• Thuộc tính
Tên đề tài Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng chương trình quốc gia về phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn tới
Nội dung tóm tắt

Trong thời gian qua, nhất là từ khi Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 7/01/1998, Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày 7/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) được ban hành, công tác này đang từng bước được đẩy mạnh, góp phần tích cực vào việc nâng cao ý thức pháp luật của người dân, động viên, hướng dẫn nhân dân hăng hái tham gia vào mọi lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội. Các ngành, các cấp đã quan tâm huy động cán bộ, xây dựng cơ chế, tạo điều kiện về cơ sở vật chất để thực hiện công tác PBGDPL.

 

 

ĐỀ TÀI

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

CỦA VIỆC XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH QUỐC GIA

VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG GIAI ĐOẠN TỚI

 

 

 

Tuy đã có những hoạt động sôi nổi, rộng khắp với nỗ lực thường xuyên của nhiều cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến địa phương nhưng hiệu quả công tác PBGDPL, tác động của PBGDPL đến việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân, đến trật tự kỷ cương pháp luật, đến tình trạng vi phạm pháp luật còn chưa đạt được như mong muốn. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do việc thực hiện công tác PBGDPL vẫn còn dàn trải, chưa hình thành được cơ chế, phương thức hữu hiệu để tập trung nguồn lực cũng như huy động sự tham gia, đóng góp của toàn xã hội cho công tác PBGDPL.

Để góp phần thực hiện các mục tiêu, chính sách về phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2010 được thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, công tác PBGDPL cần được tiếp tục đổi mới về phương thức thực hiện, có những chuyển biến tích cực đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ phát triển mới của đất nước. Bởi vậy đã đến lúc cần phải xây dựng và thực hiện Chương trình quốc gia về PBGDPL. Chương trình sẽ là căn cứ huy động nhân tài, vật lực cho công tác PBGDPL; là sự phối hợp hành động, là một phương thức mới để tổ chức lực lượng, huy động sự tham gia, đóng góp của cả cộng đồng, tập trung thực hiện một nhiệm vụ cấp bách đang đặt ra trong xã hội. Chính vì vậy, cần có sự nghiên cứu để tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn của việc xây dựng Chương trình, nhất là nội dung của nó với bước đi, kết quả cụ thể cần đạt được.

Việc nghiên cứu của Đề tài nhằm thực hiện các mục tiêu chủ yếu sau:

- Nghiên cứu, xác định một số cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ việc xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL.

- Đánh giá nhu cầu và chứng minh sự cần thiết xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL, làm luận cứ cho việc trình Chính phủ ban hành.

- Đề xuất một số nội dung chính cần đưa vào Chương trình quốc gia về PBGDPL và dự kiến biện pháp thực hiện.

Để thực hiện các mục tiêu trên, đề tài đã thực hiện các nội dung nghiên cứu sau đây:

I. KHÁI QUÁT VỀ CHƯƠNG TRÌNH QUỐC GIA

1. Chương trình quốc gia

Theo Từ điển tiếng Việt thì: Chương trình được hiểu là các mục, các vấn đề, nhiệm vụ đặt ra và được sắp xếp theo một trình tự để thực hiện trong một thời gian nhất định([1]).

Theo quy định tại Điều 1 Quyết định số 531/TTg ngày 8/8/1996 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý các Chương trình quốc gia, thì Chương trình quốc gia là một tập hợp các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đồng bộ về kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ, môi trường, cơ chế chính sách, tổ chức để thực hiện một hoặc một số mục tiêu đã được xác định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước trong một thời gian nhất định.

Như vậy, Chương trình quốc gia có một số đặc điểm sau:

- Là một chương trình có tính định hướng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được lập ra trên cơ sở đánh giá đúng, đầy đủ, toàn diện thực trạng một hoặc một nhóm các quan hệ xã hội cụ thể, cũng như vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc điều chỉnh các quan hệ đó.

- Là căn cứ để lãnh đạo hoặc người có thẩm quyền xem xét, cân nhắc, đánh giá các khả năng hiện có và chỉ đạo tập trung các nguồn lực cần thiết cho các vấn đề quan trọng nhất; đồng thời cũng là căn cứ để các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong hoạt động chung; tạo điều kiện phối hợp các công việc của nhiều bộ phận khác nhau để thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu đã được xác định.

- Được xây dựng để tập trung giải quyết một hoặc một số vấn đề, nhiệm vụ, lĩnh vực quan trọng, cấp bách, có ý nghĩa cơ bản, mang tính đột phá đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung của đất nước.

- Chương trình quốc gia có mục tiêu, đối tượng, cách thức thực hiện và phương thức huy động nguồn lực cụ thể, rõ ràng.

- Phải tuân theo các quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn, nội dung, quy trình xây dựng, thẩm định, quản lý...

- Thời gian thực hiện thường là 5 năm, hoặc phân kỳ thực hiện cho từng giai đoạn 5 năm.

2. Các loại Chương trình quốc gia

Ở nước ta đang thực hiện 4 loại chương trình quốc gia, gồm:

 a) Chương trình mục tiêu quốc gia:

Các vấn đề được chọn để giải quyết bằng Chương trình mục tiêu quốc gia phải là những vấn đề có tính cấp bách, liên ngành, liên vùng và có tầm quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, cần phải được tập trung nguồn lực và sự chỉ đạo của Chính phủ để giải quyết ([2]).

b) Chương trình mục tiêu

Phạm vi hẹp hơn Chương trình mục tiêu quốc gia, nhằm thực hiện một, hoặc một số nhiệm vụ cụ thể của bộ, ngành trong một thời gian nhất định, thường gắn với nhiệm vụ thường xuyên của các bộ, ngành; cơ chế tài chính phụ thuộc vào khả năng cân đối Ngân sách của Trung ương hỗ trợ.

c) Chương trình hành động quốc gia

Phạm vi thực hiện trên cả nước, nhằm thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ mang tính lâu dài, thường xuyên, thu hút nhiều đối tượng thuộc các bộ, ngành tham gia. Cơ chế tài chính được quy định cụ thể khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình ([3]).

 d) Chương trình kỹ thuật - kinh tế:

Là một hệ thống đồng bộ các hoạt động khoa học - công nghệ - sản xuất, các chính sách và biện pháp đầu tư, trong đó lấy công nghệ làm động lực phát triển nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế xác định. Chương trình kỹ thuật - kinh tế phải tạo ra được năng lực công nghệ đủ mạnh để đảm bảo tính cạnh tranh của các sản phẩm chủ lực hoặc công nghệ và làm nòng cốt cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những chương trình này mang tính kỹ thuật ngành và do các bộ chuyên ngành quản lý([4]).

3. Các ưu điểm cơ bản của Chương trình quốc gia

- Có điều kiện tập trung nguồn lực và sự chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền địa phương để thực hiện một mục tiêu, nhiệm vụ có nhiều đòi hỏi bức xúc, hoặc lĩnh vực có tác động đến sự phát triển kinh tế và ổn định chính trị xã hội;

- Là căn cứ để huy động nhân vật lực; là phương thức tổ chức lực lượng, phối hợp hành động nhằm tập trung thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ cấp bách đang đặt ra; tạo cơ chế phù hợp thúc đẩy hoạt động ở cơ sở;

- Tạo sự chuyển động có tính đột phá đối với các lĩnh vực, nhiệm vụ kinh tế, xã hội quan trọng;

- Tiết kiệm nguồn lực do hạn chế việc dàn trải.

Kết quả tích cực của các Chương trình quốc gia thể hiện rõ ở bất cứ lĩnh vực nào, địa bàn nào mà Chương trình được thực hiện. Nhiều Chương trình quốc gia đã tạo bộ mặt mới cho sự phát triển ở nhiều vùng, nhất là vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; góp phần nâng cao cuộc sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế bền vững và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

II. CHƯƠNG TRÌNH QUỐC GIA VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Công tác PBGDPL luôn được coi là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong bối cảnh thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công tác PBGDPL càng có vai trò quan trọng, đòi hỏi phải được sự quan tâm chỉ đạo tập trung hơn, sự đầu tư tương xứng hơn của Nhà nước, mà trước hết là thông qua việc xây dựng và triển khai Chương trình quốc gia về PBGDPL.

1. Ý nghĩa của Chương trình quốc gia về PBGDPL

Việc xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình quốc gia về PBGDPL có ý nghĩa quan trọng, thể hiện qua các mặt sau:

- Tạo sự đồng bộ với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

- Việc triển khai công tác PBGDPL dưới hình thức Chương trình quốc gia là hoàn toàn phù hợp với đặc thù của công tác này, đó là sự phối hợp liên ngành và phân công, phân nhiệm cụ thể giữa các cơ quan, tổ chức trong thực hiện công tác PBGDPL; Nhà nước là chủ thể chịu trách nhiệm chủ yếu trong tổ chức, thực hiện công tác PBGDPL.

- Chương trình quốc gia về PBGDPL góp phần tạo bước phát triển mới trong công tác PBGDPL đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

2. Yêu cầu đối với Chương trình quốc gia về PBGDPL

Chương trình quốc gia về PBGDPL phải đáp ứng những yêu cầu sau:

- Chọn đúng lĩnh vực, đối tượng trọng điểm cần nâng cao ý thức pháp luật, tạo chuyển biến trong chấp hành pháp luật.

- Mục tiêu, nội dung, giải pháp thực hiện đề xuất trong Chương trình quốc gia về PBGDPL phải cụ thể, rõ ràng, khả thi; phục vụ việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

- Đồng bộ với các Chương trình, Kế hoạch về công tác PBGDPL của Chính phủ hiện hành; phù hợp với bộ máy, lực lượng thực hiện công tác PBGDPL hiện nay; lồng ghép, phối hợp với các Chương trình quốc gia khác có liên quan để tận dụng các nguồn lực thực hiện Chương trình, nhất là khi các Chương trình được triển khai trên cùng một địa bàn.

3. Mối quan hệ giữa Chương trình quốc gia về PBGDPL với các Chương trình, Kế hoạch PBGDPL hiện hành

Một trong những điểm nổi bật của công tác PBGDPL giai đoạn từ năm 1998 trở lại đây là công tác này đã được kế hoạch hoá, chương trình hoá. Chính phủ đã ban hành các kế hoạch triển khai công tác PBGDPL trong từng giai đoạn theo nhiệm kỳ của Chính phủ: Kế hoạch triển khai công tác PBGDPL từ năm 1998 đến năm 2002 ban hành kèm theo Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày 7/01/1998; Chương trình PBGDPL từ năm 2003 đến năm 2007 ban hành kèm theo Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17/01/2003. Những chương trình, kế hoạch này mang tính chất là văn bản triển khai hoạt động thường xuyên thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, vừa có tính định hướng, vừa mang tính chỉ đạo để các cấp, các ngành triển khai, thực hiện công tác PBGDPL trên phạm vi toàn quốc một cách có nề nếp, liên tục và thống nhất.

Chương trình, kế hoạch PBGDPL hiện hành là những chương trình thường xuyên, đảm bảo cho việc thực hiện công tác PBGDPL trên cả nước được liên tục, không gián đoạn theo sự chỉ đạo chung, thống nhất của Chính phủ, phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn. Chương trình quốc gia về PBGDPL là chương trình mang tính đột phá, nhằm đạt kết quả cụ thể đối với lĩnh vực, đối tượng PBGDPL trọng điểm được xác định trong thời gian nhất định. Ở phương diện khác, Chương trình quốc gia không thâu tóm các chương trình PBGDPL hiện hành mà cụ thể hoá các chương trình đó bằng những mục tiêu, chỉ tiêu, hiệu quả đạt được đối với những đối tượng, lĩnh vực cụ thể. Mặt khác, đối với các lĩnh vực, đối tượng quan trọng cần tập trung thực hiện việc PBGDPL mà các chương trình khác chưa bao quát được thì Chương trình quốc gia về PBGDPL sẽ tập trung thực hiện.

 Việc cùng thực hiện 2 loại chương trình về PBGDPL nói trên hoàn toàn không chồng chéo, mà còn tác động, hỗ trợ lẫn nhau. Chương trình quốc gia về PBGDPL trong quá trình triển khai có thể sử dụng những hình thức, biện pháp PBGDPL đã được định hình, đang phát huy tác dụng và bộ máy, lực lượng thực hiện công tác PBGDPL hiện nay; đồng thời, các cơ quan, đơn vị khi thực hiện PBGDPL theo kế hoạch thường xuyên có thể tận dụng các phương tiện, điều kiện, hiệu quả mà Chương trình quốc gia về PBGDPL mang lại.

III. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

1. Tình hình PBGDPL cho một số đối tượng

1.1. Cán bộ, công chức

Việc PBGDPL cho cán bộ, công chức đã được các bộ, ngành, cơ quan, đơn vị quan tâm. Ngoài việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật theo chương trình tương ứng với từng chức danh công chức, việc PBGDPL cho cán bộ, công chức còn được thực hiện thông qua các lớp tập huấn theo chuyên đề; các hội nghị giới thiệu hoặc triển khai văn bản; qua tài liệu tuyên truyền, phổ biến pháp luật; các đợt thi tìm hiểu pháp luật... Nội dung pháp luật còn được đưa vào các kỳ thi tuyển dụng, nâng bậc, chuyển ngạch công chức.

Trong công tác PBGDPL cho cán bộ, công chức cần đặc biệt chú ý đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở. Hiện nay, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở còn nhiều bất cập. Vì vậy, cán bộ cơ sở gặp nhiều khó khăn khi phải tiếp thu, triển khai những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước; ảnh hưởng đến công tác quản lý hành chính của cấp cơ sở: còn tuỳ tiện, chưa dựa vào pháp luật mà còn nặng về phong tục, tập quán. Do đó, ngoài các biện pháp kiện toàn đội ngũ cán bộ cơ sở, Nhà nước cần có chương trình, kế hoạch với sự đầu tư thích đáng để nâng cao kiến thức pháp luật, năng lực vận dụng pháp luật cho lực lượng này, đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, biết hướng dẫn và phát huy tính tự quản của dân, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, được dân tín nhiệm. Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, công chức cần tự giác tìm hiểu, học tập pháp luật, coi đây là "nhiệm vụ thường xuyên, là một trong những tiêu chuẩn đánh giá cán bộ"; tuân thủ, thi hành nghiêm chỉnh pháp luật và tham gia PBGDPL cho nhân dân.

1.2. Nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số

Nội dung pháp luật cần thông tin, phổ biến cho người dân nói chung như các quyền tham gia quản lý nhà nước; quyền bầu cử, ứng cử; quyền lao động, tự do kinh doanh; nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp, pháp luật..., người nông dân, đồng bào ở miền núi, vùng dân tộc còn được thông tin, phổ biến các quy định pháp luật về quyền sử dụng đất, thuế nông nghiệp, bảo vệ và phát triển rừng, phòng chống ma tuý, hôn nhân - gia đình, đăng ký hộ tịch, các giao lưu dân sự trong cuộc sống hàng ngày, chống các hủ tục lạc hậu, phát huy tập quán tốt đẹp. Ngoài ra, nội dung pháp luật còn được lồng ghép trong các chương trình xoá đói giảm nghèo, dân số, khuyến nông, khuyến lâm...

Một trong những hình thức PBGDPL có hiệu quả, phù hợp với đặc thù đối tượng nông dân, đồng bào dân tộc là hình thức truyền đạt trực tiếp thông qua đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật. Một hình thức khác cũng được sử dụng thường xuyên là biên soạn các tài liệu pháp luật phổ thông như: sách giới thiệu văn bản, sách hỏi đáp về pháp luật, tờ gấp... Việc dịch một số văn bản pháp luật sang tiếng dân tộc để phổ biến cho đồng bào hiện đang được các cơ quan chức năng quan tâm. Song công việc này không phải địa phương nào cũng có điều kiện thực hiện và không phải có thể dịch được sang mọi thứ tiếng dân tộc do những khó khăn về thiếu người biên dịch, về kinh phí..., hơn nữa, không phải người nào trong cộng đồng dân tộc ít người cũng biết đọc chính thứ tiếng của dân tộc mình.

Các hình thức PBGDPL khác như: thông qua hoạt động hoà giải, tủ sách pháp luật (Điểm Bưu điện - Văn hoá xã), trên phương tiện thông tin đại chúng, truyền thanh cơ sở, lồng ghép trong các sinh hoạt truyền thống, lễ hội của đồng bào dân tộc, trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, hương ước, quy ước... cũng được chú trọng. Đặc biệt, xuất phát từ đặc điểm phong tục, tập quán sinh hoạt của cộng đồng dân cư ở nông thôn, miền núi, vùng dân tộc, việc huy động, vận động cán bộ chính quyền, đoàn thể cơ sở, các già làng, trưởng bản, trưởng thôn... tham gia PBGDPL được coi là một trong những biện pháp PBGDPL phù hợp với nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số.  

Từ năm 1997, Trung tâm trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách đã được thành lập và hoạt động có hiệu quả ở các tỉnh, thành phố. Thông qua phương thức trợ giúp các vụ việc cụ thể, nhất là trong những đợt trợ giúp pháp lý lưu động tại các vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, dân tộc, hoạt động này còn góp phần thông tin về các vấn đề pháp luật mang tính thời sự, gần gũi với đời sống của bà con, được nhân dân rất đồng tình, ủng hộ.

1.3. Thanh thiếu niên

Nội dung pháp luật trang bị cho thanh thiếu niên tập trung vào những kiến thức pháp luật phổ thông, cơ bản về Nhà nước và pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của công dân, một số kiến thức pháp luật thiết yếu phục vụ cho cuộc sống, học tập, lao động phù hợp với lứa tuổi của các em và những nội dung liên quan đến đời sống cộng đồng như: bảo vệ môi trường, an toàn giao thông, phòng, chống ma tuý và tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự an toàn xã hội...

Đối với học sinh, sinh viên, việc PBGDPL được thực hiện thông qua  chương trình giảng dạy các môn học Đạo đức (Tiểu học), Giáo dục công dân (Trung học cơ sở), Giáo dục pháp luật (Trung học chuyên nghiệp ), Pháp luật đại cương (Đại học, Cao đẳng). Ngoài ra, học sinh, sinh viên còn được học tập pháp luật qua các hoạt động ngoại khoá như: hoạt động ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt đầu năm, sinh hoạt lớp và các hoạt động tập thể như tổ chức nói chuyện chuyên đề, trao đổi, tọa đàm theo chủ đề pháp luật...

Đối với thanh thiếu niên nói chung, PBGDPL được thực hiện thông qua các hoạt động văn hoá, văn nghệ, sinh hoạt Câu lạc bộ, thi tìm hiểu pháp luật với nhiều hình thức, qua các tài liệu tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật liên quan đến thanh thiếu niên; qua các phong trào giữ gìn an ninh trật tự, an toàn giao thông, vì mái trường không có ma tuý...

Tuy nhiên, các chương trình, kế hoạch về PBGDPL cho thanh thiếu niên chưa thực sự quan tâm đến đặc điểm lứa tuổi, tâm lý, thiếu phương pháp tiếp cận phù hợp với đối tượng thanh thiếu niên, do đó đã hạn chế tác dụng giáo dục. Chương trình giáo dục pháp luật trong nhà trường còn mang nặng tính lý thuyết, hàn lâm, chưa gắn với nhu cầu và cuộc sống thực tế của học sinh, chưa tạo được sự quan tâm kích thích học tập, tìm hiểu pháp luật trong học sinh, sinh viên; tài liệu tra cứu, tham khảo còn thiếu. Các hoạt động trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật cho thanh thiếu niên chưa được quan tâm, đầu tư thích đáng. Các kênh thông tin phục vụ hoạt động khai thác, tìm kiếm, tra cứu văn bản, tìm hiểu các quy định của pháp luật đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật trong thanh thiếu niên chưa được chú trọng xây dựng và mở rộng phạm vi hoạt động.

1.4. Người lao động, người quản lý trong doanh nghiệp

Từ năm 1998 đến nay, công tác PBGDPL cho người lao động, người quản lý trong các doanh nghiệp đã đạt được một số kết quả nhất định. Ngoài những kiến thức pháp luật phổ thông cần thiết cho cuộc sống hàng ngày, những nội dung pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động quản lý, sản xuất, kinh doanh, lao động của người quản lý, người lao động được quan tâm phổ biến. Các hình thức PBGDPL chung được lựa chọn áp dụng, nhưng có thể thấy hình thức tư vấn pháp luật, biên soạn tài liệu, nói chuyện chuyên đề, cung cấp thông tin pháp luật qua sinh hoạt câu lạc bộ nghề nghiệp, các hiệp hội, diễn đàn, mạng Intennet... là những hình thức có hiệu quả và phù hợp. Đội ngũ cán bộ Công đoàn các cấp cũng đang đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần đưa pháp luật đến người lao động ở các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã đưa nội dung pháp luật về lao động vào chương trình tuyển dụng, đào tạo lao động.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây cũng xảy ra nhiều vụ tranh chấp lao động, vi phạm pháp luật lao động nghiêm trọng. Nhiều vụ vi phạm cho thấy sự coi thường luật pháp, cố tình xâm phạm quyền lợi người lao động của chủ doanh nghiệp. Nguyên nhân của tình hình trên là bản thân người quản lý doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đến việc tìm hiểu pháp luật; người lao động có thái độ thờ ơ, không quan tâm đến pháp luật để trước hết thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của người lao động và tự bảo vệ mình. Tổ chức công đoàn cơ sở ở nhiều doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn yếu, không phát huy được vai trò của mình trong phổ biến pháp luật cho người lao động.

Ngày 18/5/2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 122/2004/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và doanh nghiệp nhà nước. Theo Nghị định này, ở các doanh nghiệp nhà nước, căn cứ vào nhu cầu công tác pháp chế, Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc doanh nghiệp nhà nước thành lập tổ chức pháp chế phù hợp, bố trí cán bộ pháp chế chuyên trách hoặc thuê cố vấn pháp lý. Một trong những nhiệm vụ của Tổ chức pháp chế trong các doanh nghiệp nhà nước là tuyên truyền, PBGDPL, nội quy, quy chế của doanh nghiệp cho cán bộ, người lao động; phối hợp với phòng, ban và tổ chức đoàn thể kiểm tra việc thực hiện pháp luật, nội quy, quy chế và kiến nghị những biện pháp xử lý vi phạm. Với những quy định này, nhóm nghiên cứu cho rằng công tác PBGDPL trong các doanh nghiệp nhà nước sẽ có những chuyển biến tích cực trong thời gian tới.

1.5. Lực lượng vũ trang nhân dân

Từ năm 1998 trở lại đây, công tác PBGDPL trong lực lượng vũ trang mới thực sự có những chuyển biến tích cực. Việc PBGDPL cho cán bộ, chiến sĩ đã được xây dựng thành các chương trình, kế hoạch cụ thể, được triển khai theo từng giai đoạn và hàng năm. Nội dung giáo dục pháp luật từng bước đổi mới, sát với đối tượng hơn, không chỉ tập trung vào những nội dung pháp luật về an ninh, quốc phòng mà mở rộng thêm cả những kiến thức cơ bản về lý luận nhà nước và pháp luật, những quy định của Hiến pháp, pháp luật về tổ chức nhà nước, hành chính, hình sự, dân sự, kinh tế... nhằm giúp cán bộ, chiến sỹ vận dụng trong công tác, sinh hoạt hàng ngày. Hình thức PBGDPL ở các đơn vị rất đa dạng, phong phú. Ngoài việc tổ chức học tập pháp luật nghiêm túc theo chương trình, các đơn vị đã có nhiều cách thức làm “mềm hoá” nội dung pháp luật để chuyển tải đến cán bộ, chiến sĩ một cách sinh động, không nhàm chán. Việc học tập pháp luật đã gắn kết với các phong trào thi đua, các cuộc vận động chấp hành pháp luật, rèn luyện kỷ luật trong mỗi cơ quan, đơn vị. Qua học tập, giáo dục hàng năm, nhận thức, ý thức pháp luật nói chung của cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang ngày càng được nâng cao, góp phần quan trọng vào việc chấp hành nghiêm pháp luật, kỷ luật, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị. Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang còn tham gia tích cực trong việc đưa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến nhân dân địa phương; phổ biến, giáo dục các văn bản pháp luật về an ninh, quốc phòng đến nhân dân; phát động nhân dân tham gia các phòng trào đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự ở địa bàn.

Tuy vậy, ở nhiều cơ quan, đơn vị, người lãnh đạo, chỉ huy vẫn chưa thật sự quan tâm đến công tác PBGDPL; chưa có các biện pháp hữu hiệu phát huy vai trò của các cơ quan chức năng tham gia phối hợp PBGDPL; hiệu quả đem lại sau khi PBGDPL còn hạn chế; trình độ hiểu biết, ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang tuy có được nâng lên một bước nhưng mới ở mức độ rất khiêm tốn, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển ngày càng nhanh của xã hội cũng như yêu cầu nhiệm vụ của lực lượng vũ trang trong giai đoạn mới.

2. Một số nhận xét chung về thực trạng công tác PBGDPL từ năm 1998 đến nay

2.1. Kết quả đạt được

Công tác PBGDPL trong thời gian qua đã đạt được kết quả sau:

- Các chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác PBGDPL từng bước được thể chế hoá, tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai các hoạt động PBGDPL. 

- Nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức trong công tác PBGDPL đã có chuyển biến tích cực. 

- Đội ngũ cán bộ thực hiện công tác PBGDPL đang từng bước được xây dựng, củng cố. Tại Bộ Tư pháp, Vụ PBGDPL có gần 20 cán bộ, chuyên viên chuyên trách. Tính đến cuối năm 2001, có 8/61 Sở Tư pháp thành lập Phòng PBGDPL riêng; 41/61 Sở Tư pháp thành lập Phòng Văn bản - PBGDPL; số Sở Tư pháp còn lại có bộ phận PBGDPL thuộc Phòng Nghiệp vụ. Tại 36/39 Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có tổ chức pháp chế với trên 400 cán bộ pháp chế.

Công tác PBGDPL, tuy còn thiếu nhưng đã thu hút được một lực lượng đông đảo cộng tác viên tham gia vào hoạt động PBGDPL, đó là các báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật; giáo viên dạy pháp luật trong các nhà trường; các phóng viên, biên tập viên chuyên mục, chương trình pháp luật của các báo, đài; luật sư, cán bộ tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý; hoà giải viên ở cơ sở; cán bộ đoàn thể, trưởng thôn, bản, già làng, tổ trưởng dân phố, cụm dân cư, các chức sắc tôn giáo, những người có uy tín trong cộng đồng…

- Các hoạt động PBGDPL dần dần đi vào nề nếp theo kế hoạch, chương trình cụ thể, được thực hiện thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm hơn trước. 

2.2. Tồn tại, hạn chế

- Tác động của PBGDPL đối với việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân, đến trật tự kỷ cương pháp luật, đến tình trạng vi phạm pháp luật chưa đạt được như mong muốn. Một số lĩnh vực, đối tượng PBGDPL trọng tâm, trọng điểm tuy đã được xác định nhưng lại thiếu cơ chế, phương thức triển khai hữu hiệu nên chưa tạo được bước đột phá, chưa có được kết quả cụ thể. Nhiều người dân, nhất là nhân dân ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số vẫn thiếu hiểu biết pháp luật, khó có điều kiện tiếp nhận thông tin pháp luật.

- Công tác PBGDPL triển khai trong thời gian qua chưa đều khắp, vẫn còn tình trạng theo "thời vụ, phong trào", chạy theo văn bản mới ban hành. Do đó, hoạt động PBGDPL dàn trải, mới chỉ dừng ở bề nổi mà chưa có chiều sâu, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu nâng cao ý thức pháp luật cũng như những nhu cầu thông tin, tìm hiểu pháp luật từ phía người dân.

- Nội dung PBGDPL chưa thật sát hợp với từng đối tượng; vẫn chỉ "nặng" về phổ biến, giới thiệu các văn bản pháp luật chung chung. Vì vậy tính thiết thực, hướng dẫn chưa cao. Việc khai thác, tìm tòi, đổi mới một cách có hiệu quả các hình thức PBGDPL khác nhau phù hợp với đặc thù địa bàn, đối tượng còn hạn chế. Chưa có nhiều hình thức để gắn kết chặt chẽ và thường xuyên công tác PBGDPL với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống đạo đức, văn hoá và lối sống cho các đảng viên, các cán bộ và nhân dân, nhất là PBGDPL còn tách rời với tổ chức thực hiện pháp luật.

2.3. Nguyên nhân

Nguyên nhân khách quan:

- Những hạn chế của hệ thống pháp luật đã tác động làm giảm tác dụng, hiệu quả của công tác PBGDPL.

- Công tác tổ chức thực hiện pháp luật chưa được tốt. Ở một số không ít cán bộ và nhân dân, nhận thức pháp luật chưa đi đôi với hành động. Mặt khác cơ chế thực thi pháp luật còn chưa hợp lý.

- Xây dựng tình cảm, thái độ đối với pháp luật, đặc biệt là lòng tin đối với pháp luật là một quá trình lâu dài, là kết quả tác động của nhiều yếu tố. 

- Một bộ phận cán bộ, nhân dân chưa có ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật.

Nguyên nhân nội tại của công tác PBGDPL:

- Do cơ chế ràng buộc trách nhiệm, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện công tác PBGDPL chưa cụ thể.

- Việc thu hút được nhiều chủ thể tham gia vào công tác này còn hạn chế.

- Sự chỉ đạo thực hiện công tác PBGDPL của các cơ quan chức năng còn lúng túng, chưa thực sự chủ động mà còn trông chờ sự chỉ đạo của cấp trên, chưa thực sự theo sát được yêu cầu và đòi hỏi bức xúc của sự phát triển kinh tế xã hội đất nước trong từng thời điểm.

