ở chỗ kiểm tra các chứng cứ xác nhận giả thuyết điều tra kết luận bị can có tội thì trong trường hợp đó mục đích là kết quả của nhận thức chủ quan chứ không phải là đòi hỏi khách quan.
Thẩm phán cần được đào tạo về khả năng xác định phạm vi các phương án giải quyết, phân tích các thông tin cho thấy được kết quả, phương án có được quyết định chỉ có 1 nghĩa hay không. Ví dụ việc chứng minh tại phiên toà phải đưa đến 1 trong số các kết luận xác định về tội trạng của các bị cáo chứ không phải là kết luận giả định. Việc dự đoán tính chất của quyết định được được định trước bởi việc phân tích thận trọng các sự việc, vì thế Thẩm phán cần phải được đào tạo về khả năng phân tích sự viêc và lập luận trong văn bản tố tụng sự lựa chọn từng phương án giải quyết cụ thể.
Việc Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ xét xử do Luật đòi hỏi họ phải khách quan, không có định kiến buộc hay gỡ tội, không cho phép đánh giá quá cao ý nghĩa các lời khai liên quan đến việc thú tội của bị cáo, ý nghĩa của việc tin tưởng quá mức vào các chứng cứ thu thập được ở giai đoạn điều tra, tránh thái độ thiếu xây dựng đối với kết luận của cơ quan buộc tội.
Trong hoạt động nghiệp vụ của mình, Thẩm phán cần phải căn cứ vào nguyên tắc là sự độc lập xét xử của Thẩm phán và hội thẩm nhân dân không chỉ là quyền cần phải bảo vệ mình còn là nghĩa vụ xuất phát từ sự tin tưởng xã hội dành cho Thẩm phán và hôị thẩm nhân dân khi trao cho họ giải quyết những xung đột rất gay gắt.
Nguyễn Văn Hoàn
Lược thuật
Theo cuốn Thẩm phán huyện. Các phương thức hoạt động chủ yếu. Bộ tư pháp Liên xô xuất bản 1988
Đảng cộng sản Việt Nam
Ban chấp hành trung ương Hà nội ngày 28-1-1991
Ban nội chính
BÁO CÁO NHẬN XÉT KHOA HỌC VỀ ĐỀ TÀI CẢI CÁCH TƯ PHÁP. PHẦN ĐỔI MỚI TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN.
Đề tài cải cách tư pháp. Phần đổi mới tổ chức hoạt động của toà án được triển khai theo những yêu cầu và điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo đường lối đại hội 6 đảng cộng sản Việt Nam. Trong bối cảnh đó, đề tài đã cố gắng bám sát và đáp ứng những yêu cầu thực tiễn đặt ra trong 1 yêu cầu rất quan trọng của đời sống xã hội. Mặt khác công cụ sản xuất nói chung cũng đã cho phép đề tài phát triển thuận lợi với những phương pháp nghiên cứu khoa học, đạt được kết quả rất đáng được chuyển đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét áp dụng. ĐÅng thời 1 số điểm hạn chế của đề tài về tổ chức và kết quả nghiên cứu cũng cần được đánh giá trong tổng thể nói trên.
2. Vấn đề bảo đảm tính độc lập của toà án nói riêng, của nền tư pháp nói chung đã xuyên suốt nội dung đề tài như 1 tư tưởng hoá. Nhiều báo cáo đã đề cập và làm rõ nhu cầu cấp bách cũng như các kiến nghị về chính trị, pháp lý tổ chức tài chính để bảo đảm nguyên tắc đôc lập xét xử của Thẩm phán. Nhìn chung chúng tôi ủng hộ nhiều trong các kiến nghi nói trên, coi đây là nỗ lực tìm tòi tích cực để đổi mới các toà án nhằm xây dựng chúng thành hệ thống nhưng cơ quan phán xét cuối cùng đầy tin tưởng về công lý như là 1 tiêu chuẩn chất lượng xã hội không thể thiếu của xã hội chúng ta.
A) Sau nhiều năm phấn đấu, những thành tựu xây dựng hệ thống toà án ở nước ta cho phép chúng ta thống nhất ở 1 số điểm rất quan trọng, đã đến lúc cần đấu tranh xoá bỏ mọi hình thức can thiệp vào hoạt động xét xử của Thẩm phán đặc biệt là cơ chế thỉnh thị và duyệt án. Riêng cơ chế thỉnh thị và duyệt án đã từng được họp đánh giá trong hoàn cảnh đặc biệt của đấu tranh cách mạng và buổi đầu xây dựng ngành toà án mới. Ngày nay khhi pháp luật đã thừa nhận nguyên tắc Thẩm phán độc lập trong khi xét xử thì mọi biểu hiện thỉnh thị và duyệt án (dù chủ động hay thụ động) không chỉ là những sai lầm nhỏ của quá khứ còn sống sót, mà còn phải đấu tranh như đối với các hành vi phạm pháp khác. Một thái độ không cương quyết trong vấn đề này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho 1 số cá nhân mệnh danh cấp uỷ, chính quyền để can thiệp vò hoạt động xét xử vì những quyền lợi cá nhân ích kỷ.
ĐIều đó phù hợp với yêu cầu bảo đảm sự lãnh đạo của đảng đối với toà án. Vấn đề là cần quan niệm cho đúng về vai trò lãnh đạo của đảng là lãnh đạo chính trị, bằng các biện pháp chính trị, tư tưỏng và tổ chức xây dựng đảng tại các toà án. Mặt khác cũng cần hiểu đúng hơn về sự độc lập của Thẩm phán, đó là sự độc lập về mặt pháp lý. Cách tốt nhất để bảo đảm sự lãnh đạo của đảng vẫn là thể chế hoá đầy đủ chính sách của đảng thành pháp luật và bảo đảm tính độc lập của Thẩm phán .
Việc báo cáo với cấp uỷ địa phương về các vụ án trọng điểm, có ý nghĩa chính trị cần được xem xét thêm ở 1 góc độ khác. Trong thực tế thì đó chủ yếu la các vụ án hình sự hoá và nhiều vấn đề đã được giải quyết trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố. Thật là thiếu khôn ngoan, nếu Thẩm phán nào thụ lý 1 vụ án như vậy lại không tìm cách để biết được ý kiến của lãnh đạo tổ chức chính trị cầm quyền ở địa phương mình. Vì vậy, nếu lấy tất cả những tiêu chuẩn tư pháp văn minh nhất để So sánh thì vẫn có thể cáo các Thẩm phán cần tham khảo ý kiến của cấp uỷ địa phương .
b) Những tìm tòi nghiên cứu và đề nghị về toà án khu vực rất đáng được xem xét, cân nhắc để thử nghiệm ở nước ta. Những ưu điểm của 1 hệ thống tổ chức như vậy là rõ ràng, các thuyết trình trong đề tài chứa đựng nhiều điểm hợp lý. Trong thực tế nước ta việc giải phóng toà án khỏi các cơ cấu hành chính theo lãnh thổ sẽ là biện pháp tích cực để bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử. Tuy vậy, quá trình tiến tới 1 hệ thống như vậy cần được tiến hành hết sức thận trọng, trước mắt còn pải qua thí điểm. Nếu lấy số vụ án và chất lượng Thẩm phán làm tiêu chuẩn chính trị thì có lẽ việc duy trì ở các thành phốlà hợp lý, còn toà án khu vực lại tỏ ra hữu hiệu hơn chỉ ở các vùng nông thôn và miền núi...
