I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Sự cần thiết phải tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp
1.1. Chủ trương, quan điểm của Đảng về tăng cường năng lực cho các cơ quan Tư pháp
Thực hiện chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương xây dựng và tăng cường năng lực cho ngành Tư pháp nói chung, trong đó có Thanh tra Tư pháp nói riêng. Chủ trương đó được thể hiện chủ yếu tập trung trong các văn kiện, Nghị quyết quan trọng như: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X; Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới"; Đặc biệt là Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
1.2. Hiệu quả hoạt động của Thanh tra Tư pháp hiện nay chưa cao
Nhìn lại lịch sử phát triển của Thanh tra Tư pháp cho thấy, sau khi Bộ Tư pháp được tái thành lập vào năm 1981, ngày 15/11/1982, Bộ trưởng Tư pháp đã ban hành quyết định số 247/QĐ-TC thành lập Ban thanh tra thuộc Bộ Tư pháp. Đây cũng là cơ quan thanh tra đầu tiên của ngành Tư pháp. Pháp lệnh Thanh tra ra đời năm 1990 đã khẳng định "Thanh tra là một chức năng thiết yếu trong cơ quan quản lý Nhà nước". Pháp lệnh đổi tên Uỷ ban Thanh tra Nhà nước thành Thanh tra Nhà nước. Thanh tra Nhà nước là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng, có chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi cả nước. Các cơ quan Bộ và ngang bộ có tổ chức cơ quan thanh tra trực thuộc gọi là Thanh tra Bộ. Ở địa phương, các sở, ban ngành thành lập đơn vị thanh tra là Thanh tra Sở. Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở là tổ chức thanh tra nằm trong hệ thống Thanh tra Nhà nước. Do đó, cũng giống như thanh tra của các ngành khác, Thanh tra Tư pháp hoạt động theo cơ chế song trùng trực thuộc, một mặt chịu sự quản lý trực tiếp của Thủ trưởng cùng cấp, một mặt chịu sự chỉ đạo điều hành của cơ quan Thanh tra Nhà nước cấp trên. Riêng Thanh tra Sở Tư pháp, ngoài chịu sự chỉ đạo của Thanh tra Nhà nước tỉnh, còn phải chịu sự chỉ đạo của Thanh tra Bộ về nghiệp vụ chuyên môn.
Thực tế cho thấy hiệu quả hoạt động của Thanh tra Tư pháp là chưa cao và mang tính chất bị động. Sự nắm bắt, chỉ đạo, điều hành các hoạt động giữa Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở chỉ manh tính chất chiếu lệ. Hoạt động của thanh tra các Sở Tư pháp như thế nào, kết quả ra sao? Thanh tra Bộ còn chưa nắm được rõ. Hằng năm Thanh tra Bộ chỉ nhận được một số báo cáo từ thanh tra các Sở Tư pháp. Trong các báo cáo của Thanh tra Sở hầu hết hoạt động chủ yếu là công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Một số Thanh tra Sở có tổ chức được một số cuộc thanh tra nhưng rất lẻ tẻ, thiếu thống nhất, nơi thì thanh tra thi hành án, nơi thì thanh tra về công chứng, nơi thì thanh tra về tài chính, kế toán...
Thanh tra Bộ trong một số năm gần đây đã được quan tâm tăng cường đến 22 người, nhưng mỗi năm cũng chỉ tổ chức được 8 đến 10 cuộc thanh tra theo kế hoạch đối với khoảng 10 đơn vị, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo khoảng 10 vụ. Bộ Tư pháp quản lý đa lĩnh vực, nhiều đầu mối nhưng mỗi năm Thanh tra Bộ chỉ tiến hành thanh tra được từ 3 đến 4 lĩnh vực, còn lại các lĩnh vực khác để ngỏ. Ngay cả khi đã tiến hành thanh tra, việc ra Kết luận thanh tra còn vi phạm nhiều về thời hạn, chậm ra quyết định xử lý sau thanh tra. Thanh tra Sở, mỗi năm, mỗi tổ chức cũng chỉ thực hiện thanh tra được 1-2 cuộc, thậm chí có tổ chức Thanh tra Sở có năm còn không thực hiện cuộc thanh tra theo kế hoạch nào mà chỉ chủ yếu tập trung xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo. Như vậy, tính chất giáo dục, phòng ngừa đi đôi với tính chất răn đe và động viên của Thanh tra Tư pháp dường như chỉ dừng lại ở phạm vi hình thức.
Sở dĩ như vậy là do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, cơ sở pháp lý về chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Tư pháp còn nhiều bất cập;
- Thứ hai, tổ chức bộ máy của Thanh tra Tư pháp còn chưa phù hợp, chưa tương xứng với chức năng, nhiẹm vụ được giao;
- Thứ ba, đội ngũ cán bộ Thanh tra Tư pháp vừa thiếu lại vừa yếu;
- Thứ tư, điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật của Thanh tra Tư pháp còn nghèo nàn, lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc;
- Thứ năm, cơ chế hoạt động, quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp còn nhiều vướng mắc, bất cập.
1.3. Yêu cầu xử lý công việc đối với thanh tra ngành Tư pháp hiện nay rất lớn và phức tạp
Cùng với việc khẳng định vị trí, vai trò của ngành tư pháp trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước của Bộ Tư pháp ngày càng được mở rộng. Điều đó đồng nghĩa với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với công tác thanh tra tư pháp ngày càng lớn. Hơn thế nữa, Bộ Tư pháp là Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, do đó, yêu cầu đặt ra đối với công tác thanh tra cũng rất đa dạng và phức tạp. Có thể nói, hiện nay, khối lượng công việc đặt ra cho công tác thanh tra tư pháp rất nhiều, tính chất công việc có nhiều phức tạp. Trong đó, vấn đề phức tạp nhất hiện nay là công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc biệt là khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Những khiếu nại, tố cáo này thường căng thẳng, bức xúc, kéo dài và liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đối tượng.
Ngoài những yêu cầu cụ thể của ngành đặt ra đối với công tác thanh tra tư pháp, hiện nay công tác thanh tra tư pháp còn phải đáp ứng một loạt các yêu cầu mới của bộ máy nhà nước như:
- Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO);
- Yêu cầu cải cách hành chính đối với bộ máy nhà nước nói chung và mỗi cơ quan hành chính nhà nước nói riêng, trong đó có yêu cầu về cải cách hành chính trong lĩnh vực tư pháp;
Hơn nữa, trong thời gian gần đây, nhiệm vụ phòng chống tham nhũng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Là một công cụ không thể thiếu trong hoạt động quản lý nhà nước, giữ vai trò quan trọng trong nỗ lực phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, ngành Thanh tra cần phải là một mắt xích thiết yếu trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ nói trên.
1.4. Tình hình nghiên cứu
Những năm gần đây, nhiều công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn để đổi mới tổ chức và hoạt động Tư pháp đã được thực hiện thành công như: Đề tài khoa học cấp cơ sở “Nghiệp vụ Thanh tra Tư pháp: cơ sở lý luận và thực tiễn”, Đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn để đổi mới tổ chức bộ máy và hoạt động của Thanh tra Tư pháp”. Đặc biệt hiện nay, Thanh tra Bộ Tư pháp phối hợp với Nhà xuất bản Tư pháp đang chuẩn bị xuất bản cuốn “Sổ tay nghiệp vụ Thanh tra Tư pháp”. Các công trình này sau khi được Hội đồng khoa học của Bộ Tư pháp nghiệm thu đã được ứng dụng vào thực tế công tác, góp phần nâng cao nhận thức của quần chúng nhân dân nói chung, của cán bộ công chức và đặc biệt là của cán bộ công chức ngành Tư pháp nói riêng về khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra Tư pháp. Những công trình nói trên đã đề cập đến những vấn đề về lý luận và nghiệp vụ Thanh tra Tư pháp, đồng thời cũng đưa ra một số giải pháp và kiến nghị kiện toàn tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp. Tuy nhiên, vấn đề năng lực Thanh tra Tư pháp cũng như những yếu tố cấu thành của năng lực Thanh tra Tư pháp chưa được đặt ra nghiên cứu một cách toàn diện.
Trong bối cảnh như vậy, được sự ủng hộ của Lãnh đạo Bộ Tư pháp và trực tiếp là Viện Khoa học pháp lý và Vụ Tổ chức cán bộ, Thanh tra Bộ đã chủ trì thực hiện đề án “Tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp” với mục tiêu xây dựng cơ sở lý luận, thực tiễn, giải pháp và lộ trình cụ thể nhằm tăng cường năng lực cho lực lượng thanh tra trong toàn ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu thực tiễn, yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
2. Quan điểm, nguyên tắc và mục tiêu tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp
2.1. Quan điểm, nguyên tắc về tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp
Tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp phải gắn liền với sự đổi mới của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính, cải cách hệ thống tổ chức thanh tra nói chung và hệ thống thanh tra chuyên ngành nói riêng. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ III khoá VII đã chỉ rõ: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính Nhà nước....Trong đó có nhấn mạnh đến công tác thanh tra và xét khiếu kiện của công dân. Đồng thời, tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp cũng phải gắn liền với xu hướng phát triển chung của đất nước và của Ngành Tư pháp.
Từ những cơ sở trên, tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp cần phải tuân theo quan điểm như sau: Coi nhiệm vụ cải cách hành chính Nhà nước là nhiệm vụ xuyên suốt, đồng thời đảm bảo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ thanh tra trong toàn Ngành.
Với quan điểm như trên, Thanh tra Tư pháp tăng cường năng lực của mình phải đảm bảo theo hướng tinh, gọn, không "rườm rà" về bộ máy nhưng đồng thời phải có cơ sở để đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ thanh tra, phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước trong toàn ngành Tư pháp đạt hiệu quả cao nhất. Tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Xây dựng hệ thống tổ chức thanh tra Tư pháp từ Trung ương đến địa phương, trong đó bao gồm có thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra có trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, có phẩm chất đạo đức, chính trị cao để có thể đảm đương được nhiệm vụ của Ngành giao cho.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra toàn ngành Tư pháp, đảm bảo phục vụ tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước của Ngành.
- Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất giữa Thanh tra Bộ Tư pháp và Thanh tra Sở Tư pháp, tạo cơ sở củng cố về tổ chức, thống nhất trong chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ.
- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp trong từng lĩnh vực.
2.2. Mục tiêu tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp
Thiết kế các giải pháp và xây dựng lộ trình nâng cao năng lực một cách toàn diện cho lực lượng Thanh tra Tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
3. Khái niệm, các yếu tố cấu thành năng lực Thanh tra Tư pháp
Liên quan đến đối tượng nghiên cứu của Đề án "Tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp", theo chúng tôi cần phải có sự thống nhất trong việc hiểu về khái niệm và các yếu tố cấu thành năng lực Thanh tra Tư pháp.
3.1. Khái niệm năng lực Thanh tra Tư pháp
Tìm hiểu khái niệm "năng lực Thanh tra Tư pháp" trước hết cần hiểu một số khái niệm cơ bản như: "năng lực", "thanh tra", "tư pháp" và "Thanh tra Tư pháp".
3.1.1 Khái niệm năng lực
- Theo Từ điển Tiếng Việt - Trung tâm Từ điển học của Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2007 khái niệm "năng lực" được hiểu là "khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó" (trang 1021- ).
- Theo Bjorn Jensen, năng lực được hiểu là: "khả năng của cá nhân và tổ chức, hoặc các đơn vị tổ chức thực hiện các chức năng hiệu quả và bền vững"[1].
Từ những khái niệm và quan điểm trên có thể hiểu "năng lực" của một cá nhân hoặc tổ chức là: khả năng, điều kiện khách quan, chủ quan của cá nhân, tổ chức đó để thực hiện các chức năng một cách có hiệu quả và bền vững.
3.1.2 Khái niệm thanh tra
Khoa học về thanh tra cho thấy khái niệm thanh tra bắt nguồn từ tiếng La tinh “ inspectare” nghĩa là nhìn vào bên trong; trong tiếng Anh, thanh tra là “inspect” có nghĩa là kiểm tra, xem xét kỹ lưỡng một cái gì đó. Trên thực tế, khái niệm Thanh tra cũng như phạm vi hoạt động ở mỗi nước rất khác nhau. Có nước, Thanh tra nằm trong hệ thống cơ quan hành pháp (Cộng hoà Pháp); có nước Thanh tra là cơ quan quốc nội (Thụy Điển, Canađa và các nước Bắc Âu); có nước hoạt động thanh tra gắn liền với kiểm toán (Hàn Quốc...). Dù được tổ chức dưới hình thức nào, Thanh tra cũng là một tổ chức hoạt động có tính độc lập cao, là một trong những công cụ quản lý của cấp trên đối với cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ được giao.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “thanh tra” là: “ kiểm soát xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”. Với nghĩa này, thanh tra bao hàm nghĩa kiểm soát nhằm: “xem xét và phát hiện, ngăn chặn những gì trái quy định”. Thanh tra thường được đặt trong một phạm vi thẩm quyền nhất định và đi kèm với một chủ thể nhất định.
Quan niệm về thanh tra hiện nay cũng như trong lịch sử nước ta được thể hiện qua mô hình các cơ quan nhà nước và các quy định của Hiến pháp, pháp luật theo từng giác độ khác nhau:
Thời kỳ phong kiến, thuật ngữ thanh tra chưa được sử dụng nhưng trong bộ máy nhà nước các triều đại Lý, Trần, Lê đã có một cơ quan gọi là “Ngự sử đài” với chức năng gần giống như cơ quan thanh tra chính phủ hiện nay và có chức quan ngự sử đứng đầu Ngự sử đài. Ngự sử đài có nhiệm vụ giúp vua trong việc theo dõi, xem xét các công việc hệ trọng của triều đình.
Thuật ngữ thanh tra lần đầu tiên được ghi nhận trong văn bản pháp luật của nhà nước ta khi Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt vào ngày 23/11/1945. Sắc lệnh quy định: “Chính phủ sẽ lập ngay một Ban thanh tra đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ”. Từ đó đến nay, trải qua các thời kỳ phát triển của đất nước, nội dung thuật ngữ thanh tra đã lần lượt được thể hiện ngày càng rõ hơn trong những văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, đó là Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992. Trên cơ sở Hiến pháp 1980, Điều 1, Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 xác định: “thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước; là phươg thức bảo đảm pháp chế, tăng cường tính kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Tinh thần này lại tiếp tục được ghi nhận và khẳng định trong Luật Thanh tra được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/2004. Theo đó, có thể tóm tắt lại: thanh tra là một khâu trong chu trình quản lý nhà nước, là yêu tố cấu thành trong hoạt động quản lý nhà nước; là phương thức và nội dung quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước; là phương tiện phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm. Hoạt động thanh tra góp phần bảo đảm việc tuân thủ pháp luật trong quản lý và quản lý nhà nước phải tuân theo pháp luật. Hoạt động thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo là phương thức phát huy dân chủ, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức góp phần đẩy mạnh nền cải cách hành chính nhà nước, nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng.
Như vậy, thanh tra là phạm trù gắn liền với quản lý Nhà nước, mỗi cơ quan thanh tra là công cụ quan trọng trong quản lý Nhà nước. Khi bàn về quản lý Nhà nước, Lê Nin đã chỉ rõ: " Điều kiện tất yếu để công tác quản lý được chính xác là việc kiểm tra tình hình chấp hành Chỉ thị và Nghị quyết. Kiểm tra thường xuyên việc chấp hành là một trong những ưu điểm cơ bản nhất, tất yếu nhất của phương thức quản lý..."
Trong mối quan hệ giữa thanh tra và quản lý, thì quản lý là nhân tố có trước, quyết định mục tiêu, yêu cầu, nội dung và phương thức tổ chức hoạt động thanh tra. Ngược lại, hoạt động thanh tra cũng có tác động tích cực đối với quản lý, làm cho quá trình quản lý diễn ra liên tục, thông suốt theo mục tiêu đã định. Qua thực hiện tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước ở nước ta trong các thời kỳ và cũng như nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức bộ máy nhà nước của một số nước cho thấy: mỗi lĩnh vực quản lý nhất định, trong điều kiện một cơ chế quản lý nhất định đòi hỏi phải có cơ chế tổ chức, hoạt động thanh tra tương ứng thích hợp.
3.1.3 Khái niệm tư pháp
Trong khoa học pháp lý Việt Nam, khái niệm tư pháp được giải thích theo nhiều nghĩa khác nhau và việc xác định cơ quan nào là cơ quan tư pháp cũng chưa thực sự có sự thống nhất tuyệt đối.
Theo tiếng Latinh cổ “tư pháp” – Justitia, còn theo tiếng Anh – Justice, có nghĩa là “công lý”, “pháp chế”, tức là thuật ngữ bao hàm toàn bộ các cơ quan tòa án và hoạt động thực hiện quyền xét xử của hệ thống các cơ quan đó. Đây cũng chính là quan điểm của chủ thuyết tam quyền phân lập mà theo đó cơ quan tư pháp là một trong ba phân nhánh độc lập của một chính thể.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, thì tư pháp dùng để chỉ hệ thống các cơ quan Tòa án, hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật như: các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Bộ Tư pháp, Thanh tra, v.v… và hệ thống các cơ quan bổ trợ tư pháp nói chung như: tổ chức Luật sư, các cơ quan Công chứng, Giám định, Hộ tịch, v.v…
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì ở Việt Nam hiện nay, về mặt học thuật cũng như trong thực tiễn quan điểm phổ biến nhất về khái niệm tư pháp được hiểu là hệ thống: các cơ quan xét xử (Toà án), cơ quan Viện kiểm sát - giữ quyền công tố tại Toà án nhân dân, cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án.
Tuy nhiên, trong phạm vi chuyên đề này thuật ngữ "tư pháp" dùng để chỉ hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước thuộc khối các cơ quan hành pháp bao gồm: Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp và các cơ quan thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp.
3.1.4 Khái niệm Thanh tra Tư pháp
Thuật ngữ "Thanh tra Tư pháp" vừa được dùng với ý nghĩa là hoạt động thanh tra trong lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành Tư pháp đồng thời cũng lại là một khái niệm gọi tên các cơ quan thanh tra trong ngành Tư pháp.
Nội dung Điều 1 của Nghị định số 74/2006/NĐ-CP ngày 01/8/2006 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp (sau đây gọi tắt là Nghị định số 74/2006/NĐ-CP) như sau:
“Thanh tra Tư pháp là tổ chức thanh tra thuộc ngành Tư pháp; ở Trung ương có Thanh tra Bộ Tư pháp (sau đây gọi tắt là Thanh tra Bộ); ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Thanh tra Sở Tư pháp (sau đây gọi tắt là Thanh tra Sở); thực hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp theo quy định của pháp luật”. Ngoài ra, theo quy định của Luật Thanh tra và Nghị định số 74/2006/NĐ-CP thì Thanh tra Tư pháp còn thực hiện các chức năng như: giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thanh tra tư pháp; là đầu mối giúp thủ trưởng cơ quan tư pháp cùng cấp quản lý nhà nước về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trog lĩnh vực tư pháp; phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong lĩnh vực tư pháp.
Từ những khái niệm về "năng lực", "thanh tra", "tư pháp" và "Thanh tra Tư pháp" như đã phân tích ở trên, ta có thể hiểu "năng lực Thanh tra Tư pháp" là: khả năng, điều kiện khách quan và chủ quan của Thanh tra Bộ Tư pháp và Thanh tra Sở Tư pháp để thực hiện các chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành về tư pháp và các chức năng khác trong phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp theo quy định của pháp luật một cách có hiệu quả và bền vững.
3.2. Các yếu tố cấu thành năng lực Thanh tra Tư pháp
Như đã phân tích ở trên "năng lực Thanh tra Tư pháp" có thể được hiểu là: khả năng, điều kiện khách quan và chủ quan của các tổ chức Thanh tra Tư pháp để thực hiện các chức năng của mình. Vậy, những khả năng, điều kiện khách quan, chủ quan đó là những gì? và những yếu tố tạo nên khả năng, điều kiện khách quan, chủ quan đó? Nói cách khác, làm thế nào và dựa vào đâu để có thể đánh giá được năng lực Thanh tra Tư pháp, tức là năng lực Thanh tra Tư pháp được cấu thành bởi những yếu tố nào? Theo lý thuyết về “Khung đánh giá năng lực” của UNDP và các tổ chức Liên hợp quốc thì năng lực của một cơ quan, tổ chức được đánh giá theo 03 chiều: quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ; quy định của pháp luật về thiết chế: tức là quy định cụ thể về thủ tục và tổ chức bộ máy, nhân sự, mối quan hệ làm việc để thực hiện chức năng nhiệm vụ; và năng lực cá nhân, tài năng và kỹ năng của cá nhân trong thiết chế. Vận dụng quan điểm trên của UNDP vào thực tiễn Thanh tra Tư pháp, theo chúng tôi, cấu thành nên năng lực Thanh tra Tư pháp bao gồm 05 yếu tố chính sau:
- Quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn;
- Tổ chức bộ máy;
- Đội ngũ cán bộ (yếu tố con người);
- Điều kiện cơ sở vật chất;
- Cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp.
3.2.1. Quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
Để xác định sự tồn tại và phân biệt với các cơ quan, tổ chức khác, mỗi tổ chức đều có những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng. Chức năng của một cơ quan, tổ chức được hiểu là những phương diện hay những mặt hoạt động cơ bản nhất của cơ quan, tổ chức đó, như vậy, có thể hiểu chức năng của Thanh tra Tư pháp chính là những mặt hoạt động cơ bản nhất của Thanh tra Tư pháp. Vì vậy, vai trò của Thanh tra Tư pháp trước hết thể hiện ở chỗ Thanh tra Tư pháp có những chức năng gì và việc thực hiện các chức năng đó như thế nào hay nói cách khác pháp luật quy định Thanh tra Tư pháp có những chức năng gì và thực tiễn tổ chức thực hiện các chức năng của Thanh tra Tư pháp có hiệu lực, hiệu quả không? Có bất cập, vướng mắc gì không?
Nhiệm vụ, quyền hạn là những quy định cụ thể về những việc cơ quan, tổ chức phải làm và được làm để thực hiện chức năng của mình, như vậy, có thể hiểu nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp là những điều, những việc cụ thể mà pháp luật quy định Thanh tra Tư pháp có trách nhiệm phải thực hiện và những việc mà Thanh tra Tư pháp có quyền được thực hiện. Nói cách khác Thanh tra Tư pháp chỉ được làm và cũng chỉ phải làm những gì pháp luật quy định. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp phải được quy định phù hợp với chức năng của Thanh tra Tư pháp. Nếu nhiệm vụ, quyền hạn mà được quy định quá nhiều, quá lớn thì dễ dẫn đến lạm quyền, còn nếu nhiệm vụ quyền hạn mà được quy định không đủ mạnh, không rõ ràng thì rất khó thực hiện được các chức năng của mình.
Một yếu tố quan trọng nữa khi nghiên cứu quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp không thể không tính đến đó là thực tiễn việc tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp như thế nào; Thanh tra Tư pháp ở cả hai cấp (cấp Bộ và cấp Sở) đã làm tròn nhiệm vụ của mình, đã phát huy hết thẩm quyền của mình để phục vụ có hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý nhà nước của Ngành chưa?
Nói tóm lại: Quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp cũng như thực tiễn thực hiện các quy định đó là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất cấu thành nên năng lực của Thanh tra Tư pháp. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp mà phù hợp và thực tiễn tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đó tốt thì năng lực của Thanh tra Tư pháp sẽ cao và ngược lại nếu chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp mà không phù hợp và việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đó mà không tốt thì chắc chắn năng lực Thanh tra Tư pháp sẽ không cao.
3.2.2. Tổ chức bộ máy
Nếu như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một cơ quan, tổ chức được coi là yếu tố đầu tiên, yếu tố quan trọng nhất quyết định đến năng lực hoạt động của cơ quan, tổ chức đó thì cơ cấu, tổ chức bộ máy hợp lý có thể coi là một điều kiện không thể thiếu để đảm bảo cho năng lực hoạt động của cơ quan, tổ chức đó đạt được hiệu quả cao. Yếu tố này trước hết bao gồm những quy định cụ thể của pháp luật về tổ chức bộ máy của Thanh tra Tư pháp và thực tiễn cơ cấu, tổ chức bộ máy của Thanh tra Tư pháp. Cơ cấu, tổ chức bộ máy của Thanh tra Bộ Tư pháp và Thanh tra Sở Tư pháp phải đảm bảo tính khoa học. Tính khoa học được thể hiện qua các đặc tính:
- Khách quan: tính pháp lý của tổ chức bộ máy hay nói cách khác chính là sự cần thiết phải có tổ chức Thanh tra Tư pháp; đồng thời, sự tồn tại của các tổ chức Thanh tra Tư pháp phải được pháp luật ghi nhận.
- Hợp lý: cơ cấu tổ chức bộ máy của Thanh tra Tư pháp từ Trung ương đến địa phương phải hợp lý.
- Đồng bộ: mối tương quan giữa yêu cầu chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Tư pháp với việc bố trí cán bộ, công chức phải đảm bảo tính đồng bộ.
- Hiệu quả: Bộ máy Thanh tra Tư pháp phải hoạt động có hiệu quả.
Để đạt được những yêu cầu trên, một trong những yếu tố quan trọng là phải xác định được chức năng, nhiệm vụ của tổ chức bộ máy, xác định số phòng ban, biên chế cần thiết đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trên cơ sở tiêu chuẩn hoá theo chức danh đối với cán bộ, công chức và Thanh tra viên. Mỗi cán bộ, công chức và Thanh tra viên phải có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, ngoại ngữ tương ứng để đảm nhận công việc mà bộ máy tổ chức yêu cầu. Việc xác định chức danh cán bộ, công chức thực chất là phân công cán bộ, công chức theo vị trí công tác trong bộ máy và xác định trách nhiệm, thẩm quyền trước bộ máy và pháp luật. Tổ chức bộ máy khoa học phải xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mình mà xác định đúng biên chế cần thiết cho bộ máy, sao để tính hợp lý giữa công việc và biên chế đảm bảo tối ưu, mang lại hiệu quả cao.
Như vậy có thể khẳng định tổ chức bộ máy là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu cấu tạo nên năng lực Thanh tra Tư pháp.
3.2.3. Đội ngũ cán bộ
Tất cả mọi thứ, mọi vấn đề đều là sản phẩm của con người, nên pháp luật, cơ chế chính sách, cơ sở vật chất, cơ chế hoạt động, quan hệ phối hợp công tác cũng đều do con người tạo ra, vấn đề là ở chỗ con người đã tạo ra nó như thế nào và sử dụng nó ra làm sao, có hiệu quả hay không. Do đó, đối với bất kỳ cơ quan, tổ chức nào yếu tố con người luôn là yếu tố then chốt, quyết định đến sự tồn tại và hiệu quả hoạt động của chính tổ chức, cơ quan đó. Trong thực tiễn ngành nào, tổ chức nào quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất tốt, đủ năng lực hoạt động thì ngành đó, tổ chức đó hoạt động hiệu quả và ngược lại nếu ngành nào, tổ chức nào không quan tâm, không xây dựng được đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, không đủ năng lực hoạt động thì ngành đó, tổ chức đó hoạt động sẽ không hiệu quả. Chính vì vậy, nói đến công tác thanh tra là phải nói đến con người làm công tác thanh tra, nói đến năng lực Thanh tra Tư pháp là phải nói đến vấn đề đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra Tư pháp.
Nội dung này bao gồm các quy định của pháp luật về những nội dung cơ bản của công tác cán bộ như: biên chế, tiêu chuẩn tuyển dụng cán bộ, công chức, bổ nhiệm công chức lãnh đạo, đào tạo, bồi dưỡng, chế độ đãi ngộ công chức Thanh tra Tư pháp và thực tiễn thi hành, vận dụng các quy định đó. Nếu pháp luật quy định và thực tiễn biên chế được giao quá ít hoặc thiếu thì Thanh tra Tư pháp sẽ không thể hoặc rất khó thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình. Ngược lại, nếu biên chế lại nhiều hơn đòi hỏi của thực tiễn sẽ dẫn đến tình trạng có dôi thừa, lãng phí vì không tận dụng hết khả năng làm việc cán bộ công chức. Hơn nữa, như vậy sẽ phát sinh thực tế có những cán bộ công chức không phát huy được hết khả năng, kiến thức, thời gian và tâm huyết cho công việc, dần dần dễ dẫn đến tình trạng chán nản và như thế rõ ràng năng lực hoạt động của Thanh tra Tư pháp sẽ bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, kể cả trong trường hợp Thanh tra Tư pháp được giao và thực tiễn có biên chế hợp lý nhưng nếu quá trình tuyển dụng không nghiêm túc, tuyển dụng những người không có đủ phẩm chất, năng lực vào ngành, chế độ đãi ngộ không xứng đáng cũng sẽ là một yếu tố ảnh hưởng đến năng lực Thanh tra Tư pháp. Vấn đề bổ nhiệm công chức lãnh đạo cũng là một phần không thể không tính đến khi nghiên cứu về yếu tố con người của lực lượng Thanh tra Tư pháp. Người được bổ nhiệm có đủ đức, đủ tài, đủ uy tín và thủ tục, trình tự bổ nhiệm công khai, minh bạch, nhanh chóng sẽ tạo ra môi trường lành mạnh, tạo động lực để toàn thể cán bộ, công chức yên tâm công tác và không ngừng phấn đấu, rèn luyện góp phần nâng cao năng lực Thanh tra Tư pháp. Đồng thời, việc đào tạo, bồi dưỡng mà được thực hiện tốt sẽ góp phần không ngừng cập nhật, nâng cao trình độ chuyên môn cho lực lượng cán bộ công chức để đáp ứng được những đòi hỏi mới ngày càng cao trong công việc của toàn ngành Thanh tra Tư pháp; chế độ đãi ngộ mà được đảm bảo thì cán bộ, công chức Thanh tra Tư pháp sẽ chuyên tâm hơn vào công việc, yên tâm phấn đấu, cống hiến cho sự nghiệp phát triển của ngành Tư pháp, trong đó có lực lượng Thanh tra Tư pháp.
3.2.4. Điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc
Có thể nói rằng điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc là một trong những yếu tố không thể thiếu được để tạo nên năng lực một cơ quan, tổ chức, cho dù chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan, tổ chức đó đã được xác định đúng mức, tổ chức bộ máy có được cơ cấu phù hợp, tương ứng với các chức năng, nhiệm vụ đó và cả yếu tố con người hoàn toàn có thể đáp ứng được các đòi hỏi đặt ra mà yếu tố vật chất không được đảm bảo, hay nói cách khác không đủ các phương tiện, vật chất cần thiết phục vụ cho hoạt động thì chắc chắn hoạt động của cơ quan, tổ chức đó sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí là không đạt hiệu quả. Đối với Thanh tra Tư pháp, hoạt động của tổ chức này chắc chắn sẽ không thể đảm bảo nếu không có hoặc thiếu phòng cho cán bộ, công chức làm việc, không có phòng tiếp công dân, không có hoặc thiếu các trang thiết bị cần thiết để phục công tác thanh tra và xét giải quyết khiếu nại, tố cáo như máy tính, mạng internet, ô tô, xe máy, máy chụp ảnh, máy ghi âm, kính lúp và các phương tiện khác...
3.2.5. Cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp
Cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp cũng là một trong những yếu tố chính, có tác động rất lớn đến năng lực của Thanh tra Tư pháp. Nếu coi toàn ngành Thanh tra Tư pháp là một chiếc xe đang vận hành thì quy định của pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật hiện đại được coi là những yếu tố quan trọng; yếu tố con người được coi là then chốt, là cốt yếu như người cầm lái điều khiển chiếc xe chạy nhanh hay chậm, nhanh chậm lúc nào và chọn con đường nào nhanh nhất, hiệu quả nhất, thì cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp công tác được coi như là thứ dầu bôi trơn cho chiếc xe vận hành. Cơ chế hoạt động của Thanh tra Tư pháp có thể được hiểu là cách thức hoạt động của Thanh tra Tư pháp. Cách thức hoạt động này được pháp luật quy định như thế nào và thực tế đang thực hiện ra làm sao? Có hiệu quả không? Còn vướng mắc gì?...trong quá trình hoạt động đó, các cơ quan Thanh tra Tư pháp tất yếu phải có sự phối hợp với các cơ quan, đơn vị khác trong và ngoài ngành tạo nên các quan hệ phối hợp để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Cơ chế làm việc và cơ chế phối hợp công tác của Thanh tra Tư pháp với các cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị trong và ngoài ngành mà tốt thì hoạt động của Thanh tra Tư pháp sẽ thuận lợi, hiệu quả. Ngược lại, cơ chế hoạt động, quan hệ phối hợp mà gò bó, cứng nhắc, có nhiều cản trở hoặc lại lỏng lẻo, không có sự gắn kết cần thiết thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của Thanh tra Tư pháp.
4. Vị trí, vai trò và đặc trưng cơ bản của Thanh tra Tư pháp
4.1. Vị trí, vai trò của Thanh tra Tư pháp
Cùng với sự phát triển của ngành Tư pháp và Thanh tra nhà nước, vị trí, vai trò của Thanh tra Tư pháp ngày càng được ghi nhận, củng cố và phát triển, thể hiện ở 04 nội dung chính sau đây:
Thứ nhất, Thanh tra Tư pháp là chức năng thiết yếu trong quản lý nhà nước của ngành Tư pháp:
Trong khoa học quản lý nhà nước, theo các giai đoạn tác động, quản lý nhà nước bao gồm có những chức năng cơ bản sau: chức năng điều chỉnh; chức năng tổ chức; chức năng điều khiển và chức năng thanh tra, kiểm tra. Thanh tra, kiểm tra là chức năng nhằm kịp thời phát hiện ra những sai sót trong quá trình hoạt động và các cơ hội đột biến trong hệ thống. Ở đây thanh tra, kiểm tra được hiểu là hình thức tác động có mục đích quan sát cả hệ thống để phát hiện những sai lệch so với yêu cầu đề ra, tìm ra nguyên nhân và từ đó có những giải pháp, biện pháp xử lý phù hợp đảm bảo để hoạt động của đối tượng bị quản lý đạt tới mục tiêu mà chủ thể quản lý đã xác định. Trong một phạm vi, chừng mực nhất định hoạt động kiểm tra theo nghĩa thông thường có thể đưa lại những thông tin cần thiết, đáp ứng yêu cầu tìm ra những giải pháp phù hợp. Nhưng ở một chừng mực nào đó, hoạt động kiểm tra thông thường chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý, thì đòi hỏi phải thực hiện hình thức kiểm tra đặc biệt hơn để tìm ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan của sai lệch và chỉ rõ trách nhiệm thuộc về ai, đưa ra những kiến nghị đề xuất. Để đảm bảo hiệu quả, loại hình kiểm tra đặc biệt này cần phải được đảm bảo bằng các chế định pháp luật, được áp dụng các phương pháp do pháp luật quy định đó chính là hoạt động thanh tra hiện nay. Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước các cơ quan quản lý nhà nước nhất thiết phải tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quyết định mà mình đã ban hành. Đó là một khâu không thể thiếu trong quá trình hoạt động quản lý nhà nước. Chính vì vậy, thanh tra được xác định là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước. Vai trò, vị trí này của thanh tra đã được Luật Thanh tra thể hiện rất rõ thông qua các chế định về: mục đích, phạm vi, nguyên tắc hoạt động thanh tra; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tạo điều kiện cho hoạt động thanh tra; mối quan hệ giữa thanh tra với thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước; mối quan hệ giữa thanh tra với đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khác. Thanh tra Tư pháp luôn gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước của ngành Tư pháp. Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình, sau khi đã ban hành các quyết định quản lý và tổ chức, thực hiện các quyết định quản lý, các chủ thể quản lý (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp) luôn cần có sự kiểm tra, theo dõi việc thực hiện các quyết định quản lý nhằm đảm bảo cho hoạt động quản lý đó tuân theo đúng pháp luật và có hiệu quả. Hoạt động của Thanh tra Tư pháp với tư cách là chức năng thiết yếu của quản lý, khâu quan trọng trong chu trình quản lý, tiến hành thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng quản lý, đương nhiên hoạt động thanh tra phải gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước của Ngành. Như vậy, xét về bản chất thì Thanh tra Tư pháp là công cụ, phương tiện của chủ thể quản lý (Bộ Tư pháp, sở Tư pháp) trong việc thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm vụ mà Bộ đã đề ra đối với các đối tượng quản lý.
Thứ hai, Thanh tra Tư pháp góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của ngành Tư pháp:
Thực tiễn đã chỉ ra rằng trong các chức năng quản lý nhà nước của Ngành Tư pháp thì hiệu quả quản lý phần lớn phụ thuộc vào nội dung, chất lượng và biện pháp tổ chức thực hiện các quyết định, chính sách, pháp luật đã được ban hành. Để các quyết định, chính sách, pháp luật trong phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tuân thủ và chấp hành một cách chính xác, đầy đủ, người quản lý phải đề ra quy trình thực hiện các quyết định, chính sách, pháp luật đó. Trong quy trình đó không thể thiếu hoạt động thanh tra, kiểm tra. Thanh tra, kiểm tra là để đánh giá, nhận xét tình hình và kết quả thực hiện quyết định quản lý; để kiểm nghiệm lại chính nội dung và chất lượng quản lý; khi cần thiết phải bổ sung, sửa đổi, thậm chí phải huỷ bỏ một phần hay toàn bộ quyết định quản lý. Thanh tra tư pháp cũng giúp chủ thể quản lý đánh giá đúng tình hình thực hiện những nhiệm vụ thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp. Trong trường hợp quyết định quản lý được kiểm nghiệm là đúng, là phù hợp nhưng đối tượng thi hành vẫn không tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh thì khi đó hoạt động thanh tra, kiểm tra phải làm rõ nguyên nhân, xác định rõ trách nhiệm để chấn chỉnh hoặc xử lý (nếu có vi phạm). Không chỉ giữ vai trò xem xét, đánh giá một quyết định quản lý cụ thể, công tác thanh tra còn phải hướng đến việc xem xét, kết luận, đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu, chương trình, nhiệm vụ của chính cơ quan quản lý nhà nước. Trong mối quan hệ giữa chủ thể quản lý (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp) với Thanh tra Tư pháp (Thanh tra Bộ, Thanh tra Sở) thì chủ thể quản lý giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động thanh tra như đề ra các chương trình, kế hoạch thanh tra, quy định phạm vi hoạt động của thanh tra... Ngược lại, hoạt động của Thanh tra tư pháp giữ vai trò tích cực, tác động ngược trở lại đối với hoạt động quản lý nhà nước của Bộ, sở Tư pháp xem xét, đánh giá kết quả, hiệu quả việc thực hiện các quyết định quản lý của Bộ, Sở Tư pháp phát hiện những mặt tích cực để phát huy, phát hiện những sai phạm để đề xuất, kiến nghị với chủ thể quản lý sửa đổi cơ chế, chính sách, xử lý các hành vi vi phạm. Nếu Thanh tra hoạt động có hiệu quả thì có tác dụng thúc đẩy quá trình quản lý của Bộ, Sở Tư pháp. Ngược lại, nếu Thanh tra Tư pháp hoạt động kém hiệu quả thì sẽ một phần hạn chế hoạt động quản lý nhà nước của ngành Tư pháp. Rõ ràng rằng, Thanh tra tư pháp đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của ngành Tư pháp.
Thứ ba, Thanh tra Tư pháp là phương thức bảo đảm sự tuân thủ pháp luật trong quản lý của ngành Tư pháp và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa:
Hoạt động thanh tra không chỉ là nhằm phát hiện ra những thiếu sót, sai phạm trong việc thực hiện chính sách pháp luật để kiến nghị, đưa ra các biện pháp xử lý mang tính quyền lực nhà nước mà qua đó hoạt động thanh tra còn nhằm uốn nắn, yêu cầu các đối tượng quản lý phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Hoạt động của thanh tra thể hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực nhà nước được pháp luật quy định đối với đối tượng thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của của ngành Tư pháp. Tính quyền lực trong hoạt động của thanh tra được thể hiện ở chỗ tiến hành các cuộc thanh tra trên cơ sở thẩm quyền Bộ trưởng, Giám đốc sở, có những quyền hạn và khả năng thực hiện những quyền hạn đó như ra các quyết định bắt buộc thi hành đối với các đối tượng thanh tra trong việc sửa chữa những thiếu sót đã bị thanh tra phát hiện; chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra những hành vi vi phạm pháp luật; được áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Qua đó, góp phần quan trọng cho việc tuân thủ pháp luật trong quản lý nhà nước.
Công tác thanh tra còn góp phần bảo đảm nguyên tắc Pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa tức là đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ một cách tuyệt đối, không có một thực thể nào đứng trên pháp luật hay đứng ngoài pháp luật. Hoạt động thanh tra góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện ở những nội dung sau: hoạt động thanh tra đã góp phần không nhỏ vào việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, giúp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu đúng và từ đó chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Thực tiễn, có không ít trường hợp vi phạm pháp luật nhưng không phải là do không hiểu đúng các quy định của pháp luật. Trong những trường hợp đó, nếu chỉ có giúp sửa chữa, khắc phục thì khó có thể bảo đảm tình trạng đó sẽ không tái phạm mà đòi hỏi thanh tra phải có biện pháp cứng rắn hơn, hình thức xử lý nghiêm khắc hơn. Việc làm này không những chỉ tác động đến đối tượng có sai phạm mà còn có tác dụng răn đe đối với các đối tượng quản lý khác. Người này sửa chữa để người kia tránh và như thế rõ ràng càng làm cho việc tuân thủ pháp luật được thực hiện một cách nghiêm túc. Qua thanh tra còn phát hiện các văn bản pháp lý cấp dưới trái với văn bản pháp luật cấp trên, các quy định pháp luật không phù hợp với thực tế từ đó có kiến nghị sửa đổi hoặc bãi bỏ.
Thứ bốn, Thanh tra Tư pháp là một biện pháp ngăn ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa chống tham nhũng trong ngành Tư pháp:
Vai trò của công tác thanh tra không chỉ và không phải chủ yếu là phát hiện các sai phạm, vi phạm các quy định pháp luật và có các biện pháp xử lý mà quan trọng hơn, thanh tra có tác dụng phòng ngừa hữu hiệu các hành vi vi phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng và chống tham nhũng. Biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và đấu tranh phòng chống tham nhũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước của ngành Tư pháp nói riêng. Tính phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật của thanh tra được thể ở những khía cạnh sau đây:
Một là, hoạt động thanh tra luôn luôn mang tính quyền lực nhà nước, là hiện thân của kỷ cương pháp luật, có các biện pháp xử lý mạnh. Sự hiện diện của thanh tra là sự nhắc nhở thường xuyên đối với tất cả các đối tượng thanh tra, đối tượng chịu sự quản lý. Hoạt động thanh tra thường xuyên hay đột xuất luôn tạo ra một yêu cầu thường trực cho các đối tượng chịu sự quản lý nếu vi phạm pháp luật sẽ bị xử lý, do đó, luôn luôn phải cảnh giác tuân thủ pháp luật và nhờ đó đã hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần phòng ngừa tham nhũng.
Hai là, hoạt động thanh tra có tác dụng tìm hiểu, giúp đỡ, định hướng cho các đối tượng thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
Ba là, qua thanh tra tìm ra những quy định bất cập, những kẽ hở của chính sách, pháp luật từ đó kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉnh sửa hoặc bãi bỏ để hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm ngăn ngừa các hành vi đúng đắn lại bị cho là vi phạm pháp pháp luật.
Bốn là, trong nhiều trường hợp, qua thanh tra có thể dự báo được những hành vi vi phạm pháp luật sẽ xảy trong tương lai nếu không được chấn chỉnh, không có sự định hướng lại cho các đối tượng một cách kịp thời thì rất dễ có các hành vi vi phạm xảy ra
4.2. Đặc trưng cơ bản của Thanh tra Tư pháp
Thanh tra Tư pháp cũng có những đặc điểm chung như những tổ chức thanh tra của các ngành khác, đó là thực hiện chức năng thanh tra trong phạm vi quản lý Nhà nước của ngành, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý Nhà nước của Thủ trưởng cùng cấp. Tuy nhiên, Ngành Tư pháp có đặc điểm là quản lý đa lĩnh vực và theo nhiều chiều. Trong đó có lĩnh vực thì quản lý cả về mặt tổ chức và chuyên môn nghiệp như thi hành án dân sự; có nhiều lĩnh vực thì chỉ chịu trách nhiệm về mặt chuyên môn như công chứng, hộ tịch, quốc tịch, luật sư, tư vấn, bán đấu giá tài sản...; có tổ chức thuộc Ngành Tư pháp như Đại học Luật Hà Nội, Báo Pháp luật Việt Nam, Nhà Xuất bản Tư pháp…nhưng lại cũng chịu sự điều chỉnh về chuyên môn của Ngành khác. Chính những đặc điểm đó của Ngành Tư pháp đã quy định những đặc thù của Thanh tra Tư pháp như sau:
Một là, Thanh tra chuyên ngành trên nhiều lĩnh vực: Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về nhiều lĩnh vực khác nhau nên đặc điểm nổi bật nhất của Thanh tra Tư pháp là có trọng trách rất lớn trong việc thanh tra về chuyên môn, nghiệp vụ của nhiều lĩnh vực đó. Các lĩnh vực mà ngành Tư pháp quản lý là những lĩnh vực quan trọng có liên quan tới đời sống xã hội như: thi hành án dân sự; công chứng, chứng thực; hộ tịch; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; quốc tịch; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; trợ giúp pháp lý; đăng ký giao dịch bảo đảm; hợp tác với nước ngoài về pháp luật; kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật và công tác tư pháp khác. Riêng về lĩnh vực thi hành án dân sự, ngành Tư pháp có khoảng 600 cơ quan Thi hành án dân sự các cấp. Hiện nay, hầu hết các lĩnh vực chuyên ngành đã có văn bản quy định về xử lý vi phạm hành chính để xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đó. Do vậy, để phục vụ cho công tác quản lý của Ngành đối với các đối tượng trên, Thanh tra tư pháp còn phải có một lực lượng không những nhiều về số lượng mà còn phải tinh thông về nghiệp vụ mới có thể đảm đương được nhiệm vụ của mình.
Hai là, Thanh tra việc cấp và sử dụng kinh phí theo ngành dọc: Đặc điểm này xuất phát từ việc Bộ Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn cấp và quản lý về tài chính đối với tất cả các cơ quan thi hành án dân sự trên toàn quốc. Do đó, công tác thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra Tư pháp phải có những hoạt động thanh tra, kiểm tra tương ứng với công tác cấp và sử dụng kinh phí của 64 cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh và khoảng gần 600 các cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện trong phạm vi cả nước. Trong quản lý kinh phí đối với các Cơ quan Thi hành án thì kinh phí được cấp thẳng từ Bộ Tư pháp, không qua Sở Tư pháp, do đó, việc thanh tra, kiểm tra tài chính gặp nhiều khó khăn nhất định. Cụ thể là, hàng năm, Thanh tra Bộ cũng chỉ tiến hành được 2 đến 3 cuộc thanh tra sử dụng kinh phí của cơ quan thi hành án dân sự và cũng chỉ tiến hành chủ yếu là đối với cấp tỉnh. Việc thanh tra sử dụng kinh phí đối với cơ quan thi hành án cấp huyện là có mức độ. Còn Thanh tra các Sở Tư pháp không có trách nhiệm hoặc ngại không thanh tra, kiểm tra việc sử dụng kinh phí đó vì một số địa phương cho rằng kinh phí của các cơ quan thi hành án là do Bộ tư pháp cấp trực tiếp, không qua Sở Tư pháp. Chính vì vậy, việc thanh tra, kiểm tra đối với các cơ quan thi hành án cấp huyện trong việc sử dụng kinh phí là chưa được đồng đều và rộng khắp.
Ba là, Thanh tra về mặt tổ chức theo cơ chế uỷ quyền: Tuy cũng có phần giống như các ngành khác là có hoạt động quản lý về mặt tổ chức của các đơn vị trực thuộc nhưng nội dung này ở ngành Tư pháp cũng lại có điểm riêng. Đó là vấn đề quản lý về mặt tổ chức của các cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh và cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện. Bộ Tư pháp được Chính phủ giao nhiệm vụ, quyền hạn quản lý cả về mặt tổ chức và chuyên môn nghiệp vụ của công tác thi hành án dân sự. Nhưng về mặt tổ chức cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh, cơ quan Thi hành án dân sự huyện vẫn chịu sự quản lý một phần của chính quyền địa phương. Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1148/2005/QĐ-BTP uỷ quyền cho Giám đốc các Sở Tư pháp quản lý về mặt tổ chức các cơ quan thi hành án dân sự địa phương. Ngày 26/09/2008, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 06/2008/TT-BTP về việc hướng dẫn một số nội dung về tổ chức cán bộ các cơ quan thi hành án dân sự địa phương. Căn cứ pháp lý này dẫn đến đặc thù của Thanh tra Tư pháp là: Thanh tra Bộ Tư pháp có thẩm quyền thanh tra về mặt công vụ, tổ chức, biên chế; thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật và Thanh tra Sở Tư pháp cũng có nhiệm vụ giúp Giám đốc các Sở Tư pháp thanh tra và xác minh giúp giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực này.
II. THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC THANH TRA TƯ PHÁP
1. Thực trạng quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp
1.1. Quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp
Thứ nhất, các văn bản quy phạm pháp luật quy định trực tiếp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra nói chung, cơ quan Thanh tra Tư pháp nói riêng, đó là: Luật Thanh tra 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành; Nghị định số 74/2006/NĐ-CP và Quy chế tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tư pháp được ban hành kèm theo Quyết định số 764/QĐ-BTP ngày 30/5/2007 Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Thứ hai, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành Tư pháp. Sở dĩ, coi các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành Tư pháp là một bộ phận của quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp là vì chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của ngành Tư pháp đến đâu thì chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp với ý nghĩa là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý nhà nước của ngành Tư pháp cũng được mở rộng tới đó. Hệ thống các văn bản này trước hết phải kể đến Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp (sau đây gọi tắt là Nghị định số 93/2008/NĐ-CP) và những văn bản quy phạm pháp luật quy định về nội dung lĩnh vực hoạt động của ngành Tư pháp.
Thứ ba, các văn bản pháp luật khác có liên quan như Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản pháp luật có liên quan khác.
1.2. Các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp
1.2.1. Chức năng của Thanh tra Tư pháp
Thứ nhất, chức năng thanh tra hành chính: thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách pháp luật, quy định chuyên ngành, nhiệm vụ của cơ quản, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp.
Thanh tra Bộ Tư pháp thực hiện chức năng thanh tra hành chính đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao. Căn cứ Nghị định 93/2008/NĐ-CP, Quyết định số 1727/QĐ-TTg ngày 28/11/2008 về các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Tư phápthì Bộ trưởng Bộ tư pháp trực tiếp quản lý các cán bộ, công chức, viên chức thuộc Bộ Tư pháp bao gồm các đơn vị trực thuộc sau: Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật; Vụ Pháp luật hình sự - hành chính; Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế; Vụ Pháp luật quốc tế; Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật; Vụ Hành chính tư pháp; Vụ Bổ trợ tư pháp; Vụ Hợp tác quốc tế; Vụ Kế hoạch - Tài chính; Vụ Tổ chức cán bộ; Vụ Thi đua - Khen thưởng; Văn phòng; Cục Thi hành án dân sự; Cục Trợ giúp pháp lý; Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm; Cục Con nuôi; Cục Công nghệ thông tin; Cơ quan đại diện của Bộ tại thành phố Hồ Chí Minh; Viện Khoa học pháp lý; Học viện Tư pháp; Tạp chí Dân chủ và Pháp luật; Báo Pháp luật Việt Nam; Nhà xuất bản Tư pháp và Trường Đại học luật Hà Nội.
Thanh tra các Sở Tư pháp thực hiện chức năng thanh tra hành chính đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Sở Tư pháp và thi hành án dân sự cấp huyện trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, chức năng thanh tra chuyên ngành: Thanh tra tư pháp thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành của Bộ trưởng, Giám đốc Sở đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định chuyên ngành, quy tắc quản lý chuyên ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của ngành Tư pháp. Thanh tra Bộ và Thanh tra các Sở Tư pháp thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp theo quy định của pháp luật, bao gồm các lĩnh vực sau: kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; công chứng, chứng thực; hộ tịch; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; quốc tịch; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; trợ giúp pháp lý và công tác tư pháp khác. Ngoài ra, Thanh tra Bộ còn thực hiện thanh tra chuyên ngành về đăng ký giao dịch bảo đảm và hợp tác với nước ngoài về pháp luật.
Thứ ba, chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thanh tra tư pháp: Thanh tra Bộ Tư pháp giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý thống nhất công tác thanh tra trong ngành Tư pháp. Thanh tra Bộ là đầu mối chủ trì hoặc tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của thanh tra tư pháp hoặc các văn bản pháp luật khác liên quan đến lĩnh vực thanh tra khi được Bộ trưởng giao. Thanh tra Bộ thực hiện việc hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với thanh tra sở, hướng dẫn kiểm tra các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp thực hiện các quy định của pháp luật về thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thanh tra Bộ thường xuyên tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp. Từ đó tổng kết kinh nghiệm và xây dựng nghiệp vụ về thanh tra tư pháp để hướng dẫn chung cho toàn ngành, tham mưu cho Bộ trưởng ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp luật. Thanh tra Bộ Tư pháp xây dựng kế hoạch thanh tra, mục tiêu nhiệm vụ thanh tra hàng năm để hướng dẫn Thanh tra các Sở Tư pháp xây dựng kế hoạch thanh tra của mình phù hợp với nhiệm vụ trọng tâm chung của toàn ngành Tư pháp. Ngoài ra, Thanh tra Bộ Tư pháp thường xuyên theo dõi về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở từ đó có kiến nghị Sở Tư pháp kiện toàn tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Thứ tư, chức năng là đầu mối giúp thủ trưởng cơ quan tư pháp cùng cấp quản lý nhà nước về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp: Thanh tra Bộ Tư pháp đã thực hiện việc xây dựng Quy chế tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan Bộ Tư pháp. Các cơ quan Thanh tra Tư pháp là đơn vị trực tiếp tổ chức việc tiếp công dân, tiếp nhận các đơn thư khiếu nại, tố cáo gửi đến Cơ quan Tư pháp cùng cấp, ở Trung ương là Bộ Tư pháp, ở địa phương là các Sở Tư pháp. Định kỳ hàng tháng, Thanh tra Bộ Tư pháp thực hiện việc tổ chức để lãnh đạo Bộ trực tiếp tiếp công dân. Là đầu mối tiếp nhận và xem xét các đơn thư khiếu nại, tố cáo gửi đến Bộ Tư pháp và từ đó có các đề xuất, tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp giải quyết. Thanh tra Bộ Tư pháp có trách nhiệm thực hiện việc xem xét, kết luận các vấn đề khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng Bộ Tư pháp khi được giao.
Thứ năm, chức năng phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong lĩnh vực tư pháp: Phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng là nhiệm vụ cấp bách đặt ra cho các cơ quan nhà nước nói chung và ngành Tư pháp nói riêng. Triển khai thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Luật phòng chống tham nhũng, Thanh tra Bộ đã tham mưu cho để Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 04/2006/QĐ-BTP ngày 12/6/2006 về chương trình hành động phòng, chống tham nhũng của ngành Tư pháp. Theo đó, Thanh tra Tư pháp giúp lãnh đạo Bộ Tư pháp triển khai thực hiện việc phòng, chống tham nhũng trong phạm vi quản lý nhà nước của Ngành. Thanh tra Bộ Tư pháp hành tháng phải tổng hợp theo dõi báo cáo về phòng, chống tham nhũng của các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp và có báo cáo đến Cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Qua công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Tư pháp không những phát hiện các sai phạm, kiến nghị các biện pháp xử lý mà còn góp phần tích cực trong việc uốn nắn, chỉnh sửa các sai phạm, kiến nghị sửa đổi, bãi bỏ các quy định không phù hợp hoặc quy định mới chặt chẽ hơn để hạn chế điều kiện cho tham nhũng xảy ra trong Ngành. Hơn nữa, việc thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những giải pháp hữu hiệu để thực hiện tốt việc đấu tranh và phòng ngừa tham nhũng.
1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp
Thanh tra Tư pháp cũng có nhiệm vụ, quyền hạn chung của các cơ quan thanh tra nhà nước, bên cạnh đó có những nhiệm vụ, quyền hạn và đặc thù riêng của ngành Tư pháp. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Bộ Tư pháp được quy định tại Điều 7, Nghị định số 74/2006/NĐ-CP và nhiệm vụ, quyền hạn của quy định Thanh tra Bộ có nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Sở Tư pháp được quy định tại Điều 10 của Nghị định số 74/2006/NĐ-CP. Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở đều có điểm chung là: thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành, xử phạt vi phạm hành chính, xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng, tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng và một số nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
1.3. Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp
1.3.1. Ưu điểm
Kể từ khi ra đời cho đến nay, năng lực Thanh tra Tư pháp đã dần có những bước phát triển về mọi mặt, đặc biệt là về quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Năm 2004, Luật Thanh tra được ban hành quy định rõ về tổ chức, hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước. trên cơ sở đó, ngày 01/8/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 74/2006/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp. Theo đó, “Thanh tra Tư pháp” là tổ chức thanh tra thuộc ngành Tư pháp; ở Trung ương có Thanh tra Bộ Tư pháp; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Thanh tra Sở Tư pháp; thực hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp theo quy định của pháp luật. Phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp là rất rộng, căn cứ Nghị định 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp (hiện nay đã được thay thế bằng Nghị định số 93/2008/NĐ-CP) thì Chính phủ đã giao cho Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp và công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; thực hiện quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật. Quy định chi tiết về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tư pháp, ngày 30/5/2007, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 764/QĐ-BTP ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tư pháp. Thanh tra Bộ Tư pháp là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp có chức năng giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc quyền quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp; thực hiện thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành và phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng theo thẩm quyền. Thanh tra Bộ Tư pháp chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, đồng thời chịu sự hướng dẫn của Tổng thanh tra về công tác tổ chức và nghiệp vụ thanh tra.
1.3.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân
Luật Thanh tra 2004 và Nghị định số 74/2006/NĐ-CP quy định về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra Tư pháp và các văn bản pháp luật có liên quan khác hiện nay còn có những điểm chưa phù hợp.
- Theo quy định của Luật Thanh tra và Nghị định số 74/2006/NĐ-CP thì Thanh tra Sở Tư pháp là cơ quan thuộc Sở Tư pháp, Thanh tra Bộ là cơ quan thuộc Bộ Tư pháp nhưng sự gắn kết, tính hệ thống, vai trò chỉ đạo, hướng dẫn của Thanh tra Bộ đối với Thanh tra các Sở Tư pháp còn chưa cao.
- Hiện nay, tồn tại khá nhiều bất cập, khó khăn trong việc áp dụng các quy định của Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật trong hoạt động thanh tra chuyên ngành, nói chung, thanh tra chuyên ngành Tư pháp nói riêng, cụ thể như: về thời hạn công bố quyết định thanh tra; thời hạn báo cáo kết quả thanh tra và về trình tự, thủ tục kết luận một cuộc thanh tra chuyên ngành.
- Bên cạnh đó, Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành còn có nhiều mâu thuẫn với các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực do ngành Tư pháp quản lý, ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực hoạt động của thanh tra ngành Tư pháp.
2. Thực trạng tổ chức bộ máy Thanh tra Tư pháp
2.1. Quy định hiện hành của pháp luật về tổ chức bộ máy của Thanh tra Tư pháp
Theo quy định của Nghị định số 74/2006/NĐ-CP, Thanh tra Tư pháp được tổ chức ở Trung ương là Thanh tra Bộ và ở địa phương là Thanh tra Sở. Thanh tra Tư pháp có con dấu và tài khoản riêng.
Thanh tra Bộ là cơ quan của Bộ Tư pháp, chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Bộ trưởng, có trách nhiệm giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra tư pháp, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp. Thanh tra Bộ có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên thực hiện theo quy định của pháp luật và có các phòng chuyên môn để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Bộ. Quy chế về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ đã được Bộ trưởng ban hành kèm theo Quyết định số 764/QĐ-BTP ngày 30/5/2007 đã tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Thanh tra, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Thanh tra Bộ.
Theo quy định của Nghị định 74/2006/NĐ-CP, Thanh tra Sở là cơ quan của Sở Tư pháp, chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Giám đốc Sở, giúp Giám đốc Sở thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Giám đốc Sở Tư pháp. Thanh tra Sở có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên.
2.2. Tình hình về tổ chức bộ máy của Thanh tra Bộ
Quy chế về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ đã được Bộ trưởng ban hành kèm theo Quyết định số 764/QĐ-BTP đã tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Thanh tra, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Thanh tra Bộ.
Căn cứ vào Quy chế, Thanh tra Bộ hiện nay được giao tổng số 21 biên chế, gồm: 01 Quyền Chánh thanh tra, 02 Phó Chánh thanh tra và 03 phòng nghiệp vụ: Phòng Hành chính, tổng hợp, tiếp công dân; Phòng Thanh tra hành chính; Phòng Thanh tra chuyên ngành. Biên chế và chức năng, nhiệm vụ cụ thể của 03 phòng như sau:
- Phòng Hành chính, tổng hợp, tiếp công dân gồm 07 biên chế (01 Trưởng phòng, 01 Phó Trưởng phòng và 05 thanh tra viên và chuyên viên) có chức năng giúp Chánh Thanh tra xây dựng chương trình, kế hoạch công tác; điều phối hoạt động chung của Thanh tra Bộ; Thực hiện các nhiệm vụ: hành chính, tổng hợp; quản lý về tài chính, kế toán và công tác tiếp công dân.
- Phòng Thanh tra hành chính gồm 05 biên chế (01 Trưởng phòng, 01 Phó Trưởng phòng và 03 thanh tra viên) có chức năng giúp Chánh Thanh tra tổ chức thực hiện các hoạt động thanh tra hành chính; xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật; thực hiện các công việc khác khi được Chánh Thanh tra giao.
- Phòng Thanh tra chuyên ngành gồm 06 biên chế (01 Trưởng phòng, 02 Phó Trưởng phòng và 03 thanh tra viên) có chức năng giúp Chánh Thanh tra tổ chức thực hiện các hoạt động thanh tra chuyên ngành; xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp theo quy định của pháp luật, bao gồm: kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; công chứng, chứng thực; hộ tịch; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; quốc tịch; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; trợ giúp pháp lý; đăng ký giao dịch bảo đảm; hợp tác với nước ngoài về pháp luật và công tác tư pháp khác; thực hiện các công việc khác khi được Chánh Thanh tra giao.
2.3. Tình hình tổ chức bộ máy của Thanh tra Sở
Hiện nay trên toàn quốc tổng số 63/63 tỉnh, thành đã có tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp với 110 biên chế chính thức và 05 cán bộ kiêm nhiệm (80 nam và 35 nữ), trong đó: Thanh tra Sở Tư pháp thành phố Hà Nội có biên chế cao nhất là 05 đồng chí (có Chánh thanh tra, 01 Phó Chánh thanh tra nhưng lại không có Thanh tra viên), 02 tổ chức có 04 biên chế là Thanh tra Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Nghệ An, 06 tổ chức có 03 biên chế, 33 tổ chức có 02 biên chế, 18 tổ chức chỉ có 01 biên chế và vẫn còn 05 Thanh tra Sở Tư pháp (chiếm 8%) không có biên chế chính thức mà chỉ sử dụng 05 cán bộ kiêm nhiệm từ các phòng, ban khác (Bình Định, Sóc Trăng, Đắc Nông, Quảng Nam, Gia Lai).
Về công chức Lãnh đạo của Thanh tra các Sở Tư pháp: 41/63 Sở Tư pháp có Chánh Thanh tra (chiếm 65%); 20/63 Sở Tư pháp có 01 Phó Chánh Thanh tra (chưa có Sở Tư pháp nào có từ 02 Phó Chánh Thanh tra trở lên); 11 Sở Tư pháp còn chưa có Lãnh đạo Thanh tra (chiếm 17%).
2.4. Phân tích, đánh giá về tình hình tổ chức bộ máy Thanh tra Tư pháp
2.4.1. Ưu điểm
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ thanh tra ngành tư pháp đã được xác định, hoạt động của công tác thanh tra nhằm phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo ngành, góp phần vào việc bảo đảm chấp hành đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước với phương hướng, nhiệm vụ công tác của ngành đề ra. Kể từ khi ra đời cho đến nay, năng lực Thanh tra Tư pháp đã dần có những bước phát triển về mọi mặt, trong đó có việc không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức. Trước khi Luật Thanh tra 2004 ra đời, bộ máy tổ chức của ngay cả Thanh tra Bộ cũng còn rất đơn giản. Sau khi Luật Thanh tra năm 2004 ra đời, bộ máy tổ chức của Thanh tra Bộ đã được củng cố, tăng cường lên một mức mới, Thanh tra Bộ Tư pháp đã có 01 Quyền Chánh Thanh tra, 02 Phó Chánh Thanh tra. Đặc biệt, hiện nay, theo Quy chế tổ chức, hoạt động của Thanh tra Bộ được ban hành kèm theo Quyết định số 764/QĐ-BTP ngày 30/5/2007 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, bộ máy của Thanh tra Bộ được chia thành 03 phòng chuyên môn với 03 đồng chí Trưởng phòng và 04 đồng chí Phó Trưởng phòng. Đối với Thanh tra các Sở Tư pháp, cho đến năm 1999, cả nước mới chỉ có 34 Sở Tư pháp có tổ chức thanh tra. Tuy nhiên, cũng như tình hình phát triển của bộ máy Thanh tra Bộ, hiện nay 100% các Sở Tư pháp đã có tổ chức Thanh tra, trong đó 41/63 (chiếm 65%) tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp đã có Chánh Thanh tra Sở.
2.4.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân
Thứ nhất, đối với Thanh Bộ: Cơ cấu tổ chức bộ máy còn chưa hợp lý, chưa tương xứng với các chức năng nhiệm vụ và chưa đáp ứng được nhu cầu hiện tại của công việc. Cụ thể, Thanh tra Bộ Tư pháp nói riêng như đã phân tích ở trên có 05 chức năng chính, đó là: chức năng thanh tra hành chính; chức năng thanh tra chuyên ngành; chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra Tư pháp; chức năng quản lý nhà nước về công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp và chức năng phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng trong lĩnh vực Tư pháp. Trong khi đó, bộ máy của Thanh tra Bộ hiện nay mới chỉ có 03 phòng chuyên môn, trong đó:
- Phòng Thanh tra hành chính, ngoài việc thực hiện chức năng tương ứng là thanh tra hành chính còn thực hiện chức năng xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật và thực hiện các công việc khác khi được Chánh Thanh tra giao.
- Phòng Thanh tra chuyên ngành, ngoài việc thực hiện chức năng tương ứng là thanh tra chuyên ngành còn thực hiện chức năng xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp theo quy 0định của pháp luật.
Hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra theo chương trình kế hoạch hàng năm của Thanh tra Bộ đã được Bộ trưởng phê duyệt. Hoạt động này, cơ bản, khác nhiều với hoạt động xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo về cả cơ sở pháp lý và biện pháp nghiệp vụ chuyên môn. Việc gộp hoạt động thanh tra theo Kế hoạch và hoạt động xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo vào với nhau là chưa thực sự khoa học, chưa thực sự chuyên sâu vào từng cơ sở pháp lý và biện pháp nghiệp vụ cụ thể. Có thể nói, đây là một bất cập lớn về tổ chức bộ máy của Thanh tra Bộ Tư pháp.
Thứ hai, đối với Thanh tra Sở: Từ kết quả khảo sát về thực trạng tổ chức bộ máy của Thanh tra các Sở Tư pháp cho thấy mặc dù 100% các Sở Tư pháp đã có tổ chức thanh tra nhưng tổ chức bộ máy còn rất hạn chế. Thực tế, mới chỉ có 65% các tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp có Chánh thanh tra Sở, 17% tổ chức chưa có Lãnh đạo Thanh tra Sở, có Thanh tra Sở được biên chế 05 người, có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra nhưng lại chưa được bổ nhiệm Thanh tra viên. Bất cập này gây ảnh hưởng nhiều đến mức độ và chất lượng hoạt động của Thanh tra Sở vì một tổ chức mà thiếu người đứng đầu thì vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của tổ chức đó và thanh tra viên cũng sẽ rất hạn chế. Đặc biệt, trong hoạt động thanh tra chuyên ngành và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp, có những hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt của Chánh Thanh tra Sở, nếu không có Chánh Thanh tra Sở thì rất khó để xử lý các hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử phạt của chức danh này.
Hơn nữa, cho đến nay, trên toàn quốc vẫn còn 18 tổ chức chỉ có 01 biên chế và đặc biệt vẫn còn 05 Thanh tra Sở Tư pháp (chiếm 8%) không có biên chế chính thức mà chỉ sử dụng 05 cán bộ kiêm nhiệm từ các phòng, ban khác. Với những tổ chức mà không có biên chế chính thức như trên, câu hỏi đặt ra là liệu đó có phải thực sự là một tổ chức Thanh tra Sở hay không? Một tổ chức như vậy thì liệu hoạt động có hiệu quả theo đúng chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn đã được pháp luật quy định không? Thực tế cho thấy, việc công nhận 05 Sở Tư pháp đó có tổ chức chỉ là về mặt hình thức vì không một tổ chức nào mà lại không có con người (không có biên chế chính thức được công nhận cho tổ chức đó) và nếu như vậy thì hoạt động chắc chắn sẽ thiếu chuyên sâu, khó bao quát hết mọi chức năng, nhiệm vụ do pháp luật quy định.
Nguyên nhân của tình trạng trên chủ yếu là do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố chưa phân quan tâm, phân bổ đủ biên chế cho tổ chức Thanh tra các Sở Tư pháp. Đồng thời, nhận thức của đa số Lãnh đạo các Sở Tư pháp về vị trí, vai trò của Thanh tra Sở, chưa coi trọng đúng mức công tác thanh tra.
3. Thực trạng đội ngũ thanh tra ngành Tư pháp
3.1. Quy định hiện hành của pháp luật về đội ngũ cán bộ Thanh tra Tư pháp
Theo quy định của Nghị định số 74/2006/NĐ-CP, đội ngũ cán bộ thanh tra Tư pháp gồm có:
+ Thanh tra Bộ: Chánh thanh tra, Phó Chánh thanh tra và Thanh tra viên. Biên chế của Thanh tra Bộ do Bộ trưởng quyết định.
+ Thanh tra Sở: Chánh thanh tra, Phó Chánh thanh tra và Thanh tra viên. Biên chế của Thanh tra Sở do Giám đốc Sở quyết định.
- Yêu cầu về trình độ: Theo quy định tại Điều 31 Luật Thanh tra và Quyết định số 818/TTCP-VP ngày 21/10/1993 của Ban tổ chức cán bộ Chính phủ về việc ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức ngành Thanh tra Nhà nước: tốt nghiệp đại học trở lên; qua bồi dưỡng kiến thức cơ bản về nghiệp vụ thanh tra; qua khoá đào tạo quản lý hành chính nhà nước ngạch chuyên viên; trình độ chính trị trung cấp trở lên; biết một ngoại ngữ ở trình độ A, đọc, hiểu sách chuyên môn.
- Chuyển ngạch: Theo quy định của Thông tư liên tịch số 619/1999/TTLT/TTNN-BTCCBCP ngày 12/8/1999 của Thanh tra Nhà nước và Ban tổ chức cán bộ Chính phủ hướng dẫn thực hiện việc tuyển dụng, chuyển ngạch; nâng ngạch, quản lý và xử lý kỷ luật công chức thanh tra, thi hành Pháp lệnh Thanh tra ngày 1/4/1990; Pháp lệnh cán bộ công chức ngày 26/2/1998: Công chức ở ngạch chuyên viên và các ngạch khác có trình độ chuyên môn tương đương làm việc trong tổ chức thanh tra nhà nước có thời gian làm công tác thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo tối thiểu 1 năm trở lên, có năng lực, phẩm chất, đạo đức đảm bảo tiêu chuẩn nghiệp vụ của các ngạch thanh tra viên theo Quyết định số 818/TCCB-CP ngày 21/10/1993 của Bộ trưởng, Trưởng ban Ban tổ chức cán bộ Chính phủ thì được xét chuyển để bổ nhiệm vào các ngạch thanh tra viên.
3.2. Tình hình đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra Bộ
Tổng biên chế của Thanh tra Bộ hiện nay là 22 người, trong đó có 13 nam, 9 nữ, 20 đồng chí là Đảng viên, 03 công chức lãnh đạo (01 Chánh Thanh tra và 02 Phó Chánh Thanh tra, 03 Trưởng phòng và 04 Phó Trưởng phòng). Một trong những thế mạnh của Thanh tra Bộ Tư pháp hiện nay là phần lớn lực lượng này đang ở vào độ tuổi rất hợp với công tác thanh tra, trong số 21 biên chế chỉ có 03 người thuộc độ tuổi: 51-58, 05 người thuộc độ tuổi: 41-50, còn lại là 10 người thuộc độ tuổi: 31-40 và 03 người dưới 30 tuổi.
Tuổi đời như vậy nhưng thâm niên và kinh nghiệm công tác của lực lượng Thanh tra Bộ Tư pháp cũng có thể nói là khá yên tâm, hiện tại Thanh tra Bộ có 05 người có kinh nghiệm công tác trên 10 năm, 07 người có kinh nghiệm công tác từ 06 đến 10 năm và 09 người có kinh nghiệm công tác dưới 6 năm.
Về lực lượng Thanh tra viên, Thanh tra Bộ hiện nay có 18 Thanh tra viên (trong đó có 05 Thanh tra viên chính và hiện nay, Thanh tra Bộ chưa có Thanh tra viên cao cấp), chiếm 85,7 % tổng số cán bộ, công chức Thanh tra Bộ, còn lại 03 chuyên viên, trong đó 02 đồng chí đã học qua lớp nghiệp vụ Thanh tra cơ bản do Thanh tra Chính phủ tổ chức nhưng do mới được tuyển dụng vào Thanh tra Bộ nên chưa đủ điều kiện bổ nhiệm Thanh tra viên.
Về trình độ chuyên môn, những năm gần đây nhờ chính sách tuyển dụng công khai và sự quan tâm của Lãnh đạo Bộ, của Vụ Tổ chức cán bộ, nhìn chung mặt bằng trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức Thanh tra Bộ cũng đã được nâng lên rõ rệt. Hiện nay, Thanh tra Bộ có 06 người có trình độ thạc sỹ (trong đó có 01 người có 02 Bằng thạc sỹ nước ngoài), 02 đồng chí đang trong quá trình bảo vệ luận văn thạc sỹ, 01 đồng chí đang học thạc sỹ năm thứ nhất và 01 đồng chí đang học thạc sỹ tại nước ngoài, còn lại 11 người có bằng Đại học Luật, ngoài ra còn có 02 người có Bằng cử nhân kinh tế, 01 người có bằng cử nhân báo chí, 01 người có bằng Đại học An ninh.
Về trình độ chính trị, trong tổng số 21 biên chế hiện nay, Thanh tra Bộ có 04 người có trình độ cao cấp chính trị, còn lại 19 người có trình độ trung cấp chính trị hoặc tương đương.
Về trình độ ngoại ngữ, hiện nay, Thanh tra Bộ có 03 đồng chí đã đi học cao học nước ngoài bằng Tiếng Anh, 08 người đạt trình độ C tiếng Anh, 01 người đạt trình độ C tiếng Pháp và 7 người có trình độ B tiếng Anh, 01 người có trình độ B tiếng Nga, 02 người có trình độ A tiếng Nga, còn lại 02 người có trình độ A tiếng Anh.
Về trình độ tin học, mặc dù những năm gần đây trình độ tin học của cán bộ, công chức Thanh tra Bộ đã được cải thiện nhưng vẫn chưa theo kịp với sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin, chưa đáp ứng được yêu cầu hiện tại của công việc, trong số 21 biên chế của đơn vị hiện nay mới chỉ có 01 người đạt trình độ C tin học văn phòng, 07 người có trình độ B và còn lại 13 người có trình độ A.
3.3. Tình hình đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra Sở
Theo kết quả của lần đầu tiên Thanh tra Bộ thực hiện khảo sát tương đối toàn diện về thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra Sở Tư pháp thì hiện nay trên toàn quốc có 63/63 tỉnh thành đã thành lập tổ chức thanh tra của Sở Tư pháp và có 115 người làm công tác này (80 nam và 35 nữ), trung bình mỗi Sở chỉ có khoảng 2 người. Trong đó, tổng số biên chế chính thức của Thanh tra các Sở Tư pháp là 110 người, Thanh tra Sở có biên chế cao nhất cao nhất là 05 người (Sở Tư pháp thành phố Hà Nội), 02 tổ chức có 04 người (Thanh tra Sở Tư pháp thành phố HCM và tỉnh Nghệ An), 06 Thanh tra Sở có 03 biên chế, 33 Thanh tra Sở có 02 biên chế và 18 Thanh tra Sở có 01 biên chế, còn lại 05 Sở Tư pháp vẫn chưa có biên chế chính thức mà sử dụng cán bộ kiêm nhiệm của các phòng ban hoặc bộ phận khác làm công tác thanh tra.
Về độ tuổi của cán bộ, công chức Thanh tra các Sở Tư pháp, trong tổng số 115 người làm công tác thanh tra của các Sở Tư pháp có 29 người thuộc độ tuổi từ 20-30 (chiếm 25,2%), 34 người từ 31-40 (chiếm 29,6%), 33 người từ 41-50 (chiếm 28,7%) và có 19 người từ 50 đến dưới 60 tuổi (chiếm 16,5%).
Về công chức lãnh đạo, trong số 63 Sở Tư pháp tỉnh, thành đã có tổ chức thanh tra thì chỉ mới có 41 tổ chức có Chánh Thanh tra (chiếm 65%), 11 tổ chức có cả Chánh Thanh tra và 01 Phó Chánh thanh tra, 09 Sở Tư pháp chỉ có 01 Phó Chánh Thanh tra Sở mà không có Chánh Thanh tra, chưa có Sở Tư pháp nào có từ 02 Phó Chánh thanh tra trở lên, đặc biệt vẫn còn 11 tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp chưa có Lãnh đạo thanh tra.
Về lực lượng thanh tra viên, trong số 115 cán bộ làm công tác thanh tra của các Sở Tư pháp hiện nay, mới chỉ có 37 thanh tra viên (chiếm tỷ lệ 32%), 73 chuyên viên (chiếm tỷ lệ 64%), đặc biệt vẫn còn 05 địa phương người làm công tác Thanh tra Tư pháp còn đang ở ngạch cán bộ (chiếm tỷ lệ 4%). Trong số 37 Thanh tra viên thì chỉ có duy nhất 01 Sở Tư pháp có 03 Thanh tra viên (STP tỉnh Nghệ An), còn lại 06 Sở Tư pháp có 02 Thanh tra viên, 22 Sở Tư pháp có 01 Thanh tra viên và còn 35 Sở Tư pháp chưa có Thanh tra viên.
Về trình độ chuyên môn, trong tổng số lực lượng cán bộ, công chức làm công tác thanh tra ở các Sở Tư pháp hiện nay mới chỉ có 05 người có trình độ thạc sỹ (trong duy nhất Thanh tra Sở Tư pháp tỉnh Quảng Trị có 02 người có trình độ thạc sỹ), 108 người có trình độ đại học (trong đó có 01 người tốt nghiệp Đại học Kinh tế; 01 người tốt nghiệp Đại học ngoại ngữ; 01 người tôt nghiệp Đại học Quản trị kinh doanh, còn lại 105 người là cử nhân luật).
Về trình độ chính trị, đội ngũ cán bộ công chức Thanh tra các Sở Tư pháp hiện nay mới chỉ có 18 người đạt trình độ cử nhân chính trị, 04 người đạt trình độ cao cấp chính trị, 82 người có trình độ trung cấp chính trị hoặc tương đương, đáng lưu ý vẫn còn 11 người mới chỉ có trình độ sơ cấp chính trị.
Về trình độ ngoại ngữ, hiện nay trong tổng cán bộ, công chức làm công tác thanh tra tại các sở Tư pháp ngoài 01 người có trình độ Đại học Ngoại ngữ, mới chỉ có 05 người đạt trình độ C tiếng Anh, 36 người có trình độ B tiếng Anh, 41 người có trình độ A tiếng Anh, còn lại là không biết tiếng Anh hoặc biết ngoại ngữ khác nhưng đã lâu quá không sử dụng đến.
Về trình độ tin học, lực lượng Thanh tra Tư pháp ở các Sở Tư pháp hiện nay cũng chỉ đạt kiến thức, kỹ năng về tin học văn phòng ở trình độ C: 03 người; trình độ B: 37 người; trình độ A 58 người và vẫn còn 02 người chưa được đào tạo về tin học.
3.4. Phân tích, đánh giá về tình hình đội ngũ cán bộ Thanh tra Tư pháp
3.4.1. Ưu điểm
Sau khi Luật Thanh tra năm 2004 ra đời, đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra Bộ đã được tăng cường đáng kể, lên tới 22 biên chế như hiện nay (tăng thêm 425% so với biên chế của Thanh tra Bộ vào thời điểm năm 1990). Đối với Thanh tra các Sở Tư pháp, trong giai đoạn đầu, lực lượng Thanh tra các Sở Tư pháp cũng còn rất mỏng, thiếu nhiều về biên chế và đa số còn yếu về chất lượng. Cụ thể là, đến năm 1999, cả nước mới có gần 80 người làm công tác thanh tra ở các Sở Tư pháp, trong số đó chỉ có 12 người đã học qua lớp nghiệp vụ thanh tra cơ bản do Trường Cán bộ thanh tra tổ chức. Tuy nhiên, cũng như tình hình phát triển của đội ngũ cán bộ Thanh tra Bộ, sau khi Luật Thanh tra 2004 ra đời, số lượng cán bộ, công chức làm công tác Thanh tra tại các Sở Tư pháp đã tăng lên đáng kể (hiện nay là 115 người, tăng thêm khoảng 44% so với số người làm công tác thanh tra Tư pháp vào thời điểm năm 1990) và đặc biệt, trong số đó đã có 37 thanh tra viên (chiếm tỷ lệ 32%).
3.4.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân
Mặc dù có những phát triển như đã phân tích ở trên nhưng nếu nhìn nhận thật khách quan thì đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra Tư pháp còn có những bất cập sau đây:
Thứ nhất, hạn chế về biên chế: Qua khảo sát về Thanh tra Tư pháp cho thấy những năm vừa biên chế của Thanh tra Bộ và Thanh tra các Sở Tư pháp đều rất ít, chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao. Nguyên nhân của tình trạng trên có thể nói:
- Trước hết, do thiếu sự quan tâm đúng mức của Lãnh đạo, đặc biệt là tại các địa phương, Lãnh đạo nhiều Sở Tư pháp còn không coi trọng công tác thanh tra, do vậy nên một số Thanh tra Sở không được biên chế và chỉ có cán bộ làm công tác kiêm nhiệm;
- Nguyên nhân thứ hai là biên chế chung cho toàn ngành còn ít, nhất là đối với các Sở Tư pháp do số biên chế có hạn nên Giám đốc Sở đã ưu tiên cho các phòng ban chuyên môn, khi xin thêm biên chế cho thanh tra thì Uỷ ban nhân dân lại từ chối vì hết chỉ tiêu theo sự phân bổ của Bộ Nội vụ;
- Nguyên nhân thứ ba: do đặc thù của công tác thanh tra là phức tạp và thường xuyên động chạm đến lợi ích chính trị, kinh tế của nhiều người, nhất là đối với chính cán bộ, công chức trong ngành; cũng do đặc thù của công tác thanh tra là đơn vị hành chính nhà nước thuần tuý, các tổ chức Thanh tra Tư pháp không thể có các hoạt động sự nghiệp, không có nguồn thu nào ngoài Ngân sách nên đời sống cán bộ, công chức Thanh tra Tư pháp là rất khó khăn... Chỉ cần hai đặc thù như vậy thì việc tuyển dụng, điều động công chức trong ngành Tư pháp làm thanh tra là vô cùng khó khăn, nhiều khi bế tắc, không tìm ra nguồn. Thực tế, ngay tại Thanh tra Bộ, cũng có những thời kỳ Bộ đồng ý bổ sung thêm biên chế cho Thanh tra nhưng lại không thể điều động được ai, thậm chí có trường hợp đã làm đơn xin về Bộ Tư pháp nhưng khi được biết sẽ điều về Thanh tra Bộ thì đã xin rút đơn ngay.
Thứ hai, bất cập về vấn đề công chức lãnh đạo: thực tiễn hiện nay, chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Tư pháp ngày càng nhiều như đã phân tích ở trên nhưng số lượng công chức lãnh đạo cũng còn quá ít. Từ khi thành lập Bộ Tư pháp đến nay, mới chỉ bổ nhiệm được 02 Chánh Thanh tra Bộ, còn chủ yếu là chức danh Quyền Chánh Thanh tra, hiện nay Thanh tra Bộ chỉ có Chánh Thanh tra và 02 Phó Chánh Thanh tra cho nên có thể nói việc phụ trách quá nhiều lĩnh vực đã đặt những người Lãnh đạo này vào tình trạng luôn luôn quá tải về công việc. So với Thanh tra Bộ, vấn đề công chức lãnh đạo của Thanh tra các Sở Tư pháp còn bất cập hơn nhiều, với con số 22/63 tổ chức Thanh tra Sở chưa có Chánh Thanh tra, 11/63 tổ chức chưa có Lãnh đạo Thanh tra thì có thể khẳng định rằng đây là một tình trạng đáng phải suy nghĩ. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là thiếu sự quan tâm của Lãnh đạo đến công tác thanh tra.
Thứ ba, bất cập về vấn đề Thanh tra viên: Như đã nêu ra trong phần thực trạng đội ngũ cán bộ Thanh tra Tư pháp, trên toàn quốc hiện nay mới chỉ có 53 Thanh tra viên (Thanh tra Bộ có 16 Thanh tra viên, Thanh tra các Sở có tổng số 37 Thanh tra viên). Như vậy có thể nói rằng bất cập về biên chế của Thanh tra Tư pháp đã là vấn đề nan giải thì bất cập về Thanh tra viên còn nan giải hơn nhiều, đặc biệt là đối với các Sở Tư pháp. Theo như kết quả khảo sát ở trên thì trung bình cứ gần 02 tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp mới có 01 Thanh tra viên. Từ chỗ thiếu trầm trọng lực lượng Thanh tra viên như vậy nên việc triển khai các hoạt động thanh tra chuyên ngành của các tổ chức Thanh tra Tư pháp còn vô cùng hạn chế, nhất là khi thực hiện thanh tra, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp thì đối với một số Sở Tư pháp gần như là bế tắc vì không có Thanh tra viên để thực hiện chức năng xử phạt theo thẩm quyền.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trước hết phải nói đến đó là do việc bổ nhiệm Thanh tra viên còn gặp nhiều khó khăn do tiêu chuẩn bổ nhiệm cao nên nhiều cán bộ không đủ điều kiện để được bổ nhiệm. Đồng thời, ở nhiều địa phương có rất ít chỉ tiêu đi học lớp nghiệp vụ thanh tra cơ bản do Thanh tra Chính phủ tổ chức mà chưa học qua lớp đó thì chưa đủ điều kiện để được xét bổ nhiệm thanh tra viên. Ngay cả khi các tiêu chuẩn, điều kiện để được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra đã đầy đủ thì quy trình và thủ tục bổ nhiệm thanh tra viên cũng còn kéo dài. Một nguyên nhân khác cũng đã góp phần dẫn đến tình trạng thiếu Thanh tra viên trầm trọng như trên đó là việc thường xuyên có sự thay đổi về công tác tổ chức, nhân sự làm công tác Thanh tra Tư pháp. Thực tế, có những người được đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện để được bổ nhiệm Thanh tra viên, nhưng bổ nhiệm xong thì lại chuyển làm công tác khác;
Thứ tư, bất cập về trình độ chuyên môn: So với yêu cầu thực tế hiện nay về chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Tư pháp thì có thể nói lực lượng này còn thiếu cán bộ có trình độ cao và thiếu cán bộ có trình độ chuyên môn sâu về một số lĩnh vực như xây dựng cơ bản, tài chính - kế toán... để thực hiện công tác thanh tra về lĩnh vực này.
Lý do của tình trạng này trước hết đó là biên chế được phân bổ cho Thanh tra Tư pháp còn ít nên chủ yếu ưu tiên tuyên dụng cử nhân luật chứ chưa thể tuyển kỹ sư xây dựng và Kế toán viên vào làm công tác thanh tra. Hơn nữa, ngay cả khi có chủ trương cho biên chế như ở Thanh tra Bộ thì việc tuyển dụng những chuyên môn đó cũng gặp khó khăn do xây dựng cơ bản và tài chính - kế toán không phải là những mảng công tác chính của Thanh tra Tư pháp nên về mặt tâm lý có rất ít người muốn làm những mảng việc đó trong cơ quan Thanh tra Tư pháp.
Thứ năm, bất cập về trình độ ngoại ngữ, tin học:
Trình độ ngoại ngữ của cán bộ Thanh tra Bộ những năm gần đây đang từng bước được cải thiện, tình trạng "mù" ngoại ngữ đã dần dần được khắc phục. Tuy nhiên, trình độ ngoại ngữ của cán bộ, công chức Thanh tra Bộ hiện nay vẫn còn thấp hơn nhiều sơ với đòi hỏi của công việc hiện tại, nhất là trong giai đoạn hiện nay, Thanh tra Bộ đang triển khai công tác thanh tra chuyên ngành trên nhiều lĩnh vực có liên quan đến yếu tố nước ngoài như luật sư, tư vấn pháp luật, trọng tài thương mại, nuôi con nuôi và kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Nguyên nhân của tình trạng này trước hết phải đề cập đến đó là do nhận thức chưa đúng về tầm quan trọng của ngoại ngữ và tin học nên nhiều cán bộ, công chức Thanh tra Tư pháp thiếu quyết tâm và ý chí trong việc tìm tòi, học tập nâng cao trình độ về ngoại ngữ và tin học. Nguyên nhân thứ hai cũng phải kể đến đó là do đặc thù của công tác thanh tra hay phải đi công tác cơ sở, thậm chí như Thanh tra Bộ thì còn phải đi dài ngày nên việc đăng ký và theo học các khoá về ngoại ngữ, tin học gặp rất nhiều khó khăn.
4. Thực trạng điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Thanh tra Tư pháp
4.1. Quy định hiện hành của pháp luật về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Thanh tra Tư pháp
Hiện nay, chưa có quy định trực tiếp nào quy định về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Thanh tra Tư pháp. Do vậy, vẫn phải áp dụng các quy định chung đối với mọi cán bộ, công chức theo quy định của Chính phủ như: Quyết định số 170/2006/QĐ-TTg ngày 18/7/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định tiêu chuẩn, định mức trang thiết bị và phương tiện làm việc của cơ quan và cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 9 Nghị định 100/2007 quy định: Thanh tra viên được sử dụng các phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ theo quy định của pháp luật để phục vụ công tác thanh tra. Thực tế về cơ sở vật và pương tiện làm việc của Thanh tra Tư pháp như sau:
4.2. Tình hình cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Thanh tra Bộ
Thanh tra Bộ Tư pháp hiện nay được phân 01 phòng tiếp công dân và 06 phòng làm việc (03 phòng riêng cho 03 đồng chí Lãnh đạo, chỉ còn lại 03 phòng làm việc cho các đồng chí Thanh tra viên và chuyên viên).
Về phương tiện làm việc: theo kết quả tổng kiểm tra và bàn giao tài sản cố định cho Thanh tra Bộ Tư pháp ngày 12/5/2008, hiện nay, Thanh Tra Bộ Tư pháp có tổng giá trị tài sản còn lại là: 386,725,516 đồng, trong đó:
- 20 máy tính để bàn/21 biên chế (01đồng chí không có máy tính), trong đó 4/20 máy tính đã cũ, cấu hình lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu của công việc nhưng vẫn chưa có điều kiện để thay máy mới; 01 máy tính xách tay cho riêng đồng chí Chánh Thanh tra;
- Tất cả các máy tính trong Thanh tra Bộ đã được nối mạng internet trong nội bộ đơn vị Thanh tra và với mạng chung của Bộ;
- Ngoài ra, Thanh tra Bộ Tư pháp còn được trang bị một số máy chụp ảnh, máy ghi âm, kính lúp và một số phương tiện khác. Các phương tiện này đều khá cũ kỹ, lạc hậu.
4.3. Tình hình cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Thanh tra Sở
Theo kết quả khảo sát năm 2008, tình hình cơ sở vật chất và phương tiện làm việc của Thanh tra các Sở Tư pháp: 11/52 tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp, cơ sở vật chất không đáp ứng được yêu cầu công việc; cơ sở vật chất của 38/52 tổ chức, tạm đáp ứng được yêu cầu công việc; chỉ có 3/52 tổ chức có cơ sở vật chất đáp ứng tốt yêu cầu công việc, cụ thể:
- 5/52 tổ chức chưa có phòng làm việc riêng, lý do: chưa xây dựng
- 18/52 tổ chức chưa có phòng làm việc riêng để tiếp công dân, lý do: chưa xây dựng mà thực tế việc tiếp công dân được thực hiện tại phòng làm việc của Thanh tra Sở.
Về phương tiện để phục vụ cho công tác thanh tra của các Sở Tư pháp, theo kết quả khảo sát thì: 12 tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp không có phương tiện vật chất gì, còn lại 40 tổ chức có được trang bị nhưng vẫn còn thiếu, không đáp ứng được yêu cầu của công việc.
4.4. Phân tích, đánh giá về tình hình cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Thanh tra Tư pháp
2.4.1. Những điểm đã đạt được
Mặc dù Ngành Tư pháp còn nhiều khó khăn về mặt tài chính, song nhìn chung cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Thanh tra Tư pháp đã dần được quan tâm và tăng cường để phục vụ cho công tác chuyên môn của Ngành. Đặc biệt là tại Thanh tra Bộ, cơ sở vật và phương tiện làm việc hiện nay so với thời kỳ đầu mới thành lập đã có những tiến bộ rõ rệt: mỗi Thanh tra viên, chuyên viên của Thanh tra Bộ đã được trạng bị 01 máy tính, nối mạng cục bộ giữa các máy tính với nhau trong phạm vi đơn vi và trong phạm vi tất cả các đơn vị thuộc Bộ.
2.4.2. Tồn tại và nguyên nhân
Bên cạnh những việc đã đạt được như trên, cơ sở vật chất và phương tiện làm việc của Thanh tra Tư pháp còn rất nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của công việc. Cụ thể hư sau:
- Thứ nhất, đối với Thanh tra Bộ: Kết quả thống kế của Thanh tra Bộ Tư pháp cho thấy:
+ Về phòng làm việc: phòng làm việc của Thanh tra Bộ Tư pháp hiện nay còn thiếu, có những phòng chật hẹp nhưng phải sắp xếp cho 6-7 người cùng làm việc. Trong khi đó, do đặc thù của công tác thanh tra phải lưu trữ nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân và các hồ sơ thanh tra, hồ sơ giải quyết khiếu nại, tố cáo cho nên việc bố trí chỗ ngồi còn khó khăn, thiếu không gian để thanh tra viên và chuyên viên làm việc hiệu quả. Đặc biệt, phòng tiếp công dân, theo quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Bộ và theo Quy chế tiếp công dân tại cơ quan Bộ Tư pháp thì Thanh tra Bộ có trách nhiệm giúp Bộ trưởng tổ chức tiếp công dân tại cơ quan Bộ và là đầu mối chủ trì tổ chức, phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ trong việc tiếp công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị theo quy định của pháp luật. Thời gian gần đây, số lượng công dân đến khiếu nại, tố cáo tại Phòng tiếp công dân của Bộ Tư pháp có chiều hướng tăng hơn so với các năm trước, đặc biệt là số lượng công dân đến khiếu nại, tố cáo những nội dung thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp. Chỉ tính riêng 10 tháng đầu năm 2008 (tính đến ngày 15/10/2008), Thanh tra Bộ Tư pháp cùng các đơn vị chức năng của Bộ đã tiếp 958 lượt công dân (1.119 người) đến khiếu nại, tố cáo và có một số yêu cầu khác (tăng 29,3% so với cùng kỳ năm trước), trong đó có 764 lượt công dân đến khiếu nại những nội dung thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp, chiếm 79,7% và tăng 33,5% so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, những năm gần đây, hàng tháng, đều có một số đoàn khiếu nại, tố cáo đông người đến phòng tiếp công dân yêu cầu được kiến nghị, phản ánh và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nhiều trường hợp mặc dù đã được giải quyết đúng pháp luật nhưng vẫn có thái độ rất quá khích, có hành vi chửi bới, lăng mạ, xúc phạm cán bộ tiếp công dân, cán bộ lãnh đạo, gây mất trật tự, vi phạm Nội quy phòng tiếp công dân.
+ Về phương tiện làm việc: thực tiễn công tác hiện nay của Thanh tra Bộ Tư pháp cho thấy rằng Thanh tra Bộ còn thiếu nhiều và lạc hậu như máy chụp ảnh, máy ghi âm, kính lúp và một số phương tiện khác. Đặc biệt, mặc dù đã có con dấu, tài khoản riêng và tự chủ về tài chính nhưng Thanh tra Bộ chưa có ô tô, cả đơn vị chỉ có một máy tính xách tay dùng riêng cho Thủ trưởng đơn vị, các phòng chuyên môn vẫn chưa có máy tính xách tay, chưa có máy quay phim để phục cho các Đoàn thanh tra khi đi công tác địa phương.
- Thứ hai, đối với Thanh tra Sở:
Kết quả khảo sát của Thanh tra Bộ hiện nay như sau: trên toàn quốc chỉ có 3/52 tổ chức có cơ sở vật chất đáp ứng tốt yêu cầu làm việc, 5/52 tổ chức chưa có phòng làm việc riêng, 12 tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp không có phương tiện vật chất gì, còn lại 40 tổ chức có được trang bị nhưng vẫn còn thiếu, không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Cũng qua khảo sát tại 52 tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp thì: 14/52 tổ chức đề nghị xây dựng Phòng tiếp công dân khang trang, thuận tiện hơn; 19/52 tổ chức đề nghị bố trí thêm phòng làm việc cho công chức Thanh tra Sở Tư pháp; 49/52 tổ chức đề nghị trang bị cho mỗi công chức Thanh tra Tư pháp một máy tính để bàn; 45/52 tổ chức đề nghị được nối mạng internet; 47/52 tổ chức đề nghị được trang bị máy chụp ảnh; 50/52 tổ chức đề nghị được trang bị máy ghi âm và 23/52tổ chức đề nghị được trang bị kính lúp.