- Mặc dù nội dung PBGDPL đã có sự lựa chọn cho phù hợp với đối tượng, địa bàn nhưng chưa đủ lực lượng, chưa có cơ chế tập trung tuyên truyền sâu rộng, bền bỉ ở các nội dung, lĩnh vực có nhiều vi phạm, khúc mắc, do đó hiệu quả thực tế của công tác PBGDPL chưa cao.

- Cán bộ chuyên trách PBGDPL rất ít.

- Việc đầu tư cho công tác PBGDPL chưa thực sự đáp ứng yêu cầu. Cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho công tác này chưa được đáp ứng đầy đủ.

IV. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Hiện nay, còn có nhiều khái niệm, cách hiểu về thuật ngữ "phổ biến, giáo dục pháp luật" . Có quan điểm cho rằng, PBGDPL là một khâu của hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định nhằm mục đích hình thành ở đối tượng được tác động tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành. Quan điểm khác cho rằng, PBGDPL có hai nghĩa: nghĩa hẹp: là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình cảm niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng; nghĩa rộng: là công tác, lĩnh vực PBGDPL bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho công tác PBGDPL.

Công tác PBGDPL ở nước ta mang những đặc điểm cơ bản sau:

Một là, công tác PBGDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng

Hai là, công tác PBGDPL có mối quan hệ chặt chẽ với công tác xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật

Ba là, công tác PBGDPL được tổ chức, thực hiện bởi những chủ thể nhất định.

Bốn là, công tác PBGDPL nhằm truyền đạt thông tin, nội dung pháp luật, giúp cho đối tượng tác động có những hiểu biết nhất định về pháp luật, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của đối tượng

V. CƠ CHẾ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

1. Khái niệm “cơ chế”

Với ý nghĩa thông thường thì cơ chế là cách thức theo đó một quá trình được thực hiện. Cơ chế cũng có thể được hiểu là khái niệm chỉ sự diễn biến nội tại của một hệ thống, trong đó có sự tương tác giữa các yếu tố kết thành hệ thống trong quá trình vận động của mỗi yếu tố đó, nhờ đó hệ thống có thể vận hành, phát triển theo mục đích đã định.

Như vậy, với nội hàm trên, có thể thấy cơ chế là một phạm trù động chỉ một quy trình thực tế diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định. Trong sự vận hành chỉnh thể của cơ chế luôn bao gồm vận hành cục bộ của các yếu tố cấu thành của nó. Các yếu tố cấu thành đều tạo thành hệ thống, mỗi yếu tố đó có thể có cơ chế vận hành riêng biệt nhưng chúng đều tuân theo một phương thức nhất định trong tổng thể chung. Sự phát huy tác dụng của cơ chế dựa vào tác dụng lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành của mối liên hệ qua lại giữa chúng; đồng thời trong quá trình vận hành, cơ chế còn chịu tác động, ảnh hưởng của các yếu tố khách quan bên ngoài. Mỗi một cơ chế đều mang tính mục đích, tính đặc thù của lĩnh vực, hoạt động mà ở đó cơ chế được vận hành. Một lĩnh vực, một hoạt động có cơ chế vận hành khoa học, phù hợp, đáp ứng yêu cầu sẽ đạt hiệu quả trên thực tế; ngược lại, cơ chế không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lĩnh vực, hoạt động đó.

2. Cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL

2.1. Phạm vi tiếp cận

Nhóm nghiên cứu cho rằng, cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL đóng vai trò quan trọng, bởi chất lượng, hiệu quả của công tác PBGDPL phụ thuộc rất nhiều vào việc công tác này được tổ chức thực hiện như thế nào. Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài không có điều kiện nghiên cứu sâu cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL về mặt lý luận mà chỉ đi vào phân tích, đánh giá cơ chế này trên phương diện thực tiễn và tổng thể chung nhằm góp phần làm rõ hơn cơ chế tổ chức, thực hiện công tác này trong thời gian qua và tác động của cơ chế đối với hiệu quả công tác PBGDPL; từ đó đề xuất xây dựng cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL khoa học, phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể hiện nay và trong tương lai.

Nhóm nghiên cứu tiếp cận cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL theo nghĩa đó là một cơ chế chứa đựng trong đó 2 yếu tố nằm trong một thể thống nhất: thứ nhất, "Tổ chức" - nhân tố cốt lõi của cơ chế - để chỉ bộ máy thực hiện công tác PBGDPL, sự phân công, phân cấp trong bộ máy này, hay nói cách khác để chỉ các chủ thể thực hiện công tác PBGDPL. Thứ hai, "Thực hiện" là các khâu tiến hành, các cách thức, biện pháp mà chủ thể sử dụng để triển khai công tác PBGDPL. Cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL chứa đựng trong nó các cơ chế cấu thành như cơ chế quản lý, cơ chế chỉ đạo, cơ chế phối hợp... Có thể nói một cách ngắn gọn, cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL là quy trình do các chủ thể thực hiện công tác PBGDPL tiến hành nhằm đảm bảo cho công tác PBGDPL đáp ứng các yêu cầu nhất định, đúng hướng và đạt kết quả cao nhất.

Để vận hành, cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL phải dựa trên cơ sở các quy định pháp luật có liên quan và chịu tác động bởi những điều kiện nhất định.

Với cách tiếp cận trên, nhóm nghiên cứu xem xét đánh giá cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL trong mối quan hệ tác động của các điều kiện khách quan, mà trực tiếp là tác động của cơ chế quản lý kinh tế và trên 3 phương diện: (1) các văn bản quy phạm pháp luật; (2) hệ thống các cơ quan có chức năng thực hiện PBGDPL và các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tham gia PBGDPL; (3) quy trình thực hiện công tác PBGDPL. 

2.2. Vài nét về cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL qua các thời kỳ

  • Từ năm 1945 - sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà non trẻ ra đời - cho đến năm 1975, do chiến tranh kéo dài và yêu cầu của thời chiến đòi hỏi việc ban hành các văn bản phải kịp thời, linh hoạt. Các chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước trong giai đoạn này được các thành viên, các cộng đồng trong xã hội tự giác thực hiện và tuân thủ một cách tự nhiên. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật không đặt ra như là một hoạt động độc lập mà nằm trong công tác vận động quần chúng; trong hoạt động phổ biến, quán triệt chủ trương, chính sách, quy định của Đảng và Nhà nước đến nhân dân.
  • Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, nước nhà độc lập, thống nhất, thì nhiệm vụ chung được đặt ra là cả nước cùng tiến vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối chung và đường lối kinh tế trong cả thời kỳ quá độ đã được Đại hội Đảng lần thứ IV (năm 1976) đề ra và được thể chế hoá trong Hiến pháp năm 1980 - với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, hành chính, bao cấp. Tác động của cơ chế quản lý kinh tế đã dẫn đến việc quản lý xã hội chủ yếu bằng phương pháp hành chính, mệnh lệnh. Cơ quan hành chính và các biện pháp hành chính được đề cao. Các cơ quan quản lý có vai trò chủ đạo trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL trong giai đoạn này có những đặc trưng sau:

- Sự phân công, phân cấp và trách nhiệm thực hiện công tác này của các cơ quan nhà nước chưa được xác định cụ thể, lại thiếu sự kiểm tra, giám sát, phối hợp để thực hiện trên thực tế. Các kế hoạch, chương trình tổng thể triển khai công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật gần như chưa có. Việc thực hiện công tác này thường bị động, phụ thuộc vào diễn biến và yêu cầu phát sinh trong thời gian nhất định của nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội hoặc theo đợt tuyên truyền văn bản pháp luật quan trọng mới ban hành.

- Đội ngũ cán bộ công tác trong ngành tư pháp nói chung và đội ngũ cán bộ thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nói riêng có trình độ thấp

- Các cơ quan nhà nước chưa có sự phối hợp thường xuyên với các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể quần chúng thực hiện tuyên truyền, giáo dục pháp luật. 

- Nội dung pháp luật được truyền đạt chung chung, nặng về hô hào, kêu gọi và phần nào mang tính áp đặt; thiên về các hình thức mang tính tuyên truyền (qua các hội nghị, cuộc họp, trên các phương tiện thông tin đại chúng…); còn thiếu những biện pháp tổng thể, lâu dài, đồng bộ; thiếu sự liên tục và hệ thống trong việc trang bị tri thức pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, nhân dân([5]).

  • Với nhận thức mới về những quy luật phát triển kinh tế, xã hội và về thực trạng của nền kinh tế, Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới nền kinh tế, đổi mới cơ chế kinh tế. Thay cho cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Trong cơ chế kinh tế mới, vai trò của Nhà nước có sự thay đổi và quản lý nhà nước cũng đòi hỏi phải có nội dung và phương thức quản lý thích hợp. Không thể quản lý hành chính trực tiếp, cụ thể, vi mô đơn điệu như trước đây đối với mọi mặt đời sống xã hội, mà phải quản lý vĩ mô, gián tiếp, thông qua pháp luật. Cùng với Hiến pháp năm 1992, hàng trăm đạo luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khác được ban hành. Hệ thống pháp luật của nước ta ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, tạo khuôn khổ pháp lý để Nhà nước quản lý bằng pháp luật, công dân “sống và làm việc theo pháp luật” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trong điều kiện đó, mặc dù không chuyển biến nhanh và mạnh mẽ như hoạt động xây dựng pháp luật nhưng công tác PBGDPL cũng có thay đổi trong tổ chức thực hiện để thích ứng với những chuyển đổi đang diễn ra trong đời sống kinh tế, xã hội. Trước hết đó là việc chuyển từ mô hình Nhà nước - chủ thể duy nhất có quyền và trách nhiệm PBGDPL sang mô hình Nhà nước phối hợp với các chủ thể khác cùng thực hiện PBGDPL. Một mặt, Nhà nước giữ vai trò tổ chức, lãnh đạo và quản lý thống nhất công tác PBGDPL; mặt khác, Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện để các tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể quần chúng tham gia PBGDPL. Sự chuyển đổi cho thấy nhận thức về tính chất, đặc điểm của việc tổ chức thực hiện công tác PBGDPL đã thay đổi: PBGDPL là loại hoạt động không thể tiến hành một cách đơn phương, riêng rẽ mà cần phải có sự phối hợp thực hiện của tất cả các ngành, các cấp, của mọi cơ quan, tổ chức. Phối hợp PBGDPL chính là đặc thù, là yêu cầu khách quan, là yếu tố không thể thiếu trong cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL.

Điểm thay đổi khác nữa trong cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL là Nhà nước, ngoài việc trực tiếp cung cấp các thông tin, nội dung pháp luật cần thiết cho nhân dân đã thiết lập, mở ra nhiều kênh, nhiều phương tiện để giúp nhân dân tự mình tìm hiểu pháp luật theo nhu cầu được thuận lợi hơn. Giai đoạn này, các hình thức PBGDPL đã đa dạng, phong phú hơn. Bên cạnh các hình thức truyền thống trước đây, nhiều hình thức PBGDPL mới được khai thác phù hợp với đối tượng. Đặc biệt, PBGDPL thông qua các hoạt động tư vấn pháp luật đang từng bước phát triển. Cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL đang từng bước được đổi mới theo hướng giảm tính chủ quan, áp đặt từ phía Nhà nước, nhu cầu tìm hiểu pháp luật của công dân được quan tâm hơn.

Rút kinh nghiệm quá trình tổ chức thực hiện công tác PBGDPL trước đây, Chính phủ đã ban hành các chương trình, kế hoạch triển khai công tác PBGDPL trên cả nước trong từng giai đoạn theo nhiệm kỳ của Chính phủ (1998 - 2002, 2003 - 2007) làm cơ sở để các cấp, các ngành tổ chức thực hiện công tác này.

2.3. Cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL hiện nay

2.3.1. Các văn bản quy pháp pháp luật làm cơ sở cho tổ chức thực hiện công tác PBGDPL:

Tuy chưa có sự thống kê đầy đủ, nhưng có thể thấy các quy định về công tác PBGDPL được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước, từ Hiến pháp đến các bộ luật, luật và các văn bản dưới luật. Trong hệ thống các văn bản đó, văn bản làm cơ sở trực tiếp cho việc tổ chức thực hiện công tác PBGDPL gồm: Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001; Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003; Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 5/11/2002 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ; Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp; Nghị định số 122/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và doanh nghiệp nhà nước; Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 7/01/1998 về việc tăng cường công tác PBGDPL trong giai đoạn hiện nay;  Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày 7/01/1998 về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác PBGDPL từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL;  Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17/1/2003 phê duyệt Chương trình PBGDPL từ năm 2003 đến năm 2007; Thông tư liên bộ số 12/TTLB ngày 26/7/1993 của Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức cơ quan tư pháp địa phương.

2.3.2. Hệ thống các cơ quan có chức năng thực hiện công tác PBGDPL:

Đây là các cơ quan nhà nước mà theo chức năng phải chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác PBGDPL, gồm:

- Chính phủ: tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật.

- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ: chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

Tổ chức Pháp chế của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức PBGDPL.

- Uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở địa phương. Giúp Uỷ ban thực hiện nhiệm vụ này là các cơ quan tư pháp địa phương.

Riêng các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có Phòng Pháp chế hoặc công chức pháp chế chuyên trách, có nhiệm vụ chủ trì hoặc tham gia với các đơn vị liên quan tổ chức PBGDPL.

Việt Nam là một trong số ít các nước trên thế giới có hệ thống cơ quan thuộc Chính phủ chuyên trách công tác PBGDPL, được tổ chức theo ngành dọc gắn liền với hệ thống cơ quan chính quyền, bao gồm: Bộ Tư pháp ở trung ương; Sở Tư pháp ở cấp tỉnh; Phòng Tư pháp ở cấp huyện; Ban Tư pháp ở cấp xã.

Ngoài ra, các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân; các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể quần chúng... trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình cũng có trách nhiệm tham gia PBGDPL.

Trong tổ chức thực hiện công tác PBGDPL, các cơ quan nhà nước có sự phối hợp với nhau hoặc phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác triển khai PBGDPL. Hiện nay, cơ chế phối hợp đã được xác lập thông qua mô hình Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL, trong đó cơ quan tư pháp làm đầu mối tổ chức, hướng dẫn các hoạt động phối hợp chung.

2.3.3. Quy trình thực hiện công tác PBGDPL gồm các khâu:

- Xây dựng kế hoạch: trên cơ sở kế hoạch, chương trình công tác PBGDPL của Chính phủ trong từng giai đoạn; hướng dẫn của cơ quan chức năng; yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương, cơ quan có trách nhiệm thực hiện công tác PBGDPL xây dựng kế hoạch chung của địa phương, đơn vị mình.

- Triển khai thực hiện kế hoạch: trên cơ sở kế hoạch PBGDPL đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, các cơ quan được phân công trực tiếp hoặc phối hợp triển khai các hoạt động PBGDPL cụ thể.

 - Kiểm tra việc thực hiện: đây là một khâu không thể thiếu trong quy trình thực hiện công tác PBGDPL, được tiến hành bởi cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới.

- Sơ kết, tổng kết là giai đoạn cuối trong quy trình tổ chức thực hiện công tác PBGDPL. Khâu này cần được thực hiện định kỳ hoặc đột xuất theo yêu cầu của việc thực hiện công tác PBGDPL, trong đó chú trọng đánh giá hiệu quả của việc thực hiện công tác này nhằm rút ra những kinh nghiệm cần thiết để tổ chức thực hiện PBGDPL ngày càng tốt hơn. 

Trên cơ sở các văn bản pháp lý về công tác PBGDPL, có thể thấy, cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL ngày càng được định hình và trên thực tế đã góp phần không nhỏ nâng cao chất lượng công tác PBGDPL. Tuy nhiên, hiện nay cơ chế này cũng còn một số điểm cần lưu ý:

Một là, các quy định làm cơ sở cho việc tổ chức thực hiện công tác PBGDPL nằm tản mạn trong nhiều văn bản; còn thiếu một văn bản có giá trị pháp lý cao quy định riêng về công tác PBGDPL nói chung, đặt cơ sở nền móng cho việc xây dựng cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL.

Hai là, sự xác lập và vận hành hoàn chỉnh của cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL phụ thuộc vào các yếu tố cấu thành cơ chế và nhiều yếu tố bên ngoài khác. Trong khi đó, một trong những yếu tố quan trọng của cơ chế này là bộ máy thực hiện thì vẫn còn bất cập. Đội ngũ cán bộ thực hiện công tác này tuy đã được tăng cường hơn trước nhưng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu, nhất là ở cơ sở. Cơ quan tư pháp tuy được giao nhiệm vụ giúp chính quyền địa phương chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác PBGDPL và là đầu mối phối hợp các hoạt động PBGDPL ở địa phương, nhưng việc sáp nhập cơ quan tư pháp vào Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện ở một số địa phương đang là khó khăn cho công tác Tư pháp nói chung, công tác PBGDPL nói riêng, nhất là ảnh hưởng đến sự thông suốt, nhanh nhạy, kịp thời trong tổ chức thực hiện công tác PBGDPL. Tổ chức pháp chế - cơ quan của các bộ, ngành được giao thực hiện nhiệm vụ này chưa được đầu tư đúng mức cả về bộ máy lẫn các điều kiện khác để có thể tổ chức thực hiện công tác PBGDPL trong bộ, ngành và cho nhân dân. 

Ba là, do tính chất của các chương trình, kế hoạch về PBGDPL hiện hành chủ yếu là định hướng để các cơ quan, đơn vị, địa phương tuỳ điều kiện thực tế của mình để thực hiện nên tính bắt buộc chưa cao, chưa thực hiện đều khắp. Bên cạnh đó, mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức chưa đạt hiệu quả cao. Cơ chế phối hợp thông qua mô hình Hội đồng phối hợp các cấp là một bước phát triển mới trong việc triển khai công tác PBGDPL nhưng đó chỉ là một bộ phận hợp thành quan trọng của cơ chế thực hiện nói chung. Mặt khác, qua quá trình hoạt động, cơ chế này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định: nặng về kế hoạch, công văn hướng dẫn triển khai, chưa thực sự là một cơ chế hành động, tổ chức công việc. Mặt chưa được của cơ chế này lại càng bộc lộ rõ khi Hội đồng phối hợp hoạt động còn mang tính hình thức, mô hình rập khuôn ở các cấp, chế độ báo cáo, trao đổi thông tin, trách nhiệm giữa các thành viên chưa được quy định cụ thể...

Bốn là, mục tiêu, kết quả cụ thể của quy trình thực hiện PBGDPL chưa được quan tâm đúng mức làm cho hoạt động này phần nào vẫn mang tính hình thức, thực hiện theo phong trào. Vì vậy, các chỉ tiêu, mục tiêu, hiệu quả, tác động cụ thể của PBGDPL đối với việc nâng cao ý thức pháp luật, phòng ngừa vi phạm pháp luật, thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của địa phương, đơn vị chưa được đề ra trong các kế hoạch về công tác PBGDPL. Hạn chế này còn do PBGDPL với cách làm đơn lẻ lâu nay, chưa gắn kết chặt chẽ với hoạt động xây dựng, thực hiện pháp luật; kế hoạch PBGDPL chỉ mang tính định hướng, thiếu định lượng, chưa chỉ ra được kết quả cụ thể cần đạt được và điều kiện cần thiết để bảo đảm thực hiện mục tiêu. Chương trình PBGDPL cũng chưa được lồng ghép thực sự trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các cuộc vận động... nên hiệu quả khó nắm bắt.

VI. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

1. Bối cảnh kinh tế xã hội

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2001) được tiến hành vào lúc đất nước ta đang bước vào những năm đầu của thế kỷ XXI, với hành trang là những thành tựu rất quan trọng về phát triển kinh tế xã hội mà nhân dân ta đã đạt được qua 15 năm đổi mới. Đại hội đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010; phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng được đề ra như một nhiệm vụ chiến lược, với phương châm “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật”.

Trên cơ sở Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ IX, Quốc hội đã sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đặt cơ sở hiến định cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong những năm tới, phục vụ việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy cao độ nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Thực hiện các mục tiêu trên, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều nhiệm vụ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có nhiệm vụ tác động đến việc xác định yêu cầu, định hướng phát triển công tác PBGDPL. Đó là :

- Hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu.

- Phát triển giáo dục, đào tạo, văn hoá, xã hội; đảm bảo thực hiện công bằng xã hội, thực hiện dân chủ cơ sở.

- Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mọi người.

- Phòng chống các tệ nạn xã hội; phát huy vai trò của từng người dân, từng cộng đồng tham gia đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi những tệ nạn này.

- Đẩy mạnh cải cách và hoàn thiện tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước; xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá. Nâng cao kỷ luật, hiệu lực thi hành pháp luật trong bộ máy nhà nước và trong xã hội.

- Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức với chương trình, nội dung sát hợp; chú trọng đội ngũ cán bộ xã, phường.

- Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Sau hai năm rưỡi thực hiện Nghị quyết của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng: Kinh tế tăng trưởng khá nhanh và toàn diện, cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đồng bộ các thành phần kinh tế; đã dần bổ sung, hoàn thiện thêm khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của các loại thị trường. Nhiều lĩnh vực xã hội được quan tâm phát triển. Công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm có những tiến bộ. Quốc phòng, an ninh và ổn định xã hội được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế và uy tín của nước ta tiếp tục được nâng cao. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được chăm lo. Bản chất dân chủ của Nhà nước ta ngày càng được thể hiện và thực hiện trên mọi mặt của đời sống xã hội. Quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được tôn trọng và bảo đảm thực hiện.

Bên cạnh những thành tựu và tiến bộ trên, tại Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Khoá IX (tháng 1/2004), Đảng ta cũng chỉ rõ những mặt còn yếu kém, tồn tại, đó là: chất lượng, hiệu quả của sự phát triển kinh tế - xã hội còn thấp và chưa có chuyển biến rõ rệt; còn nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết như thiếu việc làm, đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là nhân dân ở một số vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; chất lượng giáo dục thấp; tệ nạn xã hội và tình hình tội phạm chưa được ngăn chặn có hiệu quả; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu dân của một số cán bộ, đảng viên vẫn còn nghiêm trọng và khá phổ biến; cải cách hành chính trong hệ thống chính quyền chưa đạt yêu cầu; vẫn còn tình trạng buông lỏng quản lý theo pháp luật của Nhà nước. Nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa chưa tạo được chuyển biến rõ rệt. Môi trường văn hoá còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của các sản phẩm và dịch vụ văn hoá mê tín dị đoan, độc hại, thấp kém, lai căng… Bên cạnh đó, xu thế toàn cầu hoá tiếp tục mở rộng, nước ta đứng trước sức ép phải chủ động và khẩn trương hơn nữa trong hội nhập kinh tế quốc tế; trong khi đó, các thế lực phản động quốc tế vẫn tìm cách gây mất ổn định chính trị - xã hội ở trong nước ta.

Trong những năm tiếp theo, Đảng ta xác định "phải đẩy nhanh hơn nữa công cuộc đổi mới, tăng nhanh nhịp độ phát triển bền vững kinh tế - xã hội, phải tạo được một bước chuyển biến mạnh mẽ trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và toàn bộ hệ thống chính trị, đấu tranh có hiệu quả chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương phép nước".

Bối cảnh trên cùng với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước là cơ sở quan trọng cho việc định hướng phát triển công tác PBGDPL trong thời gian tới.

2. Định hướng phát triển công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

Định hướng phát triển công tác PBGDPL phải gắn liền và để nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển của đất nước về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng; đặt trong tổng thể công cuộc cải cách tư pháp và phải thể hiện rõ quan điểm: công tác PBGDPL "là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng"([6]).

Mục tiêu cơ bản của công tác PBGDPL là phải đáp ứng một cách nhanh chóng, đầy đủ, cụ thể nhu cầu được thông tin, tìm hiểu pháp luật của các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội, doanh nghiệp, cán bộ và nhân dân; tạo chuyển biến căn bản về ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của công dân, góp phần bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.

Từ định hướng chung đó, công tác PBGDPL trong những năm tới cần tập trung:

Thứ nhất, đảm bảo tính cụ thể, thiết thực trong PBGDPL. Để công tác PBGDPL đạt hiệu quả, cần nắm bắt nhu cầu tìm hiểu pháp luật của từng nhóm đối tượng để từ đó xác định nội dung pháp luật cần phổ biến. Trong quá trình thực hiện công tác PBGDPL cần chú trọng xác định các chỉ tiêu, mục tiêu, những tác động cụ thể của PBGDPL đối với lĩnh vực, đối tượng, địa bàn đã đề ra để công tác này có được  kết quả, hiệu quả cụ thể.

Thứ hai, công tác PBGDPL cần hướng vào vận động nhân dân chấp hành pháp luật.  Điều này đòi hỏi các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể phải phối hợp chặt chẽ trong PBGDPL, vận động nhân dân chấp hành pháp luật; phải có những hình thức tuyên truyền, vận động phù hợp với từng địa bàn, từng đối tượng và tiến hành ngay từ cơ sở, từ khu dân cư, từ mỗi gia đình đến từng cá nhân. Vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở cần phải được phát huy hơn nữa trong tham gia PBGDPL, vận động nhân dân chấp hành pháp luật.

Thứ ba, công tác PBGDPL cần gắn với những giải pháp kinh tế - xã hội cụ thể, phù hợp với từng địa bàn, từng đối tượng; lồng ghép có hiệu quả hơn trong các phong trào, các cuộc vận động, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; trong việc thực hiện hương ước, quy ước, khôi phục và phát huy văn hoá truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp ở từng cộng đồng.

Thứ tư, PBGDPL cần gắn với hoạt động thi hành pháp luật. Việc PBGDPL kết hợp, lồng ghép với thông tin về việc xử lý kịp thời, nghiêm minh các vi phạm pháp luật; biểu dương gương người tốt việc tốt trong thi hành, chấp hành pháp luật có tác động tích cực đến ý thức, tình cảm, hành vi pháp luật của đối tượng được tuyên truyền, phổ biến.

Thứ năm, tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp uỷ Đảng; kết hợp hài hoà giữa vai trò của Nhà nước và vai trò của các tổ chức xã hội.

Từ những định hướng trên, công tác PBGDPL trong thời gian tới cần quan tâm:

- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật về PBGDPL tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc triển khai công tác này một cách toàn diện, thống nhất, cũng như tạo điều kiện hoàn thiện cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL phù hợp với yêu cầu của giai đoạn mới. Trước mắt tập trung xây dựng cơ chế, chính sách từng bước xã hội hoá công tác PBGDPL; hoàn thiện cơ chế phối hợp PBGDPL.

- Đa dạng hóa, hiện đại hóa hình thức, phương tiện PBGDPL nhằm bảo đảm cho cán bộ, nhân dân tiếp cận dễ dàng với thông tin pháp luật. Trước mắt, cần phát triển hình thức PBGDPL qua mạng; phát triển mạng lưới dịch vụ pháp lý rộng khắp làm chỗ dựa và hỗ trợ nhân dân thực hiện pháp luật và bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình; khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển dịch vụ thông tin pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng và đặc thù của từng nhóm đối tượng trong xã hội; định hình các mô hình tổ chức, nhóm của cộng đồng trong việc phổ biến và vận động chấp hành pháp luật ở địa bàn dân cư.

- Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực của đội ngũ làm công tác PBGDPL từ trung ương đến cơ sở.

Nghiên cứu cũng đưa ra dự báo một số vấn đề cần tập trung trong thời gian tới như sau:

- Các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, về chính quyền địa phương, công chức, công vụ, cải cách hành chính, quy chế dân chủ ở cơ sở;

- Các quy định pháp luật về đất đai, xây dựng, nhà ở và những quy định có liên quan đến quy hoạch, đầu tư, xây dựng cơ bản, chính sách đền bù thu hồi đất, giải phóng mặt bằng;

- Các quy định pháp luật về hình sự, dân sự, thanh tra, khiếu nại, tố cáo, hoà giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý; các quy định về hoạt động của các cơ quan tư pháp, luật sư, cải cách tư pháp;

- Các quy định pháp luật về thuế, sản xuất, kinh doanh, thương mại, dịch vụ…;

- Các quy định pháp luật về an toàn giao thông, văn minh đô thị, vệ sinh môi trường, phòng chống nhiễm HIV/AIDS, ma tuý, mại dâm, tệ nạn xã hội, chống các hủ tục lạc hậu…

VII. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH QUỐC GIA ĐỂ ĐỔI MỚI MỘT BƯỚC CƠ CHẾ THỰC HIỆN CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Trong điều kiện hiện nay, việc xây dựng và thực hiện Chương trình quốc gia về PBGDPL là một biện pháp quan trọng nhằm đổi mới một bước cơ chế, giải quyết được cơ bản những vấn đề thực tiễn công tác PBGDPL đang đặt ra. Tuy việc xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL đã được sự đồng tình ủng hộ của đông đảo các ý kiến, là đề xuất, nguyện vọng của các cơ quan, cán bộ đang thực hiện công tác PBGDPL, nhưng dưới góc độ nghiên cứu, sự cần thiết phải xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL được thể hiện trên các mặt:

1. Xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL là cụ thể hoá quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh công tác PBGDPL trong giai đoạn hiện nay.

Công tác PBGDPL với mục đích nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tự giác chấp hành pháp luật, tình cảm pháp luật cho cán bộ và nhân dân luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, là một trong những nhiệm vụ quan trọng được ghi nhận trong nhiều văn kiện của Đảng) Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng IX, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới).

Thực hiện chủ trương của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg ngày 19/3/2002 về triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, trong đó giao nhiệm vụ cho Bộ Tư pháp xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL giai đoạn 2002 - 2010.

2. Nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân là yêu cầu khách quan, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thời kỳ mới, đòi hỏi phải có một chương trình mang tầm quốc gia để giải quyết.

Điều này thể hiện ở những lý do cơ bản sau:

Thứ nhất, chúng ta đang tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân, mà mục đích hướng đến là làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước được tổ chức và quản lý theo pháp luật, đề cao các giá trị nhân văn, tôn trọng và bảo đảm quyền của con người, quyền công dân. 

Thứ hai, có luật pháp mới là điều kiện “cần”, còn ý thức pháp luật của toàn xã hội, của mỗi cá nhân, đặc biệt là ý thức pháp luật của những người lãnh đạo, người quản lý và nhân danh pháp luật... mới là điều kiện “đủ”. Chính ý thức pháp luật trong xã hội chưa cao là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình thi hành pháp luật thời gian qua còn nhiều bất cập: mức độ, quy mô vi phạm pháp luật, tội phạm chưa giảm; tình trạng coi thường pháp luật, kỷ cương phép nước chưa được khắc phục; tham nhũng, buôn lậu đã trở thành “quốc nạn”; các tệ nạn xã hội, ma tuý, mại dâm, cờ bạc, tai nạn và ùn tắc giao thông xảy ra ngày một nghiêm trọng và phức tạp hơn. 

Việc nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và thái độ tôn trọng pháp luật cho cán bộ và nhân dân là yêu cầu rất cơ bản của việc nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay. Để giải quyết việc này không thể quan niệm giản đơn rồi dùng các biện pháp hành chính hoặc cưỡng chế và cũng không thể chủ quan, duy ý chí đốt cháy giai đoạn, mà cần phải có cơ chế, biện pháp thích hợp, khả thi tác động đúng quy luật, phù hợp với từng đối tượng để ý thức pháp luật thấm sâu vào từng cá nhân thành tập quán, lối sống theo pháp luật.

Thứ ba, điều kiện tiếp cận với pháp luật của một số chủ thể trong cộng đồng dân cư không đồng đều, còn hạn chế một số chủ thể. Khả năng sử dụng hệ thống pháp luật của một chủ thể phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như địa vị chính trị, địa vị kinh tế, trình độ học vấn, kinh nghiệm sử dụng hệ thống pháp luật của chủ thể ấy... Có một sự thật là, hiện nay trong bộ phận dân cư của Việt Nam, vẫn còn nhiều đối tượng bị thiệt thòi so với đối tượng khác trong việc tiếp cận với hệ thống pháp luật. Đó là nhóm những người có mức sống thấp, có học vấn thấp, đặc biệt là các cộng đồng dân cư ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa.

Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, chương trình quốc gia với mục tiêu là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện cho người nghèo. Để hỗ trợ cho các đối tượng trên được tiếp cận với pháp luật, Nhà nước cũng triển khai một số hoạt động như: thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, người có công, đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn; tăng cường công tác PBGDPL cho nhân dân ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa… mặc dù vậy, trên thực tế vẫn chưa đáp ứng yêu cầu.

Bên cạnh các chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển kinh tế, Nhà nước cần có một chương trình tương ứng với sự định hướng đầu tư thoả đáng, hợp lý nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, nhân dân ở các vùng khó khăn được bình đẳng tiếp cận với pháp luật như các đối tượng khác. Việc xây dựng một chương trình như vậy sẽ tạo sự đồng bộ trong phát triển kinh tế - xã hội, bởi mục tiêu của công cuộc xoá đói giảm nghèo cần được hiểu và thực hiện không chỉ là phát triển sản xuất để nâng cao thu nhập cho nhân dân mà còn là nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ kinh tế, xã hội mới; giảm nghèo toàn diện chứ không chỉ riêng kinh tế.

3. Chương trình quốc gia về PBGDPL sẽ tạo ra cơ chế phù hợp mang lại sự tác động và lợi ích cụ thể đối với xã hội, đồng thời tạo đột phá để công tác PBGDPL có bước đi mạnh mẽ hơn, thực sự đổi mới về chất.

Việc triển khai Chương trình quốc gia về PBGDPL sẽ có những tác động tích cực, lợi ích cụ thể sau:

Tác động, lợi ích về mặt xã hội:

Các Chương trình quốc gia thường được đặt ra để giải quyết những vấn đề, lĩnh vực cấp bách, có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được đầu tư tập trung nguồn lực và sự chỉ đạo của Nhà nước do đó sẽ đem lại những kết quả cụ thể, thiết thực đối với lĩnh vực, đối tượng mà Chương trình giải quyết. Chương trình sẽ đem lại những kết quả tích cực, cụ thể trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật, khả năng tiếp cận pháp luật của cán bộ, nhân dân; nâng cao một bước quan trọng ý thức chấp hành pháp luật, góp phần hạn chế vi phạm pháp luật, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Tác động đối với công tác PBGDPL:

Thứ nhất, Chương trình quốc gia về PBGDPL với yêu cầu cụ thể về mục tiêu, hiệu quả kinh tế xã hội, lộ trình, giải pháp thực hiện không chỉ tạo bước đổi mới căn bản trong cơ chế tổ chức thực hiện mà còn góp phần làm thay đổi nhận thức, quan niệm về tích chất, cách thức thực hiện công tác PBGDPL. 

Thứ hai, Chương trình quốc gia về PBGDPL góp phần nâng cao nhận thức của toàn xã hội đối với công tác PBGDPL; khơi dậy tính tích cực, huy động sự tham gia của xã hội vào việc thực hiện PBGDPL; tạo cơ sở để từng bước thực hiện xã hội hoá công tác PBGDPL.

Thứ ba, có điều kiện tập trung nguồn lực (con người, kinh phí) đầu tư cho lĩnh vực, đối tượng PBGDPL trọng tâm, trọng điểm được xác định, tạo cho công tác này có được kết quả cụ thể, khắc phục được tính hình thức, chung chung.

Từ những lý do được phân tích ở trên, có thể khẳng định yêu cầu nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của công dân là đòi hỏi khách quan, là điều không thể thiếu được trong một xã hội mong muốn ổn định, phát triển, tiến tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá, văn minh. Quá trình hình thành và nâng cao ý thức pháp luật ở Việt Nam đang chịu tác động mạnh mẽ của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, cần phải có hệ thống giải pháp mang tính đồng bộ, toàn diện. PBGDPL với vị trí không chỉ là khâu đầu tiên mà còn tiếp tục trong cả quá trình thi hành pháp luật, có vai trò quan trọng trong việc nâng cao dân trí pháp lý cho các tầng lớp nhân dân, là vấn đề có ý nghĩa lâu dài cho việc cải thiện tình hình thi hành pháp luật. Tăng cường và đẩy mạnh công tác PBGDPL cần được coi là một giải pháp quan trọng trong hệ thống các giải pháp nâng cao ý thức pháp luật cho cộng đồng.

Đã đến lúc phải có bước đi mạnh mẽ, có trọng tâm, trọng điểm hơn trong kế hoạch công tác PBGDPL thể hiện bằng một Chương trình quốc gia về PBGDPL. Việc xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL dài hạn cho nhiều năm là hết sức cần thiết, không chỉ đáp ứng nhu cầu khách quan mà còn là đòi hỏi nội tại của việc đẩy mạnh hơn nữa, tạo bước đột phá trong công tác PBGDPL để hoạt động này đạt hiệu quả thiết thực, góp phần tích cực vào việc nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.

VIII. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH QUỐC GIA VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Xuất phát từ thực trạng công tác PBGDPL, sự cần thiết của việc xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL, Đề tài đã đưa ra đề xuất việc xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL cần tập trung theo những hướng:

1. Về tính chất của Chương trình

Chương trình quốc gia về PBGDPL cần được xây dựng với tính chất là Chương trình hành động quốc gia. Đặc trưng của Chương trình hành động quốc gia là nhằm thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ mang tính lâu dài, thường xuyên, thu hút nhiều đối tượng thuộc các bộ, ngành tham gia thực hiện. Do đó, việc xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL với tính chất là chương trình hành động hoàn toàn phù hợp với đặc thù của công tác này, đó là sự phối hợp liên ngành và phân công, phân nhiệm cụ thể giữa các cơ quan, tổ chức trong thực hiện công tác PBGDPL.

2. Về đối tượng của Chương trình

Chương trình quốc gia về PBGDPL nên tập trung cho nhóm đối tượng là cán bộ và nhân dân ở xã, phường, thị trấn bởi những lý do sau:

Thứ nhất, nhìn từ góc độ quản lý nhà nước thì địa bàn cơ sở là nơi người dân thực hiện các nghĩa vụ cơ bản đối với Nhà nước cũng như hưởng các quyền, lợi ích do pháp luật quy định cho họ, đó cũng là nơi tập trung các quan hệ pháp luật phát sinh trên địa bàn. Nhưng ở một mức độ nhất định, người dân ở cơ sở ít có điều kiện tiếp cận với thông tin pháp luật một cách đầy đủ, cụ thể; hiểu biết về pháp luật, nhất là ý thức chấp hành pháp luật còn hạn chế.

Thứ hai, đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, an ninh quốc phòng, kinh tế, văn hoá, xã hội...; trực tiếp tổ chức thực hiện các đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Trong khi đó, trình độ, năng lực của đội ngũ này còn hạn chế, đã ảnh hưởng đến việc tiếp thu, triển khai những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước; ảnh hưởng đến công tác quản lý hành chính của cấp cơ sở.

Thứ hai, tình hình tội phạm về ma tuý chưa có chiều hướng giảm bớt; ma tuý vẫn đang là nỗi lo lắng, ám ảnh cuộc sống hàng ngày của mỗi gia đình và của toàn xã hội. Các tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông, tình trạng chặt phá rừng, khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi… vẫn chưa khắc phục được.

 Thứ tư, những năm qua nhà nước đã đề ra nhiều giải pháp để hỗ trợ cho cán bộ, nhân dân ở cơ sở tiếp cận với pháp luật như: thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, người có công, đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn… nhưng chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao hiểu biết pháp luật của cán bộ, nhân dân bởi vẫn còn thiếu một chương trình tổng thể của Nhà nước với sự đầu tư tập trung, thoả đáng nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn được thông tin, phổ biến pháp luật một cách đầy đủ, cụ thể.

Thứ năm, mặc dù trong thời gian qua, công tác PBGDPL đã được thực hiện với phương châm "hướng về cơ sở" nhưng trên thực tế, công tác PBGDPL cho cán bộ và nhân dân ở cơ sở vẫn còn nhiều hạn chế; chưa có nhiều hình thức để gắn kết chặt chẽ và thường xuyên công tác PBGDPL với việc nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của cán bộ, với vận động nhân dân chấp hành pháp luật.

3. Về nội dung của Chương trình

Nội dung Chương trình quốc gia về PBGDPL không đơn thuần chỉ thông tin, phổ biến pháp luật mà nên bao gồm cả vận động chấp hành pháp luật nhằm đạt mục đích nâng cao ý thức pháp luật, hạn chế vi phạm pháp luật trong cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn, trước hết tập trung tạo chuyển biến trong một hoặc một vài lĩnh vực bức xúc ở địa bàn như: đất đai, giao thông, tệ nạn xã hội, môi trường, bảo vệ và phát triển rừng, khiếu nại, tố cáo.

Để thực hiện nội dung trên nhóm nghiên cứu đề xuất hình thức thực hiện Chương trình là:

- Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng và các thiết chế văn hoá thông tin cơ sở trong PBGDPL, trong đó tập trung thực hiện phổ biến, tuyên truyền pháp luật thường xuyên nhưng có trọng điểm, bằng nhiều hình thức; củng cố và sử dụng có hiệu quả hệ thống truyền thanh cơ sở; xây dựng các chương trình văn hoá, văn nghệ, thông tin cổ động, thông tin lưu động gắn với vận động chấp hành pháp luật, xoá bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu, tệ nạn xã hội trong cộng đồng dân cư.

- Hỗ trợ sách pháp luật phổ thông, tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân ở cơ sở, trong đó tập trung hỗ trợ sách pháp luật phổ thông, tài liệu hướng dẫn thực hiện pháp luật phù hợp với địa bàn, với từng nhóm đối tượng nhân dân ở cơ sở; tài liệu thông tin pháp luật, tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể, sát với vị trí, chức năng, nhiệm vụ của từng chức danh cán bộ, công chức cấp xã, phù hợp trình độ quản lý điều hành của chính quyền cấp xã ở từng vùng.

- Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân thông qua các phong trào, các cuộc vận động ở cơ sở, trong đó chú trọng việc lồng ghép việc PBGDPL, vận động nhân dân chấp hành pháp luật với phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; phong trào phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội; hoạt động hoà giải ở cơ sở và việc thực hiện hương ước, qui ước ở cộng đồng dân cư; xây dựng điểm sáng trong chấp hành pháp luật ở khu dân cư.

- Nâng cao chất lượng công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở, trong đó tập trung xây dựng cơ chế để các tổ chức chính trị xã hội ở cơ sở tham gia với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn trong giải quyết các khiếu nại, tố cáo; chú trọng công tác hoà giải trước, trong và sau khi khiếu kiện để mọi mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ nhân dân được hoà giải hoặc giải quyết ngay từ cơ sở; nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở.

- Phát huy vai trò của cơ quan và cán bộ tư pháp trong phổ biến pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân, trong đó tập trung nâng cao trách nhiệm và năng lực tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện pháp luật cho nhân dân khi thực hiện các hoạt động nghiệp vụ tại cơ sở của cán bộ Toà án, Kiểm sát, Công an, Tư pháp, Thi hành án và cán bộ làm công tác bổ trợ tư pháp.

4. Biện pháp xây dựng Chương trình

- Quán triệt các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới; các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

- Khảo sát, điều tra đầy đủ thực trạng tình hình hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân ở địa bàn cơ sở, nhất là trong một số lĩnh vực trọng điểm: đất đai, giao thông, tệ nạn xã hội, bảo vệ và phát triển rừng, khiếu nại, tố cáo.

- Nghiên cứu, tham khảo các kế hoạch, chương trình về PBGDPL hiện hành và một số Chương trình quốc gia khác có liên quan qua đó đánh giá sự phối hợp, tác động, tránh sự chồng chéo với các chương trình đó.

- Do đây là một chương trình quan trọng, có phạm vi tác động rộng nên cần huy động tối đa trí tuệ của các chuyên gia, các cán bộ đang thực hiện công tác PBGDPL, đề xuất của các bộ, ngành, địa phương, nhất là ý kiến của các đối tượng thụ hưởng nhằm nâng cao tính khả thi và hiệu quả của Chương trình.

- Tuân thủ các quy định pháp luật về tiêu chuẩn, nội dung, quy trình xây dựng chương trình quốc gia.



([1]) Từ điển tiếng Việt do NXB Văn hoá - Thông tin ấn hành năm 1999, tr 416.

([2]) Theo Quyết định số 71/2001/QĐ-TTg ngày 04/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2001 - 2005, thì hiện nay, Nhà nước ta đang triển khai 6 Chương trình mục tiêu quốc gia sau: (1) Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm. (2) Chương trình mục tiêu quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn. (3) Chương trình mục tiêu quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình. (4) Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS. (5) Chương trình mục tiêu quốc gia  Văn hoá. (6) Chương trình mục tiêu quốc gia Giáo dục và đào tạo.

([3]) Một số chương trình hành động quốc gia đã và đang triển khai thực hiện như: Chương trình hành động quốc gia về dinh dưỡng; Chương trình hành động về phòng, chống ma tuý; Chương trình hành động về phòng, chống mại dâm, Chương trình hành động quốc gia về An toàn giao thông...

([4]) Có 4 chương trình kỹ thuật - kinh tế đã và đang triển khai, đó là: (i) Chương trình kỹ thuật - kinh tế về Công nghệ Sinh học (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý); (ii) Chương trình kỹ thuật - kinh tế về Công nghệ Tự động hoá (Bộ Công nghiệp quản lý); (iii) Chương trình kỹ thuật - kinh tế về Công nghệ Vật liệu (Bộ Công nghiệp quản lý); (iv) - Chương trình kỹ thuật - kinh tế về Công nghệ Thông tin (Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý).

([5]) Từ năm 1980 việc dạy và học pháp luật mới từng bước được triển khai trong hệ thống các trường Đảng, trường của các tổ chức xã hội, các trường đại học, trung học, dạy nghề và hệ thống trường phổ thông.

([6]) Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.

 

Nội dung toàn văn

PHẦN MỞ ĐẦU

 

1. Tính cấp thiết của Đề tài:

Trong thời gian qua, nhất là từ khi có Chỉ thị số 02, Quyết định số 03 ngày 7/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), công tác này đang từng bước được đẩy mạnh, góp phần tích cực vào việc nâng cao ý thức pháp luật của người dân, động viên, hướng dẫn nhân dân hăng hái tham gia vào mọi lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội. Các ngành, các cấp đã quan tâm huy động cán bộ, xây dựng cơ chế, tạo điều kiện về cơ sở vật chất để thực hiện công tác PBGDPL.

Nhưng cũng phải thấy rằng, mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản làm cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh công tác PBGDPL và xét về tổng thể, tuy đã có những hoạt động sôi nổi, rộng khắp với nỗ lực thường xuyên của nhiều cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến địa phương nhưng hiệu quả công tác PBGDPL, tác động của PBGDPL đối với việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân, đến trật tự kỷ cương pháp luật, đến tình trạng vi phạm pháp luật còn chưa đạt được như mong muốn. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do hiện nay việc thực hiện công tác PBGDPL vẫn còn dàn trải, chưa hình thành được cơ chế, phương thức hữu hiệu tập trung nguồn lực cũng như huy động sự tham gia, đóng góp của toàn xã hội cho công tác PBGDPL.

Chính vì vậy, để công tác này có bước đột phá, thực sự đổi mới về chất, cần phải có bước đi mạnh mẽ hơn, phải có trọng tâm, trọng điểm hơn trong kế hoạch tổng thể về PBGDPL. Mặt khác, để góp phần thực hiện các mục tiêu, chính sách về phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2010 được thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ về công tác PBGDPL được đề ra trong Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị ngày 2/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới, Chỉ thị số 10 ngày 19/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai thực hiện Nghị quyết số 08, Chỉ thị số 32 ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, công tác PBGDPL cần được tiếp tục đổi mới về phương thức thực hiện, có những chuyển biến tích cực đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ phát triển mới của đất nước. Bởi vậy đã đến lúc cần phải xây dựng và thực hiện Chương trình quốc gia về PBGDPL.

Chương trình sẽ là căn cứ huy động nhân tài, vật lực cho công tác PBGDPL; là sự phối hợp hành động, là một phương thức mới để tổ chức lực lượng, huy động sự tham gia, đóng góp của cả cộng đồng, tập trung thực hiện một nhiệm vụ cấp bách đang đặt ra trong xã hội.

Tuy sự cần thiết của việc xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL đã được sự đồng tình ủng hộ của đông đảo các ý kiến nhưng hiện chưa có công trình nào nghiên cứu Chương trình quốc gia về PBGDPL. Do đó, cần có sự nghiên cứu để tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn của việc xây dựng Chương trình, nhất là nội dung của nó với bước đi, kết quả cụ thể cần đạt được.

2. Mục tiêu nghiên cứu:

Việc nghiên cứu của Đề tài nhằm thực hiện các mục tiêu chủ yếu sau:

- Nghiên cứu, xác định một số cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ việc xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL.

- Đánh giá nhu cầu và chứng minh sự cần thiết xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL, làm luận cứ cho việc trình Chính phủ ban hành.

- Đề xuất một số nội dung chính cần đưa vào Chương trình quốc gia về PBGDPL và dự kiến biện pháp thực hiện.

3. Nội dung nghiên cứu:

Thực hiện theo đúng yêu cầu của Đề cương nghiên cứu đã được duyệt, Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung chính sau:

- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về Chương trình quốc gia nói chung, Chương trình quốc gia về PBGDPL nói riêng.

- Nghiên cứu, xác định đặc điểm, cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL thời gian qua và yêu cầu, định hướng trong thời gian tới làm cơ sở thực tiễn phục vụ việc xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL.

- Nghiên cứu đề xuất nội dung của Chương trình quốc gia về PBGDPL và biện pháp xây dựng Chương trình.

4. Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp luận để nghiên cứu Đề tài là nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lê - nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về nhà nước và pháp luật.

Các phương pháp được áp dụng là tổng kết thực tiễn, phân tích, thống kê, đối chiếu, so sánh, kết hợp với việc kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu của các đề tài, các hội thảo khoa học, tài liệu có liên quan; tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, các chuyên gia, các cán bộ đang trực tiếp thực hiện công tác PBGDPL.

5. Quá trình triển khai thực hiện Đề tài:

Sau khi có Quyết định số 112/2002/QĐ-BTP ngày 4/2/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Kế hoạch nghiên cứu khoa học công nghệ của Bộ Tư pháp năm 2002, trong đó có nội dung nghiên cứu của Đề tài, Ban chủ nhiệm được thành lập và đã thống nhất Đề cương nghiên cứu, danh sách cộng tác viên.

Trên cơ sở Đề cương nghiên cứu được duyệt, Ban chủ nhiệm đã tổ chức cuộc họp với các cộng tác viên để trao đổi, thống nhất đề cương chi tiết của từng Chuyên đề và triển khai các hoạt động nghiên cứu theo kế hoạch.

Để phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, Ban chủ nhiệm đã tổ chức một số cuộc trao đổi, lấy ý kiến của các chuyên gia, các cán bộ đang trực tiếp thực hiện công tác PBGDPL về nhu cầu PBGDPL của các đối tượng; cơ chế, phương thức thực hiện công tác PBGDPL trong giai đoạn tới và định hướng nội dung cơ bản của Chương trình quốc gia về PBGDPL.

Trên cơ sở các Chuyên đề nghiên cứu, các tài liệu, thông tin thu thập được, Ban chủ nhiệm đã tổng hợp xây dựng Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài.   

6. Kết quả nghiên cứu đạt được:

- Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài;

- Các chuyên đề;

- Các đề xuất của nhóm thực hiện Đề tài.

Kết quả nghiên cứu của Đề tài sẽ là cơ sở khoa học, thực tiễn để đề xuất với Đảng, Nhà nước xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL trong giai đoạn tới.

 

BÁO CÁO PHÚC TRÌNH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

***

A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VỀ CHƯƠNG TRÌNH QUỐC GIA

 

I. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ CHƯƠNG TRÌNH QUỐC GIA

1. Chương trình quốc gia

Theo Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn hành năm 1999 (trang 416) thì: Chương trình được hiểu là các mục, các vấn đề, nhiệm vụ đặt ra và được sắp xếp theo một trình tự để thực hiện trong một thời gian nhất định.

         Theo quy định tại Điều 1 Quyết định số 531/TTg ngày 8/8/1996 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý các Chương trình quốc gia, thì Chương trình quốc gia là một tập hợp các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đồng bộ về kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ, môi trường, cơ chế chính sách, tổ chức để thực hiện một hoặc một số mục tiêu đã được xác định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước trong một thời gian nhất định.

         Như vậy, Chương trình quốc gia có một số đặc điểm sau:

          - Là một chương trình có tính định hướng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được lập ra trên cơ sở đánh giá đúng, đầy đủ, toàn diện thực trạng một hoặc một nhóm các quan hệ xã hội cụ thể, cũng như vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc điều chỉnh các quan hệ đó, để trên cơ sở đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ cụ thể nhằm tăng cường năng lực, hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước và tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội nảy sinh, phát triển theo đúng định hướng của Nhà nước; phù hợp với quy luật vận động và phát triển của xã hội.

         - Là căn cứ để lãnh đạo hoặc người có thẩm quyền xem xét, cân nhắc, đánh giá các khả năng hiện có và chỉ đạo tập trung các nguồn lực cần thiết cho các vấn đề quan trọng nhất; đồng thời cũng là căn cứ để các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức xác định rõ các nhiệm vụ, quyền hạn cũng như trách nhiệm của mình trong hoạt động chung; tạo điều kiện phối hợp các công việc của nhiều bộ phận khác nhau để thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu đã được xác định.

         - Được xây dựng để tập trung giải quyết một hoặc một số vấn đề, nhiệm vụ, lĩnh vực quan trọng, cấp bách, có ý nghĩa cơ bản, mang tính đột phá đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung của đất nước. Phần lớn các Chương trình quốc gia được ban hành để thực hiện chính sách, chủ trương của Đảng hoặc nhiệm vụ trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

         - Chương trình quốc gia có mục tiêu, đối tượng, cách thức thực hiện và phương thức huy động nguồn lực cụ thể, rõ ràng.

         - Phải tuân theo các quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn, nội dung, quy trình xây dựng, thẩm định, quản lý...

         - Thời gian thực hiện thường là 5 năm, hoặc phân kỳ thực hiện cho từng giai đoạn 5 năm.

         2. Các loại Chương trình quốc gia

Từ năm 1995 trở về trước, các bộ, ngành đã triển khai thực hiện hơn 20 chương trình quốc gia. Từ năm 1996 đến nay - theo số liệu chưa đầy đủ, Nhà nước ta đã và đang triển khai gần 30 dự án, chương trình cấp quốc gia.

Theo Quyết định số 19/1998/QĐ-TTg ngày 24/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý và thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của các Chương trình quốc gia cũ, kể từ năm 1998, Chính phủ đã chuyển các mục tiêu, nhiệm vụ  của các Chương trình quốc gia cũ vào nhiệm vụ thường xuyên của các Bộ, ngành, như: chuyển các dự án thuộc Chương trình 327 (nay là Dự án trồng rừng), Chương trình 773 vào kế hoạch hàng năm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; các dự án về nuôi trồng thuỷ sản của Chương trình 773 về Bộ Thuỷ sản; chuyển giao mục tiêu phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em của Chương trình Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em sang Bộ Y tế; chuyển mục tiêu về cung cấp nước sạch đô thị và vệ sinh môi trường đô thị về Bộ Xây dựng quản lý...

Hiện nay, ở nước ta đang thực hiện 4 loại chương trình quốc gia, gồm: Chương trình mục tiêu quốc gia; Chương trình mục tiêu; Chương trình hành động quốc gia; Chương trình kỹ thuật - kinh tế.

Tuy cùng là Chương trình quốc gia nhưng các chương trình này có những đặc trưng riêng. Cụ thể:

          a) Chương trình mục tiêu quốc gia:

          Các vấn đề được chọn để giải quyết bằng Chương trình mục tiêu quốc gia phải là những vấn đề có tính cấp bách, liên ngành, liên vùng và có tầm quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, cần phải được tập trung nguồn lực và sự chỉ đạo của Chính phủ để giải quyết. Mục tiêu của Chương trình mục tiêu quốc gia phải rõ ràng, lượng hoá được và phải nằm trong chiến lược chung của quốc gia. Trong Chương trình mục tiêu cần xác định biện pháp, lộ trình thực hiện có tính khả thi, các trình tự vận động cần thiết, các hoạt động cần ưu tiên, các cân đối chi phí cần thiết, thời hạn cần phải bảo đảm để thực hiện có hiệu quả một mục tiêu hoặc một nhóm mục tiêu lớn đặt ra cho hệ thống.

         Cơ chế tài chính của chương trình được Ngân sách Nhà nước phân bổ và được Quốc hội phê chuẩn, phân bổ vào ngân sách các bộ, ngành và địa phương ngay từ kế hoạch đầu năm.

Theo Quyết định số 71/2001/QĐ-TTg ngày 04/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2001 - 2005, thì hiện nay, Nhà nước ta đang triển khai 6 Chương trình mục tiêu quốc gia sau:

  1. Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm.

Mục tiêu:

- Giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chí hộ nghèo mới) đến năm 2005 còn dưới 10%, bình quân mỗi năm giảm 1,5 - 2% (khoảng 28 - 30 vạn hộ/năm); không để tái đói kinh niên, các xã nghèo có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu cơ bản;

- Mỗi năm phấn đấu giải quyết việc làm cho khoảng 1,4 - 1,5 triệu lao động; giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống còn khoảng 5 - 6%; nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 80% vào năm 2005.

         2. Chương trình mục tiêu quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn.

Mục tiêu:

- Đến năm 2010: 85% dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh số lượng 60 lít/người/ngày, 70% gia đình và dân cư nông thôn sử dụng hố xí hợp vệ sinh và thực hiện tốt vệ sinh cá nhân.

- Đến năm 2020: tất cả dân cư nông thôn sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn quốc gia với số lượng ít nhất 60 lít/người/ngày, sử dụng hố xí hợp vệ sinh và thực hiện tốt vệ sinh cá nhân, giữ sạch vệ sinh môi trường làng, xã.

3. Chương trình mục tiêu quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình.

Mục tiêu:

- Giảm sinh vững chắc, đặc biệt tập trung vào những vùng có mức sinh cao, vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo, nhằm đạt mức sinh thay thế bình quân trong toàn quốc chậm nhất vào năm 2005. Giảm tỷ lệ sinh bình quân hàng năm 0,4%o; đạt tỷ lệ tăng dân số vào năm 2005 khoảng 1,16%.

- Bước đầu triển khai những mô hình và giải pháp thí điểm về nâng cao chất lượng dân số.

4. Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS.

Mục tiêu:

Giảm tỷ lệ người mắc bệnh và tỷ lệ người chết bệnh, góp phần nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi; phấn đấu để mọi người dân được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu; giảm tốc độ lây nhiễm HIV trong cộng đồng. 

5. Chương trình mục tiêu quốc gia  Văn hoá.

Mục tiêu:

- Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tiêu biểu của dân tộc;

- Xây dựng và phát triển đời sống văn hoá cơ sở;

- Hiện đại hoá công nghệ sản xuất, lưu trữ và phổ biến phim.

