• Thuộc tính
Tên đề tài Đổi mới cơ chế thu hút, tuyển chọn và đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ thuộc ngành Tư pháp
Nội dung tóm tắt

I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

1. Chủ trương, chính sách của Đảng về thu hút, tuyển chọn và đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ nói chung và cán bộ ngành tư pháp

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đổi mới trong công tác cán bộ, từ đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chế độ, chính sách tới công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực, chủ động, năng động, sáng tạo, nhạy bén với sự thay đổi, phong cách làm việc chuyên nghiệp, có tri thức. Đặc biệt, bên cạnh các chính sách chung đối với cán bộ, Đảng ta cũng luôn quan tâm phát hiện, thu hút, bồi dưỡng và trọng dụng người “hiền tài”, coi đó là “nguyên khí quốc gia”. Đối với ngành tư pháp, trong những năm qua, cùng với việc ban hành nhiều chủ trương, đường lối, chính sách về xây dựng, củng cố nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành những chủ trương, chính sách về cải cách pháp luật và tư pháp. Trong đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định một trong những giải pháp cơ bản, có ý nghĩa quyết định, đó là: “Có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc ở các cơ quan tư pháp. Mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp, không chỉ là cán bộ trong các cơ quan tư pháp mà còn là các luật gia, luật sư. Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp... Có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp...”.

2. Sự tăng cường, mở rộng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành tư pháp trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

Đối với ngành tư pháp, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của ngành tư pháp, cụ thể như: Luật công chứng (2006), Luật trợ giúp pháp lý (2006), Luật tương trợ tư pháp (2007), Luật luật sư (2007), Luật thi hành án dân sự (2008), Luật quốc tịch (2008), Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về quản lý và đăng ký hộ tịch, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký...

Để kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của ngành tư pháp ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 93/2008/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp (sau đây gọi là Nghị định số 93/2008/NĐ-CP) thay thế Nghị định số 62/2003/NĐ-CP. Đối với cơ quan tư pháp địa phương: Nghị định số 16/2009/NĐ-CP ngày 16/02/2009 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 8 Nghị định số 13/2008/NĐ-CP và Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong đó xác định cụ thể vị trí và chức năng của Sở Tư pháp cấp tỉnh và Phòng Tư pháp cấp huyện. Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV ngày 28/4/2009 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện và công tác tư pháp của Uỷ ban nhân dân cấp xã (sau đây gọi là Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV) thay thế Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLB/BTP-BNV. Theo đó, ngoài các chức năng, nhiệm vụ mang tính truyền thống, kế thừa các văn bản pháp luật nêu trên còn bổ sung, tăng cường nhiều chức năng và nhiệm vụ, kiện toàn, thành lập một số tổ chức mới trong cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp địa phương, cụ thể là:

- Bộ Tư pháp được bổ sung, tăng cường chức năng và các nhiệm vụ quản lý nhà nước về: theo dõi thi hành pháp luật; xây dựng pháp luật; hướng dẫn nghiệp vụ công tác pháp chế bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp nhà nước và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; tương trợ tư pháp; bán đấu giá tài sản; nuôi con nuôi; đồng thời, cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp được sắp xếp, kiện toàn lại cho phù hợp với công việc được giao đảm nhiệm, trong đó các đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước là 20 đơn vị (tăng 4 đơn vị so với Nghị định số 62/2003/NĐ-CP), các đơn vị sự nghiệp là 08 đơn vị (tăng 02 đơn vị so với Nghị định số 62/2003/NĐ-CP).

- Sở Tư pháp được bổ sung, tăng cường chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về: thi hành pháp luật, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, trợ giúp pháp lý, bán đấu giá tài sản; đồng thời, cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp cũng tăng trung bình từ 1-2 đơn vị cấp phòng. Phòng tư pháp và tư pháp cấp xã được bổ sung, tăng cường các nhiệm vụ quản lý nhà nước về: thi hành pháp luật, đăng ký và quản lý hộ tịch, chứng thực.

Ngoài ra, từ khi Nghị định số 93/2008/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV được ban hành đến nay, trong lĩnh vực tư pháp, Nhà nước tiếp tục ban hành các văn bản có giá trị pháp lý cao như Luật lý lịch tư pháp (2009), Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (2009). Theo đó, ngành tư pháp tiếp tục được giao thêm chức năng và nhiệm vụ mới về quản lý nhà nước trong lĩnh vực lý lịch tư pháp, xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp quốc gia tại Bộ Tư pháp và tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; thống nhất quản lý về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Bên cạnh đó, theo lộ trình thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 khoá X, ngành tư pháp sẽ còn được giao đảm nhiệm những chức năng, nhiệm vụ mới như:

- Giúp Chính phủ, UBND các cấp thống nhất quản lý công tác thi hành án, trong đó có quản lý và tổ chức thi hành án hình sự[1], hành chính;

- Tiếp tục quản lý toàn diện, chuyên sâu về xây dựng và thi hành pháp luật[2], hộ tịch, phổ biến, giáo dục pháp luật, hoà giải, chứng thực[3]...

Như vậy, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của công tác tư pháp đã, đang và sẽ tiếp tục được tăng cường, mở rộng với phạm vi và đối tượng quản lý rộng lớn, tác động trực tiếp đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Do đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ ngành tư pháp không chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt mà còn phải đủ về số lượng với cơ cấu hợp lý, có năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp không ngừng nâng cao, đủ sức hoàn thành tốt các nhiệm vụ trước mắt cũng như các nhiệm vụ lâu dài trong chiến lược phát triển của ngành Tư pháp, đáp ứng nhu cầu về pháp luật và tư pháp ngày càng tăng của xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.

3. Tính chất đặc thù công việc của ngành tư pháp

* Trong hoạt động xây dựng pháp luật

Để thể chế hoá đầy đủ, toàn diện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi cao đòi hỏi người làm công tác xây dựng pháp luật phải nghiên cứu phân tích chủ trương, chính sách, nhìn nhận sự vật, hiện tượng xã hội trong sự vận động, tác động lẫn nhau và phát triển không ngừng, với những yêu cầu chuyên biệt, không chỉ trong lĩnh vực chuyên ngành mà cả trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội nhưng đặc biệt là phải nhìn nhận dưới lăng kính pháp luật, bằng các phạm trù, chế định pháp luật, thông qua đặc trưng của cấu trúc pháp luật với tính cách là một loại đơn vị đo lường, một khuôn thước làm chuẩn mực cho hành vi, cách ứng xử của con người, qua đó tạo hành lang pháp lý, khuôn viên, không gian pháp luật cho hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.

Bên cạnh đó xây dựng pháp luật đòi hỏi tuân thủ quy trình, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ, từ xây dựng chương trình, xây dựng dự thảo, lấy ý kiến, thẩm định, thẩm tra đến ban hành văn bản. Các giai đoạn này đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều cơ quan  đơn vị, tổ chức, cá nhân, bao gồm cả các tổ chức ngoài nhà nước, các chuyên gia, nhà khoa học nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo dân chủ, khách quan, minh bạch trong hoạt động xây dựng pháp luật, đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

* Hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật

Việc kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật đòi hỏi người thực hiện phải có chuyên môn, nghiệp vụ cao, không chỉ nắm vững các quy định của pháp luật trong lĩnh vực được kiểm tra, mà còn phải am hiểu pháp luật thuộc các chuyên ngành khác có liên quan, thậm chí là cả hệ thống pháp luật; đồng thời, phải hiểu biết sâu về lĩnh vực mà văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh cũng như có kiến thức xã hội rộng để phân tích, tìm hiểu, đối chiếu các quy phạm pháp luật để từ đó tìm ra các quy định mâu thuẫn, chồng chéo thậm chí trái với quy định có hiệu lực pháp lý cao hơn, hoặc không còn phù hợp với thực tiễn để kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội ngày càng đa dạng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

* Hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của một số chức danh tư pháp

Theo quy định hiện hành của pháp luật, hoạt động của các chức danh tư pháp thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp (chấp hành viên, thẩm tra viên thi hành án dân sự; trợ giúp viên pháp lý; công chứng viên và giám định viên tư pháp), ngoài những đặc điểm chung giống như lao động của các cán bộ, công chức và người lao động bình thường, còn có những đặc thù, khác biệt xuất phát từ những yêu cầu về trình độ, năng lực chuyên môn; tính phức tạp, khó khăn của công việc; trách nhiệm đối với công việc cũng như hệ quả phát sinh từ công việc do mình giải quyết, bao gồm một số nội dung cơ bản sau:

- Lao động của các chức danh tư pháp là lao động trí óc, phải tuân thủ đầy đủ, chặt chẽ các trình tự, thủ tục theo quy định; đồng thời, luôn được đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội, của các cơ quan có thẩm quyền, của người dân. Đặc trưng này đòi hỏi công chức, viên chức làm việc ở các vị trí này phải được đào tạo cơ bản, có lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm công tác, phải thường xuyên học tập nhằm không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, phải tận tâm, tận lực với ngành tư pháp.

- Công việc của các chức danh tư pháp luôn đòi hỏi tính trách nhiệm cao do công việc mà họ giải quyết luôn có nhiều khó khăn, phức tạp, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, nếu để xảy ra sai sót thì hậu quả thường khó khắc phục, do vậy đòi hỏi một số chức danh tư pháp phải công bằng, vô tư, khách quan. Đặc thù này đòi hỏi các chức danh tư pháp phải có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn tận tâm với nền công lý vì lợi ích của con người. Đây là đặc điểm nổi bật nhất về tính đặc thù trong lao động của các chức danh tư pháp.

- Lao động của các chức danh tư pháp là lao động đòi hỏi phải phục tùng nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật cũng như phải chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật. Muốn vậy, các chức danh tư pháp phải có bản lĩnh, dũng cảm đấu tranh với mọi sự can thiệp trái pháp luật vào hoạt động của mình vì công lý. Đây là một yêu cầu nghề nghiệp rất cao.

4. Thực trạng đội ngũ cán bộ ngành Tư pháp

a) Những kết quả đạt được

* Về số lượng: đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (sau đây gọi chung là cán bộ) được kiện toàn, tăng cường về số lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Hiện nay, toàn ngành có trên 26.000 cán bộ làm việc tại Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Tư pháp cấp xã và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương[4]. Bên cạnh đội ngũ cán bộ, công chức đang trực tiếp làm việc tại các cơ quan trong ngành tư pháp, hiện có hàng ngàn công chứng viên và người làm tư vấn pháp luật làm việc trong các văn phòng công chứng, văn phòng luật sư, công ty luật, trung tâm tư vấn pháp luật trong cả nước. Đội ngũ cán bộ này là nhân tố quyết định việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của Bộ và địa phương, đồng thời bảo đảm sự thống nhất quản lý công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở, góp phần xứng đáng vào các thành tựu chung của cả nước và của địa phương trong từng thời kỳ.

* Về chất lượng: chất lượng đội ngũ cán bộ ngành tư pháp ngày càng được nâng cao. Tại thời điểm nghiên cứu, Bộ Tư pháp có 02 giáo sư (tăng 100% so với năm 2007), 19 phó giáo sư (tăng 73% so với năm 2007, 130 tiến sỹ (tăng 27% so với năm 2007), 249 thạc sĩ, 678 cử nhân và 151 cao đẳng, trung cấp và trình độ khác. Sở Tư pháp có 73,83% công chức có trình độ từ cử nhân luật trở lên, trong đó có 05 tiến sỹ, 93 thạc sỹ và 2796 cử nhân. Phòng Tư pháp có 74% công chức có trình độ cử nhân luật trở lên, trong đó có 10 thạc sỹ, 2076 cử nhân. Tư pháp cấp xã có trên 74,71% công chức tư pháp - hộ tịch có trình độ trung cấp luật trở lên (trình độ đại học, cao đẳng đạt 20,47%, trình độ trung cấp đạt 54,24%), 15,54% công chức tư pháp - hộ tịch có trình độ từ trung cấp khác trở lên, 91,33% công chức tư pháp - hộ tịch có trình độ trung học phổ thông. Cơ quan thi hành án dân sự địa phương có trên 76% công chức có trình độ cử nhân luật trở lên, trong đó có 04 tiến sỹ, 52 thạc sỹ và 6124 cử nhân.

Tại Bộ Tư pháp, tổng số chuyên viên cao cấp và tương đương, chuyên viên chính và tương đương chiếm 24,2% tổng số cán bộ, trong đó có 34 chuyên viên cao cấp và tương đương (tăng 100% so với năm 2007), 263 chuyên viên chính và tương đương (tăng 12,9% so với năm 2007). Các Sở Tư pháp có tổng số chuyên viên cao cấp và tương đương, chuyên viên chính và tương đương chiếm 10% tổng số cán bộ, trong đó có 28 chuyên viên cao cấp và tương đương (tăng 60% so với năm 2005), 355 chuyên viên chính và tương đương. Ngoài ra, trình độ lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học của đội ngũ cán bộ ngành tư pháp cũng đã được cải thiện, nâng cao, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

b) Một số tồn tại, hạn chế, bất cập

Trước yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc tế thì đội ngũ cán bộ ngành tư pháp còn nhiều hạn chế, bất cập.

* Về số lượng: trong thời gian qua, Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp địa phương được giao thêm nhiều nhiệm vụ mới, nhiều nhiệm vụ được tăng cường, mở rộng, trong khi đó, việc bổ sung biên chế chưa đáp ứng và chưa tương xứng với khối lượng và công việc được giao[5]. Do đó, đa số các cơ quan trong ngành (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Tư pháp cấp xã và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương) đều trong tình trạng quá tải về công việc, dẫn đến việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý một số lĩnh vực công tác tư pháp chưa đầy đủ, chưa sâu, hiệu quả chưa cao, đặc biệt là Phòng Tư pháp cấp huyện và Tư pháp cấp xã.

* Về cơ cấu cán bộ: còn chưa hợp lý, đặc biệt là cơ cấu ngạch công chức chưa phù hợp đặc điểm, tính chất của từng vị trí công việc, còn tồn tại trên thực tế tình trạng chưa phù hợp giữa chức trách theo quy định của từng ngạch công chức với công việc thực tế của cán bộ được giao đảm nhiệm[6]. Cơ cấu cán bộ về ngành nghề chưa phù hợp, do lĩnh vực pháp luật và tư pháp, ngoài kiến thức về pháp luật còn đòi hỏi hiểu biết, nắm vững kiến thức thuộc các chuyên ngành khác, nhưng trong thời gian qua, ngành tư pháp mới chỉ chủ yếu tuyển dụng cán bộ chuyên ngành luật. Cơ cấu về độ tuổi cũng chưa phù hợp, còn hẫng hụt, chưa đảm bảo sự kế thừa giữa các thế hệ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý.

* Về chất lượng cán bộ: vẫn còn nhiều mặt chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu kiến thức về phân tích chính sách, kiến thức quản lý, kiến thức thực tiễn, ngoại ngữ, tin học, dẫn đến việc tham mưu, hoạch định chính sách, tổ chức thực hiện pháp luật, giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra còn hạn chế; thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, cán bộ có trình độ cao, các chuyên gia đầu ngành, có khả năng dự báo, xử lý tốt những vấn đề phức tạp nảy sinh để tư vấn cho Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh trong phạm vi bộ, ngành, địa phương, quốc gia, khu vực và quốc tế; phương pháp, lề lối làm việc chậm được đổi mới, chưa chủ động, sáng tạo và thích nghi với cơ chế và phương thức quản lý mới dẫn tới chất lượng, hiệu quả chưa cao. Tại một số địa bàn vùng sâu, vùng xa, nhiều công chức tư pháp công tác tại vùng đồng bào dân tộc ít người lại không biết tiếng của dân tộc nơi công tác nên ảnh hưởng đến việc triển khai các công tác tư pháp cơ sở như hoà giải, phổ biến giáo dục pháp luật. Một bộ phận cán bộ chậm thích nghi với yêu cầu, hoàn cảnh mới, ý thức, tinh thần trách nhiệm chưa cao, còn có hiện tượng suy thoái về phẩm chất đạo đức, vi phạm pháp luật trong thực thi công vụ.

5. Thực trạng thực hiện chính sách thu hút, tuyển chọn và chế độ, chính sách đối với cán bộ ngành tư pháp

5.1. Về thu hút, tuyển chọn cán bộ:

a) Ưu điểm và kết quả đạt được

- Đối với cán bộ, công chức nhà nước nói chung:

Thời gian qua, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nhà nước đã có nhiều quy định về thu hút và tuyển chọn người có năng lực, trình độ, tâm huyết với công việc vào làm việc tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập của Nhà nước. Các quy định này có thể chia thành hai nhóm như sau:

Nhóm thứ nhất bao gồm các quy định về thu hút, tuyển chọn người có trình độ cao vào làm việc tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập: chính sách thu hút gồm có ưu tiên trong thi tuyển, xếp lương cao hơn những người khác trong khi tuyển dụng đối với người có trình độ cao.

Đối với người có trình độ cao, pháp luật đã quy định có ưu đãi về tiền lương. Người tập sự (thử việc) có trình độ thạc sĩ phù hợp với yêu cầu tuyển dụng thì được hưởng 85% mức lương bậc 2 của ngạch tuyển dụng; trường hợp người tập sự có trình độ tiến sĩ phù hợp với yêu cầu tuyển dụng thì được hưởng 85% mức lương bậc 3 của ngạch tuyển dụng.

Nhóm thứ hai bao gồm các quy định về thu hút, tuyển chọn cán bộ vào làm việc tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc làm việc ở một số nghề có tính chất đặc thù:

Thực hiện quy định của pháp luật cán bộ, công chức về tuyển dụng, người có đủ điều kiện tuyển dụng cam kết tình nguyện làm việc từ 05 năm trở lên ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì được tuyển dụng thông qua xét tuyển; được cộng 30 điểm vào tổng điểm thi tuyển hoặc xét tuyển. Công chức, viên chức được hưởng ưu đãi về tiền lương khi làm việc ở một số địa bàn và ngành nghề nhất định.

Bên cạnh các chính sách nên trên, các cơ quan, đơn vị từ Trung ương tới địa phương đã quan tâm, thực hiện tốt công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức; tạo môi trường làm việc tốt; công tác quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo được thực hiện theo đúng quy trình, đảm bảo khách quan, công bằng, bình đẳng, minh bạch, qua đó đã gián tiếp thu hút người vào làm việc tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập.

- Đối với cán bộ Bộ Tư pháp

Bộ đã vận dụng thực hiện cơ chế chính sách thu hút cán bộ vào làm việc tại cơ quan Bộ như: ưu tiên trong tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, người có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ đồng thời tiếp nhận các công chức đã có kinh nghiệm công tác thực tế ở các địa phương và đơn vị khác có nguyện vọng công tác lâu dài tại Bộ Tư pháp. Bộ Tư pháp đã triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mặt về công tác cán bộ, như đánh giá cán bộ, quy hoạch cán bộ lãnh đạo, công tác luân chuyển cán bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Ngoài ra, Bộ Tư pháp luôn chú trọng xây dựng môi trường làm việc thân thiện, dân chủ, đoàn kết, công khai trong mọi hoạt động, nhất là trong công tác tổ chức cán bộ. Kết quả là Bộ Tư pháp đã thu hút nhiều người có trình độ cao, sinh viên đạt loại giỏi, người có năng lực, trình độ ngoài ngành và các địa phương vào làm việc tại các đơn vị thuộc Bộ. Đối với những cơ quan, đơn vị còn thiếu hụt về số lượng và chưa đáp ứng về chất lượng cán bộ hoặc để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng, Bộ Tư pháp đã thực hiện ưu tiên trong tuyển dụng, thuyên chuyển như nâng lương trước thời hạn, xem xét bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo, quản lý trước khi thuyên chuyển, luân chuyển, hỗ trợ kinh phí ban đầu[7]...

- Đối với các cơ quan tư pháp địa phương

Thời gian gần đây, mặc dù còn nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách, nhưng nhiều địa phương đã mạnh dạn, chủ động, vận dụng linh hoạt các quy định hiện hành để ban hành nhiều chính sách “trải thảm đỏ” để thu hút người có trình độ cao về làm việc ở các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp thuộc phạm vi quản lý của mình[8]. Trong đó các địa phương đều thu hút đối tượng là thủ khoa, sinh viên đã tốt nghiệp loại khá, giỏi, cán bộ, công chức, viên chức và những người có học hàm, học vị cao như giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ, bác sỹ chuyên khoa cấp I, cấp II. Các đối tượng thuộc diện thu hút được tuyển dụng (không qua thi tuyển), hoặc tiếp nhận và bố trí công tác, ngoài việc hưởng lương và phụ cấp theo quy định của Nhà nước còn được Uỷ ban nhân dân tỉnh hỗ trợ một lần như ưu đãi cấp, thuê, hoặc được mua nhà ở với giá ưu đãi, trợ cấp ban đầu, ưu tiên thu xếp công việc cho cả vợ (chồng) đi kèm,.. Ngoài ra, sau khi được tuyển dụng và nhận hỗ trợ một lần bằng tiền mặt, tại một số địa phương, các đối tượng còn được ưu tiên mua đất làm nhà ở theo giá sàn của Nhà nước quy định; tạo điều kiện cho đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước và nước ngoài[9]. Có địa phương đã thực hiện thí điểm thi tuyển cạnh tranh một số chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các đơn vị sự nghiệp[10].

b) Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

- Đối với chính sách chung của Nhà nước

Chính sách thu hút, tuyển chọn của Nhà nước đã được áp dụng trong nhiều năm và chậm được đổi mới cho phù hợp, chưa đủ mạnh, mới chỉ dừng lại ở các quy định về ưu tiên trong tuyển dụng, thực hiện chế độ tập sự  và ưu đãi về lương đối với người có trình độ cao, mà chưa có tính hệ thống, chiến lược, chưa có các giải pháp đột phá, do đó chưa thực sự hấp dẫn, khả thi trong thu hút, tuyển chọn nhân tài và người có trình độ cao, chưa bảo đảm thống nhất những chính sách cơ bản giữa các vùng, miền và các chính sách mang tính đặc thù; chưa giải quyết vấn đề căn bản đó là chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức. Bên cạnh đó, môi trường làm việc trì trệ, quan liêu, việc tuyển dụng, đánh giá, bổ nhiệm công chức thiếu công khai, minh bạch, chưa thật sự dựa trên tiêu chí năng lực...

- Đối với Bộ Tư pháp:

Thực tiễn công tác tuyển dụng những năm qua cho thấy, sinh viên tốt nghiệp đạt loại giỏi về làm việc tại Bộ Tư pháp ngày càng ít; số lượng đăng ký dự tuyển có xu hướng giảm, mặc dù yêu cầu về kết quả học tập có hạ xuống nhưng số người đăng ký dự tuyển không tăng, tỉ lệ giữa người dự tuyển trên chỉ tiêu tuyển dụng ngày càng giảm. Tại nhiều cơ quan thi hành án dân sự địa phương, việc tuyển dụng công chức gặp nhiều khó khăn do hạn chế về nguồn thi tuyển. Sinh viên tốt nghiệp không muốn làm việc trong các cơ quan thi hành án dân sự vì sự phức tạp, khó khăn, nguy hiểm trong công việc trong khi đãi ngộ chưa thật sự phù hợp, tương xứng với tính chất công việc.

Hiện tượng cán bộ, công chức xin chuyển công tác, hoặc xin thôi việc tuy chưa trở thành làn sóng, nhưng đã tăng liên tục trong những năm gần đây, đặc biệt là cán bộ, công chức đang công tác tại Bộ Tư pháp và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương[11].

Bộ Tư pháp cũng như các Bộ, ngành chưa được ban hành cơ chế thu hút, đãi ngộ nhân tài như các địa phương vì trái với các quy định hiện hành về tuyển dụng, sử dụng, đánh giá cán bộ, công chức; việc thực hiện cơ chế tự chủ về biên chế và tài chính để chủ động trong việc thu hút, bố trí và đãi ngộ nhân tài còn hạn chế, vướng mắc.

- Đối với các địa phương:

Các chính sách thu hút, tuyển chọn của các địa phương chưa đồng bộ, chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa trọng dụng, đãi ngộ với trợ cấp khó khăn, trợ cấp ban đầu, do đó, chưa phát huy được hiệu quả như mong muốn, chưa phát hiện và thu hút được nhiều người có tài năng, có trình độ cao vào làm việc. Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đạt loại giỏi, người có trình độ học vấn cao đăng ký thi tuyển vào cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập chưa cao; sinh viên hệ chính quy về công tác tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa còn ít, người có trình độ đại học không muốn về nhận công tác tại cấp xã.

Các địa phương khó khăn về điều kiện phát triển kinh tế - xã hội thiếu nguồn lực để thực hiện chính sách thu hút, bố trí, đãi ngộ nhân tài vào làm việc trong cơ quan nhà nước.

Việc thực hiện các quy định về quản lý, sử dụng cán bộ còn nhiều tồn tại, hạn chế, bất cập.

5.2. Về chế độ, chính sách đối với cán bộ

a) Ưu điểm và kết quả đạt được

- Về tiền lương

Chính sách tiền lương được thực hiện từ năm 2003 đến nay đã từng bước thể chế những quan điểm của Đảng về chính sách tiền lương và phụ cấp đối với lực lượng vũ trang, các ngành toà án, kiểm sát, tư pháp, giáo dục (tăng so với trước khi cải cách là từ 248% đến 310%)... Qua đó, đã cải thiện đáng kể đời sống của người hưởng lương, nhất là người hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Hệ thống thang lương, bảng lương và các chế độ phụ cấp đã thu gọn được từ hàng chục bảng lương xuống còn 8 bảng lương. Các chế độ phụ cấp cơ bản được xây dựng đầy đủ bao gồm: phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp ưu đãi, phụ cấp đặc biệt, phụ cấp khu vực, phụ cấp trách nhiệm theo nghề,...

Đối với cán bộ ngành tư pháp: cán bộ, công chức, viên chức ngành tư pháp được hưởng chính sách tiền lương theo quy định chung của nhà nước; đồng thời, công chức, viên chức ở một số ngạch còn được hưởng chế độ phụ cấp theo quy định (từ 15%-30% mức lương hiện hưởng).

- Về cơ chế quản lý tiền lương

Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập; Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước; Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 11/12/2004 về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang (các nội dung về phân cấp cho các bộ, ngành, địa phương trong việc quyết định nâng bậc lương, xây dựng chế độ, chính sách đối với công chức, viên chức chuyên ngành); các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp đã ban hành quy chế chi tiêu nội bộ, qua đó có kinh phí để chi thu nhập tăng thêm, góp phần nâng cao mức sống cho cán bộ, công chức, viên chức.

- Về cơ chế tài chính và các chế độ, định mức đặc thù liên quan đến các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ngành tư pháp

Thực hiện Nghị quyết số 49/NQ/TW của Bộ Chính trị, theo chỉ đạo của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, hiện nay, định mức chi thường xuyên của Bộ Tư pháp và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương đã được Chính phủ bố trí tăng thêm bằng với định mức của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Ngoài ra, xuất phát từ các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ mang tính đặc thù của ngành tư pháp, trong những năm qua, đã có nhiều quy định về các chế độ, định mức đặc thù cho hoạt động của ngành như: kinh phí hỗ trợ xây dựng[12], thi hành, kiểm tra[13], rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến giáo dục pháp luật[14]; các khoản kinh phí bồi dưỡng cho người trực tiếp thực hiện công việc như: trợ giúp viên pháp lý được hưởng phụ cấp vụ việc bằng 10% mức bồi dưỡng áp dụng đối với cộng tác viên[15]; người chủ trì cưỡng chế thi hành án được bồi dưỡng 50.000 đồng/người/ngày, cán bộ trực tiếp tham gia cưỡng chế thi hành án được hưởng bồi dưỡng 40.000đồng/người/ngày tham gia cưỡng chế[16]; giám định viên tư pháp được bồi dưỡng theo ngày giám định với mức từ 60.000 đồng đến 250.000 đồng, được bồi dưỡng theo vụ việc với mức từ 80.000 đến 3.000.000 đồng/lần giám định/nội dung yêu cầu giám định/trường hợp/người giám định[17].... Các khoản chi này cũng đã góp phần tăng thêm thu nhập, bù đắp những hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ đặc thù đòi hỏi trình độ, năng lực, tính chuyên sâu, chuyên môn hoá cao, có tính chất hoàn toàn khác với các hoạt động của chuyên môn theo yêu cầu.

- Về chính sách nhà ở

Năm 1992, Nhà nước đã bãi bỏ chế độ phân phối nhà ở và thay vào đó là quy định về giá cho thuê nhà ở và đưa tiền nhà ở vào tiền lương (tiền nhà trong cơ cấu tiền lương chỉ vào khoảng 7,5%).

Hiện nay, đại đa số cán bộ, công chức đều có nhà ở hoặc chỗ để ở. Trong đó, một bộ phận nhỏ có nhà ở rộng rãi, tiện nghi hoặc thừa nhà ở dùng cho thuê. Những người này thường là đối tượng được Nhà nước ưu đãi về nhà ở, có khả năng và có thu nhập thêm ngoài lương hoặc được thừa kế, tặng cho,... Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ, công chức có nhà ở do được thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; được phân nhà, phân đất làm nhà ở theo các chính sách trước đây của Nhà nước. Tuy vậy, quỹ nhà ở thuộc dạng này đã được cho cán bộ, công chức thuê hoặc bán cho người thuê đã lâu (chủ yếu là cán bộ, công chức vào biên chế từ trước năm 1992), có thiết kế bất hợp lý, kiến trúc lạc hậu và hầu hết đã xuống cấp, hư hỏng.

b) Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

- Về tiền lương

Chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức chậm được đổi mới.

Chính sách tiền lương của Nhà nước đối với cán bộ, công chức hiện nay còn nhiều tồn tại, bất cập như mức lương cơ bản còn thấp; quan hệ lương tối thiểu - trung bình - tối đa còn bình quân; hệ thống thang lương, bảng lương, ngạch, bậc lương còn phức tạp, chưa thật công bằng và chưa cải thiện căn bản đời sống của người hưởng lương, chế độ phụ cấp đối với cán bộ, công chức, viên chức (đặc biệt là phụ cấp chức vụ và phụ cấp trách nhiệm) còn bất hợp lý so với tương quan giữa các ngành, nghề, do đó chưa tạo điều kiện khuyến khích, sử dụng, thu hút người làm việc có chất lượng trong khu vực nhà nước.

Bên cạnh những tồn tại hạn chế nói chung của chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức nhà nước, hiện nay, chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với các chức danh tư pháp cũng tồn tại nhiều bất cập như: chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với giám định viên pháp y, giám định viên pháp y tâm thần; phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với chấp hành viên, thẩm tra viên, công chứng viên, trợ giúp viên pháp lý còn thấp, chưa phù hợp với tính chất nặng nhọc, khó khăn, phức tạp của công việc; chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp chưa được ban hành đầy đủ và kịp thời, chưa có quy định về tính phí giám định để làm cơ sở cho việc tính, chi trả các chi phí cần thiết cho việc thực hiện giám định, chưa có mục chi ngân sách riêng bảo đảm cho việc trưng cầu, thực hiện giám định trong hoạt động tố tụng hình sự; chế độ đãi ngộ đối với cán bộ trực tiếp tham gia cưỡng chế thi hành án còn thấp, chưa tương xứng với tính chất phức tạp và nặng nhọc của công việc,... Kết quả khảo sát cho thấy: 92% cán bộ, công chức cơ quan Bộ Tư pháp, 38% cán bộ lãnh đạo Sở Tư pháp và Cục Thi hành án dân sự, 32% công chức Sở Tư pháp, 33% công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh cho biết thu nhập từ lương chỉ đáp ứng dưới 50% nhu cầu sinh hoạt.

Những tồn tại, hạn chế nêu trên là do các chính sách trên chưa đủ mạnh, chưa giải quyết được vấn đề cốt lõi nhất, đó là chính sách tiền lương còn thấp so với mặt bằng thu nhập của xã hội, việc trả lương chưa gắn với kết quả công việc; việc cải cách, sửa đổi chưa kịp thời, thêm vào đó là môi trường làm việc, đánh giá cán bộ chưa thật sự phù hợp, chưa khuyến khích, tạo động lực cho cán bộ có trình độ cao phát huy năng lực, sở trường và gắn bó lâu dài với cơ quan, địa phương; chưa tính được sự tác động của thị trường lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dẫn đến chuyển dịch lao động có chất lượng cao từ khu vực nhà nước sang khu vực khác có tiền lương cao hơn. Do đó, việc giữ chân cán bộ, công chức có năng lực trình độ, nhất là số cán bộ được đào tạo cơ bản và đào tạo ở nước ngoài, cán bộ có kinh nghiệm công tác tiếp tục gắn bó lâu dài với Bộ cũng gặp nhiều khó khăn, số cán bộ xin chuyển công tác hay thôi việc có chiều hướng gia tăng.

- Về cơ chế quản lý tiền lương

Chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập và kiểm soát thu nhập ngoài lương của cán bộ, công chức, viên chức chưa được triển khai hiệu quả, còn chậm, kết quả thấp, nhiều quy định chưa phù hợp nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung, nhất là các quy định về khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước.

- Về chế độ, định mức đặc thù liên quan đến các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ngành tư pháp

Các quy định về chế độ, định mức đặc thù cho hoạt động của ngành đã lạc hậu nhưng chưa được điều chỉnh, bổ sung kịp thời như: kinh phí xây dựng, thi hành, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, pháp điển hóa văn bản quy phạm pháp luật; kinh phí đặc thù trong thi hành án dân sự, trợ giúp pháp lý, giám định viên tư pháp...

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên là do chưa có nhận thức đúng về các công việc mang tính đặc thù của ngành tư pháp. Trên thực tế, các chế độ, định mức cho các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ đặc thù của ngành tư pháp hiện nay như xây dựng, theo dõi và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được xác định là các khoản kinh phí để triển khai thực hiện nhiệm vụ mà chỉ là kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động trên, các chế độ bồi dưỡng chưa được mở rộng cho các chức danh tư pháp và còn ở mức thấp.

- Về nhà ở

Hiện nay, phần lớn cán bộ, công chức, viên chức có khó khăn về chỗ ở. Một bộ phận đang ở nhà bố mẹ, người thân. Một số lượng lớn (chủ yếu là cán bộ trẻ) thuê nhà của tư nhân để ở. Chỗ ở của các đối tượng này thường không ổn định lâu dài. Những người thuê nhà của tư nhân thì ở trong điều kiện chật hẹp, không đảm bảo vệ sinh và kém an toàn; bên cạnh đó, hàng tháng công chức phải trích một khoản tiền khá lớn (từ 30-50%) từ tiền lương để trả tiền thuê nhà ở.

Nhà nước đã bãi bỏ chế độ phân phối nhà ở, thay vào đó là quy định về giá cho thuê nhà ở và đưa tiền nhà ở vào tiền lương. Tuy nhiên, tỉ lệ tiền nhà ở trong cơ cấu tiền lương còn quá thấp (khoảng 7,5%) so với giá nhà ở trên thị trường; bên cạnh đó chưa bảo đảm sự công bằng vì tất cả mọi người hưởng lương đều được hưởng tiền nhà ở trong lương, không phân biệt giữa những người đã được phân nhà ở, đất ở và những người chưa được phân nhà ở, đất ở. Ngoài ra, tuy Luật nhà ở (năm 2005) đã quy định chế độ thuê, thuê mua nhà ở, về quỹ nhà ở cho người có thu nhập thấp (trong đó phần đông là cán bộ, công chức). Tuy nhiên, chưa có các giải pháp đồng bộ, có tính đột phá để giải quyết nhu cầu nhà ở cho cán bộ, công chức; việc kiểm tra, kiểm soát, đôn đốc thực hiện chính sách nhà ở còn nhiều bất cập và yếu kém.

Xuất phát từ những yêu cầu trên, việc xây dựng Đề án đổi mới cơ chế thu hút, tuyển chọn và đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ ngành tư pháp là hết sức cần thiết nhằm xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, chế độ để phát triển đội ngũ cán bộ ngành tư pháp đáp ứng những yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay, chuẩn bị các điều kiện để đón nhận những chức năng, nhiệm vụ mới được giao trong tiến trình cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ CÁC GIẢI PHÁP

1. Quan điểm, mục tiêu

a) Quan điểm chỉ đạo

* Đổi mới cơ chế thu hút, tuyển chọn và đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ thuộc ngành tư pháp phải phù hợp với chủ chương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phù hợp với lộ trình cải cách hành chính, cải cách pháp luật, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

* Đổi mới cơ chế thu hút, tuyển chọn và đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ thuộc ngành tư pháp phải phù hợp với tình hình thực tiễn, phù hợp với các đặc điểm, đặc thù của ngành tư pháp, trong đó đề cập đồng thời các giải pháp thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước cấp trên, của Bộ Nội vụ cũng như các giải pháp trong phạm vi thẩm quyền của Bộ Tư pháp và chính quyền địa phương. Đối với những chính sách chung thuộc thẩm quyền của các cơ quan nhà nước cấp trên, hoặc của cơ quan khác thì kiến nghị các giải pháp thực hiện chung trong cả nước, trong đó có những chính sách đặc thù đối với cán bộ của ngành tư pháp.

* Việc xây dựng cơ chế thu hút, tuyển chọn và đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ thuộc ngành tư pháp phải bảo đảm tính kế thừa, đồng bộ, thống nhất, khả thi, có bước đi phù hợp; đồng thời, mạnh dạn thực hiện các giải pháp mới, có tính đột phá để đáp ứng yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ được tăng cường, mở rộng của ngành tư pháp trong tiến trình cải cách hành chính, cải cách pháp luật, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.

b) Mục tiêu

* Mục tiêu chung

Đổi mới cơ bản cơ chế, chính sách tuyển chọn, quản lý, sử dụng cán bộ nhằm thu hút người có trình độ, năng lực phù hợp với yêu cầu công việc, vị trí công tác, tâm huyết với nghề nghiệp và các chuyên gia giỏi vào công tác tại các cơ quan thuộc ngành tư pháp, phấn đấu đến năm 2020 xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức ngành tư pháp đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, có phẩm chất và trình độ, chính quy, chuyên nghiệp, đáp ứng được nhiệm vụ chính trị của ngành tư pháp trước yêu cầu đặt ra khi nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại.

Cùng với đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ làm việc tại các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị theo quan điểm của Đảng: “coi việc trả lương đúng cho người lao động là đầu tư cho phát triển”; “cải cách tiền lương tiến tới bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội”, cần nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện các chế độ, chính sách đặc thù đối với đội ngũ cán bộ ngành tư pháp.

* Mục tiêu cụ thể

- Tiêu chuẩn hoá, xây dựng cơ cấu đội ngũ cán bộ phù hợp với nhiệm vụ và vị trí việc làm được giao đảm nhiệm;

- Đổi mới cơ chế, quy trình tuyển dụng, tiếp nhận, chế độ, chính sách ưu đãi về xếp lương và các chế độ, chính sách ưu đãi, hỗ trợ khác để thu hút, tuyển chọn cán bộ, người có đủ trình độ, năng lực và những người có trình độ cao vào làm việc tại các cơ quan, đơn vị trong ngành tư pháp;

- Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, sử dụng cán bộ. Thí điểm thực hiện chế độ thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với cấp phòng tiến tới áp dụng thi tuyển cán bộ lãnh đạo từ cấp vụ và tương đương trở xuống trong đơn vị thuộc Bộ Tư pháp và cơ quan thi hành án dân sự địa phương; phối hợp với Bộ Nội vụ chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện việc thi tuyển đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp;

- Đổi mới chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức trong đó chú trọng đến các quy định đặc thù về tiền lương của cán bộ ngành tư pháp, bao gồm: Phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp thâm niên đối với các chức danh tư pháp; đổi mới cơ chế tài chính và các khoản chi mang tính đặc thù cho hoạt động của ngành tư pháp nhằm thu hút trí tuệ, chất xám của các nhà quản lý, nhà khoa học trong và ngoài ngành tư pháp;

- Xây dựng các chính sách đãi ngộ về nhà ở, chăm sóc sức khoẻ và các chính sách đãi ngộ khác đối với cán bộ ngành tư pháp,...

2. Nhiệm vụ, giải pháp

a) Xây dựng, hoàn thiện cơ cấu ngạch và tiêu chuẩn chức danh công chức, viên chức ngành tư pháp

Nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi, bổ sung các ngạch và tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức ngành tư pháp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của ngành tư pháp, của mỗi cơ quan tư pháp từ trung ương tới địa phương trong giai đoạn hiện nay, làm cơ sở để tuyển dụng, bố trí, sắp xếp, sử dụng và thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức.

* Sửa đổi tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức hành chính ngành tư pháp

Tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức hành chính ngành tư pháp được ban hành từ năm 1993 khi nước ta đang ở giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đến nay, sau gần 20 năm áp dụng, các quy định này có nhiều điểm không phù hợp với thực tiễn, do đó, cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

* Đối với các ngạnh công chức thi hành án dân sự

Xây dựng mã ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức thi hành án dân sự gồm[18]: chấp hành viên cao cấp, chấp hành viên trung cấp, chấp hành viên sơ cấp, thư ký thi hành án, thư ký trung cấp thi hành án; nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung tiêu chuẩn nghiệp vụ ngạch thẩm tra viên cao cấp, thẩm tra viên chính và thẩm tra viên thi hành án dân sự.

* Đối với công chứng viên

Xây dựng, sửa đổi tiêu chuẩn của công chứng viên theo hướng nâng cao tiêu chuẩn cho phù hợp với tính chất công việc đòi hỏi chuyên môn, nghiệp vụ cao, liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến các giao dịch dân sự ngày càng phức tạp của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời, nâng cao các hệ số lương của ngạch công chứng viên bằng với các ngạch công chức tư pháp cấp tỉnh như chấp hành viên trung cấp, thẩm phán cấp tỉnh. Việc xây dựng chế độ lương của công chứng viên theo 1 ngạch là phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với yêu cầu xác định công chứng viên là một nghề để đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động này trong thời gian tới.

* Đối với trợ giúp viên pháp lý

Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới tiêu chuẩn ngạch đối với trợ giúp viên pháp lý và trợ giúp viên pháp lý chính[19].

* Xây dựng chức danh đấu giá viên và đăng ký viên là những viên chức trực tiếp thực hiện bán đấu giá tài sản và đăng ký giao dịch bảo đảm. Đây là hai chức danh viên chức có công việc rất đặc thù, đòi hỏi chuyên môn, nghiệp vụ và trách nhiệm nghề nghiệp rất cao; đồng thời, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đòi hỏi các viên chức này phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với kết quả công việc của mình.

* Đối với công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã

Nghiên cứu xây dựng hai chức danh công chức làm công tác tư pháp tại cấp xã, bao gồm hộ tịch viên và công chức tư pháp cấp xã. Trong đó, hộ tịch viên sẽ thực hiện nhiệm vụ về đăng ký và quản lý hộ tịch. Điều kiện, tiêu chuẩn, chế độ, chính sách đối với hộ tịch viên sẽ được quy định cho phù hợp với yêu cầu của một chức danh tư pháp. Chức danh công chức tư pháp sẽ đảm nhiệm những nhóm nhiệm vụ còn lại của tư pháp cấp xã. Giải pháp này sẽ góp phần ổn định về mặt số lượng cũng như nâng cao về mặt chuyên môn nghiệp vụ do được chuyên môn hóa của đội ngũ làm công tác hộ tịch, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của công tác tư pháp hiện nay.

b) Xây dựng, hoàn thiện cơ cấu công chức, viên chức trong các cơ quan, đơn vị ngành tư pháp

Công chức trong ngành tư pháp đảm nhận nhiều loại công việc khác nhau, do đó yêu cầu về trình độ, tiêu chuẩn cũng khác nhau, vì vậy cần xây dựng cơ cấu công chức trong từng đơn vị, lấy đó làm cơ sở trong tuyển dụng và đào tạo, bồi dưỡng công chức, khắc phục tình trạng đại học hoá các vị trí công tác trong các cơ quan, đơn vị trong ngành.

Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quy trình giải quyết công việc của các cơ quan, đơn vị trong ngành tư pháp trong từng thời kỳ để xây dựng, hoàn thiện cơ cấu cán bộ cho phù hợp; trong đó cần nghiên cứu, xây dựng các cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức, bao gồm:

* Cơ cấu các chức danh lãnh đạo, quản lý và cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, cơ cấu ngạch công chức, viên chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mô hình, cơ cấu tổ chức của mỗi đơn vị cũng như vị trí, vai trò, tính chất công vụ, nhiệm vụ được giao.

Tại Bộ Tư pháp đảm bảo 20% công chức là chuyên viên cao cấp và tương đương; 30% chuyên viên chính và tương đương, 40 % chuyên viên và tương đương, 10% cán sự và nhân viên phục vụ..

Tại các Sở Tư pháp, có từ 1 đến 3 chuyên viên cao cấp, 30% là chuyên viên chính và tương đương, 50 % là chuyên viên và tương đương, còn lại là cán sự và công chức khác.

Tại các Phòng Tư pháp, có từ 1 đến 2 chuyên viên chính còn lại là chuyên viên và cán sự.

Tại các cơ quan thi hành án dân sự địa phương: xác định rõ cơ cấu công chức của cơ quan thi hành án theo hướng không nhất thiết tất cả các chức danh công chức đều phải có trình độ cử nhân, mà theo yêu cầu cụ thể của từng loại công việc. Cụ thể, đối với cấp huyện ngoài các chức danh cần có trình độ cử nhân luật như chấp hành viên, thì số còn lại cần bố trí một lượng thích hợp những người có trình độ trung cấp để giúp việc theo hướng đào tạo chuyên sâu, có tính ổn định lâu dài. Các ngạch công chức khác như kế toán thi hành án cấp huyện không nhất thiết phải có trình độ cử nhân mà có thể chỉ cần trung cấp.

* Cơ cấu theo độ tuổi đảm bảo sự kế thừa giữa các thế hệ cán bộ. Mỗi một cơ quan, đảm bảo được cơ cấu 3 độ tuổi cán bộ.

* Cơ cấu theo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ đào tạo đảm bảo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, tiêu chuẩn các ngạch công chức, viên chức và tiêu chuẩn nghề nghiệp.

* Cơ cấu theo giới tính, dân tộc, vùng miền, đảm bảo sự hài hoà về giới tính, dân tộc và vùng miền.

c) Đổi mới hình thức tuyển chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ

Xây dựng quy chế tuyển chọn cán bộ trên cơ sở cụ thể hoá và vận dụng các quy định của Chính phủ phù hợp với đặc thù, điều kiện thực tế của ngành tư pháp; đảm bảo cho việc tuyển dụng cán bộ đạt được sự công khai, minh bạch; thực hiện được dân chủ trong công tác cán bộ; mở rộng và chủ động tìm kiếm, phát hiện, lựa chọn nhân tài để khuyến khích, thu hút vào làm việc trong ngành tư pháp.

- Đổi mới công tác thi tuyển cán bộ vào làm việc trong ngành tư pháp theo hướng căn cứ vào đặc điểm, tính chất công việc, vị trí công tác, kết hợp giữa hình thức thi viết với phỏng vấn và xử lý tình huống của từng vị trí công việc cần tuyển. Đối với sinh viên tốt nghiệp đại học, thạc sỹ đạt loại giỏi, những người có trình độ tiến sỹ, những người hoạt động trong các lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý như luật sư, công chứng viên mà chuyên ngành được đào tạo phù hợp với vị trí công việc cần tuyển thì sẽ có hình thức tuyển dụng đặc thù (có thể chỉ qua phỏng vấn) vào vị trí cần tuyển dụng (có thể tuyển dụng chuyên viên cao cấp và tương đương, chuyên viên chính và tương đương mà không chỉ vào ngạch tương đương ngạch chuyên viên như hiện nay), để tạo điều kiện thu hút những đối tượng này vào công tác trong ngành tư pháp. Bộ Tư pháp, các cơ quan tư pháp địa phương, Sở Tư pháp liên hệ thường xuyên, chặt chẽ với các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật để phát hiện, có biện pháp khuyến khích, hỗ trợ quá trình học tập của sinh viên nhằm thu hút, bồi dưỡng tài năng trẻ là sinh viên xuất sắc, sinh viên tốt nghiệp đạt loại giỏi, loại khá về công tác tại cơ quan, đơn vị mình sau khi tốt nghiệp.

Áp dụng hình thức xét tuyển, hoặc phỏng vấn đối với sinh viên tốt nghiệp đạt loại giỏi, người có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ trở lên vào làm việc tại Bộ Tư pháp; loại khá trở lên vào làm việc tại Sở Tư pháp; sinh viên hệ chính quy vào Phòng Tư pháp; người có trình độ đại học luật làm công tác tư pháp ở cấp xã.

Về cơ bản, có thể tuyển dụng người theo học tại chức luật vào các cơ quan thi hành án dân sự địa phương, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đối với các địa phương khác, về nguyên tắc, Bộ Tư pháp và các địa phương không tuyển dụng đối với người được đào tạo chương trình tại chức.

- Để có cán bộ có phẩm chất và năng lực giữ các chức danh lãnh đạo trong các cơ quan đơn vị của ngành, bên cạnh làm tốt việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển,.. cần xây dựng cơ chế tuyển chọn, tạo sự liên thông giữa các cơ quan trong ngành tư pháp và xã hội. Theo đó, thực hiện phương thức tuyển chọn cán bộ có tài, đủ phẩm chất, trình độ từ các cơ quan, tổ chức bên ngoài nhà nước như luật sư, công chứng viên, luật gia, giám định viên tư pháp, thừa phát lại vào làm việc trong các cơ quan thuộc ngành tư pháp; đồng thời có thể gửi cán bộ của ngành tư pháp đến làm việc tại các tổ chức hành nghề luật, công chứng, giám định,... để tích lũy kinh nghiệm thực tế.

- Phân công, bố trí cán bộ phù hợp với ngành nghề, chuyên ngành đào tạo, phù hợp với sở trường năng lực của cán bộ, trong đó ưu tiên nguyện vọng cá nhân. Trong phân công công việc cần xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm, gắn nhiệm vụ, quyền hạn với trách nhiệm. Xác định rõ quy trình giải quyết công việc và chế độ trách nhiệm của cán bộ. Thường xuyên đánh giá cán bộ khách quan, trung thực và chính xác; áp dụng chế độ khen thưởng, tôn vinh, động viên kịp thời đối với những người có thành tích xuất sắc, tậm tâm, tận lực với công việc; tạo lập môi trường đoàn kết, có đấu tranh xây dựng cơ quan trong sạch, vững mạnh; xử lý thích đáng những hành vi vi phạm, những người chây ì, thiếu trách nhiệm. Nghiên cứu tạo ra nhiều cơ hội học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, cơ hội và định hướng phát triển chức nghiệp cho đội ngũ cán bộ trong ngành tư pháp. Tăng cường và hiện đại hoá phương tiện, trang thiết bị và điều kiện làm việc, đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Tập trung nguồn lực để xây dựng công sở hiện đại theo tiêu chuẩn quy định.

d) Đổi mới một số mặt của công tác cán bộ

* Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ ngành tư pháp

Căn cứ mục tiêu chung, các mục tiêu cụ thể về xây dựng và phát triển ngành tư pháp, xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển cán bộ trong từng giai đoạn tương ứng. Trong giai đoạn hiện nay, cần xây dựng quy hoạch cán bộ hàng năm, quy hoạch đến năm 2015 và quy hoạch đến năm 2020.

- Việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong ngành tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của ngành, mở rộng, mỗi vị trí chức danh có ít nhất 3 người thuộc diện nguồn quy hoạch, để có tầm nhìn xa hơn, phá vỡ sự chia cắt, khép kín trong công tác cán bộ, trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đảm bảo sự kế thừa giữa các thế hệ cán bộ; gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và sử dụng, tạo điều kiện cho cán bộ trong diện quy hoạch rèn luyện, tu dưỡng, thử thách; thường xuyên rà soát, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra theo từng giai đoạn và hàng năm.

- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tổ chức, trong các lĩnh vực thuộc ngành tư pháp trong từng thời kỳ; trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển chung về số lượng, cơ cấu, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với đội ngũ cán bộ trong toàn ngành.

* Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành tư pháp

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một chính sách quan trọng để thu hút cán bộ, hình thành đội ngũ công chức ngày càng chính quy, chuyên nghiệp, thời gian tới cần đẩy mạnh, đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong ngành theo các nội dung sau:

- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải có trọng tâm, trọng điểm, theo quy hoạch và tiêu chuẩn chức danh cán bộ, gắn đào tạo, bồi dưỡng với bố trí, sử dụng cán bộ, coi đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao hiệu quả trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đang công tác trong ngành tư pháp.

- Xác định rõ mục tiêu đào tạo là trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức có tầm nhìn, có năng lực làm việc thực tế đáp ứng yêu cầu của vị trí công tác, bảo đảm tính chuyên nghiệp.

- Tiếp tục hoàn thiện chương trình đào tạo các chức danh tư pháp, chương trình đào tạo hội nhập kinh tế quốc tế, chương trình bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp địa phương, đẩy mạnh chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành theo yêu cầu của thực tiễn như chương trình đào tạo, bồi dưỡng về lý lịch tư pháp, bán đấu giá tài sản, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức lãnh đạo, quản lý cho cán bộ trong ngành. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng phải phù hợp với mục tiêu, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng theo hướng nâng cao kỹ năng thực hành cho đội ngũ cán bộ, kết hợp lý luận và thực tiễn, kiến thức, kỹ năng và thái độ.

- Cải tiến phương pháp đào tạo, bồi dưỡng theo hướng áp dụng những phương pháp giảng dạy tiên tiến, hiện đại, phát huy tính tích cực của người học trong việc tiếp nhận kiến thức.

- Thường xuyên xem xét đánh giá về khoá học, chương trình học, giảng viên, cơ sở đào tạo, công tác quản lý đào tạo để đánh giá kết quả và hiệu quả đào tạo.

- Chú trọng bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ đang công tác trong ngành tư pháp, đặc biệt là cán bộ không phải chuyên ngành luật; ngoài ra cần bồi dưỡng kiến thức về một số chuyên ngành khác cho đội ngũ cán bộ chuyên môn đã được đào tạo về luật hiện đang làm công tác xây dựng, kiểm tra và theo dõi thi hành pháp luật của Bộ, ngành tư pháp.

- Xây dựng, phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, kết hợp đào tạo, bồi dưỡng trong nước với đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài và đào tạo, bồi dưỡng được tổ chức trong nước nhưng có sử dụng tài liệu, giảng viên nước ngoài.

- Ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ trẻ có trình độ, năng lực, có triển vọng phát triển thành các chuyên gia trong các lĩnh vực của ngành.

- Có cơ chế khuyến khích cán bộ trong ngành tự học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt.

* Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác luân chuyển cán bộ ở các cơ quan, đơn vị trong ngành tư pháp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương đào tạo, bồi dưỡng toàn diện và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ; tạo điều kiện cho cán bộ trẻ, có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn; tạo nguồn cán bộ lâu dài; tăng cường cán bộ cho các lĩnh vực và địa bàn cần thiết; khắc phục tình trạng cục bộ trong công tác cán bộ, khép kín trong từng đơn vị của ngành tư pháp.

Việc luân chuyển cán bộ tại các cơ quan trong ngành tư pháp cần dựa trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ.

* Đổi mới công tác bổ nhiệm cán bộ

Thực hiện thí điểm thi tuyển vào các vị trí lãnh đạo cấp phòng, cấp vụ theo nguyên tắc cạnh tranh: lựa chọn người có đức - tài, bình đẳng, dân chủ, công khai, khách quan, trung thực; tiến tới xây dựng quy chế thi tuyển vị trí lãnh đạo để mở rộng, áp dụng thống nhất trong các cơ quan thuộc ngành tư pháp.  Trong thời gian tới, cần xây dựng quy chế thi tuyển cán bộ lãnh đạo cấp phòng tại các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp và Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Sau đó, trên cơ sở tổng kết, đúc rút kinh nghiệm để triển khai áp dụng đối với cán bộ lãnh đạo từ cấp Phó Vụ trưởng, Phó Giám đốc Sở, Phó Cục trưởng cục Thi hành án trở xuống.

* Đổi mới công tác đánh giá và khen thưởng đối với cán bộ

Đánh giá cán bộ, công chức phải căn cứ vào hệ thống tiêu chuẩn chức danh cán bộ; chú trọng đánh giá hiệu quả hoạt động thực tiễn của mỗi cán bộ, công chức; phải chú trọng việc phát hiện nhân tài để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, phát triển thành những công chức chuyên môn, công chức lãnh đạo, quản lý giỏi. Đánh giá cán bộ, công chức phải được xem xét trong một quá trình công tác (quá khứ, hiện tại và tương lai), gắn với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, là yếu tố thường xuyên trong quá trình quy hoạch, luân chuyển, đào tạo và bố trí sử dụng cán bộ (quá trình đánh giá và đánh giá lại cán bộ); phải có kế hoạch chặt chẽ, hợp lý trong quản lý cán bộ, phải có các bước đánh giá phù hợp, khoa học; mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch trong đánh giá cán bộ.

Công tác đánh giá cán bộ không chỉ làm một lần mà phải làm thường xuyên, theo định kỳ hằng năm và trước khi đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ để đưa vào hồ sơ cán bộ, giúp cơ quan quản lý cán bộ nắm và hiểu được cán bộ. Đồng thời giúp cho bản thân người cán bộ hiểu đúng mình hơn nhằm phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm (nếu có), góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

Cần thay đổi phương pháp đánh giá cán bộ theo bộ tiêu chí đánh giá hợp lý, khoa học để có những nhận xét chính xác về phẩm chất chính trị, năng lực công tác của cán bộ, công chức. Những tiêu chí đánh giá cần thiết kế theo hướng được lượng hóa rõ ràng cụ thể theo từng vị trí chức danh dựa trên yêu cầu của từng vị trí đó.

Việc khen thưởng đối với cán bộ phải xuất phát từ kết quả đánh giá cán bộ và các tiêu chuẩn của các hình thức khen thưởng; đảm bảo các hình thức khen thưởng phải thực chất, có tác dụng động viên, khuyến khích công chức phấn đấu để khi được khen thưởng thì thấy xứng đáng, tự hào và trách nhiệm trong công tác.

e) Tiếp tục thực hiện cải cách chính sách tiền lương và các đãi ngộ khác đối với cán bộ

Cán bộ, công chức ngành tư pháp là một bộ phận của đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức của hệ thống chính trị. Do đó, các giải pháp chung về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức như tăng lương tối thiểu chung, mở rộng quan hệ lương tối thiểu - trung bình - tối đa, phụ cấp công vụ... sẽ được thực hiện theo lộ trình cải cách chính sách tiền lương giai đoạn 2008-2012 của Chính phủ. Từ năm 2013 đến năm 2015 và 2020, cần quán triệt đầy đủ thực hiện quan điểm của Đảng về trả lương cho cán bộ là đầu tư cho phát triển, nền công vụ của nước ta được chuyển mạnh từ chế độ công vụ theo chức nghiệp sang chế độ công vụ theo vị trí việc làm. Vì vậy, cần nghiên cứu đổi mới cơ cấu của tiền lương, điều chỉnh mức tối thiểu, các thang lương, bảng lương cho phù hợp với những yêu cầu mới, nhằm bảo đảm nhu cầu tái sản xuất sức lao động của cán bộ để khuyến khích cán bộ, công chức phát triển theo con đường chuyên môn, thành các chuyên gia giỏi, khi không còn giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý thì thôi không hưởng phần phụ cấp chức vụ lãnh đạo. Từng bước thực hiện trả lương theo công việc được giao và kết quả hoàn thành nhiệm vụ. Không khuyến khích trả lương theo bằng cấp. Tiếp tục thực hiện từng bước tiền tệ hoá tiền lương, tính đủ các bộ phận cấu thành tiền lương. Trong đó, “xây dựng cơ chế tiền lương riêng đối với công chức hành chính”[20].

Đối với cán bộ là các chức danh tư pháp, bao gồm: chấp hành viên, thẩm tra viên, thư ký thi hành án dân sự, công chứng viên, trợ giúp viên pháp lý, đấu giá viên, giám định viên tư pháp; công chức tư pháp và hộ tịch viên, cần xây dựng, sửa đổi các quy định về chế độ phụ cấp lương theo hướng sau:

* Về phụ cấp trách nhiệm theo nghề

- Đối với công chức thi hành án dân sự: đề nghị quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức thi hành án dân sự theo các mức như sau:

+ Mức 35 % áp dụng đối với chấp hành viên cao cấp;

+ Mức 40 % áp dụng đối với chấp hành viên trung cấp;

+ Mức 45 % áp dụng đối với chấp hành viên sơ cấp;

+ Mức 30 % áp dụng đối với thư ký thi hành án dân sự;

+ Mức 25 % áp dụng đối với thư ký trung cấp thi hành án dân sự;

+ Mức 30 % áp dụng đối với thẩm tra viên cao cấp;

+ Mức 35 % áp dụng đối với thẩm tra viên chính;

+ Mức 40 % áp dụng đối với thẩm tra viên;

- Đối với trợ giúp viên pháp lý: xây dựng mức phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với tất cả các ngạch trợ giúp viên pháp lý; đồng thời nâng mức phụ cấp trách nhiệm theo nghề quy định tại Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật trợ giúp pháp lý, như sau:

+ Mức 35% áp dụng đối với trợ giúp viên pháp lý;

+ Mức 40% áp dụng với trợ giúp viên pháp lý chính;

- Đối với công chứng viên: đề nghị nâng mức phụ cấp trách nhiệm theo nghề quy định tại Quyết định số 233/2005/QĐ-TTg ngày 26/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với Công chứng viên từ 15 % lên mức 35 %.

* Về phụ cấp ưu đãi theo nghề

- Đối với giám định viên pháp y chuyên trách và người thường xuyên giúp việc cho giám định viên pháp y:

+ Mức 50% áp dụng đối với giám định viên pháp y bằng với mức dành cho cán bộ, viên chức trực tiếp khám, điều trị, chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS (phụ cấp này trước đây là 35%);

+ Mức 20% áp dụng đối với người giúp việc cho giám định viên pháp y (phụ cấp này trước đây là 15%).

- Đối với giám định viên pháp y tâm thần chuyên trách và người thường xuyên giúp việc cho giám định viên pháp y tâm thần: đề nghị giữ nguyên mức 35% như hiện nay đối với giám định viên pháp y tâm thần và mức 15% đối với người giúp việc cho giám định viên pháp y tâm thần.

* Về phụ cấp thâm niên nghề

Nghiên cứu, xây dựng phụ cấp thâm niên nghề đối với tất cả các chức danh tư pháp, cụ thể như sau: sau 5 năm (đủ 60 tháng) làm việc liên tục trong ngành thì được hưởng phụ cấp thâm niên nghề bằng 5% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có); từ năm thứ 6 trở đi mỗi năm được tính thêm 1%.

* Về phụ cấp trách nhiệm công việc

Đề nghị quy định phụ cấp trách nhiệm công việc đối với công chức, chức danh tư pháp chưa được hưởng phụ cấp trách nhiệm theo nghề, bao gồm:

- Giám định viên pháp y được hưởng phụ cấp hệ số 0,5 so với lương tối thiểu chung; người giúp việc cho giám định viên pháp y được hưởng phụ cấp 0,3 so với mức lương tối thiểu chung;

- Giám định viên pháp y tâm thần, giám định viên kỹ thuật hình sự được hưởng phụ cấp 0,4 so với lương tối thiểu chung; người giúp việc cho giám định viên pháp y tâm thần, giám định viên kỹ thuật hình sự được hưởng phụ cấp 0,2 so với mức lương tối thiểu chung;

- Đối với giám định viên tư pháp ở các lĩnh vực khác như văn hóa, tài chính, xây dựng v.v. hưởng chế độ phụ cấp trách nhiệm công việc với hệ số 0,3 so với lương tối thiểu.

* Về phụ cấp độc hại, nguy hiểm

- Đối với giám định viên pháp y và người giúp việc cho giám định viên pháp y: duy trì mức hưởng như hiện nay với hệ số 0,4 so với mức lương tối thiểu áp dụng cho giám định viên pháp y và hệ số 0,3 so với mức lương tối thiểu áp dụng cho người giúp việc cho giám định viên pháp y;

- Đối với giám định viên pháp y tâm thần và người giúp việc cho giám định viên pháp y tâm  thần: duy trì mức hưởng như hiện nay là: hệ số 0,4 so với mức lương tối thiểu áp dụng cho giám định viên pháp y tâm thần và người giúp việc cho giám định viên pháp y tâm  thần;

- Đối với giám định viên pháp y, giám định viên kỹ thuật hình sự trong lực lượng vũ trang và người giúp việc: áp dụng mức phụ cấp hệ số 0,4 so với mức lương tối thiểu áp dụng cho giám định viên pháp y, giám định viên kỹ thuật hình sự trong lực lượng vũ trang, hệ số 0,2 so với mức lương tối thiểu áp dụng cho người giúp việc cho các chức danh trên.

g) Xây dựng và thực hiện chính sách nhà ở cho cán bộ, công chức

Thực hiện đầu tư xây dựng quỹ nhà ở cho cán bộ thuê hoặc thuê mua theo Luật nhà ở. Nhà nước cần có sự đầu tư trực tiếp từ nguồn ngân sách để xây dựng quỹ nhà ở xã hội cho số cán bộ, công chức có khó khăn về nhà ở thuê hoặc thuê mua. Việc đầu tư này cần xác định thành chỉ tiêu kinh tế - xã hội và giao cho từng địa phương thực hiện, trước mắt cần tập trung tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là nơi có nhiều cán bộ, công chức làm việc đang khó khăn về nhà ở. Bộ Tư pháp thành lập Quỹ tiết kiệm nhà ở do cán bộ công chức đóng góp hàng tháng hoặc cơ quan sử dụng cán bộ công chức đóng góp; đồng thời kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chính sách hỗ trợ của Nhà nước bằng hình thức cho cán bộ, công chức vay với lãi xuất thấp hoặc không phải trả lãi và được trừ dần vào tiền lương hàng tháng để giải quyết vấn đề thuê mua nhà ở đối với cán bộ, công chức; kiến nghị Nhà nước ban hành chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư xây dựng nhà ở cho cán bộ, công chức thuê hoặc thuê mua, như ưu tiên quỹ đất, miễn tiền sử dụng đất, hỗ trợ đầu tư trong việc đền bù, giải phóng mặt bằng, ưu đãi về thuế, tín dụng,..

h) Xây dựng và thực hiện chế độ chính sách, chế độ đặc thù đối với cán bộ ngành tư pháp

Tham mưu xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách thu hút, khuyến khích cán bộ đến công tác tại các cơ quan tư pháp có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; chính sách đối với cán bộ xã. Đối với số cán bộ này, nhất là công chức thi hành án dân sự, cần có chính sách hỗ trợ đào tạo, rút ngắn thời gian nâng bậc lương, giảm thời gian tập sự, mở rộng các hình thức phụ cấp trách nhiệm, tăng cường phụ cấp công tác phí và các hình thức phụ cấp khác.

i) Một số chế độ, định mức đặc thù trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của ngành tư pháp

- Xây dựng, sửa đổi, bổ sung các định mức chi đặc thù cho hoạt động của ngành tư pháp như: kinh phí xây dựng, thi hành, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, pháp điển hóa văn bản quy phạm pháp luật; kinh phí đặc thù trong thi hành án dân sự...

- Xây dựng, sửa đổi, bổ sung quy định về chế độ bồi dưỡng theo vụ việc cho tất cả các chức danh tư pháp, đồng thời nghiên cứu, xây dựng mức bồi dưỡng phù hợp với tính chất công việc, bảo đảm bù đắp và có tác dụng khuyến khích đối với cán bộ thực hiện các nhiệm vụ này.

- Kiến nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung đồng thời khuyến khích các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập trong ngành thực hiện các quy định về thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế, quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, viên chức các đơn vị sự nghiệp.

k) Cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của cán bộ

Phân công, bố trí cán bộ phù hợp với ngành nghề đào tạo, phù hợp với sở trường năng lực của cán bộ. Xác định rõ quy trình giải quyết công việc và chế độ trách nhiệm của cán bộ. Thường xuyên đánh giá cán bộ khách quan, trung thực và chính xác; áp dụng chế độ khen thưởng, tôn vinh, động viên kịp thời đối với những người có thành tích xuất sắc, tậm tâm, tận lực với công việc; tạo lập môi trường đoàn kết, có đấu tranh xây dựng cơ quan trong sạch, vững mạnh; xử lý thích đáng những hành vi vi phạm, những người chây ì, thiếu trách nhiệm. Nghiên cứu tạo ra nhiều cơ hội về học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, cơ hội và định hướng phát triển chức nghiệp cho đội ngũ cán bộ trong ngành tư pháp.

III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Trách nhiệm của Bộ Tư pháp

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ và các bộ, ngành có liên quan xây dựng chức danh, tiêu chuẩn, chế độ chính sách đối với đấu giá viên, đăng ký viên và hộ tịch viên để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nội vụ ban hành và ban hành các văn bản theo thẩm quyền.

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức thuộc ngành, lĩnh vực quản lý để Bộ Nội vụ thống nhất ban hành; xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch viên chức ngành tư pháp, gửi lấy ý kiến của Bộ Nội vụ trước khi ban hành.

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan xây dựng chế độ, chính sách đặc thù đối với công chức ngành tư pháp để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bao gồm: Phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp trách nhiệm công việc, phụ cấp thâm niên, chế độ bồi dưỡng theo vụ việc đối với các chức danh tư pháp và tổ chức thực hiện sau khi được ban hành.

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, ngành có liên quan xây dựng cơ chế tài chính và các nội dung chi hỗ trợ cho các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ đặc thù của ngành tư pháp.

- Xây dựng, ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện các văn bản về tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm, đào tạo, luân chuyển cán bộ,.. do Bộ Tư pháp quản lý.

2. Trách nhiệm của Bộ Nội Vụ

- Xây dựng trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định về chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, chương trình phát triển đội ngũ công chức; phân công, phân cấp quản lý công chức và biên chế công chức; phương pháp xác định vị trí việc làm và cơ cấu công chức; chiến lược, chế độ tiền lương và các chính sách, chế độ đãi ngộ khác đối với công chức; chính sách đối với người có tài năng; tiêu chuẩn chức danh và tuyển chọn công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan hành chính nhà nước.

- Quy định ngạch và mã ngạch công chức, viên chức ngành tư pháp; ban hành và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chức danh, tiêu chuẩn các ngạch công chức, cơ cấu ngạch công chức, quy chế thi tuyển, xét tuyển công chức, quy chế tổ chức thi nâng ngạch công chức, nội quy thi tuyển, thi nâng ngạch công chức, quy chế đánh giá công chức; chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý.

3. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

- Xây dựng, sửa đổi, bổ sung các chính sách về thu hút, đãi ngộ của địa phương đối với người có trình độ cao, sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, loại xuất sắc, người tình nguyện đến công tác tại các địa bàn vùng núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo bảo đảm phù hợp điều kiện của từng địa phương.

- Nghiên cứu xây dựng chính sách thích hợp để thu hút được những nhân tài tiềm tàng như: sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, thủ khoa; ứng viên đạt điểm cao nhất trong kỳ thi. Tạo sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhân sự với các trường đại học trong việc theo dõi học bạ, kết quả học tập và kết quả thi tuyển nhằm tuyển những ứng cử viên tốt cho nền công vụ.

- Sử dụng các phương pháp thu hút nhân tài phù hợp với khả năng, điều kiện của cơ quan và nguyện vọng của nhân tài; khuyến khích mọi cán bộ, công chức săn tìm, phát hiện và tiến cử nhân tài trong xã hội, khu vực tư nhân...

- Áp dụng thí điểm việc bổ nhiệm công chức lãnh đạo thông qua thi tuyển cạnh tranh rộng rãi, công khai nhằm tạo được động lực và quan tâm của nhân tài.

- Áp dụng chính sách "tiến cử" và quy định rõ vị trí cũng như trách nhiệm cụ thể của người tiến cử về nhân tài được tiến cử. Công khai hóa người tiến cử và nhân tài được tiến cử để xã hội có điều kiện giám sát.

- Xây dựng môi trường công tác và điều kiện làm việc tốt như phương tiện làm việc, điều kiện thông tin nhanh, kịp thời, đầy đủ; không khí làm việc dân chủ, công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân tài phát triển.

- Thống nhất nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý về tầm quan trọng của việc xây dựng và thực thi chiến lược phát triển nhân tài là nhân tố đặc biệt quan trọng, có vai trò then chốt để xây dựng nền công vụ trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại.



[1] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đã xác định “chuẩn bị các điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để thực hiện việc chuyển giao tổ chức và công tác thi hành án cho Bộ Tư pháp” (bao gồm thi hành án hình sự, dân sự và hành chính).

[2] Bộ Tư pháp được Chính phủ giao nhiệm vụ chủ trì xây dựng dự án Pháp lệnh Pháp điển hoá văn bản quy phạm pháp luật để Chính phủ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Bộ Tư pháp cũng đã được Chính phủ giao nhiệm vụ xây dựng dự thảo Nghị định về công tác thi hành pháp luật.

[3] Hiện nay Bộ Tư pháp đang chủ trì xây dựng Luật hộ tịch, Luật về phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật hòa giải; sửa đổi Nghị định số 79/2007/NĐ-CP.

[4] Bộ Tư pháp có 1299 cán bộ, tăng 17,76% so với năm 2007 (xem Phụ lục 1 của Đề án). Sở Tư pháp có 3.918 cán bộ, tăng trên 15% so với năm 2007. Phòng Tư pháp có 2811 cán bộ, tăng trên 7% so với năm 2007 và tăng 12% so với năm 2005, Tư pháp cấp xã có 12.797 công chức/11.078 cấp xã (trung bình mỗi xã có 1,15 công chức). Các cơ quan thi hành án dân sự địa phương có 8.018 công chức. Ngoài ra ngành tư pháp còn quản lý hơn 2600 giám định viên tư pháp, trong đó có trên 400 giám định viên chuyên trách.

[5] Bộ Tư pháp, trong 03 năm 2008, 2009 và 2010 chỉ được giao bổ sung 51 biên chế (năm 2008: 10 biên chế, năm 2009: 30 biên chế, năm 2010: 11 biên chế) công chức; các cơ quan tư pháp địa phương, tính đến 31/5/2010, mỗi Sở Tư pháp có trung bình 29 công chức, mặc dù tăng 3,5 công chức so với năm 2007, nhưng theo báo cáo của các địa phương thì đây là do số biên chế thực hiện tăng lên trong khi biên chế được phân bổ mới hầu như không tăng; Phòng Tư pháp có trung bình 04 công chức/phòng, chỉ tăng 7% so với năm 2007; Tư pháp cấp xã đã được bổ sung, tăng cường về số lượng (xem mục 1.1), đặc biệt, do thực hiện đẩy mạnh phân cấp quản lý các lĩnh vực tư pháp cho địa phương và cơ sở đã dẫn đến nhiệm vụ và khối lượng công việc của tư pháp cấp xã tăng cao, nhất là trong các lĩnh vực hộ tịch và chứng thực (Trong lĩnh vực hộ tịch, trước khi có Nghị định số 158/2005/NĐ-CP, bình quân mỗi công chức thực hiện 19 việc/tháng, trong khi đó tại thời điểm năm 2007 và quý 1 năm 2008 thì bình quân trong 01 tháng, một công chức tư pháp phải thực hiện 39 việc, tăng 100%. Trong lĩnh vực chứng thực, trước khi được chuyển giao nhiệm vụ chứng thực theo Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, bình quân công chức chỉ phải thực hiện 45 việc/tháng, trong khi đó, sau khi được chuyển giao, bình quân trong 01 tháng, một công chức phải thực hiện 317 việc, tăng gấp 7 lần).

[6] Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước trên 26 lĩnh vực bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, pháp luật, cơ chế, chính sách nhưng số lượng chuyên viên cao cấp và tương đương còn quá thấp, chỉ có 34 người/1229 cán bộ, chiếm 2,76%; chuyên viên chính và tương đương chỉ có 263 người, chiếm 21,4%. Các Sở Tư pháp chỉ có 28 chuyên viên cao cấp và tương đương/3918 cán bộ, công chức, viên chức, chiếm 0,71%; chuyên viên chính và tương đương cũng chỉ có 355 người, chiếm 9%, so với năm 2007 tuy có tăng 20 người nhưng về tỉ lệ thì lại giảm 2%.

[7] Bộ Tư pháp hỗ trợ một lần là 3.000.000 đồng cho mỗi cán bộ, giảng viên đã là cán bộ, công chức, viên chức của Bộ Tư pháp đến công tác tại Trường Trung cấp Luật Buôn Mê Thuột tại tỉnh Đắk Lắk và Trường Trung cấp Luật Vị Thanh tại tỉnh Hậu Giang.

[8] Khoản 5 Điều 17 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền: “Quyết định chính sách thu hút và một số chế độ khuyến khích đối với cán bộ, công chức trên địa bàn phù hợp với khả năng của ngân sách địa phương”.

[9] Vĩnh Phúc, Bình Dương, Bắc Ninh, thành phố Đà Nẵng.

[10] Thành phố Đà Nẵng đã thực hiện thí điểm thi tuyển đối với một số chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các đơn vị sự nghiệp.

[11] Tại thành phố Hồ chí Minh, trong 03 năm từ năm 2005 đến năm 2007 đã có 40 công chức xin nghỉ việc và chuyển công tác. Đặc biệt, trong 06 tháng đầu năm 2008 đã có 15 công chức xin nghỉ việc hoặc chuyển công tác khác.

[12] Thông tư số 100/2006/TT-BTC ngày 23/6/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật.

[13] Thông tư liên tịch số 158/2007/TTLT-BTC-BTP ngày 28/12/2007 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí hỗ trợ cho công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật.

[14] Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 14/5/2010 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

[15] Điều 26 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật trợ giúp pháp lý.

[16] Quyết định số 73/2007/QĐ-TTg ngày 25/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện chế độ bồi dưỡng đối với những người trực tiếp tham gia cưỡng chế thi hành án dân sự.

[17] Quyết định số 74/2009/QĐ-TTg ngày 07/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp.

[18] Thông tư số 10/2010/TT-BNV ngày 28/10/2010 của Bộ Nội vụ Quy định mã số, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chấp hành viên và thư ký thi hành án dân sự.

 

[19] Ngày 04/10/2010 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 15/2010/TT-BTP quy định về tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch viên chức trợ giúp viên pháp lý.

[20] Văn kiện Nghị quyết Trung ương 3 Khoá X.

 

Nội dung toàn văn

PHẦN THỨ NHẤT

SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

         

I. Chủ trương, chính sách của Đảng về thu hút, tuyển chọn và đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ nói chung và cán bộ Ngành Tư pháp

Thực tiễn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay đã khẳng định cán bộ luôn là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng. Đặc biệt, trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở cửa hội nhập toàn diện, sâu rộng với các nước trong khu vực và trên thế giới, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội nhưng không có tiền lệ, đòi hỏi sự nỗ lực và sáng tạo rất lớn nên đội ngũ cán bộ càng đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa quyết định. Vì vậy, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đổi mới trong công tác cán bộ, từ đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chế độ, chính sách tới công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực, chủ động, năng động, sáng tạo, nhạy bén với sự thay đổi, phong cách làm việc chuyên nghiệp, có tri thức; không chỉ nắm vững, tiếp thu những kiến thức, thành tựu và kinh nghiệm của các nước tiên tiến mà còn phải chủ động, sáng tạo xử lý, giải quyết những vấn đề mới phát sinh của đời sống xã hội và biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam. Đặc biệt, bên cạnh các chính sách chung đối với cán bộ, Đảng ta cũng luôn quan tâm phát hiện, thu hút, bồi dưỡng và trọng dụng người “hiền tài”, coi đó là “nguyên khí quốc gia”. Văn kiện Hội nghị Trung ương 6 Khoá IX đã xác định “Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá”; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định “Xây dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài, thu hút nhân tài vào những lĩnh vực quan trọng, không phân biệt người trong Đảng hay người ngoài Đảng”. Trong việc đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ, Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ 9 Khoá X đã chỉ rõ “Cải cách hệ thống chính sách, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất, công bằng trong thực hiện chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành, các địa phương, các đối tượng cán bộ; gắn chính sách cán bộ trong từng khâu của công tác cán bộ, gắn trách nhiệm, nghĩa vụ với quyền lợi; khuyến khích cán bộ công tác ở địa bàn khó khăn, ở cơ sở; cải cách cơ bản chế độ tiền lương, tiền tệ hoá tiền lương và các chế độ theo lương; ban hành chính sách về nhà ở, nhà công vụ đối với cán bộ, công chức và lực lượng vũ trang”.

Đối với ngành Tư pháp, trong những năm qua, cùng với việc ban hành nhiều chủ trương, đường lối, chính sách về xây dựng, củng cố nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, Đảng và Nhà nước đã ban hành những chủ trương, chính sách về cải cách pháp luật và tư pháp như: Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật việt nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”. Đặc biệt, ngày 02 tháng 6 năm 2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về "chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", trong đó Nghị quyết đã xác định mục tiêu “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa...”. Để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trên, Nghị quyết số 49-NQ/TW đã xác định một trong những giải pháp cơ bản, có ý nghĩa quyết định, đó là: “Có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc ở các cơ quan tư pháp. Mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp, không chỉ là cán bộ trong các cơ quan tư pháp mà còn là các luật gia, luật sư. Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp...Có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp...”.

II. Sự tăng cường, mở rộng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành Tư pháp trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

Thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI đến nay, với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, quá trình phát triển, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCH đã và đang tác động mạnh mẽ, sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội trong đó đã đặt ra những yêu cầu và nhiệm vụ mới đối với lĩnh vực pháp luật và tư pháp. Trong bối cảnh đó, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định những quan điểm, chủ trương, chính sách cơ bản, làm nền tảng cho quá trình đẩy mạnh cải cách sâu rộng về pháp luật và tư pháp ở nước ta. Quán triệt thực hiện các nghị quyết của Đảng, trong những năm qua, mặc dù còn nhiều khó khăn, hạn chế, nhưng quá trình cải cách pháp luật và tư pháp đã đi vào cuộc sống, tạo ra sự chuyển biến về nhận thức, tư tưởng và hành động cụ thể, tác động trực tiếp vào quá trình đổi mới về tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp và pháp luật.

Đối với ngành Tư pháp, quán triệt và thể chế hoá những quan điểm trên, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của ngành Tư pháp, cụ thể như: Luật Công chứng (2006), Luật Trợ giúp pháp lý (2006), Luật Tương trợ tư pháp (2007), Luật Luật sư (2006), Luật Thi hành án dân sự (2008), Luật Quốc tịch (2008), Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về quản lý và đăng ký hộ tịch, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký... . Đồng thời, thực tiễn phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập khu vực và quốc tế, thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã và đang đặt ra cho ngành Tư pháp những yêu cầu và nhiệm vụ mới với khối lượng công việc ngày càng lớn, với tính chất ngày càng phức tạp, đòi hỏi cao về tiến độ, chất lượng, hiệu quả.

Để kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của ngành Tư pháp ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 93/2008/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp (sau đây gọi là Nghị định số 93/2008/NĐ-CP) thay thế Nghị định số 62/2003/NĐ-CP. Đối với cơ quan tư pháp địa phương: Căn cứ Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định tổ chức các quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Nghị định số 16/2009/NĐ-CP ngày 16/02/2009 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 8 Nghị định số 13/2008/NĐ-CP và Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh  trong đó xác định cụ thể vị trí và chức năng của Sở Tư pháp cấp tỉnh và Phòng Tư pháp cấp huyện và các quy định trong các văn bản pháp luật khác có liên quan, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV ngày 28/4/2009 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện và công tác tư pháp của Uỷ ban nhân dân cấp xã (sau đây gọi là Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV) thay thế Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLB/TP-NV. Theo đó, ngoài các chức năng, nhiệm vụ mang tính truyền thống, kế thừa các văn bản pháp luật nêu trên còn bổ sung, tăng cường nhiều chức năng và nhiệm vụ, kiện toàn, thành lập một số tổ chức mới trong cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp địa phương, cụ thể là:

- Bộ Tư pháp được bổ sung, tăng cường chức năng và các nhiệm vụ quản lý nhà nước về: theo dõi thi hành pháp luật; xây dựng pháp luật; hướng dẫn nghiệp vụ công tác pháp chế bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp nhà nước và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; tương trợ tư pháp; bán đấu giá tài sản; nuôi con nuôi; đồng thời, cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp được sắp xếp, kiện toàn lại cho phù hợp với công việc được giao đảm nhiệm, trong đó các đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước là 20 đơn vị (tăng 4 đơn vị so với Nghị định số 62/2003/NĐ-CP), các đơn vị sự nghiệp là 08 đơn vị (tăng 02 đơn vị so với Nghị định số 62/2003/NĐ-CP).

- Sở Tư pháp được bổ sung, tăng cường chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về: Thi hành pháp luật, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, trợ giúp pháp lý, bán đấu giá tài sản; đồng thời, cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp cũng tăng trung bình từ 1-2 đơn vị cấp phòng. Phòng Tư pháp và Tư pháp cấp xã được bổ sung, tăng cường các nhiệm vụ quản lý nhà nước về: thi hành pháp luật, đăng ký và quản lý hộ tịch, chứng thực.

Ngoài ra, từ khi Nghị định số 93/2008/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV được ban hành đến nay, trong lĩnh vực tư pháp, Nhà nước tiếp tục ban hành các văn bản có giá trị pháp lý cao như Luật Lý lịch tư pháp (2009), Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (2009). Theo đó, ngành Tư pháp tiếp tục được giao thêm chức năng và nhiệm vụ mới về quản lý nhà nước trong lĩnh vực lý lịch tư pháp, xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp quốc gia tại Bộ Tư pháp và tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; thống nhất quản lý về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Bên cạnh đó, theo lộ trình thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 khoá X, ngành Tư pháp sẽ còn được giao đảm nhiệm những chức năng, nhiệm vụ mới như:

- Giúp Chính phủ, UBND các cấp thống nhất quản lý công tác thi hành án, trong đó có quản lý và tổ chức thi hành án hình sự[1], hành chính;

- Tiếp tục quản lý toàn diện, chuyên sâu về xây dựng và thi hành pháp luật[2], hộ tịch, phổ biến, giáo dục pháp luật, hoà giải, chứng thực[3]...

Như vậy, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của công tác tư pháp đã, đang và sẽ tiếp tục được tăng cường, mở rộng với phạm vi và đối tượng quản lý rộng lớn, tác động trực tiếp đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Do đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ ngành Tư pháp không chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt mà còn phải đủ về số lượng với cơ cấu hợp lý, có năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp không ngừng nâng cao, đủ sức hoàn thành tốt các nhiệm vụ trước mắt cũng như các nhiệm vụ lâu dài trong chiến lược phát triển của ngành Tư pháp, đáp ứng nhu cầu về pháp luật và tư pháp ngày càng tăng của xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.

III. Tính chất đặc thù công việc của ngành Tư pháp

          1. Trong hoạt động xây dựng pháp luật:

Xây dựng pháp luật là hoạt động cơ bản của nhà nước, là kết tinh của quá trình thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, là cả một quá trình nghiên cứu, tìm tòi, khảo nghiệm hiện thực xã hội, tổng kết thực tiễn, kế thừa kinh nghiệm, bài học lịch sử, nắm bắt các qui luật vận động của tự nhiên và xã hội nhằm mục tiêu thúc đẩy xã hội phát triển, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do đó, trong công tác xây dựng pháp luật, để thể chế hoá đầy đủ, toàn diện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi cao đòi hỏi người làm công tác xây dựng pháp luật, phải nghiên cứu phân tích chủ trương, chính sách, nhìn nhận sự vật, hiện tượng xã hội trong sự vận động, tác động lẫn nhau và phát triển không ngừng, với những yêu cầu chuyên biệt, không chỉ trong lĩnh vực chuyên ngành mà cả trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội nhưng đặc biệt là phải nhìn nhận dưới lăng kính pháp luật, bằng các phạm trù, chế định pháp luật, thông qua đặc trưng của cấu trúc pháp luật với tính cách là một loại đơn vị do lường, một khuôn thước làm chuẩn mực cho hành vi, cách ứng xử của con người, qua đó tạo hành lang pháp lý, khuôn viên, không gian pháp luật cho hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Bên cạnh đó xây dựng pháp luật đòi hỏi tuân thủ quy trình, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ, từ xây dựng chương trình, xây dựng dự thảo, lấy ý kiến, thẩm định, thẩm tra đến ban hành văn bản; đồng thời, trong các giai đoạn này, đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều cơ quan  đơn vị, tổ chức, cá nhân, bao gồm cả các tổ chức ngoài nhà nước, các chuyên gia, nhà khoa học nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo dân chủ, khách quan, minh bạch trong hoạt động xây dựng pháp luật, đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

          2. Hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật

Trong những năm qua, trước yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập khu vực và quốc tế, các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền từ Trung ương tới địa phương đã ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Đây là việc làm cần thiết trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình soạn thảo, ban hành và thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, có không ít các văn bản được ban hành chưa đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền hoặc tuy được ban hành đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền nhưng ngay từ khi được ban hành hoặc qua một thời gian thực hiện đã bộc lộ bất cập, không phù hợp với thực tiễn. Những văn bản này đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; phá vỡ tính thống nhất, đồng bộ, tính khả thi của hệ thống pháp luật. Do đó, việc kiểm tra, xử lý văn bản là một nhiệm vụ tất yếu, xuất phát từ chính yêu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, phục vụ trực tiếp yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, chủ động hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, việc kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật không hề đơn giản mà rất phức tạp, khó khăn, đòi hỏi người thực hiện phải có chuyên môn, nghiệp vụ cao, không chỉ nắm vững các quy định của pháp luật trong lĩnh vực được kiểm tra mà còn phải am hiểu pháp luật thuộc các chuyên ngành khác có liên quan, thậm chí là cả hệ thống pháp luật; đồng thời, phải hiểu biết sâu về lĩnh vực mà văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh cũng như có kiến thức xã hội rộng để phân tích, tìm hiểu, đối chiếu các quy phạm pháp luật để từ đó tìm ra các quy định mâu thuẫn, chồng chéo thậm chí trái với quy định có hiệu lực pháp lý cao hơn hoặc không còn phù hợp với thực tiễn để kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội ngày càng đa dạng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

3. Hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của một số chức danh tư pháp

Theo quy định hiện hành của pháp luật, hoạt động của các chức danh tư pháp thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp (chấp hành viên, thẩm tra viên thi hành án dân sự; trợ giúp viên pháp lý; công chứng viên và giám định viên tư pháp), ngoài những đặc điểm chung giống như lao động của các cán bộ, công chức và người lao động bình thường, còn có những đặc thù, khác biệt xuất phát từ những yêu cầu về trình độ, năng lực chuyên môn; tính phức tạp, khó khăn của công việc; trách nhiệm đối với công việc cũng như hệ quả phát sinh từ công việc do mình giải quyết, bao gồm một số nội dung cơ bản sau:

- Lao động của các chức danh Tư pháp là lao động trí óc, phải tuân thủ đầy đủ, chặt chẽ các trình tự, thủ tục theo quy định; đồng thời, luôn được đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội, của các cơ quan có thẩm quyền, của người dân. Đặc trưng này đòi hỏi công chức, viên chức làm việc ở các vị trí này phải được đào tạo cơ bản, có lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm công tác, phải thường xuyên học tập nhằm không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, phải tận tâm, tận lực với ngành Tư pháp.

Theo quy định hiện hành, để được bổ nhiệm vào một chức danh tư pháp, cá nhân phải có trình độ đại học trở lên (đối với các ngạch chấp hành viên, thẩm tra viên; công chứng viên và trợ giúp viên là từ cử nhân luật trở lên, có trình độ đại học trở lên đối với các chức danh tư pháp khác); đã được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn phù hợp với từng chức danh; có thời gian công tác trong lĩnh vực chuyên môn nhất định tuỳ từng chức danh tư pháp (bốn năm đối với chấp hành viên cấp huyện, 10 năm đối với chấp hành viên cấp tỉnh; năm năm đối với công chứng viên; đã qua thực tế hoạt động chuyên môn của chuyên ngành liên tục từ 5 năm trở lên đối với giám định viên pháp y và giám định viên pháp y tâm thần; có thời gian giúp việc giám định viên từ 5 năm trở lên đối với giám định viên kỹ thuật hình sự và pháp y công an nhân dân,...); tiếp sau đó, họ phải qua thời gian tập sự (đối với công chứng viên), phải được tuyển chọn bởi hội đồng tuyển chọn chấp hành viên trước khi được cấp có thẩm quyền bổ nhiệm (đối với chấp hành viên trung cấp, chấp hành viên sơ cấp, công chứng viên là Bộ trưởng Bộ Tư pháp, đối với trợ giúp viên pháp lý là chủ tịch UBND cấp tỉnh...). Ngoài ra, tuỳ từng chức danh tư pháp, còn phải có các điều kiện khác như phải có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, liêm khiết, trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.

- Công việc của các chức danh tư pháp luôn đòi hỏi tính trách nhiệm cao do công việc mà họ giải quyết luôn có nhiều khó khăn, phức tạp, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, nếu để sảy ra sai sót thì hậu quả thường khó khắc phục, do vậy đòi hỏi một số chức danh tư pháp phải công bằng, vô tư, khách quan. Để đạt được yêu cầu khắt khe đó, các chức danh tư pháp phải luôn luôn rèn luyện phẩm chất đạo đức, phải nghiêm khắc với mình. Nói một cách khái quát, đặc thù này đòi hỏi các chức danh tư pháp phải có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn tận tâm với nền công lý vì lợi ích của con người. Đây là đặc điểm nổi bật nhất về tính đặc thù trong lao động của các chức danh tư pháp.

- Lao động của các chức danh tư pháp là lao động đòi hỏi phải phục tùng nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật cũng như phải chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật. Muốn vậy, các chức danh tư pháp phải có bản lĩnh, dũng cảm đấu tranh với mọi sự can thiệp trái pháp luật vào hoạt động của mình vì công lý. Đây là một yêu cầu nghề nghiệp rất cao.

IV. Thực trạng đội ngũ cán bộ ngành Tư pháp

1. Những kết quả đạt được

Trong hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành của ngành Tư pháp Việt Nam, đội ngũ cán bộ ngành Tư pháp bao gồm cán bộ, công chức, viên chức làm việc tại các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp và cơ quan thi hành án dân sự địa phương (Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Ban Tư pháp xã, phường, thị trấn (công chức Tư pháp - Hộ tịch) và các cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện) đã không ngừng được củng cố, kiện toàn và ngày càng lớn mạnh, là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của Bộ, ngành và địa phương, đồng thời bảo đảm sự thống nhất quản lý công tác tư pháp từ Trung ương đến cơ sở.

1.1. Về số lượng: Đội ngũ cán bộ được kiện toàn, tăng cường về số lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Hiện nay, toàn Ngành có trên 26 nghìn cán bộ, công chức, viên chức (sau đây gọi chung là cán bộ) làm việc tại Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Tư pháp cấp xã và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương. Bộ Tư pháp có 1299 cán bộ, tăng 17,76% so với năm 2007 (xem Phụ lục 1). Sở Tư pháp có 3918 cán bộ, tăng trên 15% so với năm 2007. Phòng Tư pháp có 2811 cán bộ, tăng trên 7% so với năm 2007 và tăng 12% so với năm 2005, trong đó Phòng Tư pháp có số lượng công chức lớn nhất là 11 công chức (Phòng Tư pháp thành phố Hội An, Phòng Tư pháp Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh - xem phụ lục 4). Tư pháp cấp xã có 12797 công chức/11.078 cấp xã (trung bình mỗi xã có 1,15 công chức, trong đó 1872/11.078 cấp xã có 02 công chức Tư pháp - Hộ tịch, chiếm 14,64%) và 1.286 người làm theo chế độ hợp đồng lao động, bằng 10,05% tổng số cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cấp xã (nếu tính cả số công chức Tư pháp - Hộ tịch và số cán bộ hợp đồng thì bình quân mỗi xã có 1,27 cán bộ, tăng 15,4 % so với năm 2007 và tăng 23,3 % so với năm 2005)[4]. Các cơ quan thi hành án dân sự địa phương có 8018 công chức, trong đó các Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh có 1449 công chức, các Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện có 6.569 công chức. Ngoài ra ngành Tư pháp còn quản lý hơn 2600 giám định viên tư pháp, trong đó có trên 400 giám định viên chuyên trách. Bên cạnh đội ngũ cán bộ, công chức đang trực tiếp làm việc trong các cơ quan trong ngành Tư pháp, hiện có hàng ngàn công chứng viên và người làm tư vấn pháp luật làm việc trong các văn phòng công chứng, văn phòng luật sư, công ty luật, trung tâm tư vấn pháp luật trong cả nước. Đội ngũ cán bộ này là nhân tố quyết định việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của Bộ và địa phương, đồng thời bảo đảm sự thống nhất quản lý công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở, góp phần xứng đáng vào các thành tựu chung của cả nước và của địa phương trong từng thời kỳ.

1.2. Về chất lượng: Chất lượng dội ngũ cán bộ ngành Tư pháp ngày càng được nâng cao. Hiện nay, trong 1299 cán bộ của Bộ Tư pháp có 02 giáo sư (tăng 100% so với năm 2007), 19 phó giáo sư (tăng 73% so với năm 2007, 130 tiến sỹ (tăng 27% so với năm 2007), 249 thạc sĩ, 678 cử nhân và 151 cao đẳng, trung cấp và trình độ khác (xem phụ lục 1). Sở Tư pháp có 73,83 % công chức có trình độ từ cử nhân luật trở lên, trong đó có 05 tiến sỹ, 93 thạc sỹ và 2796 cử nhân. Phòng Tư pháp có 74% công chức có trình độ cử nhân luật trở lên, trong đó có 10 thạc sỹ, 2076 cử nhân. Tư pháp cấp xã có trên 74,71 % công chức Tư pháp - Hộ tịch có trình độ trung học luật trở lên (trình độ đại học, cao đẳng đạt 20,47%, trình độ trung cấp đạt 54,24%), 15,54% công chức Tư pháp - Hộ tịch có trình độ từ trung cấp khác trở lên, 91,33% công chức Tư pháp - Hộ tịch có trình độ trung học phổ thông. Cơ quan thi hành án dân sự địa phương có trên 76% công chức có trình độ cử nhân luật trở lên, trong đó có 04 tiến sỹ, 52 thạc sỹ và 6124 cử nhân (xem phụ lục 2).

Trình độ nghiệp vụ, kỹ năng hành chính và kỹ năng nghề nghiệp của cán bộ trong ngành được nâng lên, từng bước đáp ứng với yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của nhiệm vụ công tác tư pháp trong tình hình mới. Tại Bộ Tư pháp, tổng số chuyên viên cao cấp và tương tương, chuyên viên chính và tương đương chiếm 24,2% tổng số cán bộ, trong đó có 34 chuyên viên cao cấp và tương đương (tăng 100% so với năm 2007), 263 chuyên viên chính và tương đương (tăng 12,9% so với năm 2007). Các Sở Tư pháp có tổng số chuyên viên cao cấp và tương đương, chuyên viên chính và tương đương chiếm 10% tổng số cán bộ, trong đó có 28 chuyên viên cao cấp và tương đương (tăng 60% so với năm 2005), 355 chuyên viên chính và tương đương. Ngoài ra, trình độ lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học của đội ngũ cán bộ ngành Tư pháp cũng đã được cải thiện, nâng cao, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

          2. Một số tồn tại, hạn chế, bất cập

Trước yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc tế thì đội ngũ cán bộ ngành Tư pháp còn nhiều hạn chế, bất cập.