Từ kết quả khảo sát cho thấy cơ sở vật chất và phương tiện làm việc của Thanh tra các Sở Tư pháp còn thiếu rất nhiều, thậm chí có tổ chức còn không có gì từ phòng làm việc, phòng tiếp công dân cho đến các phương tiện làm việc khác và tỷ lệ các tổ chức đề nghị được trang bị thêm về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc là rất lớn.
Nguyên nhân của tình trạng trên thì có nhiều, song cơ bản là do điều kiện kinh phí của địa phương còn eo hẹp và chưa có sự quan tâm đúng mức của Lãnh đạo địa phương.
5. Thực trạng về cơ chế hoạt động, quan hệ phối hợp
5.1. Tình hình cơ chế hoạt động của Thanh tra Tư pháp
5.1.1. Đối với Thanh tra Bộ Tư pháp
Thanh tra Bộ là cơ quan của Bộ Tư pháp, chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Bộ trưởng, có trách nhiệm giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra tư pháp, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Điều 6 Nghị định số 74/2006/NĐ-CP ngày 1/8/2006 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của Thanh tra Tư pháp).
Về cơ chế hoạt động, theo khoản 3 Điều 24 Luật Thanh tra 2004: Thanh tra Bộ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ. Thanh tra Bộ có các phòng chuyên môn để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Bộ. Thanh tra Bộ có con dấu và tài khoản riêng. Hàng năm, căn cứ vào Chương trình nhiệm vụ của Bộ Tư pháp và định hướng chương trình công tác năm tiếp theo của Thanh tra Chính phủ gửi cho Thanh tra các bộ, ngành, trên cơ sở yêu cầu quản lý của ngành, Thanh tra Bộ sẽ lập Kế hoạch công tác thanh tra của năm tiếp theo để trình Bộ trưởng phê duyệt trước ngày 31/12.
Căn cứ vào Kế hoạch công tác đã được Bộ trưởng phê duyệt này, Chánh thanh tra sẽ chủ động triển khai việc thực hiện Kế hoạch như ký quyết định thành lập các Đoàn thanh tra, chủ động bố trí thời gian, chủ động chi trả kinh phí cho các Đoàn thanh tra cũng như các hoạt động khác của đơn vị.
Riêng đối với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, sau khi tiếp nhận, phân loại và xử lý bước đầu, đối với những đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng, Thanh tra Bộ sẽ nghiên cứu, đề xuất với Lãnh đạo Bộ về việc có hay không tiến hành xác minh, kiến nghị, kết luận để giải quyết khiếu nại, tố cáo đó. Sau khi được Lãnh đạo Bộ phê duyệt, quyết định tiến hành xác minh và thành lập Đoàn thanh tra để xác minh sẽ được ban hành, quyết định này sẽ do Bộ trưởng ký hoặc Chánh thanh tra ký.
Thanh tra Bộ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng. Đây là một thuận lợi lớn cho công tác thanh tra. Thực tế tại Bộ Tư pháp hiện nay, Bộ trưởng giao một Thứ trưởng trực tiếp phụ trách Thanh tra Bộ. Hàng tuần, Lãnh đạo Bộ đều bố trí lịch để nghe Thanh tra báo cáo về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng như báo cáo kết quả các cuộc thanh tra theo kế hoạch. Trên cơ sở đó, Lãnh đạo Bộ có sự chỉ đạo kịp thời, sát sao đối với hoạt động của Thanh tra Bộ.
Với cơ chế “chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ”, công tác Thanh tra Tư pháp sẽ phù hợp với định hướng chung của công tác thanh tra trong cả nước.
5.1.2. Đối với Thanh tra Sở Tư pháp
Thanh tra Sở là cơ quan của Sở Tư pháp, chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Giám đốc Sở, giúp Giám đốc Sở thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Giám đốc Sở Tư pháp (Điều 9 Nghị định số 74/2006/NĐ-CP ngày 1/8/2006 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của Thanh tra Tư pháp).
Về cơ chế hoạt động, theo khoản 3 Điều 27 Luật Thanh tra 2004: “Thanh tra Sở chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Sở, đồng thời chịu sự hướng dẫn về công tác, nghiệp vụ thanh tra hành chính của Thanh tra tỉnh, về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Bộ”.
Trên thực tế hiện nay, hoạt động của Thanh tra các Sở Tư pháp mới chủ yếu là tiếp công dân, xư lý đơn thư và phối hợp với các đơn vị chức năng của Sở thành lập các Đoàn kiểm tra đối với tư pháp cơ sở như: kiểm tra về công tác hộ tịch…tham gia các Đoàn liên ngành giải quyết khiếu nại, tố cáo.
5.2. Tình hình quan hệ phối hợp công tác của Thanh tra Tư pháp
Để thực hiện công tác theo chức năng, nhiệm vụ của mình, Thanh tra Tư pháp phải thường xuyên phối hợp với các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong và ngoài đơn vị. Các quan hệ phối hợp này ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả hoạt động của công tác thanh tra. Có nhiều quan hệ phối hợp khác nhau nhưng thường xuyên và tập trung nhất là các quan hệ phối hợp sau: với các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính (Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện); với các đơn vị, tổ chức sự nghiệp trong cùng cơ quan; với Lãnh đạo Sở Tư pháp, Thanh tra Sở Tư pháp và với các cơ quan tổ chức hữu quan khác (Viện Kiểm sát nhân dân, Công an, Toà án, bộ, sở, ban ngành có liên quan).
5.2.1. Quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp với các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính
Cụ thể ở đây là giữa Thanh tra Bộ với Thanh tra Chính phủ và giữa Thanh tra Sở với Thanh tra Tỉnh. Thanh tra Bộ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ. Thanh tra Sở chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Sở, đồng thời chịu sự hướng dẫn về công tác, nghiệp vụ thanh tra hành chính của Thanh tra tỉnh, ngoài ra còn chịu sự hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Bộ. Do vậy, quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Tư pháp với các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính này là không thể thiếu.
Trên thực tế, Thanh tra Bộ Tư pháp thường xuyên nhận được sự chỉ đạo, hướng dẫn về nghiệp vụ công tác thanh tra của Thanh tra Chính phủ. Ngược lại, hàng tháng, quý, năm Thanh tra Bộ đều phải gửi báo cáo công tác của mình cho Thanh tra Chính phủ, ngoài ra còn có các báo cáo chuyên đề khác như báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng; báo cáo giải quyết khiếu nại, tố cáo; báo cáo sơ kết thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo…Bên cạnh đó, khi thực hiện giải quyết các vụ việc cụ thể, tuỳ yêu cầu của từng vụ việc mà Thanh tra Bộ và Thanh tra Chính phủ thường xuyên có những quan hệ phối hợp dưới các hình thức như: cử cán bộ, thanh tra viên tham gia các Đoàn Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; tham gia các cuộc họp liên ngành để giải quyết khiếu nại, tố cáo; góp ý bằng văn vản về các văn bản quy phạm pháp luật mà mỗi bên xây dựng.
Quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Sở và Thanh tra Tỉnh cũng tương tự như quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Bộ với Thanh tra Chính phủ.
5.2.2. Quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp với các đơn vị trong cùng cơ quan
Có thể nói đây là mối quan hệ quan trọng diễn ra thường xuyên và có ảnh hưởng nhiều tới hoạt động thanh tra Tư pháp. Bộ Tư pháp cũng như các Sở Tư pháp là đơn vị quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, phạm vi hoạt động rất rộng. Thanh tra Tư pháp ngoài chức năng thanh tra hành chính còn thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đối với các lĩnh vực do Bộ, ngành mình quản lý. Với số lượng biên chế còn rất hạn chế so với yêu cầu công tác hiện nay thì quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Tư pháp với các đơn vị trong cùng cơ quan có ý nghĩa hết sức quan trọng, Thanh tra Tư pháp có hoàn thành nhiệm vụ của mình hay không, một phần lớn phụ thuộc vào quan hệ phối hợp này.
Quan hệ phối hợp này thể hiện dưới các hình thức như: tiếp công dân; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; xây dựng Kế hoạch công tác thanh tra hàng năm; cứ cán bộ, công chức tham gia các đoàn thanh tra theo kế hoạch hoặc thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thực tế, Thanh tra Bộ thường xuyên phải phối hợp với một số đơn vị như Cục Thi hành án dân sự, Vụ Hành chính tư pháp, Cục Con nuôi, Vụ Bổ trợ tư pháp, Vụ Kế hoạch – Tài chính, Vụ Tổ chức cán bộ, Văn phòng Bộ...
5.2.3. Quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp với các cơ quan hữu quan khác
Các cơ quan hữu quan khác ở đây bao gồm: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (cử cán bộ tham gia các Đoàn thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo; tham gia các cuộc họp liên ngành lấy ý kiến về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; tham gia các kế hoạch liên ngành của liên ngành tư pháp TW; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo do Viên kiểm sát nhân dân chuyển sang) và chuyển hồ sơ ban đầu cho Cục Điều tra - Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao xem xét nhằm phối hợp giải quyết tố cáo cán bộ có biểu hiện tiêu cực; Toà án nhân dân (giải thích các bản án phải thi hành có phát sinh khiếu nại trong trường hợp bản án tuyên chưa rõ ràng...); trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, nếu Thanh tra phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm, thì chuyển hồ sơ vụ việc đó và bản kiến nghị khởi tố đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để xem xét khởi tố vụ án hình sự, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.
5.2.4. Quan hệ phối hợp của Thanh tra Bộ Tư pháp với Giám đốc Sở Tư pháp và Thanh tra Sở Tư pháp
Mối quan hệ giữa Thanh tra Bộ Tư pháp với Giám đốc Sở Tư pháp, được thể hiện là các cơ quan giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý những công việc được Bộ trưởng Tư pháp giao. Trong mỗi lĩnh vực quản lý có những mối quan hệ phối hợp nhất định, như cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ thanh tra cử cán bộ tham gia hoạt động thanh tra, xúc tiến các hoạt động liên quan đến Thanh tra Sở.
Trong quan hệ với Thanh tra Sở, đây là mối quan hệ trong Ngành, vừa mang tính chất nội bộ vừa mang tính chất cơ quan Trung ương đối với cơ quan địa phương. Trong mối quan hệ đó Thanh tra Bộ Tư pháp có nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với Thanh tra Sở. Thanh tra Bộ yêu cầu Thanh tra Sở xác minh, báo cáo những việc có liên quan đến tố cáo cán bộ trong Ngành giúp cho Thanh tra Bộ có cơ sở kết luận việc giải quyết tố cáo.
Nhìn chung, mấy năm gần đây, Thanh tra Bộ đã chú trọng đến việc tăng cường quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở. Hàng năm, Thanh tra Bộ đều có văn bản hướng dẫn Thanh tra các Sở Tư pháp xây dựng kế hoạch thanh tra năm cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trọng tâm của ngành Tư pháp trong năm đó. Ngoài ra, Thanh tra Bộ còn mở các lớp tập huấn nghiệp vụ cho Thanh tra Sở; hướng dẫn nghiệp vụ cho Thanh tra Sở khi có văn bản thỉnh thị hoặc hướng dẫn chung trên trang hướng dẫn nghiệp vụ tại Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp; hướng dẫn chế độ thông tin báo cáo cho Thanh tra Sở.
5.3. Phân tích, đánh giá về tình hình cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp
5.3.1. Ưu điểm
Qua thực tế cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp ở phần trên cho chúng ta thấy: về cơ bản hiện nay Thanh tra Tư pháp đã có cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động một cách rõ ràng, mang tính độc lập tương đối. Cơ chế hoạt động của Thanh tra Bộ đã thể hiện được tính chủ động tương đối cao. Các mối quan hệ phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài đơn vị nhìn chung là thuận lợi, góp phần hoàn thành nhiệm vụ và ngày càng nâng cao vị thế, vai trò của Thanh tra Tư pháp trong công tác quản lý chung của toàn ngành.
5.3.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân
Bên cạnh những ưu điểm như trên, trong cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp hiện nay vẫn còn một số hạn chế sau:
Thứ nhất, trong cơ chế hoạt động của Thanh tra Bộ: việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong một số trường hợp còn mất nhiều thời gian cho việc báo cáo, họp liên ngành dẫn đến không đảm bảo thời gian giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật. Hiệu lực pháp lý của các Kết luận thanh tra chưa cao, phần nào làm giảm đi hiệu quả của công tác thanh tra.
Thứ hai, trong cơ chế hoạt động của Thanh tra Sở: tính chủ động trong cơ chế hoạt động của Thanh tra Sở thực tế hiện nay còn chưa cao. Nguyên nhân: số lượng biên chế quá ít, trong đó, số cán bộ được bổ nhiệm thanh tra viên còn ít hơn, nên rất khó để có thể thành lập được các Đoàn thanh tra; Thanh tra Sở vừa phải chịu sự chỉ đạo của Giám đốc Sở, vừa chịu sự hướng dẫn về công tác, nghiệp vụ thanh tra hành chính của Thanh tra tỉnh, vừa chịu sự hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Bộ nên dẫn đến có quá nhiều đầu mối quản lý.
Thứ ba, trong cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp với Thanh tra Chính phủ: trên thực tế vai trò thủ trưởng trực tiếp của Thanh tra Tư pháp đóng vai trò quyết định về tổ chức, biên chế cũng như hoạt động của tổ chức thanh tra đó, còn vai trò của Thanh tra Chính phủ rất mờ nhạt. Thanh tra Chính phủ rất ít có tác động về tổ chức, biên chế và hoạt động đến Thanh tra Bộ, Ngành nói chung và đến Thanh tra Tư pháp nói riêng. Điều đó cũng có ảnh hưởng nhất định tới tổ chức, hoạt động của Thanh tra Tư pháp, đặc biệt là Thanh tra các Sở Tư pháp. Vai trò “chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức, nghiệp vụ” Thanh tra Chính phủ chưa có những chỉ đạo sát sao, phù hợp với nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành như chưa có được những lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành, kể cả cơ bản và chuyên sâu; các biểu mẫu hướng dẫn để áp dụng cho công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, các mẫu báo cáo đều chủ yếu phù hợp với các đơn vị thanh tra theo cấp hành chính. Việc mở và chiêu sinh các lớp bồi dưỡng cho cán bộ thanh tra để bổ nhiệm thanh tra viên và thanh tra viên chính còn ít, số lượng hạn chế, phải phân bổ các lớp bồi dưỡng để bổ nhiệm thanh tra viên cao cấp rất ít khi tổ chức nên hệ thống Thanh tra Tư pháp còn ít thanh tra viên và thanh tra viên chính, đặc biệt rất ít thanh tra viên cao cấp để hoạt động.
Thứ tư, trong quan hệ phối hợp với các đơn vị trong cùng cơ quan: các quan hệ phối hợp này về cơ bản là thuận lợi. Tuy nhiên, vẫn còn một số khó khăn không tránh khỏi như: có những trường hợp, khi thành lập các Đoàn Thanh tra, Thanh tra Bộ thường có văn bản đề nghị các đơn vị có liên quan cử cán bộ tham gia nhưng không phải lúc nào các đơn vị cũng cử được cán bộ tham gia. Đặc biệt, trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, khi đơn vị chuyên môn đã có Kết luận thanh tra nhưng Kết luận của Thanh tra lại khác dẫn đến ý kiến trái ngược nhau. Lĩnh vực thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Bộ rất rộng, nên đòi hỏi phải thường xuyên theo dõi, bám sát và cập nhật các văn bản quy định thuộc các lĩnh vực khác nhau mà các đơn vị thuộc Bộ quản lý. Ngoài ra, cũng cần nắm vững nghiệp vụ của các lĩnh vực đó, có như vậy khi tiến hành thanh tra mới có kết quả tốt. Hàng năm, các đơn vị thuộc Bộ thường tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ cho các cơ quan tư pháp địa phương và có các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ, nhưng Thanh tra Bộ cũng như Thanh tra Sở không được mời tham gia các lớp tập huấn nghiệp vụ này cũng như nhận được các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ. Ngoài ra, thực tế hiện nay chưa có sự phân định rõ ràng về chức năng thanh tra, kiểm tra giữa Thanh tra với các đơn vị quản lý chuyên môn - khi nào cần thanh tra, khi nào cần kiểm tra? Điều này xuất phát từ khái niệm về thanh tra và kiểm tra còn có chỗ chưa rõ ràng, chồng chéo. Do đó, giữa Thanh tra và các đơn vị quản lý chuyên môn đôi khi còn chưa thống nhất với nhau về thẩm quyền và phương thức tiến hành.
Thứ năm, trong quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Bộ với Thanh tra Sở: có thể thấy thực tế hiện nay mối quan hệ này còn chưa tương xứng với nhiệm vụ mà nó đảm nhận. Điều đó do những nguyên nhân như: thanh tra Ngành Tư pháp có lịch sử ra đời còn rất non trẻ, do đó thời gian để củng cố xây dựng lực lượng chưa đủ; tổ chức và biên chế Thanh tra Bộ cũng như Thanh tra Sở Tư pháp vẫn chưa được bổ sung đầy đủ. Đặc biệt đội ngũ Thanh tra Sở hiện nay còn thiếu trầm trọng.
Thứ sáu, trong quan hệ phối hợp với các cơ quan hữu quan khác: hiện nay, quan hệ phối hợp này diễn ra thường xuyên, đặc biệt là trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nhưng hiệu quả chưa cao như mong muốn. Ví dụ điển hình về vấn này là việc vi phạm pháp luật xảy ra tại Nhà xuất bản Tư pháp trong khi Thanh tra Bộ Văn hoá thông tin, cơ quan điều tra đã vào cuộc nhưng Thanh tra Bộ lại gần như chưa có sự tham gia chính thức nào. Nguyên nhân: Hiện nay vẫn chưa có một quy chế chung phối hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo giữa cơ quan Tư pháp (Bộ, Sở) với Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, Công an và với các bộ, sở, ban ngành có liên quan. Vệc ban hành văn bản này là rất cần thiết giúp cho quan hệ phối hợp được thuận lợi và có hiệu quả cao hơn.
III. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC THANH TRA TƯ PHÁP
1. Giải pháp tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp
1.1. Về quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
Từ những phân tích về hạn chế, bất cập của quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp cho thấy cần phải thực hiện các giải pháp sau đây:
- Thứ nhất, khẩn trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra và các Nghị định theo hướng tăng cường tính hệ thống của các cơ quan Thanh tra Nhà nước; nâng cao quyền hạn cho tổ chức thanh tra và tăng thêm tính độc lập tương đối của ngành Thanh tra như: tăng thêm vai trò chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan thanh tra cấp trên đối với cơ quan thanh tra cấp dưới trong đó chú trọng đến vai trò của thanh tra bộ và thanh tra sở; tăng quyền hạn trong việc xử lý tại chỗ các vi phạm kể cả xử phạt hành chính.
- Thứ hai, tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo theo hướng tách riêng thành 2 luật: Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo. Trong đó, không nên quy định cơ quan giải quyết khiếu nại lần đầu là chính cơ quan có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại. Vì trên thực tế, hầu hết là không cơ quan nào tự nhận là mình sai. Do đó, nếu vẫn để quy định này thì chỉ làm kéo dài thời gian giải quyết khiếu nại.
- Thứ ba, rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các văn bản pháp luật về các lĩnh vực quản lý, hoạt động của ngành Tư pháp, như: quy định giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự, trong quản lý và đăng ký hộ tịch, trong công chứng, chứng thực, trong bán đấu giá tài sản, trong lĩnh vực Luật sư, trong đăng ký giao dịch bảo đảm…theo hướng quy định chung: thực hiện theo quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo hiện hành. Có như vậy, khi pháp luật khiếu nại, tố cáo thay đổi thì những quy định trong các văn bản chuyên ngành sẽ không bị mâu thuẫn, bất cập và đương nhiên được thực hiện theo những quy định mới.
1.2. Về tổ chức bộ máy
Từ những phân tích nguyên nhân dẫn đến hạn chế, bất cập về tổ chức, bộ máy của Thanh tra Tư pháp, cần phải thực hiện các giải pháp sau đây:
1.2.1. Đối với Thanh tra Bộ
- Trước mắt tăng cường biên chế cho Thanh tra bộ lên 30 người , về lâu dài cần tăng cường biên chế của Thanh tra Bộ lên tới 45 người để hoàn thành nhiệm vụ mà Bộ trưởng giao. Ngoài việc tuyển dụng những sinh viên khá giỏi từ Trường Đại Học luật như hiện nay có thể điều chuyển chuyên viên từ các đơn vị thuộc Bộ hoặc từ cơ quan Tư pháp địa phương có kinh nghiệm thực tiến để làm nhiệm vụ thanh tra.
- Cùng với việc tăng cường thêm biên chế, trước mắt (giai đoạn 1) phải sớm sửa đổi lại Quy chế tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ theo hướng thành lập thêm 01 phòng “Tiếp công dân, xử lý và xác minh ban đầu khiếu nại, tố cáo” có nhiệm vụ tiếp công dân và xác minh ban đầu, tham mưu, đề xuất cho Chánh Thanh tra xem việc đó có cần thành lập một Đoàn xác minh hay không. Việc tách chức năng tiếp công dân từ phòng Hành chính, tổng hợp, tiếp công dân và chức năng xem xét, xử lý đơn thư và xác minh ban đầu về khiếu nại, tố cáo từ Phòng Thanh tra hành chính và Phòng Thanh tra chuyên ngành để thành lập một phòng mới trực thuộc Thanh tra Bộ là một bước chuyên môn hoá và giảm gánh nặng công việc cho những phòng khác. Hiện nay, Thanh tra Bộ Tư pháp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra chuyên ngành trên nhiều lĩnh vực chuyên môn do Bộ Tư pháp quản lý. Đồng thời, các lĩnh vực chuyên môn do Bộ Tư pháp quản lý ngày càng được bổ sung thêm nên công tác thanh tra chuyên ngành cũng ngày càng cần được tăng cường. Do đó, về lâu dài (giai đoạn 2), cần thiết phải chia Phòng Thanh tra chuyên ngành hiện tại thành 02 phòng để giảm tải công việc và đi sâu hơn vào từng lĩnh vực cụ thể.
- Về Lãnh đạo Thanh tra, hiện nay, Thanh tra Bộ mới chỉ có 02 Phó Chánh thanh tra giúp Chánh Thanh tra trực tiếp điều hành 02 chức năng của đơn vị (thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành), còn lại 03 chức năng quan trọng khác của Thanh tra Bộ trực tiếp do Chánh Thanh tra quản lý, điều hành. Do đó, đề nghị cần bổ sung thêm 01 Phó Chánh Thanh tra để giúp Chánh Thanh tra trực tiếp phụ trách mảng công việc tiếp công dân, xử lý đơn thư xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Mô hình tổ chức bộ máy của Thanh tra Bộ Tư pháp được xây dựng theo 02 giai đoạn như sau:
Mô hình tổ chức bộ máy giai đoạn 1 của Thanh tra Bộ
Mô hình tổ chức bộ máy giai đoạn 2 của Thanh tra Bộ
1.2.2. Đối với Thanh tra Sở
Giải pháp cơ bản và cấp bách nhất hiện nay là phải nâng cao nhận thức của các Giám đốc Sở Tư pháp về pháp luật thanh tra, vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác thanh tra, do đó Bộ Tư pháp cần thường xuyên chỉ đạo cho các Giám đốc Sở Tư pháp về công tác thanh tra để giải quyết vấn đề này. Trên cơ sở đó, đề nghị Giám đốc các Sở Tư pháp tăng cương biên chế, kiên toàn bộ máy của tổ chức Thanh tra Sở sao cho Thanh tra mỗi sở Tư pháp có ít nhất 03 biên chế, trong đó có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên.
Thanh tra Bộ phải thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra cho Thanh tra Sở để trợ giúp cho Thanh tra Sở hoạt động hiệu quả hơn. Việc hướng dẫn nghiệp vụ cần sử dụng triệt để công nghệ mạng để tạo điều kiện cho địa phương khai thác nhanh, kịp thời, tiện lợi, tiết kiệm, hiệu quả. Công việc này Thanh tra Bộ đã tiến hành nhiều năm nay và vẫn đang phát huy tích cực phương pháp này. Ngoài ra, Thanh tra Bộ cần phải phối hợp với Trường Cán bộ thanh tra mở các lớp tập huấn nghiệp vụ cho Thanh tra Sở để củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra.
Triển khai mạnh công tác thanh tra chuyên ngành, xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Nghị định 76/2006/NĐ-CP của Chánh phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp. Chỉ có qua công việc thực tế, nhu cầu cấp bách và hiệu quả của công tác mới thúc đẩy tổ chức Thanh tra Sở phát triển.
1.3. Về đội ngũ cán bộ Thanh tra Tư pháp
Trước tình hình đội ngũ cán bộ Thanh tra Tư pháp vừa thiếu vừa yếu như hiện nay, cần phải thực hiện các giải pháp sau để tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp:
- Ban hành quy định pháp luật về cán bộ, thanh tra viên thanh tra ngành Tư pháp, bao gồm: tiêu chuẩn, điều kiện, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, hồ sơ bổ nhiệm. Trong đó quy định rõ yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ học vấn và các chứng chỉ đi kèm. Hiện nay, Luật Thanh tra có đưa ra quy định chung đối với thanh tra viên, nhưng những quy định về việc bổ nhiệm thanh tra viên vẫn theo các văn bản hướng dẫn của Pháp lệnh thanh tra năm 90. Do đó, còn có những mâu thuẫn, bất cập, không phù hợp.
Thứ nhất, tăng cường biên chế cho cả Thanh tra Bộ và Thanh tra các Sở Tư pháp, thực hiện việc này cần phải:
- Lãnh đạo các cơ quan Tư pháp cần nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của công tác thanh tra;
- Lãnh đạo ngành Tư pháp và Lãnh đạo ngành Nội vụ cần thống nhất quan điểm và có phương án bổ sung biên chế cho Thanh tra Bộ và Thanh tra các Sở Tư pháp;
- Thực hiện đề án cải cách hành chính, tăng tiền lương cho cán bộ công chức nói chung và cho cán bộ công chức làm công tác thanh tra Tư pháp nói riêng. Đồng thời, làm tốt công tác tư tưởng cho những người làm công tác Thanh tra Tư pháp để họ yêu nghề hơn, phấn đấu cho sự nghiệp phát triển của Thanh tra Tư pháp. Cần có những chính sách đãi ngộ riêng, hợp lý hơn đối với những người làm công tác thanh tra, nhằm khuyến khích, động viên họ gắn bó với nghề. Bên cạnh đó, phải có những biện pháp xử lý nghiêm đối với những hành vi vi phạm của cán bộ, công chức góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi người khi thực hiện nhiệm vụ.
Thứ hai, lựa chọn những cán bộ công chức có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn cao và có kinh nghiệm để bổ sung công chức Lãnh đạo cho cả Thanh tra Bộ và Thanh tra các Sở Tư pháp. Cần tổ chức thi tuyển trước khi quyết định bổ nhiệm cán bộ vào các chức danh lãnh đạo. Việc bổ nhiệm, đề bạt cán bộ phải căn cứ vào yêu cầu công tác cụ thể, đồng thời phải xem xét các yêu cầu khác theo quy định như độ tuổi, sức khoẻ, trình độ chuyên môn... Việc tổ chức hội đồng chấm thi phải bảo đảm tính khách quan, công bằng, dân chủ tránh tình trạng cảm tính cá nhân, tiêu cực... Ngoài việc thi tuyển còn cần tham khảo sự tín nhiệm của quần chúng. Coi đây là một kênh thông tin quan trọng để cân nhắc quyết định trước khi quyết định bổ nhiệm cán bộ vào vị trí công tác mới.
Thứ ba, tăng cường lực luợng Thanh tra viên cho cả Thanh tra Bộ và Thanh tra các Sở Tư pháp. Để làm được việc này, trước hết cần phải có sự quan tâm hơn nữa của Lãnh đạo các cấp, căn cứ vào những điều kiện và nhu cầu thực tế hiện nay về Thanh tra viên, Bộ Tư pháp nên đứng ra làm việc với Thanh tra Chính Phủ và Trường Cán bộ Thanh tra để tổ chức một khoá học nghiệp vụ thanh tra cơ bản cho những cán bộ làm công tác thanh tra Tư pháp mà chưa được học qua lớp này. Đồng thời, cần có sự thay đổi về quy trình thủ tục bổ nhiệm Thanh tra viên sao cho nhanh gọn và hiệu quả; những Thanh tra viên đã được bổ nhiệm nên động viên, khuyến khích để họ yêu ngành, yêu nghề, yên tâm làm công tác thanh tra.
Thứ tư, nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ Thanh tra Tư pháp: - Thực tế cho thấy ngành thanh tra phải tiếp nhận, xử lý những vấn đề liên quan đến tất cả các lĩnh vực, đòi hỏi người cán bộ thanh tra phải là người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, hiểu biết rộng và thực tiễn, cụ thể. Do đó, cần xác định những chuyên môn nào là cần thiết, có tính bắt buộc phải qua đào tạo cơ bản. Những chuyên môn nào phải tự cập nhật, nghiên cứu để nắm được những vấn đề cơ bản. Trên cơ sở đó để tiêu chuẩn hoá cán bộ. Đào tạo phải mang tính thiết thực, phải có nội dung cụ thể. Tránh trường hợp học thêm bằng cấp nhưng không thêm kiến thức và năng lực công tác. Cụ thể như sau:
+ Xây dựng Quy chế đào tạo, bồi dưỡng công chức ngành Tư pháp trong đó có đội ngũ công chức Thanh tra Tư pháp;
+ Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, trung hạn và dài đối với công chức Thanh tra Tư pháp;
+ Trường cán bộ Thanh tra - Thanh tra Chính phủ cần đổi mới chương trình, tài liệu theo hướng ngoài chương trình tài liệu dùng chung cho Thanh tra các ngành cần có chương trình, tài liệu giảng dạy riêng cho Thanh tra Tư pháp;
+ Ngoài ra, cần có chương trình, kế hoạch cử cán bộ Thanh tra Tư pháp đi nghiên cứu, học tập kinh nghiệm về mô hình tổ chức, hoạt động của các tổ chức Thanh tra Tư pháp đang hoạt động có hiệu quả trên thế giới để từ đó sàng lọc và vận dụng một cách thích hợp vào quá trình xây dựng lực lượng Thanh tra Tư pháp ngày càng hoàn thiện về cả số lượng và chất lượng.
- Mạnh dạn luân chuyển và điều động cán bộ bổ sung cho lực lượng thanh tra. Trước hết luân chuyển trong nội bộ ngành: từ các bộ phận chuyên môn, Phòng Tư pháp và Thi hành án các cấp sang làm công tác thanh tra... có luân chuyển như vậy mới có thể giúp cán bộ được bộc lộ hết khả năng, bản lĩnh, sở trường của mình.
Thứ năm, thường xuyên quan tâm tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức và xây dựng bản lĩnh người cán bộ thanh tra. Đây là việc làm rất quan trọng bởi vì bản lĩnh chỉ có được qua quá trình giáo dục của tổ chức, do ý chí tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cá nhân, nó chỉ bộc lộ qua thử thách thực tiễn. Một người cán bộ thanh tra nếu chỉ giỏi chuyên môn, nghiệp vụ nhưng không có bản lĩnh vững vàng thì không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ vì thấy sai mà không dám nói, hoặc luôn có tư tưởng né tránh, đùn đẩy.
1.4. Về điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc
Để khắc phục những tồn tại về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Thanh tra Tư pháp, cần phải:
- Ban hành quy định pháp luật về điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho công tác chuyên môn của từng cơ quan thanh tra trong ngành Tư pháp.
1.4.1. Đối với Thanh tra Bộ
- Xây dựng phòng tiếp công dân của Bộ Tư pháp thuận lợi về địa điểm và đảm bảo các điều kiện vật chất cần thiết khác để công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị và phản ánh. Hơn nữa, hiện nay, có hiện tượng nhiều trường hợp công dân mặc dù đã được giải quyết đúng pháp luật nhưng vẫn có thái độ quá khích (không loại trừ khả năng trong đó có một số kẻ xấu lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo của công dân) để chửi bới, lăng mạ, xúc phạm cán bộ tiếp công dân, cán bộ lãnh đạo, gây mất trật tự, vi phạm Nội quy phòng tiếp công dân. Do đó, đề nghị phòng tiếp công dân cần được trang bị riêng một máy ca mê ra để phục vụ cho công tác đảm bảo an ninh, trật tự;
- Bố trí thêm phòng làm việc cho Thanh tra Bộ để đảm bảo phòng làm việc không quá chật hẹp, có không gian và các phương tiện vật chất khác để phục vụ công tác được hiệu quả hơn;
- Cấp kinh phí để Thanh tra Bộ trang bị riêng hai xe ô tô, trang bị đủ mỗi phòng thuộc Thanh tra Bộ và mỗi Lãnh đạo 01 máy tính xách tay, 01 máy quay ca mê ra để phục vụ cho các Đoàn thanh tra khi triển khai đi công tác tại các địa phương;
- Xây dựng hệ thống mạng nội bộ Thanh tra Tư pháp từ Trung ương đến địa phương để đảm bảo công tác thông tin liên lạc, hướng dẫn, chỉ đạo về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành và quản lý đơn thư khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực Tư pháp được thường xuyên, kịp thời, thống nhất và tiết kiệm.
1.4.2. Đối với Thanh tra Sở
- Sở Tư pháp có giải pháp bố trí phòng làm việc cho Thanh tra Sở và phòng tiếp công dân sao cho đảm bảo địa phương nào cũng có phòng làm việc riêng cho Thanh tra Sở và có phòng tiếp công dân theo quy định của pháp luật;
- Ngoài các trang thiết bị làm việc thông thường như các công chức khác (bàn ghế, tủ đựng tài liệu…), cần trang bị cho Thanh tra các Sở Tư pháp các trang thiết bị đặc thù phục vụ cho công tác chuyên môn như sau: trang bị đủ mỗi cán bộ thanh tra có 01 máy tính để bàn, có nối mạng; trang bị cho Thanh tra mỗi Sở Tư pháp có đủ các phương tiện công tác gồm: máy chụp ảnh, máy ghi âm và kính lúp.
1.5. Về cơ chế hoạt động, quan hệ phối hợp
Thứ nhất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật có liên quan như: tăng thời hạn giải quyết đối với các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng; quy định rõ về hiệu lực pháp lý của Kết luận thanh tra cũng như biện pháp chế tài có thể áp dụng nếu không nghiêm chỉnh chấp hành.
Thứ hai, cần tăng cường đôn đốc, kiểm tra một cách thường xuyên việc thực hiện các kết luận thanh tra để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra.
Thứ ba, Bộ Tư pháp cần có những kiến nghị với UBND các tỉnh để tăng cường, bổ sung biên chế cho Thanh tra các Sở Tư pháp.
Thứ tư, các cơ quan Thanh tra Tư pháp cần chủ động phối hợp với các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính để có được sự chỉ đạo sát sao hơn của các cơ quan này.
Thứ năm, thanh tra và các đơn vị quản lý chuyên môn cần cùng nhau xây dựng những quy chế phối hợp về các vấn đề thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trên cơ sở đó tạo ra khuôn khổ pháp lý cho việc thực hiện nhiệm vụ của từng đơn vị.
- Các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp khi mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thì đề nghị thông báo để Thanh tra Bộ cử cán bộ, công chức tham dự; khi có văn bản hướng dẫn nghiệp vụ gửi cho các cơ quan tư pháp địa phương thì đề nghị gửi cho Thanh tra Bộ 01 bản.
Thứ sáu, Liên ngành tư pháp Trung ương cần sớm ban hành Quy chế phối hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo giữa Viện KSND tối cao - Toà án nhân dân tối cao - Bộ Công an - Bộ Tư pháp;
Thứ bảy, tăng cường mối quan hệ giữa Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở để nâng cao hiệu quả hoạt động của Thanh tra Tư pháp nói chung.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Thanh tra Bộ Tư pháp, Vụ Tổ chức cán bộ phối hợp với các đơn vị chuyên môn của Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp và các cá nhân, tổ chức có liên quan khác tham mưu cho Lãnh đạo Bộ chỉ đạo thực hiện. Lộ trình xây dựng và triển khai đề án để ứng dụng vào thực tế dự kiến từ 2008 đến hết 2012, cụ thể như sau:
1. Hoàn thiện thể chế (2008 - 2012)
1.1. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản có liên quan đến tổ chức, hoạt động của Thanh tra Tư pháp
+ Sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành;
+ Sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo theo hướng tách riêng thành 2 luật: Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo;
+ Sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật về các lĩnh vực chuyên môn do Bộ Tư pháp quản lý;
+ Sửa đổi Nghị định số 74/2006/NĐ-CP theo hướng phù hợp với Luật Thanh tra đã được sửa đổi, bổ sung và phù hợp với Nghị định số 93/2008/NĐ-CP;
+ Sửa đổi Quy chế tổ chức và hoạt động Thanh tra Bộ Tư pháp cho phù hợp với từng giai đoạn;
1.2. Ban hành hoặc trình người có thẩm quyền ban hành các văn bản có liên quan đến tổ chức, hoạt động Thanh tra Tư pháp như
+ Quy chế đạo đức và quy tắc ứng xử nghề nghiệp Thanh tra Tư pháp;
+ Quy chế phối hợp công tác giữa Thanh tra Tư pháp với các đơn vị trong và ngoài ngành trong quá trình thực hiện nhiệm vụ;
+ Xây dựng Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động Thanh tra Sở Tư pháp theo hướng đảm bảo Thanh tra các Sở Tư pháp đều có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và các Thanh tra viên.
+ Quy chế phối hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo giữa Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Toà án nhân dân Tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp.
2. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức (2008 - 2012)
2.1. Đối với Thanh tra Bộ
+ Giai đoạn 1: 2008 - 2009: Thanh tra Bộ có 04 phòng: Phòng Hành chính, tổng hợp; Phòng Tiếp công dân, xử lý và xác minh ban đầu đơn thư khiếu nại, tố cáo; Phòng thanh tra hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo và Phòng thanh tra chuyên ngành với tổng biên chế lên tới 30 người;
+ Giai đoạn 2: 2010 - 2012: Thanh tra Bộ có 05 phòng: Phòng Hành chính, tổng hợp; Phòng Tiếp công dân, xử lý và xác minh ban đầu đơn thư khiếu nại, tố cáo; Phòng thanh tra hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo, Phòng thanh tra chuyên ngành I và giải quyết khiếu nại, tố cáo; Phòng thanh tra chuyên ngành II và giải quyết khiếu nại, tố cáo với tổng biên chế lên tới 40 người;
2.2. Đối với Thanh tra Sở: 2008 - 2012
Hoàn thiện theo hướng các Sở Tư pháp đều có tổ chức thanh tra với cơ cấu ít nhất 03 biên chế, trong đó có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và các thanh tra viên.
3. Tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ thanh tra (2008 - 2012)
+ Mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng về nghiệp vụ thanh tra Tư pháp;
+ Cử cán bộ đi đào tạo nâng cao trình độ ở trong nước và thí điểm cử cán bộ của Thanh tra Bộ đi đào tạo và học tập kinh nghiệm ở nước ngoài;
4. Tăng cường cơ sở vật chất (2008 - 2012)
+ Cơ sở vật chất phục vụ chung: Phòng làm việc, bàn, ghế, tủ, máy vi tính, ô tô, xe máy.
+ Tài liệu chuyên môn, nghiệp vụ
+ Trang thiết bị kỹ thuật dùng cho công tác chuyên môn: Máy tính xách tay, Máy ghi âm, Máy ảnh, Máy tính tay, Thước dây…
+ Nghiên cứu, xây dựng và thí điểm triển khai phần mềm quản lý đơn thư khiếu nại, tố cáo giữa Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở tư pháp Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Chuyên đề 1
KHÁI NIỆM, CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH NĂNG LỰC THANH TRA TƯ PHÁP
|
Thạc sỹ. Nguyễn Thắng Lợi
Thanh tra Bộ Tư pháp
|
Những năm gần đây, nhiều công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn để đổi mới tổ chức và hoạt động Tư pháp đã được thực hiện thành công như: Đề tài khoa học cấp cơ sở “Nghiệp vụ Thanh tra Tư pháp: cơ sở lý luận và thực tiễn”, Đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn để đổi mới tổ chức bộ máy và hoạt động của Thanh tra Tư pháp”. Đặc biệt hiện nay, Thanh tra Bộ Tư pháp đã phối hợp với Nhà xuất bản Tư pháp đang chuẩn bị xuất bản cuốn “Sổ tay nghiệp vụ Thanh tra Tư pháp”. Các công trình này sau khi được Hội đồng khoa học của Bộ Tư pháp nghiệm thu đã được ứng dụng vào thực tế công tác, góp phần nâng cao nhận thức của quần chúng nhân dân nói chung, của cán bộ công chức và đặc biệt là của cán bộ công chức ngành Tư pháp nói riêng về khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra Tư pháp.
Những công trình nói trên đã đề cập đến những vấn đề về lý luận và nghiệp vụ Thanh tra Tư pháp, đồng thời cũng đưa ra một số giải pháp và kiến nghị kiện toàn tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp. Tuy nhiên, trước những yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính và yêu cầu về hội nhập hiện nay, vấn đề cơ sở lý luận, thực tiễn, giải pháp và lộ trình cụ thể nhằm tăng cường năng lực cho lực lượng thanh tra trong toàn ngành Tư pháp vẫn chưa được đặt ra nghiên cứu một cách toàn diện.
Trong khuôn khổ của đề án "Tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp", chuyên đề này sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất về khái niệm "năng lực Thanh tra Tư pháp", những yếu tố cấu thành của năng lực Thanh tra Tư pháp và quá trình phát triển của năng lực Thanh tra Tư pháp.
1. Khái niệm, các yếu tố cấu thành năng lực Thanh tra Tư pháp
1.1. Khái niệm năng lực Thanh tra Tư pháp
Tìm hiểu khái niệm "năng lực Thanh tra Tư pháp" trước hết cần hiểu một số khái niệm cơ bản như: "năng lực", "thanh tra", "tư pháp" và "Thanh tra Tư pháp".
1.1.1 Khái niệm năng lực
- Theo Từ điển Tiếng Việt - Trung tâm Từ điển học của Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2007 khái niệm "năng lực" được hiểu là "khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó" (trang 1021- ).
- Theo Bjorn Jensen, năng lực được hiểu là: "khả năng của cá nhân và tổ chức, hoặc các đơn vị tổ chức thực hiện các chức năng hiệu quả và bền vững"[2].
Từ những khái niệm và quan điểm trên có thể hiểu "năng lực" của một cá nhân hoặc tổ chức là: khả năng, điều kiện khách quan, chủ quan của cá nhân, tổ chức đó để thực hiện các chức năng một cách có hiệu quả và bền vững.
1.1.2 Khái niệm thanh tra
Khoa học về thanh tra cho thấy khái niệm thanh tra bắt nguồn từ tiếng La tinh “ inspectare” nghĩa là nhìn vào bên trong; trong tiếng Anh, thanh tra là “inspect” có nghĩa là kiểm tra, xem xét kỹ lưỡng một cái gì đó. Trên thực tế, khái niệm Thanh tra cũng như phạm vi hoạt động ở mỗi nước rất khác nhau. Có nước, Thanh tra nằm trong hệ thống cơ quan hành pháp (Cộng hoà Pháp); có nước Thanh tra là cơ quan quốc nội (Thụy Điển, Canađa và các nước Bắc Âu); có nước hoạt động thanh tra gắn liền với kiểm toán (Hàn Quốc...). Dù được tổ chức dưới hình thức nào, Thanh tra cũng là một hoạt động có tính độc lập cao, là biện pháp được tiến hành của cấp trên đối với cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “thanh tra” là: “ kiểm soát xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”. Với nghĩa này, thanh tra bao hàm nghĩa kiểm soát nhằm: “xem xét và phát hiện, ngăn chặn những gì trái quy định”. Thanh tra thường được đặt trong một phạm vi thẩm quyền nhất định và đi kèm với một chủ thể nhất định.
Quan niệm về thanh tra hiện nay cũng như trong lịch sử nước ta được thể hiện qua mô hình các cơ quan nhà nước và các quy định của Hiến pháp, pháp luật theo từng giác độ khác nhau:
Thời kỳ phong kiến, thuật ngữ thanh tra chưa được sử dụng nhưng trong bộ máy nhà nước các triều đại Lý, Trần, Lê đã có một cơ quan gọi là “Ngự sử đài” với chức năng gần giống như cơ quan thanh tra chính phủ hiện nay và có chức quan ngự sử đứng đầu Ngự sử đài. Ngự sử đài có nhiệm vụ giúp vua trong việc theo dõi, xem xét các công việc hệ trọng của triều đình.
Thuật ngữ thanh tra lần đầu tiên được ghi nhận trong văn bản pháp luật của nhà nước ta khi Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt vào ngày 23/11/1945. Sắc lệnh quy định: “Chính phủ sẽ lập ngay một Ban thanh tra đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ”. Từ đó đến nay, trải qua các thời kỳ phát triển của đất nước, nội dung thuật ngữ thanh tra đã lần lượt được thể hiện ngày càng rõ hơn trong những văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, đó là Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992. Trên cơ sở Hiến pháp 1980, Điều 1, Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 xác định: “thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước; là phươg thức bảo đảm pháp chế, tăng cường tính kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Tinh thần này lại tiếp tục được ghi nhận và khẳng định trong Luật Thanh tra được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/2004. Theo đó, có thể tóm tắt lại “thanh tra là một khâu trong chu trình quản lý nhà nước, là yêu tố cấu thành trong hoạt động quản lý nhà nước; là phương thức và nội dung quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước; là phương tiện phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm. Hoạt động thanh tra góp phần bảo đảm việc tuân thủ pháp luật trong quản lý và quản lý nhà nước phải tuân theo pháp luật. Hoạt động thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo là phương thức phát huy dân chủ, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức góp phần đẩy mạnh nền cải cách hành chính nhà nước, nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng”.
Như vậy, thanh tra là phạm trù gắn liền với quản lý Nhà nước, mỗi cơ quan thanh tra là công cụ quan trọng trong quản lý Nhà nước. Khi bàn về quản lý Nhà nước, Lê Nin đã chỉ rõ: " Điều kiện tất yếu để công tác quản lý được chính xác là việc kiểm tra tình hình chấp hành Chỉ thị và Nghị quyết. Kiểm tra thường xuyên việc chấp hành là một trong những ưu điểm cơ bản nhất, tất yếu nhất của phương thức quản lý..."
Trong mối quan hệ giữa thanh tra và quản lý, thì quản lý là nhân tố có trước, quyết định mục tiêu, yêu cầu, nội dung và phương thức tổ chức hoạt động thanh tra. Ngược lại, hoạt động thanh tra cũng có tác động tích cực đối với quản lý, làm cho quá trình quản lý diễn ra liên tục, thông suốt theo mục tiêu đã định. Qua thực hiện tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước ở nước ta trong các thời kỳ và cũng như nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức bộ máy nhà nước của một số nước cho thấy: mỗi lĩnh vực quản lý nhất định, trong điều kiện một cơ chế quản lý nhất định đòi hỏi phải có cơ chế tổ chức, hoạt động thanh tra tương ứng thích hợp.
1.1.3 Khái niệm tư pháp
Trong khoa học pháp lý Việt Nam, khái niệm tư pháp được giải thích theo nhiều nghĩa khác nhau và việc xác định cơ quan nào là cơ quan tư pháp cũng chưa thực sự có sự thống nhất tuyệt đối.
Theo tiếng Latinh cổ “tư pháp” – Justitia, còn theo tiếng Anh – Justice, có nghĩa là “công lý”, “pháp chế”, tức là thuật ngữ bao hàm toàn bộ các cơ quan tòa án và hoạt động thực hiện quyền xét xử của hệ thống các cơ quan đó. Đây cũng chính là quan điểm của chủ thuyết tam quyền phân lập mà theo đó cơ quan tư pháp là một trong ba phân nhánh độc lập của một chính thể.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, thì tư pháp dùng để chỉ hệ thống các cơ quan Tòa án, hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật như: các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Bộ Tư pháp, Thanh tra, v.v… và hệ thống các cơ quan bổ trợ tư pháp nói chung như: tổ chức Luật sư, các cơ quan Công chứng, Giám định, Hộ tịch, v.v…
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì ở Việt Nam hiện nay, về mặt học thuật cũng như trong thực tiễn quan điểm phổ biến nhất về khái niệm tư pháp được hiểu là hệ thống: các cơ quan xét xử (Toà án), cơ quan Viện kiểm sát - giữ quyền công tố tại Toà án nhân dân, cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án.
Tuy nhiên, trong phạm vi chuyên đề này thuật ngữ "tư pháp" dùng để chỉ hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước thuộc khối các cơ quan hành pháp bao gồm: Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp và các cơ quan thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp.
