I. LÝ DO VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
1. Vị trí, vai trò của giáo dục pháp luật cho học sinh trong các trường phổ thông
Giáo dục pháp luật (trong đó có giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên) là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên; là hình thức chuyển tải thông tin pháp luật theo mục đích chung nhằm hình thành và làm sâu sắc thêm, từng bước mở rộng ở đối tượng tri thức, lòng tin, xúc cảm pháp luật, ý thức công dân, nhận thức về quyền, nghĩa vụ công dân, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật thực định hiện hành.
Khi tri thức pháp luật đầy đủ, tình cảm, niềm tin pháp luật mạnh mẽ, công dân sẽ tự tìm đến pháp luật và xây dựng cho mình ý thức, động cơ, hành vi hợp pháp.
Giáo dục pháp luật cho học sinh có vai trò quan trọng góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Vai trò này của giáo dục pháp luật bắt nguồn từ vai trò và giá trị xã hội của pháp luật - phương tiện hàng đầu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Giáo dục pháp luật giúp cho mọi người có tri thức pháp lý, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp - tiền đề cho việc sử dụng quyền lực Nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ, mở rộng quyền tự do của mỗi người. Mặt khác, giáo dục pháp luật còn tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội trong môi trường quản lý nhà nước, tạo ra khả năng hình thành các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tạo ra khả năng phát hiện và kiên quyết loại trừ những hiện tượng tiêu cực, chống đối pháp luật diễn ra trong quá trình quản lý.
Xuất phát từ bản chất của giáo dục pháp luật là quá trình tác động nhằm hình thành tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật thực định hiện hành; là một trong những nội dung giáo dục văn hoá không thể thiếu trong việc đào tạo, giáo dục toàn diện cho học sinh, giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên nói riêng còn có vai trò góp phần nâng cao ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý của công dân, đặc biệt là đối với thế hệ công dân đang ngồi trên ghế nhà trường.
2. Thực trạng giáo dục pháp luật trong các trường phổ thông ở nước ta hiện nay
2.1. Những kết quả đạt được:
Hơn 10 năm qua, giáo dục pháp luật được đưa vào các nhà trường từ phổ thông đến đại học và đã đạt được những kết quả tích cực:
- Đã cung cấp một lượng kiến thức pháp luật cơ bản, thiết thực, phù hợp với tâm, sinh lý lứa tuổi học sinh; góp phần từng bước hình thành ý thức sống và làm việc theo pháp luật cho thế hệ trẻ.
- Nhận thức về vị trí, vai trò môn học trong các cấp, các ngành, đoàn thể xã hội, nhất là trong giáo viên, học sinh đã có chuyển biến rõ hơn. Năng lực tổ chức quản lý, điều hành hoạt động dạy và học pháp luật trong trường học của cán bộ quản lý giáo dục từng bước được nâng cao.
- Chương trình giáo dục pháp luật được xây dựng cho từng cấp học, có tài liệu phục vụ dạy và học pháp luật.
- Đội ngũ giáo viên được hình thành, dần dần giành được sự quan tâm của nhà trường, của các cấp, các ngành (về số lượng, chất lượng, công tác đào tạo, bồi dưỡng, chế độ đãi ngộ).
- Mối quan hệ phối hợp giữa các cấp, các ngành, nhất là giữa Giáo dục - Đào tạo và Tư pháp trong việc đưa giáo dục pháp luật vào nhà trường từng bước được hình thành, củng cố và không ngừng phát huy tác dụng tích cực.
- Các hoạt động ngoại khoá, bổ trợ nhằm nâng cao ý thức pháp luật trong học sinh, sinh viên được chú trọng hơn trước (riêng khối trung học cơ sở đã có một chương trình hoạt động ngoài giờ lên lớp - một bộ phận của chương trình giáo dục pháp luật chính khoá).
2.2. Tồn tại và nguyên nhân
Mặc dù đã đạt được những kết quả trên đây nhưng giáo dục pháp luật trong nhà trường cũng còn bộc lộ nhiều tồn tại, bất cập.
- Về nhận thức: Không phải tất cả các cấp, các ngành, các đoàn thể, tổ chức xã hội và mọi tầng lớp nhân dân đều đã nhận thức đầy đủ vai trò, ý nghĩa của nó đối với cuộc sống, với sự phát triển của xã hội. Do vậy, sự quan tâm, đầu tư cho giảng dạy và học tập pháp luật còn hạn chế; chưa tạo ra được phong trào xã hội hóa sâu rộng đối với công tác này. Sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội chưa thường xuyên, hiệu quả thấp.
- Về cơ chế chỉ đạo: Chưa có một cơ chế chỉ đạo thống nhất, đồng bộ và sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành nhất là giữa Giáo dục - Đào tạo và Tư pháp trong việc tổ chức dạy và học Giáo dục công dân, giáo dục pháp luật trong nhà trường.
- Về đội ngũ cán bộ quản lý: Một bộ phận cán bộ quản lý, chỉ đạo chưa nhận thức đúng hoặc nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường nên việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện còn lơi lỏng, hiệu quả còn hạn chế.
- Về chương trình: Chương trình Giáo dục công dân khối phổ thông biên soạn đã lâu, có phần lạc hậu so với tình hình thực tế, hiện nay đang bổ sung, sửa đổi toàn diện cho phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đào tạo của bậc học và cập nhật với sự phát triển của đất nước và pháp luật.
- Sách giáo khoa, tài liệu tham khảo còn thiếu, nội dung chưa thực sự phù hợp, còn nặng về lý thuyết, thiếu tính thực tế, khô khan, không gây hứng thú cho người dạy và người học, chưa đáp ứng nhu cầu, nhất là đối với vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc ít người. Kết quả khảo sát của một số đề tài khác cho thấy: chỉ có 28,81% số học sinh và 25,23% số giáo viên được hỏi cho rằng: sách giáo khoa hiện nay so với trình độ, nhận thức của học sinh là phù hợp; trong khi đó có tới 63,74% cho rằng cần phải đổi mới, thêm ví dụ, câu chuyện minh họa[1].
- Về thái độ đối với môn học: Vẫn còn tâm lý coi thường hoặc xem nhẹ việc dạy và học Giáo dục công dân, giáo dục pháp luật. Việc thực hiện chương trình theo quy định chưa thật nghiêm túc, có nơi, có lúc còn tuỳ tiện, cắt xén hoặc dạy ghép với các môn khác.
- Về kinh phí, đầu tư trang thiết bị: Kinh phí đầu tư cho môn học quá ít. Trang thiết bị và phương tiện dạy - học như băng hình, đèn chiếu, sơ đồ, biểu bảng hầu như không có. Thư viện, Tủ sách pháp luật còn nghèo nàn, nhiều trường chưa có. Ở một số trường, giáo viên chỉ có sách giáo khoa, tài liệu tham khảo ở mức tối thiểu, thiếu các văn bản pháp luật và tài liệu tham khảo cần thiết khác bảo đảm cho hoạt động giảng dạy và học tập môn học.
- Về đội ngũ giáo viên: Đây là một mảng, một bộ phận quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường nói chung và trong các trường phổ thông nói riêng nhưng lại là khâu yếu nhất. Đội ngũ giáo viên Giáo dục công dân, pháp luật trong các trường phổ thông hiện nay còn quá nhiều bất cập, vừa thiếu lại vừa yếu do công tác đào tạo, đào tạo lại chưa được quan tâm đúng mức. Việc bồi dưỡng, tập huấn kiến thức pháp luật cho đội ngũ này không được thường xuyên, manh mún, chắp vá. Việc bố trí, sắp xếp, sử dụng mang tính tình thế, đối phó, thậm chí còn rất tuỳ tiện, thiếu hẳn một cơ chế cụ thể, thống nhất, đồng bộ và phù hợp.
3. Tình hình nghiên cứu ở trong nước.
Xuất phát từ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của giáo dục pháp luật cho học sinh trong các trường phổ thông nên Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có nhiều cố gắng đầu tư cho công tác này. Cùng với việc nghiên cứu, xây dựng và triển khai thực hiện chương trình Giáo dục công dân, pháp luật là việc hình thành và phát triển đội ngũ giáo viên. Nhằm thực hiện nhiệm vụ này, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về giáo dục pháp luật trong nhà trường nói chung và giáo dục pháp luật trong các trường phổ thông nói riêng. Về phương diện khoa học pháp lý đã có một số luận án Tiến sĩ luật học, một số đề tài khoa học cấp Bộ, cấp Nhà nước đề cập đến vấn đề giáo dục pháp luật trong nhà trường. Các công trình đó hoặc chỉ đề cập đến từng mặt, từng khía cạnh hoặc nghiên cứu tương đối toàn diện, nhiều mặt của lĩnh vực giáo dục pháp luật trong nhà trường. Vấn đề giáo viên chỉ được đề cập đến như một mặt, một khía cạnh hoặc một mảng hợp thành của một chỉnh thể giáo dục pháp luật trong nhà trường mà thôi. Chưa có một công trình khoa học nào đề cập vấn đề giáo viên một cách chuyên sâu với tư cách là một công trình khoa học độc lập....
Vì vậy, trong chương trình nghiên cứu khoa học năm 2000, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã giao cho Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý phối hợp với Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật tổ chức tiến hành nghiên cứu Đề tài khoa học về vấn đề giáo viên. Đề tài mang tên: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng mô hình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông”.
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống và chuyên sâu cả về lý luận và thực tiễn của vấn đề giáo viên giảng dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông. Công trình này là sự kế thừa các thành quả nghiên cứu của các công trình đã có, đồng thời phát triển một cách có hệ thống, chuyên sâu trên nhiều mặt của công tác giáo viên (vị trí, vai trò của giáo viên dạy pháp luật trong việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh, vấn đề đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ...) nhằm góp phần tìm ra những giải pháp, mô hình có tính khả thi nhất phục vụ việc xây dựng cho được đội ngũ giáo viên giảng dạy pháp luật đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập và phát triển đất nước.
II. MỤC TIÊU, YÊU CẦU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.
-
Mục tiêu
- Từ vai trò, ý nghĩa của giáo dục pháp luật trong nhà trường phổ thông, làm rõ vai trò và tầm quan trọng của công tác giáo viên trong việc giáo dục pháp luật cho học sinh.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, từ sự cần thiết của việc giảng dạy pháp luật ở các trường phổ thông, khẳng định sự cần thiết phải chuẩn hoá đội ngũ giáo viên để thấy rằng không thể sử dụng giáo viên kiêm nhiệm (giáo viên văn, giáo viên sử, giáo viên chủ nhiệm...) giảng dạy pháp luật cho học sinh phổ thông. Từ đó, đề xuất xây dựng mô hình đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn giáo viên dạy pháp luật đáp ứng nhu cầu cho các trường phổ thông (mô hình độc lập hoặc phối hợp với việc đào tạo giáo viên các khoa khác: Triết, Chính trị -Mác Lê nin...).
2. Yêu cầu
Kết quả của đề tài phải thiết thực, đóng góp cho việc nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật trong trường phổ thông.