2.1. Về số lượng: Mặc dù đã được quan tâm kiện toàn, bổ sung biên chế cho Bộ Tư pháp, các cơ quan tư pháp và thi hành án dân sự địa phương, tuy nhiên, số lượng cán bộ trong ngành Tư pháp còn thiếu, chưa tương xứng và chưa đáp ứng được yêu cầu về nhiệm vụ, khối lượng và tiến độ công việc ngày càng tăng cao.

Thực tiễn trong thời gian qua, Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp địa phương được giao thêm nhiều nhiệm vụ mới, nhiều nhiệm vụ được tăng cường, mở rộng như: quản lý nhà nước về thi hành pháp luật, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, lý lịch tư pháp, trách nhiệm bồi thường của nhà nước, bán đấu giá tài sản, phân cấp quản lý lĩnh vực hộ tịch và chứng thực cho cấp huyện và cấp xã...Trong khi đó, việc bổ sung biên chế chưa đáp ứng và chưa tương xứng với khối lượng và công việc được giao, cụ thể là: Bộ Tư pháp, trong 03 năm 2008, 2009 và 2010 chỉ được giao bổ sung 51 biên chế (năm 2008 10 biên chế, năm 2009 30 biên chế, năm 2010 11 biên chế) công chức; các cơ quan tư pháp địa phương, tính đến 31/5/2010[5], mỗi Sở Tư pháp có trung bình 29 công chức, mặc dù tăng 3,5 công chức so với năm 2007 nhưng theo báo cáo của các địa phương thì đây là do số biên chế thực hiện tăng lên trong khi biên chế được phân bổ mới hầu như không tăng; Phòng Tư pháp có trung bình 04 công chức/phòng, chỉ tăng 7% so với năm 2007[6]; Tư pháp cấp xã đã được bổ sung, tăng cường về số lượng (xem mục 1.1), đặc biệt, do thực hiện đẩy mạnh phân cấp quản lý các lĩnh vực tư pháp cho địa phương và cơ sở đã dẫn đến nhiệm vụ và khối lượng công việc của Tư pháp cấp xã tăng cao, nhất là trong các lĩnh vực hộ tịch và chứng thực (Trong lĩnh vực hộ tịch, trước khi có Nghị định số 158/2005/NĐ-CP, bình quân mỗi công chức thực hiện 19 việc/tháng, trong khi đó tại thời điểm năm 2007 và quý 1 năm 2008 thì bình quân trong 01 tháng, một công chức Tư pháp phải thực hiện 39 việc, tăng 100%. Trong lĩnh vực chứng thực, trước khi được chuyển giao nhiệm vụ chứng thực theo Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, bình quân công chức chỉ phải thực hiện 45 việc/tháng, trong khi đó, sau khi được chuyển giao, bình quân trong 01 tháng, một công chức phải thực hiện 317 việc, tăng gấp 7 lần)[7]. Do đó, đa số các cơ quan trong ngành (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Tư pháp cấp xã và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương) đều trong tình trạng quá tải về công việc, dẫn đến việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý một số lĩnh vực công tác tư pháp chưa đầy đủ, chưa sâu, hiệu quả chưa cao, đặc biệt là Phòng Tư pháp cấp huyện và Tư pháp cấp xã.

2.2. Cơ cấu cán bộ còn chưa hợp lý, đặc biệt là cơ cấu ngạch công chức chưa phù hợp đặc điểm, tính chất của từng vị trí công việc, còn tồn tại trên thực tế tình trạng chưa phù hợp giữa chức trách theo quy định của từng ngạch công chức với công việc thực tế của cán bộ được giao đảm nhiệm. Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước trên 26 lĩnh vực bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, pháp luật, cơ chế, chính sách nhưng số lượng chuyên viên cao cấp và tương đương còn quá thấp, chỉ có 34 người/1229 cán bộ, chiếm 2,76%; chuyên viên chính và tương đương chỉ có 263 người, chiếm 21,4%. Các Sở Tư pháp chỉ có 28 chuyên viên cao cấp và tương đương/3918 cán bộ, công chức, viên chức, chiếm 0,71%; chuyên viên chính và tương đương cũng chỉ có 355 người, chiếm 9%, so với năm 2007 tuy có tăng 20 người nhưng về tỉ lệ thì lại giảm 2%.

Cơ cấu cán bộ về ngành nghề chưa phù hợp, do lĩnh vực pháp luật và tư pháp, ngoài kiến thức về pháp luật còn đòi hỏi hiểu biết, nắm vững kiến thức thuộc các chuyên ngành khác, nhưng trong thời gian qua, ngành Tư pháp mới chỉ chủ yếu tuyển dụng cán bộ chuyên ngành luật. Cơ cấu về độ tuổi cũng chưa phù hợp, còn hẫng hụt, chưa đảm bảo sự kế thừa giữa các thế hệ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý.

2.3. Về chất lượng cán bộ: Chất lượng cán bộ, công chức vẫn còn nhiều mặt chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu kiến thức về phân tích chính sách, kiến thức quản lý, kiến thức thực tiễn, ngoại ngữ, tin học, dẫn đến việc tham mưu, hoạch định chính sách, tổ chức thực hiện pháp luật, giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra còn hạn chế; thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, cán bộ có trình độ cao, các chuyên gia đầu ngành, có khả năng dự báo, xử lý tốt những vẫn đề phức tạp nảy sinh để tư vấn cho Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh trong phạm vi bộ, ngành, địa phương, quốc gia, khu vực và quốc tế; phương pháp, lề lối làm việc chậm được đổi mới, chưa chủ động, sáng tạo và thích nghi với cơ chế và phương thức quản lý mới dẫn tới chất lượng, hiệu quả chưa cao. Tại một số địa bàn vùng sâu, vùng xa, nhiều công chức tư pháp công tác tại vùng đồng bào dân tộc ít người lại không biết tiếng của dân tộc nơi công tác nên ảnh hưởng đến việc triển khai các công tác tư pháp cơ sở như hoà giải, phổ biến giáo dục pháp luật. Một bộ phận cán bộ chậm thích nghi với yêu cầu, hoàn cảnh mới, ý thức, tinh thần trách nhiệm chưa cao, còn có hiện tượng suy thoái về phẩm chất đạo đức, vi phạm pháp luật trong thực thi công vụ.

V. Thực trạng thực hiện chính sách thu hút, tuyển chọn và chế độ, chính sách đối với cán bộ Ngành Tư pháp

1. Về thu hút, tuyển chọn cán bộ:

1.1. Ưu điểm và kết quả đạt được

a) Đối với các chính sách chung của Nhà nước:

Thời gian qua, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đã có nhiều quy định về thu hút và tuyển chọn người có năng lực, trình độ, tâm huyết với công việc vào làm việc tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập của nhà nước. Các quy định này có thể chia thành hai nhóm như sau:

Nhóm thứ nhất bao gồm các quy định về thu hút, tuyển chọn người có trình độ cao vào làm việc tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập.

Pháp lệnh Cán bộ, công chức và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có một số quy định ưu tiên trong thi tuyển, xếp lương cao hơn những người khác trong khi tuyển dụng đối với người có trình độ cao. Luật Cán bộ, công chức năm 2008 cũng đã có quy định về chính sách thu hút, tuyển chọn đối với người có trình độ cao, người có tài năng. Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức đã quy định, căn cứ điều kiện đăng ký dự tuyển công chức và yêu cầu công việc, người đứng đầu cơ quan quản lý công chức được xem xét, tiếp nhận không qua thi tuyển đối với các trường hợp đặc biệt: Người tốt nghiệp thủ khoa tại các cơ sở đào tạo trình độ đại học ở trong nước; người tốt nghiệp đại học, sau đại học loại giỏi, xuất sắc ở nước ngoài; người có trình độ đào tạo từ đại học trở lên, có kinh nghiệm công tác trong ngành, lĩnh vực cần tuyển dụng từ 05 năm trở lên, đáp ứng được ngay yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển dụng. Nghị định 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước cũng quy định ưu tiên trong tuyển dụng đối với người có trình độ cao, cụ thể: Những người có học vị tiến sĩ đúng chuyên ngành đào tạo, phù hợp với nhu cầu tuyển dụng được cộng 20 điểm vào tổng số điểm thi hoặc xét tuyển; ngư­ời có học vị thạc sĩ đúng chuyên ngành đào tạo, phù hợp với nhu cầu tuyển dụng; những ngư­ời tốt nghiệp loại giỏi và xuất sắc ở các bậc đào tạo chuyên môn phù hợp với nhu cầu tuyển dụng được cộng 20 điểm vào tổng số điểm thi hoặc xét tuyển

Đối với người có trình độ cao, pháp luật đã quy định có ưu đãi về tiền lương. Người tập sự (thử việc) có trình độ thạc sĩ phù hợp với yêu cầu tuyển dụng thì được hưởng 85% mức lương bậc 2 của ngạch tuyển dụng; trường hợp người tập sự có trình độ tiến sĩ phù hợp với yêu cầu tuyển dụng thì được hưởng 85% mức lương bậc 3 của ngạch tuyển dụng.

Nhóm thứ hai bao gồm các quy định về thu hút, tuyển chọn cán bộ vào làm việc tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc làm việc ở một số nghề có tính chất đặc thù:

Đối với trường hợp tuyển dụng công chức, viên chức, Luật Cán bộ, công chức quy định, người có đủ điều kiện tuyển dụng cam kết tình nguyện làm việc từ 05 năm trở lên ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì được tuyển dụng thông qua xét tuyển; Nghị định 116/2003/NĐ-CP quy định người tình nguyện phục vụ ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo thì được cộng 30 điểm vào tổng điểm thi tuyển hoặc xét tuyển.

Ngoài các quy định về ưu tiên trong tuyển dụng, công chức, viên chức còn được hưởng các ưu đãi về tiền lương khi làm việc ở một số địa bàn và ngành nghề nhất định. Cụ thể là: công chức, viên chức làm việc ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, khí hậu xấu được hưởng phụ cấp khu vực; làm việc ở đảo xa đất liền và vùng biên giới có điều kiện sinh hoạt đặc biệt khó khăn được hưởng phụ cấp đặc biệt; làm việc ở vùng kinh tế mới, cơ sở kinh tế và đảo xa đất liền có điều kiện sinh hoạt đặc biệt khó khăn được hưởng phụ cấp thu hút; làm việc ở một số nghề hoặc công việc thường xuyên thay đổi địa điểm làm việc và nơi ở được hưởng phụ cấp lưu động; làm nghề hoặc công việc có điều kiện lao động độc hại, nguy hiểm và đặc biệt độc hại, nguy hiểm chưa được xác định trong mức lương thì được hưởng phụ cấp độc hại, nguy hiểm; làm những nghề hoặc công việc có điều kiện lao động cao hơn bình thường, có chính sách ưu đãi của Nhà nước mà chưa được xác định trong mức lương thì được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề; các chức danh xếp lương theo bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ và bảng lương chức vụ thuộc ngành Tòa án, Kiểm sát, Thanh tra và một số chức danh tư pháp được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề,...

Bên cạnh các chính sách nên trên, các cơ quan, đơn vị từ Trung ương tới địa phương đã quan tâm, thực hiện tốt công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức; tạo môi trường làm việc tốt; công tác quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo được thực hiện theo đúng quy trình, đảm bảo khách quan, công bằng, bình đẳng, minh bạch, qua đó đã gián tiếp thu hút người vào làm việc tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập.

b) Đối với Bộ Tư pháp

Là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng thuộc lĩnh vực xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến giáo dục pháp luật, quản lý và tổ chức thi hành án dân sự, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp và công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước về một số hoạt động dịch vụ, sự nghiệp công, trong những năm qua, công tác tuyển chọn cán bộ của Bộ Tư pháp được thực hiện đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, đảm bảo nghiêm minh, công bằng, công khai, dân chủ, chất lượng, hiệu quả theo đúng quy định của pháp luật.

Với mục tiêu tuyển chọn những công chức có trình độ, năng lực, kinh nghiệm và tâm huyết, đồng thời đảm bảo cơ cấu về loại cán bộ, về trình độ chuyên môn, về tuổi giữa các thế hệ cán bộ, công chức, bước đầu Bộ đã vận dụng thực hiện cơ chế chính sách thu hút cán bộ vào làm việc tại cơ quan Bộ như: ưu tiên trong tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, người có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ đồng thời tiếp nhận các công chức đã có kinh nghiệm công tác thực tế ở các địa phương và đơn vị khác có nguyện vọng công tác lâu dài tại Bộ Tư pháp.

Bên cạnh các biện pháp thu hút, tuyển chọn cán bộ, với chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác tổ chức cán bộ, trong những năm qua, Bộ Tư pháp đã triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mặt về công tác cán bộ. Công tác đánh giá cán bộ đã bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai. Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý đã thường xuyên được điều chỉnh để kịp thời bổ sung những cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, trình độ, năng lực, triển vọng vào quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý. Công tác luân chuyển cán bộ đã tạo điều kiện cho cán bộ, công chức, nhất là cán bộ trẻ có điều kiện được rèn luyện và thử thách, giúp cán bộ trưởng thành nhanh và toàn diện hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng được gắn với quy hoạch cán bộ, yêu cầu nhiệm vụ của Bộ và của Ngành[8]. Việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý được thực hiện khách quan, dân chủ, căn cứ vào năng lực cán bộ và yêu cầu công việc. Ngoài ra, Bộ Tư pháp luôn chú trọng xây dựng môi trường làm việc thân thiện, dân chủ, đoàn kết, công khai trong mọi hoạt động, nhất là trong công tác tổ chức cán bộ. Kết quả và ưu điểm trong công tác cán bộ của Bộ Tư pháp trong những năm qua đã góp phần thu hút nhiều người có trình độ cao, sinh viên đạt loại giỏi, người có năng lực, trình độ ngoài ngành và các địa phương vào làm việc tại các đơn vị thuộc Bộ.

Công tác tuyển dụng, tiếp nhận cán bộ trong thời gian qua đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, từng bước đáp ứng được yêu cầu kiện toàn tổ chức bộ máy. Đây là những điều kiện quyết định để triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Đối với các đơn vị thuộc Bộ (trừ các cơ sở đào tạo), việc tuyển dụng và tiếp nhận từ năm 2007 đến nay đã thu được nhiều kết quả tốt: Năm 2007, tuyển dụng được 35 sinh viên tốt nghiệp loại khá và 02 sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, tiếp nhận và tuyển dụng 14 công chức từ các cơ quan, đơn vị khác về; năm 2008, tuyển dụng mới 03 sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, tiếp nhận và tuyển dụng 18 công chức từ các cơ quan, đơn vị khác chuyển về; năm 2009, tuyển dụng mới được 01 sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, 01 thạc sỹ tốt nghiệp ở nước ngoài, tiếp nhận và tuyển dụng 16 công chức từ các cơ quan, đơn vị khác chuyển về công tác tại Bộ Tư pháp; năm 2010 tuyển dụng được 65 công chức, trong đó có 41 công chức ngạch chuyên viên pháp lý. Các cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ, cơ quan thi hành án dân sự địa phương cũng đã tuyển dụng, tiếp nhận được nhiều cán bộ, công chức, viên chức có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

Đối với những cơ quan, đơn vị còn thiếu hụt về số lượng và chưa đáp ứng về chất lượng cán bộ hoặc để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng, Bộ Tư pháp đã thực hiện ưu tiên trong tuyển dụng, thuyên chuyển như nâng lương trước thời hạn, xem xét bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo, quản lý trước khi thuyên chuyển, luân chuyển, hỗ trợ kinh phí ban đầu[9],...

c) Đối với các cơ quan tư pháp địa phương

Việc thực hiện các chính sách thu hút, tuyển chọn cán bộ của các cơ quan tư pháp địa phương cơ bản được thực hiện thống nhất theo quy định của Trung ương và của tỉnh. Thời gian gần đây, mặc dù còn nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách, nhưng nhiều địa phương đã mạnh dạn, chủ động, vận dụng linh hoạt các quy định hiện hành để ban hành nhiều chính sách “trải thảm đỏ” để thu hút người có trình độ cao về làm việc ở các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp thuộc phạm vi quản lý của mình[10]. Trong đó các địa phương đều thu hút đối tượng là thủ khoa, sinh viên đã tốt nghiệp loại khá, giỏi, cán bộ, công chức, viên chức và những người có học hàm, học vị cao như giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ, bác sỹ chuyên khoa cấp I, cấp II. Các đối tượng thuộc diện thu hút được tuyển dụng (không qua thi tuyển) hoặc tiếp nhận và bố trí công tác, ngoài việc hưởng lương và phụ cấp theo quy định của Nhà nước còn được Uỷ ban nhân dân tỉnh hỗ trợ một lần như ưu đãi cấp, thuê, thuê mua hoặc được mua nhà ở với giá ưu đãi, trợ cấp ban đầu, ưu tiên thu xếp công việc cho cả vợ (chồng) đi kèm,.. Ngoài ra, sau khi được tuyển dụng và nhận hỗ trợ một lần bằng tiền mặt, tại một số địa phương, các đối tượng còn được ưu tiên mua đất làm nhà ở theo giá sàn của Nhà nước quy định; tạo điều kiện cho đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước và nước ngoài[11]. Có địa phương đã thực hiện thí điểm thi tuyển cạnh tranh một số chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các đơn vị sự nghiệp[12].

Nhận xét chung: Trong những năm qua, Nhà nước, các bộ, ngành, địa phương, trong đó có Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp địa phương đã thực hiện tốt các quy định của Nhà nước về thu hút, tuyển chọn cán bộ; đồng thời, có nhiều cố gắng trong việc ban hành và tổ chức thực hiện một số chính sách nhằm thu hút, tuyển chọn, đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, viên chức vào làm việc trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Tư pháp và các địa phương. Các chính sách này tập trung chủ yếu vào giải quyết chế độ thu hút và chế độ ưu đãi đối với cán bộ, công chức, góp phần bổ sung bước đầu về số lượng, tăng cường về chất lượng nguồn nhân lực. Mặc dù còn khiêm tốn, nhưng đã bổ sung tương đối kịp thời nguồn nhân lực có trình độ cho các vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Nhìn chung, những người được thu hút, tuyển chọn đều được bố trí công tác phù hợp với chuyên môn được đào tạo, có điều kiện để phát huy năng lực, sở trường của bản thân.

1.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân:

a) Đối với chính sách chung của nhà nước

Với các chính sách nêu trên, thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương chưa thu hút được nhiều người có năng lực, trình độ vào làm việc trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Rất ít sinh viên tốt nghiệp đạt loại giỏi vào làm việc trong các cơ quan nhà nước; một số người được nhận vào làm việc, sau một thời gian lại ra đi do nhiều nguyên nhân khác nhau. Việc thu hút cán bộ đến công tác tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,...và trong một số ngành nghề có tính chất đặc thù ngày càng khó khăn, không tuyển dụng đủ số lượng đặt ra.

Nguyên nhân là chính sách thu hút, tuyển chọn của Nhà nước đã được áp dụng trong nhiều năm và chậm được đổi mới cho phù hợp, chưa đủ mạnh, mới chỉ dừng lại ở các quy định về ưu tiên trong tuyển dụng, thực hiện chế độ tập sự  và ưu đãi về lương đối với người có trình độ cao mà chưa có tính hệ thống, chiến lược, chưa có các giải pháp đột phá, do đó chưa thực sự hấp dẫn, khả thi trong thu hút, tuyển chọn nhân tài và người có trình độ cao, chưa bảo đảm thống nhất những chính sách cơ bản giữa các vùng, miền và các chính sách mang tính đặc thù, chưa giải quyết vấn đề căn bản đó là chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức. Bên cạnh đó, môi trường làm việc trì trệ, quan liêu, việc tuyển dụng, đánh giá, bổ nhiệm công chức thiếu công khai, minh bạch, chưa thật sự dựa trên tiêu chí năng lực...

b) Đối với Bộ Tư pháp:

Hiện nay, được vào làm việc tại các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp là niềm mơ ước của nhiều sinh viên chuyên ngành luật. Bộ Tư pháp vẫn là địa chỉ hấp dẫn của các sinh viên mới ra trường, số lượng người thi tuyển vẫn cao hơn nhiều lần so với chỉ tiêu tuyển dụng. Tuy nhiên, thực tiễn công tác tuyển dụng những năm qua cho thấy sinh viên tốt nghiệp đạt loại giỏi về làm việc tại Bộ Tư pháp ngày càng ít; số lượng đăng ký dự tuyển có xu hướng giảm, mặc dù yêu cầu về kết quả học tập có hạ xuống nhưng số người đăng ký dự tuyển không tăng, tỉ lệ giữa người dự tuyển trên chỉ tiêu tuyển dụng ngày càng giảm. Năm 2002, Bộ tuyển dụng 30 chỉ tiêu thì có gần 800 người dự tuyển, với tỉ lệ là 1/26. Năm 2005, tuyển dụng 26 chỉ tiêu với yêu cầu tốt nghiệp Đại học chuyên ngành luật loại khá trở lên thì có gần 200 người dự tuyển, tỉ lệ là 1/7,7. Năm 2007, tuyển dụng 37 chỉ tiêu cũng với yêu cầu tốt nghiệp Đại học chuyên ngành luật loại khá trở lên thì chỉ có 180 người dự tuyển, với tỉ lệ là 1/5. Năm 2009, Bộ tuyển dụng 40 chỉ tiêu với yêu cầu học sinh tốt nghiệp Đại học chuyên ngành luật có điểm trung bình là 6.5 trở lên nhưng chỉ có 185 hồ sơ dự tuyển, với tỉ lệ là 1/4,6 (thấp nhất trong các kỳ tuyển dụng gần đây).

Tại nhiều cơ quan thi hành án dân sự địa phương, việc tuyển dụng công chức gặp nhiều khó khăn do hạn chế về nguồn thi tuyển. Sinh viên tốt nghiệp không muốn làm việc trong các cơ quan thi hành án dân sự vì sự phức tạp, khó khăn, nguy hiểm trong công việc trong khi đãi ngộ chưa thật sự phù hợp, tương xứng với tính chất công việc.

Bên cạnh đó, hiện tượng cán bộ, công chức xin chuyển công tác hoặc xin thôi việc tuy chưa trở thành làn sóng nhưng đã tăng liên tục trong những năm gần đây, đặc biệt là cán bộ, công chức đang công tác tại Bộ Tư pháp và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương[13].

Bộ Tư pháp cũng như các Bộ, ngành chưa được ban hành cơ chế thu hút, đãi ngộ nhân tài như các địa phương vì trái với các quy định hiện hành về tuyển dụng, sử dụng, đánh giá cán bộ, công chức; việc thực hiện cơ chế tự chủ về biên chế và tài chính để chủ động trong việc thu hút, bố trí và đãi ngộ nhân tài còn hạn chế, vướng mắc.

c) Đối với các địa phương:

Các chính sách thu hút, tuyển chọn của các địa phương chưa đồng bộ, chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa trọng dụng, đãi ngộ với trợ cấp khó khăn, trợ cấp ban đầu, do đó, chưa phát huy được hiệu quả như mong muốn, chưa phát hiện và thu hút được nhiều người có tài năng, có trình độ cao vào làm việc. Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại loại giỏi, người có trình độ học vấn cao đăng ký thi tuyển vào cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập chưa cao; sinh viên hệ chính quy về công tác tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa còn ít, người có trình độ đại học không muốn về nhận công tác tại cấp xã.

Các địa phương khó khăn về điều kiện phát triển kinh tế - xã hội thiếu nguồn lực để thực hiện chính sách thu hút, bố trí, đãi ngộ nhân tài vào làm việc trong cơ quan nhà nước.

Việc thực hiện các quy định về quản lý, sử dụng cán bộ còn nhiều tồn tại, hạn chế, bất cập.

2. Về chế độ, chính sách đối với cán bộ

2.1. Ưu điểm và kết quả đạt được

a) Về tiền lương

Chính sách tiền lương được thực hiện từ năm 2003 đến nay đã từng bước thể chế những quan điểm của Đảng về chính sách tiền lương và phụ cấp đối với lực lượng vũ trang, các ngành toà án, kiểm sát, tư pháp, giáo dục,..Qua đó, đã cải thiện đáng kể đời sống của người hưởng lương, nhất là người hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

- Tiền lương tối thiểu chung đã liên tục được điều chỉnh (điều chỉnh mức lương tối thiểu chung từ 210.000 đồng/tháng năm 2003 lên đến 730.000 đồng/tháng năm 2010, tăng 248%), đã tiếp cận gần hơn với mặt bằng tiền công trên thị trường lao động.

- Quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình (đại học hết tập sự) - tối đa (chuyên gia cao cấp bậc ba, tương đương mức lương của Bộ trưởng) được mở rộng, dãn cách từ 1 - 1,78 - 8,5 lên 1- 2,23 - 10, trong đó các mức lương thấp (nhân viên, cán sự) có mức tăng cao hơn để đảm bảo cuộc sống của số đông cán bộ, công chức, viên chức. So với trước khi cải cách tiền lương (tháng 12/2002) thì mức độ điều chỉnh tăng tiền lương (gồm tăng mức lương tối thiểu chung và mở rộng quan hệ tiền lương) là:

+ Mức lương tối thiểu chung (hệ số 1,0): điều chỉnh từ 210.000 đồng/tháng lên 730.000 đồng/tháng, tăng 3,48 lần (tăng 248%);

+ Mức lương trung bình (đại học hết tập sự) điều chỉnh từ 373.800 đồng/ tháng (hệ số 1,86 x 210.000) lên 1.708.200 đồng/tháng (hệ số 2,34 x 730.000), bằng 4,57 lần (tăng 357%);

+ Mức lương chuyên môn tối đa (chuyên gia cao cấp bậc 3): điều chỉnh từ 1.785.000 đồng/tháng (hệ số 8,5 x 210.000) lên 7.300.000 đồng/tháng (hệ số 10,0 x 730.000), bằng 4,1 lần (tăng 310%).

Như vậy, mức tăng lương đối với cán bộ, công chức, viên chức đã tăng so với trước khi cải cách là từ 248% đến 310%.

- Hệ thống thang lương, bảng lương và các chế độ phụ cấp đã thu gọn được từ hàng chục bảng lương xuống còn 8 bảng lương.

Các chế độ phụ cấp cơ bản được xây dựng đầy đủ bao gồm: phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp ưu đãi, phụ cấp đặc biệt, phụ cấp khu vực, phụ cáp trách nhiệm theo nghề,...

Đối với cán bộ ngành Tư pháp: Cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp được hưởng chính sách tiền lương theo quy định chung của nhà nước; đồng thời, công chức, viên chức ở một số ngạch còn được hưởng chế độ phụ cấp theo quy định, cụ thể như sau:

- Phụ cấp ưu đãi theo nghề: Mức phụ cấp ưu đãi theo nghề 25% (mức lương hiện hưởng) đối với giảng viên của Trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp; 30% áp dụng đối với giảng viên của Trường Trung cấp Luật Buôn Mê Thuột, Trường Trung cấp Luật Vị Thanh[14]; mức phụ cấp từ 15 đến 50% áp dụng cho giám định viên pháp y, người giúp việc giám định viên pháp y; giám định viên pháp y tâm thần và người giúp việc giám định viên pháp y tâm thần.

- Phụ cấp trách nhiệm theo nghề áp dung đối với công chứng viên; chấp hành viên[15], thẩm tra viên thi hành án dân sự[16]; trợ giúp viên pháp lý:

+ Mức 15% (mức lương hiện hưởng) áp dụng đối với Công chứng viên;

  + Mức 25% áp dụng đối với chấp hành viên cấp tỉnh;

+ Mức 30% áp dụng đối với chấp hành viên cấp huyện;

+Mức 15% áp dung đối với thẩm tra viên cao cấp;

+ Mức 20% áp dụng đối với thẩm tra viên chính;

+ Mức 25% áp dụng với thẩm tra viên;

+ Mức 25 % áp dụng đối với trợ giúp viên pháp lý.

b) Về cơ chế quản lý tiền lương

          Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05 tháng 9 năm 2005 quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập; Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước; Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 11/12/2004 về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang (các nội dung về phân cấp cho các bộ, ngành, địa phương trong việc quyết định nâng bậc lương, xây dựng chế độ, chính sách đối với công chức, viên chức chuyên ngành); các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp đã ban hành quy chế chi tiêu nội bộ, qua đó đã kinh phí để chi thu nhập tăng thêm, góp phần nâng cao mức sống cho cán bộ, công chức, viên chức.

c) Về cơ chế tài chính và các chế độ, định mức đặc thù liên quan đến các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ngành Tư pháp

Thực hiện Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị, theo chỉ đạo của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, hiện nay, định mức chi thường xuyên của Bộ Tư pháp và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương đã được Chính phủ bố trí tăng thêm bằng với định mức của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

Ngoài ra, xuất phát từ các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ mang tính đặc thù của ngành Tư pháp, trong những năm qua, đã có nhiều quy định về các chế độ, định mức đặc thù cho hoạt động của Ngành như: kinh phí hỗ trợ xây dựng[17], thi hành, kiểm tra[18], rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến giáo dục pháp luật[19]; các khoản kinh phí bồi dưỡng cho người trực tiếp thực hiện công việc như: trợ giúp viên pháp lý được hưởng phụ cấp vụ việc bằng 10% mức bồi dưỡng áp dụng đối với cộng tác viên[20]; người chủ trì cưỡng chế thi hành án được bồi dưỡng 50.000 đồng/người/ngày, cán bộ trực tiếp tham gia cưỡng chế thi hành án được hưởng bồi dưỡng 40.000đồng/người/ngày tham gia cưỡng chế[21]; giám định viên tư pháp được bồi dưỡng theo ngày giám định với mức từ 60.000 đồng đến 250.000 đồng, được bồi dưỡng theo vụ việc với mức từ 80.000 đến 3.000.000 đồng/[22]....Các khoản chi này cũng đã góp phần tăng thêm thu nhập, bù đắp những hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ đặc thù đòi hỏi trình độ, năng lực, tính chuyên sâu, chuyên môn hoá cao, có tính chất hoàn toàn khác với các hoạt động của chuyên môn theo yêu cầu.

d) Về chính sách nhà ở

Hiện nay, đại đa số cán bộ, công chức đều có nhà ở hoặc chỗ để ở. Trong đó, một bộ phận nhỏ có nhà ở rộng rãi, tiện nghi hoặc thừa nhà ở dùng cho thuê. Những người này thường là đối tượng được Nhà nước ưu đãi về nhà ở, có khả năng và có thu nhập thêm ngoài lương hoặc được thừa kế, tặng cho,... Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ, công chức có nhà ở do được thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; được phân nhà, phân đất làm nhà ở theo các chính sách trước đây của Nhà nước. Tuy vậy, quỹ nhà ở thuộc dạng này đã được cho cán bộ, công chức thuê hoặc bán cho người thuê đã lâu (chủ yếu là cán bộ, công chức vào biên chế từ trước năm 1992), có thiết kế bất hợp lý, kiến trúc lạc hậu và hầu hết đã xuống cấp, hư hỏng.

Năm 1992, Nhà nước đã bãi bỏ chế độ phân phối nhà ở và thay vào đó là quy định về giá cho thuê nhà ở và đưa tiền nhà ở vào tiền lương (tiền nhà trong cơ cấu tiền lương chỉ vào khoảng 7,5%).

2.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

a) Về tiền lương

Chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức chậm được đổi mới.

Chính sách tiền lương của Nhà nước đối với cán bộ, công chức hiện nay còn nhiều tồn tại, bất cập như mức lương cơ bản còn thấp; quan hệ lương tối thiểu - trung bình - tối đa còn bình quân; hệ thống thang lương, bảng lương, ngạch, bậc lương còn phức tạp, chưa thật công bằng và chưa cải thiện căn bản đời sống của người hưởng lương, chế độ phụ cấp đối với cán bộ, công chức, viên chức (đặc biệt là phụ cấp chức vụ và phụ cấp trách nhiệm) còn bất hợp lý so với tương quan giữa các ngành, nghề, do đó chưa tạo điều kiện khuyến khích, sử dụng, thu hút người làm việc có chất lượng trong khu vực nhà nước.

Đối với cán bộ, công chức ngành tư pháp, bên cạnh những tồn tại hạn chế nói chung của chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức nhà nước, hiện nay, chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với các chức danh tư pháp cũng tồn tại nhiều bất cập như: chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với giám định viên pháp y, giám định viên pháp y tâm thần; phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với chấp hành viên, thẩm tra viên, công chứng viên, trợ giúp viên pháp lý còn thấp, chưa phù hợp với tính chất nặng nhọc, khó khăn, phức tạp của công việc; chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp chưa được ban hành đầy đủ và kịp thời, chưa có quy định về tính phí giám định để làm cơ sở cho việc tính, chi trả các chi phí cần thiết cho việc thực hiện giám định, chưa có mục chi ngân sách riêng bảo đảm cho việc trưng cầu, thực hiện giám định trong hoạt động tố tụng hình sự; chế độ đãi ngộ đối với cán bộ trực tiếp tham gia cưỡng chế thi hành án còn thấp, chưa tương xứng với tính chất phức tạp và nặng nhọc của công việc,...

Những hạn chế, bất cập trên dẫn tới thực tế là tiền lương của cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức ngành Tư pháp nói riêng chưa đảm bảo tái sản xuất sức lao động, chưa thực sự trở thành thước đo giá trị lao động, chưa phản ánh được đầy đủ đặc thù nghề nghiệp và tương xứng với sự đóng góp, cống hiến cũng như yêu cầu về trách nhiệm, về nhiệm vụ ngày càng mở rộng và tăng cường đối với công chức, viên chức là các chức danh tư pháp; chưa thể chế đầy đủ quan điểm trong Kết luận số 21-KL/TW ngày 07/8/2003 của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Coi việc trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để kinh tế phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ công, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Bộ máy nhà nước. Kết quả khảo sát đối với cán bộ, công chức cơ quan Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Cục thi hành án dân sự cho thấy: 92% cán bộ, công chức cơ quan Bộ Tư pháp, 38% cán bộ lãnh đạo Sở Tư pháp và Cục Thi hành án dân sự, 32% công chức Sở Tư pháp, 33% công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh cho biết thu nhập từ lương chỉ đáp ứng dưới 50% nhu cầu sinh hoạt.

Những tồn tại, hạn chế nêu trên là do các chính sách trên chưa đủ mạnh, chưa giải quyết được vấn đề cốt lõi nhất, đó là chính sách tiền lương còn thấp so với mặt bằng thu nhập của xã hội, việc trả lương chưa gắn với kết quả công việc; việc cải cách, sửa đổi chưa kịp thời, thêm vào đó là môi trường làm việc, đánh giá cán bộ chưa thật sự phù hợp, chưa khuyến khích, tạo động lực cho cán bộ có trình độ cao phát huy năng lực, sở trường và gắn bó lâu dài với cơ quan, địa phương; chưa tính được sự tác động của thị trường lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dẫn đến chuyển dịch lao động có chất lượng cao từ khu vực nhà nước sang khu vực khác có tiền lương cao hơn. Do đó, việc giữ chân cán bộ, công chức có năng lực trình độ, nhất là số cán bộ được đào tạo cơ bản và đào tạo ở nước ngoài, cán bộ có kinh nghiệm công tác tiếp tục gắn bó lâu dài với Bộ cũng gặp nhiều khó khăn, số cán bộ xin chuyển công tác hay thôi việc có chiều hướng gia tăng.

b) Về cơ chế quản lý tiền lương

Chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập và kiểm soát thu nhập ngoài lương của cán bộ, công chức, viên chức chưa được triển khai hiệu quả, còn chậm, kết quả thấp, nhiều quy định chưa phù hợp nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung, nhất là các quy định về khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước.

c) Về chế độ, định mức đặc thù liên quan đến các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ngành Tư pháp

Các định chế độ, định mức đặc thù cho hoạt động của Ngành đã được xây dựng và ban hành trong thời gian dài, đến nay đã lạc hậu nhưng chưa được điều chỉnh, bổ sung kịp thời như: kinh phí xây dựng, thi hành, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, pháp điển hóa văn bản quy phạm pháp luật; kinh phí đặc thù trong thi hành án dân sự, trợ giúp pháp lý, giám định viên tư pháp...

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên là do chưa có nhận thức đúng về các công việc mang tính đặc thù của ngành Tư pháp. Trên thực tế, các chế độ, định mức cho các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ đặc thù của ngành Tư pháp hiện nay như xây dựng, theo dõi và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được xác định là các khoản kinh phí để triển khai thực hiện nhiệm vụ mà chỉ là kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động trên, các chế độ bồi dưỡng chưa được mở rộng cho các chức danh tư pháp và còn ở mức thấp.

d) Về nhà ở

Hiện nay, phần lớn cán bộ, công chức, viên chức có khó khăn về chỗ ở. Một bộ phận đang ở nhà bố mẹ, người thân. Một số lượng lớn (chủ yếu là cán bộ trẻ) thuê nhà của tư nhân để ở. Chỗ ở của các đối tượng này thường không ổn định lâu dài. Những người thuê nhà của tư nhân thì ở trong điều kiện chật hẹp, không đảm bảo vệ sinh và kém an toàn; bên cạnh đó, hàng tháng công chức phải trích một khoản tiền khá lớn (từ 30-50%) từ tiền lương để trả tiền thuê nhà ở.

Nhà nước đã bãi bỏ chế độ phân phối nhà ở, thay vào đó là quy định về giá cho thuê nhà ở và đưa tiền nhà ở vào tiền lương. Tuy nhiên, tỉ lệ tiền nhà ở trong cơ cấu tiền lương còn quá thấp (khoảng 7,5%) so với giá nhà ở trên thị trường; bên cạnh đó chưa bảo đảm sự công bằng vì tất cả mọi người hưởng lương đều được hưởng tiền nhà ở trong lương, không phân biệt giữa những người đã được phân nhà ở, đất ở và những người chưa được phân nhà ở, đất ở.

Ngoài ra, tuy Luật Nhà ở (năm 2005) đã quy định chế độ thuê, thuê mua nhà ở, về quỹ nhà ở cho người có thu nhập thấp (trong đó phần đông là cán bộ, công chức). Tuy nhiên, chưa có các giải pháp đồng bộ, có tính đột phá để giải quyết nhu cầu nhà ở cho cán bộ, công chức; việc kiểm tra, kiểm soát, đôn đốc thực hiện chính sách nhà ở còn nhiều bất cập và yếu kém.

Xuất phát từ những yêu cầu trên, việc xây dựng Đề án đổi mới cơ chế thu hút, tuyển chọn và đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ ngành Tư pháp là hết sức cần thiết nhằm xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, chế độ để phát triển đội ngũ cán bộ ngành Tư pháp đáp ứng những yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay, chuẩn bị các điều kiện để đón nhận những chức năng, nhiệm vụ mới được giao trong tiến trình cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

 

PHẦN THỨ HAI

QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ CÁC GIẢI PHÁP

 

          I. Quan điểm, mục tiêu

          1. Quan điểm chỉ đạo

          1.1. Đổi mới cơ chế thu hút, tuyển chọn và đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ thuộc ngành Tư pháp phải phù hợp với chủ chương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phù hợp với lộ trình cải cách hành chính, cải cách pháp luật, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

          1.2. Đổi mới cơ chế thu hút, tuyển chọn và đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ thuộc ngành Tư pháp phải phù hợp với tình hình thực tiễn, phù hợp với các đặc điểm, đặc thù của ngành Tư pháp, trong đó đề cập đồng thời các giải pháp thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước cấp trên, của Bộ Nội vụ cũng như các giải pháp trong phạm vi thẩm quyền của Bộ Tư pháp và chính quyền địa phương; đối với những chính sách chung thuộc thẩm quyền của các cơ quan nhà nước cấp trên hoặc của cơ quan khác thì kiến nghị các giải pháp thực hiện chung trong cả nước, trong đó có những chính sách đặc thù đối với cán bộ của ngành Tư pháp.

          1.3. Việc xây dựng cơ chế thu hút, tuyển chọn và đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ thuộc ngành Tư pháp phải bảo đảm tính kế thừa, đồng bộ, thống nhất, khả thi, có bước đi phù hợp; đồng thời, chú trọngmạnh dạn thực hiện các giải pháp mới, có tính đột phá để đáp ứng yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ được tăng cường, mở rộng của ngành Tư pháp trong tiến trình cải cách hành chính, cải cách pháp luật, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.

          2. Mục tiêu

          2.1. Mục tiêu chung

          Đổi mới cơ bản cơ chế, chính sách tuyển chọn, quản lý, sử dụng cán bộ nhằm thu hút người có trình độ, năng lực phù hợp với yêu cầu công việc, vị trí công tác, tâm huyết với nghề nghiệp và các chuyên gia giỏi vào công tác tại các cơ quan thuộc ngành Tư pháp, phấn đấu đến năm 2020 xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức ngành tư pháp đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, có phẩm chất và trình độ, chính quy, chuyên nghiệp, đáp ứng được nhiệm vụ chính trị của ngành Tư pháp trước yêu cầu đặt ra khi nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại.

Cùng với đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ làm việc tại các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị theo quan điểm của Đảng: “coi việc trả lương đúng cho người lao động là đầu tư cho phát triển”; “cải cách tiền lương tiến tới bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội”, cần nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện các chế độ, chính sách đặc thù đối với đội ngũ cán bộ ngành Tư pháp.

2.2. Mục tiêu cụ thể

- Tiêu chuẩn hoá, xây dựng cơ cấu đội ngũ cán bộ phù hợp với nhiệm vụ và vị trí việc làm được giao đảm nhiệm;

- Đổi mới cơ chế, quy trình tuyển dụng, tiếp nhận, chế độ, chính sách ưu đãi về xếp lương và các chế độ, chính sách ưu đãi, hỗ trợ khác để thu hút, tuyển chọn cán bộ, người có đủ trình độ, năng lực và những người có trình độ cao vào làm việc tại các cơ quan, đơn vị trong ngành Tư pháp;

- Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, sử dụng cán bộ. Thí điểm thực hiện chế độ thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với cấp phòng tiến tới áp dụng thi tuyển cán bộ lãnh đạo từ cấp vụ và tương đương trở xuống trong đơn vị thuộc Bộ Tư pháp và cơ quan thi hành án dân sự địa phương; phối hợp với Bộ Nội vụ chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện việc thi tuyển đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp;

- Đổi mới chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức trong đó chú trọng đến các quy định đặc thù về tiền lương của cán bộ ngành Tư pháp, bao gồm: Phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp thâm niên đối với các chức danh Tư pháp; đổi mới cơ chế tài chính và các khoản chi mang tính đặc thù cho hoạt động của ngành Tư pháp nhằm thu hút trí tuệ, chất xám của các nhà quản lý, nhà khoa học trong và ngoài ngành Tư pháp;

- Xây dựng các chính sách đãi ngộ về nhà ở, chăm sóc sức khoẻ và các chính sách đãi ngộ khác đối với cán bộ ngành Tư pháp,...

          II. Nhiệm vụ, giải pháp

1. Xây dựng, hoàn thiện cơ cấu ngạch và tiêu chuẩn chức danh công chức, viên chức ngành Tư pháp

Nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi, bổ sung các ngạch và tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức ngành Tư pháp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của ngành Tư pháp, của mỗi cơ quan Tư pháp từ trung ương tới địa phương trong giai đoạn hiện nay, làm cơ sở để tuyển dụng, bố trí, sắp xếp, sử dụng và thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức.

1.1. Sửa đổi tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức hành chính ngành Tư pháp

Tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức hành chính ngành Tư pháp được ban hành từ năm 1993 khi nước ta đang ở giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đến nay, sau gần 20 năm áp dụng, các quy định này có nhiều điểm không phù hợp với thực tiễn, do đó, cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

1.2. Đối với các ngạnh công chức thi hành án dân sự

Xây dựng mã ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức thi hành án dân sự gồm[23]: Chấp hành viên cao cấp, chấp hành viên trung cấp, chấp hành viên sơ cấp, thư ký thi hành án, thư ký trung cấp thi hành án; nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung tiêu chuẩn nghiệp vụ ngạch thẩm tra viên cao cấp, thẩm tra viên chính và thẩm tra viên thi hành án dân sự.

1.3. Đối với công chứng viên

Xây dựng, sửa đổi tiêu chuẩn của công chứng viên theo hướng nâng cao tiêu chuẩn cho phù hợp với tính chất công việc đòi hỏi chuyên môn, nghiệp vụ cao, liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến các giao dịch dân sự ngày càng phức tạp của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời, nâng cao các hệ số lương của ngạch công chứng viên bằng với các ngạch công chức tư pháp cấp tỉnh như chấp hành viên trung cấp, thẩm phán cấp tỉnh. Việc xây dựng chế độ lương của Công chứng viên theo 1 ngạch là phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với yêu cầu xác định công chứng viên là một nghề để đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động này trong thời gian tới.

 

 

 

1.4. Đối với trợ giúp viên pháp lý

Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới tiêu chuẩn ngạch đối với trợ giúp viên pháp lý và trợ giúp viên pháp lý chính[24].

1.5. Xây dựng chức danh đấu giá viên và đăng ký viên là những viên chức trực tiếp thực hiện bán đấu giá tài sản và đăng ký giao dịch bảo đảm. Đây là hai chức danh viên chức có công việc rất đặc thù, đòi hỏi chuyên môn, nghiệp vụ và trách nhiệm nghề nghiệp rất cao; đồng thời, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đòi hỏi các viên chức này phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với kết quả công việc của mình.

1.6. Đối với công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã

Nghiên cứu xây dựng hai chức danh công chức làm công tác tư pháp tại cấp xã, bao gồm Hộ tịch viên và công chức Tư pháp cấp xã. Trong đó, Hộ tịch viên sẽ thực hiện nhiệm vụ về đăng ký và quản lý hộ tịch. Điều kiện, tiêu chuẩn, chế độ, chính sách đối với Hộ tịch viên sẽ được quy định cho phù hợp với yêu cầu của một chức danh tư pháp. Chức danh công chức Tư pháp sẽ đảm nhiệm những nhóm nhiệm vụ còn lại của Tư pháp cấp xã. Giải pháp này sẽ góp phần ổn định về mặt số lượng cũng như nâng cao về mặt chuyên môn nghiệp vụ do được chuyên môn hóa của đội ngũ làm công tác hộ tịch, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của công tác Tư pháp hiện nay.

2. Xây dựng, hoàn thiện cơ cấu công chức, viên chức trong các cơ quan, đơn vị ngành Tư pháp

Công chức trong ngành Tư pháp đảm nhận nhiều loại công việc khác nhau, do đó yêu cầu về trình độ, tiêu chuẩn cũng khác nhau, vì vậy cần xây dựng cơ cấu công chức trong từng đơn vị, lấy đó làm cơ sở trong tuyển dụng và đào tạo, bồi dưỡng công chức, khắc phục tình trạng đại học hoá các vị trí công tác trong các cơ quan, đơn vị trong Ngành.

Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quy trình giải quyết công việc của các cơ quan, đơn vị trong ngành Tư pháp trong từng thời kỳ để xây dựng, hoàn thiện cơ cấu cán bộ cho phù hợp; trong đó cần nghiên cứu, xây dựng các cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức, bao gồm:

2.1. Cơ cấu các chức danh lãnh đạo, quản lý và cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, cơ cấu ngạch công chức, viên chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mô hình, cơ cấu tổ chức của mỗi đơn vị cũng như vị trí, vai trò, tính chất công vụ, nhiệm vụ được giao.

Tại Bộ Tư pháp đảm bảo 20% công chức là chuyên viên cao cấp và tương đương; 30% chuyên viên chính và tương đương, 40 % chuyên viên và tương đương, 10% cán sự và nhân viên phục vụ..

Tại các Sở Tư pháp, có từ 1 đến 3 chuyên viên cao cấp, 30% là chuyên viên chính và tương đương, 50 % là chuyên viên và tương đương, còn lại là cán sự và công chức khác.

Tại các Phòng Tư pháp, có từ 1 đến 2 chuyên viên chính còn lại là chuyên viên và cán sự.

Tại các cơ quan thi hành án dân sự địa phương: Xác định rõ cơ cấu công chức của cơ quan thi hành án theo hướng không nhất thiết tất cả các chức danh công chức đều nhất thiết phải có trình độ cử nhân mà theo yêu cầu cụ thể của từng loại công viêc. Cụ thể, đối với cấp huyện ngoài các chức danh cần có trình độ cử nhân luật như Chấp hành viên thì số còn lại cần bố trí một lượng thích hợp những người có trình độ Trung cấp để giúp việc theo hướng đào tạo chuyên sâu, có tính ổn định lâu dài. Các ngạch công chức khác như kế toán thi hành án cũng xác định rõ theo hướng cấp huyện không nhất thiết phải có trình độ cử nhân mà có thể chỉ cần trung cấp.

2.2. Cơ cấu theo độ tuổi đảm bảo sự kế thừa giữa các thế hệ cán bộ. Mỗi một cơ quan, đảm bảo được cơ cấu 3 độ tuổi cán bộ.

2.3. Cơ cấu theo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ đào tạo đảm bảo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, tiêu chuẩn các ngạch công chức, viên chức và tiêu chuẩn nghề nghiệp.

2.4. Cơ cấu theo giới tính, dân tộc, vùng miền, đảm bảo sự hài hoà về giới tính, dân tộc và vùng miền.

3. Đổi mới hình thức tuyển chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ:

          Xây dựng quy chế tuyển chọn cán bộ trên cơ sở cụ thể hoá và vận dụng các quy định của Chính phủ phù hợp với đặc thù, điều kiện thực tế của ngành Tư pháp; đảm bảo cho việc tuyển dụng cán bộ đạt được sự công khai, minh bạch; thực hiện được dân chủ trong công tác cán bộ; mở rộng và chủ động tìm kiếm, phát hiện, lựa chọn nhân tài để khuyến khích, thu hút vào làm việc trong ngành Tư pháp.

- Đổi mới công tác thi tuyển cán bộ vào làm việc trong ngành Tư pháp theo hướng căn cứ vào đặc điểm, tính chất công việc, vị trí công tác, kết hợp giữa hình thức thi viết với phỏng vấn và xử lý tình huống của từng vị trí công việc cần tuyển. Đối với sinh viên tốt nghiệp đại học, thạc sỹ đạt loại giỏi, những người có trình độ tiến sỹ, những người hoạt động trong các lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý như luật sư, công chứng viên mà chuyên ngành được đào tạo phù hợp với vị trí công việc cần tuyển thì sẽ có hình thức tuyển dụng đặc thù (có thể chỉ qua phỏng vấn) vào vị trí cần tuyển dụng (có thể tuyển dụng chuyên viên cao cấp và tương đương, chuyên viên chính và tương đương mà không chỉ vào ngạch tương đương ngạch chuyên viên như hiện nay) để tạo điều kiện thu hút những đối tượng này vào công tác trong ngành Tư pháp. Bộ Tư pháp, các cơ quan tư pháp địa phương, Sở Tư pháp liên hệ thường xuyên, chặt chẽ với các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật để phát hiện, có biện pháp khuyến khích, hỗ trợ quá trình học tập của sinh viên nhằm thu hút, bồi dưỡng tài năng trẻ là sinh viên xuất sắc, sinh viên tốt nghiệp đạt loại giỏi, loại khá về công tác tại cơ quan, đơn vị mình sau khi tốt nghiệp.

Áp dụng hình thức xét tuyển hoặc phỏng vấn đối với sinh viên tốt nghiệp đạt loại giỏi, người có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ trở lên vào làm việc tại Bộ Tư pháp; loại khá trở lên vào làm việc tại Sở Tư pháp; sinh viên hệ chính quy vào Phòng Tư pháp; người có trình độ đại học luật làm công tác tư pháp ở cấp xã.

Về cơ bản, có thể tuyển dụng người theo học tại chức luật vào các cơ quan thi hành án dân sự địa phương, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đối với các địa phương khác, về nguyên tắc, Bộ Tư pháp và các địa phương không tuyển dụng đối với người được đào tạo chương trình tại chức.

- Để có cán bộ có phẩm chất và năng lực giữ các chức danh lãnh đạo trong các cơ quan đơn vị của ngành, bên cạnh làm tốt việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển,.. cần xây dựng cơ chế tuyển chọn, tạo sự liên thông giữa các cơ quan trong ngành Tư pháp và xã hội. Theo đó, thực hiện phương thức tuyển chọn cán bộ có tài, đủ phẩm chất, trình độ từ các cơ quan, tổ chức bên ngoài nhà nước như luật sư, công chứng viên, luật gia, giám định viên tư pháp, thừa phát lại vào làm việc trong các cơ quan thuộc ngành Tư pháp; đồng thời có thể gửi cán bộ của ngành Tư pháp đến làm việc tại các tổ chức hành nghề luật, công chứng, giám định,...để tích lũy kinh nghiệm thực tế.

- Phân công, bố trí cán bộ phù hợp với ngành nghề, chuyên ngành đào tạo, phù hợp với sở trường năng lực của cán bộ, trong đó ưu tiên nguyện vọng cá nhân. Trong phân công công việc cần xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm, gắn nhiệm vụ, quyền hạn với trách nhiệm. Xác định rõ quy trình giải quyết công việc và chế độ trách nhiệm của cán bộ. Thường xuyên đánh giá cán bộ khách quan, trung thực và chính xác; áp dụng chế độ khen thưởng, tôn vinh, động viên kịp thời đối với những người có thành tích xuất xắc, tậm tâm, tận lực với công việc; tạo lập môi trường đoàn kết, có đấu tranh xây dựng cơ quan trong sạch, vững mạnh; xử lý thích đáng những hành vi vi phạm, những người chây ì, thiếu trách nhiệm. Nghiên cứu tạo ra nhiều cơ hội học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, cơ hội và định hướng phát triển chức nghiệp cho đội ngũ cán bộ trong ngành Tư pháp. Tăng cường và hiện đại hoá phương tiện, trang thiết bị và điều kiện làm việc, đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Tập trung nguồn lực để xây dựng công sở hiện đại theo tiêu chuẩn quy định.

4. Đổi mới một số mặt của công tác cán bộ

4.1. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ ngành Tư pháp

Căn cứ mục tiêu chung, các mục tiêu cụ thể về xây dựng và phát triển ngành Tư pháp, xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển cán bộ trong từng giai đoạn tương ứng. Trong giai đoạn hiện nay, cần xây dựng quy hoạch cán bộ hàng năm, quy hoạch đến năm 2015 và quy hoạch đến năm 2020.

- Việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong ngành Tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của Ngành, mở rộng, mỗi vị trí chức danh có ít nhất 3 người thuộc diện nguồn quy hoạch, để có tầm nhìn xa hơn, phá vỡ sự chia cắt, khép kín trong công tác cán bộ, trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đảm bảo sự kế thừa giữa các thế hệ cán bộ; gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và sử dụng, tạo điều kiện cho cán bộ trong diện quy hoạch rèn luyện, tu dưỡng, thử thách; thường xuyên rà soát, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra theo từng giai đoạn và hàng năm.

- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tổ chức, trong các lĩnh vực thuộc ngành Tư pháp trong từng thời kỳ; trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển chung về số lượng, cơ cấu, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với đội ngũ cán bộ trong toàn Ngành.

4.2. Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành Tư pháp

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một chính sách quan trọng để thu hút cán bộ, hình thành đội ngũ công chức ngày càng chính quy, chuyên nghiệp, thời gian tới cần đẩy mạnh, đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong Ngành theo các nội dung sau:

- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải có trọng tâm, trọng điểm, theo quy hoạch và tiêu chuẩn chức danh cán bộ, gắn đào tạo, bồi dưỡng với bố trí, sử dụng cán bộ, coi đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao hiệu quả trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đang công tác trong ngành Tư pháp.

- Xác định rõ mục tiêu đào tạo là trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức có tầm nhìn, có năng lực làm việc thực tế đáp ứng yêu cầu của vị trí công tác, bảo đảm tính chuyên nghiệp.

- Tiếp tục hoàn thiện chương trình đào tạo các chức danh tư pháp, chương trình đào tạo hội nhập kinh tế quốc tế, chương trình bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp địa phương, đẩy mạnh chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành theo yêu cầu của thực tiễn như chương trình đào tạo, bồi dưỡng về lý lịch tư pháp, bán đấu giá tài sản, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức lãnh đạo, quản lý cho cán bộ trong ngành. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng phải phù hợp với mục tiêu, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng theo hướng nâng cao kỹ năng thực hành cho đội ngũ cán bộ, kết hợp lý luận và thực tiễn, kiến thức, kỹ năng và thái độ.

- Cải tiến phương pháp đào tạo, bồi dưỡng theo hướng áp dụng những phương pháp giảng dạy tiên tiến, hiện đại, phát huy tính tích cực của người học trong việc tiếp nhận kiến thức.

- Thường xuyên xem xét đánh giá về khoá học, chương trình học, giảng viên, cơ sở đào tạo, công tác quản lý đào tạo để đánh giá kết quả và hiệu quả đào tạo.

- Chú trọng bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ đang công tác trong ngành Tư pháp, đặc biệt là cán bộ không phải chuyên ngành luật; ngoài ra cần bồi dưỡng kiến thức về một số chuyên ngành khác cho đội ngũ cán bộ chuyên môn đã được đào tạo về luật hiện đang làm công tác xây dựng, kiểm tra và theo dõi thi hành pháp luật của Bộ, ngành Tư pháp.

- Xây dựng, phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, kết hợp đào tạo, bồi dưỡng trong nước với đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài và đào tạo, bồi dưỡng được tổ chức trong nước nhưng có sử dụng tài liệu, giảng viên nước ngoài.

- Ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ trẻ có trình độ, năng lực, có triển vọng phát triển thành các chuyên gia trong các lĩnh vực của Ngành.

- Có cơ chế khuyến khích cán bộ trong ngành tự học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt.

4.3. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác luân chuyển cán bộ ở các cơ quan, đơn vị trong ngành tư pháp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương đào tạo, bồi dưỡng toàn diện và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ; tạo điều kiện cho cán bộ trẻ, có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn; tạo nguồn cán bộ lâu dài; tăng cường cán bộ cho các lĩnh vực và địa bàn cần thiết; khắc phục tình trạng cục bộ trong công tác cán bộ, khép kín trong từng đơn vị của ngành Tư pháp.

Việc luân chuyển cán bộ tại các cơ quan trong ngành Tư pháp cần dựa trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ.

4.4. Đổi mới công tác bổ nhiệm cán bộ

Thực hiện thí điểm thi tuyển vào các vị trí lãnh đạo cấp phòng, cấp vụ theo nguyên tắc cạnh tranh: lựa chọn người có đức - tài, bình đẳng, dân chủ, công khai, khách quan, trung thực; tiến tới xây dựng quy chế thi tuyển vị trí lãnh đạo để mở rộng, áp dụng thống nhất trong các cơ quan thuộc ngành Tư pháp.  Trong thời gian tới, cần xây dựng quy chế thi tuyển cán bộ lãnh đạo cấp phòng tại các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp và Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Sau đó, trên cơ sở tổng kết, đúc rút kinh nghiệm để triển khai áp dụng đối với cán bộ lãnh đạo từ cấp Phó Vụ trưởng, Phó Giám đốc Sở, Phó Cục trưởng cục Thi hành án trở xuống.

4.5. Đổi mới công tác đánh giá và khen thưởng đối với cán bộ

Đánh giá cán bộ, công chức phải căn cứ vào hệ thống tiêu chuẩn chức danh cán bộ; chú trọng đánh giá hiệu quả hoạt động thực tiễn của mỗi cán bộ, công chức; phải chú trọng việc phát hiện nhân tài để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, phát triển thành những công chức chuyên môn, công chức lãnh đạo, quản lý giỏi. Đánh giá cán bộ, công chức phải được xem xét trong một quá trình công tác (quá khứ, hiện tại và tương lai), gắn với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, là yếu tố thường xuyên trong quá trình quy hoạch, luân chuyển, đào tạo và bố trí sử dụng cán bộ (quá trình đánh giá và đánh giá lại cán bộ); phải có kế hoạch chặt chẽ, hợp lý trong quản lý cán bộ, phải có các bước đánh giá phù hợp, khoa học; mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch trong đánh giá cán bộ.

Công tác đánh giá cán bộ không chỉ làm một lần mà phải làm thường xuyên, theo định kỳ hằng năm và trước khi đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ để đưa vào hồ sơ cán bộ, giúp cơ quan quản lý cán bộ nắm và hiểu được cán bộ. Đồng thời giúp cho bản thân người cán bộ hiểu đúng mình hơn nhằm phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm (nếu có), góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

Cần thay đổi phương pháp đánh giá cán bộ theo bộ tiêu chí đánh giá hợp lí, khoa học để có những nhận xét chính xác về phẩm chất chính trị, năng lực công tác của cán bộ, công chức. Những tiêu chí đánh giá cần thiết kế theo hướng được lượng hóa rõ ràng cụ thể theo từng vị trí chức danh dựa trên yêu cầu của từng vị trí đó.

Việc khen thưởng đối với cán bộ phải xuất phát từ kết quả đánh giá cán bộ và các tiêu chuẩn của các hình thức khen thưởng; đảm bảo các hình thức khen thưởng phải thực chất, có tác dụng động viên, khuyến khích công chức phấn đấu để khi được khen thưởng thì thấy xứng đáng, tự hào và trách nhiệm trong công tác.

5. Tiếp tục thực hiện cải cách chính sách tiền lương và các đãi ngộ khác đối với cán bộ

Cán bộ, công chức ngành Tư pháp là một bộ phận của đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức của hệ thống chính trị. Do đó, các giải pháp chung về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức như tăng lương tối thiểu chung, mở rộng quan hệ lương tối thiểu - trung bình- tối đa, phụ cấp công vụ...sẽ được thực hiện theo lộ trình cải cách chính sách tiền lương giai đoạn 2008-2012 của Chính phủ. Từ năm 2013 đến năm 2015 và 2020, cần quán triệt đầy đủ thực hiện quan điểm của Đảng về trả lương cho cán bộ là đầu tư cho phát triển, nền công vụ của nước ta được chuyển mạnh từ chế độ công vụ theo chức nghiệp sang chế độ công vụ theo vị trí việc làm. Vì vậy, cần nghiên cứu đổi mới cơ cấu của tiền lương, điều chỉnh mức tối thiểu, các thang lương, bảng lương cho phù hợp với những yêu cầu mới, nhằm bảo đảm nhu cầu tái sản xuất sức lao động của cán bộ để khuyến khích cán bộ, công chức phát triển theo con đường chuyên môn, thành các chuyên gia giỏi, khi không còn giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý thì thôi không hưởng phần phụ cấp chức vụ lãnh đạo. Từng bước thực hiện trả lương theo công việc được giao và kết quả hoàn thành nhiệm vụ. Không khuyến khích trả lương theo bằng cấp. Tiếp tục thực hiện từng bước tiền tệ hoá tiền lương, tính đủ các bộ phận cấu thành tiền lương. Trong đó, “Xây dựng cơ chế tiền lương riêng đối với công chức hành chính”[25].

Đối với cán bộ là các chức danh tư pháp, bao gồm: chấp hành viên, thẩm tra viên, thư ký thi hành án dân sự, công chứng viên, trợ giúp viên pháp lý, đấu giá viên, giám định viên tư pháp; công chức Tư pháp và Hộ tịch viên, cần xây dựng, sửa đổi các quy định về chế độ phụ cấp lương theo hướng sau:

5.1. Về phụ cấp trách nhiệm theo nghề

          a) Đối với công chức thi hành án dân sự: Đề nghị quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức thi hành án dân sự theo các mức như sau:

- Mức 35 % áp dụng đối với chấp hành viên cao cấp;

- Mức 40 % áp dụng đối với chấp hành viên trung cấp;

- Mức 45 % áp dụng đối với chấp hành viên sơ cấp;

- Mức 30 % áp dụng đối với thư ký thi hành án dân sự;

- Mức 25 % áp dụng đối với thư ký trung cấp thi hành án dân sự;

- Mức 30 % áp dụng đối với thẩm tra viên cao cấp;

- Mức 35 % áp dụng đối với thẩm tra viên chính;

- Mức 40 % áp dụng đối với thẩm tra viên;

          b) Đối với trợ giúp viên pháp lý: Xây dựng mức phụ cấp trách nhiện theo nghề đối với tất cả các ngạch trợ giúp viên pháp lý; đồng thời nâng mức phụ cấp trách nhiệm theo nghề quy định tại Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý, như sau:

- Mức 35% áp dụng đối với trợ giúp viên pháp lý;

- Mức 40% áp dụng với trợ giúp viên pháp lý chính;

c) Đối với công chứng viên: Đề nghị nâng mức phụ cấp trách nhiệm theo nghề quy định tại Quyết định 233/2005/QĐ-TTg ngày 26/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với Công chứng viên từ 15 % lên mức 35 %.

5.2. Về phụ cấp ưu đãi theo nghề:

a) Đối với giám định viên pháp y chuyên trách và người thường xuyên giúp việc cho giám định viên pháp y:

- Mức 50% áp dụng đối với giám định viên pháp y bằng với mức dành cho cán bộ, viên chức trực tiếp khám, điều trị, chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS (phụ cấp này trước đây là 35%);

 - Mức 20% áp dụng đối với người giúp việc cho giám định viên pháp y (phụ cấp này trước đây là 15%).

b) Đối với giám định viên pháp y tâm thần chuyên trách và người thường xuyên giúp việc cho giám định viên pháp y tâm thần: Đề nghị giữ nguyên mức 35% như hiện nay đối với giám định viên pháp y tâm thần và mức 15% đối với người giúp việc cho giám định viên pháp y tâm thần.

5.3. Về phụ cấp thâm niên nghề

          Nghiên cứu, xây dựng phụ cấp thâm niên nghề đối với tất cả các chức danh tư pháp, cụ thể như sau: Sau 5 năm (đủ 60 tháng) làm việc liên tục trong ngành thì được hưởng phụ cấp thâm niên nghề bằng 5% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có); từ năm thứ 6 trở đi mỗi năm được tính thêm 1%.

5.4. Về phụ cấp trách nhiệm công việc

Đề nghị quy định phụ cấp trách nhiệm công việc đối với công chức, chức danh tư pháp chưa được hưởng phụ cấp trách nhiệm theo nghề, bao gồm:

          - Giám định định viên pháp y được hưởng phụ cấp hệ sô 0,5 so với lương tối thiểu chung; người giúp việc cho giám định viên pháp y được hưởng phụ cấp 0,3 so với mức lương tối thiểu chung;

          - Giám định viên pháp y tâm thần, giám định viên kỹ thuật hình sự được hưởng phụ cấp 0,4 so với lương tối thiểu chung; người giúp việc cho giám định viên pháp y tâm thần, giám định viên kỹ thuật hình sự được hưởng phụ cấp 0,2 so với mức lương tối thiểu chung;

          - Đối với giám định viên tư pháp ở các lĩnh vực khác như văn hóa, tài chính, xây dựng v.v. hưởng chế độ phụ cấp trách nhiệm công việc với hệ số 0,3 so với lương tối thiểu.

          5.5. Về phụ cấp độc hại, nguy hiểm

- Đối với giám định viên pháp y và người giúp việc cho giám định viên pháp y: duy trì mức hưởng như hiện nay với hệ số 0,4 so với mức lương tối thiểu áp dụng cho giám định viên pháp y và hệ số 0,3 so với mức lương tối thiểu áp dụng cho người giúp việc cho giám định viên pháp y;

          - Đối với giám định viên pháp y tâm thần và người giúp việc cho giám định viên pháp tâm  thần: duy trì mức hưởng như hiện nay là: hệ số 0,4 so với mức lương tối thiểu áp dụng cho giám định viên pháp y tâm thần và người giúp việc cho giám định viên pháp tâm  thần;

          - Đối với giám định viên pháp y, giám định viên kỹ thuật hình sự trong lực lượng vũ trang và người giúp việc: áp dụng mức phụ cấp hệ số 0,4 so với mức lương tối thiểu áp dụng cho giám định viên pháp y, giám định viên kỹ thuật hình sự trong lực lượng vũ trang, hệ số 0,2 so với mức lương tối thiểu áp dụng cho người giúp việc cho các chức danh trên.

6. Xây dựng và thực hiện chính sách nhà ở cho cán bộ, công chức

Thực hiện đầu tư xây dựng quỹ nhà ở cho cán bộ thuê hoặc thuê mua theo Luật Nhà ở. Nhà nước cần có sự đầu tư trực tiếp từ nguồn ngân sách để xây dựng quỹ nhà ở xã hội cho số cán bộ, công chức có khó khăn về nhà ở thuê hoặc thuê mua. Việc đầu tư này cần xác định thành chỉ tiêu kinh tế - xã hội và giao cho từng địa phương thực hiện, trước mắt cần tập trung tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là nơi có nhiều cán bộ, công chức làm việc đang khó khăn về nhà ở. Bộ Tư pháp thành lập Quỹ tiết kiệm nhà ở do cán bộ công chức đóng góp hàng tháng hoặc cơ quan sử dụng cán bộ công chức đóng góp; đồng thời kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chính sách hỗ trợ của Nhà nước bằng hình thức cho cán bộ, công chức vay với lãi xuất thấp hoặc không phải trả lãi và được trừ dần vào tiền lương hàng tháng để giải quyết vấn đề thuê mua nhà ở đối với cán bộ, công chức; kiến nghị Nhà nước ban hành chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư xây dựng nhà ở cho cán bộ, công chức thuê hoặc thuê mua, như ưu tiên quỹ đất, miễn tiền sử dụng đất, hỗ trợ đầu tư trong việc đền bù, giải phóng mặt bằng, ưu đãi về thuế, tín dụng,..

7. Xây dựng và thực hiện chế độ chính sách, chế độ đặc thù đối với cán bộ ngành Tư pháp

Tham mưu xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách thu hút, khuyến khích cán bộ đến công tác tại các cơ quan tư pháp có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; chính sách đối với cán bộ xã. Đối với số cán bộ này, nhất là công chức thi hành án dân sự, cần có chính sách hỗ trợ đào tạo, rút ngắn thời gian nâng bậc lương, giảm thời gian tập sự, mở rộng các hình thức phụ cấp trách nhiệm, tăng cường phụ cấp công tác phí và các hình thức phụ cấp khác.

8. Về một số chế độ, định mức đặc thù trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của ngành Tư pháp

Xây dựng, sủa đổi, bổ sung các định mức chi đặc thù cho hoạt động của ngành Tư pháp như: kinh phí xây dựng, thi hành, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, pháp điển hóa văn bản quy phạm pháp luật; kinh phí đặc thù trong thi hành án dân sự...

Xây dựng, sửa đổi, bổ sung quy định về chế độ bồi dưỡng theo vụ việc cho tất cả các chức danh tư pháp đồng thời nghiên cứu, xây dựng mức bồi dưỡng phù hợp với tính chất công việc, bảo đảm bù đắp và có tác dụng khuyến khích đối với cán bộ thực hiện các nhiệm vụ này.

Kiến nghị chính phủ sửa đổi, bổ sung đồng thời khuyến khích các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập trong Ngành thực hiện các quy định về thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế, quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, viên chức các đơn vị sự nghiệp.

9. Cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của cán bộ

Phân công, bố trí cán bộ phù hợp với ngành nghề đào tạo, phù hợp với sở trường năng lực của cán bộ. Xác định rõ quy trình giải quyết công việc và chế độ trách nhiệm của cán bộ. Thường xuyên đánh giá cán bộ khách quan, trung thực và chính xác; áp dụng chế độ khen thưởng, tôn vinh, động viên kịp thời đối với những người có thành tích xuất sắc, tậm tâm, tận lực với công việc; tạo lập môi trường đoàn kết, có đấu tranh xây dựng cơ quan trong sạch, vững mạnh; xử lý thích đáng những hành vi vi phạm, những người chây ì, thiếu trách nhiệm. Nghiên cứu tạo ra nhiều cơ hội về học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, cơ hội và định hướng phát triển chức nghiệp cho đội ngũ cán bộ trong ngành Tư pháp.

 

PHẦN THỨ BA

TỔ CHỨC THỰC HIỆN

 

          I. Trách nhiệm của Bộ Tư pháp

          1. Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ và các bộ, ngành có liên quan xây dựng chức danh, tiêu chuẩn, chế độ chính sách đối với đấu giá viên, đăng ký viên và Hộ tịch viên để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nội vụ ban hành và ban hành các văn bản theo thẩm quyền.

          2. Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức thuộc Ngành, lĩnh vực quản lý để Bộ Nội vụ thống nhất ban hành; xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch viên chức ngành Tư pháp, gửi lấy ý kiến của Bộ Nội vụ trước khi ban hành.

3. Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan xây dựng chế độ, chính sách đặc thù đối với công chức ngành Tư pháp để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bao gồm: Phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp trách nhiệm công việc, phụ cấp thâm niên, chế độ bồi dưỡng theo vụ việc đối với các chức danh Tư pháp và tổ chức thực hiện sau khi được ban hành.

4. Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, ngành có liên quan xây dựng cơ chế tài chính và các nội dung chi hỗ trợ cho các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ đặc thù của ngành Tư pháp.

          5. Xây dựng, ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện các văn bản về tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm, đào tạo, luân chuyển cán bộ,.. do Bộ Tư pháp quản lý.

          II. Trách nhiệm của Bộ Nội Vụ

1. Xây dựng trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định về chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, chương trình phát triển đội ngũ công chức; phân công, phân cấp quản lý công chức và biên chế công chức; phương pháp xác định vị trí việc làm và cơ cấu công chức; chiến lược, chế độ tiền lương và các chính sách, chế độ đãi ngộ khác đối với công chức; chính sách đối với người có tài năng; tiêu chuẩn chức danh và tuyển chọn công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan hành chính nhà nước.

2. Quy định ngạch và mã ngạch công chức, viên chức ngành Tư pháp; ban hành và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chức danh, tiêu chuẩn các ngạch công chức, cơ cấu ngạch công chức, quy chế thi tuyển, xét tuyển công chức, quy chế tổ chức thi nâng ngạch công chức, nội quy thi tuyển, thi nâng ngạch công chức, quy chế đánh giá công chức; chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý.

          III. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

          1. Xây dựng, sửa đổi, bổ sung các chính sách về thu hút, đãi ngộ của địa phương đối với người có trình độ cao, sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, loại xuất sắc, người tình nguyện đến công tác tại các địa bàn vùng núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo bảo đảm phù hợp điều kiện của từng địa phương.

2. Nghiên cứu xây dựng chính sách thích hợp để thu hút được những nhân tài tiềm tàng như: Sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, thủ khoa; ứng viên đạt điểm cao nhất trong kỳ thi. Tạo sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhân sự với các trường đại học trong việc theo dõi học bạ, kết quả học tập và kết quả thi tuyển nhằm tuyển những ứng cử viên tốt cho nền công vụ.

Sử dụng các phương pháp thu hút nhân tài phù hợp với khả năng, điều kiện của cơ quan và nguyện vọng của nhân tài; khuyến khích mọi cán bộ, công chức săn tìm, phát hiện và tiến cử nhân tài trong xã hội, khu vực tư nhân...

3. Áp dụng thí điểm việc bổ nhiệm công chức lãnh đạo thông qua thi tuyển cạnh tranh rộng rãi, công khai nhằm tạo được động lực và quan tâm của nhân tài.

4. Áp dụng chính sách "tiến cử" và quy định rõ vị trí cũng như trách nhiệm cụ thể của người tiến cử về nhân tài được tiến cử. Công khai hóa người tiến cử và nhân tài được tiến cử để xã hội có điều kiện giám sát.

5. Xây dựng môi trường công tác và điều kiện làm việc tốt như phương tiện làm việc, điều kiện thông tin nhanh, kịp thời, đầy đủ; không khí làm việc dân chủ, công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân tài phát triển.

6. Thống nhất nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý về tầm quan trọng của việc xây dựng và thực thi chiến lược phát triển nhân tài là nhân tố đặc biệt quan trọng, có vai trò then chốt để xây dựng nền công vụ trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại./.


Chuyên đề 1:

“CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG VÀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÁN BỘ,

CÔNG CHỨC – THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CẢI CÁCH

TRONG THỜI GIAN TỚI”

 

                                                   Nguyễn Quang Dũng

   Phó Vụ trưởng Vụ Tiền lương - Bộ Nội vụ

 

Chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, công chức là vấn đề phức tạp, rộng lớn, ảnh hưởng sâu rộng trong nhiều năm đến các mặt kinh tế – xã hội của đất nước, đến đời sống của hàng triệu người hưởng lương và trợ cấp bảo hiểm xã hội, đến ổn định chính trị - xã hội. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc cải cách chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội nhằm củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, thúc đẩy cải cách hành chính và phòng, chống tham nhũng. Chúng ta đã có 4 lần cải cách toàn diện chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức vào các năm 1960, 1985, 1993 và mới đây nhất là năm 2004. Tuy nhiên, đến nay chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội chưa đạt được mục tiêu và yêu cầu đặt ra của Đảng và Nhà nước, chưa đáp ứng được nguyện vọng của cán bộ, công chức. Trong phạm vi chuyên đề này tôi xin trình bày một cách sơ lược về các nội dung sau:

I. Số lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước từ Trung ương đến cấp huyện.

II. Thực trạng chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, công chức, viên chức.

III. Phương hướng và giải pháp cải cách trong thời gian tới.

Nội dung cụ thể như sau:

I. SỐ LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC NHÀ NƯỚC TỪ TRUNG ƯƠNG ĐẾN CẤP HUYỆN (TÍNH ĐẾN NĂM 2008):

STT

NỘI DUNG

SỐ LƯỢNG (NGƯỜI)

1

Hành chớnh nhà nước

263.984

2

Đảng, Mặt trận, cỏc đoàn thể

77.791

3

Khu vực sự nghiệp cụng

1.471.776

 

- Cỏc đơn vị sự nghiệp thuộc cỏc Bộ, cơ quan Trung ương quản lý

108.785

 

- Cỏc đơn vị thuộc địa phương quản lý

1.362.901

 

Tổng cộng

1.813.551

Nguồn: số liệu nêu trên chỉ dùng phục vụ cho việc nghiên cứu Đề án tiền lương (không cung cấp cho các phương tiện thông tin, đại chúng).

Theo quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức hiện hành thì cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, Đảng, đoàn thể hưởng lương từ ngân sách nhà nước; cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước hưởng lương từ ngân sách nhà nước và từ nguồn thu hợp pháp của đơn vị. Tuy nhiên, trên thực tế thì nguồn thu hợp pháp của đơn vị chưa nhiều, chủ yếu tập trung ở một số đơn vị sự nghiệp lớn ở các thành phố, thị xã.

Số lượng cán bộ, công chức, viên chức nhà nước ngày càng tăng do quy mô dân số nước ta ngày càng tăng.

Trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, vi tính và đạo đức nghề nghiệp để quản lý tốt công việc của đất nước và phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn. Chính vì vậy, trong chương trình tổng thể cải cách hành chính, Chính phủ đã xác định nội dung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức, đào tạo và đào tạo lại, cải cách tiền lương,…

 

II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG VÀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC:

Chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội hiện hành đã từng bước thể chế hoá các quan điểm của Đảng; trong quá trình thực hiện đã giữ được các cân đối kinh tế vĩ mô, giữ vững ổn định chính trị – xã hội,... đã có tác động tích cực đến kinh tế và góp phần cải thiện đáng kể đời sống của người hưởng lương, người nghỉ hưu.

1. Chính sách tiền lương:

1.1. Những kết quả đạt được:

1.1.1. Về tiền lương tối thiểu:

Từ tháng 01 năm 2003 đến nay, Chính phủ đã 4 lần điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung, cụ thể là:

-  Tháng 01 năm 2003 điều chỉnh tăng từ 210.000 đồng lên 290.000 đồng/tháng (tăng 38,1%);

-  Tháng 10 năm 2005 điều chỉnh tăng từ 290.000 đồng lên 350.000 đồng/tháng (tăng 20,7%);

-  Tháng 10 năm 2006 điều chỉnh tăng từ 350.000 đồng lên 450.000 đồng/tháng (tăng 28,6%).

-  Tháng 01 năm 2008 điều chỉnh tăng từ 450.000 đồng lên 540.000 đồng/tháng (tăng 20%). 

Tính chung trong 6 năm (01/2003 – 01/2008) và qua 4 lần điều chỉnh, mức lương tối thiểu chung đã được tăng từ 210.000 đồng lên 540.000 đồng/tháng, bằng 2,57 lần, tăng thêm 157% (bình quân tăng 21%/năm) cao hơn chỉ số tăng giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê công bố (đến tháng 01/2008 thì chỉ số giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê công bố tăng 50,28% so với tháng 12/2002; chỉ số giá lương thực tăng 72,54% so với tháng 12/2002 và chỉ số giá thực phẩm tăng 78,97% so với năm 2002).

1.1.2. Về quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa; hệ thống thang lương, bảng lương, ngạch, bậc lương và các chế độ phụ cấp:

a) Về quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa:

Từ tháng 10/2004 đã thực hiện mở rộng dãn cách quan hệ tiền lương tối thiểu – trung bình – tối đa (theo các thang lương, bảng lương mới) từ 1,0 – 1,78 – 8,5 lên 1,0 – 2,34 - 10, trong đó mức lương trung bình của người tốt nghiệp đại học hết tập sự (kỹ sư bậc 1) tăng thêm 31,5% (từ 1,78 lên 2,34), mức lương tối đa của chuyên gia cao cấp bậc 3 tăng thêm 17,6% (từ 8,5 lên 10), các mức lương thấp (nhân viên, cán sự) có mức (%) tăng cao hơn để có lợi cho số đông cán bộ, công chức..

b) Về hệ thống thang lương, bảng lương, ngạch, bậc lương và các chế độ phụ cấp:

Đã thu gọn được từ hàng chục thang lương, bảng lương (năm 1993) xuống còn 8 bảng lương áp dụng đối với các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước (bao gồm cả lực lượng vũ trang); đồng thời quy định áp dụng các chế độ phụ cấp theo nghề hoặc công việc và chế độ phụ cấp theo vùng. Cụ thể như sau:

+ Quy định bảng lương chức vụ áp dụng đối với chức danh từ Bộ trưởng và tương đương trở lên. Các chức danh lãnh đạo (bầu cử, bổ nhiệm) còn lại từ Trung ương đến cấp huyện thực hiện xếp lương chuyên môn theo ngạch, bậc công chức, viên chức và hưởng phụ cấp chức vụ lãnh đạo.

+ Tách bảng lương công chức với bảng lương viên chức, rút bớt số bậc trong các ngạch (cán sự trở xuống rút bớt 4 bậc, chuyên viên trở lên rút bớt 1 bậc so với trước đó); điều chỉnh ngạch, bậc lương (đặc biệt đối với nhà giáo và viên chức y tế) hợp lý hơn; mở rộng được khoảng cách chênh lệch hệ số bậc lương, giảm bớt tính bình quân trong tiền lương. Trường hợp đã xếp bậc cuối cùng trong ngạch thì hưởng phụ cấp thâm niên vượt khung (không khống chế tối đa); đồng thời đã quy định chế độ nâng bậc lương sớm (thưởng) khi đạt thành tích trong thực hiện nhiệm vụ và kéo dài thời gian nâng bậc lương (phạt) khi không hoàn thành nhiệm vụ hoặc bị kỷ luật.

+ Cùng với các thang lương, bảng lương, đã ban hành bảng phụ cấp chức vụ lãnh đạo bầu cử và bổ nhiệm (từ Bí thư tỉnh uỷ, Thứ trưởng và tương đương trở xuống đến cấp huyện, có hệ số từ 0,15 đến 1,40); phụ cấp kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo đứng đầu cơ quan, đơn vị khác; phụ cấp lưu động; phụ cấp độc hại, nguy hiểm. Đối với cán bộ, công chức chuyên ngành toà án, kiểm sát, thanh tra, kiểm tra, tư pháp được áp dụng phụ cấp trách nhiệm theo nghề từ 10% đến 30%; viên chức các ngành giáo dục, y tế, văn hoá,... được áp dụng phụ cấp ưu đãi từ 5% đến 70%. Cán bộ, công chức, viên chức công tác ở vùng khó khăn được áp dụng các chế độ phụ cấp theo vùng (như phụ cấp thu hút, phụ cấp đặc biệt và phụ cấp khu vực).

1.1.3. Về cơ chế quản lý tiền lương đối với khu vực hành chính, sự nghiệp:

Chính phủ đã ban hành các Nghị định về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ quan hành chính (Nghị định 130/2005/NĐ-CP) và các đơn vị sự nghiệp (Nghị định 115/2005/NĐ-CP và Nghị định 43/2006/NĐ-CP), các Bộ đã có các Thông tư hướng dẫn thực hiện, góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, khuyến khích các đơn vị sự nghiệp mở rộng hoạt động và nâng cao chất lượng phục vụ để từ đó có nguồn thu cao hơn nhằm tăng thêm tiền lương. Đồng thời, trong Nghị định lương mới (Nghị định 204/2004/NĐ-CP) đã thực hiện phân cấp phù hợp với thẩm quyền của các bộ, địa phương trong việc quyết định nâng bậc lương, xây dựng chế độ, chính sách đối với công chức, viên chức chuyên ngành.

1.2. Những hạn chế yếu kém:

1.2.1. Mức lương tối thiểu chung còn quá thấp và phụ thuộc vào khả năng ngân sách nhà nước, chưa theo cơ chế thị trường.

1.2.2. Tuy đã thực hiện được quan hệ tiền lương mới 1 – 2,34 –10 theo Kết luận 21-KL/TW, nhưng hệ số lương trung bình (đại học hết tập sự) còn thấp, dẫn đến hệ thống thang, bậc lương còn bình quân, dẫn đến mức lương của người hưởng lương từ ngân sách nhà nước thấp theo, không thu hút được người giỏi vào công chức.

1.2.3. Nguyên tắc thiết kế các bảng lương và phụ cấp chức vụ đối với cán bộ, công chức để bảo đảm tương quan giữa các loại cán bộ, công chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể trong hệ thống chính trị (xếp lương chức vụ hay chuyên môn cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo; bảng lương công chức, viên chức có nhóm hay không có nhóm,...) hiện còn nhiều ý kiến khác nhau. Bảng lương công chức, viên chức còn phức tạp, thể hiện là mỗi loại công chức, viên chức (ngạch tương đương) có một số nhóm mức lương.

1.2.4. Các chế độ phụ cấp đối với cán bộ, công chức, viên chức (như phụ cấp chức vụ, phụ cấp ưu đãi và phụ cấp trách nhiệm theo nghề) còn bất hợp lý so với tương quan giữa các ngành, nghề.

1.2.5. Thực hiện xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp, chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và kiểm soát thu nhập của cán bộ, công chức chưa được triển khai có hiệu quả.

1.2.6. Việc trả lương, quản lý và đánh giá cán bộ, công chức, viên chức theo hệ thống chức nghiệp (theo ngạch, bậc của ngành chuyên môn chủ yếu dựa vào bằng cấp đào tạo và thâm niên công tác), không theo  yêu cầu vị trí việc làm, dẫn đến chạy theo bằng cấp, nặng về thi cử, tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch không gắn với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ theo từng vị trí công việc đang làm, không linh hoạt và trì trệ trong hoạt động công vụ.

2. Về chính sách bảo hiểm xã hội:

2.1. Những kết quả đã đạt được:

2.1.1. Đã điều chỉnh lương hưu theo lộ trình cải cách tiền lương. Đồng thời, đã giải quyết được cơ bản bất hợp lý về lương hưu của người về hưu trước tháng 9 năm 1985 và trước tháng 4 năm 1993, bảo đảm được tương quan hợp lý giữa lương hưu của người về hưu trước và sau khi thực hiện chế độ tiền lương mới (tháng 10 năm 2004).

2.1.2. Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành Luật bảo hiểm xã hội (có hiệu lực từ năm 2007). Đây là đạo luật quan trọng được Đảng, Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động đặc biệt quan tâm. Việc soạn thảo Luật Bảo hiểm xã hội được sự tham gia tích cực của các cơ quan nhà nước và ý kiến đóng góp của các đoàn thể, các cơ quan đại diện cho người lao động và người sử dụng lao động nhằm bảo đảm tính khả thi của luật, trong đó có các nội dung như sau:

a) Mở rộng phạm vi, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội

Ngoài loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc, Luật Bảo hiểm xã hội còn quy định loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì thuộc đối tượng điều chỉnh của bảo hiểm xã hội tự nguyện.

b) Điều chỉnh mức đóng bảo hiểm xã hội vào quỹ hưu trí và tử tuất

- Hàng tháng, người lao động đóng bằng 5% mức tiền lương, tiền công vào quỹ hưu trí và tử tuất. Từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%.

- Người sử dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của người lao động, cụ thể là đóng 4% vào quỹ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và đóng 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất. Từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm một lần đóng thêm 1% vào quỹ hưu trí và tử tuất cho đến khi đạt mức đóng là 14%.

c) Quy định mức “trần” đóng bảo hiểm xã hội

Khống chế mức tiền lương “trần” đóng bảo hiểm xã hội không quá 20 lần mức lương tối thiểu chung để đảm bảo quan hệ lương hưu hợp lý giữa các đối tượng hưởng lương hưu.

d) Về mức hưởng lương hưu (khu vực nhà nước), được xác định trên cơ sở mức tiền lương bình quân tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu như sau:

- Người tham gia bảo hiểm xã hội trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 thì tính bình quân 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu (giữ như hiện hành).

- Người tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 01 tháng 01 năm 1995 đến ngày 31 tháng 12 năm 2000 thì tính bình quân 6 năm cuối trước khi nghỉ hưu (tăng 1 năm so với hiện hành);

- Người tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 đến ngày 31 tháng 12 năm 2006 thì tính bình quân 8 năm cuối trước khi nghỉ hưu (tăng 3 năm so với hiện hành);

- Người tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 01 tháng 01 năm 2007 thì tính bình quân 10 năm cuối trước khi nghỉ hưu (tăng 5 năm so với hiện hành).

đ) Về điều chỉnh lương hưu

Lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh hoạt (chỉ số giá tiêu dùng) và tăng trưởng kinh tế. Mức điều chỉnh cụ thể do Chính phủ quy định.

e) Ban hành bảo hiểm xã hội tự nguyện

- Bảo hiểm xã hội tự nguyện được áp dụng đối với người Việt Nam trong độ tuổi lao động và không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.

- Quy định về việc chuyển đổi hình thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện sang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và ngược lại thì thời gian tham gia bảo hiểm xã hội bằng tổng thời gian tham gia của 2 loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện.

- Thời điểm thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện từ ngày 01/01/2008.

g) Ban hành Bảo hiểm thất nghiệp

- Bảo hiểm thất nghiệp nhằm trợ giúp về tài chính cho người lao động bị mất việc làm (người thất nghiệp) để góp phần ổn định cuộc sống cá nhân và gia đình người thất nghiệp, tạo điều kiện để họ sớm trở lại thị trường lao động.

- Quyền lợi của người tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: trợ cấp thất nghiệp, được hỗ trợ học nghề và tư vấn, hỗ trợ tìm việc làm miễn phí.

- Thời điểm thực hiện bảo hiểm thất nghiệp từ ngày 01 tháng 01 năm 2009.

Việc ban hành Luật Bảo hiểm xã hội (có hiệu lực từ năm 2007) đã khắc phục một bước những bất hợp lý trước đây. Đồng thời, mở rộng loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện (từ năm 2008) và thực hiện bảo hiểm thất nghiệp (từ năm 2009), góp phần đổi mới hệ thống bảo hiểm xã hội, đa dạng hoá các loại hình bảo hiểm xã hội phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước mở rộng vững chắc hệ thống an sinh xã hội.

2.2. Những hạn chế yếu kém:

- Do chính sách bảo hiểm xã hội gắn với chính sách tiền lương, lương hưu của người về hưu ở các thời kỳ khác nhau phụ thuộc vào mức lương tối thiểu chung và mức lương trước khi nghỉ hưu nên việc điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội rất phức tạp. Mặt khác, việc điều chỉnh lương hưu gắn liền với việc điều chỉnh mức lương tối thiểu chung đã không bảo đảm nguyên tắc đóng hưởng trong chính sách bảo hiểm xã hội.

- Việc tính lương hưu còn gắn với chính sách tiền lương (mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội làm cơ sở tính lương hưu còn phụ thuộc vào mức lương tối thiểu chung và hệ số lương bình quân từ 5 năm đến 10 năm trước khi nghỉ hưu).

  III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CẢI CÁCH TRONG THỜI GIAN TỚI:

  1. Quan điểm:

- Cải cách chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội phải trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, bảo đảm các cân đối kinh tế vĩ mô, giữ ổn định chính trị - xã hội; tác động tích cực đến chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đến phát triển kinh tế; phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.

- Cải cách chính sách tiền lương phải gắn với cải cách hành chính, phải “coi việc trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để kinh tế phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ công, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước”; từ đó xác định các giải pháp đột phá trong tạo nguồn cho cải cách chính sách tiền lương.

- Tạo nguồn cải cách chính sách tiền lương phải trên cơ sở đổi mới chính sách động viên vào ngân sách nhà nước, đổi mới cơ chế quản lý tài chính, phát triển nguồn thu; cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước, tăng tỷ trọng chi ngân sách nhà nước cho phát triển kinh tế – xã hội, tăng tích luỹ từ ngân sách nhà nước để thực hiện cải cách tiền lương. Tiếp tục thực hiện tạo nguồn cải cách tiền lương từ nhiều nguồn khác nhau (nguồn từ ngân sách nhà nước và nguồn thu từ xã hội); đồng thời phải thay đổi phương thức quản lý khu vực sự nghiệp, tạo điều kiện đẩy mạnh xã hội hoá, thúc đẩy phát triển hoạt động, tăng cường số lượng, chất lượng các dịch vụ sự nghiệp phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn và có chính sách thích hợp đối với các đối tượng mà Nhà nước phải chăm lo, đãi ngộ.

- Nguồn trả lương đối với cán bộ, công chức hành chính (Nhà nước, Đảng, Mặt trận, các đoàn thể) và lực lượng vũ trang được bảo đảm bằng ngân sách nhà nước. Nguồn trả lương đối với viên chức sự nghiệp được bảo đảm bằng nguồn thu hoạt động sự nghiệp theo hướng tính đủ tiền lương và từng bước tính đủ các chi phí khác; ngân sách nhà nước thực hiện thanh toán chi phí dịch vụ sự nghiệp cho các dịch vụ không có thu và cho các đối tượng mà Nhà nước phải bảo đảm (người nghèo, cận nghèo, đồng bào dân tộc, diện chính sách xã hội,...).

-  Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội độc lập tương đối với chính sách tiền lương. Chính sách bảo hiểm xã hội phải mở rộng từng bước vững chắc đến mọi người lao động, bảo đảm quyền lợi của các bên tham gia bảo hiểm xã hội và đời sống của người nghỉ hưu.

  2. Mục tiêu:

2.1. Về chính sách tiền lương:

- Cải cách chính sách tiền lương nhằm củng cố và từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; chống bao cấp, giảm bớt bình quân; từng bước thực hiện công khai, minh bạch và kiểm soát về tiền lương và thu nhập của người hưởng lương; góp phần thúc đẩy cải cách hành chính và phòng, chống tham nhũng.

- Nâng dần mức lương tối thiểu chung nhằm bảo đảm tái sản xuất sức lao động của người lao động và phù hợp với mặt bằng tiền công trên thị trường lao động. 

- Tiếp tục mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu - trung bình - tối đa; thu gọn thang, bảng, ngạch, bậc lương, hoàn thiện các chế độ phụ cấp, tiến tới tiền lương (gồm cả phụ cấp) của cán bộ, công chức đạt mức trung bình khá trên thị trường lao động nhằm giữ và thu hút lao động có chất lượng làm việc trong khu vực Nhà nước.

2.2. Về chính sách bảo hiểm xã hội:

Trên cơ sở Luật Bảo hiểm xã hội, tiếp tục hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội nhằm bảo đảm lợi ích của các bên tham gia bảo hiểm xã hội; từng bước nâng dần mức lương hưu phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các chính sách xã hội của Nhà nước. Bảo đảm cân đối thu - chi quỹ bảo hiểm xã hội; mở rộng các hình thức bảo hiểm tự nguyện đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tiến tới mọi người lao động thuộc các thành phần kinh tế đều được tham gia và thụ hưởng chính sách bảo hiểm xã hội.

3. Nguyên tắc:

3.1. Cải cách chính sách tiền lương phải quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động, kết hợp với phân phối theo hiệu quả hoạt động của từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Khắc phục bất hợp lý về tương quan tiền lương trong từng khu vực và giữa các khu vực, trên cơ sở đó hình thành các cơ chế tiền lương riêng (hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp) phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo động lực nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; bảo đảm cho người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc, diện chính sách xã hội được hưởng các dịch vụ công (đặc biệt là giáo dục, y tế) ngày càng tốt hơn.

3.2. Mức hưởng bảo hiểm xã hội (gồm cả lương hưu) được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý công khai, minh bạch, sử dụng đúng mục đích, hạch toán độc lập theo quỹ thành phần, bảo đảm quỹ cân đối và phát triển bền vững. Thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội phải đơn giản, kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội. Điều chỉnh lương hưu trên cơ sở chỉ số giá sinh hoạt và tăng trưởng kinh tế, bảo đảm đời sống của người nghỉ hưu phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và độc lập tương đối với chính sách tiền lương, giảm dần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước.

  4. Các nội dung cải cách chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội trong thời gian tới:

  4.1. Về chính sách tiền lương:

Nội dung cải cách chính sách tiền lương gồm: Mức lương tối thiểu chung; quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa; thang lương, bảng lương; các chế độ phụ cấp; cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập, đặc biệt là vấn đề đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương) của khu vực sự nghiệp công lập. Cụ thể như sau:

4.1.1. Mức lương tối thiểu chung:

- Căn cứ vào các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của đất nước trong giai đoạn tới, gồm:

+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP);

+ Năng suất lao động xã hội;

+ Chỉ số giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê công bố;

+ Mức tiền công trên thị trường.

- Trên cơ sở các chỉ tiêu kinh tế xã hội dự kiến hàng năm của đất nước nêu trên, tính toán  xác định mức lương tối thiểu theo 4 phương pháp, gồm:

+ Từ nhu cầu tối thiểu;

+ Từ điều tra tiền công trên thị trường;

+ Từ khả năng nền kinh tế;

+ Từ chỉ số giá tiêu dùng.

Dựa vào kết quả tính toán của 4 phương pháp xác định lương tối thiểu nêu trên và khả năng ngân sách của nhà nước để điều chỉnh mức lương tối thiểu chung nhằm cải thiện đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động, phù hợp với mức tiền công trên thị trường lao động.

  4.1. 2. Về quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình (đại học hết tập sự) – tối đa (chuyên gia cao cấp bậc 3, tương đương mức lương Bộ trưởng) và hệ thống thang lương, bảng lương:

- Trên cơ sở quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa hiện nay là 1 - 2,34 - 10, tiếp tục hoàn thiện chức danh cán bộ và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức, viên chức để xếp ngạch, bậc lương cho phù hợp.

- Nghiên cứu mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa hiện nay (1 – 2,34 – 10) vào thời điểm thích hợp; trên cơ sở đó, tiếp tục thu gọn thang, bảng, ngạch, bậc lương cho phù hợp, khắc phục những bất hợp lý hiện nay về tương quan tiền lương giữa các loại cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị.