6. Chương trình mục tiêu quốc gia Giáo dục và đào tạo.

Mục tiêu:

- Thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong cả nước vào               năm 2010, trong đó đến năm 2005 hoàn thành ở 30 tỉnh, thành phố.

- Đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa.

- Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40% tổng số lao động trong độ tuổi quy định vào năm 2010, trong đó đạt 30% vào năm 2005; điều chỉnh cơ cấu đào tạo nhân lực về bậc đào tạo, ngành nghề và lãnh thổ phù hợp với nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đẩy mạnh đào tạo cán bộ tin học và đưa tin học vào nhà trường.

          b) Chương trình mục tiêu:

Phạm vi hẹp hơn Chương trình mục tiêu quốc gia, nhằm thực hiện một, hoặc một số nhiệm vụ cụ thể của bộ, ngành trong một thời gian nhất định, thường gắn với nhiệm vụ thường xuyên của các bộ, ngành; cơ chế tài chính phụ thuộc vào khả năng cân đối Ngân sách của Trung ương hỗ trợ.

          c) Chương trình hành động quốc gia:

          Phạm vi thực hiện trên cả nước, nhằm thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ mang tính lâu dài, thường xuyên, thu hút nhiều đối tượng thuộc các bộ, ngành tham gia thực hiện. Cơ chế tài chính được quy định cụ thể khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình (Hiện nay, một số chương trình hành động quốc gia đã và đang triển khai thực hiện như: Chương trình hành động quốc gia về dinh dưỡng; Chương trình hành động về phòng, chống ma tuý; Chương trình hành động về phòng, chống mại dâm, Chương trình hành động quốc gia về An toàn giao thông...).

          d) Chương trình kỹ thuật - kinh tế:

Là một hệ thống đồng bộ các hoạt động khoa học - công nghệ - sản xuất, các chính sách và biện pháp đầu tư, trong đó lấy công nghệ làm động lực phát triển nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế xác định. Chương trình kỹ thuật - kinh tế phải tạo ra được năng lực công nghệ đủ mạnh để đảm bảo tính cạnh tranh của các sản phẩm chủ lực hoặc công nghệ và làm nòng cốt cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Những chương trình này mang tính kỹ thuật ngành và do các bộ chuyên ngành quản lý. Trong quá trình triển khai nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng khoa học kỹ thuật sẽ cho những sản phẩm cụ thể phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng, mang tính kinh tế. Hạn mức ngân sách nhà nước dành cho các Chương trình được cân đối từ nguồn ngân sách Trung ương.

Hiện nay có 4 chương trình kỹ thuật - kinh tế đã và đang triển khai nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, đó là các chương trình:

- Chương trình kỹ thuật - kinh tế về Công nghệ Sinh học (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý);

- Chương trình kỹ thuật - kinh tế về Công nghệ Tự động hoá (Bộ Công nghiệp quản lý);

- Chương trình kỹ thuật - kinh tế về Công nghệ Vật liệu (Bộ Công nghiệp quản lý);

         - Chương trình kỹ thuật - kinh tế về Công nghệ Thông tin (Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý).

          3. Ý nghĩa và sự cần thiết của Chương trình quốc gia

Có thể khẳng định những ưu điểm cơ bản của Chương trình quốc gia, đó là:

- Có điều kiện tập trung nguồn lực và sự chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền địa phương để thực hiện một mục tiêu, nhiệm vụ có nhiều đòi hỏi bức xúc, hoặc lĩnh vực có tác động (trực tiếp hoặc gián tiếp) đến sự phát triển kinh tế và ổn định chính trị xã hội;

- Là căn cứ để huy động nhân lực, vật lực; là phương thức để tổ chức lực lượng, phối hợp hành động nhằm tập trung thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ cấp bách đang đặt ra trong xã hội; tạo cơ chế phù hợp thúc đẩy hoạt động ở cơ sở;

- Tạo sự chuyển động mang tính đột phá đối với các lĩnh vực, nhiệm vụ kinh tế, xã hội quan trọng;

- Tiết kiệm nguồn lực do hạn chế việc dàn trải.

Đây là những ưu thế cơ bản của một Chương trình quốc gia. Bởi vì, khi có sự chỉ đạo tập trung, có một lộ trình cụ thể với việc xác định rõ các biện pháp, các hoạt động cần được ưu tiên và các cân đối chi phí cần thiết thì nhiệm vụ, mục tiêu hoặc lĩnh vực hoạt động đó sẽ có hiệu quả cao hơn.

Kết quả tích cực của các Chương trình quốc gia thể hiện rõ ở bất cứ lĩnh vực nào, địa bàn nào mà chương trình được thực hiện. Nhiều Chương trình quốc gia đã tạo bộ mặt mới cho sự phát triển ở nhiều vùng, nhất là vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; góp phần nâng cao cuộc sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế bền vững và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Lấy ví dụ từ việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia Xoá đói giảm nghèo và Việc làm, trong những năm qua, Chương trình đã tạo các điều kiện thuận lợi, phù hợp để hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập, tiếp cận các dịch vụ xã hội, xoá đói giảm nghèo, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, bảo đảm việc làm cho người có nhu cầu làm việc, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Chỉ tính riêng trong 3 năm: 2001- 2003, cả nước đã giảm được 93,4 vạn hộ nghèo, bình quân mỗi năm giảm khoảng 31 vạn hộ, tỷ lệ hộ nghèo giảm chỉ còn hơn 11%; tạo việc làm cho 4,325 triệu lao động[1].

 

Bảng: Kết quả thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia[2]

 

      Chương trình MTQG

Đơn vị

tính

Mục tiêu

đến 2005

Thực hiện

2001

Thực hiện

2002

Thực hiện

2003

Kế hoạch

2004

1. Chương trình MTQG Xoá đói giảm nghèo và Việc làm

 

 

 

 

 

 

-Tỷ lệ hộ nghèo/TS hộ cả nước

%

<10

16,5

14,5

12,5

<10

-Số lao động được GQVL

1000 ng

1.500

1.400

1.420

1.500

1.580

trong đó: đi lao động ngoài nước

ng.ng

270,0

36,2

46,0

76,0

65,0

-Tỷ lệ lao động thất nghiệp thành thị

%

5,4

6,26

6,01

5,8

< 5,7

-Tỷ lệ sử dụng t/gian lao động N.thôn

%

80

74,3

75,41

76,5

77,5

2.Chương trình MTQG Dân số- Kế hoạch hoá gia đình

 

 

 

 

 

 

- Mức giảm tỷ lệ sinh

%o

0,5

0,46

0,42

0,4

0,4

- Qui mô dân số

ng.ng

< 83.000

78.680

79.720

80755

81.785

- Tỷ lệ phát triển dân số

%

1,22

1,35

1,32

1,30

1,28

- Tỷ lệ sinh thô

%

 

 

 

 

 

3.Chương trình MTQG phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS   

 

 

 

 

 

 

- Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng

%

22-25

31,9

29,0

28,0

< 26

- Tỷ lệ suy dinh dưỡng bào thai

%

 

< 7,1

< 7,0

< 7,0

< 7,0

- Tỷ lệ trẻ em chết dưới 1 tuổi

%o

< 30

35,0

33,0

32,0

31,0

- Tỷ lệ trẻ em chết dưới 5 tuổi

%o

< 37

< 42

< 42

< 40

< 38

- Tỷ lệ TCMR TE < 1tuổi 7loại vaccine

%

> 90

> 90

> 90

> 90

> 90

- Tỷ lệ bướu cổ trẻ em từ 8 -12 tuổi

%

< 10

< 10

< 10

< 10

< 10

4.Chương trình MTQG Nước sạch và VSMT nông thôn

 

 

 

 

 

 

- Tỷ lệ dân số NT được cấp nước sạch

%

80

46

50

55

60

- Tỷ lệ hộ dân NT có hố xí hợp vệ sinh

%

60

34

37

41

45

5.Chương trình MTQG Giáo dục - đào tạo

 

 

 

 

 

 

- Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi

%

 

96,0

96,28

97,0

98,0

6.Chương trình MTQG  về Văn hoá

 

 

 

 

 

 

- Số di tích được tu bổ

Di tích

 

290

300

310

320

- Tỷ lệ gia đình đạt chuẩn Văn hoá

%

80

45

48

60

70

- Tỷ lệ làng, bản, cụm dân cư đạt chuẩn Văn hoá

%

50

45

47

48

49

 

II. CHƯƠNG TRÌNH QUỐC GIA VỀ  PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

          Với vị trí là khâu đầu tiên của hoạt động thi hành pháp luật, là cầu nối đưa pháp luật vào cuộc sống, là một trong những mắt xích có ý nghĩa đặc biệt của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, công tác PBGDPL có vai trò quan trọng trong việc nâng cao ý thức pháp luật cho công dân, góp phần tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.

          Công tác PBGDPL luôn được coi là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã khẳng định: “vấn đề giáo dục pháp luật có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cho nên việc xây dựng pháp luật và mở rộng các hình thức tuyên truyền, giáo dục, củng cố và nâng cao trình độ văn hoá pháp lý cho công dân là hết sức cần thiết[3]. Với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong bối cảnh thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công tác PBGDPL càng có vai trò quan trọng, đòi hỏi phải được sự quan tâm chỉ đạo tập trung hơn, sự đầu tư tương xứng hơn của Nhà nước, mà trước hết là thông qua việc xây dựng và triển khai Chương trình quốc gia về PBGDPL.

1. Ý nghĩa của Chương trình quốc gia về PBGDPL

Việc xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình quốc gia về PBGDPL có ý nghĩa quan trọng, thể hiện qua các mặt sau:

- Tạo sự đồng bộ với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, đường lối phát triển kinh tế xã hội, trong đó có việc xây dựng và thực hiện các chương trình quốc gia nhằm nâng cao đời sống vật chất, đời sống tinh thần cho nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ dân chí.  Vấn đề đặt ra ở đây là không thể chờ cho đến khi kinh tế phát triển mới quan tâm nâng cao ý thức pháp luật mà cần phải có những giải pháp đồng bộ, trong đó đặc biệt chú trọng PBGDPL cho công dân. Chương trình quốc gia về PBGDPL cùng với các Chương trình phát triển kinh tế xã hội khác cần được coi là một bộ phận hữu cơ trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, nhằm tạo sự chuyển biến đồng bộ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

- Chương trình quốc gia về PBGDPL hay nói đúng hơn là triển khai công tác PBGDPL dưới hình thức Chương trình quốc gia là hoàn toàn phù hợp với đặc thù của công tác này, đó là sự phối hợp liên ngành và phân công, phân nhiệm cụ thể giữa các cơ quan, tổ chức trong thực hiện công tác PBGDPL; Nhà nước là chủ thể chịu trách nhiệm chủ yếu trong tổ chức, thực hiện công tác PBGDPL.

- Chương trình quốc gia về PBGDPL góp phần  tạo bước phát triển mới trong công tác PBGDPL đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

2. Yêu cầu đối với Chương trình quốc gia về PBGDPL

Cũng như các Chương trình quốc gia khác, Chương trình quốc gia về PBGDPL phải đáp ứng những yêu cầu nhất định về tiêu chuẩn, nội dung, quy trình xây dựng, quản lý... đồng thời phải phù hợp với đặc thù công tác PBGDPL, cụ thể:

- Chọn đúng lĩnh vực, đối tượng trọng điểm cần nâng cao ý thức pháp luật, tạo chuyển biến trong chấp hành pháp luật.

Hiện nay, việc PBGDPL cho các nhóm đối tượng trong xã hội là nhân dân; cán bộ, công chức; người lao động, người quản lý trong doanh nghiệp; thanh thiếu niên; lực lượng vũ trang đã và đang được thực hiện theo Kế hoạch PBGDPL giai đoạn 1998-2002 và Chương trình PBGDPL giai đoạn 2003-2007 của Chính phủ. Yêu cầu đối với Chương trình quốc gia về PBGDPL là cần xác định đúng đối tượng, lĩnh vực PBGDPL trọng tâm, trọng điểm trong giai đoạn tới để tập trung nguồn nhân lực, vật lực đầu tư cho đối tượng này; đồng thời, việc xác định rõ đối tượng, lĩnh vực PBGDPL trọng điểm sẽ tạo cơ sở để Chương trình đề ra các mục tiêu, kết quả PBGDPL cụ thể cần đạt được.

- Mục tiêu, nội dung, giải pháp thực hiện đề xuất trong Chương trình quốc gia về PBGDPL phải cụ thể, rõ ràng, khả thi; phục vụ việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Đây là một trong những yêu cầu đối với Chương trình quốc gia. Chương trình quốc gia được nhà nước đầu tư nguồn lực để thực hiện các mục tiêu đề ra, do đó các mục tiêu, nội dung, giải pháp thực hiện Chương trình phải được xác định cụ thể, rõ ràng, khả thi, phù hợp và để thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn.

- Đồng bộ với các Chương trình, Kế hoạch về công tác PBGDPL của Chính phủ hiện hành; phù hợp với bộ máy, lực lượng thực hiện công tác PBGDPL hiện nay; lồng ghép, phối hợp với các Chương trình quốc gia khác có liên quan để tận dụng các nguồn lực thực hiện Chương trình, nhất là khi các Chương trình được triển khai trên cùng một địa bàn.

3. Mối quan hệ giữa Chương trình quốc gia về PBGDPL với các Chương trình, Kế hoạch PBGDPL hiện hành

Một trong những điểm nổi bật của công tác PBGDPL giai đoạn từ năm 1998 trở lại đây là công tác này đã được kế hoạch hoá, chương trình hoá. Chính phủ đã ban hành các kế hoạch triển khai công tác PBGDPL trong từng giai đoạn theo nhiệm kỳ của Chính phủ: Kế hoạch triển khai công tác PBGDPL từ năm 1998 đến năm 2002 ban hành kèm theo Quyết định số 03 ngày 7/01/1998; Chương trình PBGDPL từ năm 2003 đến năm 2007 ban hành kèm theo Quyết định số 13 ngày 17/01/2003. Những chương trình, kế hoạch này mang tính chất là văn bản triển khai hoạt động thường xuyên thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, vừa có tính định hướng, vừa mang tính chỉ đạo để các cấp, các ngành triển khai, thực hiện công tác PBGDPL trên phạm vi toàn quốc một cách có nề nếp, liên tục và thống nhất.

Với đặc trưng của một Chương trình quốc gia, Chương trình quốc gia về PBGDPL là chương trình có các nhiệm vụ, mục tiêu, lộ trình, biện pháp thực hiện... được xác định cụ thể, được Chính phủ đầu tư và tập trung chỉ đạo nhằm tạo chuyển biến trên những đối tượng, lĩnh vực PBGDPL trọng tâm, bức xúc.

Như vậy, chương trình, kế hoạch PBGDPL hiện hành là những chương trình thường xuyên, đảm bảo cho việc thực hiện công tác PBGDPL trên cả nước được liên tục, không gián đoạn theo sự chỉ đạo chung, thống nhất của Chính phủ, phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn; Chương trình quốc gia về PBGDPL là chương trình mang tính đột phá, nhằm đạt kết quả cụ thể đối với lĩnh vực, đối tượng PBGDPL trọng điểm được xác định trong thời gian nhất định. Ở phương diện khác, Chương trình quốc gia không thâu tóm các chương trình PBGDPL hiện hành mà cụ thể hoá các chương trình đó bằng những mục tiêu, chỉ tiêu, hiệu quả đạt được đối với những đối tượng, lĩnh vực cụ thể. Mặt khác, đối với các lĩnh vực, đối tượng quan trọng cần tập trung thực hiện việc PBGDPL mà các chương trình khác chưa bao quát được thì Chương trình quốc gia về PBGDPL sẽ tập trung thực hiện.

          Việc cùng lúc thực hiện 2 loại chương trình về PBGDPL nói trên hoàn toàn không chồng chéo, mà còn tác động, hỗ trợ lẫn nhau: Chương trình quốc gia về PBGDPL trong quá trình triển khai có thể sử dụng những hình thức, biện pháp PBGDPL đã được định hình, đang phát huy tác dụng và bộ máy, lực lượng thực hiện công tác PBGDPL hiện nay; đồng thời, các cơ quan, đơn vị khi thực hiện PBGDPL theo kế hoạch thường xuyên có thể tận dụng các phương tiện, điều kiện, hiệu quả mà Chương trình quốc gia về PBGDPL mang lại.

 

 

 

 

 

 

 

B. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

         

I. VÀI  NÉT VỀ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

 1.  Tình hình PBGDPL cho một số đối tượng

1.1. Cán bộ, công chức

Tính đến tháng 12 năm 2002, cả nước có 1.529.852 cán bộ, công chức (không tính cán bộ, công chức trong lực lượng vũ trang), trong đó 209.171 cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính nhà nước; 1.218.446 công chức sự nghiệp; 19.235 cán bộ, công chức  khối lập pháp, tư pháp, còn lại là cán bộ, công chức trong các cơ quan Đảng, đoàn thể. Ngoài ra, có khoảng trên 200.000 cán bộ cơ sở[4].

Người cán bộ, công chức được tuyển chọn vào làm việc trong hệ thống chính trị và các cơ quan nhà nước đều có sự ràng buộc với Nhà nước bởi hệ thống các quy định về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm. Việc chấp hành đầy đủ, nghiêm túc các chế độ, chính sách và các nhiệm vụ được phân công theo quy định của pháp luật là bổn phận của cán bộ, công chức. Việc thể hiện ý thức pháp luật của cán bộ, công chức là sự thể hiện trách nhiệm chính trị; và chính ý thức, trách nhiệm đó sẽ gián tiếp hay trực tiếp góp phần không nhỏ vào việc củng cố, nâng cao những giá trị văn hoá, tinh thần trong xã hội, tác động tốt tới mọi công dân, góp phần xây dựng niềm tin pháp luật, giữ gìn, ổn định trật tự xã hội, kỷ cương của Nhà nước.

Xuất phát từ vị trí, vai trò của cán bộ, công chức mà đội ngũ này luôn được xác định là một trong những chủ thể, đối tượng quan trọng của công tác PBGDPL, bởi lẽ họ không chỉ trước hết là một công dân cần phải hiểu biết pháp luật, mà còn là một đối tượng cần tiếp nhận thông tin pháp luật, nắm vững pháp luật để xử lý, giải quyết công việc, tổ chức, điều hành đời sống xã hội trong phạm vi ngành nghề, lĩnh vực chuyên môn theo quy định của pháp luật. Họ còn là người có trách nhiệm thông qua từng công việc giải quyết cụ thể hoặc qua việc tiếp dân mà chuyển tải chủ trương, chính sách của Đảng, phổ biến, hướng dẫn, giải thích pháp luật tới mọi công dân.

Nhìn chung, việc PBGDPL cho cán bộ, công chức đã được các bộ, ngành, cơ quan, đơn vị quan tâm. Các văn bản pháp luật được phổ biến chủ yếu là những văn bản liên quan đến việc thực thi nhiệm vụ, đến nghề nghiệp của cán bộ, công chức; các văn bản thuộc lĩnh vực quản lý của bộ, ngành; văn bản về quản lý nhà nước, cải cách hành chính, công vụ và công chức...  

Ngoài việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật theo chương trình tương ứng với từng chức danh công chức, việc PBGDPL cho cán bộ, công chức còn được thực hiện thông qua các lớp tập huấn theo chuyên đề; các hội nghị giới thiệu hoặc triển khai văn bản; qua tài liệu tuyên truyền, phổ biến pháp luật; các đợt thi tìm hiểu pháp luật... Nội dung pháp luật còn được đưa vào các kỳ thi tuyển dụng, nâng bậc, chuyển ngạch công chức.

Nhìn chung đội ngũ cán bộ, công chức đã nắm được các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ; năng lực vận dụng, thi hành pháp luật từng bước được nâng cao. Nhưng cũng phải thấy rằng, tình hình vi phạm pháp luật trong cán bộ, công chức đang là vấn đề đáng lo ngại, làm giảm hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, gây mất lòng tin của nhân dân đối với pháp luật, với nhà nước. Việc huy động cán bộ, công chức tham gia PBGDPL cho công dân thông qua hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn chế; việc PBGDPL cho đội ngũ cán bộ cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu.

Bên cạnh các biện pháp tiếp tục tăng cường trách nhiệm công chức, kỷ luật công vụ, việc tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật kết hợp với kiểm tra năng lực vận dụng pháp luật để thực thi công vụ cho đối tượng cán bộ, công chức là biện pháp cần quan tâm, tổ chức thực hiện trong thời gian tới. Mỗi cán bộ, công chức cần tự giác tìm hiểu, học tập pháp luật, coi đây là "nhiệm vụ thường xuyên, là một trong những tiêu chuẩn đánh giá cán bộ"[5]; tuân thủ, thi hành nghiêm chỉnh pháp luật và tham gia PBGDPL cho nhân dân.

Trong công tác PBGDPL cho cán bộ, công chức cần đặc biệt chú ý đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở. Với vai trò của chính quyền cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) trong việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, an ninh quốc phòng, kinh tế, văn hoá, xã hội...; trực tiếp tổ chức thực hiện các đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở cần được xác định là đối tượng ưu tiên PBGDPL trong giai đoạn tới.

Hiện nay, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở còn nhiều bất cập. Tổng hợp kết quả điều tra, khảo sát 157.922 cán bộ ở 10.311 xã, phường, thị trấn (tháng 4/2003) cho thấy, số cán bộ có trình độ học vấn phổ thông trung học chiếm 57,3%, trung học cơ sở chiếm 37,4%, tiểu học 5,2%, trong đó các tỉnh miền núi, Tây Nguyên, số cán bộ có trình độ tiểu học còn chiếm tỷ lệ cao; có 70% cán bộ chưa được đào tạo về chuyên môn; 40% chưa được đào tạo về lý luận chính trị, trên 73% chưa được đào tạo về quản lý nhà nước[6].

Với trình độ như vậy, cán bộ cơ sở gặp nhiều khó khăn khi phải tiếp thu, triển khai những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước; ảnh hưởng đến công tác quản lý hành chính của cấp cơ sở: còn tuỳ tiện, chưa dựa vào pháp luật mà còn nặng về phong tục, tập quán. Vì vậy, ngoài các biện pháp kiện toàn đội ngũ cán bộ cơ sở, Nhà nước cần có chương trình, kế hoạch với sự đầu tư thích đáng để nâng cao kiến thức pháp luật, năng lực vận dụng pháp luật cho lực lượng này, đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, biết hướng dẫn và phát huy tính tự quản của dân, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, được dân tín nhiệm như tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá IX) về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn" đã xác định.

1.2. Nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số

Ở nước ta, với 76% cư dân sống ở nông thôn, 65% lao động nông nghiệp, giai cấp nông dân hiện nay vẫn là lực lượng chủ yếu trong xã hội, thu nhập từ nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu nhập quốc dân.

Việt Nam là một nước đa dân tộc, là một khối thống nhất của 54 dân tộc anh em, trong đó có tới 53 dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số nước ta cư trú xen kẽ trên địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái.

Qua hơn 16 năm đổi mới, cuộc sống của người dân ở vùng nông thôn, miền núi đang từng bước được cải thiện. Bộ mặt nông thôn thay đổi nhanh chóng: 95% xã có đường ô tô tới khu trung tâm, 80% xã có điện, 45% dân cư nông thôn có nước sạch sinh hoạt, đời sống văn hoá tinh thần, trình độ dân trí được nâng lên. Theo thống kê, trong vòng 10 năm trở lại đây, mức tăng trưởng bình quân hàng năm của các tỉnh miền núi đạt từ 8 - 10%. 100% số xã có trường tiểu học; người dân tộc thiểu số trong độ tuổi đi học biết chữ đạt 77,4%[7].

Từ nhiều năm qua, nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số là một trong những đối tượng được quan tâm PBGDPL, bởi xuất phát từ nhiều yếu tố về địa lý, tâm lý xã hội, dân trí, điều kiện sống mà nhóm đối tượng này ít có điều kiện để tiếp cận và tìm hiểu pháp luật, nhất là người dân sống ở các vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi.

Về nội dung, ngoài nội dung pháp luật cần thông tin, phổ biến cho người dân nói chung như các quyền tham gia quản lý Nhà nước; quyền bầu cử, ứng cử; quyền lao động, tự do kinh doanh; nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp, pháp luật..., người nông dân, đồng bào ở miền núi, vùng dân tộc còn được quan tâm thông tin, phổ biến các quy định pháp luật về quyền sử dụng đất, thuế nông nghiệp, bảo vệ và phát triển rừng, phòng chống ma tuý, hôn nhân - gia đình, đăng ký hộ tịch, các giao lưu dân sự trong cuộc sống hàng ngày, chống các hủ tục lạc hậu, phát huy tập quán tốt đẹp. Ngoài ra, nội dung pháp luật còn được lồng ghép trong các chương trình xoá đói giảm nghèo, dân số, khuyến nông, khuyến lâm...

Có thể nói, thông tin pháp luật đến nhân dân nói chung, nông dân, đồng bào dân tộc nói riêng về thực chất là công tác vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Do đó, một trong những hình thức PBGDPL có hiệu quả, phù hợp với đặc thù đối tượng nông dân, đồng bào dân tộc là hình thức truyền đạt trực tiếp (tuyên truyền miệng) thông qua đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật. Một hình thức khác cũng được sử dụng thường xuyên là biên soạn các tài liệu pháp luật phổ thông như: sách giới thiệu văn bản, sách hỏi đáp về pháp luật, tờ gấp... Việc dịch một số văn bản pháp luật sang tiếng dân tộc để phổ biến cho đồng bào hiện đang được các cơ quan chức năng quan tâm[8]. Song công việc này không phải địa phương nào cũng có điều kiện thực hiện và không phải có thể dịch được sang mọi thứ tiếng dân tộc do những khó khăn về thiếu người biên dịch, về kinh phí..., hơn nữa, không phải người nào trong cộng đồng dân tộc ít người cũng biết đọc chính thứ tiếng của dân tộc mình.

Các hình thức PBGDPL khác như: thông qua hoạt động hoà giải, tủ sách pháp luật (Điểm Bưu điện - Văn hoá xã), trên phương tiện thông tin đại chúng, truyền thanh cơ sở, lồng ghép trong các sinh hoạt truyền thống, lễ hội của đồng bào dân tộc, trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ cở, hương ước, quy ước... cũng được chú trọng. Đặc biệt, xuất phát từ đặc điểm phong tục, tập quán sinh hoạt của cộng đồng dân cư ở nông thôn, miền núi, vùng dân tộc, việc huy động, vận động cán bộ chính quyền, đoàn thể cơ sở, các già làng, trưởng bản, trưởng thôn... tham gia PBGDPL được coi là một trong những biện pháp PBGDPL phù hợp với nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số.  

Từ năm 1997, theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Trung tâm trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách đã được thành lập và hoạt động có hiệu quả ở các tỉnh, thành phố[9] (đó là chưa kể các trung tâm tư vấn của các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể...). Thông qua phương thức trợ giúp các vụ việc cụ thể, nhất là trong những đợt trợ giúp pháp lý lưu động tại các vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, dân tộc, hoạt động này còn góp phần thông tin về các vấn đề pháp luật mang tính thời sự, gần gũi với đời sống của bà con, được nhân dân rất đồng tình, ủng hộ.

Cùng với đời sống ngày càng được cải thiện, người nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số đang quan tâm hơn đến việc tìm hiểu pháp luật, nhất là những quy định pháp luật cụ thể, liên quan trực tiếp đến cuộc sống, lao động, sản xuất của họ. Người dân không còn chỉ thụ động tiếp nhận thông tin pháp luật mà đang từng bước trực tiếp nắm bắt thông tin pháp luật. Điều này có thể thấy rõ qua lượng người đến đọc sách pháp luật tại các Tủ sách pháp luật, các Điểm Bưu điện - Văn hoá xã; tham dự các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; tham gia đóng góp ý kiến xây dựng các chủ trương, chính sách lớn của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật, thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".

Hiện nay, dân cư ở vùng nông thôn, miền núi rất đa dạng, điều kiện kinh tế, trình độ chính trị, văn hoá rất khác nhau; quản lý nhà nước ở một số vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn bất cập; tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu vẫn có điều kiện phát triển. Bởi vậy, nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số vẫn là những đối tượng cần quan tâm PBGDPL trong thời gian tới. 

 1.3. Thanh thiếu niên

Thanh thiếu niên là nhóm đối tượng đặc thù trong xã hội thuộc độ tuổi từ 6 đến 34, chiếm trên 55% tổng dân số cả nước, trong đó lứa tuổi thiếu nhi (từ 6-14) chiếm trên 20%[10], lứa tuổi thanh niên chiếm 35,96% dân số và chiếm 55,5% lực lượng lao động xã hội[11]. Đây là lớp người trẻ, khoẻ, năng động, dám nghĩ, dám làm, là lực lượng chính của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong hiện tại và tương lai. Lứa tuổi thanh thiếu niên cũng là lứa tuổi bồng bột, chủ quan, nông nổi, tiếp nhận thông tin ít chọn lọc, vốn sống và vốn hiểu biết còn nhiều hạn chế, dễ bị ảnh hưởng, lôi kéo bởi những tác động xấu, những mặt trái của nền kinh tế thị trường trong xã hội hiện nay.

Những năm gần đây, tình trạng vi phạm pháp luật, mắc tệ nạn xã hội trong thanh niên diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng. Hơn 70% số tội phạm hình sự, gần 80% số người mắc tệ nạn ma tuý, mại dâm là thanh niên, trong đó số vị thành niên ngày càng nhiều[12].