- Các số liệu điều tra xã hội học phải có tính toàn diện, chính xác, có phân tích, đánh giá và sát hợp với nội dung của đề tài;
- Các bài viết phải phân tích toàn diện, sâu sắc, có thực tiễn minh họa và kiến nghị xác đáng;
- Tập hợp đầy đủ, có hệ thống các phụ lục;
- Xây dựng được một số mô hình lý luận khung về đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật cho các trường phổ thông trong các trường sư phạm.
-
Nội dung
Đề tài tập trung vào các nội dung sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật trong các trường phổ thông (vai trò, tầm quan trọng, chủ trương, chính sách, pháp luật...).
- Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá về thực trạng giáo dục pháp luật trong các trường phổ thông (tập trung đánh giá về giáo viên, chương trình, sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu; biện pháp tổ chức thực hiện, hiệu quả giáo dục pháp luật...) và đưa ra hướng giải quyết.
- Xây dựng mô hình đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn giáo viên dạy pháp luật cho các trường phổ thông nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học pháp luật trong nhà trường.
-
Phương pháp nghiên cứu
Ban chủ nhiệm và các cộng tác viên của đề tài đã sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây: phương pháp nghiên cứu lý thuyết (biện chứng, duy vật, lịch sử), phương pháp thu thập thông tin với các kỹ năng đánh giá, phân tích, tổng hợp, phương pháp nghiên cứu thực tiễn (khảo sát, điều tra xã hội học pháp luật), phương pháp chuyên gia... để chọn lọc, kế thừa những kinh nghiệm cũ và mới, trong và ngoài nước về lĩnh vực đang nghiên cứu, thử nghiệm. Cụ thể,
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Nhóm nghiên cứu đã thực hiện khảo sát, điều tra xã hội học pháp luật, nghiên cứu, thâm nhập thực tế để nắm bắt một số vấn đề sau:
- Thực trạng dạy pháp luật ở trường phổ thông.
- Thực trạng đội ngũ giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở trường phổ thông.
- Những vấn đề cần giải quyết trong đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân.
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết thuộc các lĩnh vực sau:
- Lý luận về giáo dục học.
- Nội dung và phương pháp dạy học pháp luật trong môn Giáo dục công dân.
- Một số vấn đề về phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay...
Phương pháp thu thập thông tin
Nhóm đã đi sâu vào nghiên cứu một số tài liệu thống kê và kết quả nghiên cứu của đồng nghiệp đi trước, có liên quan đến nội dung của đề tài.
Phương pháp phỏng vấn, lấy ý kiến chuyên gia
Để đảm bảo tính khách quan, khoa học cho đề tài, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn, lấy ý kiến các chuyên gia công tác ở Trung tâm nghiên cứu giáo dục Đạo đức - công dân, Viện khoa học giáo dục, chuyên gia công tác ở các Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Tư pháp một số địa phương, giảng viên một số trường Cao đẳng Sư phạm, giáo viên trực tiếp giảng dạy Giáo dục công dân, pháp luật trong một số trường phổ thông, nghiên cứu viên của Viện NCKH Pháp lý - Bộ Tư pháp, chuyên viên của Bộ Tư pháp.
5. Quá trình triển khai thực hiện đề tài
Sau khi có Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp cho phép triển khai thực hiện Đề tài, Lãnh đạo Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý và Lãnh đạo Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật đã họp bàn và thống nhất thành lập Ban Chủ nhiệm với thành phần gồm:
-
Chủ nhiệm đề tài: Đồng chí Nguyễn Đình Lộc - Bộ trưởng,
-
Phó Chủ nhiệm đề tài:
Đồng chí Nguyễn Duy Lãm - Vụ trưởng Vụ PBGDPL,
Đồng chí Hoàng Thế Liên - Viện trưởng Viện NCKH pháp lý,
Đồng chí Uông Ngọc Thuẩn - Chuyên viên Vụ PBGDPL,
Đồng chí Chu Thị Hoa - Nghiên cứu viên Viện NCKH pháp lý.
- Ngày 12/4/2000, Ban Chủ nhiệm đã họp thống nhất thông qua đề cương nghiên cứu, danh sách các cộng tác viên đề tài.
- Ngày 24/5/2000, Ban Chủ nhiệm đã họp với Lãnh đạo Bộ và Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý trình bày đề cương nghiên cứu; nghe góp ý kiến cho việc hoàn thiện đề cương.
- Ngày 9/6/2000, Ban Chủ nhiệm đã họp với các cộng tác viên tham gia nghiên cứu (các chủ nhiệm nhánh của đề tài) để bàn về việc triển khai nghiên cứu. Sau các cuộc họp trên, Ban Chủ nhiệm thống nhất tên gọi và phân công cụ thể các chuyên đề cho cộng tác viên chính. Theo đó, Đề tài nghiên cứu mang tên: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng mô hình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông”. Đề tài gồm các chuyên đề sau:
Chuyên đề 1. Cơ sở lý luận của việc xây dựng mô hình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy Giáo dục công dân, trong đó có giảng dạy pháp luật ở trường phổ thông.
- Nội dung và yêu cầu: Chuyên đề phải nêu được các vấn đề chính sau:
+ Vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc dạy và học pháp luật trong việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh, định hướng phát triển nhân cách học sinh phổ thông.
+ Vị trí, vai trò, tầm quan trọng của giáo viên đối với công tác giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông;
+ Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với vấn đề này;
+ Từ tầm quan trọng của việc dạy và học pháp luật nêu bật được sự cần thiết tất yếu phải có đội ngũ giáo viên riêng chuyên đảm trách việc giảng dạy pháp luật ở các trường phổ thông, yêu cầu tất yếu của việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên đảm nhận công tác này.
- Thực hiện: Trung tâm Giáo dục Đạo đức - công dân, Viện Khoa học giáo dục - Bộ Giáo dục và đào tạo.
Chuyên đề 2. Thực trạng việc dạy và học pháp luật trong các trường phổ thông ở nước ta hiện nay và hướng phát triển trong tương lai.
- Nội dung và yêu cầu:
+ Nêu và đánh giá đúng thực trạng và tính phù hợp của sách giáo khoa, chương trình, tài liệu, việc thực hiện chương trình giáo dục pháp luật trong các trường phổ thông hiện nay; đồng thời phải nêu được yêu cầu hiện nay đối với việc dạy và học môn học này.
+ Từ đó phải trả lời được câu hỏi: việc dạy và học pháp luật ở các trường phổ thông đã đáp ứng được yêu cầu đó chưa? Trong tương lai, yêu cầu dạy và học pháp luật ở các trường phổ thông có gì mới so với hiện nay?
- Thực hiện: Trung tâm Giáo dục Đạo đức - công dân, Viện Khoa học giáo dục - Bộ Giáo dục và đào tạo.
Chuyên đề 3. Thực trạng đội ngũ giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông hiện nay và các giải pháp bồi dưỡng, nâng cao kiến thức pháp luật cho đội ngũ này.
- Nội dung và yêu cầu:
+ Đánh giá đúng thực trạng đội ngũ giáo viên dạy pháp luật ở các cấp học: ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân; công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy môn này hiện nay; đặc thù nghề nghiệp của giáo viên dạy pháp luật.
+ Một số giải pháp bồi dưỡng nâng cao kiến thức pháp luật cho giáo viên dạy pháp luật ở các trường phổ thông hiện nay.
- Thực hiện: Vụ giáo viên, Bộ Giáo dục và đào tạo.
Chuyên đề 4. Mô hình nhân cách (những yêu cầu đối với) người giáo viên dạy Giáo dục công dân.
- Nội dung và yêu cầu: Từ tầm quan trọng của vấn đề dạy và học Giáo dục công dân (trong đó có pháp luật) đối với việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh phổ thông rút ra vấn đề cốt lõi, đề xuất một số yêu cầu cơ bản đối với người giáo viên dạy môn này trong các trường phổ thông.
- Thực hiện: Trung tâm giáo dục đạo đức - công dân, Viện Khoa học giáo dục - Bộ Giáo dục và đào tạo.
Chuyên đề 5. Phối hợp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông giữa Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Tư pháp.
- Nội dung và yêu cầu: Chuyên đề phải làm rõ các nội dung chính sau:
+ Cơ chế phối hợp giữa Bộ Giáo dục - Đào tạo với Bộ Tư pháp trong việc chỉ đạo biên soạn giáo trình.
+ Cơ chế phối hợp giữa các trường Sư phạm và trường Đại học Luật Hà nội, Viện Nghiên cứu khoa học Pháp lý, Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật trong thực hiện việc đào tạo giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông.
- Thực hiện: Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp.
Chuyên đề 6. Giải pháp xây dựng mô hình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông.
- Nội dung và yêu cầu: cần nghiên cứu giải pháp ở hai mức độ như sau;
Một là: giải pháp sớm tạo nguồn giáo viên dạy luật cho các trường phổ thông. Giải pháp này được xây dựng theo hướng sử dụng các tiềm năng hiện có như:
+ Lấy đội ngũ giáo viên hiện tại đi học thêm luật (tại chức luật hoặc bồi dưỡng luật trong thời gian nghỉ hè.....).
+ Lấy sinh viên sư phạm học thêm luật, sau đó đưa về các trường phổ thông giảng dạy pháp luật.
+ Lấy sinh viên đã tốt nghiệp đại học Luật bổ túc thêm kiến thức sư phạm, sau đó đưa về các trường phổ thông giảng dạy pháp luật.
Hai là: Giải pháp cơ bản, lâu dài trong việc đào tạo giáo viên dạy luật trong các nhà trường phổ thông theo hướng: mở khoa đào tạo sư phạm Luật ở các trường Sư phạm và ở Đại học Luật Hà nội.
- Thực hiện: Viện Nghiên cứu khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp.
Cuối tháng 10/2000, chủ nhiệm các chuyên đề nhánh đã nộp cho Ban Chủ nhiệm Đề tài đề cương và các yêu cầu về khảo sát và cung cấp các điều kiện phục vụ nghiên cứu.
- Ngày 4/11/2000, Ban Chủ nhiệm phối hợp với Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc và ngày 18/11/2000 phối hợp với Trường Cao đẳng Sư phạm Phú Thọ tổ chức 2 cuộc Tọa đàm về các nội dung xung quanh lĩnh vực dạy và học pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật trong các trường phổ thông. Tọa đàm thu hút sự quan tâm của đông đảo các thầy cô giáo và sinh viên đang giảng dạy và học tập tại các trường này. Các đại biểu đã có rất nhiều ý kiến, đề xuất bổ ích phục vụ tốt cho việc nghiên cứu.
- Tháng 2 và tháng 3 năm 2001, Ban Chủ nhiệm tổ chức khảo sát ở 24 trường Phổ thông trung học tại 9 tỉnh, thành phố (Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Thanh Hoá, Thừa Thiên-Huế, Khánh Hoà, Bến Tre, Bình Phước, Long An) trên các đối tượng giáo viên đang giảng dạy Giáo dục công dân, pháp luật ở cấp học này và các em học sinh lớp 12. Tổng số phiếu thu được: Phiếu giáo viên 147, phiếu học sinh 259, (kết quả cụ thể sẽ được trình bày ở phần phụ lục).