- Sau khi Luật cán bộ, công chức (Luật công vụ) được ban hành, nghiên cứu để thực hiện chế độ trả lương cán bộ, công chức theo vị trí việc làm thay cho chế độ chức nghiệp.

4.1.3. Về các chế độ phụ cấp:

- Tiếp tục hoàn chỉnh các chế độ phụ cấp hiện hành (theo chế độ tiền lương tháng 10/2004), gồm:

+ Chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo;

+ Chế độ phụ cấp kiêm nhiệm;

+ Chế độ phụ cấp ưu đãi và phụ cấp trách nhiệm theo nghề;

+ Chế độ phụ cấp đặc biệt;

+ Chế độ phụ cấp thu hút;

+ Chế độ phụ cấp khu vực,…

- Căn cứ vào các Nghị quyết của Hội nghị lần thứ ba, lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá X[26] và để góp phần xây dựng, củng cố đội ngũ công chức chuyên nghiệp, giữ và thu hút công chức làm việc trong cơ quan nhà nước và hệ thống chính trị, từng bước thực hiện mục tiêu tiền lương (gồm cả phụ cấp) của cán bộ, công chức đạt mức trung bình khá trên thị trường lao động, bổ sung phụ cấp công vụ đối với cán bộ, công chức hành chính (Nhà nước, Đảng, Mặt trận và các đoàn thể) từ Trung ương đến cấp xã (cấp xã là cán bộ chuyên trách và công chức chuyên môn hưởng lương)

  4.1.4. Về cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập:

  a) Đối với khu vực hành chính (Nhà nước, Đảng, Mặt trận và các đoàn thể):

Tiếp tục thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước, Đảng, Mặt trận và các đoàn thể.

b) Đối với khu vực sự nghiệp công lập:

Để từng bước nâng cao chất lượng các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công (giáo dục, y tế, văn hoá,...) và chủ động trong tạo nguồn cải cách tiền lương trong giai đoạn tới cho phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, cần thiết phải tách rõ nguồn trả lương giữa viên chức sự nghiệp công lập với công chức hành chính. Việc tách nguồn trả lương này thực hiện theo nguyên tắc Nhà nước và toàn xã hội cùng chăm lo, cộng đồng chia sẻ trách nhiệm trong việc củng cố, phát triển các hoạt động sự nghiệp; đồng thời phải bảo đảm quy mô và chất lượng các dịch vụ công (giáo dục, y tế, văn hoá...) mà Nhà nước đã cam kết cung cấp cho nhân dân không bị giảm sút và từng bước được nâng lên cho phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, bảo đảm ổn định xã hội. Theo đó, thực hiện đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương) đối với khu vực sự nghiệp như sau:

- Thay đổi cơ chế cấp phát ngân sách nhà nước đối với các hoạt động sự nghiệp công lập hiện nay sang cơ chế đơn vị sự nghiệp được thu phí (giá) dịch vụ theo hướng tính đủ tiền lương, từng bước tính đủ chi phí hoạt động. Nhà nước tiếp tục thực hiện đầu tư cơ sở vật chất như hiện nay, đơn vị sự nghiệp có trách nhiệm quản lý, sử dụng, duy tu, bảo trì, bảo dưỡng để phát triển. Đối với các đối tượng mà Nhà nước có chính sách (như người nghèo, cận nghèo, đồng bào dân tộc, diện chính sách xã hội,…) và các dịch vụ sự nghiệp không có thu (như phổ cập tiểu học, y tế dự phòng,...), tuỳ theo từng đối tượng và dịch vụ cụ thể, Nhà nước có cơ chế hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ chi phí dịch vụ; các đối tượng còn lại thanh toán theo đúng giá chi phí dịch vụ khi thụ hưởng các dịch vụ công. Đồng thời mở rộng tín dụng cho sinh viên vay để trả học phí, mở rộng để tiến tới thực hiện chế độ bảo hiểm y tế toàn dân. Yêu cầu đặt ra là không vì thay đổi cơ chế mà ảnh hưởng đến việc học tập, khám chữa bệnh của nhân dân và của các đối tượng mà Nhà nước có chính sách. Giá dịch vụ do Chính phủ quy định theo khung giá đối với từng loại dịch vụ và điều chỉnh hàng năm, trên cơ sở đó các Bộ, ngành, địa phương và đơn vị sự nghiệp tuỳ theo thẩm quyền quy định mức giá cụ thể phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và thu nhập của dân cư trên địa bàn.

- Để phù hợp với thay đổi cơ chế nêu trên, đơn vị sự nghiệp phải chuyển sang hạch toán thu – chi không vì mục đích lợi nhuận, trên cơ sở đó nâng cao chất lượng, phát triển hoạt động để vừa phục vụ tốt hơn nhu cầu của xã hội, vừa tự cân đối nguồn thu (trong đó có nguồn từ ngân sách nhà nước thanh toán cho các đối tượng chính sách và cho các dịch vụ không có thu mà Nhà nước phải bảo đảm) để trả lương và phụ cấp bằng hoặc cao hơn (nếu nguồn thu tốt) so với chế độ Nhà nước quy định. Ngân sách nhà nước không cân đối nguồn trực tiếp để chi thường xuyên, trong đó có chi lương cho khu vực sự nghiệp công lập như trước đây; đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích đầu tư (trong nước và nước ngoài) vào lĩnh vực sự nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.

Thực hiện đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương) đối với khu vực sự nghiệp nêu trên, thì chi ngân sách nhà nước cho các sự nghiệp công lập (giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học,...) sẽ tập trung phản ánh phần do Nhà nước bảo đảm (đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, thanh toán cho các đối tượng chính sách và các dịch vụ không có thu mà Nhà nước phải bảo đảm). Cơ chế mới sẽ tạo điều kiện để các đơn vị sự nghiệp phát triển hoạt động phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời vấn đề giải quyết tiền lương của khu vực sự nghiệp công lập  độc lập tương đối với việc giải quyết tiền lương của khu vực quản lý nhà nước, tạo thuận lợi cho tạo nguồn cải cách chính sách tiền lương giai đoạn tới.

4.2. Về chính sách bảo hiểm xã hội:

4.2.1. Mở rộng loại hình, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội:

Thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp theo lộ trình quy định của Luật Bảo hiểm xã hội như sau:

- Thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện từ ngày 01 tháng 01 năm 2008 đối với tất cả công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.

- Thực hiện bảo hiểm thất nghiệp từ ngày 01 tháng 01 năm 2009 đối với mọi người lao động là công dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng với người sử dụng lao động có sử dụng từ 10 lao động trở lên.

4.2.2. Thực hiện điều chỉnh tiền lương, tiền công đã đóng bảo hiểm xã hội để làm căn cứ tính mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội đối với người hưởng tiền lương, tiền công do người sử dụng lao động (khu vực ngoài nhà nước) quy định trên cơ sở chỉ số giá sinh hoạt từng thời kỳ.

4.2.3. Điều chỉnh nâng dần mức lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội để từng bước cải thiện đời sống của người nghỉ hưu. Việc điều chỉnh thực hiện theo cơ chế tạo nguồn và bước đi độc lập tương đối với chính sách tiền lương và theo hướng sử dụng nguồn từ bảo tồn và tăng trưởng (sinh lời) quỹ bảo hiểm xã hội, giảm dần phần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước. Cơ sở, nguyên tắc và mức điều chỉnh cụ thể như sau:

a) Cơ sở pháp lý điều chỉnh lương hưu:

Điều chỉnh lương hưu đối với người nghỉ hưu theo quy định tại Điều 53 Luật bảo hiểm xã hội như sau: “Lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh hoạt và tăng trưởng kinh tế. Mức điều chỉnh cụ thể do Chính phủ quy định”.

b) Nguyên tắc điều chỉnh:

- Việc điều chỉnh lương hưu tuỳ theo mức tăng chỉ số giá sinh hoạt (chỉ số giá tiêu dùng) và tăng trưởng kinh tế.

- Chính phủ quy định mức và thời gian điều chỉnh dựa trên mức tăng trưởng quỹ, khả năng cân đối quỹ bảo hiểm xã hội và khả năng cân đối ngân sách nhà nước. Nguồn kinh phí thực hiện như sau:

+ Đối với người nghỉ hưu trước ngày 01 tháng 10 năm 1995 do ngân sách nhà nước bảo đảm;

+ Đối với người nghỉ hưu từ ngày 01 tháng 10 năm 1995 trở đi do quỹ bảo hiểm xã hội bảo đảm.

c) Mức điều chỉnh:

Điều chỉnh mức lương hưu trong giai đoạn tới theo hướng: Căn cứ vào tình hình thực tế, hằng năm Chính phủ tính toán mức điều chỉnh lương hưu cụ thể, bảo đảm thực hiện theo quy định tại Điều 53 của Luật Bảo hiểm xã hội “Lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh hoạt và tăng trưởng kinh tế”, bảo đảm đời sống của người nghỉ hưu trên cơ sở khả năng cân đối ngân sách nhà nước, mức tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội và bảo đảm đồng thuận xã hội.

5. Các giải pháp tạo nguồn để thực hiện cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội :

  5.1. Đối với khu vực sự nghiệp dịch vụ công:

Thực hiện đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính (trong đó có cơ chế tiền lương) đối với khu vực sự nghiệp công lập theo hướng tính đủ tiền lương và từng bước tính đủ chi phí vào giá dịch vụ (Nhà nước bảo đảm chi cho các dịch vụ không có thu và chi cho các đối tượng chính sách xã hội).

5.2. Đối với khu vực hành chính (Nhà nước, Đảng, Mặt trận, các đoàn thể) và lực lượng vũ trang:

- Đẩy mạnh cải cách hành chính; tiếp tục tinh giản biên chế, khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính phù hợp với chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan hành chính (Nhà nước, Đảng, Mặt trận và các đoàn thể).

- Tiếp tục sử dụng 50% số tăng thu ngân sách, 10% tiết kiệm kinh phí quản lý hành chính (trừ tiền lương và các khoản có tính chất lương), 35% đến 40% nguồn thu để lại đơn vị theo chế độ quy định (nếu có) để bổ sung nguồn điều chỉnh tiền lương tăng thêm.

5.3. Cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước để tạo nguồn thực hiện cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội :

- Cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước theo hướng bảo đảm giữ vững tổng mức đầu tư toàn xã hội ở mức 42% - 43% GDP để bảo đảm GDP tăng trưởng từ 8,5% - 9%/năm. Hằng năm, tiếp tục dành 50% số tăng thu ngân sách nhà nước làm nguồn tăng lương; đồng thời tạo thuận lợi cho các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện quyền tự chủ về tài chính, về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, về biên chế và trả lương để thực hiện tốt theo cơ chế mới nêu trong Đề án này.

- Cơ cấu lại chi đầu tư từ ngân sách nhà nước theo hướng chỉ tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn; đồng thời có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh (bao gồm cả đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn); đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.

- Hằng năm cân đối từ ngân sách nhà nước và tiết kiệm khoảng 10% dự toán chi hành chính (trừ tiền lương và các khoản có tính chất lương) để bảo đảm chi đủ lương cho khu vực hành chính (Nhà nước, Đảng, Mặt trận, các đoàn thể) và lực lượng vũ trang; cân đối đủ chi lương hưu cho đối tượng về hưu trước ngày 01 tháng 10 năm 1995.

Trên đây là một số nội dung về chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, công chức, viên chức./.


Chuyên đề 1

“CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG VÀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÁN BỘ,

CÔNG CHỨC – THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CẢI CÁCH

TRONG THỜI GIAN TỚI”

                                                   Nguyễn Quang Dũng

Phó Vụ trưởng Vụ Tiền lương - Bộ Nội vụ

 

Chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, công chức là vấn đề phức tạp, rộng lớn, ảnh hưởng sâu rộng trong nhiều năm đến các mặt kinh tế – xã hội của đất nước, đến đời sống của hàng triệu người hưởng lương và trợ cấp bảo hiểm xã hội, đến ổn định chính trị - xã hội. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc cải cách chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội nhằm củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, thúc đẩy cải cách hành chính và phòng, chống tham nhũng. Chúng ta đã có 4 lần cải cách toàn diện chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức vào các năm 1960, 1985, 1993 và mới đây nhất là năm 2004. Tuy nhiên, đến nay chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội chưa đạt được mục tiêu và yêu cầu đặt ra của Đảng và Nhà nước, chưa đáp ứng được nguyện vọng của cán bộ, công chức. Trong phạm vi chuyên đề này tôi xin trình bày một cách sơ lược về các nội dung sau:

I. Số lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước từ Trung ương đến cấp huyện.

II. Thực trạng chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, công chức, viên chức.

III. Phương hướng và giải pháp cải cách trong thời gian tới.

Nội dung cụ thể như sau:

I. SỐ LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC NHÀ NƯỚC TỪ TRUNG ƯƠNG ĐẾN CẤP HUYỆN (TÍNH ĐẾN NĂM 2008):

STT

NỘI DUNG

SỐ LƯỢNG (NGƯỜI)

1

Hành chớnh nhà nước

263.984

2

Đảng, Mặt trận, cỏc đoàn thể

77.791

3

Khu vực sự nghiệp cụng

1.471.776

 

- Cỏc đơn vị sự nghiệp thuộc cỏc Bộ, cơ quan Trung ương quản lý

108.785

 

- Cỏc đơn vị thuộc địa phương quản lý

1.362.901

 

Tổng cộng

1.813.551

Nguồn: số liệu nêu trên chỉ dùng phục vụ cho việc nghiên cứu Đề án tiền lương (không cung cấp cho các phương tiện thông tin, đại chúng).

Theo quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức hiện hành thì cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, Đảng, đoàn thể hưởng lương từ ngân sách nhà nước; cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước hưởng lương từ ngân sách nhà nước và từ nguồn thu hợp pháp của đơn vị. Tuy nhiên, trên thực tế thì nguồn thu hợp pháp của đơn vị chưa nhiều, chủ yếu tập trung ở một số đơn vị sự nghiệp lớn ở các thành phố, thị xã.

Số lượng cán bộ, công chức, viên chức nhà nước ngày càng tăng do quy mô dân số nước ta ngày càng tăng.

Trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, vi tính và đạo đức nghề nghiệp để quản lý tốt công việc của đất nước và phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn. Chính vì vậy, trong chương trình tổng thể cải cách hành chính, Chính phủ đã xác định nội dung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức, đào tạo và đào tạo lại, cải cách tiền lương,…

II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG VÀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC:

Chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội hiện hành đã từng bước thể chế hoá các quan điểm của Đảng; trong quá trình thực hiện đã giữ được các cân đối kinh tế vĩ mô, giữ vững ổn định chính trị – xã hội,... đã có tác động tích cực đến kinh tế và góp phần cải thiện đáng kể đời sống của người hưởng lương, người nghỉ hưu.

1. Chính sách tiền lương:

1.1. Những kết quả đạt được:

1.1.1. Về tiền lương tối thiểu:

Từ tháng 01 năm 2003 đến nay, Chính phủ đã 4 lần điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung, cụ thể là:

-  Tháng 01 năm 2003 điều chỉnh tăng từ 210.000 đồng lên 290.000 đồng/tháng (tăng 38,1%);

-  Tháng 10 năm 2005 điều chỉnh tăng từ 290.000 đồng lên 350.000 đồng/tháng (tăng 20,7%);

-  Tháng 10 năm 2006 điều chỉnh tăng từ 350.000 đồng lên 450.000 đồng/tháng (tăng 28,6%).

-  Tháng 01 năm 2008 điều chỉnh tăng từ 450.000 đồng lên 540.000 đồng/tháng (tăng 20%). 

Tính chung trong 6 năm (01/2003 – 01/2008) và qua 4 lần điều chỉnh, mức lương tối thiểu chung đã được tăng từ 210.000 đồng lên 540.000 đồng/tháng, bằng 2,57 lần, tăng thêm 157% (bình quân tăng 21%/năm) cao hơn chỉ số tăng giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê công bố (đến tháng 01/2008 thì chỉ số giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê công bố tăng 50,28% so với tháng 12/2002; chỉ số giá lương thực tăng 72,54% so với tháng 12/2002 và chỉ số giá thực phẩm tăng 78,97% so với năm 2002).

1.1.2. Về quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa; hệ thống thang lương, bảng lương, ngạch, bậc lương và các chế độ phụ cấp:

a) Về quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa:

Từ tháng 10/2004 đã thực hiện mở rộng dãn cách quan hệ tiền lương tối thiểu – trung bình – tối đa (theo các thang lương, bảng lương mới) từ 1,0 – 1,78 – 8,5 lên 1,0 – 2,34 - 10, trong đó mức lương trung bình của người tốt nghiệp đại học hết tập sự (kỹ sư bậc 1) tăng thêm 31,5% (từ 1,78 lên 2,34), mức lương tối đa của chuyên gia cao cấp bậc 3 tăng thêm 17,6% (từ 8,5 lên 10), các mức lương thấp (nhân viên, cán sự) có mức (%) tăng cao hơn để có lợi cho số đông cán bộ, công chức..

b) Về hệ thống thang lương, bảng lương, ngạch, bậc lương và các chế độ phụ cấp:

Đã thu gọn được từ hàng chục thang lương, bảng lương (năm 1993) xuống còn 8 bảng lương áp dụng đối với các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước (bao gồm cả lực lượng vũ trang); đồng thời quy định áp dụng các chế độ phụ cấp theo nghề hoặc công việc và chế độ phụ cấp theo vùng. Cụ thể như sau:

+ Quy định bảng lương chức vụ áp dụng đối với chức danh từ Bộ trưởng và tương đương trở lên. Các chức danh lãnh đạo (bầu cử, bổ nhiệm) còn lại từ Trung ương đến cấp huyện thực hiện xếp lương chuyên môn theo ngạch, bậc công chức, viên chức và hưởng phụ cấp chức vụ lãnh đạo.

+ Tách bảng lương công chức với bảng lương viên chức, rút bớt số bậc trong các ngạch (cán sự trở xuống rút bớt 4 bậc, chuyên viên trở lên rút bớt 1 bậc so với trước đó); điều chỉnh ngạch, bậc lương (đặc biệt đối với nhà giáo và viên chức y tế) hợp lý hơn; mở rộng được khoảng cách chênh lệch hệ số bậc lương, giảm bớt tính bình quân trong tiền lương. Trường hợp đã xếp bậc cuối cùng trong ngạch thì hưởng phụ cấp thâm niên vượt khung (không khống chế tối đa); đồng thời đã quy định chế độ nâng bậc lương sớm (thưởng) khi đạt thành tích trong thực hiện nhiệm vụ và kéo dài thời gian nâng bậc lương (phạt) khi không hoàn thành nhiệm vụ hoặc bị kỷ luật.

+ Cùng với các thang lương, bảng lương, đã ban hành bảng phụ cấp chức vụ lãnh đạo bầu cử và bổ nhiệm (từ Bí thư tỉnh uỷ, Thứ trưởng và tương đương trở xuống đến cấp huyện, có hệ số từ 0,15 đến 1,40); phụ cấp kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo đứng đầu cơ quan, đơn vị khác; phụ cấp lưu động; phụ cấp độc hại, nguy hiểm. Đối với cán bộ, công chức chuyên ngành toà án, kiểm sát, thanh tra, kiểm tra, tư pháp được áp dụng phụ cấp trách nhiệm theo nghề từ 10% đến 30%; viên chức các ngành giáo dục, y tế, văn hoá,... được áp dụng phụ cấp ưu đãi từ 5% đến 70%. Cán bộ, công chức, viên chức công tác ở vùng khó khăn được áp dụng các chế độ phụ cấp theo vùng (như phụ cấp thu hút, phụ cấp đặc biệt và phụ cấp khu vực).

1.1.3. Về cơ chế quản lý tiền lương đối với khu vực hành chính, sự nghiệp:

Chính phủ đã ban hành các Nghị định về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ quan hành chính (Nghị định 130/2005/NĐ-CP) và các đơn vị sự nghiệp (Nghị định 115/2005/NĐ-CP và Nghị định 43/2006/NĐ-CP), các Bộ đã có các Thông tư hướng dẫn thực hiện, góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, khuyến khích các đơn vị sự nghiệp mở rộng hoạt động và nâng cao chất lượng phục vụ để từ đó có nguồn thu cao hơn nhằm tăng thêm tiền lương. Đồng thời, trong Nghị định lương mới (Nghị định 204/2004/NĐ-CP) đã thực hiện phân cấp phù hợp với thẩm quyền của các bộ, địa phương trong việc quyết định nâng bậc lương, xây dựng chế độ, chính sách đối với công chức, viên chức chuyên ngành.

1.2. Những hạn chế yếu kém:

1.2.1. Mức lương tối thiểu chung còn quá thấp và phụ thuộc vào khả năng ngân sách nhà nước, chưa theo cơ chế thị trường.

1.2.2. Tuy đã thực hiện được quan hệ tiền lương mới 1 – 2,34 –10 theo Kết luận 21-KL/TW, nhưng hệ số lương trung bình (đại học hết tập sự) còn thấp, dẫn đến hệ thống thang, bậc lương còn bình quân, dẫn đến mức lương của người hưởng lương từ ngân sách nhà nước thấp theo, không thu hút được người giỏi vào công chức.

1.2.3. Nguyên tắc thiết kế các bảng lương và phụ cấp chức vụ đối với cán bộ, công chức để bảo đảm tương quan giữa các loại cán bộ, công chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể trong hệ thống chính trị (xếp lương chức vụ hay chuyên môn cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo; bảng lương công chức, viên chức có nhóm hay không có nhóm,...) hiện còn nhiều ý kiến khác nhau. Bảng lương công chức, viên chức còn phức tạp, thể hiện là mỗi loại công chức, viên chức (ngạch tương đương) có một số nhóm mức lương.

1.2.4. Các chế độ phụ cấp đối với cán bộ, công chức, viên chức (như phụ cấp chức vụ, phụ cấp ưu đãi và phụ cấp trách nhiệm theo nghề) còn bất hợp lý so với tương quan giữa các ngành, nghề.

1.2.5. Thực hiện xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp, chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và kiểm soát thu nhập của cán bộ, công chức chưa được triển khai có hiệu quả.

1.2.6. Việc trả lương, quản lý và đánh giá cán bộ, công chức, viên chức theo hệ thống chức nghiệp (theo ngạch, bậc của ngành chuyên môn chủ yếu dựa vào bằng cấp đào tạo và thâm niên công tác), không theo  yêu cầu vị trí việc làm, dẫn đến chạy theo bằng cấp, nặng về thi cử, tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch không gắn với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ theo từng vị trí công việc đang làm, không linh hoạt và trì trệ trong hoạt động công vụ.

2. Về chính sách bảo hiểm xã hội:

2.1. Những kết quả đã đạt được:

2.1.1. Đã điều chỉnh lương hưu theo lộ trình cải cách tiền lương. Đồng thời, đã giải quyết được cơ bản bất hợp lý về lương hưu của người về hưu trước tháng 9 năm 1985 và trước tháng 4 năm 1993, bảo đảm được tương quan hợp lý giữa lương hưu của người về hưu trước và sau khi thực hiện chế độ tiền lương mới (tháng 10 năm 2004).

2.1.2. Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành Luật bảo hiểm xã hội (có hiệu lực từ năm 2007). Đây là đạo luật quan trọng được Đảng, Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động đặc biệt quan tâm. Việc soạn thảo Luật Bảo hiểm xã hội được sự tham gia tích cực của các cơ quan nhà nước và ý kiến đóng góp của các đoàn thể, các cơ quan đại diện cho người lao động và người sử dụng lao động nhằm bảo đảm tính khả thi của luật, trong đó có các nội dung như sau:

a) Mở rộng phạm vi, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội

Ngoài loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc, Luật Bảo hiểm xã hội còn quy định loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì thuộc đối tượng điều chỉnh của bảo hiểm xã hội tự nguyện.

b) Điều chỉnh mức đóng bảo hiểm xã hội vào quỹ hưu trí và tử tuất

- Hàng tháng, người lao động đóng bằng 5% mức tiền lương, tiền công vào quỹ hưu trí và tử tuất. Từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%.

- Người sử dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của người lao động, cụ thể là đóng 4% vào quỹ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và đóng 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất. Từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm một lần đóng thêm 1% vào quỹ hưu trí và tử tuất cho đến khi đạt mức đóng là 14%.

c) Quy định mức “trần” đóng bảo hiểm xã hội

Khống chế mức tiền lương “trần” đóng bảo hiểm xã hội không quá 20 lần mức lương tối thiểu chung để đảm bảo quan hệ lương hưu hợp lý giữa các đối tượng hưởng lương hưu.

d) Về mức hưởng lương hưu (khu vực nhà nước), được xác định trên cơ sở mức tiền lương bình quân tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu như sau:

- Người tham gia bảo hiểm xã hội trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 thì tính bình quân 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu (giữ như hiện hành).

- Người tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 01 tháng 01 năm 1995 đến ngày 31 tháng 12 năm 2000 thì tính bình quân 6 năm cuối trước khi nghỉ hưu (tăng 1 năm so với hiện hành);

- Người tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 đến ngày 31 tháng 12 năm 2006 thì tính bình quân 8 năm cuối trước khi nghỉ hưu (tăng 3 năm so với hiện hành);

- Người tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 01 tháng 01 năm 2007 thì tính bình quân 10 năm cuối trước khi nghỉ hưu (tăng 5 năm so với hiện hành).

đ) Về điều chỉnh lương hưu

Lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh hoạt (chỉ số giá tiêu dùng) và tăng trưởng kinh tế. Mức điều chỉnh cụ thể do Chính phủ quy định.

e) Ban hành bảo hiểm xã hội tự nguyện

- Bảo hiểm xã hội tự nguyện được áp dụng đối với người Việt Nam trong độ tuổi lao động và không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.

- Quy định về việc chuyển đổi hình thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện sang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và ngược lại thì thời gian tham gia bảo hiểm xã hội bằng tổng thời gian tham gia của 2 loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện.

- Thời điểm thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện từ ngày 01/01/2008.

g) Ban hành Bảo hiểm thất nghiệp

- Bảo hiểm thất nghiệp nhằm trợ giúp về tài chính cho người lao động bị mất việc làm (người thất nghiệp) để góp phần ổn định cuộc sống cá nhân và gia đình người thất nghiệp, tạo điều kiện để họ sớm trở lại thị trường lao động.

- Quyền lợi của người tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: trợ cấp thất nghiệp, được hỗ trợ học nghề và tư vấn, hỗ trợ tìm việc làm miễn phí.

- Thời điểm thực hiện bảo hiểm thất nghiệp từ ngày 01 tháng 01 năm 2009.

Việc ban hành Luật Bảo hiểm xã hội (có hiệu lực từ năm 2007) đã khắc phục một bước những bất hợp lý trước đây. Đồng thời, mở rộng loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện (từ năm 2008) và thực hiện bảo hiểm thất nghiệp (từ năm 2009), góp phần đổi mới hệ thống bảo hiểm xã hội, đa dạng hoá các loại hình bảo hiểm xã hội phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước mở rộng vững chắc hệ thống an sinh xã hội.

2.2. Những hạn chế yếu kém:

- Do chính sách bảo hiểm xã hội gắn với chính sách tiền lương, lương hưu của người về hưu ở các thời kỳ khác nhau phụ thuộc vào mức lương tối thiểu chung và mức lương trước khi nghỉ hưu nên việc điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội rất phức tạp. Mặt khác, việc điều chỉnh lương hưu gắn liền với việc điều chỉnh mức lương tối thiểu chung đã không bảo đảm nguyên tắc đóng hưởng trong chính sách bảo hiểm xã hội.

- Việc tính lương hưu còn gắn với chính sách tiền lương (mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội làm cơ sở tính lương hưu còn phụ thuộc vào mức lương tối thiểu chung và hệ số lương bình quân từ 5 năm đến 10 năm trước khi nghỉ hưu).

  III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CẢI CÁCH TRONG THỜI GIAN TỚI:

  1. Quan điểm:

- Cải cách chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội phải trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, bảo đảm các cân đối kinh tế vĩ mô, giữ ổn định chính trị - xã hội; tác động tích cực đến chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đến phát triển kinh tế; phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.

- Cải cách chính sách tiền lương phải gắn với cải cách hành chính, phải “coi việc trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để kinh tế phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ công, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước”; từ đó xác định các giải pháp đột phá trong tạo nguồn cho cải cách chính sách tiền lương.

- Tạo nguồn cải cách chính sách tiền lương phải trên cơ sở đổi mới chính sách động viên vào ngân sách nhà nước, đổi mới cơ chế quản lý tài chính, phát triển nguồn thu; cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước, tăng tỷ trọng chi ngân sách nhà nước cho phát triển kinh tế – xã hội, tăng tích luỹ từ ngân sách nhà nước để thực hiện cải cách tiền lương. Tiếp tục thực hiện tạo nguồn cải cách tiền lương từ nhiều nguồn khác nhau (nguồn từ ngân sách nhà nước và nguồn thu từ xã hội); đồng thời phải thay đổi phương thức quản lý khu vực sự nghiệp, tạo điều kiện đẩy mạnh xã hội hoá, thúc đẩy phát triển hoạt động, tăng cường số lượng, chất lượng các dịch vụ sự nghiệp phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn và có chính sách thích hợp đối với các đối tượng mà Nhà nước phải chăm lo, đãi ngộ.

- Nguồn trả lương đối với cán bộ, công chức hành chính (Nhà nước, Đảng, Mặt trận, các đoàn thể) và lực lượng vũ trang được bảo đảm bằng ngân sách nhà nước. Nguồn trả lương đối với viên chức sự nghiệp được bảo đảm bằng nguồn thu hoạt động sự nghiệp theo hướng tính đủ tiền lương và từng bước tính đủ các chi phí khác; ngân sách nhà nước thực hiện thanh toán chi phí dịch vụ sự nghiệp cho các dịch vụ không có thu và cho các đối tượng mà Nhà nước phải bảo đảm (người nghèo, cận nghèo, đồng bào dân tộc, diện chính sách xã hội,...).

-  Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội độc lập tương đối với chính sách tiền lương. Chính sách bảo hiểm xã hội phải mở rộng từng bước vững chắc đến mọi người lao động, bảo đảm quyền lợi của các bên tham gia bảo hiểm xã hội và đời sống của người nghỉ hưu.

  2. Mục tiêu:

2.1. Về chính sách tiền lương:

- Cải cách chính sách tiền lương nhằm củng cố và từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; chống bao cấp, giảm bớt bình quân; từng bước thực hiện công khai, minh bạch và kiểm soát về tiền lương và thu nhập của người hưởng lương; góp phần thúc đẩy cải cách hành chính và phòng, chống tham nhũng.

- Nâng dần mức lương tối thiểu chung nhằm bảo đảm tái sản xuất sức lao động của người lao động và phù hợp với mặt bằng tiền công trên thị trường lao động. 

- Tiếp tục mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu - trung bình - tối đa; thu gọn thang, bảng, ngạch, bậc lương, hoàn thiện các chế độ phụ cấp, tiến tới tiền lương (gồm cả phụ cấp) của cán bộ, công chức đạt mức trung bình khá trên thị trường lao động nhằm giữ và thu hút lao động có chất lượng làm việc trong khu vực Nhà nước.

2.2. Về chính sách bảo hiểm xã hội:

Trên cơ sở Luật Bảo hiểm xã hội, tiếp tục hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội nhằm bảo đảm lợi ích của các bên tham gia bảo hiểm xã hội; từng bước nâng dần mức lương hưu phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các chính sách xã hội của Nhà nước. Bảo đảm cân đối thu - chi quỹ bảo hiểm xã hội; mở rộng các hình thức bảo hiểm tự nguyện đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tiến tới mọi người lao động thuộc các thành phần kinh tế đều được tham gia và thụ hưởng chính sách bảo hiểm xã hội.

3. Nguyên tắc:

3.1. Cải cách chính sách tiền lương phải quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động, kết hợp với phân phối theo hiệu quả hoạt động của từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Khắc phục bất hợp lý về tương quan tiền lương trong từng khu vực và giữa các khu vực, trên cơ sở đó hình thành các cơ chế tiền lương riêng (hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp) phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo động lực nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; bảo đảm cho người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc, diện chính sách xã hội được hưởng các dịch vụ công (đặc biệt là giáo dục, y tế) ngày càng tốt hơn.

3.2. Mức hưởng bảo hiểm xã hội (gồm cả lương hưu) được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý công khai, minh bạch, sử dụng đúng mục đích, hạch toán độc lập theo quỹ thành phần, bảo đảm quỹ cân đối và phát triển bền vững. Thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội phải đơn giản, kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội. Điều chỉnh lương hưu trên cơ sở chỉ số giá sinh hoạt và tăng trưởng kinh tế, bảo đảm đời sống của người nghỉ hưu phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và độc lập tương đối với chính sách tiền lương, giảm dần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước.

  4. Các nội dung cải cách chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội trong thời gian tới:

  4.1. Về chính sách tiền lương:

Nội dung cải cách chính sách tiền lương gồm: Mức lương tối thiểu chung; quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa; thang lương, bảng lương; các chế độ phụ cấp; cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập, đặc biệt là vấn đề đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương) của khu vực sự nghiệp công lập. Cụ thể như sau:

4.1.1. Mức lương tối thiểu chung:

- Căn cứ vào các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của đất nước trong giai đoạn tới, gồm:

+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP);

+ Năng suất lao động xã hội;

+ Chỉ số giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê công bố;

+ Mức tiền công trên thị trường.

- Trên cơ sở các chỉ tiêu kinh tế xã hội dự kiến hàng năm của đất nước nêu trên, tính toán  xác định mức lương tối thiểu theo 4 phương pháp, gồm:

+ Từ nhu cầu tối thiểu;

+ Từ điều tra tiền công trên thị trường;

+ Từ khả năng nền kinh tế;

+ Từ chỉ số giá tiêu dùng.

Dựa vào kết quả tính toán của 4 phương pháp xác định lương tối thiểu nêu trên và khả năng ngân sách của nhà nước để điều chỉnh mức lương tối thiểu chung nhằm cải thiện đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động, phù hợp với mức tiền công trên thị trường lao động.

  4.1. 2. Về quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình (đại học hết tập sự) – tối đa (chuyên gia cao cấp bậc 3, tương đương mức lương Bộ trưởng) và hệ thống thang lương, bảng lương:

- Trên cơ sở quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa hiện nay là 1 - 2,34 - 10, tiếp tục hoàn thiện chức danh cán bộ và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức, viên chức để xếp ngạch, bậc lương cho phù hợp.

- Nghiên cứu mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa hiện nay (1 – 2,34 – 10) vào thời điểm thích hợp; trên cơ sở đó, tiếp tục thu gọn thang, bảng, ngạch, bậc lương cho phù hợp, khắc phục những bất hợp lý hiện nay về tương quan tiền lương giữa các loại cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị.

- Sau khi Luật cán bộ, công chức (Luật công vụ) được ban hành, nghiên cứu để thực hiện chế độ trả lương cán bộ, công chức theo vị trí việc làm thay cho chế độ chức nghiệp.

4.1.3. Về các chế độ phụ cấp:

- Tiếp tục hoàn chỉnh các chế độ phụ cấp hiện hành (theo chế độ tiền lương tháng 10/2004), gồm:

+ Chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo;

+ Chế độ phụ cấp kiêm nhiệm;

+ Chế độ phụ cấp ưu đãi và phụ cấp trách nhiệm theo nghề;

+ Chế độ phụ cấp đặc biệt;

+ Chế độ phụ cấp thu hút;

+ Chế độ phụ cấp khu vực,…

- Căn cứ vào các Nghị quyết của Hội nghị lần thứ ba, lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá X[27] và để góp phần xây dựng, củng cố đội ngũ công chức chuyên nghiệp, giữ và thu hút công chức làm việc trong cơ quan nhà nước và hệ thống chính trị, từng bước thực hiện mục tiêu tiền lương (gồm cả phụ cấp) của cán bộ, công chức đạt mức trung bình khá trên thị trường lao động, bổ sung phụ cấp công vụ đối với cán bộ, công chức hành chính (Nhà nước, Đảng, Mặt trận và các đoàn thể) từ Trung ương đến cấp xã (cấp xã là cán bộ chuyên trách và công chức chuyên môn hưởng lương)

  4.1.4. Về cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập:

  a) Đối với khu vực hành chính (Nhà nước, Đảng, Mặt trận và các đoàn thể):

Tiếp tục thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước, Đảng, Mặt trận và các đoàn thể.

b) Đối với khu vực sự nghiệp công lập:

Để từng bước nâng cao chất lượng các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công (giáo dục, y tế, văn hoá,...) và chủ động trong tạo nguồn cải cách tiền lương trong giai đoạn tới cho phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, cần thiết phải tách rõ nguồn trả lương giữa viên chức sự nghiệp công lập với công chức hành chính. Việc tách nguồn trả lương này thực hiện theo nguyên tắc Nhà nước và toàn xã hội cùng chăm lo, cộng đồng chia sẻ trách nhiệm trong việc củng cố, phát triển các hoạt động sự nghiệp; đồng thời phải bảo đảm quy mô và chất lượng các dịch vụ công (giáo dục, y tế, văn hoá...) mà Nhà nước đã cam kết cung cấp cho nhân dân không bị giảm sút và từng bước được nâng lên cho phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, bảo đảm ổn định xã hội. Theo đó, thực hiện đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương) đối với khu vực sự nghiệp như sau:

- Thay đổi cơ chế cấp phát ngân sách nhà nước đối với các hoạt động sự nghiệp công lập hiện nay sang cơ chế đơn vị sự nghiệp được thu phí (giá) dịch vụ theo hướng tính đủ tiền lương, từng bước tính đủ chi phí hoạt động. Nhà nước tiếp tục thực hiện đầu tư cơ sở vật chất như hiện nay, đơn vị sự nghiệp có trách nhiệm quản lý, sử dụng, duy tu, bảo trì, bảo dưỡng để phát triển. Đối với các đối tượng mà Nhà nước có chính sách (như người nghèo, cận nghèo, đồng bào dân tộc, diện chính sách xã hội,…) và các dịch vụ sự nghiệp không có thu (như phổ cập tiểu học, y tế dự phòng,...), tuỳ theo từng đối tượng và dịch vụ cụ thể, Nhà nước có cơ chế hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ chi phí dịch vụ; các đối tượng còn lại thanh toán theo đúng giá chi phí dịch vụ khi thụ hưởng các dịch vụ công. Đồng thời mở rộng tín dụng cho sinh viên vay để trả học phí, mở rộng để tiến tới thực hiện chế độ bảo hiểm y tế toàn dân. Yêu cầu đặt ra là không vì thay đổi cơ chế mà ảnh hưởng đến việc học tập, khám chữa bệnh của nhân dân và của các đối tượng mà Nhà nước có chính sách. Giá dịch vụ do Chính phủ quy định theo khung giá đối với từng loại dịch vụ và điều chỉnh hàng năm, trên cơ sở đó các Bộ, ngành, địa phương và đơn vị sự nghiệp tuỳ theo thẩm quyền quy định mức giá cụ thể phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và thu nhập của dân cư trên địa bàn.

- Để phù hợp với thay đổi cơ chế nêu trên, đơn vị sự nghiệp phải chuyển sang hạch toán thu – chi không vì mục đích lợi nhuận, trên cơ sở đó nâng cao chất lượng, phát triển hoạt động để vừa phục vụ tốt hơn nhu cầu của xã hội, vừa tự cân đối nguồn thu (trong đó có nguồn từ ngân sách nhà nước thanh toán cho các đối tượng chính sách và cho các dịch vụ không có thu mà Nhà nước phải bảo đảm) để trả lương và phụ cấp bằng hoặc cao hơn (nếu nguồn thu tốt) so với chế độ Nhà nước quy định. Ngân sách nhà nước không cân đối nguồn trực tiếp để chi thường xuyên, trong đó có chi lương cho khu vực sự nghiệp công lập như trước đây; đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích đầu tư (trong nước và nước ngoài) vào lĩnh vực sự nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.

Thực hiện đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương) đối với khu vực sự nghiệp nêu trên, thì chi ngân sách nhà nước cho các sự nghiệp công lập (giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học,...) sẽ tập trung phản ánh phần do Nhà nước bảo đảm (đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, thanh toán cho các đối tượng chính sách và các dịch vụ không có thu mà Nhà nước phải bảo đảm). Cơ chế mới sẽ tạo điều kiện để các đơn vị sự nghiệp phát triển hoạt động phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời vấn đề giải quyết tiền lương của khu vực sự nghiệp công lập  độc lập tương đối với việc giải quyết tiền lương của khu vực quản lý nhà nước, tạo thuận lợi cho tạo nguồn cải cách chính sách tiền lương giai đoạn tới.

4.2. Về chính sách bảo hiểm xã hội:

4.2.1. Mở rộng loại hình, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội:

Thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp theo lộ trình quy định của Luật Bảo hiểm xã hội như sau:

- Thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện từ ngày 01 tháng 01 năm 2008 đối với tất cả công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.

- Thực hiện bảo hiểm thất nghiệp từ ngày 01 tháng 01 năm 2009 đối với mọi người lao động là công dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng với người sử dụng lao động có sử dụng từ 10 lao động trở lên.

4.2.2. Thực hiện điều chỉnh tiền lương, tiền công đã đóng bảo hiểm xã hội để làm căn cứ tính mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội đối với người hưởng tiền lương, tiền công do người sử dụng lao động (khu vực ngoài nhà nước) quy định trên cơ sở chỉ số giá sinh hoạt từng thời kỳ.

4.2.3. Điều chỉnh nâng dần mức lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội để từng bước cải thiện đời sống của người nghỉ hưu. Việc điều chỉnh thực hiện theo cơ chế tạo nguồn và bước đi độc lập tương đối với chính sách tiền lương và theo hướng sử dụng nguồn từ bảo tồn và tăng trưởng (sinh lời) quỹ bảo hiểm xã hội, giảm dần phần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước. Cơ sở, nguyên tắc và mức điều chỉnh cụ thể như sau:

a) Cơ sở pháp lý điều chỉnh lương hưu:

Điều chỉnh lương hưu đối với người nghỉ hưu theo quy định tại Điều 53 Luật bảo hiểm xã hội như sau: “Lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh hoạt và tăng trưởng kinh tế. Mức điều chỉnh cụ thể do Chính phủ quy định”.

b) Nguyên tắc điều chỉnh:

- Việc điều chỉnh lương hưu tuỳ theo mức tăng chỉ số giá sinh hoạt (chỉ số giá tiêu dùng) và tăng trưởng kinh tế.

- Chính phủ quy định mức và thời gian điều chỉnh dựa trên mức tăng trưởng quỹ, khả năng cân đối quỹ bảo hiểm xã hội và khả năng cân đối ngân sách nhà nước. Nguồn kinh phí thực hiện như sau:

+ Đối với người nghỉ hưu trước ngày 01 tháng 10 năm 1995 do ngân sách nhà nước bảo đảm;

+ Đối với người nghỉ hưu từ ngày 01 tháng 10 năm 1995 trở đi do quỹ bảo hiểm xã hội bảo đảm.

c) Mức điều chỉnh:

Điều chỉnh mức lương hưu trong giai đoạn tới theo hướng: Căn cứ vào tình hình thực tế, hằng năm Chính phủ tính toán mức điều chỉnh lương hưu cụ thể, bảo đảm thực hiện theo quy định tại Điều 53 của Luật Bảo hiểm xã hội “Lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh hoạt và tăng trưởng kinh tế”, bảo đảm đời sống của người nghỉ hưu trên cơ sở khả năng cân đối ngân sách nhà nước, mức tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội và bảo đảm đồng thuận xã hội.

5. Các giải pháp tạo nguồn để thực hiện cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội :

  5.1. Đối với khu vực sự nghiệp dịch vụ công:

Thực hiện đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính (trong đó có cơ chế tiền lương) đối với khu vực sự nghiệp công lập theo hướng tính đủ tiền lương và từng bước tính đủ chi phí vào giá dịch vụ (Nhà nước bảo đảm chi cho các dịch vụ không có thu và chi cho các đối tượng chính sách xã hội).

5.2. Đối với khu vực hành chính (Nhà nước, Đảng, Mặt trận, các đoàn thể) và lực lượng vũ trang:

- Đẩy mạnh cải cách hành chính; tiếp tục tinh giản biên chế, khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính phù hợp với chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan hành chính (Nhà nước, Đảng, Mặt trận và các đoàn thể).

- Tiếp tục sử dụng 50% số tăng thu ngân sách, 10% tiết kiệm kinh phí quản lý hành chính (trừ tiền lương và các khoản có tính chất lương), 35% đến 40% nguồn thu để lại đơn vị theo chế độ quy định (nếu có) để bổ sung nguồn điều chỉnh tiền lương tăng thêm.

5.3. Cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước để tạo nguồn thực hiện cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội :

- Cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước theo hướng bảo đảm giữ vững tổng mức đầu tư toàn xã hội ở mức 42% - 43% GDP để bảo đảm GDP tăng trưởng từ 8,5% - 9%/năm. Hằng năm, tiếp tục dành 50% số tăng thu ngân sách nhà nước làm nguồn tăng lương; đồng thời tạo thuận lợi cho các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện quyền tự chủ về tài chính, về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, về biên chế và trả lương để thực hiện tốt theo cơ chế mới nêu trong Đề án này.

- Cơ cấu lại chi đầu tư từ ngân sách nhà nước theo hướng chỉ tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn; đồng thời có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh (bao gồm cả đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn); đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.

- Hằng năm cân đối từ ngân sách nhà nước và tiết kiệm khoảng 10% dự toán chi hành chính (trừ tiền lương và các khoản có tính chất lương) để bảo đảm chi đủ lương cho khu vực hành chính (Nhà nước, Đảng, Mặt trận, các đoàn thể) và lực lượng vũ trang; cân đối đủ chi lương hưu cho đối tượng về hưu trước ngày 01 tháng 10 năm 1995.

Trên đây là một số nội dung về chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, công chức, viên chức./.


Chuyên đề 2

CƠ CHẾ TUYỂN CHỌN, SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÍ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC - THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI

                                                                          Thạc sỹ Hoàng Mai

                                       Giảng viên Học viện Chính trị, Hành chính Quốc gia

 

I. NỀN CÔNG VỤ VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

1. Công vụ

1.1. Khái niệm, đặc trưng công vụ

          Khi xem xét thuật ngữ “công vụ”, có rất nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng thường được hiểu đó là những hoạt động không phải phục vụ cá nhân hay gia đình mà phục vụ toàn xã hội; là công việc do Nhà nước tiến hành chứ không phải do tư nhân đảm nhiệm.

          Tuy nhiên, theo nghĩa chung nhất, công vụ được hiểu là hoạt động mang tính quyền lực và pháp lý, được thực thi bởi đội ngũ cán bộ, công chức nhằm thực hiện các chính sách của Nhà nước trong quá trình quản lý toàn diện các mặt của đời sống xã hội.

          Hoạt động công vụ có những nội dung cơ bản như sau:

- Quản lý toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, hoạt động liên tục trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ quốc gia.

- Thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống, đảm bảo kỷ cương xã hội, thực hiện nghiêm chỉnh các quyền và nghĩa vụ công dân.

- Bảo vệ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền công vụ: Hoạt động công vụ dựa trên nền tảng tài chính to lớn mà không một tổ chức ngoài Nhà nước nào có được. Do vậy, trong quá trình thực thi công vụ đòi hỏi phải sử dụng các nguồn tài chính và công sản có hiệu quả, tránh lãng phí.

Công vụ có một số đặc trưng cơ bản để phân biệt với các hoạt động khác như sau:

- Công vụ luôn mang tính giai cấp và tính chính trị.

Nhiệm vụ của lãnh đạo đất nước gồm nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ hành chính. Mối quan hệ giữa nhiệm vụ chính trị (đường lối) và nhiệm vụ hành chính (thực thi đường lối) là mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Chính vì lẽ đó, hoạt động công vụ luôn mang tính giai cấp, tính chính trị. Tuy nhiên, công vụ là một hoạt động ổn định và tương đối độc lập với chính trị về mặt chuyên môn, nghiệp vụ. Hoạt động công vụ đòi hỏi phải có chuyên môn, nghiệp vụ nhất định và tuân thủ những quy định chặt chẽ.

- Công vụ nhằm phục vụ Nhà nước thông qua việc thực hiện các mục tiêu Nhà nước đề ra.

- Công vụ mang tính xã hội, bởi nền công vụ luôn gắn với xã hội thông qua hoạt động quản lý và hoạt động cung ứng các dịch vụ công... , do vậy, công vụ liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội nhằm thoả mãn các nhu cầu của nhân dân và xã hội.

- Công vụ hoạt động dựa trên ngân sách nhà nước, cụ thể là ngân sách nhà nước chi trả cho mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất, chi tiền lương công chức và các khoản chi khác.

- Hoạt động công vụ là hoạt động có tổ chức và tuân thủ những quy định bắt buộc theo trật tự, có thứ bậc chặt chẽ.

1.2 Quá trình phát triển của nền công vụ Việt Nam

Quá trình phát triển công vụ ở Việt Nam được chia làm 4 giai đoạn chính:

- Giai đoạn trước năm 1945: Nền công vụ Việt Nam bị ảnh hưởng bởi chế độ phong kiến (nền công vụ nhà Nguyễn) và chế độ thực dân (nền công vụ Pháp).

- Giai đoạn sau cách mạng tháng Tám thành công

Ngay sau khi giành được chính quyền, Chính phủ đã chú trọng đến việc xây dựng nền công vụ của chế độ dân chủ mới. Ngày 29.5.1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 188/SL về việc thiết lập một chế độ công chức mới và một thang lương chung cho các ngạch công chức Việt Nam. Đến ngày 20.5.1950 Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh 76/SL ban hành Quy chế công chức Việt Nam.

Theo Sắc lệnh này công chức là những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ ở trong hay ngoài nước. Như vậy phạm vi công chức giai đoạn này rất hẹp, chỉ gồm những người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước.

Những quy tắc công vụ cũng phụ thuộc vào quy luật của chiến tranh do đó trong điều kiện đất nước chia cắt hai miền, những quy định trong Sắc lệnh không được thực hiện trên thực tế.

- Giai đoạn từ 1954 đến 1986: Sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc (năm 1954), đất nước ta bước vào giai đoạn mới với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công CNXH ở miền Bắc và giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Thời kì này thuật ngữ "cán bộ công nhân viên chức" được sử dụng rộng rãi.

Sau giải phóng miền Nam năm 1975, đất nước ta tiến hành xây dựng CNXH trên phạm vi toàn quốc. Thời kì này Việt Nam áp dụng cơ chế quản lí kế hoạch hoá tập trung, trong đó Nhà nước quản lí và can thiệp trực tiếp vào mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy số lượng cán bộ công nhân viên chức thời kì này tăng lên nhanh chóng để phù hợp với xu hướng thành lập mới các cơ quan hành chính nhà nước (đặc biệt là cơ quan HCNN ở trung ương).

Giai đoạn này chúng ta chú ý hơn đến đội ngũ cán bộ công nhân viên chức song trên thực tế chưa phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước. Trong nhiều trường hợp Đảng bao biện làm thay Nhà nước, hoạt động công vụ ít mang tính chủ động, sáng tạo nên hiệu quả chưa cao.

Công vụ giai đoạn 1954 -1986 có một số đặc điểm sau:

+ Mang đậm màu sắc chính trị, phụ thuộc hẳn vào chính trị.

+ Tính chức nghiệp và chuyên môn hoá của công vụ không đảm bảo, đội ngũ cán bộ được thuyên chuyển linh hoạt (thậm chí tuỳ tiện) và chịu ảnh hưởng bởi sự can thiệp sâu của các cơ quan Đảng.

+ Nền công vụ chưa có quy chế hoạt động mang tính thống nhất, hệ thống. Hoạt động công vụ thường được giải quyết dựa trên các quy tắc đạo đức và giá trị xã hội là chủ yếu.

- Giai đoạn từ 1986 đến nay: Đảng và Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng nhà nước theo hướng pháp quyền đồng thời với việc mở rộng dân chủ. Để đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới đó đòi hỏi phải có một đội ngũ công chức có năng lực, có kinh nghiệm với phẩm chất chính trị và đạo đức tốt.

Công vụ giai đoạn này đã ít nhiều thể hiện một số đặc điểm của nền công vụ hiện đại như:

+ Tính pháp quyền: Các hoạt động diễn ra trong nền công vụ đã tuân thủ theo pháp luật.

+ Tính khoa học trong tổ chức bộ máy, trong giải quyết công việc của công chức, trong tổ chức công sở…

+ Tính dân chủ thể hiện qua việc nền công vụ phải gần dân, sát dân, đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của công dân. Ngoài ra tính dân chủ còn thể hiện ở tính công khai trong hoạt động công vụ.

+ Tính hiệu quả: Thể hiện qua hiệu quả kinh tế xã hội chung và hướng dần đến hiệu quả kinh tế.

2. Cán bộ, công chức

2.1. Khái niệm

Cán bộ, công chức nhà nước là những người làm việc cho nhà nước, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Do đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam cán bộ, công chức nhà nước gồm những người làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội và các doanh nghiệp nhà nước có trình độ chuyên môn hoặc giữ một chức vụ cụ thể nào đó. Cán bộ, công chức ở Việt Nam có thể được chia thành 4 nhóm chính:

- Những người được hình thành bằng con đường bầu cử, làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội.

- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức trong các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở

- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội.

- Thẩm phán và kiểm sát viên.

Công chức là một nhóm đối tượng đặc biệt trong số những người làm việc làm việc cho nhà nước. Công chức là một khái niệm lịch sử, nội dung của nó phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm chính trị, kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Do vậy không thể có một định nghĩa chung về công chức cho tất cả các quốc gia với những giai đoạn khác nhau của lịch sử. Tuy nhiên theo nghĩa thông thường, công chức được hiểu là những người làm việc trí óc, không trực tiếp sản xuất ra sản phẩm vật chất cụ thể, làm việc trong các cơ quan công quyền hoặc tổ chức công theo chế độ tuyển dụng, bổ nhiệm và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Do vậy, công chức các nước thường có những dấu hiệu nhận biết chung sau:

          - Là công dân của quốc gia đó;

          - Được tuyển dụng bởi Nhà nước;

- Làm việc trong các cơ quan nhà nước;

- Làm các công việc mang tính chất thường xuyên;

- Được trả lương từ ngân sách Nhà nước.

Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 (sửa đổi năm 2000 và 2003) ở Việt Nam có đối tượng điều chỉnh rất rộng, không chỉ gồm công chức mà còn bao hàm các đối tượng cán bộ khác. Điều này là hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của hệ thống chính trị và tình hình thực tế của quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ cán bộ, công chức của Việt Nam. Do vậy, khái niệm cán bộ, công chức ở Việt Nam không chỉ bó hẹp đối với những người làm việc trong các cơ quan nhà nước mà còn mở rộng đối với cả những người làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành[28], công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng vào biên chế, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc được giao giữ một công vụ thường xuyên, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, làm việc trong các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội sau:

- Văn phòng Quốc hội;

- Văn phòng Chủ tịch nước;

- Các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở;

- Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp;

- Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài;

- Đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và công an nhân dân;

- Bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội.

2.2 Vị trí vai trò của nền công vụ và  đội ngũ cán bộ, công chức

Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém".

Đội ngũ cán bộ, công chức có một vị trí hết sức quan trọng, đặc biệt trong nền hành chính nhà nước do mọi hoạt động của Nhà nước nói chung và quản lý hành chính nhà nước nói riêng, chủ yếu đều do công chức đảm nhiệm hoặc liên quan đến họ. Chức năng quản lý hành chính nhà nước nhằm phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ nhân dân được thực hiện thông qua công vụ và đội ngũ cán bộ công chức. Do đó, với ý nghĩa là một bộ phận trọng yếu của nền hành chính nhà nước thì ở bất kỳ nước nào, không phân biệt chế độ xã hội cũng đều mong muốn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực, phẩm chất chính trị tốt.

Hiểu rõ vai trò, vị trí của công vụ và cán bộ công chức trong nhiều năm qua, đặc biệt từ sau khi Pháp lệnh Cán bộ, công chức được ban hành năm 1998, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ , công chức được các cấp chính quyền, các ngành chức năng, các cơ quan hành chính nhà nước quan tâm thực hiện và đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các vấn đề về công chức, công vụ được đặt ra khá toàn diện từ khái niệm; quyền, nghĩa vụ; điều kiện phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ công vụ; chế độ đãi ngộ; khen thưởng và kỷ luật; bộ máy quản lý công chức... làm cơ sở thống nhất để xây dựng một nền công vụ hiệu quả, hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước.

Chiến lược con người và công tác cán bộ đóng vai trò quyết định trong công cuộc cải cách hành chính. Hội nghị Trung ương ba khoá VIII đó xem việc “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực là yếu tố quyết định chất lượng của bộ máy nhà nước”[29].

II.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TUYỂN DỤNG , SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÍ CÁN BỘ CÔNG CHỨC

1. Căn cứ pháp lí của công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lí cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Hoạt động tuyển dụng, sử dụng và quản lí cán bộ, công chức, viên chức ở Việt Nam được thực hiện dựa trên cơ sở của một số văn bản chủ yếu sau:

- Pháp lệnh Cán bộ công chức năm 1998, sửa đổi năm 2000 và 2003.

- Nghị định 116/2003/NĐ-CP ngày 10.10.2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lí cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước

- Nghị định 121/2006/NĐ-CP ngày 23.10.2006 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 116/2003/NĐ-CP.

- Thông tư 04/2007/TT-BNV ngày 21.6.2007 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10.10.2003 và Nghị định số 121/2006/NĐ-CP ngày 23.10.2006 của Chính phủ

- Thông tư 02/2008/TT-BNV ngày 3.3.2008 của Bộ Nội vụ sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư 04/2007/TT-BNV.

- Nghị định 117/2003/NĐ-CP ngày 10.10.2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lí cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước.

- Nghị định 09/2007/NĐ-CP ngày 15.01.2007 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 117/2003/NĐ-CP ngày 10.10.2003 của Chính phủ.

- Thông tư 07/2007/TT-BNV ngày 04.7.2007 hướng dẫn thực hiện Nghị định 09/2007/NĐ-CP ngày 15.01.2007 của Chính phủ và hướng dẫn một số điều của Nghị định 117/2003/NĐ-CP ngày 10.10.2003 của Chính phủ.

- Nghị định 115/2003/NĐ-CP ngày 10.10.2003 của Chính phủ về chế dộ công chức dự bị

- Nghị định 08/2007/NĐ-CP ngày 15.01.2007 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 115/2003/NĐ-CP ngày 10.10.2003 của Chính phủ.

- Thông tư 06/2007/TT-BNV ngày 04.7.2007 hướng dẫn thực hiện Nghị định 08/2007/NĐ-CP ngày 15.01.2007 của Chính phủ và hướng dẫn một số điều của Nghị định 115/2003/NĐ-CP ngày 10.10.2003 của Chính phủ.

- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 27/2003/QĐ-TTg ngày 19.2.2003 về việc ban hành quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo.

- Nghị định 71/2003/NĐ-CP ngày 19.6.2003 của Chính phủ về phân cấp quản lý biên chế hành chính, sự nghiệp nhà nước.

- Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14.12.2004 của Chính phủ tiền lương cán bộ, công chức.

- Quyết định 161/2003/QĐ-TTg ngày 4 tháng 8 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.

- Quyết định 40/2006/QĐ-TTg ngày 15 tháng 2 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006 – 2010.

- Quyết định 13/2006/QĐ-BNV ngày 6 tháng 10 năm 2006 của Bộ Nội vụ ban hành quy định vềc chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước đối với cán bộ, công chức.

- Quyết định 05/2007/QĐ-BNV ngày 17 tháng 4 năm 2007 của Bộ Nội vụ ban hành Quy chế chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức…

1. Thực trạng tuyển dụng cán bộ, công chức

Tuyển dụng theo quan điểm của quản trị học là quá trình tìm kiếm, thu hút và khuyến khích những cá nhân có đủ các tiêu chuẩn thích hợp tham gia vào các chức danh trống trong cơ quan.

Tuyển dụng cán bộ, công chức được hiểu là việc lựa chọn và chấp nhận một người tự nguyện gia nhập vào công vụ, sau khi đã xác nhận người đó có đủ tiêu chuẩn và điều kiện cho một công vụ nhất định trong bộ máy nhà nước.

Sau khi được tuyển dụng, công chức phải trải qua thời kỳ tập sự trước khi chính thức được bổ nhiệm vào một ngạch. Tập sự là việc người được tuyển dụng sau khi thi tuyển tập làm các chức trách, nhiệm vụ của ngạch công chức mà người đó sẽ được bổ nhiệm. Sau thời gian tập sự nếu công chức dự bị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và hoàn thành chương trình đào tạo tiền công vụ, họ sẽ được bổ nhiệm chính thức vào ngạch.

Tuyển dụng công chức là nội dung đặc biệt quan trọng trong quản lý công chức, là một khâu có tính chất quyết định chất lượng đội ngũ công chức thực thi công vụ. Vì vậy, muốn nâng cao năng lực công chức, thu hút những người có đủ phẩm chất, năng lực vào làm việc trong các cơ quan nhà nước thì  công tác tuyển dụng công chức phải được quan tâm đúng mức.

1.1.Về điều kiện tuyển dụng

Ứng viên tham gia tuyển dụng công chức Việt Nam phải đáp ứng đầy đủ 5 yếu tố cơ bản là năng lực, phẩm chất đạo đức và sức khoẻ.

- Là công dân của Việt Nam, có địa chỉ thường trú tại Việt Nam. Điều này xuất phát từ việc công chức chịu sự ràng buộc về chính trị, hoạt động để phục vụ chính trị, từ bổn phận, trách nhiệm với đất nước với dân tộc và cộng đồng nên họ phải mang quốc tịch Việt Nam

- Năng lực: Là khả năng làm việc trên thực tế, thể hiện qua trình độ và thâm niên công tác.

Văn bằng là điều kiện cần để đánh giá khả năng, trình độ và quá trình đào tạo của người dự tuyển. Song trên thực tế, không phải ai có văn bằng chứng chỉ cao là đã có năng lực tốt mà còn phụ thuộc vào khả năng hoạt động thực tế của cá nhân đó.

Ứng viên phải có chứng chỉ, văn bằng đào tạo phù hợp với yêu cầu của ngạch dự tuyển.

- Phẩm chất đạo đức: Ứng viên phải có thái độ chính trị rõ ràng, thể hiện thông qua tinh thần phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân, hết lòng vì bổn phận, tận tâm với công việc, có lý lịch rõ ràng... Thực tế hiện nay việc đánh giá người dự tuyển có phẩm chất đạo đức tốt hay không là rất khó mà chủ yếu chỉ đánh giá thông qua sơ yếu lí lịch.

- Sức khoẻ: Ứng viên phải có đủ sức khoẻ để đảm bảo cho công vụ được thực hiện liên tục, phù hợp với tính chất của quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính liên tục, ổn định.

- Có nguyện vọng gia nhập công vụ thể hiện qua đơn xin dự tuyển,

1.2 Các hình thức tuyển dụng cán bộ công chức

Tuyển dụng công chức ở các nước trên thế giới thường được tiến hành thông qua 3 hình thức cơ bản:

          - Tuyển dụng trực tiếp thông qua hồ sơ: Đây là hình thức lựa chọn ứng viên thông qua việc xem xét các văn bằng, chứng chỉ, giấy tờ trong hồ sơ mà không dựa trên bất kì việc sát hạch nào khác. Hình thức tuyển dụng này thường được áp dụng khi tuyển các công chức ở ngạch thấp.

- Tuyển dụng qua thi tuyển: Các ứng viên phải dự thi một số môn thi bắt buộc với hình thức thi viết, thi trắc nghiệm hoặc vấn đáp. 

Đây là hình thức bắt buộc trong chế độ tuyển dụng công chức ở Việt Nam hiện nay.

     - Tuyển dụng qua phân bổ, giới thiệu: Hình thức này được áp dụng trong trường hợp các cơ quan hành chính nhà nứơc có nhu cầu tuyển dụng công chức nhưng bản thân cơ quan đó không thể tự tìm và lựa chọn được mà phải dựa vào sự phân bổ hoặc giới thiệu.

Trước đây, Việt Nam có áp dụng hình thức tuyển dụng qua phân bổ chỉ tiêu từ các cơ sở đào tạo.

Hiện nay, một số nước đang áp dụng hình thức tuyển dụng qua giới thiệu thông qua tổ chức chuyên tìm kiếm những người tài giỏi, phù hợp với nhu cầu của cơ quan hành chính nhà nước (thông qua các công ty Headhunting - "săn đầu người")

1.3 Đánh giá chung về công tác tuyển dụng cán bộ, công chức ở Việt Nam

a. Những kết quả đã đạt được

Tuyển dụng cán bộ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc lựa chọn những người ưu tú, thực sự xứng đáng và thích hợp với công việc. Quá trình tuyển dụng công chức ở nước ta trong những năm qua có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là sau khi có Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Trước đây, việc tuyển dụng công chức đôi lúc còn mang tính chủ quan, thiếu công bằng. Trong công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm đến công tác này, đã thay đổi phương thức tuyển dụng từ tuyển dụng thẳng, tuyển dụng qua phân bổ hoặc giới thiệu sang hình thức tuyển dụng qua thi tuyển công khai.

- Từ khi có Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 đã có sự thay đổi cơ bản trong chế độ tuyển dụng cán bộ, công chức, đó là hình thức tuyển dụng bắt buộc qua thi tuyển. Pháp lệnh Cán bộ, công chức sửa đổi năm 2003 có một bước tiến mới là đã phân biệt khá rõ và phù hợp giữa công chức hành chính bắt buộc qua thi tuyển, còn viên chức sự nghiệp được áp dụng cả 2 hình thức là thi tuyển và xét tuyển  theo chế độ hợp đồng.

So với hình thức xét tuyển, thi tuyển có nhiều ưu điểm nổi bật hơn, do vậy xét tuyển hiện nay chỉ được coi là biện pháp tình thế, áp dụng đối với những nơi quá khó khăn trong tuyển dụng, thiếu công chức nghiêm trọng và chỉ trong những giai đoạn nhất định. Xét về lâu dài, thi tuyển công chức thể hiện nhiều ưu điểm hơn hẳn so với xét tuyển, đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Chỉ thông qua thi tuyển một cách nghiêm túc, chặt chẽ mới có thể lựa chọn chính xác những người có năng lực, phù hợp .

Công tác tuyển dụng công chức của các cơ quan hành chính nhà nước hiện nay đã được thực hiện dựa trên cơ sở pháp lí của các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Các khâu chuẩn bị như thông báo thi tuyển, nhận hồ sơ, xét duyệt hồ sơ đến khâu tổ chức thi tuyển như nội dung thi, đề thi, coi thi, chấm thi cơ bản đã được thực hiện đúng trình tự, thủ tục.

b.Những hạn chế, tồn tại

Trong quá trình thực hiện các quy định về tuyển dụng cán bộ, công chức ở Việt Nam còn bộc lộ một số điểm bất cập, hạn chế sau:

- Tuyển dụng công chức theo hình thức thi tuyển chung như hiện nay thường ít gắn với yêu cầu của vị trí công vụ cụ thể mà người công chức phải thực thi. Việc thi tuyển công chức trong cùng một ngạch chưa phân biệt rõ ràng các loại công chức làm việc ở các ngành, lĩnh vực và cơ quan hành chính khác nhau. Ví dụ cùng là công chức ngạch chuyên viên nhưng yêu cầu đối với công chức ngạch chuyên viên làm việc ở Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên môi trường, Bộ Tài chính hay công chức cấp xã không thể giống nhau. Do đó nếu không phân biệt được các vị trí công việc cụ thể để xác định được các tiêu chuẩn và yêu cầu cần thiết thì việc tuyển dụng chỉ mang tính hình thức chứ chưa thực sự tìm được người đáp ứng tốt nhất cho một vị trí công việc cụ thể.

- Nội dung thi tuyển chưa thực sự phù hợp với từng loại công chức ở từng ngành, lĩnh vực, đặc biệt chưa có những nội dung thi riêng cho từng nhóm vị trí công việc tương ứng. Thực tế cho thấy các ứng viên vào làm các vị trí khác nhau trong một ngạch tại một cơ quan vẫn thi một đề thi chung do đó kết quả thi tuyển chưa thực sự phản ánh chính xác khả năng làm việc trong tương lai của công chức.

- Pháp luật quy định cơ quan tuyển dụng phải thông báo ít nhất 30 ngày trước ngày thi tuyển công chức. Quy định này xét về hình thức là hoàn toàn hợp lí nhưng trên thực tế có thể tạo ra khe hở để các cơ quan hành chính nhà nước hạn chế khả năng tiếp cận thông tin và cơ hội đăng kí dự tuyển của ứng viên.

Ví dụ ngày 01.01.2008 Bộ X thông báo thi tuyển công chức, thời hạn cuối cùng nhận hồ sơ là ngày 07.01.2008, kì thi tuyển công chức được tiến hành ngày 15.2.2008. Việc thông báo thi tuyển công chức của Bộ X như trên hoàn toàn hợp pháp nhưng trên thực tế thời gian để ứng viên biết được thông tin và chuẩn bị hồ sơ dự tuyển là rất gấp do đó nếu cơ quan tuyển dụng muốn bưng bít thông tin thì đây là một giải pháp tốt.

- Việc tổ chức thi tuyển công chức hành chính đang được giao cho các Bộ, ngành ở Trung ương và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Qua thực tiễn các Bộ, ngành, địa pưhưong cho thấy các Hội đồng tuyển dụng được thành lập thay đổi qua từng đợt thi tuyển đồng thời những người làm công tác tuyển dụng cũng luôn biến động. Do đó việc tuyển dụng thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu những cán bộ có chuyên môn, có kinh nghiệm trong tuyển dụng.

- Khâu tổ chức thi tuyển tại một số Bộ ngành, địa phương còn có biểu hiện tiêu cực do không chấp hành nghiêm chỉnh các quy định trong chế độ tuyển dụng như quy định về Ban đề thi, Ban chấm thi, Ban coi thi... Công tác thanh tra kiểm tra còn lơi lỏng nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tuyển dụng

2. Thực trạng công tác quản lí, sử dụng cán bộ, công chức
2.1. Thực trạng trong quy hoạch, quản lý biên chế cán bộ, công chức

Quy hoạch cán bộ là hoạt động xác định kế hoạch phát triển nhân sự trong tổ chức như: số lượng, chất lượng nhân sự; Xác định nguồn cán bộ, công chức để phát triển trong tương lai… Kế hoạch hoá nguồn nhân lực thực chất là đề ra những mục tiêu, mục đích của phát triển nguồn nhân lực trong tương lai và xây dựng các kế hoạch cụ thể cho từng lĩnh vực có liên quan đến nhân sự.

Thực tế công tác quy hoạch cán bộ tại các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện chưa tốt, chưa xây dựng kế hoạch phát triển nhân sự một cách khoa học, vẫn mang tính chắp vá, ngắn hạn, chưa xây dựng được lộ trình dài hơi với những căn cứ khoa học của nó. Thực tế với việc phân bổ biên chế như hiên nay, tính chủ động của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc xác định nhu cầu nhân sự của chính tổ chức mình thường rất mờ nhạt.

Biên chế hành chính là số cán bộ, công chức trong biên chế nhà nước gồm những người được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, làm việc trong các cơ quan, tổ chức nhà nước.

Từ năm 1990, việc phân bổ chỉ tiêu biên chế hành chính sự nghiệp trong cả nước được bàn giao từ Uỷ ban kế hoạch nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch và đầu tư) sang Ban Tổ chức- Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội Vụ). Từ đó, hàng năm Ban tổ chức cán bộ Chính phủ căn cứ vào yêu cầu công tác quản lý kinh tế xã hội, bộ máy nhà nước, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức và yêu cầu cụ thể của các Bộ, nghành, địa phương để tiến hành phân bổ chỉ tiêu biên chế tới các đơn vị. Cách quản lý này thể hiện tính tập trung trong quản lý biên chế.

Đối với cán bộ, công chức cấp tỉnh, việc phân bổ biên chế hàng năm do Bộ Nội vụ thực hiện. Bộ Nội vụ tính toán số lượng biên chế cho các tỉnh theo cách tính tỷ lệ phần trăm trên tổng số cán bộ, công chức hiện có và tính thêm biên chế  để thực hiện những nhiệm vụ mới phát sinh. Cách tính toán biên chế này thường mang tính ước lượng, hình thức, phụ thuộc nhiều vào báo cáo và đề nghị của địa phương mà ít tiến hành điều tra, nghiên cứu tình hình thực tế tại địa phương. Hơn nữa, khoản chi thường xuyên của các cơ quan hành chính nhà nước đang được tính toán dựa trên số lượng biên chế do đó các cơ quan thường thường có tâm lý muốn đề nghị số lượng biên chế nhiều hơn so với nhu cầu thực tế, do vậy tạo ra thói quen không tiết kiệm.

Hiện nay, Chính phủ đang đẩy mạnh khoán chi hành chính cho các cơ quan nhà nước, sau một thời gian thực hiện thí điểm thành công. Mục đích của khoán chi hành chính là nhằm:

- Đổi mới cơ chế quản lý biên chế và kinh phí đối với các cơ quan hành chính.

- Thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức bộ máy tinh gọn để nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc của các cơ quan nhà nước;

- Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng kinh phí quản lý hành chính

- Nâng cao hiệu suất lao động, hiệu quả sử dụng kinh phí hành chính trong cơ quan nhằm tăng thu nhập cho cán bộ, công chức.

Nghị định 71/2003/NĐ-CP ngày 19.6.2003 của Chính phủ về phân cấp quản lý biên chế hành chính, sự nghiệp nhà nước quy định rõ thẩm quyền quản lý biên chế hành chính của các cơ quan, cụ thể như sau:

- Chính phủ phê duyệt tổng biên chế các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương; quy định định mức biên chế hành chính thuộc Ủy ban nhân dân các cấp.

- Thủ tướng Chính phủ quyết định chỉ tiêu biên chế hành chính đối với từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.

- Bộ trưởng Bộ Nội vụ giúp Chính phủ thống nhất quản lý về biên chế hành chính thuộc thẩm  quyền quản lý của Chính phủ trong phạm vi cả nước thông qua các hoạt động cụ thể như: Trình Chính phủ tổng biên chế hành chính các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và việc quy định định mức biên chế hành chính thuộc Uỷ ban nhân dân; Trình Thủ tướng Chính phủ chỉ tiêu biên chế hành chính hàng năm của từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện sau khi được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Theo ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ quyết định việc giao chỉ tiêu biên chế hành chính cho các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Theo ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ ban hành các định mức biên chế theo chuyên môn, nghiệp vụ của từng ngành, lĩnh vực trên cơ sở đề nghị của bộ, ngành để áp dụng trong phạm vi cả nước; Tổng hợp biên chế hành chính hàng năm của các cơ quan nhà nước; Tổ chức thực hiện công tác thống kê biên chế hành chính trong phạm vi cả nước; định kỳ hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ; Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quản lý và sử dụng biên chế của các bộ, ngành, địa phương theo quy định của Nghị định này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; Giải quyết khiếu nại, tố cáo về quản lý biên chế thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ quản lý biên chế trong bộ, ngành do mình quản lý trên các nội dung sau:

+ Chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ liên quan, xây dựng và đề nghị cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quy định các định mức biên chế mới và sửa đổi, bổ sung định mức biên chế hiện hành theo chuyên môn nghiệp vụ của ngành, lĩnh vực phụ trách để áp dụng trong phạm vi cả nước.

+ Chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị trực thuộc lập kế hoạch biên chế theo quy định.

+ Thẩm định biên chế hành chính của các đơn vị trực thuộc; lập kế hoạch biên chế của bộ, ngành mình gửi Bộ Nội vụ để tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ.

­+ Quyết định việc phân bổ, quản lý chỉ tiêu biên chế hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước do Bộ trực tiếp quản lý.

+ Thực hiện chế độ báo cáo thống kê hàng năm về tình hình thực hiện biên chế theo hướng dẫn của Bộ Nội vụ.

+ Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra đối với các cơ quan, đơn vị trực thuộc trong việc chấp hành các quy định về quản lý biên chế.

 + Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý những vi phạm về quản lý biên chế thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm sau:

+ Chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị trực thuộc, Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) lập kế hoạch biên chế theo quy định.

+ Tổ chức thẩm định biên chế của các đơn vị trực thuộc và Uỷ ban nhân dân cấp huyện; tổng hợp, lập kế hoạch tổng biên chế của địa phương.

+ Trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh: Phê chuẩn tổng biên chế hành chính hàng năm của địa phương để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở định mức biên chế do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và khả năng của ngân sách địa phương hàng năm.

+ Quyết định phân bổ chỉ tiêu biên chế hành chính đối với các cơ quan hành chính thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và đối với Ủy ban nhân dân cấp huyện.  

+ Thực hiện chế độ báo cáo thống kê về tình hình thực hiện biên chế theo hướng dẫn của Bộ Nội vụ.

+ Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra đối với các đơn vị trực thuộc và ủy ban nhân dân cấp huyện về quản lý biên chế.

+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý những vi phạm về quản lý biên chế thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

Như vậy, trong việc quyết định và quản lý biên chế hành chính ở Việt Nam có 5 loại cơ quan, cá nhân tham gia: Chính phủ; Thủ tướng Chính phủ; Bộ Nội vụ; Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Nhìn chung, theo cách quản lý biên chế hành chính như hiện nay tạo ra được sự quản lý thống nhất tổng số biên chế và điều chỉnh được sự biến động tăng, giảm biên chế trong cả nước. Đồng thời các Bộ, ngành và chính quyền địa phương cấp tỉnh cũng có những thẩm quyền cụ thể trong quản lý biên chế. Song trong điều kiện hiện nay, cách thức quản lý biên chế vẫn còn nhiều bất cập, cơ quan chuyên trách quản lý biên chế ở Trung ương về thực chất cũng không kiểm soát được biên chế thực tế ở các cơ quan, đơn vị.

Hiện nay, việc phân cấp quyết định và quản lý biên chế đã được thực hiện theo hướng trao nhiều quyền hơn cho cấp dưới. Tuy nhiên trên thực tế phân định thẩm quyền quyết định biên chế giữa các cơ quan chuyên trách quản lý biên chế ở Trung ương (Bộ Nội vụ) với các Bộ, ngành và chính quyền địa phương cũng còn một số hạn chế nhất định. Các Bộ, ngành và chính quyền địa phương không có quyền chủ động về xử lý biên chế khi nhu cầu thực tế đòi hỏi đồng thời không đề cao được trách nhiệm của các cơ quan này trong quản lý biên chế.

2.2 Thực trạng cơ chế bổ nhiệm cán bộ, công chức

 Bổ nhiệm là việc người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định cử cán bộ, công chức giữ một chức vụ lãnh đạo có thời hạn trong cơ quan, đơn vị.

Hiện nay, việc bổ nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo được thực hiện dưới hai hình thức là bổ nhiệm lần đầu và bổ nhiệm lại. Bổ nhiệm lần đầu là việc người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền lần đầu tiên quyết định cử cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo hoặc quyết định cử giữ chức vụ mới cao hơn chức vụ đang đảm nhiệm. Bổ nhiệm lại là việc người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo tiếp tục giữ chức vụ đang đảm nhiệm khi hết thời gian bổ nhiệm. Thời hạn mỗi lần bổ nhiệm là 5 năm trừ những đơn vị đặc thù có thể quy định thời hạn bổ nhiệm  ngắn hơn. Việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ, công chức lãnh đạo được thực hiện theo Quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo (ban hành kèm theo Quyết định số 27/2003/QĐ-TTg ngày 19.2.2003 của Thủ tướng Chính phủ).

Trình tự bổ nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo gồm những bước cơ bản như sau:

- Cơ quan, đơn vị có nhu cầu bổ nhiệm cán bộ công chức lãnh đạo trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt về chủ trương, số lượng và dự kiến phân công công tác đối với chức vụ sẽ được bổ nhiệm.

- Sau khi được cơ quan có thẩm quyền đồng ý, lãnh đạo đơn vị đề xuất nhân sự cụ thể cho vị trí cần bổ nhiệm.

- Trường hợp đề nghị cấp có thẩm quyền bổ nhiệm cần phải làm tờ trình kèm theo các giấy tờ cần thiết theo quy định của pháp luật hiện hành.

Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc từ chức đối với cán bộ, công chức lãnh đạo phải tuân thủ một số nguyên tắc như sau:

- Các cấp ủy đảng từ cơ sở trở lên trực tiếp lãnh đạo công tác bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức của cán bộ, công chức lãnh đạo.

- Thực hiện nguyên tắc tập trung, dân chủ, phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị.

- Việc bổ nhiệm, luân chuyển, miễn nhiệm phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và điều kiện, tiêu chuẩn của cán bộ, công chức.

- Cấp có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm thì cũng có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm lại, luân chuyển, miễn nhiệm hoặc chấp nhận đơn từ chức của cán bộ, công chức lãnh đạo.

Thời hạn mỗi lần bổ nhiệm là 5 năm với những điều kiện bổ nhiệm cụ thể như sau:

- Đạt tiêu chuẩn chung của cán bộ, công chức và tiêu chuẩn cụ thể của từng chức danh bổ nhiệm. Như vậy, nếu muốn bổ nhiệm đúng người có năng lực để đảm nhiệm công việc cần xây dựng được bộ tiêu chuẩn chức danh cho từng vị trí.

- Có đầy đủ hồ sơ cá nhân được cơ quan chức năng có thẩm quyền xác minh rõ ràng, trong đó có kê khai tài sản nhà, đất theo quy định. Tuy nhiên trên thực tế quy định này chưa phát huy được hiệu quả vì việc kê khai tài sản hiện mới chỉ mang tính hình thức do chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ.

- Tuổi bổ nhiệm lần đầu không quá 55 đối với nam và 50 đối với nữ. Riêng đối với chức vụ Trưởng phòng, phó trưởng phòng các quận huyện và tương đương, tuổi bổ nhiệm lần đầu không quá 45. Quy định này đảm bảo cán bộ, công chức lãnh đạo được bổ nhiệm có thể đảm nhiệm được ít nhất một nhiệm kỳ.

- Có đủ sức khoẻ để hoàn thành nhiệm vụ được giao;

- Không trong thời gian thi hành kỷ luật từ hình thức khiển trách đến cách chức.

Thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với cán bộ, công chức hiện nay được thực hiện như sau:

- Quốc hội: Bầu, phê chuẩn, miễn nhiệm, chấp nhận hoặc bác đơn từ chức đối với các chức danh như: Thủ tướng Chính phủ, các phó Thủ tướng, các Bộ trưởng.

- Thủ tướng Chính phủ: Phê chuẩn việc bầu cử và việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;  Miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng, Tổng cục trưởng Tổng cục thuộc Bộ, Chánh Thanh tra Bộ.

Đối với những chức danh cán bộ, công chức do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ để bổ nhiệm phải được Bộ Nội vụ thẩm định về nhân sự trước khi trình Thủ tướng quyết định.

- Bộ trưởng: Bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật Phó Tổng cục trưởng, Cục trưởng, Phó cục trưởng, Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng, Chánh Văn phòng, Phó Chánh Văn phòng, Phó Chánh Thanh tra Bộ, cấp trưởng và cấp phó của tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ.

- Hội đồng nhân dân các cấp: Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các ủy viên khác của Ủy ban nhân dân cùng cấp.

-  Chủ tịch ủy ban nhân dân: Phê chuẩn kết quả bầu các thành viên của Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; Điều động, đình chỉ công tác, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch, Phó chủ tịch ủy ban nhân dân cấp dưới; Phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân.

Việc bổ nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo ở Việt nam hiện nay phải tuân thủ theo những quy trình hết sức phức tạp, rườm rà song nhiều khi lại mang tính hình thức do đó trên thực tế đôi lúc không đáp ứng được yêu cầu của công vụ.

Sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 08/2004/NQ-CP về đẩy mạnh phân cấp giữa Trung ương với cấp tỉnh, việc bổ nhiệm Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã được thay đổi, cải cách bằng việc xoá bỏ cơ chế thoả thuận với Bộ quản lí ngành nhằm loại bỏ tính hình thức của cơ chế này đồng thời đề cao trách nhiệm của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân trong quyết định bổ nhiệm của mình.

Các điều kiện bổ nhiệm cán bộ, công chức như hiện nay chưa thể hiện rõ năng lực quản lí và khả năng tập hợp đồng nghiệp nhằm huy động sức mạnh tập thể để thực hiện mục tiêu chung của đơn vị.

Việc phân cấp trong bổ nhiệm, bổ nhiệm lại chưa thực sự đề cao trách nhiệm của người quản lí trực tiếp cán bộ, công chức lãnh đạo.

2.3 Thực trạng chế độ đãi ngộ đối với cán bộ công chức

Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức thể hiện qua chính sách tiền lương, các khoản phụ cấp, chế độ bảo hiểm xã hội, chế độ trợ cấp cho bản thân và gia đình, chính sách nhà ở và các điều kiện làm việc khác...

Tiền lương là yếu tố quan trọng để đảm bảo các nhu cầu vật chất và là động lực phấn đấu quan trọng nhất của công chức trong bộ máy nhà nước. Hầu hết các nước trên thế giới đều hết sức quan tâm đến chế độ tiền lương nhằm tạo động lực nâng cao chất lượng đội ngũ công chức.

Về nguyên tắc, việc trả lương phải đảm bảo các yêu cầu sau:

- Tiền lương của cán bộ, công chức với hệ số lương thấp nhất phải đủ đáp ứng được nhu cầu cơ bản của con người. Đảm bảo nguyên tắc công bằng trong chi trả tiền lương. 

- Tiền lương cán bộ, công chức có khả năng cạnh tranh với mức mà khu vực tư trả cho những người có năng lực và trách nhiệm tương tự. Đây là điều cần thiết nhằm giữ lại một số lượng thích hợp các tài năng để xây dựng một nền công vụ hiệu quả.

- Việc tăng khoản tiền lương trong nền công vụ bị ràng buộc bởi sự tăng trưởng kinh tế do đó cần thiết kế hệ thống lương linh hoạt để có thể thay đổi phù hợp với tình hình kinh tế của quốc gia.

- Dùng chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ để thu hút nguồn nhân lực tới các vùng khó khăn, tới các ngành, lĩnh vực trọng yếu nhằm điều hoà đội ngũ công chức và tạo sự phát triển đồng đều giữa các ngành, các địa phương.

Theo quy định của Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14.12.2004 của Chính phủ tiền lương cán bộ, công chức tỉ lệ thuận theo hệ số lương (hệ số lương được tính toán dựa trên ngạch và bậc công chức). Như vậy tiền lương công chức ở Việt Nam gắn chặt với trình độ được đào tạo (thể hiện qua văn bằng chứng chỉ) và thâm niên công tác mà chưa thực sự dựa trên kết quả công việc và mức độ phức tạp của công việc do đó chưa đảm bảo được nguyên tắc "bằng việc bằng lương".

Thời gian qua chúng ta đã có những cải cách đối với chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với công chức bằng việc tăng tiền lương tối thiểu và điều chỉnh hệ số và kéo dãn biên độ tiền lương. Tuy nhiên thực tế hiện nay cho thấy tiền lương công chức ở Việt Nam là quá thấp khi chúng ta so sánh với những chi phí để đảm bảo những nhu cầu cơ bản của công chức như thuê nhà ở, chi phí sinh hoạt, đi lại, học hành…Đặc biệt hơn khi tiền lương của công chức trong khu vực nhà nước bao giờ cũng thấp hơn tiền lương của nhân viên làm việc ở khu vực tư khi họ cùng đảm nhiệm những công việc như nhau về mức độ phức tạp và khối lượng hoạt động. Do đó tiền lương chưa trở thành động lực thực sự để công chức phân đấu làm việc trong nền công vụ.

Điều này lí giải tại sao thời gian qua ở Việt Nam tình trạng chảy máu chất xám từ khu vực công ra khu vực tư ngày càng trở nên trầm trọng. Việc ra đi này không chỉ dừng lại ở những công chức thường, tiền lương thấp, không có chức vụ mà đang có xu hướng xảy ra đối với cả những công chức đang nắm giữ những vị trí lãnh đạo trong các cơ quan hành chính nhà nước.

Các chính sách về bảo hiểm xã hội hiện hành dường như đã xoá nhoà gianh giới giữa những người làm việc trong khu vực nhà nước và khu vực tư. Do đó chính sách bảo hiểm xã hội đã không còn là động lực thu hút người lao động vào khu vực Nhà nước như trước đây.

2.4 Thực trạng trong đánh giá, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức

Đánh giá cán bộ, công chức là quá trình xem xét một cách có hệ thống những điểm mạnh, điểm yếu trong công việc của mỗi người cũng như tìm ra những biện pháp để cải thiện kết quả làm việc của họ.

Công tác đánh giá giữ vai trò quan trọng vì nó cho phép thừa nhận và khen thưởng thích đáng những người có thành tích, hỗ trợ, thúc đẩy, tăng hiệu quả công tác của những người hoạt động chưa hiệu quả.

Trên cơ sở của việc đánh giá mà các cơ quan sử dụng, quản lí quyết định các biện pháp phù hợp trong sử dụng, đãi ngộ, bố trí, cất nhắc, trong đào tạo, bồi dưỡng, trong khen thưởng, kỷ luật... đối với cán bộ, công chức.

Cán bộ, công chức thường được đánh giá trên các mặt:

- Về năng lực: Khả năng chung, khả năng chuyên môn thực hành, hiệu quả công tác và khả năng đảm nhận các công việc khác. Năng lực của cán bộ, công chức được thể hiện qua kết quả công tác (số lượng và chất lượng).

- Về phẩm chất đạo đức, tác phong nghề nghiệp, thái độ ứng xử và quan hệ đồng nghiệp.

- Về ý thức kỷ luật, ý thức chính trị, ý thức xã hội của công chức như ý thức chấp hành chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nội qui, quy chế của cơ quan. Tinh thần và thái độ phục vụ nhân dân trong công vụ.

Đánh giá cán bộ, công chức phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau:

- Phải thực hiện đánh giá kịp thời, thường xuyên theo năm công tác hoặc nhiệm kỳ đảm trách cương vị, không để quá thời hạn. Nhằm tạo điều kiện nhìn nhận sự hoạt động liên tục của công chức mới có sự đánh giá đầy đủ, toàn diện với công chức.

- Phải lấy các tiêu chí đã định làm căn cứ để đối chiếu với kết quả thực tế của công chức, không để yếu tố cá nhân làm ảnh hưởng đến các chuẩn mực đã định. Tuy nhiên, cần chú ý hoàn cảnh tác động một cách khách quan như: thiên tai, rủi ro, sức khoẻ...

-  Phải thực hiện công khai trong nhận xét giữa cơ quan có chức năng, quyền hạn đánh giá với cán bộ, công chức. Đồng thời phải thực hiện dân chủ trong đánh giá công chức.

Quy trình đánh giá cán bộ, công chức hiện nay gồm các bước cụ thể sau:

- Công chức viết bản tự nhận xét công tác theo nội dung

+ Chấp hành chính sách pháp luật của Nhà nước.

          + Kết quả công tác (số lượng công việc hoàn thành trong năm).

          + Tinh thần kỷ luật (ý thức tổ chức kỷ luật trong công tác, việc thực hiện nội quy cơ quan).

          + Tinh thần phối họp trong công tác (phối hợp công tác với cơ quan liên quan và đồng nghiệp).

          + Tính trung thực trong công tác (trung thực trong báo cáo cấp trên và tính chính xác trong các báo cáo).

          + Lối sống, đạo đức.

          + Tinh thần học tập nâng cao trình độ.

          + Tinh thần và thái độ phục vụ nhân dân.

Đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo đơn vị (được bổ nhiệm giữ các chức vụ cấp trưởng cấp phó phụ trách đơn vị từ cấp phòng, ban, chi nhánh) ngoài những nội dung trên còn phải đánh giá về kết quả hoạt động của đơn vị, khả năng tổ chức quản lý.

- Tập thể nơi cán bộ, công chức làm việc tham gia vào bản tự nhận xét và bình bầu.

- Thủ trưởng phụ trách công chức trực tiếp đánh giá theo từng tiêu chí trên và tham khảo ý kiến nhận xét của tập thể để tổng hợp, xếp loại công chức theo 4 mức độ: Xuất sắc, Khá, Trung bình và Kém.

- Thủ trưởng phụ trách trực tiếp đánh giá công chức thông báo ý kiến đánh giá đến từng công chức của đơn vị.

Công tác đánh giá công chức hàng năm hiện nay chủ yếu dựa vào kiểm điểm tập thể theo các tiêu chí chung nặng về hình thức như chấp hành chính sách pháp luật của Nhà nước, thái độ, ý thức hoàn thành nhiệm vụ được giao…. Mà chư thực sự đánh giá chính xác kết quả làm việc của công chức, chưa thực sự gắn với các nhiệm vụ cụ thể mà công chức đảm nhiệm.

Công tác khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chưc được thực hiện theo Luật thi đua khen thưởng, Nghị định 121/2005/NĐ-CP ngày 30.9.2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi đua, khen thưởng và các quy định trong Mục Khen thưởng, kỷ luật thuộc Pháp lệnh Cán bộ, công chức.

Khen thưởng là việc tuyên dương công trạng những công chức có công lao và thành tích xuất sắc khi thi hành công vụ.

Mỗi nước có những hình thức khen thưởng phù hợp với điều kiện kinh tế, chế độ xã hội, truyền thống và tập quán của mỗi nước. Ở Việt Nam hiện nay có các hình thức khen thưởng đối với cán bộ, công chức như sau[30] :

- Giấy khen

- Bằng khen

- Danh hiệu vinh dự của Nhà nước: Nhà giáo - nghệ sỹ ưu tú, nhân dân...

- Huy chương

- Huân chương:

Ngoài ra còn có các hình thức khen thưởng thi đua thuộc thẩm quyền Chính phủ, UBND các cấp gồm: Danh hiệu thi đua, Cờ thi đua (dành cho tập thể), giấy khen, bằng khen, Huân chương, Huy chương.

Danh hiệu thi đua tặng cá nhân đối với các ngành kinh tế, cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp gồm: Lao động tiên tiến; Chiến sỹ thi đua cơ sở; Chiến sĩ thi đua tỉnh, chiến sĩ thi đua Bộ, ngành TW; Chiến sỹ thi đua toàn quốc

Ngoài các hình thức khen thưởng trên, nếu công chức có những thành tích xuất sắc trong công tác có thể được nâng bậc lương sớm trước thời hạn.

Thực tế các quy định về khen thưởng đối với cán bộ công chức hiện nay còn mang tính hình thức. Một số hình thức khen thưởng và danh hiệu thi đua vẫn mang tính đại trà, cán bộ, công chức được nhận những hình thức khen thưởng và danh hiệu thi đua này chưa thực sự cảm thấy tự hào, trân trọng.

Khoản tiền thưởng cho từng danh hiệu thi đua được ấn định bằng những con số cụ thể như hiện nay là không phù hợp với sự biến đổi liên tục của chính sách tiền lương và sự phát triển của xã hội. Nên quy định một tỷ lệ nhất định với tiền lương tối thiểu để đảm bảo tính linh hoạt và thích nghi với chính sách tiền lương thay đổi.

Kỷ luật là hình thức trừng phạt đối với công chức chây lười, không hoàn thành nhiệm vụ được giao hoặc vi phạm quy chế công chức.

Hiện nay, Việt Nam đang áp dụng một số hình thức kỷ luật cơ bản đốivới cán bộ, công chức như sau:

- Khiển trách áp dụng đối với những cán bộ, công chức vi phạm lần đầu, mức độ nhẹ.

- Cảnh cáo áp dụng với người đã bị khiển trách nhưng vẫn tái phạm; những người có hành vi vi phạm ở mức độ nhẹ nhưng diễn ra thường xuyên hoặc những người vi phạm lần đầu nhưng tương đối nghiêm  trọng.

- Hạ bậc lương áp dụng với cán bộ, công chức có hành vi vi phạm nghiêm trọng. Hạ bậc là việc công chức bị hạ xuống bậc thấp hơn liền kề trong cùng ngạch chuyên môn.

- Hạ ngạch áp dụng với những hành vi nghiêm trọng mà xét thấy cán bộ công chức đó không còn đủ phẩm chất, đạo đức, tiêu chuẩn nghiệp vụ chuyên môn của ngạch đang đảm nhiệm.

- Cách chức: Công chức có chức vụ mà hành vi vi phạm nghiêm trọng xét thấy không thể tiếp tục để đảm nhiệm chức vụ được giao.

          - Buộc thôi việc: đây là hình thức kỷ luật nghiêm khắc nhất, buộc cán bộ, công chức phải chấm dứt công vụ.

Việc kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lí kỷ luật chưa được tiến hành nghiêm túc và thường xuyên. Tính rắn đe trong xử lí kỷ luật đối với những công chức có hành vi vi phạm rất mờ nhạt. Trách nhiệm thực thi công vụ của công chức chưa được quy định rõ nên còn có hiện tượng đùn đẩy, phó thác nhiệm vụ khi không có lợi ích tương ứng.

2.5 Thực trạng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính là một trong những biện pháp quan trọng nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức. Mục tiêu của đào tạo, bồi dưỡng công chức là trang bị những kỹ năng cơ bản, bổ sung kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ quản lý nhằm xây dựng đội ngũ công chức thành thạo về chuyên môn, có trình độ quản lý, có tư cách đạo đức để nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.

Thời gian qua, chúng ta đã thiết kế các chương trình đào tạo, bồi dưỡng linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của từng nhóm công chức. Cụ thể là chương trình bồi dưỡng về quản lý nhà nước chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính, chuyên viên, chương trình đào tạo tiền công vụ, chương trình bồi dưỡng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã. Song song với qúa trình này là sự đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng. Hầu hết đội ngũ giảng viên của Học viện hành chính đã được bồi dưỡng và thực hành phương pháp sư phạm hành chính, phương pháp sư phạm cho người lớn. Các phương pháp tình huống, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp làm việc theo nhóm đã từng bước được nghiên cứu và đưa vào thực hiện trong các khoá bồi dưỡng.

- Sự phân công giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cũng đã được ban hành, theo đó các Trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức các bộ, ngành Trung ương tập trung vào bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước ngạch cán sự, chuyên viên; các trường của tỉnh ngoài đối tượng là cán sự, chuyên viên còn bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước cho cán bộ, công chức cấp xã, cho đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện và cấp xã. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh quản lý thống nhất việc xây dựng chương trình, giáo trình, tài liệu.

- Đặc biệt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cũng có những bước tiến rõ rệt. Việc triển khai công tác này tập trung vào thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2001-2005 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tổng số cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng 5 năm qua khoảng 2.510.000 lượt người, trong đó có 407.000 về lý luận chính trị, 894.000 về kiến thức quản lý nhà nước, 1.076.000 về chuyên môn, 37.000 về ngoại ngữ và 96.000 về tin học. Một kết quả khác đáng chú ý là sau đợt bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004-2009, trong năm 2004 đã có gần 292.000 đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp được bồi dưỡng trang bị kiến thức và kỹ năng hoạt động.