Kết quả khảo sát gần 1000 thanh thiếu niên ở 7 tỉnh, thành phố (Hà Nội,  Hà Nam, Quảng Ninh, Hà Tây, Khánh Hoà, Cà Mau, Bạc Liêu) của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, cho thấy: 49,2% cho rằng thanh thiếu niên hiện nay thiếu hiểu biết về pháp luật; 71,3% cho rằng ý thức tôn trọng pháp luật của thanh thiếu niên hiện tại bình thường hoặc chưa tốt; nhưng có đến 95,4% - 98,4% thanh niên được hỏi cho rằng cần thiết phải học pháp luật, phải có hiểu biết pháp luật[13] - đây là điều đáng mừng cho thấy phần lớn thanh niên có nhận thức đúng và là tín hiệu khả quan cho công tác PBGDPL trong thanh thiếu niên.

Nhìn chung, trong thời gian qua, nội dung pháp luật trang bị cho thanh thiếu niên tập trung vào những kiến thức pháp luật phổ thông, cơ bản về Nhà nước và pháp luật Việt Nam, về quyền và nghĩa vụ của công dân, một số kiến thức pháp luật thiết yếu phục vụ cho cuộc sống, học tập, lao động phù hợp với lứa tuổi của các em và những nội dung liên quan đến đời sống cộng đồng như: bảo vệ môi trường, an toàn giao thông, phòng, chống ma tuý và tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự an toàn xã hội...

Đối với học sinh, sinh viên, việc PBGDPL được thực hiện thông qua  chương trình giảng dạy các môn học Đạo đức (Tiểu học), Giáo dục công dân (Trung học cơ sở), Giáo dục pháp luật (Trung học chuyên nghiệp ), Pháp luật đại cương (Đại học, Cao đẳng). Ngoài ra, học sinh, sinh viên còn được học tập pháp luật qua các hoạt động ngoại khoá như: hoạt động ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt đầu năm, sinh hoạt lớp và các hoạt động tập thể như tổ chức nói chuyện chuyên đề, trao đổi, tọa đàm theo chủ đề pháp luật...

Đối với thanh thiếu niên nói chung, PBGDPL được thực hiện thông qua các hoạt động văn hoá, văn nghệ, sinh hoạt Câu lạc bộ, thi tìm hiểu pháp luật với nhiều hình thức, qua các tài liệu tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật liên quan đến thanh thiếu niên; qua các phong trào giữ gìn an ninh trật tự, an toàn giao thông, vì mái trường không có ma tuý...

Tuy nhiên, trong các chương trình, kế hoạch về PBGDPL cho thanh thiếu niên còn chưa thực sự quan tâm đến đặc điểm lứa tuổi, tâm lý, thiếu phương pháp tiếp cận phù hợp với đối tượng thanh thiếu niên, do đó đã hạn chế tác dụng giáo dục. Chương trình giáo dục pháp luật trong nhà trường còn mang nặng tính lý thuyết, hàn lâm, chưa gắn với nhu cầu và cuộc sống thực tế của học sinh, chưa tạo được sự quan tâm kích thích học tập, tìm hiểu pháp luật trong học sinh, sinh viên; tài liệu tra cứu, tham khảo còn thiếu. Các hoạt động trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật cho thanh thiếu niên chưa được quan tâm, đầu tư thích đáng. Các kênh thông tin phục vụ hoạt động khai thác, tìm kiếm, tra cứu văn bản, tìm hiểu các quy định của pháp luật đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật trong thanh thiếu niên chưa được chú trọng xây dựng và mở rộng phạm vi hoạt động.

Trong giai đoạn tới, cần tiếp tục nâng cao chất lượng công tác PBGDPL cho thanh thiếu niên để góp phần “Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ, lập nghiệp...”[14] như Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã nêu.

1.4. Người lao động, người quản lý trong doanh nghiệp

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hơn 8 triệu người lao động[15] làm việc trong các cơ sở sản xuất kinh doanh, hàng nghìn người quản lý trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế[16] đang là đối tượng được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Cùng với những yêu cầu bắt buộc, chặt chẽ đối với họ về nghiệp vụ, chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý, họ buộc phải có những hiểu biết nhất định về pháp luật, nhất là những văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực mà họ đang làm, đến đối tượng mà họ đang quản lý, sử dụng.

Là một trong 5 nhóm đối tượng được xác định trong các kế hoạch, chương trình PBGDPL của Chính phủ, từ năm 1998 đến nay, công tác PBGDPL cho người lao động, người quản lý trong các doanh nghiệp đã đạt được một số kết quả nhất định. Về nội dung, ngoài những kiến thức pháp luật phổ thông cần thiết cho cuộc sống hàng ngày, những nội dung pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động quản lý, sản xuất, kinh doanh, lao động của người quản lý, người lao động được quan tâm phổ biến. Các hình thức PBGDPL chung được lựa chọn áp dụng, nhưng có thể thấy hình thức tư vấn pháp luật, biên soạn tài liệu, nói chuyện chuyên đề, cung cấp thông tin pháp luật qua sinh hoạt câu lạc bộ nghề nghiệp, các hiệp hội, diễn đàn, mạng Intennet... là những hình thức có hiệu quả và phù hợp. Đội ngũ cán bộ Công đoàn các cấp cũng đang đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần đưa pháp luật đến người lao động ở các doanh nghiệp[17].

Hoạt động PBGDPL bước đầu cũng đã được các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước quan tâm. Nhiều Tổng công ty đã tích cực tổ chức các buổi phổ biến, giới thiệu văn bản pháp luật liên quan cho hàng nghìn lượt cán bộ, người lao động của Tổng công ty và các đơn vị trực thuộc. Nhiều doanh nghiệp đã đưa nội dung pháp luật về lao động vào chương trình tuyển dụng, đào tạo lao động. Có thể thấy, khối doanh nghiệp đang có sự quan tâm ngày càng sâu sắc đến pháp luật, mong muốn được tiếp cận pháp luật để kinh doanh và phát triển  lành mạnh.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây cũng xảy ra nhiều vụ tranh chấp lao động, vi phạm luật lao động nghiêm trọng. Nhiều vụ vi phạm cho thấy sự coi thường luật pháp, cố tình xâm phạm quyền lợi người lao động của chủ doanh nghiệp. Vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện tốt những quy định của pháp luật đối với người lao động; trốn thuế, kinh doanh trái phép. Có nhiều nguyên nhân của tình hình trên, trong đó có nguyên nhân là bản thân người quản lý doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đến việc tìm hiểu pháp luật; một bộ phận không nhỏ người lao động có thái độ thờ ơ, không quan tâm đến pháp luật để trước hết thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của người lao động và tự bảo vệ mình. Tổ chức công đoàn cơ sở ở nhiều doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn yếu, vì thế đã không phát huy được vai trò của mình trong phổ biến pháp luật cho người lao động.

Thời gian tới, với chiến lược chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, số lượng doanh nghiệp sẽ nhiều lên và lực lượng lao động cũng tăng lên đáng kể, gần 20 triệu người. Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế, nhu cầu tìm hiểu pháp luật trong nước và quốc tế có liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp là rất lớn. Bởi vậy, tăng cường PBGDPL cho người lao động, người quản lý trong doanh nghiệp vừa là mục đích vừa là biện pháp làm lành mạnh hoá môi trường kinh doanh đòi hỏi phải được tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới.

Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 122/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và doanh nghiệp nhà nước. Theo Nghị định này, ở các doanh nghiệp nhà nước, căn cứ vào nhu cầu công tác pháp chế, Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc doanh nghiệp nhà nước thành lập tổ chức pháp chế phù hợp, bố trí cán bộ pháp chế chuyên trách hoặc thuê cố vấn pháp lý. Một trong những nhiệm vụ của Tổ chức pháp chế trong các doanh nghiệp nhà nước là tuyên truyền, PBGDPL, nội quy, quy chế của doanh nghiệp cho cán bộ, người lao động; phối hợp với phòng, ban và tổ chức đoàn thể kiểm tra việc thực hiện pháp luật, nội quy, quy chế và kiến nghị những biện pháp xử lý vi phạm. Với những quy định này, tin rằng công tác PBGDPL trong các doanh nghiệp nhà nước sẽ có những chuyển biến tích cực trong thời gian tới.

1.5. Lực lượng vũ trang nhân dân

Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp vĩ đại của dân tộc ta, là nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân, trong đó các lực lượng vũ trang đóng vai trò nòng cốt. Hiện nay, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc, lực lượng vũ trang  vẫn giữ vai trò quan trọng.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân từng bước chính quy, hiện đại, công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang luôn được xác định là một nội dung giáo dục cơ bản của công tác giáo dục chính trị hàng năm tại các cơ quan, đơn vị cũng như nội dung học tập chính khoá trong các học viện, nhà trường quân đội và công an. Tuy nhiên cũng phải từ năm 1998 trở lại đây, sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 02, Quyết định số 03 về tăng cường công tác PBGDPL trong giai đoạn hiện nay thì công tác PBGDPL trong lực lượng vũ trang mới thực sự có những chuyển biến tích cực. Việc PBGDPL cho cán bộ, chiến sĩ đã được xây dựng thành các chương trình, kế hoạch cụ thể, được triển khai theo từng giai đoạn và hàng năm. Nội dung giáo dục pháp luật từng bước đổi mới, sát với đối tượng hơn, không chỉ tập trung vào những nội dung pháp luật về an ninh, quốc phòng mà mở rộng thêm cả những kiến thức cơ bản về lý luận nhà nước và pháp luật, những quy định của Hiến pháp, luật về tổ chức nhà nước, hành chính, hình sự, dân sự, kinh tế... nhằm giúp cán bộ, chiến sỹ vận dụng trong công tác, sinh hoạt hàng ngày. Hình thức PBGDPL ở các đơn vị rất đa dạng, phong phú. Ngoài việc tổ chức học tập pháp luật nghiêm túc theo chương trình, các đơn vị đã có nhiều cách thức làm “mềm hoá” nội dung pháp luật để chuyển tải đến cán bộ, chiến sĩ một cách sinh động, không nhàm chán. Việc học tập pháp luật đã gắn kết với các phong trào thi đua, các cuộc vận động chấp hành pháp luật, rèn luyện kỷ luật trong mỗi cơ quan, đơn vị. Nhìn chung, công tác PBGDPL cho cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang đã được triển khai nghiêm túc[18]. Qua học tập, giáo dục hàng năm, nhận thức, ý thức pháp luật nói chung của cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang ngày càng được nâng cao, góp phần quan trọng vào việc chấp hành nghiêm pháp luật, kỷ luật, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị.

Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang còn tham gia tích cực trong việc đưa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến nhân dân địa phương; phổ biến, giáo dục các văn bản pháp luật về an ninh, quốc phòng đến nhân dân; phát động nhân dân tham gia các phòng trào đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự ở địa bàn.

Tuy vậy, hiện nay, ở nhiều cơ quan, đơn vị, người lãnh đạo, chỉ huy vẫn chưa thật sự quan tâm đến công tác PBGDPL; chưa có các biện pháp hữu hiệu phát huy vai trò của các cơ quan chức năng tham gia phối hợp PBGDPL; hiệu quả đem lại sau khi PBGDPL còn hạn chế; trình độ hiểu biết, ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang tuy có được nâng lên một bước nhưng mới ở mức độ rất khiêm tốn, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển ngày càng nhanh của xã hội cũng như yêu cầu nhiệm vụ của lực lượng vũ trang trong giai đoạn mới.

Công tác PBGDPL cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đang đứng trước yêu cầu đổi mới, hoàn thiện và phát triển để nâng cao hơn nữa nhận thức, ý thức tuân thủ pháp luật, kỷ luật của cán bộ, chiến sĩ, phục vụ việc thực hiện nhiệm vụ, công tác chuyên môn được giao; đồng thời giúp cán bộ, chiến sĩ tham gia có hiệu quả vào công tác dân vận, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong nhân dân.

2. Một số nhận xét chung về thực trạng công tác PBGDPL từ năm 1998 đến nay

2.1. Kết quả đạt được

Các chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác PBGDPL từng bước được thể chế hoá, tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai các hoạt động PBGDPL. Chỉ thị số 315 - CT ngày 7/12/1982 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật là văn bản pháp lý đầu tiên được ban hành, có ý nghĩa khởi đầu quan trọng trong việc thể chế hoá công tác này. Từ năm 1998 đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 02 ngày 7/1/1998 về tăng cường công tác PBGDPL trong giai đoạn hiện nay và các kế hoạch, chương trình triển khai công tác PBGDPL trong từng giai đoạn theo nhiệm kỳ của Chính phủ[19]. Đây là những văn bản pháp lý vừa có tính định hướng, vừa mang tính chỉ đạo cụ thể để các cấp, các ngành triển khai, thực hiện công tác PBGDPL trên phạm vi toàn quốc một cách có nề nếp, thường xuyên, liên tục và thống nhất.

Nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức trong công tác PBGDPL đã có chuyển biến tích cực. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ có 8 tỉnh, thành phố có Chỉ thị của Tỉnh uỷ về tăng cường công tác PBGDPL, gần 30 tỉnh, thành có Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân tỉnh về công tác PBGDPL. Tất cả các địa phương và nhiều bộ, ngành có Kế hoạch triển khai công tác PBGDPL theo giai đoạn và trong từng năm. Hoạt động chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra thực hiện công tác PBGDPL bước đầu được chú trọng.

Đặc biệt từ năm 1998, công tác PBGDPL được triển khai đều khắp trong cơ chế phối hợp thông qua hoạt động của Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL các cấp từ trung ương đến cơ sở. Hoạt động theo mô hình và cơ chế này, lần đầu tiên, công tác PBGDPL đã huy động được sự tham gia đông đảo của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, thu hút được nhiều nguồn lực trong xã hội tham gia. Có thể thấy, hình thức Hội đồng và cơ chế phối hợp thông qua Hội đồng thực sự là cần thiết và phù hợp với đặc thù của công tác PBGDPL ở nước ta.

Đội ngũ cán bộ thực hiện công tác PBGDPL đang từng bước được xây dựng, củng cố. Tại Bộ Tư pháp, Vụ PBGDPL có gần 20 cán bộ, chuyên viên chuyên trách. Tính đến cuối năm 2001, có 8/61 Sở Tư pháp thành lập Phòng PBGDPL riêng; 41/61 Sở Tư pháp thành lập Phòng Văn bản - PBGDPL; số Sở Tư pháp còn lại có bộ phận PBGDPL thuộc Phòng nghiệp vụ. Tại 36/39 Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có tổ chức pháp chế với trên 400 cán bộ pháp chế.

Công tác PBGDPL, tuy còn thiếu, đã thu hút được một lực lượng đông đảo cộng tác viên tham gia vào hoạt động PBGDPL, đó là các báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật; giáo viên dạy pháp luật trong các nhà trường; các phóng viên, biên tập viên chuyên mục, chương trình pháp luật của các báo, đài; luật sư, cán bộ tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý; hoà giải viên ở cơ sở; cán bộ đoàn thể, trưởng thôn, bản, già làng, tổ trưởng dân phố, cụm dân cư, các chức sắc tôn giáo, những người có uy tín trong cộng đồng…[20] Việc huy động được đông đảo lực lượng tham gia là một vốn quý cho công tác PBGDPL, nhất là trong điều kiện đẩy mạnh xã hội hoá công tác này.

            Các hoạt động PBGDPL dần dần đi vào nề nếp theo kế hoạch, chương trình cụ thể, được thực hiện thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm hơn trước. Nội dung PBGDPL đã chú trọng gắn với từng đối tượng và phù hợp với nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội ở địa phương, yêu cầu nhiệm vụ của bộ, ngành. Nhiều nội dung pháp luật đã đi vào cuộc sống, đến được với các tầng lớp nhân dân lao động. Các hình thức PBGDPL được sử dụng khá đa dạng[21]; đã có sự kết hợp giữa PBGDPL với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và các hoạt động tuyên truyền, vận động khác.

Mặc dù chưa có sự khảo sát, đánh giá đầy đủ toàn diện trong phạm vi cả nước và ở từng địa bàn, hơn nữa hiệu quả công tác PBGDPL còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật, công tác tổ chức thực hiện pháp luật... nhưng nếu so sánh với thời kỳ từ trước năm 1998 thì điều có thể khẳng định là trong giai đoạn hiện nay, công tác PBGDPL đã góp phần tạo sự chuyển biến trong nhận thức cũng như trong hành động chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, bước đầu có tác dụng làm cho công dân ý thức được trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của mình, hướng dẫn người dân tích cực tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

2.2. Tồn tại, hạn chế

- Tác động của PBGDPL đối với việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân, đến trật tự kỷ cương pháp luật, đến tình trạng vi phạm pháp luật còn chưa đạt được như mong muốn. Một số lĩnh vực, đối tượng PBGDPL trọng tâm, trọng điểm tuy đã được xác định nhưng lại thiếu cơ chế, phương thức triển khai hữu hiệu nên chưa tạo được bước đột phá, chưa có được kết quả cụ thể. Nhiều người dân, nhất là nhân dân ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số vẫn thiếu hiểu biết pháp luật, khó có điều kiện tiếp nhận thông tin pháp luật.

- Công tác PBGDPL triển khai trong thời gian qua chưa đều khắp, vẫn còn tình trạng theo "thời vụ, phong trào", chạy theo văn bản mới ban hành. Do đó, nhìn chung hoạt động PBGDPL còn dàn trải, mới chỉ dừng ở bề nổi mà chưa có chiều sâu, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu nâng cao ý thức pháp luật cũng như những nhu cầu thông tin, tìm hiểu pháp luật từ phía người dân.

- Nội dung PBGDPL chưa thật sát hợp với từng đối tượng; vẫn chỉ "nặng" về phổ biến, giới thiệu các văn bản pháp luật chung chung mà chưa đi vào phổ biến những quy định pháp luật cụ thể vì vậy tính thiết thực, hướng dẫn chưa cao. Việc khai thác, tìm tòi, đổi mới một cách có hiệu quả các hình thức PBGDPL khác nhau phù hợp với đặc thù địa bàn, đối tượng còn hạn chế. Chưa có nhiều hình thức để gắn kết chặt chẽ và thường xuyên công tác PBGDPL với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống đạo đức, văn hoá và lối sống cho các đảng viên, các cán bộ và nhân dân, nhất là PBGDPL còn tách rời với tổ chức thực hiện pháp luật.

2.3. Nguyên nhân

Nguyên nhân khách quan:

- Những hạn chế của hệ thống pháp luật hiện nay (như mâu thuẫn, chồng chéo, tính khả thi chưa cao...) đã tác động làm giảm tác dụng, hiệu quả của công tác PBGDPL, làm cho hoạt động này dễ đi vào hô hào chung chung, ít có tính hướng dẫn thực hiện.

- Công tác tổ chức thực hiện pháp luật chưa được tốt. Ở một số không ít cán bộ và nhân dân, nhận thức pháp luật chưa đi đôi với hành động. Trong khi còn tình trạng cán bộ, công chức vi phạm pháp luật thì niềm tin của nhân dân đối với những gì được tuyên truyền, phổ biến về bản chất, vai trò và các giá trị pháp luật XHCN rất khó được củng cố.

Mặt khác cơ chế thực thi pháp luật còn chưa hợp lý. Tình trạng cấp trên ra chỉ thị, cấp dưới mới triển khai thực hiện quy định pháp luật còn phổ biến đã dẫn đến sự chậm trễ, trì trệ trong việc tổ chức thi hành pháp luật. Thực tiễn hoạt động, tổ chức và bộ máy các cơ quan thi hành pháp luật bộc lộ nhiều bất cập và gây trở ngại cho quá trình xây dựng niềm tin pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật không chỉ  của người có vụ việc mà còn của đông đảo nhân dân trong điều kiện thông tin rộng rãi, nhanh nhạy hiện nay.

- Xây dựng tình cảm, thái độ đối với pháp luật, đặc biệt là lòng tin đối với pháp luật là một quá trình lâu dài, là kết quả tác động của nhiều yếu tố. Trong điều kiện hàng ngàn đời con người Việt Nam bị đè nặng bởi pháp luật phong kiến, hơn một trăm năm bởi pháp luật thực dân, đế quốc thì việc xây đắp lòng tin đối với pháp luật hiện hành (bao gồm cả hệ thống các quy tắc và sự thực thi trong thực tiễn các quy tắc đó) là một việc không thể thực hiện mau chóng, dễ dàng. Hơn nữa, trong điều kiện chuyển đổi cơ chế, sự bộc lộ mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường, hiện tượng vi phạm pháp luật và thiếu nghiêm minh trong xử lý đã làm hạn chế tác dụng PBGDPL. Vì vậy nhìn chung công tác này chưa có môi trường xã hội thuận lợi để thực hiện.

- Một bộ phận cán bộ, nhân dân chưa có ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật.

Nguyên nhân nội tại của công tác PBGDPL:

- Do cơ chế ràng buộc trách nhiệm, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện công tác PBGDPL chưa cụ thể nên mức độ quan tâm cũng như việc triển khai các hoạt động PBGDPL tại từng cơ quan, đơn vị, địa phương còn khác nhau.

- Thủ tướng Chính phủ đã đề ra chủ trương xã hội hoá hoạt động PBGDPL. Đây là một phương hướng quan trọng để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác PBGDPL. Tuy nhiên, việc thu hút được nhiều chủ thể tham gia vào công tác này còn hạn chế.

- Sự chỉ đạo thực hiện công tác PBGDPL của các cơ quan chức năng còn lúng túng, chưa thực sự chủ động mà còn trông chờ sự chỉ đạo của cấp trên, chưa nhạy bén, chưa thực sự theo sát được yêu cầu và đòi hỏi bức xúc của sự phát triển kinh tế xã hội đất nước trong từng thời điểm để có cơ chế và nội dung PBGDPL cho thích hợp. Các khó khăn vướng mắc làm giảm hiệu quả của công tác PBGDPL chưa được nghiên cứu tháo gỡ từ tầm vĩ mô.

- Công tác PBGDPL thời gian qua mới chỉ tập trung theo từng nhóm đối tượng. Mặc dù nội dung PBGDPL đã có sự lựa chọn cho phù hợp với đối tượng, địa bàn nhưng chưa đủ lực lượng, chưa có cơ chế tập trung tuyên truyền sâu rộng, bền bỉ ở các nội dung, lĩnh vực có nhiều vi phạm, khúc mắc, do đó hiệu quả thực tế của công tác PBGDPL chưa cao.

- Cán bộ chuyên trách PBGDPL rất ít. Cán bộ Tư pháp  thực hiện công tác PBGDPL ở địa phương (cấp huyện, xã) chủ yếu là kiêm nhiệm và không ổn định, đó là chưa kể trình độ của cán bộ còn nhiều hạn chế. Các tổ chức pháp chế hầu như chưa có cán bộ chuyên trách thực hiện công tác PBGDPL. Điều quan trọng hơn là nhiệm vụ, trách nhiệm của cán bộ phụ trách công tác PBGDPL chưa được quy định cụ thể, rõ ràng. Vì vậy, điều rất không bình thường đối với công chức, cán bộ trong lĩnh vực này là không hình dung được hết công việc mình phải làm, trách nhiệm mình phải gánh vác. Tình hình chung là chờ lãnh đạo chỉ đạo, chỉ việc mới làm. Một số tận tình hơn, thì năng động, nghĩ ra việc, báo cáo lãnh đạo phê duyệt mới thực hiện.

Lực lượng cộng tác viên tuy đã được quan tâm xây dựng nhưng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu. Việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ, cung cấp tài liệu cho lực lượng này chưa được thường xuyên.

- Việc đầu tư cho công tác PBGDPL thời gian qua chưa thực sự đáp ứng yêu cầu. Hiện kinh phí thực hiện công tác PBGDPL đã được đưa vào Mục lục ngân sách Nhà nước[22] và do các cấp ngân sách chủ động thực hiện. Song trên thực tế việc thực hiện ở các bộ, ngành, địa phương rất khác nhau xuất phát từ điều kiện ngân sách ở từng đơn vị, địa phương và từ sự quan tâm của từng nơi đối với công tác PBGDPL. Mặt khác do cơ chế phân bổ, đầu tư kinh phí như vậy nên có lúc có nơi nguồn kinh phí thực hiện PBGDPL còn bị dàn trải và hiệu quả sử dụng không cao. Kế hoạch PBGDPL chưa được bảo đảm thực hiện bằng một kế hoạch tài chính. Các nguồn lực ngoài ngân sách chưa được tích cực huy động để hỗ trợ cho hoạt động PBGDPL. Trong điều kiện hiện nay, yêu cầu đặt ra là đồng thời với việc thực hiện các phương thức truyền thống cần phải đổi mới và ứng dụng các công nghệ hiện đại trong việc thực hiện PBGDPL, nhất là ứng dụng công nghệ thông tin. Tuy nhiên cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho công tác này chưa được đáp ứng đầy đủ.

II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Hiện nay, còn có nhiều khái niệm, cách hiểu về thuật ngữ "phổ biến, giáo dục pháp luật" . Có quan điểm cho rằng, PBGDPL là một khâu của hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định nhằm mục đích hình thành ở đối tượng được tác động tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành[23]. Một loại quan điểm khác cho rằng, PBGDPL có hai nghĩa: nghĩa hẹp: là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình cảm niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng; nghĩa rộng: là công tác, lĩnh vực PBGDPL bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho công tác PBGDPL[24].

Mặc dù chưa có khái niệm chính thức, thống nhất về PBGDPL và dù việc thực hiện hoạt động này trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước có khác nhau (sẽ được trình bày kỹ hơn ở phần sau), nhưng công tác PBGDPL ở nước ta vẫn mang những đặc điểm cơ bản sau:

1. Công tác PBGDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng

Trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, bản chất của hoạt động xây dựng pháp luật là thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân. Nghị quyết của Đảng đã chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo định ra đường lối, chính sách, những chủ trương cụ thể quan trọng, có quan hệ nhiều mặt, có ảnh hưởng chính trị rộng. Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng và tổ chức, quản lý, điều hành việc thực hiện[25]. Chính sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước đã xác lập sự gắn bó hữu cơ giữa đường lối, chính sách của Đảng với pháp luật. Vì vậy, thực hiện pháp luật cũng là góp phần thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. PBGDPL tạo ra khả năng cho việc giáo dục chính trị, hình thành ở đối tượng giáo dục những hiểu biết nhất định về chính trị. Ngược lại, trong quá trình giáo dục chính trị, tư tưởng có sự đan xen những nội dung, quan điểm pháp lý nhất định.

Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã xác định: PBGDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

2. Công tác PBGDPL có mối quan hệ chặt chẽ với công tác xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật

Công tác PBGDPL có quan hệ chặt chẽ với công tác xây dựng pháp luật, chúng không thể tồn tại biệt lập với nhau. Trong mối quan hệ này, công tác xây dựng pháp luật là cơ sở cho việc hình thành, đẩy mạnh công tác PBGDPL; công tác PBGDPL là cầu nối, là một phương tiện quan trọng để đưa pháp luật vào cuộc sống. Hoạt động PBGDPL còn là một "kênh" để các cơ quan xây dựng pháp luật nắm bắt  được yêu cầu, nhu cầu, đề xuất từ phía người dân và các tổ chức trong việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật; đánh giá được tính khả thi, hiệu quả của quy định, văn bản pháp luật trong đời sống thực tế từ đó góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật. Mặt khác, một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh sẽ tạo nhiều thuận lợi cho việc thực hiện PBGDPL; ngược lại hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, thiếu cụ thể, chồng chéo, tính khả thi chưa cao... sẽ tác động trực tiếp làm giảm tác dụng, hiệu quả của công tác PBGDPL, làm cho hoạt động này dễ đi vào chung chung, ít có tính hướng dẫn thực hiện.

Trong bài phát biểu tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội Khoá VIII, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã nhấn mạnh: "Việc soạn thảo và thông qua luật pháp cũng như các quyết định lớn dù quan trọng nhưng cũng chỉ là phần đầu của công việc, khó khăn lớn nhất là đưa chúng vào cuộc sống, biến chúng thành hoạt động thực tiễn hàng ngày của quảng đại quần chúng"[26]. Là khâu đầu tiên của quy trình tổ chức thực hiện pháp luật, công tác PBGDPL có tác động tích cực tới việc tổ chức thực hiện pháp luật, bởi nếu công dân không có ý thức pháp luật và am hiểu pháp luật thì không thể tự giác tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh, cũng không thể áp dụng đúng pháp luật trong quản lý xã hội. Đồng thời, công tác PBGDPL cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoạt động thực thi pháp luật. Việc tổ chức thực hiện pháp luật tốt hay chưa tốt sẽ tạo ra môi trường pháp chế thuận lợi hay không thuận lợi cho việc thực hiện công tác PBGDPL, cho quá trình xây dựng niềm tin pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật trong cán bộ, nhân dân.

3. Công tác PBGDPL được tổ chức, thực hiện bởi những chủ thể nhất định

Trong xu thế xã hội hoá mạnh mẽ công tác PBGDPL, sự tham gia của các đoàn thể, cộng đồng, gia đình và mỗi cá nhân vào hoạt động PBGDPL ngày càng được mở rộng. Đối với các tổ chức nghề nghiệp (Văn phòng luật sư, Văn phòng địa chính, Trung tâm giới thiệu việc làm…), phổ biến pháp luật còn là đòi hỏi tất yếu của việc mở rộng phạm vi, đối tượng dịch vụ. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, khi công tác PBGDPL là một trong những nhiệm vụ mà Nhà nước còn đảm nhận thì chủ thể trực tiếp tiến hành công tác này vẫn là một khái niệm cần làm rõ khi nghiên cứu cơ chế thực hiện công tác PBGDPL.

Chủ thể PBGDPL được hiểu là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân tham gia tổ chức, thực hiện công tác PBGDPL tuỳ thuộc vào nội dung, hình thức, phương pháp, đối tượng PBGDPL.