- Ngày 30, 31/3 và 1/4/2001 tại thành phố Vinh, Ban Chủ nhiệm Đề tài đã phối hợp với Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An tổ chức Hội thảo khoa học “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng mô hình đào tạo giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông". Tham gia Hội thảo có hơn 60 đại biểu đại diện cho các Vụ, Viện chức năng của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp, Giám đốc, Phó Giám đốc, các chuyên gia quản lý, nghiên cứu thuộc các Sở Tư pháp và Sở Giáo dục và Đào tạo các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Ninh Bình; đại diện các Trường Đại học Luật Hà Nội, Đại học Hồng Đức (Thanh Hoá), Đại học Vinh, Cao đẳng Sư phạm Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Thọ, Vĩnh Phúc; Lãnh đạo một số trường Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, đại diện giáo viên đang giảng dạy và học sinh lớp 12 đang học Giáo dục công dân ở Nghệ An; các cơ quan thông tin đại chúng của địa phương.
Kết quả Hội thảo là những tư liệu quý giúp Ban Chủ nhiệm và các cộng tác viên tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện Đề tài (kết quả cụ thể sẽ được trình bày trong phần kỷ yếu của Đề tài).
Song song với các các hoạt động trên, Ban Chủ nhiệm và các cộng tác viên cũng đã kết hợp với các hoạt động liên quan như: Toạ đàm về giáo dục pháp luật trong các trường Tiểu học, Toạ đàm về xây dựng và tham gia xây dựng chương trình Giáo dục công dân Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, Đề án đánh giá nhu cầu phát triển toàn diện hệ thống pháp luật Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
Sau đây là kết quả nghiên cứu cụ thể.
III. TỔNG THUẬT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
Để có cơ sở thực tiễn xây dựng mô hình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông, việc nghiên cứu, khảo sát thực địa (điều tra xã hội học) về thực trạng dạy và học pháp luật trong các trường phổ thông ở nước ta hiện nay là rất cần thiết. Trong tháng 2, 3 năm 2000, đề tài đã tiến hành điều tra xã hội học đối với 259 học sinh lớp 12 và 147 giáo viên của 24 trường phổ thông thuộc 9 tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Thanh Hoá, Thừa Thiên - Huế, Khánh Hoà, Bến Tre, Bình Phước, Long An. Nội dung cuộc điều tra tập trung vào làm rõ một số vấn đề sau:
- Nhận thức của giáo viên và học sinh về sự cần thiết của việc dạy học pháp luật trong nhà trường;
- Về hứng thú dạy và học tập pháp luật của giáo viên và học sinh;
- Về nội dung chương trình và sách giáo khoa;
- Về đội ngũ giáo viên dạy pháp luật ở các trường phổ thông hiện nay;
- Về phương pháp dạy học;
- Về tài liệu, phương tiện và thời lượng dạy học.
Kết quả khảo sát đã được Ban chủ nhiệm và các cộng tác viên khai thác sử dụng trong quá trình nghiên cứu các chuyên đề nhánh của đề tài, (kết quả khảo sát chi tiết được trình bày ở phần phụ lục).
1. Cơ sở lý luận của việc xây dựng mô hình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở trường phổ thông
Pháp luật là một hiện tượng xã hội rất gần gũi và cần thiết với cuộc sống của mỗi người. Xã hội càng hiện đại thì yêu cầu hiểu biết về pháp luật của con người càng cao - Bởi vì, pháp luật không chỉ là phương tiện để Nhà nước quản lý có hiệu quả mọi mặt đời sống xã hội mà còn là phương tiện thực hiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi công dân. Cuộc sống hàng ngày đã chỉ ra rằng thiếu pháp luật cuộc sống không thể vận hành được, thiếu kiến thức pháp luật, con người chưa thể toàn diện. Vì thế, nhằm phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam, hơn 10 năm qua giáo dục pháp luật đã được đưa vào giảng dạy trong môn đạo đức (đối với trường Trung học Cơ sở) và trong môn Giáo dục công dân (đối với trường Phổ thông Trung học). Giáo dục pháp luật là một trong những nội dung quan trọng trong chương trình giáo dục học sinh phổ thông ở nước ta. Cùng với những kiến thức văn hoá, những kiến thức pháp luật mà học sinh lĩnh hội được qua quá trình học tập ở nhà trường sẽ là một trong những điều kiện cơ bản để đảm bảo sự phát triển toàn diện của thế hệ công dân tương lai của đất nước.
1.1. Vị trí, vai trò, tầm quan trọng của giáo dục pháp luật trong việc hình thành và phát triển nhân cách công dân cho học sinh.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Giáo dục pháp luật là một hoạt động giáo dục đặc biệt, khác các hoạt động giáo dục khác ở các điểm sau đây:
- Giáo dục pháp luật có mục đích riêng là nhằm hình thành tri thức, tình cảm, thói quen xử sự theo các quy định của pháp luật cho công dân.
- Giáo dục pháp luật có nội dung riêng, đó là các kiến thức cơ bản về Nhà nước và pháp luật.
- Ngoài những phương pháp chung, giáo dục pháp luật còn có nét riêng. Đó là sự tác động thường xuyên, liên tục, lâu dài của chủ thể lên đối tượng giáo dục.
Như vậy có thể nói: Giáo dục pháp luật là một hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với những đòi hỏi của các quy định pháp luật hiện hành. Đó cũng là một hình thức chuyển tải thông tin pháp luật theo mục đích chung, nhằm nâng cao ý thức pháp luật để từ đó hình thành lối sống tuân thủ pháp luật đối với các thành viên trong xã hội. Giáo dục pháp luật chính là một quá trình phát triển nhận thức theo các cung bậc: tạo lập ý thức, trang bị kiến thức để nâng cao hiểu biết pháp luật qua đó khẳng định hành vi, xử sự của bản thân.
Giáo dục pháp luật trong nhà trường phổ thông có vị trí, ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh phổ thông, là một trong những nội dung giáo dục văn hoá không thể thiếu trong việc đào tạo, giáo dục toàn diện cho học sinh, góp phần từng bước hình thành ý thức sống, làm việc theo pháp luật cho thế hệ trẻ. Theo kết quả khảo sát điều tra xã hội học về thực trạng dạy và học pháp luật trong các trường phổ thông thì có đến 94,56% trên tổng số 147 giáo viên tham gia trả lời phỏng vấn đồng tình với nhận định giáo dục pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh phổ thông. [2] Ở đây, nhân cách được hiểu dưới góc độ là tổng hợp toàn bộ những đặc tính cá nhân, là kết quả cụ thể của quá trình kết hợp giữa vận động nội tâm của chủ thể nhân cách với sự tác động đa chiều của môi trường bên ngoài trong quá trình hoà nhập vào cộng đồng xã hội của chủ thể nhân cách. Sự hình thành và phát triển nhân cách nói chung được diễn ra trong một quá trình lâu dài, gắn liền với sự phát triển và hoàn thiện về thể chất của chủ thể nhân cách với những giai đoạn tiếp nối nhau từ thấp đến cao, có thể tạm chia làm ba giai đoạn:
-
Giai đoạn hình thành nhân cách;
-
Giai đoạn phát triển nhân cách;
-
Giai đoạn hoàn thiện nhân cách.
Chính vì thế, nội dung giáo dục pháp luật đã được lồng ghép tích hợp trong các bài giảng về đạo đức ở cấp tiểu học và phổ thông cơ sở, rồi phát triển ở mức độ cao hơn (giới thiệu sơ lược về một số ngành luật) trong môn Giáo dục công dân ở cấp phổ thông trung học. Vai trò đặc biệt quan trọng của giáo dục pháp luật trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của học sinh phổ thông thể hiện trên các khía cạnh sau:
(i) Hình thành tính hướng thiện trong hành vi của học sinh
Hành vi là sự ứng xử được biểu hiện ra bên ngoài của con người trước những tình huống cụ thể của cuộc sống, bị chi phối bởi mức độ hoàn thiện về thể chất và trình độ tư duy. Trong đó, năng lực nhận thức là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng mang tính định hướng khi con người thực hiện hành vi. Khi con người thực hiện một hành vi bất kỳ nào đó đều hướng tới những mục tiêu nhất định dựa trên những động cơ cụ thể. Nếu động cơ đúng đắn sẽ có tác dụng giúp chủ thể xác định hành vi đúng đắn và ngược lại. Luật pháp của các nhà nước tiến bộ, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn bênh vực, bảo vệ cái thiện, chống cái ác, cái xấu, xây dựng cái đẹp, giữ gìn và nâng cao phẩm giá con người. Đặc biệt trong xã hội xã hội chủ nghĩa, pháp luật chính là phương tiện bảo vệ các quy tắc, chuẩn mực đạo đức lành mạnh, tốt đẹp. Đồng thời pháp luật còn là chỗ dựa cho sự hình thành, tồn tại và phát triển đạo đức mới. Vì thế, có thể khẳng định chính sự hiểu biết và tôn trọng pháp luật, tôn trọng những chuẩn mực đạo đức của xã hội sẽ giúp cho con người luôn luôn có những động cơ đúng đắn đến với cái thiện.
-
Hình thành tính kiềm chế trong hành vi của học sinh
Kết quả thống kê tội phạm hình sự, vi phạm hành chính trong những năm gần đây cho thấy nhiều học sinh, sinh viên phạm các tội về gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích... mà nguyên nhân chỉ do những va chạm nhỏ, bình thường trong cuộc sống nhưng các em do mất bình tĩnh không làm chủ được bản thân đã có những hành vi sai lầm dẫn đến hậu quả đáng tiếc. Tuy nhiên, khi nghiên cứu, phân tích kỹ nguyên nhân phạm tội của học sinh, sinh viên trong những vụ án đó, cho thấy nếu các em có hiểu biết đúng đắn về pháp luật, nhận thức được trách nhiệm pháp lý đối với hành vi của mình thì cũng có thể hạn chế được phần nào tính bột phát thiếu suy nghĩ trong ứng xử hàng ngày. Từ thực tế đó, cho thấy, bên cạnh việc giáo dục nâng cao trình độ văn hoá, sự quan tâm chú trọng đúng mức đến việc trang bị cho học sinh phổ thông một số kiến thức pháp luật nhất định cũng có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Sự hiểu biết sâu về pháp luật giúp các em tự ý thức được trách nhiệm pháp lý đối với hành vi của mình, từ đó có những cách lựa chọn hành vi ứng xử phù hợp.
(iii) Hình thành ý thức công dân, nhận thức về quyền và nghĩa vụ, nâng cao ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý của học sinh.
Giáo dục pháp luật trong trường phổ thông trước hết là tạo cho các em niềm tin vào pháp luật, hiểu biết về pháp luật, thói quen chấp hành pháp luật và những quy tắc của cuộc sống xã hội, tự giác tuân thủ pháp luật. Từ đó hình thành ở mỗi cá nhân ý thức pháp luật, tạo tiền đề vật chất để xây dựng nền văn hoá pháp lý.
Mục tiêu cơ bản, quan trọng, lâu dài của giáo dục pháp luật trong trường phổ thông là nhằm hình thành, bồi dưỡng, phát triển ở học sinh nhận thức về quyền, nghĩa vụ của công dân để từ đó có thái độ tôn trọng và tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và vận động, đấu tranh cho việc tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Với ý nghĩa đó, giáo dục pháp luật còn góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
1.2. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với công tác giáo dục pháp luật ở trường phổ thông và công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên pháp luật.