Phân cấp trong quản lý và thực hiện công tác đào tạo cán bộ, công chức ở Việt Nam thời gian qua đã phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong việc quản lý và thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân sự làm việc trong bộ máy nhà nước. Việc phân cấp đã tạo ra sự chủ động của các Trường cán bộ quản lí Bộ, ngành, các Trường Chính trị tỉnh trong việc tổ chức thực hiện đối với chương trình đào tạo trung cấp hành chính, chương trình bồi dưỡng chuyên viên, chương trình đào tạo tiền công vụ…

Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các đơn vị chức năng thực hiện nhiệm vụ quản lý với cơ sở đào tạo ở một số Bộ, ngành và địa phương chưa thật sự chặt chẽ và hiệu quả. Trước hết, về sự phối hợp giữa các đơn vị chức năng quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Thực tế cho thấy ở một số địa phương sự phối hợp giữa Ban Tổ chức tỉnh ủy và Sở Nội vụ trong việc xây dựng quy hoạch đào tạo cán bộ còn thiếu chặt chẽ, chưa hình thành kế hoạch chung cho địa phương. Một số Sở Nội vụ không quản lý được việc sử dụng chỉ tiêu đào tạo do sự phối hợp với Sở Tài chính, Sở kế hoạch và đầu tư chưa tốt. Ngoài ra, việc chỉ đạo hướng dẫn nghiệp vụ các Trường chính trị địa phương chưa rõ; còn chồng chéo trong việc chỉ đạo hướng dẫn nghiệp vụ đào tạo, về nội dung chương trình và mối quan hệ phụ thuộc giữa  Trường Chính trị với Tỉnh ủy hay ủy ban nhân dân tỉnh.

2.6 Đánh giá chung về công tác quản lí cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

a. Những kết quả đạt được

          - Công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức tiếp tục được cải cách theo hướng rõ hơn về phân công và phân cấp. Đã có sự phân định khá rõ về trách nhiệm, thẩm quyền quản lý đội ngũ cán bộ, công chức hành chính của Thủ tướng Chính phủ, của các bộ và chính quyền địa phương. Thẩm quyền và trách nhiệm trong bổ nhiệm, sử dụng, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức cũng đã được xác định khá rõ cho người đứng đầu các cơ quan hành chính và thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công. Đặc biệt, thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công được nâng cao đáng kể phù hợp với các cơ chế đã có về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công.

- Với Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi năm 2003, tiếp tục có sự phân loại rõ hơn đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị nước ta: cán bộ qua bầu cử, công chức hành chính, viên chức sự nghiệp, cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo trong doanh nghiệp nhà nước, cán bộ chuyên trách và công chức cấp xã. Trên cơ sở đó đã xác định những yêu cầu, tiêu chuẩn về trình độ, năng lực phẩm chất, cơ chế quản lý và chế độ, chính sách đãi ngộ thích hợp. Chủ trương, quan điểm của Đảng về tách rõ hành chính với doanh nghiệp, với sự nghiệp đã được cụ thể hoá và triển khai thông qua các quy định, thể chế về công chức hành chính, viên chức sự nghiệp.

- Đã tiến hành rà soát, đánh giá lại hệ thống các tiêu chuẩn chức danh công chức hiện có để từ đó có những điều chỉnh cũng như ban hành mới một số chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức, viên chức. Cho đến nay đã có khoảng hơn 200 chức danh tiêu chuẩn cán bộ, công chức đang được sử dụng; góp phần quan trọng vào công tác quản lý và sử dụng cán bộ, công chức. Đặc biệt, triển khai Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi 2003, đã ban hành chức danh tiêu chuẩn công chức chuyên môn của chính quyền cấp xã, thông qua đó đẩy nhanh quá trình chuẩn hoá và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở.

- Việc thi nâng ngạch đối với chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp và các ngạch tương đương tiếp tục được triển khai, qua đó tạo ra sự thay đổi tích cực góp phần nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức.

- Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức bước đầu được đổi mới theo hướng phù hợp với các đối tượng đào tạo, bồi dưỡng, đã xây dựng các chương trình đào tạo theo chức danh, theo vị trí công việc do đó việc học tập gắn chặt hơn với yêu cầu công việc.

          - Chính sách tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội đã có những cải cách bước đầu góp phần ổn định cuộc sống của cán bộ, công chức. Đề án cải cách chính sách tiền lương đã điều chỉnh lộ trình và bước đi trong cải cách tiền lương so với mục tiêu ban đầu đặt ra đến 2005 là cải cách cơ bản tiền lương cán bộ, công chức.

b. Hạn chế  

- Hiện tại chúng ta vẫn đang áp dụng chế độ quản lí công chức theo mô hình chức nghiệp tức là phân loại công chức theo ngành chuyên môn, trong các ngành công chức được xếp vào các ngạch và bậc khác nhau. Việc phân định các ngạch công chức chủ yếu dựa vào trình độ đào tạo (văn bằng, chứng chỉ) ít chú ý đến năng lực làm việc thực tế của cán bộ, công chức. Từ cơ chế quản lí như vậy dẫn đến một số những yếu kém trong công tác quản lí cán bộ, công chức như công vụ là một hệ thống “đóng”, tính cạnh tranh thấp, coi trọng vấn đề bằng cấp hơn là nang lực thực tế của công chức; việc thăng tiến vẫn chủ yếu dựa trên yếu tố bằng cấp và thâm niên...

- Yếu kém lớn nhất là chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, phát triển kinh tế – xã hội. Mặc dù công tác đào tạo, bồi dưỡng được tăng cường, số lượng cán bộ, công chức qua các lớp, khoá đào tạo, bồi dưỡng khá lớn, nhưng nhìn chung chất lượng, nhất là kiến thức quản lý nhà nước mới với kỹ năng nghiệp vụ hành chính chưa thực sự. Nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tuy đã có một số đổi mới, nhưng nhìn chung vẫn chưa có những cải cách cơ bản như Chương trình tổng thể đã đặt ra. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức suy thoái phẩm chất, đạo đức, tham nhũng, còn vô cảm trước yêu cầu của dân, của xã hội.

- Các thể chế mang tính đổi mới, hiện đại hóa trong quản lý cán bộ, công chức chậm được triển khai (ví dụ: như phân cấp, tăng cường trách nhiệm và thẩm quyền của người đứng đầu các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp), dẫn đến các cơ quan hành chính vẫn ôm đồm nhiều việc và can thiệp sâu vào hoạt động của các đơn vị cơ sở.

- Công tác đánh giá, luân chuyển, đề bạt cán bộ, công chức ít được thay đổi, áp dụng các phương pháp khoa học trong đánh giá kết quả công tác của từng cán bộ, công chức để thay thế phương pháp đánh giá truyền thống chủ yếu dựa vào ý kiến đánh giá, bình bầu của tập thể.

- Việc chỉ đạo tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các thể chế đã có về cán bộ, công chức rất chậm và thiếu kiên quyết. Để đưa các thể chế phân biệt khá rõ công chức hành chính và viên chức sự nghiệp vào cuộc sống, đòi hỏi các bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp phải chỉ đạo triển khai cụ thể trong phạm vi trách nhiệm của mình, đặc biệt là phải giải quyết mối quan hệ về phân cấp quản lý cán bộ, công chức giữa bộ, tỉnh và các đơn vị sự nghiệp trực thuộc. Tuy nhiên, trong thực tế cách quản lý cán bộ, công chức ở khá nhiều bộ, ngành Trung ương và địa phương về cơ bản vẫn như cũ. Một số quy định mới chậm được thực hiện và nhiều công việc trong quản lý cán bộ, công chức đáng ra do đơn vị cơ sở giải quyết thì các bộ, tỉnh vẫn phụ trách.

- Việc kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý cán bộ, công chức có vi phạm pháp luật làm không thường xuyên và không nghiêm. Tính răn đe, làm gương trong xử lý kỷ luật cán bộ, công chức hầu như rất mờ nhạt. Chính vì vậy, đạo đức công vụ, thái độ phục vụ dân, tổ chức cán bộ, công chức không được tăng cường.

III. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC CHỈ ĐẠO ĐỐI VỚI VIỆC ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TUYỂN DỤNG, SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÍ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

1.Quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với việc đổi mới công tác tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức

Thực hiện đường lối đổi mới, thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách về cải cách hành chính trong đó cải cách công vụ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là một nội dung quan trọng

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong công tác tuyển dụng, sử dụng và qản lí cán bộ, công chức ở Việt Nam thời gian qua vẫn còn bộc lộ những yếu kém hạn chế nhất định. Đặc biệt trong giai đoạn tới công tác quản lí cán bộ công chức tiếp tục chịu sự tác động của các yếu tố quan trọng sau đây:

- Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực vừa đặt ra thời cơ vừa đặt ra thách thức đổi mới, cải cách nền hành chính. Kinh tế mở và thực hiện các cam kết hội nhập thì hành chính cũng phải chủ động và linh hoạt mở theo. Năng lực hoạch định chính sách, ban hành thể chế của đội ngũ cán bộ, công chức ở tầm vĩ mô có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Mặt khác, đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có vai trò quan trọng trong tổ chức thực hiện các cơ chế, pháp luật mới, trong quản lí và điều tiết quá trình phát triển và hội nhập quốc tế.

Cùng với quá trình hội nhâp quốc tế, các thể chế về quản lí nhân sự hành chính cũng phải được thay đổi cho phù hợp với thông lệ quốc tế để tạo ra sự tương ứng về trình độ và cơ chế quản lí với các nước trên thế giới.

 - Quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội, các yêu cầu về phát huy dân chủ cơ sở, thu hút sự tham gia của dân vào quản lý nhà nước và tính công khai, minh bạch trong quản lí hành chính nhà nước buộc các cơ quan hành chính, cán bộ công chức phải thay đổi về tư duy, cách thức hoạt động và thái độ phục vụ nhân dân. Cán bộ, công chức phải thực sự là công bộc của dân, hướng tới mô hình hành chính hiện đại khi coi công dân là khách hàng của nhà nước.

- Các tiến bộ của khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đòi hỏi cán bộ, công chức luôn nâng cao trình độ, tiếp cận và ứng dụng được các thành tựu mới của khoa học, công nghệ vào hoạt động quản lí hành chính nhà nước

Theo tinh thần Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí của bộ máy nhà nước, cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và tận tuỵ phục vụ nhân dân.

Những chủ trương và giải pháp lớn mà Nghị quyết 17-NQ/TW đề ra nhằm tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức gồm:

- Xác định rõ vị trí, cơ cấu và tiêu chuẩn chức danh công chức trong từng cơ quan của Nhà nước để làm căn cứ tuyển dụng và bố trí, sử dụng cán bộ, công chức.

- Làm tốt công tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch cán bộ, công chức; thông qua việc đánh giá, phân loại cán bộ, công chức xác định rõ nhữg người đủ hoặc không đủ tiêu chuẩn. Có chính sách thích hợp đối với những người không đủ tiêu chuẩn phải đưa ra khỏi bộ máy.

- Đổi mới chế độ tuyển dụng và quản lí cán bộ, công chức. Tuyển dụng cán bộ, công chức phải căn cứ vào nhu cầu, vị trí, cơ cấu và tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức. Thông qua thi tuyển, sát hạch kiểm tra để tuyển dụng cán bộ, công chức đủ phẩm chất năng lực vào làm việc trong bộ máy.

Cơ quan quản lí nhà nước về cán bộ, công chức có chức năng tham mưu xây dựng chính sách pháp luật, kiểm tra thanh tra việc thực hiện và đánh giá việc thi tuyển, thi nâng ngạch công chức. Thủ trưởng cơ quan hành chính chịu trác nhiệm kiểm tra thanh tra việc thực hiện công vụ và chịu trách nhiệm về những vi phạm trong thực thi công vụ của cán bộ, công chức thuộcphạm vi mình quản  lí.

Cơ quan quản lí trực tiếp cán bộ, công chức chịu trách nhiệm đánh giá phân loại cán bộ, công chức. Việc đánh giá, phân loại cán bọ công chức phải căn cứ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.

Trong bố trí, phân công nhiệm vụ cho cán bộ, công chức cần đảm bảo sự ổn định để chuyên môn hoá đồng thời có sự điều chuyển cần thiết để đào tạo bồi dưỡng cán bộ và phòng ngừa tiêu cực.

Thực hiện thi tuyển đối với một số chức danh lãnh đạo gắn với chuyên môn nghiệp vụ trong bộ máy hành chính nhà nước và các đơn vị sự nghiệp.

- Đổi mới công tác quản lí biên chế:

Đối với cơ quan nhà nước: Trên cơ sở xây dựng chức danh, tiêu chuẩn, vị trí việc làm và cơ cấu công chức, từng cơ quan nhà nước rà soát đội ngũ công chức đối chiếu với tiêu chuẩn để bố trí lại cho phù hợp. Tiếp tục thực hiện mạnh hơn nũa chế độ hợp đồng đối với một số loại việc trong các cơ quan nhà nước.

Đối với các đơn vị sự nghiệp công: Căn cứ vào nhu càu hoạt động thực tế để xác định số lượng các vị trí việc làm cho từng đơn vị sự nghiệp dịch vụ công. Thực hiện chế độ hợp đồng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công.

- Thực hiện cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách khác đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Tiếp tục thực hiện cải cách chế độ tiền lương, rút gọn bậc trong các thang, bảng lương hiện tại, thực hiện lương chuyên môn cộng phụ cấp để khuyến khích công chức phấn đấu theo con đường chuyên môn, khi không còn giữ chức vụ thì thôi hưởng phần phụ cấp chức vụ. Thực hiện từng bước tiền tệ hoá tiền lương, tính đủ các bộ phận cấu thành lương để cán bộ, công chức sống được bằng lương. Nghiên cứu có chính sách, chế độ thích hợp về nhà ở cho cán bộ, công chức. Nhà nước có chính sách xây dựng và sử dụng nhà công vụ, quy định rõ chế độ, tiêu chuẩn sử dụng nhà công vụ dể áp dụng trong cả hệ thống chính trị. Xây dựng chế độ phụ cấp công vụ đối với cán bộ, công chức hành chính, bao gồm cả cán bộ, công chức đảng, đoàn thể trong hệ thống chính trị.

- Đổi mới công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức.

Đổi mới phương thức và nội dung các chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức sát với thực tế, hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình thực thi công vụ, nâng cao kỹ năng hành chính. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng hành chính bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động của cơ quan hành chính, nhất là trong giải quyết các yêu cầu của nhân dân, doanh nghiệp. Thực hiện cơ chế đào tạo tiền công vụ và đào tạo, bồi dưỡng trong công vụ theo định kỳ bắt buộc hàng năm; thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm.

Coi trọng công tác giáo dục đạo đức và phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức để nâng cao lòng yêu nước, yêu chế độ, niềm tự hào dân tộc và tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của dội ngũ cán bộ, công chức.

- Giảm cấp phó trong bộ máy

Để khắc phục tình trạng quá nhiều cấp phó trong cơ quan hành chính, trước hết cần tập trung đổi mới phương thức, lề lối làm việc của các cơ quan; giảm hội họp, phân định rõ trách nhiệm của tập thể và người đứng đầu cơ quan. Từ đó, giảm hợp lý cấp phó trong các cơ quan hành chính nhà nước.

2. Mục tiêu

Mục tiêu của đổi mới công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lí công chức viên chức là nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất đạo đức chính trị vững vàng và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Ngày 7.11.2007, Chính phủ ra Nghị quyết số 53/2007/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Bộ máy nhà nước. Trong đó xác định những nhiệm vụ chủ yếu cần phải thực hiện trong thời gian tới gồm:

- Xây dựng và ban hành Luật Công vụ.

- Hoàn thiện tiêu chuẩn, chức danh cán bộ, công chức.

- Xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức.

- Đổi mới chế độ tuyển dụng và quản lý cán bộ, công chức.

- Hoàn thiện Quy chế đánh giá, phân loại cán bộ, công chức.

- Thực hiện thi tuyển một số chức danh công chức lãnh đạo gắn với chuyên môn nghiệp vụ trong bộ máy hành chính nhà nước và các đơn vị sự nghiệp.

- Thực hiện cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ, công chức.

- Xây dựng chế độ phụ cấp công vụ đối với cán bộ, công chức hành chính, bao gồm cả cán bộ, công chức đảng, đoàn thể trong hệ thống chính trị.

- Nghiên cứu xây dựng chính sách, chế độ thích hợp về nhà ở cho cán bộ, công chức.

- Nghiên cứu chính sách xây dựng và sử dụng nhà công vụ trong hệ thống chính trị.

- Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; thực hiện cơ chế đào tạo tiền công vụ và đào tạo, bồi dưỡng trong công vụ theo định kỳ bắt buộc hàng năm; thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm.

- Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính; xây dựng và áp dụng chế độ thanh tra, kiểm tra công vụ ở các cấp, kể cả trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị.

IV. PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TUYỂN DỤNG, SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÍ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

1. Phương hướng, giải pháp chung

- Đổi mới căn bản tư duy về một nền công vụ mới phục vụ cho nền kinh tế thị trường trong bối cảnh gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và hội nhập quốc tế cùng với xu hướng dân chủ hoá đời sống xã hội đòi hỏi một nền công vụ năng động trong quản lí nhà nước và trách nhiệm trong phục vụ nhân dân. Trong xu hướng đó, Việt Nam cần kết hợp cả hệ thống công vụ "chức nghiệp" cho các vị trí chuyên môn và hệ thống công vụ "việc làm" cho những vị trí lãnh đạo trong hệ thống hành chính để nền công vụ trở thành một hệ thống mở, mang tính cạnh tranh nhiều hơn và hoạt động hiệu quả hơn.

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quản lí cán bộ công chức. Các cơ quan chức năng tham mưu cho cấp ủy đảng cùng cấp để ban hành các nghị quyết, chỉ thị về các chủ trương, biện pháp, chương trình, kế hoạch cụ thể nhằm đẩy mạnh việc đổi mới công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lí cán bộ, công chức.

Tăng cường công tác kiểm tra, đề cao trách nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước trước cấp uỷ đảng trong triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức

- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tuyển dụng, sử dụng và quản lí cán bộ, công chức

Một hệ thống pháp luật với những quy định cụ thể, rõ ràng và phù hợp là điều kiện tiên quyết nhằm tạo cơ sở cho việc quản lí cán bộ, công chức. Do đó muốn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, các văn bản quy định về vấn đề tuyển dụng, sử dụng và quản lí cán bộ, công chức phải được hoàn thiện theo hướng chi tiết hoá hơn.

+ Xây dựng và sớm ban hành Luật Công vụ nhằm tạo khung pháp lý cho các hoạt động quản lí cán bộ, công chức

+ Ban hành các văn bản hướng dẫn của Chính phủ và các Bộ, cơ quan ngang Bộ đặc biệt là các văn bản hướng dẫn của Bộ Nội vụ.

- Xác định rõ chức năng nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền trong quản lí và sử dụng cán bộ, công chức. Từ đó tiến hành phân cấp mạnh hơn nữa trong quản lí nhân sự với nguyên tắc cơ quan nào quản lí có hiệu lực hiệu quả tốt hơn thì giao cho cơ quan đó nhằm tạo ra sự chủ động cho các cơ quan cấp dưới.

 2. Phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm đổi mới công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lí cán bộ, công chức.

2.1 Đổi mới công tác tuyển dụng cán bộ

Muốn tuyển dụng được đội ngũ cán bộ công chức có năng lực, có phẩm chất tốt cần tiến hành một số hoạt động:

- Xây dựng Bản mô tả công việc cho các vị trí trong cơ quan hành chính nhà nước từ đó xác định rõ tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức. Chỉ nên yêu cầu những tiêu chuẩn thực sự cần thiết cho công việc đối với người dự tuyển để tránh lãng phí cho người dân, Nhà nước và xã hội. Tránh tình trạng vị trí nào cũng đòi hỏi trình độ đại học, ngoại ngữ, tin học trong khi đó thực tế những công việc này không nhất thiết phải sử dụng đến những kiến thức đó.

- Tiến hành thi tuyển, xét tuyển khách quan, công bằng, minh bạch từ khâu xây dựng đề thi, thành lập hội đồng tuyển dụng đến công bố kết quả tuyển dụng. Tạo cơ chế giám sát hiệu quả từ các cơ quan chức năng và xử lí kỷ luật nghiêm minh với các hành vi vi phạm của người dự tuyển, giám thị và thành viên Hội đồng tuyển dụng

- Phân cấp mạnh hơn nhằm tạo điều kiện chủ động cho các đơn vị sử dụng  trong việc tuyển dụng cán bộ, công chức đặc biệt là viên chức trong các đơn vị sự nghiệp.

2.2 Đổi mới công tác quy hoạch và quản lí biên chế

Rà soát, đánh giá đội ngũ công chức hành chính để cơ cấu lại công chức, bố trí lại theo từng vị trí, xác định rõ chức trách, giữ lại những công chức đủ trình độ, năng lực và phẩm chất trong cơ quan hành chính.

Để nâng cao trách nhiệm và phát huy quyền chủ động của các Bộ, ngành, địa phương trong quy hoạch và quản lý biên chế hành chính và tạo điều kiện cho các cơ quan hành chính phát huy hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý cần tiến hành phân cấp quản lý biên chế mạnh cho các cấp.

Phân cấp quản lý biên chế là việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm về quản lý biên chế đối với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và khả năng ngân sách nhà nước hàng năm của Bộ, ngành, địa phương.

Cần thay đổi quan niệm công chức là làm việc ổn định, suốt đời, cần thực hiện các biện pháp đào thải linh hoạt để tạo điều kiện cho các công chức có năng lực vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước.

2.3. Vấn đề đánh giá và khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức

          - Cần thay đổi cách cán bộ, công chức dựa trên kiểm điểm, nhận xét tập thể một cách chung chung bằng việc đánh giá công chức dựa trên các tiêu chí kết quả đầu ra, kết quả thực hiện nhiệm vụ của họ.

- Cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hợp lí, khoa học để có những kết luận chính xác về phẩm chất chính trị, năng lực công tác của cán bộ, công chức. Những tiêu chí đánh giá cần thiết kế theo hướng được lượng hóa rõ ràng cụ thể theo từng vị trí chức danh dựa trên Bản mô tả công việc của vị trí đó.

- Xây dựng và đưa vào thực hiện phương pháp khoa học đánh giá kết quả công tác của cán bộ công chức. Đánh giá cán bộ công chức cần được tiến hành thường xuyên, định kì và đột xuất thông qua các phương pháp đánh giá hiện đại như chấm điểm, xử lí tình huống, trắc nghiệm…

- Cần có những quy định về khoản tiền hợp lí kèm theo các hình thức khen thưởng. Số tiền đó nên ấn định theo tỷ lệ nhất định với tiền lương tối thiểu không nên quy định số tiền bằng con số tuyệt đối vì khó phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội và chính sách tiền lương.

          - Phải đảm bảo các hình thức khen thưởng đủ làm cho công chức thấy tự hào và trách nhiệm trong công tác để xứng đáng với danh hiệu đó. Đồng thời phải có những hình thức kỷ luật thích đáng, đúng với mức độ của hành vi vi phạm.

2.4. Đổi mới công tác bổ nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo và chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức

- Đổi mới công tác bổ nhiệm cán bộ, công chức để cán bộ công chức lãnh đạo thực sự làm tốt công tác quản lí của mình. Thực hiện thi tuyển đối với một số chức danh gắn với chuyên môn nghiệp vụ trong bộ máy hành chính nhà nước và các đơn vị sự nghiệp. Mở rộng việc thi tuyển cạnh tranh lành mạnh vào các vị trí lãnh đạo trong các cơ quan hành chính giữa những người hiện đang làm việc trong khu vực nhà nước và những người làm việc ở khu vực tư.

- Thực hiện thí điểm nhân dân trực tiếp bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã để nâng cao trách nhiệm của Chủ tịch trong việc giải quyết công việc của dân và các công việc chung khác của xã. Đồng thời bên cạnh đó đề cfao vai trò trách nhiệm của nhân dân trong việc sang suốt lựa chọn người có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức để quản lí các lĩnh vực trên địa bàn xã mình.

- Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích thu hút người có tài vào làm việc trong khu vực công, tạo động lực cho cán bộ, công chức làm việc. Thực hiện cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ, công chức bằng việc tiếp tục tăng tiền lương tối thiểu và điều chỉnh hệ số để đảm bảo công chức có thể sống bằng tiền lương của mình. Xây dựng chế độ phụ cấp công vụ đối với cán bộ, công chức hành chính, bao gồm cả cán bộ, công chức đảng, đoàn thể trong hệ thống chính trị.

- Nghiên cứu xây dựng chính sách, chế độ thích hợp về nhà ở cho cán bộ, công chức. Xây dựng cơ chế để cán bộ, công chức có thể mua được nhà với giá ưu đãi đồng thời xây dựng quy chế chặt chẽ về xây dựng và sử dụng nhà công vụ để đảm bảo quỹ nhà công vụ cho cán bộ, công chức khi được điều động, luân chuyển đến địa phương khác hoặc điều động về công tác tại cơ quan Trung ương.

- Nghiên cứu chính sách xây dựng và sử dụng nhà công vụ cho cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị.

2.3. Đổi mới công tác  đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao vừa giác ngộ chính trị, có tinh thần trách nhiệm, tận tuỵ công tâm vừa có đạo đức liêm khiết khi thi hành công vụ thì công tác đào tạo có một vai trò hết sức to lớn.

Trong giai đoạn tới để nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cần thực hiện một số giải pháp như sau:

- Hoàn thiện chương trình, soạn thảo tài liệu giảng dạy đồng thời phải đào tạo được đội ngũ giảng viên chính quy, đáp ứng được yêu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức trong giai đoạn mới.

Cần xây dựng các chương trình đào tạo cho từng chức danh công chức, các chức vụ lãnh đạo với những nội dung, kiến thức cập nhật để công chức sau khi hoàn thành khoá học được cung cấp những kiến thức mới,cập nhật và đặc biệt là trang bị cho họ những kĩ năng cần thiết để có thể đảm nhiệm công việc có hiệu qủa hơn.

Hoạt động đào tạo công chức nên hướng tới học viên, đáp ứng nhiều hơn nữa nhu cầu của người học tránh tình trạng buộc phải đi học để hợp thức hoá hồ sơ, để được nâng ngạch bổ nhiệm lên vị trí cao hơn. Nên áp dụng các phương pháp giảng dạy tên tiến như thảo luận nhóm, giải quyết tình huống, động não, làm việc nhóm, đóng vai… cùng với việc sử dụng các phương tiện giảng dạy hiện đại để tăng hiệu quả cảm nhận của người học.

- Phát triển hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức: Trong xu thế hội nhập mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội với mọi quốc gia trên thế giới, việc tăng cường hợp tác trong đào tạo, bồi dưỡng để tiếp thu những kiến thức quản lý tiên tiến lại càng quan trọng.

- Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở trong và ngoài nước. Để nâng cao chất lượng quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cần phát huy tính chủ động, sáng tạo bằng việc phân cấp nhiều hơn nữa  cho các cơ sở đào tạo đồng thời quan tâm đến công tác quy hoạch, kế hoạch trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức.

Đa dạng hoá nguồn kinh phí hỗ trợ hoạt động đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức nhất là việc tìm kiếm nguồn viện trợ phát triển không hoàn lại, sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, kinh phí đóng góp của các doanh nghiệp và các cá nhân được cử đi học.

- Sắp xếp lại, củng cố, mở rộng hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.

                                            


T ÀI LI ỆU THAM KH ẢO

 

A. Tiếng Việt

1. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương khoá X

2. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đọan 2001-2010.

3. Tổng kết việc thực hiện giai đoạn I (2001-2005)  chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và phương hướng, nhiệm vụ cải cách hành chính giai đoạn II (2006-2010). Tụ Tử Hạ (1998), Cụng chức và vấn đề xừy dựng đội ngũ cỏn bộ, cụng chức hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh đội ngũ cán bộ, công chức.

B. Tiếng Anh

1. Michael Losey, Sue Meisinger, Dave Ulrich, Future of Human Resource Management - 64 thought leaders: explore the critical HR issues of today and tomorrow, John Wiley & Sons, Inc, Virginia, USA, 2006.

2. Tom Chirstensen and Per Laegreid (2001), New Public Management. The transformation of ideas and practice, Antony Rowe Ltd, Chippenham, Wiltshire, Great Britain.

3. Christopher Pollitt and Geert Bouckaert (2000), Public Management Reform, Oxford University Press, Great Britain.

 

 


Chuyên đề 3

ĐỔI MỚI CƠ CHẾ THU HÚT, TUYỂN CHỌN VÀ CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

 

PGS.TS Nguyễn Văn Luyện

 

          I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI CƠ CHẾ THU HÚT, TUYỂN CHỌN VÀ CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1. Vị trí, vai trò của công tác thi hành án dân sự

- Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng, là công đoạn cuối cùng bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ: "Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh thi hành".  

- Trong điều kiện kinh tế thị trường, khi các quan hệ xã hội, các giao dịch dân sự được thiết lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm, đồng thời với việc tôn trọng và bảo đảm có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thì ngoài yêu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật về nội dung để tạo cơ sở an toàn pháp lý thì cũng cần phải chú trọng đến việc xây dựng và hoàn thiện các thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật, đặc biệt là thi hành án dân sự. Cùng với việc hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật về trình tự thủ tục,... thì yêu cầu về hoàn thiện cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý và các thiết chế hỗ trợ cho thi hành án cũng phải được đặt ra nhằm bảo đảm lợi ích của người được thi hành án, lợi ích của người phải thi hành án, lợi ích của người thứ ba. Người dân chỉ thực sự cảm thấy an toàn khi cơ chế xử lý các tranh chấp pháp lý không chỉ dừng lại ở trong các phán quyết của Toà án mà phải được cụ thể hoá trên thực tế.

Tất cả các vấn đề nêu trên đặt ra một yêu cầu đó là vừa phải hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật, vừa phải quan tâm đến tiền lương, chế độ chính sách đãi ngộ để những người làm công tác thi hành án dân sự thực sự yêu nghề, tâm huyết và làm hết trách nhiệm.  

2. Cơ chế thu hút, tuyển chọn và chế độ chính sách đối với công chức thi hành án dân sự còn có nhiều bất cập

Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới và phát triển đất nước, vấn đề tiền công, tiền lương luôn được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, nghiên cứu nhằm cải cách một bước cho phù hợp với đời sống thực tế hiện nay của người lao động. Để thực hiện nguyên tắc làm công việc gì thì hưởng lương theo công việc đó, Nhà nước đã xây dựng ngạch bậc lương cho từng ngành, nghề trên cơ sở kết hợp quy định các chế độ chính sách ưu đãi trong từng lĩnh vực hoạt động nhằm bù đắp công sức đóng góp của người lao động, đồng thời khuyến khích và thu hút những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vào làm việc ở những lĩnh vực mà yêu cầu công việc có tính phức tạp, nặng nhọc, độc hại hơn,... Cụ thể như việc quy định các chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ chiến sĩ thuộc các lực lượng vũ trang, chế độ chính sách đối với giáo viên, ... và thực tế chế độ chính sách đó đã phát huy hiệu quả trên từng lĩnh vực. Đối với hoạt động thi hành án dân sự cũng vậy, trong những năm qua, Nhà nước đã có sự quan tâm tâm đổi mối chính sách tiền lương nhằm động viên khuyến khích cán bộ thi hành án hoàn thành nhiệm vụ (Ví dụ như chế độ bồi dưỡng đối với cán bộ, viên chức trực tiếp tham gia cưỡng chế thi hành án, chế độ bồi dưỡng đối với Chấp hành viên thi hành án dân sự,...). Tuy nhiên, trên thực tế do chưa đánh giá đúng mức tính chất phức tạp cũng như các yêu cầu về hoạt động, chức năng, nhiệm vụ cơ quan thi hành án nên trong việc quy định chế độ chính sách đối với cán bộ, Chấp hành viên các cơ quan thi hành án vẫn còn nhiều yếu tố bất hợp lý. Điều này được thể hiện:

2.1. Cơ chế thu hút và chế độ chính sách tiền lương và chính sách đãi ngộ chưa phù hợp với tính chất đặc thù của công tác thi hành án dân sự

- Khác với hoạt động hành chính, hoạt động thi hành án chủ yếu thực hiện thông qua vài trò của Chấp hành viên, Thẩm tra viên. Chấp hành viên, Thẩm tra viên có nhiệm vụ quyền hạn độc lập, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, tính chịu trách nhiệm cá nhân của người có thẩm quyền trong thi hành án rất lớn. Với vị trí vai trò quan trọng như vậy nên về nguyên tắc phải tạo ra những yêu cầu và những điều kiện cần thiết để đảm bảo sự cân bằng giữa sức ép công việc với trạng thái tâm lý hoạt động của Chấp hành viên, Thẩm tra viên và công chức thi hành án. Tuy nhiên, những vấn đề này hiện nay chưa đáp ứng:

Về tinh thần: Thi hành án dân sự là hoạt động vô cùng phức tạp, dễ sai phạm, khó khắc phục. Trong khi đó cơ chế bảo đảm cho Chấp hành viên hầu như không có, thiệt hại xảy ra trong quá trình thi hành án có thể do nhiều cơ quan, cá nhân cùng gây ra, nhưng những quy định việc khắc phục hậu quả lại không rõ ràng. Cuối cùng, đương sự chỉ biết "kêu" Chấp hành viên. Hậu quả, tâm lý “nơm nớp” sợ sai có lẽ luôn thường trực trong từng hành động của Chấp hành viên. Chưa kể, yếu tố nguy hiểm do chính quá trình thi hành án đưa lại cũng hết sức khó lường. Thế nhưng hầu như chưa có bất kỳ một cơ chế nào để bảo vệ tính mạng, thân thể, danh dự của chính Chấp hành viên và thân nhân của họ.

Về vật chất: Sức ép về tinh thần lớn như vậy nhưng chế độ tiền lương, thưởng tuy đã có thay đổi nhưng vẫn còn quá nhiều bất cập. Tiền lương thì ít nhưng nếu để xảy ra sai sót thì nghĩa vụ bồi hoàn rất lớn (bởi nếu có sai sót thì thiệt hại trong thi hành án thường rất lớn). Nhiều trường hợp, mặc dù Chấp hành viên và cán bộ thi hành án đã cố gắng lường trước, nhưng một phần do nhận thức, phần khác do công tác thi hành án quá phức tạp nên vẫn không tránh khỏi được sai sót, hậu quả là phải bồi thường thiệt hại. Vì lẽ đó, đã không ít trường hợp Chấp hành viên thi hành sai dẫn đến hậu quả không khắc phục được nên ngoài việc phải nhận các hình thức kỷ luật còn phải thực hiện  trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

- Thi hành án dân sự là công việc có nhiều khó khăn và phức tạp: Nếu như trong quá trình xét xử, quyền và nghĩa vụ của các đương sự mới chỉ thể hiện trên "giấy" tại bản án, quyết định của Toà án, thì hoạt động thi hành án lại tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của các đương sự tham gia vào vụ án dân sự, nên mức độ phản ứng của họ càng trở lên gay gắt, quyết liệt hơn. Mặc dù, pháp luật khuyến khích các đương sự tự nguyện thi hành án, cho phép người được thi hành án, người phải thi hành án thoả thuận về thời gian, địa điểm, phương thức thi hành án, chỉ trong trường hợp đương sự không tự nguyện thi hành án thì mới áp dụng biện pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, hoạt động thi hành án đòi hỏi Chấp hành viên, cán bộ thi hành án phải thực hiện nhiều thủ tục về thi hành án tiếp xúc trực tiếp với đương sự (kể cả trong trường hợp cưỡng chế thi hành án hoặc không phải cưỡng chế thi hành án), như: xác minh điều kiện thi hành án; giao thông báo về thi hành án, hướng dẫn, giải thích; vận động, thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án; kê biên, định giá, bán đấu giá tài sản, cưỡng chế giao con.v.v. Sự chống đối, tấn công của đương sự, nhất là người phải thi hành án có tính chất đa dạng, với nhiều hình thức, tình huống bất ngờ, không lường trước được và diễn ra ở các giai đoạn của quá trình thi hành án. Thực tế đã có nhiều trường hợp không phải cưỡng chế, nhưng Chấp hành viên, cán bộ thi hành án vẫn bị đương sự dùng hung khí tấn công gây thương tích khi xác minh, giải quyết việc thi hành án (như ở Kon Tum, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hà Nội.v.v. Chấp hành viên bị đương sự đánh bằng gậy, gạch đá gây thương tích khi đến nhà đương sự xác minh, vận động đương sự tự nguyện thi hành án. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ (48/64 tỉnh, thành phố) thì từ năm 1993 đến nay cho thấy có 42.437 vụ việc cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế, trong đó có 28.393 vụ cưỡng chế thành công, 676 vụ việc cưỡng chế  thành công nhưng có sự chống đối của đương sự gây thiệt hại, 726 vụ việc cưỡng chế không thành công do có sự chống đối của đương sự (Xem Phụ lục số 1). Chưa kể, có trường hợp cưỡng chế thi hành án, việc bảo vệ của cơ quan Công an không đáp ứng trước sự chống đối, tấn công của người phải thi hành án, do cơ quan Công an không có đủ người, phương tiện bảo vệ theo yêu cầu của công việc; đoàn cưỡng chế phải "bỏ chạy", kể cả lực lượng bảo vệ là cơ quan Công an, như: ở Đồng Nai, Bình Phước...

- Thi hành án dân sự là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo, trí tuệ:  Trong hoạt động thi hành án dân sự, nhiều trường hợp bản án, quyết định của Tòa án được tổ chức thi hành nhanh chóng, dứt điểm, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người được thi hành án (cơ quan nhà nước, tổ chức, công dân). Nhưng cũng có nhiều bản án, quyết định bị ngưng trệ trong quá trình thi hành. Có trường hợp trong quá trình thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đã nảy sinh những sự kiện hoặc tình huống phức tạp khiến cho việc thi hành án tiếp tục bị kéo dài. Tình hình này làm số án tồn đọng hàng năm cũng tăng dần với tỉ lệ khá cao. Thực tiễn cho thấy, thông thường, hiệu quả của hoạt động thi hành án phụ thuộc vào các yếu tố: tính đồng bộ của hệ thống pháp luật thi hành án dân sự; ý thức chấp hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân là người phải thi hành án; điều kiện kinh tế của người phải thi hành án và người được thi hành án; trình độ năng lực, kinh nghiệm của Chấp hành viên và cán bộ thi hành án. Ngoài các yếu tố trên, trong thực tiễn, hiệu quả thi hành án còn phụ thuộc vào một yếu tố rất quan trọng, đó là quá trình diễn biến tâm lý phức tạp trong bản thân mỗi chủ thể, nảy sinh từ các mối quan hệ pháp lý được hình thành trong giai đoạn này, theo quy định của pháp luật. Đây là các mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án với người phải thi hành án, người được thi hành án và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan chức năng, có thẩm quyền liên quan đến quá trình thi hành án với vai trò hỗ trợ, giám sát, phối hợp... Những mối quan hệ pháp lý ấy, thực chất, đã tạo nên tiền đề xác lập những quan hệ tâm lý giữa cơ quan thi hành án mà đại diện là Chấp hành viên và cán bộ thi hành án với người phải thi hành án, người được thi hành án, giữa các đương sự với nhau, giữa các đương sự với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Mối quan hệ về mặt tâm lý cũng đồng thời được hình thành giữa Chấp hành viên với các cơ quan hữu quan như: Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Uỷ ban nhân dân địa phương các cấp, công an, cơ quan quản lý nhà đất, công chứng, cơ quan đăng ký giao dịch dân sự có bảo đảm, cơ quan tài chính, thuế, ngân hàng, khoa học - công nghệ, tài nguyên - môi trường...

Tất cả các yếu tố nêu trên đòi hỏi Chấp hành viên, Thẩm tra viên và công chức thi hành án phải nghiên cứu đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động thi hành án.

          - Công việc thi hành thường liên quan trực tiếp đến tiền, tài sản của công dân. Do trực tiếp quan hệ, tiếp xúc đến những vấn đề có liên quan đến tiền tài nên một mặt nếu không thận trọng sẽ dẫn đến những vi phạm về nguyên tắc tài chính, mặt khác do sự cám giỗ của đồng tiền dẫn đến vi phạm phẩm chất đạo đạo đức bị đương sự mua chuộc bằng vật chất, hay bị các  sức ép của đương sự nhằm làm cho Chấp hành viên làm sai lịch việc thi hành án theo hướng có lợi cho họ. 

- Điều kiện làm việc của các cơ quan thi hành án có tính đặc thù riêng. Khác với một số hoạt động khác, thi hành án dân sự gắn chặt với điều kiện về tài sản và nơi có tài sản của người phải thi hành án. Vì vậy, trong nhiều trường hợp cán bộ thi hành án khi đi điều tra, xác minh, lập kế hoạch thi hành án, hoặc khi tổ chức cưỡng chế thi hành án thì gặp phải sự chống đối của đương sự, trong khi đó phương tiện bảo vệ hầu như không có gì, nhiều trường hợp cán bộ, Chấp hành viên bị đương sự hành hung, gây thương tích phải đi cấp cứu,...

Ngoài ra, do đặc thù công việc nên Chấp hành viên, cán bộ thi hành án thường xuyên phải tiếp xúc, làm việc trực tiếp với người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan. Trong quá trình đó, phải quyết định trực tiếp đến quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các bên vì vậy chậm cho bên này, nhanh cho bên kia, hoặc làm đúng cũng đều là các vấn đề đánh giá, bàn luận, thậm chí làm cho các bên thi hành án có những hành động tiêu cực như lăng mạ, lăng nhục, chửi bới, làm mất uy tín của Chấp hành viên, cán bộ thi hành án,...

2.2. Chế độ chính sách tiền lương và chính sách đãi ngộ hiện nay đối với Chấp hành viên, thẩm tra viên và công chức thi hành án còn nhiều bất cập

2.2.1. Tiền lương của Chấp hành viên, cán bộ thi hành án theo quy định hiện hành:

          Theo quy định của pháp luật thì ở các Cơ quan thi hành án dân sự có Trưởng Thi hành án, Phó Trưởng Thi hành án, Chấp hành viên, Thẩm tra viên và các chức danh khác. Căn cứ vào quy định này, trong hệ thống thang bảng lương của công chức ban hành kèm theo nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ thì lương của Chấp hành viên được xếp theo ngạch Chấp hành viên Thi hành án dân sự cấp tỉnh và Chấp hành viên Thi hành án dân sự cấp huyện; Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính và Thẩm tra viên cao cấp thi hành án và các chức danh công chức khác, cụ thể như sau:

          a) Đối với Chấp hành viên cấp huyện, Thẩm tra viên, Chuyên viên:

- Về tiền lương: đây là ba chức danh công chức thuộc cơ quan thi hành án có chung loại (Loại A1) và có  khởi điểm bậc 1 là 2,34 và được chia thành 9 bậc; chênh lệch bình quân về hệ số của mỗi bậc là 0,33 và 03 năm nếu không có vi phạm và hoàn thành nhiệm vụ thì được nâng 01 bậc lương.

          - Về phụ cấp trách nhiệm và phụ cấp chức vụ:

Đối với Trưởng Thi hành án, ngoài việc hưởng lương như đối với Chấp hành viên cấp huyện còn được hưởng phụ cấp chức vụ theo hệ số 0,5 (đối với thành phố thuộc tỉnh là đô thị loại II), 0,45 (đối với các quận thuộc thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các thành phố thuộc tỉnh là đô thị loại III), 0,4 (đối với các huyện, quận, thị xã còn lại). Đối với Phó trưởng Thi hành án, ngoài việc hưởng lương như đối với Chấp hành viên cấp huyện còn được hưởng phụ cấp chức vụ theo hệ số 0,4 (đối với thành phố thuộc tỉnh là đô thị loại II), 0,35 (đối với các quận thuộc thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các thành phố thuộc tỉnh là đô thị loại III), 0,3 (đối với các huyện, quận, thị xã còn lại).

Về phụ cấp trách nhiệm: Đối với Chấp hành viên ngoài tiền lương, Chấp hành viên cấp huyện được hưởng phụ cấp trách nhiệm theo nghề mức 30% so với mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có).

Đối với Thẩm tra viên ngoài tiền lương, Thẩm tra viên được hưởng phụ cấp trách nhiệm theo nghề mức 25% so với mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có).

b) Đối với Chấp hành viên cấp tỉnh, Thẩm tra viên chính thi hành án, Chuyên viên chính:

Về tiền lương: đây là ba chức danh công chức thuộc cơ quan thi hành án có chung loại (Loại A2), hệ số lương khởi điểm bậc 1 là 4,40. Trong hệ thống lương của Chấp hành viên cấp tỉnh được chia thành 8 bậc và chênh lệch bình quân về hệ số của mỗi bậc là 0,34 và 03 năm nếu không có vi phạm và hoàn thành nhiệm vụ thì được nâng 01 bậc lương.

          Đối với Trưởng Thi hành án, ngoài việc hưởng lương như đối với Chấp hành viên cấp tỉnh còn được hưởng phụ cấp chức vụ 0,9 (đối với thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh), 0,8 (đối với các tỉnh, thành phố còn lại). Đối với Phó trưởng Thi hành án, ngoài việc hưởng lương như đối với Chấp hành viên thường cấp tỉnh còn được hưởng phụ cấp chức vụ theo hệ số 0,7 (đối với thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh), 0,6 (đối với các tỉnh, thành phố còn lại).

Về phụ cấp trách nhiệm theo nghề: ngoài tiền lương, Chấp hành viên cấp huyện được hưởng phụ cấp trách nhiệm theo nghề mức 25% so với mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có).

Đối với Thẩm tra viên chính ngoài tiền lương được hưởng phụ cấp trách nhiệm theo nghề mức 20% so với mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có).

c) Thẩm tra viên cao cấp:

Về tiền lương: đây là chức danh công chức thuộc cơ quan thi hành án thuộc Loại A2, hệ số lương khởi điểm bậc 1 là 6,20. Trong hệ thống lương của Chấp hành viên cấp tỉnh được chia thành 6 bậc và 03 năm nếu không có vi phạm và hoàn thành nhiệm vụ thì được nâng 01 bậc lương.

Về phụ cấp trách nhiệm theo nghề: ngoài tiền lương, Thẩm tra viên cao cấp được hưởng phụ cấp trách nhiệm theo nghề mức 15% so với mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có).

          d) Đối với cán bộ thi hành án, hiện nay ở các Cơ quan thi hành án có Chuyên viên pháp lý và cán sự pháp lý và một số chức danh khác hưởng lương theo chế độ lương công chức hành chính sự nghiệp. (chuyên viên pháp lý được hưởng lương ngạch 01003 hệ số khởi điểm 2,34, chênh lệch hệ số bình quân 0,33; Cán sự pháp lý hưởng lương mã ngạch 01004 hệ số khởi điểm 1,86, chênh lệch hệ số bình quân 0,20)

          2.2.2. Tiền lương của Chấp hành viên, cán bộ thi hành án trong hệ thống thang bảng lương chung của một số cơ quan tư pháp

          Có thể nói do đặc thù và do tính chất công việc nên từ lâu việc xây dựng chế độ chính sách tiền lương của Chấp hành viên các Cơ quan thi hành án dân sự, Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân được xây dựng có hệ số tương đương nhau. Đến năm 2004, khi xây dựng chế độ chính sách tiền lương mới thì việc xây dựng chế độ tiền lương này vẫn được xác định như trước kia, có nghĩa lương của Chấp hành viên, Thẩm phán, Kiểm sát viên của cấp huyện khởi điểm lương có hệ số 2,34 (chênh lệch hệ số lương giữa các bậc trong ngạch là 0,33 và 03 năm lên lương một lần) và khởi điểm lương của Chấp hành viên, Thẩm phán, Kiểm sát viên của cấp cấp tỉnh khởi điểm lương có hệ số 4,40 (chênh lệch hệ số lương giữa các bậc trong ngạch là 0,34 và 03 năm lên lương một lần). Việc xây dựng cơ cấu thang bảng lương, bậc lương, hệ số lương của các cơ quan này trong mối tương quan với nhau như vậy là phù hợp với yêu cầu tính chất công việc của các ngành nghề.

2.2.3. Những bất cập trong chế độ chính sách tiền lương và chính sách đãi ngộ hiện nay đối với Chấp hành viên, thẩm tra viên và công chức thi hành án

          Căn cứ vào hệ thống thang lương, phụ cấp trách nhiệm theo nghề cho thấy, Nhà nước đã xây dựng chế độ phụ cấp trách nhiệm riêng cho một số chức danh công chức Thi hành án (Chấp hành viên, Thẩm tra viên). Điều này xuất phát từ tính chất đặc thù và yêu cầu công việc của các Cơ quan thi hành án đặt ra. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tế thì hệ thống lương của các Cơ quan thi hành án dân sự cũng còn có nhiều bất cập.

          a) Tiền lương thấp, chưa đủ đảm bảo để khuyến khích Chấp hành viên, thẩm tra viên và công chức thi hành án yên tâm công tác: Theo số liệu báo cáo kết quả thu nhập hàng năm của công chức các Cơ quan thi hành án dân sự nói chung thì bình quân một người một tháng của năm 2006 là 1.793.790 đồng; năm 2007 bình quân một người một tháng 1.862.000 đồng.

          Nếu tính mức lương thấp nhất đối với lương Chấp hành viên cấp huyện thì mỗi tháng 1.263.600 đồng (chưa trừ các khoản bảo hiểm xã hội, y tế,....) cộng với 379.080 đồng tiền phụ cấp (được áp dụng từ tháng 10 năm 2004) thì đây là một mức lương quá thấp và đủ để đảm bảo cuộc sống riêng cho một Chấp hành viên (chưa kể đến phải nuôi con, các khoản sinh hoạt, tiền nhà cửa điện nước,...).

Đối với cán bộ thi hành án  thì mức lương còn thấp hơn nhiều (Chuyên viên 1.129.000).

Với tiền lương như trên, công với điều kiện, môi trường, tính chất công việc thì đây là một mức lương thấp và chưa đủ để đảm bảo cuộc sống riêng cho Chấp hành viên (chưa kể đến phải nuôi con, các khoản sinh hoạt, tiền nhà cửa điện nước,...).

b) Chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề chưa đầy đủ và còn quá thấp:

- Chế độ phụ cấp trách nhiệm chưa tương xứng: Thi hành án dân sự là lĩnh vực đặc biệt phức tạp, chế độ trách nhiệm cá nhân của Chấp hành viên, thẩm tra viên, công chức thi hành án rất cao nhưng hiện nay chế độ phụ cấo trách nhiệm theo nghề mức cao nhất chỉ là 30%. Trong khi đó theo quy định tại điểm b, khoản 7 Điều 6 Nghị định số 204/2004/NĐ - CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang thì chế độ phụ cấp ưu đãi cho nhiều ngành nghề khác lại được hưởng cao hơn rất nhiều (đến 50%).

- Thi hành án dân sự là lĩnh vực phức tạp, tính rủi ro cao, nhưng lại chưa có chế độ phụ cấp thâm niên nghề, nên nhiều người có năng lực trình độ không muốn tiếp tục cống hiến thêm cho ngành nên có xu hướng xin chuyển công tác, xin thôi việc ngày càng nhiều. Trong khi đó chế độ phụ cấp thâm niên nghề đã được áp dụng trong một số ngành đặc thù như ngành thi hành án như lực lượng Hải Quan, cơ yếu và một số lực lượng khác.

- Hiện nay các cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự mới có chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với Chấp hành viên, thẩm tra viên, thẩm tra viên chính, thẩm tra viên cao cấp. Tuy nhiên, trong cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự còn có các cán bộ, công chức làm công tác chuyên môn chưa đủ điều kiện bổ nhiệm Chấp hành viên hoặc thẩm tra viên nên không có chế độ phụ cấp. Vì vậy, cần xây dựng chức danh thư ký thi hành án dân sự là người giúp việc cho lãnh đạo cơ quan thi hành án và Chấp hành viên, đồng thời có chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với đội ngũ này.

c) Chưa có chế độ phụ cấp để điều động luân chuyển tạm thời: Tình trạng án dân sự tồn đọng ngày càng gia tăng. Nhu cầu điều động luân chuyển tạm thời Chấp hành viên, Thẩm tra viên, công chức thi hành án từ huyện này sang huyện khác, từ tỉnh này sang tỉnh khác ngày càng nhiều. Ví dụ như ở Bắc Giang từ ngày 25/5 đến 25/6/2006, các cơ quan thi hành án dân sự của tỉnh mở đợt tập trung thi hành án 01 tháng (điều Chấp hành viên từ huyện này sang tăng cường cho huyện khác) đưa ra thi hành 320 việc, với số tiền phải thu là 2 tỷ 383 triệu 468 triệu 400 đồng, đã giải quyết xong 301 việc, thu được 1 tỷ 611 triệu 087 nghìn đồng, đạt 94% về việc, 67,5% về tiền. Tương tự như vậy, ở Long An, qua 4 tháng thực hiện cao điểm thi hành án, các cơ quan thi hành án đã giải quyết xong 6.414 việc/8.209 việc có điều kiện thi hành (đạt 78,13%), trong đó thi hành xong hoàn toàn 3.513 việc (đạt 58,03%), với số tiền đã giải quyết là 21 tỷ 578 triệu 108 nghìn đồng (trong đó số tiền thực thu là tỷ 467 triệu 667 nghìn đồng)... Đây là một chủ trương đúng nhăm fgiải quyết án tồn động, nhưng để thực hiện chủ trương này lạảyats khó thực hiện vì hiện nay chưa có chế độ chính sách gì khi Bộ Tư pháp muốn tăng cường tạm thời Chấp hành viên từ tỉnh này đến làm nhiệm vụ tại tỉnh khác hoặc điều động tăng cường Chấp hành viên từ huyện này sang làm nhiệm vụ tạm thời tại huyện khác.

          2.2.4. Hậu quả của những bất cập hiện nay trong chính sách tiền lương, chính sách đãi ngộ

Chính do tiền lương thấp như vậy nên đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng sau đây:

- Chấp hành viên, thẩm tra viên và công chức làm không hết trách nhiệm, làm cầm chừng. Vì vậy, hiệu quả của hoạt động thi hành án chưa cao, chất lượng còn thấp, thậm chí còn tắc trách nên dễ xảy ra sai phạm.

          - Do cuộc sống khó khăn nên đã xảy ra tình trạng, một bộ phận Chấp hành viên, công chức thi hành án thoái hoá, biến chất nhũng nhiễu, gây phiền hà cho đương sự như gợi ý xin tiền bồi dưỡng, tự định ra thời hạn thi hành án trái pháp luật, tiếp đương sự tại nhà riêng, ăn nhậu cùng với đương sự,... làm giảm uy tín của các cơ quan Nhà nước đối với nhân dân (số lượng cán bộ kỷ luật xem phụ lục kèm theo).

          - Do đồng lương ít ỏi, tính chất công việc phức tạp nên hoạt động thi hành án có tác động rất lớn đến mọi mặt tổ chức cũng như hoạt động của cán bộ thi hành án nói chung và đội ngũ Chấp hành viên nói riêng. Chế độ chính sách tiền lương đã không những không khuyến khích được năng lực hoạt động của cán bộ thi hành án, không tạo ra được một cơ chế thích hợp để phát huy năng lực trí tuệ của cán bộ, không khuyến khích được những người có tài, có đức vào công tác tại các Cơ quan thi hành án mà thậm chí còn làm cho cán bộ ngại (sợ) vào làm việc ở cơ quan thi hành án, hoặc nếu họ đã vào cơ quan thi hành án thì rất nhiều trường hợp tìm cách xin thuyên chuyển công tác sang các cơ quan khác hoặc xin nghỉ thôi việc (số liệu thống kê trong hai năm 2006-2007 toàn ngành thi hành hành án dân sự có 380 công chức xin nghỉ hoặc chuyển công tác, tthì có 242 người xin chuyển công tác khác, 97 người xin nghỉ thôi việc, chỉ có 31 trường hợp là nghỉ theo chế độ hưu trí và chết).

          - Việc điều động Chấp hành viên cấp tỉnh xuống để làm Trưởng Thi hành án, Phó Trưởng Thi hành án dân sự cấp huyện gặp rất nhiều khó khăn phức tạp. Bởi vì, về nguyên tắc đang là Chấp hành viên cấp tỉnh thì tiêu chuẩn của Chấp hành viên cấp tỉnh cao hơn cấp huyện, nhưng khi Chấp hành viên cấp tỉnh được điều động và bổ nhiệm làm Trưởng Thi hành án hoặc làm Phó Trưởng Thi hành án dân sự cấp huyện thì việc quy định các chế độ chính sách như hiện hành sẽ không khuyến khích được người được điều động từ cấp tỉnh xuống cấp huyện để làm nhiệm vụ mới, vì nếu như phải bổ nhiệm lại vào ngạch Chấp hành viên cấp huyện thì tạo ra cảm giác bị hạ ngạch (vì hiện tại ngạch Chấp hành viên cấp tỉnh tương đương với ngạch Chuyên viên chính, còn ngạch Chấp hành viên cấp huyện chỉ tương đương với ngạch Chuyên viên). Xuất phát từ lý do đó, gây rất nhiều khó khăn cho việc động viên thuyết phục họ (Chấp hành viên cấp tỉnh) xuống làm Trưởng, Phó trưởng Thi hành án dân sự cấp huyện.

- Đối với công tác tuyển dụng cán bộ, công chức có một số khó khăn: Một số nơi thuộc các tỉnh vùng cao, vùng sâu, vùng xa và một số tỉnh thuộc miền đông nam bộ như: Sơn La, Tiền Giang, Vĩnh Long, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Long An, Cà Mau không có nguồn cán bộ để tuyển dụng nên hiện chưa thực hiện hết số biên chế được giao năm 2007. 

- Mặc dù công tác thi hành án rất khó khăn, vất vả nhưng vẫn chưa có chính sách ưu tiên đối với cán bộ, công chức của ngành như (xây dựng nhà công vụ, hỗ trợ kinh phí ăn, ở, phương tiện đi lại, cho hưởng 100 % lương trong thời gian tập sự đối với những công chức tình nguyện làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa và một số tỉnh ở miền tây, miền đông nam bộ...) nên chưa thu hút được nguồn cán bộ để tuyển dụng. Thậm chí có rất nhiều trường hợp đã vào công tác trong ngành nhưng do lương công chức thi hành án quá thấp, khó khăn trong cuộc sống (ăn, ở, đi lại làm việc) nên đã xin chuyển công tác. 

 - Chế độ thu hút đối với cán bộ miền xuôi lên công tác miền núi còn có nhiều bất cập (tiền lương thấp, nhà công vụ không có...).

Việc đổi mới chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ Chấp hành viên, thẩm tra viên nhằm bù đắp những đóng góp của đội ngũ cán bộ này cho Nhà nước và cho nhân dân trong quá trình thực thi pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đồng thời nâng cao trách nhiệm và tạo động lực để khuyến khích các đối tượng nêu trên tận tâm, tận lực, yêu nghề và khuyến khích những người có năng lực, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vào phục vụ cho các cơ quan thi hành án dân sự.

2.3. Cơ chế tuyển chọn Chấp hành viên còn nhiều điểm bất hợp lý

Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 (PLTHADS năm 2004) được Quốc hội thông qua ngày 11/4/2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc kiện toàn tổ chức, cán bộ của các cơ quan thi hành án dân sự. Theo quy định tại Điều 12 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì: Chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định dân sự quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh này. Chấp hành viên được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ năm năm. Đồng thời Pháp lệnh cũng quy định rõ: Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Chấp hành viên. Để triển khai các quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ về cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và cán bộ, công chức làm công tác THADS. Theo tinh thần của Nghị định này thì: Hội đồng tuyển chọn Chấp hành viên quy định tại Điều 13 của Pháp lệnh Thi hành án dân sự gồm có:  Hội đồng tuyển chọn Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự địa phương được thành lập ở cấp tỉnh; Hội đồng tuyển chọn Chấp hành viên Thi hành án cấp quân khu.

Bên cạnh đó, theo quy định hiện nay thì nguồn để bổ nhiệm Chấp hành viên vẫn chủ yếu ở cơ quan thi hành án. Trong khi đó, biên chế để tuyển dụng tạo nguồn bổ nhiệm Chấp hành viên có nhiều hạn chế. Các đối tượng không phải là công chức nhà nước như Luật sư lại không được coi là đối tượng có thể tuyển chọn để bổ nhiệm Chấp hành viên. Vì vậy, thiếu vẫn hoàn thiếu.

Thời gian qua tình trạng thiếu Chấp hành viên diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan thi hành án, nhưng đến nay vẫn chưa thể khắc phục xong vì nguồn cán bộ có trình độ cử nhân luật bổ sung và thu hút vào các cơ quan thi hành án dân sự gặp rất nhiều khó khăn (nhất là ở những đơn vị miền núi, vùng sâu, vùng xa). Trong khi đó hoạt động thi hành án dân sự có những loại việc tương đối đơn giản, rõ ràng, lượng tiền tài sản phải thi hành không lớn chỉ cần những người có trình độ pháp lý ở mức độ vừa phải cũng có thể thực hiện được. Tuy nhiên, do pháp luật hiện hành quy định cứng tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên phải có trình độ "cử nhân luật trở lên" nên cơ quan thi hành án không thể tuyển những người có trình độ Trung cấp pháp lý. Vì vậy, chưa tạo ra chính sách thu hút nguồn cán bộ vào làm việc tại cơ quan thi hành án, kể cả việc thu hút những người tuy chỉ có trình độ trung cấp pháp lý nhưng có nhiều kinh nghiệm về công tác pháp luật, am hiểu địa bàn và cơ sở như cán bộ tư pháp - hộ tịch...chưa thu hút được rất nhiều đối tượng cũng có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm để làm Chấp hành viên như Luật sư.

3.2. Tác động của việc triển khai bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức Chấp hành viên theo quy trình mới

Thứ nhất: Thông qua việc bổ nhiệm Chấp hành viên theo quy trình mới cho thấy khâu tuyển chọn và bổ nhiệm Chấp hành viên được thông qua một quy trình chặt chẽ, trong đó có vai trò rất lớn của ủy ban nhân dân cấp tỉnh (Chủ tịch Hội đồng là Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh). Từ đó, nâng cao vị trí, vai trò của Chấp hành viên đối với các cơ quan, chính quyền ở địa phương.

Thứ hai, thông qua việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Chấp hành viên theo quy trình mới là dịp để các cơ quan chức năng rà soát, đánh giá một cách toàn diện cả về số lượng cũng như chất lượng đội ngũ Chấp hành viên của các cơ quan thi hành án trong toàn quốc.

Thứ ba: thông qua việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Chấp hành viên theo quy trình mới, bản thân đội ngũ Chấp hành viên cũng đã ý thức rõ hơn vai trò, trách nhiệm cũng như nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Bên cạnh những ưu điểm như đã nêu trên, chúng tôi nhận thấy một số hạn chế bất cập như sau:

Một là: Việc bổ nhiệm Chấp hành viên dựa trên cơ sở đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Chấp hành viên làm cho có nhiều người có thể tạo ra ảnh hưởng đối với Chấp hành viên, nên nhiều trường hợp để tránh mất lòng với những người có thẩm quyền trong Hội đồng tuyển chọn, có thể chọn phương án "yên thân" làm ảnh hưởng đến quá trình thi hành án. Nhất là cơ chế bổ nhiệm này lại chỉ diễn ra trong thời hạn 5 năm càng làm cho Chấp hành viên (nhất là những người gần hết nhiệm kỳ) cố lấy lòng những người có thẩm quyền.

Hai là: Theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì nhiệm kỳ của Chấp hành viên là 5 năm. Với thời hạn như vậy đối với một chức danh tư pháp là quá ngắn. Hiện tại, hầu hết các nước trên thế giới, các chức danh tư pháp đều có xu hướng bổ nhiệm suốt đời, trong khi chúng ta lại chỉ bổ nhiệm thời hạn ngắn là 5 năm, làm cho không chỉ mất nhiều thời gian trong việc xem xét để bổ nhiệm lại (hiện tại nếu chỉ coi việc bổ nhiệm lại để làm cho Chấp hành viên cần phải tu dưỡng đạo đức thì cũng không hoàn toàn chính xác vì hiện nay không có cơ chế bổ nhiệm lại mà chúng ta còn có các cơ chế khác như khen thưởng và kỷ luật), chưa kể cơ chế này gây tư tưởng bất an cho Chấp hành viên. Trong khi đó với đặc thù của hoạt động này đòi hỏi phải tạo ra tính ổn định và tính độc lập cho hoạt động thi hành án.

Ba là: Theo cơ chế mới, thì tiêu chuẩn để bổ nhiệm Chấp hành viên đòi hỏi rất cao, gây nhiều khó khăn cho công tác kiện toàn đội ngũ Chấp hành viên. Để khắc phục tình trạng này, Lãnh đạo Bộ đã phải cân nhắc để chiếu cố cho nợ tiêu chuẩn "có chứng chỉ đào tạo về nghiệp vụ thi hành án" (nhưng phải đảm bảo trả nợ ngay trong năm tiếp theo) đối với những địa phương thuộc các huyện miền núi, vùng sâu vùng xa không có nguồn cán bộ đủ tiêu chuẩn. Riêng các trường hợp bổ nhiệm Chấp hành viên lần đầu thì tiêu chuẩn không thể thiếu đó là phải có trình độ Cử nhân luật, điều này cũng sẽ gây rất nhiều khó khăn cho các địa phương hiện vẫn chỉ có 01 Chấp hành viên. Chính vì vậy, thời gian qua, tình trạng thiếu Chấp hành viên diễn ra khá phổ biến, nhưng đến nay vẫn chưa thể khắc phục xong. Nguồn cán bộ có trình độ cử nhân luật để bổ sung và thu hút vào các cơ quan thi hành án dân sự gặp nhiều khó khăn không chỉ ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, mà ngay cả các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh miền tây nam bộ... Nhiều nơi các cơ quan thi hành án được phân bổ biên chế từ năm 2006, 2007 nhưng đến 31 tháng 01 năm 2008 vẫn chưa tuyển đủ: ví dụ như thành phố Hồ Chí Minh còn 52 biên chế; Nghệ An 35 biên chế; Long An 40 biên chế;  Kiên Giang 20 biên chế; Cao Bằng 21 biên chế; Sơn La 30 biên chế; Bình Thuận 23 biên chế; Lai Châu 23 biên chế; Bạc Liêu 19 biên chế; Tiền Giang 26 biên chế; Bến Tre 23 biên chế; Hậu Giang 20... Ngoài ra, nhiều trường hợp cán bộ đang làm công tác thi hành án xin thuyên chuyển công tác sang các cơ quan khác hoặc xin nghỉ thôi việc (trong hai năm 2006-2007 có 380 công chức xin nghỉ hoặc chuyển công tác, thì có đến 242 người xin chuyển công tác khác, 97 người xin nghỉ thôi việc, chỉ có 31 trường hợp là nghỉ theo chế độ hưu trí và chết). Trong khi đó, hoạt động thi hành án dân sự có những loại việc tương đối đơn giản, rõ ràng, lượng tiền, tài sản phải thi hành không lớn chỉ cần những người có trình độ pháp lý ở mức độ vừa phải cũng có thể thực hiện được. Hơn nữa, thi hành án là quá trình giáo dục, thuyết phục người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ nên bên cạnh kiến thức pháp lý thì kỹ năng giáo dục thuyết phục, vận động, vấn đề am hiểu địa bàn, phong tục tập quán... cũng đóng một vai trò quan trọng cho sự thành công của việc thi hành án. Tuy nhiên, do pháp luật hiện hành quy định cứng tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên phải có trình độ "cử nhân luật trở lên" nên cơ quan thi hành án không thể tuyển những người có trình độ trung cấp luật. Vì vậy, chưa tạo ra chính sách thu hút nguồn cán bộ vào làm việc tại cơ quan thi hành án, kể cả việc thu hút những người có nhiều kinh nghiệm về công tác dân vận, hiểu biết địa bàn và cơ sở như Chủ tịch, Phó chủ tịch, cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã đã được đào tạo trình độ trung cấp luật..

Bốn là: theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ thì: Đối với các trường hợp bổ nhiệm chức danh Chấp hành viên lần đầu thì khi xem xét để tuyển chọn và bổ nhiệm, người được bổ nhiệm phải có đủ các tiêu chuẩn theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự, trừ trường hợp do điều động cán bộ, công chức từ cơ quan khác sang cơ quan thi hành án để bổ nhiệm Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án. Trong trường hợp này khi xem xét tuyển chọn và bổ nhiệm chức danh Chấp hành viên không nhất thiết đòi hỏi phải có tiêu chuẩn có chứng chỉ đào tạo về nghiệp vụ thi hành án nhưng phải có đủ các tiêu chuẩn khác của Chấp hành viên theo quy định tại Pháp lệnh Thi hành án dân sự. Việc quy định như vậy cũng nhiều thuận lợi trong trường hợp cần kiện toàn tổ chức của cơ quan thi hành án, do nguồn tại chỗ không có, nhưng lại cũng có bất cập đó là, các địa phương có thể lợi dụng vào đó để dễ dãi trong việc đưa những người từ các ngành khác sang để đề nghị Bổ nhiệm Chấp hành viên và Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án, trong khi những người đang công tác trong ngành thì lại yêu cầu tiêu chuẩn cao.

Năm là: Cho đến nay, việc điều động Chấp hành viên cấp tỉnh xuống để làm Trưởng Thi hành án, Phó Trưởng Thi hành án dân sự cấp huyện gặp rất nhiều thủ tục phiền hà. Bởi vì, về nguyên tắc đang là Chấp hành viên cấp tỉnh thì tiêu chuẩn của Chấp hành viên cấp tỉnh cao hơn cấp huyện, nhưng khi Chấp hành viên cấp tỉnh được điều động về cấp huyện để bổ nhiệm Trưởng Thi hành án, Phó Trưởng Thi hành án dân sự cấp huyện vẫn phải thông qua Hội đồng tuyển chọn để xem xét đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp miễn nhiệm Chấp hành viên cấp tỉnh và bổ nhiệm Chấp hành viên cấp huyện. Ngoài việc gây ra thủ tục phiền hà như vậy thì việc quy định như hiện hành sẽ không khuyến khích được người được điều động từ cấp tỉnh xuống cấp huyện để làm nhiệm vụ mới, vì nếu như phải bổ nhiệm lại Chấp hành viên cấp huyện thì tạo ra cảm giác bị hạ ngạch (vì hiện tại ngạch Chấp hành viên cấp tỉnh tương đương với ngạch Chuyên viên chính, còn ngạch Chấp hành viên cấp huyện chỉ tương đương với ngạch Chuyên viên). Xuất phát từ lý do đó, gây rất nhiều khó khăn cho việc động viên thuyết phục họ Chấp hành viên cấp tỉnh xuống cấp huyện.

III. CƠ SỞ ĐỔI MỚI CƠ CHẾ THU HÚT, TUYỂN CHỌN, CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Việc đổi mới cơ chế thu hút, tuyển chọn, chế độ chính sách đối với công chức thi hành án dân sự dựa trên cơ sở chính trị và cơ sở pháp lý sau đây:

1. Về cơ sở chính trị:

- Chỉ thị số 53/CT-TW ngày 21/3/2000 của Bộ  Chính trị về một số công việc cấp bách của các cơ quan Tư pháp cần thực hiện trong năm 2000 và Nghị quyết quốc hội khoá X kỳ họp thứ 8 về nhiệm vụ năm 2001 đã chỉ ra 2 nhóm biện pháp chủ yếu:

+ Nhóm biện pháp thứ nhất là tăng cường đội ngũ cán bộ công chức làm việc trong các cơ quan tư pháp,

+ Nhóm biện pháp thứ hai là bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất để các cơ quan bảo vệ pháp luật hoàn thành nhiệm vụ,

Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX ngày 03 tháng 02 năm 2004: “Tập trung thực hiện tốt công tác thi hành án, nhất là thi hành án dân sự, khắc phục cơ bản tình trạng tồn đọng kéo dài"; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020: "xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng chiến lược cải cách tư pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ quan, chức danh tư pháp" "Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp"; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: "Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; “từng bước thực hiện việc xã hội hoá và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án”; "nghiên cứu chế định thừa phát lại (thừa hành viên); trước mắt, có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”; "...Có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp...".v.v...

2. Cơ sở pháp lý:

- Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 14 tháng 01 năm  2004;

- Nghị định số 204/2004/NĐ - CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang;

- Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự;

- Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg ngày 01 tháng 7 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự

          IV. ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG

1. Chấp hành viên 

Theo quy định của pháp luật thì Chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Toà án, khi thi hành nhiệm vụ, Chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Chấp hành viên có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo tính thực thi của pháp luật, bởi lẽ phán quyết của Toà án nhân danh Nhà nước sẽ chỉ là những quyết định trên giấy nếu không được tổ chức thi hành hoặc thi hành không đầy đủ trên thực tế. Hoạt động thi hành án kém hiệu quả sẽ gây dư luận xấu, ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật. Do vị trí và tầm quan trọng như vậy nên pháp luật quy định rất chặt chẽ về tiêu chuẩn của Chấp hành viên. Hiện nay, tiêu chuẩn, phụ cấp trách nhiệm theo nghề của Chấp hành viên được quy định như đối với Thẩm phán và Kiểm sát viên cùng cấp. Vì vậy, Chấp hành viên cần quy định chế độ tiền lương, chế độ ưu đãi của Chấp hành viên thực hiện như đối với Thẩm phán và Kiểm sát viên cùng cấp.

2. Thẩm tra viên

Thực trạng khiếu nại, tố cáo liên quan đến thi hành án dân sự luôn được xem là một trong những vấn đề nổi cộm trong công tác thi hành án. Nhiều trường hợp không được giải quyết dứt điểm đã trở thành khiếu kiện gay gắt, bức xúc. Trước thực trạng đó, Chính phủ, Bộ Tư pháp, các cơ quan thi hành án dân sự đã đưa ra nhiều giải pháp để khắc phục, trong đó có việc quy định ở Cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, Cục Thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng, các cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện, thi hành án trong quân đội có các chức danh thẩm tra viên với mục tiêu giúp cho thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự: Tăng cường công tác kiểm tra của cơ quan thi hành án dân sự cấp trên đối với cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới, đồng thời đẩy mạnh thực hiện kiểm tra, giám sát trong nội bộ của cơ quan thi hành án dân sự đối với hoạt động của chấp hành viên, góp phần hạn chế và đi đến khắc phục oan, sai trong hoạt động thi hành án dân sự, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan; Giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến thi hành án dân sự ngay từ cơ sở, hạn chế đến mức tối đa tình trạng khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động thi hành án vượt cấp, kéo dài; Chỉ đạo giải quyết dứt điểm những vụ án lớn, án phức tạp, liên quan đến nhiều ngành nhiều cấp...

Do nhiệm vụ được giao hết sức quan trọng (liên quan đến việc bảo đảm quyền và lợi ích của các bên, hạn chế oan sai trong thi hành án...), trong khi đó tính chất của công việc lại phức tạp, nguy hiểm (thường xuyên tiếp xúc với các bên đương sự, tiếp xúc với lợi ích vật chất và tiền bạc...), nên việc quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề cho các chức danh thẩm tra viên, nhằm bù đắp những đóng góp của đội ngũ cán bộ này cho Nhà nước và cho nhân dân trong quá trình thực thi pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đồng thời nâng cao trách nhiệm và tạo động lực để khuyến khích các đối tượng nêu trên tận tâm, tận lực, yêu nghề và khuyến khích những người có năng lực, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vào phục vụ cho các cơ quan thi hành án dân sự. Hiện nay đội ngũ thẩm tra viên, thẩm tra viên chính, thẩm tra viên cao cấp của Toà án với tính chất công việc gần tương tự như Thẩm tra viên thi hành án dân sự đã được Thủ tướng Chính phủ quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề (với 03 mức: 15%; 20% và 25%).

 3. Công chức các cơ quan thi hành án dân sự

Ngoài các chức danh Chấp hành viên, Thẩm tra viên thì ở cơ quan thi hành án cấp tỉnh, cơ quan thi hành án cấp huyện còn có chức danh cán bộ thi hành án. Tuy nhiên, do khi Pháp lệnh thi hành án được ban hành sau khi Chính phủ đã quy định xong các chức danh tiêu chuẩn công chức Nhà nước nên đã không có quy định chức danh riêng cho cán bộ thi hành án. Vì vậy, thời gian qua chức danh cán bộ thi hành án được vận dụng theo tiêu chuẩn của Chuyên viên pháp lý. Đây là đội ngũ công chức đóng vai trò và trách nhiệm rất lớn trong việc đảm bảo hiệu quả hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự. Kết quả đạt được trong công tác thi hành án dân sự có một phần đóng góp rất lớn của đội ngũ công chức của các cơ quan thi hành án.

          Cán bộ thi hành án chính là người giúp Thủ trưởng Cơ quan thi hành án và Chấp hành viên một số công việc như nghiên cứu các nội dung về quản lý, đề xuất các nội dung hướng dẫn, tập huấn nghiệp vụ, thụ lý hồ sơ, điều tra, xác minh, giải quyết án, tiếp dân,... Ngoài ra, do là người giúp việc cho Chấp hành viên, nên nếu có sai sót trong quá trình thi hành án thì công chức này cũng không tránh khỏi một phần trách nhiệm cùng với Chấp hành viên. Với tính chất công việc phức tạp và đòi hỏi trách nhiệm cao như vậy, nhưng chế độ chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ này hiện nay không có gì ngoài lương cơ bản. Khi xây dựng chế độ chính sách đặc thù nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ này thì hầu hết các ngành đều thống nhất chung nhận định đó là công việc và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ thi hành án rất cao nhưng vì chưa có ngạch riêng nên chờ khi xây dựng chế độ tiền lương mới sẽ xem xét, quyết định. Do vậy, trong nhiều năm qua chế độ chính sách của đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án không tương xứng với tính chất và yêu cầu công việc do đó không khuyến khích được những người có tâm huyết với ngành. Vì vậy, cần phải đưa đối tượng này vào diện quy định chế độ tiền lương và chế độ ưu đãi theo nghề riêng.

          V. GIẢI PHÁP 

          1. Các giải pháp

1.1. Giải pháp trước mắt

a) Đổi mới cơ cấu Chấp hành viên:

Cần đổi mới lại cơ cấu Chấp hành viên theo hướng Chấp hành viên Sơ cấp, Trung cấp và Cao cấp. Song song với việc Xây dựng cơ cấu, thang bảng lương của Chấp hành viên theo hướng có Chấp hành viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp. Việc xây dựng Chấp hành viên theo cơ cấu này sẽ không chỉ có thể khắc phục được những bất hợp lý trong chế độ chính sách tiền lương của Chấp hành viên hiện nay mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều động luân chuyển cán bộ các Cơ quan thi hành án.

b) Xác định rõ cơ cấu công chức của cơ quan thi hành án. Trước mắt cân ftập trung vào việc xác định cơ cấu cán bộ cơ quan thi hành án dân sự theo hướng không nhất thiết tất cả các chứ danh công chức đều nhất thiết phải có trình độ cử nhân mà theo yêu cầu cụ thể của từng loại công viêc. Cụ thể, đối với cấp huyện ngoài các chức danh cần có trình độ cử nhân luật như Chấp hành viên thì số còn lại cần bố trí một lượng thích hợp những người có trình độ Trung cấp để giúp việc theo hướng đào tạo chuyên sâu, có tính ổn định lâu dài. Các ngạch công chức khác như kế toán thi hành án cũng xác định rõ theo hướng cấp huyện không nhất thiết phải có trình độ cử nhân mà có thể chỉ cần trung cấp.

c) Mở rộng nguồn thu hút cán bộ, công chức vào làm việc tại các cơ quan thi hành án dân sự, trước mắt tạo cơ chế hợp lý để thu hút cán bộ ở các ngành khác sang cơ quan thi hành án kể cả việc thu hút những người có nhiều kinh nghiệm về công tác dân vận, hiểu biết địa bàn và cơ sở như Chủ tịch, Phó chủ tịch, cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã đã được đào tạo trình độ trung cấp luật..

d) Quy định chế độ phụ cấp theo nghề đối với các chức danh công chức thi hành án dân sự cần nâng theo các mức như sau:

- Đối với Chấp hành viên: quy định chế độ phụ cấp theo nghề từ 45 - 50 %.

- Đối với Thẩm tra viên: quy định chế độ phụ cấp theo nghề từ 35 - 45 %..

- Đối với công chức thi hành án khác: Quy định chế độ phụ cấp theo nghề từ 20 - 30 %.

          đ) Quy định chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với Chấp hành viên, Thẩm tra viên, công chức làm công tác thi hành án, cụ thể: Sau 5 năm (đủ 60 tháng) Chấp hành viên, Thẩm tra viên, công chức thi hành án làm việc liên tục trong ngành thi hành án dân sự thì được hưởng phụ cấp thâm niên nghề bằng 5% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có); từ năm thứ 6 trở đi mỗi năm được tính thêm 1%.

e) Quy định chế độ thưởng hợp lý cho Chấp hành viên khi thực hiện có hiệu quả các vụ việc thi hành án (nhất là những vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài).

1.2. Giải pháp lâu dài

a) Đổi mới đồng bộ tiền lương đảm bảo lương của Chấp hành viên, Thẩm tra viên và công chức làm công tác thi hành án đảm bảo có mức thu nhập từ khá trở lên theo đó ngoài việc quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề, phụ cấp thâm niên như quy định ở điểm 1.1 mục này thì cần quy định mức tiền lương của Chấp hành viên, Thẩm tra viên thi hành án bằng mức lương của công chức cùng loại nhân với hệ số 1,8 (đối với Chấp hành viên sơ cấp, Thẩm tra viên) 1,5 (đối với Chấp hành viên trung cấp, Thẩm tra viên chính) 1,3 (đối với Chấp hành viên cao cấp, Thẩm tra viên cao cấp và các công chức còn lại của cơ quan thi hành án);

b) Đổi mới công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Chấp hành viên theo hướng quy định bổ nhiệm thông qua thi tuyển và không quy định  nhiệm kỳ theo định hướng của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị: “nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp. Tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn”. Song song với việc thực hiện các quy định này cũng cần phải nghiên cứu, tổ chức thí điểm để từng bước thực hiện xã hội hoá đối với một số nội dung hoạt động thi hành án dân sự.

c) Quy định chế độ bảo vệ phù hợp trong các trường hợp cần thiết trước và sau khi cưỡng chế thi hành án nhằm đảm bảo sự an toàn tính mạng, sức khoẻ danh dự cho Chấp hành viên và thân nhân của họ.

          d) Quy định chế độ thương binh và liệt sĩ trong trường hợp cán bộ, Chấp hành viên bị thương tật hoặc bị chết trong khi thi hành công vụ.

          đ) Cần có chế độ xây dựng nhà công vụ cho các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương, có chế độ đặc thù đối với các đối tượng là công chức được điều động biệt phái đến làm việc tại những nơi vùng sâu, vùng xa hoặc những nơi có số lượng vụ việc nhiều, khó khăn phức tạp...

e) Quy định cán bộ thi hành án phải được miễn trách nhiệm bồi hoàn đối với các hành vi ngay tình để họ không bị cản trở trong việc thi hành các bản án của Tòa án vì lo sợ phải chịu trách nhiệm về những sai sót ngay tình.

Để thực hiện có hiệu quả giải pháp này thì cần phải thành lập Quỹ bồi thường trong lĩnh vực tư pháp.

          2. Triển khai thực hiện

          - Trước mắt, cần nghiên cứu quy định cơ cấu Chấp hành viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp ngay trong Luật thi hành án dân sự.

          - Thực hiện và xây dựng chế độ tiền lương, phụ cấp trách nhiệm theo nghề phù hợp với lộ trình cải cách tiền lương tổng thể của Nhà nước.

 

 


Chuyên đề 4

ĐỔI MỚI CƠ CHẾ THU HÚT, TUYỂN CHỌN VÀ CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ

                                                                     T.S. Tạ Thị Minh Lý[31]

                                                                    Th.S. Vũ Hồng Tuyến[32]

Trợ giúp viên pháp lý là chức danh mới được quy định trong Luật trợ giúp pháp lý (TGPL). Trợ giúp viên pháp lý là người thực hiện TGPL và là lực lượng chính trong hoạt động TGPL của nước ta hiện nay. Theo quy định của Luật TGPL, Trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nước, làm việc tại Trung tâm TGPL nhà nước, được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bổ nhiệm, cấp thẻ Trợ giúp viên pháp lý theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp. Trợ giúp viên pháp lý được quyền tham gia tố tụng (đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL) nhằm khắc phục tình trạng thiếu Luật sư ở nước ta hiện nay.

Trong phạm vi chuyên đề này, chúng tôi xin tập trung nghiên cứu về thực trạng đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý; việc đổi mới cơ chế thu hút, tuyển chọn và chế độ chính sách về tiền lương đối với Trợ giúp viên pháp lý.

I. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ

1. Về số lượng, cơ cấu, chất lượng Trợ giúp viên pháp lý

Hiện nay, đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý chiếm 1/3 số lượng cán bộ, công chức thuộc biên chế các Trung tâm TGPL trong toàn quốc (162/392 cán bộ, viên chức thuộc các Trung tâm). Trợ giúp viên pháp lý hầu hết nắm giữ các vị trí quan trọng trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Trung tâm, Chi nhánh (Giám đốc, Phó Giám đốc, Trưởng Chi nhánh, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng). Trong số 162 Trợ giúp viên pháp lý có 54 người là Giám đốc Trung tâm, 36 người là Phó Giám đốc hoặc Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm (đối với những Trung tâm chưa có Giám đốc).

Về độ tuổi của Trợ giúp viên pháp lý theo bảng thống kê sau đây:

 

Từ 30 tuổi trở xuống

Từ 31 - 40 tuổi

Từ 41 - 50 tuổi

Từ 51 tuổi trở lên

Tổng số

14

60

62

26

Tỷ lệ (%)

8,6%

37,0%

38,3%

16,1%

 

Nhìn vào bảng thống kê trên cho thấy, Trợ giúp viên pháp lý có độ tuổi từ 30 tuổi trở xuống là ít nhất (14 người, chiếm 8.6%), độ tuổi từ 51 trở lên có 26 người (chiếm 16,1%), độ tuổi từ 31 đến 40 tuổi (chiếm 37%) và độ tuổi từ 41 đến 50 tuổi (chiếm 38,3%) có sự chênh lệnh nhưng không lớn lắm. Với số lượng Trợ giúp viên pháp lý có độ tuổi từ 50 tuổi trở xuống chiếm tỷ lệ lớn như vậy thì có thể khẳng định rằng đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý còn tương đối trẻ và sẽ là lực lượng cơ bản, chủ chốt bảo đảm thực hiện các hoạt động TGPL trong tố tụng, bù đắp thiếu hụt về Luật sư, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa. Trong tổng số 162 Trợ giúp viên pháp lý có 112 nam, 50 nữ. Như vậy, số lượng Trợ giúp viên pháp lý là nam giới gấp đôi so với nữ giới. Tính đặc thù của công tác TGPL là thường xuyên phải đi TGPL lưu động xuống cơ sở, xác minh vụ việc… thì lực lượng Trợ giúp viên pháp lý là nam giới sẽ thuận lợi và phù hợp hơn. Trong số 162 Trợ giúp viên pháp lý thì chủ yếu là người dân tộc Kinh, Trợ giúp viên pháp lý là người dân tộc thiểu số có khoảng 20 người (chiếm 1/8 tỷ lệ Trợ giúp viên pháp lý).

Về chất lượng đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý: theo quy định tại Điều 21 Luật TGPL, Trợ giúp viên pháp lý phải có đầy đủ các tiêu chuẩn “công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có phẩm chất đạo đức tốt; có bằng cử nhân luật; có Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL; có thời gian làm công tác pháp luật từ hai năm trở lên; có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao”. Như vậy, để được bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý, người có đủ tiêu chuẩn sau khi nộp hồ sơ để được thi tuyển vào làm việc tại Trung tâm. Trợ giúp viên pháp lý phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định của Luật TGPL. Theo quy định tại Điều 10 Luật Luật sư, tiêu chuẩn Luật sư được quy định như sau: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành Luật sư”... Như vậy, theo tiêu chuẩn chung, Trợ giúp viên pháp lý và Luật sư là tương đương nhau. Ví dụ: Trợ giúp viên pháp lý và Luật sư, tiêu chuẩn bắt buộc là phải có bằng cử nhân luật, phải tham gia khoá đào tạo luật sư… Riêng Trợ giúp viên pháp lý phải thêm tiêu chuẩn qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về TGPL và được cấp Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL.

Theo thống kê của Cục TGPL: trong số 162 người đã được bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý thì 100% đều có trình độ cử nhân luật, nhiều người có trình độ thạc sỹ luật, nhiều người đã qua thời gian công tác pháp luật với các chức danh như: Thẩm phán, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án…, nhiều người trước khi được bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý đã trực tiếp tham gia đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tượng TGPL, đã tích luỹ được kinh nghiệm trong quá trình tham gia tố tụng.

Số lượng Trợ giúp viên pháp lý có thời gian làm việc từ 5 năm chiếm số lượng nhỏ (24 người, chiếm 14,81%), số lượng Trợ giúp viên pháp lý làm việc dưới 10 năm chiếm số lượng lớn (66 người, chiếm 40,74%), nhưng số lượng Trợ giúp viên pháp lý làm việc trên 11 năm là lớn nhất (72 người, chiếm 44,45%) theo bảng thống kê dưới đây:

Trợ giúp viên pháp lý

Làm việc dưới 5 năm

Làm việc từ 6 đến 10 năm

Làm việc từ 11 năm trở lên

Tổng số

Tổng số

24

66

72

162

Tỷ lệ (%)

14,81%

40,74%

44,45%

100%

2. Tuyển chọn

Quá trình tuyển chọn để được bổ nhiệm chức danh Trợ giúp viên pháp lý chia thành nhiều giai đoạn: trước hết là tuyển dụng cử nhân luật theo ngạch viên chức. Trong quá trình làm việc được cử tham dự khoá đào tạo nghề Luật sư 6 tháng. Sau khi đáp ứng tiêu chí này, Trung tâm sẽ lựa chọn giới thiệu để Sở Tư pháp cử tham dự lớp bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL. Kết thúc khoá học, nếu học viên vượt qua kỳ kiểm tra sát hạch sẽ được cấp Chứng chỉ để được Chủ tịch Uỷ ban dân dân cấp tỉnh xem xét, bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý. Như vậy, các giai đoạn tuyển chọn, bồi dưỡng, bổ nhiệm gồm:

- Tuyển dụng cử nhân luật đủ điều kiện, tiêu chuẩn vào làm việc tại Trung tâm TGPL nhà nước. Hình thức tuyển dụng có thể qua thi tuyển hoặc xét tuyển theo quy định về tuyển dụng công nhân, viên chức. Đối với các tỉnh miền núi do thiếu nguồn dự tuyển biên chế nên thường áp dụng việc tuyển dụng theo xét tuyển (Lai Châu, Lào Cai…). Tuy nhiên, hình thức tuyển đầu vào vẫn cơ bản là thi tuyển và áp dụng phổ biến ở hầu hết các địa phương trong toàn quốc. Sau khi tuyển dụng, viên chức phải qua thời gian tập sự 1 năm tại Trung tâm. Nếu sau thời gian tập sự này, viên chức đáp ứng được các yêu cầu tập sự sẽ được bổ nhiệm vào ngạch viên chức và được hưởng đầy đủ các quyền lợi và chịu mọi nghĩa vụ, trách nhiệm như các cán bộ, công chức, viên chức. Ngoài hình thức thi tuyển hoặc xét tuyển, tại một số địa phương đã có nhiều người ở các phòng, ban thuộc Sở Tư pháp hoặc từ các cơ quan, ban, ngành của tỉnh chuyển đến làm việc tại Trung tâm. Bên cạnh đó, có nhiều cán bộ được Giám đốc Sở Tư pháp thực hiện việc điều động hoặc luân chuyển về làm việc tại Trung tâm. Đây là những cán bộ có kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật sẽ là lực lượng bổ sung lớn cho các Trung tâm đang trong quá trình kiện toàn về tổ chức, bộ máy, biên chế như hiện nay.

- Sau một quá trình làm việc tại Trung tâm, Giám đốc Trung tâm lựa chọn những viên chức đang làm việc tại Trung tâm có đạo đức, phẩm chất tốt và đã chút ít có kỹ năng, kinh nghiệm trong hoạt động TGPL tham dự khoá đạo tạo nghề luật sư (6 tháng) do Học viện Tư pháp tổ chức. Đây được coi là hình thức đào tạo nghề để tạo nguồn bồi dưỡng, bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý. Hiện nay, đã có nhiều địa phương lựa chọn viên chức có trình độ cử nhân luật của Trung tâm tham gia khoá học đào tạo nghề luật sư tại Học viện Tư pháp hoặc tổ chức các khoá tại địa phương. Kết thúc khoá đào tạo luật sư trở về Trung tâm, viên chức này sẽ được Giám đốc Trung tâm cử đi theo Luật sư tham dự các phiên toà hình sự, dân sự, hành chính… để học tập kinh nghiệm tham gia tố tụng của Luật sư.

- Sau 2 năm làm việc tại Trung tâm, viên chức sẽ được Giám đốc Sở Tư pháp cử đi tham dự lớp bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL, nếu qua kỳ sát hạch sẽ được cấp Chứng chỉ và đây là cơ sở để trình Chủ tịch Uỷ ban nhân nhân cấp tỉnh bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý.

- Giám đốc Sở Tư pháp trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý khi đã hội đủ các tiêu chuẩn theo quy định của Luật TGPL và có hồ sơ theo Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TGPL. Hồ sơ bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý bao gồm:

“a) Công văn đề nghị bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý của Giám đốc Sở Tư pháp, kèm theo văn bản đề nghị của Giám đốc Trung tâm;

b) Lý lịch trích ngang của người được đề nghị bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý kèm hai ảnh mầu chân dung cỡ 2cm x 3cm;

c) Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL;

d) Dự thảo Quyết định bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý kèm theo phôi thẻ Trợ giúp viên pháp lý”.

Theo quy định của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP thì trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét ký quyết định bổ nhiệm và ký thẻ Trợ giúp viên pháp lý.

Thực hiện Chỉ thị số 35/2006/CT-TTg ngày 13/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thi hành Luật TGPL và Quyết định số 08/2006/KH-BTP ngày 15/11/2006 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, để bảo đảm điều kiện cấp thẻ cho Trợ giúp viên pháp lý, ngay sau khi Luật TGPL được ban hành, Cục TGPL đã tổ chức các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL và kiểm tra cấp Chứng chỉ. Từ tháng 12 năm 2006 đến tháng 12/2008, Cục TGPL đã tổ chức 03 khoá bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL: khoá I (năm 2006): tổ chức theo 2 khu vực phía Bắc tại Hà Nội, phía Nam tại Gia Lai; Khoá II (năm 2007) và Khoá III (năm 2008) tổ chức tại Hà Nội cho các đối tượng là Giám đốc, Phó Giám đốc Trung tâm, chuyên viên TGPL của Trung tâm có thời gian công tác từ 05 năm trở lên, hoặc chuyên viên pháp lý đã có thời gian công tác pháp luật từ 10 năm trở lên, những người đã từng là Luật sư, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Trong thời gian từ 05 đến 07 ngày, người tham dự được tiếp cận, nghiên cứu, trao đổi thảo luận các chuyên đề chuyên sâu về các mô hình TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách; trình tự, thủ tục TGPL; kỹ năng tư vấn pháp luật trong hoạt động TGPL; kỹ năng đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL; kỹ năng tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự; kỹ năng giải quyết các vụ việc hành chính… Kết thúc các khoá bồi dưỡng, Cục TGPL đã tổ chức kiểm tra sát hạch cho 297 học viên qua kỳ kiểm tra và được cấp Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL (1 người không đạt yêu cầu kỳ kiểm tra sát hạch), đến nay đã có 162 người được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm ngạch Trợ giúp viên pháp lý: theo dõi bảng tổng hợp sau đây:

BẢNG TỔNG HỢP

BỔ NHIỆM TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ KHOÁ I - III

(Từ tháng 12/2006 - 12/2008)

STT

Nội dung

Khoá I

Năm 2006

Khoá II Năm 2007

Khoá III Năm 2008

Tổng

số

1

Số người tham dự bồi dưỡng

142 người

81 người

74 người

297 người

2

Số người đủ điều kiện để được cấp chứng chỉ

142/142 người

80/81 người

***

222 người

3

Số người được cấp chứng chỉ

138/142[33] người

80/81[34] người

***

218 người

4

Số người được cấp phôi thẻ Trợ giúp viên pháp lý

136/138[35] người

80 người

***

216 người

5

Số người được bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý

 

 

***

162/297

(Ghi chú: khoá III - năm 2008: Cục TGPL chưa chấm bài sát hạch của các học viên nên chưa có kết quả việc cấp Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ, cấp phôi thẻ TGPL).

Như vậy, việc tuyển chọn Trợ giúp viên pháp lý được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, bảo đảm những người được bổ nhiệm đều có đủ điều kiện, tiêu chuẩn thực hiện TGPL. Đồng thời, theo quy định của Luật TGPL (khoản 3, Điều 20), những người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì không được lựa chọn đào tạo, cấp Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ hoặc không được thực hiện TGPL:

“a) Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xoá án tích hoặc đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

b) Đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục hoặc quản chế hành chính;

c) Mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;

d) Bị xử lý kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc mà chưa hết thời hạn ba năm, kể từ ngày quyết định buộc thôi việc có hiệu lực;

đ) Đang bị tước quyền sử dụng Chứng chỉ hành nghề luật sư; bị thu hồi Giấy chứng nhận tư vấn viên pháp luật”.

3. Quản lý, sử dụng Trợ giúp viên pháp lý

Quản lý Trợ giúp viên pháp lý được chia theo 2 cấp độ khác nhau: quản lý đối với Giám đốc Trung tâm, Phó Giám đốc Trung tâm và quản lý đối với các Trợ giúp viên pháp lý khác của Trung tâm.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm Trợ giúp viên pháp lý theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp, việc quản lý Trợ giúp viên pháp lý là Giám đốc Trung tâm hoặc Phó Giám đốc Trung tâm thuộc thẩm quyền quản lý của Giám đốc Sở Tư pháp. Các Trợ giúp viên pháp lý khác do Giám đốc Trung tâm quản lý theo quy định của pháp luật.

Khi thực hiện TGPL, Giám đốc Trung tâm hoặc Trưởng Chi nhánh phân công Trợ giúp viên pháp lý. Trợ giúp viên pháp lý chịu trách nhiệm trước Giám đốc Trung tâm và trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trong trường hợp làm việc tại Chi nhánh của Trung tâm, Trợ giúp viên pháp lý phải chịu trách nhiệm trước Trưởng Chi nhánh. Tuy nhiên, Trợ giúp viên pháp lý chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật trong việc thực hiện vụ việc TGPL.

Việc học tập, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của Trợ giúp viên pháp lý về cơ bản được quy định như công chức, viên chức khác, việc cử đi đào tạo dài hạn do Giám đốc Sở Tư pháp quyết định. Trong trường hợp cử đi học ngắn hạn hoặc đi công tác trong nước cũng do Giám đốc Sở Tư pháp quyết định (hoặc Giám đốc Trung tâm TGPL nếu được Giám đốc Sở Tư pháp uỷ quyền như ở Hải Dương). Trợ giúp viên pháp lý đi công tác nước ngoài thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Việc sử dụng Trợ giúp viên pháp lý hiện nay chủ yếu do Giám đốc Trung tâm TGPL bố trí, phân công công tác. Theo Điều 9 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP thì: “Giám đốc Trung tâm là người đứng đầu Trung tâm và là người đại diện theo pháp luật của Trung tâm, chịu trách nhiệm trước Giám đốc Sở Tư pháp và trước pháp luật về toàn bộ nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm. Phó Giám đốc Trung tâm là người giúp việc Giám đốc, phụ trách một hoặc một số lĩnh vực công tác do Giám đốc Trung tâm phân công và chịu trách nhiệm trước Giám đốc về kết quả công tác được giao. Phó Giám đốc Trung tâm do Giám đốc Sở Tư pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Giám đốc Trung tâm”.