c) Vấn đề quản lý toà án địa phương là 1 vấn đề nan giải ở nước ta. Cần làm rõ thêm những điểm hợp lý của điều 16 Luật tổ chức toà án để có sự thống nhất cao hơn về nhận thức. ĐIều quan trọng nhất ở đây là yếu tố về quản lý mà đề tài đã cố gắng làm rõ. Còn 1 khía cạnh mà chúng ta còn ít chú ý đó là vấn đề quản lý về mặt chính trị của Thẩm phán, pháp luật gọi là an ninh nhà nước. Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi sở dĩ các nước phát triển cũng giao việc quản lý toà án địa phương to lớn của nó (cụ thể là Bộ tư pháp với sự phối hợp của các cơ quan đào tạo và nội vụ) mới có thể cung cấp chho cơ quan tuyển cử sự bảo đảm về lòng trung thành của ứng cử viên Thẩm phán. ít nhất đó phải là lòng trung thành với hiến pháp, với vấn đề pháp luật hiện hành chỉ là 1 bộ phận cấu thành của lòng trung thành về chính trị, ở cơ quan phán xét về các quyền lợi xã hội thì đây có lẽ là vấn đề lớn nhất. Giao khối lượng quản lý công việc lớn như vậy cho TANDTC thì thật trái nguyên tắc vì phân công lao động nhà nước mà theo đó cơ quan tài pán càng ít phải quản lý càng tốt. Xem như vậy thì điều 16 của ta là đúng, cả trước mắt lẫn lâu dài. Trong bối cảnh hiện nay lại càng không nên xem xét lại. Vấn đề thực tế là bản thân Bộ tư pháp lại cũng cần quan tâm làm tốt nhiệm vụ của mình cả về mặt tổ chức cán bộ và tài chính. Những kiến nghị trong đề tài nhằm thực hiện điều 16 vì thế chúng tôi ủng hộ.
Phù hợp với điều 16 Bộ tư pháp cần sớm có kiến nghị để thử nghiệm chế độ bổ nhiệm Thẩm phán, vì đơn giản là không thể phủ nhận những ưu điểm của cơ chế này được áp dụng ở phần lớn các nước trên thế giới.
Những đóng góp của đề tài này đã làm rõ những ưu điểm cần đánh giá cao.
2. Điều quyết định chất lượng của mọi toà án cuối cùng quyết định chất lượng của Thẩm phán. Tuy đề tài có 1 số đề cập đến vấn đề cán bộ Thẩm phán nhưng đáng tiếc chưa có tính tổng thể và chưa đưa ra những tính kiến nghị tích cực.
Theo chúng tôi, nguồn then chốt là cán bộ Thẩm phán tức là vấn đề đào tạo Thẩm phán. Hệ thống toà án phải cung cấp cho cơ quan tuyển cử quyền khả năng lựa chọn giữa nhiều ứng cử viên. Rõ ràng đây là 1 điểm yếu trong hệ thống giáo dục đào tạo của chúng ta. Mặt khác cần có sự khác biệt căn bản giữa đào tạo cơ bản về cán bộ tổng hợp về pháp luật và đào tạo Thẩm phán - chuyên sâu. Thừa nhận hoạt động xét xử là 1 loại lao động tổng hợp đặc biệt thì việc đào tạo cơ bản phải được tiến hành tại trường đại học tông hợp, bởi chỉ có môi trường đào tạo như vậy mới có thể trang bị kiến thức tổng hợp cho các ứng cử viên Thẩm phán tương lai. Chương trình đào tạo chuyên sâu dành cho thực tập viên Thẩm phán (sau khi được sơ tuyển) cần được tiến hành tại trường riêng của ngành tư pháp. Trong trường hợp nước ta , việc đó là của trường DHPL. Trước mắt tổ chức bồi dưỡng nâng cao kiến thức nghiệp vụ cho Thẩm phán Bộ tư pháp và TANDTC cần phối hợp. Trong sự phát triển tiếp theo, đề tài này nên quan tâm hơn nữa đến vấn đề tiếp theo.
Tương tự như vậy, khoa học pháp lý có nghĩa vụ đặt ra những nền tảng đầu tiên để xây dựng thẩm mỹ nghề nghiệp Thẩm phán ở nước ta. Rõ ràng là trong đào tạo giáo dục tuyên truyền pháp luật và cả trong công tác tổ chức hiện nay chúng ta chưa đề cập đến vấn đề này. Muốn có 1 nền tư pháp xã hội chủ nghĩa thì khong thể thiếu 1 đội ngũ cán bộ Thẩm phán có thẩm mỹ nghề nghiệp cao cả được đặc trưng bởi tính vô tư, công bằng và dũng cảm.
2. Về mặt hình thức, đề tài được trình bày rõ ràng, logic các kiến nghị đều kèm theo những biện chứng khoa học và thực tiễn đáng tin cậy, thuận tiện của các cơ quan nhà nước trong viêc xem xét đánh giá. Phần tài liệu tham khảo phong phú cũng là 1 nét nổi bật của đề tài, bởi trong bước đi ban đầu xây dựng nền tư pháp XHCN chúng ta không thể không tham khảo kinh nghiệm quốc tế .
Việc phần lớn các đóng góp vào đề tài được phân tích dưới góc nhìn của Hà nội và TPHCM đặt ra câu hỏi về góc độ sâu sát của đề tài với thực tiễn toà án của đất nước. Đây là điều cần rút kinh nghiệm trong nghiên cứu các vấn đề tư pháp nói chung, vấn đề toà án nói riêng. Phải tranh thủ được sự ủng hộ của các cộng tác viên ở mọi miền đất nước thì giá trị của công trinh mới có thể đạt được tầm cao của nó.
Nhìn chung đề tài có chất lượng tốt, có giá trị khoa học và thực tiễn. Chúng tôi đề nghị hội đồng nghiệm thu xem xét công nhận kết quả của đề tài cải cách tư pháp. Phần đổi mới tổ chức hoạt động của toà án
Trưởng ban nội chính trung ương đã ký.
Bộ Tư Pháp
Hội đồng nghiệm thu Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Đề tài: 86-98-001 Độc lập- tự do- hạnh phúc
Hà nội ngày tháng năm199
BẢN NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ NGHIỆM THU ĐỀ TÀI CẢI CÁCH TƯ PHÁP. MÃ SỐ: 86-98-001
Phần đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án
Nghiên cứu những vấn đề về cải cách tư pháp nói chung, đổi mới tổ chức vsf hoạt động của toà án nói riêng là đòi hỏi bức thiết của lập luận và thực tiễn hoạt động tư pháp là 1 bộ phận cải cách bộ máy nhà nước và đổi mới hệ thống chính trị nước ta hiện nay.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án là góp phần tích cực vào việc phát huy dân chủ XHCN, phục vụ công cuộc đổi mới kinh tế, đồng thời góp phần củng cố hơn nữa phát chế và trật tự pháp luật XHCN.