Công tác PBGDPL có nội dung rộng, hình thức đa dạng, phong phú, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đối tượng, do đó, trong các văn bản của Đảng và Nhà nước đều xác định thực hiện PBGDPL là trách nhiệm của các ngành, các cấp, của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mỗi công dân. Hiện nay, các chủ thể tham gia PBGDPL khá đa dạng, tuy nhiên, chủ thể có trách nhiệm trực tiếp tổ chức, thực hiện công tác PBGDPL là những chủ thể có thẩm quyền, có chức năng trong hoạt động này.

Theo quy định tại Điều 112 của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn "tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân". Các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức, thực hiện công tác PBGDPL trong phạm vi Bộ, ngành, địa phương. Trong các cơ quan này, chủ thể được đặc biệt nhấn mạnh là Bộ Tư pháp - cơ quan có chức năng giúp Chính phủ quản lý nhà nước thống nhất về công tác PBGDPL.

Trực tiếp tổ chức, thực hiện công tác PBGDPL là những cán bộ thuộc cơ quan Tư pháp các cấp; cán bộ của tổ chức pháp chế các Bộ, ngành.

4. Công tác PBGDPL nhằm truyền đạt thông tin, nội dung pháp luật, giúp cho đối tượng tác động có những hiểu biết nhất định về pháp luật, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của đối tượng

Đối tượng của PBGDPL là những cá nhân công dân hoặc những nhóm cộng đồng xã hội cụ thể tiếp nhận tác động của các hoạt động PBGDPL. Họ là những người có nhu cầu và cả những người cho rằng mình không có nhu cầu tìm hiểu pháp luật.

Một trong những đặc điểm không thể thiếu của công tác PBGDPL là truyền tải những thông tin, những yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật đến đối tượng PBGDPL thông qua các hình thức, phương tiện, biện pháp thích hợp, giúp cho đối tượng hiểu biết, nắm bắt thông tin, nội dung pháp luật mà không mất quá nhiều thời gian, công sức cho việc tự tìm hiểu, tự học tập.

Nội dung pháp luật được truyền đạt tới đối tượng thường là các văn bản pháp luật, các nội dung hướng dẫn công dân thực hiện pháp luật, các thông tin về xây dựng và thi hành pháp luật...

Xuất phát từ bản chất, mục đích của công tác PBGDPL, việc truyền đạt thông tin, nội dung pháp luật tới đối tượng luôn phải đảm bảo yêu cầu:

- Truyền đạt những thông tin, nội dung pháp luật cơ bản mà mỗi công dân cần phải biết như: những kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật, quyền nghĩa vụ của công dân, các quy định pháp luật thiết yếu, gắn liền với cuộc sống, sinh hoạt của công dân. Nhóm nội dung này thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc định hướng nội dung, yêu cầu công dân phải nắm được những quy định pháp luật mà Nhà nước cho là cần thiết.

- Truyền đạt những thông tin, nội dung pháp luật phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng. Để thực hiện được yêu cầu này, cơ quan tiến hành PBGDPL phải tìm hiểu, nắm bắt được nhu cầu của từng đối tượng để từ đó lựa chọn nội dung PBGDPL phù hợp.  Tuy nhiên, nội dung truyền đạt này có 2 cấp độ: thứ nhất, đó là những thông tin, nội dung pháp luật gắn liền với mỗi đối tượng tuỳ theo tính chất, đặc điểm, yêu cầu của đối tượng đó, thường được xác định căn cứ theo độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, địa bàn cư trú... Ở cấp độ này, phần nào cũng thể hiện tính định hướng của Nhà nước trong việc xác định nội dung pháp luật cần truyền đạt, nhưng trên cơ sở nhu cầu, yêu cầu của đối tượng. Thứ hai, là những thông tin, nội dung pháp luật do đối tượng tự tìm hiểu theo nhu cầu của họ thông qua các kênh, các phương tiện do nhà nước thiết lập (phương tiện thông tin đại chúng, sách, báo, tài liệu pháp luật...).

Việc kết hợp các yêu cầu trên sẽ giúp cho công tác PBGDPL đi vào chiều sâu, thực sự thiết thực và có hiệu quả. Mặt khác, công tác PBGDPL không chỉ thuần tuý là truyền tải, cung cấp thông tin pháp luật mà quan trọng hơn là nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật, từ đó hình thành ý thức tôn trọng, tự giác chấp hành pháp luật của đối tượng tác động. Đây là mục đích cuối cùng của công tác PBGDPL.

III. CƠ CHẾ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

1. Cơ chế

Thuật ngữ "cơ chế" được sử dụng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy vậy, hiện nay, chưa có một khái niệm thống nhất.

Theo Đại từ điển kinh tế thị trường[27], từ “cơ chế” gốc từ tiếng Hy Lạp, nghĩa là cấu tạo và nguyên lý hoạt động của máy móc. Giới sinh vật học và giới y học thông qua phương pháp ngoại suy đã dùng khái niệm cơ chế để biểu thị phương thức liên hệ tác dụng và điều tiết qua lại giữa các cơ quan trong cơ thể có sự thay đổi sinh lý hoặc bệnh lý. Về sau từ cơ chế được sử dụng trong việc nghiên cứu kinh tế học và được mở rộng ra trong nhiều lĩnh vực khác.

Với ý nghĩa thông thường thì cơ chế là cách thức theo đó một quá trình được thực hiện. Cơ chế cũng có thể được hiểu là khái niệm chỉ sự diễn biến nội tại của một hệ thống, trong đó có sự tương tác giữa các yếu tố kết thành hệ thống trong quá trình vận động của mỗi yếu tố đó, nhờ đó hệ thống có thể vận hành, phát triển theo mục đích đã định.

Như vậy, với nội hàm trên, có thể thấy cơ chế là một phạm trù động chỉ một quy trình thực tế diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định. Trong sự vận hành chỉnh thể của cơ chế luôn bao gồm vận hành cục bộ của các yếu tố cấu thành của nó. Các yếu tố cấu thành đều tạo thành hệ thống, mỗi yếu tố đó có thể có cơ chế vận hành riêng biệt nhưng chúng đều tuân theo một phương thức nhất định trong tổng thể chung. Sự phát huy tác dụng của cơ chế dựa vào tác dụng lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành của mối liên hệ qua lại giữa chúng; đồng thời trong quá trình vận hành, cơ chế còn chịu tác động, ảnh hưởng của các yếu tố khách quan bên ngoài.  Mỗi một cơ chế đều mang tính mục đích, tính đặc thù của lĩnh vực, hoạt động mà ở đó cơ chế được vận hành. Một lĩnh vực, một hoạt động có cơ chế vận hành khoa học, phù hợp, đáp ứng yêu cầu sẽ đạt hiệu quả trên thực tế; ngược lại, cơ chế không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lĩnh vực, hoạt động đó.

Áp dụng vào lĩnh vực quản lý, cơ chế quản lý là sự tương tác giữa các phương thức, biện pháp quản lý khi chúng đồng thời tác động lên đối tượng quản lý. Cũng có thể hiểu cơ chế quản lý như là sự diễn biến của quá trình quản lý, trong đó có sự tác động của từng biện pháp quản lý lên đối tượng. Với quan niệm này, cơ chế quản lý bao gồm các công cụ, các phương pháp, các biện pháp quản lý, được sử dụng để tác động đồng thời lên đối tượng quản lý. Điểm cốt lõi của bất kỳ cơ chế quản lý nào chính là cách thức, biện pháp, hình thức tổ chức và điều khiển một loại hoạt động hoặc làm cơ sở cho việc tổ chức một hoạt động, một quy trình nào đó theo những mục đích quản lý.

Trong các hoạt động quản lý nhà nước thì quản lý kinh tế, xét đến cùng, là chức năng quan trọng hàng đầu của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đối với Việt Nam, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ thì chức năng tổ chức, quản lý kinh tế của Nhà nước càng đặc biệt quan trọng và cũng hết sức khó khăn, phức tạp. Tất nhiên để thực hiện được các chiến lược, kế hoạch, chính sách kinh tế, Nhà nước phải có cơ chế quản lý kinh tế phù hợp.

Cơ chế quản lý kinh tế được hiểu là phương thức vận động của nền sản xuất xã hội được tổ chức và quản lý theo những quan hệ vốn có và được nhà nước quy định; nó phải phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế, với đặc điểm của chế độ xã hội theo từng giai đoạn phát triển của xã hội. Cơ chế quản lý kinh tế bao gồm những chính sách và phương pháp quản lý, những hình thức cụ thể của quan hệ sản xuất (hệ thống kế hoạch, hệ thống đòn bẩy kinh tế) và những hình thức cụ thể về tổ chức (hệ thống tổ chức sản xuất, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý) để tổ chức và quản lý nền kinh tế quốc dân theo những mục tiêu chiến lược.

Như trên đã đề cập, cơ chế luôn tác động trực tiếp đến kết quả của lĩnh vực, của hoạt động mà ở đó cơ chế được vận hành. Tuy nhiên, những cơ chế quản lý quan trọng, có tính chất vĩ mô như các cơ chế quản lý xã hội, nhất là cơ chế quản lý kinh tế thì còn tác động, chi phối đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều này có thể thấy rõ trong giai đoạn nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Mặc dù trước đó, trong thời kỳ chiến tranh, cơ chế quản lý tập trung và chính sách bao cấp ở mức độ nhất định là cần thiết, nhưng khi chiến tranh kết thúc, trong điều kiện hoà bình xây dựng đất nước, cơ chế quản lý này không còn thích hợp, không tạo được động lực phát triển, đưa đến những hạn chế có tính kìm hãm sự phát triển của xã hội. Cơ chế đó cũng dẫn đến quan niệm chưa đúng về chức năng, sứ mệnh, vai trò của Nhà nước, của pháp luật trong tổ chức quản lý xã hội, từ đó ảnh hưởng đến công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật. "Xét về mặt hệ quả, chắc chắn cơ chế đó đã góp phần đáng kể đưa đất nước vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài trong suốt những năm 80 của thế kỷ trước"[28].

2. Cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL

2.1. Phạm vi tiếp cận

PBGDPL là một công tác rộng lớn, đa dạng, phức tạp, có những đặc điểm riêng; đòi hỏi vừa tuân theo nguyên tắc của khoa học tổ chức quản lý, vừa phải đảm bảo các yêu cầu của hoạt động tác nghiệp trực tiếp. Như các hoạt động khác, công tác PBGDPL cũng có cơ chế vận hành của nó, nhưng không như nhiều cơ chế trong một số lĩnh vực đã được định hình trên thực tế hoặc được nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn như: cơ chế quản lý kinh tế, cơ chế thị trường, cơ chế tài chính, cơ chế một cửa, một dấu..., cơ chế PBGDPL vẫn còn là vấn đề mới, chưa được đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu.

Về lý luận, mặc dù đã có những đề tài khoa học nghiên cứu công tác PBGDPL từ nhiều góc độ, phương diện, phạm vi khác nhau, nhưng cho đến nay, hầu như chưa có đề tài hoặc tài liệu nào nghiên cứu về các cơ chế PBGDPL. Còn trên thực tế, có thể khẳng định là các cơ chế PBGDPL đã và đang vận hành, nhưng trong những văn bản hiện đang là cơ sở pháp lý cho công tác này gần như chưa đề cập chính thức đến cơ chế PBGDPL. Vậy cơ chế PBGDPL là gì? có ở những khâu nào của hoạt động PBGDPL và chịu sự tác động của những yếu tố, điều kiện nào? cần đổi mới, hoàn thiện cơ chế PBGDPL như thế nào?... Đây là những vấn đề cần được nghiên cứu, tìm hiểu sâu, có hệ thống và toàn diện ở một đề tài khác.

Tuy chưa có những nghiên cứu về các cơ chế PBGDPL, nhưng có thể thấy cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL đóng vai trò quan trọng, bởi chất lượng, hiệu quả của công tác PBGDPL phụ thuộc rất nhiều vào việc công tác này được tổ chức thực hiện như thế nào. Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài không có điều kiện nghiên cứu sâu cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL về mặt lý luận mà chỉ đi vào phân tích, đánh giá cơ chế này trên phương diện thực tiễn và tổng thể chung nhằm góp phần làm rõ hơn cơ chế tổ chức, thực hiện công tác này trong thời gian qua và tác động của cơ chế đối với hiệu quả công tác PBGDPL; từ đó đề xuất xây dựng cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL khoa học, phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể hiện nay và trong tương lai.

Có thể có nhiều cách hiểu về cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL. Trong phạm vi nghiên cứu của Đề tài, chúng tôi tiếp cận cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL theo nghĩa đó là một cơ chế chứa đựng trong đó 2 yếu tố nằm trong một thể thống nhất: thứ nhất, "Tổ chức" - nhân tố cốt lõi của cơ chế - để chỉ bộ máy thực hiện công tác PBGDPL, sự phân công, phân cấp trong bộ máy này, hay nói cách khác để chỉ các chủ thể thực hiện công tác PBGDPL; thứ hai, "Thực hiện" là các khâu tiến hành, các cách thức, biện pháp mà chủ thể sử dụng để triển khai công tác PBGDPL. Cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL chứa đựng trong nó các cơ chế cấu thành như cơ chế quản lý, cơ chế chỉ đạo, cơ chế phối hợp... Có thể nói một cách ngắn gọn, cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL là quy trình do các chủ thể thực hiện công tác PBGDPL tiến hành nhằm đảm bảo cho công tác PBGDPL đáp ứng các yêu cầu nhất định, đúng hướng và đạt kết quả cao nhất.

Để vận hành, đương nhiên, cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL phải dựa trên cơ sở các quy định pháp luật có liên quan và chịu tác động bởi những điều kiện nhất định (môi trường xã hội, môi trường pháp chế, nguồn lực đầu tư...).

Với cách tiếp cận trên, chúng tôi xem xét đánh giá cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL trong mối quan hệ tác động của các điều kiện khách quan, mà trực tiếp là tác động của cơ chế quản lý kinh tế và trên 3 phương diện: (1) các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở để tổ chức thực hiện công tác PBGDPL; (2) hệ thống các cơ quan có chức năng thực hiện PBGDPL và các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tham gia PBGDPL; (3) quy trình thực hiện công tác PBGDPL. 

2.2. Vài nét về cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL qua các thời kỳ

Chúng ta đang ở trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, theo đó công tác PBGDPL cũng đang có những bước chuyển đổi để đáp ứng đòi hỏi khách quan. Ở bất kỳ thời điểm nào, công tác này vẫn mang những đặc điểm cơ bản, vẫn là hoạt động đặc thù thể hiện bản chất của Nhà nước ta, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tuy vậy, cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL thì không phải lúc nào cũng giống nhau. Hiện chưa có sự nghiên cứu, phân tích đầy đủ những yếu tố tác động, chi phối công tác PBGDPL, song có thể thấy ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, công tác này được tổ chức, thực hiện theo những cách thức khác nhau, mang dấu ấn và đặc điểm của thời kỳ đó.

Từ năm 1945 - sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà non trẻ ra đời - cho đến năm 1975, do chiến tranh kéo dài và yêu cầu của thời chiến đòi hỏi việc ban hành các văn bản phải kịp thời, linh hoạt nên thời kỳ này, đất nước được quản lý chủ yếu bằng các sắc lệnh và chỉ thị. Ngoài 2 bản Hiến pháp đánh dấu 2 giai đoạn của cách mạng Việt Nam: Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp của thời kỳ kháng chiến, đặt nền móng cho việc xây dựng Nhà nước kiểu mới và Hiến pháp năm 1959 - Hiến pháp của giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc, các đạo luật được ban hành rất ít. Mặt khác, pháp luật thời chiến luôn là những mệnh lệnh, chủ yếu mang tính cưỡng chế, một chiều từ trên xuống; bên cạnh đó, ý thức trách nhiệm của cá nhân trước vận mệnh của Tổ quốc và tinh thần đoàn kết khi đất nước lâm nguy vốn là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, đã trở thành cách ứng xử phổ biến của người dân, do đó, các chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước trong giai đoạn này được các thành viên, các cộng đồng trong xã hội tự giác thực hiện và tuân thủ một cách tự nhiên. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật không đặt ra như là một hoạt động độc lập mà nằm trong công tác vận động quần chúng; trong hoạt động phổ biến, quán triệt chủ trương, chính sách, quy định của Đảng và Nhà nước đến nhân dân với phương châm "nghe, biết để thi hành".

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, nước nhà độc lập, thống nhất thì nhiệm vụ chung được đặt ra là cả nước cùng tiến vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối chung và đường lối kinh tế trong cả thời kỳ quá độ đã được Đại hội Đảng lần thứ IV (năm 1976) đề ra và được thể chế hoá trong Hiến pháp năm 1980 - Hiến pháp của thời kỳ cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, hành chính, bao cấp.

Đặc trưng cơ bản của cơ chế này là Nhà nước quản lý và kế hoạch hoá nền kinh tế một cách tập trung và theo quan hệ hiện vật là chủ yếu. Tác động của cơ chế quản lý kinh tế đã dẫn đến việc quản lý xã hội chủ yếu bằng phương pháp hành chính, mệnh lệnh. Cơ quan hành chính và các biện pháp hành chính được đề cao. Các cơ quan quản lý có vai trò chủ đạo trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong tổng số 7167 văn bản pháp luật được ban hành (từ 1955 đến 1986), chỉ có 61 luật hoặc pháp lệnh[29]. Pháp luật chưa có được vị trí, vai trò đích thực của nó trong đời sống xã hội. Nhìn chung, giai đoạn này, pháp luật của nước ta vừa thiếu, vừa chưa đồng bộ, tản mạn, chồng chéo, chưa phù hợp với thực tiễn của đời sống kinh tế xã hội.

Mặc dù trên thực tế, công cụ pháp luật chưa được sử dụng đúng đắn trong quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội nhưng nguyên tắc Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1980 (Điều 12). Cùng với nhiệm vụ ban hành các văn bản pháp luật phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới việc xây dựng ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, hình thành lối sống theo pháp luật cho nhân dân. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật được xác định là nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà nước và của các đoàn thể quần chúng. Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng chỉ rõ: "Các cấp uỷ Đảng, các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể phải thường xuyên giải thích pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, đưa việc giáo dục về pháp luật vào các trường học, các cấp học, xây dựng ý thức sống có pháp luật và tôn trọng pháp luật"[30]. Thi hành nghị quyết của Đảng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Chỉ thị số 315 - CT ngày 7/12/1982 về đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật - văn bản pháp lý đầu tiên thể chế hoá chủ trương của Đảng về công tác PBGDPL - trong đó yêu cầu thủ trưởng các ngành và Uỷ ban nhân dân các cấp cần nhận rõ tuyên truyền, giáo dục pháp luật là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là biện pháp chủ yếu để xây dựng ý thức pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và phải có kế hoạch chỉ đạo kiểm tra việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, đưa công tác này đi vào nề nếp. Các văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tiễn về PBGDPL cũng như hình thành hệ thống lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước về công tác này.

Theo quy định, Hội đồng Bộ trưởng có nhiệm vụ tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân. Các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở bộ, ngành, địa phương mình. Bộ Tư pháp[31] có chức năng giúp Hội đồng Bộ trưởng quản lý công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật trong cán bộ, nhân dân. Để thực hiện nhiệm vụ này, ở Bộ Tư pháp có Vụ Tuyên truyền giáo dục pháp luật (khi đó còn bao gồm cả tạp chí của Bộ và Nhà xuất bản pháp lý) [32]. Các Bộ, ngành có tổ chức Pháp chế thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật của ngành. Giúp Uỷ ban nhân dân địa phương thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật là Sở Tư pháp cấp tỉnh, Ban Tư pháp cấp quận, huyện, thị xã và Ban Tư pháp cấp phường, xã. Ngoài ra, các đoàn thể cũng có trách nhiệm giáo dục đoàn viên, hội viên của mình về pháp chế XHCN, tuyên truyền thuyết phục quần chúng tự giác thi hành chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước.

Cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL trong giai đoạn này có những đặc trưng sau:

Mặc dù hệ thống tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật đã hình thành nhưng sự phân công, phân cấp và trách nhiệm thực hiện công tác này của các cơ quan nhà nước chưa được xác định cụ thể, lại thiếu sự kiểm tra, giám sát, phối hợp để thực hiện trên thực tế nên gần như mạnh ai nấy làm, tuỳ theo sáng kiến hoặc yêu cầu của từng cơ quan, từng địa phương. Các kế hoạch, chương trình tổng thể triển khai công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật gần như chưa có. Việc thực hiện công tác này thường bị động, phụ thuộc vào diễn biến và yêu cầu phát sinh trong thời gian nhất định của nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội hoặc theo đợt tuyên truyền văn bản pháp luật quan trọng mới ban hành.

Trong điều kiện đầu những năm tám mươi, khi cán bộ có trình độ đại học luật ở nước ta chiếm tỷ lệ rất thấp, hơn 90% cán bộ công tác trong ngành Tư pháp chưa có trình độ đại học[33], đội ngũ cán bộ thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cũng không nằm ngoài thực trạng chung, đó là chưa kể lực lượng còn rất mỏng và không ổn định.

Xuất phát từ quan niệm về vai trò của Nhà nước, về vai trò của công tác tuyên giáo, tuyên truyền lúc bấy giờ nên công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật gần như do Nhà nước “độc quyền” thực hiện. Vai trò của các chủ thể khác còn mờ nhạt. Các cơ quan nhà nước chưa có sự phối hợp thường xuyên với các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể quần chúng thực hiện tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Cũng do ảnh hưởng của tư duy bao cấp, Nhà nước “nghĩ hộ, làm thay” nên điều dễ nhận thấy là PBGDPL trong thời kỳ này mới chỉ thực hiện theo một chiều, nghĩa là chỉ xuất phát từ phía Nhà nước, Nhà nước thấy cần phải phổ biến nội dung gì cho người dân thì phổ biến; đồng thời, người dân vẫn còn mang nặng tâm lý ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước và bản thân chưa thấy nhu cầu tìm hiểu pháp luật.

Nội dung, hình thức, biện pháp thực hiện công tác này mang đậm tính tuyên truyền: nội dung pháp luật được truyền đạt chung chung, nặng về hô hào, kêu gọi và phần nào mang tính áp đặt; thiên về các hình thức mang tính tuyên truyền (qua các hội nghị, cuộc họp, trên các phương tiện thông tin đại chúng…); còn thiếu những biện pháp tổng thể, lâu dài, đồng bộ; thiếu sự liên tục và hệ thống trong việc trang bị tri thức pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, nhân dân[34].

Có thể thấy, cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL như vậy là hoàn toàn phù hợp và thực tế cũng không thể vượt khỏi sự hạn định của hệ thống pháp luật, của các điều kiện kinh tế, xã hội do cơ chế quản lý kinh tế thời đó đưa lại.

Với nhận thức mới về những quy luật phát triển kinh tế, xã hội và về thực trạng của nền kinh tế, Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới nền kinh tế, đổi mới cơ chế kinh tế. Thay cho cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Trong cơ chế kinh tế mới, vai trò của Nhà nước có sự thay đổi và quản lý nhà nước cũng đòi hỏi phải có nội dung và phương thức quản lý thích hợp. Không thể quản lý hành chính trực tiếp, cụ thể, vi mô đơn điệu như trước đây đối với mọi mặt đời sống xã hội, mà phải quản lý vĩ mô, gián tiếp, thông qua pháp luật. Song song với từng bước xây dựng và khẳng định, củng cố các yếu tố thị trường của nền kinh tế đất nước là những bước xây dựng, củng cố, hoàn thiện các chế định pháp luật nhằm tạo ra các cơ sở pháp lý cho quá trình vận động của cơ chế kinh tế mới. Cùng với Hiến pháp năm 1992, hàng trăm đạo luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khác được ban hành[35]. Hệ thống pháp luật của nước ta đang từng bước ra khỏi khuôn khổ của một hệ thống pháp luật bình quân, thụ động trước đây và ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, tạo khuôn khổ pháp lý để Nhà nước quản lý bằng pháp luật, công dân “sống và làm việc theo pháp luật” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trong điều kiện đó, mặc dù không chuyển biến nhanh và mạnh mẽ như hoạt động xây dựng pháp luật nhưng công tác PBGDPL cũng có thay đổi trong tổ chức thực hiện để thích ứng với những chuyển đổi đang diễn ra trong đời sống kinh tế, xã hội.

Trước hết đó là việc chuyển từ mô hình Nhà nước - chủ thể duy nhất có quyền và trách nhiệm PBGDPL sang mô hình Nhà nước phối hợp với các chủ thể khác cùng thực hiện PBGDPL. Mặc dù Nhà nước vẫn là người chịu trách nhiệm trước xã hội về việc nâng cao ý thức pháp luật cho công dân, nhưng sự tham gia cũng như vai trò của các cơ quan, tổ chức khác trong thực hiện công tác PBGDPL đã được khẳng định rõ hơn. Một mặt, Nhà nước giữ vai trò tổ chức, lãnh đạo và quản lý thống nhất công tác PBGDPL; mặt khác, Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện để các tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể quần chúng tham gia PBGDPL. Sự chuyển đổi này không chỉ để đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn mà còn cho thấy nhận thức về tính chất, đặc điểm của việc tổ chức thực hiện công tác PBGDPL đã thay đổi: PBGDPL là loại hoạt động không thể tiến hành một cách đơn phương, riêng rẽ mà cần phải có sự phối hợp thực hiện của tất cả các ngành, các cấp, của mọi cơ quan, tổ chức. Phối hợp PBGDPL chính là đặc thù, là yêu cầu khách quan, là yếu tố không thể thiếu trong cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL.

Điểm thay đổi khác nữa trong cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL là Nhà nước, ngoài việc trực tiếp cung cấp các thông tin, nội dung pháp luật cần thiết cho nhân dân đã thiết lập, mở ra nhiều kênh, nhiều phương tiện để giúp nhân dân tự mình tìm hiểu pháp luật theo nhu cầu được thuận lợi hơn. Giai đoạn này, các hình thức PBGDPL đã đa dạng, phong phú hơn. Bên cạnh các hình thức truyền thống trước đây (bản thân các hình thức này cũng được đổi mới theo hướng phục vụ nhu cầu của người dân), nhiều hình thức PBGDPL mới được khai thác phù hợp với đối tượng. Đặc biệt, PBGDPL thông qua các hoạt động tư vấn pháp luật đang từng bước phát triển cho thấy người dân ngày càng quan tâm tìm hiểu pháp luật và có thể tự lựa chọn phương thức, cách thức tìm hiểu những nội dung pháp luật mà mình cần biết. Cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL đang từng bước được đổi mới theo hướng giảm tính chủ quan, áp đặt từ phía Nhà nước, nhu cầu tìm hiểu pháp luật của công dân được quan tâm hơn. Không phải ngẫu nhiên mà giai đoạn này, công tác này được đổi từ “tuyên truyền, giáo dục pháp luật” thành “phổ biến, giáo dục pháp luật”[36]. Đây không đơn thuần là việc thay đổi từ ngữ mà thể hiện sự thay đổi trong quan niệm, nhận thức về tính chất, cấp độ, mức độ thực hiện công tác này. Mặc dù, ở một mức độ nhất định, tuyên truyền đồng nghĩa với phổ biến bởi cả hai hoạt động này đều là sự truyền tải thông tin pháp luật, nhưng hoạt động tuyên truyền mang tính rộng rãi, không sâu, cung cấp những thông tin bao quát, chung nhất về pháp luật; còn phổ biến là sự truyền tải thông tin pháp luật cụ thể hơn, có định hướng mục đích, có đối tượng xác định hơn nhằm đáp ứng nhu cầu hiểu biết về pháp luật của các tầng lớp dân cư, các nhóm cộng đồng trong xã hội.

Rút kinh nghiệm quá trình tổ chức thực hiện công tác PBGDPL trước đây, do không có kế hoạch tổng thể triển khai công tác này nên các cơ quan còn lúng túng, bị động, chưa có sự phối hợp để thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất, giai đoạn này, Chính phủ đã ban hành các chương trình, kế hoạch triển khai công tác PBGDPL trên cả nước trong từng giai đoạn theo nhiệm kỳ của Chính phủ (1998 - 2002, 2003 - 2007) làm cơ sở để các cấp, các ngành tổ chức thực hiện công tác này.

2.3. Cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL hiện nay

2.3.1. Các văn bản quy pháp pháp luật làm cơ sở cho việc tổ chức thực hiện công tác PBGDPL:

Tuy chưa có sự thống kê đầy đủ, nhưng có thể thấy các quy định về công tác PBGDPL và những quy định có liên quan được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước, từ Hiến pháp đến các bộ luật, luật và các văn bản dưới luật. Trong hệ thống các văn bản đó, văn bản làm cơ sở trực tiếp cho việc tổ chức thực hiện công tác PBGDPL gồm:

- Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001;

- Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003;

- Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 5/11/2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ;

- Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 6/ 6/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp;

- Nghị định số 122/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và doanh nghiệp nhà nước;

- Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 7/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác PBGDPL trong giai đoạn hiện nay;

- Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày 7/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác PBGDPL từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL;

- Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17/1/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình PBGDPL từ năm 2003 đến năm 2007;

- Thông tư liên bộ số 12/TTLB ngày 26/7/1993 của Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức cơ quan tư pháp địa phương.

2.3.2. Hệ thống các cơ quan có chức năng thực hiện công tác PBGDPL:

Đây là các cơ quan nhà nước mà theo chức năng phải chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác PBGDPL, gồm:

- Chính phủ: tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật.

- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ: chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ.

Tổ chức Pháp chế của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức PBGDPL.