Như vậy, theo quy định trên thì Giám đốc Trung tâm sẽ có trách nhiệm bố trí phân công công tác, giao nhiệm vụ cho Trợ giúp viên pháp lý và bảo đảm các chế độ chính sách, các điều kiện cần thiết để Trợ giúp viên pháp lý thực hiện nhiệm vụ TGPL. Khi thực hiện việc phân công, bố trí công tác cho Trợ giúp viên pháp lý, Giám đốc Trung tâm phải bảo đảm công việc phù hợp với nhiệm vụ được giao theo quy định của ngạch Trợ giúp viên pháp lý. Trợ giúp viên pháp lý chịu trách nhiệm trước Giám đốc Trung tâm về kết quả, chất lượng thực hiện nhiệm vụ của mình và trước pháp luật về tính đúng đắn của nội dung TGPL, phải bồi thường nếu gây thiệt hại do lỗi của mình. Trợ giúp viên pháp lý giữ chức vụ lãnh đạo còn phải chịu trách nhiệm về việc thi hành nhiệm vụ của các Trợ giúp viên pháp lý thuộc quyền quản lý theo quy định của pháp luật. Theo quy định của pháp luật, Trợ giúp viên pháp lý đủ điều kiện dự thi (mức lương, thời gian làm việc trong ngành, có giới thiệu của cơ quan…) sẽ được dự thi nâng ngạch lên chuyên viên chính hoặc chuyên viên cao cấp.

Trợ giúp viên pháp lý có thể bị luân chuyển, điều động, biệt phái: hiện nay, ở một số địa phương đã thực hiện việc luân chuyển Trợ giúp viên pháp lý sang các phòng, ban khác thuộc Sở Tư pháp và điều chuyển cán bộ ở các phòng, ban khác thuộc Sở Tư pháp về Trung tâm. Đây là một vấn đề mà Thông tư liên tịch số 08/2008/TTLT-BTP-BNV ngày 07/11/2008 của liên Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ hướng dẫn về tổ chức và biên chế của Trung tâm TGPL nhà nước đã có quy định “hạn chế điều chuyển không cần thiết” (điểm b, mục 1, phần III) để bảo đảm Trợ giúp viên pháp lý có tích luỹ nghề nghiệp và tránh sai sót, hạn chế phải đào tạo bồi dưỡng mới quá nhiều.

Do các Chi nhánh mới thành lập, đang trong giai đoạn kiện toàn nên Trợ giúp viên pháp lý có thể được điều động, biệt phái xuống làm việc tại Chi nhánh trong một thời gian. Sau khi Chi nhánh TGPL được củng cố, tăng cường đủ nhân lực thì Trợ giúp viên pháp lý có thể điều chuyển về Trung tâm.

4. Chế độ chính sách đối với Trợ giúp viên pháp lý

Trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nước được hưởng các quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.

Điều 25 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP quy định rõ “Trợ giúp viên pháp lý có các ngạch tương đương với ngạch chuyên viên pháp lý”. Khoản 1, Điều 26 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP quy định: “Trợ giúp viên pháp lý được xếp lương và trả lương theo thang bảng lương tương đương ngạch chuyên viên trong các cơ quan nhà nước”.

Khi thực hiện TGPL thì Trợ giúp viên pháp lý phải thực hiện các nghĩa vụ nghề nghiệp và được hưởng các quyền lợi của người thực hiện TGPL như: được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng TGPL... Về thang bảng lương của Trợ giúp viên pháp lý được quy định cụ thể tại Khoản 2, 3 và 4, Điều 26 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP:

2.Các chức danh lãnh đạo của Trung tâm được hưởng chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo theo quy định chung đối với cán bộ, công chức nhà nước.

3. Trợ giúp viên pháp lý được hưởng phụ cấp trách nhiệm theo nghề bằng 25% mức lương hiện hưởng cộng với phụ cấp vượt khung (nếu có). Khi tham gia tố tụng, thực hiện đại diện ngoài tố tụng, hoà giải trong TGPL, Trợ giúp viên pháp lý được hưởng phụ cấp vụ việc bằng 10% mức bồi dưỡng áp dụng đối với cộng tác viên.

4. Trong trường hợp Trợ giúp viên pháp lý đi công tác phục vụ việc xác minh các tình tiết của vụ việc TGPL hoặc phục vụ cho yêu cầu của hoạt động TGPL thì được thanh toán chi phí tàu xe, tiền lưu trú theo quy định hiện hành về chế độ công tác phí cho cán bộ, công chức nhà nước đi công tác trong nước.”.

Như vậy, việc Trợ giúp viên pháp lý được hưởng lương, phụ cấp lương, phụ cấp trách nhiệm theo nghề, phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp vụ việc bảo đảm có ưu đãi nghề nghiệp và công sức đóng góp cho xã hội về mặt pháp luật.

Theo quy định của Luật TGPL, trong quá trình thực hiện TGPL, nếu Trợ giúp viên pháp lý gây thiệt hại cho người được TGPL mà do lỗi của Trợ giúp viên pháp lý thì Trợ giúp viên pháp lý phải có trách nhiệm bồi thường. Trong trường hợp này, Trung tâm TGPL nơi người đó công tác bồi thường cho người được TGPL, sau đó Trợ giúp viên pháp lý đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Trung tâm theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Trợ giúp viên pháp lý có thành tích trong công tác được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng. Ngoài ra, Trợ giúp viên pháp lý còn được hưởng các chế độ khác như được hưởng chế độ khám chữa bệnh theo quy định, được mua bảo hiểm và được hưởng chế độ hưu trí khi về hưu.

Tóm lại, các quy định hiện hành về tuyển chọn, quản lý, sử dụng và chế độ chính sách đối với Trợ giúp viên pháp lý trong những năm qua thực sự đã có những tác động tích cực, góp phần xây dựng đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý ngày càng lớn mạnh về số lượng và bảo đảm về chất lượng. Kết quả trên đạt được là do những thuận lợi, ưu điểm sau đây:

+ Hệ thống văn bản pháp luật về TGPL tương đối đầy đủ, đồng bộ, là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tuyển chọn và thu hút Trợ giúp viên pháp lý cũng như tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho Trợ giúp viên pháp lý làm việc và thực hiện vụ việc. Các văn bản pháp luật về TGPL được ban hành kịp thời, giải quyết được những vẫn đề vướng mắc về trình độ, tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý cũng như các chế độ chính sách, ưu đãi đối với Trợ giúp viên pháp lý.

+ Luật TGPL và Nghị định số 07/2007/NĐ-CP của Chính phủ có quy định về chế độ, chính sách đối với Trợ giúp viên pháp lý đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với công tác TGPL (chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề bằng 25% mức lương hiện hưởng cộng với phụ cấp vượt khung (nếu có)). Khi tham gia tố tụng, thực hiện đại diện ngoài tố tụng, hoà giải trong TGPL, Trợ giúp viên pháp lý được hưởng phụ cấp vụ việc (bằng 10% mức bồi dưỡng áp dụng đối với cộng tác viên).

+ Một số Trợ giúp viên pháp lý đã được đào tạo cơ bản, có kinh nghiệm, kỹ năng TGPL, trực tiếp tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho người được TGPL từ trước khi có Luật TGPL nên sau khi Luật TGPL có hiệu lực đã rất tự tin, trực tiếp tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL.

+ Việc chọn lựa, cử người tham gia lớp bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL bảo đảm khách quan, công bằng. Việc bồi dưỡng nghiệp vụ, cấp chứng chỉ phản ánh đúng trình độ của học viên. Hàng năm, Trợ giúp viên pháp lý được tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, được đi khảo sát, thăm quan các Trung tâm TGPL khác để học hỏi, trao đổi về kinh nghiệm quản lý, chỉ đạo, điều hành công việc, kỹ năng thực hiện TGPL, kỹ năng ghi chép sổ sách, lưu trữ hồ sơ vụ việc…

Tuy nhiên, bên cạnh đó việc tuyển chọn, quản lý, sử dụng Trợ giúp viên pháp lý trong thực tiễn vẫn còn có những hạn chế, bất cập sau đây:

+ Việc tuyển dụng cán bộ của Trung tâm vẫn theo quy trình chung: tiến độ còn chậm, phụ thuộc vào kế hoạch của Sở Nội vụ ở địa phương. Bên cạnh đó, ở một số địa phương còn có tình trạng đã tham dự xong chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ, có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ nhưng vẫn bị luân chuyển sang phòng, ban khác của Sở Tư pháp theo chính sách luân chuyển cán bộ gây lãng phí vì đã bồi dưỡng, đào tạo nghề TGPL… Vì vậy, một số Trung tâm còn thiếu cán bộ có kinh nghiệm, kỹ năng TGPL.

+ Việc lựa chọn cán bộ tham gia lớp bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL và kiểm tra sát hạch còn gặp nhiều khó khăn: khi Trung tâm cử cán bộ đi học vẫn phải có cán bộ khác trực tại Trung tâm, cá biệt có một số cán bộ, viên chức của Trung tâm do có nhiều việc nên chưa thu xếp thời gian để tham dự lớp bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL.

+ Hiện nay do các Trung tâm TGPL nhà nước đang trong giai đoạn kiện toàn tổ chức, bộ máy của Trung tâm và Chi nhánh nên vẫn còn địa phương chưa triển khai việc bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý và Giám đốc Trung tâm TGPL. Ở một số địa phương, Giám đốc Trung tâm chưa phải là Trợ giúp viên pháp lý theo quy định của Luật TGPL như: thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Ninh Bình… Mặt khác, vẫn còn nhiều người được Cục TGPL cấp phôi thẻ Trợ giúp viên pháp lý nhưng chưa được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý, bổ sung thêm đội ngũ người thực hiện TGPL tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL.

+ Một số địa phương còn thiếu cán bộ để lựa chọn cử tham dự lớp bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL, đội ngũ cán bộ Trợ giúp viên pháp lý thiếu về số lượng và còn yếu về chất lượng, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ TGPL đặt ra theo qui định của Luật TGPL và các văn bản hướng dẫn thi hành. Biên chế của một số Trung tâm còn hạn chế, vì vậy chưa đáp ứng được nhu cầu TGPL ngày càng tăng về số lượng và đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng của người dân.

+ Trình độ của Trợ giúp viên pháp lý tuy đã được nâng lên từng bước nhưng vẫn chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ của công tác TGPL đòi hỏi ngày càng cao, với  tính chất vụ việc ngày càng phức tạp, phạm vi mở rộng. Yêu cầu về trình độ pháp luật chuyên sâu, chuyên ngành của chuyên viên pháp lý trong các Trung tâm chưa đạt được, đặc biệt về kỹ năng TGPL còn nhiều hạn chế, dẫn tới một số vụ việc TGPL còn có chất lượng chưa cao.

+ Số lượng Trợ giúp viên pháp lý được bồi dưỡng còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu bồi dưỡng thực tế đặt ra. Việc tập huấn mới chỉ dừng lại ở các cán bộ Cục TGPL, lãnh đạo và một số chuyên viên pháp lý chủ chốt của các Trung tâm TGPL mà chưa bao gồm các chuyên viên, cộng tác viên khác của Trung tâm. Theo Kết quả khảo sát nhu cầu tập huấn do Cục TGPL thực hiện năm 2003, vẫn còn trên 40% cán bộ được khảo sát chưa được dự các lớp tập huấn của Cục. So với mặt bằng chung của xã hội như Luật sư thì lương, phụ cấp của Trợ giúp viên pháp lý vẫn còn thấp (một Luật sư bào chữa có thể thu khoảng 5 triệu đồng/vụ, trong khi Trợ giúp viên pháp lý chỉ thu nhập từ lương, phụ cấp khoảng 3 triệu đồng/tháng). Như vậy, thu nhập của Trợ giúp viên pháp lý chưa tương xứng với công sức, trách nhiệm nghề nghiệp của mình.

+ Điều kiện làm việc của Trợ giúp viên pháp lý cũng còn hạn chế: theo báo cáo của nhiều địa phương, trụ sở làm việc của Trợ giúp viên pháp lý chật hẹp, trang thiết bị làm việc cũng thiếu. Việc thực thi nhiệm vụ như khi đi TGPL lưu động thì thiếu phương tiện (như ô tô) phải thuê bên ngoài, không có các trang thiết bị ghi âm, chụp ảnh để thu thập chứng cứ trong khi kinh phí của các Trung tâm TGPL nhà nước trong toàn quốc còn hạn hẹp.

Để giải quyết các điểm hạn chế, tồn tại trên đây thì cần phải đổi mới cơ chế, chính sách và chế độ lương, điều kiện làm việc để thu hút đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý làm việc tại các Trung tâm TGPL nhà nước và các Chi nhánh của Trung tâm.

II. ĐỔI MỚI CƠ CHẾ THU HÚT, TUYỂN CHỌN VÀ CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ

Cơ chế thu hút, tuyển chọn và chế độ chính sách đối với Trợ giúp viên pháp lý trong giai đoạn hiện nay cần có sự đổi mới với những lý do sau đây:

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới xác định: “Nâng cao tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức và nghề nghiệp chuyên môn cho cán bộ tư pháp. Nghiên cứu tiến tới thực hiện việc thi sát hạch trước khi bổ nhiệm và quy định thời hạn bổ nhiệm cho cán bộ có chức danh tư pháp”… “rà soát lại đội ngũ cán bộ tư pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh”. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 chỉ rõ “bảo đảm số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cán bộ, công chức làm công tác pháp luật…, chú trọng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho các chức danh tư pháp”. Như vậy, Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 48-NQ/TW đã định hướng cho việc hoàn thiện thể chế, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (trong đó có đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý) trong sạch, vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế cũng như nhu cầu TGPL của nhân dân.

- Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ của ngành Tư pháp theo quy định tại Nghị định 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp (thay thế Nghị định 62/2003/NĐ-CP) đã thực sự có nhiều điểm đổi mới.

- Trong hoạt động TGPL: theo Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày 23/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ, để bảo đảm chất lượng TGPL và đáp ứng nhu cầu TGPL ngày càng tăng, hiện nay, các Trung tâm TGPL nhà nước đang tích cực để kiện toàn về tổ chức, cán bộ. Theo Đề án quy hoạch mạng lưới Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008 – 2010, định hướng đến năm 2015 ban hành kèm theo Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày 23/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ, phấn đấu đến năm 2010, mỗi Trung tâm sẽ bảo đảm số lượng Trợ giúp viên pháp lý có ít nhất 01 người/01 lĩnh vực TGPL và từ 150 cộng tác viên trở lên; mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ có tổng số Chi nhánh của Trung tâm chiếm khoảng 1/3 tổng số các đơn vị hành chính cấp huyện (theo địa điểm có Toà án khu vực); thành lập mới và duy trì sinh hoạt Câu lạc bộ TGPL tại tất cả các xã thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đặc biệt khó khăn và miền núi; ngoài ra, có thể thu hút từ 30 - 40% tổng số tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật (khoảng 1.500 đến 2.000 người) đăng ký tham gia TGPL. Định hướng đến năm 2015, mỗi Trung tâm có số Trợ giúp viên pháp lý bảo đảm có ít nhất từ 02 - 03 người/01 lĩnh vực TGPL và từ 200 cộng tác viên trở lên; có Chi nhánh tại 100% địa bàn có Toà án khu vực; tiếp tục thu hút các tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật đăng ký tham gia TGPL ([36]). Như vậy, đến năm 2015, không chỉ bảo đảm số lượng người thực hiện TGPL làm việc tại Trung tâm và Chi nhánh của Trung tâm mới được chú trọng phát triển mà còn đẩy mạnh phát triển cả các loại hình TGPL ở cơ sở, đặc biệt là các Câu lạc bộ TGPL và mở rộng việc thu hút các tổ chức tham gia TGPL. Điều đó cho thấy, trong thời gian tới, nhu cầu bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ TGPL cũng sẽ tỉ lệ thuận với việc gia tăng đội ngũ người thực hiện TGPL. Đồng thời, nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng cũng cần được đa dạng hoá theo các cấp độ, trình độ khác nhau cho phù hợp với tính chất và vị trí công tác của người thực hiện TGPL mới có thể đáp ứng được nhu cầu cũng như bảo đảm hiệu quả bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ này.

- Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và Chương trình 135 giai đoạn II đã xác định mục tiêu của TGPL là 95% người dân tộc và 98% người nghèo được TGPL khi có yêu cầu. Như vậy, cũng cần phải có nguồn Trợ giúp viên pháp lý tương ứng, đủ lớn mạnh để thực hiện mục tiêu này.

- Thông tư liên tịch số 08/2008/TTLT- BTP-BNV ngày 07/11/2008 của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn về tổ chức và biên chế của Trung tâm TGPL nhà nước đã định hình tổ chức bộ máy và biên chế cụ thể của Trung tâm. Theo đó, Trung tâm sẽ có Giám đốc, không quá 02 Phó Giám đốc, Phòng Hành chính và các Phòng nghiệp vụ (các Phòng thành lập theo các lĩnh vực pháp luật: hình sự - hành chính, dân sự - đất đai, lao động - xã hội), các Chi nhánh. Định mức biên chế của Trung tâm cũng đã được xác định rõ trong Thông tư liên tịch: Phòng Hành chính - Tổng hợp gồm Trưởng phòng, 01 Phó Trưởng phòng, 01 kế toán viên và 01 chuyên viên pháp lý kiêm văn thư, thủ quỹ. Các Phòng nghiệp vụ gồm Trưởng phòng, không quá 02 Phó Trưởng phòng, tối thiểu 02 Trợ giúp viên pháp lý và 01 chuyên viên pháp lý. Số lượng Trợ giúp viên pháp lý của mỗi Phòng nghiệp vụ được xác định theo vị trí công tác và khối lượng công việc thực tế phải đảm nhiệm. Chi nhánh của Trung tâm gồm Trưởng Chi nhánh, tối thiểu 01 Trợ giúp viên pháp lý và 01 chuyên viên pháp lý. Đây có thể nói là văn bản rất quan trọng, tạo điều kiện cho các Trung tâm trong việc kiện toàn tổ chức bộ máy theo Luật TGPL và thực hiện Đề án quy hoạch mạng lưới Trung tâm và Chi nhánh theo Quyết định số 792/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Để thu hút Trợ giúp viên pháp lý trong giai đoạn tới, Nhà nước cần có cơ chế bảo đảm cuộc sống, các nhu cầu thiết yếu cho Trợ giúp viên pháp lý, có chế độ lương, khen thưởng xứng đáng và có hình thức khuyến khích, động viên Trợ giúp viên pháp lý kịp thời như tặng Bằng khen, Giấy khen, Huy chương, được ưu đãi các dịch vụ khác… cần phải đổi mới cơ chế thu hút, tuyển chọn, sử dụng Trợ giúp viên pháp lý, cụ thể là:

- Số lượng người được các địa phương cử tham dự khóa bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL tạo nguồn bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý còn hạn chế, trong khi nhu cầu cần có người để bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý của các Trung tâm TGPL lại rất lớn. Do đó, để giải quyết vấn đề này cần có cơ chế, chính sách và các giải pháp cụ thể tạo điều kiện cho việc tổ chức khoá bồi dưỡng và tham dự bồi dưỡng. Đồng thời, quy chuẩn nội dung, chương trình bồi dưỡng để bảo đảm sau khi được bổ nhiệm, các Trợ giúp viên pháp lý có đủ các kiến thức, kỹ năng cần thiết cũng như bản lĩnh nghề nghiệp để đảm nhận các vụ việc đại diện, bào chữa trước Toà.

- Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu, nhiệm vụ của ngành Tư pháp trong tình hình mới, hoạt động Trợ giúp viên pháp lý có những đặc thù riêng. Để thu hút, tuyển chọn và thực hiện chế độ chính sách đối với Trợ giúp viên pháp lý, chúng tôi kiến nghị cần có một số giải pháp sau đây:

+ Ban hành văn bản quy định cụ thể, chi tiết ngạch, bậc đối với chức danh Trợ giúp viên pháp lý vì hiện nay, việc áp dụng quy định pháp luật đối với chức danh này còn rất khác nhau: có nơi không bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý hoặc bổ nhiệm nhưng không được hưởng 25% phụ cấp vụ việc.

+ Giám đốc Sở Tư pháp không thực hiện việc luân chuyển người đã tham gia lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, được cấp chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL và cán bộ của Trung tâm đã được bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý... bởi vì những người này có kinh nghiệm, kỹ năng trong công tác TGPL, nếu điều chuyển người khác sang Trung tâm sẽ phải mất ít nhất là một vài năm để làm quen công việc.

+ Những vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, việc biết tiếng dân tộc cũng được coi là biết ngoại ngữ trong việc thực hiện chính sách ưu tiên trong tuyển dụng, thi công chức, thi nâng ngạch…

+ Giám đốc Sở Tư pháp không lựa chọn những người không phải là Trợ giúp viên pháp lý để trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh bổ nhiệm làm Giám đốc Trung tâm. Hiện nay, vẫn còn một số địa phương, Giám đốc Trung tâm chưa phải là Trợ giúp viên pháp lý.

+ Thường xuyên cử Trợ giúp viên pháp lý tham dự các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao trình độ, kỹ năng TGPL.

+ Nhà nước quan tâm bố trí phương tiện đi lại cho Trợ giúp viên pháp lý xe ô tô để đi TGPL lưu động (mỗi Trung tâm 01 chiếc xe ôtô 2 cầu, gầm cao để thực hiện TGPL lưu động ở vùng sâu, vùng xa…).

+ Sau 3 tháng kể từ khi chuyên viên pháp lý được tuyển vào Trung tâm thì bắt buộc phải tham gia học lớp luật sư. Việc tính thời gian tập sự cho Luật sư căn cứ vào kết quả học tập hoặc những người có chứng chỉ về Luật sư được ưu tiên xét tuyển vào làm việc tại Trung tâm.

+ Có chế độ, chính sách ưu tiên cho chuyên viên pháp lý của Trung tâm khi được tuyển vào làm việc tại Trung tâm như: được hưởng ngay lương 100% và không phải mất thời gian tập sự.

+ Do chế độ chính sách đối với Trợ giúp viên pháp lý còn thấp nên Nhà nước có chính sách ưu tiên thi nâng ngạch lên ngạch cao hơn đối với Trợ giúp viên pháp lý, có thể Trợ giúp viên pháp lý ở dưới 1 bậc lương cũng được xem xét thi nâng ngạch.

+ Cần thiết thành lập Hội nghề nghiệp của những người thực hiện TGPL để tăng tính tự quản và giúp đỡ, hỗ trợ các hội viên trong trao đổi kinh nghiệm, nâng cao năng lực và tôn vinh những Trợ giúp viên pháp lý làm được nhiều vụ việc có chất lượng.


  Chuyên đề 5

Thực trạng, phương hướng và giải pháp xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức ngành Tư pháp trong giai đoạn hiện nay

 

                                        Ths. Nguyên Ngọc Vũ – Vụ Tổ chức cán bộ

 

I. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGÀNH TƯ PHÁP

1. Ưu điểm và kết quả đạt được

Trong hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành của ngành Tư pháp Việt Nam, đội ngũ cán bộ ngành Tư pháp bao gồm cán bộ, công chức, viên chức làm việc tại các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp và cơ quan  thi hành án dân sự địa phương (Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Ban Tư pháp (công chức Tư pháp - Hộ tịch) và các cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện) đã không ngừng được củng cố và kiện toàn và ngày càng lớn mạnh, là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của Bộ, ngành và địa phương, đồng thời bảo đảm sự thống nhất quản lý công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở.

Đến nay, toàn Ngành có trên 26 nghìn cán bộ, công chức, viên chức; trong đó Bộ Tư pháp có 1290 công chức, viên chức, bao gồm 567 công chức (06 phó giáo sư, 32 tiến sỹ, 83 thạc sĩ, 383 cử nhân, 08 cao đẳng, 08 trung cấp), 723 viên chức (03 giáo sư, 12 phó giáo sư, 108 tiến sỹ, 161 thạc sỹ, 136 người có trình độ đại học); các cơ quan tư pháp địa phương có 17.255 công chức, viên chức, trong đó Sở Tư pháp có 3530 công chức, viên chức, Phòng Tư pháp có 2811 công chức, Tư pháp cấp xã có 12620 công chức[37]; các cơ quan thi hành án dân sự có 7931 công chức; hơn 2600 giám định viên tư pháp (trong đó có trên 400 giám định viên chuyên trách). Bên cạnh đội ngũ cán bộ, công chức đang trực tiếp làm việc trong các cơ quan trong ngành Tư pháp, hiện có hàng ngàn công chứng viên và người làm tư vấn pháp luật làm việc trong các văn phòng công chứng, văn phòng luật sư, công ty luật, trung tâm tư vấn pháp luật trong cả nước. Đây là nhân tố quyết định việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của Bộ và địa phương, đồng thời bảo đảm sự thống nhất quản lý công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở, góp phần xứng đáng vào các thành tựu chung của cả nước và của địa phương trong từng thời kỳ.

Về chất lượng, đội ngũ công chức, viên chức ngành Tư pháp ngày càng được nâng cao. Hiện nay, trong 1290 cán bộ, công chức, viên chức của Bộ Tư pháp có 3 giáo sư, 18 phó giáo sư, 140 tiến sỹ, 244 thạc sỹ. Đối với các cơ quan tư pháp địa phương, Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp có trên 75% cán bộ có trình độ cử nhân luật trở lên, Tư pháp cấp xã có trên 70 % công chức Tư pháp - Hộ tịch có trình độ trung học luật trở lên. Cơ quan thi hành án dân sự địa phương có trên 74% cán bộ có trình độ cử nhân luật trở lên. Trình độ nghiệp vụ, kỹ năng hành chính và kỹ năng nghề nghiệp của cán bộ, công chức trong ngành được nâng lên, từng bước đáp ứng với yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ công tác tư pháp trong tình hình mới.

          Tuy nhiên, trước yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc tế, đội ngũ cán bộ, công chức ngành Tư pháp còn nhiều hạn chế, bất cập.

Số lượng cán bộ trong ngành Tư pháp còn thiếu, chưa tương xứng và đáp ứng yêu cầu về nhiệm vụ, khối lượng công việc ngày càng tăng. Đa số các cơ quan trong ngành (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Tư pháp cấp xã và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương) đều rơi vào tình trạng quá tải về công việc, dẫn tới việc quản lý công tác tư pháp chưa sâu, chưa bao quát triển khai hết các nhiệm vụ được giao, đặc biệt là Phòng Tư pháp cấp huyện và Tư pháp cấp xã[38].

Cơ cấu cán bộ về ngành nghề, giới tính, độ tuổi, ngạch công chức còn chưa phù hợp với đặc thù, đặc điểm, tính chất và yêu cầu về công việc, mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động của các đơn vị. Đặc biệt, tình trạng chưa phù hợp giữa chức trách theo quy định của từng ngạch công chức với công việc thực tế của cán bộ, công chức đảm nhiệm.

Chất lượng cán bộ, công chức vẫn còn nhiều mặt chưa ngang tầm với yêu cầu của nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu kiến thức về phân tích chính sách, kiến thức quản lý, kiến thức thực tiễn, ngoại ngữ, tin học, dẫn đến việc tham mưu, hoạch định chính sách, tổ chức thực hiện pháp luật, giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra còn hạn chế; thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, cán bộ có trình độ cao, các chuyên gia đầu ngành, có khả năng dự báo, xử lý tốt những vẫn đề phức tạp nảy sinh để tư vấn cho Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh trong phạm vi bộ, ngành, địa phương, quốc gia, khu vực và quốc tế; phương pháp, lề lối làm việc chậm được đổi mới, hiệu quả, hiệu xuất chưa cao. Tại một số địa bàn vùng sâu, vùng sa, nhiều công chức tư pháp công tác tại vùng đồng bào dân tộc ít người lại không biết tiếng của dân tộc nơi công tác nên ảnh hưởng đến việc triển khai các công tác tư pháp cơ sở như hoà giải, phổ biến giáo dục pháp luật. Một bộ phận cán bộ chậm thích nghi với yêu cầu, hoàn cảnh mới, ý thức, tinh thần trách nhiệm chưa cao, còn có hiện tượng suy thoái về phẩm chất đạo đức, vi phạm pháp luật trong thực thi công vụ. Hiện tượng cán bộ, công chức xin chuyển công tác hoặc xin thôi việc tuy chưa trở thành làn sóng nhưng đã tăng liên tục trong những năm gần đây, đặc biệt là cán bộ, công chức đang công tác tại Bộ Tư pháp và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương[39].

2. Một số hạn chế, bất cập

2.1. Về số lượng, cơ cấu cán bộ

So với yêu cầu về nhiệm vụ, khối lượng công việc ngày càng tăng thì đội ngũ cán bộ trong ngành Tư pháp còn thiếu về số lượng. Đa số các cơ quan trong ngành (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Tư pháp cấp xã và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương) đều rơi vào tình trạng quá tải về công việc, đặc biệt là Phòng Tư pháp cấp huyện và Tư pháp cấp xã. Đội ngũ giám định viên tư pháp có số lượng quá mỏng nên dẫn đến tình trạng quá tải, nhất là lĩnh vực có nhu cầu giám định lớn như pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự (trung bình 1 giám định viên tham gia khám giám định khoảng 300- 1.000 trường hợp/năm nên phần nào ảnh hưởng đến chất lượng kết quả giám định).

 Cơ cấu cán bộ ngành Tư pháp chưa hợp lý, còn bị động, hẫng hụt giữa các thế hệ cán bộ; cán bộ là chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp và tương đương còn chiếm tỷ lệ thấp, chưa tương xứng với yêu cầu và tính chất, vị trí công việc; còn có sự chưa phù hợp giữa chức danh cán bộ với vị trí công việc được đảm nhận; đội ngũ chuyên gia đầu ngành còn ít, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề pháp lý đặt ra trong hội nhập kinh tế quốc tế.

2.2. Về chất lượng đội ngũ cán bộ

Trình độ, năng lực chuyên môn của nhiều cán bộ, công chức chưa ngang tầm với yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra. Một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chức danh, thiếu kiến thức phân tích chính sách, thực tiễn dẫn đến việc tham mưu, hoạch định chính sách, tổ chức thực hiện pháp luật, giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra còn hạn chế; trình độ ngoại ngữ, tin học bất cập trước yêu cầu của nhiệm vụ được giao. Tại một số địa bàn vùng sâu, vùng sa, nhiều công chức tư pháp công tác tại vùng đồng bào dân tộc ít người lại không biết tiếng của dân tộc nơi công tác nên ảnh hưởng đến việc triển khai các công tác tư pháp cơ sở như hoà giải, phổ biến giáo dục pháp luật. Một bộ phận cán bộ chậm thích nghi với yêu cầu, hoàn cảnh mới, ý thức, tinh thần trách nhiệm chưa cao, còn có hiện tượng suy thoái về phẩm chất đạo đức, vi phạm pháp luật trong thực thi công vụ.

II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, MỤC TIÊU XÂY DỰNG, PHÁT ĐỘI NGỸ CÁN BỘ NGÀNH TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. Một số quan điểm chỉ đạo

a) Xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ ngành Tư pháp phải chú ý đến tính đồng bộ, toàn diện; đồng thời, phải có trọng tâm, trọng điểm

Yêu cầu về tính đồng bộ được thể hiện trước hết là đồng bộ về chất lượng giữa các loại cán bộ, cán bộ làm công tác lãnh đạo, quản lý và cán bộ chuyên môn nghiệp vụ làm công tác tham mưu, giúp việc, thực thi nhiệm vụ. Đồng bộ về cơ cấu trong từng loại cán bộ trong từng cơ quan, tổ chức. Cán bộ phải được trang bị kiến thức toàn diện, đồng bộ, đồng thời phải có trọng tâm, trọng điểm, có tính đặc thù về chuyên môn nghiệp vụ, chính trị, đạo đức nghề nghiệp, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học ở các mức độ khác nhau phù hợp với từng vị trí công việc được giao.

b) Xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ ngành Tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện chiến lược phát triển của ngành Tư pháp

Xây dựng, phát triển nguồn nhân lực ngành Tư pháp là một bộ phận có tính chất then chốt, quyết định tới việc thực hiện chiến lược phát triển ngành Tư pháp. Vì vậy, khi xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cần quán triệt, lồng ghép, thể hiện được những yêu cầu về công tác tổ chức cán bộ trong Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đã được cụ thể hoá trong chiến lược phát triển của ngành Tư pháp.

c) Chất lượng đội ngũ cán bộ ngành Tư pháp pháp luôn gắn bó, quan hệ hữu cơ với mô hình tổ chức, cơ chế, phương thức hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong ngành Tư pháp

Mô hình tổ chức, cơ chế, phương thức hoạt động là những yếu tố quyết định phương hướng phát triển và sử dụng đội ngũ cán bộ, tạo điều kiện để mỗi cán bộ đều yên tâm công tác, phát huy sáng tạo, bộc lộ hết khả năng của mình. Vì vậy cần phải xây dựng mô hình tổ chức, cơ chế, phương thức hoạt động của ngành Tư pháp thật sự phù hợp, hiệu quả, đáp ứng được nhiệm vụ trước mắt và lâu dài; đồng thời, đối với mỗi cơ quan, tổ chức trong Ngành cũng phải được quy định chức năng, nhiệm vụ một cách cụ thể, rõ ràng, không chồng chéo, mâu thuẫn.

d) Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực ngành Tư pháp phải gắn kết chặt chẽ với với quá trình đổi mới giáo dục và đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học chuyên ngành luật và đào tạo các chức danh tư pháp theo hướng hội nhập, đạt trình độ khu vực và quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành Tư pháp trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.

đ) Xây dựng cơ chế, chính sách đối với cán bộ là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng đội ngũ cán bộ

Cơ chế, chính sách đúng đắn, phù hợp với, điều kiện hoàn cảnh cụ thể, phù hợp với quy luật vận động và phát triển của xã hội sẽ mở đường, tạo động lực thúc đẩy tích tích cực, tài năng, sáng tạo, nhiệt tình, trách nhiệm của mỗi người, qua đó sẽ thúc đẩy xã hội phát triển. Ngược lại, nếu cơ chế, chính sách lạc hậu, không phù hợp với xu thế phát triển của xã hội thì sẽ có tác động kìm hãm, thui chột tài năng của mỗi người, từ đó sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải gắn liền với việc đổi mới hệ thống cơ chế, chính sách đối với cán bộ. Có thể nói, trong tình hình hiện nay, việc đổi mới cơ chế, chính sách đối với cán bộ ngành Tư pháp là biện pháp mang tính đột phá để nâng cao một bước chất lượng của đội ngũ cán bộ.

2. Mục tiêu xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ

          a) Mục tiêu chung: Phát triển nguồn nhân lực ngành Tư pháp có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, chính quy, chuyên nghiệp, đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, có năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp đủ sức hoàn thành tốt các nhiệm vụ trước mắt cũng như nhiệm vụ đặt ra trong chiến lược phát triển của ngành Tư pháp và đáp ứng nhu cầu của xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. 

b) Mục tiêu cụ thể:

- Đến năm 2015, khắc phục một bước những hạn chế, bất cập về cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực, phấn đấu đảm bảo 100% cán bộ của cơ quan Bộ Tư pháp, các tổ chức hành nghề luật; 80% cán bộ của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Thi hành án dân sự các cấp và Tư pháp cấp xã ở đồng bằng và đô thị; 70% cán bộ của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, thi hành án dân sự các cấp và Tư pháp cấp xã tại các địa bàn còn lại, đạt chuẩn, chuyên nghiệp và đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ theo quy định.

- Đến năm 2020, đảm bảo đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, chất lượng mọi mặt của nguồn nhân lực được nâng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ của ngành Tư pháp; trong đó, có đội ngũ chuyên gia giỏi, đủ trình độ, năng lực nghiên cứu, tư vấn cho Đảng và Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp, giải quyết các vấn đề pháp lý đặt ra trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế, trong điều kiện nước ta đã cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại

- Đến năm 2030, xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ chính quy, chuyên nghiệp, đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, có năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp đủ sức hoàn thành tốt các nhiệm vụ trong điều kiện Việt Nam đã trở thành nước công nghiệp hiện đại.

          III. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NGÀNH TƯ PHÁP

1. Xây dựng, hoàn thiện cơ cấu ngạch và tiêu chuẩn chức danh công chức, viên chức ngành Tư pháp.

a) Đối với các ngạnh công chức thi hành án dân sự

Ban hành mã ngạch, xây dựng tiêu chuẩn ngạch công chức thi hành án dân sự gồm: Chấp hành viên cao cấp, chấp hành viên chính, chấp hành viên sơ cấp, thư ký thi hành án; thẩm tra viên cao cấp, thẩm tra viên chính và thẩm tra viên.

b) Đối với công chứng viên

Xây dựng, sửa đổi tiêu chuẩn ngạch đối với công chứng viên và đề nghị nâng cao các hệ số lương của ngạch công chứng viên bằng với các ngạch công chức tư pháp cấp tỉnh như chấp hành viên trung cấp, thẩm phán cấp tỉnh. Việc xây dựng chế độ lương của Công chứng viên theo 1 ngạch là phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với yêu cầu xác định công chứng viên là một nghề để đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động này trong thời gian tới.

c) Đối với trợ giúp viên pháp lý

Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới tiêu chuẩn ngạch đối với trợ giúp viên pháp lý và trợ giúp viên pháp lý chính.

d) Xây dựng chức danh đấu giá viên và đăng ký viên là những viên chức trực tiếp thục hiện bán đấu giá tài sản và đăng ký giao dịch bảo đảm

đ) Đối với công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã

Nghiên cứu xây dựng hai chức danh công chức làm công tác tư pháp tại cấp xã, bao gồm Hộ tịch viên và công chức Tư pháp cấp xã.

2. Xây dựng, hoàn thiện cơ cấu công chức, viên chức trong các cơ quan đơn vị ngành Tư pháp

Công chức trong ngành Tư pháp đảm nhận nhiều loại công việc khác nhau, do đó yêu cầu về trình độ, tiêu chuẩn cũng khác nhau, vì vậy cần xây dựng cơ cấu công chức trong từng đơn vị, lấy đó làm cơ sở trong tuyển dụng và đào tạo, bồi dưỡng công chức, khác phục tình trạng đại học hoá các vị trí công tác trong các cơ quan, đơn vị trong Ngành.

Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quy trình giải quyết công việc của các cơ quan, đơn vị trong ngành Tư pháp trong từng thời kỳ để xây dựng, hoàn thiện cơ cấu cán bộ cho phù hợp; trong đó cần nghiên cứu, xây dựng các cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức, bao gồm:

a) Cơ cấu các chức danh lãnh đạo, quản lý và cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, cơ cấu ngạch công chức, viên chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mô hình, cơ cấu tổ chức của mỗi đơn vị cũng như vị trí, vai trò, tính chất công vụ, nhiệm vụ được giao.

Ở Cơ quan Bộ Tư pháp đảm bảo 20% công chức là chuyên viên cao cấp và tương đương; 30% chuyên viên chính và tương đương, 40 % chuyên viên và tương đương, 10% cán sự và nhân viên phục vụ..

Ở Sở Tư pháp, có từ 1 đến 3 chuyên viên cao cấp, 30% là chuyên viên chính và tương đương, 50 % là chuyên viên và tương đương, còn lại là cán sự và công chức khác.

Ở Phòng Tư pháp, có từ 1 đến 2 chuyên viên chính còn lại là chuyên viên, cán sự.

Ở các cơ quan thi hành án dân sự địa phương: Xác định rõ cơ cấu công chức của cơ quan thi hành án theo hướng cơ cấu cán bộ cơ quan thi hành án dân sự theo hướng không nhất thiết tất cả các chứ danh công chức đều nhất thiết phải có trình độ cử nhân mà theo yêu cầu cụ thể của từng loại công viêc. Cụ thể, đối với cấp huyện ngoài các chức danh cần có trình độ cử nhân luật như Chấp hành viên thì số còn lại cần bố trí một lượng thích hợp những người có trình độ Trung cấp để giúp việc theo hướng đào tạo chuyên sâu, có tính ổn định lâu dài. Các ngạch công chức khác như kế toán thi hành án cũng xác định rõ theo hướng cấp huyện không nhất thiết phải có trình độ cử nhân mà có thể chỉ cần trung cấp.

b) Cơ cấu theo độ tuổi đảm bảo sự kế thừa giữa các thế hệ cán bộ. Mỗi một cơ quan, đảm bảo được cơ cấu 3 độ tuổi cán bộ.

c) Cơ cấu theo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ đào tạo đảm bảo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, tiêu chuẩn các ngạch công chức, viên chức và tiêu chuẩn nghề nghiệp.

d) Cơ cấu theo giới tính, dân tộc, vùng miền, đảm bảo sự hài hoà về giới tính, dân tộc và vùng miền.

3. Đổi mới hình thức tuyển chọn cán bộ:

          - Cụ thể hoá và vận dụng các quy định của Chính phủ phù hợp với đặc thù, điều kiện thực tế của ngành Tư pháp; đảm bảo cho việc tuyển dụng cán bộ đạt được sự công khai, minh bạch; thực hiện được dân chủ trong công tác cán bộ; mở rộng và chủ động tìm kiếm, phát hiện, lựa chọn nhân tài để khuyến khích, thu hút vào làm việc trong ngành Tư pháp.

- Đổi mới công tác thi tuyển cán bộ vào làm việc trong ngành Tư pháp theo hướng căn cứ vào đặc điểm, tính chất công việc, vị trí công tác, kết hợp giữa hình thức thi viết với phỏng vấn và xử lý tình huống của từng vị trí công việc cần tuyển. Đối với sinh viên tốt nghiệp đại học, thạc sỹ đạt loại giỏi, những người có trình độ từ tiến sỹ mà chuyên ngành được đào tạo phù hợp với vị trí công việc cần tuyển thì sẽ có hình thức tuyển dụng đặc thù để tạo điều kiện thu hút những đối tượng này vào công tác trong ngành Tư pháp. Liên hệ thường xuyên, chặt chẽ với các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật để phát hiện, có biện pháp thu hút, bồi dưỡng tài năng trẻ là sinh viên xuất sắc, sinh viên tốt nghiệp đạt loại giỏi. Áp dụng hình thức xét tuyển đối với sinh viên tốt nghiệp đạt loại khá, giỏi, người có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ đến làm việc tại các cơ quan trong ngành cán bộ làm việc ở những vùng khó khăn, vùng xa, vùng sâu, những nơi đang thiếu cán bộ.

- Thực hiện thí điểm thi tuyển vào các vị trí lãnh đạo cấp phòng, cấp vụ theo nguyên tắc cạnh tranh: lựa chọn người có đức - tài, bình đẳng, dân chủ, công khai, khách quan, trung thực; tiến tới xây dựng quy chế thi tuyển vị trí lãnh đạo để mở rộng, áp dụng thống nhất trong các cơ quan thuộc ngành Tư pháp.  Trong thời gian tới, cần xây dựng quy chế thi tuyển cán bộ lãnh đạo cấp phòng tại các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp và Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Sau đó, trên cơ sở tổng kết, đúc rút kinh nghiệm để triển khai áp dụng đối với cán bộ lãnh đạo từ cấp phó vụ trưởng, phó giám đốc Sở, Phó Cục trưởng cục Thi hành án trở xuống.

- Để có cán bộ có phẩm chất và năng lực giữ các chức danh lãnh đạo trong các cơ quan đơn vị của ngành, bên cạnh làm tốt việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển,.. cần xây dựng cơ chế tuyển chọn, tạo sự liên thông giữa các cơ quan trong ngành Tư pháp và xã hội. Theo đó, thực hiện phương thức tuyển chọn cán bộ có tài, đủ phẩm chất, trình độ từ các cơ quan, tổ chức bên ngoài nhà nước như luật sư, công chứng viên, luật gia, giám định viên tư pháp, thừa phát lại vào làm việc trong các cơ quan thuộc ngành Tư pháp; đồng thời có thể gửi cán bộ của ngành Tư pháp đến làm việc tại các tổ chức hành nghề luật, công chứng, giám định,...để tích lũy kinh nghiệm thực tế.

- Phân công, bố trí cán bộ phù hợp với ngành nghề đào tạo, phù hợp về sở trường năng lực của cán bộ. Trong phân công công việc cần xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm, gắn nhiệm vụ, quyền hạn với trách nhiệm. Xác định rõ quy trình giải quyết công việc và chế độ trách nhiệm của cán bộ. Thường xuyên đánh giá cán bộ khách quan, trung thực và chính xác; áp dụng chế độ khen thưởng, tôn vinh, động viên kịp thời đối với những người có thành tích xuất xắc, tậm tâm, tận lực với công việc; tạo lập môi trường đoàn kết, có đấu tranh xây dựng cơ quan trong sạch, vững mạnh; xử lý thích đáng những hành vi vi phạm, những người trây ì, thiếu trách nhiệm. Nghiên cứu tạo ra nhiều cơ hội về học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, cơ hội và định hướng phát triển chức nghiệp cho đội ngũ cán bộ trong ngành Tư pháp. Tăng cường và hiện đại hoá phương tiện, trang thiết bị và điều kiện làm việc, đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Tập trung nguồn lực để xây dựng công sở hiện đại theo tiêu chuẩn quy định.

4. Đổi mới một số mặt của công tác cán bộ

a) Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ ngành Tư pháp

Căn cứ mục tiêu chung, các mục tiêu cụ thể về xây dựng và phát triển ngành Tư pháp, xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển cán bộ trong từng giai đoạn tương ứng. Cần xây dựng quy hoạch cán bộ hàng năm, quy hoạch đến năm 2015 và quy hoạch đến năm 2020.

- Việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong ngành Tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của ngành Tư pháp, mở rộng, mỗi vị trí chức danh có ít nhất 3 người thuộc diện nguồn quy hoạch, để có tầm nhìn xa hơn, phá vỡ sự chia cắt, khép kín trong công tác cán bộ, trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đảm bảo sự kế thừa giữa các thế hệ cán bộ; gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và sử dụng, tạo điều kiện cho cán bộ trong diện quy hoạch rèn luyện, tu dưỡng, thử thách; thường xuyên rà soát, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra theo từng giai đoạn và hàng năm.

- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tổ chức, trong các lĩnh vực thuộc ngành Tư pháp trong từng thời kỳ; trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển chung về về số lượng, cơ cấu, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với đội ngũ cán bộ trong toàn Ngành.

b) Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành Tư pháp

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một chính sách quan trọng để thu hút cná bộ, hình thành đội ngũ công chức ngày càng chính quy, chuyên nghiệp, thời gian tới cần đẩy mạnh, đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong ngành theo các nội dung sau:

- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải có trọng tâm, trọng điểm, theo quy hoạch và tiêu chuẩn chức danh cán bộ, gắn đào tạo đào tạo, bồi dưỡng với bố trí, sử dụng cán bộ, coi đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao hiệu quả trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đang công tác trong ngành Tư pháp.

- Xác định rõ mục tiêu đào tạo là trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức có tầm nhìn, có năng lực làm việc thực tế đáp ứng yêu cầu của vị trí công tác, bảo đảm tính chuyên nghiệp.

- Tiếp tục hoàn thiện chương trình đào tạo các chức danh tư pháp, chương trình đào tạo hội nhập kinh tế quốc tế, chương trình bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp địa phương, đẩy mạnh chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành theo yêu cầu của thực tiễn như chương trình đào tạo, bồi dưỡng về lý lịch tư pháp, bán đấu giá tài sản, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức lãnh đạo, quản lý cho cán bộ trong ngành.  Chương trình đào tạo, bồi dưỡng phải phù hợp với mục tiêu, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng theo hướng nâng cao kỹ năng thực hành cho đội ngũ cán bộ, kết hợp lý luận và thực tiễn, kiến thức, kỹ năng và thái độ.

- Cải tiến phương pháp đào tạo, bồi dưỡng theo hướng áp dụng những phương pháp giảng dạy tiên tiến, hiện đại, phát huy tính tích cực của người học trong việc tiếp nhận kiến thức.

- Thường xuyên xem xét đánh giá về khoá học, chương trình học, giảng viên, cơ sở đào tạo, công tác quản lý đào tạo để đánh giá kết quả và hiệu quả đào tạo.

- Chú trọng bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ đang công tác trong ngành tư pháp, đặc biệt là cán bộ không phải chuyên ngành luật; ngoài ra cần bồi dưỡng kiến thức về một số chuyên ngành khác cho đội ngũ cán bộ chuyên môn đã được đào tạo về luật hiện đang làm công tác xây dựng, kiểm tra và theo dõi thi hành pháp luật của Bộ, ngành Tư pháp.

- Xây dựng, phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, kết hợp đào tạo, bồi dưỡng trong nước với đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài và đào tạo, bồi dưỡng được tổ chức trong nước nhưng có sử dụng tài liệu, giảng viên nước ngoài.

- Ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ trẻ có trình độ, năng lực, có triển vọng phát triển thành các chuyên gia trong các lĩnh vực của Ngành.

- Có cơ chế khuyến khích cán bộ trong ngành tự học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt.

c) Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác luân chuyển cán bộ ở các cơ quan, đơn vị trong ngành tư pháp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương đào tạo, bồi dưỡng toàn diện và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ; tạo điều kiện cho cán bộ trẻ, có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn; tạo nguồn cán bộ lâu dài; tăng cường cán bộ cho các lĩnh vực và địa bàn cần thiết; khắc phục tình trạng cục bộ trong công tác cán bộ, khép kín trong từng đơn vị của ngành Tư pháp.

Việc luân chuyển cán bộ tại các cơ quan trong ngành Tư pháp cần dựa trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ.

d) Đổi mới công tác đánh giá và khen thưởng đối với cán bộ

Đánh giá cán bộ, công chức phải căn cứ vào hệ thống tiêu chuẩn chức danh cán bộ; chú trọng đánh giá hiệu quả hoạt động thực tiễn của mỗi cán bộ, công chức; phải chú trọng việc phát hiện nhân tài để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, phát triển thành những công chức công chức chuyên môn, công chức lãnh đạo, quản lý giỏi. Đánh giá cán bộ, công chức phải được xem xét trong một quá trình công tác (quá khứ, hiện tại và tương lai), gắn với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, là yếu tố thường xuyên trong quá trình quy hoạch, luân chuyển, đào tạo và bố trí sử dụng cán bộ (quá trình đánh giá và đánh giá lại cán bộ); phải có kế hoạch chặt chẽ, hợp lý trong quản lý cán bộ, phải có các bước đánh giá phù hợp, khoa học; mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch trong đánh giá cán bộ.

Công tác đánh giá cán bộ không chỉ làm một lần mà phải làm thường xuyên, theo định kỳ hằng năm và trước khi đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ để đưa vào hồ sơ cán bộ, giúp cơ quan quản lý cán bộ nắm và hiểu được cán bộ. Đồng thời giúp cho bản thân người cán bộ hiểu đúng mình hơn nhằm phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm (nếu có), góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

Cần thay đổi phương pháp đánh giá cán bộ theo bộ tiêu chí đánh giá hợp lí, khoa học để có những nhận xét chính xác về phẩm chất chính trị, năng lực công tác của cán bộ, công chức. Những tiêu chí đánh giá cần thiết kế theo hướng được lượng hóa rõ ràng cụ thể theo từng vị trí chức danh dựa trên yêu cầu của từng vị trí đó.

Việc khen thưởng đối với cná bộ phai xuất phát từ kết quả đánh giá cán bộ và các tiêu chuẩn của các hình thức khen thưởng; đảm bảo các hình thức khen thưởng phải thực chất, có tác dụng động viên, khuyến khích công chức phấn đấu để khi được khen thưởng thì thấy xứng đáng, tự hào và trách nhiệm trong công tác.

5. Tiếp tục thực hiện cải cách chính sách tiền lương và các đãi ngộ khác đối với cán bộ

Cán bộ, công chức ngành tư pháp là một bộ phận của đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức của hệ thống chính trị. Do đó, các giải pháp chung về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức như tăng lương tối thiểu chung, mở rộng quan hệ lương tối thiểu - trung bình- tối đa, phụ cấp công vụ...sẽ được thực hiện theo lộ trình cải cách chính sách tiền lương giai đoạn 2008-2012 của Chính phủ. Từ năm 2013 đến năm 2015 và 2020, cần quán triệt đầy đủ thực hiện quan điểm của Đảng về trả lương cho cán bộ là đầu tư cho phát triển, nền công vụ của Nước ta được chuyển mạnh từ chế độ công vụ theo chức nghiệp sang chế độ công vụ theo vị trí việc làm. Vì vậy, cần nghiên cứu đổi mới cơ cấu của tiền lương, điều chỉnh mức tối thiểu, các thang lương, bảng lương cho phù hợp với những yêu cầu mới, nhằm bảo đảm nhu cầu tái sản xuất sức lao động của cán bộ để khuyến khích cán bộ, công chức phát triển theo con đường chuyên môn, thành các chuyên gia giỏi, khi không còn giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý thì thôi không hưởng phần phụ cấp chức vụ lãnh đạo. Từng bước thực hiện trả lương theo công việc được giao và kết quả hoàn thành nhiệm vụ. Không khuyến khích trả lương theo bằng cấp. Tiếp tục thực hiện từng bước tiền tệ hoá tiền lương, tính đủ các bộ phận cấu thành tiền lương. Trong đó, “Xây dựng cơ chế tiền lương riêng đối với công chức hành chính”[40].

Đối với cán bộ là các chức danh, bao gồm: chấp hành viên, thẩm tra viên, thư ký thi hành án dân sự, công chứng viên, trợ giúp viên pháp lý, đấu giá viên, giám định viên tư pháp; công chức Tư pháp và Hộ tịch viên, cần xây dựng, sửa đổi các quy định về chế độ phụ cấp lương theo hướng sau:

a) Về phụ cấp trách nhiệm theo nghề

          - Đối với trợ giúp viên pháp lý: Đề nghị nâng mức phụ cấp trách nhiệm theo nghề quy định tại Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý từ 25 % lên mức 30%.

          - Đối với công chứng viên: Đề nghị nâng mức phụ cấp trách nhiệm theo nghề quy định tại Quyết định 233/2005/QĐ-TTg ngày 26/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với Chấp hành viên và Công chứng viên từ 15 % lên mức 30 %.

          b) Về phụ cấp ưu đãi theo nghề:

          - Đối với công chức thi hành án dân sự: Đề nghị quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức thi hành án dân sự theo các mức như sau:

+ Chấp hành viên được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề từ 45 - 50 %.

+ Thẩm tra viên được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề từ 35 - 45 %..

          + Công chức thi hành án khác được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề từ 20 - 30 %.

- Đối với giám định viên pháp y chuyên trách và người thường xuyên giúp việc cho giám định viên pháp y: Giám định viên pháp y được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề bằng với mức dành cho cán bộ, viên chức trực tiếp khám, điều trị, chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS là 50 %(phụ cấp này trước đây là 35%); người giúp việc cho giám định viên pháp y được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề là 20% (phụ cấp này trước đây là 15%).

- Đối với giám định viên pháp y tâm thần chuyên trách và người thường xuyên giúp việc cho giám định viên pháp y tâm thần: Đề nghị giữ nguyên mức 35% như hiện nay đối với giám định viên pháp y tâm thần và mức 15% đối với người giúp việc cho giám định viên pháp y tâm thần.

c) Về phụ cấp thâm niên nghề

          Đề nghị quy định phụ cấp thâm niên nghề đối với tất cả các chức danh tư pháp, cụ thể như sau: Sau 5 năm (đủ 60 tháng) làm việc liên tục trong ngành thì được hưởng phụ cấp thâm niên nghề bằng 5% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có); từ năm thứ 6 trở đi mỗi năm được tính thêm 1%.

d)  Về phụ cấp trách nhiệm công việc

Đề nghị quy định phụ cấp trách nhiệm công việc đối với chấp hành viên, thẩm tra viên, các chức danh là giám định viên tư pháp, mức phụ cấp cụ thể như sau:

          - Chấp hành viên, thẩm tra viên, giám định định viên pháp y được hưởng phụ cấp hệ sô 0,5 so với lương tối thiểu chung; công chức giúp việc cho chấp hành viên, thẩm tra viên, người giúp việc cho giám định viên pháp y được hưởng phụ cấp 0,3 so với mức lương tối thiểu chung;

          - Giám định viên pháp y tâm thần, giám định viên kỹ thuật hình sự được hưởng phụ cấp 0,4 so với lương tối thiểu chung; người giúp việc cho giám định viên pháp y tâm thần, giám định viên kỹ thuật hình sự được hưởng phụ cấp 0,2 so với mức lương tối thiểu chung;

          - Đối với giám định viên tư pháp ở các lĩnh vực khác như văn hóa, tài chính, xây dựng v.v. hưởng chế độ phụ cấp trách nhiệm công việc với hệ số 0,3 so với lương tối thiểu.

          đ) Phụ cấp độc hại, nguy hiểm:

- Đối với giám định viên pháp y và người giúp việc cho giám định viên pháp y: đề nghị duy trì mức hưởng như hiện nay với hệ số 0,4 so với mức lương tối thiểu áp dụng cho giám định viên pháp y và hệ số 0,3 so với mức lương tối thiểu áp dụng cho người giúp việc cho giám định viên pháp y.

          - Đề nghị duy trì mức hưởng như hiện nay là: hệ số 0,4 so với mức lương tối thiểu áp dụng cho giám định viên pháp y tâm thần và người giúp việc cho giám định viên pháp tâm  thần;

          - Đề nghị quy định mức phụ cấp hệ số 0,4 so với mức lương tối thiểu áp dụng cho giám định viên pháp y, giám định viên kỹ thuật hình sự trong lực lượng vũ trang; hệ số  0,2 so với mức lương tối thiểu áp dụng cho người giúp việc cho các chức danh trên.

6. Về xây dựng và thực hiện chính sách nhà ở cho cán bộ, công chức

Thực hiện đầu tư xây dựng quỹ nhà ở cho cán bộ thuê hoặc thuê mua theo Luật Nhà ở. Nhà nước cần có sự đầu tư trực tiếp từ nguồn ngân sách để xây dựng quỹ nhà ở xã hội cho số cán bộ, công chức có khó khăn về nhà ở thuê hoạc thuê mua. Việc đầu tư này cần xác định thành chỉ tiêu kinh tế - xã hội và giao cho từng địa phương thực hiện, trước mắt cần tập trung tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là nơi có nhiều cán bộ, công chức làm việc đang khó khăn về nhà ở. Thành lập Quỹ tiết kiệm nhà ở do cán bộ công chức đóng góp hàng tháng hoặc cơ quan sử dụng cán bộ công chức đóng góp; đồng thời cần ban hành chính sách hỗ trợ của Nhà nước bằng hình thức cho cán bộ, công chức vay với lãi xuất thấp hoặc không phải trả lãi và được trừ dần vào tiền lương hàng tháng để giải quyết vấn đề thuê mua nhà ở đối với cán bộ, công chức. Ban hành chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư xây dựng nhà ở cho cán bộ, công chức thuê hoặc thuê mua, như ưu tiên quỹ đất, miễn tiền sử dụng đất, hỗ trợ đầu tư trong việc đền bù, giải phóng mặt bằng, ưu đãi về thuế, tín dụng,..

7. Xây dựng và thực hiện chế độ chính sách, chế độ đặc thù đối với cán bộ ngành Tư pháp

Tham mưu xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách thu hút, khuyến khích cán bộ đến công tác tại các cơ quan tư pháp có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; chính sách đối với cán bộ xã. Đối với số cán bộ này, nhất là công chức thi hành án dân sự, cần có chính sách hỗ trợ đào tạo, rút ngắn thời gian nâng bậc lương, giảm thời gian tập sự, mở rộng các hình thức phụ cấp trách nhiệm, tăng cường phụ cấp công tác phí và các hình thức phụ cấp khác.

xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chế độ phụ cấp, đặc biệt là các phụ cấp đặc thù của ngành Tư pháp

8. Huy động, thu hút các cơ quan, tổ chức chuyên môn có năng lực, điều kiện ở các lĩnh vực văn hoá, tài chính - kế toán, xây dựng, môi trường, khoa học - công nghệ, thông tin - truyền thông và các lĩnh vực khác tham gia hoạt động giám định tư pháp,  bảo đảm  đáp ứng kịp thời yêu cầu giám định của hoạt động tố tụng

Nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách về ưu tiên, ưu đãi về vật chất và phi vật chất đối với các cơ quan, tổ chức chuyên môn khi tham gia hoạt động giám định tư pháp .

Nghiên cứu, đổi mới hệ tiêu chuẩn, quy trình bổ nhiệm, lập danh sách người giám định tư pháp; đổi mới cách thức công bố danh sách gắn với việc tôn vinh các tổ chức giám định tư pháp, các tổ chức chuyên môn, cá nhân người giám định tư pháp.

Nghiên cứu, xây dựng cơ chế thu hút đội ngũ nhà chuyên môn, chuyên gia giỏi tham gia hoạt động giám định tư pháp; hoàn thiện chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với các cá nhân tham gia hoạt động giám định cả ở phương diện vật chất (ngạch lương riêng, phụ cấp trách nhiệm, chế độ thâm niên đối với người giám định tư pháp chuyên trách, chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp đối với người giám định hưởng lương từ ngân sách nhà nước; bảo đảm tương quan thu nhập từ việc thực hiện giám định tư pháp với mặt bằng thu nhập của người giám định không hưởng lương từ ngân sách nhà nước) và phi vật chất (tôn vinh các chuyên gia giỏi, hàng đầu trong các lĩnh vực tham gia hoạt động giám định).

9. Đổi mới các chế độ đãi ngộ khác đối với các chức danh tư pháp.

          - Quy định chế độ thưởng hợp lý cho Chấp hành viên khi thực hiện có hiệu quả các vụ việc thi hành án (nhất là những vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài).

- Chế độ bồi dưỡng theo vụ việc cho tất các chức danh tư pháp;

          - Chế độ đãi ngộ khác đối với các chức danh tư pháp như: Khám chữa bệnh miễn phí khi mắc bệnh nghề nghiệp, kể cả khi nghỉ hưu...

10. Khuyến khích, đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế, quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, viên chức các đơn vị sự nghiệp.


Chuyên đề 6

THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN CƠ CHẾ THU HÚT CÁN BỘ LÀM VIỆC TRONG CÁC CƠ QUAN, ĐƠN VỊ THUỘC BỘ TƯ PHÁP

                             Ths Vũ Hoài Nam -  Nhà Xuất bản Tư pháp

ĐẶT VẤN ĐỀ

Chính sách cán bộ theo nghĩa rộng đó là đường lối, chủ trương của một Chính phủ hay một chính đảng, tổ chức xã hội liên quan đến đội ngũ cán bộ, bao gồm cả các vấn đề mang tính chiến lược lẫn các vấn đề cụ thể. Còn theo nghĩa nó bao gồm các biện pháp về lợi ích vật chất và tinh thần trực tiếp tác động đến đội ngũ cán bộ bao gồm những chính sách như: đào tạo, thu hút, chính sách sử dụng, chính sách lương bổng, khuyến khích vật chất, chăm sóc sức khoẻ, khen thưởng, kỷ luật, hưu trí, bảo hiểm…vv. Các chính sách này có quan hệ mật thiết với nhau và tác động trực tiếp đến cán bộ.

Như vậy, thu hút cán bộ là một trong những nội dung quan trọng của chính sách cán bộ, nó được hiểu là việc các cơ quan, tổ chức thông qua một hệ thống các cơ chế, chính sách ưu đãi nhằm thu hút và giữ chân người tài vào làm việc và cống hiến cho cơ quan, đơn vị mình.

Trong thời kỳ bao cấp, Nhà nước thống nhất quản lý mọi mặt đời sống xã hội, người lao động không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc trở thành cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước, cam kết phục vụ trong bộ máy nhà nước, theo sự điều động của bộ máy Nhà nước. Sự phụ thuộc một chiều của người lao động vào nhà nước, thể hiện ở việc Nhà nước tự đặt ra và tổ chức thực hiện mọi chính sách cán bộ, trong hoàn cảnh đó vấn đề thu hút cán bộ gần như không được đặt ra. Khi làm “người nhà nước” người lao động phải đặt lợi ích chung lên trên hết, nhiều trường hợp phải từ bỏ các lợi ích cá nhân; giá trị lao động, thành quả công tác của người lao động được trả chính là sự thăng tiến theo thang bậc công chức và được tính toán trên cơ sở thâm niên công tác; mọi sự động viên khuyến khích đối với họ chủ yếu là về mặt tinh thần; thành quả lao động của người lao động do đó đã bị cào bằng, năng lực làm việc chưa thực sự được coi trọng và hậu quả tất yếu là năng xuất lao động thấp, nền kinh tế trì trệ, lạc hậu.

Bước vào thời kỳ cải cách, mở cửa và đổi mới toàn diện với sự hình thành và dần lớn mạnh của các thành phần kinh tế, cơ chế thị trường chiếm vị trí chủ đạo, hội nhập quốc tế đã mở rộng và đi vào chiều sâu, sức lao động thực sự trở thành “hàng hoá” theo đúng nghĩa của nó. Người lao động là bên bán trong thị trường lao động, hành động trong khuôn khổ của quan hệ cung cầu và luật pháp. Họ có nhiều sự lựa chọn và khu vực nhà nước trong nhiều lĩnh vực hoạt động không phải là lựa chọn ưu tiên của họ, nhất là lao động có chất lượng cao. Khu vực tư nhân, nhất là khu vực kinh tế nước ngoài có sức hấp dẫn hơn do chính sách lương bổng và thu nhập.

Việc phân bổ lại lao động trong nền kinh tế thị trường là tất yếu và cần thiết, nhưng sẽ là rất nguy hiểm khi khu vực nhà nước ngay từ đầu vào không thu hút được nguồn nhân lực ưu tú và lại phải mất thêm những nguồn nhân lực ưu tú mà mình đang có, người ta hay gọi đó là hiện tượng “chảy máu chất xám”. Do vậy thiếu nhân lực có chất lượng cao để xây dựng đội ngũ công chức và cán bộ lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới là điều trước mắt ai cũng nhận thấy.

Chính sách cán bộ nói chung và thu hút cán bộ nói riêng là vấn đề lớn, nan giải, là vấn đề đau đầu của lãnh đạo nhiều cơ quan nhà nước hiện nay, trong bối cảnh chung đó thì việc làm thế nào để thu hút và giữ chân người tài làm việc trong các cơ quan đơn vị thuộc Bộ Tư pháp vừa là nhiệm vụ trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài của các cấp lãnh đạo và của toàn ngành.

Chương I

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC BỘ MÁY, BIÊN CHẾ VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC CÁC ĐƠN VỊ THUỘC CƠ QUAN BỘ TƯ PHÁP

I- Tình hình tổ chức, bộ máy các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp

Theo quy định của Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ và các văn bản pháp luật khác có liên quan thì cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp gồm có:

* Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước :

1. Vụ Pháp luật hình sự, hành chính;

2. Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế;

3. Vụ Pháp luật quốc tế;

4. Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật;

5. Vụ Hành chính tư pháp;

6. Vụ Bổ trợ tư pháp;

7. Vụ Kế hoạch - Tài chính;

8. Vụ Hợp tác quốc tế;

9. Vụ Tổ chức cán bộ;

10. Cục Thi hành án dân sự;

11. Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật;

12. Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm;

13. Cục Trợ giúp pháp lý;

14. Cục Con nuôi quốc tế;

15. Thanh tra;

16. Văn phòng;

17. Vụ Thi đua – Khen thưởng.

* Các đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ :

1. Viện Khoa học pháp lý;

2. Trường Đại học Luật Hà Nội;

3. Học viện Tư pháp;

4. Báo Pháp luật;

5. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật;

6. Trung tâm Tin học;

7. Nhà xuât bản tư pháp.

Nhìn chung tổ chức bộ máy của ngành thời gian qua về cơ bản đã giúp Bộ và ngành Tư pháp hoàn thành các nhiệm vụ chính trị mà đảng và nhà nước giao, vị trí, vai trò của Bộ Tư pháp và ngành Tư pháp được nâng cao, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn ngày càng được tăng cường, mở rộng, nhiều lĩnh vực hoạt động có hiệu quả thiết thực phục vụ nhiệm vụ cải cách hành chính, cải cách tư pháp.

Tuy nhiên trước yêu cầu nhiệm vụ ngày càng nhiều, đòi hỏi chất lượng hiệu quả ngày càng cao, tổ chức bộ máy của Bộ và Ngành tư pháp cần được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện về cơ chế phối hợp giữa các đơn vị thuộc Bộ, giữa Bộ với các cơ quan Tư pháp theo hướng phân công, phân cấp xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của mỗi đơn vị, mỗi cấp.

II- Về biên chế và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức

Tổng số biên chế hiện có: 1069 người, gồm:

+ Số cán bộ, công chức các đơn vị quản lý:   436  người, chiếm ~ 40,7%

+ Số cán bộ, công chức các đơn vị sự nghiệp: 633 người, chiếm ~ 59,3%

Trong đó:

 a, Về ngạch công chức:

+ CVCC&tương đương:   16 người, chiếm   ~ 1,5%

+ CVC&tương đương:      221 người, chiếm ~ 20,6%

+ CV& tương đương:       677 người, chiếm ~ 63,4%

+ Từ cán sự trở xuống:     155 người, chiếm ~ 14,5%

 b, Về độ tuổi:

+ Dưới 30 tuổi:                 236 người, chiếm ~ 22%

+ Từ 30 - 50 tuổi:             683 người, chiếm ~ 64%

+ Từ 51 - 60 tuổi có:        150 người, chiếm ~ 14%

Nhìn chung đội ngũ cán bộ công chức của Bộ là tương đối trẻ, cán bộ dưới 50 tuổi chiếm khoảng 86%, trong cơ cấu tuổi có sự cân đối hợp lý giữa nhóm cán bộ có độ tuổi dưới 30 và trên 50 tuổi, điều này đảm bảo tính kế thừa ổn định giữa các thế hệ cán bộ, công chức của Bộ. Tuy nhiên có một vấn đề khác là số cán bộ trẻ thường có sự biến động lớn do tỷ lệ cán bộ trẻ chuyển ngành hoặc xin thôi việc thường cao hơn, theo số liệu thống kê, từ năm 2005 đến nay trong tổng số 50 cán bộ thuộc khối cơ quan Bộ quản lý xin chuyển công tác hay nghỉ việc chủ yếu là cán bộ trẻ. Do vậy công tác tuyển dụng cũng cần chú ý để đảm bảo cân đối về mặt độ tuổi giữa các thế hệ cán bộ.

 c,  Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ:

- Về trình độ chuyên môn:

+ Tiến sỹ:                           101 người, chiếm ~ 9,4%

+ Thạc sỹ:                         214 người, chiếm ~ 20%

+ Đại học:                         601 người, chiếm ~ 56%

+ Cao đẳng trở xuống:     153 người, chiếm ~ 14,3%

- Về đào tạo ngoại ngữ:

+Đạt trình độ ngoại ngữ sử dụng thành thạo: 125 người ~ 11,6%

+Ngoại ngữ cơ bản:  794 người ~ 74%

+Không sử dụng được ngoại ngữ nào: 150 người ~ 14,3%

- Về đào tạo tin học:

+Đạt trình độ tin học sử dụng thành thạo: 255 người ~ 24%

+Tin học cơ bản: 754 người ~ 70,5%

+Không sử dụng được: 60 người ~ 5,5%

Qua cơ cấu trên, thấy rằng đội ngũ cán bộ đạt trình độ đại học và trên đại học của Bộ khá cao, cứ 100 cán bộ, công chức thì có 1 Tiến sỹ và 2 thạc sỹ; tỷ lệ cán bộ có trình độ dưới đại học chỉ sấp xỉ 15%, số này chủ yếu ở các ngạch công chức như kế toán, văn thư, phục vụ...vv. Có được tỷ lệ cao này là nhờ kết hợp tốt giữa công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ của Bộ trong những năm qua. Tuy tỷ lệ cán bộ có trình độ trên đại học khá cáo nhưng hiện nay cơ quan Bộ thiếu hụt đội ngũ cán bộ chuyên gia đầu ngành trong một số lĩnh vực chuyên môn, đặc biệt là lĩnh vực pháp luật quốc tế. Tỷ lệ cán bộ có trình độ ngoại ngữ sử dụng thành thạo trong chuyên môn là rất thấp, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của công cuộc hội nhập quốc tế. Trình độ tin học của cán bộ thì chủ yếu cũng chỉ ở mức sử dụng được trong thao tác công việc thông thường, chính vì vậy việc triển khai các trương trình tin học hoá quản lý trong các đơn vị thuộc Bộ gặp không ít khó khăn.

d,  Về trình độ lý luận chính trị:

+ Cao cấp:                       52 người, chiếm ~ 5%

+ Trung cấp:                    821 người, chiếm ~ 77%

+ Sơ cấp:                          196 người, chiếm ~ 18%

Tỷ lệ cán bộ có trình độ lý luận chính trị trung cấp trở lên chiếm tỷ lệ cao, sở dĩ là do ngành luật là ngành khoa học xã hội, nên số cán bộ có trình độ lý luận trung cấp luôn tỷ lệ thuận với tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học trở lên (theo Quy định số 12/QĐ/TC-TTVH ngày 09/01/2004 của Ban Tổ chức – Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương thì người tốt nghiệp đại học các ngành xã hội nhân văn được công nhận có trình độ lý luận chính trị trung cấp). Tuy nhiên tỷ lệ cán bộ có trình độ lý luận cao cấp còn thấp do số cán bộ được đào tạo chính trị cao cấp chủ yếu mới dừng lại ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp Vụ trở lên. Nếu theo quy định hiện hành thì cán bộ công chức là chuyên viên chính từ bậc 2 trở lên là đủ tiêu chuẩn đào tạo lý luận chính trị cao cấp, hiện nay khối cơ quan Bộ có 201  người ở ngạch chuyên viên chính bậc 2 trở lên, tuy nhiên hiện nay cơ quan Bộ mới có 52 cán bộ, công chức có trình độ lý luận cao cấp, tỷ lệ này là thấp.

Chương II

THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN CÁC CƠ CHẾ THU HÚT ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC LÀM VIỆC CHO CÁC CƠ QUAN, ĐƠN VỊ THUỘC BỘ TƯ PHÁP

 

Như đã phân tích ở phần đặt vấn đề, chính sách cán bộ được xem là tập hợp những chủ trương và biện pháp về lợi ích vật chất và tinh thần trực tiếp tác động đến đội ngũ cán bộ, bao gồm những nhóm chính sách chính như: Chính sách tuyển dụng; chính sách đào tạo, bồi dưỡng; chính sách thu hút; chính sách sử dụng; chính sách tiền lương, khuyến khích vật chất, chăm sóc sức khoẻ; chính sách khen thưởng, kỷ luật; chính sách hưu trí và bảo hiểm xã hội.

Các chính sách trên có quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau, đặc biệt là sự tác động của các chính sách trên đến chính sách thu hút cán bộ, theo đó sự thay đổi của các chính sách này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách thu hút cán bộ, chúng là tiền đề, điều kiện và cơ sở cho chính sách thu hút cán bộ và ngược lại. . Do vậy, làm rõ thực trạng việc xây dựng và thực hiện các chính sách cán bộ có liên quan trên sẽ giúp nhìn nhận rõ những thiếu sót, bất cập của các chính sách thu hút cán bộ (nội dung nghiên cứu của chuyên đề này) hiện nay của chúng ta.

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ nói riêng, thời gian qua Bộ Tư pháp đã xác định việc thu hút được đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực cao vào làm việc trong các cơ quan đơn vị của Bộ sẽ là khâu then chốt giúp Bộ Tư pháp hoàn thành được các nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước giao phó. Để làm được điều này, Bộ Tư pháp đã vận dụng linh hoạt các quy định của pháp luật để xây dựng và ban hành nhiều chính sách nhằm thu hút đội ngũ cán bộ trẻ và có năng lực vào làm việc tại các đơn vị thuộc Bộ. Các chính sách đó từng bước được cụ thể hoá trong toàn bộ các chính sách cán bộ của Bộ như: tuyển chọn, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, lương bổng, khen thưởng, kỷ luật…vv.

1, Thực trạng xây dựng và thực hiện cơ chế thu hút thông qua chính sách tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức.

Công tác tuyển dụng cán bộ được xem là khâu then chốt quyết định chất lượng đầu vào của đội ngũ cán bộ, nó tác động đến chất lượng và hiệu quả của công tác chuyên môn sau này, do vậy Bộ Tư pháp đặc biệt chú trong công tác tuyển chọn đội ngũ cán bộ. Việc tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức được tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước đảm bảo công tác tuyển chọn công khai, khách quan, dân chủ và chất lượng. Kết quả từ năm 2002 đến nay Bộ Tư pháp đã tuyển dụng được 289 cán bộ vào làm việc cho các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, cụ thể như sau:

STT

Năm

Tiếp nhận

Thi tuyển

Tổng

Số người đăng ký

Đạt yêu cầu

(các môn điểm trên TB)

Chỉ tiêu tuyển dụng

Số người nhận công tác

1

2002

12

913

388

40

40

52

2

2003

6

204

65

12

12

18

3

2004

23

45

25

21

21

44

4

2005

17

180

26

35

26

43

5

2006

20

98

45

45

43

63

6

2007

7

150

70

54

51

58

7

2008

9

2

2

2

2

11

Hiện nay việc tuyển dụng cán bộ của Bộ được tiến hành thông qua các hình thức thi tuyển, xét tuyển, tiếp nhận, điều động cán bộ; công tác tuyển dụng cán bộ của Bộ Tư pháp vẫn chủ yếu trên cơ sở các quy định hiện hành của Nhà nước về tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, cách thức tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức như: Pháp lệnh Cán bộ công chức năm 1998, sửa đổi năm 2000 và 2003; Nghị định 115, 116, 117/2003/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức, Quyết định số 10/2006/QĐ-BNV ngày 05/10/2006 của Bộ Nội vụ (thay thế Quyết định 466/1998/QĐ-TCCP-BCTL ngày 5/9/2006 của Bộ trưởng - Trưởng Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ); Nghị định 116/2003/NĐ-CP ngày 10.10.2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước.

Về phía Bộ Tư pháp, đến thời điểm hiện nay chưa ban hành quy định riêng biệt cụ thể nào quy định về công tác thi tuyển nói chung và cơ chế thu hút cán bộ thông qua thi tuyển nói riêng. Tuy nhiên căn cứ tình hình thực tiễn của Bộ trong từng giai đoạn cụ thể, Bộ Tư pháp đã vận dụng linh hoạt các quy định trên để ban hành các quy định, kế hoạch hướng dẫn cụ thể trong từng đợt tuyển dụng công chức hàng năm, chẳng hạn như: trong đợt thi tuyển công chức năm 2005, 2006 và 2007 có quy định chấp nhận việc xét tuyển hồ sơ và kiểm tra trực tiếp đối với các trường hợp là Tiến sỹ mà không thực hiện thi tuyển; thực hiện miễn thi ngoại ngữ đối với các trường hợp thí sinh dự thi đã tốt nghiệp cử nhân, thạc sỹ ở nước ngoài; hay quy định về ưu tiên dự tuyển đối với các trường hợp có kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực Tư pháp…vv. Ngoài ra, hàng năm trước các kỳ thi tốt nghiệp, Bộ Tư pháp đều có liên hệ trực tiếp với các cơ sở đào tạo để nắm được số lượng và nguyện vọng của số học sinh tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc qua đó xây dựng Kế hoạch tuyển dụng cho sát với thực tiễn nhằm thu hút số sinh viên giỏi vào làm việc cho Bộ.

Nhờ vận dung linh hoạt các phương pháp, cách thức tuyển dụng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các đối tượng tuyển dụng, trong những năm qua Bộ Tư pháp đã tuyển dụng được một số lượng lớn cán bộ có trình độ chuyên môn, góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết công việc của cơ quan, đơn vị.

Bên cạnh những kết quả, những ưu điểm, công tác tuyển dụng nói chung và thu hút cán bộ thông qua thi tuyển nói riêng cũng còn nhiều bất cập hạn chế như: Các quy định hiện hành của Nhà nước về tuyển dụng còn cứng nhắc, nhiều thủ tục rườm rà gây phiền phức cho người tham gia tuyển dụng, Bộ Tư pháp cũng chưa có văn bản pháp lý riêng biệt nào quy định về việc tuyển dụng và ưu tiên tuyển dụng; hình thức tuyển thông qua thi tuyển với nhiều giai đoạn phức tạp và kéo dài, người thi tuyển phải chờ đợi quá lâu, do vậy nhiều khi hoàn chỉnh các thủ tục thi tuyển thì người trúng tuyển đã đi làm ở nơi khác; việc phân cấp trong tuyển dụng cán bộ cũng chưa rõ ràng và còn nhiều bất cập, do vậy cũng hạn chế sự chủ động của các đơn vị trực tiếp sử dụng lao động trong việc lựa chọn và tuyển dụng nhân tài vào làm việc.

2, Thực trạng xây dựng và thực hiện cơ chế thu hút thông qua chính sách đào tạo, bồi dưỡng

Xác định công tác đào tạo, bồi dưỡng là khâu then chốt để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm cơ sở cho các chính sách quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động cán bộ. Bởi vậy, trong những năm qua công tác đào tạo bồi dưỡng, đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ phục vụ công tác hội nhập quốc tế của Bộ luôn được quan tâm chú trọng. Ngoài các chương trình đào tạo chung, đào tạo bắt buộc theo quy định của Nhà nước, Bộ Tư pháp đã linh hoạt mở rộng nhiều hình thức đào tạo để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ như bồi dưỡng về kỹ năng nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý hành chính, tin học, ngoại ngữ, kỹ năng nghiên cứu khoa học…vv, kết quả cụ thể như sau:

STT

Năm

Nội dung đào tạo bồi dưỡng

Tổng số

Chuyên môn

Quản lý NN

Lý luận chính trị

Ngoại ngữ

Tin học

Bồi dưỡng

Học tập kinh nghiệm NN

1

2002

20

9

 

23

70

5

29

156

2

2003

 

10

30

50

 

20

20

130

3

2004

17

15

28

50

70

150

300

630

4

2005

15

10

20

30

50

60

25

210

5

2006

46

3

12

38

30

90

30

249

6

2007

17

164

 

50

 

68

37

336

Công tác đào tạo, bồi dưỡng bước đầu đã đạt được những kết quả đáng khích lệ thể hiện ở số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ được đào tạo hàng năm không ngừng được mở rộng và nâng cao: Số cán bộ được đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học, quản lý nhà nước ở trong nước cũng tăng hàng năm. Tất cả các trường hợp đi học đều được Bộ đài thọ kinh phí học tập, do đó số người đăng ký tham gia các khoá học ngày càng lớn, đặc biệt là số cán bộ trẻ. Nguồn kinh phí chi cho nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng hàng năm không ngừng được bổ sung, đặc biệt là nguồn kinh phí hỗ trợ từ Chính phủ nước ngoài, các dự án phi Chính phủ và tổ chức quốc tế, do đó số cán bộ được đi học tập, bồi dưỡng ở nước ngoài ngày càng tăng.

Có được kết quả trên là nhờ vào việc vận dụng linh hoạt các quy định hiện hành của nhà nước về đào tạo bồi dưỡng như: Quyết định 161/2003/QĐ-TTg ngày 4 tháng 8 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; Quyết định 40/2006/QĐ-TTg ngày 15 tháng 2 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006 – 2010; Quyết định 13/2006/QĐ-BNV ngày 6 tháng 10 năm 2006 của Bộ Nội vụ ban hành quy định về cỏc chương trỡnh đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước đối với cán bộ, công chức; Quyết định 05/2007/QĐ-BNV ngày 17 tháng 4 năm 2007 của Bộ Nội vụ ban hành Quy chế chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức… qua đó từng bước nâng cao tỷ lệ cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng của Bộ.

Bên cạnh đó nhằm từng bước tăng cường, củng cố hơn nữa nhằm đưa công tác đào tạo, bồi dưỡng thực sự đi vào nề nếp, ngày 31/7/2007 Bộ Tư pháp đã ban hành Quy chế chọn, cử và quản lý công chức, viên chức đi đào tạo, bồi dưỡng (thay thế Quyết định số 383/1999/QĐ-BTP ngày 6/12/1999 của Bộ Tư pháp về chọn, cử và quản lý công chức, viên chức đi đào tạo, bồi dưỡng). Việc ra đời của Quy chế giúp các đơn vị cũng như toàn thể cán bộ, công chức của Bộ có kế hoạch phấn đấu để được cử đi học tập nâng cao trình độ chuyên môn.

Số cán bộ, công chức sau khi được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nhất là các trường hợp được đào tạo ở nước ngoài đều được xem xét cất nhắc, bố trí vào những chức vụ lãnh đạo cũng như các vị phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ và năng lực, do vậy họ đã phát huy được năng lực, sở trường của cán bộ qua đó thúc đẩy tinh thần, thái độ hăng say với công việc. Đây có thể xem là một nguồn động viên hết sức quan trọng đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Bộ, giúp họ an tâm công tác và cống hiến cho ngành. Cán bộ, công chức, viên chức đều cảm thấy rằng nếu làm việc trong Bộ Tư pháp họ sẽ có nhiều cơ hội học hành để nâng cao trình độ chuyên môn, những cơ hội mà họ rất khó có được nếu làm việc ở các cơ quan khác.

Tuy nhiên, công tác đào tạo trong những năm qua vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế như:

-Số lượng cán bộ, công chức, viên chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng mặc dù đã tăng hàng năm những vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, đặc biệt là số cán bộ được đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn như Tiến sỹ, Thạc sỹ do quy định hiện nay về điều kiện dự thi còn khá chặt chẽ như: thời gian công tác tối thiểu, tỷ lệ cán bộ trong 1 đơn vị được đi học trong năm, yêu cầu về ngoại ngữ, yêu cầu quy hoạch…vv;

- Số cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, quản lý nhà nước, nhất là ở ngạch cao cấp cũng ở mức độ rất khiêm tốn. Từ năm 2002 đến nay chỉ có 88 cán bộ được đào tạo quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính và chuyên viên cao cấp, 90 cán bộ được bồi dưỡng lý luận chính trị cao cấp. Nguyên nhân là do các quy định về tiêu chuẩn để được cử đào tạo quản lý nhà nước và lý luận chính trị cao cấp hết sức khắt khe. Chẳng hạn như điều kiện học lý luận chính trị cao cấp là phải là cán bộ lãnh đạo cấp Phòng trở lên; hay các quy định về thời gian giữ ngạch công chức, bậc lương tối thiểu để đủ điều kiện thi chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp cũng đã hạn chế số lượng cán bộ được đào tạo và bổ nhiệm vào các ngạch trên.

- Việc đưa cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài cũng gặp không ít khó khăn do hạn hẹp về nguồn kinh phí, nguồn kinh phí chính cho công tác này phụ thuộc chủ yếu vào nguồn kinh phí hỗ trợ của Chính phủ và các tổ chức nước ngoài, nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nước là rất hạn chế, do đó việc cử cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài phụ thuộc vào kết quả đàm phán, thoả thuận hàng năm với Chính phủ và các tổ chức nước ngoài.      

3, Thực trạng xây dựng và thực hiện cơ chế thu hút thông qua việc bố trí, sử dụng cán bộ

Bố trí, sử dụng cán bộ là nội dung quan trọng của công tác cán bộ, việc bố trí cán bộ hợp lý hay không hợp lý sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, hiệu quả và năng lực công tác của cán bộ. Bố trí đúng người sẽ giúp nâng cao hiệu quả công việc, bố trí không đúng người không những không mang lại hiệu quả công việc mà còn tạo nên sự nhàm chán cho cán bộ, lãng phí thời gian và có thể dẫn đến thôi việc, chuyển công tác. Bởi vì người lao động ngoài các nhu cầu về vật chất còn có những nhu cầu về mặt tinh thần như nhu cầu được làm việc, được cống hiến, được thể hiện mình thông qua công việc, do vậy nếu không bố trí đúng sở trường thì họ không có điều kiện cống hiến, thể hiện mình, như vậy đã gián tiếp triệt tiêu những động lực, nhu cầu tinh thần của họ, dẫn đến chán nản là điều tất yếu.

Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc bố trí, sử dụng cán bộ trong việc thu hút người tài vào làm việc và gắn bó lâu dài với đơn vị thuộc Bộ, thời gian qua Bộ Tư pháp vận dụng các quy định chung của Đảng và nhà nước như: Nghị quyết số 42-NQTW về công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Pháp lệnh cán bộ, công chức; Nghị định 115, 116, 117 về quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 27/2003/QĐ-TTg ngày 19.2.2003 về việc ban hành quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm cán bộ, công chức lónh đạo; Nghị định 71/2003/NĐ-CP ngày 19.6.2003 của Chính phủ về phân cấp quản lý biờn chế hành chớnh, sự nghiệp nhà nước, Bộ Tư pháp đã xây dựng và triển khai nhiều quy định liên quan đến việc bố trí, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức của các đơn vị nhằm bố trí sử dụng hợp lý nhất đội ngũ cán bộ hiện có. Việc bố trí, sử dụng cán bộ hiện nay của Bộ Tư pháp dựa trên nhu cầu, tính chất công việc và tiêu chuẩn chức danh; việc phân công công việc dựa vào chức danh ngạch (chuyên viên, kế toán, nghiên cứu viên, thanh tra viên…vv) và năng lực công tác của cán bộ (trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học, kinh nghiệm công tác).

Với số cán bộ được tuyển dụng mới việc bố trí, sắp xếp dựa trên nguyên tắc tự nguyện của cán bộ, tức là cán bộ tự nguyện đăng ký nguyện vọng và trên cơ sở nguyện vọng đó sẽ cân đối để sắp xếp cán bộ một cách hợp lý nhất phù hợp với nguyện vọng, năng lực sở trường của cán bộ. Với số cán bộ đã có thời gian công tác nhất định ở bộ, sau quá trình công tác và tìm hiểu công việc, chức năng nhiệm vụ của các đơn vị, nếu có nhu cầu chuyển đổi công tác giữa các đơn vị thuộc Bộ cho phù hợp với năng lực chuyên môn thì đều được quan tâm giải quyết.

Ngoài ra, nhằm xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng để xử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức của Bộ đến năm 2020, năm 2006 Bộ Tư pháp đã xây dựng và triển khai Kế hoạch quy hoạch đội ngũ cán bộ chuyên môn của Bộ, đến nay về cơ bản đã hoàn thành các nội dung theo kế hoạch. Việc này sẽ góp phần phân loại đánh giá lại đội ngũ cán bộ công chức của Bộ nhằm sử dụng hiệu quả hơn đội ngũ cán bộ, công chức của Bộ.

Trong năm 2008, Bộ Tư pháp cũng đang khẩn trương triển khai xây dựng đề án phân cấp quản lý cán bộ, đề án luân chuyển cán bộ trong quy hoạch, đề án quy hoạch cán bộ chuyên môn, đề án xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức và kế hoạch định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức của Bộ. Các đề án và kế hoạch này khi hoàn thành sẽ góp phần nâng cao hiệu quả việc bố trí sử dụng cán bộ, công chức. Đặc biệt là đề án phân cấp trong công tác quản lý cán bộ, nếu hoàn thành sẽ giúp thủ trưởng các đơn vị, người trực tiếp quản lý và nắm rõ năng lực của từng cán bộ linh hoạt trong việc điều động, bố trí sử dụng cán bộ theo đúng năng lực sở trường của từng người, qua đó phát huy cao nhất hiệu quả giải quyết công việc.

Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo cũng được chú trọng và tiến hành định kỳ theo đúng trình tự, thủ tục qua đó đã phát hiện, bổ sung những nhân tố mới vào diện quy hoạch. Thông qua quy hoạch, cán bộ, công chức có định hướng rõ ràng và động lực phấn đấu, tức là họ có thể phấn đấu để trở thành người lãnh đạo quản lý tốt hay một cán bộ chuyên môn giỏi, tránh tình trạng mất đoàn kết làm ảnh hưởng đến môi trường làm việc chung.

Ngoài ra Bộ Tư pháp cũng đã ban hành quy chế về việc đưa cán bộ đi thực tế ở cơ sở nhằm giúp cán bộ, đặc biệt là cán bộ trẻ tích luỹ thêm kinh nghiệm thực tiễn. Kết quả, trong 3 năm trở lại đây với khoảng 15 cán bộ, công chức được đưa đi thực tế tại địa phương. Hầu hết cán bộ sau khi đi thực tiễn về đều nâng cao được khả năng giải quyết công việc chuyên môn, đặc biệt là trong công tác xây dựng văn bản pháp luật. Đồng thời cũng giúp cán bộ cảm nhận được những khó khăn của ngành, của địa phương thông qua đó giáo dục lòng yêu nghề, tinh thần ý chí vượt qua khó khăn.

Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng cán bộ, trong những năm qua Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tiến hành xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn chức danh ngạch nhằm chuẩn hoá đội ngũ cán bộ. Nhiều tiêu chuẩn chức danh mới đã và đang được xây dựng như thẩm tra viên, trợ giúp viên, đấu giá viên…vv đã góp phần quan trọng trong việc tổ chức, bố trí sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Công tác luân chuyển, điều động và đưa cán bộ đi thực tế đã được triển khai thường xuyên giúp cán bộ rèn luyện bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm thực tiễn, qua đó nâng cao khả năng xử lý công việc ở nhiều vị trí chuyên môn khác nhau. Việc luân chuyển cán bộ, nhất là việc luân chuyển trong quy hoạch được tiến hành thường xuyên, điều này cũng giúp cán bộ thường xuyên được thay đổi môi trường làm việc, tránh sự nhàm chán không cần thiết, đồng thời qua đó phát hiện và phát huy được năng lực sở trường, kích thích nhu cầu khám phá cái mới trong công việc của cán bộ.

Bên cạnh những kết quả trên, công tác bố trí, sử dụng cán bộ hiện nay của Bộ cũng có những khó khăn, vướng mắc và bất cập làm ảnh hưởng đến việc thu hút, giữ chân đội ngũ cán bộ: Đội ngũ cán bộ còn thiếu, đặc biệt là đội ngũ cán bộ có chuyên môn cao, sự bất cập trong cơ cấu ngạch đã dẫn đến tình trạng cán bộ phải kiêm nhiệm nhiều việc, đảm nhiệm những công việc trái với chuyên môn, nghiệp vụ đã làm ảnh hưởng đến chất lượng công việc của cơ quan, đơn vị và gây tâm lý ghanh tỵ giữa một số cán bộ, công chức; công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ chủ yếu mới dừng lại trong nội bộ đơn vị; các chức danh ngạch chưa hoàn chỉnh đã gây khó khăn cho việc bố trí, sắp xếp, sử dung cán bộ; công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ chuyên môn chưa làm tốt đã ảnh hưởng đến hiệu quả công tác phân loại đào tạo, sử dụng cán bộ.

4, Thực trạng xây dựng và thực hiện cơ chế thu hút thông qua chính sách tiền lương và khuyến khích vật chất.

Trong những năm qua chế độ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức liên tục được cải thiện, tính chung trong 6 năm (01/2003 – 01/2008) và qua 4 lần điều chỉnh, mức lương tối thiểu chung đã được tăng từ 210.000 đồng lên 540.000 đồng/tháng, bằng 2,57 lần, tăng thêm 157% (bình quân tăng 21%/năm) cao hơn chỉ số tăng giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê công bố (đến tháng 01/2008 thì chỉ số giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê công bố tăng 50,28% so với tháng 12/2002; chỉ số giá lương thực tăng 72,54% so với tháng 12/2002 và chỉ số giá thực phẩm tăng 78,97% so với năm 2002).

Tuy lương nói riêng và thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức nói chung đều tăng hàng năm và tăng cao hơn mức tăng của giá tiêu dùng, nhưng nhìn chung mức thu nhập của cán bộ, công chức vẫn còn thấp hơn so với khối tư nhân, nhất là khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tính chung cả giai đoạn (2002 đến 2008) thì mức tăng thu nhập cao hơn chỉ số tăng giá tiêu dùng, nhưng nếu chỉ tính riêng năm 2007 và đầu năm 2008 thì chỉ số giá tiêu dùng đã cao hơn so với mức tăng thu nhập (tăng thu nhập tháng 5/2008 so với tháng 5/2007 là 20%; chỉ số giá tiêu dùng tăng 25,2%). Do vậy đời sống của cán bộ, công chức, viên chức của Bộ vẫn còn rất khó khăn, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức trẻ. Hầu hết cán bộ vào làm việc trong cơ quan Bộ sau năm 1995 không được hưởng chế độ nhà công vụ nên phải đi thuê nhà ở, bởi thế đời sống càng trở nên khó khăn hơn. Nếu lấy mức lương bình quân của công chức tính theo mức lương tối thiểu ở thời điểm hiện tại của công chức (khoảng 2.500.000đ) nhân với thời gian công tác của công chức (khoảng 35 năm) thì ra khoảng 1 tỷ đồng, như vậy với giá nhà đất như hiện nay, thì một công chức làm việc cả đời cũng không đủ tiền mua một ngôi nhà khoảng 60m2 ở Hà Nội.

Hiện nay khối các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp gồm 24 đơn vị, trong đó 17 đơn vị hành chính và 7 đơn vị sự nghiệp. Trong 7 đơn vị sự nghiệp thì chỉ có 1 đơn vị (Báo Pháp luật Việt Nam) là đơn vị được tự chủ hoàn toàn về mặt kinh phí, còn lại các đơn vị sự nghiệp khác đều mới chỉ tự chủ một phần kinh phí. Với đặc thù như vậy nên về cơ bản nguồn thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức các đơn vị thuộc Bộ vẫn chủ yếu là từ ngân sách nhà nước, tức là từ tiền lương tháng.

Về chính sách tiền lương và phụ cấp đến thời điểm hiện tại Bộ Tư pháp chưa ban hành các văn bản cá biệt riêng lẻ nào mà áp dụng các quy định hiện hành của Nhà nước như Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức; Thông tư số 03/2005/TT-BNV ngày 05/1/2005 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện chế độ nâng bậc lương thường xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn; Thông tư số 05, 06, 07/2005/TT-BNV ngày 05.01.2005 quy định các chế độ phụ cấp đối với cán bộ, công chức, viên chức và một số văn bản có liên quan khác.

Vận dụng linh hoạt các quy định trên, Bộ Tư pháp đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm cải thiện chính sách tiền lương và thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức như: Cho phép các đơn vị sự nghiệp có thu tự cân đối thu chi ngân sách hàng năm trên cơ sở tiết kiệm chi hành chính để tăng thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức của đơn vị trong phạm vi cho phép của pháp luật; thực hiện chính sách khoán biên chế và kinh phí đối với các đơn vị hành chính. Kết quả, những năm gần đây thu nhập cho cán bộ, công chức đã được cải thiện đáng kể, chẳng hạn như năm 2006 và 2007 nhờ tiết kiệm chi tiêu nên dịp cuối năm mỗi cán bộ công chức đã được tăng thêm 2 tháng lương. Ngoài ra trong các dịp lễ, tết như 30/4 - 1/5, 10/3…Bộ đều có những khoản kinh phí nhỏ hỗ trợ cho cán bộ nhằm góp phần động viên tinh thần đối với cán bộ. Các chế độ vật chất khác của cán bộ như công tác phí, phụ cấp chức vụ, phụ cấp theo nghề, phụ cấp độc hại đều được quan tâm giải quyết nhanh chóng, đúng chế độ, qua đó góp phần nâng cao thu nhập, động viên cán bộ, công chức an tâm công tác.