Trong 2 năm qua, đề tài đã tập trung nghiên cứu nhưng vấn đề về tổ chức toà án sơ thẩm khu vực, chế độ tuyển cử Thẩm phán và hội thẩm nhân dân, thẩm quyền xét xử của toà án nhân dân các cấp, công tác quản lý toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức, vấn đề đào tạo và bồi dưỡng cán bộ toà án.
Bằng phương pháp luậncủa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp So sánh, phương pháp lịch sưtreen cơ sở khảo sát, nghiên cứu thực trạng về tổ chức hoạt động của toà án nhân dân địa phương, tham khảo kinh nghiệm của 1 số nước các tác giả đã nhấn mạnh đưa ra 1 số kiến nghị có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn hoạt động của toà án.
ĐâY là 1 đề tài nghiên cứu khoa học có mức độ phức tạp lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực nên việc giải quyết các vấn đề được đặt trong 1 phương án đồng bộ và tổng thể. Tất cả các kiến nghị của đề tài đều nhằm 1 mục đích là làm gì, làm như thế nào, để đảm bảo nguyên tắc Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .
Nhìn chung, các giải pháp và kiến nghị trong công trình đều có cơ sở lý luận và thực tiễn sinh động, được lập luận và lý giải 1 cách khoa học, có tỉnh thuyết phục. Ví như kiến nghị về việc thành lập các toà án sơ thẩm khu vực. Nếu kiến nghị này được chấp nhận và triển khai áp dụng sẽ làm cho bộ máy biên chế của toà án gọn nhẹ, tiết kiệm được cơ sở vật chất, tập trung được Thẩm phán có trình độ và nhất là bảođảm được nguyên tắc độc lập xét xử. Các kiến nghị vê việc bỏ chế độ thỉnh thị án và duyệt án, tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện, thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán ...đều có giá trị khoa học và ý nghĩa thực tế lớn.
Đối với tổ chức và hoạt động của toà án là 1 đề tài cấp bộ có giá trị, việc tiếp tục và hoàn thiện và sử dụng các kiến nghị của đề tài là nhiệm vụ cần thiết để đề tài thực sự là cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động toà án nước ta hiện nay.
Do điều kiện kinh phí và thời gian hạn chế nên công trình còn có 1 số thiếu sót nhất định.
1- Việc khảo sát, điều tra chưa được tiến hành trên 1 bình diện rộng lớn và trong phạm vi toàn quốc.
2- Vấn đề quản lý toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức chưa được công trình đề câp đến 1 cách thoả đáng và chưa có đầy đủ luận cứ thuyết phục.
3- Việc xác định cách làm, bước đi để triển khai 1 số kết quả của công trình chưa cụ thể.
4- Trong công trình còn có 1 số thiếu sót và lỗi chính tả.
Mặc dù, công trình còn có 1 số thiếu sót và hạn chế như vậy, nhưng nhìn chung đề tài cải cách tư pháp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của đề tài là 1 nghiên cứu khoa học có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn, đảm bảo đầy đủ mọi yêu cầu và thủ tục đối với 1 công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ. đề tài được nhất trí xếp loại khá.
Chủ tịch hội đồng nghiệm thu Thư ký hội đồng nghiệm thu
Trần đông Uông chu lưu
BẢN NHẬN XÉT ĐỀ TÀI CẢI CÁCH TƯ PHÁP PHẦN ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN
Người viết nhận xét:
Hoàng Thọ Khiêm
Phó vụ trưởng vụ quản lý toà án Bộ tư pháp .
Với tư cách là người nhận xét chính thức trong buổi nghiệm thu đề tài cải cách tư pháp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án, mã số 86-98-001, tôi xin mạnh dạn nêu lên 1 vài suy nghĩ để hội đồng nghiệm thu có thể tham khảo trong khi xem xét đánh giá những thành công và hạn chế của đề tài 1 cách khách quan đứng đắn.
1- Trước hết, cần khẳng định rằng, việc nghiên cứu những vấn đề về cải cách tư pháp nói chung và phần đổi mới hoạt động của toà án nói riêng có 1 ý nghĩa hết sức thiết thực trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị mà đảng đã đề ra. Ngay từ đại hội 6 đảng ta đã chỉ rõ; Đối với nước ta đổi mới đang là yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn và phải đổi mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy tỉnh đúng đắn của đề tài được thể hiện ngay trong phương hướng nghiên cứu những vấn đề cải cách trong lĩnh vực tư pháp và đã hoà nhập chung vào sự nghiệp đổi mới lớn lao mà đảng ta đang quyết tâm thực hiện .
Đồng thời phạm vi nghiên cứu của đề tài khá rộng, nhưng lại có tính thời sự cấp thiết. Những vấn đề được nghiên cứu và giải quyết đều thể hiện tính thống nhất về mục tiêu cuối cùng đạt được là tăng cưỡng sụ lãnh đạo của đảng, phát huy hơn nữa tính ưu việt của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan toà án ở nước ta hiện nay.
2- Về mặt phương pháp luận, tôi nhận xét rằng đề tài đã có những thành công nhất định. Tất cả những vấn đề được nghiên cứu xem xét để tìm biện pháp giải quyết đều quán triệt sâu sắc những quan điểm; khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể của triết học Maclênin. ĐÅng thời những nội dung được nghiên cứu đều được xem xét trong mối quan hệ biện chứng hữu cơ với nhau giữa lý luận và thực tiễn. Giữa tổ chức và cán bộ... và rộng hơn nữa là So sánh đối chiếu trong mối quan hệ lý luận, thực tiễn ở trong nước với lý luận và thực tiễn ở nước khác. Với phương pháp nghiên cứu đó, những luận cứ được đưa ra đều mang tính khoa học chân thực nên có sức thuyết phục nhất định.
3- Đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án là 1 vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp cả về lý luận cũng như thực tiễn ở nước ta hiện nay. Có thể nói những kết quả của nghiên cứu được phản ảnh đầy đủ tính khó khăn, phức tạp đó, song nó cũng phản ánh 1 quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện của lãnh đạo Bộ tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý và ban chủ nhiệm đề tài 1 cách chặt chẽ và nghiêm túc. Những kết quả nghiên cứu thu thập được là trí tuệ của cả tập thể, thể hiện sự cố gắng lớn của ban chủ nhiệm đề tài và sự nỗ lực của các cộng tác viên. Tôi nghĩ đó cũng là những cố gắng lớn trong quá trình thực hiện đề tài, cần được xem xét đánh giá trong khi nghiệm thu đề tài.