-
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác giáo dục pháp luật ở trường phổ thông.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: “Các cấp uỷ Đảng, các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể phải thường xuyên phổ biến, giải thích pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, đưa việc giáo dục pháp luật vào các trường học, các cấp học, xây dựng ý thức sống có pháp luật và tôn trọng pháp luật”.[3]
- Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI chỉ rõ hơn việc đưa giáo dục pháp luật vào trường học phổ thông: “Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền giải thích pháp luật. Đưa việc giảng dạy giáo dục pháp luật vào các trường của Đảng và Nhà nước (kể cả các trường phổ thông, đại học)...”.[4]
- Các Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII và Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân, trong đó có học sinh phổ thông: “Đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật, trong đó chú trọng việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật và tổ chức thi hành luật một cách nghiêm minh”.[5]
-
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật.
Bác Hồ đã từng nói: "không có thầy giáo thì không có giáo dục... Các thầy cô giáo làm trọn nhiệm vụ vẻ vang là anh hùng".
Nghị quyết TW II khóa VIII của Đảng ta đã chỉ rõ: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh".
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của người thầy như vậy nên Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có rất nhiều cố gắng đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng và có chính sách sử dụng, đãi ngộ đối với đội ngũ giáo viên nói chung trong đó có đội ngũ giáo viên Giáo dục công dân, pháp luật trong các trường phổ thông.
Luật Giáo dục năm 1998 quy định: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục.
Nhà nước tổ chức đào tạo bồi dưỡng nhà giáo; có chính sách bảo đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện nhiệm vụ của mình; giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà giáo, tôn vinh nghề dạy học... ” (Điều 14).
“...Nhà nước có chính sách bồi dưỡng nhà giáo về chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao trình độ và chuẩn hoá nhà giáo...”(Điều 70).
Chỉ thị số 02/1998/CT.Ttg ngày 7/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay chỉ rõ: "Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì phối hợp với Bộ Tư pháp đẩy mạnh công tác giảng dạy pháp luật trong các trường học. Cần tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và phương pháp giảng dạy pháp luật cho đội ngũ giáo viên dạy pháp luật trong các trường học".
Ngày 20/5/1998 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Chỉ thị số 30/1998/CT-BGD&ĐT về việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên bộ môn Giáo dục công dân các trường trung học cơ sở, phổ thông trung học, trung học chuyên ban. Chỉ thị nêu rõ: “Ngành Giáo dục và Đào tạo phải thực sự ưu tiên chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên Giáo dục công dân bao gồm cả 3 mặt đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng. Công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên Giáo dục công dân cần phải phấn đấu thực hiện có chất lượng và hiệu quả cao nhất các nhiệm vụ sau: Phát huy các thành quả đã đạt được, khắc phục thiếu sót tồn tại, củng cố và tăng cường công tác quản lý, mở rộng quy mô đào tạo, thực hiện có hiệu quả, chất lượng chương trình bồi dưỡng, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.
Các trường Đại học Sư phạm cần khẩn trương củng cố các Khoa Giáo dục chính trị về các mặt cơ sở vật chất, thiết bị, đặc biệt củng cố, bổ sung cán bộ giảng dạy có chất lượng để thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên Giáo dục công dân - Triết cho các trường; phối hợp với Bộ Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội tổ chức đào tạo cán bộ giảng dạy pháp luật có bằng thứ 2 (cử nhân Luật) cho các trường Đại học, Cao đẳng Sư phạm và cấp chứng chỉ cho giáo viên dạy pháp luật trong các trường phổ thông trung học.
Xây dựng, củng cố các khoa đào tạo giáo viên Giáo dục công dân các trường Cao đẳng Sư phạm để thực hiện có chất lượng nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên Giáo dục công dân các trường Trung học cơ sở...”.
Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng cho việc triển khai xây dựng đội ngũ giáo viên giảng dạy Giáo dục công dân, pháp luật trong các trường phổ thông của chúng ta.
Þ Qua sự phân tích trên, chúng ta thấy giáo dục pháp luật có tầm quan trọng đặc biệt trong việc hình thành, phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Song môn học có làm tròn trọng trách đó hay không lại phụ thuộc vào đội ngũ giáo viên. Vì thế, nghiên cứu cơ sở lý luận cho việc xây dựng mô hình đào tạo giáo viên dạy pháp luật là yêu cầu tất yếu, nhằm nâng cao chất lượng và đáp ứng đủ số lượng giáo viên môn học này cho các trường phổ thông, tiến tới chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy pháp luật trong hiện tại và tương lai.
1.3. Định hướng phát triển nhân cách học sinh phổ thông
Mô hình nhân cách con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được xác định là: “Con người sống có lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại; có ý chí kiên cường, có hoài bão lớn lao phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, có tư duy sáng tạo và óc thực nghiệm, có kỹ năng thực hành giỏi, có tay nghề cao, có lòng nhân ái, tôn trọng và hợp tác được với người khác, có sức khoẻ, có khả năng tự hoàn thiện không ngừng, năng động và thích ứng, có tinh thần pháp luật và ý thức công dân, ý thức bảo vệ môi sinh, biết yêu cái đẹp”.[6]
1.4. Vị trí, vai trò, tầm quan trọng của giáo viên đối với công tác giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông
Dân tộc ta là một dân tộc có truyền thống hiếu học. Từ xa xưa, nhân dân ta đã phát hiện ra vai trò cực kỳ quan trọng của người thầy giáo và đúc rút thành câu tục ngữ: “Không thầy đố mày làm nên”. Cùng với sự phát triển của xã hội, vai trò của người thầy giáo trong giáo dục càng được coi trọng. Ngày nay, hoạt động giáo dục nói chung, dạy học nói riêng trong nhà trường phổ thông, thầy giáo vẫn giữ một vị trí không có gì thay thế khi muốn nâng cao chất lượng. Tất nhiên vị trí, vai trò của thầy giáo đối với người học tuỳ thuộc vào cả thầy (trình độ, phẩm chất, năng lực...) lẫn trò (khả năng nhận thức, ý chí, nghị lực, ước mơ...). Vai trò của người thầy giáo không chỉ là giúp học sinh mở mang trí tuệ, cung cấp kiến thức, mà còn góp phần phát triển mọi tiềm năng ở học sinh, nhất là phát triển tâm lực bao gồm các yếu tố phẩm chất đạo đức, tâm lý, tâm hồn, nghị lực, hoài bão ước mơ, nhân sinh quan và thế giới quan. Những yếu tố này giữ một vị trí đặc biệt trong việc khai thác tiềm năng con người.
Giáo dục pháp luật trong nhà trường phổ thông với ý nghĩa là một trong những môn học cơ bản đứng trong kiến thức xây dựng mô hình nhân cách con người. Môn học đã cung cấp cho học sinh những kiến thức, kĩ năng tối thiểu, cơ bản, chọn lọc và rất cần thiết để hình thành, phát triển nhân cách con người, nhân cách công dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do đó, vai trò của người thầy giáo càng được đề cao. Qua khảo sát thực tiễn dạy và học pháp luật ở các trường phổ thông hiện nay, có thể thấy hiệu quả giáo dục pháp luật trong nhà trường phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ giáo viên. Chính yếu tố chất lượng đội ngũ giáo viên có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dạy và học pháp luật trong nhà trường phổ thông.
Với nội dung dạy học phong phú, phương pháp dạy học là sự kết hợp hài hoà giữa phương pháp truyền thống (thuyết trình, đàm thoại) và phương pháp hiện đại (diễn đàn, thảo luận nhóm, đóng vai...) và những đặc trưng riêng của môn học, giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân hoàn toàn có khả năng sau:
- Hình thành ở học sinh niềm tin vào sự tồn tại và cần thiết của các giá trị, các phạm trù đạo đức như: lòng nhân ái, sự khoan dung, lòng biết ơn, sự thuỷ chung, yêu gia đình, yêu quê hương - đất nước; siêng năng, kiên trì, tự trọng, tự tin, dũng cảm, trung thực, biết hối hận, tôn trọng lẽ phải, trọng chữ tín, lương thiện; sống có mục đích, có lý tưởng cao đẹp,... Qua đó xây dựng, phát triển ở học sinh thái độ, hành vi, thói quen pháp luật.
- Hình thành, phát triển ở học sinh các kĩ năng cơ bản của cuộc sống như: biết hợp tác, biết bày tỏ cảm thông chia sẻ với người khác, biết phòng tránh nguy cơ, sống hoà nhập với người khác...
2. Thực trạng dạy và học pháp luật trong các trường phổ thông ở nước ta hiện nay và hướng phát triển trong tương lai.
2.1. Thực trạng dạy và học pháp luật trong các trường phổ thông ở nước ta hiện nay
Hơn 10 năm qua, việc giảng dạy pháp luật được thực hiện trong các trường phổ thông. Hiện nay, trong chương trình chính khoá, lớp 8 và lớp 9, mỗi lớp có 33 tiết, lớp 12 có 50 tiết. Việc giảng dạy pháp luật ở các trường phổ thông đã có nhiều tiến bộ. Một số văn bản pháp luật quan trọng như Hiến pháp 1992, Bộ luật hình sự, Luật hôn nhân và gia đình, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính... được biên soạn và đưa vào giảng dạy cho học sinh tuỳ theo các ngành học, bậc học, cấp học.
Các Sở Giáo dục và đào tạo ở các địa phương đã có chủ trương tăng cường công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường thông qua hoạt động ngoại khoá. Từ năm 1998, khi có Chỉ thị và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường được tăng cường hơn. Các hình thức ngoại khoá, thi tìm hiểu, sân khấu hoá công tác giáo dục pháp luật... được thực hiện để chuyển tải tới học sinh nội dung các văn bản luật có liên quan nhưng không được học trong chương trình chính khoá.
Việc tiến hành dạy và học pháp luật trong nội khóa cùng với những hoạt động ngoại khóa đã nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học pháp luật trong nhà trường phổ thông, qua đó thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong cộng đồng cư dân, góp phần nâng cao dân trí về pháp luật.
Kết quả phỏng vấn 147 giáo viên đang dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân và 259 học sinh ở các trường phổ thông trung học cho thấy đại đa số giáo viên và học sinh tham gia trả lời phỏng vấn đã nhận thức được sự cần thiết của việc dạy, học pháp luật trong nhà trường, chỉ có một số ít đối tượng còn nhận thức sai lệch về tầm quan trọng của việc dạy, học pháp luật.
Đối với giáo viên, có 94,56% cho rằng giáo dục pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh phổ thông; và 2,04% cho rằng giáo dục pháp luật góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh.