Ngoài ra việc mở rộng cho các đối tượng cán bộ, công chức, viên chức được tham gia nghiên cứu các đề tài, đề án khoa học của Bộ và của nhà nước cũng đã góp phần tăng thu nhập đáng kể cho cán bộ. Đồng thời nhờ đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp, trong những năm qua Bộ đã nhận được sự hỗ trợ khá lớn từ phía các tổ chức quốc tế từ việc triển khai các dự án như Sida, AusAid, NZAid, Jaica…, Bộ đã tạo điều kiện cho cán bộ, công chức tham gia giám sát và triển khai các dự án này và được hưởng các chế độ phụ cấp, qua đó góp phần tăng thêm thu nhập cho cán bộ, công chức.

Tuy vậy thì đời sống của cán bộ, công chức của Bộ hiện nay vẫn còn rất khó khăn, đặc biệt là số cán bộ trẻ. Mức lương khởi điểm của một công chức hiện nay là 2,34 nhân với 540.000đ/tháng thì một tháng lương của công chức trừ bảo hiểm và các khoản phải đóng góp đi thì chỉ còn khoảng 1.000.000đ, mức lương này thấp hơn cả mức thu nhập của một lao động phổ thông ngoài xã hội. Trong khi mà cơ chế quản lý tài chính hiện nay rất chặt chẽ, các khoản chi đều phải trong định mức của Bộ Tài chính, do đó các đơn vị khó có thể tự đặt ra các khoản chi hay mức chi cao hơn để bù đắp khó khăn về đời sống cho cán bộ, công chức. Theo kết quả khảo sát thì mức thu nhập bình quân của khối tư nhân và doang nghiệp nước ngoài hiện nay khoảng 2.500.000đ/tháng, nếu cứ để tình trạng chênh lệch thu nhập quá lớn như hiện nay thì không những không thể thu hút được người tài vào làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Bộ mà chúng ta còn mất đi số cán bộ có năng lực hiện có do họ bỏ ra làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài.

5, Thực trạng xây dựng và thực hiện cơ chế thu hút thông qua chính sách bảo hiểm y tế và chăm sóc sức khoẻ cho cán bộ, công chức, viên chức.

Có thể nói các chính sách đối với người lao động được quy định trong Luật lao động, Luật bảo hiểm và các định khác có liên quan đều được Bộ Tư pháp thực hiện rất tốt trong những năm qua, kết quả thể hiện ở việc tất cả cán bộ, công chức, kể cả cán bộ hợp đồng của Bộ đều được đóng bảo hiểm y tế. Hằng năm Bộ Tư pháp đều tổ chức khám sức khoẻ định kỳ cho cán bộ, ngoài ra Bộ còn bố trí cán bộ y tế để khám chữa sức khoẻ thường xuyên và cấp thuốc cho cán bộ, công chức. Trường hợp cán bộ, công chức nghỉ ốm đau, thai sản đều được giải quyết chế độ chính sách nhanh chóng và đúng quy định. Các tổ chức đoàn thể như công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ thường xuyên có những hoạt động thăm hỏi động viên khi cán bộ, công chức ốm đau. Việc làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ đã góp phần động viên cán bộ, công chức, viên chức của bộ vượt qua những khó khăn về vật chất và tinh thần.

Tất cả cán bộ, công chức đều được đóng bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật, việc này có ý nghĩa rất quan trọng bởi cán bộ sẽ được khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế khi ốm đau theo chế độ. Nó sẽ giúp giảm khó khăn cho cán bộ công chức trong điều kiện mà mức thu nhập còn rất thấp để có thể tiếp cận được các dịch vụ y tế chất lượng cao, qua đó giúp cán bộ an tâm công tác và cống hiến.

Tuy nhiên, do thiếu thốn về mặt cơ sở vật chất nên công tác chăm sóc sức khoẻ cho cán bộ cũng gặp không ít khó khăn, trong những năm trước với biên chế khoảng hơn 500 người (khối cơ quan Bộ không bao gồm hai trường) nhưng chỉ có 1 biên chế bác sỹ. Số lượng thuốc và thiết bị y tế cũng có giới hạn, do đó chỉ có thể điều trị các loại bệnh thông thường. Bộ cũng chưa có phòng khám chuyên dùng mà phải tận dụng phòng làm việc để khám và điều trị bệnh cho cán bộ, công chức. Số lượng cán bộ được tiếp xúc với các dịch vụ y tế chất lượng cao còn ở mức độ do các quy định về mức lương, thời gian công tác tối thiểu để được hưởng các dịch vụ này.

6, Thực trạng xây dựng và thực hiện cơ chế thu hút thông qua chính sách khen thưởng, kỷ luật.

Chính sách khen thưởng có ý nghĩa quan trọng không kém những chính sách lương bổng và khuyến khích vật chất, bởi vì ngoài các nhu cầu vật chất thì cán bộ, công chức còn có những nhu cầu về mặt tinh thần. Người xưa có câu “một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp” hay “trăm đồng tiền công không bằng một đồng tiền thưởng”, do vậy khen thưởng được xem như là yếu tố động viên tinh thần hết sức quan trọng đối với cán bộ, công chức.

Công tác khen thưởng của ngành nói chung và của Bộ Tư pháp nói riêng trong những năm qua đã từng bước được củng cố, tăng cường và nâng cao chất lượng, kết quả đạt được trong 2 năm 2006 và 2007 như sau:

Năm 2006:

+ Về tập thể: Có 1 tập thể nhận Bằng khen của Thủ tướng; 1 đơn vị nhận cờ ngành; 25 tập thể lao động xuất sắc; 15 tập thể lao động xuất sắc;

+ Về cá nhân: Có 125 cá nhân nhận bằng khen Bộ trưởng; 173 chiến sỹ thi đua cơ sở; 304 cá nhân lao động tiên tiến; 114 giấy khen; 622 kỷ niệm chương.

Năm 2007:

+ Về tập thể: Có 1 đơn vị nhận cờ Chính phủ; 1 đơn vị nhận cờ ngành; 21 đơn vị nhận danh hiệu tập thể lao động xuất sắc; 17 tập thể lao động tiên tiến;

+ Về cá nhân: Có 2 cá nhâ nhận huân chương lao động hạng II; 13 cá nhân nhận huân chương lao động hạng III; 86 cá nhân nhận Bằng khen Bộ trưởng; 162 người nhận danh hiệu chiến sỹ thi đua cơ sở; 335 lao động tiên tiến; 143 giấy khen và 175 kỷ niệm chương.

Ngoài ra Bộ cũng thường xuyên phát động các phong trào, các đợt thi đua ngắn hạn, thi đua đột xuất, qua đó nhiều tập thể và cá nhân được các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội xem xét khen thưởng với nhiều hình thức khác nhau, điều này đã góp phần động viên cán bộ, công chức, viên chức của Bộ nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

Phát huy thành tích đạt được đồng thời nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác thi đua khen thưởng, thời gian qua Bộ Tư pháp đã ban hành nhiều văn bản để hướng dẫn triển khai chính sách này như: Thông tư số 07/2006/TT-BTP ngày 27/11/2006 hướng dẫn công tác thi đua, khen thưởng trong ngành Tư pháp; Thông tư số 08/2007/TT-BTP ngày 14/11/2007 hướng dẫn việc trích lập, quản lý và sử dụng Quỹ thi đua khen thưởng; Quyết định số 05/2007/QĐ-BTP ngày 18/6/2007 ban hành quy chế hoạt động của Hội đồng thi đua - khen thưởng ngành Tư pháp; Quyết định số 04/2008/QĐ-BTP ngày 19/3/2008 ban hành quy chế xét tặng kỷ niệm chương vì sự nghiệp Tư pháp.

Về mặt tổ chức, năm 2006 Bộ Tư pháp đã thành lập Vụ Thi đua khen thưởng trên cơ sở một bộ phận làm công tác thi đua khen thưởng trực thuộc Văn phòng Bộ, việc củng cố về mặt tổ chức và nhân sự giúp công tác thi đua khen thưởng ổn định và đi vào nề nếp.

Nhờ xây dựng và thực hiện tốt chính sách khen thưởng nên những năm qua đây thực sự là nguồn động viên tinh thần rất lớn đối với cán bộ, công chức, viên chức của Bộ, giúp họ an tâm công tác và gắn bó lâu dài với ngành. Trong điều kiện đời sống vật chất còn nhiều khó khăn thì những động viên tinh thần kịp thời sẽ là nguồn động lực chính giúp người cán bộ tiếp tục găn bó với đơn vị. Bởi trên thực tế thì thời gian qua có một số cán bộ bỏ việc hay chuyển công tác, nhưng trong số đó có những người đi khỏi cơ quan không chỉ vì lý do kinh tế mà còn vì họ chưa được đánh giá đúng mức để có hình thức khen thưởng động viên khuyến khích kịp thời.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác thi đua khen thưởng trong thời gian qua cũng còn những mặt hạn chế nhất định như: Việc xem xét khen thưởng nhiều khi còn mang tính hình thức và bình quân chủ nghĩa do các tiêu chí để xem xét khen thưởng còn chưa đầy đủ, rõ ràng; các hình thức thưởng vật chất kèm theo các hình thức khen thưởng còn ở mức độ, do vậy việc khen thưởng chủ yếu vẫn là động viên, khuyến khích về mặt tinh thần.

- Công tác kỷ luật đặc biệt được chú trọng bởi nó liên quan đến quyền và lợi ích của cán bộ, công chức, các vụ việc liên quan đến khiếu kiện và kỷ luật công chức đều được tiến hành theo quy trình hết sức chặt chẽ, đảm bảo khách quan và đúng luật. Tuy trong vòng 3 năm trở lại đây số cán bộ, công chức của Bộ phải xem xét xử lý kỷ luật là không nhiều, chỉ có 13 trường hợp (6 trường hợp ở Trường đại học Luật Hà nội), việc giải quyết đều được tiến hành đúng quy trình luật định, bởi vậy các quyết định xử lý đều được người bị xử lý kỷ luật chấp nhận và không có khiếu nại trở lại. 

7, Thực trạng xây dựng và thực hiện cơ chế thu hút thông qua chính sách hưu trí, bảo hiểm xã hội và bảo đảm các điều kiện làm việc cho cán bộ, công chức, viên chức.

Chính sách hưu trí, bảo hiểm xã hội và bảo đảm các điều kiện làm việc liên quan trực tiếp đến quền lợi của cán bộ, công chức, viên chức, do vậy làm tốt các chính sách này cũng chính là một trong những cơ chế quan trọng giúp thu hút và giữ chân cán bộ có năng lực vào làm việc lâu dài trong các đơn vị thuộc Bộ. Trong những năm qua chính sách hưu trí, bảo hiểm xã hội và bảo đảm các điều kiện làm việc đã được cải tiến và có những tiến bộ rõ rệt đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật, cụ thể là:

-Về chính sách hưu trí: Tất cả cán bộ, công chức, viên chức đến tuổi nghỉ hưu đều được Bộ quan tâm giải quyết các chế độ chính sách một cách hợp lý, hợp tình thể hiện qua việc thông báo nghỉ hưu đúng hạn, giải quyết chế độ bảo hiểm và bảo đảm các chế độ chính sách khác theo quy chế chung của Bộ. Đặc biệt những trường hợp nghỉ hưu trước tuổi vì lý do sức khoẻ, Bộ đã phối hợp với các cơ quan liên quan để giải quyết nhanh chóng cho cán bộ, công chức. Do vậy thời gian qua tất cả cán bộ, công chức về nghỉ theo chế độ bảo hiểm xã hội đều cảm thấy thoải mái.

Bộ Tư pháp cũng đã thành lập Tổ hưu trí cho cán bộ, công chức khi về nghỉ hưu tham gia sinh hoạt, đồng thời hàng năm vào các dịp lễ, tết Công đoàn Bộ đều phối hợp với các cơ quan, đơn vị và tổ chức đoàn thể xã hội khác tổ chức thăm hỏi cán bộ nghỉ hưu, do vậy mặc dù đã nghỉ hưu nhưng cán bộ hưu trí thường xuyên có mối liên hệ với Bộ, một số đồng chí còn tham gia vào việc giải quyết các công việc của Bộ như tham mưu, tư vấn soạn thảo văn bản pháp luật.

-Về chính sách bảo hiểm xã hội: Những năm trước đây, do điều kiện lịch sử để lại, nhiều cán bộ chuyển ngành, các tài liệu giấy tờ liên quan đến thời gian công tác, thời gian đóng bảo hiểm không đầy đủ, nhiều cơ quan mà cán bộ công tác trước đây đã giải thể, việc xác minh do vậy gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là số cán bộ chuyển ngành từ công an và bộ đội sang ngànhTư pháp, do vậy việc lập và quản lý sổ bảo hiểm xã hội gặp nhiều khó khăn.

Bên cạnh đó, do yêu cầu nhiệm vụ, biên chế của Bộ Tư pháp liên tục được bổ sung, từ biên chế năm 2000 chỉ khoảng 200 người đến nay riêng khối cơ quan Bộ đã có khoảng hơn 500 người (không bao gồm biên chế của hai trường), do vậy số sổ bảo hiểm phải lập và quản lý của Bộ cũng tăng lên gấp hơn hai lần. Tiền lương và các chế độ khác trong những năm qua cũng liên tục điều chỉnh, do vậy cũng phải thường xuyên điều chỉnh, bổ sung sổ bảo hiểm theo quá trình điều chỉnh lương. Ngoài ra, số cán bộ được tuyển dụng mới cũng tăng lên, bởi thế các công việc liên quan đến công tác bảo hiểm xã hội cũng ngày một nhiều hơn. Việc lập và quản lý sổ bảo hiểm càng trở nên khó khăn hơn khi mà hầu hết cán bộ làm công tác này đều là kiêm nhiệm do không có cán bộ chuyên trách có chuyên môn về công tác bảo hiểm; tất cả các công việc liên quan đến bảo hiểm đều dồn về một đầu mối là Vụ Tổ chức cán bộ.

Khắc phục tình trạng trên Bộ đã tiến hành phân cấp quản lý bảo hiểm, theo đó các đơn vị có tài khoản riêng sẽ chịu trách nhiệm lập và quản lý bảo hiểm đối với cán bộ, công chức của đơn vị thì công tác bảo hiểm đã ổn định và đi vào nề nếp. Việc lập và quản lý sổ bảo hiểm đảm bảo đúng các quy trình luật định, đối với số cán bộ mới được tuyển dụng, Bộ đều nhanh chónh lập sổ bảo hiểm để theo dõi kịp thời quá trình đóng bảo hiểm, không để tình trạng tồn đọng lâu ngày như trước kia; thường xuyên cập nhật những thay đổi liên quan đến bảo hiểm của từng cá nhân, không để ngắt quãng gây nên những nhầm lẫn, thiếu sót không cần thiết.

Trong khi việc vi phạm luật bảo hiểm là tương đối phổ biến ở khu vực kinh tế tư nhân, thì việc làm tốt các chính sách bảo hiểm sẽ là một cơ chế thu hút cán bộ hiệu quả, bởi vì tâm lý của người lao động Việt Nam nói chung là thích sự ổn định và bảo đảm chắc chắn khi làm việc cũng như khi về nghỉ chế độ.

-Về việc bảo đảm các điều kiện và môi trường làm việc cho cán bộ, công chức: Điều kiện và môi trường làm việc có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giữ chân người lao động. Theo cuộc khảo sát trên 1.000 người thuộc 20 ngành nghề khác nhau, do tổ chức City & Guilds của Anh thực hiện, 57% trả lời họ theo đuổi công việc hiện tại của mỡnh là bởi cú niềm hứng thỳ với những gỡ mỡnh làm, sự cõn bằng giữa cuộc sống và sự nghiệp, những đồng nghiệp thân thiện, mới là điều quan trọng với một người lao động, hơn là mức tiền họ thu được. Chỉ có 44% là cho biết họ ở lại với nghề bởi mức lương cao.

Bởi vậy, mặc dù còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất nhưng trong những năm qua điều kiện làm việc của cán bộ đã được cải thiện rất nhiều từ môi trường làm việc đến các thiết bị khác phục vụ công việc như máy tính, điện thoại, văn phòng phẩm…cán bộ, công chức đều được cấp đầy đủ. Ngoài ra việc phân cấp trong quản lý cán bộ, cải thiện lề lối làm việc và cơ chế phối hợp công tác trong và giữa các đơn vị thuộc Bộ cũng đã tạo ra không gian và môi trường làm việc dân chủ trong các đơn vị, qua đó giúp cán bộ, công chức chủ động trong công việc và có điều kiện phát huy sáng kiến. Nhờ đó cán bộ luôn cảm thấy thoải mái trong môi trường làm việc của mình, tránh cảm giác nhàm chán và thái độ làm việc theo kiểu đối phó, từ đó gắn bó họ với công việc của mình.   

KẾT LUẬN

Chính sách thu hút cán bộ chỉ có thể thực hiện được thông qua việc triển khai toàn diện và tổng thể các chính sách cán bộ khác như tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng; lương bổng và khuyến khích vật chất; hưu trí, chăm sóc sức khoẻ và bảo hiểm…vv. Thời gian qua Bộ Tư pháp đã triển khai xây dựng và thực hiện tương đối tốt các chính sách cụ thể này, điều đó đã góp phần giúp Bộ Tư pháp thu hút được một đội ngũ cán bộ trẻ và có năng lực vào làm việc cho các cơ quan, đơn vị thuộc khối cơ quan Bộ. Nhờ vậy Bộ Tư pháp đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước giao phó trong điều kiện cải cách và hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên, trên thực tế do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, việc xây dựng và thực hiện các chính sách thu hút cán bộ thời gian qua của Bộ Tư pháp vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế dẫn đến hiệu quả của việc thu hút cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ có chuyên môn cao chưa đạt kết quả như mong muốn. Việc giữ chân cán bộ, công chức có năng lực trình độ, nhất là số cán bộ được đào tạo cơ bản và đào tạo ở nước ngoài, cán bộ có kinh nghiệm công tác tiếp tục gắn bó lâu dài với Bộ cũng gặp nhiều khó khăn, số cán bộ xin chuyển công tác hay thôi việc có chiều hướng gia tăng.

Việc nghiên cứu thực trạng việc xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm thu hút đội ngũ cán bộ của Bộ giúp chúng ta nhìn rõ những bất cập hạn chế từ đó có các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này có ý nghĩa hết sức quan trọng và mang tính sống còn đối với Bộ Tư pháp bởi vì cán bộ luôn là khâu then chốt của mọi vấn đề.


Chuyên đề 7

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CÔNG TÁC TUYỂN CHỌN, QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VÀ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC LÀM VIỆC TẠI CÁC CƠ QUAN TƯ PHÁP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẠC LIÊU

 

  Huỳnh Chiêu

                                                            Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Bạc Liêu

 

I. Thực trạng  công tác tuyển chọn, quản lý, sử dụng cán bộ, công chức tại các cơ quan tư pháp trong 3 năm (2005, 2006, 2007).

Bạc Liêu là một tỉnh đồng bằng ven biển, có diện tích tự nhiên là 2.582,64km2, có 56 km bờ biển, dân số gần 840.000 người, có 03 dân tộc chủ yếu là Kinh, Khơme, Hoa. Tỉnh có 06 huyện và 01 thị xã với 61 xã, phường, thị trấn. 

1. Thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp tỉnh Bạc Liêu (số liệu tính đến ngày 31/12/2007).

1.1. Cán bộ Tư pháp cấp tỉnh.

Sở Tư pháp có 05 Phòng chức năng, 04 Trung tâm trực thuộc với biên chế được giao là 38, trong đó biên chế khối Văn phòng Sở là 19, 04 Trung tâm 19, bao gồm:

- Số biên chế hiện có 34/38 với 17 nam và 17 nữ; dân tộc Kinh 32 người, dân tộc Hoa 01 người, dân tộc Mường 01 người;

- Ban giám đốc Sở có 03 người;

- Trình độ văn hoá cấp III là 34 người;

- Trình độ chuyên môn: Cử nhân luật 28, trung cấp luật 01, đại học khác 02, trung cấp khác 03;

- Lý luận chính trị: Cử nhân 02, cao cấp 08, trung cấp 03;

- Ngạch công chức: Chuyên viên chính 03, chuyên viên 27, cán sự 04;

- Độ tuổi: Dưới 30 tuổi 09 người, từ 30 đến dưới 40 tuổi 08 người, từ 40 đến  50 tuổi 12 người, trên 50 tuổi 05 người.

- Thời gian tham gia công tác tư pháp: Dưới 05 năm 12 người, từ 05 đến 10 năm 08 người, trên 10 năm 14 người.

Sở Tư pháp thời gian dài từ những năm trước 2005 chỉ có 15 - 17 biên chế. Đến năm 2006 được giao thêm 02 biên chế nâng tổng số 19 cán bộ, công chức, trong lúc một số công việc mới nhà nước tiếp tục giao cho Sở thực hiện như công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật theo Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ, nhưng không được giao thêm biên chế làm cho hoạt động của ngành trên một số lĩnh vực còn hụt hẫng chưa ngang tầm nhiệm vụ được giao.

 1.2. Cán bộ Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu.

Tổng biên chế thi hành án dân sự là 66/85 biên chế được giao, trong đó có 26 Chấp hành viên. Thi hành án dân sự tỉnh có 15/21 biên chế, 07 đơn vị THADS cấp huyện có 51/64 biên chế, bao gồm:

- Số biên chế hiện có 66/85 với 47 nam và 19 nữ; dân tộc Kinh 63 người, dân tộc Hoa 02 người, dân tộc Khmer 01 người;

- Trình độ văn hoá cấp III là 64 người, cấp II là 02 người;

- Trình độ chuyên môn: Cử nhân luật 50, trung cấp luật 02, đại học khác 04, trung cấp khác 10;

- Lý luận chính trị: Cử nhân 02, cao cấp 01, trung cấp 07;

- Độ tuổi: Dưới 30 tuổi 18 người, từ 30 đến dưới 40 tuổi 22 người, từ 40 đến  50 tuổi 25 người, trên 50 tuổi 01 người.

- Thời gian tham gia công tác tư pháp: Dưới 05 năm 26 người, từ 05 đến 10 năm 17 người, trên 10 năm 23 người.

Biên chế công chức thi hành án dân sự mấy năm gần đây Bộ Tư pháp có quan tâm tăng cường, nhưng việc tuyển dụng hết sức khó khăn, sinh viên ra trường về địa phương ít, các chính sách và công tác thi hành án dân sự có nhiều va chạm với dân, chính sách đãi ngộ chưa thu hút sinh viên mới vào công tác. Do đó phải tuyển dụng phần lớn  anh em đại học tại chức. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng cán bộ công chức thi hành án dân sự chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

1.3. Cán bộ Tư pháp cấp huyện.

Phòng Tư pháp cấp huyện mới được tái lập lại từ cuối năm 2005, tổng biên chế hiện có là 27, mỗi đơn vị có từ 03 đến 05 biên chế, trong đó:

- Số biên chế hiện có 27 với 18 nam và 09 nữ; dân tộc Kinh 26 người, dân tộc Hoa 01 người;

- Trình độ văn hoá cấp III là 25 người, cấp II là 02 người;

- Trình độ chuyên môn: Cử nhân luật 13, trung cấp luật 09, trung cấp khác 03;

- Lý luận chính trị: Cao cấp 05, trung cấp 07;

- Ngạch công chức: Chuyên viên 14, cán sự 13;

- Độ tuổi: Dưới 30 tuổi 10 người, từ 30 đến dưới 40 tuổi 07 người, từ 40 đến  50 tuổi 06 người, trên 50 tuổi 04 người.

- Thời gian tham gia công tác tư pháp: Dưới 05 năm 17 người, từ 05 đến 10 năm 07 người, trên 10 năm 03 người.

Cán bộ, công chức Phòng Tư pháp từ sau khi được tái lập (2005), số lượng và chất lượng chưa ngang tầm nhiệm vụ, nghiệp vụ chuyên môn trên một số lĩnh vực như văn bản, tuyên truyền còn nhiềun bất cập. Mối quan hệ giữa các Phòng Tư pháp và cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện một số nơi còn lõng lẽo trong thực thi nhiệm vụ.

1.4. Cán bộ Tư pháp cấp xã.

Cấp xã có tổng số 73 cán bộ Tư pháp hộ tịch, trong đó có 61 biên chế, còn lại là do nhu cầu công việc và kinh phí cho phép các địa phương hợp đồng thêm. Trong 73 cán bộ Tư pháp hộ tịch có:

- 57 nam và 16 nữ; dân tộc Kinh 69 người, dân tộc Hoa 01 người, dân tộc Khmer 03 người;

- Trình độ văn hoá cấp III là 50 người, cấp II là 21 người, cấp I là 02 người;

- Trình độ chuyên môn: Cử nhân luật 07, trung cấp luật 16, trung cấp khác 05;

- Lý luận chính trị: Trung cấp 32, sơ cấp 16;

- Độ tuổi: Dưới 30 tuổi 26 người, từ 30 đến dưới 40 tuổi 17 người, từ 40 đến  50 tuổi 19 người, trên 50 tuổi 11 người.

- Thời gian tham gia công tác tư pháp: Dưới 05 năm 47 người, từ 05 đến 10 năm 20 người, trên 10 năm 06 người.

Với thực trang cán bộ Tư pháp - hộ tịch hiện nay, phần lớn trong số này chỉ làm được một số công việc chủ yếu như: đăng ký hộ tịch, chứng thực, hoà giải, … nhiều công việc quan trọng khác được giao chỉ thực hiện đạt mức độ từ 30 - đến 40 %. Trong lúc đó, mấy năm gần đây nhà nước tiếp tục phân cấp và giao nhiều nhiệm vụ mới cho chính quyền cấp xã mà trực tiếp là cán bộ Tư pháp - hộ tịch phải đảm đương. Hiện nay ở nhiều xã cán bộ Tư pháp - hộ tịch trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng yêu cầu (những cán bộ tư pháp được đào tạo trung cấp luật các năm trước đây phần lớn đã chuyển ngành hoặc được nâng lên vị trí công tác khác, số mới thay thế qua đào tạo không đáng kể).

 2. Tình hình và kết quả tuyển chọn, quản lý, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức Tư pháp.

2.1. Sở Tư pháp.

 Công tác tuyển chọn công chức, viên chức của Sở Tư pháp chủ yếu thông qua việc thi tuyển đối với công chức và xét tuyển đối với viên chức. Hàng năm, căn cứ vào nhu cầu của địa phương, UBND tỉnh thành lập Hội đồng, tổ chức thi tuyển công chức và xét tuyển viên chức, căn cứ vào biên chế được giao hàng năm, Sở Tư pháp tiếp nhận cán bộ đáp ứng điều kiện, chức danh yêu cầu cần tuyển nhận vào hợp đồng lao động ngắn hạn trước, sau đó đến thời điểm tiến hành đưa số cán bộ dự thi tuyển hoặc xét tuyển. Nếu đạt kết quả sẽ được tiếp nhận chính thức vào công tác tại sở.

Công tác tổ chức, quy hoạch cán bộ luôn được quan tâm, Sở đã có kế hoạch quy hoạch cán bộ giữ chức danh lãnh đạo từ phó trưởng phòng đến giám đốc sở giai đoạn 2006 - 2010 và giai đoạn 2010 - 2015. Căn cứ vào kế hoạch quy hoạch cán bộ, trong 03 năm qua, Sở đã đưa đi đào tạo về chuyên môn 03 cán bộ, lý luận chính trị 13 cán bộ, quản lý nhà nước 21 cán bộ, kiến thức quốc phòng 05 cán bộ; đề nghị UBND tỉnh bổ nhiệm chức danh Phó Giám đốc Sở từ nguồn quy hoạch 01 cán bộ, hiệp y với Sở Nội vụ bổ nhiệm mới chức danh Trưỏng, Phó phòng và tương đương cho 07 cán bộ, luân chuyển, bổ nhiệm lại cho 03 cán bộ.

2.2. Thi hành án dân sự.

          Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004; Nghị định số 50/NĐ-CP ngày 11/5/2005 của Chính phủ về công tác quản lý Thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự và cán bộ công chức làm công tác thi hành án dân sự; Thông tư liên tịch số 01/2007/TTLT-BTP-BNV ngày 29/3/2007 của Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ hướng dẫn về tổ chức, cán bộ của thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Quyết định số 1148/2005/QĐ-BTP ngày 18/5/2005 của Bộ Trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành quy chế uỷ quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.

Việc tuyển dụng cán bộ Thi hành án thông qua việc thi tuyển, hàng năm tuỳ tình hình thực tế, Giám đốc Sở Tư pháp quyết định tổ chức thi tuyển công chức thi hành án từ một đến hai lần để bổ sung biên chế cho các cơ quan thi hành án trong tỉnh. Tính đến cuối năm 2007, biên chế của cơ quan Thi hành án trong tỉnh là 66/85, phân bổ 08 đầu mối đơn vị như sau:

- Thi hành án dân sự tỉnh 15/21 biên chế;

- Thi hành án dân sự thị xã Bạc Liêu 11/14 biên chế;

- Thi hành án dân sự huyện Hoà Bình 06/07 biên chế;

- Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lợi 07/09 biên chế;

- Thi hành án dân sự huyện Giá Rai 09/10 biên chế;

- Thi hành án dân sự huyện Phước Long 06/08 biên chế;

- Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân 06/08 biên chế;

- Thi hành án dân sự huyện Đông Hải 06/08 biên chế;

Về tổ chức, biên chế, trong 03 năm qua, biên chế chung được tăng lên, số lượng chấp hành viên được nâng lên, khắc phục cơ bản tình trạnh một đơn vị chỉ có 01 chấp hành viên. Tại thời điểm này, nơi ít nhất là 02 chấp hành viên, nơi nhiều nhất là 04 chấp hành viên. Tuy có tăng biên chế so với trước nhưng chưa đủ sức đáp úng yêu cầu thực hiện công việc, vì các lẽ sau:

- Nếu căn cứ biên chế của Toà án cùng cấp để so sánh thì: việc kết thúc xét xử 01 vụ án có nhiều thuận lợi hơn so với kết thục 01 vụ việc thi hành án, vì thi hành án phụ thuộc quá nhiều vào điều kiện khách quan và khả năng chủ quan của người phải thi hành. Một vụ xét xử có thể phải cho ra hàng chục việc phải thi hành án. Thực tế có thẩm phán đã xét xử 25 vụ án trong một tháng đã cho ra 57 việc phải thi hành án trong đó có nhiều việc chưa có điều kiện thi hành, và có việc phải kéo dài, … nên 01 chấp hành viên chỉ kết thúc được 06 việc/tháng đó (chỉ đạt 6/57). Xét về điều kiện làm việc thì thẩm phán chỉ xét xử nơi công sở, còn chấp hành viên chủ yếu đi tìm, đeo bám đương sự nơi cư trú trên mọi địa bàn, địa hình phức tạp, nhất là nông thôn. Với điều kiện đó, lẽ ra biên chế của cơ quan thi hành án phải tương đương hoặc nhiều hơn biên chế toà án cùng cấp mới hợp lý, nhưng ngược lại chỉ được biên chế từ 50 - 70% là bất hợp lý.

- Do biên chế bất hợp lý nên bình quân mỗi chấp hành viên phải ôm trên 300 hồ sơ án cùng lúc (riêng thị xã Bạc Liêu có chấp hành viên phải đảm trách 843 án cùng lúc) với điều kiện phải truy tìm, xác minh nơi cư trú của đương sự rải rác, phân tán ở nhiều xã, phường đây cũng là một trong những nguyên nhân kém hiệu quả vì quá tải. Cần bảo đảm mọi chấp hành viên đảm trách địa bàn không quá 03 xã là hợp lý.

- Mặc dù biên chế hiện chưa đủ yêu cầu, ngược lại một bộ phận công chức luôn bị phân tán, chi phối do tham dự các lớp cử nhân, đào tạo chuyên ngành, đào tạo chính trị, tập huấn chuyên môn, học kiến thức quốc phòng, … rất nhiều đơn vị từng lúc chỉ có 01 chấp hành viên gánh vác việc thi hành án.

2.3. Phòng Tư pháp.

Trước năm 2005, các Phòng Tư pháp trong tỉnh đều sáp nhập vào Văn phòng Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Văn phòng phân công 01 đồng chí Phó Văn phòng phụ trách công tác tư pháp và 01 cán bộ giúp việc, không có đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ nên việc giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vự tư pháp cũng như việc chỉ đạo, kiểm tra công tác tư pháp cấp xã còn rất hạn chế. Phòng Tư pháp được tái lập từ cuối năm 2005 theo Nghị quyết số 07/2005/NQ-HĐND ngày 22/7/2005 của HĐND tỉnh Bạc Liêu, biên chế được giao là 05, tuy nhiên, tuỳ theo nhu cầu của địa phương, biên chế của Phòng Tư pháp có từ 03 đến 05 biên chế, một số Phòng Tư pháp hiện chưa có cấp phó.

2.4. Cán bộ Tư pháp hộ tịch cấp xã.

Biên chế mỗi xã, phường, thị trấn là 01, ngoài ra, một số địa phương do nhu cầu công việc hợp đồng thêm 01 cán bộ Tư pháp - hộ tịch.    

Theo quy định, công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã thực hiện các nhiệm vụ sau:

1. Trình UBND cấp xã ban hành các văn bản về công tác tư pháp ở địa phương; tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật, pháp lệnh theo hướng dẫn của UBND cấp huyện và sự chỉ đạo của UBND cấp xã.

2. Giúp UBND cấp xã tự kiểm tra các quyết định, chỉ thị do UBND cấp xã ban hành;

3. Xây dựng kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn trình UBND cấp xã và tổ chức thực hiện kế hoạch sau khi được phê duyệt.

4. Giúp UBND cấp xã chỉ đạo, hướng dẫn việc xây dựng quy ước, hương ước khóm, ấp khu dân cư, … phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước;

5. Hướng dẫn hoạt động của tổ hoà giải; bồi dưỡng, cung cấp tài liệu nghiệp vụ cho tổ viên tổ hoà giải ở địa phương theo sự hướng dẫn của Sở Tư pháp, cấp trên; trình Chủ tịch UBND cấp xã xem xét, quyết định miễn nhiệm tổ viên tổ hoà giải;

6. Thực hiện việc trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách theo quy định của pháp luật;

7. trực tiếp quản lý việc khai thác, sử dụng tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn và các tổ chức, đơn vị khác;

8. Giúp chủ tịch UBND cấp xã thực hiện việc đôn đốc  thi hành án theo hướng dẫn của Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện và thực hiện công tác hành chính - tài chính trong việc đôn đốc thi hành án;

9. Thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch ở địa phương; thực hiện một số việc về quốc tịch thuộc thẩm quyền theo quy định pháp luật;

10. Giúp UBND cấp xã thực hiện chứng thực chữ ký của công dân Việt Nam trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch dân sự trong nước; chứng thực di chúc, văn bản từ chối di sản và các việc khác theo quy định của pháp luật;

11. Báo các định kỳ và đột xuất về tình hình thực hiện nhiệm vụ trong các lĩnh vực công tác được giao với UBND cấp xã và Phòng Tư pháp;

12. Thực hiện các nhiệm vụ khác do UBND cấp xã giao.

          Với khối lượng lớn công việc như vậy, trình độ văn hoá, chuyên môn còn yếu, không đồng đều nên hiệu quả công việc của tư pháp cấp xã chưa cao.

2.5. Kết quả thực hiện chính sách thu hút cán bộ tại địa phương.

Mặc dù còn nhiều khó khăn sau ngày được tái lập tỉnh, nhưng Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác tổ chức cán bộ, có chính sách thu hút nhân tài, vì cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ. Đây là công tác vừa mang tính cấp bách và mang tính kế thừa lâu dài.

Để thu hút nhân tài phục vụ cho địa phương, Hội đồng nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã thông qua Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐND ngày 22/7/2005 về việc quy định thực hiện một số chính sách đối với cán bộ tại tỉnb Bạc Liêu; Uỷ ban nhân dân tỉnh đã Ban hành Quyết định số 19/2005/QĐ-UBND ngày 09/9/2005 về việc ban hành Quy định về thực hiện một số chính sách đối với cán bộ tại tỉnh Bạc Liêu. Trong đó, quy định một số chính sách trợ cấp ưu đãi đối với cán bộ công chức trong tỉnh từ tỉnh đến cơ sở, cụ thể như sau:

- Chế độ trợ cấp thai sản đối với cán bộ nữ: Là cán bộ nữ đang công tác ở các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp; Cơ quan Đảng, Mặt trận, đoàn thể từ cấp tỉnh đến xã, phường, thị trấn sinh con thứ nhất, thứ hai, ngoài chế độ trợ cấp thai sản do cơ quan Bảo hiểm xã hội chi trả còn được trợ cấp bổ sung 01 lần là 400.000 đồng. Riêng cán bộ nữ người dân tộc thiểu số được trợ cấp 500.000 đồng.

- Chế độ trợ cấp khuyến khích cán bộ tốt nghiệp sau đại học: Cán bộ, công chức (kể cả lực lượng vũ trang) bảo vệ đạt luận án tốt nghiệp sau đại học và cam kết phục vụ tại tỉnh Bạc Liêu thì được hưởng trợ cấp 01 lần, nếu không thực hiện đúng cam kết thì phải hoàn trả số tiền trợp cấp. Mức trợ cấp:

     +Học vị tiến sĩ: 20.000.000. đồng (nếu đạt loại giỏi thưởng thêm 5.000.000 đồng).

     + Học vị thạc sĩ: 10.000.000 đồng (nếu đạt loại giỏi thưởng thêm 4.000.000 đồng).

     + Bác sĩ tốt nghiệp chuyên khoa I: 5.000.000 đồng (nếu đạt loại giỏi thưởng thêm 1.000.000 đồng).

     + Bác sĩ tốt nghiệp chuyên khoa II: 7.000.000 đồng (nếu đạt loại giỏi thưởng thêm 2.000.000 đồng).

- Riêng cán bộ tốt nghiệp sau đại học là cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, ngoài mức trợ cấp nêu trên còn được hưởng mức trợ cấp như sau:

     + Học vị tiến sĩ: 1.500.000 đồng.

     + Học vị thạc sĩ: 1.000.000 đồng.

     + Bác sĩ tốt nghiệp chuyên khoa I: 500.000 đồng.

     + Bác sĩ tốt nghiệp chuyên khoa II: 700.000 đồng.

- Chính sách trợ cấp cán bộ khoa học - kỹ thuật về công tác tại xã: Là kỹ sư nông nghiệp, kỹ sư thuỷ sản, kỹ sư xây dựng, bác sĩ, cử nhân Luật trong biên chế thuộc các cơ quan cấp tỉnh và huyện, thị xã được cơ quan có thẩm quyền điều động, tăng cường hoặc tình nguyện về công tác tại các xã; sinh viên đã tốt nghiệp đại học thuộc các ngành nêu trên, có nguyện vọng về công tác tại xã. Điều kiện được hưởng: có thời gian về công tác tại xã ít nhất là 05 năm, nếu không thực hiện đúng cam kết thì phải hoàn trả số tiền trợ cấp. Mức trợ cấp:

     + Đối với cán bộ công chức trong biên chế, được trợ cấp 01 lần khi về công tác là 2.000.000 đồng; ngoài mức tiền lương cơ bản theo quy định hiện hành, còn được trợ cấp thêm 100.000 đồng/tháng trong suốt thời gian 05 năm đầu khi về công tác. Riêng cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số được trợ cấp 150.000 đồng/tháng.

     + Đối với sinh viên đã tốt nghiệp đại học thuộc các ngành nêu trên, có nguyện vọng về công tác ở các xã và được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận, được ưu tiên tuyển dụng vào biên chế nhà nước thuộc chỉ tiêu biên chế ở các Phòng, Ban, Trung tâm thuộc ngành nghề chuyên môn của các đối tượng ưu tiên nêu trên, sau khi đã hoàn thành chế độ công chức dự bị và được trợ cấp 01 lần khi về công tác là 2.000.000 đồng, được hưởng 100% lương ở bậc khởi điểm trong thời gian tập sự, ngoài ra còn được trợ cấp thêm 100.000 đồng/tháng trong thời gian 03 năm đầu khi về công tác. Riêng cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số được trợ cấp 150.000 đồng/tháng.  

3. Đánh giá:

 Quán triệt những quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền, của dân, do dân, vì dân và yêu cầu công tác tư pháp trong giai đoạn hiện nay, Sở Tư pháp luôn quan tâm củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp các cấp, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đủ về số lượng, chất lượng, được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất chính trị, đạo đức, tận tình với công việc, có khả năng chủ động tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả chức năng nhiệm vụ được giao, giúp Uỷ ban nhân dân các cấp quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương.

- Cán bộ Tư pháp ở cấp tỉnh hiện có là 19, hầu hết các cán bộ nghiệp vụ đều tốt nghiệp Cử nhân luật, với số lượng này thì chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao, nhiều cán bộ phải kiêm nhiệm từ 2 đến 3 công việc hoặc phải làm thêm ngoài giờ mới đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao, nguồn để tuyển dụng cán bộ ở tỉnh tương đối ổn định. Công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, lý luận chính trị được quan tâm.

- Cán bộ Phòng Tư pháp cấp huyện đã sớm ổn định từ khi được tái lập vào cuối năm 2005, giúp cho công tác Tư pháp ở  huyện chất lượng được nâng lên.

- Cán bộ Tư pháp hộ tịch cấp xã nhiệt tâm, gắn bó với công việc, tuy nhiên trình độ chưa đồng đều, phần lớn cán bộ chưa đạt tiêu chuẩn chuyên môn theo quy định, chưa tương xứng với công việc được giao.

- Cơ quan THADS cấp tỉnh và cấp huyện hầu hết đều có cấp trưởng, cấp phó và mỗi đơn vị có ít nhất từ 02 Chấp hành viên trở lên.

Tuy nhiên, công tác tuyển chọn, quản lý, sử dụng cán bộ vẫn còn một số hạn chế, đó là:

- Chưa có cán bộ có trình độ sau đại học phục vụ trong ngành.

- Biên chế THADS sự luôn thiếu so với biên chế được giao, nhất là cấp huyện.

- Cán bộ Tư pháp cấp huyện và đặc biệt là cấp xã vừa thiếu, vừa yếu về trình độ chuyên môn lại thường xuyên biến động.

- Nguồn bổ sung cho thi hành án dân sự và tư pháp cấp huyện, cấp xã hiện nay còn khó khăn, lực lượng được đào tạo chính quy ở các trường luật chưa được thu hút vào ngành tư pháp.

4. Nguyên nhân:

- Nguồn sinh viên tốt nghiệp Cử nhân Luật trở về địa phương không nhiều, lại không muốn công tác ở cấp huyện, nhất là cấp xã, vì công tác ở những nơi này thiếu thốn về cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ chưa thích đáng so với công tác ở tỉnh.

- Hiện tại ngành Tư pháp chưa có chính sách đãi ngộ nào cụ thể đối với sinh viên Luật về công tác ở cơ sở.

- Đối với việc tuyển chọn cán bộ cho cơ quan THADS trong 3 năm qua chưa năm nào tuyển đủ biên chế được giao, vì nguồn sinh viên vừa tốt nghiệp cữ nhân luật trở về địa phương hàng năm không nhiều, trong số ít đó hầu như chưa đủ để bổ sung cho các cơ quan có điều kiện thu hút hơn như: chuyên viên văn phòng uỷ ban nhân dân các cấp, các đơn vị kinh tế, các Ngân hàng và nếu chọn ngành pháp luật thì họ vào Toà án, Viện kiểm sát, Công an …Mặc dù lãnh đạo Sở Tư pháp và các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương cũng tích cực có nhiều giải pháp thông báo mời gọi qua báo, đài, nhưng rất hiếm có trường hợp xin vào ngành thi hành án dân sự, vì họ cho rằng làm việc trong cơ quan THADS luôn chịu nhiều áp lực, vất vã vì phải luôn đi cơ sở để đeo bám đối tượng để xác minh nhiều rũi ro nguy hiểm, trong khi đó chế độ đãi ngộ chưa thuyết phục. Nếu chọn phương án tìm nguồn sinh viên từ ngoài địa phương thì bất cập về việc bảo đảm điều kiện sinh hoạt tối thiểu cho công chức như: không có nhà công vụ, không có nguồn hổ trợ tài chính để giúp họ ổn định chổ ở, mức ăn và các nhu cầu sinh hoạt tối thiểu (bởi thu nhập của sinh viên mới ra trường không tự lo được nếu không có hổ trợ của gia đình …). Ngoài ra, thủ tục tuyển dụng kéo dài qua nhiều tầng nấc.

- Đối với cán bộ Tư pháp cấp xã, trình độ nhìn chung còn yếu, chưa đủ điều kiện theo quy định về cán bộ Tư pháp hộ tịch cấp xã, lại luôn biến động, trong lúc lực lượng thay thế không có trình độ chuyên môn nghiệp vụ nên hiệu quả công tác thấp. Năm 1999 - 2001, Sở tư pháp Bạc Liêu phối hợp với trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh mở lớp trung cấp luật tại Bạc Liêu với 130 học viên. Sau khi tốt nghiệp chỉ có một số về công tác ở ngành tư pháp, số còn lại do không xin được việc làm ở ngành tư pháp đã xin việc ở các ngành khác, do đó nguồn bổ sung cho tư pháp cấp xã rất hiếm. Năm 2004, do nhu cầu cán bộ có trình độ trung câp luật để bổ sung cho tư pháp xã, Sở Tư pháp Bạc Liêu phối hợp với Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh chiêu sinh lớp trung cấp luật, nhưng số lượng học viên đăng ký chỉ có 60 người, trong khi theo yêu cầu của Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh phải trên 100 thí sinh mới mở lớp được. Mặt khác, qua mỗi lần bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Đại hội Đảng các cấp, số cán bộ Tư pháp hộ tịch có trình độ, năng lực, đắc cử được điều động cất nhất lên các chức vụ cao hơn, trong khi nguồn cán bộ thay thế có đủ tiêu chuẩn không có, cán bộ thay thế không có chuyên môn nghiệp vụ. Đơn cử: năm 2005, trong kỳ bầu cử Hội đồng nhân dân, Qua thống kê của Sở Tư pháp có 21 cán bộ Tư pháp hộ tịch trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã, đây là tin vui, niềm tự hào cho ngành tư pháp tỉnh nhà, nhưng chỉ vài tháng sau, số cán bộ trúng cử lần lượt được cất nhất giử chức Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Trưởng công an xã …   

            II. Những giải pháp:

            1. Tuyển chọn:

            - Đổi mới công tác tuyển chọn cán bộ, công chức Tư pháp, cần tiếp tục thực hiện tuyển dụng qua thi tuyển, xét tuyển đối với các chức danh Tư pháp đúng theo quy định, ưu tiên tuyển chọn những sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi và những người có trình độ trên đại học. Đối với cán bộ Tư pháp cấp xã chỉ được thay đổi vị trí công tác khi có người thay thế đủ điều kiện theo quy định (ngoại trừ bị kỷ luật).

            - Đối với cán bộ, công chức Thi hành án việc tuyển chọn cần uỷ quyền cho địa phương sau đó báo cáo Bộ, gắn với đơn giản hoá thủ tục, rút ngắn thời gian. Trước mắt, nên cho phép địa phương thực hiện phương thức xét tuyển, vừa nhanh, vừa tạo được hăng hái cho sinh viên mới tốt nghiệp sau những năm học ở trường.

            2. Quản lý sử dụng.

             - Hàng năm các cơ quan Tư pháp phải có kế hoạch đào tạo về chuyên môn,  chính trị cho đội ngũ cán bộ trong ngành phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị, chú ý đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ và cán bộ cơ sở.

             - Thường xuyên tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn, dài hạn khi các luật và văn bản luật có liên quan đến ngành có sự thay đổi hoặc sửa đổi, bổ sung. Trong đào tạo Bộ cần lưu ý không ngừng đổi mới phương thức và nội dung giảng dạy nhằm đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả.

             - Có kế hoạch quy hoạch, đào tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, mạnh dạn bổ nhiệm các cán bộ trẻ có năng lực vào các vị trí chủ chốt, các chức danh Tư pháp để phục vụ lâu dài trong ngành.

            3. Chế độ, chính sách đãi ngộ.

            - Thực hiện động viên, khen thưởng đối với các cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác bằng các hình thức thiết thực như nâng lương trước niên hạn, thưởng tiền bằng quỹ lương của đơn vị …         

            - Hỗ trợ, tạo điều kiện cho các cán bộ trẻ, cán bộ nữ có năng lực đi đào tạo sau đại học.

            - Mạnh dạn đề bạc vượt cấp đối với cán bộ có trình độ, năng lực, đạo đức để phục vụ lâu dài trong ngành.

            - Có chính sách hổ trợ đất, chổ ở, phương tiện đi lại cho một số trường hợp luân chuyển và tăng cường cho cơ sở.

            III. Kiến nghị, đề xuất:

            1. Đối với Bộ Tư pháp:

            - Xem xét đổi mới phương pháp tuyển dụng công chức THADS theo hướng giao quyền chủ động trong việc tuyển dụng nhiều hơn cho địa phương. Thực tế hiện nay biên chế đã thiếu lại thường xuyên tuyển không đủ số lượng so với định mức được giao. Để khắc phục tình trạng này, Bộ Tư pháp cần nghiên cứu thực hiện các giải pháp sau:

                    + Cho phép các đơn vị còn thiếu biên chế theo định mức được giao được tuyển dụng công chức dự bị hoặc hợp đồng lao động dài hạn bất cứ thời điểm nào khi công dân có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định đến xin việc và được hưởng các chế độ về lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế … như công chức đã được tuyển dụng. Sau đó hàng năm tổ chức định kỳ từ 01 đến 02 đợt thi tuyển (hoặc nghiên cứu có cơ chế giao cho địa phương xét tuyển), nếu đạt yêu cầu thì tuyển dụng chính thức.

                    + Do thi hành án dân sự là ngành có nhiều nguy hiểm, rũi ro và vất vã như đã trình bày ở trên, nên Bộ Tư pháp cần nghiên cứu đề xuất với Chính phủ có chế độ trợ cấp từ 15 đến 20% lương đối với công chức mới tuyển dụng vào ngạch chuyên viên (đây là nguồn bổ nhiệm chấp hành viên lâu dài cho ngành) để thu hút nhân tài.

                    + Trường hợp địa phương tuyển vẫn không đủ biên chế theo định mức được giao, Bộ cần có cơ chế tổ chức thi tuyển công chức thi hành án ở những thành phố lớn có nguồn nhân lực dồi dào, có chế độ đãi ngộ thích đáng để điều chuyển số cán bộ này về những địa phương còn thiếu biên chế.

            - Cần xem xét tăng thêm biên chế cho cơ quan THADS các cấp, trong mối quan hệ giửa thẩm phán TAND và cơ quan THADS vì hiện nay lượng án tồn động ngày càng tăng, tỉ lệ thi hành án về việc và tiền còn thấp, trong đó có nguyên nhân là lực lượng Chấp hành viên chưa tương xứng với số lượng công việc được giao. Các giải pháp cần thực hiện:

                    + Bộ nghiên cứu đề xuất với Chính phủ tăng số lượng Chấp hành viên theo hướng 01 Thẩm phán tương ứng với 1,5 trở lên Chấp hành viên cùng cấp.

            - Đối với lĩnh vực hoạt động thi hành án dân sự, nên nghiên cứu theo hướng Cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện tương đương với 01 ngành cấp tỉnh, cấp huyện. Về công tác quản lý bộ máy tổ chức THADS nên sớm có quyết định thực hiện theo hướng quản lý ngành dọc hoặc là phân cấp cho địa phương quản lý. Nếu tình trạng như hiện nay thì tổ chức bộ máy không ngang tầm với nhiệm vụ.

          - Cần nghiên cứu bổ sung mới các chức danh Tư pháp như: Kiểm tra viên, Hộ tịch viên, … nhằm từng bước chuyên nghiệp hoá đội ngũ cán bộ của ngành, đồng thời đề xuất với các cơ quan trung ương về chính sách đãi ngộ như phụ cấp chức danh Tư pháp, phụ cấp tiền lương …

            - Cần khẩn trương phối hợp với các ngành có liên quan xem xét trình Chính phủ tăng thêm biên chế cho cấp xã, vì hiện nay Tư pháp cấp xã đang rất quá tải với công việc. Về chức danh công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã bố trí tối thiểu là 02 công chức, cụ thể:

+ 01 công chức chuyên trách công tác Tư pháp - hộ tịch không kiêm nhiệm công tác khác theo đúng quy định tại nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ quy định về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; Nghị định số 121/2004/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch. Trong đó, công chức Tư pháp - hộ tịch thực hiện các nhiệm vụ về đăng ký, quản lý hộ tịch (đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn, nuôi con nuôi, ... ) và giúp chủ tịch UBND cùng cấp thực hiện các việc chứng thực theo thẩm quyền.

+ 01 công chức Tư pháp thực hiện các nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, quản lý tủ sách pháp luật; giúp UBND cùng cấp soạn thảo, ban hành các quyết định, chỉ thị; hướng dẫn hoạt động của các tổ hoà giải ở cơ sở; thi hành án dân sự; báo cáo tình hình thực hiện công tác tư pháp với cấp trên, . . . và các nhiệm vụ do UBND cấp xã giao.

- Giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng, Bộ cần thường xuyên tổ chức đào tạo chuyên sâu dài hạn từ 01 tháng trở lên đối với các lĩnh vực hoạt động của ngành như xây dựng, kiểm tra văn bản, hộ tịch, phổ biến giáo dục pháp luật … cho cán bộ các Sở Tư pháp. Vì hiện nay biên chế hầu hết các Sở đều ít, do đó chỉ có thể phân công mỗi đợt từ 01 đến 02 cán bộ đi học. Như vậy vừa tạo điều kiện cho cán bộ của ngành nắm vững nghiệp vụ, mang tính chuyên nghiệp cao, áp dụng pháp luật trong xử lý công việc thuộc lĩnh vực hoạt động của ngành thống nhất từ trung ương đến địa phương, vừa đảm bảo đội ngũ kế thừa có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ hiện nay.

            2. Đối với địa phương:

            Sở Tư pháp cần tham mưư với Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh có cơ chế chính sách ưu đãi đối với cán bộ ngành Tư pháp như sau:

            - Hổ trợ Lương, phụ cấp đối với cán bộ Tư pháp ở cấp xã và cấp huyện, nhất là đối với cán bộ trẻ mới tuyển dụng đưa về cơ sở công tác.

            - Có chế độ phụ cấp đặc biệt đối với cán bộ Tư pháp đang công tác ở vùng khó khăn thuộc chương trình 135.

            - Có cơ chế bổ nhiệm cán bộ quản lý có năng lực, có phẩm chất đạo đức không là Đảng viên giử chức vụ trưởng, phó phòng.

            - Đề xuất chính sách đãi ngộ về nhà ở đối với cán bộ về công tác cơ sở (xã)

            - Đề xuất UBND tỉnh có chế độ ưu tiên đào tạo cán bộ Tư pháp từ nguồn nhân lực tại chổ để phục vụ lâu dài cho địa phương.

            - Có chế độ hổ trợ cho cán bộ, công chức được đưa đi đào tạo dài hạn sau đại học như: học phí, tiền ăn, tiền thuê nhà, … mỗi tháng từ 500.000 đến 1.000.000 đồng.

            - Đề xuất Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các cấp, các ngành có liên quan chấn chỉnh lại công tác tuyển dụng và quản cán bộ tư pháp cấp xã. Có cơ chế chuyển công tác khác đối với cán bộ Tư pháp - Hộ tịch không đủ tiêu chuẩn theo quy định (cho chuyển sang công tác mặt trận, đoàn thể, …), thay thế cán bộ trẻ có trình độ, ưu tiên đối với cán bộ có trình độ cử nhân luật.

SỞ TƯ PHÁP BẠC LIÊU

           


Chuyên đề 8

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CÔNG TÁC TUYỂN CHỌN, QUẢN LÝ, SỬ DỤNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC LÀM VIỆC TẠI CƠ QUAN TƯ PHÁP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG

Cao Xuân Bé

Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Hà Giang

 

          Trong những năm qua, công cuộc cải cách hành chính, cải cách Tư pháp được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo, tổ chức thực hiện trên phạm vi cả nước và đã thu được những kết quả tốt "Cơ chế một cửa" cùng với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin đã được áp dụng ở hầu hết các cơ quan hành chính.

           Mục tiêu của chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010. Chính phủ đã vạch rõ: "Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa".

          Để thực hiện các mục tiêu và chương trình nói trên phụ thuộc chủ yếu đến đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ làm công tác Tư pháp, các  yếu tố tác động đó là vị trí địa lý, sự chênh lệch phát triển Kinh tế - xã hội của vùng miền không thể xem nhẹ. Chất lượng đội ngũ cán bộ, trình độ phát triển Kinh tế - xã hội và yếu tố địa lý quyết định mức độ chất lượng hiệu quả nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

          Hà Giang là tỉnh vùng cao cực bắc, tổng diện tích tự nhiên hơn 7.900 km­­­­­­­2, dân số trên 67 vạn người. Gồm 23 dân tộc chung sống. trong những năm qua đã có nhiều cố gắng trong sự nghiệp phát triển Kinh tế -xã hội, song vẫn là tỉnh kém phát triển so với cả nước. Những nguyên nhân cơ bản: Xuất phát điểm kinh tế thấp, công nghiệp và dịch vụ kém phát triển dẫn đến giao lưu dân sự không sôi động, giao thông khó khăn trình độ dân trí thấp, kéo theo sự nghiệp Giáo dục - đào tạo chưa đáp ứng nguồn nhân học, trong đó có cán bộ công chức tại chỗ không đủ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tại địa phương. Nghiên cứu thực trạng và giải pháp thực hiện công tác tuyển chọn, quản lý, sử dụng cán bộ công chức làm việc tại các cơ quan Tư pháp trên địa bàn tỉnh Hà Giang là hết sức cần thiết góp phần tạo cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất các cơ chế, chính sách thu hút cán bộ, trợ cấp một lần, giải quyết chỗ ở cho cán bộ vùng xuôi lên công tác tại vùng cao góp phần chủ động, điều hoà nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách Tư pháp trong tình hình mới.

          Thực trạng công tác tuyển chọn, quản lý, sử dụng cán bộ tại các cơ quan Tư pháp trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

          1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, Kinh tế - xã hội tỉnh Hà Giang.

          a) Điều kiện tự nhiên:   

          Hà Giang là tỉnh vùng cao biên giới cực bắc tổ quốc, được tái lập sau chia tách từ tỉnh Hà Tuyên (năm 1991).. Hà Giang có 11 đơn vị hành chính, do đặc điểm tự nhiên, địa hình tỉnh Hà Giang hình thành 03 vùng: Vùng cao núi đá phía Bắc gồm các huyện (Quản Bạ. Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc); Vùng cao núi đất gồm các huyện (Hoàng Su Phì, Xín Mần, Bắc Mê); Vùng thấp gồm (Thị xã Hà Giang và các huyện Vị Xuyên, Bắc Quang và Quang Bình).

          Tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là: 792,312 ha. Trong đó đất đang dùng cho sản xuất nông nghiệp là: 147.939,06 ha, đất lâm nghiệp: 375,723 ha, đất nuôi trồng thuỷ sản: 996,33ha, đất chưa sử dụng; 245,442,91 ha.

          Là tỉnh cực bắc, Hà Giang có điều kiện khí hậu đa dạng: Vùng cao núi đá có biên độ nhiệt giữa hai mùa lớn, địa hình núi đá của cao nguyên Đồng Văn tạo ra những tiểu vùng khí hậu bán ôn đới phù hợp với sự phát triển cây ăn quả đặc sản, rau, hoa chất lượng cao, có giá trị kinh tế.

          Nhìn chung tiềm năng về khí hậu, vị trí và đất đai của Hà Giang là rất lớn, song việc quản lý và sử dụng chưa phát huy, khai thác đựơc nhiều các tiềm năng lợi thế. Bởi vậy, đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang cần có những biện pháp chuyển đổi cơ cấu kinh tế thích hợp để đạt được những lợi ích phục vụ phát triển Kinh tế - xã hội.

          b) Tổng quan tình hình Kinh tế - Xã hội:

          Dân số Hà Giang (Theo số liệu niên giám thống kê 2005) là: 679.175 người, sơ bộ tính năm 2006 là: 689.446 người. Cơ cấu dân tộc gồm 23 dân tộc trong đó chủ yếu là người dân tộc Mông chiếm 31,5%, Tày chiếm 26,6%, Dao chiếm 15,4%, người Kinh chiếm 12,2%... Tổng số lao động toàn tỉnh là: 48% dân số, trong đó lao động thành thị chiếm 8,2%, lao động khu vục nông thôn 72,8% và một phần lao động ngoài tỉnh. Trong cơ cấu lao động, lao động trong nông lâm nghiệp chiếm 93,17%, lao động ngành công nghiệp chỉ chiếm 1,42%. Lực lượng lao động dồi dào, nhưng trình độ thấp (Chủ yếu là lao động trong sản xuất nông lâm nghiệp, chưa được đào tạo). Theo thống kê chưa đầy đủ thì toàn tỉnh có 6.000 cán bộ có trình độ từ Cao đẳng, Đại học trở lên (Chiếm tỷ lệ gần 1/100 dân) là con số rất thấp so với các tỉnh lân cận và đồng bằng nên chưa đáp ứng được nhu cầu về lực lượng sản xuất để phát triển kinh tế.

          Giao thông chủ yếu là đường bộ, tuyến giao thông huyết mạch nối liền Hà Giang với các tỉnh miền xuôi và Hà Nội duy nhất là quốc lộ số 2. Trong những năm qua, hệ thống giao thông của tỉnh đã được đầu tư nâng cấp nên đi lại khá thuận lợi. Đường từ tỉnh đến các huyện lỵ đã được trải nhựa, nhờ chính sách hỗ trợ và vận động nhân dân đống góp công lao động, đến năm 2005, trong 195 xã, phường và thị trấn có 100% số xã đã có đường ô tô bề rộng 2 -> 2,5m , trong đó có 93 xã đã được trải nhựa. Đường liên thôn, liên xã phần lớn ở những huyện vùng thấp đã được bê tông hoá, ở các xã vùng cao đã được trải cấp phối.

          Cơ sở hạ tầng đã được đầu tư tương đối khá qua chương trình 135 của Chính phủ. Khoảng 50% trụ sở xã và trường học, trạm y tế xã đã được xây dựng. Số xã, phường sử dụng điện lưới quốc gia là 184/195 xã. 100% xã phường đã được trang bị máy điện thoại. Mạng điện thoại di động đã phủ sóng tới tất cả 11 huyện thị trong tỉnh (năm 2005). Số máy điện thoại trên địa bàn tỉnh tính đến 31/12/2005 là 32.149 cái. Trên 85% diện tích dân cư được phủ sóng truyền hình và 96% được phủ sóng phát thanh.

          Đã có 11/11 huyện, thị hoàn thành xoá mù chữ - phổ cập giáo dục tiểu học. Trong đó có 178 xã, phường đã hoàn thành phổ cập THCS. Toàn tỉnh có 208 cơ sở y tế, 1.650 giường bệnh, số cán bộ y tế ngành y là 1.964 người.

          Năm 2005, tổng sản phẩm trong tỉnh (theo gia hiện hành) đạt 2.120,260 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng 5 năm qua (2001-2005) bình quân đạt trên 10% (năm 2005 đạt 10,71%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực:

          + Nông lâm nghiệp và thuỷ sản:           42,01%. Giảm 8,11%.

          + Công nghiệp và xây dựng:                23,10%. Tăng 2,66%.

          + Thương mại và dịch vụ:                              34,89%. Tăng 5,45%.

          Hà Giang trong nhữnh năm qua đã có nhiều cố gắng trong phát triển Kinh tế - xã hội. Thu nhập bình quân đầu người tăng 1,9 lần so với năm 2000. các chỉ tiêu kinh tế đã được cải thiện và tăng trưởng đúng hướng, đều đạt và vượt so với Nghị quyết đề ra

MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ - XÃ HỘI CHỦ YẾU

CỦA TỈNH HÀ GIANG 2005.

STT

Chỉ tiêu

Đơn vị

Năm 2005

1.        

Tổng sản phẩm bình quân đầu người

tr.đ

3,2

2.        

Tổng sản lượng lương thực có hạt/ người

kg

367

 

Trong đó :  Thóc

kg

230

3.        

Giá trị sản xuất ngành công nghiệp

tỷ đồng

369

4.        

Giá trị sản xuất ngành thương mại, dịch vụ

tỷ đồng

306,511

5.        

Tổng mức bán lẻ hàng hoá,dịch vụ, thị trường xã hội/người

1.000đ

1.470

6.        

Số học sinh PT bình quân/ vạn dân

học sinh

2.231

7.        

Số y sĩ kỹ thuật viên, bách sĩ/ vạn dân

người

27,17

 

Trong đó : Bác sĩ/ vạn dân

người

4,69

8.        

Số máy điện thoại/ vạn dân

cái

477,4

9.        

Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách nhà nước

%

11,6

10.    

Số học sinh phổ thông

h/s

150.225

11.    

Số xã,phường được công nhận phổ cập THCS

178

12.    

Tốc độ tăng trưởng TSP (So với năm 2004)

%

10,71

          Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được trong phát triển Kinh tế - xã hội tỉnh Hà Giang giai đoạn vừa qua, cũng còn bộc lộ những hạn chế:

          - Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, tăng trưởng nội lực chưa cao. Kinh tế giữa các vùng phát triển chưa đồng đều, chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế. Sản xuất hàng hoá còn nhỏ lẻ, tự phát, thiếu quy hoạch. Phân bố và sử dụng các nguồn lực còn có mặt chưa hợp lý. Hiệu quả đầu tư có chỗ chưa cao, chưa tập trung thoả đáng. Chưa tạo được bước phát triển mạnh và bền vững từ những lợi thế vốn có. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Tỷ lệ đói nghèo còn cao.

          - Công nghiệp xây dựng phát triển chưa vững chắc, các cơ sở công nghiệp quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, sản phẩm chủ yếu là sơ chế, sức cạnh tranh thấp, sản xuất còn gây ô nhiễm môi trường.

          - Thương mại du lịch chậm được đầu tư khai thác, thực hiện thiếu quy hoạch, xúc tiến thương mại, kêu gọi các nguồn lực đầu tư còn hạn chế.

          - Việc vận dụng các chính sách vĩ mô vào thực tiễn có lúc, có nơi, có việc còn thiếu linh hoạt. Nhiều vấn đề nảy sinh trong cuộc sống thực tiễn sản xuất đời sống chưa được giải quyết kịp thời, hiệu quả chưa cao. Công tác quy hoạch chậm và thiếu đồng bộ, chưa tính đủ các nguồn lực để tổ chức thực hiện. Hạ tầng cơ sở còn hạn chế. Các thành phần kinh tế hoạt động còn gặp nhiều khó khăn, hiệu quả không cao. Điều này chứng tổ vai trò và hiệu quả của các cơ quan hành chính nhà nước chưa đáp ứng được nhu cầu, tốc độ của phát triển kinh tế địa phương và khu vực.

(Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XIV - 2006)

          Trong kế hoạch phát triển Kinh tế - xã hội giai đoạn 2006- 2010 và năm 2007, cùng với việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống cần tập trung đẩy mạnh cải cách các hoạt động dịch vụ hành chính công tại các cơ quan quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh, tạo điều kiện kêu gọi khuyến khích đầu tư phát triển và huy động nguồn lực địa phương, tạo bước chuyển dịch mạnh cơ cấu khinh tế phục vụ phát triển Kinh tế - xã hội địa phương. Vì vậy, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Hà Giang đã xác định: "Nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh trong năm 2007 là tập trung thực hiện cải cách hành chính, coi đây là bước đột phá, là chủ đề của chương trình hành động của các cơ quan quản lý nhà nước ở Hà Giang".

          2. Sở Tư pháp tỉnh Hà Giang:

          Sở Tư pháp Hà Giang được thành lập sau chia tách từ tỉnh Hà Tuyên từ năm 1991 đến nay. Chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức được quy định tại  Thông tư số: 04/2005/ TTLT-TP-NV ngày 05/5/2005 của Liên bộ Tư pháp và bộ Nội Vụ.

          a) Vị trí và chức năng:

          Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Sau đây gội chung là UBND cấp tỉnh), tham mưu, giúp UBND cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, công chứng, chứng thực, hộ tịch, quốc tịch, con nuôi có yếu tố nước ngoài, lý lịch tư pháp, luật sư, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, giám định tư pháp, hoà giải ở cơ sở, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại và công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật; thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực công tác Tư pháp theo sự uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

          Sở Tư pháp chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Tư pháp.

          b) Nhiệm vụ và quyền hạn:

          Trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chương trình, kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm về lĩnh vực quản lý của sở phù hợp với  quy hoạch tổng thể phát triển Kinh tế- xã hội của địa phương và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch đó sau khi được phê duyệt:

          * Về công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật:

          - Phối hợp với Văn phòng Uỷ ban cấp tỉnh trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt, điều chỉnh chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;

          - Trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành các quyết định, chỉ thị về quản lý công tác Tư pháp ở địa phương theo quy định của pháp luật và phân cấp của Chính phủ;

          - Tham gia soạn thảo các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan khác của Uỷ ban nhân dân chủ trì soạn thảo theo sự phân công của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;

          - Thẩm định và chịu trách nhiệm trước Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về nội dung thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành theo quy định của pháp luật;

          - Tổ chức thực hiện việc rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;

          - Tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các dự án, dự thảo văn bản về quy phạm pháp luật theo sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ tư pháp;

          * Về kiểm tra văn bản  quy phạm pháp luật:

          - Giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tự kiểm tra văn bản do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành ;

          - Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện; hướng dẫn Uỷ ban nhân dân cấp huyện kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã theo quy định của pháp luật;

          - Trình chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định các biện pháp xử lý văn bản trái pháp luật theo quy định của pháp luật

          * Về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật :

           - Xây dựng, trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật dài hạn, hàng năm ở địa phương; tổ chức thực hiện kế hoạch đó sau khi được phê duyệt;

          -Làm thường trực Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cấp tỉnh:

          -Biên soạn, phát hành các tài liệu phục vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa phương theo sự phân công của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;

          - Thống kê và tổ chức các hoạt động xây dựng đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở địa phương;

          - Hướng dẫn, kiểm tra việc xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật ở xã, phường thị trấn và các cơ quan, đơn vị khác của địa phương theo quy định của pháp luật;

          - Chủ trì, phối hợp với Sở Văn hoá - thông tin giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hướng dẫn việc xây dựng hương ước, quy ước của thôn, làng, ấp, bản, cụm dân cư phù hợp với quy định của pháp luật và thực tế ở địa phương;

          - Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ đối với công tác pháp chế của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Doanh nghiệp nhà nước của địa phương;

          - Hướng dẫn, kiểm tra công tác hoà giải ở cơ sở trong phạm vi địa phương theo quy định của pháp luật;

          - Quản lý nhà nước về tổ chức, hoạt động công chứng của phòng công chứng thuộc Sở theo quy định của pháp luật; hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn nghiệp vụ về chứng thực của Uỷ ban nhân dân  cấp huyện, cấp xã trong phạm vi địa phương;

          - Giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác Thi hành án dân sự trong phạm vi địa phương theo quy định của pháp luật; thực hiện một số nhiệm vụ về quản lý tổ chức, cán bộ của cơ quan Thi hành án dân sự ở địa phương theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp;

          * Về công tác quản lý Hộ tịch, quốc tịch, con nuôi có yếu tố nước ngoài và lý lịch tư pháp:

          + Hướng dẫn, kiểm tra công tác đăng ký và quản lý hộ tịch ở địa phương.

          + Chịu trách nhiệm giải quyết các công việc về hộ tịch, quốc tịch, con nuôi có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật và chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

          + Cấp phiếu lý lịch tư pháp và chịu trách nhiệm về việc cập nhật nội dung phiếu lý lịch tư pháp theo quy định của pháp luật.

          * Về công tác quản lý luật sư và hoạt động tư vấn pháp luật:

          - Trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho phép thành lập, tổ chức lại, giải thể Đoàn Luật sư;

          - Cấp, thu hồi giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng Luật sư, công ty luật hợp danh, chi nhánh Văn phòng Luật sư, chi nhánh công ty luật hợp danh, trung tâm tư vấn pháp luật; Giấy chứng nhận tư vấn viên pháp luật theo quy định của pháp luật;

          - Thực hiện đăng ký hoạt động, đăng ký thay đổi nội dung giấy phép thành lập tổ chức hành nghề Luật sư nước ngoài tại Việt Nam; Đăng ký hoạt động của chi nhánh công ty Luật nước ngoài tại Việt Nam;

          - Cung cấp thông tin về việc đăng ký hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư của Việt Nam và tổ chức hành nghề Luật sư nước ngoài tại Việt Nam cho các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có yêu cầu theo quy định của pháp luật;

          - Theo dõi việc thuê luật sư nước ngoài, luật sư Việt Nam, việc hợp tác hành nghề, việc nhận luật sư tập sự Việt Nam của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam, việc thuê và hoạt động hành nghề của luật sư nước ngoài tại Văn phòng luật sư, công ty luật hợp danh Việt Nam;

          - Tổ chức bồi dưỡng kỹ năng tư vấn pháp luật cho các tư vấn viên pháp luật;

          - Giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh kiểm tra hoạt động của Đoàn Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư của Việt Nam, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam và trung tâm tư vấn pháp luật theo thẩm quyền;

          - Giúp Uỷ ban nhân dân  cấp tỉnh quản lý nhà nước và trực tiếp tổ chức một số hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách ở địa phương theo quy định của pháp luật;

          - Giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác giám định Tư pháp, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại trong phạm vi địa phương theo quy định của pháp luật;

          - Xây dựng, trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chương trình cải cách hành chính trong lĩnh vực Tư pháp và tổ chức thực hiện chương trình đó;

          - Thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật về lĩnh vực Tư pháp thuộc phạm vi quản lý của Sở; giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, lãng phí theo quy định của pháp luật hoặc phân công của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;

          - Thực hiện hợp tác Quốc tế về lĩnh vực Tư pháp thuộc phạm vi quản lý của Sở theo quy định của pháp luật, sự phân công hoặc uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;

          - Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ công nghệ, xây dựng hệ thống thông tin, lưu trữ phục vụ công tác quản lý nhà nước về Tư pháp;

          - Thực hiện công tác thông tin, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình thực hiện  nhiệm vụ trong các lĩnh vực công tác được giao theo quy định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tư pháp;

          - Quản lý về tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của Sở; Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác Tư pháp ở địa phương theo quy định của pháp luật;

          - Quản lý tài chính, tài sản của Sở theo quy định của pháp luật và phân cấp của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;

          - Thực hiện các nhiệm vụ khác do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao.

          c) Tổ chức, biên chế:

          Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ và điều kiện cụ thể của tỉnh, tổ chức và biên chế của Sở Tư pháp Hà Giang tính đến 31/12/2007 bao gồm các bộ phận cụ thể:

          - Ban giám đốc: (Giám đốc và 02 phó giám đốc)

          - Văn phòng:   (06 cán bộ)

          - Thanh tra: (02 cán bộ)

          - Phòng PBGDPL: (04 cán bộ)

          - Phòng XD - KT văn bản quy phạm pháp luật: (06 cán bộ)

          - Phòng Hộ tịch và Bổ trợ Tư pháp: (03 cán bộ)

          + Các đơn vị sự nghiệp:

          -  Phòng Công chứng số I: (06 cán bộ)

          - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước: (05 cán bộ)

          - Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản: (04 cán bộ)

TỔ CHỨC BỘ MÁY SỞ TƯ PHÁP HÀ GIANG

Phó giám đốc

Giám đốc

Phó giám đốc

 

Phòng công chứng số I

 

Phòng Hộ tịch và Bổ trợ Tư pháp

 

Trung tâm TGPL nhà nước

 

Văn phòng

 

Thanh tra

 

TT Dịch vụ bán đấu giá tài sản

 

Phòng PBGD pháp luật

 

Phòng XDKT Văn bản quy phạm pháp luật

 

 

Quan hệ giữa các phòng, đơn vị

 

 

         

 

 

 

Với tổng số 40 cán bộ công chức, trong đó có 29 trình độ từ Cao đẳng, Đại học, Sở Tư pháp Hà Giang có điều kiện về nhân lực tương đối tốt để thực hiện chức năng, nhiệm vụ cấp trên giao.

CƠ SỞ VẬT CHẤT, TRANG THIẾT BỊ

          Được sự quan tâm của Tỉnh và Bộ Tư pháp về cơ bản Sở Tư pháp Hà Giang được đầu tư sửa chữa nâng cấp cơ sở vật chất khá khang trang; Các phòng làm việc đảm bảo diện tích, không gian, môi trường. Trang thiết bị thiết yếu phục vụ nghiệp vụ được trang bị tương đối đầy đủ: Toàn Sở Tư pháp Hà Giang hiện có 16 máy vi tính để bàn, 01 máy vi tính cá nhân, 01 máy quyét ảnh, mạng máy tính nội bộ kết nối Internet.

          Yêu cầu thực hiện công tác tuyển chọn, quản lý sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ công chức làm việc tại cơ quan Tư pháp trên địa bàn từng bước trong quá trình tin học hoá phục vụ cho công tác quản lý.

          Theo phân cấp của tỉnh tại Quyết định số: 3727/QĐ-UBND ngày 30/11/2001 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang và Quyết định số: 1148/2005/QĐ-BTP ngày 18/5/2005 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Quy chế uỷ quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thi hành án dân sự huyện quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Nội dung chính là:

          Tiếp nhận, tuyển dụng, điều động, bố trí phân công công tác, quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng kỷ luật, nghỉ hưu, nâng lương và thực hiện các chính sách khác đối với cán bộ công chức hành chính, sự nghiệp thuộc cơ quan được phân cấp quản lý bao gồm các chức danh sau:

          Trưởng phó phòng ban và công chức thuộc phạm vi quản lý, trưởng phó phòng... Người được tuyển dụng phải đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định của Pháp lệnh cán bộ công chức và phải qua thi tuyển hoặc xét tuyển do hội đồng xét tuyển của cơ quan đơn vị đề nghị.

          Kết quả công tác tuyển chọn sử dụng cán bộ Tư pháp ở đại phương:

          Biên chế được giao thuộc thẩm quyền:

          - Nhóm cán bộ công chức Sở Tư pháp: 40 cán bộ.

          - Nhóm cán bộ công chức cơ quan Thi hành án dân sự: 112 cán bộ.

                    Trong đó:

                              + Cấp tỉnh: 21 cán bộ.

                              + Cấp huyện: 91 cán bộ.

Hình I: Chất lượng cán bộ tại Văn phòng Sở Tư pháp Hà Giang

(Tổng số 40 cán bộ)

          Hình II: Chất lượng cán bộ tại Cơ quan Thi hành án Dân sự cấp tỉnh

(Tổng số 16 cán bộ)

          Hình III: Chất lượng cán bộ tại Cơ quan Thi hành án Dân sự cấp huyện

(Tổng số 81 cán bộ)

          Từ số liệu trên ta thấy trong tổng số 137 biên chế cơ quan Tư pháp và Thi hánh án dân sự có trình độ.

          Phân theo trình độ:

                    - Đại học: 76 cán bộ. Chiếm 55,47%.

                    - Cao đẳng: 07 cán bộ. Chiếm 5,10%.

                    - Trung cấp: 13 cán bộ. Chiếm 9,49%.

                    - Trình độ khác: 31 cán bộ. Chiếm 22,64%.

          Phân theo dân tộc:

                    - Dân tộc Kinh: 107 cán bộ. Chiếm 78,1%.

                    - Dân tộc ít người: 30 cán bộ. Chiếm 21,9%

                    Trong đó:

                              + Tày: 23 cán bộ. Chiếm 16,79%.

                              + Dao: 01 cán bộ. Chiếm 0,73%.

                              + Mông: 01 cán bộ. Chiếm 0,73%.

                              + Nùng: 03 cán bộ. Chiếm 2,19%.

                              + Cao lan: 01 cán bộ. Chiếm 0,73%.

                              + Sán rìu: 01 cán bộ. Chiếm 0,73%.

          Cán bộ phân theo trong và ngoài tỉnh:

                    - Cán bộ sinh ra và lớn lên tại Hà Giang chiếm 33,58%.

                    - Cán bộ tỉnh ngoài đến công tác tại Hà Giang chiếm 66,42%

          Phân loại cán bộ có chức danh Tư pháp và lãnh đạo trong tổng số 50 cán bộ trong ngành.

                    - Cán bộ là người địa phương: 12 cán bộ. Chiếm 24%.

                    Trong đó: 09 cán bộ chưa đáp ứng đủ trình độ đã được bổ nhiệm

                    - Cán bộ là người các tỉnh khác: 38 cán bộ. Chiếm 76%.

ĐÁNH GIÁ CHUNG

                    Thực hiện việc phân cấp và uỷ quyền của tỉnh cũng như của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Công tác tuyển chọn, quản lý sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ công chức làm việc tại cơ quan Tư pháp được thực hiện nghiêm túc. Đội ngũ cán bộ được bố trí hợp lý về cơ cấu và thực hiện đúng Pháp lệnh  cán bộ công chức, do đó đã có sự chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng; Trình độ năng lực luôn nâng cao, tinh thần trách nhiệm, sâu sát, chăm lo đến cơ sở, tận tuỵ với công việc, ý thức phục vụ nhân dân thể hiện rất rõ. Điều đó được thể hiện năng lực lãnh đạo của các cơ quan Tư pháp từ tỉnh đến huyện, các phòng chuyên môn và các đơn vị sự nghiệp đã phát huy tính chủ động đề xuất tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương sát đúng phù hợp với năng lực và trình độ quản lý của cơ sở.

          Công tác xây dựng, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật có nhiều tiến bộ đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, thu hút đầu tư, phục vụ du lịch, hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, sản xuất hàng hoá...; Công tác phổ biến giáo dục pháp luật có nhiều chuyển biến tích cực, có nhiều hình thức đa dạng phong phú góp phần thực hiện Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đảm bảo kịp thời có hiệu quả; Giải quyết, hoà giải tốt các vụ việc xẩy ra tại thôn bản, tổ dân phố; Công tác Thi hành án dân sự được tăng cường, ngoài thực hiện và tổ chức thi hành 100% các Bản án, Quyết định của Toà án đã có hiệu lực, đảm bảo thi hành đạt 80% về việc, 60-70% về tiền, tích cực tổ chức các đợt cao điểm giải quyết các án tồn đọng; Tích cực giải quyết các khiếu nại tố cáo trong Thi hành án Dân sự, góp phần lập lại trật tự kỷ cương, tạo lòng tin của nhân dân với cơ quan bảo vệ pháp luật, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

          Thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh các chính sách đối với cán bộ như nâng lương, đề bạt, bổ nhiệm, có vận dụng ưu tiên cán bộ người địa phương trong số người địa phương được bổ nhiệm chiếm 18% trong tổng số người địa phương được bổ nhiệm bằng 75% trong tổng số người địa phương được bổ nhiệm chưa đạt tiêu chuẩn.

          Về chuyên môn nghiệp vụ:

          Tuy nhiên, công tác cán bộ hiện nay cũng còn nhiều bất cập; Số cán bộ chưa đáp ứng về trình độ văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ, chính trị còn chiếm tỷ lệ cao, lề lối tác phong làm việc ở một số cán bộ chậm được đổi mới, phương pháp công tác còn hành chính, quan liêu, thiếu sâu sát cơ sở; Một số đồng chí cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, nhiệt tình công tác nhưng lại thiếu kinh nghiệm thực tiễn, phương pháp làm việc, chưa thực sự yên tâm công tác ở vùng cao, ngôn ngữ bất đồng... thực hiện quy định về tiêu chuẩn chức danh cán bộ chưa đạt tiêu chuẩn còn chiếm tỷ lệ cao (số này đã lớn tuổi). Tại Hà Giang thiếu nguồn cán bộ tại chỗ, do không có cơ hội và khả năng thi đỗ và các trường Đại học, công tác luân chuyển cán bộ khó thực hiện do cơ chế chính sách chưa phù hợp... do tâm lý cán bộ địa phương không muốn xa gia đình (kể cả tập huấn, đào tạo nâng cao trình độ).

          Nguyên nhân:

           Do kinh tế và điểm xuất phát của Hà Giang thấp chưa phát triển dẫn đến sự nghiệp giáo dục đào tạo không đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới hiện nay.

          Hà Giang là tỉnh vùng cao biên giới xa trung tâm văn hoá, chính trị nên học sinh bị hạn chế trong tiếp nhận thông tin, ít có cơ hội học lên nên tham gia công tác chính trị xã hội chiếm tỷ lệ thấp.

          Do lịch sử để lại, cộng với cách nhìn trong công tác quy hoạch đào tạo thiếu thực tiễn, không đồng bộ, toàn diện chưa có chiến lược về nguồn nhân lực nhất là cán bộ người địa phương.

          Sự đánh giá và quan tâm của các cấp uỷ và Chính quyền địa phương chưa được chú ý đúng mức, việc chăm lo cho sự nghiệp Giáo dục - y tế, văn hoá và phát triển kinh tế là đúng song chú ý tỷ lệ thích hợp với các sự nghiệp khác chưa được quan tâm thoả đáng, có lúc xem nhẹ dẫn đến hệ luỵ là mất cân đối giữa các ngành nhất là cơ quan bảo vệ pháp luật, giữa các dân tộc.

          Như phân tích trên người Mông chiếm 31,5% dân số song cán bộ người Mông trong cơ quan Tư pháp chỉ chiếm 0,73%; Tương tự người Tày 26,6% thì cán bộ chiếm 16,79%; người Dao 15,4% thì cán bộ chiếm 0,73%; Thể hiện sự mất cân đối nghiêm trọng. Trong khi người kinh chiếm 12,2% thì cán bộ chiếm tới 78,1%.

          Chế độ chính sách chưa thoả đáng, chưa thật sự thu hút cán bộ lên công tác vùng cao và chưa thật sự đáp ứng với yêu cầu công việc, thêm vào đó là nền kinh tế tự cung tự cấp, Trung ương lại giao phải tự túc 10% ngân sách nhưng phát triển kinh tế cao nhưng số thực tế rất thấp không đáp ứng các như cầu chi ngân sách dẫn đến một số chính sách của trên chưa được áp dụng triệt để, có lúc còn giảm một cách tuỳ tiện (như chế độ nâng lương sớm) đến nay ở Hà Giang chưa thực hiện, công tác luân chuyển cán bộ có làm ngưng không được thường xuyên, tỉnh chưa có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực toàn diện cho địa phương, tỉnh mới chú ý đến lĩnh vực kinh tế chưa chú ý đến lĩnh vực khác trong đó nhất là lĩnh vực Tư pháp - bảo vệ pháp luật, công tác bồi dưỡng đào tạo cán bộ mới chú ý đối với cấp tỉnh, cấp huyện mà chưa chú ý đến cấp xã, cấp cơ sở.

          Kinh tế chậm phát triển kéo theo thu nhập thấp thiếu nguồn tài chính trong thực hiện chế độ chính sách trong khi đó chưa thực hiện đầy đủ các chính sách hiện có có khi còn bị cắt giảm (nâng lương sớm, công tác phí, thi đua khen thưởng) vì thiếu nguồn tài chính...

          Đề xuất kiến nghị và giải pháp:

          Từ tình hình, thực thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp ở Hà Giang một tỉnh miền núi, biên giới đặc biệt khó khăn, thông qua công tác tuyển dụng, bố trí và sử dụng cán bộ. Xin được đề xuất một số khía cạnh của chính sách cán bộ để góp phần xây dựng chiến lược cán bộ Tư pháp từ năm 2008 - 2010 đến 2020.

          Chính sách cán bộ được xem là tập hợp những chủ trương và biện pháp về lợi ích vật chất và tinh thần trực tiếp tác động đến đội ngũ cán bộ bao gồm những nhóm chính sách như: Chính sách đào tạo, chính sách thu hút, chính sách sử dụng, chính sách lương bổng, khuyến khích vật chất, chăm sóc sức khoẻ, chính sách khen thưởng, chính sách hưu trí và các chính sách liên quan khác. Trong khuôn khổ của Báo cáo thực rạng công tác tuyển dụng, bố trí và sử dụng cán bộ xin đề xuất các nhóm chính sách cụ thể có liên quan:

          + Chính sách đào tạo:

          Như phân tích ở phần trên Hà Giang là tỉnh có nền kinh tế chậm phát triển, mang nặng tính tự túc, tự cấp, phân tán kéo theo các sự nghiệp giáo dục, y tế, chưa được đầu tư đúng mức. Vì vậy thập kỷ qua học sinh tham gia thi vào các trường Cao đẳng, Đại học chuyên nghiệp chiếm tỷ lệ thấp, việc mất cân đối trong ngành nghề, việc làm là tất nhiên; Để có cán bộ tại chỗ, công tác ổn định tại Hà Giang thì trước hết phải có chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ của địa phương để chủ động đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực tại chỗ mà không trông chờ nơi khác chi viện, thông qua chính sách thu hút, thực tế đã chứng minh từ năm 2000 đến nay mặc dù tỉnh có chính sách thu hút cán bộ lên công tác ở vùng cao thời gian ít nhất 5 năm chính sách hỗ trợ 36 tháng tiền lương tối thiểu, cán bộ có trình độ Tiến sỹ và tương đương tình nguyện lên công tác tại tỉnh được hỗ trợ một lần 10 triệu đồng, lên công tác tại các huyện vùng cao của tỉnh được hỗ trợ một lần 20 triệu đồng nhưng cũng không có cán bộ tình nguyện lên Hà Giang công tác. Mặt khác số cán bộ lên Hà Giang công tác sau 5 năm có kinh ngiệm thực tiễn có đủ các điều kiện khác thường xin chuyển vùng về xuôi hoặc sang lĩnh vực công tác khác có thu nhập và điều kiện làm việc tốt hơn. Nên chăng thông qua việc khảo sát thực tế nhu cầu cán bộ đến năm 2020 để có chính sách tuyển chọn học sinh từ các trường nội trú đã tốt nghiệp phổ thông trung học, cho đi đào tạo tại các trường Đại học, Cao đẳng thông qua hình thức cử tuyển nếu số lượng ít. Liên kết đào tạo nếu số lượng nhiều từ 60 - 80 cán bộ/ một ngành như vậy với chính sách hỗ trợ 36 tháng tiền lương tối thiểu tương đương 3 năm cộng với đóng góp của người học với 24 tháng tiền lương cơ bản thì sau 5 năm đế năm 2012 Hà Giang sẽ có một đội ngũ cán bộ chuẩn về chuyên môn, lại là người địa phương, ổn định lâu dài. Khắc phục tình trạng "ăn đong" bị động về nguồn nhân lực như hiện nay lại đảm bảo cơ cấu dân tộc theo vùng địa phương.

          + Khuyến khích vật chất khác.

          Đi đôi với chính sách đào tạo và chính sách thu hút tỉnh cần giành một khoản ngân sách thông qua quỹ đất, hoặc quỹ nhà ở công vụ ở các huyện vùng cao để hỗ trợ cho cán bộ lên công tác có chỗ ở trước mắt và quỹ đất về lâu dài để cán bộ làm nhà ở khi có điều kiện. Nhằm tạo môi trường thân thiện và gắn bó với nơi họ công tác và ổn định đời sống khi tìm được mái ấm gia đình góp phần yên tâm công tác lâu dài tại vùng cao biên giới.

          Cần có nghiên cứu đầy đủ toàn diện cơ cấu cán bộ trong từng cơ quan để có chính sách phù hợp từ việc đào tạo, sử dụng, luân chuyển cán bộ đến chính sách tiền thưởng. Như chúng ta thường nói câu cửa miệng là "thừa thày, thiếu thợ"  nhưng không một ai nêu biện pháp làm thế nào để có thợ, có thày chất lượng, tỷ lệ thày, thợ là bao nhiêu ? Cũng như vậy trong một cơ quan cần quy định rõ cán bộ lãnh đạo quản lý là bao nhiêu, chuyên môn nghiệp vụ theo tỷ lệ thích hợp cử nhân bao nhiêu, cán sự bao nhiêu, nhân viên khác là bao nhiêu, nhiều khi vì sính bằng cấp mà chúng ta chú ý đào tạo cử nhân cao học tràn lan mà không chú ý tới cán bộ, nhân viên tác nghiệp nghiệp vụ thể nên có nơi có lúc đã có một đánh giá "Cán bộ đông không mạnh", "cán bộ vừa thiếu, vừa thừa" chưa ai lý giải thiếu cái gì chỗ nào? thừa ở đâu với ai?... Đặc biệt là chúng ta bỏ trống địa bàn xã, thôn bản trong vài thập kỷ qua.

          Thiết nghĩ, đã đến lúc và đủ thời gian trải nghiệm để chúng ta xây dựng chính sách cán bộ một cách toàn diện để có được một đội ngũ cán bộ mẫn cán có trình độ lý luận thực tiễn đáp ứng yêu cầu hội nhập, mở cửa như hiện nay.

          Chính sách cán bộ là một vấn đề lớn. Đối với nước ta và đặc biệt là vùng cao vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn như hiện nay, chính sách cán bộ, nhất là các chính sách liên quan đến lợi ích vật chất có vị trí quan trọng hàng đầu, không xem nhẹ động lực tinh thần, công tác giáo dụng chính trị tư tưởng cùng các phong trào thi đua. Sự phân phối lợi ích vật chất một cách công khai, công bằng xứng đáng với cống hiến theo nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội cũng là một động lực tinh thần rất lớn.

          Vì vậy ngoài các chính sách phục vụ trực tiếp cho bản thân người lao động, các cơ quan đơn vị còn chăm lo tạo mọi điều kiện không chỉ bản thân họ mà con em họ gia đình họ thực chất có quan tâm đến con cái, cha mẹ người lao động đã tác động tinh thần rất lớn mà không thể có nguồn vật chất nào có thể sánh nổi đã giúp người lao động hăng say lao động sáng tạo, yên tâm gắn bó với nghề, với cơ quan, đơn vị góp phần xây dựng cơ quan đoàn kết trong sạch vững mạnh./.


Chuyên đề 9

CÔNG TÁC TUYỂN CHỌN, QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VÀ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

  

                                     Nguyễn Văn Lực

Cục Trưởng Cục Thi hành án dân sự  thành phố Hồ Chí Minh

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ngày 14/01/2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự, sau đó, các cơ quan chức năng như Chính phủ, liên tịch Bộ Tài chính – Bộ Tư pháp… cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành với nhiều nội dung mới thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt động thi hành án dân sự nói chung và cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác thi hành án dân sự nói riêng. Qua thực tiễn thực hiện từ năm 2004 đến nay, Pháp lệnh thi hành án và các văn bản hướng dẫn thi hành đã giải quyết nhiều vấn đề của các cơ quan Thi hành án, cả về chuyên môn lẫn tổ chức bộ máy. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật thi hành án dân sự vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, nhiều quy định còn bất cập, vướng mắc, cơ chế thu hút chưa thực sự phát huy tác dụng, chế độ chính sách chưa đảm bảo nên công tác tuyển chọn, quản lý, sử dụng cán bộ, công chức làm việc cho các cơ quan Thi hành án dân sự tại TP.Hồ Chí Minh còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến kết quả thi hành án nói chung và chất lượng cán bộ thi hành án nói riêng.

Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về “nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về “chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị đã xác định: công tác cán bộ là khâu then chốt trong chiến lược cải cách tư pháp, với nhiệm vụ quan trọng là phải “nâng cao tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức và nghề nghiệp chuyên môn của các cán bộ tư pháp… xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh”.

 Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác tuyển chọn, quản lý, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự tại TP. Hồ Chí Minh, việc đưa ra các giải pháp sẽ tạo điều kiện  thuận lợi cho hoạt động thi hành án dân sự của thành phố nói riêng và của cả nước nói chung ngày càng có hiệu quả và đi vào chiều sâu.

CHƯƠNG I

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TUYỂN CHỌN, QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VÀ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

Thành phố Hồ Chí Minh là một Thành phố lớn với diện tích tự nhiên 2.095 km2, dân số gần 7 triệu người (theo số liệu của Cục Thống kê Thành phố năm 2007), đơn vị hành chính gồm 19 quận và 5 huyện, là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội lớn nhất của cả nước. Do vậy, các hoạt động thi hành án tại Tp.Hồ Chí Minh rất đa dạng và phức tạp. Đảng bộ, các cấp chính quyền Thành phố và Bộ Tư pháp đã có sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời, có nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ riêng nhằm góp phần tạo điều kiện xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Thi hành án ngày càng đủ về số lượng và nâng cao về chất lượng, thực hiện mục tiêu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Các quy định pháp luật hiện hành và chính sách của Thành phố thời gian qua đã phát huy hiệu quả, là cơ sở quan trọng tạo điều kiện cho các cơ quan Thi hành án dân sự tại Thành phố hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, công tác tuyển chọn, quản lý, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức làm việc tại các cơ quan Thi hành án dân sự trên địa bàn Thành phố hiện nay còn có nhiều vấn đề cần nghiên cứu thêm để có hướng hoàn thiện.

I. Tình hình tổ chức và hoạt động các cơ quan thi hành án dân sự tại TP. Hồ Chí Minh.

Trải qua quá trình hình thành và phát triển từ năm 1993, khi được tách khỏi bộ máy Tòa án nhân dân các cấp, các cơ quan Thi hành án dân sự Thành phố đã không ngừng lớn mạnh, từ 88 cán bộ của 19 đơn vị (Thành phố và 18 quận, huyện) được chuyển giao, đến nay đã có 447 cán bộ của 25 đơn vị (Thành phố và 24 quận, huyện), với cơ cấu tổ chức ngày càng hoàn thiện.

1. Về tổ chức, bộ máy, biên chế.

1.1. Thi hành án dân sự TP. Hồ Chí Minh.

Biên chế được giao: 80; biên chế thực hiện: 72, trong đó có 26 Chấp hành viên cấp Thành phố, 32 cán bộ nghiệp vụ (chuyên viên, cán sự) và các chức danh khác (như kế toán, văn thư, thủ quỹ, thu kho, lái xe…).

- Về cơ cấu tổ chức:

+ Ban lãnh đạo: 5/5 (Trưởng Thi hành án - đang tạm đình chỉ công tác, Quyền Trưởng Thi hành án và 03 Phó Trưởng Thi hành án).

+ 05 Phòng chuyên môn, gồm:

·        Phòng Hành chính, tổng hợp: 12/12 biên chế.

·        Phòng Tổ chức, thi đua khen thưởng: 2/5 biên chế.

·        Phòng Kế toán, tài vụ: 8/11 biên chế.

·        Phòng nghiệp vụ, tổ chức thi hành án dân sự: 35/37 biên chế.

·        Phòng kiểm tra, giải quyết khiếu nại - tố cáo: 10/10 biên chế.

- Về trình độ:

+ Trình độ chuyên môn:

·        Trên đại học: 01 (chiếm tỷ lệ 1,39%).

·        Đại học: 65 (đại học Luật và đại học khác), chiếm tỷ lệ 90,3 %.

·        Cao đẳng, trung cấp: 03 (chiếm tỷ lệ 4,2%).

+ Trình độ lý luận chính trị: khoảng 53,85% Chấp hành viên có trình độ cao cấp và cử nhân (kể cả đang học).

+ Trình độ tin học: phần lớn cán bộ, công chức đều sử dụng các chương trình tin học văn phòng.