4- Những nội dung cụ thể của đề tài đã được nghiên cứu công phu, có sự điều tra, hội thảo, tập trung được nhiều ý kiến phong phú và bổ ích, cách trình bày những nội dung cụ thể đó khá logic, nâng cao hơn tính thuyết phục và những luận cứ đưa ra,
Đề tài đã nêu ra những căn cứ lý luận vững chắc và đúng đắn vê sự cần thiết của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án, khó có thể phủ nhận. Thiết thực hơn đề tài đã có 1 sự nghiên cứu sâu sắc hơn về thực trạng của các toà án ở nước ta trong nhiều năm qua. Thực trạng đó chứa đựng nhiều điều bất hợp lý và mâu thuẫn. ĐÃ chính là những mục tiêu đổi mới mà đề tài nhằm đạt được và từ đó nêu ra những quy định cụ thể nhất.
Nhìn chung, 5 kiến nghị mà đề tài nêu ra đều là những kiến nghị rất xác đáng. Những kiến nghị này tập trung vào những vấn đề nổi cộm nhất từ trước đến nay, phải đổi mới để thì mới có thể nói tới việc tăng cường hiệu lực và hiệu quả của quản lý nhà nước, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của toà án xã hội chủ nghĩa hiện nay. Mỗi kiến nghị song tôi cũng xin nêu thêm 1 vài suy nghĩ sau đây:
a) Về kiến nghi thành lập toà án khu vực và tăng thẩm quyền cho toà cấp huyện, tôi hoàn toàn nhất trí với kiến nghị này và coi đó là phương án tốt nhất để thực hiện sựyc đặt ra của sụ nghiệp đổi mới trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Nếu thực hiện kiến nghị này thì sẽ phát sinh những khó khăn phức tạp mới, nhưng cách giải quyết những khó khăn đó được đề cập trong đề tài lại có phần đơn giản. Nếu đề tài khắc phục được 1 số nhược điểm dưới đây thì tính thuyết phục sẽ cao hơn.
- Đề tài mới chỉ giải quyết những khó khăn về phía cơ quan nhà nước mà chưa đúng về phía những người có việc đến toà án đó là các đương sự. Nhiều việc kiện dân sự hiện nay toà án đang gặp khó khăn là bị đơn trong vụ kiện không chịu đến cơ quan toà án để giải quyết vụ kiện, mặc dù đã được báo gọi nhiều lần, dẫn đến tình trạng vụ kiện kéo dài, quá Luật định. Nếu địa bàn rộng hơn nữa thì cũng có thể ngay nguyên đơn cũng không đến cơ quan toà án để theo kiện và tình trạng giải quyết các tranh chấp dễ theo phong tục tập quán, dễ do già làng quy định, thực tế này phát sinh ở tây bắc, tây nguyên.
- Cũng cần xem xét đến tâm lý cán bộ toà án là người thuộc dân tộc thiểu số, họ chấp nhận với yên tâm khi xa gia đình vợ con, hoặc không yên tâm làm việc nếu hiệu quả công việc không cao.
Nói tóm lại, cần có những bước đi thích hợp trong quá trình thực hiện kiến nghị này, trước mắt chỉ nên làm thí điểm ở 1 vài nơi để kiểm nghiệm lại kết quả của những kiến nghị đó.
B- Về kiến nghị đổi mới chế độ tuyển cử Thẩm phán :
Tôi hoàn toàn tin với kiến nghị này và thấy rằng cần sớm thực hiện chế độ Thẩm phán bổ nhiệm song hiện nay không ít người ngần ngại chưa thực sự ủng hộ sợ mất dân chủ, sợ có cái gì giống nhà nước tư sản. Vì vậy tôi nghĩ rằng nếu đề tài có sự điều tra rộng rãi hơn, vượt ra ngoài các cơ quan toà án và tư pháp chắc chắn đề tài có sức thuyết phục hơn nhiều.
Về bước đi được nêu ra trong đề tài, tôi thấy rằng chưa có luận cứ khoa học để lý giải tại sao lại như vậy, tại sao lại bổ nhiệm theo nhiệm kỳ, nhiệm kỳ đặt ra giải quyết vấn đề gì. Tại sao Thẩm phán toà án cấp huyện vẫn theo chế độ bầu... Tất cả những vấn đề này theo tôi nghĩ trong đề tài thiếu sự lý giải nên cảm thấy còn do dự, chưa thật sự đổi mới 1 cách triệt để.
C- Về kiến nghị thay đổi thẩm quyền của TAND địa phương
Về kiến nghị này tôi cũng hoàn toàn nhất trí với các căn cứ lý luận và thực tiễn đã được nêu ra trong đề tài và cũng là 1 xu thế tất yếu, phù hợp với mô hình toà án ở hầu hết các nước trên thế giới. Song kiến nghị này cũng phải tỉnh đến đặc điểm của cán bộ toà án ở miền núi hiện nay, để có bước đi thích hợp nhất cùng với việc quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Nếu như đề tài có sự điều tra riêng về thực chất chất lượng cán bộ Thẩm phán toà án ở các huyện miền nuí (không chỉ nhìn bằng cấp) thì tính thuyết phục với việc tăng thẩm quyền của toà án cấp huyện sẽ cao hơn nhiều.
Tôi nghĩ rằng những hạn chế trên đây có thể còn do sự eo hẹp, khó khăn về kinh phí nên trong quá trình thực hiện đề tài chưa có được bước điều tra quy mô lớn hơn, toàn diện hơn.
Nói tóm lại, đề tài cải cách tư pháp phần đổi mới tổ chức hoạt động của toà án có giá trị rất thiết thực cả về mặt lý luận và thực tiễn. Nhiều vấn đề được nêu ra trong đề tài có giá trị ứng dụng ngay và sẽ mang lại hiệu quả cao trong thực tế. Những khó khăn nảy sinh trong thực hiện các kiến nghị nêu ra, đề tài đề cập được những giải pháp thích hợp, triệt để và đề ra những bước đi cụ thể thì giá trị nghiên cứu của đề tài còn cao hơn nữa.
Đánh giá chung của đề tài ở mức đạt
Trên đây là 1 vài ý kiến nêu ra để hội đồng tham khảo xem xét khi nghiệm thu đề tài.
Chúc buổi nghiệm thu đề tài thành công tốt đẹp.