- Uỷ ban nhân dân các cấp: tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở địa phương. Giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ này là các cơ quan tư pháp địa phương.

Riêng các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có Phòng pháp chế hoặc công chức pháp chế chuyên trách. Tổ chức pháp chế cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh có nhiệm vụ chủ trì hoặc tham gia với các đơn vị liên quan tổ chức PBGDPL.

Trong hệ thống các cơ quan này, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ "thống nhất quản lý công tác PBGDPL"[37]. Có thể nói, Việt Nam là một trong số ít các nước trên thế giới có hệ thống cơ quan thuộc Chính phủ chuyên trách công tác PBGDPL, được tổ chức theo ngành dọc gắn liền với hệ thống cơ quan chính quyền, bao gồm: Bộ Tư pháp ở trung ương; Sở Tư pháp ở cấp tỉnh; Phòng Tư pháp ở cấp huyện; Ban Tư pháp ở cấp xã.

Ngoài hệ thống các cơ quan trên, các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân; các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể quần chúng... trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình cũng có trách nhiệm tham gia PBGDPL.

Trong khi tổ chức thực hiện công tác PBGDPL, các cơ quan nhà nước có sự phối hợp với nhau hoặc phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác triển khai PBGDPL. Hiện nay, cơ chế phối hợp đã được xác lập thông qua mô hình Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL[38], trong đó cơ quan Tư pháp làm đầu mối tổ chức, hướng dẫn các hoạt động phối hợp chung.

Có thể nói, việc phối hợp công tác giữa các cơ quan nhà nước là yêu cầu bắt buộc của hoạt động quản lý nhà nước, nhưng công tác PBGDPL còn đòi hỏi sự phối hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Phối hợp tổ chức PBGDPL là yêu cầu xuất phát từ thực tế, từ tính chất xã hội và tính đặc thù của hoạt động PBGDPL và đây là điều chính yếu, bí quyết cơ bản để nâng cao hiệu quả của công tác này. Việc thành lập Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL các cấp trên cơ sở Quyết định số 03 ngày 7/8/1998 của Thủ tướng chính phủ có thể được coi như là mốc của quá trình tìm tòi, hoàn thiện cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL.

2.3.3. Quy trình thực hiện công tác PBGDPL gồm các khâu:

- Xây dựng kế hoạch: trên cơ sở kế hoạch, chương trình công tác PBGDPL của Chính phủ trong từng giai đoạn; hướng dẫn của cơ quan chức năng; yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương, cơ quan có trách nhiệm thực hiện công tác PBGDPL xây dựng kế hoạch PBGDPL chung của địa phương, đơn vị mình (ở đây chúng tôi không đề cập đến kế hoạch PBGDPL theo từng đợt, từng văn bản hoặc kế hoạch phối hợp liên ngành, liên địa phương). Trong kế hoạch phải xác định cụ thể từ đối tượng, nội dung, biện pháp đến cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm thực hiện; các biện pháp thực hiện...

- Triển khai thực hiện kế hoạch: trên cơ sở kế hoạch PBGDPL đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, các cơ quan được phân công trực tiếp hoặc phối hợp triển khai các hoạt động PBGDPL cụ thể theo các nội dung, hình thức, biện pháp đã được xác định đến đối tượng tuyên truyền. Trong quá trình triển khai, cơ quan cấp trên phải thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn cơ quan cấp dưới.

 - Kiểm tra việc thực hiện: đây là một khâu không thể thiếu trong quy trình thực hiện công tác PBGDPL, được tiến hành bởi cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới. Việc kiểm tra có thể được thực hiện thông qua báo cáo của đơn vị cấp dưới hoặc tiến hành trực tiếp; kiểm tra toàn diện hoặc kiểm tra từng khâu, từng hoạt động, từng công việc cụ thể. Cơ quan cấp dưới phải định kỳ thông tin, báo cáo tình hình thực hiện công tác PBGDPL ở địa phương, đơn vị mình cho cơ quan cấp trên.

- Sơ kết, tổng kết là giai đoạn cuối trong quy trình tổ chức thực hiện công tác PBGDPL. Khâu này cần được thực hiện định kỳ hoặc đột xuất theo yêu cầu của việc thực hiện công tác PBGDPL, trong đó chú trọng đánh giá hiệu quả của việc thực hiện công tác này nhằm rút ra những kinh nghiệm cần thiết để tổ chức thực hiện PBGDPL ngày càng tốt hơn. 

Trên cơ sở các văn bản pháp lý về công tác PBGDPL, có thể thấy, cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL ngày càng được định hình và trên thực tế đã góp phần không nhỏ nâng cao chất lượng công tác PBGDPL. Tuy nhiên, hiện nay cơ chế này cũng cho thấy một số điểm cần lưu ý:

Một là, các quy định làm cơ sở cho việc tổ chức thực hiện công tác PBGDPL nằm tản mạn trong nhiều văn bản; còn thiếu một văn bản có giá trị pháp lý cao quy định riêng về công tác PBGDPL nói chung, đặt cơ sở nền móng cho việc xây dựng cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL.

Hai là, sự xác lập và vận hành hoàn chỉnh của cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL phụ thuộc vào các yếu tố cấu thành cơ chế và nhiều yếu tố bên ngoài khác. Trong khi đó, một trong những yếu tố quan trọng của cơ chế này là bộ máy thực hiện thì vẫn còn bất cập. Đội ngũ cán bộ thực hiện công tác này tuy đã được tăng cường hơn trước nhưng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu, nhất là ở cơ sở. Cơ quan Tư pháp tuy được giao nhiệm vụ giúp chính quyền địa phương chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác PBGDPL và là đầu mối phối hợp các hoạt động PBGDPL ở địa phương, nhưng việc sáp nhập cơ quan Tư pháp vào Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện ở một số địa phương thời gian qua đang là khó khăn cho công tác Tư pháp nói chung, công tác PBGDPL nói riêng, nhất là ảnh hưởng đến sự thông suốt, nhanh nhạy, kịp thời trong tổ chức thực hiện công tác PBGDPL. Tổ chức Pháp chế - cơ quan của các bộ, ngành được giao thực hiện nhiệm vụ này chưa được đầu tư đúng mức cả về bộ máy lẫn các điều kiện khác để có thể tổ chức thực hiện công tác PBGDPL trong bộ, ngành và cho nhân dân. 

Ba là, mặc dù quy trình tổ chức thực hiện công tác PBGDPL đã được định hình, nhưng do tính chất của các chương trình, kế hoạch về PBGDPL hiện hành chủ yếu là định hướng để các cơ quan, đơn vị, địa phương tuỳ điều kiện thực tế của mình tổ chức thực hiện nên tính bắt buộc chưa cao, do đó vẫn còn tình trạng việc thực hiện chưa đều khắp. Bên cạnh đó, mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong thực hiện PBGDPL chưa đạt hiệu quả cao. Cơ chế phối hợp thông qua mô hình Hội đồng phối hợp các cấp là một bước phát triển mới trong việc triển khai công tác PBGDPL nhưng đó chỉ là một bộ phận hợp thành quan trọng của cơ chế thực hiện nói chung. Mặt khác, qua quá trình hoạt động, cơ chế này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định: nặng về kế hoạch, công văn hướng dẫn triển khai, chưa thực sự là một cơ chế hành động, tổ chức công việc. Mặt chưa được của cơ chế này lại càng bộc lộ rõ khi Hội đồng phối hợp hoạt động còn mang tính hình thức, mô hình rập khuôn ở các cấp, chế độ báo cáo, trao đổi thông tin, trách nhiệm giữa các thành viên chưa được quy định cụ thể...

Bốn là, mục tiêu, kết quả cụ thể của quy trình thực hiện PBGDPL chưa được quan tâm đúng mức làm cho hoạt động này phần nào vẫn mang tính hình thức. Từ quan niệm công tác PBGDPL chỉ đơn thuần là hoạt động tuyên truyền, mang tính “phong trào”, “thời sự”; cho rằng công tác PBGDPL là loại hoạt động vì lợi ích lâu dài, kết quả, hiệu quả cuối cùng của nó không thể đo đếm được, cho nên, có thể thấy là các chỉ tiêu, mục tiêu, hiệu quả, tác động cụ thể của PBGDPL đối với việc nâng cao ý thức pháp luật, phòng ngừa vi phạm pháp luật, thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của địa phương, đơn vị chưa được đề ra trong các kế hoạch về công tác PBGDPL. Hạn chế này cũng còn do PBGDPL với cách làm đơn lẻ lâu nay, chưa gắn kết chặt chẽ với hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật; kế hoạch PBGDPL chỉ mang tính định hướng, thiếu định lượng, chưa chỉ ra được kết quả cụ thể cần đạt được và điều kiện cần thiết để bảo đảm thực hiện mục tiêu. Chương trình PBGDPL cũng chưa được lồng ghép thực sự trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các cuộc vận động... nên hiệu quả khó nắm bắt.

Phải thấy rằng, cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL trong từng thời kỳ là hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, cơ chế xây dựng và thi hành pháp luật trong giai đoạn đó. Nhìn tổng thể, công tác PBGDPL đã từng bước thực hiện được “sứ mệnh” trong việc cung cấp tri thức pháp luật, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và dần dần tạo dựng văn hoá pháp lý cho nhân dân. Cái được nổi bật là PBGDPL tạo ra dư luận xã hội rộng lớn phản ánh mong muốn của nhân dân được sống trong kỷ cương xã hội và trật tự pháp luật.

Lại cũng phải thấy rằng việc tìm tòi, hoàn thiện cơ chế thực hiện công tác PBGDPL phù hợp trong từng thời kỳ cũng là một quá trình. Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là đã đến lúc phải trả lời câu hỏi: tại sao qua rất nhiều nỗ lực, công tác PBGDPL chưa đạt được hiệu quả mong muốn? Tới đây phải đổi mới thế nào? Cơ chế thực hiện công tác này cần được hoàn thiện như thế nào cho phù hợp?

Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, khi vị trí, vai trò của công tác PBGDPL ngày càng được nhận thức đúng đắn hơn cùng với những đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng, hiệu quả, thì việc nghiên cứu, tìm kiếm các giải pháp, đưa ra các mô hình, quy trình để công tác PBGDPL được thực hiện tốt hơn là cần thiết bởi công tác này chỉ có thể có hiệu quả khi có một cơ chế tổ chức thực hiện khoa học, khả thi, phù hợp với các điều kiện thực tiễn và yêu cầu của công tác PBGDPL trong giai đoạn mới.

 

 

 

 

C. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH QUỐC GIA VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

 

I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

1. Bối cảnh kinh tế xã hội

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2001) được tiến hành vào lúc đất nước ta đang bước vào những năm đầu của thế kỷ XXI, với hành trang là những thành tựu rất quan trọng về phát triển kinh tế xã hội mà nhân dân ta đã đạt được qua 15 năm đổi mới. Đại hội đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010; phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005, trong đó mục tiêu phấn đấu trong 10 năm tới là đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đồng thời, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng được đề ra như một nhiệm vụ chiến lược, với phương châm “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật”.

Trên cơ sở Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ IX, Quốc hội đã sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đặt cơ sở hiến định cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong những năm tới, phục vụ việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cở sở phát huy cao độ nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Để thực hiện các mục tiêu trên, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều nhiệm vụ về hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có những nhiệm vụ có tác động đến việc xác định yêu cầu, định hướng phát triển công tác PBGDPL. Đó là một số nhiệm vụ sau:

- Hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu.

- Phát triển giáo dục, đào tạo, văn hoá, xã hội; đảm bảo thực hiện công bằng xã hội, thực hiện dân chủ cơ sở.

- Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mọi người.

- Phòng chống các tệ nạn xã hội; phát huy vai trò của từng người dân, từng cộng đồng tham gia đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi những tệ nạn này.

- Đẩy mạnh cải cách và hoàn thiện tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước; xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá. Nâng cao kỷ luật, hiệu lực thi hành pháp luật trong bộ máy nhà nước và trong xã hội.

- Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức với chương trình, nội dung sát hợp; chú trọng đội ngũ cán bộ xã, phường.

- Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Sau hai năm rưỡi triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng: Kinh tế tăng trưởng khá nhanh và toàn diện, năm sau cao hơn năm trước[39]; cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá, từng bước hiện đại hoá, phát triển đồng bộ các thành phần kinh tế; đã dần bổ sung, hoàn thiện thêm khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của các loại thị trường. Nhiều lĩnh vực xã hội được quan tâm phát triển. Công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm có những tiến bộ[40]. Quốc phòng, an ninh và ổn định xã hội được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế và uy tín của nước ta tiếp tục được nâng cao. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được chăm lo. Bản chất dân chủ của Nhà nước ta ngày càng được thể hiện và thực hiện trên mọi mặt của đời sống xã hội. Quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được tôn trọng và bảo đảm thực hiện.

Bên cạnh những thành tựu và tiến bộ trên, tại Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Khoá IX (tháng 1/2004), Đảng ta cũng chỉ rõ những mặt còn yếu kém, tồn tại, đó là: chất lượng, hiệu quả của sự phát triển kinh tế - xã hội còn thấp và chưa có chuyển biến rõ rệt; còn nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết như thiếu việc làm, đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là nhân dân ở một số vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; chất lượng giáo dục thấp; tệ nạn xã hội và tình hình tội phạm chưa được ngăn chặn có hiệu quả; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu dân của một số cán bộ, đảng viên vẫn còn nghiêm trọng và khá phổ biến; cải cách hành chính trong hệ thống chính quyền chưa đạt yêu cầu; vẫn còn tình trạng buông lỏng quản lý theo pháp luật của Nhà nước. Nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa chưa tạo được chuyển biến rõ rệt. Môi trường văn hoá còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của các sản phẩm và dịch vụ văn hoá mê tín dị đoan, độc hại, thấp kém, lai căng… Bên cạnh đó, xu thế toàn cầu hoá tiếp tục mở rộng, nước ta đang đứng trước sức ép phải chủ động và khẩn trương hơn nữa trong hội nhập kinh tế quốc tế; trong khi đó, các thế lực phản động quốc tế dựa trên chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo vẫn tìm cách gây mất ổn định chính trị - xã hội ở trong nước ta.

Trong những năm tiếp theo, Đảng ta xác định "phải đẩy nhanh hơn nữa công cuộc đổi mới, tăng nhanh nhịp độ phát triển bền vững kinh tế - xã hội, phải tạo được một bước chuyển biến mạnh mẽ trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và toàn bộ hệ thống chính trị, đấu tranh có hiệu quả chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương phép nước"[41].

Bối cảnh trên cùng với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước là cơ sở quan trọng cho việc định hướng phát triển công tác PBGDPL trong thời gian tới.

2. Định hướng phát triển công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

Đất nước ta đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi to lớn, song khó khăn, thử thách cũng đặt ra gay gắt, đòi hỏi công tác PBGDPL phải có những bước phát triển mới nhằm góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước trong giai đoạn tới. Định hướng phát triển công tác PBGDPL phải gắn liền và để nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển của đất nước về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng; đặt trong tổng thể công cuộc cải cách tư pháp và phải thể hiện rõ quan điểm: công tác PBGDPL "là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng"[42].

Mục tiêu cơ bản của công tác PBGDPL là phải đáp ứng một cách nhanh chóng, đầy đủ, cụ thể nhu cầu được thông tin, tìm hiểu pháp luật của các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội, doanh nghiệp, cán bộ và nhân dân; tạo chuyển biến căn bản về ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của công dân, góp phần bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.

Từ định hướng chung đó, công tác PBGDPL trong những năm tới cần tập trung trên một số định hướng cụ thể sau:

Thứ nhất, quan tâm tính cụ thể, thiết thực trong PBGDPL. Đối với pháp luật, người dân có những mối quan tâm rất thiết thực, đó là những quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ, lợi ích, gắn trực tiếp tới cuộc sống, sinh hoạt, làm ăn của họ. Bởi vậy, cần nắm bắt nhu cầu tìm hiểu pháp luật của từng nhóm đối tượng để từ đó xác định nội dung pháp luật cần phổ biến. Trong quá trình thực hiện công tác PBGDPL cũng cần chú trọng xác định các chỉ tiêu, mục tiêu, những tác động cụ thể của PBGDPL đối với lĩnh vực, đối tượng, địa bàn đã đề ra để công tác này có được  kết quả, hiệu quả cụ thể.

Thứ hai, công tác PBGDPL cần hướng vào vận động nhân dân chấp hành pháp luật. Đây vừa là mục đích vừa là biện pháp thực hiện công tác PBGDPL. Vấn đề đặt ra ở đây là làm cho mỗi người dân, trên cơ sở có những hiểu biết nhất định về các quy định pháp luật gắn liền với họ, nhận thức được rằng pháp luật được ban hành là để bảo vệ các quyền và tự do chân chính của công dân, đảm bảo an ninh xã hội, an toàn cho mỗi người, để từ đó khơi dậy tính tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của mỗi người, làm sao để người dân tiếp cận với pháp luật, tìm hiểu pháp luật và thực thi pháp luật với tư cách là chủ thể năng động, tích cực trong các quan hệ pháp lý cụ thể. Điều này đòi hỏi các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể phải phối hợp chặt chẽ trong PBGDPL, vận động nhân dân chấp hành pháp luật; phải có những hình thức tuyên truyền, vận động phù hợp với từng địa bàn, từng đối tượng và tiến hành ngay từ cơ sở, từ khu dân cư, từ mỗi gia đình đến từng cá nhân. Vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở cần phải được phát huy hơn nữa trong tham gia PBGDPL, vận động nhân dân chấp hành pháp luật.

Thứ ba, công tác PBGDPL cần gắn với những giải pháp kinh tế - xã hội cụ thể, phù hợp với từng địa bàn, từng đối tượng; lồng ghép có hiệu quả hơn trong các phong trào, các cuộc vận động, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; trong việc thực hiện hương ước, quy ước, khôi phục và phát huy văn hoá truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp ở từng cộng đồng. Cách làm này giúp người dân thấy được sự thiết thực của pháp luật.

PBGDPL cần gắn với hoạt động thi hành pháp luật. Việc PBGDPL kết hợp, lồng ghép với thông tin về việc xử lý kịp thời, nghiêm minh các vi phạm pháp luật; biểu dương gương người tốt việc tốt trong thi hành, chấp hành pháp luật có tác động tích cực đến ý thức, tình cảm, hành vi pháp luật của đối tượng được tuyên truyền, phổ biến.

Thứ tư, tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp uỷ Đảng; kết hợp hài hoà giữa vai trò của Nhà nước và vai trò của các tổ chức xã hội trong PBGDPL.

Đặc thù công tác PBGDPL đòi hỏi sự phối hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đây là điều chính yếu, cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác này. Vì vậy, bên cạnh việc khẳng định vai trò của Nhà nước - chủ thể chịu trách nhiệm trước xã hội trong hoạt động PBGDPL -  cần phát huy vai trò của các cấp uỷ Đảng trong việc lãnh đạo chính quyền các cấp tổ chức thực hiện công tác PBGDPL với nội dung, hình thức, phương pháp phù hợp với địa bàn và đối tượng khác nhau; tiếp tục thu hút, huy động các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế và cả cộng đồng tham gia PBGDPL.

Nhà nước giữ vai trò quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác PBGDPL thông qua việc ban hành các chính sách, văn bản định hướng hoạt động này ở tầm vĩ mô; các kế hoạch, chương trình đầu tư trực tiếp cho những đối tượng, địa bàn trọng điểm theo từng giai đoạn; tạo điều kiện môi trường thuận lợi về cơ chế, chính sách để thúc đẩy, khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức xã hội tham gia vào hoạt động PBGDPL. Còn các tổ chức xã hội trên cơ sở các chính sách, cơ chế của Nhà nước thực hiện PBGDPL cho thành viên, hội viên của tổ chức mình và cho nhân dân ở địa bàn dân cư.

Từ những định hướng trên, công tác PBGDPL trong thời gian tới cần quan tâm một số biện pháp sau:

- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật về PBGDPL tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc triển khai công tác này một cách toàn diện, thống nhất, cũng như tạo điều kiện hoàn thiện cơ chế tổ chức thực hiện công tác PBGDPL phù hợp với yêu cầu của giai đoạn mới. Trước mắt tập trung xây dựng cơ chế, chính sách từng bước xã hội hoá công tác PBGDPL; hoàn thiện cơ chế phối hợp PBGDPL.

- Đa dạng hóa, hiện đại hóa hình thức, phương tiện PBGDPL nhằm bảo đảm cho cán bộ, nhân dân tiếp cận dễ dàng với thông tin pháp luật. Ngoài phát huy hiệu quả của các hình thức PBGDPL hiện tại cần phát triển hình thức PBGDPL qua mạng; phát triển mạng lưới dịch vụ pháp lý (tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý…) rộng khắp làm chỗ dựa và hỗ trợ nhân dân thực hiện pháp luật và bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình; khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển dịch vụ thông tin pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng và đặc thù của từng nhóm đối tượng trong xã hội; định hình các mô hình tổ chức, nhóm của cộng đồng trong việc phổ biến và vận động chấp hành pháp luật ở địa bàn dân cư.

- Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực của đội ngũ làm công tác PBGDPL từ trung ương đến cơ sở.

Xét về nội dung PBGDPL, có thể dự báo một số vấn đề cần tập trung trong thời gian tới như sau:

- Các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, về chính quyền địa phương, công chức, công vụ, cải cách hành chính, quy chế dân chủ ở cơ sở;

- Các quy định pháp luật về đất đai, xây dựng, nhà ở và những quy định có liên quan đến quy hoạch, đầu tư, xây dựng cơ bản, chính sách đền bù thu hồi đất, giải phóng mặt bằng;

- Các quy định pháp luật về hình sự, dân sự, thanh tra, khiếu nại, tố cáo, hoà giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý; các quy định về hoạt động của các cơ quan tư pháp, luật sư, cải cách tư pháp;

- Các quy định pháp luật về thuế, sản xuất, kinh doanh, thương mại, dịch vụ…;

- Các quy định pháp luật về an toàn giao thông, văn minh đô thị, vệ sinh môi trường, phòng chống nhiễm HIV/AIDS, ma tuý, mại dâm, tệ nạn xã hội, chống các hủ tục lạc hậu…

II. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH QUỐC GIA ĐỂ ĐỔI MỚI MỘT BƯỚC CƠ CHẾ THỰC HIỆN CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Trước yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới, việc tiếp tục tăng cường, đẩy mạnh công tác PBGDPL nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, góp phần bảo đảm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh là chủ trương của Đảng, nhiệm vụ của Nhà nước và đòi hỏi của nhân dân. Vấn đề đặt ra ở đây là tăng cường và đẩy mạnh công tác PBGDPL như thế nào để chủ trương đó của Đảng và Nhà nước trở thành những kết quả cụ thể trên thực tế. Trong điều kiện hiện nay, việc xây dựng và thực hiện Chương trình quốc gia về PBGDPL là một biện pháp quan trọng nhằm đổi mới một bước cơ chế, giải quyết được cơ bản những vấn đề thực tiễn công tác PBGDPL đang đặt ra. Tuy việc xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL đã được sự đồng tình ủng hộ của đông đảo các ý kiến, là đề xuất, nguyện vọng của các cơ quan, cán bộ đang thực hiện công tác PBGDPL, nhưng dưới góc độ nghiên cứu, sự cần thiết phải xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL được thể hiện trên các mặt sau:

1. Xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL là cụ thể hoá quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh công tác PBGDPL trong giai đoạn hiện nay.

Công tác PBGDPL với mục đích nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tự giác chấp hành pháp luật, tình cảm pháp luật cho cán bộ và nhân dân luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, là một trong những nhiệm vụ quan trọng được ghi nhận trong nhiều văn kiện của Đảng, văn bản của Nhà nước.

Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng IX nêu rõ: “Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục pháp luật toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật[43]. Với nội dung cơ bản là nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 xác định “đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng luật, ban hành và thực thi pháp luật trong đó chú trọng tuyên truyền, giáo dục pháp luật và tổ chức thi hành luật một cách nghiêm minh[44].

 Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới đã đề ra nhiều chủ trương lớn, trong đó khẳng định “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên toà xét xử lưu động và bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân”. Chỉ thị số 32 ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân cũng xác định “công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần được tăng cường thường xuyên, liên tục và ở tầm cao hơn, nhằm làm cho cán bộ và nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, thông qua đó mà kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật” và đặt ra yêu cầu “chuẩn bị kế hoạch, chương trình dài hạn về PBGDPL cho nhiều năm sau”.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 10 ngày 19/3/2002 về triển khai thực hiện Nghị quyết số 08, trong đó giao nhiệm vụ cho Bộ Tư pháp xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL giai đoạn 2002 - 2010.

Việc xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL không chỉ đơn thuần thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao mà đó là phương thức cụ thể hoá quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đẩy mạnh công tác PBGDPL một cách thiết thực và sát hợp trong giai đoạn hiện nay. 

2. Nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân là yêu cầu khách quan, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thời kỳ mới, đòi hỏi phải có một chương trình mang tầm quốc gia để giải quyết.

Thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, hình thành đồng bộ và vận hành thông suốt, hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển toàn diện con người Việt Nam, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong bộ máy Nhà nước và trong xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế…đang đặt ra nhiều yêu cầu, trong đó có yêu cầu nâng cao hơn nữa hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Điều này thể hiện ở những lý do cơ bản sau:

Thứ nhất, chúng ta đang tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân, mà mục đích hướng đến là làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhà nước pháp quyền, nói một cách khái quát là hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước được tổ chức và quản lý theo pháp luật, đề cao các giá trị nhân văn, tôn trọng và bảo đảm quyền của con người, quyền công dân. Để có được một Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, người dân trong xã hội ấy không thể không có hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật. Điều dễ nhận thấy là việc người dân thiếu hiểu biết pháp luật sẽ hạn chế nhiều trong việc đấu tranh chống lại các hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực, tệ nạn, hủ tục lạc hậu trong đời sống xã hội, cũng như không thể hình thành các quan hệ xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực, phù hợp với bản chất của chế độ XNCN, đồng thời thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 

Bên cạnh đó, để thể chế hoá đầy đủ, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; phục vụ yêu cầu của công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng thì nhu cầu ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới là rất lớn[45] và cũng đặt ra chừng ấy đòi hỏi mỗi tổ chức, mỗi cá nhân phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn hơn quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. Quá trình mở cửa, hội nhập còn đòi hỏi các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân phải hiểu biết pháp luật để tham gia vào các giao dịch kinh tế, giao lưu văn hoá, các quan hệ hợp tác, đầu tư… với nước ngoài, các tổ chức quốc tế.

Thứ hai, vẫn còn một bộ phận cán bộ và nhân dân thiếu hiểu biết pháp luật, thiếu ý thức tuân thủ pháp luật; còn không ít cán bộ, nhân dân nhận thức pháp luật chưa đi đôi với hành động, đòi hỏi phải có biện pháp nhằm tích cực hoá sự hình thành và nâng cao ý thức pháp luật của toàn xã hội và từng cá nhân.

Theo kết quả một đợt khảo sát, thăm dò gần đây thì có 36,5% số người được hỏi cho rằng nguyên nhân vi phạm pháp luật là do không hiểu biết pháp luật; 31,2% số người được hỏi cho rằng do ý thức xem thường pháp luật, 13,3% số người được hỏi cho rằng do thiếu luật và 19% cho là do cả 3 lý do trên[46]. Một điều tra khác cho thấy: trong cơ cấu thành phần tội phạm thì đối tượng phạm tội là người lao động chiếm tới 70%, trong đó 30% không có việc làm[47].

Có luật pháp mới là điều kiện “cần”, còn ý thức pháp luật của toàn xã hội, của mỗi cá nhân, đặc biệt là ý thức pháp luật của những người lãnh đạo, người quản lý và nhân danh pháp luật... mới là điều kiện “đủ”. Chính ý thức pháp luật trong xã hội chưa cao là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình thi hành pháp luật thời gian qua còn nhiều bất cập: mức độ, quy mô vi phạm pháp luật, tội phạm chưa giảm; tình trạng coi thường pháp luật, kỷ cương phép nước chưa được khắc phục; tham nhũng, buôn lậu đã trở thành “quốc nạn”; các tệ nạn xã hội, ma tuý, mại dâm, cờ bạc, tai nạn và ùn tắc giao thông xảy ra ngày một nghiêm trọng và phức tạp hơn. Tội phạm và tệ nạn xã hội không chỉ xâm hại đến lợi ích hợp pháp của của công dân mà còn đang từng bước tấn công vào bộ máy nhà nước, kể cả các cơ quan bảo vệ pháp luật. Nghiêm trọng hơn, nhiều cán bộ nhà nước có thẩm quyền đã không làm đúng các quy định của pháp luật, thực tế đã tiếp tay cho bọn tội phạm, tạo điều kiện cho tội phạm hoạt động ngày càng trắng trợn, quy mô ngày càng lớn. Các vụ án Tamexco, Vũ Xuân Trường, Tân Trường Sanh, Minh Phụng - Epco thời gian qua và gần đây là vụ án Năm Cam cho thấy một thực trạng đáng lo ngại về ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước.