1.1.4 Khái niệm Thanh tra Tư pháp
Thuật ngữ "Thanh tra Tư pháp" vừa được dùng với ý nghĩa là hoạt động thanh tra trong lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành Tư pháp đồng thời cũng lại là một khái niệm gọi tên các cơ quan thanh tra trong ngành Tư pháp.
Nội dung Điều 1 của Nghị định số 74/2006/NĐ-CP ngày 01/8/2006 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp như sau:
“Thanh tra Tư pháp là tổ chức thanh tra thuộc ngành Tư pháp; ở Trung ương có Thanh tra Bộ Tư pháp (sau đây gọi tắt là Thanh tra Bộ); ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Thanh tra Sở Tư pháp (sau đây gọi tắt là Thanh tra Sở); thực hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp theo quy định của pháp luật”.
Từ những khái niệm về "năng lực", "thanh tra", "tư pháp" và "Thanh tra Tư pháp" như đã phân tích ở trên, ta có thể hiểu "năng lực Thanh tra Tư pháp" là: khả năng, điều kiện khách quan và chủ quan của Thanh tra Bộ Tư pháp và Thanh tra Sở Tư pháp để thực hiện các chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp theo quy định của pháp luật một cách có hiệu quả và bền vững.
1.2. Các yếu tố cấu thành năng lực Thanh tra Tư pháp
Như đã phân tích ở trên "năng lực Thanh tra Tư pháp" có thể được hiểu là: khả năng, điều kiện khách quan và chủ quan của các tổ chức Thanh tra Tư pháp để thực hiện các chức năng của mình. Vậy, những khả năng, điều kiện khách quan, chủ quan đó là những gì? và những yếu tố tạo nên khả năng, điều kiện khách quan, chủ quan đó? Nói cách khác, làm thế nào và dựa vào đâu để có thể đánh giá được năng lực Thanh tra Tư pháp, tức là năng lực Thanh tra Tư pháp được cấu thành bởi những yếu tố nào? Theo lý thuyết về “Khung đánh giá năng lực” của UNDP và các tổ chức Liên hợp quốc thì năng lực của một cơ quan, tổ chức được đánh giá theo 03 chiều: khung pháp lý về chức năng, nhiệm vụ; khung pháp lý về thể chế: tức là quy định cụ thể về thủ tục và tổ chức bộ máy, nhân sự, mối quan hệ làm việc để thực hiện chức năng nhiệm vụ; và năng lực cá nhân, tài năng và kỹ năng của cá nhân trong thể chế. Vận dụng quan điểm trên của UNDP vào thực tiễn Thanh tra Tư pháp, theo chúng tôi, cấu thành nên năng lực Thanh tra Tư pháp bao gồm 05 yếu tố chính sau:
- Khung pháp lý về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn;
- Tổ chức bộ máy;
- Đội ngũ cán bộ (yếu tố con người);
- Điều kiện cơ sở vật chất;
- Cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp.
Thứ nhất, khung pháp lý về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn:
Để xác định sự tồn tại và phân biệt với các cơ quan, tổ chức khác, mỗi tổ chức đều có những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng. Chức năng của một cơ quan, tổ chức được hiểu là những phương diện hay những mặt hoạt động cơ bản nhất của cơ quan, tổ chức đó, như vậy, có thể hiểu chức năng của Thanh tra Tư pháp chính là những mặt hoạt động cơ bản nhất của Thanh tra Tư pháp. Vì vậy, vai trò của Thanh tra Tư pháp trước hết thể hiện ở chỗ Thanh tra Tư pháp có những chức năng gì và việc thực hiện các chức năng đó như thế nào hay nói cách khác pháp luật quy định Thanh tra Tư pháp có những chức năng gì và thực tiễn tổ chức thực hiện các chức năng của Thanh tra Tư pháp có hiệu lực, hiệu quả không? Có bất cập, vướng mắc gì không?
Nhiệm vụ, quyền hạn là những quy định cụ thể về những việc cơ quan, tổ chức phải làm và được làm để thực hiện chức năng của mình, như vậy, có thể hiểu nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp là những điều, những việc cụ thể mà pháp luật quy định Thanh tra Tư pháp có trách nhiệm phải thực hiện và những việc mà Thanh tra Tư pháp có quyền được thực hiện. Nói cách khác Thanh tra Tư pháp chỉ được làm và cũng chỉ phải làm những gì pháp luật quy định. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp phải được quy định phù hợp với chức năng của Thanh tra Tư pháp. Nếu nhiệm vụ, quyền hạn mà được quy định quá nhiều, quá lớn thì dễ dẫn đến lạm quyền, còn nếu nhiệm vụ quyền hạn mà được quy định không đủ mạnh, không rõ ràng thì rất khó thực hiện được các chức năng của mình.
Một yếu tố quan trọng nữa khi nghiên cứu khung pháp lý về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp không thể không tính đến đó là thực tiễn việc tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp như thế nào; Thanh tra Tư pháp ở cả hai cấp (cấp Bộ và cấp Sở) đã làm tròn nhiệm vụ của mình, đã phát huy hết thẩm quyền của mình để phục vụ có hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý nhà nước của Ngành chưa?
Nói tóm lại: Khung pháp lý về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp cũng như thực tiễn thực hiện các quy định đó là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất cấu thành nên năng lực của Thanh tra Tư pháp. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp mà phù hợp và thực tiễn tổ chức thự hiện các chức năng, nhiệm vụ đó tốt thì năng lực của Thanh tra Tư pháp sẽ cao và ngược lại nếu chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp mà không phù hợp và việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đó mà không tốt thì chắc chắn năng lực Thanh tra Tư pháp sẽ không cao.
Thứ hai, tổ chức bộ máy:
Nếu như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một cơ quan, tổ chức được coi là yếu tố đầu tiên, yếu tố quan trọng nhất quyết định đến năng lực hoạt động của cơ quan, tổ chức đó thì cơ cấu, tổ chức bộ máy hợp lý có thể coi là một điều kiện không thể thiếu để đảm bảo cho năng lực hoạt động của cơ quan, tổ chức đó đạt được hiệu quả cao. Yếu tố này trước hết bao gồm những quy định cụ thể của pháp luật về tổ chức bộ máy của Thanh tra Tư pháp và thực tiễn cơ cấu, tổ chức bộ máy của Thanh tra Tư pháp. Cơ cấu, tổ chức bộ máy của Thanh tra Bộ Tư và Thanh tra Sở Tư pháp pháp phải đảm bảo tính khoa học. Tính khoa học được thể hiện qua các đặc tính:
- Khách quan: tính pháp lý của tổ chức bộ máy hay nói cách khác chính là sự cần thiết phải có tổ chức Thanh tra Tư pháp; đồng thời, sự tồn tại của các tổ chức Thanh tra Tư pháp phải được pháp luật ghi nhận.
- Hợp lý: cơ cấu tổ chức bộ máy của Thanh tra Tư pháp từ Trung ương đến địa phương phải hợp lý.
- Đồng bộ: mối tương quan giữa yêu cầu chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Tư pháp với việc bố trí cán bộ, công chức phải đảm bảo tính đồng bộ.
- Hiệu quả: Bộ máy Thanh tra Tư pháp phải hoạt động có hiệu quả.
Để đạt được những yêu cầu trên, một trong những yếu tố quan trọng là phải xác định được chức năng, nhiệm vụ của tổ chức bộ máy, xác định số phòng ban, biên chế cần thiết đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trên cơ sở tiêu chuẩn hoá theo chức danh đối với cán bộ, công chức và Thanh tra viên. Mỗi cán bộ, công chức và Thanh tra viên phải có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, ngoại ngữ tương ứng để đảm nhận công việc mà bộ máy tổ chức yêu cầu. Việc xác định chức danh cán bộ, công chức thực chất là phân công cán bộ, công chức theo vị trí công tác trong bộ máy và xác định trách nhiệm, thẩm quyền trước bộ máy và pháp luật. Tổ chức bộ máy khoa học phải xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mình mà xác định đúng biên chế cần thiết cho bộ máy, sao để tính hợp lý giữa công việc và biên chế đảm bảo tối ưu, mang lại hiệu quả cao.
Như vậy có thể khẳng định tổ chức bộ máy là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu cấu tạo nên năng lực Thanh tra Tư pháp.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ:
Tất cả mọi thứ, mọi vấn đề đều là sản phẩm của con người, nên pháp luật, cơ chế chính sách, cơ sở vật chất, cơ chế hoạt động, quan hệ phối hợp công tác cũng đều do con người tạo ra, vấn đề là ở chỗ con người đã tạo ra nó như thế nào và sử dụng nó ra làm sao, có hiệu quả hay không. Do đó, đối với bất kỳ cơ quan, tổ chức nào yếu tố con người luôn là yếu tố then chốt, quyết định đến sự tồn tại và hiệu quả hoạt động của chính tổ chức, cơ quan đó. Trong thực tiễn ngành nào, tổ chức nào quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất tốt, đủ năng lực hoạt động thì ngành đó, tổ chức đó hoạt động hiệu quả và ngược lại nếu ngành nào, tổ chức nào không quan tâm, không xây dựng được đội ngũ cán bộ của phẩm chất đạo đức tốt, không đủ năng lực hoạt động thì ngành đó, tổ chức đó hoạt động sẽ hiệu quả. Chính vì vậy, nói đến công tác thanh tra là phải nói đến con người làm công tác thanh tra, nói đến năng lực Thanh tra Tư pháp là phải nói đến vấn đề đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra Tư pháp.
Nội dung này bao gồm các quy định của pháp luật về những nội dung cơ bản của công tác cán bộ như: biên chế, tiêu chuẩn tuyển dụng cán bộ, công chức, bổ nhiệm công chức lãnh đạo, đào tạo, bồi dưỡng, chế độ đãi ngộ công chức Thanh tra Tư pháp và thực tiễn thi hành, vận dụng các quy định đó. Nếu pháp luật quy định và thực tiễn biên chế được giao quá ít hoặc thiếu thì Thanh tra Tư pháp sẽ không thể hoặc rất khó thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình. Ngược lại, nếu biên chế lại nhiều hơn đòi hỏi của thực tiễn sẽ dẫn đến tình trạng có dôi thừa, lãng phí vì không tận dụng hết khả năng làm việc cán bộ công chức. Hơn nữa, như vậy sẽ phát sinh thực tế có những cán bộ công chức không phát huy được hết khả năng, kiến thức, thời gian và tâm huyết cho công việc, dần dần dễ dẫn đến tình trạng chán nản và như thế rõ ràng năng lực hoạt động của Thanh tra Tư pháp sẽ bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, kể cả trong trường hợp Thanh tra Tư pháp được giao và thực tiễn có biên chế hợp lý nhưng nếu quá trình tuyển dụng, không nghiêm túc, tuyển dụng những người không có đủ phẩm chất, năng lực vào ngành, chế độ đãi ngộ không xứng đáng cũng sẽ là một yếu tố ảnh hưởng đến năng lực Thanh tra Tư pháp. Vấn đề bổ nhiệm công chức lãnh đạo cũng là một phần không thể không tính đến khi nghiên cứu về yếu tố con người của lực lượng Thanh tra Tư pháp. Người được bổ nhiệm có đủ đức, đủ tài, đủ uy tín và thủ tục, trình tự bổ nhiệm công khai, minh bạch, nhanh chóng sẽ tạo ra môi trường lành mạnh, tạo động lực để toàn thể cán bộ, công chức yên tâm công tác và không ngừng phấn đấu, rèn luyện góp phần nâng cao năng lực Thanh tra Tư pháp. Đồng thời, chế độ đào tạo, bồi dưỡng mà được thực hiện tốt sẽ góp phần không ngừng cập nhật, nâng cao trình độ chuyên môn cho lực lượng cán bộ công chức để đáp ứng được những đòi hỏi mới ngày càng cao trong công việc của toàn ngành Thanh tra Tư pháp.
Thứ tư, điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc:
Có thể nói rằng điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc là một trong những yếu tố không thể thiếu được để tạo nên năng lực một cơ quan, tổ chức, cho dù chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan, tổ chức đó đã được xác định đúng mức, tổ chức bộ máy có được cơ cấu phù hợp, tương ứng với các chức năng, nhiệm vụ đó và cả yếu tố con người hoàn toàn có thể đáp ứng được các đòi hỏi đặt ra mà yếu tố vật chất không được đảm bảo, hay nói cách khác không đủ các phương tiện, vật chất cần thiết phục vụ cho hoạt động thì chắc chắn hoạt động của cơ quan, tổ chức đó sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí là không đạt hiệu quả. Đối với Thanh tra Tư pháp, hoạt động của tổ chức này chắc chắn sẽ không thể đảm bảo nếu không có hoặc thiếu phòng cho cán bộ, công chức làm việc, không có phòng tiếp công dân, không có hoặc thiếu các trang thiết bị cần thiết để phục công tác thanh tra và xét giải quyết khiếu nại, tố cáo như máy tính, mạng internet, máy chụp ảnh, máy ghi âm, kính lúp và các phương tiện khác...
Thứ năm, cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp:
Cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp cũng là một trong những yếu tố chính, có tác động rất lớn đến năng lực của Thanh tra Tư pháp. Nếu coi toàn ngành Thanh tra Tư pháp là một chiếc xe đang vận hành thì khung pháp lý quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật hiện đại được coi là những yếu tố quan trọng; yếu tố con người được coi là then chốt, là cốt yếu như người cầm lái điều khiển chiếc xe chạy nhanh hay chậm, nhanh chậm lúc nào và chọn con đường nào nhanh nhất, hiệu quả nhất, thì cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp công tác được coi như là thứ dầu bôi trơn cho chiếc xe vận hành. Cơ chế hoạt động của Thanh tra Tư pháp là có thể được hiểu là cách thức hoạt động của Thanh tra Tư pháp. Cách thức hoạt động này được pháp luật quy định như thế nào và thực tế đang thực hiện ra làm sao? Có hiệu quả không? Còn vướng mắc gì?...trong quá trình hoạt động đó, các cơ quan Thanh tra Tư pháp tất yếu phải có sự phối hợp với các cơ quan, đơn vị khác trong và ngoài ngành tạo nên các “quan hệ phối hợp” để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Cơ chế làm việc và cơ chế phối hợp công tác của Thanh tra Tư pháp với các cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị trong và ngoài ngành mà tốt thì hoạt động của Thanh tra Tư pháp sẽ thuận lợi, hiệu quả. Ngược lại, cơ chế hoạt động, quan hệ phối hợp mà gò bó, cứng nhắc, có nhiều cản trở hoặc lại lỏng lẻo, không có sự gắn kết cần thiết thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của Thanh tra Tư pháp.
Chuyên đề 2
VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA THANH TRA TƯ PHÁP
Thạc sỹ. Đặng Quốc Tuấn
Thanh tra Bộ Tư pháp
1. Vị trí, vai trò của Thanh tra Tư pháp
Tìm hiểu về vị trí, vai trò của “Thanh tra Tư pháp” trước tiên cần hiểu rõ khái niệm “Thanh tra Tư pháp” với ý nghĩa chung nhất. Khái niệm “Thanh tra Tư pháp” cũng được hiểu trong khái niệm chung về Thanh tra. Thanh tra (inspect) xuất phát từ gốc latinh (Inspectare) có nghĩa là "nhìn vào bên trong", chỉ sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài vào hoạt động của một đối tượng nhất định; "là sự kiểm soát, kiểm kê đối với đối tượng bị thanh tra". Theo từ điển Tiếng Việt: "Thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ của địa phương, cơ quan, xí nghiệp". Với nghĩa này, thanh tra là kiểm soát nhằm phát hiện và ngăn chặn những gì trái với quy định. Thanh tra thường đi kèm với một chủ thể nhất định như đoàn thanh tra, người làm nhiệm vụ thanh tra, thanh tra viên và được đặt trong một phạm vi hoạt động nhất định. Trong các văn bản pháp luật và thực tiễn quản lý của nước ta, cụm từ “thanh tra, kiểm tra” được sử dụng để chỉ một hoạt động không thể thiếu của quản lý nhà nước nhằm hướng đối tượng quản lý theo những mục tiêu nhất định.
“Thanh tra Tư pháp” vừa được dùng với ý nghĩa là hoạt động thanh tra trong lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành Tư pháp đồng thời vừa là một khái niệm gọi tên các cơ quan thanh tra trong ngành Tư pháp. Ở Việt Nam, ngành Tư pháp là các cơ quan quản lý nhà nước thuộc khối các cơ quan hành pháp bao gồm: Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp và các cơ quan thuộc thẩm quyền quản lý Nhà nước của Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp. Điều này hoàn toàn khác với khái niệm “Tư pháp” để chỉ đến hệ thống các cơ quan toà án và các hoạt động liên quan đến xét xử, tranh tụng tại toà án.
Vị trí của “Thanh tra Tư pháp” ngày càng được củng cố và phát triển cùng với sự phát triển của ngành Tư pháp và ngành Thanh tra nhà nước nói riêng trong hệ thống cơ quan hành pháp nói chung. Sau khi Bộ Tư pháp được tái thành lập vào năm 1981, ngày 15/11/1982, Bộ trưởng Tư pháp đã ban hành quyết định số 247/QĐ-TC thành lập Ban thanh tra thuộc Bộ Tư pháp. Đây cũng là cơ quan thanh tra đầu tiên của ngành Tư pháp. Theo đó, Ban thanh tra có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Giúp Bộ trưởng thanh tra việc thực hiện những chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ công tác của Bộ đối với các tổ chức Tư pháp và Toà án địa phương;
- Chỉ đạo và hướng dẫn công tác thanh tra cho các Toà án địa phương và các Sở Tư pháp thuộc phạm vi trách nhiệm của Bộ quản lý;
- Đôn đốc và thanh tra các cơ quan thuộc Ngành Tư pháp và Toà án địa phương trong việc xét, giải quyết các khiếu tố trong phạm vi trách nhiệm của Bộ Tư pháp;
Pháp lệnh Thanh tra ra đời năm 1990 đã khẳng định "Thanh tra là một chức năng thiết yếu trong cơ quan quản lý Nhà nước". Pháp lệnh đổi tên Uỷ ban Thanh tra Nhà nước thành Thanh tra Nhà nước. Thanh tra Nhà nước là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng, có chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi cả nước. Các cơ quan Bộ và ngang bộ có tổ chức cơ quan thanh tra trực thuộc gọi là Thanh tra Bộ. Ở địa phương, các sở, ban ngành thành lập đơn vị thanh tra là Thanh tra Sở. Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở là tổ chức thanh tra nằm trong hệ thống Thanh tra Nhà nước.
Năm 2004, Luật Thanh tra được ban hành, mở ra một thời kỳ mới của công tác thanh tra. Luật Thanh tra tiếp tục khẳng định thanh tra là một chức thiết yếu trong cơ quan quản lý nhà nước và hơn nữa là quy định cụ thể hoá về tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra. Luật đổi tên Thanh tra Nhà nước thành Thanh tra Chính phủ. Quy định rõ về tổ chức, hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước. Các cơ quan thanh tra nhà nước bao gồm: Cơ quan thanh tra được thành lập theo cấp hành chính (Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thanh tra huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh); Cơ quan thanh tra được thành lập ở cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực (Thanh tra bộ, Thanh tra cơ quan ngang Bộ, Thanh tra của các cơ quan thuộc chính phủ; Thanh tra sở). Thanh tra bộ, Thanh tra sở đều có hai chức năng chủ yếu là thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Thanh tra Tư pháp ngày càng được ghi nhận có vị trí, vai trò quan trọng đối với hoạt động quản lý nhà nước của Ngành. Cụ thể là, ngày 01/8/2006, Chính phủ đã ban hành riêng Nghị định số 74/2006/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp. Theo đó, “Thanh tra Tư pháp” là tổ chức thanh tra thuộc ngành Tư pháp; ở Trung ương có Thanh tra Bộ Tư pháp; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Thanh tra Sở Tư pháp; thực hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp theo quy định của pháp luật. Phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp là rất rộng, căn cứ Nghị định 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp thì Chính phủ đã giao cho Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp và công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; thực hiện quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật.
Quy định chi tiết về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tư pháp, ngày 30/5/2007, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 764/QĐ-BTP ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tư pháp. Thanh tra Bộ Tư pháp là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp có chức năng giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc quyền quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp; thực hiện thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành và phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng theo thẩm quyền. Thanh tra Bộ Tư pháp chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, đồng thời chịu sự hướng dẫn của Tổng thanh tra về công tác tổ chức và nghiệp vụ thanh tra.
Thanh tra Sở Tư pháp là cơ quan của Sở Tư pháp, chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Giám đốc Sở, giúp Giám đốc Sở thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong phạm vi, quyền hạn của Giám đốc Sở Tư pháp.
Xuất phát từ vị trí ngày càng được ghi nhận và đánh giá cao, Thanh tra Tư pháp cũng có vai trò quan trọng của cơ quan thanh tra nói chung trong hoạt động quản lý nhà nước. Luật Thanh tra tiếp tục ghi nhận vị trí, vai trò của Thanh tra là một khâu trong chu trình trình quản lý nhà nước; là phương thức và nội dung quan trọng để nâng cao hiệu qủa quản lý nhà nước; là phương tiện phòng ngừa phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm, nâng cao hiệu quả phòng ngừa đấu tranh chống tham nhũng; hoạt động thanh tra góp phần bảo đảm sự tuân thủ pháp luật trong quản lý; hoạt động thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo là phương thức phát huy dân chủ, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Thanh tra Tư pháp là chức năng thiết yếu trong quản lý nhà nước của ngành Tư pháp
Trong khoa học quản lý nhà nước, theo các giai đoạn tác động, quản lý nhà nước bao gồm có 5 chức năng cơ bản sau: Chức năng điều chỉnh; chức năng tổ chức; chức năng điều khiển; chức năng thanh tra, kiểm tra; chức năng điều chỉnh. Chức năng thanh tra, kiểm tra là chức năng nhằm kịp thời phát hiện ra những sai sót trong quá trình hoạt động và các cơ hội đột biến trong hệ thống. Ở đây thanh tra, kiểm tra được hiểu là hình thức tác động có mục đích quan sát cả hệ thống để phát hiện những sai lệnh so với yêu cầu đề ra, tìm ra nguyên nhân và từ đó có những giải pháp phù hợp đảm bảo để hoạt động của đối tượng bị quản lý đạt tới mục tiêu mà chủ thể quản lý đã xác định. Trong một phạm vi, chừng mực nhất định hoạt động kiểm tra theo nghĩa thông thường có thể đưa lại những thông tin cần thiết, đáp ứng yêu cầu tìm ra những giải pháp phù hợp. Nhưng ở một chừng mực nào đó, hoạt động kiểm tra thông thường chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý, thì đòi hỏi phải thực hiện hình thức kiểm tra đặc biệt hơn để tìm ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan của sai lệch và chỉ rõ trách nhiệm thuộc về ai, đưa ra những kiến nghị đề xuất. Để đảm bảo hiệu quả, loại hình kiểm tra đặc biệt này cần phải được đảm bảo bằng các chế định pháp luật, được áp dụng các phương pháp do pháp luật quy định đó chính là hoạt động thanh tra hiện nay. Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước các cơ quan quản lý nhà nước nhất thiết phải tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quyết định mà mình đã ban hành. Đó là một khâu không thể thiếu trong quá trình hoạt động quản lý nhà nước. Chính vì vậy, thanh tra được xác định là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước. Vai trò, vị trí này của thanh tra đã được Luật Thanh tra thể hiện rất rõ thông qua các chế định về: mục đích, phạm vi, nguyên tắc hoạt động thanh tra; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tạo điều kiện cho hoạt động thanh tra; mối quan hệ giữa thanh tra với thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước; mối quan hệ giữa thanh tra với đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khác. Thanh tra Tư pháp luôn gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước của ngành Tư pháp. Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình, sau khi đã ban hành các quyết định quản lý và tổ chức, thực hiện các quyết định quản lý, các chủ thể quản lý (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp) luôn cần có sự kiểm tra, theo dõi việc thực hiện các quyết định quản lý nhằm đảm bảo cho hoạt động quản lý đó tuân theo đúng pháp luật và có hiệu quả. Hoạt động của Thanh tra Tư pháp với tư cách là chức năng thiết yếu của quản lý, khâu quan trọng trong chu trình quản lý, tiến hành thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng quản lý, đương nhiên hoạt động thanh tra phải gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước của bộ. Như vậy, xét về bản chất thì Thanh tra Tư pháp là công cụ, phương tiện của chủ thể quản lý (Bộ Tư pháp, sở Tư pháp) trong việc thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm vụ mà Bộ đã đề ra đối với các đối tượng quản lý.
Thanh tra Tư pháp góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của ngành Tư pháp
Thực tiễn đã chỉ ra rằng trong các chức năng quản lý nhà nước của Ngành Tư pháp thì hiệu quả quản lý phần lớn phụ thuộc vào nội dung, chất lượng và biện pháp tổ chức thực hiện các quyết định, chính sách, pháp luật đã được ban hành. Để các quyết định, chính sách, pháp luật trong phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tuân thủ và chấp hành một cách chính xác, đầy đủ, người quản lý phải đề ra quy trình thực hiện các quyết định, chính sách, pháp luật đó. Trong quy trình đó không thể thiếu hoạt động thanh tra, kiểm tra. Thanh tra, kiểm tra là để đánh giá, nhận xét tình hình và kết quả thực hiện quyết định quản lý; để kiểm nghiệm lại chính nội dung và chất lượng quản lý; khi cần thiết phải bổ sung, sửa đổi, thậm chí phải huỷ bỏ một phần hay toàn bộ quyết định quản lý. Thanh tra tư pháp cũng giúp chủ thể quản lý đánh giá đúng tình hình thực hiện những nhiệm vụ thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp. Trong trường hợp quyết định quản lý được kiểm nghiệm là đúng, là phù hợp nhưng đối tượng thi hành vẫn không tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh thì khi đó hoạt động thanh tra, kiểm tra phải làm rõ nguyên nhân, xác định rõ trách nhiệm để chấn chỉnh hoặc xử lý (nếu có vi phạm). Không chỉ giữ vai trò xem xét, đánh giá một quyết định quản lý cụ thể, công tác thanh tra còn phải hướng đến việc xem xét, kết luận, đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu, chương trình, nhiệm vụ của chính cơ quan quản lý nhà nước. Trong mối quan hệ giữa chủ thể quản lý (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp) với Thanh tra Tư pháp (Thanh tra Bộ, Thanh tra Sở) thì chủ thể quản lý giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động thanh tra như đề ra các chương trình, kế hoạch thanh tra, quy định phạm vi hoạt động của thanh tra... Ngược lại, hoạt động của Thanh tra tư pháp giữ vai trò tích cực, tác động ngược trở lại đối với hoạt động quản lý nhà nước của Bộ, sở Tư pháp xem xét, đánh giá kết quả, hiệu quả việc thực hiện các quyết định quản lý của Bộ, sở Tư pháp phát hiện những mặt tích cực để phát huy, phát hiện những sai phạm để đề xuất, kiến nghị với chủ thể quản lý sửa đổi cơ chế, chính sách, xử lý các hành vi vi phạm. Nếu Thanh tra hoạt động có hiệu quả thì có tác dụng thúc đẩy quá trình quản lý của Bộ, Sở Tư pháp. Ngược lại, nếu Thanh tra Tư pháp hoạt động kém hiệu quả thì sẽ một phần hạn chế hoạt động quản lý nhà nước của ngành Tư pháp. Rõ ràng rằng, Thanh tra tư pháp đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của ngành Tư pháp.
Thanh tra Tư pháp là phương thức bảo đảm sự tuân thủ pháp luật trong quản lý của ngành Tư pháp và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Hoạt động thanh tra không chỉ là nhằm phát hiện ra những thiếu sót, sai phạm trong việc thực hiện chính sách pháp luật để kiến nghị, đưa ra các biện pháp xử lý mang tính quyền lực nhà nước mà qua đó hoạt động thanh tra còn nhằm uốn nắn, yêu cầu các đối tượng quản lý phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Hoạt động của thanh tra thể hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực nhà nước được pháp luật quy định đối với đối tượng thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp. Tính quyền lực trong hoạt động của thanh tra được thể hiện ở chỗ tiến hành các cuộc thanh tra trên cơ sở thẩm quyền Bộ trưởng, Giám đốc sở, có những quyền hạn và khả năng thực hiện những quyền hạn đó như ra các quyết định bắt buộc thi hành đối với các đối tượng thanh tra trong việc sửa chữa những thiếu sót đã bị thanh tra phát hiện; chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra những hành vi vi phạm pháp luật; được áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Qua đó, góp phần quan trọng cho việc tuân thủ pháp luật trong quản lý nhà nước.
Công tác thanh tra còn góp phần bảo đảm nguyên tắc Pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa tức là đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ một cách tuyệt đối, không có một thực thể nào đứng trên pháp luật hay đứng ngoài pháp luật. Hoạt động thanh tra góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện ở những nội dung sau: hoạt động thanh tra đã góp phần không nhỏ vào việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, giúp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu đúng và từ đó chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Thực tiễn, có không ít trường hợp vi phạm pháp luật nhưng không phải là do không hiểu đúng các quy định của pháp luật. Trong những trường hợp đó, nếu chỉ có giúp sửa chữa, khắc phục thì khó có thể bảo đảm tình trạng đó sẽ không tái phạm mà đòi hỏi thanh tra phải có biện pháp cứng rắn hơn, hình thức xử lý nghiêm khắc hơn. Việc làm này không những chỉ tác động đến đối tượng có sai phạm mà còn có tác dụng răn đe đối với các đối tượng quản lý khác. Người này sửa chữa để người kia tránh và như thế rõ ràng càng làm cho việc tuân thủ pháp luật được thực hiện một cách nghiêm túc. Qua thanh tra còn phát hiện quyết định, các văn bản pháp lý cấp dưới trái với văn bản pháp luật cấp trên từ đó có kiến nghị sửa đổi hoặc bãi bỏ.
Thanh tra là một biện pháp ngăn ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa chống tham nhũng
Vai trò của công tác thanh tra không chỉ và không phải chủ yếu là phát hiện các sai phạm, vi phạm các quy định pháp luật và có các biện pháp xử lý mà quan trọng hơn, thanh tra có tác dụng phòng ngừa hữu hiệu các hành vi vi phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng và chống tham nhũng. Biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và đấu tranh phòng chống tham nhũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước của ngành Tư pháp nói riêng. Tính phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật của thanh tra được thể ở những khía cạnh sau đây:
Một là, hoạt động thanh tra luôn luôn mang tính quyền lực nhà nước, là hiện thân của kỷ cương pháp luật, có các biện pháp xử lý mạnh. Sự hiện diện của thanh tra là sự nhắc nhở thường xuyên đối với tất cả các đối tượng thanh tra, đối tượng chịu sự quản lý. Hoạt động thanh tra thường xuyên hay đột xuất luôn tạo ra một yêu cầu thường trực cho các đối tượng chịu sự quản lý nếu vi phạm pháp luật sẽ bị xử lý, do đó, luôn luôn phải cảnh giác tuân thủ pháp luật và nhờ đó đã hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật góp phần hiệu quả việc phòng ngừa tham nhũng.
Hai là, hoạt động thanh tra có tác dụng tìm hiểu, giúp đỡ, định hướng cho các đối tượng thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
Ba là, qua thanh tra tìm ra những quy định bất cập, những kẽ hở của chính sách, pháp luật từ đó kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉnh sửa hoặc bãi bỏ để hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm ngăn ngừa các hành vi đúng đắn lại bị cho là vi phạm pháp pháp luật.
Bốn là, trong nhiều trường hợp, qua thanh tra có thể dự báo được những hành vi vi phạm pháp luật sẽ xảy trong tương lai nếu không được chấn chỉnh, không có sự định hướng lại cho các đối tượng một cách kịp thời thì rất dễ có các hành vi vi phạm xảy ra.
2. Chức năng của Thanh tra Tư pháp
Thanh tra Tư pháp cũng có các chức năng của các cơ quan thanh tra nói chung, đó là các chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành. Ngoài ra, cơ quan Thanh tra Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc quyền quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, thực hiện việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng theo thẩm quyền.
a. Chức năng thanh tra hành chính
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách pháp luật, quy định chuyên ngành, nhiệm vụ của cơ quản, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp.
Thanh tra Bộ Tư pháp thực hiện chức năng thanh tra hành chính đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao. Căn cứ Nghị định 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp thì Bộ trưởng Bộ tư pháp trực tiếp quản lý các cán bộ, công chức, viên chức thuộc Bộ Tư pháp bao gồm các đơn vị trực thuộc sau: Vụ pháp luật hành chính, hình sự; Vụ pháp luật dân sự, kinh tế; Vụ pháp luật Quốc tế; Vụ Bổ trợ tư pháp; Vụ Hành chính Tư pháp; Vụ hợp tác quốc tế; Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật; Vụ Tổ chức cán bộ; Vụ Kế hoạch tài chính;Vụ Thi đua, khen thưởng; Văn phòng; Thanh tra Bộ; Cục Thi hành án dân sự; Cục Con nuôi quốc tế; Cục trợ giúp pháp lý; Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; Cục Đăng ký quốc gia dao dịch bảo đảm; Nhà xuất bản Tư pháp; Trung tâm tin học; Viện khoa học pháp lý; Tạp chí dân chủ pháp luật; Báo Pháp luật Việt Nam; Trường Đại học luật Hà Nội; Học Viện Tư pháp.
Thanh tra các Sở Tư pháp thực hiện chức năng thanh tra hành chính đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Sở Tư pháp và thi hành án dân sự cấp huyện (theo sự uỷ quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp tại Quyết định số 1148/2005/QĐ-BTP ngày 18/5/2005 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp) trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao.
b. Chức năng thanh tra chuyên ngành
Thanh tra tư pháp thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định chuyên ngành, quy tắc quản lý chuyên ngành, các lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của ngành Tư pháp.
Thanh tra Bộ Tư pháp thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp theo quy định của pháp luật, bao gồm các lĩnh vực sau: kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; công chứng, chứng thực; hộ tịch; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; quốc tịch; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; trợ giúp pháp lý; đăng ký giao dịch bảo đảm; hợp tác với nước ngoài về pháp luật và công tác tư pháp khác.
Thanh tra các Sở Tư pháp thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Sở Tư pháp theo quy định của pháp luật, bao gồm các lĩnh vực sau: kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự (theo sự uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); công chứng, chứng thực; hộ tịch; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; quốc tịch; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; trợ giúp pháp lý và công tác tư pháp khác.
c. Chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra tư pháp
Thanh tra Bộ Tư pháp giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý thống nhất công tác thanh tra trong ngành Tư pháp. Thanh tra Bộ là đầu mối chủ trì hoặc tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của thanh tra tư pháp hoặc các văn bản pháp luật khác liên quan đến lĩnh vực thanh tra khi được Bộ trưởng giao. Thanh tra Bộ thực hiện việc hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với thanh tra sở, hướng dẫn kiểm tra các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp thực hiện các quy định của pháp luật về thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thanh tra Bộ thường xuyên tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp. Từ đó tổng kết kinh nghiệm và xây dựng nghiệp vụ về thanh tra tư pháp để hướng dẫn chung cho toàn ngành, tham mưu cho Bộ trưởng ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp luật. Thanh tra Bộ Tư pháp xây dựng kế hoạch thanh tra, mục tiêu nhiệm vụ thanh tra hàng năm để hướng dẫn Thanh tra các Sở Tư pháp xây dựng kế hoạch thanh tra của mình phù hợp với nhiệm vụ trọng tâm chung của toàn ngành Tư pháp. Ngoài ra, Thanh tra Bộ Tư pháp thường xuyên theo dõi về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở từ đó có kiến nghị Sở Tư pháp kiện toàn tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
d. Chức năng quản lý nhà nước về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp
Thanh tra Tư pháp là cơ quan đầu mối giúp lãnh đạo cùng cấp quản lý về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thanh tra Bộ Tư pháp đã thực hiện việc xây dựng Quy chế tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan Bộ Tư pháp. Các cơ quan Thanh tra Tư pháp là đơn vị trực tiếp tổ chức việc tiếp công dân, tiếp nhận các đơn thư khiếu nại, tố cáo gửi đến Cơ quan Tư pháp cùng cấp, ở Trung ương là Bộ Tư pháp, ở địa phương là các Sở Tư pháp. Định kỳ hàng tháng, Thanh tra Bộ Tư pháp thực hiện việc tổ chức để lãnh đạo Bộ trực tiếp tiếp công dân. Là đầu mối tiếp nhận và xem xét các đơn thư khiếu nại, tố cáo gửi đến Bộ Tư pháp và từ đó có các đề xuất, tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp giải quyết. Thanh tra Bộ Tư pháp có trách nhiệm thực hiện việc xem xét, kết luận các vấn đề khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng Bộ Tư pháp khi được giao.
e. Thực hiện việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong lĩnh vực tư pháp
Phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng là nhiệm vụ vừa lâu dài vừa cấp bách đặt ra cho các cơ quan nhà nước nói chung và ngành Tư pháp nói riêng. Triển khai thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Luật phòng chống tham nhũng, Thanh tra Bộ đã tham mưu cho để Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 04/2006/QĐ-BTP ngày 12/6/2006 về chương trình hành động phòng, chống tham nhũng của ngành Tư pháp. Theo đó, Thanh tra Tư pháp giúp lãnh đạo Bộ Tư pháp triển khai thực hiện việc phòng, chống tham nhũng trong phạm vi quản lý nhà nước của Ngành. Thanh tra Bộ Tư pháp hàng tháng phải tổng hợp theo dõi báo cáo về tham nhũng của các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp và có báo cáo đến Cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Qua công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Tư pháp không những phát hiện các sai phạm, kiến nghị các biện pháp xử lý mà góp phần tích cực trong việc uốn nắn, chỉnh sửa các sai phạm, kiến nghị sửa đổi, bãi bỏ các quy định không phù hợp hoặc quy định mới chặt chẽ hơn để hạn chế điều kiện cho tham nhũng xảy ra trong Ngành. Hơn nữa, việc thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những giải pháp hữu hiệu để thực hiện tốt việc đấu tranh và phòng ngừa tham nhũng.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn và đặc trưng của Thanh tra Tư pháp
Thanh tra Tư pháp là cơ quan thanh tra được tổ chức và hoạt động thuộc lĩnh vực chuyên ngành Tư pháp. Thanh tra Tư pháp cũng có nhiệm vụ, quyền hạn chung của các cơ quan thanh tra nhà nước, bên cạnh đó có những nhiệm vụ, quyền hạn và đặc thù riêng của ngành Tư pháp. Nghị định 74/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ đã quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động của Thanh tra Tư pháp, theo đó, các cơ quan Thanh tra Tư pháp có nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể sau:
a. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Bộ Tư pháp
- Thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bộ Tư pháp trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao; Thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp theo quy định của pháp luật (như đã trình bày ở phần trên). Để hoạt động thanh tra đạt kết quả, pháp luật còn ghi nhận Thanh tra Bộ có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục và mức phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp được quy định khá chi tiết và cụ thể tại Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp. Khi tổ chức Đoàn thanh tra, Thanh tra Bộ có quyền trưng tập cán bộ, công chức của cơ quan, đơn vị có liên quan tham gia Đoàn thanh tra. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành hoặc huỷ bỏ những quy định trái pháp luật được phát hiện qua công tác thanh tra.
- Thanh tra Bộ chịu trách nhiệm xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng Bộ Tư pháp khi được giao. Khi thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Bộ thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
- Thanh tra Bộ chịu trách nhiệm giúp Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng của ngành Tư pháp theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
- Bên cạnh các nhiệm vụ, quyền hạn trên, Thanh tra Bộ còn thực hiện các hoạt động như chủ trì hoặc tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp; tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật khác do Bộ trưởng giao. Hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với Thanh tra Sở; hướng dẫn, kiểm tra, các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp thực hiện các quy định của pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tổng kết kinh nghiệm, xây dựng nghiệp vụ về Thanh tra Tư pháp. Tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp. Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật và các nhiệm vụ do Bộ trưởng giao.
b. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Sở Tư pháp
-Thanh tra các Sở Tư pháp tiến hành hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Theo đó, Thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Sở Tư pháp và thi hành án dân sự cấp huyện (theo sự ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp) trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao; thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Sở Tư pháp theo quy định của pháp luật. Hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành được tiến hành thông qua Đoàn thanh tra hoặc cử thanh tra viên tiến hành độc lập. Thanh tra Sở cũng có quyền yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức tham gia các Đoàn thanh tra. Nếu phát hiện các hành vi vi phạm hành chính thì có quyền thực hiện quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà cụ thể là Nghị định 86/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính Phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp. Đồng thời, Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành hoặc huỷ bỏ những quy định trái pháp luật được phát hiện qua công tác thanh tra.
Bên cạnh đó, Thanh tra Sở Tư pháp cũng thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Ngoài ra, Thanh tra Sở cũng thực hiện một số nhiệm vụ như hướng dẫn, kiểm tra, các đơn vị thuộc Sở Tư pháp thực hiện các quy định của pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; Tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Sở Tư pháp; Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật và các nhiệm vụ do Giám đốc Sở giao.
c. Các đặc trưng cơ bản của Thanh tra Tư pháp
Thanh tra Tư pháp cũng có những đặc điểm chung như những tổ chức thanh tra của các ngành khác, đó là thực hiện chức năng thanh tra trong phạm vi quản lý Nhà nước của ngành, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý Nhà nước của Thủ trưởng cùng cấp. Tuy nhiên, Ngành Tư pháp có đặc điểm là quản lý đa lĩnh vực và theo nhiều chiều. Trong đó có lĩnh vực thì quản lý cả về mặt tổ chức và chuyên môn nghiệp như thi hành án dân sự; có nhiều lĩnh vực thì chỉ chịu trách nhiệm về mặt chuyên môn như công chứng, hộ tịch, quốc tịch, luật sư, tư vấn, bán đấu giá tài sản...; có tổ chức thuộc Ngành Tư pháp như Đại học Luật Hà Nội, Báo Pháp luật Việt Nam, Nhà Xuất bản Tư pháp…nhưng lại cũng chịu sự điều chỉnh về chuyên môn của Ngành khác. Chính những đặc điểm đó của Ngành Tư pháp đã quy định những đặc thù của Thanh tra Tư pháp như sau:
Một là, Thanh tra chuyên ngành trên nhiều lĩnh vực
Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau nên đặc điểm nổi bật nhất của Thanh tra Tư pháp là có trọng trách rất lớn trong việc thanh tra về chuyên môn, nghiệp vụ của nhiều lĩnh vực đó. Các lĩnh vực mà ngành Tư pháp quản lý là những lĩnh vực quan trọng có liên quan tới đời sống xã hội như: thi hành án dân sự; công chứng, chứng thực; hộ tịch; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; quốc tịch; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; trợ giúp pháp lý; đăng ký giao dịch bảo đảm; hợp tác với nước ngoài về pháp luật; kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật và công tác tư pháp khác. Riêng về lĩnh vực thi hành án dân sự, ngành Tư pháp có khoảng 600 cơ quan Thi hành án dân sự các cấp. Hiện nay, hầu hết các lĩnh vực chuyên ngành đã có văn bản quy định về xử lý vi phạm hành chính để xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đó. Do vậy, để phục vụ cho công tác quản lý của Ngành đối với các đối tượng trên, Thanh tra tư pháp còn phải có một lực lượng không những nhiều về số lượng mà còn phải tinh thông về nghiệp vụ mới có thể đảm đương được nhiệm vụ của mình.
Điều này cho thấy Thanh tra Tư pháp cần phải được tổ chức sao cho Thanh tra Bộ và Thanh tra các Sở Tư pháp có được mối quan hệ ràng buộc về chiều dọc để có thể chỉ đạo, hướng dẫn, điều hành về chuyên môn, nghiệp vụ trong các các hoạt động thanh tra, kiểm tra nhiệm vụ của Ngành.
Hai là, Thanh tra việc cấp và sử dụng kinh phí theo ngành dọc
Đặc điểm này xuất phát từ việc Bộ Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn cấp và quản lý về tài chính đối với tất cả các cơ quan thi hành án dân sự trên toàn quốc. Do đó, công tác thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra Tư pháp phải có những hoạt động thanh tra, kiểm tra tương ứng với công tác cấp và sử dụng kinh phí của 64 cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh và khoảng gần 600 các cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện trong phạm vi cả nước. Trong quản lý kinh phí đối với các Cơ quan Thi hành án thì kinh phí được cấp thẳng từ Bộ Tư pháp, không qua Sở Tư pháp, do đó, việc thanh tra, kiểm tra tài chính gặp nhiều khó khăn nhất định. Cụ thể là, hàng năm, Thanh tra Bộ cũng chỉ tiến hành được 2 đến 3 cuộc thanh tra sử dụng kinh phí của cơ quan thi hành án dân sự và cũng chỉ tiến hành chủ yếu là đối với cấp tỉnh. Việc thanh tra sử dụng kinh phí đối với cơ quan thi hành án cấp huyện là có mức độ. Còn Thanh tra các Sở Tư pháp không có trách nhiệm hoặc ngại không thanh tra, kiểm tra việc sử dụng kinh phí đó vì một số địa phương cho rằng kinh phí của các cơ quan thi hành án là do Bộ tư pháp cấp trực tiếp, không qua Sở Tư pháp. Chính vì vậy, việc thanh tra, kiểm tra đối với các cơ quan thi hành án cấp huyện trong việc sử dụng kinh phí là chưa được đồng đều và rộng khắp.
Ba là, Thanh tra về mặt tổ chức theo cơ chế uỷ quyền
Tuy cũng có phần giống như các ngành khác là có hoạt động quản lý về mặt tổ chức của các đơn vị trực thuộc nhưng nội dung này ở ngành Tư pháp cũng lại có điểm riêng. Đó là vấn đề quản lý về mặt tổ chức của các cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh và cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện. Bộ Tư pháp được Chính phủ giao nhiệm vụ, quyền hạn quản lý cả về mặt tổ chức và chuyên môn nghiệp vụ của công tác thi hành án dân sự. Nhưng về mặt tổ chức cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh, cơ quan Thi hành án dân sự huyện vẫn chịu sự quản lý một phần của chính quyền địa phương. Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã có Quyết định số 1148 uỷ quyền cho Giám đốc các Sở Tư pháp quản lý về mặt tổ chức của các cơ quan thi hành án dân sự. Đặc điểm này của ngành Tư pháp dẫn đến đặc thù của Thanh tra Tư pháp là: Thanh tra Bộ Tư pháp có thẩm quyền thanh tra về mặt công vụ, tổ chức, biên chế; thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật. Thanh tra Sở Tư pháp có nhiệm vụ giúp Giám đốc các Sở Tư pháp thanh tra và xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực này theo những nội dung đã được Bộ trưởng Bộ Tư pháp uỷ quyền ./.
Chuyên đề 3
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NĂNG LỰC THANH TRA TƯ PHÁP: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, YÊU CẦU MỚI ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP
Tạ Thị Tài – Thanh tra viên
Thanh tra Bộ Tư pháp
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với sự phát triển của ngành Tư pháp, Thanh tra ngành Tư pháp đã ngày một lớn mạnh, góp phần thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước của ngành. Tuy nhiên, trước hàng loạt những yêu cầu mới đặt ra đối với ngành Tư pháp hiện nay như Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam phù hợp với pháp luật quốc tế và thực tiễn phát triển của đất nước, yêu cầu cải cách hành chính …thì những gì mà Thanh tra ngành Tư pháp làm được hiện nay là chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ của ngành. Vì vậy, yêu cầu về việc nâng cao năng lực hoạt động của thanh tra ngành Tư pháp được đặt ra như một tất yếu. Trong các yếu tố cấu thành nên cái gọi là “năng lực thanh tra ngành Tư pháp” thì các quy định pháp luật là một yếu tố không thể thiếu. Các quy định pháp luật này chính là cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của thanh tra ngành Tư pháp. Các quy định pháp luật này có thể bao gồm các quy định trực tiếp hoặc gián tiếp tạo nên “năng lực hoạt động của thanh tra ngành Tư pháp”. Thiếu các quy định pháp luật này thì sẽ không thể có được bộ máy, cơ cấu tổ chức các cơ quan thanh tra Tư pháp đồng bộ, không có cơ sở cho việc hình thành đội ngũ cán bộ thanh tra Tư pháp hay cơ sở để trang bị các phương tiện, cơ sở vật chất cho thanh tra ngành Tư pháp…Nghĩa là, tạo nên các yếu tố khác của “năng lực hoạt động của thanh tra ngành Tư pháp”. Chỉ khi nào có một hệ thống các quy định pháp luật đầy đủ, đồng bộ mới có thể góp phần nâng cao năng lực hoạt động của Thanh tra Tư pháp trước những yêu cầu hiện nay.
Chuyên đề này sẽ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật với tư cách là một yếu tố cấu thành “năng lực hoạt động của Thanh tra ngành Tư pháp”, thực trạng những quy định này hiện nay cũng như những yêu cầu mới đặt ra, từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện chúng để góp phần nâng cao năng lực thanh tra ngành Tư pháp.
II. NỘI DUNG
1. Khái niệm “năng lực thanh tra Tư pháp” và “quy định của pháp luật về năng lực thanh tra Tư pháp”
Muốn tìm hiểu quy định của pháp luật về năng lực thanh tra Tư pháp, trước hết chúng ta phải hiểu thế nào là “năng lực thanh tra Tư pháp” và “quy định của pháp luật về năng lực thanh tra Tư pháp” là gì?