PHIẾU ĐĂNG KÝ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KH- CN
|
Tªn ®Ò tµi : c¶i c¸ch t ph¸p - PhÇn vÒ ®æi míi tæ chøc vµ ho¹t ®éng cña toµ ¸n nh©n d©n
M· sè; 86-98-001
|
C¬ quan trï tr× ®Ò tµi: ViÖn nghiªn cøu khoa häc ph¸p lý
®Þa chØ 25A C¸t linh §iÖn tho¹i; 55316
|
Tæng kinh phÝ thùc chi x 1000 ® hoÆc USD
trong ®ã tõ ng©n s¸ch nhµ níc x 1000 ® hoÆc USD
kinh phÝ cña Bé (tØnh) x 1000 ® hoÆc USD
Vay tÝn dông x 1000 ® hoÆc USD
Vèn tù cã x 1000 ® hoÆc USD
Thu håi x 1000 ® hoÆc USD
|
Thêi gian nghiªn cøu
Thêi gian b¾t ®Çu
Thêi gian kÕt thóc
|
Tªn c¸c c¸n bé nghiªn cøu :
NguyÔn V¨n Lu
NguyÔn Quèc Thuú
TrÇn Th Nguyªn
Vò V¨n TuÊn
NguyÔn ThÞ B¶o
|
Tãm t¾c kÕt qu¶ nghiªn cøu : têng thuËt tæng quan vÒ tæ chøc vµ ho¹t ®éng cña toµ ¸në níc ta tõ 1945 ®Õn nay. Trªn c¬ së nh÷ng ph¬ng ph¸p luËn khoa häc ®îc chøng minh b»ng t×nh h×nh, sè liÖu thùc tiÔn ®· nªu vµ ph©n tÝch vÒ sè ®iÓm bÊt hîp lý trong tæ chøc vµ ho¹t ®éng cña toµ ¸n ë níc ta hiÖn nay. Ph©n tÝch rót kinh nghiÖm tæ chøc vµ ho¹t ®éng cña toµ ¸n ë 1 sè níc trªn thÕ giíi vµ trong lÞch sö cña níc ta hiÖn nay ¸p dông vµo thùc tiÔn ®Ó ®óc rót 1 sè kinh nghiÖm trong 1 ph¬ng ¸n ®ång bé vµ tæng thÓ nh»m môc ®Ých n©ng cao tÝnh ®éc lËp cña toµ ¸n trong xÐt xö
kÕt qu¶ nµy ®· ®îc chuyÓn thµnh ®Ò ¸n vÒ ®æi míi tæ chøc vµ ho¹t ®éng cña Bé t ph¸p tr×nh lªn c¸c c¬ quan cã thÈm quyÒn xem xÐt.
|
KiÕn nghÞ vÒ quy m« vµ ®èi tîng ¸p dông kÕt qu¶ nghiªn cøu :
c¸c kiÕn nghÞ;
_ thµnh l©p c¸c toµ ¸n s¬ th©m ë khu vùc
- thùc tËp chÕ ®é bæ nhiÖm ThÈm ph¸n
- thay ®æi thÈm quyÒn cña toµ ¸n c¸c cÊp
- Huû bá c¸c lÒ lèi lµm viÖc l¹c hËu trong toµ ¸n
t¨ng cêng vai trß cña Bé t ph¸p trong viÖc qu¶n lý toµ ¸n ®Þa ph¬ng
quy m« ¸p dông: toµn quèc
§èi täng ¸p dông: c¬ quan t ph¸p ngµnh däc vµ toµ ¸n
|
|
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ ĐỀ TÀI CẢI CÁCH TƯ PHÁP
Phần đổi mới tổ chức hoạt động của toà án
Đề tài cấp bộ mã số 86-98-001 Cơ quan
Chủ đề tài Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ tư pháp
Báo cáo chính của đề tài gồm 38 trang, bao gồm 4 vấn đề chính:
- Mục đích yêu cầu và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Những căn cứ lý luận của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án
- Thực trạng hoạt động và tổ chức của toà án hiện nay
- Một số kiến nghị cụ thể
Báo cáo chính đã được đề cập về nội dung đổi mới tổ chức hoạt động của toà án, mà theo tác giả thì trong cải cách tư pháp, đổi mới toà án là vấn đề có tính cấp bách bởi lẽ trong hệ thống các cơ quan tư pháp toà án giữ vị trí rất đặc biệt. Chúng tôi đồng tình với quan điểm này vì kết quả hoạt động của toà án là nơi thể hiện sản phẩm của toàn bộ hoạt động các tổ chức tư pháp .
Yêu cầu đổi mới toà án, các tác giả nêu ra 3 yêu cầu .
- Đổi mới toà án để góp phần phát huy dân chủ XHC
- Đổi mới để toà án phục vụ tốt hơn cho công cuộc đổi mới kinh tế .
- Đổi mới toà án nhằm củng cố hơn nữa pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
yêu cầu trên đặt cho toà án cũng phải đổi mới cùng với yêu cầu công cuộc đổi mới bộ máy nhà nước .
Phần III báo cáo chính nói về thực trạng tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân địa phương đã nêu được nhiều vấn đề cụ thể có ý nghĩa thực tiễn, ở đâycó những vấn đề được nêu ra, có phân tích rõ thực trạng và qua đó có thể rút ra kết luận bổ ích:
- Những bất hợp lý trong tổ chức TAND cấp huyện.
- Những bất hợp lý trong việc phân định thẩm quyền các toà án
- Về chế định hội thẩm nhân dân
- Những vấn đề trong công tác quản lý các TAND địa phương về mặt tổ chức
Các tác giả đã phân tích, đưa ra các số liệu chứng minh 1 số vấn đề mà lâu nay đã thấy, song chưa có đổi mới cần thiết để hoạt động toà án có hiệu quả hơn; toà án địa phương (cấp quận, huyện, thị xã... ) còn phân theo đơn vị hành chính mà không tính đến đặc điểm, đặc thù, khối lượng công việc, khả năng cán bộ, điều kiện xét xử ... hoặc phân định thẩm quyền xét xử, chế độ thỉnh thị án và duyệt án chưa thay đổi phù hợp với yêu cầu mới vẫn là chỗ dựa của toà án cấp dưói với cấp trệnh đôi khi cấp trên lại can thiệp quá sâu vào công việc của cấp dưới.
Phần thứ 4 Một số kiến nghị cụ thể gồm 5 kiến nghị. Chúng tôi thấy đây là kiến nghị cụ thể đã được rút ra trong thực tiễn, tuy chưa hẳn có tổng kết song kiến nghị của chúng tôi đồng tình và thiết nghĩ rằng có thể áp dụng trong những năm tới đó là;
- Thành lập các toà án sơ thẩm khu vực mà mở rộng thẩm quyền cho TAND cấp huyện. Như đã phân tích, việc làm này có lợi nhiều mặt, tập trung được số Thẩm phán có năng lực, giảm số lượng người, tiết kiệm cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, toà án tỉnh quản lý thuận tiện hơn.
- Đổi mới chế độ tuyển cử Thẩm phán chúng tôi đồng tình tiêu chuẩn Thẩm phán nêu trong các báo cáo. Còn cách thức tuyển cử thi cần thiết phải thay đổi chế độ bầu (thông qua HĐND) bằng chế độ bổ nhiệm Thẩm phán (ưu việt của cách này được tác giả phân tích rất rõ). Trước mắt để kịp với yêu cầu và tránh gây xáo trộn, có thể bổ nhiệm Thẩm phán sau khi lấy phiếu thăm dò tín nhiệm của hội đồng nhân dân (sog là bổ nhiệm chứ khôg phải là bầu) mà cấp huyện càng rõ vì sau này là toà án khu vực của 2,3 huyện thì không thể do 2,3 huyện bầu được.