Biểu đồ số 1: Nhận thức của giáo viên về ý nghĩa của việc dạy và học pháp luật trong trường phổ thông
Đối với học sinh, có tới 93,05% học sinh được hỏi cho rằng việc dạy và học pháp luật ở trường phổ thông là cần thiết, vì những lý do sau:
- Cần được trang bị kiến thức pháp luật để trở thành công dân tốt (92,94%);
- Cần hiểu biết pháp luật để tự bảo vệ lợi ích hợp pháp của bản thân (72,61%);
-
Cần hiểu biết pháp luật để tham gia phòng chống vi phạm pháp luật (71,37%);
Biểu đồ số 2: Lý do học sinh đánh giá việc dạy và học pháp luật ở trường phổ thông là cần thiết
Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vị trí, ý nghĩa của môn học, đa số học sinh tham gia khảo sát tự nhận là mình thích học pháp luật (79,7%). Nếu thực sự như vậy thì quả thực đây là một dấu hiệu rất đáng mừng, chứng tỏ nhu cầu hiểu biết pháp luật, ý thức tìm hiểu pháp luật của thế hệ trẻ đang được nâng cao. Tuy nhiên, có một vấn đề đặt ra ở đây là tại sao học sinh phổ thông thích học pháp luật, có ý thức tìm hiểu pháp luật nhưng hiểu biết về pháp luật lại hạn chế. Để khảo sát mức độ hiểu biết pháp luật của học sinh, chúng tôi thử đưa ra 10 câu hỏi nhỏ liên quan đến các điều luật học sinh đã được học trong trường trung học phổ thông. Kết quả cho thấy câu có tỷ lệ học sinh trả lời đúng cao nhất là 89,6% và câu có tỷ lệ học sinh trả lời đúng thấp nhất là 50,6%; câu có tỷ lệ học sinh trả lời sai cao nhất là 46,3% và câu có tỷ lệ học sinh trả lời sai thấp nhất là 1,5%[7]. Điều đó chứng tỏ hiểu biết về pháp luật của học sinh còn hạn chế.
Kết quả nghiên cứu đề tài KHXH-04-07-CĐ cũng cho thấy hầu hết học sinh trung học phổ thông và sinh viên thấy được tầm quan trọng của pháp luật, nhưng hiểu biết về pháp luật còn chưa tốt. Đa số học sinh, sinh viên tự xem là mình không có hiểu biết hoặc có rất ít hiểu biết về pháp luật (93,8 - 94,2%). Ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của học sinh, sinh viên cũng còn kém: 71,3 - 75% học sinh, sinh viên đã có hành vi làm ngơ khi thấy người khác làm sai pháp luật; 50,7 - 57,6% học sinh cảm thấy yên tâm nếu mình vi phạm pháp luật mà không có ai biết hoặc cảm thấy không có gì dằn vặt nếu mình vi phạm một cách không chủ định các quy định ở nơi công cộng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng chất lượng dạy và học pháp luật trong trường phổ thông chưa cao, trong đó phải kể đến các nguyên nhân cơ bản sau:
Về nội dung chương trình và sách giáo khoa
Chương trình giảng dạy pháp luật ở các trường phổ thông đã xây dựng được gần 10 năm mà chưa được sửa chữa, chỉnh lí kịp thời, do đó, các thông tin trong bài giảng không kịp cập nhật theo sự phát triển của đời sống pháp luật. Nội dung các bài pháp luật trong sách giáo khoa chưa phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh, còn nặng về hình thức cung cấp các điều luật chung chung, khô cứng, chưa gần gũi với cuộc sống thực của học sinh.
Về tài liệu, phương tiện và thời lượng dạy học
Hiện nay, ngành giáo dục chưa thực sự chú trọng đầu tư về trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy pháp luật trong nhà trường phổ thông. Các giáo viên giảng dạy môn này thường gặp khó khăn khi tra tìm, nghiên cứu sách, báo pháp luật do cơ sở vật chất, phương tiện ở các trường phổ thông còn rất thiếu thốn. Kết quả khảo sát cho thấy có 87,07% giáo viên cho rằng còn thiếu tài liệu, phương tiện cho việc dạy học pháp luật trong nhà trường, chỉ có 4,76% (con số quá khiêm tốn) cho là đầy đủ. Đối với một môn học vốn đã bị coi là khô khan như pháp luật, lại thiếu các phương tiện, đồ dùng bổ trợ cần thiết thì việc giáo viên không thể truyền tải hết những kiến thức pháp luật trong chương trình cho học sinh cũng là điều dễ hiểu.
Về thời lượng dành cho môn học, có 69,93% giáo viên khi được hỏi cho rằng thời gian dành cho việc dạy học pháp luật hiện nay còn hơi ít. Về phía học sinh, qua thực tế khảo sát, chúng tôi nhận thấy: trong thực tế hiện nay các môn văn hóa chính đã chiếm phần lớn thời gian học tập của học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 12. Xu thế chung là tập trung vào môn thi tốt nghiệp và đại học. Giáo dục công dân nói chung, pháp luật nói riêng là môn học vẫn được quan niệm là môn phụ, do đó học sinh học đối phó là hiện tượng khó tránh khỏi. Mặc dù, số đông học sinh cảm thấy có hứng thú với việc học pháp luật nhưng tỷ lệ học sinh say mê, tập trung nghiên cứu pháp luật là rất ít.
Về phương pháp dạy học
Phương pháp dạy học pháp luật hiện nay còn nghèo nàn, đơn điệu. Giáo viên vẫn chủ yếu sử dụng các phương pháp truyền thống như thuyết trình, đàm thoại là chính, trong khi học sinh lại rất thích được tham gia thảo luận, nói chuyện theo chủ đề. Với cách dạy này, thông tin trên lớp được diễn ra một chiều, theo kiểu: thày giảng, trò nghe; thày hỏi, trò trả lời (thày è trò), học sinh tiếp thu bài một cách thụ động. Chính vì vậy mà giờ học pháp luật thường diễn ra một cách nặng nề, khô khan, nhàm chán.
- Với phương pháp dạy học pháp luật như hiện nay, học sinh sẽ tiếp thu bài rất mức độ và đặc biệt là không thể hoặc rất hạn chế trong việc chuyển các kiến thức pháp luật đã được học thành thái độ, hành vi thực tế.
- Trong các giờ pháp luật hiện nay, học sinh hầu như không được làm việc theo nhóm nhỏ, các em không được tạo cơ hội để cùng nhau trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, ý kiến.
- Việc dạy pháp luật còn nặng về truyền thụ kiến thức, chưa chú ý đúng mức đến việc hình thành thái độ, kỹ năng và hành vi tuân thủ pháp luật cho học sinh.
Biểu đồ số 3: Phương pháp dạy của giáo viên và thái độ của học sinh đối với mỗi phương pháp
|
|
Phương pháp giáo viên thường sử dụng
Tỷ lệ học sinh thích đối với mỗi phương pháp
|
|
2.2. Hướng phát triển trong tương lai.
i). Vị trí môn học sẽ được nâng cao, việc dạy học pháp luật trong các trường phổ thông ngày càng được tăng cường để đáp ứng yêu cầu đào tạo con người phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
ii). Việc dạy học pháp luật trong trường phổ thông phải chú ý đến cả ba mặt: trang bị tri thức, bồi dưỡng tình cảm, thái độ tích cực và hình thành hành vi, thói quen tôn trọng pháp luật cho học sinh.
iii). Nội dung các bài pháp luật cần phù hợp với lứa tuổi học sinh, gần gũi với cuộc sống thực của học sinh, nhẹ nhàng, cụ thể, bớt tính hàn lâm.
iv). Quá trình dạy học pháp luật phải là quá trình học sinh hoạt động tích cực, với sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên. Để qua đó, học sinh có thể tự phát hiện và chiếm lĩnh nội dung bài học.
v). Nội dung giáo dục pháp luật cần được chuyển tải tới học sinh thông qua việc thảo luận, phân tích các thông tin, sự kiện, các tình huống, các câu chuyện pháp luật, các băng hình... có liên quan. Thái độ, kỹ năng và hành vi của học sinh cần được rèn luyện thông qua trò chơi đóng vai và các trò chơi khác, thông qua các diễn đàn của học sinh, thông qua các hoạt động thực hành, thông qua việc học sinh tự lập kế hoạch hành động của bản thân, của nhóm, của lớp; thực hiện theo kế hoạch đã xây dựng và đánh giá việc thực hiện kế hoạch,...
vi). Các phương pháp dạy học pháp luật rất phong phú, đa dạng, bao gồm cả các phương pháp hiện đại như: diễn đàn, thảo luận nhóm, đóng vai, giải quyết vấn đề, động não, đề án,... và các phương pháp truyền thống như: diễn giảng, đàm thoại, nêu gương... Tuy nhiên, giáo viên cần căn cứ vào nội dung, tính chất từng bài, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng lớp, từng trường, từng địa phương mà lựa chọn và sử dụng phối hợp các phương pháp trên một cách hợp lý, đúng mức.
3. Thực trạng đội ngũ giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở trường phổ thông hiện nay
3.1. Tỷ lệ giáo viên kiêm nhiệm còn khá cao
Khó khăn, vướng mắc lớn nhất của hầu hết các trường phổ thông hiện nay khi triển khai công tác giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông là vấn đề về đội ngũ giáo viên. Trong khi đó, hiệu quả giáo dục pháp luật trong nhà trường phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ giáo viên. Chính yếu tố chất lượng đội ngũ giáo viên có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dạy và học pháp luật trong nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, ở hầu hết các trường phổ thông hiện nay vì không có giáo viên dạy pháp luật chuyên nên thường dùng giáo viên dạy các môn khác để dạy pháp luật.
Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo (tại Tờ trình Quốc hội về chủ trương đổi mới chương trình sách giáo khoa của giáo dục phổ thông, văn bản số 1004/CP-QH ngày 03/11/2000) thì hiện trạng giáo viên phổ thông năm học 1999-2000 cả nước thiếu đến 98.110 giáo viên, trong đó chủ yếu là giáo viên Giáo dục công dân, Nhạc hoạ, Thể dục, Công nghệ, Ngoại ngữ (50.891 giáo viên). Trong phạm vi của đề tài, kết quả khảo sát 147 giáo viên của 24 trường phổ thông thuộc 9 tỉnh: Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Thanh Hoá, Thừa Thiên-Huế, Khánh Hoà, Bến Tre, Bình Phước, Long An cho thấy tỷ lệ giáo viên dạy Giáo dục công dân kiêm nhiệm là 57,13%. Chính vì không có giáo viên chuyên dạy Giáo dục công dân, pháp luật nên các trường phổ thông thường phải dùng giáo viên dạy các môn chính ban khác: Văn, Sử, thậm chí Thể dục, Ngoại ngữ để dạy.
Biểu đồ số 4. Thực trạng việc bố trí giáo viên dạy pháp luật
trong môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông
3.2. Đa số giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông hiện nay chưa được qua lớp đào tạo về luật
Giáo viên Giáo dục công dân kiêm nhiệm thường được đào tạo rất cơ bản về sư phạm, về một số chuyên ngành như Triết, Chính trị, Đạo đức, Văn, Sử... nhưng khi được phân công dạy phần pháp luật trong môn Giáo dục công dân, mà nội dung chủ yếu là giới thiệu một cách ngắn gọn, điển hình các quy định của luật pháp thì kiến thức pháp luật của đa số giáo viên đều thiếu hoặc chỉ dừng ở mức độ có một số hiểu biết nhất định nhưng không sâu. Lý do, đội ngũ giáo viên này đều tốt nghiệp sư phạm, dưới dạng các cử nhân Văn học, Triết học... chứ không phải là cử nhân Luật. Nhiều giáo viên dạy pháp luật trong các trường phổ thông hiện nay là giáo viên Sử, giáo viên Văn, giáo viên Chính trị, thậm chí cả các bộ môn khác cũng kiêm nhiệm, các thầy cô có kiến thức sư phạm tốt, nhưng riêng bộ môn Pháp luật là không đúng với chuyên ngành đào tạo, do đó khi giảng dạy gặp rất nhiều khó khăn, chất lượng không cao. Hơn nữa, nhiều năm nay đội ngũ giáo viên này lại không được bồi dưỡng hoặc nếu có bồi dưỡng thì chắp vá, thiếu tính hệ thống do đó kiến thức pháp luật và phương pháp giảng dạy không đảm bảo yêu cầu nếu không muốn nói là quá tháp kém, nhưng vì trách nhiệm, vì sự phân công của tổ chức nên các thầy cô phải đảm nhiệm. Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy, chỉ có 4/147 giáo viên tham gia phỏng vấn (chiếm 2,72%) đã qua đào tạo chính quy về luật (đại học hoặc trung cấp) và 8/147 (chiếm 5,44%) có chứng chỉ đã qua đào tạo luật.