- Theo Từ điển tiếng Việt - Viện ngôn ngữ học – Trung tâm Từ điển học Hà Nội – Đà Nẵng do GS. Hoàng Phê chủ biên, năm 2004, (Trang 660-661), khái niệm “năng lực” được hiểu như sau:
“1. Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó.
2. Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao.”
- Thanh tra Tư pháp: là tổ chức thanh tra thuộc ngành Tư pháp; ở Trung ương có Thanh tra Bộ Tư pháp; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Thanh tra Sở Tư pháp; thực hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp theo quy định của pháp luật (Điều 1 - Nghị định số 74/2006/NĐ-CP ngày 1/8/2006 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp).
Từ khái niệm “năng lực” và “thanh tra Tư pháp” trên, chúng ta có thể hiểu “năng lực thanh tra Tư pháp” là: khả năng, điều kiện khách quan và chủ quan của tổ chức thanh tra Tư pháp (thanh tra Bộ và thanh tra Sở) để thực hiện hoạt động thanh tra Tư pháp.
Vậy, khả năng, điều kiện khách quan và chủ quan của tổ chức thanh tra Tư pháp để thực hiện hoạt động thanh tra Tư pháp là những khả năng, điều kiện nào? Hay nói cách khác, năng lực thanh tra Tư pháp được cấu thành từ những yếu tố nào? Đó là những yếu tố tạo nên khả năng, điều kiện của tổ chức thanh tra Tư pháp để thực hiện hoạt động thanh tra Tư pháp. Theo tác giả, đó là những khả năng, điều kiện hay gọi là các yếu tố cấu thành sau:
+ Quy định pháp luật
+ Cơ cấu tổ chức
+ Đội ngũ cán bộ (yếu tố con người)
+ Điều kiện, cơ sở vật chất
+ Các yêu tố khác như: cơ chế làm việc, cơ chế phối hợp công tác, chế độ ưu đãi, đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng…
- Khái niệm “Quy định của pháp luật về năng lực thanh tra Tư pháp”: Trên cơ sở các yếu tố cấu thành năng lực thanh tra Tư pháp như trên, chúng ta có thể hiểu quy định của pháp luật về năng lực thanh tra Tư pháp là tổng hợp các quy định pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ, điều kiện cơ sở vật chất và các yếu tố có liên quan khác đến hoạt động thanh tra Tư pháp.
2. Thực trạng quy định của pháp luật về năng lực thanh tra Tư pháp
2.1. Quy định pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp
* Đối với Thanh tra Bộ, theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 74/2006/NĐ-CP, thanh tra Bộ có nhiệm vụ, quyền hạn sau:
1. Thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bộ Tư pháp trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao.
2. Thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp theo quy định của pháp luật, bao gồm: kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; công chứng, chứng thực; hộ tịch; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; quốc tịch; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; trợ giúp pháp lý; đăng ký giao dịch bảo đảm; hợp tác với nước ngoài về pháp luật và công tác tư pháp khác.
3. Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
4. Thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
5. Thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
6. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành hoặc huỷ bỏ những quy định trái pháp luật được phát hiện qua công tác thanh tra.
7. Chủ trì hoặc tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp; tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật khác do Bộ trưởng giao.
8. Hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với Thanh tra Sở; hướng dẫn, kiểm tra, các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp thực hiện các quy định của pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
9. Tổng kết kinh nghiệm, xây dựng nghiệp vụ về Thanh tra Tư pháp.
10. Trưng tập cán bộ, công chức của cơ quan, đơn vị có liên quan tham gia Đoàn thanh tra.
11. Tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
12. Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật và các nhiệm vụ do Bộ trưởng giao.
* Đối với Thanh tra Sở, theo Điều 10 của Nghị định 74/2006/NĐ-CP, Thanh tra Sở Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn sau:
1. Thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Sở Tư pháp và thi hành án dân sự cấp huyện (theo sự ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp) trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao.
2. Thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Sở Tư pháp theo quy định của pháp luật gồm: kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự cấp huyện (theo sự uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); công chứng, chứng thực; hộ tịch; quốc tịch; lý lịch tư pháp; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; luật sư; tư vấn pháp luật; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; trợ giúp pháp lý và công tác tư pháp khác.
3. Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
4. Thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
5. Thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
6. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành hoặc huỷ bỏ những quy định trái pháp luật được phát hiện qua công tác thanh tra.
7. Hướng dẫn, kiểm tra, các đơn vị thuộc Sở Tư pháp thực hiện các quy định của pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
8. Yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức tham gia các Đoàn thanh tra.
9. Tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Sở Tư pháp.
10. Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật và các nhiệm vụ do Giám đốc Sở giao.
2.2. Quy định pháp luật về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp
Theo quy định của Nghị định 74/2006/NĐ-CP, về tổ chức, thanh tra Tư pháp được tổ chức ở Trung ương là Thanh tra Bộ và ở địa phương là Thanh tra Sở.
Thanh tra Tư pháp có con dấu và tài khoản riêng.
- Thanh tra Bộ là cơ quan của Bộ Tư pháp, chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Bộ trưởng, có trách nhiệm giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra tư pháp, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Thanh tra Bộ có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên thực hiện theo quy định của pháp luật.
Thanh tra Bộ có các phòng chuyên môn để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Bộ.
- Thanh tra Sở là cơ quan của Sở Tư pháp, chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Giám đốc Sở, giúp Giám đốc Sở thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Giám đốc Sở Tư pháp.
Thanh tra Sở có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên.
2.3. Quy định pháp luật về đội ngũ cán bộ thanh tra Tư pháp
Theo quy định của Nghị định số 74/2006/NĐ-CP, độ ngũ cán bộ thanh tra Tư pháp gồm có:
+ Thanh tra Bộ: Chánh thanh tra, Phó Chánh thanh tra và Thanh tra viên. Biên chế của Thanh tra Bộ do Bộ trưởng quyết định.
+ Thanh tra Sở có: Chánh thanh tra, Phó Chánh thanh tra và Thanh tra viên. Biên chế của Thanh tra Sở do Giám đốc Sở quyết định.
*Tiêu chuẩn chung của Thanh tra viên: theo quy định của Điều 31 Luật Thanh tra:
Người được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra phải có đủ các tiêu chuẩn sau đây:
a) Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, công minh, khách quan;
b) Tốt nghiệp đại học, có kiến thức quản lý nhà nước và kiến thức pháp luật; đối với Thanh tra viên chuyên ngành còn phải có kiến thức chuyên môn về chuyên ngành đó;
c) Có nghiệp vụ thanh tra;
d) Có ít nhất hai năm làm công tác thanh tra đối với người mới được tuyển dụng vào ngành thanh tra (không kể thời gian tập sự); nếu là cán bộ, công chức công tác ở cơ quan, tổ chức khác chuyển sang cơ quan thanh tra nhà nước thì phải có ít nhất một năm làm công tác thanh tra.
* Thủ tục bổ nhiệm Thanh tra viên:
+ Yêu cầu trình độ: Theo quy định tại Quyết định số 818/TTCP-VP ngày 21/10/1993 của Ban tổ chức cán bộ Chính phủ về việc ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức ngành Thanh tra Nhà nước:
- Tốt nghiệp đại học trở lên;
- Qua bồi dưỡng kiến thức cơ bản về nghiệp vụ thanh tra;
- Qua khoá đào tạo quản lý hành chính nhà nước ngạch chuyên viên;
- Trình độ chính trị trung cấp trở lên;
- Biết một ngoại ngữ ở trình độ A, đọc, hiểu sách chuyên môn.
+ Chuyển ngạch: Theo quy định của Thông tư liên tịch số 619/1999/TTLT/TTNN-BTCCBCP ngày 12/8/1999 của Thanh tra Nhà nước và Bna tổ chức cán bộ Chính phủ hướng dẫn thực hiện việc tuyển dụng, chuyển ngạch; nâng ngạch, quản lý và xử lý kỷ luật công chức thanh tra, thi hành Pháp lệnh Thanh tra ngày 1/4/1990; Pháp lệnh cán bộ công chức ngày 26/2/1998:
Công chức ở ngạch chuyên viên và các ngạch khác có trình độ chuyên môn tương đương làm việc trong tổ chức thanh tra nhà nước có thời gian làm công tác thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo tối thiểu 1 năm trở lên, có năng lực, phẩm chất, đạo đức đảm bảo tiêu chuẩn nghiệp vụ của các ngạch thanh tra viên theo Quyết định số 818/TCCB-CP ngày 21/10/1993 của Bộ trưởng, Trưởng ban Ban tổ chức cán bộ Chính phủ thì được xét chuyển để bổ nhiệm vào các ngạch thanh tra viên.
Rõ ràng những quy định này là chưa thống nhất với nhau. Quyết định số 818/TTCP-VP ngày 21/10/1993 của Ban tổ chức cán bộ Chính phủ về việc ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức ngành Thanh tra Nhà nước và Thông tư liên tịch số 619/1999/TTLT/TTNN-BTCCBCP ngày 12/8/1999 của Thanh tra Nhà nước và Ban tổ chức cán bộ Chính phủ hướng dẫn thực hiện việc tuyển dụng, chuyển ngạch; nâng ngạch, quản lý và xử lý kỷ luật công chức thanh tra đều là những văn bản đã ban hành từ rất lâu, không còn phù hợp với thực tiễn và đặc biệt là với Luật Thanh tra năm 2004.
2.4. Quy định pháp luật về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Thanh tra Tư pháp
Hiện nay, chưa có quy định trực tiếp nào quy định về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Thanh tra Tư pháp. Do vậy, vẫn phải áp dụng các quy định chung đối với mọi cán bộ, công chức theo quy định của Chính phủ như: Quyết định số 170/2006/QĐ-TTg ngày 18/7/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định tiêu chuẩn, định mức trang thiết bị và phương tiện làm việc của cơ quan và cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 9 Nghị định 100/2007 quy định: Thanh tra viên được sử dụng các phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ theo quy định của pháp luật để phục vụ công tác thanh tra.
Trên thực tế, để phục vụ cho công tác chuyên môn mang tính đặc thù của mình, mỗi đơn vị thanh tra đều rất cần được trang bị các phương tiện kỹ thuật khác. Đơn giản như: máy ảnh, máy ghi âm, máy tính tay, thước dây, phức tạp hơn như máy tính xách tay, máy quay camera…Việc trang bị các phương tiện này cũng nên có những quy định cụ thể, ít nhất là trong cùng ngành để đảm bảo đồng bộ và góp phần nâng cao năng lực ngành Tư pháp.
2.5. Một số quy định pháp luật khác ảnh hưởng đến năng lực của Thanh tra Tư pháp
2.5.1. Quy định pháp luật về thanh tra
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra hiện nay đã và đang được hoàn thiện. Về cơ bản, các quy định về thanh tra hiện nay là tương đối đầy đủ. Các quy định pháp luật về thanh tra có ảnh hưởng đến năng lực hoạt động của thanh tra ngành Tư pháp về cơ bản bao gồm các văn bản sau:
- Luật Thanh tra (2004);
- Nghị định số 41/2005/NĐ-CP ngày 25/3/2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra;
- Quyết định số 2151/2006/QĐ-TTCP ngày 10/11/2006 của Thanh tra Chính phủ ban hành Quy chế hoạt động của Đoàn thanh tra;
- Nghị định số 100/2007/NĐ-CP về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra;
- Quyết định số 202/2005/QĐ-TTg ngày 9/8/2005 của Thủ tướng Chính phủ về phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với thanh tra viên;
- Thông tư liên tịch số 42/2006/TTLT/BTC-TTCP ngày 15/5/2006 hướng dẫn lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của các cơ quan Thanh tra Nhà nước;
Trên cơ sở các văn bản này quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của thanh tra chuyên ngành mà chúng ta đã có Nghị định số 74/2006/NĐ-CP ngày 1/8/2006 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp. Các văn bản này cũng đã quy định chung về quan hệ công tác, chế độ của cán bộ, công chức ngành thanh tra...Tuy nhiên, trong các văn bản này vẫn còn một số quy định cần được hướng dẫn cụ thể hơn nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn, ví dụ như quy định về trang phục cho cán bộ, công chức ngành thanh tra. Hiện nay, việc này vẫn đang áp dụng quy định cũ và chỉ được áp dụng với những ai đã được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra viên.
2.5.2. Quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo
Những năm gần đây, các văn bản quy phạm pháp luật quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo liên tục được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn cũng như các quy định của WTO khi chúng ta ra nhập tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu này. Điều này cũng ảnh hưởng ít nhiều đến năng lực hoạt động của thanh tra ngành Tư pháp. Vì đây cũng là một trong những mảng công tác chính của thanh tra.
- Luật Khiếu nại, tố cáo 1998;
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo 2004;
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo 2005;
- Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo;
- Thông tư số 01/2006/TT-BNV ngày 13/1/2006 của Bộ Nội vụ hướng dẫn chi tiết việc giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước.
2.5.3. Quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng
Thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về chống tham nhũng là một trong những nhiệm vụ cảu các cơ quan thanh tra nói chung và thanh tra ngành tư pháp nói riêng. Do vậy, các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng cũng có ảnh hưởng đến năng lực hoạt động của thanh tra ngành Tư pháp. Khi các quy định này đầy đủ, đồng bộ thì sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động của thanh tra ngành Tư pháp và ngược lại, nếu quy định không đầy đủ, đồng bộ thì sẽ ảnh hưởng theo hướng hạn chế đối với hoạt động của thanh tra ngành Tư pháp. Các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng hiện nay là các quy định mới và đang được hoàn thiện. Về cơ bản, chúng bao gồm các văn bản sau:
- Luật Phòng, chống tham nhũng;
- Nghị định số 107/2008/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
- Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng;
- Nghị định số 37/2007/NĐ-CP ngày 9/3/2007 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập.
Các quy định pháp luật về phòng chống tham nhũng đã quy định trách nhiệm phối hợp của cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án và của cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan. Theo đó, cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với nhau và phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan trong việc phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận, quyết định của mình trong quá trình thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử vụ việc tham nhũng.
2.5.4. Quy định pháp luật về các lĩnh vực hoạt động của ngành Tư pháp
Theo quy định của Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003, Bộ Tư pháp có chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: xây dựng pháp luật; kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; công chứng, chứng thực; hộ tịch; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; quốc tịch; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; trợ giúp pháp lý; đăng ký giao dịch bảo đảm. Đó cũng chính là phạm vi thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Bộ Tư pháp. Các quy định pháp luật này ảnh hưởng đến năng lực hoạt động của Thanh tra ngành tư pháp như sau:
Thứ nhất, Bộ Tư pháp là Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, do đó, quy định pháp luật về các lĩnh vực hoạt động của ngành Tư pháp là rất nhiều. Mỗi lĩnh vực lại bao gồm nhiều các văn bản luật, nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành và mỗi lĩnh vực đều là những nghiệp vụ chuyên môn riêng. Do đó, để thực hiện được chức năng thanh tra chuyên ngành trên tất cả các lĩnh vực này, đòi hỏi cán bộ, công chức thanh tra ngành tư pháp phải tìm hiểu, nắm bắt và thông thạo một khối lượng không nhỏ các quy định pháp luật. Điều này là không hề dễ dàng. Hơn thế nữa, hệ thống pháp luật nước ta nói chung và các quy định pháp luật trong các lĩnh vực quản lý của ngành tư pháp nói riêng đều đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Do đó, khối lượng các văn bản mới ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung hàng năm là rất lớn. Nên không phải cán bộ, công chức thanh tra tư pháp nào cũng có điều kiện cập nhật, nghiên cứu để nắm rõ, hiểu rõ một cách kịp thời phục vụ cho công tác thanh tra của mình.
Thứ hai, do có nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực quản lý của ngành tư pháp như vậy, trong khi hệ thống pháp luật đang trong quá trình hoàn thiện, trong đó có pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Do đó, còn có nhiều mâu thuẫn, bất cập giữa các quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo của Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành với các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực do ngành Tư pháp quản lý. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực hoạt động của thanh tra ngành Tư pháp. Dưới đây tác giả đưa ra ví dụ về sự mâu thuẫn, bất cập này trong hai lĩnh vực còn tồn tại nhiều khiếu nại nhất của ngành Tư pháp, đó là lĩnh vực thi hành án dân sự.
* Xung đột về trình tự, thẩm quyền giải quyết khiếu nại giữa Pháp lệnh THADS 2004, Luật KNTC và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính:
Thứ nhất, có bao nhiêu cấp giải quyết trong giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự ?
Trình tự, thẩm quyền giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự được quy định khá chi tiết tại Điều 60 và 61 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Về nguyên tắc khiếu nại về thi hành án dân sự được giải quyết ở hai cấp hành chính và có hiệu lực thi hành.
Tuy nhiên, khoản 5 của Điều 60 và khoản 3 Điều 61 Pháp lệnh thi hành án dân sự quy định về việc Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có thẩm quyền và trách nhiệm việc xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật của Thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quản quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp và Thủ trưởng Cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng trong những trường hợp cần thiết.
Thực tế công tác giải quyết khiếu nại trong nhiều năm nay ở Bộ Tư pháp vẫn “vận dụng” giải quyết khiếu nại theo 3 cấp, thậm chí 4 cấp. Cụ thể là sau khi có quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 của Trưởng THADS cấp tỉnh (là quyết định có hiệu lực thi hành) nhưng Cục THADS vẫn thụ lý và ra quyết định giải quyết lần 3, nếu đương sự còn tiếp tục khiếu nại thì Bộ trưởng giao cho Thanh tra Bộ xác minh, kết luận, kiến nghị lên Bộ trưởng để ra quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng. Có thể khẳng định rằng: theo quy định của Pháp lệnh THADS 2004 thì trong một số trường hợp (cần thiết) khiếu nại về thi hành án dân sự có thể được giải quyết ba lần ở cơ quan hành chính theo ngành dọc. Trong khi đó, tại khoản 5, Điều 32 của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã được sửa đổi bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại tố cáo năm 2005 (sau đây gọi là Luật KNTC hiện hành) quy định “việc khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai” không được thụ lý giải quyết, tức là một vụ việc khiếu nại chỉ có thể được giải quyết tối đa hai lần ở các cơ quan hành chính. Rõ ràng, những quy định của Điều 60 và 61 của Pháp lệnh THADS 2004 về trình tự thẩm quyền là xung đột và mâu thuẫn với quy định của Luật KNTC hiện hành.
Thứ hai, người khiếu nại về thi hành án dân sự có quyền được khởi kiện ra Toà án không?
Theo quy định của Điều 36 và Điều 49 của Luật Khiếu nại tố cáo hiện hành thì người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ việc ra toà hành chính bất kể lần một hoặc lần hai khi không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền của cơ quan hành chính.
Tuy nhiên, Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004 không quy định việc người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính ra Toà án mà chỉ quy định việc Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có thẩm quyền xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp dưới như đã phân tích ở trên.
Mặt khác, Điều 11 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2006) đã quy định chỉ có 22 khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, trong số đó không có quy định khiếu kiện về thi hành án dân sự. Do đó, dù người khiếu nại về THADS khởi kiện tại Toà thì vẫn bị Toà án từ chối vì khiếu kiện về THADS không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Chính vì xung đột này giữa Pháp lệnh THADS 2004, Luật KNTC và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính mà người khiếu nại bị hạn chế quyền khiếu nại và không có “lối thoát” nên hầu hết các vụ việc khiếu nại bức xúc, nổi cộm, kéo dài đều dồn về Bộ Tư pháp. Thậm chí, có nhiều trường hợp sau khi có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng rồi nhưng đương sự vẫn “kiên trì” đi khiếu nại các cấp, các nơi và bức xúc quá đổi thành “Đơn tố cáo” những người đã tham gia giải quyết khiếu nại.
Thứ ba, có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng trong giải quyết khiếu nại về THADS hay không?
Theo quy định tại khoản 4, Điều 60 và khoản 2, Điều 61 của Pháp lệnh THADS năm 2004 thì quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng và trong trường hợp này người khiếu nại dù không đồng ý, bức xúc với quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hay với quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ quốc phòng thì cũng không có quyền khiếu nại đến bất cứ đâu nữa.
Ngược lại với quy định này của Pháp lệnh THADS 2004, Luật KNTC hiện hành đã bỏ khái niệm "quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng" và ngoài việc được quyền khiếu nại tối đa trong hai cấp hành chính, một vụ việc thông thường còn được khởi kiện ra Toà hành chính bất cứ sau lần giải quyết thứ nhất hay sau lần giải quyết thứ hai. Một khi vụ việc đã được khởi kiện ra Toà thì theo quy định về thủ tục giải quyết vụ án hành chính rất khó có thể xác định được cấp nào sẽ là cấp giải quyết cuối cùng vì sau khi có bản án sơ thẩm, tiếp đến là thủ tục kháng án theo trình tự phúc thẩm, rồi có thể có giám đốc thẩm hay tái thẩm và có thể bản án lại được huỷ để xét xử sơ thẩm lại từ đầu...Nói cách khác, quy định về thẩm quyền “giải quyết khiếu nại cuối cùng” của Pháp lệnh THADS 2004 là mâu thuẫn, bất cập với Luật KNTC và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính hiện hành.
*Xung đột về thời hạn giải quyết khiếu nại
Pháp lệnh THADS 2004 và Luật KNTC hiện hành quy định về thời hạn giải quyết khiếu nại cũng có sự mâu thuẫn, xung đột. Nếu như Luật KNTC quy định thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu đối với một vụ việc không phức tạp là 30 ngày và 45 ngày đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn (khoản 1, Điều 36) thì Pháp lệnh THADS 2004 quy định thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu về quyết định, hành vi trái pháp luật của chấp hành viên, thủ trưởng cơ quan thi hành án các cấp chỉ có 15 ngày. Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai được Luật KNTC quy định tại khoản 1, Điều 43 đối với một vụ việc không phức tạp là 45 ngày và 60 ngày đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn, trong khi đó thời hạn này được quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 60 và khoản 1, 2 Điều 61 của Pháp lệnh THADS 2004 chỉ là 30 ngày. Xung đột này là nguyên nhân của không ít tranh luận về vấn đề áp dụng quy định về thời hạn của văn bản pháp luật nào, Pháp lệnh THADS 2004 hay Luật KNTC hiện hành?
* Bất cập về chế định vai trò của luật sư trong khiếu nại về THADS
Câu hỏi được nhiều người (kể cả người khiếu nại và người giải quyết khiếu nại...) đặt ra là: người khiếu nại về THADS có được mời luật sư tham gia giúp đỡ không ?
Pháp lệnh THADS năm 2004 không có quy định nào về vấn đề này, trong khi đó tại điểm b, khoản 1, Điều 17 Luật KNTC 2005 quy định người khiếu nại có quyền "Nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật trong quá trình khiếu nại". Hơn nữa, quy định này của Luật KNTC còn được cụ thể hoá rất chi tiết về quyền và nghĩa vụ của luật sư khi được người khiếu nại mời giúp đỡ cũng như là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong việc tạo điều kiện thuận lợi để luật sư giúp đỡ người khiếu nại về pháp luật trong quá trình giải quyết khiếu nại tại Điều 3 của Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật KNTC và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KNTC.
Rõ ràng. đây là một bất cập của Pháp lệnh THADS 2004 so với Luật KNTC hiện hành, trong khi Luật KNTC đã có một “bước tiến mới" (vì theo quy định của pháp luật KNTC trước đó thì luật sư không được tham gia khiếu nại) thì Pháp lệnh THADS 2004 không hề đề cập gì đến nội dung này.
3. Nguyên nhân, yêu cầu mới đặt ra và giải pháp đối với các quy định của pháp luật về năng lực thanh tra Tư pháp
* Nguyên nhân
Sở dĩ, những quy định pháp luật về năng lực thanh tra ngành Tư pháp còn có những hạn chế, mâu thuẫn, bất cập, chưa hoàn thiện như trên là do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân cơ bản sau:
- Hệ thống pháp luật của nước ta nói chung và pháp luật quy định về năng lực thanh tra ngành Tư pháp nói riêng đang trong quá trình hoàn thiện nên không tránh khỏi còn có những hạn chế, bất cập.
- Tình trạng luật ban hành một cách chung chung, một văn bản luật ra đời lại phải có nhiều văn bản dưới luật (Nghị định, Thông tư) hướng dẫn thi hành mà các văn bản này thường được ban hành chậm hơn văn bản luật rất nhiều, thậm chí cơ quan có trách nhiệm ban hành còn chờ một thời gian khi văn bản luật, nghị định đi vào thực tế xem có vướng mắc gì mới hướng dẫn thi hành tiếp. Do vậy, trong thời gian chưa có văn bản hướng dẫn mới, chắc chắn các quy định pháp luật sẽ bị thiếu, chưa đồng bộ.
- Khi một văn bản pháp luật được ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung, ví dụ: Luật Khiếu nại, tố cáo thì không phải ngay một lúc mà quy định liên quan ở tất cả các văn bản khác cũng có thể được sửa đổi, bổ sung ngay cho phù hợp. Nên tất yếu sẽ tồn tại những mâu thuẫn, bất cập nếu các quy định ở các văn bản khác không được quy định dưới dạng động và mở.
* Yêu cầu mới đặt ra đối với các quy định pháp luật về năng lực thanh tra ngành Tư pháp
Trước những yêu cầu mới đặt ra đối với thanh tra ngành Tư pháp hiện nay, đòi hỏi năng lực thanh tra ngành Tư pháp cần phải được tăng cường. Do đó, mỗi yếu tố cấu thành “năng lực thanh tra ngành Tư pháp” cần phải được “tăng cường”. Tuỳ từng yếu tố mà các giải pháp tăng cường là khác nhau. Các quy định pháp luật về năng lực thanh tra tư pháp cũng cần phải được hoàn thiện bằng cách ban hành các văn bản mới, nếu chưa có và sửa đổi, bổ sung nếu những quy định hiện thời bất cập, mâu thuẫn, không phù hợp sao cho đáp ứng yêu cầu về tăng cường năng lực thanh tra ngành Tư pháp hiện nay. Cụ thể như:
- Quy định về tổ chức bộ máy các cơ quan thanh tra Tư pháp phải đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng, tạo thành hệ thống từ Trung ương đến địa phương với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng, tạo cho cơ quan thanh tra Tư pháp có đủ bộ máy và “sức mạnh” cần thiết để tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ quản lý của ngành. Các quy định pháp luật hiện nay (Luật Thanh tra, Nghị định 41/2005/NĐ-CP, Nghị định 74/2006/NĐ-CP) về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu này, vì đây là những quy định mới ban hành. Vấn đề còn lại là tổ chức thực hiện trên thực tế. Vấn đề này sẽ được đề cập và giải quyết ở một chuyên đề khác.
- Quy định về đội ngũ cán bộ thanh tra ngành Tư pháp: phải có tiêu chuẩn, điều kiện, năng lực trình độ rõ ràng. Ngoài việc phù hợp với quy định chung về tiêu chuẩn thanh tra viên do Chính phủ quy định, quy định về cán bộ thanh tra ngành Tư pháp cần có những điều kiện riêng phù hợp và đáp ứng yêu cầu công tác của ngành.
- Quy định về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc đối với các cơ quan thanh tra ngành Tư pháp: ngoài tiêu chuẩn, định mức theo quy định chung đối với cán bộ, công chức cơ quan hành chính nhà nước, cần có quy định cụ thể về việc trang bị các phương tiện kỹ thuật phục vụ yêu cầu công tác chuyên môn của thanh tra ngành Tư pháp.
- Các quy định pháp luật có liên quan khác, ảnh hưởng đến năng lực thanh tra ngành Tư pháp như pháp luật về khiếu nại, tố cáo; pháp luật về phòng, chống tham nhũng; pháp luật về các lĩnh vực hoạt động của ngành Tư pháp…đều phải được hoàn thiện, thống nhất với nhau. Vì đây chính là các quy định pháp luật về mặt nội dung và quá trình hoạt động của thanh tra ngành Tư pháp phải tuân theo. Nếu các quy định này còn mâu thuẫn, bất cập, chưa hoàn thiện thì quá trình thưc hiện công tác thanh tra và giải quyết các vụ việc của thanh tra ngành Tư pháp sẽ gặp khó khăn và tất yếu, năng lực thanh tra ngành Tư pháp sẽ bị ảnh hưởng.
*Một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm nâng cao năng lực thanh tra ngành tư pháp:
- Ban hành quy định pháp luật về cán bộ, thanh tra viên thanh tra ngành Tư pháp, bao gồm: tiêu chuẩn, điều kiện, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, hồ sơ bổ nhiệm. Trong đó quy định rõ yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ học vấn và các chứng chỉ đi kèm. Hiện nay, Luật Thanh tra có đưa ra quy định chung đối với thanh tra viên, nhưng những quy định về việc bổ nhiệm thanh tra viên vẫn theo các văn bản hướng dẫn của Pháp lệnh thanh tra năm 90. Do đó, còn có những mâu thuẫn, bất cập, không phù hợp.
- Ban hành quy định pháp luật về điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho công tác chuyên môn của từng cơ quan thanh tra trong ngành Tư pháp.
- Tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo theo hướng tách riêng thành 2 luật: Luật Khiếu nại và giải quyết khiếu nại, Luật Tố cáo và giả quyết tố cáo. Trong đó, không nên quy định cơ quan giải quyết khiếu nại lần đầu là chính cơ quan có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại. Vì trên thực tế, hầu hết là không cơ quan nào tự nhận là mình sai. Do đó, nếu vẫn để quy định này thì chỉ làm kéo dài thời gian giải quyết khiếu nại mà thôi.
- Sửa đổi quy định về mặt tổ chức đối với các Toà Hành chính theo hướng Toà Hành chính được thành lập theo khu vực, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính cùng cấp như hiện nay để đảm bảo tính độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật của Toà. Có như vậy, các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại mới được xem xét, giải quyết một cách khách quan, đúng pháp luật.
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các văn bản pháp luật về các lĩnh vực quản lý, hoạt động của ngành Tư pháp, như: quy định giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự, trong quản lý và đăng ký hộ tịch, trong công chứng, chứng thực, trong bán đấu giá tài sản, trong lĩnh vực Luật sư, trong đăng ký giao dịch bảo đảm…theo hướng quy định chung: thực hiện theo quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo hiện hành. Có như vậy, khi pháp luật khiếu nại, tố cáo thay đổi thì những quy định trong các văn bản chuyên ngành sẽ không bị mâu thuẫn, bất cập và đương nhiên được thực hiện theo những quy định mới.
III. KẾT LUẬN
Từ những nghiên cứu trên cho chúng ta thấy, về cơ bản các quy định pháp luật về năng lực thanh tra ngành Tư pháp hiện nay là tương đối đầy đủ. Đây là những quy định mới được ban hành trong thời gian gần đây nên về cơ bản là phù hợp với yêu cầu hiện nay. Tuy nhiên, những quy định pháp luật không quy định trực tiếp về năng lực thanh tra ngành Tư pháp mà tác giả gọi là “những quy định pháp luật ảnh hưởng đến năng lực thanh tra ngành Tư pháp” thì lại có những bất cập, cần phải được sửa đổi, bổ sung góp phần nâng cao năng lực thanh tra ngành Tư pháp.
Trên cơ sở phân tích những quy định pháp luật hiện tại, những yêu cầu mới đặt ra hiện nay đối với thanh tra ngành Tư pháp, tác giả đã mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật này. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định này cần phải được tiến hành một cách đồng bộ, kịp thời mới có thể mang lại hiệu quả như mong muốn.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, chuyên đề không tránh khỏi còn có những hạn chế, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các đồng chí để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
------------------------------------
Chuyên đề 4
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC THANH TRA TƯ PHÁP: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, YÊU CẦU MỚI ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP
|
Nguyễn Văn Sơn – Phó Chánh thanh tra
Thanh tra Bộ Tư pháp
|
Đặt vấn đề
Ngành Tư pháp không ngừng phát triển và đã có những bước trưởng thành về mọi mặt, cho đến nay đã có một hệ thống tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương với đội ngũ đông đảo về số lượng, chất lượng ngày càng được nâng cao và có thể nói là đã khẳng định được vị trí, vai trò trong đời sống xã hội. Cùng với sự đổi mới của đất nước, nhiệm vụ của ngành tư pháp ngày càng được giao nhiều hơn, nặng nề hơn, quản lý nhiều lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc. Để phục vụ đắc lực cho sự quản lý điều hành tốt hơn nữa, Lãnh đạo Bộ Tư pháp luôn xác định công tác thanh tra, kiểm tra của ngành cần phải được củng cố, kiện toàn hơn nữa để đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý trong giai đoạn mới.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ thanh tra ngành tư pháp đã được xác định, hoạt động của công tác thanh tra nhằm phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo ngành, góp phần vào việc bảo đảm chấp hành đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước với phương hướng, nhiệm vụ công tác của ngành đề ra. Những kết quả trong hoạt động của Thanh tra toàn ngành đạt được trong thời gian qua càng khẳng định công tác thanh tra có vai trò hết sức quan trọng không thể thiếu được trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp; lực lượng cán bộ, công chức Thanh tra ngành Tư pháp cũng đang ngày càng trưởng thành và lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, góp phần không nhỏ trong việc thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về công tác tư pháp trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, trước những đòi hỏi ngày càng nặng nề về chức năng, nhiệm vụ của ngành Tư pháp hiện nay, thực trạng về đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra Tư pháp cũng còn nhiều tồn tại, bất cấp.
Với ý nghĩa đội ngũ cán bộ, công chức là một yếu tố quan trọng, quyết định năng lực của Thanh tra Tư pháp và cũng là một trong những vấn đề cấp thiết cần được đặt ra hiện nay; để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao và làm cơ sở cho việc nghiên cứu, triển khai Đề án "Tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp", trong nội dung này, chúng tôi mong muốn cung cấp các thông tin về thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức của Thanh tra Ngành tư pháp, tìm ra nguyên nhân của những khó khăn, tồn tại và đề xuất một số giải pháp khắc phục các khó khăn, tồn tại đó.
I. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ THANH TRA TƯ PHÁP
1. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra Bộ
Tổng biên chế của Thanh tra Bộ hiện nay là 21 người, trong đó có 12 nam, 9 nữ, 19 đồng chí là Đảng viên, 03 công chức lãnh đạo (01 Quyền Chánh Thanh tra và 02 Phó Chánh Thanh tra, 03 Trưởng phòng và 04 Phó Trưởng phòng). Một trong những thế mạnh của Thanh tra Bộ Tư pháp hiện nay là phần lớn lực lượng này đang ở vào độ tuổi rất hợp với công tác thanh tra, trong số 21 biên chế chỉ có 03 người thuộc độ tuổi: 51 -60, 05 người thuộc độ tuổi: 41-50, còn lại là 10 người thuộc độ tuổi: 31-40 và 03 người dưới 30 tuổi.
Tuổi đời như vậy nhưng thâm niên và kinh nghiệm công tác của lực lượng Thanh tra Bộ Tư pháp cũng có thể nói là khá yên tâm, hiện tại Thanh tra Bộ có 05 người có kinh nghiệm công tác trên 10 năm, 07 người có kinh nghiệm công tác từ 06 đến 10 năm và 09 người có kinh nghiệm công tác dưới 6 năm.
Về lực lượng Thanh tra viên, Thanh tra Bộ hiện nay có 18 Thanh tra viên (trong đó có 05 Thanh tra viên chính và hiện nay, Thanh tra Bộ chưa có Thanh tra viên cao cấp), chiếm 85,7 % tổng số cán bộ, công chức Thanh tra Bộ, còn lại 03 chuyên viên, trong đó 02 đồng chí đã học qua lớp nghiệp vụ Thanh tra cơ bản do Thanh tra Chính phủ tổ chức nhưng do mới được tuyển dụng vào Thanh tra Bộ (chưa hết tập sự) nên chưa đủ điều kiện bổ nhiệm Thanh tra viên.
Về trình độ chuyên môn, những năm gần đây nhờ chính sách tuyển dụng công khai và sự quan tâm của Lãnh đạo Bộ, của Vụ Tổ chức cán bộ, nhìn chung mặt bằng trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức Thanh tra Bộ cũng đã được nâng lên rõ rệt. Hiện nay, Thanh tra Bộ có 03 người có trình độ thạc sỹ (trong đó có 01 người có 02 Bằng thạc sỹ), 04 đồng chí đang trong quá trình bảo vệ luận văn thạc sỹ, 01 đồng chí đang học thạc sỹ năm thứ nhất và 02 đồng chí đang học thạc sỹ tại nước ngoài, còn lại 11 người có bằng Đại học Luật, ngoài ra còn có 02 người có Bằng cử nhân kinh tế, 01 người có bằng cử nhân báo chí, 01 người có bằng Đại học An ninh.
Về trình độ chính trị, trong tổng số 21 biên chế hiện nay, Thanh tra Bộ có bốn người có trình độ cao cấp chính trị, còn lại 19 người có trình độ trung cấp chính trị hoặc tương đương.
Về trình độ ngoại ngữ, hiện nay, Thanh tra Bộ có 8 người đạt trình độ C tiếng Anh (trong đó có 03 đồng chí đã đi học cao học nước ngoài bằng Tiếng Anh), 01 người đạt trình độ C tiếng Pháp và 7 người có trình độ B tiếng Anh, 01 người có trình độ B tiếng Nga, 02 người có trình độ A tiếng Nga, còn lại 02 người có trình độ A tiếng Anh.
Về trình độ tin học, mặc dù những năm gần đây trình độ tin học của cán bộ, công chức Thanh tra Bộ đã được cải thiện nhưng vẫn chưa theo kịp với sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin, chưa đáp ứng được yêu cầu hiện tại của công việc, trong số 21 biên chế của đơn vị hiện nay mới chỉ có 01 người đạt trình độ C tin học văn phòng, 07 người có trình độ B và còn lại 13 người có trình độ A.
2. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra Sở
Theo kết quả của lần đầu tiên Thanh tra Bộ thực hiện khảo sát tương đối toàn diện về thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra Sở Tư pháp thì hiện nay trên toàn quốc có 63/63 tỉnh thành đã thành lập tổ chức thanh tra của Sở Tư pháp và có 115 người làm công tác này (80 nam và 35 nữ), trung bình mỗi Sở chỉ có khoảng 2 người. Trong đó, tổng số biên chế chính thức của Thanh tra các Sở Tư pháp là 110 người, Thanh tra Sở có biên chế cao nhất cao nhất là 04 người (STP thành phố HCM và tỉnh Nghệ An), 06 Thanh tra Sở có 03 biên chế, 33 Thanh tra Sở có 02 biên chế và 18 Thanh tra Sở có 01 biên chế, còn lại 05 Sở Tư pháp vẫn chưa có biên chế chính thức mà sử dụng cán bộ kiêm nhiệm của các phòng ban hoặc bộ phận khác làm công tác thanh tra.
Về độ tuổi của cán bộ, công chức Thanh tra các Sở Tư pháp, trong tổng số 115 người làm công tác thanh tra của các Sở Tư pháp có 29 người thuộc độ tuổi từ 20-30 (chiếm 25,2%), 34 người từ 31-40 (chiếm 29,6%), 33 người từ 41-50 (chiếm 28,7%) và có 19 người từ 50 đến dưới 60 tuổi (chiếm 16,5%).
Về công chức lãnh đạo, trong số 63 Sở Tư pháp tỉnh, thành đã có tổ chức thanh tra thì chỉ mới có 41 tổ chức có Chánh Thanh tra (chiếm 65%), 11 tổ chức có cả Chánh Thanh tra và 01 Phó Chánh thanh tra, 09 Sở Tư pháp chỉ có 01 Phó Chánh Thanh tra Sở mà không có Chánh Thanh tra, chưa có Sở Tư pháp nào có từ 02 Phó Chánh thanh tra trở lên, đặc biệt vẫn còn 11 tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp chưa có Lãnh đạo thanh tra.
Về lực lượng thanh tra viên, trong số 115 cán bộ làm công tác thanh tra của các Sở Tư pháp hiện nay, mới chỉ có 37 thanh tra viên (chiếm tỷ lệ 32%), 73 chuyên viên (chiếm tỷ lệ 64%), đặc biệt vẫn còn 05 địa phương người làm công tác Thanh tra Tư pháp còn đang ở ngạch cán bộ (chiếm tỷ lệ 4%). Trong số 37 Thanh tra viên thì chỉ có duy nhất 01 Sở Tư pháp có 03 Thanh tra viên (STP tỉnh Nghệ An), còn lại 06 Sở Tư pháp có 02 Thanh tra viên, 22 Sở Tư pháp có 01 Thanh tra viên và còn 35 Sở Tư pháp chưa có Thanh tra viên.
Về trình độ chuyên môn, trong tổng số lực lượng cán bộ, công chức làm công tác thanh tra ở các Sở Tư pháp hiện nay mới chỉ có 05 người có trình độ thạc sỹ (trong đó 01 Thanh tra Sở Tư pháp duy nhất có 02 người có trình độ thạc sỹ), 108 người có trình độ đại học (trong đó có 01 người tốt nghiệp Đại học Kinh tế; 01 người tốt nghiệp Đại học ngoại ngữ; 01 người tôt nghiệp Đại học Quản trị kinh doanh, còn lại 105 người là cử nhân luật).
Về trình độ chính trị, đội ngũ cán bộ công chức Thanh tra các Sở Tư pháp hiện nay mới chỉ có 18 người đạt trình độ cử nhân chính trị, 04 người đạt trình độ cao cấp chính trị, 82 người có trình độ trung cấp chính trị hoặc tương đương, đáng lưu ý vẫn còn 11 người mới chỉ có trình độ sơ cấp chính trị.
Về trình độ ngoại ngữ, hiện nay trong tổng cán bộ, công chức làm công tác thanh tra tại các sở Tư pháp ngoài 01 người có trình độ Đại học Ngoại ngữ, mới chỉ có 05 người đạt trình độ C tiếng Anh, 36 người có trình độ B tiếng Anh, 41 người có trình độ A tiếng Anh, còn lại là không biết tiếng Anh hoặc biết ngoại ngữ khác nhưng đã lâu quá không sử dụng đến.
Về trình độ tin học, lực lượng Thanh tra Tư pháp ở các Sở Tư pháp hiện nay cũng chỉ đạt kiến thức, kỹ năng về tin học văn phòng ở trình độ C: 03 người; trình độ B: 37 người; trình độ A 58 người và vẫn còn 02 người chưa được đào tạo về tin học.
II. ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ THANH TRA TƯ PHÁP
1. Những điểm đã đạt được
Kể từ khi ra đời cho đến nay, lực lượng thanh tra ngành Tư pháp đã dần ổn định, có những bước phát triển và ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của mình trong những thành tích và sự nghiệp phát triển chung của toàn ngành Tư pháp. Nhìn lại lịch sử phát triển của lực lượng Thanh tra cho thấy, trước những năm 1990, ngay tại Thanh tra Bộ, lực lượng cán bộ, công chức cũng còn rất hạn chế, được coi như chiếc "túi" đựng để thu nhận những người thừa của đơn vị khác hoặc không thể bố trí đi đâu khác, Thanh tra được ví như bánh xe thứ năm, bánh xe "Sơ cua", có lúc thậm chí chỉ có 2 người (1 Lãnh đạo, 1 Chuyên viên). Cho đến năm 1990, Biên chế của Thanh tra Bộ chỉ 4 người, trong đó có 2 Lãnh đạo, 2 chuyên viên. Sau khi có Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, đội ngũ cán bộ, công chức của Thanh tra Bộ đã dần dần được củng cố, tăng cường lên tới 14 người vào năm 2003 (có 01 Chánh thanh tra, 01 Phó Chánh thanh tra, 01 Thanh tra viên chính, 02 Thanh tra viên và còn lại là chuyên viên). Đặc biệt, sau khi Luật Thanh tra năm 2004 ra đời, lực lượng đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra Bộ Tư pháp đã được củng cố, tăng cường lên một mức mới, thay đổi cả về số lượng và chất lượng như những số liệu đã đưa ra ở phần trên.
Đối với Thanh tra các Sở Tư pháp, trong giai đoạn đầu, lực lượng Thanh tra các Sở Tư pháp cũng còn rất mỏng, thiếu nhiều về tổ chức, số lượng biên chế và đa số cũng còn yếu về chất lượng. Cụ thể là, đến năm 1999, cả nước mới chỉ có 34 Sở Tư pháp có tổ chức thanh tra và gần 80 người làm công tác thanh tra ở các Sở Tư pháp, trong số đó chỉ có 12 người đã học qua lớp nghiệp vụ thanh tra cơ bản do Trường Cán bộ thanh tra tổ chức. Cũng như tình hình phát triển của lực lượng cán bộ, công chức tại Thanh tra Bộ, sau khi Luật Thanh tra 2004 ra đời, số lượng cán bộ, công chức làm công tác Thanh tra tại các Sở Tư pháp đã tăng lên đáng kể và đặc biệt đã có 37 thanh tra viên (chiếm tỷ lệ 32%).
Như vậy, nhìn chung từ khi có Pháp lệnh thanh tra 1990, nhất là sau khi Luật Thanh tra năm 2004 ra đời, lực luợng cán bộ, công chức Thanh tra Tư pháp đã có những bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, góp phần không nhỏ giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Giám đốc các Sở Tư pháp hoàn thành nhiệm vụ được giao.
2 Tồn tại và nguyên nhân
Mặc dù có những phát triển như đã phân tích ở trên nhưng nếu nhìn nhận thật khách quan thì đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra Tư pháp, từ khi được thành lập đến nay chưa bao giờ được đầy đủ, toàn diện dẫn đến hoạt động bị hạn chế rất nhiều, chưa đáp ứng được những yêu cầu của nhiệm vụ mới, chưa củng cố, tăng cường đủ về số lượng và đạt về chất lượng.
Thứ nhất, bất cập về vấn đề biên chế: như kết quả khảo sát đã đưa ra ở trên, có thể khẳng định rằng lực lượng Thanh tra Tư pháp như hiện nay ở cả cấp Bộ và cấp Sở là quá ít. Qua khảo sát về Thanh tra Tư pháp cho thấy những năm vừa qua hoạt động của cả Thanh tra Bộ và Thanh tra các Sở Tư pháp đều rất ít; Thanh tra Bộ mỗi năm chỉ thực hiện được khoảng 10 -15 cuộc thanh tra theo kế hoạch, 5-7 cuộc thanh tra xét giải quyết khiếu nại, tố cáo; Thanh tra Sở mỗi năm trung bình cũng chỉ thực hiện được khoảng 2-5 cuộc thanh tra theo kế hoạch và thanh tra xét giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trong khi đó chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp, của các Sở Tư pháp thì lại ngày càng được mở rộng thêm nhiều lĩnh vực. Thanh tra Tư pháp với vai trò là cơ quan tham mưu giúp thủ trưởng cùng cấp quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu khiếu nại, tố cáo, thực hiện chức năng thanh tra hành chính và chức năng thanh tra chuyên ngành trên tất cả các lĩnh vực quản lý của ngành cho nên cứ thẩm quyền của Bộ Tư pháp mở rộng đến đâu, thẩm quyền của Sở Tư pháp mở rộng đến đâu thì thẩm quyền của Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở cũng tăng thêm đến đó. Chỉ tính riêng lĩnh vực thanh tra chuyên ngành hiện nay Thanh tra Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra chuyên ngành trên 16 lĩnh vực bao gồm: kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; công chứng, chứng thực; hộ tịch; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; quốc tịch; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; trợ giúp pháp lý; đăng ký giao dịch bảo đảm; hợp tác với nước ngoài về pháp luật.
Với những con số như vậy, tại Thanh tra Bộ, nếu mỗi năm thực hiện thanh tra trên tất cả các lĩnh vực chuyên ngành thì chưa được mỗi lĩnh vực một cuộc ở một địa phương, còn nếu thực hiện thanh tra chuyên ngành tại một số địa phương trên một lĩnh vực đang nổi cộm, hoặc thanh tra chuyên ngành một số lĩnh vực trên một địa phương thì chắc chắn sẽ có những lĩnh vực không được thanh tra; tại Thanh tra Sở, theo những số liệu như trên, mỗi năm cũng chỉ thực hiện được một phần rất nhỏ trong số 16 lĩnh vực chuyên ngành. Thực tế hiện nay, còn nhiều lĩnh vực quản lý chuyên ngành về tư pháp còn bị bỏ ngỏ, chưa được thanh tra bao giờ chẳng hạn như lĩnh vực giám định tư pháp, trợ giúp pháp lý, trọng tài thương mại... Đặc biệt, từ khi Nghị định số 76/2006/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp ra đời và có hiệu lực đến nay đã được hơn một năm nhưng vẫn chưa được triển khai thực hiện.