- Tăng thẩm quyền của TAND địa phương đi đôi với tăng cường chất lượng, năng lực làm việc của Thẩm phán địa phương là việc làm cần thiết và thực tế đòi hỏi như vậy để tiến tới khắc phục tình trạng thỉnh thị án và duyệt án.
Ngoài báo cáo chính gồm 3 phần: phần báo cáo chuyên đề, thông tin tư liệu, các phần này đã góp phần bổ sung cho báo cáo chính và sưu tầm tổ chức hoạt động của toà án của 1 số nước trên thế giới.
Đề tài nghiên cứu cũng là vấn đề thảo luận, làm sáng tỏ hơn về lý luận cũng như ý nghĩa thực tế. ĐÃ là vấn đề tổ chức quản lý các toà án nhân dân địa phương. Toà án nhân dân địa phương nên giao cho Bộ tư pháp hay toà án nhân dân tối cao quản lý về tổ chức. Các tác giả đã đề cập trong phần 3 báo cáo chính tại mục 7 và trong phần 4 tại điểm 5 của các kiến nghị phần tư liệu của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (Bộ tư pháp ). Đây là vấn đề giữa 2 cơ quan (Bộ và toà án nhân dân tối cao) cũng chưa thống nhất và chưa có tổng kết đánh giá thật cơ bản vấn đề này sau 10 năm Bộ tư pháp quản lý các toà án nhân dân địa phương, vấn đề này cũng cần được nghiên cứu kỹ, phù hợp với đặc điểm tình hình đất nước ta và có sự phối hợp của cả 2 cơ quan cũng như các ngành khác có liên quan, các cấp chính quyền địa phương và ngay cả các TAND địa phương .
Trong phần các kiến nghị chưa thấy đề cập đến đổi mới tổ chức toà án nhân dân tối cao vì dù sao vấn đề này cũng liên quan đến các kiến nghị khác của phần 4 báo cáo chính (là hệ thống toà án), nếu phần này chưa đề cập đến 1 cách toàn diện thì cũng phải nêu rõ vì sao chưa lý giải.
Một điểm nữa là bố cục của đề tài nghiên cứu có phần chưa cân đối. Báo cáo chính có lẽ nên dành số trang nhiều hơn nữa (chỉ có 38 trang) mà phần các tham luận chuyên đề 58 trang, phần tư liệu 60 trang). Phần 2 Những căn cứ lý luận của việc đổi mới tổ chức hoạt động của toà ánmới nêu yêu cầu của việc đổi mới, cũng chưa hẳn đó là căn cứ lý luận (có thể có điểm trùng, song vẫn cần nói rõ).
Nhìn chung đề tài nghiên cứu khoa học của tập thể các tác giả đã đạt được yêu cầu đề ra, với thời gian 2 năm chưa phải là nhiều, đã nêu được những vấn đề cần thiết phải đổi mới tổ chức hoạt động của toà án trong công cuộc đổi mới chung của đất nước cũng như trong việc sửa đổi, bổ sung 1 số Luật trong thời gian sắp tới.
Hà nội ngày 28.1.1991
Trần Hữu Thắng
Phó vụ trưởng vụ tổng hợp pháp chế
Ban tổ chức cán bộ chính phủ.
Bộ tư pháp Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hội đồng nghiệm thu Độc lập- tự do-hạnh phúc
Đề tài 86-98-001 Hà nội ngày 29.1.1991
BIÊN BẢN HỘI NGHỊ ĐÁNH GIÁ NGHIỆM THU ĐỀ TÀI CẢI CÁCH TƯ PHÁP
Mã số; 86-98-001
Phần đổi mới toà án tổ chức và hoạt động
I. Những người tham gia :
1. Trần Đông thứ trưởng thứ nhất Bộ tư pháp Chủ tịch hội đồng
2. Nguyễn Quốc Mậu Quyền trưởng ban nội chính TW
3. Nguyễn Văn Thảo Viện trưởng viện nghiên cứu khoa học pháp lý Phó chủ tịch HĐ
4. Nguyễn Đức Tuấn PTS phó viện trưởng viện nghiên cứu khoa học pháp lý Uỷ viên
5. Uông chu Lưu PTS phó viện trưởng viện nghiên cứu khoa học pháp lý Uỷ viên
6. Trần Hữu Thăng Phó vụ trưởng ban tổ chức chính phủ phản biện
7. Nguyễn Văn Thanh PTS ban nội chính TW phản biện
8. Nguyễn Tất Viễn phó viện trưởng viện nghiên cứu khoa học pháp lý thường trực ban chủ nhiệm đề tài.
9. Trần Thư Nguyên quyền vụ trưởng vụ tổ chức cán bộ Bộ tư pháp Ban chủ nhiệm
10. Nguyễn quốc Thuỳ vụ trưởng vụ QLTA Bộ tư pháp
11 Nguyễn Thị Bảo chánh án toà án nhân dân quận Hoàn kiếm
12. Nguyễn Văn Yểu vụ trưởng vụ Luật sư, công chứng, giám định, hộ tịch 13. Hoàng Thọ Khiêm phó vụ trưởng vụ QLTA phản biện
14. Nguyễn Thị Tứ Uỷ ban khoa học nhà nước
15. Phạm Văn Kha Vụ quản lý toà án
16. Lê Khắc Hải Viện nghiên cứu khoa học pháp lý
17. Trương Thị Phương
18. Phùng Ngọc Đức
19. Lê Sơn Hải
20. Cao Xuân Phong
21. Phạm Văn Lợi
22. Đỗ Thị Ngọc
23. Nguyễn Hồng Oanh
24. Đặng Vũ Huân
25. Lê Thu Hương
26. Dương Văn Hậu
27. ĐInh Bích Hà
28. Nguyễn Thị Thanh
29. Nguyễn Lan Phương
30. Lê Tuyết Nga
31. ĐInh Mai Phương
32. Nguyễn văn Bình
33. Trần Mạnh Đạt
34. Lại Thu Hà
II. Nội dung
1 Đ/c Nguyễn văn Thảo thay mặt chủ tịch hội đồng công bố quyết định thành lập hội đồng đánh giá nghiệm thu đề tài cải cách tư pháp, giới thiệu danh sách hội đồng nghiệm thu và thành phần tham dự chương trình làm việc.
2. Trần Đông chủ tịch hội đồng nghiệm thu giới thiệu đại diện ban chủ nhiệm đề tài trình bày tóm tăt nội dung đề tài nghiên cứu
3. Nguyễn Tất Viễn
- Thay mặt BCN đề tài báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài
4 kiến nghị lớn
+ Kiến nghị về việc thành lập toà án khu vực
+ Kiến nghị về việc tuyển cử chế độ Thẩm phán
+ Kiến nghị về thẩm quyền của toà án nhân dân các cấp
+ Chế độ thỉnh thị án và duyệt án
+ Tăng cường công tác quản lý toà án địa phương về mặt tổ chức
4. Trần Đông chủ tịch hội đồng giới thiệu phản biện thứ nhất đọc bản nhận xét
5. Trần Hữu Thắng phó vụ trưởng vụ tổng hợp pháp chế ban tổ chức chính phủ, thừa uỷ quyền của đ/c Trần Công Tuynh phó ban tổ chức cán bộ chính phủ đọc bản nhận xét (có văn bản kem theo)
- Một số kiến nghị cụ thể
+ Đã nêu được yêu cầu mục đích của công việc những đổi mới toà án
+ Vấn đề đặt ra là hợp lý trong tình hình hiện nay
+ Phần phân tích thực tiễn nêu được 1 số vấn đề có giá trị thực tiễn phân định thẩm quyền quản lý toà án nhân dân về tổ chức. Lẽ ra đưa 1 số liệu chứng minh cho số thiếu sót mà lâu nay chứng ta thấy nhưng chưa khắc phục.