3.3. Giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân hầu như không được tham gia sinh hoạt chuyên môn
Về vấn đề sinh hoạt chuyên môn, nghiệp vụ của bộ môn: hiện nay có rất ít trường tổ chức sinh hoạt chuyên môn đều đặn như soạn bài, giảng dạy; dự giờ rút kinh nghiệm giờ dạy; bàn về mối quan hệ giữa dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân với dạy các môn học khác, nhất là với các môn xã hội, về vai trò của bộ môn trong công tác giáo dục pháp luật của nhà trường...
Qua phân tích trên, có thể thấy, các trường phổ thông hiện nay mới chỉ đáp ứng được yêu cầu đến tiết pháp luật trong môn Giáo dục công dân thì có giáo viên lên lớp. Còn giáo viên đó có thể là giáo viên chủ nhiệm kiêm dạy Giáo dục công dân, hoặc giáo viên Văn/Sử kiêm dạy Giáo dục công dân. Giáo viên mới chỉ truyền đạt lại cho học sinh nội dung kiến thức trong sách giáo khoa, chứ chưa khai thác được hết những ưu thế của bộ môn. Mặt khác, đối với những thầy cô kiêm nhiệm, việc dạy pháp luật cho học sinh chỉ được coi là môn phụ, việc phụ bên cạnh những môn chính của giáo viên đó. Trong khi luật là một môn học khó, nội dung sách giáo khoa khô cứng và đòi hỏi tính chuẩn xác rất cao, yêu cầu giáo viên dạy pháp luật phải là những người được đào tạo chính quy, đào tạo có hệ thống và điều cốt yếu là người giáo viên đó phải thực sự tâm huyết, trăn trở với môn mình dạy và sống với nghề thì mới có thể truyền đạt kiến thức cho học sinh một cách có hiệu quả. Hơn nữa, giáo viên kiêm nhiệm lại thường phải đầu tư công sức, thời gian, lòng nhiệt tình cho môn chính của họ nên không thể đầu tư nhiều nếu như không muốn nói là không hề đầu tư hoặc đầu tư qua loa qua việc cho môn phụ là dạy pháp luật, dù họ vẫn nhận thức được tầm quan trọng của môn học này.
Biểu đồ số 5. Trình độ đào tạo của giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở trường phổ thông hiện nay
3.4. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật
3.4.1. Công tác đào tạo
Thực trạng đội ngũ giáo viên dạy pháp luật trong trường phổ thông có thể nói vừa yếu, vừa thiếu như vậy, nhưng công tác đào tạo, bồi dưỡng cũng không có gì khả quan hơn. Việc đào tạo giáo viên dạy Giáo dục công dân, pháp luật chưa được chú trọng đúng mức, chưa đủ thời gian, chương trình để giáo sinh nắm vững các kiến thức cần thiết cho việc giảng dạy sau này có kết quả. Hiện nay, chưa có chương trình đào tạo riêng giáo viên dạy pháp luật cho các trường phổ thông. Các trường Đại học Sư phạm mới chỉ có đào tạo ở Khoa Chính trị nhằm cung cấp giáo viên dạy Triết - Giáo dục công dân cho các trường Trung học phổ thông, trung học chuyên ban. Trường Đại học Sư phạm Vinh, tuy đã có đào tạo giáo viên Giáo dục công dân nhưng trong kết cấu chương trình, tỷ trọng kiến thức giáo dục pháp luật chỉ chiếm có 8%. Các trường Cao đẳng Sư phạm thì tuỳ từng trường có những cách sáng tạo riêng, ví dụ dạy ghép khoa Thể dục - Giáo dục công dân, Sử - Giáo dục công dân, Văn - Giáo dục công dân (trường cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc, Phú Thọ...). Trong các loại hình ghép đó thì môn Giáo dục công dân luôn luôn là môn 2, với quỹ thời gian là 30%; trong đó, sinh viên được học "Pháp luật đại cương" 30 tiết, "Pháp luật thực hành" 30 tiết và phương pháp giảng dạy Giáo dục công dân: 60 tiết. Với 60 tiết Pháp luật đại cương và Pháp luật thực hành thì sinh viên chỉ được tiếp xúc lướt qua một số kiến thức sơ đẳng về pháp luật. Do vậy, họ cũng không có đủ điều kiện tiếp nhận kiến thức pháp luật học để dạy tốt phần pháp luật trong chương trình. Thực tế nhiều giáo viên rất lúng túng khi có học sinh đặt câu hỏi. Trong một cuộc hội thảo do Ban chủ nhiệm đề tài tổ chức, có thầy giáo, cô giáo đã tâm sự: "Khi dạy phần pháp luật, bản thân chúng tôi cũng không tự tin vì mình thực sự chưa hiểu biết gì nhiều. Ở trong lớp có thể nói to nhưng thoáng thấy có đồng nghiệp hoặc ai đó ở ngoài là vội nói nhỏ vì sợ người ta nghe được, nhỡ sai thì xấu hổ...". Đó là một thực tế, là vấn đề lớn, vừa là thực trạng vừa là nguyên nhân của thực trạng giảng dạy và học pháp luật trong các trường phổ thông hiện nay.
3.4.2. Công tác bồi dưỡng
Giáo viên kiêm nhiệm không được bồi dưỡng thường xuyên và đầy đủ về nội dung và phương pháp giảng dạy môn học. Trong những năm vừa qua, nhằm khắc phục tình trạng số giáo viên dạy Giáo dục công dân ở các trường phổ thông không được qua đào tạo chính quy từ các trường Đại học và Cao đẳng Sư phạm, Sở Giáo dục và đào tạo kết hợp với Sở Tư pháp ở các địa phương đã tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho giáo viên. Tuy nhiên, việc bồi dưỡng này mới chỉ mang tính chắp vá.
Ai cũng biết rằng, để giảng dạy được một thì người thầy phải biết mười, chí ít cũng phải biết ba, bốn. Nhưng với giảng dạy pháp luật ở các trường phổ thông của chúng ta thì như thực trạng đội ngũ giáo viên trình bày trên đây rõ là một bất cập lớn, là một nghịch lý. Đề cập đến vấn đề này đã có nhiều Toạ đàm, Hội thảo, nhiều công trình, đề tài nghiên cứu với sự tham gia của rất nhiều nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục, các giáo viên, sinh viên và cả các em học sinh trong cả nước. Nhiều kiến nghị, giải pháp, mô hình đã được đưa ra. Tuy rất đa dạng, phong phú và vẫn còn phải tiếp tục được nghiên cứu trao đổi sâu, rộng hơn, nhưng nhìn chung đại đa số ý kiến đều nhất trí cho rằng phải quan tâm đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật; xây dựng, củng cố và phát triển đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, đủ sức hoàn thành công tác giảng dạy, giáo dục pháp luật trong các trường phổ thông.
4. Mô hình nhân cách - một số yêu cầu cơ bản đối với người giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở trường phổ thông trong sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay
4.1. Phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống
Giáo viên dạy pháp luật phải có tri thức cần thiết về tư tưởng chính trị, đạo đức nhân văn, hiểu biết về các giá trị đạo đức, văn hoá dân tộc và thời đại, có thái độ, tình cảm, niềm tin đạo đức trong sáng đối với bản thân, dân tộc và sự nghiệp Cách mạng của Đảng, dân tộc; có hành vi, lối sống trong sáng, biết tuyên truyền, tổ chức vận động quần chúng (nhất là học sinh) thực hiện những chuẩn mực đạo đức xã hội và quy định của pháp luật, hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ của người thầy giáo với trách nhiệm cao và lòng đam mê nghề nghiệp.
Những phẩm chất đạo đức, chính trị tư tưởng được xác định trong năm nhóm giá trị cơ bản sau đây:
-
Nhóm chuẩn mực đạo đức thể hiện nhận thức tư tưởng chính trị (lý tưởng sống của cá nhân phù hợp với yêu cầu đạo đức xã hội).
-
Nhóm những chuẩn mực đạo đức hướng vào sự hoàn thiện bản thân.
-
Nhóm những chuẩn mực đạo đức thể hiện quan hệ với mọi người và các dân tộc khác.
-
Nhóm những chuẩn mực đạo đức thể hiện quan hệ đối với công việc.
-
Nhóm những chuẩn mực giá trị liên quan đến xây dựng môi trường sống (môi trường tự nhiên, môi trường văn hoá xã hội).
4.2. Hệ thống kỹ năng người giáo viên giảng dạy pháp luật cần có
Giáo viên giảng dạy pháp luật cần có một hệ thống năng lực tối thiểu sau đây:
-
Năng lực tự hoàn thiện,
-
Năng lực giao tiếp, ứng xử xã hội,
-
Năng lực thích ứng,
-
Năng lực tổ chức quản lý,
-
Năng lực cạnh tranh lành mạnh,
-
Năng lực nghề nghiệp (tổ chức dạy học và giáo dục).
4.3. Những hiểu biết cần thiết đối với giáo viên dạy pháp luật
-
Hiểu biết về chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Trước mắt cần nắm được những chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chính sách đối ngoại của nhà nước.
-
Hiểu biết về mục tiêu giáo dục chung và mục tiêu giáo dục cấp học, môn học, nắm vững chương trình môn học của bậc phổ thông và các cấp học từ tiểu học đến trung học cơ sở và trung học phổ thông.
-
Có hiểu biết về lịch sử dân tộc, văn hoá dân tộc và nhân loại, đặc biệt hiểu biết về các giá trị truyền thống của các dân tộc thể hiện trong quan hệ xã hội, trong học tập, lao động và bảo vệ Tổ quốc.
-
Có kiến thức về khoa học sư phạm để thực hiện hoạt động giáo dục và dạy học, đó là tâm lý học lứa tuổi, lý luận giáo dục, giáo dục gia đình, phương pháp dạy học và tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, biết phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và phương pháp kiểm tra đánh giá chất lượng, hiệu quả giáo dục dạy học.
-
Có kiến thức về một số khoa học cần thiết liên quan trực tiếp tới chương trình giáo dục ở phổ thông.
-
Hiểu biết về thực tiễn giáo dục trong và ngoài nước.
-
Cần có kiến thức công cụ: ngoại ngữ, tin học.
Những yêu cầu trên đây cũng là yêu cầu chung với giáo viên nói chung. Song giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân có những đòi hỏi cao hơn, tổng hợp hơn và những hiểu biết ấy phải được thể hiện trong quá trình tổ chức từng giờ học của môn.