Nguyên nhân của tình trạng biên chế Thanh tra Tư pháp quá ít như vậy có thể nói:
- Trước hết là do thiếu sự quan tâm đúng mức của Lãnh đạo, đặc biệt là tại các địa phương, Lãnh đạo nhiều Sở Tư pháp còn không coi trọng công tác thanh tra, do vậy nên Thanh tra Sở không được biên chế và chỉ có cán bộ làm công tác kiêm nhiệm;
- Nguyên nhân thứ hai là biên chế chung cho toàn ngành còn ít, nhất là đối với các Sở Tư pháp do số biên chế có hạn nên Giám đốc Sở đã ưu tiên cho các phòng ban chuyên môn, khi xin thêm biên chế cho thanh tra thì Uỷ ban nhân dân lại từ chối vì hết chỉ tiêu theo sự phân bổ của Bộ Nội vụ;
- Nguyên nhân thứ ba: do đặc thù của công tác thanh tra là phức tạp và thường xuyên động chạm đến lợi ích chính trị, kinh tế của nhiều người, nhất là đối với chính cán bộ, công chức trong ngành; cũng do đặc thù của công tác thanh tra là đơn vị hành chính nhà nước thuần tuý, các tổ chức Thanh tra Tư pháp không thể có các hoạt động sự nghiệp, không có nguồn thu nào ngoài Ngân sách nên đời sống cán bộ, công chức Thanh tra Tư pháp là rất khó khăn... Chỉ cần hai đặc thù như vậy thì việc tuyển dụng, điều động công chức trong ngành Tư pháp làm thanh tra là vô cùng khó khăn, nhiều khi bế tắc, không tìm ra nguồn. Thực tế, ngay tại Thanh tra Bộ, cũng có những thời kỳ Bộ đồng ý bổ sung thêm biên chế cho Thanh tra nhưng lại không thể điều động được ai, thậm chí có trường hợp đã làm đơn xin về Bộ Tư pháp nhưng khi được biết sẽ điều về Thanh tra Bộ thì đã xin rút đơn ngay.
Thứ hai, bất cập về vấn đề công chức lãnh đạo: thực tiễn hiện nay, chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Tư pháp ngày càng nhiều như đã phân tích ở trên nhưng số lượng công chức lãnh đạo cũng còn quá ít. Từ khi thành lập Bộ Tư pháp đến nay, mới chỉ bổ nhiệm được 01 Chánh Thanh tra Bộ, còn chủ yếu là chức danh Quyền Chánh Thanh tra, hiện nay Thanh tra Bộ cũng chỉ có Quyền Chánh Thanh tra và 02 Phó Chánh Thanh tra cho nên có thể nói việc phụ trách quá nhiều lĩnh vực đã đặt những người Lãnh đạo này vào tình trạng luôn luôn quá tải về công việc. So với Thanh tra Bộ, vấn đề công chức lãnh đạo của Thanh tra các Sở Tư pháp còn bất cập hơn nhiều, với con số 22/63 tổ chức Thanh tra Sở chưa có Chánh Thanh tra, 11/63 tổ chức chưa có Lãnh đạo Thanh tra thì có thể khẳng định rằng đây là một tình trạng đáng phải suy nghĩ.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là thiếu sự quan tâm của Lãnh đạo đến công tác thanh tra.
Thứ ba, bất cập về vấn đề Thanh tra viên: Như đã nêu ra trong phần thực trạng đội ngũ cán bộ Thanh tra Tư pháp, trên toàn quốc hiện nay mới chỉ có 53 Thanh tra viên (Thanh tra Bộ có 16 Thanh tra viên, Thanh tra các Sở có tổng số 37 Thanh tra viên). Như vậy có thể nói rằng bất cập về biên chế của Thanh tra Tư pháp đã là vấn đề nan giải thì bất cập về Thanh tra viên còn nan giải hơn nhiều, đặc biệt là đối với các Sở Tư pháp. Theo như kết quả khảo sát ở trên thì trung bình cứ gần 02 tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp mới có 01 Thanh tra viên. Từ chỗ thiếu trầm trọng lực lượng Thanh tra viên như vậy nên việc triển khai các hoạt động thanh tra chuyên ngành của các tổ chức Thanh tra Tư pháp còn vô cùng hạn chế, nhất là khi thực hiện thanh tra, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp thì đối với một số Sở Tư pháp gần như là bế tắc vì không có Thanh tra viên để thực hiện chức năng xử phạt theo thẩm quyền.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trước hết phải nói đến đó là do việc bổ nhiệm Thanh tra viên còn gặp nhiều khó khăn do tiêu chuẩn bổ nhiệm cao nên nhiều cán bộ không đủ điều kiện để được bổ nhiệm. Đồng thời, ở nhiều địa phương có rất ít chỉ tiêu đi học lớp nghiệp vụ thanh tra cơ bản do Thanh tra Chính phủ tổ chức mà chưa học qua lớp đó thì chưa đủ điều kiện để được xét bổ nhiệm thanh tra viên. Ngay cả khi các tiều chuẩn, điều kiện để được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra đã đầy đủ thì quy trình và thủ tục bổ nhiệm thanh tra viên cũng còn kéo dài. Một nguyên nhân khác cũng đã góp phần dẫn đến tình trạng thiếu Thanh tra viên trầm trọng như trên đó là việc thường xuyên có sự thay đổi về công tác tổ chức, nhân sự làm công tác Thanh tra Tư pháp. Thực tế, có những người được đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện để được bổ nhiệm Thanh tra viên, nhưng bổ nhiệm xong thì lại chuyển làm công tác khác;
Thứ tư, bất cập về trình độ chuyên môn: So với yêu cầu thực tế hiện nay về chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Tư pháp thì có thể nói lực lượng này còn thiếu cán bộ có trình độ cao và thiếu cán bộ có trình độ chuyên môn sâu về một số lĩnh vực như xây dựng cơ bản, tài chính - kế toán... để thực hiện công tác thanh tra về lĩnh vực này.
Lý do của tình trạng này trước hết đó là biên chế được phân bổ cho Thanh tra Tư pháp còn ít nên chủ yếu ưu tiên tuyên dụng cử nhân luật chứ chưa thể tuyển kỹ sư xây dựng và Kế toán viên vào làm công tác thanh tra. Hơn nữa, ngay cả khi có chủ trương cho biên chế như ở Thanh tra Bộ thì việc tuyển dụng những chuyên môn đó cũng gặp khó khăn do xây dựng cơ bản và tài chính - kế toán không phải là những mảng công tác chính của Thanh tra Tư pháp nên về mặt tâm lý có rất ít người muốn làm những mảng việc đó trong cơ quan Thanh tra Tư pháp.
Thứ năm, bất cập về trình độ ngoại ngữ, tin học:
Trình độ ngoại ngữ của cán bộ Thanh tra Bộ những năm gần đây đang từng bước được cải thiện, tình trạng "mù" ngoại ngữ đã dần dần được khắc phục. Tuy nhiên, trình độ ngoại ngữ của cán bộ, công chức Thanh tra Bộ hiện nay vẫn còn thấp hơn nhiều sơ với đòi hỏi của công việc hiện tại, nhất là trong giai đoạn hiện nay, Thanh tra Bộ đang triển khai công tác thanh tra chuyên ngành trên nhiều lĩnh vực có liên quan đến yếu tố nước ngoài như luật sư, tư vấn pháp luật, trọng tài thương mại, nuôi con nuôi và kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Nguyên nhân của tình trạng này trước hết phải đề cập đến đó là do nhận thức chưa đúng về tầm quan trọng của ngoại ngữ và tin học nên nhiều cán bộ, công chức Thanh tra Tư pháp thiếu quyết tâm và ý chí trong việc tìm tòi, học tập nâng cao trình độ về ngoại ngữ và tin học. Nguyên nhân thứ hai cũng phải kể đến đó là do đặc thù của công tác thanh tra hay phải đi công tác cơ sở, thậm chí như Thanh tra Bộ thì còn phải đi dài ngày nên việc đăng ký và theo học các khoá về ngoại ngữ, tin học gặp rất nhiều khó khăn.
III. YÊU CẦU MỚI ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP
1. Yêu cầu mới đặt ra
Cùng với việc khẳng định vị trí, vai trò của ngành tư pháp trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước của Bộ Tư pháp ngày càng được mở rộng. Điều đó đồng nghĩa với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với công tác thanh tra tư pháp ngày càng lớn. Hơn thế nữa, Bộ Tư pháp là Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, do đó, yêu cầu đặt ra đối với công tác thanh tra cũng rất đa dạng và phức tạp. Có thể nói, hiện nay, khối lượng công việc đặt ra cho công tác thanh tra tư pháp rất nhiều, tính chất công việc có nhiều phức tạp. Trong đó, vấn đề phức tạp nhất hiện nay là công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc biệt là khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Những khiếu nại, tố cáo này thường căng thẳng, bức xúc, kéo dài và liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đối tượng. Bên cạnh đó, vấn đề thanh tra chuyên ngành, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp hầu như còn bỏ ngỏ do lực lượng thanh tra chuyên ngành quá mỏng, chưa đủ triển khai trên hầu hết các lĩnh vực quản lý nhà nước chuyên ngành của Bộ Tư pháp và các Sở Tư pháp.
Ngoài những yêu cầu cụ thể của ngành đặt ra đối với công tác thanh tra tư pháp, hiện nay công tác thanh tra tư pháp còn phải đáp ứng một loạt các yêu cầu mới của bộ máy nhà nước như:
- Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO);
- Yêu cầu cải cách hành chính đối với bộ máy nhà nước nói chung và mỗi cơ quan hành chính nhà nước nói riêng, trong đó có yêu cầu về cải cách hành chính trong lĩnh vực tư pháp;
Hơn nữa, trong thời gian gần đây, nhiệm vụ phòng chống tham nhũng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Là một công cụ không thể thiếu trong hoạt động quản lý nhà nước, giữ vai trò quan trọng trong nỗ lực phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, ngành Thanh tra cần phải là một mắt xích thiết yếu trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ nói trên.
2.Giải pháp
Thứ nhất, tăng cường biên chế cho cả Thanh tra Bộ và Thanh tra các Sở Tư pháp, thực hiện việc này cần phải:
- Lãnh đạo các cơ quan Tư pháp cần nhận thức rõ và đúng vai trò và tầm quan trọng của công tác thanh tra;
- Lãnh đạo ngành Tư pháp và Lãnh đạo ngành Nội vụ cần thống nhất quan điểm và có phương án bổ sung biên chế cho Thanh tra Bộ và Thanh tra các Sở Tư pháp;
- Thực hiện đề án cải cách hành chính, tăng tiền lương cho cán bộ công chức nói chung và cho cán bộ công chức làm công tác thanh tra Tư pháp nói riêng. Đồng thời, làm tốt công tác tư tưởng cho những người làm công tác Thanh tra Tư pháp để họ yêu nghề hơn, phấn đấu cho sự nghiệp phát triển của Thanh tra Tư pháp. Cần có những chính sách đãi ngộ riêng, hợp lý hơn đối với những người làm công tác thanh tra, nhằm khuyến khích, động viên họ gắn bó với nghề. Bên cạnh đó, phải có những biện pháp xử lý nghiêm đối với những hành vi vi phạm của cán bộ, công chức góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi người khi thực hiện nhiệm vụ.
Thứ hai, lựa chọn những cán bộ công chức có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn cao và có kinh nghiệm để bổ sung công chức Lãnh đạo cho cả Thanh tra Bộ và Thanh tra các Sở Tư pháp. Cần tổ chức thi tuyển trước khi quyết định bổ nhiệm cán bộ vào các chức danh lãnh đạo. Việc bổ nhiệm, đề bạt cán bộ phải căn cứ vào yêu cầu công tác cụ thể, đồng thời phải xem xét các yêu cầu khác theo quy định như độ tuổi, sức khoẻ, trình độ chuyên môn... Việc tổ chức hội đồng chấm thi phải bảo đảm tính khách quan, công bằng, dân chủ tránh tình trạng cảm tính cá nhân, tiêu cực... Ngoài việc thi tuyển còn cần tham khảo sự tín nhiệm của quần chúng. Coi đây là một kênh thông tin quan trọng để cân nhắc quyết định trước khi quyết định bổ nhiệm cán bộ vào vị trí công tác mới.
Thứ ba, tăng cường lực luợng Thanh tra viên cho cả Thanh tra Bộ và Thanh tra các Sở Tư pháp. Để làm được việc này, trước hết cần phải có sự quan tâm hơn nữa của Lãnh đạo các cấp, căn cứ vào những điều kiện và nhu cầu thực tế hiện nay về Thanh tra viên, Bộ Tư pháp nên đứng ra làm việc với Thanh tra Chính Phủ và Trường Cán bộ Thanh tra để tổ chức một khoá học nghiẹp vụ thanh tra cơ bản cho những cán bộ làm công tác thanh tra Tư pháp mà chưa được học qua lớp này. Đồng thời, cần có sự thay đổi về quy trình thủ tục bổ nhiệm Thanh tra viên sao cho nhanh gọn và hiệu quả; những Thanh tra viên đã được bổ nhiệm nên động viên, khuyến khích để họ yêu ngành, yêu nghề, yên tâm làm công tác thanh tra.
Thứ tư, nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ Thanh tra Tư pháp: - Thực tế cho thấy ngành thanh tra phải tiếp nhận, xử lý những vấn đề liên quan đến tất cả các lĩnh vực, đòi hỏi người cán bộ thanh tra phải là người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, hiểu biết rộng và thực tiễn, cụ thể. Do đó, cần xác định những chuyên môn nào là cần thiết, có tính bắt buộc phải qua đào tạo cơ bản. Những chuyên môn nào phải tự cập nhật, nghiên cứu để nắm được những vấn đề cơ bản. Trên cơ sở đó để tiêu chuẩn hoá cán bộ. Đào tạo phải mang tính thiết thực, phải có nội dung cụ thể. Tránh trường hợp học thêm bằng cấp nhưng không thêm kiến thức và năng lực công tác. Cụ thể như sau:
+ Xây dựng Quy chế đào tạo, bồi dưỡng công chức ngành Tư pháp trong đó có đội ngũ công chức Thanh tra Tư;
+ Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, trung hạn và dài đối với công chức Thanh tra Tư pháp;
+ Trường cán bộ Thanh tra - Thanh tra Chính phủ cần đổi mới chương trình, tài liệu theo hướng ngoài chương trình tài liệu dùng chung cho Thanh tra các ngành cần có chương trình, tài liệu giảng dạy riêng cho Thanh tra Tư pháp;
+ Ngoài ra, cần có chương trình, kế hoạch cử cán bộ Thanh tra Tư pháp đi nghiên cứu, học tập kinh nghiệm về mô hình tổ chức, hoạt động của các tổ chức Thanh tra Tư pháp đang hoạt động có hiệu quả trên thế giới để từ đó sàng lọc và vận dụng một cách thích hợp vào quá trình xây dựng lực lượng Thanh tra Tư pháp ngày càng hoàn thiện về cả số lượng và chất lượng.
- Mạnh dạn luân chuyển và điều động cán bộ bổ sung cho lực lượng thanh tra. Trước hết luân chuyển trong nội bộ ngành: từ các bộ phận chuyên môn, Phòng Tư pháp và Thi hành án các cấp sang làm công tác thanh tra... có luân chuyển như vậy mới có thể giúp cán bộ được bộc lộ hết khả năng, bản lĩnh, sở trường của mình.
Thứ năm, thường xuyên quan tâm tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức và xây dựng bản lĩnh người cán bộ thanh tra. Đây là việc làm rất quan trọng bởi vì bản lĩnh chỉ có được qua quá trình giáo dục của tổ chức, do ý chí tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cá nhân, nó chỉ bộc lộ qua thử thách thực tiễn. Một người cán bộ thanh tra nếu chỉ giỏi chuyên môn, nghiệp vụ nhưng không có bản lĩnh vững vàng thì không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ vì thấy sai mà không dám nói, hoặc luôn có tư tưởng né tránh, đùn đẩy./.
Chuyên đề 5
TỔ CHỨC, BỘ MÁY VÀ CƠ SỞ VẬT CHẤT CỦA THANH TRA TƯ PHÁP: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, YÊU CẦU MỚI ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP
|
Hoàng Quốc Hùng – Phó Chánh thanh tra
Thanh tra Bộ Tư pháp
|
Cùng với sự đổi mới của đất nước, nhiệm vụ của ngành tư pháp ngày càng được giao nhiều hơn, nặng nề hơn, quản lý nhiều lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc. Để phục vụ đắc lực cho sự quản lý điều hành tốt hơn nữa, Lãnh đạo Bộ Tư pháp luôn xác định công tác thanh tra, kiểm tra của ngành cần phải được củng cố, kiện toàn hơn nữa để đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý trong giai đoạn mới.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ thanh tra ngành tư pháp đã được xác định, hoạt động của công tác thanh tra nhằm phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo ngành, góp phần vào việc bảo đảm chấp hành đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước với phương hướng, nhiệm vụ công tác của ngành đề ra. Những kết quả trong hoạt động của Thanh tra toàn ngành đạt được trong thời gian qua càng khẳng định công tác thanh tra có vai trò hết sức quan trọng không thể thiếu được trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp; tổ chức bộ máy Thanh tra ngành Tư pháp cũng đang ngày càng được củng cố, kiện toàn; cở sở vật chất và phương tiện làm việc cũng ngày càng được trang bị bổ sung góp phần không nhỏ trong việc thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về công tác tư pháp trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, trước những đòi hỏi ngày càng nặng nề về chức năng, nhiệm vụ của ngành Tư pháp hiện nay, thực trạng về tổ chức bộ máy và cơ sở vật chất, phương tiện làm việc Thanh tra Tư pháp cũng còn nhiều tồn tại, bất cấp.
Với ý nghĩa tổ chức bộ máy và cơ sở vật chất, phương tiện làm việc là những yếu tố quan trọng, quyết định năng lực của Thanh tra Tư pháp và cũng là những vấn đề cấp thiết cần được đặt ra hiện nay; để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao và làm cơ sở cho việc nghiên cứu, triển khai Đề án "Tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp", trong nội dung này, chúng tôi mong muốn cung cấp các thông tin về thực trạng tổ chức bộ máy và cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, tìm ra nguyên nhân của những khó khăn, tồn tại và đề xuất một số giải pháp khắc phục các khó khăn, tồn tại đó.
I. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ CƠ SỞ VẬT CHẤT CỦA THANH TRA TƯ PHÁP
1. Thực trạng về tổ chức
1.1. Thanh tra Bộ
Quy chế về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ đã được Bộ trưởng ban hành kèm theo Quyết định số 764/QĐ-BTP ngày 30/5/2007 đã tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Thanh tra, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Thanh tra Bộ.
Căn cứ vào Quy chế, Thanh tra Bộ hiện nay được giao tổng số 21 biên chế, gồm: 01 Quyền Chánh thanh tra, 02 Phó Chánh thanh tra và 03 phòng nghiệp vụ: Phòng Hành chính, tổng hợp, tiếp công dân; Phòng Thanh tra hành chính; Phòng Thanh tra chuyên ngành. Biên chế và chức năng, nhiệm vụ cụ thể của 03 phòng như sau:
- Phòng Hành chính, tổng hợp, tiếp công dân gồm 07 biên chế (01 Trưởng phòng, 01 Phó Trưởng phòng và 05 thanh tra viên và chuyên viên) có chức năng giúp Chánh Thanh tra xây dựng chương trình, kế hoạch công tác; điều phối hoạt động chung của Thanh tra Bộ; Thực hiện các nhiệm vụ: hành chính, tổng hợp; quản lý về tài chính, kế toán và công tác tiếp công dân.
- Phòng Thanh tra hành chính gồm 05 biên chế (01 Trưởng phòng, 01 Phó Trưởng phòng và 03 thanh tra viên) có chức năng giúp Chánh Thanh tra tổ chức thực hiện các hoạt động thanh tra hành chính; xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật; thực hiện các công việc khác khi được Chánh Thanh tra giao.
- Phòng Thanh tra chuyên ngành gồm 06 biên chế (01 Trưởng phòng, 02 Phó Trưởng phòng và 03 thanh tra viên) có chức năng giúp Chánh Thanh tra tổ chức thực hiện các hoạt động thanh tra chuyên ngành; xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp theo quy định của pháp luật, bao gồm: kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; công chứng, chứng thực; hộ tịch; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; quốc tịch; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; trợ giúp pháp lý; đăng ký giao dịch bảo đảm; hợp tác với nước ngoài về pháp luật và công tác tư pháp khác; thực hiện các công việc khác khi được Chánh Thanh tra giao.
1.2. Thanh tra Sở
Tổng số có 63/63 tỉnh thành đã có tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp với 110 biên chế chính thức và 05 cán bộ kiêm nhiệm (80 nam và 35 nữ), trong đó: 02 tổ chức có biên chế cao nhất là 04 đồng chí (Thanh tra Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Nghệ An), 06 tổ chức có 03 biên chế, 33 tổ chức có 02 biên chế, 18 tổ chức chỉ có 01 biên chế và vẫn còn 05 Thanh tra Sở Tư pháp (chiếm 8%) không có biên chế chính thức mà chỉ sử dụng 05 cán bộ kiêm nhiệm từ các phòng, ban khác (Bình Định, Sóc Trăng, Đắc Nông, Quảng Nam, Gia Lai).
Về công chức Lãnh đạo của Thanh tra các Sở Tư pháp: 41/63 Sở Tư pháp có Chánh Thanh tra (chiếm 65%); 20/63 Sở Tư pháp có 01 Phó Chánh Thanh tra (chưa có Sở Tư pháp nào có từ 02 Phó Chánh Thanh tra trở lên); 11 Sở Tư pháp còn chưa có Lãnh đạo Thanh tra (chiếm 17%).
2. Thực trạng về cơ sở vật chất
2.1. Thanh tra Bộ
Thanh tra Bộ Tư pháp hiện nay được phân 01 phòng tiếp công dân và 06 phòng làm việc (03 phòng riêng cho 03 đồng chí Lãnh đạo, chỉ còn lại 03 phòng làm việc cho các đồng chí Thanh tra viên và chuyên viên).
Về phương tiện làm việc: theo kết quả tổng kiểm tra và bàn giao tài sản cố định cho Thanh tra Bộ Tư pháp ngày 12/5/2008, hiện nay, Thanh Tra Bộ Tư pháp có tổng giá trị tài sản còn lại là: 386,725,516 đồng, trong đó:
- 20 máy tính để bàn/21 biên chế (01đồng chí không có máy tính), trong đó 4/20 máy tính đã cũ, cấu hình lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu của công việc nhưng vẫn chưa có điều kiện để thay máy mới; 01 máy tính xách tay cho riêng đồng chí Chánh Thanh tra;
- Tất cả các máy tính trong Thanh tra Bộ đã được nối mạng internet trong nội bộ đơn vị Thanh tra và với mạng chung của Bộ;
- Ngoài ra, Thanh tra Bộ Tư pháp còn được trang bị một số máy chụp ảnh, máy ghi âm, kính lúp và một số phương tiện khác.
2.2. Thanh tra Sở
Theo kết quả khảo sát năm 2008, tình hình cơ sở vật chất và phương tiện làm việc của Thanh tra các Sở Tư pháp: 11/52 tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp, cơ sở vật chất không đáp ứng được yêu cầu công việc; cơ sở vật chất của 38/52 tổ chức, tạm đáp ứng được yêu cầu công việc; chỉ có 3/52 tổ chức có cơ sở vật chất đáp ứng tốt yêu cầu công việc, cụ thể:
- 5/52 tổ chức chưa có phòng làm việc riêng, lý do: chưa xây dựng
- 18/52 tổ chức chưa có phòng làm việc riêng để tiếp công dân, lý do: chưa xây dựng mà thực tế việc tiếp công dân được thực hiện tại phòng làm việc của Thanh tra Sở.
Về phương tiện để phục vụ cho công tác thanh tra của các Sở Tư pháp, theo kết quả khảo sát thì: 12 tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp không có phương tiện vật chất gì, còn lại 40 tổ chức có được trang bị nhưng vẫn còn thiếu, không đáp ứng được yêu cầu của công việc.
II. ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TRẠNG TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ CƠ SỞ VẬT CHẤT CỦA THANH TRA TƯ PHÁP
1. Về tổ chức bộ máy
1.1. Những điểm đã đạt được
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ thanh tra ngành tư pháp đã được xác định, hoạt động của công tác thanh tra nhằm phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo ngành, góp phần vào việc bảo đảm chấp hành đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước với phương hướng, nhiệm vụ công tác của ngành đề ra. Phương châm cơ bản của công tác thanh tra là khách quan, thận trọng, nghiêm túc, lấy xây dựng làm chính, phát huy quyền dân chủ của cán bộ, công nhân viên trong các cơ quan, đơn vị, thúc đẩy trách nhiệm của mỗi cơ quan và của mỗi người, đề cao ý thức tổ chức kỷ luật, kịp thời biểu dương mặt tích cực, sữa chữa thiếu sót khuyết điểm, thiết thực ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra.
Kể từ khi ra đời cho đến nay, năng lực Thanh tra Tư pháp đã dần có những bước phát triển về mọi mặt: từ việc ngày càng được bổ sung những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng; từng bước củng cố, hoàn thiện bộ máy; không ngừng tăng cường lực lượng cả về số lượng và chất lượng; cho đến cả những tăng cường về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc và những yếu tố khác như cải thiện cơ chế hoạt động, quan hệ phối hợp, đổi mới chế độ đào tạo, bồi dưỡng... Thanh tra Tư pháp thực sự ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của mình trong những thành tích và sự nghiệp phát triển chung của toàn ngành Tư pháp. Nhìn lại lịch sử phát triển của lực lượng Thanh tra cho thấy, trước những năm 1990, ngay tại Thanh tra Bộ, lực lượng cán bộ, công chức cũng còn rất hạn chế, được coi như chiếc "túi" đựng để thu nhận những người thừa của đơn vị khác hoặc không thể bố trí đi đâu khác, Thanh tra được ví như bánh xe thứ năm, bánh xe "Sơ cua", có lúc thậm chí chỉ có 2 người (1 Lãnh đạo, 1 Chuyên viên). Cho đến năm 1990, Biên chế của Thanh tra Bộ chỉ 4 người, trong đó có 2 Lãnh đạo, 2 chuyên viên. Sau khi có Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, đội ngũ cán bộ, công chức của Thanh tra Bộ đã dần dần được củng cố, tăng cường lên tới 14 người vào năm 2003 (có 01 Chánh thanh tra, 01 Phó Chánh thanh tra, 01 Thanh tra viên chính, 02 Thanh tra viên và còn lại là chuyên viên). Sau khi Luật Thanh tra năm 2004 ra đời, năng lực Thanh tra Bộ Tư pháp đã được củng cố, tăng cường lên một mức mới nhất là về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ. Đặc biệt, hiện nay, theo Quy chế tổ chức, hoạt động của Thanh tra Bộ được ban hành kèm theo Quyết định số 764/QĐ-BTP ngày 30/5/2007 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Thanh tra Bộ Tư pháp đã có 01 Quyền Chánh Thanh tra, 02 Phó Chánh Thanh tra và bộ máy của Thanh tra Bộ được chia thành 03 phòng chuyên môn với 03 đồng chí Trưởng phòng và 04 đồng chí Phó Trưởng phòng .
Đối với Thanh tra các Sở Tư pháp, trong giai đoạn đầu, lực lượng Thanh tra các Sở Tư pháp cũng còn rất mỏng, thiếu nhiều về tổ chức, số lượng biên chế và đa số cũng còn yếu về chất lượng. Cụ thể là, đến năm 1999, cả nước mới chỉ có 34 Sở Tư pháp có tổ chức thanh tra và gần 80 người làm công tác thanh tra ở các Sở Tư pháp, trong số đó chỉ có 12 người đã học qua lớp nghiệp vụ thanh tra cơ bản do Trường Cán bộ thanh tra tổ chức. Về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc trong giai đoạn đó có thể nói Thanh tra các Sở Tư pháp còn chưa có gì, những nơi đã có tổ chức Thanh tra thì đa số chưa có phòng làm việc, còn phải làm chung với các phòng ban và bộ phận khác, các phương tiện khác thì hầu như là không có. Tuy nhiên, cũng như tình hình phát triển của năng lực Thanh tra Bộ, sau khi Luật Thanh tra 2004 ra đời, số lượng cán bộ, công chức làm công tác Thanh tra tại các Sở Tư pháp đã tăng lên đáng kể và đặc biệt đã có 37 thanh tra viên (chiếm tỷ lệ 32%) và đặc biệt hiện nay 100% các Sở Tư pháp đã có tổ chức Thanh tra, trong đó 41/63 (chiếm 65%) tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp đã có Chánh Thanh tra Sở.
Như vậy, nhìn chung từ khi có Pháp lệnh thanh tra 1990, nhất là sau khi Luật Thanh tra năm 2004 ra đời, năng lực Thanh tra Tư pháp đã có những bước phát triển lớn, đặc biệt là về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, góp phần không nhỏ giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Giám đốc các Sở Tư pháp hoàn thành nhiệm vụ được giao.
1.2. Tồn tại và nguyên nhân
Mặc dù có những phát triển như đã phân tích ở trên nhưng nếu nhìn nhận thật khách quan thì đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra Tư pháp, từ khi được thành lập đến nay chưa bao giờ được đầy đủ, toàn diện dẫn đến hoạt động bị hạn chế rất nhiều, chưa đáp ứng được những yêu cầu của nhiệm vụ mới, chưa củng cố, tăng cường đủ về số lượng và đạt về chất lượng.
1.2.1. Đối với Thanh Bộ
Cơ cấu tổ chức bộ máy còn chưa hợp lý, chưa tương xứng với các chức năng nhiệm vụ và chưa đáp ứng được nhu cầu hiện tại của công việc. Cụ thể, Thanh tra Bộ Tư pháp nói riêng như đã phân tích ở trên có 05 chức năng chính, đó là: chức năng thanh tra hành chính; chức năng thanh tra chuyên ngành; chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra Tư pháp; chức năng quản lý nhà nước về công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp và chức năng phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng trong lĩnh vực Tư pháp. Trong khi đó, bộ máy của Thanh tra Bộ hiện nay mới chỉ có 03 phòng chuyên môn, trong đó:
- Phòng Thanh tra hành chính, ngoài việc thực hiện chức năng tương ứng là thanh tra hành chính còn thực hiện chức năng xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật và thực hiện các công việc khác khi được Chánh Thanh tra giao.
- Phòng Thanh tra chuyên ngành, ngoài việc thực hiện chức năng tương ứng là thanh tra chuyên ngành còn thực hiện chức năng xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp theo quy 0định của pháp luật.
Hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra theo chương trình kế hoạch hàng năm của Thanh tra Bộ đã được Bộ trưởng phê duyệt. Hoạt động này, cơ bản, khác nhiều với hoạt động xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo về cả cơ sở pháp lý và biện pháp nghiệp vụ chuyên môn.
+ Đối với hoạt động thanh tra theo Kế hoạch: Cơ sở pháp pháp lý của hoạt động thanh tra theo kế hoạch, ngoài pháp luật chuyên môn về lĩnh vực được thanh tra thì chủ yếu là Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đoàn thanh tra được hoạt động theo Quy chế hoạt động của Đoàn thanh tra ban hành kèm theo Quyết định số 2151/2006/QĐ-TTCP ngày 10/11/2006 của Thanh tra Chính phủ. Quá trình thanh tra, Đoàn thanh tra và các thanh viên Đoàn thanh tra cũng có nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện những biện pháp nghiệp vụ khác nhau: tạm thu, tam giữ, tạm đình chỉ, lập biên bản vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền...
+ Đối với hoạt động xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo: ngoài pháp luật chuyên môn về lĩnh vực có khiếu nại, tố cáo thì chủ yếu là Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành; các văn bản pháp luật quy định về chức năng năng nhiệm vụ của Bộ Tư pháp, Ngành Tư pháp... Hoạt động xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo có thể thành lập Đoàn xác minh hoặc không thành lập Đoàn xác minh mà chỉ cần xem xét, xử lý tại chỗ, lưu đơn hoặc chuyển đến bộ phận, cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Trong trường hợp phải thành lập Đoàn xác minh để giải quyết khiếu nại, tố cáo thì hoạt động Đoàn xác minh chưa có quy chế hoạt động như của Đoàn thanh tra và các biện pháp nghiệp vụ của hoạt động xác minh để giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng khác nhiều với các biện pháp nghiệp vụ thanh tra.
Chính vì những lẽ trên, việc gộp hoạt động thanh tra theo Kế hoạch và hoạt động xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo vào với nhau là chưa thực sự khoa học, chưa thực sự chuyên sâu vào từng cơ sở pháp lý và biện pháp nghiệp vụ cụ thể. Hơn nữa, trong thời gian gần đây, khiếu nại, tố cáo của công dân trong lĩnh vực Tư pháp ngày càng gia tăng cả về số lượng và tính chất phức tạp, căng thẳng. Chỉ tính riêng trong năm 2008 (tính đến hết ngày 15/9/2008), Thanh tra Bộ Tư pháp đã tiếp nhận 1767 đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, trong đó có 820 đơn thuộc lĩnh vực quản lý của ngành (chiếm 46,4%), trong đó chủ yếu là đơn thư khiếu nại về thi hành án dân sự là 737 đơn (chiếm 90%) và 947 đơn không thuộc thẩm quyền của ngành Tư pháp (chiếm 53,6%). So với 9 tháng cùng kỳ năm 2007, số đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân Thanh tra Bộ nhận được tăng khoảng 25%, trong đó, riêng đơn thư khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của ngành tăng 40% so với cùng kỳ năm trước. Số vụ việc Thanh tra Bộ tiến hành thanh tra, xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo trong 9 tháng đầu năm 2008 là 25 vụ việc, tăng gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2007.
- Hơn nữa, Phòng hành chính, tổng hợp, tiếp công dân cũng rất nặng nề: vừa thực hiện các chức năng hành chính, tổng hợp và lưu trữ vừa thực hiện các chức năng khác của Thanh tra Bộ như thẩm định, phối hợp thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng và triển khai thực hiện các đề án liên quan đến lĩnh vực do Thanh tra Bộ quản lý.... Đặc biệt, chức năng tiếp công dân đòi hỏi rất nhiều thời gian, nhân lực và trí tuệ và thời gian gần đây, số lượng công dân đến khiếu nại, tố cáo tại Phòng tiếp công dân của Bộ Tư pháp có chiều hướng tăng hơn so với các năm trước.
Rõ ràng với khối lượng công việc và tính chất phức tạp, căng thẳng như vậy, nhưng công tác tiếp công dân, xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo lại chưa có một phòng chuyên môn để thực hiện thì đó còn là một bất cập lớn về tổ chức bộ máy của Thanh tra Bộ Tư pháp.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do hiện nay theo quy định của Nghị định số 93/2008/NĐ-CP..... Bộ Tư pháp đã được bổ sung thêm một số chức năng, nhiệm vụ mới và thành lập thêm một số đơn vị mới. Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp đã có Đề án kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu, tổ chức của các đơn vị thuộc Bộ. Trong bối cảnh chung như vậy, bộ máy của Thanh tra Bộ chưa thể tiến hành kiện toàn, bổ sung thêm phòng chức năng ngay thời điểm hiện nay.
1.2.2. Đối với Thanh tra Sở
Từ kết quả khảo sát về thực trạng tổ chức bộ máy của Thanh tra các Sở Tư pháp cho thấy mặc dù 100% các Sở Tư pháp đã có tổ chức thanh tra nhưng tổ chức bộ máy còn rất hạn chế. Thực tế, mới chỉ có 65% các tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp có Chánh thanh tra Sở, 17% tổ chức chưa có Lãnh đạo Thanh tra Sở, bất cập này gây ảnh hưởng nhiều đến mức độ và chất lượng hoạt động của Thanh tra Sở vì một tổ chức mà thiếu người đứng đầu thì vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của tổ chức đó cũng sẽ rất hạn chế. Đặc biệt, trong hoạt động thanh tra chuyên ngành và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp, có những hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt của Chánh Thanh tra Sở, nếu không có Chánh Thanh tra Sở thì rất khó để xử lý các hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử phạt của chức danh này.
Hơn nữa, cho đến nay, trên toàn quốc vẫn còn 18 tổ chức chỉ có 01 biên chế và đặc biệt vẫn còn 05 Thanh tra Sở Tư pháp (chiếm 8%) không có biên chế chính thức mà chỉ sử dụng 05 cán bộ kiêm nhiệm từ các phòng, ban khác. Với những tổ chức mà không có biên chế chính thức như trên, câu hỏi đặt ra là liệu đó có phải thực sự là một tổ chức Thanh tra Sở hay không? Một tổ chức như vậy thì liệu hoạt động có hiệu quả theo đúng chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn đã được pháp luật quy định không? Thực tế cho thấy, việc công nhận 05 Sở Tư pháp đó có tổ chức chỉ là về mặt hình thức vì không một tổ chức nào mà lại không có con người (không có biên chế chính thức được công nhận cho tổ chức đó) và nếu như vậy thì hoạt động chắc chắn sẽ thiếu chuyên sâu, khó bao quát hết mọi chức năng, nhiệm vụ do pháp luật quy định.
Nguyên nhân của tình trạng trên chủ yếu là do vấn đề nhận thức của đa số Lãnh đạo các Sở Tư pháp về vị trí, vai trò của Thanh tra Sở, chưa coi trọng đúng mức công tác thanh tra.
2. Về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc
2.1. Những điểm đã đạt được
Mặc Ngành Tư pháp còn nhiều khó khăn về mặt tài chính, song nhìn chung cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Thanh tra Tư pháp đã dần được quan tâm và tăng cường để phục vụ cho công tác chuyên môn của Ngành. Đặc biệt là tại Thanh tra Bộ, cơ sở vật và phương tiện làm việc hiện nay so với thời kỳ đầu mới thành lập đã có những tiến bộ rõ rệt: mỗi Thanh tra viên, chuyên viên của Thanh tra Bộ đã được trạng bị 01 máy tính, nối mạng cục bộ giữa các máy tính với nhau trong phạm vi đơn vi và trong phạm vi tất cả các đơn vị thuộc Bộ.
2.2. Tồn tại và nguyên nhân
Bên cạnh những việc đã đạt được như trên, cơ sở vật chất và phương tiện làm việc của Thanh tra Tư pháp còn rất nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của công việc. Cụ thể hư sau:
2.2.1. Đối với Thanh tra Bộ
- Về phòng làm việc: phòng làm việc của Thanh tra Bộ Tư pháp hiện nay còn thiếu, có những phòng chật hẹp nhưng phải sắp xếp cho 6 người cùng làm việc. Trong khi đó, do đặc thù của công tác thanh tra phải lưu trữ nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân và các hồ sơ thanh tra, hồ sơ giải quyết khiếu nại, tố cáo cho nên việc bố trí chỗ ngồi còn khó khăn, thiếu không gian để thanh tra viên và chuyên viên làm việc hiệu quả. Đặc biệt, phòng tiếp công dân, theo quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Bộ và theo Quy chế tiếp công dân tại cơ quan Bộ Tư pháp thì Thanh tra Bộ có trách nhiệm giúp Bộ trưởng tổ chức tiếp công dân tại cơ quan Bộ và là đầu mối chủ trì tổ chức, phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ trong việc tiếp công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị theo quy định của pháp luật. Thời gian gần đây, số lượng công dân đến khiếu nại, tố cáo tại Phòng tiếp công dân của Bộ Tư pháp có chiều hướng tăng hơn so với các năm trước, đặc biệt là số lượng công dân đến khiếu nại, tố cáo những nội dung thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp. Chỉ tính riêng 9 tháng đầu năm 2008 (tính đến ngày 15/9/2008), Thanh tra Bộ Tư pháp cùng các đơn vị chức năng của Bộ đã tiếp 854 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo và có một số yêu cầu khác (tăng 89% so với cùng kỳ năm trước), trong đó có 680 lượt công dân đến khiếu nại những nội dung thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp, chiếm 79,6% và tăng 107,3% so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, những năm gần đây, hàng tháng, đều có một số đoàn khiếu nại, tố cáo đông người đến phòng tiếp công dân yêu cầu được kiến nghị, phản ánh và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Ví dụ điển hình là ngày 28/5/2008, đoàn khiếu nại gồm 78 người đại diện cho nhân dân xã Thanh Văn, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây đã đến Phòng tiếp công dân của cơ quan Bộ Tư pháp để khiếu nại đối với bài báo đăng ngày 07/5/2008 (số báo 110) của báo Pháp luật Việt Nam. Nhiều trường hợp mặc dù đã được giải quyết đúng pháp luật nhưng vẫn có thái độ rất quá khích, có hành vi chửi bới, lăng mạ, xúc phạm cán bộ tiếp công dân, cán bộ lãnh đạo, gây mất trật tự, vi phạm Nội quy phòng tiếp công dân.
- Về phương tiện làm việc: thực tiễn công tác hiện nay của Thanh tra Bộ Tư pháp cho thấy rằng Thanh tra Bộ còn thiếu nhiều và lạc hậu như máy chụp ảnh, máy ghi âm, kính lúp và một số phương tiện khác. Đặc biệt, mặc dù đã có con dấu, tài khoản riêng và tự chủ về tài chính nhưng Thanh tra Bộ chưa có ô tô, cả đơn vị chỉ có một máy tính xách tay dùng riêng cho Thủ trưởng đơn vị, các phòng chuyên môn vẫn chưa có máy tính xách tay, chưa có máy ca mê ra để phục cho các Đoàn thanh tra khi đi công tác địa phương.
2.2.2. Đối với Thanh tra Sở
Kết quả khảo sát của Thanh tra Bộ hiện nay như sau: trên toàn quốc chỉ có 3/52 tổ chức (chiếm...%) có cơ sở vật chất đáp ứng tốt yêu cầu làm việc, 5/52 tổ chức chưa có phòng làm việc riêng, 12 tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp không có phương tiện vật chất gì, còn lại 40 tổ chức có được trang bị nhưng vẫn còn thiếu, không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Cũng qua khảo sát tại 52 tổ chức Thanh tra Sở Tư pháp thì:
- 14/52 tổ chức đề nghị xây dựng Phòng tiếp công dân khang trang, thuận tiện hơn;
- 19/52 tổ chức đề nghị bố trí thêm phòng làm việc cho công chức Thanh tra Sở Tư pháp;
- 49/52 tổ chức đề nghị trang bị cho mỗi công chức Thanh tra Tư pháp một máy tính để bàn;
- 45/52 tổ chức đề nghị được nối mạng internet;
- 47/52 tổ chức đề nghị được trang bị máy chụp ảnh;
- 50/52 tổ chức đề nghị được trang bị máy ghi âm;
- 23/52tổ chức đề nghị được trang bị kính lúp.
Từ kết quả khảo sát cho thấy cơ sở vật chất và phương tiện làm việc của Thanh tra các Sở Tư pháp còn thiếu rất nhiều, thậm chí có tổ chức còn không có gì từ phòng làm việc, phòng tiếp công dân cho đến các phương tiện làm việc khác và tỷ lệ các tổ chức đề nghị được trang bị thêm về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc là rất lớn.
Nguyên nhân của tình trạng trên thì có nhiều, song cơ bản là do điều kiện kinh phí của địa phương còn eo hẹp và chưa có sự quan tâm đúng mức của Lãnh đạo địa phương.
III. YÊU CẦU MỚI ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP
1. Yêu cầu mới đặt ra
Cùng với việc khẳng định vị trí, vai trò của ngành tư pháp trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước của Bộ Tư pháp ngày càng được mở rộng. Điều đó đồng nghĩa với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với công tác thanh tra tư pháp ngày càng lớn. Hơn thế nữa, Bộ Tư pháp là Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, do đó, yêu cầu đặt ra đối với công tác thanh tra cũng rất đa dạng và phức tạp. Có thể nói, hiện nay, khối lượng công việc đặt ra cho công tác thanh tra tư pháp rất nhiều, tính chất công việc có nhiều phức tạp. Trong đó, vấn đề phức tạp nhất hiện nay là công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc biệt là khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Những khiếu nại, tố cáo này thường căng thẳng, bức xúc, kéo dài và liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đối tượng. Bên cạnh đó, vấn đề thanh tra chuyên ngành, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp hầu như còn bỏ ngỏ do lực lượng thanh tra chuyên ngành quá mỏng, chưa đủ triển khai trên hầu hết các lĩnh vực quản lý nhà nước chuyên ngành của Bộ Tư pháp và các Sở Tư pháp.
Ngoài những yêu cầu cụ thể của ngành đặt ra đối với công tác thanh tra tư pháp, hiện nay công tác thanh tra tư pháp còn phải đáp ứng một loạt các yêu cầu mới của bộ máy nhà nước như:
- Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO);
- Yêu cầu cải cách hành chính đối với bộ máy nhà nước nói chung và mỗi cơ quan hành chính nhà nước nói riêng, trong đó có yêu cầu về cải cách hành chính trong lĩnh vực tư pháp;
Hơn nữa, trong thời gian gần đây, nhiệm vụ phòng chống tham nhũng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Là một công cụ không thể thiếu trong hoạt động quản lý nhà nước, giữ vai trò quan trọng trong nỗ lực phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, ngành Thanh tra cần phải là một mắt xích thiết yếu trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ nói trên.
2. Giải pháp
2.1. Đối với Thanh tra Bộ
2.1.1. Về tổ chức bộ máy
- Tăng cường biên chế cho Thanh tra bộ lên 30 người để hoàn thành nhiệm vụ mà Bộ trưởng giao. Ngoài việc tuyển dụng những sinh viên khá giỏi từ Trường Đại Học luật như hiện nay có thể điều chuyển chuyên viên từ các đơn vị thuộc Bộ hoặc từ cơ quan Tư pháp địa phương có kinh nghiệm thực tiến để làm nhiệm vụ thanh tra.
- Cùng với việc tăng cường thêm biên chế, phải sớm sửa đổi lại Quy chế tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ theo hướng thành lập thêm 01 phòng “Tiếp công dân, xử lý đơn thư và xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo”. Việc tách chức năng tiếp công dân từ phòng Hành chính, tổng hợp, tiếp công dân và chức năng xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo từ Phòng Thanh tra hành chính và Phòng Thanh tra chuyên ngành để thành lập một phòng mới trực thuộc Thanh tra Bộ (Phòng Tiếp dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo) là một bước chuyên môn hoá và giảm gánh nặng công việc cho những phòng khác.
- Về Lãnh đạo Thanh tra, hiện nay, Thanh tra Bộ mới chỉ có 02 Phó Chánh thanh tra giúp Chánh Thanh tra trực tiếp điều hành 02 chức năng của đơn vị (thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành), còn lại 03 chức năng quan trọng khác của Thanh tra Bộ trực tiếp do Chánh Thanh tra quản lý, điều hành. Do đó, đề nghị cần bổ sung thêm 01 Phó Chánh Thanh tra để giúp Chánh Thanh tra trực tiếp phụ trách mảng công việc tiếp công dân, xử lý đơn thư xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo. Mô hình tổ chức bộ máy của Thanh tra Bộ khi đó sẽ như sau:
2.2.2. Về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc
- Xây dựng phòng tiếp công dân của Bộ Tư pháp thuận lợi về địa điểm và đảm bảo các điều kiện vật chất cần thiết khác để công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị và phản ánh. Hơn nữa, hiện nay, có hiện tượng nhiều trường hợp công dân mặc dù đã được giải quyết đúng pháp luật nhưng vẫn có thái độ quá khích (không loại trừ khả năng trong đó có một số kẻ xấu lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo của công dân) để chửi bới, lăng mạ, xúc phạm cán bộ tiếp công dân, cán bộ lãnh đạo, gây mất trật tự, vi phạm Nội quy phòng tiếp công dân. Do đó, đề nghị phòng tiếp công dân càn được trang bị riêng một máy ca mê ra để phục vụ cho công tác đảm bảo an ninh, trật tự;
- Bố trí thêm phòng làm việc cho Thanh tra Bộ để đảm bảo phòng làm việc không quá chật hẹp, có không gian và các phương tiện vật chất khác để phục vụ công tác được hiệu quả hơn;
- Cấp kinh phí để Thanh tra Bộ trang bị riêng một xe ô tô, trang bị đủ mỗi phòng thuộc Thanh tra Bộ và mỗi Lãnh đạo 01 máy tính xách tay, 01 máy quay ca mê ra để phục vụ cho các Đoàn thanh tra khi triển khai đi công tác tại các địa phương;
- Xây dựng hệ thống mạng nội bộ Thanh tra Tư pháp từ Trung ương đến địa phương để đảm bảo công tác thông tin liên lạc, hướng dẫn, chỉ đạo về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành và quản lý đơn thư khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực Tư pháp được thường xuyên, kịp thời, thống nhất và tiết kiệm.
2.2. Đối với Thanh tra Sở
2.2.1. Về tổ chức bộ máy
Giải pháp cơ bản và cấp bách nhất hiện nay là phải nâng cao nhận thức của các Giám đốc Sở Tư pháp về pháp luật thanh tra, vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác thanh tra, do đó Bộ Tư pháp cần thường xuyên mở các lớp tập huấn cho các Giám đốc Sở Tư pháp về công tác thanh tra để giải quyết vấn đề này. Trên cơ sở đó, đề nghị Giám đốc các Sở Tư pháp tăng cương biên chế, kiên toàn bộ máy của tổ chức Thanh tra Sở sao cho Thanh tra mỗi sở Tư pháp có ít nhất 03 biên chế, trong đó có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên.
Thanh tra Bộ phải thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra cho Thanh tra Sở để trợ giúp cho Thanh tra Sở hoạt động hiệu quả hơn. Việc hướng dẫn nghiệp vụ cần sử dụng triệt để công nghệ mạng để tạo điều kiện cho địa phương khai thác nhanh, kịp thời, tiện lợi, tiết kiệm, hiệu quả. Công việc này Thanh tra Bộ đã tiến hành nhiều năm nay và vẫn đang phát huy tích cực phương pháp này. Ngoài ra, Thanh tra Bộ cần phải mở các lớp tập huấn nghiệp vụ cho Thanh tra Sở để củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra.