+ Về các kiến nghị đồng tình với ban chủ nhiệm đề tài cần thiết, có thể áp dụng các kiến nghị về toà án sơ thẩm khu vực, thẩm quyền các toà án, đổi mới chế độ tuyển cử (để đảm bảo không gây xác trộn có thể áp dụng trước khi bổ nhiệm có tham khảo ý kiến của HĐND địa phương ) thẩm quyền cần nhanh chóng thực hiện .
+ Các báo cáo chuyên đề và thông tin tư liệu đã góp phần vào việc chứng minh cho các quan điểm đề tài.
- Các vấn đề còn vướng mắc:
+ Quản lý TAND địa phương về mặt tổ chức đây là vấn đề chưa đề cập đến trong phần mục đích, yêu cầu nghiên cứu .
Theo chúng tôi nếu thực sự nghiên cứu vấn đề này, những vấn đề cần lý giải và chứng minh, biện luận cần nêu hơn, chặt chẽ và đậm nét hơn nữa, có tham khảo thực tế Việt Nam và kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Trong đề án cần bổ sung thêm.
+ Tổ chức TATC chưa nêu được cách dùng thuật ngữ TA và TADP còn lẫn lộn.
+ Bố cục phần báo cáo các chuyên đề và thông tin tư liệu nhiều hơnphần báo cáo các phúc trình, đây là 1 nhược điểm.
+ 3 yêu cầu nghiên cứu không nhất thiết là những căn cứ lý luận.
+ TA khu vực Đăclăc rất tốt nhưng nên điều tra thêm ở 1 tỉnh đồng bằng
+ Tóm lại đã đạt được yêu cầu đặt ra kết quả của nghiên cứu có giá trị có thể áp dụng trong thực tế
6- Đ/c Trần Đông giới thiệu Đ/c Hoàng Thọ Khiêm Phó vụ QLTA Bộ tư pháp đọc bản nhận xét
7. Đ/C Hoàng Thọ KHiêm phó vụ trưởng vụ quản lý toà án phát biểu.
+ Việc những cải cách tư pháp nói chung và toà án nói riêng là vấn đề rất cần thiết cấp bách và đứng đắn.
+ Phạm vi nghiên cứu đề tài rộng nhưng những vấn đề đặt ra nghiên cứu có tính thống nhất
+ Về mặt phương pháp luận: có những mối quan hệ hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn,giữa trong nước và ngoài nước.
+ Có nhiều cố gắng thực hiện đề tài
+ Tính logic thuyết phục của đề tài rất tốt
+ 5 kiến nghị rất xác đáng phải đổi mới thì mới có thể
+ Kiến nghị 1 hoàn toàn đồng tình
Khó khăn mới cách giải quyết trong đề tài có phần đơn giản. Ví dụ, đương sự ngại đi xa khó gọi, khó tổ chức phiên toà, dễ xử theo lệ làng, cán bộ cũng ngại đi xa, nên có các bước đi cụ thể.
+ Kiến nghị 2 đồng tình. Nếu đề tài có sự điều tra rộng rãi hơn thì chắc chắn sẽ thuyết phục hơn.
Không lý giải đầy đủ các bước đi
+ Kiến nghị 3 Nhất trí tính đến đặc điểm của đội ngũ cán bộ toà án cấp huyện miền núi.
Nếu đề đạt được những kiến nghị cụ thể với đầy đủ những lý giải thì sẽ tốt hơn.
8. Đ/c Trần Đông chủ tịch hội đồng giới thiệu đại diện của cơ quan phản biện đọc bản nhận xét.
9- Đ/c Nguyễn Văn Thanh PTS Luật học ban nội chính TW
+ Bối cảnh thuận lợi
+ Vấn đề bảo đảm tính độc lập hợp lý đồng tình
- Các vấn đề cần quan tâm
+ Đảng chỉ đạo về chính trị, toà án chỉ độc lập về pháp lý. Nếu không làm rõ nguyên tắc này thì rất khó xác định vị trí toà án trong bộ máy nhà nước .
+ Các vấn đề phân tích trong đề tài hợp lý. Tuy nhiên các bước đi cần rõ ràng thận trọng.
+ Cần làm rõ hơn những quy định của điều 16.
+ Quản lý về chính trị lòng trung thành về chính trị và pháp luật của các Thẩm phán đối với chế độ.
+ Bộ tư pháp cần kiến nghị về việc quản lý thống nhất nhân sự của TADP (bổ nhiệm).
Vấn đề trình độ Thẩm phán phân tích chưa tổng quát chưa nói về công tác đào tạo Thẩm phán chuyên sâu.
- Về hình thức logic có tài liệu tham khảo và thực tế minh hoạ.
- Các yếu tố đều phân tích dưới góc độ cách nhìn của HN và TPHCM.
Các bước đi của việc thực hiện các kiến nghị
- Bổ nhiệm.
+ Chúng ta hay lẫn lộn 2 loại cán bộ: viên chức nhà nước và đại biểu nhân dân. Các viện chức nhà nước là những người hoạt động chuyên môn chuyên nghiệp, không thay đổi để tạo được 1 bộ máy ổn định phục vụ tốt cho nhân dân. Cán bộ tư pháp và toà án cũng nằm trong số đó.
11. Đ/C Nguyễn Tất Viễn thường trực ban chủ nhiệm trả lời câu hỏi:
- Mục đích chính và xuyên suốt trong đề tài chính là để làm sao cho Thẩm phán thực sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .
- Về chế độ tuyển cử cái chính là để cho quyền lợi của công dân được đảm bảo và bảo vệ 1 cách có hiệu quả nhất.
Có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề bầu hay bổ nhiệm.
- Bước đi có 2 loại ý kiến làm ngay và làm dần từng bước. Chúng tôi chọn ý kiến thứ 2 đến năm 2000 vì 91-94 làm thử nghiệm 1 số nơi, 95-99 thử nghiệm rộng rãi hơn có tổng kết rút kinh nghiệm.
12. Đ/C Uông Chu Lưu PTS phó viện trưởng uỷ viên hội đồng nghiệm thu phát biểu.
- Nội dung đặt ra nghiên cứu chính là để cho Thẩm phán và HTND độc lập. Những luận cứ và thực tiễn công phu thận trọng.
Tuy nhiên, còn 1 số điểm chưa hoàn toàn thuyết phục.