- Ngoài ra, giáo viên dạy pháp luật cần phải nắm vững kiến thức pháp luật về một số ngành luật cơ bản như Hiến pháp, Luật dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân gia đình, lao động. Để đạt được chuẩn kiến thức về pháp luật như trên, giáo viên đảm trách môn học này cần phải được qua đào tạo cơ bản về luật, có thể là đại học/trung cấp luật hoặc tương đương tuỳ theo cấp dạy.
Đối chiếu với những yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục chung trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói trên, đội ngũ giáo viên hiện nay bị hẫng hụt quá nhiều. Bộ Giáo dục- Đào tạo đã và đang đổi mới chương trình bồi dưỡng giáo viên hiện nay và đổi mới chương trình đào tạo ở các trường để nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên nói chung, giáo viên pháp luật nói riêng. Tuy nhiên, đây chỉ là những giải pháp có tính tình thế, chưa phải là giải pháp cơ bản, lâu dài. Do đó, có một yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải xây dựng một mô hình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật trong trường phổ thông một cách có hệ thống, bài bản.
5. Phối hợp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên giảng dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông giữa hai ngành Giáo dục- Đào tạo và Tư pháp
Trong thời gian qua, hai ngành Tư pháp và Giáo dục - Đào tạo đã có nhiều biện pháp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức pháp luật cho giáo viên dạy Giáo dục công dân. Việc phối hợp bước đầu cũng đã đạt được một số kết quả nhất định như:
-
Bước đầu xây dựng được đội ngũ giáo viên chuyên và kiêm nhiệm môn Giáo dục công dân từ lớp 6 - 12;
-
Góp phần khắc phục từng bước sự hạn chế về kiến thức pháp luật của giáo viên do không được đào tạo chính quy.
-
Bắt đầu từ năm học 1987-1988, song song với việc xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu Giáo dục công dân (sách giáo khoa) hai Bộ đã tiến hành xây dựng tài liệu cho giáo viên từ lớp 6 đến lớp 12, đã triển khai ở tất cả các trường phổ thông trong cả nước.
5.1. Công tác đào tạo giáo viên
Trong công tác đào tạo giáo viên dạy pháp luật cho các trường phổ thông, việc phối hợp giữa hai ngành Tư pháp và Giáo dục - đào tạo hiện mới chỉ dừng lại ở việc phối hợp biên soạn sách Pháp luật đại cương và Pháp luật chuyên ngành dùng cho các trường Cao đẳng sư phạm đào tạo giáo viên dạy Giáo dục công dân cho các trường Trung học cơ sở và giáo trình Nhà nước và pháp luật dùng cho các trường Đại học Sư phạm.
5.2. Về công tác bồi dưỡng giáo viên
- Chương trình bồi duỡng giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân được tổ chức ở hai cấp độ: bồi dưỡng theo năm học và bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ.
- Bồi dưỡng giáo viên theo năm học thường được tiến hành vào dịp hè hàng năm và bồi dưỡng theo từng bài giảng của từng lớp học theo sách học sinh và sách giáo viên.
Ở trung ương, khi chỉnh lý sách giáo khoa, hai ngành Giáo dục và Tư pháp thường phối hợp mở Hội nghị tập huấn bồi dưỡng giáo viên, trong đó chủ trì là Bộ Giáo dục - Đào tạo. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố (kinh phí, địa điểm, thời gian...) việc bồi dưỡng này còn mang tính hình thức, chỉ dừng lại ở mức độ tập huấn một số giáo viên và cán bộ quản lý - theo dõi bộ môn của các Sở giáo dục, sau đó các cán bộ này về tập huấn lại cho giáo viên bộ môn ở các trường tại địa phương.
- Bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ: là bồi dưỡng cho giáo viên về kiến thức cơ bản của bộ môn mình phụ trách và nội dung, phương pháp giảng dạy bộ môn đó.
Để phục vụ cho công tác bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ về kiến thức pháp luật cho giáo viên dạy pháp luật ở các trường phổ thông, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phối hợp với Bộ Tư pháp (Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật) xây dựng chương trình bồi dưỡng thường xuyên và biên soạn sách bồi dưỡng giáo viên. Nội dung gồm 3 vấn đề chính:
-
Một số vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật (nguồn gốc, dấu hiệu, bản chất, kiểu và hình thức Nhà nước trong lịch sử nói chung và Việt Nam nói riêng).
-
Một số vấn đề chung về pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa (giới thiệu nội dung, khái niệm một số thuật ngữ pháp lý cơ bản).
-
Nội dung, phương pháp giảng dạy pháp luật lớp 8, lớp 9 (theo sách giáo khoa).
Ở các địa phương, công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật theo chu kỳ và bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên cũng rất được chú trọng. Bên cạnh việc thực hiện đầy đủ công tác bồi dưỡng của Bộ và các chuyên đề theo quy định hàng năm, Sở Giáo dục - đào tạo ở các địa phương còn chủ động phối hợp với cơ quan tư pháp và các cơ quan hữu quan tổ chức tập huấn riêng cho giáo viên dạy pháp luật ở địa phương, thường xuyên bồi dưỡng kiến thức pháp luật nhằm nâng cao trình độ và cập nhật thông tin pháp luật cho họ (có hoặc không có cấp chứng chỉ). Các kiến thức pháp lý được lồng ghép trong các chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên vào dịp hè, (năm 1996 bồi dưỡng về Luật Dân sự; năm 2000 bồi dưỡng về Luật Hình sự và năm 2001 bồi dưỡng chuyên đề về Luật Hôn nhân và gia đình...). Sự phối hợp giữa hai ngành Giáo dục và Tư pháp trong việc bồi dưỡng thường xuyên các kiến thức pháp luật cho giáo viên ở các trường phổ thông nhằm đạt được 3 mục đích chính:
- Giúp cho đội ngũ giáo viên nhận thức sâu hơn, đúng hơn về nội dung các bài giảng pháp luật trên lớp.
- Nội dung các bài giảng của giáo viên phổ thông về các vấn đề pháp luật phong phú hơn, có tính thực tiễn xã hội cao hơn.
- Tăng cường sự hiểu biết, thông cảm, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau giữa đội ngũ giáo viên và các chuyên viên pháp luật của Sở Tư pháp, qua đó làm tăng thêm lòng yêu nghề của giáo viên dạy pháp luật.
5.3. Tồn tại và nguyên nhân
- Đào tạo giáo viên dạy Giáo dục công dân trong các trường phổ thông vẫn là một vấn đề “nhức nhối” của hai ngành Giáo dục và Tư pháp hiện nay. Kết quả từ công tác này còn quá khiêm tốn và đó chính là vấn đề đặt ra cần phải triển khai một cách hiệu quả đối với hai ngành trong những năm tới đây.
- Vị trí, vai trò của môn học chưa được coi trọng đúng mức vì vậy khoa Giáo dục công dân, Chính trị mở ở các trường Sư phạm chưa thu hút được học sinh thi vào.
- Các khoa Giáo dục công dân, Chính trị mở ở các trường sư phạm còn ít vì vậy số lượng sinh viên tốt nghiệp ra trường để làm giáo viên dạy bộ môn này còn thiếu.
- Vẫn quá khắt khe trong việc tuyển chọn đào tạo và bồi dưỡng giáo viên. Vì vậy vẫn chỉ có một số lượng ít giáo viên được đào tạo, bồi dưỡng.
- Các lớp bồi dưỡng cốt cán được chuẩn bị chu đáo và tổ chức có kết quả song việc triển khai bồi dưỡng trên diện rộng chưa có sự chỉ đạo, kiểm tra đánh giá sát sao. Ở một số nơi các lớp bồi dưỡng còn mang tính hình thức, chưa đạt được mục tiêu đề ra.
- Sự phối hợp giữa các Vụ, Viện của hai ngành chưa thực sự chặt chẽ dẫn đến sự chồng chéo, thiếu đồng bộ, thiếu toàn diện trong chỉ đạo.
- Việc tập huấn, bồi dưỡng kiến thức mới chỉ tập trung vào những cán bộ cốt cán hoặc một số tỉnh, thành phố lớn. Giáo viên vùng xa, vùng sâu ít có điều kiện học tập, bồi dưỡng nâng cao kiến thức chuyên môn.
- Các lớp bồi dưỡng tổ chức quá ngắn ngày không thể cung cấp đủ những thông tin cơ bản, cần thiết cho giáo viên và các tài liệu bồi dưỡng vẫn chưa đáp ứng đúng yêu cầu của giáo viên.
- Trong nhiều năm qua chúng ta vẫn chưa tiến hành tổng kết kinh nghiệm đào tạo, bồi dưỡng để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện tốt công tác này.
- Nhận thức chưa đúng về môn học Giáo dục công dân của các cơ quan quản lý, giáo viên và học sinh dẫn đến công tác đào tạo giáo viên dạy Giáo dục công dân và ý thức tự học, tự trau dồi kiến thức của giáo viên đạt hiệu quả chưa cao.
6. Giải pháp xây dựng mô hình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông
Những khó khăn mà chúng ta gặp phải khi thực hiện chương trình giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông không thể ngay tức khắc có thể giải quyết được mà phải trải qua một quá trình nhất định. Trước hết chúng ta phải xây dựng được chương trình khung đào tạo và Pháp luật phải được coi là một môn học nằm trong chương trình khung đào tạo đó. Đồng thời, chúng ta cũng phải xây dựng đội ngũ giáo viên dạy pháp luật trong các trường phổ thông đã được chuẩn hoá. Để đạt được hiệu quả giáo dục pháp luật trong nhà trường không chỉ đơn thuần soạn thảo chương trình, nội dung, tài liệu, sách giáo khoa là đủ mà cần phải có một đội ngũ giáo viên vừa có kiến thức sư phạm, vừa có kiến thức pháp luật.
Sau đây là một số giải pháp cơ bản nhằm đạt tới yêu cầu chuẩn hoá đội ngũ giáo viên dạy pháp luật trong các trường phổ thông.
-
Giải pháp sớm tạo nguồn giáo viên dạy luật cho các trường phổ thông
Giải pháp này được thực hiện thông qua hình thức phối hợp giữa Bộ Giáo dục- Đào tạo và Bộ Tư pháp cùng Trường Đại học Luật Hà Nội xây dựng chương trình đào tạo cán bộ giảng dạy pháp luật có bằng Đại học thứ hai (cử nhân Luật cho các trường đại học sư phạm và cao đẳng sư phạm) và đào tạo ngắn hạn (bồi dưỡng) cấp chứng chỉ cho giáo viên dạy pháp luật ở các trường phổ thông. Giải pháp được xây dựng theo hướng sử dụng các tiềm năng hiện có như:
(1) Lấy đội ngũ giáo viên hiện tại đi học thêm luật (tại chức luật hoặc bồi dưỡng luật trong thời gian nghỉ hè.....).
(2) Lấy sinh viên đã tốt nghiệp đại học/cao đẳng sư phạm bổ túc thêm kiến thức luật, sau đó đưa về các trường phổ thông giảng dạy pháp luật.