Triển khai mạnh công tác thanh tra chuyên ngành, xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Nghị định 76/2006/NĐ-CP của Chánh phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp. Chỉ có qua công việc thực tế, nhu cầu cấp bách và hiệu quả của công tác mới thúc đẩy tổ chức Thanh tra Sở phát triển.
2.2.2. Về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc
- Sở Tư pháp có giải pháp bố trí thêm phòng làm việc cho Thanh tra Sở và phòng tiếp công dân sao cho đảm bảo địa phương nào cũng có phòng làm việc riêng cho Thanh tra Sở và có phòng tiếp công dân theo quy định của pháp luật;
- Ngoài các trang thiết bị làm việc thông thường như các công chức khác (bàn nghế, tủ đựng tài liệu…), cần trang bị cho Thanh tra các Sở Tư pháp các trang thiết bị đặc thù phục vụ cho công tác chuyên môn như sau: trang bị đủ mỗi cán bộ thanh tra có 01 máy tính để bàn, có nối mạng; trang bị cho Thanh tra mỗi Sở Tư pháp có đủ các phương tiện công tác gồm: máy chụp ảnh, máy ghi âm và kính lúp.
Chuyên đề 6
CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG VÀ QUAN HỆ PHỐI HỢP CỦA THANH TRA TƯ PHÁP: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, YÊU CẦU MỚI ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP
Ths. Nguyễn Hồng Diện
Thanh tra Bộ Tư pháp
I. Đặt vấn đề
Thanh tra Tư pháp là tổ chức thanh tra thuộc ngành Tư pháp; ở Trung ương có Thanh tra Bộ Tư pháp; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Thanh tra Sở Tư pháp; thực hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp theo quy định của pháp luật (Điều 1 - Nghị định số 74/2006/NĐ-CP ngày 1/8/2006 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp).
Hiện nay, Thanh tra Tư pháp về cơ bản đã được tổ chức có hệ thống từ Trung ương tới địa phương (Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở). Hoạt động của Thanh tra Tư pháp trong thời gian qua đã có những chuyển biến và đóng góp tích cực cho hoạt động quản lý chung của ngành. Tuy nhiên, trước những yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính, hội nhập WTO…thì yêu cầu cần phải nâng cao hơn nữa “năng lực thanh tra tư pháp” là vấn đề tất yếu được đặt ra. “Năng lực” này chủ yếu được tạo nên bởi: khung pháp lý quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; tổ chức bộ máy; yếu tố con người; cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho công tác Thanh tra Tư pháp.
Ngoài bốn yếu tố chính cấu thành nên năng lực Thanh tra Tư pháp như trên còn phải kể đến một số yếu tố khác như cơ chế hoạt động, quan hệ phối hợp công tác, chế độ đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng..trong đó, cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp công tác là những yếu tố không thể thiếu. Đây cũng là những yếu tố có tác động rất lớn đến năng lực của Thanh tra Tư pháp. Nếu coi toàn ngành Thanh tra Tư pháp là một chiếc xe đang vận hành thì khung pháp lý quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật hiện đại được coi là những yếu tố quan trọng; yếu tố con người được coi là then chốt, là cốt yếu như người cầm lái điều khiển chiếc xe chạy nhanh hay chậm, nhanh chậm lúc nào và chọn con đường nào nhanh nhất, hiệu quả nhất; đồng thời, cơ chế hoạt động, quan hệ phối hợp, chế độ đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức được coi như là thứ dầu bôi trơn cho chiếc xe vận hành.
Cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp công tác của Thanh tra Tư pháp với các cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị trong và ngoài ngành mà tốt thì hoạt động của Thanh tra Tư pháp sẽ thuận lợi, hiệu quả. Ngược lại, cơ chế hoạt động, quan hệ phối hợp mà gò bó, cứng nhắc, có nhiều cản trở hoặc lại lỏng lẻo, không có sự gắn kết cần thiết thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của Thanh tra Tư pháp.
II. NỘI DUNG
Trước khi nghiên cứu các nội dung trực tiếp về cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp, chúng ta cùng tìm hiểu về khái niệm “cơ chế”.
Không rõ từ “cơ chế” bắt đầu được dùng ở nước ta tự bao giờ, nhưng có thể khẳng định rằng nó được dùng trước tiên và từ lâu trong ngành y. Các thầy thuốc thường nói đến cơ chế gây bệnh và cơ chế tác dụng của thuốc. Và khi người ta đã nhận biết được những cơ chế ấy, có nghĩa là đã giải thích được bệnh và phương pháp chữa bệnh có cơ sở khoa học. Nếu chưa nhận biết được thì việc chẩn đoán và điều trị vẫn chỉ là theo triệu chứng, theo kinh nghiệm mà thôi.
Từ "cơ chế" là chuyển ngữ của từ mécanisme của phương Tây. Từ điển Le Petit Larousse (1999) giảng nghĩa "mécanisme" là "cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau". Còn Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học 1996) giảng nghĩa cơ chế là "cách thức theo đó một quá trình thực hiện". Điều đáng lưu ý là cả cách dùng trong ngành y, cả định nghĩa trong từ điển, đều cho thấy “cơ chế” được dùng với hàm ý chỉ hiện tượng ở trạng thái động chứ không phải ở trạng thái tĩnh. Cho nên nếu hiểu cơ chế chỉ là các qui định quản lý là hiểu theo trạng thái tĩnh, chưa thấu triệt hết tính chất động của hiện tượng.
Như vậy, ta có thể hiểu “cơ chế hoạt động” của Thanh tra Tư pháp là “cách thức hoạt động” của Thanh tra Tư pháp. Cách thức hoạt động này được pháp luật quy định như thế nào và thực tế đang thực hiện ra làm sao? Có hiệu quả không? Còn vướng mắc gì?...trong quá trình hoạt động đó, các cơ quan Thanh tra Tư pháp tất yếu phải có sự phối hợp với các cơ quan, đơn vị khác trong và ngoài ngành tạo nên các “quan hệ phối hợp” để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
1. Thực trạng về cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp hiện nay
1.1. Cơ chế hoạt động của Thanh tra Tư pháp
a. Thanh tra Bộ
Thanh tra Bộ là cơ quan của Bộ Tư pháp, chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Bộ trưởng, có trách nhiệm giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra tư pháp, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Điều 6 Nghị định số 74/2006/NĐ-CP ngày 1/8/2006 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của Thanh tra Tư pháp).
Về cơ chế hoạt động, theo khoản 3 Điều 24 Luật Thanh tra 2004: Thanh tra Bộ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ.
Thanh tra Bộ có các phòng chuyên môn để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Bộ.
Thanh tra Bộ có con dấu và tài khoản riêng.
Hàng năm, căn cứ vào định hướng chương trình công tác năm tiếp theo của Thanh tra Chính phủ gửi cho Thanh tra các bộ, ngành, trên cơ sở yêu cầu quản lý của ngành, Thanh tra Bộ sẽ lập Kế hoạch công tác thanh tra của năm tiếp theo để trình Bộ trưởng phê duyệt trước ngày 31/12.
Căn cứ vào Kế hoạch công tác đã được Bộ trưởng phê duyệt này, Chánh thanh tra sẽ chủ động triển khai việc thực hiện Kế hoạch như ký quyết định thành lập các Đoàn thanh tra, chủ động bố trí thời gian, chủ động chi trả kinh phí cho các Đoàn thanh tra cũng như các hoạt động khác của đơn vị.
Riêng đối với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, sau khi tiếp nhận, phân loại và xử lý bước đầu, đối với những đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng, Thanh tra Bộ sẽ nghiên cứu, đề xuất với Lãnh đạo Bộ về việc có hay không tiến hành xác minh, kiến nghị, kết luận để giải quyết khiếu nại, tố cáo đó. Sau khi được Lãnh đạo Bộ phê duyệt, quyết định tiến hành xác minh và thành lập Đoàn thanh tra để xác minh sẽ được ban hành, quyết định này sẽ do Bộ trưởng ký hoặc Chánh thanh tra ký.
Thanh tra Bộ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng. Đây là một thuận lợi lớn cho công tác thanh tra. Thực tế tại Bộ Tư pháp hiện nay, Bộ trưởng giao một Thứ trưởng trực tiếp phụ trách Thanh tra Bộ. Hàng tuần, Lãnh đạo Bộ đều bố trí lịch để nghe Thanh tra báo cáo về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng như báo cáo kết quả các cuộc thanh tra theo kế hoạch. Trên cơ sở đó, Lãnh đạo Bộ có sự chỉ đạo kịp thời, sát sao đối với hoạt động của Thanh tra Bộ.
Với cơ chế “chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ”, công tác Thanh tra Tư pháp sẽ phù hợp với định hướng chung của công tác thanh tra trong cả nước.
Đề cập tới “cơ chế hoạt động” của Thanh tra nói chung và Thanh tra Tư pháp nói riêng, một vấn đề nữa cũng rất được quan tâm hiện nay là Kết luận thanh tra và hiệu lực của kết luận thanh tra. Kết luận thanh tra hiện nay có giá trị pháp lý như thế nào? hiệu quả đến đâu?
Theo quy định tại Điều 43 của Luật Thanh tra, sau khi nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra (đối với Thanh tra Bộ là Bộ trưởng hoặc Chánh Thanh tra) sẽ ra văn bản Kết luận thanh tra. Trong đó xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm (nếu có); các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã được áp dụng; kiến nghị các biện pháp xử lý;
Tiếp theo đó, Điều 44 của Luật Thanh tra có quy định về việc xem xét, xử lý kết luận thanh tra: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có kết luận thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp có trách nhiệm xem xét kết luận thanh tra; xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có vi phạm pháp luật; áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật.
Vậy, nếu không có quyết định xử lý kết luận thanh tra của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp thì Kết luận thanh tra có hiệu lực thi hành đối với đối tượng thanh tra không? mặc dù trong các quy định về nghĩa vụ của đối tượng thanh tra (Điều 54 Luật Thanh tra), một trong những nghĩa vụ của đối tượng thanh tra là: chấp hành kết luận thanh tra. Hình thức xử lý kết luận như thế nào? Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp sẽ ra một quyết định chung về việc “xử lý kết luận thanh tra” hay sẽ ra từng quyết định để xử lý về từng nội dung kiến nghị trong kết luận thanh tra? Vấn đề này hiện nay chưa có quy định và đang còn nhiều ý kiến khác nhau, cách thực hiện khác nhau.
b. Thanh tra Sở
Thanh tra Sở là cơ quan của Sở Tư pháp, chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Giám đốc Sở, giúp Giám đốc Sở thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Giám đốc Sở Tư pháp (Điều 9 Nghị định số 74/2006/NĐ-CP ngày 1/8/2006 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của Thanh tra Tư pháp).
Về cơ chế hoạt động, theo khoản 3 Điều 27 Luật Thanh tra 2004: “Thanh tra Sở chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Sở, đồng thời chịu sự hướng dẫn về công tác, nghiệp vụ thanh tra hành chính của Thanh tra tỉnh, về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Bộ”.
Trên thực tế hiện nay, hoạt động của Thanh tra các Sở Tư pháp mới chủ yếu là tiếp công dân, xư lý đơn thư và phối hợp với các đơn vị chức năng của Sở thành lập các Đoàn kiểm tra đối với tư pháp cơ sở như: kiểm tra về công tác hộ tịch…tham gia các Đoàn liên ngành giải quyết khiếu nại, tố cáo…
1.2. Quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp
Để thực hiện công tác theo chức năng, nhiệm vụ của mình, Thanh tra Tư pháp phải thường xuyên phối hợp với các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong và ngoài đơn vị. Các quan hệ phối hợp này ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả hoạt động của công tác thanh tra. Có nhiều quan hệ phối hợp khác nhau nhưng thường xuyên và tập trung nhất là các quan hệ phối hợp sau:
- Với các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính (Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh);
- Với các đơn vị trong cùng cơ quan;
- Với các cơ quan tổ chức hữu quan khác (Viện Kiểm sát nhân dân, Công an, Toà án…);
- Quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Bộ với Lãnh đạo Sở Tư pháp, Thanh tra Sở Tư pháp…
a. Quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Tư pháp với các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính
Cụ thể ở đây là giữa Thanh tra Bộ với Thanh tra Chính phủ và giữa Thanh tra Sở với Thanh tra Tỉnh.
Như đã trình bày ở phần trên, theo quy định hiện nay, Thanh tra Tư pháp hoạt động theo cơ chế song trùng trực thuộc. Thanh tra Bộ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ. Thanh tra Sở chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Sở, đồng thời chịu sự hướng dẫn về công tác, nghiệp vụ thanh tra hành chính của Thanh tra tỉnh, ngoài ra còn chịu sự hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Bộ. Do vậy, quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Tư pháp với các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính này là không thể thiếu.
Trên thực tế, Thanh tra Bộ Tư pháp thường xuyên nhận được sự chỉ đạo, hướng dẫn về nghiệp vụ công tác thanh tra của Thanh tra Chính phủ. Ngược lại, hàng tháng, quý, năm Thanh tra Bộ đều phải gửi báo cáo công tác của mình cho Thanh tra Chính phủ, ngoài ra còn có các báo cáo chuyên đề khác như báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng; báo cáo giải quyết khiếu nại, tố cáo; báo cáo sơ kết thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo…Bên cạnh đó, khi thực hiện giải quyết các vụ việc cụ thể, tuỳ yêu cầu của từng vụ việc mà Thanh tra Bộ và Thanh tra Chính phủ thường xuyên có những quan hệ phối hợp dưới các hình thức như: cử cán bộ, thanh tra viên tham gia các Đoàn Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; tham gia các cuộc họp liên ngành để giải quyết khiếu nại, tố cáo; góp ý bằng văn vản về các văn bản quy phạm pháp luật mà mỗi bên xây dựng…
Quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Sở và Thanh tra Tỉnh cũng tương tự như quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Bộ với Thanh tra Chính phủ.
b. Quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Tư pháp với các đơn vị trong cùng cơ quan
Có thể nói đây là mối quan hệ quan trọng diễn ra thường xuyên và có ảnh hưởng nhiều tới hoạt động thanh tra Tư pháp. Bộ Tư pháp cũng như các Sở Tư pháp là đơn vị quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, phạm vi hoạt động rất rộng. Thanh tra Tư pháp ngoài chức năng thanh tra hành chính còn thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đối với các lĩnh vực do Bộ, ngành mình quản lý. Với số lượng biên chế còn rất hạn chế so với yêu cầu công tác hiện nay thì quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Tư pháp với các đơn vị trong cùng cơ quan có ý nghĩa hết sức quan trọng, Thanh tra Tư pháp có hoàn thành nhiệm vụ của mình hay không, một phần lớn phụ thuộc vào quan hệ phối hợp này.
Quan hệ phối hợp này thể hiện dưới các hình thức như: tiếp công dân; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; xây dựng Kế hoạch công tác thanh tra hàng năm; cứ cán bộ, công chức tham gia các đoàn thanh tra theo kế hoạch hoặc thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thực tế, Thanh tra Bộ thường xuyên phải phối hợp với một số đơn vị như Cục Thi hành án dân sự, Vụ Hành chính tư pháp, Cục Con nuôi, Vụ Bổ trợ tư pháp, Vụ Kế hoạch – Tài chính, Vụ Tổ chức cán bộ, Văn phòng Bộ...
c. Quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Tư pháp với các cơ quan hữu quan khác
Các cơ quan hữu quan khác ở đây bao gồm: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (cử cán bộ tham gia các Đoàn thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo; tham gia các cuộc họp liên ngành lấy ý kiến về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; tham gia các kế hoạch liên ngành của liên ngành tư pháp TW như 02, 06...; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo do Viên kiểm sát nhân dân chuyển sang); Toà án nhân dân (giải thích các bản án phải thi hành có phát sinh khiếu nại trong trường hợp bản án tuyên chưa rõ ràng...), cơ quan Công an...
d. Quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Bộ Tư pháp với Giám đốc Sở Tư pháp, Thanh tra Sở Tư pháp
Mối quan hệ giữa Thanh tra Bộ Tư pháp với Giám đốc Sở Tư pháp, được thể hiện là các cơ quan giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý những công việc được Bộ trưởng Tư pháp giao. Trong mỗi lĩnh vực quản lý có những mối quan hệ phối hợp nhất định, như cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ thanh tra cử cán bộ tham gia hoạt động thanh tra, xúc tiến các hoạt động liên quan đến Thanh tra Sở.
Trong quan hệ với Thanh tra Sở, đây là mối quan hệ trong Ngành, vừa mang tính chất nội bộ vừa mang tính chất cơ quan Trung ương đối với cơ quan địa phương. Trong mối quan hệ đó Thanh tra Bộ Tư pháp có nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với Thanh tra Sở.
Nhìn chung, mấy năm gần đây, Thanh tra Bộ đã chú trọng đến việc tăng cường quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở. Hàng năm, Thanh tra Bộ đều có văn bản hướng dẫn Thanh tra các Sở Tư pháp xây dựng kế hoạch thanh tra năm cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trọng tâm của ngành Tư pháp trong năm đó. Ngoài ra, Thanh tra Bộ còn mở các lớp tập huấn nghiệp vụ cho Thanh tra Sở; hướng dẫn nghiệp vụ cho Thanh tra Sở khi có văn bản thỉnh thị hoặc hướng dẫn chung trên trang hướng dẫn nghiệp vụ tại Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp; hướng dẫn chế độ thông tin báo cáo cho Thanh tra Sở...
Hàng tháng, quý, năm, Thanh tra các Sở Tư pháp có trách nhiệm gửi báo cáo công tác cho Thanh tra Bộ để theo dõi, tổng hợp.
2. Đánh giá chung về cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp hiện nay
Qua thực tế cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp ở phần trên cho chúng ta thấy: về cơ bản hiện nay Thanh tra Tư pháp đã có cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động một cách rõ ràng, mang tính độc lập tương đối. Cơ chế hoạt động của Thanh tra Bộ đã thể hiện được tính chủ động tương đối cao. Các mối quan hệ phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài đơn vị nhìn chung là thuận lợi, góp phần hoàn thành nhiệm vụ và ngày càng nâng cao vị thế, vai trò của Thanh tra Tư pháp trong công tác quản lý chung của toàn ngành.
Bên cạnh đó, trong cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp hiện nay vẫn còn một số hạn chế sau:
Thứ nhất, trong cơ chế hoạt động của Thanh tra Bộ:
- Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong một số trường hợp còn mất nhiều thời gian cho việc báo cáo, họp hành liên ngành dẫn đến không đảm bảo thời gian giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật.
Nguyên nhân:
+ Do tính chất phức tạp của các vụ việc khiếu nại, tố cáo. Hầu hết các trường hợp khiếu nại, tố cáo khi đã đến thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng (mà Thanh tra được giao xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết) đều là những vụ việc phức tạp, thậm chí khiếu nại gay gắt, kéo dài;
+ Kết quả xác minh của Thanh tra khác với kết quả giải quyết của đơn vị chức năng thuộc Bộ đã làm trước đó;
+ Ngoài việc báo cáo Thứ trưởng phụ trách, với những vụ việc phức tạp này, Thanh tra Bộ còn phải báo cáo Bộ trưởng để xin ý kiến chỉ đạo. Do lịch làm việc của Bộ trưởng rất bận nên không phải lúc nào cũng có thể bố trí lịch để nghe Thanh tra báo cáo ngay.
+ Việc tổ chức các cuộc họp liên ngành để lấy ý kiến giải quyết cho đồng thuận nhưng nhiều khi hiệu quả không cao.
- Hiệu lực pháp lý của các Kết luận thanh tra chưa cao, phần nào làm giảm đi hiệu quả của công tác thanh tra
Nguyên nhân: Do chưa có quy định cụ thể về hiệu lực của Kết luận thanh tra cũng như các chế tài nếu kết luận thanh tra không được thực hiện một cách nghiêm minh.
Thứ hai, trong cơ chế hoạt động của Thanh tra Sở
Tính chủ động trong cơ chế hoạt động của Thanh tra Sở thực tế hiện nay còn chưa cao.
Nguyên nhân:
- Số lượng biên chế quá ít, trong đó, số cán bộ được bổ nhiệm thanh tra viên còn ít hơn, nên rất khó để có thể thành lập được các Đoàn thanh tra. Kết quả khảo sát cho thấy, hiện nay số lượng cán bộ thanh tra của toàn bộ 63 tỉnh thành trong cả nước là 115 người (80 nam và 35 nữ), trung bình mỗi Sở chỉ có khoảng 2 người. Trong đó, tổng số biên chế chính thức của Thanh tra các Sở Tư pháp là 110 người, Thanh tra Sở có biên chế cao nhất cao nhất là 04 người (STP thành phố HCM và tỉnh Nghệ An), 06 Thanh tra Sở có 03 biên chế, 33 Thanh tra Sở có 02 biên chế và 18 Thanh tra Sở có 01 biên chế, còn lại 05 Sở Tư pháp vẫn chưa có biên chế chính thức mà sử dụng cán bộ kiêm nhiệm của các phòng ban hoặc bộ phận khác làm công tác thanh tra. Trong số 115 cán bộ làm công tác thanh tra của các Sở Tư pháp hiện nay, mới chỉ có 37 thanh tra viên (chiếm tỷ lệ 32%), 73 chuyên viên (chiếm tỷ lệ 64%), đặc biệt vẫn còn 05 địa phương người làm công tác Thanh tra Tư pháp còn đang ở ngạch cán bộ (chiếm tỷ lệ 4%). Trong số 37 Thanh tra viên thì chỉ có duy nhất 01 Sở Tư pháp có 03 Thanh tra viên (STP tỉnh Nghệ An), còn lại 06 Sở Tư pháp có 02 Thanh tra viên, 22 Sở Tư pháp có 01 Thanh tra viên và còn 35 Sở Tư pháp chưa có Thanh tra viên.
- Thanh tra Sở vừa phải chịu sự chỉ đạo của Giám đốc Sở, vừa chịu sự hướng dẫn về công tác, nghiệp vụ thanh tra hành chính của Thanh tra tỉnh, vừa chịu sự hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Bộ nên dẫn đến có quá nhiều đầu mối quản lý.
Thứ ba, trong cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp với Thanh tra Chính phủ:
Trên thực tế vai trò thủ trưởng trực tiếp của Thanh tra Tư pháp đóng vai trò quyết định về tổ chức, biên chế cũng như hoạt động của tổ chức thanh tra đó, còn vai trò của Thanh tra Chính phủ rất mờ nhạt. Thanh tra Chính phủ rất ít có tác động về tổ chức, biên chế và hoạt động đến Thanh tra Bộ, Ngành nói chung và đến Thanh tra Tư pháp nói riêng. Điều đó cũng có ảnh hưởng nhất định tới tổ chức, hoạt động của Thanh tra Tư pháp, đặc biệt là Thanh tra các Sở Tư pháp.
Với vai trò “chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức, nghiệp vụ” Thanh tra Chính phủ chưa có những chỉ đạo sát sao, phù hợp với nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành như chưa có được những lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành, kể cả cơ bản và chuyên sâu; các biểu mẫu hướng dẫn để áp dụng cho công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, các mẫu báo cáo đều chủ yếu phù hợp với các đơn vị thanh tra theo cấp hành chính. Việc mở và chiêu sinh các lớp bồi dưỡng cho cán bộ thanh tra để bổ nhiệm thanh tra viên và thanh tra viên chính còn ít, số lượng hạn chế, phải phân bổ nên hệ thống Thanh tra Tư pháp còn ít thanh tra viên và thanh tra viên chính để hoạt động.
Nguyên nhân: Do không có những sự ràng buộc chặt chẽ về tổ chức, nghiệp vụ giữa Thanh tra Chính phủ và thanh tra các bộ, ngành.
Thứ tư, trong quan hệ phối hợp với các đơn vị trong cùng cơ quan
Các quan hệ phối hợp này về cơ bản là thuận lợi. Tuy nhiên, vẫn còn một số khó khăn không tránh khỏi như: có những trường hợp, khi thành lập các Đoàn Thanh tra, Thanh tra Bộ thường có văn bản đề nghị các đơn vị có liên quan cử cán bộ tham gia (như Vụ Hành chính tư pháp trong trường hợp thanh tra công chứng, hộ tịch, Cục Con nuôi trong trường hợp thanh tra về con nuôi có yếu tố nước ngoài...), nhưng không phải lúc nào các đơn vị cũng cử được cán bộ tham gia.
Lĩnh vực thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Bộ là rất rộng, nên đòi hỏi phải thường xuyên theo dõi, bám sát và cập nhật các văn bản quy định thuộc các lĩnh vực khác nhau mà các đơn vị thuộc Bộ quản lý. Ngoài ra, cũng cần nắm vững nghiệp vụ của các lĩnh vực đó, có như vậy khi tiến hành thanh tra mới có kết quả tốt. Hàng năm, các đơn vị thuộc Bộ thường tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ cho các cơ quan tư pháp địa phương và có các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ, nhưng Thanh tra Bộ cũng như Thanh tra Sở không được mời tham gia các lớp tập huấn nghiệp vụ này cũng như nhận được các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ.
Ngoài ra, thực tế hiện nay chưa có sự phân định rõ ràng về chức năng thanh tra, kiểm tra giữa Thanh tra với các đơn vị quản lý chuyên môn - khi nào cần thanh tra, khi nào cần kiểm tra? Điều này xuất phát từ khái niệm về thanh tra và kiểm tra còn có chỗ chưa rõ ràng, chồng chéo. Do đó, giữa Thanh tra và các đơn vị quản lý chuyên môn đôi khi còn chưa thống nhất với nhau về thẩm quyền và phương thức tiến hành.
Nguyên nhân:
+ Do khối lượng công việc của các đơn vị cũng rất lớn nên nhiều khi không có cán bộ để cử tham gia các Đoàn thanh tra được.
+ Chưa có một quy chế phối hợp giữa Thanh tra và các đơn vị về thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm tạo ra cơ sở pháp lý chung cho việc thực hiện nhiệm vụ của từng đơn vị.
Thứ năm, trong quan hệ phối hợp với các cơ quan hữu quan khác
Hiện nay, quan hệ phối hợp này diễn ra thường xuyên, đặc biệt là trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nhưng hiệu quả chưa cao như mong muốn.
Nguyên nhân: Hiện nay vẫn chưa có một quy chế chung phối hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo giữa cơ quan Tư pháp (Bộ, Sở) với Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, Công an…Việc ban hành văn bản này là rất cần thiết giúp cho quan hệ phối hợp được thuận lợi và có hiệu quả cao hơn.
Thứ sáu, trong quan hệ phối hợp giữa Thanh tra Bộ với Thanh tra Sở
Có thể thấy thực tế hiện nay mối quan hệ này còn chưa tương xứng với nhiệm vụ mà nó đảm nhận.
Điều đó do những nguyên nhân như:
+ Thanh tra Ngành Tư pháp có lịch sử ra đời còn rất non trẻ, do đó thời gian để củng cố xây dựng lực lượng chưa đủ;
+ Tổ chức và biên chế Thanh tra Bộ cũng như Thanh tra Sở Tư pháp vẫn chưa được bổ sung đầy đủ. Đặc biệt đội ngũ Thanh tra Sở hiện nay còn thiếu trầm trọng.
3. Những yêu cầu mới đặt ra và giải pháp về cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp góp phần tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp trong giai đoạn hiện nay
3.1. Những yêu cầu mới
Đứng trước những yêu cầu mới đặt ra với toàn ngành tư pháp nói chung như: hội nhập WTO, cải cách hành chính, cải cách tư pháp…yêu cầu đặt ra với Thanh tra ngành Tư pháp là cần được tăng cường năng lực một bước đáng kể để có thể hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình trong giai đoạn mới hiện nay.
Ngoài những yêu cầu về hoàn thiện khung pháp lý về chức năng, nhiệm vụ; tăng cường biên chế, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra; kiện toàn bộ máy tổ chức các cơ quan thanh tra Tư pháp từ TW đến địa phương; tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác thanh tra thì cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp cũng cần có những cải thiện cho phù hợp với tình hình và yêu cầu nhiệm vụ hiện nay, sao cho cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp công tác phải vừa đảm bảo tính nguyên tắc của công tác thanh tra, vừa bảo đảm tính chủ động, linh hoạt, mềm dẻo.
3.2. Một vài giải pháp về cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp hiện nay
Thứ nhất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật có liên quan như: tăng thời hạn giải quyết đối với các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng; quy định rõ về hiệu lực pháp lý của Kết luận thanh tra cũng như biện pháp chế tài có thể áp dụng nếu không nghiêm chỉnh chấp hành.
Thứ hai, cần tăng cường đôn đốc, kiểm tra một cách thường xuyên việc thực hiện các kết luận thanh tra để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra.
Thứ ba, Bộ Tư pháp cần có những kiến nghị với UBND các tỉnh để tăng cường, bổ sung biên chế cho Thanh tra các Sở Tư pháp.
Thứ tư, các cơ quan Thanh tra Tư pháp cần chủ động phối hợp với các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính để có được sự chỉ đạo sát sao hơn của các cơ quan này.
Thứ năm, thanh tra và các đơn vị quản lý chuyên môn cần cùng nhau xây dựng những quy chế phối hợp về các vấn đề thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trên cơ sở đó tạo ra khuôn khổ pháp lý cho việc thực hiện nhiệm vụ của từng đơn vị.
- Các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp khi mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thì đề nghị thông báo để Thanh tra Bộ cử cán bộ, công chức tham dự; khi có văn bản hướng dẫn nghiệp vụ gửi cho các cơ quan tư pháp địa phương thì đề nghị gửi cho Thanh tra Bộ 01 bản.
Thứ sáu, Liên ngành tư pháp Trung ương cần sớm ban hành Quy chế phối hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo giữa Viện KSND tối cao - Toà án nhân dân tối cao - Bộ Công an - Bộ Tư pháp;
Thứ bảy, tăng cường mối quan hệ giữa Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở để nâng cao hiệu quả hoạt động của Thanh tra Tư pháp nói chung./.
Chuyên đề 7
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA THANH TRA TƯ PHÁP: YẾU TỐ BẢO ĐẢM NĂNG LỰC THANH TRA TƯ PHÁP
|
Hà Kế Vinh – Chánh thanh tra
Thanh tra Bộ Tư pháp
|
Xuất phát của việc nhận thức thanh tra là một công cụ thiết yếu của quyền lực nhà nước, hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo luôn được trú trọng trong quá trình cải cách hành chính nhà nước nói riêng, trong cải cách Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, ngày 17/9/2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 136/2001-TTg kèm theo chương trình công tác cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 xác định rõ mục tiêu của cải cách là xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động có hiệu quả theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng phát triển đất nước.
Ngành thanh tra phải khẳng định là một mắt xích quan trọng trong quá trình thực hiện hoá các mục tiêu về đổi mới trên. Tầm quan trọng này đòi hỏi ngành thanh tra phải xây dựng một bộ máy vừa tinh gọn, vững mạnh. Cán bộ thanh tra phải giỏi về nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức, tác phong, gương mẫu trong công việc cũng như trong lối sống.
Lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị cán bộ thanh tra miền bắc, lần thứ nhất ngày 19/4/1965: “ Cán bộ thanh tra như cái gương cho ngươi ta soi mặt, gương mờ thì không soi được, vì thế cán bộ thanh tra phải nên rèn luyện đạo đức cách mạng…”
Người đảng viên, người cán bộ muốn trở thành người cách mạng chân chính phải có 5 điều: Nhân , nghĩa, trí, dũng, liêm(Chủ tịch Hồ Chí Minh với xây dựng nhà nước và công tác cán bộ)
Chính vì vậy, cán bộ làm công tác thanh tra cần phải phấn đấu rèn luyện về đạo đức cách mạng, về phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh vững vàng thể hiện ở những điểm dưới đây:
1. Trước hết phải rèn luyện đạo đức cách mạng
Rèn luyện đạo đức cách mạng, có nghĩa là người cán bộ phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo mình để tiến bộ. Vì lợi ích chung của Đảng, của nhân dân mà không ngần ngại hy sinh lợi ích riêng của cá nhân mình. Khi tổ quốc cần người cán bộ dám hy sinh cả tính mạng mình cho sự nghiệp của Đảng, của dân tộc, đó là biểu hiện của đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn không nản chí, lùi bước, khi thành công không kiêu ngạo, mà là khiêm tốn.
Đạo đức cách mạng được thể hiện ở một số điểm sau:
+ Quyết tâm suốt đời đấu tranh giành thắng lợi cho Đảng, cho cách mạng, đây là điều chủ chốt nhất;
+ Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng;
+ Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lên trên lợi ích của bản thân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc;
+ Ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lê nin, luôn luôn tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ.
+ Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
Đạo đức cách mạng đó là những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người, nó là thước đo giá trị cần có của mỗi con người.
2. Thứ hai: phải rèn luyện, tu dưỡng về phẩm chất đạo đức:
Nghị quyết TW5 khoá VIII nêu rõ 5 đức tính của con người Việt nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay
+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý trí vươn lên đưa đất nứơc thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân…
+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung
+ Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của công đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái
+ Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội
+ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực
Con người có 5 đức tính đó là con người có văn hoá, con người XHCN, là nguồn lực của đất nước, là động lực phát triển kinh tế-xã hội trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3. Thứ ba: phải rèn luyện về đạo đức nghề nghiệp thanh tra
Đạo đức nghề nghiệp của cán bộ làm công tác thanh tra được hình thành trên cơ sở hoạt động nghề nghiệp chuyên ngành thanh tra. Do đó, đạo đức của công chức thanh tra ngoài các đặc điểm của đạo đức cách mạng, có phẩm chất đạo đức của con người còn được tạo nên bởi bản lĩnh nghề nghiệp, tính trung thực, tinh thần trách nhiệm và hoạt động dựa trên nền tảng của pháp luật. Ngoài ra đạo đức nghề nghiệp còn được đặt ra là có lương tâm nghề nghiệp và tính nhân đạo
Hiện nay, ở nước ta nhiều cơ quan nhà nước đều ban hành Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức của từng ngành nghề(như Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức Hải quan; Quy tắc ứng xử của công chức, viên chức thuộc Tổng cục đo lường Chất lượng trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ; Quy tắc đạo đức nghề nghiệp Luật sư; Quy tắc đạo đức Thẩm phán, Quy tắc đạo đức Chấp hành viên…) và đặc biệt vừa qua Tổng Thanh tra Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1860/QĐ-TTCP-TCCB ngày 06/9/2007 ban hành Quy tắc ứng xử của cán bộ thanh tra, theo đó quy định việc ứng xử trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; ứng xử trong thực hiện nhiệm vụ thanh tra; ứng xử trong tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; ứng xử trong thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng; ứng xử với đồng nghiệp, với cán bộ lãnh đạo, trong việc ứng xử với nhân dân nơi cư trú và ứng xử trong gia đình…vv
Chuẩn mực đạo đức của công chức làm công tác thanh tra được xác định là tiêu chuẩn chung của thanh tra viên và các quy tắc ứng xử của người cán bộ thanh tra được đánh giá về phẩm chất chính trị là phải tuyệt đối trung thành với tổ quốc và hiến pháp; về phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, công minh, khách quan.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Thanh tra là tai mắt của trên , là người bạn của dưới. Chính vì lẽ đó cán bộ thanh tra phải có một bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, kiên định, trong thực thi nhiệm vụ, công vụ phải tuân thủ và gương mẫu thực hiện nghiêm túc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Trong hoạt động thanh tra phải thực hiện đúng quy định của pháp luật, thận trọng, khách quan, toàn diện. Khi thanh tra không được lợi dụng cán bộ thanh tra để sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra để nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác, có như vậy thì khi thanh tra mới phát hiện ra những bất cập, thiếu sót hoặc những vi phạm của tổ chức, cá nhân để tham mưu cho cấp có thẩm quyền xem xét xử lý.
Trong công tác tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo hoặc được giao thanh tra xác minh, kết luận, kiến nghị giải quyết khiếu nại, tố cáo. Khi tiếp công dân cán bộ tiếp công dân phải chấp hành dúng quy định của Quy chế tiếp công dân, có thái độ hoà nhã, không gây phiền hà, sách nhiễu hoặc cản trở, trì hoãn việc khiếu nại, tố cáo, phản ánh của dân. Không được tiết lộ những thông tin, tài liệu, bút tích của người tố cáo.
Bên cạnh đó cán bộ làm công tác thanh tra phải rất gần dân, luôn lắng nghe ý kiến của nhân dân, không được hách dịch, cửa quyền và nắm bắt được tâm lý của người dân và thực sự phải khách quan thì dân mới tin việc làm của cán bộ thanh tra, dân mới hợp tác trong quá trình thanh tra. Lắng nghe, tôn trọng các ý kiến giải trình của đối tượng thanh tra.
Tuy nhiên, ngoài những tiêu chuẩn chung, nghề thanh tra còn có đặc thù riêng, công chức làm thanh tra cũng giống bao nghề khác đều phải có cái đức bởi thanh tra là một nghề trong số ít nghề mang tính chất nhạy cảm của xã hội, luôn phải tiếp cận với những sai sót trong quản lý, những nỗi oan, những bất công trong xã hội. Bác Hồ cũng đã từng căn dặn cán bộ làm công tác thanh tra trong giải quyết khiếu nại tố cáo: “ đồng bào có oan ức thì mới khiếu nại hoặc vì chưa hiểu chính sách của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại” ( Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia). Vì vậy, người cán bộ thanh tra phải luôn có thái độ lắng nghe, tìm lời lẽ thuyết phục để giải thích cho dân hiểu, dân tin vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, dân thấy mình được tôn trọng, là chủ thục sự của đất nước, từ đó mối quan hệ giữa nhân dân và Nhà nước càng thêm gần gũi, gắn bó. Ngoài ra người làm công tác thanh tra cần phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, cảm thông chia sẻ với tình cảnh của người dân thì mới làm cho người dân đỡ búc xức và ngay cả khi nhân dân không có khiếu kiện, cán bộ thanh tra cũng phải thăm dò lấy ý kiến của nhân dân để ngày càng góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước, ổn định tư tưởng cho nhân dân.
Thanh tra là một trong những nghề đặc thù phục vụ mục đích quản lý của nhà nước.Trong công tác quản lý của lãnh đạo nếu thiếu công tác kiểm tra, thanh tra thì hiệu quả công việc không cao, ngược lại nếu công tác thanh tra thiếu thận trọng, không khách quan trắng đen lẫn lộn thì lại càng nguy hiểm, phản tác dụng. Vì vậy, khác với phạm trù đạo đức nói chung, đạo đức nghề thanh tra ngoài các đặc điểm của đạo đức xã hội còn được tạo nên bởi: lương tâm nghề nghiệp và tính nhân đạo, bản lĩnh nghề nghiệp, tính trung thực, tinh thần trách nhiệm và hoạt động dựa trên nền tảng của pháp luật.
Cán bộ làm công tác thanh tra, phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện đạo đức, tác phong, phải cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Muốn được như vậy, công chức thanh tra trước hết phải tự phê bình và phê bình để giúp cán bộ thanh tra cũng như đồng nghiệp tiến bộ. Chúng ta thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được đăng tại Báo cứu quốc, số 51, ngày 26/9/1945 Hồ Chí Minh viết muốn thành cán bộ tốt phải có tinh thần tự chỉ trích… “Có nhiều đồng chí tự cho mình có trình độ nhận thức cao, có kinh nghiệm đầy đủ về công tác, hoặc vì không có tinh thần tiến thủ, chỉ biết tới đâu hay tới đó, nên không chịu học tập, không biết tự chỉ trích để sửa đổi những lỗi lầm và bồi bổ những thiếu sót. Phải biết rằng tình hình khách quan thay đổi hàng ngày, hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi, bị các bạn tỉnh táo hơn vượt đi trước. Muốn được thích hợp với tình thế, muốn cùng tiến hay vượt các bạn khác ta cần phải nhận thức và tự giáo dục không ngừng, cần phải có sự thành thực tự vạch ra những khuyết điểm sai lầm để bồi bổ và sửa đổi đi. Sau khi làm việc xong một công tác gì, hay sau mỗi ngày làm việc, cần phải tự mình kiểm điểm xem có chỗ nào mình nhầm lẫn, chỗ nào chưa đầy đủ, có được ưu điểm gì nên nhớ, được kinh nghiệm gì quý đáng ghi. Phải bỏ hẳn thái độ “Xong việc thì thôi”. Không chịu tự phê bình, tự chỉ trích thì không bao giờ tấn tới được”.
Ngày nay, đất nước ta ngày càng phát triển, ổn định. Với nền kinh tế thị trường, tự do cạnh tranh nhưng đi đôi với nó là những tiêu cực phát sinh. Đó là những cám dỗ của lợi ích vật chất, nó giống như những viên đạn bọc đường tấn công vào đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước và đã làm gục ngã nhiều người. Đó là sự suy thoái đạo đức xã hội nói chung và đạo đức của người cán bộ, công chức nhà nước nói riêng. Mặt khác thanh tra luôn phải tiếp xúc với những mặt trái xã hội, những biểu hiện tiêu cực, do đó công chức thanh tra vừa là tai mắt của trên, vừa là người bạn của dưới, giúp cấp trên nắm được tình hình, giúp cấp dưới sửa chữa, uốn nắn những sai lầm, lệch lạch và quan trọng nhất là phải tự mình nghiêm chỉnh rèn luyện, phải có đạo đức cách mạng, tự mình tu dưỡng đức. Ngoài ra người cán bộ thanh tra phải có bản lĩnh vượt qua chính mình, dám đương đầu với những khó khăn, không ngừng trao dồi tri thức, đạo đức nghề nghiệp để làm gương cho người khác.
Hiện nay, cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, quan hệ xã hội và quan hệ pháp luật trở nên đa dạng và phong phú hơn nhưng trong đó cũng tiềm ẩn những khó khăn và hành vi tham nhũng cũng phát triển ở mức độ tinh vi hơn, đòi hỏi cán bộ thanh tra phải thông minh, tài trí, không ngừng nâng cao năng lực, phẩm chất chính trị để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Bác Hồ đã từng nói: “ Đối với cán bộ, được làm công tác thanh tra là một vinh dự. Vì sao? Vì công tác thanh tra là một công tác quan trọng, Đảng và Chính phủ có tin cậy mới giao cho làm nhiệm vụ ấy. Có thể nói cán bộ thanh tra là tai, mắt của Đảng và Chính phủ”(huấn thị về công tác thanh tra tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn mằn bắc ngày 5/3/1960).
Cán bộ thanh tra thực thi công vụ khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải có sự hiểu biết sâu sắc về lý luận chính trị, kiến thức chuyên môn và phải thực sự là người có năng lực, kinh nghiệm và đặc biệt là uy tín. Có thể nói năng lực và phẩm chất đạo đức tạo nên uy tín cho người cán bộ thanh tra nên dù ở bất cứ cương vị nào, trên bất kỳ phương diện nào, người cán bộ thanh tra cũng cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, bản lĩnh và trí tuệ, trau dồi tri thức, giữ gìn sự đoàn kết đồng lòng, sự tận tâm trong công việc và là lực lượng tích cực, chủ động trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng như lời bác Hồ vĩ đại: “ cán bộ thanh tra cố gắng học tập, học cái hay, tránh cái dở, trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ lý luận, trình độ nghiệp vụ và trình độ chuyên môn để làm việc cho tốt thì đó mới là tiền đồ vẻ vang, là xứng đáng với sự tín nhiệm của Đảng và Chính phủ” ( Huấn thị của Hồ Chí Minh tại Hội nghị thanh tra miền bắc ngày 5/3/1960).
Người cũng phê bình“ Một cán bộ chưa an tâm công tác, cho làm công tác thanh tra không tiến bộ, thắc mắc về tiền đồ, đứng núi này trông núi nọ, muốn xin đi công tác khác. Như thế là không hiểu rõ nhiệm vụ của mình, không hiểu vinh dự của mình, là mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa”(Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 5). Vì vậy, để trở thành một tấm gương sáng về đạo đức cách mạng thì cán bộ thanh tra phải luôn rèn luyện, tu dưỡng và có ý thức tự phê bình, không ngừng cập nhật, thấm thía các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nắm bắt kịp thời những đổi thay của tình hình kinh tế- xã hội của đất nước để theo kịp yêu cầu của quản lý nhà nước và thích ứng với sự phát triển các quan hệ xã hội.
Tóm lại, Đạo đức cán bộ thanh tra cần phải có:
+ Phải có đạo đức cách mạng
+ Có phẩm chất đạo đức, lối sống giản dị , khiêm tốn, trong sạch
+ Phải có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, không ngừng học tập, nâng cao trình độ, có kiến thức, có thực tiễn
+ Dám đấu tranh, dũng cảm, kiên định, khách quan
Chuyên đề 8
NÂNG CAO VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA CƠ QUAN TƯ PHÁP CƠ SỞ TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG THANH TRA, KIỂM TRA CỦA CƠ QUAN TƯ PHÁP CẤP TRÊN
|
Cao Văn Quý
Phòng Tư pháp quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
|
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC THANH TRA, KIỂM TRA CỦA CÁC CƠ QUAN TƯ PHÁP
Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý Nhà nước, là phương thức đảm bảo pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý Nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Tổ chức và hoạt động thanh tra ra đời và phát triển gắn liền với hoạt động quản lý nói chung và đặc biệt quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước nói riêng. Quản lý Nhà nước, xét trên giác độ nào đó thì chính là sự tổ chức, thực hiện quyền lực Nhà nước đối với xã hội. Quyền lực quản lý hành chính Nhà nước cơ bản nằm trong cơ quan hành pháp. Thanh tra là một công cụ trong các công cụ để quản lý Nhà nước.
Theo từ điển tiếng Việt thì "thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp". Khái niệm thanh tra bắt nguồn từ chữ "in-pectare" - nghĩa là nhìn vào bên trong. Theo tiếng Anh thanh tra là "inspect" - có nghĩa là kiểm tra, xem xét kỹ.
Từ khái niệm trên cho thấy hoạt động quản lý với danh nghĩa là thanh tra khác với hoạt động quản lý chuyên môn. Như vậy, nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra khác với nhiệm vụ của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước. Thanh tra có nhiệm vụ xem xét, phát hiện, đề xuất các biện pháp áp dụng theo pháp luật để phòng ngừa hoặc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Trong khi đó, các cơ quan quản lý chuyên môn có nhiệm vụ quản lý mang tính chất điều hành thường xuyên, xử lý các tình huống phát sinh hàng ngày.
Như vậy, thanh tra là phạm trù gắn liền với quản lý Nhà nước, mỗi cơ quan thanh tra là công cụ quan trọng trong quản lý Nhà nước. Khi bàn về quản lý Nhà nước, Lê Nin đã chỉ rõ: " Điều kiện tất yếu để công tác quản lý được chính xác là việc kiểm tra tình hình chấp hành Chỉ thị và Nghị quyết. Kiểm tra thường xuyên việc chấp hành là một trong những ưu điểm cơ bản nhất, tất yếu nhất của phương thức quản lý..."
Trong mối quan hệ giữa thanh tra và quản lý, thì quản lý là nhân tố có trước, quyết định mục tiêu, yêu cầu, nội dung và phương thức tổ chức hoạt động thanh tra. Ngược lại, hoạt động thanh tra cũng có tác động tích cực đối với quản lý, làm cho quá trình quản lý diễn ra liên tục, thông suốt theo mục tiêu đã định. Qua thực hiện tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước ở nước ta trong các thời kỳ và cũng như nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức bộ máy nhà nước của một số nước cho thấy: mỗi lĩnh vực quản lý nhất định, trong điều kiện một cơ chế quản lý nhất định đòi hỏi phải có cơ chế tổ chức, hoạt động thanh tra tương ứng thích hợp.
Chính vì thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước như vậy mà trong hoạt động của ngành Tư pháp cũng không thể thiếu hoạt động thanh tra, kiểm tra.
Hoạt động thanh tra do tổ chức Thanh tra trong ngành Tư pháp thực hiện. Bên cạnh đó, các đơn vị chuyên môn cũng có chức năng kiểm tra đối với các đơn vị cấp dưới trong ngành.
Các cơ quan trong ngành Tư pháp ở nước ta hiện nay bao gồm: ở Trung ương có Bộ Tư pháp, ở địa phương có Sở Tư pháp ở cấp tỉnh và Phòng Tư pháp ở cấp huyện. Cơ quan Tư pháp cơ sở trong chuyên đề này được hiểu là Phòng Tư pháp, còn cơ quan Tư pháp cấp trên là Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp.
Thanh tra Tư pháp là tổ chức thanh tra thuộc ngành Tư pháp; ở Trung ương có Thanh tra Bộ Tư pháp; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Thanh tra Sở Tư pháp; thực hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp theo quy định của pháp luật (Điều 1 - Nghị định số 74/2006/NĐ-CP ngày 1/8/2006 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp).