- Các kiến nghị đều mang tính tổng thể và đồng bộ. Muốn áp dụng phải sửa đổi và áp dụng trên phạm vi toàn quốc.
- Toà án khu vực trong thực tiễn Việt Nam cũng đã áp dụng chế độ này (1946-1960) So sánh với SL 13-46 thì hiện nay có sự lãng phí rất lớn.
- Một lần nữa lại đặt vấn đề về tính tổng thể.
12. Đ/C Nguyễn Đức Tuấn PTS phó viện trưởng uỷ viên hội đồng nghiệm thu phát biể.
- Toà án khu vực sẽ áp dụng trên phạm vi toàn quốc nên có khảo sát ở đồng bằng.
- Căn cứ vào những chỉ tiêu nào để thiết lập toà án khu vực, cái nào là chủ yếu, khi thiết kế toà án khu vực ở thành phố và đồng bằng có điểm cần chú ý.
11. Đ/C nguyễn Tất Viễn trả lời:
- đồng tình với ý kiến đồng chí Lưu
- Trong thiết kế toà án khu vực luận cứ có việc đến đâu thì đặt toà án đến đó.
Tiêu chuẩn án xử lý, diện tích, dân số, giao thông, trình độ cán bộ.
ở thành phố và đồng bằng số lượng án xử lý làm đầu. Như vậy có thể toà án khu vực sẽ trùng với địa giới hành chính
15. Đ/C Nguyễn Văn Yểu vụ trưởng vụ LSCCGDH thành viên ban chủ nhiệm phát biểu thêm
- Bước đi của chế độ bổ nhiệm : BCN mong nhà nước sớm xem xét và quyết định việc này
Nếu hiến pháp đã sửa (theo hướng bổ) thì thi hành ngay, nếu HẻP PHáP không sửa theo hướng sửa thì vẫn làm thí điểm.
- Căn cứ đề xuất vấn đề toà án khu vựccăn cứ cơ bản là vụ việc. Các biện pháp đồng bộ khác tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, hoà giải.
- Toà án khu vực (sơ cấp) xoá bỏ quan niệm toà án là phải gắn với đơn vị hành chính và gắn với chinh quyền huyện về mọi mặt.
16. Đ/C Nguyễn Văn Thanh phát biểu thêm:
- Cơ sở lập luận toà án khu vực cơ sở tư tưởng và kỹ thuật.
ở các nước phần nhiều cán bộ tư pháp đều hoạt động không theo lãnh thổ
- Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
- Vấn đề về toà án khu vực còn tiến tới án lệ trong từng trường hợp điển hình thì như vậy đúng hay sai.
Còn mức độ xử lý sẽ do phiên toà cụ thể quyết định - Nên nghiên cứu các loại toà án khác (kinh tế, lao động, hành chính )
TATC đây là vấn đề hết sức thận trọng. Tạm thời nên củng cố các cơ quan thanh tra và các hoạt động giải quyết khiếu tố thì hơn.
17. Đ/C Nguyễn Quốc Mậu trưởng ban nội chính TW phát biểu.
- Những căn cứ để thành lập toà án khu vực cần hết sức quan tâm đến Tư PHáP ở miền núi, điều kiện để thành lập.
18. Đ/C Trần Đông thứ trưởng thứ nhất chủ tịch hội đồng.
- Có nhiều ý kiến đóng góp tốt.
- Sau khi nghiệm thu theo quy định của Bộ tư pháp sẽ thông báo và gửi đi các nơi đề nghị áp dụng.
- vấn đề quan tâm độc lập của Thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Cho đến nay vấn đề đã được giải quyết phần nào. Chế độ thỉnh thị án và duyệt án kiên quyết bỏ. Hiện nay còn nhiều tác động bên ngoài nên Thẩm phán chưa thực sự được độc lập khi xét xử .
- Thẩm phán hiện nay đã bước đầu được tiêu chuẩn hoá (cả trình độ chuyên môn và chính trị, đạo đức). Cũng như vậy chưa đủ phải có cả quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ có đầy đủ mọi phẩm chất và không ngừng nâng cao chất lượng xét xử .
- Chủ trương của Bộ có khoa đào tạo Thẩm phán trường đại học pháp lý
- Toà án cấp dưới không phụ vào toáan cấp trên, đây là điểm đặc biệt trong tổ chức toà án.
QLTA giữ nguyên điều 16 Luật tổ chức toà án nhân dân vấn đề là Bộ tư pháp quản lý sao cho tốt, chưa thực sự tạo điều kiện cho các toà án địa phương hoạt động và bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán .
- TA khu vực phải thi hành đồng loạt dựa trên cơ sở điều tra khảo sát kỹ chứ không nên thí điểm.
Tỉnh xử phúc thẩm
- TATC:
- Hướng dẫn áp dụng pháp luật
- Tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử
- Trong trường hơp ý kiến khác nhau phải chuyển cho cơ quan có quyền giải quyết
- thẩm quyền mức án
- Kinh phí Luật đã quy định mà BTP chưa làm. Thời gian tới cần đưa vào thực hiện các địa phương cần ủng hộ.
- Bổ nhiệm; dù chưa được chấp nhận cũng cứ đề xuất.
Tiêu chuẩn hoá kỹ càng lập hội đồng sát hạchdù bầu hay bổ nhiệm nhưng nếu bầu phải có phê chuẩn.
- Trên cơ sở những đóng góp của phản biện BCN đề tài sẽ bổ sung thêm tư liệu cho đề tài hoàn chỉnh.
19. Thủ tục bổ phiếu (có biên bản kèm theo).
- Bỏ phiếu 7 thành viên của hội đồng nghiệm thu
Kết quả xuất sắc 1
Khá 5
Đạt 1
Không đạt 0
Kết quả cuối cùng đề tài xếp loại khá
Thư ký hội đồng
Uông chu Lưu
Bộ tư pháp Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Viện nghiên cứu Độc lập- tự do- hạnh phúc
khoa học pháp lý Hà nội ngày 30.3.1991
BIÊN BẢN KIỂM PHIẾU CỦA HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ NGHIỆM THU ĐỀ TÀI LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỚI CÁC NƯỚC ĐÃ KÝ KẾT (Mã số; 86-98-001)
- Căn cứ vào quyết định số 03 QĐTP của Bộ trưởng Bộ tư pháp ngày 24..1.1991 về việc thành lập hội đồng đánh giá nghiệm thu các đề tài nghiên cứu khoa học năm 1990
- Theo đề nghị của đồng chí chủ tịch và sự nhất trí của các đồng chí thành viên của hội đồng nghiêmj thu
Ban kiểm phiếu gồm có:
1. Lê Sơn Hải trưởng ban
2. Lại Thu Hà uỷ viên
3. Cao Xuân Phong thứ ký
Số phiếu
+ Số phiếu phát ra 7
+ Số phiếu thu vào 7
+ Số phiếu hợp lệ 7
+ Số phiếu không hợp lệ 0
Kết quả:
+ Xuất sắc Không
+ Khá 3
+ Đạt 4
+ Không đạt không
Kết quả cuối cùng