1.2. Thi hành án dân sự 24 quận, huyện.

Biên chế được giao: 435; biên chế thực hiện: 375, trong đó có 147 Chấp hành viên, 151 cán bộ nghiệp vụ và các chức danh khác (như kế toán, văn thư, thủ quỹ, thu kho, lái xe…).

- Về cơ cấu tổ chức:

Trưởng Thi hành án, 20 Phó trưởng Thi hành án, các Chấp hành viên, cán bộ nghiệp vụ (chuyên viên, cán sự) và các chức danh khác.

- Về trình độ:

+ Trình độ chuyên môn:

·        Trên Đại học: 07 (chiếm tỷ lệ 1,87%).

·        Đại học: 323 (đại học Luật và đại học khác), chiếm tỷ lệ 86,13%.

·        Cao đẳng, trung cấp: 42 (chủ yếu là cán bộ làm công tác kế toán, thủ quỹ, văn thư, lưu trữ), chiếm tỷ lệ 11,2%.

+ Trình độ lý luận chính trị: khoảng 30% Chấp hành viên có trình độ Cao cấp và cử nhân (kể cả đang học).

+ Trình độ tin học: phần lớn cán bộ, công chức đều sử dụng các chương trình tin học văn phòng.

2. Về kết quả hoạt động.

Theo số liệu thống kê 03 năm gần đây (2005 - 2007), kết quả thực hiện cụ thể như sau:

2.1. Kết quả thực hiện năm 2005.

          Kết quả về việc:

          - Tổng số việc phải thi hành: 89.920 việc (tăng 2.088 việc so với năm 2004), trong đó số việc thụ lý mới là 34.698 việc (tăng 1.844 việc so với năm 2004).

          - Số việc có điều kiện thi hành: 52.296 việc, trong đó:

             + Số việc đã giải quyết là: 35.229 việc, so với số việc có điều kiện thi hành là 52.738 việc, đạt tỷ lệ 66,8%.

             + Số việc thi hành xong hoàn toàn là 28.677 việc, so với án có điều kiện thi hành đạt tỷ lệ 54,3 %.

Kết quả về tiền:

          - Tổng số tiền phải thu là: 12.383.654.230 đồng.

          - Số tiền có điều kiện giải quyết là: 1.418.950.374.000 đồng, trong đó:

             + Đã giải quyết do đình chỉ, ủy thác, trả đơn: 311.853.370.000 đồng.

             + Số tiền thực thu là: 526.891.396.000 đồng (đạt tỷ lệ 25,7% trên số tiền có điều kiện thi hành).

Kết quả về hiện vật: 94.676.802.000 đồng.

2.2. Kết quả thực hiện năm 2006.

          Kết quả về việc:

          - Tổng số việc phải thi hành là: 93.097 việc (tăng 3.177 việc so với năm 2005), trong đó số việc thụ lý mới là 38.406 việc (tăng 3.708 việc so với năm 2005).

          - Số việc có điều kiện thi hành là: 54.749 việc, trong đó:

             + Số việc đã giải quyết là: 38.767 việc, so với số việc có điều kiện thi hành là 54.749 việc, đạt tỷ lệ 70,8%.

             + Số việc thi hành xong hoàn toàn là 30.870 việc, so với án có điều kiện thi hành đạt tỷ lệ 56,38%.

Kết quả về tiền:

          - Tổng số tiền phải thu là: 12.322.451.661.000 đồng.

          - Số tiền có điều kiện giải quyết là: 224.147.345.000 đồng, trong đó:

             + Đã giải quyết do đình chỉ, ủy thác, trả đơn: 407.573.621.000 đồng.

             + Số tiền thực thu là: 672.184.873.000 đồng (đạt tỷ lệ 30,39% trên số tiền có điều kiện thi hành).

Kết quả về hiện vật: 90..209.354.000 đồng.

2.3. Kết quả thực hiện năm 2007.

          Kết quả về việc:

          - Tổng số việc phải thi hành là: 95.596 việc (tăng 2.199 việc so với năm 2006), trong đó số việc thụ lý mới là 42.022 việc (tăng 3.616 việc so với năm 2006).

          - Số việc có điều kiện thi hành là: 53.076 việc, gồm có:

             + Số việc đã giải quyết là: 40.008 việc, so với số việc có điều kiện thi hành là 53.076 việc, đạt tỷ lệ 75,38 %.

             + Số việc thi hành xong hoàn toàn là: 36.113 việc, so với án có điều kiện thi hành đạt tỷ lệ 68,04 %.

Kết quả về tiền:

          - Tổng số tiền phải thu là: 11.034.649.181.000 đồng.

          - Số tiền có điều kiện giải quyết là: 2.389.929.963.000 đồng, trong đó:

             + Đã giải quyết do đình chỉ, ủy thác, trả đơn: 391.311.346.000 đồng.

             + Số tiền thực thu là: 601.096.376.000 đồng (đạt tỷ lệ 49,7 % trên số tiền có điều kiện thi hành).

Kết quả về hiện vật: 398.561.910.000 đồng.

II. Tình hình và kết quả thực hiện công tác tuyển chọn, quản lý, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với công chức thi hành án dân sự tại TP. Hồ Chí Minh.

1. Về công tác tuyển chọn công chức.

1.1. Về thi tuyển công chức.

Tuyển dụng là khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định chất lượng cán bộ, từ đó có ảnh hưởng lớn đến chất lượng và hiệu quả công tác chuyên môn. Công tác tuyển dụng được thực hiện theo Nghị định 117/2003/NĐ-CP và Quyết định số 10/2006/QĐ-BNV ngày 05/10/2006 (thay thế Quyết định 466/1998/QĐ-TCCP-BCTL ngày 05/9/1998 của Bộ trưởng - Trưởng Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ). Để tuyển dụng hết số biên chế được giao, bổ sung cán bộ cho các đơn vị, Sở Tư pháp đã thực hiện nhiều biện pháp như:

- Tổ chức thi tuyển công khai.

Hàng năm, Sở Tư pháp đều xây dựng kế hoạch và tổ chức thi tuyển công chức. Thông báo tuyển dụng được đăng trên Website của Sở Tư pháp, các Báo, phổ biến tại các Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Đại học Kinh tế, Trung cấp Văn thư lưu trữ TW II…

- Tổ chức các buổi tiếp xúc với sinh viên năm cuối (nhất là sinh viên Luật) để nắm bắt nhu cầu lựa chọn việc làm, giới thiệu về tổ chức và hoạt động của cơ quan Thi hành án…

- Từ năm 2004, ngành được Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh cho triển khai thực hiện Đề án "cho cơ quan Thi hành án thành phố Hồ Chí Minh thực hiện tuyển dụng công chức có hộ khẩu tạm trú dài hạn tại thành phố Hồ Chí Minh (KT3) và hộ khẩu ngoài thành phố Hồ Chí Minh” và Đề án “Sử dụng sinh viên theo hợp đồng lao động trong công tác tống đạt các Quyết định về thi hành án và Giấy báo, Giấy mời”.

Từ năm 2005 đến nay, Sở Tư pháp đã tổ chức 05 kỳ tuyển dụng công chức, trong đó có 01 kỳ tuyển dụng ngạch văn thư, thủ quỹ theo hình thức xét tuyển, 01 kỳ thi tuyển ngạch kế toán, thủ quỹ, còn lại là thi tuyển ngạch chuyên viên, cụ thể như sau:

 

Năm

Kỳ thi

TS

đăng ký

TS dự thi

Kết quả đạt yêu cầu

Số lượng cần tuyển dụng

Số lượng nhận công tác

2005

Chuyên viên

118

87

72

 

72

Văn thư, thủ quỹ

62

56

50

24

19

2006

Chuyên viên

81

 

60

26

44

22

Kế toán, thủ quỹ

34

29

26

19

19

2007

Chuyên viên

83

 

72

48

64

Đang làm thủ tục tiếp nhận

1.2. Về tiếp nhận công chức.

Đây là nguồn bổ sung cán bộ có trình độ, có kinh nghiệm thực tiễn và đã quen với áp lực, môi trường công tác thi hành án, có thể  xử lý hồ sơ thi hành án ngay, không qua thời gian học việc. Với những ưu thế của một thành phố lớn, những năm qua TP. Hồ Chí Minh đã tiếp nhận trên 20 cán bộ có trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, một số trường hợp là cán bộ quy hoạch của các địa phương khác về công tác tại các cơ quan Thi hành án. Kết quả công tác cho thấy, đội ngũ cán bộ này nhanh chóng tiếp cận với môi trường và áp lực làm việc tại TP.Hồ Chí Minh, phát huy năng lực và trưởng thành nhanh, nhiều cán bộ được bố trí những vị trí quan trọng, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo trong Thi hành án dân sự Thành phố và các quận, huyện.

2. Về công tác quản lý, sử dụng công chức.

2.1. Về bố trí, sử dụng cán bộ.

Bố trí, sử dụng cán bộ là một trong những nội dung quan trọng trong quản lý cán bộ. Bố trí, sử dụng cán bộ hợp lý, đúng năng lực sẽ giúp cán bộ đạt hiệu quả công tác cao nhất; bố trí, sử dụng sai không những không đem lại hiệu quả công tác mà còn tạo sự lãng phí lớn, làm cho cán bộ chán nản, dẫn đến nghỉ việc, chuyển công tác.

Việc bố trí, sử dụng cán bộ Thi hành án hiện nay được thực hiện theo tiêu chuẩn chức danh (Chấp hành viên, chuyên viên, kế toán, văn thư…), phân công, giao việc có xét đến những yêu cầu riêng của công tác thi hành án như phong cách, thái độ tiếp dân, khả năng tin học, ngoại ngữ… nên cơ bản đáp ứng yêu cầu công tác. Tuy nhiên, hiện nay, Thi hành án dân sự các quận, huyện chưa đủ các chức danh cần thiết như văn thư, lưu trữ, thủ quỹ, thủ kho, cán bộ tổng hợp nên còn tình trạng kiêm nhiệm. Do đó, lãnh đạo từng đơn vị căn cứ khối lượng công việc và năng lực, khả năng cán bộ mà bố trí kiêm nhiệm một số công việc, như kiêm nhiệm công tác làm báo cáo thống kê, tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo... Việc bố trí cán bộ làm công tác kiêm nhiệm đã ảnh hưởng ít nhiều đến khối lượng và chất lượng thực hiện nhiệm vụ chuyên môn chính.

Hoạt động thi hành án có đặc thù riêng, các Chấp hành viên đều có chuyên viên giúp việc nên hầu như ai cũng có trách nhiệm trong công tác bố trí, quản lý, sử dụng cán bộ, nhìn chung là tạo điều kiện phát huy năng lực cán bộ. Tuy nhiên, cũng còn một số ít trường hợp cán bộ sau khi được tuyển dụng chậm được bố trí công tác chuyên môn chính, chủ yếu vẫn làm công việc kiêm nhiệm, mặt khác cũng có trường hợp Chấp hành viên lại “khoán trắng” xử lý hồ sơ thi hành án cho chuyên viên… Những cách bố trí, sử dụng cán bộ như trên đều không đúng, hoặc gây lãng phí, hoặc gây quá tải cho chuyên viên.

2.2. Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được xem là một trong những biện pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thi hành án, đồng thời cũng là điều kiện thực hiện tốt công tác quản lý cán bộ, tạo nguồn quy hoạch cán bộ như điều động, luân chuyển, bổ nhiệm… Trong những năm qua, các cơ quan Thi hành án tại Tp.Hồ Chí Minh đã áp dụng một số hình thức đào tạo, bồi dưỡng cơ bản nhằm nâng cao trình độ cán bộ, công chức, nhất là công chức trẻ, như: cử cán bộ, công chức tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, chính trị, tin học, quản lý hành chính, kỹ năng nghiệp vụ; chủ động mở nhiều lớp tập huấn nghiệp vụ; tổ chức cho cán bộ chuyên môn nghiên cứu đề tài khoa học, chuyên đề liên quan đến các lĩnh vực tư pháp...

Mặc dù theo quy định phân cấp, việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức cơ quan Thi hành án dân sự Thành phố thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp, nhưng những năm qua cơ quan Thi hành án luôn nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của các cấp chính quyền Thành phố trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trừ việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án do Bộ Tư pháp tổ chức, các chương trình đào tạo khác (thạc sĩ luật, ngoại ngữ, tin học, quản lý nhà nước…), cán bộ công chức cơ quan Thi hành án dân sự đều được cử tham gia từ nguồn ngân sách của địa phương, nhờ đó góp phần nâng cao trình độ về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý Nhà nước, tin học, ngoại ngữ của cán bộ, công chức cơ quan Thi hành án, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, thực hiện quy hoạch cán bộ của cơ quan Thi hành án.

3. Về thực hiện chế độ chính sách.

3.1. Chính sách của Trung ương.

- Chế độ tiền lương: thực hiện theo Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ vế chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, trong đó ngạch Chấp hành viên quận, huyện cùng nhóm ngạch lương chuyên viên, có hệ số khởi điểm là 2,34; ngạch Chấp hành viên Thành phố cùng nhóm ngạch lương chuyên viên chính, có hệ số khởi điểm là 4,40 (mức chênh lệch 2,06).

- Chế độ phụ cấp: thực hiện theo Quyết định 233/2005/QĐ-TTg ngày 26/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với Chấp hành viên và công chứng viên, theo đó phụ cấp trách nhiệm của Chấp hành viên cấp huyện là 30%, Chấp hành viên cấp Thành phố là 25% lương và phụ cấp (nếu có).

- Các khoản được trích lại từ hoạt động chuyên môn: thực hiện theo Thông tư số 43/2006/TTLT-BTC-BTP ngày 19/5/2006 của liên Bộ Tài Chính, Bộ Nội vụ, theo đó các cơ quan Thi hành án được trích lại một số tiền phí thi hành án thu được để trang trải chi phí hỗ trợ cho việc thi hành án và thu phí (trong đó chi khen thưởng, phúc lợi cho cán bộ, công chức cơ quan Thi hành án và thu phí theo nguyên tắc bình quân một năm, một người tối đa không quá 3 (ba) tháng lương thực hiện nếu số thu năm nay cao hơn năm trước và bằng 2 (hai) tháng lương thực hiện nếu số thu năm nay thấp hơn hoặc bằng năm trước).

3.2. Chính sách của thành phố Hồ Chí Minh.

Theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, các cơ quan Thi hành án và cán bộ, công chức Thi hành án trực thuộc sự quản lý của Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động có sự gắn bó chặt chẽ với địa phương, từ các hoạt động chuyên môn (như hỗ trợ trong công tác xác minh, cưỡng chế huy động lực lượng) cho đến sinh hoạt Đảng, đoàn thể... Thực tế, các cơ quan Thi hành án đã giải quyết công việc của địa phương, góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, những năm qua các cơ quan Thi hành án luôn nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của UBND Thành phố và các quận, huyện như:

- Cán bộ, công chức Thi hành án được Ngân sách thành phố hỗ trợ 400.000 đồng/người/tháng (thực hiện Nghị quyết 20/2004/NQ-HĐ ngày 10/12/2004 của Hội đồng nhân dân thành phố áp dụng chế độ phụ cấp đối với cán bộ khối tư pháp).

- Một số quận, huyện tùy theo điều kiện kinh phí địa phương có hỗ trợ trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho cơ quan Thi hành án, hỗ trợ thêm cho cán bộ, công chức Thi hành án (như hỗ trợ từ 100.000 đồng - 200.000 đồng /tháng, tổ chức cho đoàn viên Công đoàn tham quan, du lịch, tổ chức bữa ăn trưa miễn phí, hỗ trợ trong các dịp Lễ, Tết…).

CHƯƠNG II

NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ

Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị lớn nhất của cả nước, là đầu mối tập trung, phát sinh nhiều hoạt động kinh tế mang tầm cỡ quốc tế và khu vực, đồng thời cũng là nơi các giao dịch dân sự phát triển đa dạng và phức tạp. Các yếu tố này có sự tác động, ảnh hưởng lớn đến hoạt động thi hành án. Quá trình phát triển, hoạt động thi hành án ngày càng đảm nhận nhiều nhiệm vụ nặng nề hơn, như thi hành các vụ việc về kinh tế, lao động, hành chính, các quyết định của trọng tài thương mại Việt Nam… Số lượng việc thi hành án nhiều, tính chất, mức độ thì ngày càng khó khăn, phức tạp, từ đó đã tạo cho cơ quan thi hành án Thành phố có những đặc điểm mang tính đặc thù, đó là:

          Thứ nhất, Tp.Hồ Chí Minh là địa phương điển hình về áp lực công việc, với số lượng việc thi hành án của Thành phố chiếm từ 1/5 đến 1/6, lượng tiền phải thi hành án chiếm trên 1/2 của cả nước. Số lượng biên chế được giao là 515 người (chiếm 1/7 của cả nước) chưa tương xứng với khối lượng công việc, từ đó tạo nên sự quá tải về công việc ở tất cả các cơ quan thi hành án tại Tp.Hồ Chí Minh. 

          Thứ hai, Tp.Hồ Chí Minh là địa phương điển hình tập trung nhiều vụ án lớn, phức tạp, có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều địa phương như vụ Tamexco, vụ Tân Trường Sanh, vụ Ngọc Thảo, vụ Năm Cam... Có những vụ việc số lượng người được thi hành án lên đến hàng trăm, hàng ngàn người; các vụ việc thi hành án đa dạng về tài sản như đất đai, nhà xưởng, cổ phiếu, máy móc thiết bị… mỗi dạng lại có những đặc thù, tính chất pháp lý khác nhau, thậm chí có vụ việc Chính phủ phải thành lập riêng Ban Chỉ đạo Thi hành án để chỉ đạo giải quyết, như vụ Epco – Minh Phụng do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng Ban Chỉ đạo.

Từ những nét đặc thù trên đòi hỏi các cơ quan Thi hành án Thành phố phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện, chủ động và mạnh dạn đưa ra các giải pháp mang tính đột phá tạo sự chuyển biến tích cực, từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại TP. Hồ Chí Minh.

I. Những thuận lợi trong công tác thi hành án dân sự tại Tp.Hồ Chí Minh.

1. Có sự chuyển biến về mặt thể chế, quy định pháp luật.

- Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới ” và Nghị quyết 49-NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã đặt nền tảng cơ bản cho những chuyển biến tích cực của các cơ quan tư pháp nói chung và cơ quan Thi hành án dân sự Thành phố nói riêng. Trên cơ sở chỉ đạo từ Trung ương, hoạt động thi hành án đã nhận được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp. Sự chuyển biến từ nhận thức, quy định pháp luật thi hành án, chế độ chính sách cho đến sự hỗ trợ về cơ sở vật chất, trụ sở, trang thiết bị làm việc… đã tạo ra sự biến đổi tích cực về nhiều mặt cho cơ quan Thi hành án dân sự Thành phố.  

- Quy định pháp luật liên quan đến hoạt động thi hành án ngày càng hoàn thiện. Với nhiệm vụ ban đầu là tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, chủ yếu là thi hành án dân sự, sau đó bổ sung thêm việc thi hành án về kinh tế, lao động, quyết định trọng tài thương mại Việt Nam…

- Quy trình, thủ tục thi hành án từng bước được hoàn thiện, những khái niệm, chế định trong thi hành án, như án chưa có điều kiện thi hành án, án tồn… ngày càng được làm rõ và quy định chặt chẽ hơn.

- Hiện nay, Bộ Tư pháp đang xây dựng dự thảo Luật thi hành án dân sự, trong đó xác định vị trí, vai trò của cơ quan Thi hành án trong hệ thống cơ quan Nhà nước, xác định cơ cấu tổ chức bộ máy hoàn chỉnh, xây dựng các quy định pháp luật thi hành án theo hướng ngày càng tạo điều kiện thuận lợi cho Chấp hành viên trong quá trình tác nghiệp.

2. Cơ cấu tổ chức, bộ máy, biên chế cơ quan Thi hành án từng bước được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

2.1. Về biên chế.

Từ năm 2002 đến nay, hàng năm Bộ Tư pháp đều có sự quan tâm bổ sung biên chế cho các cơ quan Thi hành án dân sự Thành phố, cụ thể là:

- Năm 2005: được giao 460 biên chế (tăng 9,78% so với năm 2004), trong đó Thi hành án dân sự Thành phố 68 biên chế, Thi hành án các quận, huyện 395 biên chế.

- Năm 2006: được giao 508 biên chế (tăng 10,43% so với năm 2005), trong đó Thi hành án dân sự Thành phố 73 biên chế, Thi hành án các quận, huyện 435 biên chế.

- Năm 2007: được giao 515 biên chế (tăng 1,4% so với năm 2006), trong đó Thi hành án dân sự Thành phố 80 biên chế, Thi hành án các quận, huyện 435 biên chế (do trong năm 2006 Thành phố không tuyển được hết số biên chế được giao nên Bộ Tư pháp chưa tăng biên chế cho Thi hành án các quận, huyện).

Xuất phát từ việc tăng biên chế, số lượng Chấp hành viên cũng tăng lên. Năm 2005 có 139 Chấp hành viên (trong đó có 43 cán bộ lãnh đạo), đến năm 2007, đã có 173 Chấp hành viên (trong đó có 55 cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo), tăng 11,5% số biên chế và 24,5% số lượng Chấp hành viên.

2.2. Về cơ cấu chức danh.

- Thi hành án dân sự Thành phố có cơ cấu chức danh tương đối hoàn chỉnh, đảm bảo hoạt động của đơn vị, gồm cán bộ lãnh đạo, cán bộ nghiệp vụ (Chấp hành viên, chuyên viên, cán sự) và các chức danh khác (kế toán, thủ quỹ, thủ kho, văn thư, lưu trữ, lái xe, bảo vệ, tạp vụ…).

- Thi hành án dân sự các quận, huyện là một đơn vị độc lập nhưng trong nhiều năm liền, cơ cấu tổ chức của Thi hành án dân sự quận, huyện còn thiếu nhiều chức danh. Đến năm 2005 được Bộ Tư pháp cho phép tuyển dụng chức danh kế toán chuyên trách, năm 2006 các đơn vị có từ 15 biên chế trở lên có chức danh văn thư (kiêm lưu trữ), thủ quỹ (thủ kho), dưới 15 biên chế thì bố trí một cán bộ cho các chức danh này, Thi hành án các quận được bố trí 02 kế toán chuyên trách (kế toán hành chính và kế toán nghiệp vụ). Tuy nhiên vẫn còn thiếu những chức danh cần thiết cho hoạt động của đơn vị như thủ kho, bảo vệ kho… vì theo Nghị định số 18/2002/NĐ-CP, kho vật chứng thi hành án rất quan trọng, đảm bảo cho quá trình xét xử và thi hành án.

2.3. Về tổ chức bộ máy.

Với quy mô ngày càng phát triển của ngành thi hành án, mô hình tổ chức của Thi hành án dân sự Thành phố chỉ có lãnh đạo (Trưởng, Phó Thi hành án), các Chấp hành viên, cán bộ nghiệp vụ không còn phù hợp và không đáp ứng được nhiệm vụ quản lý của ngành. Do đó, thực hiện Thông tư liên tịch số 01/2007/TTLT-BTP-BNV ngày 29/3/2007 của liên Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn về tổ chức, cán bộ của Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trên cơ sở Đề án của Thi hành án dân sự Thành phố, ngày 20/8/2007 Cục Thi hành án dân sự có Quyết định số 1169/QĐ-THA thành lập 05 Phòng chuyên môn trực thuộc Thi hành án dân sự Thành phố, gồm:

- Phòng Hành chính, tổng hợp.

- Phòng Tổ chức, thi đua khen thưởng.

- Phòng Kế toán, tài vụ.

- Phòng nghiệp vụ, tổ chức thi hành án dân sự.

- Phòng kiểm tra, giải quyết khiếu nại - tố cáo.

Đây là một sự thay đổi, đánh dấu bước chuyển mình lớn về cơ cấu tổ chức, bộ máy của Thi hành án dân sự Thành phố. Việc hình thành bộ máy tổ chức hoàn chỉnh góp phần tăng cường năng lực quản lý điều hành, tạo điều kiện cho ngành hoàn thành nhiệm vụ được giao.

3. Cơ quan Thi hành án khắc phục khó khăn, phát huy nội lực để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Cán bộ, công chức thi hành án phát huy mạnh mẽ tính chủ động, sáng tạo và tích cực trong công tác chuyên môn. Với đặc thù công tác thi hành án tại TP.Hồ Chí Minh, những vấn đề phức tạp, vướng mắc luôn phát sinh trước tiên tại Thành phố. Từ những vấn đề thực tiễn đặt ra, Thi hành án dân sự Thành phố luôn cố gắng tự tìm ra những biện pháp giải quyết. Đối với những vấn đề vuớng mắc có liên quan đến chủ trương, chính sách, quy định pháp luật thì kịp thời kiến nghị Bộ Tư pháp và UBND Thành phố xem xét, giải quyết hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Với tính năng động, sáng tạo vốn có của mình, tập thể lãnh đạo Thi hành án dân sự Thành phố đã không ngừng đổi mới hình thức và phương pháp chỉ đạo, quản lý điều hành, đề xuất nhiều giải pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động chuyên môn, trong tổ chức, bộ máy, trong cơ chế chính sách; cán bộ, công chức phát huy khả năng, năng lực, khắc phục khó khăn, gắn bó với ngành.

4. Công tác tuyển chọn, quản lý, sử dụng cán bộ và thực hiện chế độ chính sách từng bước được cải thiện.

- Việc tuyển dụng được thực hiện công khai, chặt chẽ, đúng quy trình đã quy định. Việc thực hiện các chính sách, biện pháp trong tuyển chọn công chức đã thu hút được một số lượng cử nhân Luật và các cán bộ, công chức khác vào công tác trong ngành thi hành án, góp phần bổ sung cán bộ cho ngành.

- Công tác đào tạo, bồi dưỡng chú trọng nhiều đến yêu cầu chuẩn hóa về chuyên môn nghiệp vụ và ngạch công chức. Việc Bộ Tư pháp mở các lớp đào tạo nguồn Chấp hành viên đã trang bị những kiến thức cần thiết cho cán bộ, công chức trước khi bổ nhiệm. Thực tế cho thấy, cán bộ sau khi được đi học có sự tự tin hơn trong công tác chuyên môn, xử lý hồ sơ thi hành án chặt chẽ, có chất lượng hơn.

- Các chính sách hiện nay thể hiện được sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước và chính quyền Thành phố đối với các cơ quan Thi hành án. Thông tư 43/2006/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp với khoản tiền được trích lại từ phí thi hành án đã góp phần chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, công chức, giúp họ phần nào an tâm công tác, gắn bó với ngành.

II. Một số khó khăn, vướng mắc.

1. Trong công tác tuyển chọn.

- Công tác tuyển chọn cán bộ gặp nhiều khó khăn, khả năng thu hút cử nhân Luật vào làm việc ở các cơ quan Thi hành án còn thấp so với các cơ quan khác. Mặc dù những năm qua Bộ Tư pháp và UBND Thành phố luôn tạo điều kiện, có những cơ chế riêng để cơ quan Thi hành án bổ sung cán bộ nhưng vẫn không tuyển dụng hết số biên chế được giao, trong khi nhu cầu cán bộ còn thiếu.

Bên cạnh việc tuyển dụng khó khăn, tình trạng cán bộ (kể cả Chấp hành viên) xin nghỉ việc và chuyển công tác ngày càng gia tăng (từ năm 2005 đến nay đã có trên 40 trường hợp xin nghỉ và chuyển công tác), làm cho cán bộ Thi hành án đã thiếu lại càng thiếu hơn (như Thi hành án huyện Hóc Môn thiếu 40% biên chế, Thi hành án huyện Bình Chánh thiếu gần 20% biên chế…).

2. Trong công tác quản lý, sử dụng cán bộ.

- Chất lượng cán bộ thi hành án hiện nay chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao. Với nền tảng ban đầu của ngành khi tách khỏi Tòa án nhân dân các cấp, phần lớn cán bộ được đào tạo không chính quy và một số cán bộ làm nghiệp vụ nhưng chưa được đào tạo về chuyên môn, đến nay chất lượng về bằng cấp đã có sự chuyển biến mạnh với gần 100% cán bộ nghiệp vụ tốt nghiệp Đại học Luật trở lên, trong đó 1,79% có trình độ thạc sỹ (chỉ còn 01 Chấp hành viên có bằng Đại học Kinh tế đang học Đại học Luật và 02 cán bộ nghiệp vụ đang học Đại học Luật). Tuy nhiên, chất lượng về năng lực thực tiễn vẫn chưa thật sự đáp ứng yêu cầu công tác. Mặc dù những năm qua Thành phố có ưu tiên tuyển dụng các sinh viên Luật chính quy, nhưng phần lớn là có học lực trung bình hoặc trung bình khá, chưa thu hút những sinh viên tốt nghiệp khá, giỏi làm việc cho ngành (mỗi đợt thi chỉ khoảng 2 – 3 thí sinh có học lực khá dự tuyển). Một số cán bộ sau thời gian làm việc thể hiện được khả năng và chiều hướng phát triển tốt (kể cả khi đã được bổ nhiệm Chấp hành viên hoặc được dự kiến bố trí chức vụ lãnh đạo) đã xin nghỉ việc vì tìm được công việc có thu nhập cao hơn, môi trường làm việc tốt hơn, do đó còn có tư tưởng cho rằng cơ quan Thi hành án là sự lựa chọn cuối cùng trong việc chọn nghề nghiệp. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng cán bộ về tiêu chuẩn chức danh có tăng nhưng chất lượng thực tiễn chưa tương xứng.

- Việc bổ nhiệm Chấp hành viên theo cấp quận, huyện và Thành phố như hiện nay chưa phản ánh và phân loại được rõ nét trình độ, năng lực của các Chấp hành viên, đồng thời chưa tạo ra động lực phấn đấu cho cán bộ, công chức thi hành án.

Tiêu chuẩn về bằng cấp bổ nhiệm Chấp hành viên là như nhau nhưng bao giờ hiệu quả công tác của từng cán bộ cũng khác nhau vì còn phụ thuộc vào năng lực thực tiễn, kỹ năng và bản lĩnh nghề nghiệp của mỗi người. Bên cạnh đó, vụ việc thi hành án cũng khác nhau, có những vụ việc đơn giản, nhưng cũng có những vụ việc khó khăn, phức tạp, do đó, việc bổ nhiệm Chấp hành viên theo 02 cấp Thành phố và quận, huyện như hiện nay chưa phản ảnh và phân loại được trình độ, năng lực của Chấp hành viên trong từng đơn vị. Mặt khác, mức chênh lệch về hệ số luơng của cấp tỉnh và cấp huyện cao làm cho việc điều động, luân chuyển cán bộ gặp khó khăn. Một số Chấp hành viên quận, huyện có tư tưởng cho rằng số lượng Chấp hành viên Thành phố có hạn, phấn đấu làm Chấp hành viên cấp Thành phố quá khó khăn và phải thay đổi môi trường công tác, nên bằng lòng với với vị trí công tác hiện có, thiếu sự phấn đấu vươn lên.

- Các cơ quan Thi hành án, nhất là Thi hành án dân sự quận, huyện chưa đủ các chức danh cần thiết, còn tình trạng kiêm nhiệm, làm ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện công tác chuyên môn. Cán bộ, công chức luôn trong tình trạng quá tải về công việc, do kiêm nhiệm nên không được đào tạo cơ bản về công việc kiêm nhiệm, chủ yếu làm theo lối mòn và kinh nghiệm nên rất dễ xảy ra sai sót.

- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có nhiều đổi mới, ngày càng phù hợp hơn với nhu cầu sử dụng nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Một số chương trình, phương pháp giảng dạy còn nặng về lý thuyết, chưa tập trung giải quyết những vấn đề thực tiễn phát sinh; một số khóa học ngoại ngữ, tin học tổ chức ngoài giờ nên hạn chế khả năng tập trung tiếp thu của học viên sau 01 ngày làm việc mệt mỏi, gây lãng phí về thời gian, tiền bạc, công sức, hiệu quả chưa đạt được như mục tiêu đề ra.

3. Trong việc thực hiện chế độ chính sách.

- Chế độ, chính sách của Trung ương và Thành phố đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng vẫn chưa tương xứng với khối lượng, áp lực công việc của thành phố và công sức của cán bộ, công chức, chưa đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho họ.

- Đặc thù của hoạt động thi hành án là Chấp hành viên phải thường xuyên đi xác minh trên địa bàn rộng nhưng chế độ phụ cấp tính như cơ quan hành chính thông thường là không phù hợp, mức phụ cấp hiện nay không đủ trang trải các khoản chi phí. Chế độ chính sách chưa tương xứng, hành lang pháp lý chưa an toàn làm cho cán bộ, công chức chưa thật sự an tâm công tác. Hoạt động thi hành án có đặc thù, gắn liền với lợi ích về vật chất của các bên đương sự nên mức độ rủi ro rất cao cao, nhưng chưa có chế độ bảo hiểm nghề nghiệp và chế độ bảo vệ Chấp hành viên, nhất là trong tổ chức cưỡng chế thi hành án.

III. Nguyên nhân.

1. Môi trường làm việc chưa đảm bảo, không an toàn.

- Hành lang pháp lý chưa đầy đủ, không rõ ràng và còn nhiều bất cập. Các quy định pháp luật hiện hành quy định quá nhiều quyền cho đương sự, nhất là người phải thi hành án (quyền lựa chọn tài sản để kê biên, quyền thỏa thuận về giá tài sản, phương thức, thời gian, địa điểm thi hành án, quyền được tham gia vào việc kê biên, định giá tài sản…), do đó, một số đương sự lợi dụng các quyền này để gây khó khăn, cản trở việc thi hành án. Tuy nhiên, pháp luật chưa dành những quyền tương xứng cho Chấp hành viên trong quá trình tác nghiệp. Trách nhiệm của Chấp hành viên rất nặng nề, trong khi đó có nhiều quy định làm phát sinh thêm việc cho Chấp hành viên mà không cần thiết (ví dụ như: định kỳ 03 tháng Chấp hành viên phải tiến hành xác minh đối với đương sự đang thụ hình một lần; ra quyết định thu phí thi hành án, quyết định kết thúc thi hành án…). Chấp hành viên phải tham gia nhiều Hội đồng để giải quyết công việc, kể cả những những việc không thuộc chuyên môn được đào tạo (như Chủ tịch Hội đồng định giá tài sản). Quyền yêu cầu hoãn thi hành án của các cơ quan tố tụng cũng có tác động không tốt đến quá trình tổ chức thi hành án, đây là một trong những nguyên nhân chính làm cho việc giải quyết thi hành án chậm, kéo dài, Chấp hành viên “mệt mỏi” vì những hồ sơ tác động mà không có kết quả.

- Các quy định của pháp luật hiện hành không xác định rõ đâu là nhiệm vụ, đâu là quyền hạn của Chấp hành viên. Nhiệm vụ và quyền hạn luôn hòa lẫn với nhau ở các quy định hiện hành.

- Chức danh cán bộ thi hành án (chuyên viên) như hiện nay là chưa phù hợp vì chưa được xây dựng thành một chức danh riêng mà là vay mượn. Nhiệm vụ, quyền hạn của chuyên viên trong quá trình thi hành án cũng không được quy định. Do vậy, có một số trường hợp thờ ơ, thiếu trách nhiệm đối với công việc, đối với công dân.

- Pháp luật hiện hành không có cơ chế bảo vệ Thủ trưởng cơ quan Thi hành án và Chấp hành viên trong trường hợp sai sót ngay tình khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Đây là hạn chế lớn tác động đến tư tưởng của Thủ trưởng và Chấp hành viên, vì không được bảo vệ nên họ phải tự bảo vệ, do đó trong tác nghiệp và trong chỉ đạo, điều hành, họ luôn phải tạo cho mình một sự an toàn cần thiết về mặt pháp lý, kể cả trường hợp có thể gây khó khăn cho đương sự hoặc làm chậm quá trình tổ chức thi hành án.

- Quá trình tổ chức thi hành án có tác động trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự, nên khó tránh được bị khiếu nại. Theo quy định hiện nay, việc giải quyết khiếu nại qua 02 cấp, nhưng thực tế cơ quan Thi hành án còn chịu sự giám sát của nhiều cơ quan như Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể khác. Với chức năng của mình, các cơ quan này cũng có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án xem xét lại việc tổ chức thi hành án. Bên cạnh đó, tình trạng các cơ quan có quyền yêu cầu hoãn, kháng nghị tạm đình chỉ thi hành án, nhất là những bản án đã thi hành xong cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh khiếu nại. Vì vậy, có những bản án, quyết định đã thi hành xong nhưng quá trình giải quyết khiếu nại và trả lời theo yêu cầu của các cơ quan chức năng thì gần như không có điểm dừng.

- Tình trạng quá tải diễn ra ở tất cả các cơ quan Thi hành án tại Tp.Hồ Chí Minh, từ Thi hành án dân sự Thành phố đến các quận, huyện, từ lãnh đạo đến nhân viên. Hiện nay, trung bình mỗi Chấp hành viên phải thụ lý trên 600 việc/năm. Quy trình giải quyết thi hành án luôn có những giới hạn về thời gian ở từng khâu nhất định (thời gian ra quyết định thi hành án, thông báo tự nguyện, thời gian thành lập Hội đồng định giá, bán đấu giá…), với khối lượng công việc khổng lồ, mỗi Chấp hành viên hàng ngày chỉ tập trung xử lý hồ sơ đảm bảo đúng quy trình, không còn thời gian nghiên cứu kỹ từng hồ sơ, chưa kịp rút kinh nghiệm cho từng vụ việc, do đó càng không có thời gian để nghiên cứu, nâng cao kiến thức. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng công tác chuyên môn của Chấp hành viên.

- Ngoài các quy định về pháp luật thi hành án, Chấp hành viên còn phải nắm bắt và am hiểu các quy định thuộc các lĩnh vực khác thì mới có thể hoàn thành nhiệm vụ (luật Dân sự, luật Đất đai...). Trong khi đó, các quy định thuộc các lĩnh vực khác thì cũng rất phức tạp, thường xuyên thay đổi, Chấp hành viên không nắm bắt kịp thời thì rất dễ phát sinh sai sót trong quá trình tác nghiệp.

2. Lương và chế độ đãi ngộ chưa tương xứng, không phù hợp.

Lương và chế độ chính sách như hiện nay chưa đảm bảo để cán bộ, công chức an tâm công tác, gắn bó với ngành và tập trung đầu tư cho công tác chuyên môn; một số cán bộ tâm huyết với ngành cũng phải tìm một công việc làm thêm bên ngoài để đảm bảo cuộc sống gia đình.

- Những năm qua, Nhà nước không ngừng tăng lương tối thiểu để mức lương phù hợp hơn với đời sống thực tế. Tuy nhiên, việc tăng lương tối thiểu vẫn không đảm bảo để cán bộ, công chức sống bằng lương, nhất là trong điều kiện lạm phát, giá cả leo thang như hiện nay. Điều này không chỉ làm cho cán bộ, công chức không an tâm công tác mà còn là một trong những nguyên nhân phát sinh tiêu cực, hoặc ít nhất dẫn đến việc cán bộ, công chức sử dụng giờ làm việc để làm thêm bên ngoài nhằm tăng thu nhập, cải thiện đời sống.

- Quy định khoán kinh phí và trích để lại từ phí thi hành án đã tạo thuận lợi cho các cơ quan Thi hành án trong việc thực hiện các biện pháp tiết kiệm, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức, tuy nhiên, việc này lại gắn với chỉ tiêu thi đua. Chỉ tiêu thi đua được thực hiện chung giữa các địa phương như hiện nay là không phù hợp và trở thành quá cao đối với TP. Hồ Chí Minh. Thi hành án tại TP. Hồ Chí Minh có đặc thù với số lượng việc nhiều, giá trị phải thi hành án lớn, tính chất, mức độ phức tạp nên phải được xem xét để có chỉ tiêu thi đua phù hợp.

- Hoạt động thi hành án có nhiều đặc thù: phải thường xuyên đi xác minh bên ngoài trụ sở, mức độ áp lực, căng thẳng khi tiếp xúc với đương sự trong giải quyết hồ sơ cao... nhưng chế độ lương chưa tính đến những nội dung này là chưa phù hợp. Thậm chí, cùng làm nhiệm vụ giúp việc cho các chức danh tư pháp (Chấp hành viên), nhưng chuyên viên Thi hành án chỉ được hưởng lương cơ bản, không được hưởng phụ cấp nghề nghiệp như Thư ký Tòa án.

- Mức chênh lệch về hệ số lương giữa Chấp hành viên Thành phố và quận, huyện lớn (2,06) chưa phù hợp, làm cho việc điều động, luân chuyển Chấp hành viên giữa Thành phố và quận, huyện khó khăn.

3. Vị trí, vai trò Cơ quan Thi hành án chưa tương xứng, cơ chế quản lý không phù hợp.

- Thi hành án là giai đoạn cuối của quá trình tố tụng, có nhiệm vụ đưa những phán quyết của Tòa án trên giấy tờ thành hiện thực, đảm bảo pháp chế và quyền lực của Nhà nước, do đó cơ quan Thi hành án có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay vị thế của Cơ quan Thi hành án chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao. Mặc dù các quy định pháp luật đã có nhiều cố gắng trong việc đề cao vai trò, vị trí của cơ quan Thi hành án và Chấp hành viên nhưng thực tế, vai trò và tiếng nói của cơ quan Thi hành án còn “yếu” so với các cơ quan trong khối nội chính nói riêng, các cơ quan, tổ chức khác nói chung. Quyền năng về mặt pháp lý chi phối các cơ quan chức năng chưa có, trong mọi quan hệ để tổ chức thi hành án chủ yếu là phối hợp, mức độ và hiệu quả phối hợp như thế nào phụ thuộc rất lớn vào khả năng, uy tín của từng Chấp hành viên và thiện chí của các cơ quan có liên quan.

- Cơ chế quản lý cán bộ, công chức thi hành án chưa phù hợp, còn nhiều bất cập, chưa gắn kết giữa quản lý và sử dụng cán bộ. Theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 thì Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về thi hành án dân sự (quản lý toàn diện về chuyên môn và tổ chức cán bộ), Nghị định 50/2005/NĐ-CP phân cấp cho Thi hành án dân sự cấp tỉnh quản lý cán bộ, công chức thi hành án của các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương (Điều 12). Tuy nhiên, theo cơ chế hiện nay, Thi hành án dân sự cấp tỉnh được giao quản lý cán bộ nhưng không được quyết định bất cứ việc gì về tổ chức, nhân sự, Giám đốc Sở Tư pháp chỉ thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền nhưng phải chịu trách nhiệm trước Bộ Trưởng Bộ Tư pháp về tất cả các vấn đề liên quan đến chất lượng cán bộ. Điều này là chưa phù hợp vì trách nhiệm này lẽ ra phải thuộc về cơ quan quản lý cán bộ.

CHƯƠNG III

NHỮNG GIẢI PHÁP

I. Cải thiện môi trường làm việc.

1. Xây dựng hành lang pháp lý an toàn.

Từ khi thực hiện Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 đến nay, Thi hành án dân sự Thành phố đã có nhiều văn bản gửi Bộ Tư pháp kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung hoặc quy định mới các nội dung liên quan đến nghiệp vụ thi hành án, trong đó có đề nghị một số nội dung cơ bản và quan trọng nhất, là:

1.1. Mở rộng quyền năng cho Chấp hành viên.

Trong quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên giữ vai trò trung tâm, nhưng thực tế quyền năng của Chấp hành viên để thực hiện nhiệm vụ còn hạn chế. Do vậy, cần trao thêm một số quyền năng để đảm bảo cho Chấp hành viên thực thi tốt nhiệm vụ, ví dụ như: Quyền được ra vào nhà ở hoặc đất đai thuộc quyền quản lý của bất cứ ai để thực hiện việc thi hành án; quyền được khám xét để truy tìm tài sản thi hành án; quyền yêu cầu Công an dẫn giải người phải thi hành án cố tình trốn tránh việc thi hành án; quyền tạm giữ người gây rối, cản trở việc thi hành án; quyền được sử dụng công cụ hỗ trợ; quyền điều tra ban đầu và khởi tố đối với hành vi chống lại việc thi hành án hoặc không thi hành án…

1.2. Một số nội dung khác có liên quan.

- Bỏ quy định việc thành lập Hội đồng kê biên, Hội đồng định giá, giao cho Chấp hành viên quyền mời các thành viên tham gia và tự chịu trách nhiệm, giao việc định giá cho các cơ quan có chức năng thẩm định giá..

- Bỏ quy định một số thủ tục hành chính không cần thiết như ra quyết định thu phí thi hành án, quyết định kết thúc việc thi hành án.

- Chuyển trách nhiệm xác minh tài sản của người phải thi hành án cho người được thi hành án

- Bổ sung quy định Thủ trưởng cơ quan Thi hành án và Chấp hành viên được miễn trách nhiệm pháp lý nếu ngay tình trong thực hiện nhiệm vụ.

- Bỏ quy định thời gian 30 ngày cho người phải thi hành án tự nguyện thi hành án.

- Bỏ quy định bắt buộc thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn cơ quan thi hành án tiến hành tổ chức thi hành án.

- Bỏ quy định quyền đề nghị chỉ định tài sản kê biên của người phải thi hành án.

- Bỏ quy định về quyền yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị.

- Giao cho TAND nơi đã xét xử ra quyết định thi hành án, cơ quan Thi hành án chỉ nhận và tổ chức thi hành đối với những quyết định thi hành án có tính khả thi, những quyết định thi hành án không rõ ràng, không khả thi, cơ quan Thi hành án trả lại Tòa án.

- Quy định thủ tục thi hành án rút gọn đối với những việc thi hành án đơn giản, giá trị nhỏ.

- Quy định riêng về việc thi hành án dân sự trong các bản án hình sự.

- Triển khai thực hiện thí điểm Đề án thừa phát lại tại TP. Hồ Chí Minh với các nhiệm vụ như giúp đương sự thực hiện các việc: yêu cầu Tòa án trích lục bản án, quyết định; thực hiện quyền yêu cầu thi hành án của người được thi hành án; xác minh điều kiện thi hành án…; giúp cơ quan thi hành án tống đạt các quyết định, giấy tờ về thi hành án…

- Có quy định các trường hợp được miễn trách nhiệm pháp lý cho Thủ trưởng cơ quan Thi hành án và Chấp hành viên trong trường hợp sai sót ngay tình khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

2. Thực hiện 03 bậc bổ nhiệm Chấp hành viên (Chấp hành viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp).

2.1. Ưu thế của việc bổ nhiệm Chấp hành viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp.

- Phân loại được trình độ, năng lực, bản lĩnh nghề nghiệp của các Chấp hành viên. Mỗi vụ việc thi hành án có mức độ đơn giản, phức tạp khác nhau, bên cạnh đó năng lực chuyên môn của Chấp hành viên cũng được đánh giá thông qua hiệu quả, kết quả giải quyết hồ sơ thi hành án, nên việc bổ nhiệm Chấp hành viên cũng phải phản ánh tương ứng với khả năng xử lý hồ sơ của Chấp hành viên. Việc bổ nhiệm theo 03 bậc (sơ cấp, trung cấp, cao cấp) sẽ đáp ứng yêu cầu này.

- Tăng nhanh về số lượng Chấp hành viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Với điều kiện bổ nhiệm Chấp hành viên sơ cấp đơn giản hơn so với điều kiện bổ nhiệm chấp hành viên quận, huyện hiện nay (như điều kiện về thời gian công tác, lý lịch bản thân và gia đình…) sẽ nhanh chóng bổ sung lực lượng Chấp hành viên cần thiết để giải quyết những án đơn giản (như án tiêu huỷ, sung công, thu án phí, cấp dưỡng…); bên cạnh đó tại quận, huyện, nếu có Chấp hành viên cao cấp có thể giải quyết những án phức tạp, không cần thiết phải chuyển về Thành phố, làm phát sinh thêm việc cho Thi hành án dân sự Thành phố.

- Lãnh đạo thuận lợi trong phân công, giao việc. Căn cứ vào tính chất, mức độ đơn giản, phức tạp của từng việc thi hành án để lãnh đạo giao việc cho Chấp hành viên.

- Xây dựng thang bảng lương phù hợp, tương xứng với năng lực Chấp hành viên, tạo động lực phấn đấu cho cán bộ, từ đó tạo thuận lợi cho việc điều động, luân chuyển cán bộ từ quận, huyện về Thành phố và ngược lại.

2.2. Tiêu chuẩn và điều kiện bổ nhiệm Chấp hành viên.

* Các tiêu chuẩn và điều kiện chung:

- Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ.

- Có trình độ Đại học Luật.

- Đã hoàn thành khóa đào tạo nghiệp vụ thi hành án tương ứng với bậc  Chấp hành viên được bổ nhiệm.

- Có khả năng, năng lực giải quyết các hồ sơ thi hành án tương ứng với bậc Chấp hành viên được bổ nhiệm.

* Tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm Chấp hành viên sơ cấp:

- Thời gian công tác pháp luật ít nhất 03 năm.

- Có năng lực và khả năng giải quyết vụ việc thi hành án đơn giản (như thu án phí, tiêu huỷ, sung công, cấp dưỡng), việc thi hành án có giá trị thấp…

* Tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm Chấp hành viên trung cấp:

- Có thời gian làm Chấp hành viên sơ cấp ít nhất 03 năm, những địa phương không có nguồn Chấp hành viên sơ cấp có thể bổ nhiệm những người có thời gian công tác pháp luật ít nhất 07 năm.

- Có năng lực và khả năng giải quyết hồ sơ thi hành án trong phạm vi địa bàn quận, huyện.

* Tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm Chấp hành viên cao cấp:

- Có thời gian làm Chấp hành viên trung cấp ít nhất 04 năm, những địa phương không có nguồn Chấp hành viên trung cấp có thể bổ nhiệm những người có thời gian công tác pháp luật ít nhất 10 năm.

- Có năng lực và khả năng giải quyết hồ sơ thi hành án trong phạm vi địa bàn tỉnh, thành phố.

* Một số nội dung khác liên quan:

Chấp hành viên có 03 cấp, trong đó Chấp hành viên sơ cấp không có cán bộ giúp việc, Chấp hành viên trung cấp, cao cấp có Chấp hành viên sơ cấp và các chức danh khác để giúp việc. Chấp hành viên sơ cấp không hạn chế số lượng ở các đơn vị (bố trí theo yêu cầu công việc). Chấp hành viên trung cấp, cao cấp có quy định cụ thể số lượng ở từng đơn vị Thi hành án.

3. Xây dựng chức danh Thẩm tra viên trong thi hành án.

Trong hoạt động thi hành án, nhiệm vụ của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án là rất nặng nề, vừa phải chỉ đạo về mặt chuyên môn, nghiệp vụ, vừa phải quản lý về tổ chức, cán bộ. Do đó, cần xây dựng chức danh Thẩm tra viên với những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể để giúp Trưởng Thi hành án giải quyết các vấn đề liên quan đến nghiệp vụ thi hành án. Ví dụ như: trước giai đoạn thụ lý hồ sơ, Thẩm tra viên có nhiệm vụ kiểm tra bản án, đề xuất ra quyết định thi hành án; trong giai đoạn tổ chức thi hành án, Thẩm tra viên có nhiệm vụ kiểm tra trình tự, thủ tục giải quyết việc thi hành án của Chấp hành viên; khi việc thi hành án đã giải quyết xong, Thẩm tra viên kiểm tra việc xếp án và việc lưu trữ hồ sơ thi hành án…

4. Xây dựng cơ chế giám sát hoạt động thi hành án phù hợp.

Cơ chế giám sát phải đảm bảo tính độc lập của thi hành án trong tác nghiệp, theo hướng quyền giám sát phải gắn với trách nhiệm (kể cả trách nhiệm vật chất) đối với các yêu cầu giám sát. Cần phải hạn chế quyền hạn kiểm sát của cơ quan kiểm sát trong hoạt động thi hành án, Viện kiểm sát chỉ kiểm sát hoạt động thi hành án một số lĩnh vực như:

- Kiểm sát việc thi hành án tham nhũng, tham ô, hối lộ.

- Kiểm sát việc thi hành án cho Ngân sách Nhà nước.

- Kiểm sát việc thi hành án phần dân sự trong các vụ án hình sự.

 Bên cạnh đó, cần có quy định trách nhiệm, chế tài của các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu hoãn, kháng nghị tạm đình chỉ thi hành án, nhất là trong trường hợp khôi phục quyền, nghĩa vụ của các bên khi bản án, quyết định đã thi hành xong.

5. Xây dựng biên chế các cơ quan Thi hành án phù hợp chức năng, nhiệm vụ và khối lượng công việc.

Trong giai đoạn Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhiều biện pháp tinh giảm biên chế thì việc tăng biên chế các cơ quan Thi hành án cần xem xét một cách hợp lý. Việc xây dựng biên chế giữa các địa phương phải theo hướng có tính toán đến khối lượng công việc trung bình của mỗi cán bộ, công chức ở một tỷ lệ nhất định. Đối với cơ quan Thi hành án dân sự tại TP. Hồ Chí Minh, biên chế hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu công tác, do đó từ nay đến năm 2015, đề nghị tăng từ 50 – 70 biên chế/năm; sau năm 2015, biên chế sẽ được giữ ổn định và có thể bắt đầu thực hiện các biện pháp tinh giảm biên chế.

II. Cải thiện lương và chế độ đãi ngộ.

1. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương.

Cải cách cơ bản chế độ tiền lương hiện hành. Việc xây dựng mức lương tối thiểu phải đảm bảo đời sống tối thiểu để cán bộ, công chức nuôi sống bản thân và ít nhất 01 người trong gia đình.

2. Xây dựng chỉ tiêu thi đua phù hợp với từng địa phương, từng Chấp hành viên.

Việc xây dựng chỉ tiêu thi đua phải tính đến đặc thù công tác của từng địa phương, nhất là đối với những thành phố lớn, vì kết quả hoạt động có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả chung của cả nước. Chỉ tiêu thi đua cần xây dựng theo hướng có xem xét đến số lượng việc và giá trị tài sản thi hành án đã thực hiện, không thực hiện một công thức chung, một tỷ lệ % chung cho cả nước như hiện nay.

Xây dựng chỉ tiêu định mức thi hành án cụ thể cho các Chấp hành viên. Nếu vượt các định mức, chỉ tiêu sẽ được khen, thưởng phù hợp (có thể thưởng số tiền cụ thể/số việc thi hành án xong vượt chỉ tiêu, định mức).

3. Quy định phụ cấp nghề nghiệp đối với chuyên viên thi hành án.

Quy định mức phụ cấp tương tự Thư ký Tòa án nhân dân các cấp. Bên cạnh đó, pháp luật cũng cần quy định trách nhiệm chuyên viên trong việc tổ chức thi hành án vì việc để Chấp hành viên chịu hết mọi trách nhiệm như hiện nay là chưa hợp lý.

4. Quy định chế độ phụ cấp thạc sĩ, tiến sĩ (15 – 20% lương).

Công tác đào tạo, bồi dưỡng là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, kết quả đào tạo bồi dưỡng được thể hiện thông qua kết quả thực hiện công tác chuyên môn. Do đó, để khuyến khích và tạo động lực phấn đấu học tập của cán bộ, đề nghị cần có quy định về chế độ phụ cấp thạc sĩ, tiến sĩ.

5. Thực hiện bảo hiểm nghề nghiệp cho cán bộ trực tiếp làm công tác thi hành án.

Hoạt động thi hành án liên quan trực tiếp đến tài sản của các bên thi hành án nên mỗi đương sự tuỳ theo từng mức độ có sự quyết liệt nhất định trong việc bảo vệ tài sản của mình, nhất là trong công tác cưỡng chế thi hành án. Chính vì vậy, hoạt động thi hành án có mức độ rủi ro cao. Xuất phát từ đặc điểm này, pháp luật cần có quy định chế độ bảo hiểm nghề nghiệp cho Chấp hành viên, nhất là khi thực hiện việc cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng (trong chi phí cưỡng chế có khoản chi phí mua bảo hiểm cho Chấp hành viên).

6. Bố trí nhà công vụ cho cán bộ có hộ khẩu ngoài TP.Hồ Chí Minh.

Thành phố Hồ Chí Minh đã cho phép các cơ quan Thi hành án được tuyển dụng cán bộ, công chức có hộ khẩu ngoài TP.Hồ Chí Minh, lực lượng này những năm qua đã góp phần giải quyết một khối lượng lớn các việc thi hành án, có những đóng góp đáng kể cho hoạt động thi hành án. Phần lớn cán bộ, công chức có hộ khẩu ngoài TP.Hồ Chí Minh là các sinh viên vừa mới ra trường, nên phải thuê nhà ở, với mức lương và thu nhập như hiện nay thì không đủ trang trải các chi phí trong cuộc sống. Do đó, Thành phố nên xây dựng nhà công vụ cho những người độc thân, giúp họ phần nào giảm bớt những khó khăn trong cuộc sống, để họ an tâm công tác.

III. Nâng cao vai trò, vị trí cơ quan Thi hành án, xây dựng cơ chế quản lý phù hợp.

- Giao cho cơ quan Thi hành án, Chấp hành viên một số quyền năng nhất định để đảm bảo hiệu quả thi hành án và hiệu lực của các phán quyết của Tòa án, nhất là trong công tác phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan, phải quy định các biện pháp chế tài nếu không thực hiện nhiệm vụ phối hợp (như chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu do nguyên nhân chậm trễ trong phối hợp).

- Thi hành án dân sự là cơ quan Trung ương, chịu sự quản lý toàn diện của Bộ Tư pháp (thông qua Cục Thi hành án dân sự). Do đó, để đảm bảo sự thống nhất trong quản lý và sử dụng cán bộ, đề nghị cần có cơ chế quản lý phù hợp, tập trung đầu mối quản lý, cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ phải gắn kết và thống nhất giữa quản lý và sử dụng cán bộ. Hiện nay, Thi hành án dân sự Thành phố đã có bộ máy tổ chức và biên chế tương đương cơ quan cấp Sở, chất lượng cán bộ cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, đồng thời Nghị định 50/2005/NĐ-CP của Chính phủ cũng đã xác định Thi hành án dân sự Thành phố có thẩm quyền quản lý cán bộ Thi hành án dân sự địa phương, do đó, đề nghị từng bước giao toàn bộ công tác quản lý cán bộ cho Thi hành án dân sự Thành phố. 

IV. Một số giải pháp khác.

1. Bộ Tư pháp cho phép thực hiện xét tuyển một số chức danh.

Việc tuyển dụng công chức thực hiện theo Quy chế tổ chức thi tuyển, thi nâng ngạch đối với cán bộ, công chức (ban hành kèm theo Quyết định số 10/2006/QĐ-BNV ngày 05/10/2006 của Bộ Nội vụ), với nhiều quy định về trình tự, thủ tục khác nhau, có khoảng thời gian nhất định từ khi phát sinh nhu cầu tuyển dụng cho đến lúc có quyết định tuyển dụng. Hiện nay, nhiều chức danh như văn thư, thủ quỹ, kế toán, mỗi đơn vị chỉ từ 1 – 2 người, qua quá trình hoạt động, đến nay phần lớn các cơ quan đều đã có cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ này. Tuy nhiên, theo thời gian, có những cán bộ nghỉ hưu, nghỉ việc, chuyển công tác nên việc tuyển dụng chỉ phát sinh ở từng đơn vị cụ thể, dẫn đến số lượng cần tuyển dụng ít (từ 2 – 4 người/chức danh trong toàn Thành phố). Phần lớn ở những đơn vị này lãnh đạo đã kịp thời bổ sung ngay nhân sự thay thế cán bộ cũ bằng chế độ hợp đồng lao động, bởi nếu cũng áp dụng thi tuyển là bất cập, khó khăn, không đáp ứng kịp thời nhu cầu bổ sung cán bộ của các đơn vị. Có những chức danh rất nhạy cảm như thủ quỹ thì ngoài năng lực chuyên môn, năng lực thực tiễn còn đòi hỏi sự an tâm, tin tưởng của lãnh đạo và cán bộ, công chức đơn vị, nên phải có thời gian nhận xét, đánh giá mới có thể giao nhiệm vụ.

Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, đề nghị đối với những chức danh số lượng cần tuyển dụng ít, nguồn cán bộ khó thì cho thực hiện xét tuyển. Tuy nhiên, để tránh sự tuỳ tiện, xét tuyển tràn lan, Bộ Tư pháp nên quy định cụ thể việc xét tuyển, cụ thể là xét tuyển chỉ trong trường hợp địa phương thiếu từ 1 – 2 người/chức danh, người được xét tuyển phải đảm bảo tiêu chuẩn chức danh, đã có quá trình làm hợp đồng tại đơn vị từ 3 – 6 tháng, lãnh đạo đã đánh giá được năng lực thực tiễn, đủ khả năng đảm nhiệm công việc và hoàn thành nhiệm vụ được giao.

2. Thành phố cho phép mở rộng điều kiện tuyển dụng cán bộ có hộ khẩu ngoài TP. Hồ Chí Minh.

Theo Đề án “Cho Cơ quan THADS TP. Hồ Chí Minh thực hiện tuyển dụng công chức có hộ khẩu tạm trú dài hạn tại Tp.Hồ Chí Minh (KT3) và hộ khẩu ngoài TP.Hồ Chí Minh”, việc tuyển dụng cán bộ, công chức có hộ khẩu ngoài TP. Hồ Chí Minh chỉ áp dụng đối với thí sinh có bằng Đại học Luật chính quy, trình độ Trung bình khá. Những năm qua, mặc dù nhu cầu tuyển dụng rất lớn nhưng không tuyển được cán bộ, do đó tình trạng thiếu biên chế khó khắc phục. Hiện nay, chúng ta đã áp dụng Luật cư trú, vì vậy đề nghị Thành phố cho phép việc tuyển dụng công chức Thi hành án không phân biệt điều kiện thi tuyển giữa thí sinh có hộ khẩu tại TP.Hồ Chí Minh và có hộ khẩu ở các địa phương khác.  

3. Đối với các Thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội… bổ sung đầy đủ các chức danh cho cơ quan Thi hành án, chấm dứt tình trạng kiêm nhiệm, nhất là đối với Thi hành án dân sự cấp quận, huyện.

Với đặc thù là thành phố lớn, số lượng án nhiều nên công việc của các bộ phận liên quan như văn thư, lưu trữ, thủ quỹ, thủ kho… đều ở trong tình trạng quá tải. Để đảm bảo hoạt động hiệu quả, các cơ quan Thi hành án, nhất là cấp quận, huyện phải bổ sung đầy đủ các chức danh, chấm dứt tình trạng kiêm nhiệm như hiện nay.

4. Các giải pháp nâng cao năng lực cán bộ.

- Thường xuyên tổ chức tập huấn về chuyên môn, tập huấn các văn bản pháp luật mới có liên quan đến nghiệp vụ thi hành án, nhất là các quy định liên quan đến đất đai, nhà ở, đô thị.

Nhà nước ta đang trải qua quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, thực hiện quản lý Nhà nước bằng pháp luật nên việc thường xuyên thay đổi các quy định của pháp luật là điều khó tránh khỏi. Thực tế này đòi hỏi Chấp hành viên phải thường xuyên cập nhật các quy định pháp luật, bởi đó là điều kiện quan trọng để Chấp hành viên nâng cao trình độ và khả năng giải quyết hồ sơ thi hành án. Bên cạnh việc tự tìm tòi, học hỏi của Chấp hành viên đối với những văn bản pháp luật quan trọng, liên quan trực tiếp và làm thay đổi quan điểm xử lý hồ sơ của Chấp hành viên, Bộ Tư pháp nên có văn bản hướng dẫn cụ thể và tổ chức tập huấn để Chấp hành viên nắm vững, thực hiện đúng.

- Tổ chức nghiên cứu đề tài khoa học, chuyên đề liên quan đến các lĩnh vực thi hành án, hội thảo khoa học… nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ công chức, nhất công chức trẻ. Thường xuyên tổ chức hội thảo, chuyên đề về công tác thi hành án, qua đó đưa các bản án phức tạp, trọng điểm để thảo luận, học tập rút kinh nghiệm, tránh thiếu sót tương tự xảy ra.

Hàng năm Thi hành án dân sự Thành phố tập hợp những bản án khó thi hành, phức tạp và cách thức giải quyết, đóng thành tập, phát cho các đơn vị, Chấp hành viên làm tài liệu tham khảo.

- Tổ chức các cuộc thi Chấp hành viên giỏi cấp Thành phố, toàn quốc.

Định kỳ 1 – 2 năm tổ chức Hội thi Chấp hành viên giỏi, nội dung cần tập trung vào kiến thức pháp luật, nghiệp vụ thi hành án, kỹ năng thi hành án, đạo đức nghề nghiệp Chấp hành viên, phương án giải quyết, xử lý các tình huống cụ thể trong thi hành án. Đây là một trong những biện pháp giúp Chấp hành viên nhanh chóng nắm bắt các quy định pháp luật có liên quan, tạo không khí thi đua, gắn bó với nhau trong hoạt động nghề nghiệp.

5. Cải tiến chế độ báo cáo, giảm các biểu mẫu.

Việc báo cáo, thống kê chiếm gần 30% khối lượng công việc của Chấp hành viên và cơ quan Thi hành án. Hiện nay, Bộ Tư pháp đã xây dựng các phần mềm trong quản lý công tác thi hành án, đề nghị thực hiện việc nối mạng, ít nhất là giữa Thi hành án Thành phố với Bộ Tư pháp. Chính quyền các địa phương hỗ trợ việc nối mạng giữa cấp Thành phố và cấp quận, huyện. Trên cơ sở các thông tin cần cập nhật vào máy trong quá trình tổ chức thi hành án sẽ cho ra những con số cụ thể cần thiết cho công tác quản lý (các Chấp hành viên có trách nhiệm cập nhật trong quá trình giải quyết án). Thực hiện được việc này sẽ giảm tải công việc báo cáo, thống kê của Chấp hành viên và cơ quan Thi hành án, giúp cho Chấp hành viên có thời gian tập trung nhiều hơn cho công việc chuyên môn. 

 


KẾT LUẬN

Thi hành án dân sự là một hoạt động quan trọng gắn với quyền lực Nhà nước. Cơ quan Thi hành án là cơ quan trực tiếp đưa những phán quyết của Tòa án ra thi hành trên thực tế, góp phần xây dựng và bảo vệ pháp chế XHCN.

Thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, tổ chức và hoạt động thi hành án có nhiều chuyển biến tích cực, cơ quan Thi hành án được giao thêm nhiều nhiệm vụ, cán bộ, công chức làm công tác thi hành án đã có nhiều nỗ lực, cố gắng, chủ động, sáng tạo để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Tuy nhiên, trong công tác tuyển chọn, quản lý, sử dụng cán bộ, cũng như việc thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức làm việc tại các cơ quan Thi hành án dân sự hiện nay còn nhiều khó khăn, bất cập, một phần do đặc thù công tác thi hành án dân sự tại TP. Hồ Chí Minh, một phần do các quy định pháp luật còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó cũng có một phần nguyên nhân chủ quan do nhận thức của các cơ quan chức năng, sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ, công chức thi hành án.

Trên cơ sở đánh giá những tồn tại, vướng mắc nêu trên, việc xây dựng các giải pháp và triển khai thực hiện đồng bộ là một trong những biện pháp để cơ quan Thi hành án thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, thực hiện mục tiêu Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW đã đề ra.

 


Chuyên đề 10

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TUYỂN CHỌN, QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VÀ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC LÀM VIỆC TẠI CÁC CƠ QUAN THI  HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LAI CHÂU

 

Nguyễn Văn Chiến

                                         Cục Trưởng Cục  Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu

 

PHẦN I

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TUYỂN CHỌN, QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VÀ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC LÀM VIỆC TẠI CÁC CƠ QUAN THI  HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LAI CHÂU TRONG 03 NĂM (2005, 2006, 2007)

 

I - ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH CHUNG

Lai châu là một tỉnh miền núi phía bắc, có diện tích tự nhiên là 906.512,30 ha, dân số 336.936 người, chiều dài đường biên giới giáp với Trung Quốc là 273 km. Lai Châu có 20 dân tộc anh em cùng sinh sống. Địa giới hành chính gồm 05 huyện và 01 thị xã với 94 xã, phường, thị trấn, trong đó có 21 xã biên giới. Theo Quyết định số 30/2007/QĐ - TT ngày 05/3/2007 của Thủ tướng chính phủ, Lai Châu có 88 xã thuộc diện khó khăn, 66 xã thuộc diện 135 (xã đặc biệt khó khăn) giai đoạn 2.

Lai Châu là một tỉnh miền núi, mới được chia tách, thành lập, địa hình núi cao hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, điều kiện kinh tế - xã hội kém phát triển. Địa phương chủ yếu là đồng bào dân tộc ít người sinh sống, trình độ dân trí thấp, hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân còn hạn chế. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội có nhiều biểu hiện phức tạp. Tình hình tội phạm ngày một gia tăng về số lượng và mức độ, tính chất. Án tồn đọng lớn, tập trung chủ yếu là tội phạm về ma tuý, tai nạn giao thông, hiếp dâm, giết người, buôn bán phụ nữ và trẻ em... do vậy đã tạo ra một khối lượng công việc lớn cho các cơ quan tư pháp trong đó có công tác thi hành án dân sự.

Cán bộ công chức làm công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh còn thiếu nhiều so với chỉ tiêu biên chế được giao, trong khi đó địa phương không có nguồn tuyển dụng, nguồn ở nơi khác đến rất hạn chế.

Do vậy, việc tuyển dụng, quản lý và sử dụng cán bộ  trên địa bàn tỉnh Lai châu gặp rất nhiều khó khăn.

II – THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG TÁC TUYỂN CHỌN, QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VÀ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC LÀM VIỆC TẠI CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LAI CHÂU.

1. Tình hình và kết quả tuyển chọn, quản lý, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với công chức làm công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Lai Châu.

Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu có 01 đơn vị thi hành án dân sự tỉnh và 06 đơn vị thi hành án huyện, thị xã.

Trong những năm qua thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu luôn chú trọng tới công tác tuyển dụng cán bộ, đào tạo bồi dưỡng nguồn, quy hoạch cán bộ để bổ nhiệm các chức danh nhằm đảm bảo cho các cơ quan thi hành án dân sự thuộc tỉnh đủ sức hoạt động, đáp ứng chức năng, nhiệm vụ được giao. Song xuất phát từ đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế – xã hội của địa phương nên công tác tuyển chọn, quản lý và sử dụng cán bộ gặp rất nhiều khó khăn. Hàng năm các cơ quan thi hành án trên địa bàn tỉnh Lai Châu tuyển dụng được rất ít biên chế, còn thiếu rất nhiều so với chỉ tiêu biên chế được giao. Cụ thể:

- Năm 2005: toàn tỉnh Lai Châu được phân bổ 59 biên chế (trong đó: thi hành án tỉnh: 14 biên chế; thi hành án các huyện, thị: 45 biên chế). Thi hành án dân sự địa phương tỉnh Lai Châu đã thực hiện được 35 biên chế (Thi hành án tỉnh thực hiện được 10 biên chế, còn thiếu 04 biên chế so với chỉ tiêu biên chế được phân bổ; Thi hành án các huyện, thị thực hiện được 25 biên chế, còn thiếu 20 biên chế so với chỉ tiêu biên chế được phân bổ).

- Năm 2006: toàn tỉnh Lai Châu được phân bổ 67 biên chế (trong đó: Thi hành án tỉnh: 16 biên chế; Thi hành án các huyện, thị: 51 biên chế). Thi hành án dân sự  địa phương tỉnh Lai Châu đã thực hiện được 47 biên chế (Thi hành án tỉnh thực hiện được 11 biên chế, còn thiếu 05 biên chế so với chỉ tiêu biên chế được phân bổ; Thi hành án các huyện, thị thực hiện được 36 biên chế, còn thiếu 15 biên chế so với chỉ tiêu biên chế được phân bổ).

- Năm 2007: toàn tỉnh Lai Châu được phân bổ 71 biên chế (trong đó: Thi hành án tỉnh: 20 biên chế; Thi hành án các huyện, thị: 51 biên chế). Thi hành án dân sự địa phương tỉnh lai châu đã thực hiện được 49 biên chế (Thi hành án tỉnh thực hiện được 14 biên chế, còn thiếu 06 biên chế so với chỉ tiêu biên chế được phân bổ; Thi hành án các huyện, thị thực hiện được 35 biên chế, còn thiếu 16 biên chế so với chỉ tiêu biên chế được phân bổ).

Năm 2004, 2005, do biên chế của các cơ quan thi hành án dân sự còn thiếu nhiều nên ở các đơn vị cấp huyện không có một số cán bộ làm công tác chuyên trách như kế toán, thủ kho - thủ quỹ, văn thư - lưu trữ, nên cán bộ làm công tác chuyên môn phải kiêm nhiệm cả các công tác trên. Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu đã mạnh dạn đề nghị Bộ Tư pháp và Cục thi hành án dân sự cho tuyển dụng các chức danh trên đối với tất cả các đơn vị. Đến nay 06/06 đơn vị thi hành án cấp huyện đã tuyển dụng đủ chức danh kế toán và chức danh thủ kho - thủ quỹ, văn thư lưu trữ. Cán bộ làm nghiệp vụ không còn phải kiêm nhiệm công tác hành chính, tập trung vào công tác chuyên môn giải quyết án .

Tình trạng cơ quan thi hành án chưa có Thủ trưởng, thiếu chấp hành viên, có đơn vị chỉ có 01 chấp hành viên đồng thời là Trưởng thi hành án cũng đã từng bước được khắc phục. Trong những năm qua thi hành án tỉnh đã làm tốt công tác bổ nhiệm mới, bổ nhiệm lại chấp hành viên, thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan thi hành án và công tác điều động, luân chuyển chấp hành viên. Cụ thể:

- Bổ nhiệm lại được 10 chấp hành viên.

- Bổ nhiệm mới 06 chấp hành viên cấp huyện.

- Bổ nhiệm mới 01 chấp hành viên tỉnh.

- Bổ nhiệm mới 01 trưởng thi hành án tỉnh, 02 phó trưởng thi hành tỉnh.

- Bổ nhiệm mới và bổ nhiệm lại 05 trưởng thi hành án cấp huyện.

- Bổ nhiệm mới và bổ nhiệm lại 04 phó trưởng thi hành án cấp huyện.

- Điều động, luân chuyển 02 chấp hành viên cấp huyện.

- Cử 07 cán bộ đi học lớp nguồn chấp hành viên để tạo nguồn bổ nhiệm mới.

Tính đến thời điểm hiện nay (tháng 01/2008), các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu có các chức danh sau:

- Trưởng thi hành án: 06/07 đơn vị thi hành án tỉnh và huyện có chức danh trưởng thi hành án (thi hành án huyện Than Uyên có phó trưởng thi hành án phụ trách đơn vị).

- Phó trưởng thi hành án: 04/07 đơn vị có chức danh phó trưởng thi hành án (thi hành án huyện Phong Thổ, Mường Tè, Thị xã Lai Châu chưa có phó trưởng thi hành án).

- Chấp hành viên: 07/07 đơn vị thi hành án tỉnh và huyện có chức danh chấp hành viên, tổng số 15 đồng chí, trong đó thi hành án tỉnh có 03 chấp hành viên, thi hành các huyện, thị có 12 chấp hành viên (mỗi huyện, thị có 02 chấp hành viên).

- Chuyên viên: 07/07 đơn vị thi hành án tỉnh và huyện có chức danh chuyên viên, tổng số 12 đồng chí, trong đó thi hành án tỉnh có 04 đồng chí, thi hành án các huyện, thị có 08 đồng chí.

- Cán sự: 04/07 đơn vị thi hành án tỉnh và huyện có cán sự, tổng số 04 đồng chí, trong đó: thi hành án tỉnh có 01 đồng chí, thi hành án huyện có 03 đồng chí.

- Kế toán: 07/07 đơn vị thi hành án tỉnh và huyện có kế toán, tổng số 08 đồng chí, trong đó thi hành án tỉnh có 02 đồng chí (01 kế toán hành chính, 01 kế toán nghiệp vụ thi hành án), thi hành án huyện có 06 đồng chí (mỗi huyện có 01 kế toán).

- Thủ kho – thủ quỹ, văn thư – lưu trữ cơ quan: 07/07 đơn vị thi hành án tỉnh và huyện có thủ kho - thủ quỹ kiêm văn thư - lưu trữ cơ quan, tổng số 08 đồng chí, trong đó: thi hành án tỉnh 02 đồng chí, thi hành án huyện, thị 06 đồng chí (mỗi huyện, thị có 01 đồng chí).

- Lái xe: 01 đồng chí (đang trong hợp đồng thử việc).

Nhìn vào các chức danh hiện có của các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu, đội ngũ chấp hành viên và chuyên viên còn thiếu rất nhiều, vì vậy luôn trong tình trạng quá tải công việc. Cán bộ công chức làm công tác thi hành án rất vất vả nhưng lại không có chế độ chính sách ưu đãi riêng.

Trong thời gian qua, Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân tỉnh Lai Châu cũng đã ban hành chế độ chính sách hỗ trợ, thu hút đối với cán bộ công chức như:

+  Quyết định số 42/2004/QĐ - UB ngày 30/7/2004 về chính sách hỗ trợ, đào tạo, bồi dưỡng và thu hút đối với cán bộ công chức đi học và đến công tác tại Lai Châu, trong đó quy định về mức kinh phí hỗ trợ đối với sinh viên mới ra trường tình nguyện công tác lâu dài tại Lai Châu; cán bộ công chức tỉnh ngoài có trình độ chuyên môn đại học trở lên, dưới 45 tuổi có thời gian công tác ít nhất là 5 năm thuộc lĩnh vực sẽ đảm nhiệm tình nguyện lên công tác lâu dài ít nhất là 5 năm tại tỉnh Lai Châu.

+ Hàng năm đều có chính sách hỗ trợ thuê nhà ở đối với cán bộ công chức làm việc tại các cơ quan hành chính nhà nước, sự nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Lai Châu.

Tuy nhiên, các chế độ chính sách hỗ trợ, thu hút trên chỉ được áp dụng đối với công chức vào nhận công tác thuộc các ngành hưởng ngân sách địa phương. Còn một số ngành hưởng ngân sách Trung ương trong đó có Thi hành án dân sự thì công chức không được hưởng chế độ này, mặc dù đơn vị đã có văn bản đề nghị tỉnh nhưng không được áp dụng.

 Điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, nguồn tuyển dụng ở địa phương không có, nguồn tuyển dụng ở các địa phương khác đến rất ít lại không có chế độ chính sách thu hút hợp lý nên việc tuyển dụng cán bộ gặp rất nhiều khó khăn, có trường hợp đã nộp hồ sơ xin tuyển dụng sau đó xin rút lại hồ sơ; Có trường hợp đã ra Quyết định tuyển dụng nhưng lại trả lại Quyết định không nhận công tác; công chức đang làm việc tại các cơ quan thi hành án dân sự do điều kiện cuộc sống khó khăn, xa gia đình nên có nguyện vọng xin chuyển công tác sang ngành khác hoặc xin chuyển vùng để hợp lý hoá gia đình, có trường hợp đã bỏ việc; một số cán bộ khi vào ngành không giữ vững được lập trường tư tưởng dẫn đến việc vi phạm kỷ luật, bị kỷ luật buộc thôi việc….trong năm 2007, Giám đốc Sở Tư pháp đã giải quyết cho 02 trường hợp chuyển ngành, Hội đồng kỷ luật đã họp xét buộc thôi việc 01 trường hợp do tự ý bỏ công tác, 02 trường hợp vi phạm pháp luật. Vì vậy có thể nhận thấy rằng, tuyển dụng được chưa phải là đã có được cán bộ phục vụ lâu dài trong ngành và tâm huyết với nghề, việc quản lý và sử dụng số công chức hiện có, để họ yên tâm công tác, gắn bó với ngành là một vấn đề khó khăn. Muốn việc tuyển dụng, quản lý và sử dụng cán bộ có hiệu quả, thì cần có chính sách thu hút, ưu đãi riêng đối với công chức làm công tác thi hành án ở những tỉnh miền núi biên giới, vùng sâu vùng xa và hải đảo. Để đạt được điều đó thì cần có sự quan tâm của BộTtư pháp, Cục thi hành án dân sự và chính quyền địa phương đối với cán bộ và công chức thi hành án dân sự.

2. Đánh giá ưu điểm, các tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong công tác tuyển chọn, quản lý, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với công chức.

Về ưu điểm: Hiện nay đã có các văn bản pháp luật quy định rõ tiêu chuẩn để được tuyển dụng vào các cơ quan thi hành án dân sự. Chẳng hạn như nếu được tuyển dụng vào cơ quan thi hành án với chức danh chuyên viên thì phải có trình độ đại học luật, có phẩm chất đạo đức tốt…ngoài ra, pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng quy định rất rõ tiêu chuẩn để bổ nhiệm chức danh chấp hành viên, thẩm tra viên, thẩm tra viên chính. việc tuyển chọn phải thông qua hội đồng họp, quyết định  theo đa số, sau đó gửi toàn bộ hồ sơ thủ tục về Cục thi hành án – Bộ Tư pháp thẩm định lại. Việc tuyển chọn trải qua nhiều bước, được kiểm tra thẩm định kỹ nên nâng cao được chất lượng của công chức được tuyển dụng.

Ngoài ra, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng quy định rất rõ tiêu chuẩn để bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chức danh chấp hành viên. Theo đó muốn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức một chấp hành viên phải thông qua Hội đồng tuyển chọn chấp hành viên họp và quyết định theo đa số, sau đó trên cơ sở đề nghị của trưởng thi hành án dân sự tỉnh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chấp hành viên. Cơ chế chặt chẽ như vậy nên sẽ tuyển chọn được người có năng lực chuyên môn, có phẩm chất đạo đức tốt, đủ sức đảm nhiệm công việc thi hành án đầy khó khăn phức tạp.

Tuy nhiên, việc tuyển dụng, quản lý, sử dụng cán bộ công chức hiện nay trên địa bàn tỉnh Lai Châu còn gặp khá nhiều khó khăn, vướng mắc. Trước hết là khó khăn về cơ chế tuyển dụng, quản lý, sử dụng cán bộ công chức chưa có sự đồng bộ, thống nhất.

Theo quy định tại các khoản 3,4 Điều 2 Nghị định 50/2005/NĐ - CP thì:

- Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự  trên địa bàn tỉnh; Giám đốc Sở Tư pháp thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn quản lý đối với cơ quan thi hành án địa phương theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

- Phòng tư pháp là cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện quản lý về công tác thi hành án dân sự trên địa bàn cấp huyện.

Theo quy định tại các khoản 1,2 Điều 3 Nghị định số 50/2005/NĐ - CP thì:

- Thi hành án dân sự cấp tỉnh chịu sự quản lý chỉ đạo của Bộ Tư pháp về tổ chức, cán bộ, kinh phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý và chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Pháp lệnh thi hành án dân sự.

- Thi hành án dân sự cấp huyện trực thuộc và chịu sự quản lý, chỉ đạo của thi hành án dân sự cấp tỉnh về mặt kinh phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp huyện theo quy định tại khoản 2 Điều 58 Pháp lệnh thi hành án dân sự.

Theo quy định tại Thông tư số 04/2005/TTLT-TP-NV ngày 05/5/2005 của Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ, hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương, thì cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp gồm:

- Các tổ chức giúp việc Giám đốc sở:

+ Văn phòng;

+ Thanh tra;

+ Các phòng chuyên môn ,nghiệp vụ.

Giám đốc Sở Tư pháp phối hợp với Giám đốc Sở Nội vụ trình Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định cụ thể tên gọi và số lượng của các phòng chuyên môn, nghiệp vụ…

- Các đơn vị trực thuộc sở:

+ Các phòng công chứng;

+ Các đơn vị sự nghiệp.

Các đơn vị trực thuộc Sở do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các quy định trên thì thi hành án dân sự cấp tỉnh không trực thuộc Sở Tư pháp, thi hành án dân sự cấp huyện không trực thuộc Phòng tư pháp. Nhưng theo Nghị định 50/2005/NĐ – CP thì Sở Tư pháp và Phòng tư pháp lại được giao trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự ở địa phương giúp Chủ tịch uỷ ban nhân dân cùng cấp.

Theo Quyết định 1148/2005/QĐ - BTP ngày 18/5/2005, được sửa đổi bổ sung bằng quyết định 01/2007/QĐ - BTP ngày 16/4/2007 của Bộ trưởng Bộ tư pháp về việc ban hành quy chế uỷ quyền cho Giám đốc sở tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thi hành án dân sự huyện, quận, thành phố, thị xã thuộc tỉnh. Theo đó, Giám đốc Sở tư pháp thực hiện kiểm tra, đôn đốc việc kiện toàn tổ chức của các cơ quan thi hành án dân sự địa phương, xây dựng kế hoạch chỉ tiêu biên chế, số lượng chấp hành viên cho các cơ quan thi hành án dân sự địa phương; quyết định phân bổ biên chế cho thi hành án dân sự cấp huyện trên cơ sở định mức biên chế đã được Bộ tư pháp phê duyệt; tuyển dụng, tiếp nhận, thuyên chuyển công chức; quy hoạch cán bộ; nâng bậc lương; nâng ngạch, chuyển ngạch công chức; điều động, luân chuyển công chức; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện; đào tạo, bồi dưỡng công chức; giải quyết chế độ nghỉ hưu, nghỉ thôi việc; kỷ luật công chức và thanh tra hoạt động thi hành án của thi hành án dân sự cấp huyện; thực hiện việc quy chế uỷ quyền trên cơ sở đề nghị của Trưởng thi hành án dân sự cấp tỉnh (khoản 2, 3, 5, 6, 7 ,8, 10, 12, 13 Điều 2 của quy chế uỷ quyền ban hành kèm theo Quyết định 1148/2005/QĐ - BTP), đồng thời Giám đốc phải chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ tư pháp nếu để xảy ra tình trạng buông lỏng quản lý, chất lượng cán bộ yếu kém, vi phạm kỷ luật (khoản 3 Điều 3 quy chế uỷ quyền ban hành kèm theo quyết định 1448/2005/QĐ - BTP).

 Như vậy thẩm quyền quản lý của Giám đốc sở tư pháp nói chung trong công tác tổ chức cán bộ của các cơ quan thi hành án dân sự là rất rộng, quản lý về mặt con người. Còn thi hành án dân sự cấp tỉnh là đơn vị trực tiếp sử dụng con người thì không được quản lý con người mà chỉ quản lý, hướng dẫn về mặt chuyên môn nghiệp vụ dẫn tới tình trạng một số cán bộ, chấp hành viên hoặc Trưởng, Phó trưởng thi hành án tỏ rõ việc coi thường thi hành án tỉnh, mà cứ “bám chặt” Giám đốc Sở tư pháp là đạt được nguyện vọng đề bạt, luân chuyển hoặc tránh được khuyết điểm do lỗi ý thức kỷ luật, không đảm đương hoàn thành nhiệm vụ được giao. Bởi công tác tổ chức, quản lý cán bộ với công tác chuyên môn nghiệp vụ phải gắn liền song song với nhau nhưng thực tại đang bị tách rời không đồng nhất. Hồ sơ tuyển dụng nhiều trường hợp do Sở tư pháp tiếp nhận, đưa ra với lý do con cháu, người nhà của đồng chí Tỉnh uỷ, Uỷ ban hoặc Sở nội vụ gửi nhưng thực chất một số trường hợp không đúng như vậy, chuyển cho Thi hành án tỉnh làm thủ tục, Thi hành án tỉnh làm thủ tục đề nghị tuyển dụng mà không nắm được con người mà mình sẽ sử dụng. Trong khi bản thân Giám đốc cũng bận rộn do quản lý rất nhiều mặt của công tác tư pháp tỉnh, công tác tư pháp huyện và công tác tư pháp xã, phường. Giám đốc Sở tư pháp không chuyên sâu về lĩnh vực thi hành án, không kiểm tra hoạt động của công chức cơ quan thi hành án, không thể nắm rõ được trình độ, năng lực của từng công chức làm công tác thi hành án nên có những trường hợp việc luân chuyển, điều động, bổ nhiệm cán bộ là chưa hợp lý.

Vì thẩm quyền của giám đốc rất rộng, nên đôi lúc có sự chỉ đạo đối với thi hành án tỉnh trong công tác tuyển dụng và luân chuyển, điều động cán bộ, mặc dù thi hành án tỉnh có thể không nhất trí nhưng vẫn phải chấp hành làm thủ tục. trong năm qua, dù biên chế của các cơ quan thi hành án trên địa bàn tỉnh Lai Châu còn thiếu nhiều, việc tuyển dụng gặp rất nhiều khó khăn, song năm 2005, Giám đốc đã quyết định cho chuyển vùng công tác đối với 02 trường hợp là chuyên viên của Thi hành án tỉnh khi chưa đủ năm làm nghĩa vụ tại miền núi; năm 2006 cho thuyên chuyển 01 trường hợp là Phó trưởng thi hành án tỉnh đồng thời là chấp hành viên tỉnh; năm 2007 cho thuyên chuyển công tác sang ngành khác đối với 02 trường hợp (trong đó có 01 chấp hành viên là Phó trưởng thi hành án cấp huyện và 01 kế toán).

 Trong những năm qua, thi hành án tỉnh nỗ lực hết sức để bước đầu khắc phục tình trạng thiếu thủ trưởng cơ quan thi hành án, cơ quan thi hành án chỉ có một chấp hành viên, thì đến nay tình trạng đó lại bị lặp lại, cuối năm 2007 một huyện thiếu trưởng thi hành án, thêm một huyện thiếu phó trưởng thi hành án. Thi hành án tỉnh muốn thực hiện vấn đề liên quan đến tổ chức, biên chế, con người phần nào đã bị mất tính chủ động, kịp thời, tổ chức cán bộ của thi hành án liên tục có sự xáo trộn, thiếu sự ổn định để tập trung vào công tác tổ chức, biên chế cán bộ để đảm đương tốt công việc chuyên môn.

Nhìn vào các quy định pháp luật trên có thể thấy rằng, cơ quan thi hành án dân sự địa phương chịu sự quản lý chỉ đạo của rất nhiều cấp, nhiều ngành trong khi không phải là một cơ quan chuyên môn của ngành đó, việc quản lý của thi hành án dân sự tỉnh đối với thi hành án dân sự các huyện, thị xã không có thực quyền. mặc dù các cơ quan thi hành án dân sự đã được tách thành một ngành độc lập về mặt tổ chức, nghiệp vụ và kinh phí theo quy định tại Nghị định số 50/2005/NĐ - CP, nhưng trong suy nghĩ và ý thức của đại bộ phận nhân dân cũng như một số cơ quan trên địa bàn tỉnh, vẫn coi thi hành án dân sự tỉnh là một phòng chuyên môn thuộc Sở tư pháp, thi hành án cấp huyện là một đơn vị trực thuộc Phòng tư pháp. vì vậy, vị thế của các cơ quan thi hành án dân sự địa phương trên địa bàn tỉnh chưa được nâng lên đúng tầm. Sự quản lý, chỉ đạo đối với cơ quan thi hành án dân sự địa phương như hiện nay là rất chồng chéo, thiếu tính đồng bộ và không hiệu quả.

Hội đồng tuyển chọn cán bộ công chức cơ quan thi hành án dân sự hiện nay do Giám đốc Sở tư pháp làm Chủ tịch hội đồng, thành phần do Giám đốc Sở tư pháp đề nghị Bộ quyết định. Do vậy thành phần của Hội đồng tuyển dụng vẫn có lãnh đạo phòng chuyên môn của Sở tư pháp tham gia mà không có đồng chí cán bộ tổ chức của Thi hành án tỉnh tham gia hội đồng. Do vậy, duy trì một Hội đồng tuyển chọn công chức vào cơ quan thi hành án như hiện nay là chưa hợp lý.(Mặc dù Bộ tư pháp đã có Công văn quy định rõ thành phần Hội đồng tuyển chọn công chức thi hành án dân sự).

Thành phần Hội đồng tuyển chọn chấp hành viên cơ quan thi hành án địa phương hiện nay theo quy định của pháp luật cũng chỉ có Trưởng thi hành án tỉnh là thành viên Hội đồng có chuyên môn về lĩnh vực thi hành án. Chấp hành viên là người có quyền năng pháp lý để thực hiện công tác thi hành án nên khi tuyển chọn cũng cần phải có những thành viên Hội dồng là người có trình độ chuyên môn về lĩnh vực thi hành án để đảm bảo chất lượng tuyển chọn.

Hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự hiện nay là rất bất cập, Giám đốc Sở tư pháp thực hiện uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ tư pháp quản lý về mặt tổ chức, cán bộ, Thi hành án tỉnh thì quản lý về mặt chuyên môn nghiệp vụ. Tình trạng này giống tình trạng của Toà án nhân dân một vài năm về trước, mặt tổ chức, cán bộ cũng do Sở tư pháp quản lý, còn mặt chuyên môn nghiệp vụ do Toà án tỉnh quản lý. Do việc thực hiện cơ chế trên có nhiều bất cập nên sau đó Chính phủ đã quyết định để Toà án tỉnh quản lý cả về mặt tổ chức cán bộ và mặt chuyên môn nghiệp vụ nhằm mục đích quản lý chỉ đạo hệ thống toà án về một mối thống nhất từ trung  ương đến địa phương, nhằm hoạt động có hiệu quả. Hiện nay việc quản lý và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự không có sự thống nhất, đồng bộ nên cũng có những hạn chế nhất định trong công tác chỉ đạo, quản lý, sử dụng cán bộ và hiệu quả công tác chuyên môn nghiệp vụ.

Về quản lý kinh phí:

- Từ năm 2004 trở về trước khối thi hành án dân sự địa phương phân cấp như sau: Thi hành án dân sự các huyện, thị là đơn vị hạch toán báo sổ với thi hành án tỉnh. Thi hành án tỉnh là đơn vị dự toán cấp 2 độc lập, thực hiện giao dự toán, thanh quyết toán cho các đơn vị hạch toán báo sổ trực thuộc. Khi nhận được dự toán giao của Vụ kế hoạch – tài chính – Bộ tư pháp, Thi hành án  tỉnh bóc tách, phân chia tính toán theo định mức chi của từng đơn vị và giao cho các đơn vị bằng dự toán cấp phát. Kết thúc quý các đơn vị hạch toán báo sổ gửi chứng từ chi tiêu trong quý về Thi hành án tỉnh, Thi hành án tỉnh thẩm định quyết toán, tổng hợp chung thành báo cáo toàn tỉnh gửi cơ quan cấp trên. Hàng năm khi có lịch quyết toán của Vụ kế hoạch tài chính, Thi hành án tỉnh mang toàn bộ chứng từ thu, chi của toàn tỉnh và báo cáo tài chính tổng hợp toàn tỉnh để Vụ kế hoạch tài chính thẩm định quyết toán năm. Phương thức hạch toán, quyết toán như trên có thuận lợi là: kiểm soát chi được chặt chẽ theo từng quý, kịp thời điều chỉnh khi thấy cần thiết; đối với đơn vị hạch toán cấp 3 việc ghi chép được gọn nhẹ, đơn giản. Song việc hạch toán như vậy cũng gặp một số khó khăn: khi quyết toán với cơ quan cấp trên thi hành án tỉnh phải mang toàn bộ chứng từ thu chi của các đơn vị, có trách nhiệm giải thích từng chứng từ thu, chi khi có yêu cầu của cơ quan cấp trên.

- Từ năm 2006 trở lại đây theo Đề án phân cấp của quản lý của Bộ tư pháp thì thi hành án tỉnh là đơn vị dự toán cấp 2 độc lập, Thi hành án dân sự các huyện, thị là đơn vị dự toán cấp 3 độc lập. Bộ tư pháp uỷ quyền cho Trưởng thi hành án tỉnh giao dự toán và quyết toán hàng năm trong việc sử dụng kinh phí được cấp đối với thi hành án cấp huyện. Vụ kế hoạch tài chính - Bộ tư pháp quyết toán cho đơn vị dự toán cấp 2. Khi nhận được thông báo giao dự toán, đơn vị dự toán cấp 2 tiến hành phân chia giao cho các đơn vị dự toán cấp 3 theo đúng tinh thần, chủ trương của Bộ tư pháp. Thuận lợi của phương thức hạch toán này là Thi hành án dân sự cấp tỉnh chỉ tiến hành quyết toán năm cho các đơn vị Thi hành án các huyện, thị dựa trên chứng từ thu, chi, báo cáo tài chính của các đơn vị, không quyết toán quý như trước đây, bớt được nhiều khâu. Song cũng có một số khó khăn là các đơn vị hạch toán cấp 3 còn lúng túng vẫn mang nặng tính ỷ lại như trước đây trong khâu lập báo cáo tài chính quý, năm; kiểm soát chứng từ, kiểm soát chi theo năm vì vậy nếu có sai sót đơn vị dự toán cấp 3 sẽ không có thời gian khắc phục, sửa chữa. (Theo Nghị định số 130/2005/NĐ - CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước).

Như vậy, với những lý do nêu trên, vô hình dung trong ý thức chủ quan của công chức cơ quan thi hành án cấp huyện có sự coi thường thi hành án cấp tỉnh, gây khó khăn trong công tác quản lý, điều hành của thi hành tỉnh đối với thi hành án cấp huyện.

mặt khác, Thi hành án tỉnh có cán bộ tổ chức giúp Trưởng thi hành án tỉnh công tác tổ chức cán bộ, thi đua – khen thưởng. Bộ tư pháp cũng đã giao cho Thi hành án tỉnh thực hiện công tác thi đua – khen thưởng theo Thông tư 07/2006/TT - BTP ngày 27/11/2006 hướng dẫn công tác thi đua – khen thưởng trong ngành tư pháp. Thi hành án tỉnh cũng đang xúc tiến lập đề án đề nghị thành lập các phòng chuyên môn theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2007/TTLT – BTP – BNV ngày 29/3/2007 của Bộ tư pháp, Bộ nội vụ hướng dẫn về tổ chức, cán bộ của Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Bộ trưởng bộ nội vụ cũng đã ban hành Quyết định số 01/2007/QĐ - BNV ngày 17/01/2007 về tiêu chuẩn ngạch thẩm tra viên. Thẩm tra viên chính, thẩm tra viên cao cấp thi hành án dân sự, giúp Trưởng thi hành án quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án nhằm: tăng cường công tác kiểm tra của cơ quan thi hành án dân sự cấp trên đối với cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới, đồng thời đẩy mạnh thực hiện kiểm tra, giám sát trong nội bộ cơ quan thi hành án dân sự đối với hoạt động của chấp hành viên, góp phần hạn chế và khắc phục oan sai trong hoạt động thi hành án dân sự, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan; giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến thi hành án dân sự ngay từ cơ sở, hạn chế đến mức tối đa tình trạng khiếu nại, tố cáo vượt cấp, kéo dài.