Hàng năm, các cơ quan thanh tra Tư pháp và các đơn vị chuyên môn thuộc các cơ quan tư pháp sẽ tiến hành thanh tra, kiểm tra phục vụ cho công tác quản lý nhà nước của mình. Trong quá trình đó, tư pháp cơ sở - phòng Tư pháp có những vai trò nhất định. Vấn đề là hiện nay, tư pháp cơ sở đang thể hiện vai trò đó như thế nào? Đã đáp ứng yêu cầu của các cơ quan tư pháp cấp trên chưa? Trong những điều kiện mới hiện nay, tư pháp cơ sở cần phải làm gì để khẳng định mình hơn nữa, đặc biệt là trong hoạt động của cơ quan thanh tra, kiểm tra cấp trên. Đó chính là các vấn đề mà chuyên đề này sẽ giải quyết.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA PHÒNG TƯ PHÁP VÀ VAI TRÒ, VỊ TRÍ TRONG LĨNH VỰC THANH TRA, KIỂM TRA
1. Một số vấn đề cơ bản về nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tư pháp
Ngày 05-5-2005 Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương. Theo quy định của Thông tư này thì Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp huyện), tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, chứng thực, hộ tịch, trợ giúp pháp lý, hoà giải ở cơ sở và công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật; thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực công tác tư pháp theo sự uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Như vậy, có thể nói cùng với sự trưởng thành của ngành Tư pháp nói chung, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tư pháp cũng ngày càng được tăng cường trong việc tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực quan quan trọng của đời sống xã hội, trong đó có những lĩnh vực rất "nhạy cảm" liên quan nhiều đến thủ tục hành chính như, công tác chứng thực, hộ tịch và thậm chí cả những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến vấn đề vật chất, động chạm đến quyền và lợi ích của các bên trong khiếu nại, tố cáo như công tác thi hành án dân sự. Xin nêu ra đây một số nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản của Phòng Tư pháp về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong một số lĩnh vực cụ thể như sau:
Thứ nhất, trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự: Theo quy định tại mục 2 của Chỉ thị số 20/2001/CT-TTg ngày 11/9/2001 về việc tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự thì "Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm trực tiếp tổ chức, chỉ đạo công tác thi hành án dân sự tại địa phương; phát huy vai trò của cơ quan Tư pháp, huy động lực lượng các cơ quan hữu quan của bộ máy chính quyền, phối hợp các đoàn thể ở địa phương, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng... Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Ban Chỉ đạo thi hành án cấp tỉnh, cấp huyện, do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp làm Trưởng ban để chỉ đạo công tác thi hành án tại địa phương". Trong khi đó, mục 2.5 của Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ quy định Phòng Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn: "Giúp UBND cấp huyện quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự ở địa phương theo quy định của pháp luật". Hơn nữa, theo quy định tại khoản 2, Điều 1, Pháp lệnh THADS 2004 và khoản 5, Điều 11, Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự, Phòng Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ở địa phương trong việc "chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự ở địa phương theo quy định của pháp luật". Từ những quy định trên có thể thấy vai trò của Phòng Tư pháp trong việc tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước về thi hành án dân sự không phải là trực tiếp giúp Uỷ ban trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo mà hơn thế, đó là giúp Uỷ ban trong việc "chỉ đạo" giải quyết. Công tác "chỉ đạo" giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự trong phạm vi thẩm quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện bao gồm cả chỉ đạo những vấn đề chung theo quy định của pháp luật và chỉ đạo những vấn đề cụ thể trên cơ sở phù hợp với thực tiễn của địa phương. Do đó, có thể nói vai trò của Phòng Tư pháp với tư cách là cơ quan tham mưu đối với Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong lĩnh vực này là rất quan trọng.
Thứ hai, trong quản lý nhà nước về công tác chứng thực: nếu như thẩm quyền, trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự chủ yếu chỉ dừng lại ở việc "chỉ đạo", thì trong lĩnh vực chứng thực này thẩm quyền và trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp huyện đã trực tiếp hơn, cụ thể hơn. Điểm b, khoản 6, Điều 20, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký quy định:
"6. Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong địa phương mình có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
b) Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về việc cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký;".
Đồng thời, mục 2.6 của Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ quy định Phòng Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn: "Hướng dẫn, kiểm tra hoạt động chứng thực của UBND cấp xã; thực hiện chứng thực một số việc theo sự uỷ quyền của Chủ tịch UBND cấp huyện theo quy định của pháp luật". Trên thực tế, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP mới ra đời và có hiệu lực chưa lâu nên "chứng thực" là một mảng công tác mới, tương đối lớn và nặng nề đối với nhiều xã, phường. Như vậy, công tác hướng dẫn, kiểm tra của Tư pháp cấp huyện rất quan trọng và cũng chính Tư pháp cấp huyện, chứ không phải cơ quan nào khác, thường được Uỷ ban nhân dân cấp huyện uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ quyền hạn "...giải quyết khiếu nại, tố cáo về việc cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký;".
Thứ ba, trong quản lý nhà nước về công tác hộ tịch: tại mục 2.7 của Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV cũng quy định Phòng Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn: "Hướng dẫn, kiểm tra việc đăng ký và quản lý hộ tịch; quản lý các sổ sách, biểu mẫu về hộ tịch theo quy định của pháp luật". Đồng thời, theo quy định tại khoản 1 và 2, Điều 78, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch thì Phòng Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trong việc "giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm về hộ tịch theo thẩm quyền" khi được giao. Từ những quy định này có thể thấy, bên cạnh thẩm quyền giúp Uỷ ban nhân dân hướng dẫn, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo như trong lĩnh vực chứng thực thì trong lĩnh vực hộ tịch, Phòng Tư pháp còn được giao giúp Uỷ ban nhân dân trong việc xử lý các vi phạm thuộc thẩm quyền.
Ngoài ra, Phòng Tư pháp còn có những nhiệm vụ, quyền hạn khác tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong phạm vi thẩm quyền của mình như xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có mảng văn bản quy phạm phápluật về khiếu nại, tố cáo.
Có thể nói rằng, pháp luật hiện hành đã quy định tương đối rõ nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền của Phòng Tư pháp từ việc kiểm tra, xây dựng văn bản quy phạm phạm luật đến việc chỉ đạo và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo uỷ quyền. Đặc biệt, trên thực tế, khi công chức Phòng Tư pháp được giao nhiệm vụ tham gia các đoàn thanh tra, xác minh liên ngành để giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền thì công chức Phòng Tư pháp, ngoài việc giữ vai trò là thành viên của đoàn, còn phải tư vấn không những nội dung pháp luật có liên quan mà còn cả những nghiệp vụ về xác minh, giải quyết khiếu nại, tố cáo sao cho việc xác minh, kết luận, kiến nghị và giải quyết đạt hiệu quả, đúng pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế, số Phòng Tư pháp các quận, huyện thực hiện tốt những nhiệm vụ, quyền hạn này chưa nhiều, có nơi còn hiểu chưa rõ về nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thậm chí có nơi hầu như các công việc liên quan đến khiếu nại, tố cáo là do Thanh tra huyện thực hiện. Đây cũng là một trong những tồn tại của công tác cấp huyện cần phải được quan tâm, khắc phục để Tư pháp cấp huyện thực hiện tốt hơn nữa chức năng tham mưu của mình đối với Uỷ ban nhân dân cùng cấp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước của Ngành và địa phương.
2. Vai trò, vị trí của phòng Tư pháp trong thanh tra, kiểm tra
Hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan tư pháp cấp trên cần được hiểu như sau:
- Về cơ quan thanh tra, có:
+ Thanh tra Bộ;
+ Thanh tra Sở.
- Về cơ quan kiểm tra:
+ Các Vụ, Cục chức năng thuộc Bộ Tư pháp;
+ Các phòng chuyên môn của Sở Tư pháp.
- Về nội dung thanh tra, kiểm tra: theo chức năng quản lý nhà nước của ngành Tư pháp thì nội dung thanh tra, kiểm tra của các cơ quan thanh kiểm tra trong ngành Tư pháp sẽ bao gồm các lĩnh vực sau:
+ Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật;
+ Phổ biến, giáo dục pháp luật;
+ Thi hành án dân sự;
+ Công chứng, chứng thực;
+ Hộ tịch;
+ Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài;
+ Quốc tịch;
+ Lý lịch tư pháp;
+ Luật sư;
+ Tư vấn pháp luật;
+ Giám định tư pháp;
+ Bán đấu giá tài sản;
+ Trọng tài thương mại;
+ Trợ giúp pháp lý;
+ Đăng ký giao dịch bảo đảm;
+ Hợp tác nước ngoài về pháp luật và công tác tư pháp khác…
Trong các hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan tư pháp cấp trên, tư pháp cơ sở - phòng Tư pháp có vai trò, vị trí sau:
· Phòng Tư pháp trực tiếp tiến hành kiểm tra đối với tư pháp xã, phường;
· Phòng Tư pháp cử cán bộ tham gia các đoàn thanh tra, kiểm tra của các cơ quan tư pháp cấp trên;
· Phòng Tư pháp là cơ quan liên quan để cung cấp các thông tin, tư liệu, số liệu cần thiết cho hoạt động của cơ quan thanh tra, kiểm tra cấp trên.
3. Nâng cao vai trò, vị trí của phòng Tư pháp trong hoạt động của cơ quan tư pháp cấp trên
Trước những yêu cầu hiện nay của công cuộc cải cách tư pháp, cải cách bộ máy nhà nước…công tác tư pháp cơ sở ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng đối với đời sống người dân cũng như hoạt động quản lý nhà nước. Công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan tư pháp cấp trên ngày càng được tăng cường. Một yêu cầu tất yếu được đặt ra là cần phải nâng cao vai trò, vị trí của cơ quan tư pháp cơ sở nói chung và vai trò, vị trí trong hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan tư pháp cấp trên nói riêng.
Cơ quan tư pháp cơ sở mà cụ thể ở đây là phòng Tư pháp ở các quận, huyện, thị xã cần phải không ngừng nâng cao vai trò, vị trí của mình. Cụ thể là, tăng cường vai trò trong hoạt động kiểm tra đối với tư pháp xã, phường, thị trấn như kiểm tra đối với công tác hộ tịch: đăng ký kết hôn, khai sinh, khai tử; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự theo uỷ quyền; chứng thực…
Trong hoạt động kiểm tra, thanh tra của cơ quan tư pháp cấp trên, Tư pháp cơ sở cần nắm vững các cơ quan, tổ chức hoạt động trong các lĩnh vực mà ngành tư pháp quản lý trên địa bàn của mình như: các tổ chức luật sư (Văn phòng Luật sư, Công ty Luật…); tổ chức tư vấn pháp luật; các văn phòng công chứng; tổ chức trợ giúp pháp lý; cơ quan giám định tư pháp; các Trung tâm trọng tài thương mại; các Trung tâm bán đầu giá tài sản…để có thể phối hợp với các cơ quan tư pháp cấp trên tiến hành thanh tra, kiểm tra khi có yêu cầu.
Muốn vậy, cần thực hiện một số giải pháp sau để nâng cao vị trí, vai trò của phòng Tư pháp:
- Tăng cường biên chế cho các phòng Tư pháp để đủ đáp ứng yêu cầu công việc (hiện nay, biên chế của các phòng Tư pháp là rất ít, chỉ có 2-4 biên chế mỗi phòng);
- Đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp ở cơ sở. Đào tạo ở đây bao gồm đào tạo cơ bản, đối với những người chưa có trình độ Đại học Luật; đào tạo về chính trị, tin học, ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu công tác chung; đào tạo lại về chuyên môn đối với những người tốt nghiệp đã lâu, nhằm cập nhật những kiến thức mới, những yêu cầu quản lý mới…
- Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc nói chung cho các phòng tư pháp;
- Cần có sự quan tâm, động viên khuyến khích kịp thời đối với cán bộ làm công tác tư pháp cơ sở; có chế độ đãi ngộ xứng đáng như lương, phụ cấp; ngoài ra, các yếu tố khác như cơ chế hoạt động, quan hệ phối hợp công tác cũng cần được quan tâm thoả đáng góp phần nâng cao vai trò, vị trí của cơ quan tư pháp cơ sở.
Trên cơ sở vai trò, vị trí của phòng Tư pháp được nâng cao thì phòng Tư pháp cũng sẽ nâng cao được vai trò, vị trí của mình trong hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan tư pháp cấp trên./.
Chuyên đề 9
NĂNG LỰC THANH TRA TƯ PHÁP SỞ TƯ PHÁP HÀ NỘI THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, YÊU CẦU MỚI ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên viên Đặng Thạch Bích
Chuyên viên Khuất Thị Thu Hạnh
Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội
Công tác thanh tra là một công tác được chú ý đến từ lâu, ngay từ khi Bác Hồ còn sống. 60 năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Ban thanh tra đặc biệt. Từ đó đến nay, tổ chức thanh tra có nhiều tên gọi và hình thức tổ chức khác nhau, hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước đang được hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương, tại các cấp sở, ban, ngành khác nhau. Trải qua từng thời kỳ cách mạng, những yêu cầu về tổ chức và quản lý được đặt ra đòi hỏi các cơ quan thanh tra nhà nước lại có bước phát triển mới theo hướng hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với tình hình hiện tại. Kết quả hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước đã góp phần tích cực vào ổn định chính trị, củng cố hệ thống chính quyền nhân dân, làm lành mạnh các quan hệ xã hội và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Một trong nhiều bài học quý giá rút ra qua thực tiễn tổ chức hoạt động thanh tra những năm qua là phải nâng cao năng lực cơ quan thanh tra nhà nước, đặc biệt là cơ quan thanh tra tại các Sở tư pháp địa phương.
Để tham gia nghiên cứu đề tài khoa học về “Năng lực thanh tra tư pháp Sở Tư pháp Hà Nội”. Bài viết này phản ánh thực trạng hoạt động của thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội từ đó nêu lên nguyên nhân và đưa ra những yêu cầu mới, đề ra những giải pháp để Thanh tra Sở Tư pháp hoạt động có hiệu quả hơn nữa.
I. Khái quát về công tác thanh tra:
Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Ban thanh tra đặc biệt, tổ chức tiền thân của Thanh tra Việt Nam. Sau này Ban thanh tra đặc biệt được đổi tên thành Ban thanh tra Chính phủ trực thuộc Thủ tướng chính phủ vào tháng 12/1949. Những năm tiếp theo, theo yêu cầu công tác quản lý nhà nước, các cơ quan thanh tra ở cấp dưới đã lần lượt được thành lập. Theo Nghị định số 1194/TTg ngày 26/12/1956 của Thủ tướng Chính phủ, cơ quan thanh tra ở các liên khu, thành phố và tỉnh được thành lập. Để tăng cường công tác thanh tra tháng 8/1969 Quốc hội nước Việt nam dân chủ cộng hoà ra Nghị quyết số 780/NQ-TVQH thành lập Uỷ ban thanh tra của Chính phủ. Thực hiện nghị quyết của Quốc của Quốc hội tháng 8/1970 Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số 164/CP về việc tăng cường công tác thanh tra và hoàn chỉnh hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước. Thực hiên Nghị định này, đến cuối năm 1970 bước đầu đã hình thành hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước từ trung ương đến các cấp huyện, sở ngành.
Bước vào cuối những năm 80 đầu 90, trước tình hình thế giới diễn biến phức tạp, để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện thắng lợi chủ trương đổi mới của Đảng, ngày 01/4/1990 Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh thanh tra. Theo quy định của Pháp lệnh thanh tra hệ thống tổ chức thanh tra nhà nước được củng cố và phát triển, bao gồm Thanh tra nhà nước; thanh tra các bộ, Uỷ ban nhà nước, cơ quan trực thuộc Hội đồng bộ trưởng; thanh tra các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương; thanh tra các sở, ban ngành; thanh tra các quận, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và chức năng thanh tra xã ở cấp cơ sở.
Để nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, góp phần nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước, tại kỳ họp thứ 5 ngày 15 tháng 6 năm 2004 Quốc Hội Nước khoá XI đã thông qua Luật thanh tra thay thế cho Pháp lệnh thanh tra năm 1990. Đây là văn bản pháp lý cao nhất về công tác thanh tra, tạo cơ sở cho việc xây dựng hệ thống tổ chức các cơ quan thanh tra nhà nước. Việc ban hành Luật thanh tra có ý nghĩa quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ 9, tạo tiền đề cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng kịp thời đòi hỏi của công tác quản lý nhà nước, giữ vững trật tự kỷ cương xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan tổ chức và công dân.
Điều 3 luật Thanh tra cũng quy định rõ mục đích thanh tra “nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những hồ sơ trong cơ chế pháp lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục, phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.”
II. Khái quát về thanh tra tư pháp và thanh tra Sở Tư pháp.
1. Thanh tra tư pháp:
Ngày 15/11/1982, sau khi Bộ Tư pháp được tái thành lập, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành quyết định số 247/QĐ-TC thành lập Ban thanh tra thuộc Bộ Tư pháp. Ban thanh tra này chính là cơ quan thanh tra đầu tiên của ngành Tư pháp. Đây là giai đoạn mới cả về số lượng và tổ chức hoạt động. Thanh tra tư pháp mới chỉ có ở Bộ Tư pháp và cũng mới chỉ có Chánh thanh tra với một vài chuyên viên, còn tại các Sở Tư pháp thì chưa hề thành lập thanh tra.
Theo thời gian, hoạt động thanh tra tư pháp được củng cố và phát triển dần dần. Năm 1990 Pháp lệnh thanh tra ra đời khẳng định vị trí quan trọng của thanh tra và coi “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý Nhà nước; là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý Nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Pháp lệnh cũng nêu rõ mục đích của hoạt động thanh tra là: “nhằm phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân”.
Từ năm 2004, khi Luật Thanh tra ra đời, hoạt động thanh tra tư pháp cũng được khẳng định hơn, phát triển hơn. Điển hình của sự phát triển này chính là sự ra đời của nghị định 74/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01 tháng 8 năm 2006 quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra tư pháp và nghị định 76/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp.
Theo Nghị định 74/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01 tháng 8 năm 2006: “Thanh tra Tư pháp là tổ chức thanh tra thuộc ngành Tư pháp; ở Trung ương có Thanh tra Bộ Tư pháp ; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Thanh tra Sở Tư pháp; thực hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp theo quy định của pháp luật.”
Như vậy có thể hiểu Thanh tra Tư pháp bao gồm Thanh tra Bộ Tư pháp và Thanh tra Sở Tư pháp thực hiện nhiệm vụ thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành Tư pháp. Thanh tra Tư pháp giải quyết những công việc liên quan đến chức năng thanh tra, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong ngành Tư pháp. Cũng tại nghị định này, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra Tư pháp, về thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành cũng được quy định khá là đầy đủ.
Không chỉ là hoạt động trong phạm vi đơn vị mình quản lý, Thanh tra Tư pháp còn có mối liên hệ với các cơ quan liên quan khác. Nghị định 74/2006/ NĐ-CP của Chính phủ ngày 01 tháng 8 năm 2006 cũng quy định rõ thanh tra Tư pháp có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong phòng ngừa, phát hiện, uốn nắn, khắc phục và xử lý theo thẩm quyền các hành vi vi phạm pháp luật có liên quan đến các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp. Nếu trong quá trình điều tra, thấy có dấu hiệu của tội phạm thì chuyển hồ sơ đó cho cơ quan điều tra có thẩm quyền để họ giải quyết. Sau này, khi giải quyết xong, đơn vị giải quyết sẽ có trách nhiệm gửi kết quả giải quyết đó cho cơ quan thanh tra Tư pháp đã chuyển hồ sơ đến.
Bên cạnh việc quy định về tổ chức, hoạt động của thanh tra Tư pháp, Chính phủ cũng ban hành nghị định 76/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006. Nghị định này nhằm đảm bảo cho hoạt động quản lý của ngành Tư pháp có hiệu quả hơn. Bởi lẽ, ngành Tư pháp chịu trách nhiệm quản lý nhiều hoạt động như thi hành án, hộ tịch, luật sư, giám định tư pháp, công chứng... vì thế cần có một chế tài để Thanh tra Tư pháp có xử lý những vi phạm trong lĩnh vực Tư pháp do mình quản lý. Tuy nhiên sau 1 năm thực hiện Nghị định này vẫn còn những hạn chế cần khắc phục.
2. Thanh tra Sở Tư pháp
Hai Nghị định 74/2006/NĐ-CP và 76/2006/NĐ-CP ra đời làm vị trí của thanh tra Tư pháp được nâng cao. Điều này đòi hỏi bộ máy các cơ quan thanh tra Tư pháp phải nâng cao cả về số lượng và đặc biệt là chất lượng chuyên môn để đảm đương nhiệm vụ được giao. Thanh tra Sở được coi là một bộ phận của hệ thống Thanh tra Nhà nước, là một tổ chức có chức năng thực hiện nhiệm vụ thanh tra Tư pháp. Chính thế, hoạt động của tổ chức này đang được hoàn thiện. Trước đây, tại các Sở Tư pháp, hầu hết không có tổ chức Thanh tra. Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 ra đời, một số địa phương bắt đầu thành lập Thanh tra Sở và hoạt động một cách lẻ tẻ, không quy củ. Cho đến khi Luật Thanh tra được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 thì hoạt động của Thanh tra Sở được quy định một cách đầy đủ và hoàn thiện hơn. Hiện nay vẫn còn những địa phương tổ chức Thanh tra phải kiêm nhiệm với các bộ phận khác, có nơi chỉ có một người làm công tác thanh tra, còn lại đa số các Sở Tư pháp đều có bộ phận Thanh tra riêng, hoạt động một các độc lập theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Thanh tra Sở tại các địa phương vẫn chưa hoạt động được vững mạnh, do biên chế cho Thanh tra Sở không được ổn định, thường xuyên có sự thay đổi nhân sự nên gây ảnh hưởng đến hoạt động chuyên môn.
Thanh tra Sở là một trong số các bộ phận chuyên môn của Sở Tư pháp, có trách nhiệm giúp Giám đốc Sở thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong phạm vi quyền hạn của Giám đốc Sở. Theo Luật Thanh tra, Thanh tra Sở có những nhiệm vụ, quyền hạn chẳng hạn như:
- Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật chuyên ngành, nhiệm vụ của các đơn vị thuộc Sở.
- Thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật và theo sự phân công của Giám đốc Sở.
- Thực hiện phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng theo quy định của pháp luật...
Thanh tra Sở thực hiện hoạt động thanh tra tư pháp theo cơ chế đa cấp, vừa chịu sự quản lý của Giám đốc Sở vừa chịu sự quản lý của Thanh tra nhà nước cấp tỉnh, lại vừa chịu sự hướng dẫn, chỉ đạo của Thanh tra Bộ tư pháp về chuyên môn, nghiệp vụ. Chính vì hoạt động theo cơ chế đa cấp vậy nên Thanh tra Sở có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan có liên quan. Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội cũng không nằm ngoài mối quan hệ đó.
III. Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội
1.Thực trạng và nguyên nhân
Hà Nội là một thành phố lớn, có một địa bàn làm việc khá là phức tạp với các cơ quan trung ương, nhưng phải đến tận năm 1995, Sở Tư pháp Hà Nội mới có quyết định thành lập Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội với biên chế 3 người và không có thanh tra viên. Số lượng biên chế của Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội giữ nguyên như vậy có đến tận ngày nay, vẫn 3 người với 1 Chánh Thanh tra và 2 chuyên viên, Thanh tra Sở bây giờ vẫn chưa có Thanh tra viên và đang thiếu chức danh "Phó". Có 2 trong số 3 người là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Thanh tra Sở cũng chú trọng việc gắn bó tình đoàn kết giữa các thành viên trong bộ phận thanh tra hay trong toàn cơ quan, tham gia đầy đủ các hoạt động tập thể của cơ quan hay thành phố phát động, nhiều năm liền hoàn thành tốt nhiệm vụ do Lãnh đạo Sở cũng như cấp trên giao. Mấy năm gần đây Thanh tra Sở luôn được nhận bằng khen của Bộ Tư pháp, được Đảng uỷ, Giám đốc khen thưởng cho đơn vị hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, đạt danh hiệu tổ chức trong sạch vững mạnh, không ai vi phạm kỷ luật cũng như pháp luật của Nhà nước.
Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội được giao nhiệm vụ tiếp công dân, có nội quy tiếp công dân cụ thể, có sổ ghi chép, theo dõi việc tiếp công dân. Thanh tra Sở cử 1 cán bộ chuyên phụ trách việc tiếp công dân, nghiêm chỉnh nội quy, quy chế tiếp công dân và các quy định của pháp luật về công tác tiếp công dân.
Tuy nhiên, trang thiết bị cung cấp cho Thanh tra Sở hiện nay vẫn chưa hoàn chỉnh, vẫn cần bổ xung hơn nữa. Máy tính cung cấp vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay, đặc biệt là khi Thanh tra Chính phủ đang đưa ra một hệ thống quản lý, xử lý công việc khiếu nại, tố cáo bằng phần mềm tin học. Việc quản lý bằng tin học này sẽ tạo cho Thanh tra Sở có sự thống nhất trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo không chỉ trong nội bộ cơ quan, mà còn trong địa phương và trên toàn quốc. Nhờ có hệ thống mạng này, sự trao đổi thông tin giữa các Sở Tư pháp với nhau sẽ được nâng cao. Nhưng nó lại đòi hỏi một khoản kinh phí khá là cao mà hiện nay Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội chưa đáp ứng được.
Thanh tra Sở hoạt động dưới sự quản lý của Giám đốc Sở, của Thanh tra thành phố và sự quản lý về mặt chuyên môn của Thanh tra Bộ Tư pháp. Hằng tháng, Thanh tra Sở luôn gửi báo cáo cho bộ phận tổng hợp của Sở ; hàng quý, nửa năm Thanh tra Sở gửi báo cáo về công tác tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo cho Thanh tra thành phố và Thanh tra Bộ Tư pháp. Nội dung báo cáo luôn đảm bảo thể hiện đầy đủ những hoạt động về những nhiệm vụ được giao, số lượt người đến bộ phận tiếp công dân của Sở, số đơn thư đã nhận, đã giải quyết, số đơn thư chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Ví dụ như trong báo cáo sơ kết công tác thanh tra, xét khiếu tố 6 tháng đầu năm 2007 của Thanh tra Sở nêu rõ: số lượt công dân đến là 72 lượt người; xử lý 101 đơn thư khiếu nại, 24 đơn tố cáo và không để xảy ra đơn thư tồn đọng. Giám đốc Sở cũng đã giao cho Thanh tra Sở giải quyết 01 đơn tố cáo Trưởng phòng Công chứng số 3 thành phố Hà Nội, kết luận tại kết luận số 100/KL-TTr ngày 22/01/2007; đồng thời tiến hành giải quyết 01 đơn khiếu nại của bà Phạm Thị Quý về lĩnh vực công chứng, chứng thực và kết luận tại quyết định giải quyết khiếu nại tố cáo số 81/QĐ-STP ngày 9/4/2007.
Căn cứ vào Quyết định 1148/2005/QĐ-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc uỷ quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thi hành án dân sự huyện, quận, thuộc thị xã, thành phố thuộc tỉnh,Giám đốc Sở Tư pháp thành phố Hà Nội đã giao việc quản lý công tác thi hành án dân sự cho Thanh tra Sở. Tât cả các thông tin phản hồi, khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động thi hành án đều được đưa về Thanh tra Sở giải quyết; Thanh tra Sở còn thiết lập 1 đường dây nóng cho công dân phản ánh những vấn đề về công tác thi hành án dân sự, nhưng cho đến nay lượng thông tin phản ánh qua đường dây n óng này hầu như là không có.
Không chỉ vậy, với trách nhiệm được giao là Thường trực chỉ đạo công tác chống tham nhũng của ngành Tư pháp, hàng năm Thanh tra Sở luôn căn cứ vào kế hoạch công tác chống tham nhũng của thành phố và chức năng, nhiệm vụ của ngành để tham mưu giúp lãnh đạo xây dựng chương trình, kế hoạch công tác chống tham nhũng của ngành. Đồng thời cũng thông qua những kỳ họp giao ban của từng khối (khối cơ quan Sở, khối thi hành án, khối tư pháp quận, huyện, kết hợp với công tác thanh tra, kiểm tra, Thanh tra Sở cũng tổng hợp báo cáo kết quả định kỳ theo quy định của thành phố. Chính thế mà Thanh tra Sở đã được tham gia vào khá nhiều việc như từ đầu năm đến giờ đã tham gia tư vấn 08 vụ việc về thi hành án dân sự, tham gia đoàn công tác liên ngành thành phố về xử lý tài sản của Chi nhánh trung tâm đào tạo quản lý cao cấp SITS Hà Nội, tham gia Hội đồng xét duyệt người có khả năng tái nghiện cao đưa vào cơ sở giáo dục dạy nghề, tham gia tổ liên ngành xét duyệt đặc xá, tham gia Hội đồng thi tuyển công chức Thi hành án, thi tuyển công chức của thành phố Hà Nội... phối hợp với Ban chỉ đạo công tác thi hành án dân sự thành phố tiến hành 5 cuộc kiểm tra, bàn biện pháp tháo gỡ những bản án thi hành còn tồn đọng. Ngoài ra, Thanh tra Sở còn tích cực tham gia các công tác khác không thuộc lĩnh vực thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan.
2. Mối liên hệ giữa Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội với các cơ quan cấp trên
Như đã nêu trên, do hoạt động theo cơ chế đa cấp, nên Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội chịu sự quản lý của Giám đốc, sự quản lý của Thanh tra thành phố Hà Nội và Thanh tra Bộ Tư pháp. Đây là mối quan hệ đa chiều, phức tạp, sự quản lý đa chiều này đòi hỏi Thanh tra Sở phải hoạt động thực sự có hiệu quả về chất lượng.
Đối với sự quản lý của Giám đốc Sở Tư pháp Hà Nội, Thanh tra Sở là một trong số những phòng chuyên môn nghiệp vụ của Sở. Giám đốc Sở giao cho Thanh tra Sở theo dõi, nắm bắt các mảng thi hành án của Hà Nội, đảm nhiệm công tác thường trực chỉ đạo công tác chống tham nhũng của ngành Tư pháp... Tất cả các hoạt động của Thanh tra Sở đều tuân thủ sự chỉ đạo của lãnh đạo, luôn hoàn thành nhiệm vụ dù là thường xuyên hay là đột xuất.
Đối với sự quản lý của Thanh tra thành phố Hà Nội, Thanh tra thành phố và Thanh tra Sở được coi là các cơ quan thanh tra nằm trong hệ thống tổ chức thanh tra nhà nước, cùng đảm đương trách nhiệm của 1 tổ chức thanh tra độc lập. Dù thanh tra Sở phải chịu sự quản lý của Thanh tra thành phố những cả 2 đều là cơ quan thanh tra theo cấp hành chính, đều phải tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội.
Ngoài thực hiện những nhiệm vụ chung của thành phố, Thanh tra Sở phải chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác thanh tra hành chính từ Thanh tra thành phố Hà Nội. Đây được coi là nhiệm vụ thường xuyên của cơ quan thanh tra cấp dưới với cơ quan thanh tra cấp trên. Theo đó Thanh tra Sở sẽ chịu sự chỉ đạo hướng dẫn của Thanh tra thành phố về các mặt như: xây dựng chương trình, kế hoạch công tác hàng năm; điều chỉnh chương trình công tác; điều hòa phối hợp và xử lý những vướng mắc chồng chéo, trùng lặp giữa các cơ quan thanh tra tỉnh, huyện, sở có liên quan đến mình, nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực công tác thanh tra, khắc phục tình trạng chồng chéo về nội dung, trùng lặp về thời gian gây phiền hà cho đối tượng được thanh tra; kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác thanh tra đã đề ra và đánh giá kết quả và hiệu quả thực hiện chương trình công tác thanh tra.Sau khi Thanh tra Sở thực hiện, trình Giám đốc Sở, Giám đốc sẽ phê duyệt và gửi báo cáo về cho Thanh tra thành phố để quản lý và chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện.
Chẳng hạn như trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch công tác hàng năm: Theo qui định của Pháp lệnh Thanh tra và Luật Thanh tra, hàng năm các cơ quan thanh tra tỉnh, thanh tra huyện, thanh tra sở phải xây dựng chương trình, kế hoạch công tác thanh tra và phải được chủ tịch UBND hoặc giám đốc sở cùng cấp phê duyệt. Tại điều 35 của Luật Thanh tra qui định : “Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp huyện, Giám đốc sở theo qui định của luật này có trách nhiệm phê duyệt chương trình, kế hoạch thanh tra của năm sau do Tổng Thanh tra, Chánh thanh tra cùng cấp trình chậm nhất vào ngày 31/12 của năm trước; quyết định việc thanh tra theo đề nghị của Tổng Thanh tra, Chánh thanh tra cùng cấp”. Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội cũng như các đơn vị thanh tra khác hiểu chương trình kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt là căn cứ quan trọng để các cơ quan thanh tra tiến hành các hoạt động thanh tra. Vì thế Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội luôn quan tâm xây dựng chương trinh năm tới để trình lên cơ quan thanh tra cấp trên chỉ đạo, hướng dẫn.
Cũng dựa trên chương trình, kế hoạch thanh tra ở trên, theo sự chỉ đạo, hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ, sự chỉ đạo của UBND thành phố Hà Nội và những nhiệm vụ chính trị trọng tâm của Hà Nội, vào quí tư hàng năm, thanh tra thành phố Hà Nội có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn định hướng những trọng tâm công tác thanh tra hành chính năm sau cho Thanh tra Sở Tư pháp cũng như các sở và quận, huyện khác. Thanh tra Sở từ những chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng của thanh tra thành phố và yêu cầu quản lý nhà nước, nhiệm vụ của thủ đô, ngành Tư pháp để xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra của năm sau, trình Giám đốc Sở phê duyệt. Chương trình, kế hoạch công tác thanh tra phải cụ thể hóa được các vấn đề như: thanh tra nội dung gì, đối tượng thanh tra là đơn vị, cơ quan nào, thời gian đối với từng cuộc thanh tra? cơ quan được giao tổ chức thực hiện, những lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm cần tiến hành thanh tra, kiểm tra v.v…Tuy nhiên đối với Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội vẫn chưa được thực hiện triệt để, bởi những hạn chế về số lượng cán bộ nên chương trình, kế hoạch thanh tra có những n m không thực hiện hết.
Khi có công tác thanh tra đột xuất, Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội cũng kịp thời báo cáo với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Giám đốc Sở và tổ chức thực hiện theo sự chỉ đạo của Thanh tra Hà Nội. Chẳng hạn như trong năm 2007, Thanh tra Sỏ đã tiến hành cuộc thanh tra đối với vụ việc tố cáo Trưởng phòng Công chứng 3. Cuộc thanh tra đã tiến hành theo đúng quy định, có báo cáo các cơ quan liên quan.
Nhưng cũng không phải sau khi xây dựng xong chương trình, kế hoạch thanh tra, Thanh tra Sở cứ thế là tiến hành, không chịu sự quản lý, kiểm soát của ai. Mối quan hệ giữa Thanh tra cấp tỉnh và Thanh tra Sở còn thể hiện ở việc xem xét điều chỉnh công tác thanh tra của các cơ quan thanh tra cấp dưới. Trên cơ sở rà soát các chương trình, kế hoạch công tác thanh tra hàng năm của thanh tra Sở để phát hiện những nội dung chồng chéo trong ngành Tư pháp. Thông qua đó có sự chỉ đạo điều chỉnh chương trình, kế hoạch công tác hoặc chỉ đạo sự phối hợp giữa các cơ quan thanh tra, phân công cơ quan chịu trách nhiệm chính (chủ trì), cơ quan cử người phối hợp. Thực tế đã cho thấy, nhiều khi hoạt động của Thanh tra Sở Tư pháp nhưng lại liên quan tới rất nhiều các sở ban ngành khác không thuộc lĩnh vực chuyên môn mà phải dựa vào kết quả trả lời hoặc tiến hành xác minh thì rất cần có sự phối hợp của các cơ quan, đơn vị có liên quan như vụ bà Phạm Thị Quý ở 323 đường Trường Chinh, quận Thanh Xuân,Hà Nội thi khi Thanh tra Sở Tư pháp tiến hành giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo thi phải liên hệ với Toà án nhân dân quận Đống Đa, Xí nghiệp quản lý nhà, Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất...
Mối quan hệ giữa Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội với Thanh tra thành phố Hà Nội còn thể hiện ở việc hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra thành phố.Tại điểm 6, điều 18 của Luật Thanh tra quy định thanh tra tỉnh có nhiệm vụ "hướng dẫn công tác, nghiệp vụ thanh tra hành chính" cho thanh tra huyện, thanh tra sở. Nội dung hướng dẫn nghiệp vụ bao gồm: nghiệp vụ về thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; nghiệp vụ về giải quyết khiếu nại, tố cáo; nghiệp vụ phòng ngừa và chống tham nhũng. Hình thức hướng dẫn nghiệp vụ bao gồm việc phổ biến các quy định của pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng; các quy định về thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và các nghiệp vụ chuyên ngành khác có liên quan như tài chính, xây dựng, quản lý sử dụng đất đai v.v… (bằng các văn bản, thông qua các cuộc họp giao ban, các lớp tập huấn, trao đổi kinh nghiệm, tổng kết, tư vấn vụ việc cụ thể, trong quá trình thanh tra….). Chú trọng vào việc hướng dẫn các cơ quan thanh tra, đoàn thanh tra, thanh tra viên khi thực hiện các cuộc thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; đảm bảo tính thống nhất trong việc ban hành quyết định thanh tra, kế hoạch thực hiện cuộc thanh tra, hệ thống các biên bản làm việc với đối tượng thanh tra, xác minh thu thập chứng cứ trong hoạt động thanh tra, các quyết định xử lý vi phạm, quy trình thực hiện một cuộc thanh tra, báo cáo kết quả thanh tra, kết luận thanh tra, kiến nghị hoặc quyết định xử lý về thanh tra v.v… Thanh tra thành phố Hà Nội đã ban hành cuốn sách "Các văn bản pháp luật về khiếu nại, tố cáo, thanh tra". Cuốn sách này chính là căn cứ nghiệp vụ cho Thanh tra Sở hoạt động với các nội dung về các văn bản thanh tra, về quy trình tiếp công dân và xử lý giải quyết đơn thư, vụ việc khiếu nại, tố cáo. Gần đây, Thanh tra thành phố cũng đưa văn bản về Quy chế hoạt động của Đoàn thanh tra, ban hành kèm theo quyết định 2151/2006/QĐ-TTCP ngày 10 tháng 11 năm 2006 của Tổng thanh tra đến Thanh tra các Sở, ngành. Nhờ vậy mà hoạt động của Đoàn thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội với các cơ quan thanh tra khác có hệ thống hơn, đồng bộ hơn.
Cũng tại điểm 6, điều 18 Luật Thanh tra quy định thanh tra tỉnh có nhiệm vụ "phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan, hướng dẫn chế độ chính sách, tổ chức biên chế" đối với thanh tra huyện, thanh tra sở.
Thanh tra tỉnh phối hợp với Sở Tài chính của tỉnh xây dựng các chế độ chính sách cho cán bộ thanh tra, thanh tra tỉnh đề nghị UBND tỉnh quyết định và hướng dẫn thanh tra huyện, thanh tra sở thực hiện các chế độ chính sách của nhà nước, của tỉnh cho cán bộ thanh tra, đoàn thanh tra như chính sách phụ cấp nghề, trang phục thanh tra, bồi dưỡng tiếp dân, kinh phí nghiệp vụ cho các đoàn thanh tra, kinh phí đào tạo bồi dưỡng cho cán bộ thanh tra v.v..
Thanh tra tỉnh phối hợp với Sở Nội vụ hướng dẫn về tổ chức, về biên chế cho thanh tra huyện, thanh tra sở, gồm các nội dung: biên chế cán bộ, chế độ học tập đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch đào tạo, bổ nhiệm thuyên chuyển chánh, phó thanh tra, cán bộ bổ nhiệm thanh tra viên… Theo quy định của Luật Thanh tra, Chánh thanh tra huyện do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện bổ nhiệm và Chánh Thanh tra sở do Giám đốc Sở bổ nhiệm sau khi thống nhất với thanh tra tỉnh. Thanh tra viên do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của thanh tra tỉnh và Sở nội vụ.
Tuy nhiên chính quy định bổ nhiệm này cũng có hạn chế trong việc sắp xếp tổ chức, biên chế, nhân sự. Theo quy định của Pháp lệnh thanh tra và Luật thanh tra thì những vấn đề này do thủ trưởng các đơn vị, địa phương quyết định. Thanh tra Thành phố chỉ có vai trò trong việc đề nghị bổ nhiệm thanh tra viên và vai trò nhất định trong việc bổ nhiệm chánh thanh tra còn việc bố trí, sắp xếp, thuyên chuyển cán bộ từ phó chánh thanh tra đến cán bộ thanh tra thì hầu như không có vai trò gì. Việc tạo điều kiện để cán bộ thanh tra học tập chính trị, nghiệp vụ thanh tra, nghiệp vụ quản lý nhà nước chưa được thủ trưởng các đơn vị chú trọng, nên nhiều cán bộ thanh tra đã làm công tác thanh tra nhiều năm vẫn không đủ điều kiện để bổ nhiệm thanh tra viên.Việc này ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng lực lượng ngành thanh tra. Đơn cử ngay Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội như đã nói đến ở trên, số lượng cán bộ làm thanh tra cũng chỉ có 3 người và hiện nay vẫn chưa có thanh tra viên nào cả trong số đó có đồng chí mất đến 6 năm mới trở thành cán bộ chính thức trong biên chế do cơ quan không có chỉ tiêu thi công chức. Đây cũng là điểm làm ảnh hưởng đến ổn định tâm lý của cán bộ thanh tra trong việc cống hiến cho sự nghiệp thanh tra.
Căn cứ theo quy định đó, Thanh tra thành phố Hà Nội chính là nơi đề nghị Lãnh đạo các Sở, quận, huyện thực hiện việc chi các chế độ về tiếp dân, trang phục thanh tra... Thanh tra các Sở, ngành nói chung và cho Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội nói riêng. Hằng năm Thanh tra Sở được cấp trang phục cho thanh tra viên và chuyên viên làm công tác thanh tra, được tham gia học tập các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ, chuyên môn, về công tác quản lý văn thư...
Bên cạnh những hoạt động về nghiệp vụ thanh tra, Thanh tra Sở cũng có mối liên hệ, học hỏi kinh nghiệm, trao đổi nghiệp vụ, giao lưu văn hoá, văn nghệ với Thanh tra thành phố. Điều này đã tạo sự gắn bó giữa cơ quan thanh tra cấp trên và cơ quan thanh tra cấp dưới, tạo động lực cho các thành viên làm việc tích cực hơn, hiệu quả hơn, hăng say hoàn thành nhiệm vụ được giao hơn.
Trong mối liên hệ với các cơ quan Thanh tra cấp trên còn có mối liên hệ với Thanh tra Bộ Tư pháp. Đây là cơ quan quản lý chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức nghiệp vụ của Thanh tra Chính Phủ.
Tại điểm 7 điều 25 Luật Thanh tra quy định Thanh tra Bộ thực hiện nhiệm vụ "hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với Thanh tra Sở". Và theo nghị định 74/2006/NĐ-CP, tại điểm 2 điều 10 quy định các lĩnh vực Thanh tra Sở Tư pháp có quyền hạn thực hiện thanh tra bao gồm: kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự quận, huyện; công chứng, chứng thực; hộ tịch; quốc tịch; lý lịch tư pháp; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; luật sư; tư vấn pháp luật; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại, trợ giúp pháp lý và công tác tư pháp khác.
Như đã trình bày ở trên, thanh tra chuyên ngành là một trong hoạt động thanh tra tư pháp. Về cơ bản thì mối liên hệ giữa thanh tra Bộ với thanh tra Sở không khác mấy với thanh tra thành phố .Một bên quản lý về thanh tra hành chính, còn một bên là thanh tra chuyên ngành. Việc quản lý này nhằm mục đích sao cho hoạt động thanh tra ngày càng có hiệu quả hơn, chất lượng thanh tra nâng cao, đem lại sự tin tưởng cho người dân Việt Nam. Quản lý về chuyên ngành là một điều rất khó. Điều đó đòi hỏi các cán bộ Thanh tra Bộ phải giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ để từ đó có sự chỉ đạo, hướng dẫn hợp lý, cán bộ thanh tra phải am hiểu các văn bản pháp luật liên quan đến các lĩnh vực mà Thanh tra Sở được phép làm. Số lượng đầu việc mà Thanh tra Sở được làm là 14 đầu việc, vì vậy lượng kiến thức chuyên môn của thanh tra Bộ đòi hỏi phải có sự tổng hợp cao. Chẳng hạn, khi tiến hành thanh tra công tác thi hành án, thanh tra Bộ phải am hiểu hoạt động này, nắm vững các văn bản liên quan. Nhưng khi tiến hành thanh tra về hoạt động trợ giúp pháp lý, thanh tra Bộ lại phải am hiểu điều kiện, thủ tục, phương pháp tiến hành hoạt động trợ giúp pháp lý cho công dân...Chính thế mà mối liên hệ giữa Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội là rất chặt chẽ. Thanh tra Bộ là nơi chỉ đạo, hướng dẫn Thanh tra Sở về hoạt động chuyên môn; còn Thanh tra Sở là nơi thực thi sự chỉ đạo đó vào hoạt động thực tế.
Nhìn chung, không thể tách rời mối liên hệ giữa các cơ quan thanh tra cấp trên với các cơ quan thanh tra cấp dưới. Sự tồn tại mối liên hệ này đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan thanh tra có hiệu quả, thống nhất từ trên xuống dưới nhằm đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, do chịu sự quản lý của nhiều ngành, nhiều cấp, tình trạng chồng chéo về chuyên môn, nghiệp vụ dễ xảy ra làm ảnh hưởng đến hoạt động thanh tra.
3. Yêu cầu-giải pháp
Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội đảm đương 2 chức năng là thanh tra chuyên ngành và thanh tra hành chính trong lĩnh vực Tư pháp. Nhiệm vụ của Thanh tra Sở ngoài việc duy trì công tác tiếp công dân thường xuyên theo đúng quy định của pháp luật, đôn đốc các cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có hiệu quả, còn phải xử lý các thông tin tiếp nhận tại Sở cho nhanh chóng. Thanh tra Sở là cơ quan tham mưu, tổ chức giúp Ban chỉ đạo thi hành án dân sự thành phố, Thường trực của Ban chỉ đạo công tác chống tham nhũng của ngành. Đồng thời thực hiện các nhiệm vụ được cấp trên giao phó. Chính thế yêu cầu đặt ra cho Thanh tra Sở phải là:
- Xây dựng Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội vững mạnh cả về số lượng và chất lượng.
Đây là một yêu cầu quan trọng trong điều kiện hiện nay của Thanh tra Sở với số lượng là 3 và chưa có thanh tra viên. Thực hiện được yêu cầu này, đòi hỏi sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, cho phép bổ sung thêm về số lượng cán bộ và tăng cường công tác đào tạo, nâng cao hơn nữa chất lượng cán bộ làm công tác thanh tra như cử đi học về nghiệp vụ thanh tra, học về lý luận chính trị, về phương pháp tiến hành hoạt động thanh tra..., nâng cao hơn nữa trình độ tiếng anh, tin học cho cán bộ trong tình hình gia nhập quốc tế hiện nay của đất nước.
Thanh tra Sở phải được kiện toàn về tổ chức, tăng cường cơ sở vật chất, kinh phí cho hoạt động thanh tra, tạo sự yên tâm, thuận tiện cho cán bộ thanh tra khi làm việc.
Hoàn thiện hơn nữa các văn bản pháp luật quy định những hoạt động liên quan đến Thanh tra Sở Tư pháp. Ví dụ như nghị định 76/2006/NĐ-CP của Chính phủ, Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội, do đặc thù không quản lý về kinh tế, các đơn vị không hoạt động kinh doanh sản xuất, hoạt động chỉ thuần tuý về thi hành pháp luật và không có dự án đầu tư xây dựng nên không có khả năng thực hiện theo nghị định này. Hay chẳng hạn như công tác thi hành án dân sự. Thanh tra Sở chỉ phối hợp về hoạt động của cán bộ thi hành án trong quá trình giải quyết công việc chứ còn những sai phạm về chuyên môn hay thuộc ngoài nhân sự thi Thanh tra Sở không có thẩm quyền giải quyết. Điều này khiến hoạt động quản lý mảng công việc này phức tạp, chồng chéo lẫn nhau.
- Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan thanh tra cấp trên nhằm giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động thanh tra trong ngành Tư pháp. Xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra, tổ chức thực hiện, phân bổ, hỗ trợ kinh phí, trang thiết bị phục vụ công tác thanh tra...
Trên đây là một số suy nghĩ về Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội, thực trạng và đưa ra một số giải pháp đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra Sở. Đây không phải là vấn đề đơn giản. Nó liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức cơ quan thanh tra hiện nay. Do lượng kiến thức, thời gian nghiên cứu có hạn nên có những vấn đề mới chỉ nêu một cách khái lược. Tuy nhiên, với những thông tin này, hy vọng sẽ đóng góp được phần nhỏ bé trong quá trình nghiên cứu đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra ngành trong giai đoạn hiện nay.
[1] . Xem "Đánh giá phát triển năng lực" của Bjorn Jensen tại:
http://www.nea.gov.vn/html/duan/web_EIR/Hoithao/Project%20Opening%20Workshop%202-10-03/Final%20presentations/4%20Capacity%20Assessment%20Bjoern_VN.pdf
[2] . Xem "Đánh giá phát triển năng lực" của Bjorn Jensen tại:
http://www.nea.gov.vn/html/duan/web_EIR/Hoithao/Project%20Opening%20Workshop%202-10-03/Final%20presentations/4%20Capacity%20Assessment%20Bjoern_VN.pdf