Vấn đề đặt ra hiện nay đối với đội ngũ giáo viên hiện đang dạy pháp luật trong trường phổ thông là:
- Nếu chưa có kiến thức pháp luật thì cần phải được cử đi đào tạo về Luật (có thể theo hình thức đào tạo ngắn hạn hoặc chuyên tu, tại chức...). Trước mắt là lấy giáo viên hiện tại (nên lấy giáo viên các môn xã hội) đi học tập trung, đi bồi dưỡng từng đợt về pháp luật. Ở bậc Trung học cơ sở thì có thể học ở trường Cao đẳng Sư phạm tại địa phương. Lực lượng này có lợi thế là người trong ngành, trong cấp học, quen thuộc với môi trường công tác, quen với phương pháp sư phạm ... Nguồn này sẽ có tính khả thi cao nếu cơ quan quản lý giáo dục từ Trung ương đến địa phương sớm có chính sách ưu đãi đối với giáo viên đang giảng dạy được điều đi học pháp luật.
- Nếu đã có kiến thức pháp luật rồi thì cần được bồi dưỡng sâu hơn, thường xuyên được cập nhật kiến thức pháp luật mới. Chất lượng đội ngũ giáo viên phụ thuộc chủ yếu vào công tác đào tạo và bồi dưỡng. Công tác bồi dưỡng kiến thức cho giáo viên là công việc không thể thiếu sau khi đã có đào tạo ban đầu, nhằm giúp giáo viên không ngừng mở rộng và nâng cao trình độ hiểu biết, năng lực nghiệp vụ chuyên môn. Trước mắt, tăng cường mở lớp tập huấn bồi dưỡng ngắn ngày về kiến thức pháp luật và phương pháp giảng dạy cho giáo viên đang dạy pháp luật. Chú ý cập nhật, trang bị kiến thức về văn bản pháp luật mới ban hành cho giáo viên. Mở các lớp bồi dưỡng theo chương trình hoặc theo chuyên đề, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của từng địa phương để khắc phục dần thực trạng bất cập về giáo viên dạy pháp luật hiện nay. Thông thường trong các dịp hè, ngành Giáo dục có thể phối hợp với ngành Tư pháp tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn, lồng ghép kiến thức pháp lý giúp cho giáo viên có được những hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực pháp luật, để từ đó có thể trình bày bài giảng cho học sinh được hay hơn, hấp dẫn hơn.
Tuy nhiên, trong tương lai, tình trạng giáo viên kiêm nhiệm này sẽ được khắc phục dần theo hướng:
+ Các giáo viên kiêm giảng dạy được bố trí rút bớt việc chính, qua đó có điều kiện tập trung nghiên cứu sâu hơn về chuyên môn pháp luật;
+ Việc đào tạo, bồi dưỡng cho giáo viên dạy pháp luật được tiến hành đều khắp và thường xuyên.
+ Sau đó, nếu giáo viên có nhu cầu thì tiếp tục cử đi đào tạo tại chức về luật, và nếu giáo viên thích dạy pháp luật thì chuyển hẳn thành giáo viên chuyên dạy pháp luật.
(3) Lấy sinh viên đã tốt nghiệp đại học Luật bổ túc thêm kiến thức sư phạm, sau đó đưa về các trường phổ thông giảng dạy pháp luật.
Lực lượng này có lợi thế là đã qua đào tạo chính quy và có hệ thống về pháp luật, tuy nhiên lại có hạn chế là chưa có kiến thức sư phạm. Nếu chúng ta sử dụng lực lượng này thông qua hình thức đào tạo, bồi dưỡng thêm về kiến thức sư phạm thì sẽ thu được những lợi ích đáng kể như:
-
Khắc phục được tình trạng thiếu giáo viên ở các trường phổ thông.
-
Tận dụng được nguồn lực sẵn có đã qua đào tạo cơ bản và hệ thống về Luật.
-
Giảm tỷ lệ sinh viên Luật ra trường không có việc làm.
-
Giải pháp cơ bản, lâu dài
Tất cả những giải pháp nói trên đều chỉ có tính chất tạm thời, chỉ là giải pháp tình thế. Xét về lâu dài, chúng ta phải có đội ngũ giáo viên dạy luật được đào tạo chính quy từ các trường Sư phạm. Công tác đào tạo giáo viên là một nhiệm vụ trung tâm hàng đầu, một giải pháp có tính quyết định nâng cao chất lượng giảng dạy và giáo dục pháp luật trong các trường phổ thông. Giải pháp cơ bản, lâu dài trong việc đào tạo giáo viên dạy luật trong các nhà trường phổ thông phải theo hướng mở khoa đào tạo sư phạm Luật ở các trường Sư phạm.
(i) Phân cấp đào tạo giáo viên dạy pháp luật cho các trường phổ thông
- Đào tạo giáo viên chuyên dạy Giáo dục công dân ở cấp Trung học cơ sở được giao cho các trường Cao đẳng Sư phạm. Ở cấp học này, cần phải đào tạo giáo viên dạy luôn được cả hai phân môn: Đạo đức và Pháp luật.
- Đối với bậc Trung học phổ thông giao cho các trường Đại học Sư phạm.
(ii). Các bước triển khai kế hoạch đào tạo nguồn giáo viên.
- Khẩn trương củng cố các khoa Giáo dục chính trị của các trường Đại học sư phạm về các mặt cơ sở vật chất, thiết bị, đặc biệt củng cố, bổ sung cán bộ giảng dạy có chất lượng để thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật. Đồng thời, xây dựng và triển khai chương trình, kế hoạch đào tạo giáo viên dạy pháp luật cho các trường Phổ thông trung học, Trung học cơ sở.
- Xây dựng, củng cố khoa đào tạo giáo viên Giáo dục công dân của các trường Cao đẳng sư phạm để thực hiện có chất lượng nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy pháp luật trong các trường trung học cơ sở cho các tỉnh và thành phố theo chương trình ban hành tại Quyết định số 3637/QĐ ngày 30/8/1996 của Bộ GD&ĐT về đào tạo giáo viên trung học cơ sở có trình độ cao đẳng sư phạm và Chỉ thị số 30/1998/CT-BGD&ĐT ngày 20/5/1998 về việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên bộ môn Giáo dục công dân trường Trung học cơ sở, Phổ thông trung học - Trung học chuyên ban.
- Về công tác xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ giảng dạy tại các trường sư phạm
Để thực hiện chương trình giảng dạy giáo dục pháp luật cho sinh viên, đòi hỏi cán bộ giảng dạy pháp luật tại các trường Đại học, Cao đẳng đều phải có trình độ cử nhân hoặc thạc sĩ, tiến sĩ Luật học. Trước mắt, các trường Đại học, Cao đẳng sư phạm có thể mời thêm cộng tác viên là những chuyên gia pháp luật tham gia dạy các vấn đề chuyên sâu mà các cán bộ giảng dạy của trường chưa chuẩn bị được. Về lâu dài, cần có kế hoạch đào tạo cán bộ giảng dạy về pháp luật cho các lớp chuyên này ở các trường sư phạm.
(iii). Nhiệm vụ của Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Bộ Giáo dục và Đào tạo sớm xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo đội ngũ giáo viên dạy pháp luật ở các cấp học; chỉ đạo thành lập khoa đào tạo giáo viên chuyên dạy môn học này trong hệ thống các trường sư phạm của Trung ương và địa phương.
- Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục và Đào tạo tham mưu cho Chính phủ ban hành để triển khai thực hiện các văn bản pháp luật về đào tạo giáo viên dạy pháp luật trong các trường Đại học sư phạm và Cao đẳng sư phạm.
- Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp biên soạn sách, tài liệu phục vụ cho giáo dục pháp luật trong nhà trường.
-
Bộ Tư pháp khi có điều kiện có thể hỗ trợ giảng viên dạy pháp luật cho các trường Đại học và Cao đẳng.
KẾT LUẬN
Giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên trong các nhà trường là lĩnh vực khó đo, đếm, khó có thể lượng hoá kết quả bằng những đại lượng cụ thể, chính xác, chi tiết ngay được. Nhưng xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên đảm nhận công tác này lại là việc làm không thể chung chung mà cần phải được lượng hoá càng cụ thể chi tiết, chính xác càng tốt.
Nói đến giáo dục là phải nói đến người thầy. Đối với giáo dục nói chung và giáo dục pháp luật trong nhà trường nói riêng, vị trí, vai trò của người thầy là không thể thay thế. Điều này đã được ghi nhận và trong tương lai chưa có gì có thể thay thế được. Chúng ta đã có kinh nghiệm đào tạo, bồi dưỡng giáo viên nói chung. Tuy nhiên, đào tạo, bồi dưỡng để có đội ngũ giáo viên giảng dạy pháp luật trong các trường phổ thông đủ về số lượng, giỏi về chất lượng, có khả năng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao lại là lĩnh vực chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Trong khi đó, cơ chế, chính sách, cơ sở vật chất, trang, thiết bị phương tiện đầu tư cho công tác này còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu.
Giải quyết đồng bộ, có chất lượng, hiệu quả vấn đề này là nhiệm vụ khó khăn, lâu dài, có tầm quan trọng to lớn, đòi hỏi sự đầu tư đúng mức, kịp thời về thời gian, sức lực và trí tuệ của các ngành, các cấp, của toàn xã hội mà trước hết là của hai ngành Giáo dục - Đào tạo và Tư pháp. Vấn đề này đang thu hút sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể xã hội và các tầng lớp nhân dân, nhất là của ngành Giáo dục - Đào tạo và Tư pháp. Đây cũng chính là băn khoăn, trăn trở của tập thể Ban Chủ nhiệm Đề tài và các cộng tác viên.
Mặc dù gặp không ít khó khăn nhưng được sự quan tâm, chỉ đạo, tạo điều kiện kịp thời của Lãnh đạo Bộ Tư pháp, của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý và các cơ quan hữu quan cùng với sự tích cực, cố gắng với ý thức và tinh thần trách nhiệm cao của Ban Chủ nhiệm, các cộng tác viên nên Đề tài đã được triển khai thực hiện một cách tích cực, bảo đảm tính khách quan, khoa học. Tuy chưa phản ánh đầy đủ, chưa bao quát được tất cả các mặt nhưng Đề tài cũng đã đạt được những kết quả nhất định.
Với điều kiện thời gian và kinh phí có hạn, dù đã rất cố gắng nhưng Ban Chủ nhiệm Đề tài cùng các cộng tác viên cũng chỉ hy vọng những kết quả nghiên cứu của mình đóng góp được phần nhỏ, giúp chúng ta có thêm những hiểu biết cụ thể, những bước đi phù hợp, có hiệu quả hơn nhằm từng bước xây dựng cho được đội ngũ giáo viên đảm bảo hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục pháp luật cho các thế hệ học sinh, sinh viên; không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này lên ngang tầm với yêu cầu đòi hỏi của tình hình, nhiệm vụ mới.
[1] Số liệu khảo sát của đề tài cấp Bộ năm 1998: “Nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật trong các trường không chuyên luật”
[2] Xem phụ lục kết quả khảo sát
[3] Trích văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V, NXB sự thật - 1982
[4] Trích Văn Kiện Đại hiểu, đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB sự thật - 1987
[5] Trích văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB sự thật - 2001
[6] Trích “Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá” GS. VS Phạm Minh Hạc chủ biên nhà XBCTQG Hà Nội 2001
[7] Kết quả khảo sát được trình bày chi tiết tại phần phụ lục