Về tổ chức hoạt động của các tổ chức Đảng, đoàn trong cơ quan thi hành án tỉnh, hiện nay Đảng viên công tác tại Thi hành án dân sự tỉnh vẫn sinh hoạt chung với Chi bộ Sở tư pháp. Hàng năm chi bộ lấy phiếu tín nhiệm và đóng góp ý kiến của quần chúng đối với đảng viên. Do Thi hành án hoạt động tại trụ sở riêng không chung với Sở tư pháp, lĩnh vực chuyên môn và đặc thù công tác cũng không giống Sở tư pháp, một năm vài lần họp và sinh hoạt cùng cán bộ công chức của Sở; hơn nữa hiện nay Sở tuyển dụng nhiều biên chế mới, thời gian công tác và sinh hoạt cùng các Đảng viên thuộc cơ quan thi hành án chưa nhiều, thậm chí chưa biết hết công chức thi hành án. Do vậy, quần chúng là công chức của Sở tư pháp không thể hiểu hết về đạo đức, lối sống cũng như mức độ hoàn thành nhiệm vụ của Đảng viên cơ quan thi hành án. Nên việc đánh giá góp ý của quần chúng với Đảng viên, giữa đảng viên của Sở tư pháp với Đảng viên của cơ quan Thi hành án không sát thực, khách quan. Từ những lý do trên, thực tế qua các đợt thăm dò lấy ý kiến, số phiếu tín nhiệm của quần chúng đối các Đảng viên thuộc  cơ quan thi hành án trên các mặt đều đạt tỷ lệ không cao so với thực tế. Tương tự như vậy, do sinh hoạt chung với Sở tư pháp nên các Đoàn viên của Thi hành án tỉnh cũng chưa được đánh giá đúng; khi lấy phiếu tín nhiệm đề nghị Chi bộ công nhận đối tượng cảm tình Đảng hoặc công nhận Đoàn viên ưu tú để đề nghị kết nạp Đảng thì các đoàn viên của Sở thường giới thiệu người của họ, đoàn viên của thi hành án có được giới thiệu thì cũng đạt được tỷ lệ phiếu bầu rất thấp. Thi hành án tỉnh cũng đã có đủ các điều kiện cần thiết để tách các tổ chức đoàn thể như chi bộ, công đoàn, đoàn thanh niên nhưng vì ý tứ nên chưa dám đề nghị tách….do vậy, nếu tiếp tục để Giám đốc Sở tư pháp thực hiện việc uỷ quyền theo Quyết định 1148/2005/QĐ – BTP và vẫn sinh hoạt chung các tổ chức đoàn thể sẽ dẫn đến hoạt động của cơ quan thi hành án không có sự đồng bộ, thống nhất, hiệu quả hoạt động sẽ không cao.

Về việc báo cáo công tác thi hành án dân sự tại địa phương, theo quy định tại khoản 5 Điều12 Nghị định 50/2005/NĐ - CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ công chức làm công tác thi hành án dân sự thì :”….thi hành án tỉnh báo cáo công tác thi hành án dân sự và thực hiện sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại điều 57 và điều 58 của Pháp lệnh thi hành án dân sự, Nghị định này và theo hướng dẫn của Bộ tư pháp”. Như vậy, trách nhiệm báo cáo công tác thi hành án dân sự với UBND tỉnh thuộc về thi hành án tỉnh. Song thực tế ở tỉnh Lai Châu, để chuẩn bị cho kỳ họp Hội đồng nhân dân, UBND yêu cầu Sở tư pháp báo cáo công tác thi hành án, Sở tư pháp lại yêu cầu Thi hành án tỉnh làm báo cáo. Nhưng lãnh đạo Thi hành án tỉnh là người có chuyên môn về lĩnh vực thi hành án, nắm rõ tình hình công tác thi hành án, có thể thuyết trình và trả lời chất vấn trước đại biểu HĐND thì không được tham gia phiên họp, mà chỉ có lãnh đạo Sở tư pháp tham gia phiên họp, nếu có chất vấn thì Sở tư pháp lại yêu cầu thi hành án chuẩn bị nội dung trả lời chất vấn cho sở. Vì vậy, mặc dù đã được nghe báo cáo nhưng vẫn tồn tại tình trạng đại biểu Hội đồng nhân dân có hiểu biết ít về lĩnh vực thi hành án. Từ đó không thể có sự quan tâm đúng mức đối với công tác thi hành án dân sự, một công tác hết sức khó khăn, phức tạp, cần sự quan tâm, ủng hộ của các cấp, các ngành và toàn xã hội.

Một khó khăn nữa trong việc tuyển dụng, quản lý, sử dụng cán bộ công chức trên địa bàn tỉnh là chế độ chính sách đối với công chức làm công tác thi hành án chưa hợp lý, chưa có chế độ đãi ngộ riêng. Nếu như nguồn tuyển dụng ở các tỉnh miền xuôi và các thành phố lớn rất dồi dào, một năm số lượng cử nhân luật được đào tạo xong, ra trường rất đông, không được tuyển dụng hết, có rất nhiều cử nhân luật ở trong tình trạng thất nghiệp. Thì nguồn tuyển dụng ở địa phương không có, lại không thể thu hút được nguồn tuyển dụng ở các địa phương khác đến do không có chế độ ưu đãi hợp lý. Mặc dù địa phương có chính sách thu hút, hỗ trợ đối với cán bộ công chức nhưng chỉ áp dụng với những ngành hưởng ngân sách địa phương, còn một số ngành hưởng ngân sách trung ương trong đó có thi hành án thì không được hưởng chính sách này. Điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh kém phát triển, giá cả đắt đỏ, đời sống của cán bộ công chức nói chung gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Ví dụ: một cử nhân luật được tuyển dụng vào đơn vị Thi hành án tỉnh với chức danh chuyên viên, hệ số lương là 2,34; hệ số khu vực là 0,5, sau khi trừ bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội thì mức lương thực nhận là 1.212.000 đồng. Với mức lương như vậy, công chức không đủ chi tiêu, trang trải cuộc sống, vì công chức còn phải thuê nhà giá bình quân là 300.000 đồng/tháng, giá cả sinh hoạt đắt đỏ, còn phải nộp công đoàn phí, đoàn phí, hoặc đảng phí, ủng hộ người nghèo, ủng hộ đồng bào bão lụt…ngoài lương ra, công chức làm công tác thi hành án không có chế độ ưu đãi nào khác, cuộc sống của công chức gặp rất nhiều khó khăn. Mặt khác, Lai Châu là một tỉnh nghèo, kinh tế kém phát triển, giao thông đi lại khó khăn. Vì vậy, việc tuyển dụng cán bộ vào ngành rất khó khăn. Cán bộ đã vào ngành thì có trường hợp không ổn định về tư tưởng, muốn xin chuyển ngành hoặc xin chuyển vùng để hợp lý hoá gia đình, có trường hợp không chịu được khó khăn đã tự ý bỏ việc hoặc vi phạm pháp luật, khiến cho đội ngũ công chức thi hành án đã thiếu lại càng thiếu.

Lai Châu là một tỉnh miền núi, chủ yếu là đồng bào dân tộc ít người sinh sống. Công chức làm công tác thi hành án chủ yếu là người ở miền xuôi và địa phương khác đến, không thông hiểu phong tục, tập quán, tiếng nói, chữ viết của đồng bào dân tộc, nên việc thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi hành án, thuyết phục các bên đương sự thoả thuận với nhau trong việc thi hành án gặp rất nhiều khó khăn so với một cán sự trình độ trung cấp pháp lý nhưng thông hiểu phong tục, tập quán và có cùng ngôn ngữ tiếng nói. Điều đó cũng có ảnh hưởng phần nào tới hiệu quả của công tác thi hành án tại địa phương.

3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong công tác tuyển chọn, quản lý, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với công chức.

Trong những năm qua, trên cơ sở được Bộ tư pháp giao chỉ tiêu biên chế, Thi hành án tỉnh đã lập kế hoạch xét tuyển dụng cán bộ, công chức trình Giám đốc Sở tư pháp phê duyệt đồng thời báo cáo về Bộ tư pháp. Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng, song vẫn chưa tuyển dụng đủ biên chế được giao nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.

* Nguyên nhân khách quan:

Lai Châu là một tỉnh miền núi, giao thông đi lại khó khăn, kinh tế kém phát triển, giá cả sinh hoạt đắt đỏ nên không thu hút được người tài, không có nguồn cán bộ để tuyển dụng.

Địa phương thiếu nguồn cán bộ để tuyển dụng, nguồn tuyển dụng ở các địa phương khác đến rất hạn chế. Do vậy chỉ tiêu biên chế còn nhiều nhưng không có nguồn để tuyển dụng.

* Nguyên nhân chủ quan:

Chế độ chính sách ưu đãi đối với cán bộ làm công tác thi hành án chưa phù hợp với yêu cầu công việc.

Cơ chế tuyển dụng, quản lý, sử dụng công chức làm công tác thi hành án còn nhiều bất cập, không tạo được sự thống nhất, đồng bộ trong việc quản lý nhân sự và quản lý chuyên môn nghiệp vụ, nên việc quản lý, điều hành của thi hành án tỉnh đối với thi hành án cấp huyện chưa đạt được hiệu lực và hiệu quả cao.

Các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác tổ chức, cán bộ của các cơ quan thi hành án dân sự địa phương ban hành còn chậm, chưa đồng bộ, kịp thời, gây khó khăn cho công tác triển khai thực hiện ở địa phương, khiến các cơ quan thi hành án dân sự còn gặp nhiều lúng túng trong việc kiện toàn bộ máy tổ chức, tuyển dụng, quản lý và sử dụng cán bộ, công chức. Một số nội dung lẽ ra phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn triển khai thực hiện nhưng đến nay Bộ tư pháp vẫn mới chỉ ban hành văn bản hướng dẫn ở dạng Công văn đã gây ra lúng túng cho các địa phương trong quá trình triển khai thực hiện.

Việc tổ chức họp Hội đồng tuyển chọn công chức cơ quan thi hành án (do Giám đốc Sở tư pháp làm chủ tịch hội đồng), họp hội đồng tuyển chọn chấp hành viên (do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh làm chủ tịch hội đồng) gặp nhiều khó khăn do Chủ tịch hội đồng bận rộn quá nhiều công việc, không sắp xếp được thời gian kịp thời.

PHẦN II

NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ KHẮC PHỤC NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ, KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC TRONG CÔNG TÁC TUYỂN CHỌN, QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VÀ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC TRONG THỜI GIAN TỚI.

Từ việc phân tích thực trạng, những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế đối với công tác tuyển chọn, quản lý, sử dụng và thực hiện chế độ, chính sách đối với công chức làm công tác thi hành án trên địa bàn tỉnh Lai Châu, chúng ta cần có những giải pháp để khắc phục tình trạng như hiện nay, nhằm mục đích làm tốt hơn nữa công tác tuyển chọn, quản lý và sử dụng cán bộ thi hành án, để các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh hoạt động đồng bộ, có hiệu quả hơn nữa, góp phần vào công cuộc cải cách hành chính và cải cách tư pháp.

Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu xin đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong công tác tuyển chọn, quản lý, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với công chức làm công tác thi hành án trên địa bàn tỉnh Lai Châu như sau:

1. Một số kiến nghị với Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh Lai Châu:

Xuất phát từ điều kiện tự nhiên của tỉnh có địa hình miền núi xa xôi, đi lại khó khăn, kinh tế – xã hội kém phát triển, nguồn nhân lực ở địa phương không có, nguồn tuyển dụng ở các địa phương khác đến rất hạn chế nên bản thân công tác tuyển dụng công chức và giữ được cán bộ công tác lâu dài trong ngành thi hành án trên địa bàn tỉnh là rất khó khăn. Đặc thù của công tác thi hành án là rất vất vả, muốn thi hành được một bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, thì cán bộ thi hành án phải đi xuống cơ sở là những bản, làng xa xôi, phương tiện giao thông không thể vào được, phải đi bộ mất cả ngày đường….đời sống của nhân dân còn nghèo nàn, lạc hậu nên nhiều khi không thực thi được bản án, quyết định của Toà án, dẫn đến tình trạng án tồn đọng, chế độ công tác phí cũng không thể đảm bảo được các chi phí cho chuyến công tác. Vì vậy đề nghị Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh cần tiếp tục ban hành chính sách thu hút, hỗ trợ đối với công chức đang và sẽ đến công tác trên địa bàn tỉnh, trong đó có cả công chức làm công tác thi hành án dân sự. Không nên có sự phân biệt trong chế độ thu hút, hỗ trợ giữa công chức đang công tác trong các ngành hưởng ngân sách địa phương và các ngành hưởng ngân sách trung ương như hiện nay. Bởi vì, công chức công tác trong ngành thi hành án dân sự cũng là phục vụ tình hình chính trị ở địa phương.

Đề nghị Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân triển khai nhanh và có hiệu quả chế độ cấp đất, hỗ trợ đất ở, nhà ở đối với công chức làm việc tại các cơ quan trên địa bàn tỉnh nói chung và các cơ quan thi hành án dân sự nói riêng. Để công chức làm công tác thi hành án khắc phục một phần khó khăn nhằm yên tâm công tác, gắn bó với địa phương, với ngành.

Đề nghị chính quyền địa phương quan tâm tạo điều kiện hỗ trợ cho các cơ quan thi hành án dân sự một phần về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, tạo được sự phấn khởi, hăng say công tác trong đội ngũ công chức làm công tác thi hành án, để hoạt động thi hành án đạt hiệu quả cao hơn.

Đề nghị Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân có chính sách mở những lớp đào tạo chuyên môn nghiệp vụ để tạo nguồn tuyển dụng ở địa phương, khắc phục tình trạng thiếu nguồn nhân lực tại chỗ như hiện nay.

2. Một số kiến nghị với Bộ tư pháp và Cục thi hành án dân sự:

Qua việc phân tích một số tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc về cơ chế quản lý như trên, Thi hành án tỉnh Lai Châu xin đề nghị Bộ tư pháp xem xét giao công tác tổ chức, cán bộ của các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương cho Cục thi hành án. Vì Cục thi hành án là một đơn vị thuộc Bộ, giúp Bộ quản lý công tác thi hành án trên phạm vi cả nước. Cục thi hành án quản lý, hướng dẫn về mặt nghiệp vụ đối với thi hành án dân sự địa phương. Cục thi hành án cũng là cơ quan thẩm định hồ sơ tuyển dụng công chức vào các cơ quan thi hành án địa phương. Trong khi đó, Cục thi hành án cũng có Phòng tổ chức riêng, nên chăng Bộ trưởng Bộ tư pháp giao cho Cục thi hành án quản lý cả về mặt tổ chức, cán bộ đối với các cơ quan thi hành án dân sự địa phương. Trên cơ sở đó, để thuận tiện cho việc thực hiện công tác tổ chức, cán bộ của các cơ quan thi hành án địa phương, Cục trưởng Cục thi hành án có thể uỷ quyền một số mặt của công tác tổ chức, cán bộ cho Trưởng thi hành án dân sự cấp tỉnh (Trưởng thi hành án dân sự cấp tỉnh trình báo cáo xin ý kiến phê duyệt của Cục thi hành án và Bộ trưởng Bộ tư pháp). Bởi vì Trưởng thi hành án tỉnh là người trực tiếp quản lý và sử dụng đối với công chức làm công tác thi hành án, là người am hiểu chuyên môn nghiệp vụ thi hành án, đánh giá được năng lực, trình độ của từng công chức trong đơn vị mình quản lý, do vậy sẽ có sự quy hoạch cán bộ chính xác và hợp lý. Với quy định như vậy, sẽ tạo được sự đồng bộ, thống nhất trong công tác quản lý, điều hành và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự địa phương. hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý của thi hành án tỉnh đối với thi hành án các huyện, thị sẽ được phát huy cả về mặt tổ chức cũng như mặt chuyên môn nghiệp vụ. Hoạt động thi hành án sẽ mang tính độc lập, chủ động, kịp thời, kết quả thi hành án sẽ cao hơn.

Bộ tư pháp và Cục thi hành án nên xem xét quy định  thành phần của Hội đồng tuyển chọn công chức và Hội đồng tuyển chọn chấp hành viên các cơ quan thi hành án dân sự địa phương. Với thành phần như hiện nay, Chủ tịch hội đồng bận rộn nhiều công việc, không chuyên trách về lĩnh vực thi hành án, chưa có sự quan tâm đúng mức đối với công tác thi hành án. Các thành viên hội đồng bao gồm cả một số lãnh đạo các phòng ban của Sở tư pháp, không có chuyên môn về lĩnh vực thi hành án, cũng không thể có sự hiểu biết chính xác về năng lực chuyên môn của công chức thi hành án nên việc tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm sẽ gặp nhiều khó khăn. Nên chăng, từ việc Bộ trưởng giao công tác tổ chức, cán bộ cho Cục thi hành án. Cục thi hành án uỷ quyền cho Trưởng thi hành án cấp tỉnh một số mặt của công tác tổ chức, cán bộ, thì sẽ quy định Trưởng thi hành án dân sự tỉnh là Chủ tịch hội đồng, các thành viên hội đồng phải là những người có chuyên môn về lĩnh vực thi hành án để việc xem xét, tuyển chọn được chính xác, chọn được người đủ đức, đủ tài đảm nhiệm công việc thi hành án đầy phức tạp, khó khăn.

Các văn bản pháp luật nên quy định rõ UBND tỉnh là cơ quan quản lý trực tiếp về mặt nhà nước đối với các cơ quan thi hành án dân sự địa phương, không qua nhiều cấp, nhiều ngành quản lý để đảm bảo tính chủ động trong công việc. Trưởng thi hành án tỉnh là người đứng đầu một ngành, nên được tham gia vào các kỳ họp của UBND và HĐND tỉnh, trực tiếp báo cáo và giải trình khi cần thiết về công tác thi hành án dân sự địa phương, có những đề xuất với địa phương để giải quyết những tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong công tác thi hành án. Có như vậy, công tác thi hành án mới có được sự quan tâm đúng mức từ phía Chính quyền địa phương và nâng cao được hiệu quả hoạt động.

Đề nghị Bộ tư pháp và Cục thi hành án dân sự nhanh chóng thông qua đề án triển khai thực hiện các quy định pháp luật có liên quan đến chức danh thẩm tra viên, thẩm tra viên chính, thẩm tra viên cao cấp của các cơ quan thi hành án dân sự địa phương.

Xuất phát từ việc Lai Châu là một tỉnh miền núi, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, thực trạng các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh hiện nay còn thiếu rất nhiều biên chế so với chỉ tiêu biên chế được phân bổ (Đội ngũ công chức thi hành án toàn tỉnh Lai Châu hiện nay còn thiếu 22 biên chế), không có nguồn để tuyển dụng. Do vậy, Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu đề nghị vẫn được áp dụng hình thức tuyển chọn công chức là xét tuyển. Đối với cán bộ lãnh đạo, dựa trên trình độ, năng lực chuyên môn, kinh nghiệm công tác, uy tín với đồng nghiệp để đề nghị Bộ tư pháp bổ nhiệm vào các chức danh lãnh đạo.

Địa bàn tỉnh Lai Châu chủ yếu là đồng bào dân tộc ít người sinh sống. Cán bộ làm công tác thi hành án đa phần không phải là người địa phương, phần nhiều mới được tuyển dụng vào ngành, nên không am hiểu tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán của người địa phương. Sự bất đồng về ngôn ngữ, khác biệt về phong tục tập quán khiến cho công chức làm công tác thi hành án rất khó tiếp cận với nhân dân, không thể giải thích cho họ hiểu và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong việc thi hành án. Do đó ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của công tác thi hành án. Từ thực tế đó, Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu đề nghị Bộ tư pháp và Cục thi hành án dân sự cho Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu và Thi hành án các tỉnh miền núi biên giới, tỉnh thuộc vùng sâu vùng xa đặc biệt khó khăn được tuyển dụng người dân tộc thiểu số, am hiểu tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh, có trình độ văn hoá: phổ thông cơ sở (tốt nghiệp lớp 9), trình độ chuyên môn: trung cấp pháp lý vào làm việc tại các cơ quan thi hành án địa phương với tỷ lệ không quá 40%/ tổng số biên chế đơn vị. Khi thực hiện công tác thi hành án, sẽ có chấp hành viên hoặc chuyên viên đi kèm hướng dẫn nghiệp vụ, những cán bộ này dùng tiếng nói, ngôn ngữ, phong tục của địa phương để thuyết phục được đương sự sẽ có hiệu quả hơn. như vậy, hiệu quả công tác thi hành án sẽ được nâng lên.

Đề nghị Bộ tư pháp và Cục thi hành án giới thiệu nguồn tuyển dụng cho các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh miền núi, biên giới vùng sâu vùng xa, liên hệ với Trường đại học luật hà nội, khoa luật của các trường đại học khác, khuyến khích sinh viên mới ra trường lên nhận công tác tại các cơ quan tư pháp các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa trong đó có các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu. muốn thực hiện được điều đó thì bộ cần ban hành chính sách thu hút hợp lý đối với các đối tượng này, để họ tình nguyện, yên tâm công tác, gắn bó với địa phương, với ngành.

Hiện nay, đội ngũ công chức và chấp hành viên làm công tác thi hành án trên địa bàn tỉnh Lai Châu còn thiếu rất nhiều. Cán bộ phần lớn mới được tuyển dụng nên chưa đủ điều kiện về thời gian công tác để được dự học lớp đào tạo nghiệp vụ thi hành án, là một trong những tiêu chuẩn để được bổ nhiệm chấp hành viên. Nếu áp dụng đúng tiêu chuẩn về thời gian để được cử đi học và được đề nghị bổ nhiệm chấp hành viên, thì rất khó khăn đối với các cơ quan thi hành án trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Vì vậy, đề nghị Bộ tư pháp và Cục thi hành án xem xét ưu tiên tiêu chuẩn học lớp nguồn chấp hành viên đối với cán bộ thi hành án chưa đủ năm công tác nhưng có năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức tốt vẫn được xét tuyển thi đầu vào lớp nguồn chấp hành viên. Có trường hợp cho nợ tiêu chuẩn chấp hành viên hoặc bổ nhiệm đặc cách về thời gian.

Đề nghị Bộ tư pháp và Cục thi hành án dân sự không xem xét giải quyết cho trường hợp công chức thi hành án trên địa bàn tỉnh Lai Châu chuyển công tác sang ngành khác hoặc chuyển vùng khi chưa phục vụ đủ 5 năm trong ngành thi hành án trên địa bàn tỉnh Lai Châu; không xem xét giải quyết cho chấp hành viên chuyển ngành để tiếp tục khắc phục có hiệu quả tình trạng thiếu chấp hành viên và thiếu cán bộ làm công tác thi hành án dân sự như hiện nay ở tỉnh Lai Châu.

Cục thi hành án dân sự đã có Công văn số 808/THA – HC.TH.TV ngày 13/6/2007 gửi Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong đó quy định rõ: “Trưởng thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương rà soát, xem xét, nếu thấy đủ các điều kiện để thành lập chi bộ, công đoàn cơ sở và Chi đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, thì lập đề án báo cáo Cấp uỷ Đảng địa phương và các cơ quan có thẩm quyền để thành lập các tổ chức này  ở cơ quan thi hành án dân sự theo đúng quy định của Điều lệ Đảng, Điều lệ Đoàn và luật tổ chức công đoàn”. Do công văn 808/THA – HC.TH.TV chỉ gửi riêng Thi hành án tỉnh nên thi hành án tỉnh nhiều khi giữ ý không dám đề xuất thành lập. Vậy đề nghị Bộ tư pháp và Cục thi hành án có văn bản về vấn đề này gửi cấp uỷ, Chính quyền địa phương và sở tư pháp các tỉnh để biết, tạo điều kiện khi tỉnh nào có đủ điều kiện tách, thành lập thì sẽ tiến hành thực hiện theo quy định.

3. Một số giải pháp về chế độ, chính sách đối với công chức làm công tác thi hành án trên địa bàn tỉnh Lai Châu.

Cần có một chế độ đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ làm công tác tư pháp trong đó có đội ngũ cán bộ thi hành án là vấn đề đã được đề cập trong Nghị quyết số 49/NQ – TW ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của bộ chính trị. Vì vậy, đề nghị Bộ tư pháp xây dựng Đề án về chế độ đãi ngộ đặc thù cho cán bộ công chức làm công tác thi hành án, xây dựng cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức đủ tài vào làm việc ở các cơ quan thi hành án dân sự địa phương. cụ thể:

- Ban hành chính sách thu hút đối với những công chức ở tỉnh khác và sinh viên mới ra trường tình nguyện nhận công tác tại các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu, quy định mức thu hút cụ thể, phù hợp đối với từng đối tượng: công chức chuyển tỉnh được hưởng mức thu hút là bao nhiêu; sinh viên tốt nghiệp loại giỏi được hưởng mức thu hút là bao nhiêu; sinh viên tốt nghiệp loại khá được hưởng mức thu hút là bao nhiêu; sinh viên tốt nghiệp loại trung bình được hưởng mức thu hút là bao nhiêu.

- Hiện nay đã có quy định về việc hưởng phụ cấp ngành đối với chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự, theo đó chấp hành viên cấp tỉnh được hưởng 25% tiền lương, chấp hành viên cấp huyện được hưởng 30% lương. Còn cán bộ làm công tác thi hành án thì không được hưởng phụ cấp ngành (trong khi đó thư ký toà án nhân dân đã được hưởng phụ cấp ngành). Chế độ như vậy vẫn chưa hợp lý vì đặc thù của công tác thi hành án là một công việc rất khó khăn, phức tạp. Thực tế ở các cơ quan THA do còn thiếu chấp hành viên, nên cán bộ THA đã phải đảm đương nhiều loại công việc của chấp hành viên từ việc đôn đốc xác minh đến tham gia tổ chức cưỡng chế THA; chấp hành viên - người có quyền năng pháp lý thì phải chịu rất nhiều áp lực do lượng án lớn phức tạp, địa bàn đi lại khó khăn, người phải THA tập trung nhiều ở án ma tuý, không có điều kiện THA…chính vì vậy nếu không có chế độ ưu đãi hợp lý sẽ không thể giữ được công chức gắn bó và tận tâm với ngành. Đề nghị Bộ tư pháp xem xét ban hành chế độ phụ cấp ngành hợp lý đối với chấp hành viên và công chức cơ quan thi hành án dân sự.

- Trên địa bàn tỉnh Lai Châu phần lớn cán bộ trong đó có cán bộ làm công tác thi hành án vẫn đang phải thuê nhà. Giá thuê nhà cũng rất đắt, nhiều gia đình công chức sống rất chật chội, tạm bợ nhưng không có điều kiện kinh tế để mua nhà. Tâm lý cán bộ không thể yên tâm công tác, bởi vì như người xưa đã nói: “an cư mới lạc nghiệp”. Chính vì vậy đề nghị Bộ tư pháp có chính sách hỗ trợ thuê nhà hàng năm đối với những công chức chưa có nhà ở, vẫn còn đang phải đi thuê nhà, nhằm chia sẻ một phần gánh nặng về tài chính đối với công chức để họ yên tâm công tác hơn.

Cũng như đã phân tích ở trên, điều kiện sống của công chức trên địa bàn tỉnh còn gặp rờt nhiều khó khăn, đồng lương không đủ trang trải cho cuộc sống thường ngày. Khung giá đất trên địa bàn tỉnh Lai Châu lại quy định quá cao, nhiều đối tượng thuộc diện được cấp đất nhưng không có tiền nộp để lấy đất. Để tạo điều kiện cho công chức của tỉnh nói chung và công chức thi hành án nói riêng có đất ở, nhà ở, gắn bó và phục vụ lâu dài tại địa phương, bên cạnh chính sách cấp đất và hỗ trợ một phần tiền cấp đất của địa phương, đề nghị Bộ tư pháp xem xét có thể hỗ trợ một phần kinh phí để công chức thi hành án có điều kiện nhà ở, đất ở.

Bên cạnh đó, Bộ cũng xem xét phê duyệt kinh phí xây dựng nhà công vụ tại công sở của các cơ quan Thi hành án dân sự, để tạo điều kiện về nhà ở bước đầu cho cán bộ mới vào ngành và công tác luân chuyển cán bộ.

Trên đây là chuyên đề về thực trạng và giải pháp thực hiện công tác tuyển chọn, quản lý, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với công chức làm công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Lai Châu nói riêng và tỉnh miền núi biên giới, vùng sâu vùng xa khó khăn nói chung.

Rất mong sự quan tâm của các cấp các ngành để công tác thi hành án dân sự tại địa phương đạt được kết quả cao hơn.


Phụ lục 1

BÁO CÁO KẾT QUẢ KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC

 

        I. MỤC ĐÍCH - YÊU CẦU

        Việc tiến hành khảo sát xã hội học nhằm các mục đích sau:

        + Đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách thu hút, tuyển chọn và chế độ chính sách đối với cán bộ thuộc ngành Tư pháp;

        + Đánh giá tính cấp thiết của việc xây dựng các chính sách để thu hút, tuyển chọn và đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ thuộc ngành Tư pháp.

        II. NỘI DUNG CỤ THỂ

        1. Đối tượng khảo sát

        Đề án tiến hành khảo sát nhiều đối tượng có liên quan đến việc thực hiện chính sách thu hút, tuyển chọn và chế độ chính sách đối với cán bộ công chức ngành Tư pháp, bao gồm các thành phần đại diện sau đây: người quản lý, sử dụng công chức, viên chức tại một số đơn vị thuộc Bộ, Sở Tư pháp, cơ quan Thi hành án dân sự địa phương; công chức, viên chức của Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Cơ quan thi hành án dân sự; sinh viên trường luật. Số lượng khảo sát: 687 phiếu.

        1.1. Người quản lý và sử dụng cán bộ, công chức

        Trực tiếp đề nghị thủ trưởng một số đơn vị thuộc Bộ trả lời vào phiếu khảo sát  Mẫu 1, gửi mẫu phiếu khảo sát tới đại diện lãnh đạo của một số Sở Tư pháp và cơ quan Thi hành án dân sự địa phương.  

        1.2. Công chức, viên chức của Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Cơ quan thi hành án dân sự

        Đề án tiến hành khảo sát ở tất cả các đơn vị thuộc Bộ và đại diện của hơn 20 Sở Tư pháp, cơ quan Thi hành án dân sự địa phương, đối với 100 công chức, viên chức của Bộ ; 192 công chức, viên chức của Sở Tư pháp, 120 công chức, viên chức của cơ quan Thi hành án dân sự địa phương.

        1.3. Sinh viên luật :

        Đề án tiến hành khảo sát 107 sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội.       

   2. Cách thức thực hiện

        2.1 Xây dựng mẫu phiếu khảo sát:

        Xây dựng 3 mẫu phiếu khảo sát phù hợp với các đối tượng.

        Mẫu 1: Dành cho người quản lý, sử dụng công chức, viên chức.

        Mẫu 2 (lần 1) : Dành cho công chức, viên chức tại cơ quan Bộ Tư pháp        Mẫu 2 (lần 2): Dành cho công chức, viên chức của Sở Tư pháp.

        Mẫu 2: (lần 3): Dành cho công chức của cở quan Thi hành án dân sự địa phương;

        Mẫu 3: Dành cho sinh viên luật.

        2.2. Phương pháp tiến hành khảo sát

        - Theo yêu cầu chung của hoạt động khảo sát xã hội học.

        - Thông qua những người có thẩm quyền của các đơn vị có liên quan (ký hợp đồng) tiến hành thực hiện việc phát và thu phiếu khảo sát.

        3. Việc triển khai khảo sát trên thực tế

        - Số lượng phiếu phát ra: 687 phiếu

        - Số lượng phiếu thu về: 687 phiếu

        III. QUY TRÌNH TỔNG HỢP, PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ VIẾT BÁO CÁO KHẢO SÁT

        1. Thu thập phiếu khảo sát.

        2. Thiết kế phần mềm tin học cho việc tổng hợp và phân tích dữ liệu và mã hoá các câu hỏi khảo sát.

        3. Nhập thông tin khảo sát của các phiếu vào máy tính (trên cơ sở phần mềm đã thiết kế).

        4. Dùng các lệnh (thuật toán) để tìm ra các số liệu cần rút ra từ cuộc khảo sát.

        5. Viết Báo cáo kết quả khảo sát dựa trên cơ sở các số liệu được rút ra từ các phiếu khảo sát.

        IV. BÁO CÁO KẾT QUẢ KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC

        Trên cơ sở các dữ liệu khảo sát, cho phép chúng tôi rút ra một số kết luận cơ bản như sau:

PHẦN 1

ĐỐI VỚI NGƯỜI QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC

168 phiếu phát ra và 186 phiếu thu về

 1. Việc tuyển dụng, tiếp nhận công chức, viên chức tại cơ quan đồng chí công tác căn cứ vào tiêu chí nào dưới đây?

        168/168 người trả lời câu hỏi này, với các phương án trả lời sau:

+ Chỉ tiêu biên chế được giao: 37 (22%)          

+ Nhu cầu công việc 10 (6%)                                                        

+ Cả hai tiêu chí trên:  121 (72%)                                       

        + Tiêu chí khác: 0

2. Cơ quan đồng chí có nhu cầu tuyển dụng công chức, viên chức không?

        168/168 người trả lời câu hỏi này, với các phương án trả lời sau:

        Có: 164 (97,6%)

        Không: 1 (0,6%)

        Không có ý kiến: 3 (1,8%)           

        Trong 164 người trả lời có, thì họ đưa ra các lý do sau:

        + Người có trình độ trên đại học, người tốt nghiệp đại loại giỏi trở lên:  25 (15%)     

        + Người tốt nghiệp đạt loại từ khá trở xuống: 26 (16%)                                              

        + Cả hai trường hợp trên: 117 (71%)                                   

3. Cơ quan đồng chí có tuyển dụng đủ công chức, viên chức không?

        Với câu hỏi này thì có các phương án sau:

+ Đủ: 49 (29,2%)

+ Không đủ 54 (32,1%)

+ Không có ý kiến: 65 (38,7%)                       

Trong 54 người trả lời chưa đủ là do đối tượng dưới đây:

- Người có trình độ trên đại học, người tốt nghiệp đại loại giỏi: 14 (8%)         

- Người tốt nghiệp đạt loại từ khá trở xuống: 18 (11%)                                       

- Cả hai trường hợp trên: 86 (51%)                                                            

4. Theo đồng chí, trong trường hợp không tuyển dụng đủ công chức, viên chức, cần áp dụng  những biện pháp nào dưới đây ?

        Trả lời câu hỏi này có 118 (70%) người chỉ ra cần phải đổi mới chính sách tiền lương hiện hành, ngoài ra còn có các ý kiến sau:

+ Thực hiện xét tuyển vào biên chế: 85 (51%)                                      

+ Hỗ trợ kinh phí ban đầu khi tuyển dụng vào biên chế: 44 (26%)                  

+ Ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở để ổn định công tác: 43 (26%)                                     

+ Tạo điều kiện cho vợ hoặc chồng có việc làm ổn định tại địa phương: 40 (24%)     

+ Ưu tiên cử đi học tập nâng cao trình độ: 56 (33%)                                     

5. Theo đồng chí, có cần áp dụng các biện pháp để thu hút người có trình trên đại học và người tốt nghiệp đạt loại giỏi trở lên về công tác tại cơ quan đông chí?

          Trả lời câu hỏi này , có các phương án đặt ra như sau:

+ Có: 156 (92,9%) 

+ Không: 3 (1,8%)

+ Không có ý kiến: 9 (5,4%)               

Trong 156 người trả lời có , đã chỉ ra các biện pháp để thực hiện như sau:

- Thực hiện xét tuyển vào biên chế: 70 (42%)                                       

- Hỗ trợ kinh phí ban đầu khi tuyển dụng vào biên chế: 56 (33%)        

- Đổi mới chính sách tiền lương hiện hành: 125 (74%)                                     

- Ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở để ổn định công tác: 43 (26%)                                       

- Tạo điều kiện cho vợ hoặc chồng có việc làm ổn định tại địa phương: 52 (31%)       

- Ưu tiên cử đi học tập nâng cao trình độ: 60 (36%)                              

- Cải thiện môi trường làm việc: 64 (38%)                                             

- Bố trí đúng khả năng, năng lực, sở trường làm việc: 95 (57%)            

- Biện pháp khác: 3 (2%)

6. Đồng chí ủng hộ việc áp dụng hình thức nào dưới đây để tuyển chọn chức danh lãnh đạo (từ cấp phó của người đứng đầu trở xuống) tại cơ quan đồng chí ?

        Trả lời câu hỏi này có các hình thức tuyển chọn sau:

         + Thực hiện quy trình như hiện nay: 42 (25%)                                                           

         + Thi tuyển chức danh lãnh đạo: 32 (19)                                                                    

         + Kết hợp cả thi tuyển và thực hiện quy trình như hiện nay: 91 (54,2)                    

         + Hình thức khác:  3 (1,8%)

7. Theo Đồng chí, tiền lương hiện tại đáp ứng được khoảng bao nhiêu phầm trăm (%) chi tiêu hàng tháng của công chức, viên chức trong cơ quan?

Trả lời câu hỏi này có các phương án đặt ra như sau:

+ Từ 50% trở xuống: 63 (38%)                     

+ Trên 50- đến 80% : 6 (4%)               

+ Trên 80- đến 100%: 97 (58%)                    

+ Trên 100%: 1 (1%)               

+ Ý kiến khác: 1 (1)

8. Theo đồng chí, có cần đổi mới chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với công chức, viên chức ngành Tư pháp?

          Trả lời câu hỏi này có 165 người (98,2%) người trả lời cần thiết phải đổi mới chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với công chức, viên chức và 03 người cho là không cần. 165 người trả lười có đã đưa ra các giải pháp sau:

        - Tăng lương cơ bản: 81 (48%)                                                                                  - Xây dựng và áp dụng phụ cấp công vụ: 84 (50%)                                          - Xây dựng và áp dụng phụ cấp theo thâm niên: 98 (58%)                            

- Xây dựng và áp dụng phụ cấp lương khác phù hợp với công việc đang đảm nhận: 82 (49%)    

        - Xét nâng bậc lương thường xuyên hằng năm: 30 (18%)                              

- Hình thức khác: 5 (3%)

9. Cơ quan đồng chí công tác có thường xuyên tiến hành việc đánh giá công chức, viên chức không?

          Có 164 người (97,6%) trả lời là có và 4 người (2,4%)  trả lời là không.

10. Theo đồng chí, việc đánh giá công chức, viên chức tại cơ quan đồng chí đã đảm bảo tính khách quan, dân chủ, chính xác chưa?

          Trả lời câu hỏi này có các phương án trả lời sau:

          + Thực sự khách quan, dân chủ, chính xác: 129 (76,8%)                         

          + Chưa thực sự khách quan, dân chủ, chính xác: 33 (19,6%)                             

            + Ý kiến khác: 5 (3%)

          + Không có ý kiến: 1 (0,6%)

11. Theo đồng chí, số lượng công chức, viên chức tại cơ quan đồng chí hoàn thành công việc đạt tỷ lệ là ?

          Trả lời câu hỏi này có các phương án sau:

          + Trên 80 %: 108 (64,3%)        

+  Từ 50 đến 80% : 57 (33,9%)

+  Dưới 50%: 1 (0,6%)

+  Không có ý kiến: 2 (1,2%)      

12. Theo đồng chí, có cần đổi mới và thực hiện nghiêm túc cơ chế thay thế những người không hoàn thành nhiệm vụ ra khỏi các cơ quan thuộc ngành Tư pháp không ?

        Trả lòi câu hỏi này, đa số người được hỏi trả lời là cần (76,8%), và các ý kiến khác là:

+ Không cần: 33 (19,6%)

+ Ý kiến khác: 5 (3%)

+ Không có ý kiến: 1 (0,6%)

13. Có hiện tượng công chức, viên chức cơ quan đồng chí công tác bỏ việc ra làm việc tại khu vực ngoài nhà nước không?

          Trả lời câu hỏi này có các phương án trả lời sau:

           + Có: 89 (53%)                                                                

            + Không: 25 (15%)

           + Không có ý kiến: 54 (32%)         

Nếu có thì theo đồng chí là do:

-        Lương thấp: 71 (42%)                                       

-   Chế độ đãi ngộ chưa đảm bảo: 62 (37%)             

-        Môi trường làm việc chưa tốt: 32 (19%)                

-   Ý kiến khác: 4 (12%)

        PHẦN 2

ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CƠ QUAN BỘ TƯ PHÁP

Số phiếu phát ra: 100

Số phiếu thu về: 100

1. Thông tin cá nhân người được hỏi

Số năm công tác:

- Dưới 5 năm: 28 người (28%)                  

- Từ 5 đến 10 năm: 28 người (28%)

- Trên 10 năm: 24 người (24%)

-  Không trả lời: 20 người (20%)

2. Theo anh/chị, hình thức nào dưới đây là phù hợp trong tuyển dụng công chức, viên chức?

Trả lời câu hỏi này có các phương án trả lời sau:

-  Thi tuyển: 77 (77%)

-  Xét tuyển: 13 (13%)                    

-  Ý kiến khác: 10 (10%)

3. Việc tuyển dụng công chức, viên chức ở cơ quan đơn vị anh/chị công tác có đảm bảo tính khách quan, trung thực không?

          Trả lời câu hỏi này có 82 người (82%) người trả lời là đảm bảo, còn lại là 8 người (8%) cho là chưa đảm bảo và 10 người chiếm (10%) có ý kiến khác.

4. Cơ quan, đơn vị anh/chị đang công tác có áp dụng chính sách ưu tiên nào để thu hút những người có trình độ trên đại học, tốt nghiệp đại học đạt loại giỏi về công tác không?

          Trả lời câu hỏi này có 66 người (66%) trả lời là có và 32 người (32%) trả lời là không và 2 người (2%) không có ý kiến.                                     

Nếu có, Anh/Chị cho biết đó là chính sách ưu tiên nào?

-        Ưu tiên xét tuyển vào biên chế: 48 (48%)

-        Hỗ trợ kinh phí ban đầu đối sau khi được tuyển dụng vào biên chế: 0

-        Ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở, đất ở để ổn định công tác: 0

-        Tạo điều kiện cho vợ hoặc chồng có việc làm ổn định tại địa phương: 0

-        Ưu tiên đi học tập nâng cao trình độ: 6 (6%)

-        Ý kiến khác: 2 (2%)

-        Không có ý kiến: 44 (44%)

5. Theo anh/chị, việc phân công công tác đối với công chức, viên chức sau khi trúng tuyển vào cơ quan đơn vị mình có phù hợp hay không?

          Trả lời câu hỏi này có các phương án trả lời sau:

-        Phù hợp: 50/100 (50%)

-        Không phù hợp: 30/100 (30%)            

-        Ý kiến khác: 20/100 (20%)

Nếu không phù hợp, đề nghị anh/chị cho lý do tại sao và biện pháp khắc phục?

30 người trả lời không phù hợp đưa ra các lý do sau:

-        Cần dự vào kết quả học tập và thi tuyển để bố trí công tác;

-        Quản lý đa lĩnh vực, nhưng tuyển dụng lại chung, nên phân rõ tuyển dụng vào đơn vị nào, sau đó cần làm tốt công tác luân chuyển cho phù hợp;

-        Cần thực hiện các biện pháp công khai, lưu tâm tới nguyện vọng của người được tuyển dụng;

-        Lãnh đạo phải nắm được nguyện vọng, tâm tư của ứng viên để có thể phân công hiệu quả;

-        Việc phân công chưa dựa trên các yếu tố về chuyên ngành đào tạo và nguyện vọng;

-        Cần có phiếu tham khảo nguyện vọng của cán bộ công chức khi trúng tuyển muốn vào đơn vị nào;

-        Đào tạo chuyên ngành nhưng khi phân công công tác k đúng với chuyên ngành được đào tạo...

6. Theo anh/chị, các quy định về bổ nhiệm cán bộ cán bộ lãnh đạo hiện nay có phù hợp không?

          Trả lời câu hỏi này, có 66 người (66%) trả lời là phù hợp và 32 người (26%) trả lời là không phù hợp và 8 người (2%) không có ý kiến.                  

Nếu không phù hợp, đề nghị Anh/Chị cho biết lý do tại sao và biện pháp khắc phục?

          32 người trả lời không phù hợp đưa ra các lý do sau:

-        Vì còn chưa dựa trên một số tiêu chuẩn nhất định như kinh nghiệm, thâm niên công tác;

-        Cần có sự thay đổi về quy trình bổ nhiệm;

-        Cần chuẩn hóa điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm và cần công khai, minh bạch quy trình bổ nhiệm;

-        Còn nhiều thủ tục rườm rà, kéo dài;

-         Đôi lúc mang tính hình thức đặc biệt là bổ nhiệm lại;

-        Các ý kiến đánh giá tập thể hoặc quyết định cá nhân nhiều lúc còn thiên lệch, chưa được coi trọng;

-        Có một vài lãnh đạo chưa xưng đáng với vị trí của mình (thiếu năng lực, thiếu tu dưỡng đạo đức, động cơ công tác trong ngành tư pháp k đúng đắn...);

-        Phải tổ chức thi tuyển;

-        Vì thực tế có một số lãnh đạo được bổ nhiệm nhưng k đảm đương được công việc ở vị trí này cần quan tâm hơn ý kiến đánh giá của tập thể cán bộ nơi người được cử công tác.

7. Theo anh/chị, việc thực hiện quy trình bộ nhiệm các chức danh lãnh đạo tại cơ quan đơn vị đã đảm bảo tính khách quan, dân chủ, công khai chưa?

          Trả lời câu hỏi này, có 60 người (60%) trả lời là đảm bảo và 28 người (28%) trả lời là đảm bảo và 12 người (12%) có ý kiến khác

8. Theo anh/chị, các quy định về quy hoạch cán bộ hiện nay có phù hợp không?

Trả lời câu hỏi này, có 54 người (54%) trả lời là có và 30 người (30%) trả lời là không và 6 người (6%) có ý kiến khác

9. Cơ quan, đơn vị anh/chị đang công tác có đủ nguồn cán bộ thuộc diện quy hoạch các chức danh lãnh đạo không?

     Trả lời câu hỏi này, có 60 người (60%) trả lời là có và 32 người (32%) trả lời là không, 4 người (4%) có ý kiến khác và 2 người (2%) không có ý kiến.

10. Anh/Chị cho biết, cơ quan, đơn vị mình áp dụng hình thức nào để bổ nhiệm chức danh lãnh đạo?

       Trả lời câu hỏi này có các phương án trả lời sau:

- Thực hiện theo quy định hiện hành: 96 (96%)           

- Thi tuyển chức danh lãnh đạo: 2 (2%)

- Kết hợp hai hình thức trên: 2 (2%)

- Hình thức khác: 0

11. Anh/Chị cho biết những công việc được giao có phù hợp với năng lực chuyên môn và sở trường của mình không?

Trả lời câu hỏi này, có 82 người (82%) người trả lời là phù hợp, còn lại là 14 người (8%) cho là không phù hợp và 4 người chiếm (4%) có ý kiến khác.

12. Anh/Chị cho biết việc đào tạo bồi dưỡng công chức, viên chức tại cơ quan đơn vị đã phù hợp chưa?

          Trả lời câu hỏi này có các phương án sau:

- Phù hợp: 54 (54%)

- Chưa phù hợp: 42 (42%)                        

- Ý kiến khác: 4 (4%)

13. Anh/Chị cho biết, cơ quan, đơn vị mình đang công tác có thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho công chức, viên chức không?

Trả lời câu hỏi này, có 74 người (74%) trả lời là có và 24 người (24%) trả lời là không và 2 người (2%) có ý kiến khác.

14. Theo anh/chị, công chức, viên chức tại cơ quan đơn vị mình có nhiệt tình với công việc được giao không?

          Trả lời câu hỏi này có các phương án trả lời sau:

-  Nhiệt tình: 44 (44%)

-  Không nhiệt tình: 18 (18%)         

-  Ý kiến khác: 38 (38%)

15. Anh/Chị cho biết việc đánh giá công chức, viên chức tại cơ quan đơn vị có đảm bảo tính khách quan, dân chủ, chính xác không?

          Trả lời câu hỏi này có các phương án trả lời sau:

-  Đảm bảo: 52 (52%)

- Chưa đảm bảo: 38 (38%)                        

- Ý kiến khác: 6 (6%)

-  Không có ý kiến: 4 (4%)

16. Anh/chị cho biết ý kiến của mình về chất lượng đội ngũ công chức, viên chức của đơn vị hiện nay:

          Trả lời câu hỏi này có các phương án trả lời sau:

- Số công chức, viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ: Từ 80% đến 100 %:  42 (42%)

- Số công chức, viên chức hoàn thành nhiệm vụ: Từ 50 đến dưới 80%: 46 (46%)

- Số công chức, viên chức chưa hoàn thành nhiệm vụ: Dưới 50%: 12 (12%)

- Ý kiến khác: 4 (4%)

17. Anh/Chị cho biết chế độ khen thưởng hiện nay có ảnh hưởng như thế nào tới cán bộ, công chức?

Trả lời câu hỏi này, có 70 người (70%) trả lời là ảnh hưởng chưa tốt và 18 người (18%) trả lời là ảnh hưởng tốt và 12 người (12%) có ý kiến khác.

18. Trường hợp chế độ khen thưởng ảnh hưởng chưa tốt, theo anh/chị vì lý do:

          Trả lời câu hỏi có các phương án trả lời sau:

- Khen thưởng còn nặng hình thức: 48 (48%)            

- Chưa linh hoạt, còn cứng nhắc: 32 (32%)                 

- Chưa có cơ chế khen thưởng phù hợp: 14 (34%)

- Lý do khác: 8 (8%)

19. Theo anh/chị, chế độ tiền lương tại cơ quan đơn vị mình đã đáp ứng được bao nhiêu % chi tiêu hàng tháng của mình?

Trả lời câu hỏi này, có 92 người (92%) trả lời là dưới 50% và 8 người (8%) trả lời là từ 50-100%.

20. Anh/Chị có thu nhập nào khác (ngoài tiền lương) từ hoạt động chuyên môn tại đơn vị mình không?

Trả lời câu hỏi này, có 34 người (34%) trả lời là có và 66 người (66%) trả lời là không.

Nếu có, anh/chị cho biết, khoản thu nhập đó bằng bao nhiêu % tiền lương của anh/chị

-  Dưới 50%: 24 (24%)

-  Từ 50-100%: 4 (4%)

-  Trên 100%: 2 (2%)

-  Ý kiến khác: 4 (4%)

-  Không có ý kiến: 66 (66%)

21. Theo anh/chị cần phải đổi mới chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ như thế nào để thu hút cán bộ?

          Trả lời câu hỏi này có các phương án trả lời sau:

- Nâng lương tối thiểu: 72 (72%)

- Xây dựng chế độ phụ cấp công vụ: 58 (58%)

- Xây dựng các chế độ phụ cấp khác phù hợp với đặc thù công việc đang đảm nhiệm: 62 (62%)

- Phụ cấp thâm niên công tác:  40 (40%)

- Ý kiến khác: 4 (4%)

22. Theo anh/chị, các trang thiết bị và điều kiện làm việc có đảm bảo yêu cầu thực hiện nhiệm vụ được giao hay không?

Trả lời câu hỏi này, có 78 người (78%) trả lời là có và 20 người (20%) trả lời là không, 2 người (2%) trả lời là không có ý kiến.

23. Anh/ Chị có ý định chuyển công tác ra khỏi ngành Tư pháp không?

Trả lời câu hỏi này, có 32 người (32%) trả lời là có và 44 người (44%) trả lời là không, 24 người (24%) trả lời là có ý kiến khác.

24. Theo anh/chị, tình trạng công chức, viên chức xin thôi việc hoặc chuyển công tác ra khỏi ngành Tư pháp là do?

Trả lời câu hỏi này, có các phương án trả lời sau:

-  Lương thấp: 84 (84%)

-  Môi trường làm việc không tốt: 54 (54%)

-  Công việc không hấp dẫn: 12 (12%)

-  Ý kiến khác: 10 (10%)

25. Theo anh/chị, cần phải có những chính sách gì để thu hút những người có trình độ trên đại học, tốt nghiệp đại học đạt loại giỏi vào công tác tại cơ quan đơn vị mình?

          Trả lời câu hỏi này có các phương án sau:

- Đổi mới chính sách tiền lương: 76/100 (76%)

- Có chính sách hỗ trợ nhà ở: 68/100 (68%)

- Có chính sách hỗ trợ thu nhập:  72/100 (72%)

- Ưu tiên tuyển dụng: 56/100 (56%)

- Ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng: 52/100 (52%)

- Ưu tiên bổ nhiệm đề bạt: 44/100 (44%)

- Cải thiện môi trường làm việc: 58/100 (58%)

- Có chế độ khen thưởng chính xác, kịp thời: 50/100 (50%)

- Ý kiến khác: 2/100 (2%)

PHẦN 3

ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC SỞ TƯ PHÁP

Số phiếu phát ra: 192

Số phiếu thu về: 192

1. Thông tin cá nhân người được hỏi (Phần này không bắt buộc):

Số năm công tác:

- Dưới 5 năm: 42 (22%)                  

- Từ 5 đến 10 năm: 32 (17%)

- Trên 10 năm: 58 (30%)

-  Không trả lời: 60 (31%)

2. Theo anh/chị, hình thức nào dưới đây là phù hợp trong tuyển dụng công chức, viên chức?

     Trả lời câu hỏi này có 152 người (79%) trả lời thi tuyển và 40 người (21%) trả lời là xét tuyển.                    

3. Việc tuyển dụng công chức, viên chức ở cơ quan đơn vị anh/chị công tác có đảm bảo tính khách quan, trung thực không?

     Trả lời câu hỏi này, có 168 người (88%) trả lời là đảm bảo, 14 người (7%) trả lời là chưa đảm bảo và 10 người (5%) có ý kiến khác.

4. Cơ quan, đơn vị anh/chị đang công tác có áp dụng chính sách ưu tiên nào để thu hút những người có trình độ trên đại học, tốt nghiệp đại học đạt loại giỏi về công tác không?

Trả lời câu hỏi này có 68 người (35%) trả lời là có và 122 người (64%) trả lời là không và 2 người (1%) không có ý kiến.  

Nếu có, Anh/Chị cho biết đó là chính sách ưu tiên nào?

-        Ưu tiên xét tuyển vào biên chế: 56 (29%)

-        Hỗ trợ kinh phí ban đầu đối sau khi được tuyển dụng vào biên chế: 2 (1%)

-        Ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở, đất ở để ổn định công tác: 0

-        Tạo điều kiện cho vợ hoặc chồng có việc làm ổn định tại địa phương: 10 (5%)

-        Ưu tiên đi học tập nâng cao trình độ: 0

-        Ý kiến khác: 0

-        Không có ý kiến: 124 (65%)

5. Theo anh/chị, việc phân công công tác đối với công chức, viên chức sau khi trúng tuyển vào cơ quan đơn vị mình có phù hợp hay không?

Trả lời câu hỏi này có các phương án trả lời sau:

-        Phù hợp: 182 (95%)

-        Không phù hợp: 2 (1%)            

-        Ý kiến khác: 8 (4%)

Nếu không phù hợp, đề nghị anh/chị cho lý do tại sao và biện pháp khắc phục?

-        Không có ý kiến

6. Theo anh/chị, các quy định về bổ nhiệm cán bộ cán bộ lãnh đạo hiện nay có phù hợp không?

Trả lời câu hỏi này, có 182 người (95%) trả lời là phù hợp và 6 người (3%) trả lời là không phù hợp và 2 người (1%) có ý kiến khác, 2 người (1%) không có ý kiến.    

Nếu không phù hợp, đề nghị Anh/Chị cho biết lý do tại sao và biện pháp khắc phục?

- Quá coi trọng người có trình độ bằng cấp về học vị, ngoại ngữ mà chưa coi trọng người có trình độ thực tế và đạo đức cách mạng.

7. Theo anh/chị, việc thực hiện quy trình bộ nhiệm các chức danh lãnh đạo tại cơ quan đơn vị đã đảm bảo tính khách quan, dân chủ, công khai chưa?

Trả lời câu hỏi này, có 182 người (95%) trả lời là đảm bảo và 10 người (5%) trả lời là đảm bảo.

8. Theo anh/chị, các quy định về quy hoạch cán bộ hiện nay có phù hợp không?

Trả lời câu hỏi này, có 120 người (63%) trả lời là có và 50 người (26%) trả lời là không và 22 người (11%) có ý kiến khác

9. Cơ quan, đơn vị anh/chị đang công tác có đủ nguồn cán bộ thuộc diện quy hoạch các chức danh lãnh đạo không?

Trả lời câu hỏi này, có 164 người (85%) trả lời là có và 28 người (15%) trả lời là không có ý kiến.

10. Anh/Chị cho biết, cơ quan, đơn vị mình áp dụng hình thức nào để bổ nhiệm chức danh lãnh đạo?

Trả lời câu hỏi này có các phương án trả lời sau:

- Thực hiện theo quy định hiện hành: 182 (95%)                   

- Thi tuyển chức danh lãnh đạo: 2 (1%)

- Kết hợp hai hình thức trên: 6 (3%)

- Hình thức khác: 0

- Không trả lời: 2 (1%)

11. Anh/Chị cho biết những công việc được giao có phù hợp với năng lực chuyên môn và sở trường của mình không?

Trả lời câu hỏi này, có 190 người (99%) người trả lời là phù hợp, còn lại là 2 người (1%) cho là không phù hợp.

12. Anh/Chị cho biết việc đào tạo bồi dưỡng công chức, viên chức tại cơ quan đơn vị đã phù hợp chưa?

Trả lời câu hỏi này, có các phương án sau:

- Phù hợp: 162 (84%)

- Chưa phù hợp: 24 (13%)                        

- Ý kiến khác: 4 (2%)

-  Không có ý kiến: 2 (1%)

13. Anh/Chị cho biết, cơ quan, đơn vị mình đang công tác có thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho công chức, viên chức không?

Trả lời câu hỏi này, có 176 người (92%) trả lời là có và 10 người (5%) trả lời là không và 6 người (3%) có ý kiến khác.

14. Theo anh/chị, công chức, viên chức tại cơ quan đơn vị mình có nhiệt tình với công việc được giao không?

Trả lời câu hỏi này, có các phương án trả lời sau:

-  Nhiệt tình: 160 (83%)

-  Không nhiệt tình: 16 (8%) 

-  Ý kiến khác: 6 (3%)

-  Không có ý kiến: 10 (5%)

15. Anh/Chị cho biết việc đánh giá công chức, viên chức tại cơ quan đơn vị có đảm bảo tính khách quan, dân chủ, chính xác không?

          Trả lời câu hỏi này có các phương án trả lời sau:                                                                                                                       

-  Đảm bảo: 152 (79%)

- Chưa đảm bảo: 32 (17%)                        

- Ý kiến khác: 0

-  Không có ý kiến: 8 (4%)

16. Anh/chị cho biết ý kiến của mình về chất lượng đội ngũ công chức, viên chức của đơn vị hiện nay:

Trả lời câu hỏi này, có các phương án trả lời sau:

- Số công chức, viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ: Từ 80% đến 100 %:  150 (78%)

- Số công chức, viên chức hoàn thành nhiệm vụ: Từ 50 đến dưới 80%: 30 (16%)

- Số công chức, viên chức chưa hoàn thành nhiệm vụ: Dưới 50%: 12 (6%)

- Ý kiến khác: 0

17. Anh/Chị cho biết chế độ khen thưởng hiện nay có ảnh hưởng như thế nào tới cán bộ, công chức?

Trả lời câu hỏi này, có 150 người (78%) trả lời là ảnh hưởng chưa tốt và 34 người (18%) trả lời là ảnh hưởng tốt và 8 người (4%) có ý kiến khác.

18. Trường hợp chế độ khen thưởng ảnh hưởng chưa tốt, theo anh/chị vì lý do:

Trả lời câu hỏi có các phương án trả lời sau:

- Khen thưởng còn nặng hình thức: 54 (28%)            

- Chưa linh hoạt, còn cứng nhắc: 58 (30%)                 

- Chưa có cơ chế khen thưởng phù hợp: 64 (33%)

- Không có ý kiến: 16 (8%)

19. Theo anh/chị, chế độ tiền lương tại cơ quan đơn vị mình đã đáp ứng được bao nhiêu % chi tiêu hàng tháng của mình?

Trả lời câu hỏi này, có 62 người (32%) trả lời là dưới 50%, 120 người (63%) trả lời từ 50-100% và 8 người (4%) trả lời là có ý kiến khác, 2 người (1%) không có ý kiến.

20. Anh/Chị có thu nhập nào khác (ngoài tiền lương) từ hoạt động chuyên môn tại đơn vị mình không?

Trả lời câu hỏi này, có 24 người (13%) trả lời là có và 164 người (58%) trả lời là không, 4 người (2%) không có ý kiến.

Nếu có, anh/chị cho biết, khoản thu nhập đó bằng bao nhiêu % tiền lương của anh/chị

-  Dưới 50%: 18 (9%)

-  Từ 50-100%: 2 (1%)

-  Ý kiến khác: 2 (1%)

-  Không có ý kiến: 170 (89%)

21. Theo anh/chị cần phải đổi mới chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ như thế nào để thu hút cán bộ?

Trả lời câu hỏi này, có các phương án trả lời sau:

- Nâng lương tối thiểu: 138 (72%)

- Xây dựng chế độ phụ cấp công vụ: 58 (30%)

- Xây dựng các chế độ phụ cấp khác phù hợp với đặc thù công việc đang đảm nhiệm: 120 (63%)

- Phụ cấp thâm niên công tác:  48 (25%)

- Ý kiến khác: 2 (1%)

22. Theo anh/chị, các trang thiết bị và điều kiện làm việc có đảm bảo yêu cầu thực hiện nhiệm vụ được giao hay không?

Trả lời câu hỏi này, có 110 người (57%) trả lời là có và 80 người (42%) trả lời là không, 2 người (1%) trả lời là không có ý kiến.

23. Anh/ Chị có ý định chuyển công tác ra khỏi ngành Tư pháp không?

Trả lời câu hỏi này, có 22 người (11%) trả lời là có và 146 người (76%) trả lời là không, 10 người (5%) trả lời là có ý kiến khác, 14 người (7%) không có ý kiến.

24. Theo anh/chị, tình trạng công chức, viên chức xin thôi việc hoặc chuyển công tác ra khỏi ngành Tư pháp là do?

     Trả lời câu hỏi này, có các phương án trả lời sau:

-  Lương thấp: 162 (84%)

-  Môi trường làm việc không tốt: 18 (9%)

-  Công việc không hấp dẫn: 10 (5%)

-  Ý kiến khác: 2 (1%)

25. Theo anh/chị, cần phải có những chính sách gì để thu hút những người có trình độ trên đại học, tốt nghiệp đại học đạt loại giỏi vào công tác tại cơ quan đơn vị mình?

Trả lời câu hỏi này có các phương án sau:

- Đổi mới chính sách tiền lương: 142(74%)

- Có chính sách hỗ trợ nhà ở: 74 (39%)

- Có chính sách hỗ trợ thu nhập:  94 (49%)

- Ưu tiên tuyển dụng: 102 (53%)

- Ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng: 90 (47%)

- Ưu tiên bổ nhiệm đề bạt: 48 (25%)

- Cải thiện môi trường làm việc: 82 (43%)

- Có chế độ khen thưởng chính xác, kịp thời: 60 (31%)

- Ý kiến khác: 2 (1%).

PHẦN 4

ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Tổng số phiếu phát ra: 120

Tổng số phiếu thu về: 120

1. Thông tin cá nhân người được hỏi

Số năm công tác:

- Dưới 5 năm: 10 (8%)          

- Từ 5 đến 10 năm: 15 (13%)

- Trên 10 năm: 75 (63%)

-  Không trả lời: 20 (17%)

2. Theo anh/chị, hình thức nào dưới đây là phù hợp trong tuyển dụng công chức, viên chức?

Trả lời câu hỏi này, có 95 người (79%) trả lời thi tuyển và 10 người (8%) trả lời là xét tuyển, 15 người (13%) có ý kiến khác. 

3. Việc tuyển dụng công chức, viên chức ở cơ quan đơn vị anh/chị công tác có đảm bảo tính khách quan, trung thực không?

     Trả lời câu hỏi này, có 105 người (88%) trả lời là đảm bảo, 10 người (8%) trả lời là chưa đảm bảo và 5 người (4%) có ý kiến khác.

4. Cơ quan, đơn vị anh/chị đang công tác có áp dụng chính sách ưu tiên nào để thu hút những người có trình độ trên đại học, tốt nghiệp đại học đạt loại giỏi về công tác không?

Trả lời câu hỏi này có 20 người (17%) trả lời là có và 100 người (83%) trả lời là không.                         

Nếu có, Anh/Chị cho biết đó là chính sách ưu tiên nào?

-        Ưu tiên xét tuyển vào biên chế: 15 người

-        Hỗ trợ kinh phí ban đầu đối sau khi được tuyển dụng vào biên chế: 5 người

-        Ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở, đất ở để ổn định công tác: 0

-        Tạo điều kiện cho vợ hoặc chồng có việc làm ổn định tại địa phương: 0

-        Ưu tiên đi học tập nâng cao trình độ: 0

-        Ý kiến khác: 0

-        Không có ý kiến: 80 người

5. Theo anh/chị, việc phân công công tác đối với công chức, viên chức sau khi trúng tuyển vào cơ quan đơn vị mình có phù hợp hay không?

Trả lời câu hỏi này có các phương án trả lời sau:

-        Phù hợp: 115 (96%)

-        Không phù hợp: 5 (4%)            

-        Ý kiến khác: 0

Nếu không phù hợp, đề nghị anh/chị cho lý do tại sao và biện pháp khắc phục?

-        Không có ý kiến

6. Theo anh/chị, các quy định về bổ nhiệm cán bộ cán bộ lãnh đạo hiện nay có phù hợp không?

Trả lời câu hỏi này, có 115 người (96%) trả lời là phù hợp và 5 người (4%) trả lời là không phù hợp.        

Nếu không phù hợp, đề nghị Anh/Chị cho biết lý do tại sao và biện pháp khắc phục?

-        Không có ý kiến

7. Theo anh/chị, việc thực hiện quy trình bộ nhiệm các chức danh lãnh đạo tại cơ quan đơn vị đã đảm bảo tính khách quan, dân chủ, công khai chưa?

Trả lời câu hỏi này, có 105 người (88%) trả lời là đảm bảo và 15 người (13%) trả lời là đảm bảo.

8. Theo anh/chị, các quy định về quy hoạch cán bộ hiện nay có phù hợp không?

Trả lời câu hỏi này, có 100 người (83%) trả lời là có và 20 người (17%) trả lời là không.

9. Cơ quan, đơn vị anh/chị đang công tác có đủ nguồn cán bộ thuộc diện quy hoạch các chức danh lãnh đạo không?

Trả lời câu hỏi này, có 70 người (58%) trả lời là có và 50 người (42%).

10. Anh/Chị cho biết, cơ quan, đơn vị mình áp dụng hình thức nào để bổ nhiệm chức danh lãnh đạo?

       Trả lời câu hỏi này, có các phương án sau:

- Thực hiện theo quy định hiện hành: 110 (92%)                   

- Thi tuyển chức danh lãnh đạo: 0

- Kết hợp hai hình thức trên: 5 (4%)

- Hình thức khác: k có

- Không trả lời: 5 (4%)

11. Anh/Chị cho biết những công việc được giao có phù hợp với năng lực chuyên môn và sở trường của mình không?

Trả lời câu hỏi này, có các phương án sau:

- Phù hợp: 90 (75%)

- Không phù hợp: 25 (21%)                      

- Ý kiến khác: 0

-  Không trả lời: 5 (4%)

12. Anh/Chị cho biết việc đào tạo bồi dưỡng công chức, viên chức tại cơ quan đơn vị đã phù hợp chưa?

Trả lời câu hỏi này, có các phương án sau:

- Phù hợp: 80 (67%)

- Chưa phù hợp: 40 (33%)                        

- Ý kiến khác: 0

13. Anh/Chị cho biết, cơ quan, đơn vị mình đang công tác có thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho công chức, viên chức không?

Trả lời câu hỏi này, có 110 người (92%) trả lời là có và 10 người (8%) trả lời là không.

14. Theo anh/chị, công chức, viên chức tại cơ quan đơn vị mình có nhiệt tình với công việc được giao không?

Trả lời câu hỏi này, có các phương án sau:

-  Nhiệt tình: 90 (75%)

-  Không nhiệt tình: 20 (17%)         

-  Ý kiến khác: 0

-  Không có ý kiến: 10 (8%)

15. Anh/Chị cho biết việc đánh giá công chức, viên chức tại cơ quan đơn vị có đảm bảo tính khách quan, dân chủ, chính xác không?

Trả lời câu hỏi này có các phương án trả lời sau: 

-  Đảm bảo: 90 (75%)

- Chưa đảm bảo: 25 (21%)                        

- Ý kiến khác: 0

-  Không có ý kiến: 5 (4%)

16. Anh/chị cho biết ý kiến của mình về chất lượng đội ngũ công chức, viên chức của đơn vị hiện nay:

     Trả lời câu hỏi này, có các phương án trả lời sau:

- Số công chức, viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ: Từ 80% đến 100 %:  35 (29%)

- Số công chức, viên chức hoàn thành nhiệm vụ: Từ 50 đến dưới 80%: 85 (71%)

- Số công chức, viên chức chưa hoàn thành nhiệm vụ: Dưới 50%: 0

- Ý kiến khác: 0

17. Anh/Chị cho biết chế độ khen thưởng hiện nay có ảnh hưởng như thế nào tới cán bộ, công chức?

Trả lời câu hỏi này, có 85 người (71%) trả lời là ảnh hưởng tốt và 35 người (29%) trả lời là ảnh hưởng chưa tốt.

18. Trường hợp chế độ khen thưởng ảnh hưởng chưa tốt, theo anh/chị vì lý do:

Trả lời câu hỏi này, có các phương án sau:

- Khen thưởng còn nặng hình thức: 40 (33%)            

- Chưa linh hoạt, còn cứng nhắc: 20 (17%)                 

- Chưa có cơ chế khen thưởng phù hợp: 35 (29%)

- Lý do khác: 0 (0%)

- Không có ý kiến: 25 (21%)

19. Theo anh/chị, chế độ tiền lương tại cơ quan đơn vị mình đã đáp ứng được bao nhiêu % chi tiêu hàng tháng của mình?

Trả lời câu hỏi này, có 40 người (33%) trả lời là dưới 50%, 80 người (67%) trả lời từ 50-100%.

20. Anh/Chị có thu nhập nào khác (ngoài tiền lương) từ hoạt động chuyên môn tại đơn vị mình không?

- Không

21. Theo anh/chị cần phải đổi mới chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ như thế nào để thu hút cán bộ?

Trả lời câu hỏi này, có các phương án sau:

- Nâng lương tối thiểu: 95 (79%)

- Xây dựng chế độ phụ cấp công vụ: 55 (46%)

- Xây dựng các chế độ phụ cấp khác phù hợp với đặc thù công việc đang đảm nhiệm: 85 (71%)

- Phụ cấp thâm niên công tác:  80 (67%)

- Ý kiến khác: 0

22. Theo anh/chị, các trang thiết bị và điều kiện làm việc có đảm bảo yêu cầu thực hiện nhiệm vụ được giao hay không?

Trả lời câu hỏi này, có 60 người (50%) trả lời là có và 60 người (50%) trả lời là không.

23. Anh/ Chị có ý định chuyển công tác ra khỏi ngành Tư pháp không?

- Trả lời câu hỏi này, có 5 người (4%) trả lời là có và 115 người (96%) trả lời là không.     

24. Theo anh/chị, tình trạng công chức, viên chức xin thôi việc hoặc chuyển công tác ra khỏi ngành Tư pháp là do?

     Trả lời câu hỏi này, có các phương án trả lời sau:

-  Lương thấp: 115 (96%)

-  Môi trường làm việc không tốt: 5 (4%)

-  Công việc không hấp dẫn: 5 (4%)

-  Ý kiến khác: 5 (4%)

25. Theo anh/chị, cần phải có những chính sách gì để thu hút những người có trình độ trên đại học, tốt nghiệp đại học đạt loại giỏi vào công tác tại cơ quan đơn vị mình?

     Trả lời câu hỏi này, có các phương án trả lời sau:

- Đổi mới chính sách tiền lương: 115 (96%)

- Có chính sách hỗ trợ nhà ở: 75 (63%)

- Có chính sách hỗ trợ thu nhập:  115 (96%)

- Ưu tiên tuyển dụng: 45 (38%)

- Ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng: 80 (67%)

- Ưu tiên bổ nhiệm đề bạt: 80 (67%)

- Cải thiện môi trường làm việc: 35 (29%)

- Có chế độ khen thưởng chính xác, kịp thời: 70 (58%)

- Ý kiến khác: 0

PHẦN 5

ĐỐI VỚI SINH VIÊN LUẬT

Tổng số phiếu phát ra: 107

Tổng số phiếu thu về: 107

1. Thông tin cá nhân người được hỏi (Phần này không bắt buộc):

Số năm đã học:

          1  năm : 1 (1%);

          2 năm: 42 (39%);

          3 năm: 41 (38%);

          4 năm: 19 (18%)

2. Anh/Chị có mong muốn được làm việc trong ngành Tư pháp sau khi tốt nghiệp đại học luật hay không?

              Trả lời câu hỏi này, có 30 người (28%) trả lời là có và 75 người (70%) trả lời là không, 2 người (2%) trả lời là không có ý kiến.                                

3. Nếu không, thì vì lý do:

- Môi trường làm việc chưa tốt

14 (19%)

- Tuyển dụng, quản lý và sử dụng cán bộ chưa hợp lý

12 (16%)

- Mức lương thấp

18 (24%)

- Công việc không hấp dẫn

10 (13%)

- Gò bó về thời gian

7 (9%)

- Các ưu đãi khác chưa phù hợp

13 (17%)

- Ý kiến khác:                                                                         1 (1%)

4. Nếu có, thì bạn sẽ lựa chọn vào cơ quan nào sau đây:

- Bộ Tư pháp

5 (325%)

- Sở Tư pháp

4 (20%)

- Phòng Tư pháp cấp huyện

1 (5%)

- Tư pháp cấp xã

1 (5%)

- Thi hành án cấp tỉnh

3 (15%)

- Thi hành án cấp huyện

2 (10%)

- Cơ quan khác                                                                              

  3 (15%)

- Không có ý kiến

    1 (5%)

5. Lý do Anh/Chị chọn là gì:

          Trả lời câu hỏi này có các phương án sau:

- Để có công việc ổn định

43 (40%)

- Được lựa chọn nghề mình yêu thích

64 (60%)

- Lựa chọn theo nghề của bố/mẹ

10 (9%)

- Do phù hợp với năng lực, trình độ

21 (20%)

- Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ

27 (25%)

- Được cống hiến cho ngành Tư pháp

11 (10%)

- Lý do khác

1 (1%)

6. Theo Anh/Chị, để thu hút sinh viên giỏi vào làm việc tại ngành Tư pháp thì cần thực hiện các công việc nào dưới đây:

Trả lời câu hỏi này có các phương án sau:

- Đổi mới hình thức tuyển dụng

48 (45%)

- Đổi  mới chính sách tiền lương

85 (79%)

- Thay đổi môi trường làm việc

53 (50%)

- Công việc khác

1 (1%)

7. Nếu tuyển dụng công chức, viên chức vào làm việc tại ngành Tư pháp thì hình thức nào dưới đây là phù hợp:

Trả lời câu hỏi này có các phương án sau:

 

- Xét tuyển

10(9%)

- Thi tuyển

72 (67%)

- Hợp đồng

20 (19%)

- Khác

5 (5%)

8. Theo Anh/Chị môi trường làm việc tốt cần phải đáp ứng:

Trả lời câu hỏi này có các phương án sau:

- Được bố trí công việc phù hợp với năng lực, trình độ

72 (67%)

- Được trang bị những phương tiện làm việc khoa học, hiện đại, hợp lý

60 (56%)

- Luôn bảo đảm tính dân chủ

68 (64%)

- Ý kiến khác:

53 (50%)

9. Theo Anh/Chị, bên cạnh mức lương tối thiểu như hiện nay, ngành Tư pháp cần phải:

Trả lời câu hỏi này có các phương án sau:

- Xây dựng quỹ thu hút cán bộ của ngành

100 (93%)

- Hình thức khác:

1 (1%)

- Không có ý kiến

6 (6%)

10. Theo Anh/Chị, để thu hút cán bộ vào công tác tại ngành Tư pháp, các cơ quan cần phải có chế độ hỗ trợ về nhà ở không?

Trả lời câu hỏi này, có 98 người (92%) người trả lời là có và 6 người (6%) trả lời là không, 3 người (3%) trả lời là không có ý kiến.

11. Nếu có, hình thức hỗ trợ nào sau đây là phù hợp:

- Mua nhà giá rẻ

34 (30%)

- Mua nhà trả góp

60 (61%)

- Thuê nhà giá rẻ

3 (3%)

- Hình thức khác:

5 (5%)

12. Theo Anh/Chị, sau khi tuyển dụng vào ngành Tư pháp, các cơ quan cần phải đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ không?

Trả lời câu hỏi này, có 103 người (96%) người trả lời là có và 4 người (4%) người trả lời là không.                                                                                     

13. Nếu có, thì nội dung đào tạo, bồi dưỡng nên tập trung:

Trả lời câu hỏi này có các phương án sau:

- Về nhiệm vụ của ngành, đơn vị

48 (45%)

- Công chức, công vụ

28 (26%)

- Tập huấn văn bản mới

39 (36%)

- Ngoại ngữ

58 (54%)

- Tin học

66 (62%)

- Nội dung khác:

37 (35%)

14. Theo Anh/Chị cần phải có chính sách gì để thu hút, tuyển chọn sinh viên vào làm việc tại các cơ quan, đơn vị thuộc ngành Tư pháp:

Trả lời câu hỏi này có các phương án sau:

- Tuyển dụng khách quan, công bằng, dân chủ

72 (67%)

- Quản lý và sử dụng công chức, viên chức hợp lý, khoa học, hiệu quả

57 (53%)

- Đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị làm việc hiện đại

57 (53%)

- Có quỹ thu hút hợp lý

54 (50%)

- Tư duy làm việc sáng tạo, khoa học

60 (56%)

- Có chính sách hỗ trợ nhà ở

48 (45%)

- Chính sách khác:

1 (1%)

                                                                                                        

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                    Phụ lục 7

KINH NGHIỆM THỰC HIỆN MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ CHẾ ĐỘ THU HÚT, TUYỂN CHỌN VÀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

 

1. Tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo của Trung Quốc:

Việc tuyển chọn cán bộ của Trung Quốc là dựa trên tiêu chuẩn là đạo đức và tài năng, chuyên cần và có thành tích, trong đó thành tích là thể hiện tổng hợp của 3 mặt trên, việc tuyển chọn cán bộ phải tiến hành công khai, dân chủ để chọn được cán bộ ưu tú nhất.

Việc bổ nhiệm cán bộ phải tiến hành đúng pháp luật, đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cấp có thẩm quyền quản lý cán bộ.

Tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ phải có hội đồng. Cấp nào cần tuyển chọn thì cấp đó thành lập hội đồng. Trong tuyển chọn cán bộ, vận dụng yếu tố cạnh tranh để chọn được cán bộ giỏi.

Tăng cường dân chủ trong tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ. Để làm tốt nguyên tắc này, cần quán triệt và vận dụng tốt điều lệ về công tác cán bộ, kiên trì chủ trương giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, bỏ cách làm cũ (cán bộ xếp theo thứ tự, cầu toàn quá, lựa chọn cán bộ theo ý muốn cá nhân của lãnh đạo). Trong lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ phải căn cứ vào năng lực cán bộ, yêu cầu công việc và sự tín nhiệm của quần chúng. Có thể áp dụng nhiều biện pháp như lấy phiếu thăm dò, quần chúng giới thiệu, coi ý kiến của quần chúng là một trong những căn cứ quan trọng. Thường thì cán bộ mà quần chúng không tín nhiệm thì không đề bạt.

2. Tuyển chọn lãnh đạo (quan chức) thông qua thi tuyển ở Nhật Bản:

Hàng năm, Viện Nhân sự mở 3 kỳ thi, bao gồm: kỳ thi tuyển chọn quan chức nhà nước loại I (cao cấp) và kỳ thi tuyển chọn quan chức loại II và loại III. Những người trúng tuyển loại I sẽ được đào tạo để trở thành cán bộ lãnh đạo trong tương lai. Còn những người trúng tuyển loại II và loại III hầu hết là những người làm chuyên môn.

Hàng năm kỳ thi tuyển chọn loại I được mở vào tháng 6, thí sinh hầu hết là những sinh viên bước vào năm thứ tư ở bậc đại học. Nhật bản tuyển mỗi năm trên 1.000 cán bộ loại này, nhưng số người dự thi luôn cao gấp 50 lần.

Tuy nhiên, trên thực tế mức độ cạnh tranh còn cao hơn nhiều, vì số người dự thi đều là những sinh viên rất ưu tú đã phải qua nhiều lần sát hạch trước khi dự kỳ thi này. Trước hết họ phải thi đỗ vào những trường đại học lớn, có uy tín và có truyền thống đào tạo nhân tài ra làm việc cho đất nước. Đặc biệt có đến nửa số người trúng tuyển kỳ thi tuyển loại I xuất thân từ Đại học Tổng hợp Tokyo và hầu hết là khoa luật, sau đó là khoa kinh tế của trường. Thi đỗ vào trường đại học này đã khó, nhưng để vào được khoa luật lại phải có thành tích học tập xuất sắc trong 2 năm đầu.

Trong hơn 1.000 cán bộ mới được tuyển chọn mỗi năm có gần một nửa là quan hành chính, số còn lại là quan kỹ thuật. Quan hành chính xuất thân từ các khoa luật, kinh tế ở đại học và hầu hết sẽ trở thành cán bộ lãnh đạo cao cấp ở các bộ. Quan kỹ thuật cũng có thể trở thành cán bộ lãnh đạo cao cấp ở một số Bộ liên quan nhiều đến khoa học tự nhiên như Giao thông, Bưu điện, Xây dựng, Nông-Lâm-Ngư nghiệp...

Sau khi đỗ kỳ thi tuyển loại I này, các quan chức tương lai được quyền lựa chọn nơi làm việc của mình, nhưng ở một số bộ do ứng cử viên quá đông nên họ phải dự thi một lần nữa mới được vào làm việc.

Các bộ có quyền tuyển chọn quan chức cho mình trong số những người trúng tuyển kỳ thi loại I, chứ không có quyền mở kỳ thi riêng ngay từ đầu. Cách làm này tăng tính khách quan trong việc tuyển chọn quan chức nhà nước.

Sau khi được tuyển vào các bộ, các quan chức mới này còn được tiếp tục đào tạo với hai hình thức: hình thức đào đạo qua kinh nghiệm làm việc tại nhiều cơ quan khác nhau trong, ngoài bộ và hình thức đào đạo qua lớp huấn luyện, bồi dưỡng ở nhiều cấp khác nhau. Mỗi bộ đều có chương trình huấn luyện bồi dưỡng định kỳ hàng năm nhằm mục đích cập nhật khoá kiến thức về hành chính, về tình hình kinh tế chính trị của Nhật Bản và thế giới cho các quan chức trẻ mới vào Bộ từ 3-4 năm trở xuống, mỗi năm có nhiều khoá và mỗi khoá kéo dài 4-5 tuần.

Ngoài ra, ở cấp Trưởng phòng, hàng năm có những lớp bồi dưỡng chung cho cán bộ do Cục Tổng vụ hoặc Viện Nhân sự tổ chức. Mục đích của những lớp bồi dưỡng này là để cho các cán bộ lãnh đạo nắm bắt những vấn đề mới trong quản lý hành chính, phân tích được những khuynh hướng mới trong kinh tế, chính trị của Nhật Bản và trên thế giới để vận dụng vào việc định ra các chính sách. Một trong những mục đích quan trọng của các khoá bồi dưỡng cấp trưởng phòng này là để cho các cán bộ có dịp quan hệ mật thiết với các đồng nghiệp tại các Bộ khác, tạo tiền đề cho họ dễ hợp tác với nhau trong việc lập các chính sách liên quan đến nhiều Bộ.

Về hình thức đào tạo qua kinh nghiệm tại Bộ Tư pháp Nhật Bản như sau:

Các quan chức mới trong năm đầu tiên được phân công vào làm việc trong Phòng Tổng vụ, Phòng Tư liệu với mục đích tập sự để có cơ hội nắm bắt các hoạt động toàn diện của Bộ. Đến năm thứ ba được lựa chọn cử ra nước ngoài học từ 2 - 3 năm sau đại học. Số người còn lại cũng tạm thời được giải phóng ra khỏi công việc của Bộ để chuyên tâm học những khoá đặc biệt về luật trong một năm. Như vậy, sau 3 - 4 năm được tuyển vào, các quan chức  trẻ này đã có một trình độ lý luận khá cao về Luật học. Lúc này, họ được giao trách nhiệm làm trưởng nhóm trong Bộ. Sau hai năm ở đây, các cán bộ này được cử đi địa phương làm lãnh đạo. Tại đây lần đầu tiên các cán bộ này được giao trách nhiệm độc lập, giải quyết những công việc hành chính, phát huy vai trò lãnh đạo tại một cơ quan nhỏ.

Sau một năm làm việc ở đây, các quan chức này được đưa trở lại Bộ, giữ chức Phó Trưởng phòng và bắt đầu tham gia vào quá trình lập các chính sách. Nhiều năm tiếp theo, họ được cử làm việc trong nhiều phòng, nhiều vụ khác nhau, mỗi nơi khoảng hai năm để nắm hết các chính sách và các hoạt động của Bộ. Với chức vụ Phó Trưỏng phòng trong nhiều năm như vậy, các quan chức này phát huy khả năng quản lý hành chính, phát huy khả năng lãnh đạo, khả năng thương lượng, thuyết phục để đi đến một ý kiến thống nhất, một sự thoả thuận về chính sách mới. Sở dĩ các quan chức này được bổ nhiệm làm ở nhiều phòng, nhiều Vụ khác nhau là để họ có tầm nhìn rộng và có một sự phán quyết có cân nhắc đến lợi hại về nhiều mặt. Trong thời gian  này, một số cán bộ cũng được cử sang làm việc một vài năm ở các Bộ khác.

Sau thời gian này, các quan chức được cử về địa phương làm Phó Sở của Bộ hoặc ra nước ngoài làm tuỳ viên hoặc tham tán tại các Sứ quán. Sau ba đến bốn năm họ được đưa về Bộ giữ chức Trưởng phòng. Họ được giữ chức Trưởng phòng trong sáu năm liên tiếp, nhưng được di chuyển liên tục từ phòng này sang phòng khác. Sau đó họ được làm trưởng Ty (Sở) ở địa phương. Hầu hết những người trúng tuyển kỳ thi tuyển loại một đều lên tới chức vụ này.

Tuy nhiên, từ đây họ phải cạnh tranh với những bạn vào Bộ cùng năm để lên cao hơn. Một số được trở về Bộ làm Phó vụ trưởng, rồi Vụ trưởng, số còn lại phải từ chức nhưng được bố trí làm việc ở các cơ quan có quan hệ với Bộ nhưng không trực thuộc Bộ, hoặc được bố trí làm việc ở các tổ chức ngoài Nhà nước. Trong số các Vụ trưởng, vài người xuất sắc nhất được cử làm lãnh đạo các Vụ quan trọng hoặc được cất nhắc lên chức vụ tương đương, lên Trợ lý Bộ trưởng. Cuối cùng Thứ trưởng là người được chọn trong số những người này. Những Vụ trưởng không lên được chức vụ cao hơn cũng phải từ chức và được thu xếp làm ở các cơ quan ngoài Bộ hoặc các công ty tư nhân.

Như vậy ở Nhật Bản, chế độ thi tuyển các quan chức được thực hiện công khai, trong đó chỉ các thành phần rất ưu tú mới được chọn, làm cho quan chức nhà nước có được sự tin tưởng trong xã hội và từ đó có niềm tự hào với trọng trách do xã hội giao phó. Số lượng các quan chức nhà nước cũng tương đối nhỏ nên quyền hạn của mỗi cán bộ cấp cao là khá lớn. Kết hợp với yếu tố thứ nhất, lợi ích của quan chức Nhật Bản có giá trị lâu dài, vừa là vật chất vừa là những giá trị lâu dài không thể mua được bằng tiền. Điều này ngăn cản các động cơ tham nhũng, vì không có sự tham nhũng nào có thể đem lại cho họ nhiều lợi ích hơn lợi ích lâu dài này.

3. Kinh nghiệm tuyển chọn cán bộ của Sinhgapo

Hàng năm các bộ, ngành và các cơ quan nhà nước cần tuyển dụng công chức đều công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, mọi người có nhu cầu căn cứ vào khả năng của mình đăng ký dự tuyển và phải trải qua đợt thi tuyển về chuyên môn, nghiệp vụ, kiểm tra sức khoẻ và qua cuộc phỏng vấn trực tiếp với cơ quan tuyển dụng công chức. Trong các nội dung thi tuyển thì yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất là phải có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ giỏi.

Nguyên tắc cơ bản của việc tuyển chọn công chức là tuyển chọn theo năng lực và yêu cầu của công việc, đảm bảo sự bình đẳng giữa các dân tộc, để mọi người được giao việc đúng năng lực của họ.

Ở Sinhgapo không có cơ quan chuyên trách làm nhiệm vụ đánh giá công chức mà giao cho cấp trên trực tiếp nhận xét, đánh giá công chức trên cơ sở số lượng và chất lượng công việc được giao. Nếu ai không hoàn thành nhiệm vụ thì cán bộ trực tiếp quản lý sẽ bố trí làm việc khác thấp hơn và lương cũng hưởng tương ứng với nhiệm vụ mới. Nếu ai làm việc tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thể hiện là người có tài thì được thưởng, đảm bảo mức thu nhập tương đương với người cùng trình độ làm việc cho công ty tư nhân. Vì vậy, những người có tài sẽ yên tâm, không bỏ cơ quan sang làm việc cho các công ty tư nhân khác.

Về tuyển chọn đào tạo nhân tài được xác định là một quốc sách để xây dựng và phát triển đất nước. Chính phủ Singapo rất chú trọng sự nghiệp giáo dục, đào tạo và tiến hành tuyển chọn nhân tài ngay từ học sinh phổ thông. Ở tất cả các cấp học từ phổ thông đến đại học, hàng năm đều tổ chức các kỳ thi để chọn người tài một cách công khai, bình đẳng, không phân biệt truyền thống gia đình, điều kiện kinh tế, dân tộc, đảng viên hay không phải là đảng viên.

Những học sinh giỏi ở các kỳ thi, cấp thi đều được nhà nước cấp học bổng và chọn cử đi học tập và nghiên cứu ở nước ngoài tuỳ theo yêu cầu, kinh tế ngành nghề của nhà nước, có kết hợp nguyện vọng, năng lực, sở trường của các cá nhân. Khi một người được đào tạo ở nước ngoài về, nhà nước bố trí ngay công việc phù hợp với ngành nghề đào tạo và hưởng lương tương đương với những người cùng trình độ làm việc trong các công ty tư nhân.

Khi chọn người cử đi học nước ngoài, Chính phủ rất chú trọng xem xét mặt phẩm chất, lòng trung thành với Tổ quốc của người đó. Tất cả những người được đi học đều phải ký hợp đồng với nhà nước là sau khi được đào tạo ở nước ngoài về phải phục vụ cho các cơ quan nhà nước ít nhất là tám năm, bản hợp đồng phải có hai người đang công tác trong cơ quan nhà nước ký bảo lãnh. Nếu học xong mà không trở về nước thì người đi học phải trả về cho nhà nước 200.000 USD. Vì vậy trong thực tế, tất cả những học sinh được đi đào tạo ở nước ngoài không có trường hợp nào không trở về.

Đối với những người tự túc đi học ở nước ngoài thì nhà nước không quản lý, nhưng khi học xong nếu có nguyện vọng về nước công tác thì sẽ được bố trí công việc tương ứng với năng lực, nghề nghiệp chuyên môn đào tạo, nếu không về nước thì Chính phủ yêu cầu họ dù làm gì, ở đâu cũng phải luôn hướng về Tổ quốc và luôn xác định mình là người Sinhgapo.

 



[1] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đã xác định “chuẩn bị các điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để thực hiện việc chuyển giao tổ chức và công tác thi hành án cho Bộ Tư pháp” (bao gồm thi hành án hình sự, dân sự và hành chính).

[2] Bộ Tư pháp được Chính phủ giao nhiệm vụ chủ trì xây dựng dự án Pháp lệnh Pháp điển hoá văn bản quy phạm pháp luật để Chính phủ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Bộ Tư pháp cũng đã được Chính phủ giao nhiệm vụ xây dựng dự thảo Nghị định về công tác thi hành pháp luật.

[3] Hiện nay Bộ Tư pháp đang chủ trì xây dựng Luật Hộ tịch, Luật về phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật Hòa giải; sửa đổi Nghị định số 79/2007/NĐ-CP.

 

[4] Số liệu tính đến ngày 31/5/2010 theo Báo cáo cáo sơ kết 01 năm thực hiện Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV.

[5] Thời điểm các địa phương báo cáo tình hình thực hiện Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV.

[6] có 03 cấp huyện mới chỉ bố trí được 01 công chức (Huyện Pác Nặm - Bắc Kạn, H. Khánh Sơn - Khánh Hòa, H. Yên Sơn - Tuyên Quang), 48 cấp huyện bố trí được 02 công chức, 210 Phòng Tư pháp có 03 công chức (chiếm 30%)

[7] Có 9241 cấp xã mới chí có một công chức Tư pháp - Hộ Tịch, hơn một trăm cấp xã chưa có công chức Tư pháp - Hộ tịch chuyên trách mà mới chỉ bố trí được cán bộ hợp đồng hoặc công chức chức dang khác kiêm nhiệm công tác tư pháp.

 

[8] Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1195/QĐ-BTP ban hành Quy chế chọn, cử và quản lý công chức, viên chức Bộ Tư pháp đi đào tạo, bồi dưỡng.

[9] Bộ Tư pháp hỗ trợ một lần là 3.000.000 đồng cho mỗi cán bộ, giảng viên đã là cán bộ, công chức, viên chức của Bộ Tư pháp đến công tác tại Trường Trung cấp Luật Buôn Mê Thuột tại tỉnh Đắk Lắk và Trường Trung cấp Luật Vị Thanh tại tỉnh Hậu Giang.

[10] Khoản 5 Điều 17 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền: “Quyết định chính sách thu hút và một số chế độ khuyến khích đối với cán bộ, công chức trên địa bàn phù hợp với khả năng của ngân sách địa phương”.

[11] Vĩnh Phúc, Bình Dương, Bắc Ninh, Thành phố Đà Nẵng.

[12] Thành phố Đà nẵng đã thực hiện thí điểm thi tuyển đối với một số chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các đơn vị sự nghiệp.

[13] Tại Thành Phố Hồ chí Minh, trong 03 năm từ năm 2005 đến năm 2007 đã có 40 công chức xin nghỉ việc và chuyển công tác. Đặc biệt, trong 06 tháng đầu năm 2008 đã có 15 công chức xin nghỉ việc hoặc chuyển công tác khác.

[14] Quyết định số 244/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo đang trực tiếp giảng dạy trong các cơ sở giáo dục công lập.

[15] Quyết định số 233/2005/QĐ-TTg ngày 26-9-2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với Chấp hành viên và Công chứng viên.

[16] Quyết định số 86/2007/QĐ-TTg ngày 11/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ Về chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với thẩm tra viên thi hành án dân sự.

[17] Thông tư 100/2006/TT-BTC ngày 23/6/2006 của Bộ Tài chính về hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật.

[18] Thông tư liên tịch 158/2007/TTLT-BTC-BTP ngày 28/12/2007 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn về quản lý và sử dụng kinh phí hỗ trợ cho công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật.

[19] Thông tư liên tịch 73/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 14/5/2010 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

[20] Điều 26 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý.

[21] Quyết định 73/2007/QĐ-TTg ngày 25/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện chế độ bồi dưỡng đối với những người trực tiếp tham gia cưỡng chế thi hành án dân sự.

[22] Quyết định 74/2009/QĐ-TTg ngày 07/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp

 

[23] Thông tư số 10/2010/TT-BNV ngày 28/10/2010 của Bộ Nội vụ Quy định mã số, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chấp hành viên và thư ký thi hành án dân sự.

 

[24] Ngày 04/10/2010 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 15/2010/TT-BTP quy định về tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch viên chức trợ giúp viên pháp lý.

[25] Văn kiện Nghị quyết Trung ương 3 Khoá X

[26] Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21/8/2006 của Hội nghị Trung ương 4 khoá X đã ghi “xây dựng cơ chế tiền lương riêng đối với công chức hành chính” và Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 của Hội nghị Trung ương 5 khoá X đã ghi “Xây dựng chế độ phụ cấp công vụ đối với cán bộ, công chức hành chính, bao gồm cả cán bộ, công chức Đảng, đoàn thể trong hệ thống chính trị”.

[27] Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21/8/2006 của Hội nghị Trung ương 4 khoá X đã ghi “xây dựng cơ chế tiền lương riêng đối với công chức hành chính” và Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 của Hội nghị Trung ương 5 khoá X đã ghi “Xây dựng chế độ phụ cấp công vụ đối với cán bộ, công chức hành chính, bao gồm cả cán bộ, công chức Đảng, đoàn thể trong hệ thống chính trị”.

[28] Xem Nghị định 117/2003/NĐ-CP ngày 10.10.2003 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước và Thông tư 09/2004/TT-BNV ngày 19.02.2004 của Bộ Nội vụ hướng dẫn việc thực hiện một số điều của Nghị định 117/2003/NĐ-CP.

[29] Văn kiện Hội nghị Trung ương ba khoá VIII - trang 53 - NXB Chính trị Quốc gia, tháng 9/1997

[30] Điều 37-Điều 38 Pháp lệnh Cán bộ, công chức.

[31] Cục trưởng Cục Trợ giỳp phỏp lý - Bộ Tư phỏp.

[32] Phú Trưởng phũng Hành chớnh - Tổng hợp, Cục Trợ giỳp phỏp lý.

[33] Do 4 người chuyển sang cơ quan khỏc.

[34] Do 1 người khụng vượt qua kỳ kiểm tra sỏt hạch cấp chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ.

[35] Do 2 người chuyển sang cỏc phũng ban khỏc thuộc Sở hoặc chuyển sang cơ quan khỏc.

([36])  Căn cứ vào Đề ỏn quy hoạch mạng lưới Trung tõm trợ giỳp phỏp lý nhà nước và Chi nhỏnh của Trung tõm giai đoạn 2008 – 2010, định hướng đến năm 2015 của Thủ tướng Chớnh phủ, ước tớnh, đến năm 2010, 64 tỉnh, thành phố trong toàn quốc sẽ cú khoảng 950 – 1.200 Trợ giỳp viờn phỏp lý, cỏn bộ, viờn chức nghiệp vụ, khoảng 9.600 – 12.800 cộng tỏc viờn trợ giỳp phỏp lý; đến năm 2015 con số này sẽ là khoảng 1.200 – 1.500 Trợ giỳp viờn phỏp lý, cỏn bộ, viờn chức nghiệp vụ và khoảng 12.800 – 16.000 cộng tỏc viờn.

[37] Số liệu tính đến ngày 31/5/2010 theo Báo cáo cáo sơ kết 01 năm thực hiện Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV.

[38] Tính đến 31/5/2010, có 03 cấp huyện mới chỉ bố trí được 01 công chức (Huyện Pác Nặm - Bắc Kạn, H. Khánh Sơn - Khánh Hòa, H. Yên Sơn - Tuyên Quang), 48 cấp huyện bố trí được 02 công chức, 210 Phòng Tư pháp có 03 công chức (chiếm 30%). Đối với cấp xã, có 9241 cấp xã mới chí có một công chức Tư pháp - Hộ Tịch, hơn một trăm cấp xã chưa có công chức Tư pháp - Hộ tịch chuyên trách mà mới chỉ bố trí được cán bộ hợp đồng hoặc công chức chức dang khác kiêm nhiệm công tác tư pháp.

[39] Tại Thành Phố Hồ chí Minh, trong 03 năm từ năm 2005 đến năm 2007 đã có 40 công chức xin nghỉ việc và chuyển công tác. Đặc biệt, trong 06 tháng đầu năm 2008 đã có 15 công chức xin nghỉ việc hoặc chuyển công tác khác.

[40] Văn kiện Nghị quyết Trung ương 3 Khoá X

 

File đính kèm downloadTải về