Chúng ta cũng biết rằng, việc xây dựng tình cảm, thái độ đối với pháp luật, hình thành ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật là một quá trình lâu dài, là kết quả tác động của nhiều yếu tố. Trong khi đó đất nước ta vừa mới chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa được hơn 16 năm, là một thời gian chưa dài để một mặt xoá hẳn được tư duy của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và mặt khác tích luỹ được các kinh nghiệm xây dựng một khung pháp luật có hiệu lực và hiệu quả điều chỉnh nền kinh tế thị trường vốn có lịch sử từ hàng trăm năm nay với nhiều cơ chế hoạt động phức tạp và không ngừng thay đổi. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa chưa có tiền lệ và hoàn toàn mới mẻ đối với nước ta cả về lý luận và thực tiễn. Nguyên tắc “Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật” đã được khẳng định nhưng trên thực tế còn rất nhiều cản trở đối với việc thực hiện triệt để nguyên tắc này, trong đó phải kể đến sức ỳ của tâm lý xã hội; tàn dư của cơ chế hành chính - mệnh lệnh; tư tưởng cục bộ, bản vị, gia trưởng, nếp nghĩ “phép vua thua lệ làng” của chế độ phong kiến hàng nghìn năm để lại không dễ một sớm một chiều khắc phục được. Do đó, một bộ phận cán bộ, nhân dân chưa nhận thức được vai trò tổ chức nền kinh tế mới, xã hội mới của pháp luật, của việc tìm hiểu pháp luật trong đời sống, từ đó ý thức tôn trọng pháp luật chưa cao. Bên cạnh đó, việc thiếu nghiêm minh trong xử lý vi phạm pháp luật không chỉ làm giảm niềm tin của nhân dân đối với các giá trị công bằng của pháp luật mà còn tác động tiêu cực đến việc xây dựng ý thức pháp luật, hình thành lối sống theo pháp luật trong cán bộ, nhân dân.

Việc nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và thái độ tôn trọng pháp luật cho cán bộ và nhân dân là yêu cầu rất cơ bản của việc nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay. Để giải quyết việc này không thể quan niệm giản đơn rồi dùng các biện pháp hành chính hoặc cưỡng chế và cũng không thể chủ quan, duy ý chí đốt cháy giai đoạn, mà cần phải có cơ chế, biện pháp thích hợp, khả thi tác động đúng quy luật, phù hợp với từng đối tượng để ý thức pháp luật thấm sâu vào từng cá nhân thành tập quán, lối sống theo pháp luật.

Thứ ba, điều kiện tiếp cận với pháp luật của một số chủ thể trong cộng đồng dân cư còn hạn chế.

Hiến pháp nước ta đã ghi nhận nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, tình trạng tài sản. Tuy nhiên, ngay cả khi pháp luật đã ghi nhận nguyên tắc về sự bình đẳng ấy thì việc sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ để ghi nhận, bảo vệ và mưu cầu hạnh phúc của mỗi chủ thể cũng không giống nhau. Khả năng sử dụng hệ thống pháp luật của một chủ thể phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như địa vị chính trị, địa vị kinh tế, trình độ học vấn, kinh nghiệm sử dụng hệ thống pháp luật của chủ thể ấy... Có một sự thật là, hiện nay trong bộ phận dân cư của Việt Nam, vẫn còn nhiều đối tượng bị thiệt thòi so với đối tượng khác trong việc tiếp cận với hệ thống pháp luật. Đó là nhóm những người có mức sống thấp, có học vấn thấp, đặc biệt là các cộng đồng dân cư ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa[48]. Có nhiều nguyên nhân hạn chế khả năng tiếp cận pháp luật của đối tượng này, trong đó nguyên nhân kinh tế là nền tảng. Do kinh tế khó khăn nên đối tượng này hầu như không có điều kiện tiếp cận với thông tin pháp luật. Mặt khác, cuộc sống với những lo toan thường nhật về lao động, sản xuất để nuôi sống bản thân và gia đình đã thu hút hết sự quan tâm và thời gian của họ. Người dân chưa hiểu hết rằng chính pháp luật là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của họ, là phương tiện giúp họ thực hiện các quyền tự do dân chủ của mình, tham gia vào mọi mặt đời sống xã hội, trong đó có việc phát triển kinh tế, nâng cao đời sống và quan trọng hơn là pháp luật giúp họ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình.

Từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, chương trình quốc gia với mục tiêu là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người nghèo, tạo điều kiện để các vùng nghèo (mà chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa) thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, hoà nhập vào sự phát triển chung của cả nước. Để hỗ trợ cho các đối tượng trên được tiếp cận với pháp luật, Nhà nước cũng triển khai một số hoạt động như: thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, người có công, đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn; tăng cường công tác PBGDPL cho nhân dân ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa… mặc dù vậy, trên thực tế vẫn chưa đáp ứng yêu cầu.

Bên cạnh các chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển kinh tế, Nhà nước cần có một chương trình tương ứng với sự định hướng đầu tư thoả đáng, hợp lý nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, nhân dân ở các vùng khó khăn được bình đẳng tiếp cận với pháp luật như các đối tượng khác trong cộng đồng xã hội Việt Nam trước pháp luật. Việc xây dựng một chương trình như vậy sẽ tạo sự đồng bộ trong phát triển kinh tế - xã hội, bởi mục tiêu của công cuộc xoá đói giảm nghèo cần được hiểu và thực hiện không chỉ là phát triển sản xuất để nâng cao thu nhập cho nhân dân mà còn là nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ kinh tế, xã hội mới; giảm nghèo toàn diện chứ không chỉ riêng kinh tế, như tinh thần Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu: “không chờ kinh tế phát triển cao rồi mới giải quyết các vấn đề xã hội mà ngay trong từng bước và suốt quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội[49].

3. Chương trình quốc gia về PBGDPL sẽ tạo ra cơ chế phù hợp mang lại sự tác động và lợi ích cụ thể đối với xã hội, đồng thời tạo đột phá để công tác PBGDPL có bước đi mạnh mẽ hơn, thực sự đổi mới về chất.

Như đã trình bày, Chương trình quốc gia về PBGDPL có ý nghĩa quan trọng, không chỉ phù hợp với đặc thù công tác này mà còn tạo sự đồng bộ trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tổng thể của đất nước và góp phần tạo bước phát triển mới trong công tác PBGDPL. Với ý nghĩa như vậy, việc triển khai Chương trình quốc gia về PBGDPL sẽ có những tác động tích cực, lợi ích cụ thể sau:

Tác động, lợi ích về mặt xã hội:

Thực tế cho thấy, các Chương trình quốc gia thường được đặt ra để giải quyết những vấn đề, lĩnh vực cấp bách, có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được đầu tư tập trung nguồn lực và sự chỉ đạo của Nhà nước do đó sẽ đem lại những kết quả cụ thể, thiết thực đối với lĩnh vực, đối tượng mà Chương trình giải quyết. Điều này có thể được khẳng định từ kết quả các Chương trình quốc gia hiện hành, như Chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo (góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ trên 30% xuống còn 10%[50]); Chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm (chỉ sau 2 năm thực hiện, đã góp phần kiềm chế được sự gia tăng của tội phạm, giảm được một số loại tội phạm nghiêm trọng: năm 2000 tội phạm hình sự giảm 6,6%, bốn thành phố lớn giảm 10,06% so với cùng kỳ năm trước[51])... Tuy Đề tài không đi vào nghiên cứu các mục tiêu, hiệu quả kinh tế xã hội cụ thể của Chương trình quốc gia về PBGDPL nhưng chắc chắn rằng Chương trình sẽ đem lại những kết quả tích cực, cụ thể trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật, khả năng tiếp cận pháp luật của cán bộ, nhân dân; nâng cao một bước quan trọng ý thức chấp hành pháp luật, góp phần hạn chế vi phạm pháp luật, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Tác động đối với công tác PBGDPL:

Thứ nhất, Chương trình quốc gia về PBGDPL với yêu cầu cụ thể về mục tiêu, hiệu quả kinh tế xã hội, lộ trình, giải pháp thực hiện không chỉ tạo bước đổi mới căn bản trong cơ chế tổ chức thực hiện mà còn góp phần làm thay đổi nhận thức, quan niệm về tích chất, cách thức thực hiện công tác PBGDPL. 

Thứ hai, Chương trình quốc gia về PBGDPL góp phần nâng cao nhận thức của toàn xã hội đối với công tác PBGDPL; khơi dậy tính tích cực, huy động sự tham gia của xã hội vào việc thực hiện PBGDPL; tạo cơ sở để từng bước thực hiện xã hội hoá công tác PBGDPL.

Thứ ba, có điều kiện tập trung nguồn lực (con người, kinh phí) đầu tư cho lĩnh vực, đối tượng PBGDPL trọng tâm, trọng điểm được xác định, tạo cho công tác này có được kết quả cụ thể, khắc phục được tính hình thức, chung chung.

Từ những lý do được phân tích ở trên, có thể khẳng định yêu cầu nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của công dân là đòi hỏi khách quan, là điều không thể thiếu được trong một xã hội mong muốn ổn định, phát triển, tiến tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá, văn minh. Quá trình hình thành và nâng cao ý thức pháp luật ở Việt Nam đang chịu tác động mạnh mẽ của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, cần phải có hệ thống giải pháp mang tính đồng bộ, toàn diện. PBGDPL với vị trí không chỉ là khâu đầu tiên mà còn tiếp tục trong cả quá trình thi hành pháp luật, có vai trò quan trọng trong việc nâng cao dân trí pháp lý cho các tầng lớp nhân dân, là vấn đề có ý nghĩa lâu dài cho việc cải thiện tình hình thi hành pháp luật. Tăng cường và đẩy mạnh công tác PBGDPL cần được coi là một giải pháp quan trọng trong hệ thống các giải pháp nâng cao ý thức pháp luật cho cộng đồng.

Mặc dù Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản làm cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh công tác PBGDPL, có các kế hoạch triển khai công tác này trên cả nước trong từng giai đoạn, song mức độ quan tâm cũng như những hành động cụ thể để tăng cường hiệu quả công tác này còn chưa cao; còn thiếu một kế hoạch, chương trình tổng thể, dài hạn với các mục tiêu, nội dung cụ thể, giải pháp, lộ trình thực hiện rõ ràng; chưa hình thành được cơ chế, phương thức hữu hiệu tập trung nguồn lực, huy động sự tham gia, đóng góp của toàn xã hội cho công tác PBGDPL.

Đã đến lúc phải có bước đi mạnh mẽ hơn, có trọng tâm, trọng điểm hơn trong kế hoạch tổng thể về công tác PBGDPL thể hiện bằng một Chương trình quốc gia về PBGDPL. Việc xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL dài hạn cho nhiều năm sau là hết sức cần thiết, không chỉ đáp ứng nhu cầu khách quan mà còn là đòi hỏi nội tại của việc đẩy mạnh hơn nữa, tạo bước đột phá trong công tác PBGDPL để hoạt động này đạt hiệu quả thiết thực, góp phần tích cực vào việc nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

D. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH

QUỐC GIA VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

 

Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, sự tác động mạnh mẽ của thông tin, của quá trình hội nhập quốc tế và trong điều kiện đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhu cầu tìm hiểu pháp luật một cách cụ thể, chính xác và thiết thực để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, để tổ chức công việc làm ăn, để mở rộng quan hệ giao dịch xã hội... sẽ ngày càng trở thành đòi hỏi khách quan và tự thân của từng cá nhân, từng gia đình, từng tập thể.

Hệ thống pháp luật đang từng bước được hoàn thiện tạo hành lang pháp lý cho mọi hoạt động của xã hội với yêu cầu ngày càng cao về tính cụ thể, ổn định, rõ ràng, nhất quán và công khai; sự nghiệp đổi mới cũng tiếp tục đặt ra yêu cầu tăng cường pháp chế trên những mức độ và với những sắc thái mới đòi hỏi công tác PBGDPL cũng phải có bước đổi mới cho phù hợp, góp phần nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật.

Trong nền kinh tế thị trường, chức năng, vai trò, phương thức quản lý, điều hành của Nhà nước đối với xã hội đang có những chuyển đổi thích hợp. Nhà nước tạo môi trường, hành lang, hướng dẫn, khơi nguồn cho xã hội hoạt động, phát triển. Trong điều kiện đó, các tổ chức xã hội có vai trò quan trọng, là cầu nối giữa nhà nước và nhân dân, thực hiện những hoạt động của xã hội. Nhưng cũng phải khẳng định rằng, quản lý nhà nước là bao trùm trên các lĩnh vực đời sống xã hội, Nhà nước không từ bỏ các chức năng xã hội của mình, đây là trách nhiệm của Nhà nước không ai có thể làm thay. Nhà nước phải làm những việc mà xã hội không làm được. 

Công tác PBGDPL là hoạt động nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho công dân, là công việc không đơn giản và không thể làm ngay được “một sớm, một chiều”. Hoạt động PBGDPL mặc dù cũng với mục đích là cung cấp thông tin pháp luật nhưng có những tính chất đặc thù so với hoạt động của các cơ quan có chức năng dịch vụ thuần tuý. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế - xã hội ở các vùng, miền phát triển chưa đồng đều, trình độ dân trí nhìn chung còn thấp; hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, tình hình thi hành pháp luật chưa nghiêm và những nguồn lực to lớn của xã hội chưa được khai thác và sử dụng để đáp ứng các nhu cầu về tìm hiểu pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho tổ chức và cá nhân một cách đúng đắn thì Nhà nước vẫn giữ vai trò rất quan trọng trong công tác PBGDPL, trước hết, là tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý đồng bộ để quản lý về mặt nhà nước các hoạt động PBGDPL, đồng thời có trách nhiệm dành cho công tác này những ưu tiên về nguồn lực nhằm tạo cơ sở, tạo động lực phát huy hiệu quả PBGDPL, đáp ứng nhu cầu của xã hội, trên cơ sở đó thúc đẩy quá trình xã hội hoá hoạt động PBGDPL.

Trong điều kiện hiện đó, việc xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL cần tập trung theo những hướng sau:

1. Về tính chất của Chương trình:

Chương trình quốc gia về PBGDPL cần được xây dựng với tính chất là Chương trình hành động quốc gia.

Đặc trưng của Chương trình hành động quốc gia là nhằm thực hiện một  hoặc một số nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ mang tính lâu dài, thường xuyên, thu hút nhiều đối tượng thuộc các bộ, ngành tham gia thực hiện. Do đó, việc xây dựng Chương trình quốc gia về PBGDPL với tính chất là chương trình hành động hoàn toàn phù hợp với đặc thù của công tác này, đó là sự phối hợp liên ngành và phân công, phân nhiệm cụ thể giữa các cơ quan, tổ chức trong thực hiện công tác PBGDPL.

2. Về đối tượng của Chương trình:

Công bằng xã hội, hạn chế sự chênh lệch quá đáng trong  phát triển, tạo điều kiện để mọi người dân đều có thể tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã hội không chỉ là chính sách mà là vấn đề thuộc bản chất xã hội của chúng ta. Trong lĩnh vực pháp luật cũng vậy, việc bảo đảm cho người dân được công bằng, bình đẳng trong tiếp cận, tìm hiểu pháp luật, trước hết là đối với những quy định pháp luật thiết yếu liên quan trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh của người dân và thụ hưởng các dịch vụ pháp lý là yêu cầu luôn được khẳng định và là tư tưởng chủ đạo của các cơ chế, chính sách và cả trong việc tổ chức thực hiện công tác PBGDPL.

Góp phần nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật cho mọi đối tượng trong xã hội là nhiệm vụ của công tác PBGDPL, tuy nhiên, Chương trình quốc gia về PBGDPL nên tập trung cho nhóm đối tượng là cán bộ và nhân dân ở xã, phường, thị trấn bởi những lý do sau:

Thứ nhất, nước ta hiện có 10.751 xã, phường, thị trấn; 120.000 khu dân cư; số người sống ở cơ sơ chiếm 82,5% dân số, là lực lượng cơ bản góp phần quyết định vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú và sinh sống, với các điều kiện kinh tế, xã hội, phong tục, tập quán khác nhau. Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước thì địa bàn cơ sở là nơi người dân thực hiện các nghĩa vụ cơ bản đối với Nhà nước cũng như hưởng các quyền, lợi ích do pháp luật quy định cho họ, đó cũng là nơi tập trung các quan hệ pháp luật phát sinh trên địa bàn. Nhưng ở một mức độ nhất định, người dân ở cơ sở ít có điều kiện tiếp cận với thông tin pháp luật một cách đầy đủ, cụ thể; hiểu biết về pháp luật, nhất là ý thức chấp hành pháp luật còn hạn chế.

Đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, an ninh quốc phòng, kinh tế, văn hoá, xã hội...; trực tiếp tổ chức thực hiện các đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Trong khi đó, trình độ, năng lực của đội ngũ này còn hạn chế, đã ảnh hưởng đến việc tiếp thu, triển khai những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước; ảnh hưởng đến công tác quản lý hành chính của cấp cơ sở.

Thứ hai, tình hình thi hành, chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân ở cơ sở còn nhiều bất cập. Theo thống kê, trong 217.009 trường hợp giao đất, cho thuê đất trái thẩm quyền thì vi phạm ở cấp xã, thôn là 174.100 trường hợp (chiếm 80,2%); kết quả kiểm tra tại 61 tỉnh, thành phố đã phát hiện trên 101.400 trường hợp lấn chiếm đất đai mà đối tượng vi phạm chủ yếu là hộ gia đình, cá nhân; hàng năm có trên 10 vạn vụ khiếu kiện liên quan đến đất đai (chiếm trên 65% tổng số vụ việc khiếu kiện của công dân gửi đến các cơ quan Nhà nước)[52]. Tình hình tội phạm về ma tuý chưa có chiều hướng giảm bớt; ma tuý vẫn đang là nỗi lo lắng, ám ảnh cuộc sống hàng ngày của mỗi gia đình và của toàn xã hội. Các tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông, tình trạng chặt phá rừng, khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi… vẫn chưa khắc phục được. Tình hình trên là một trong những nguyên nhân làm hạn chế kết quả của việc thực hiện Qui chế dân chủ cơ sở, các chương trình phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo, từ đó ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

 Thứ ba, mặc dù trong những năm qua nhà nước đã đề ra nhiều giải pháp để hỗ trợ cho cán bộ, nhân dân ở cơ sở tiếp cận với pháp luật như: thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, người có công, đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn… nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao hiểu biết pháp luật của cán bộ, nhân dân bởi vẫn còn thiếu một chương trình tổng thể của Nhà nước với sự đầu tư tập trung, thoả đáng nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn được thông tin, phổ biến pháp luật một cách đầy đủ, cụ thể.

Thứ tư, mặc dù trong thời gian qua, công tác PBGDPL đã được thực hiện với phương châm "hướng về cơ sở" nhưng trên thực tế, công tác PBGDPL cho cán bộ và nhân dân ở cơ sở vẫn còn nhiều hạn chế; chưa có nhiều hình thức để gắn kết chặt chẽ và thường xuyên công tác PBGDPL với việc nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của cán bộ, với vận động nhân dân chấp hành pháp luật.

Từ những lý do trên cho thấy, việc nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ và nhân dân ở xã, phường, thị trấn có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết. Bên cạnh đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn đã xác định: "Hệ thống chính trị cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư". Giới hạn trong nhóm đối tượng là cán bộ và nhân dân ở xã, phường, thị trấn, Chương trình sẽ có điều kiện tập trung nguồn nhân lực, vật lực đầu tư cho đối tượng trọng điểm này; đưa công tác PBGDPL góp phần thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian tới; đồng thời phát huy được vai trò tích cực của hệ thống chính trị cơ sở trong tham gia PBGDPL, vận động nhân dân chấp hành pháp luật.

3. Về nội dung của Chương trình:

Thực tiễn công tác PBGDPL thời gian qua cho thấy, nếu chỉ phổ biến những quy định pháp luật chung chung, một cách đơn điệu, theo kiểu “thuyết giáo” đối với người dân là không mấy hiệu quả, không động viên, khuyến khích được người dân tích cực tìm hiểu pháp luật. Để nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, bản thân hoạt động PBGDPL đơn thuần là chưa đủ. Công tác PBGDPL chỉ có thể phát huy hết tác dụng khi lồng ghép trong thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội; với các phong trào thi đua, các cuộc tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật; với việc phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng đời sống văn hoá ở cụm dân cư, thực hiện hương ước, quy ước, khôi phục và phát huy văn hoá truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp ở từng cộng đồng.  Phải làm cho người dân thấy được sự thiết thực của pháp luật thông qua lồng ghép với việc thực hiện các chương trình, các cuộc vận động...

Chính vì vậy, nội dung Chương trình quốc gia về PBGDPL không đơn thuần chỉ thông tin, phổ biến pháp luật mà nên bao gồm cả vận động chấp hành pháp luật nhằm đạt mục đích nâng cao ý thức pháp luật, hạn chế vi phạm pháp luật trong cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn, trước hết tập trung tạo chuyển biến trong một hoặc một vài lĩnh vực bức xúc ở địa bàn như: đất đai, giao thông, tệ nạn xã hội, môi trường, bảo vệ và phát triển rừng, khiếu nại, tố cáo.

Chương trình nên tập trung vào những hình thức, biện pháp phù hợp với địa bàn xã, phường, thị trấn và những hoạt động đòi hỏi phải được đẩy mạnh, tăng cường ở cơ sở. Đề xuất của chúng tôi là:

- Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng và các thiết chế văn hoá thông tin cơ sở trong PBGDPL cho cán bộ, nhân dân, trong đó tập trung thực hiện việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật thường xuyên nhưng có trọng điểm, bằng nhiều hình thức trên các phương tiện thông tin đại chúng; củng cố và sử dụng có hiệu quả hệ thống truyền thanh cơ sở; xây dựng các chương trình văn hoá, văn nghệ, thông tin cổ động, thông tin lưu động gắn với vận động chấp hành pháp luật, xoá bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu, tệ nạn xã hội trong cộng đồng dân cư.

- Hỗ trợ sách pháp luật phổ thông, tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân ở cơ sở, trong đó tập trung hỗ trợ sách pháp luật phổ thông, tài liệu hướng dẫn thực hiện pháp luật phù hợp với địa bàn, với từng nhóm đối tượng nhân dân ở cơ sở; tài liệu thông tin pháp luật, tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể, sát với vị trí, chức năng, nhiệm vụ của từng chức danh cán bộ, công chức cấp xã, phù hợp trình độ quản lý điều hành của chính quyền cấp xã ở từng vùng.

- Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân thông qua các phong trào, các cuộc vận động ở cơ sở, trong đó chú trọng việc lồng ghép việc PBGDPL, vận động nhân dân chấp hành pháp luật với phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; phong trào phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội; hoạt động hoà giải ở cơ sở và việc thực hiện hương ước, qui ước ở cộng đồng dân cư; xây dựng điểm sáng trong chấp hành pháp luật ở khu dân cư.

- Nâng cao chất lượng công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở, trong đó tập trung xây dựng cơ chế để các tổ chức chính trị xã hội ở cơ sở tham gia với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn trong giải quyết các khiếu nại, tố cáo; chú trọng công tác hoà giải trước, trong và sau khi khiếu kiện để mọi mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ nhân dân được hoà giải hoặc giải quyết ngay từ cơ sở; nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở.

- Phát huy vai trò của cơ quan và cán bộ tư pháp trong phổ biến pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân, trong đó tập trung nâng cao trách nhiệm và năng lực tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện pháp luật cho nhân dân khi thực hiện các hoạt động nghiệp vụ tại cơ sở của cán bộ Toà án, Kiểm sát, Công an, Tư pháp, Thi hành án và cán bộ làm công tác bổ trợ tư pháp.

4. Biện pháp xây dựng Chương trình:

Trong quá trình xây dựng Chương trình, cần chú ý các vấn đề sau:

- Quán triệt các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới; các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

- Khảo sát, điều tra đầy đủ thực trạng tình hình hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân ở địa bàn cơ sở, nhất là trong một số lĩnh vực trọng điểm: đất đai, giao thông, tệ nạn xã hội, bảo vệ và phát triển rừng, khiếu nại, tố cáo.

- Nghiên cứu, tham khảo các kế hoạch, chương trình về PBGDPL hiện hành và một số Chương trình quốc gia khác có liên quan qua đó đánh giá sự phối hợp, tác động, tránh sự chồng chéo với các chương trình đó.

- Do đây là một chương trình quan trọng, có phạm vi tác động rộng nên cần huy động tối đa trí tuệ của các chuyên gia, các cán bộ đang thực hiện công tác PBGDPL, đề xuất của các bộ, ngành, địa phương, nhất là ý kiến của các đối tượng thụ hưởng nhằm nâng cao tính khả thi và hiệu quả của Chương trình.

- Tuân thủ các quy định pháp luật về tiêu chuẩn, nội dung, quy trình xây dựng chương trình quốc gia.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

KẾT LUẬN

 

Trong điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, số đông dân cư nước ta nhận thức chính trị, pháp luật chưa đầy đủ thì công tác PBGDPL vẫn cần vai trò định hướng, hỗ trợ, đầu tư của nhà nước. Ngày nay, kết quả của công tác PBGDPL không chỉ còn tính trên số lượng văn bản được tuyên truyền, phổ biến mà là hiệu quả xã hội của nó. Chương trình quốc gia về PBGDPL đương nhiên không phải là toàn bộ công tác PBGDPL. Nó chỉ là trọng tâm, là bước đột phá có tính thí điểm về đổi mới cơ chế nhằm tạo chuyển biến cụ thể trong công tác PBGDPL, góp phần đáp ứng những đòi hỏi khách quan của thời kỳ xây dựng và phát triển mới của đất nước.

Hy vọng rằng, Chương trình quốc gia về PBGDPL với tầm tổng thể, toàn diện và hoàn chỉnh của nó trong việc huy động nguồn lực, tập trung về mục tiêu sẽ tạo ra bước chuyển rõ ràng trong công tác PBGDPL.



[1] Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tại Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm (2001-2003) tại Hà Nội, tháng 10/2003.

[2] Đánh giá kết quả thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia trong 3 năm 2001 - 2003 (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư). 

[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1987.

[4] Chương trình xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước giai đoạn I (2003-2005) ban hành kèm theo Quyết định số 69/2003/QĐ-TTg ngày 29/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ.

[5] Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. 

[6] Số liệu do Bộ Nội vụ cung cấp. 

[7] Nguyễn Lâm Thành, "Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực miền núi", Tạp chí Quản lý nhà nước số 92 (tháng 9/2003).

[8] Trung ương Hội Nông dân phối hợp với Bộ Tư pháp biên soạn cuốn "Sổ tay phổ biến pháp luật cho nông dân" bằng tiếng Kinh, Khơmer, H'mông cấp phát đến cơ sở; Uỷ ban dân tộc cùng Bộ Tư pháp biên soạn cuốn "Tài liệu phổ biến pháp luật cho đồng bào thiểu số" bằng tiếng Kinh - Khơmer, Kinh - H'mông; tỉnh Lâm Đồng in hàng nghìn tờ gấp có nội dung pháp luật bằng tiếng Kinh và tiếng K'ho; tỉnh Gia Lai ghi âm 112 băng tiếng về những nội dung cơ bản của Bộ luật hình sự bằng tiếng Jrai, Bahnar, Kinh... (Nguồn: Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp).  

[9] Từ khi thành lập cho đến hết năm 2003, các Trung tâm trợ giúp pháp lý trong cả nước đã trợ giúp được 401.336 vụ cho 417.041 đối tượng (Nguồn: Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp).  

[10] Báo cáo Đề tài nghiên cứu "Đánh giá thực trạng, xác định nội dung, hình thức, kế hoạch và biện pháp thực hiện PBGDPL đối với các đối tượng là thanh thiếu nhi", Viện Nghiên cứu thanh niên, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hà Nội 2001.

[11] Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010 ban hành kèm theo Quyết định số 70/2003/QĐ-TTg ngày 29/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ.

[12] Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010 ban hành kèm theo Quyết định số 70/2003/QĐ-TTg ngày 29/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ.

[13] Báo cáo Đề tài nghiên cứu "Đánh giá thực trạng, xác định nội dung, hình thức, kế hoạch và biện pháp thực hiện PBGDPL đối với các đối tượng là thanh thiếu nhi", Viện Nghiên cứu thanh niên, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hà Nội 2001.

[14] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, trang 201.

[15] Báo Doanh nghiệp số 39 (từ ngày 25/9/2002 đến 1/10/2002). 

[16] Hiện cả nước có 120.000 doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân (theo Báo Sài gòn giải phóng ngày 2/11/2003) và 4..296 doanh nghiệp nhà nước (theo Báo Tuổi trẻ ngày 16/3/2004). 

[17] Theo thống kê chưa đầy đủ, từ năm 1998 đến năm 2002, tổ chức công đoàn các cấp đã tổ chức được 49.954 cuộc tập huấn, nói chuyện chuyên đề về pháp luật cho 1.050.112 lượt người tham dự.

[18] Theo báo cáo của Bộ Quốc phòng, ở các đơn vị cơ sở, quân số học tập pháp luật đạt từ 85-99%, học xong, kiểm tra đánh giá kết quả đạt yêu cầu 100%; khá, giỏi đạt 65-85%. 

[19] Quyết định số 03 ngày 7/1/1998 về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác PBGDPL từ năm 1998 đến năm 2002; Quyết định số 13 ngày 17/01/2003 phê duyệt Chương trình PBGDPL từ năm 2003 đến năm 2007.

[20]  Theo báo cáo chưa đầy đủ, hiện cả nước có 9579 báo cáo viên, trong đó cấp tỉnh có 2882 người, cấp huyện có 6697 người; 23.629 tuyên truyền viên pháp luật ở cơ sở; 92.560 Tổ hoà giải với 368.116 hoà giải viên; 372 Tổ trợ giúp pháp lý cấp xã với 5830 cộng tác viên.

[21] Các hình thức PBGDPL được sử dụng thường xuyên, gồm: tuyên truyền miệng; biên soạn, phát hành tài liệu; PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chúng; tủ sách pháp luật; thi tìm hiểu pháp luật; thông qua giáo dục pháp luật trong nhà trường; qua trợ giúp pháp lý; qua hoạt động hoà giải ở cơ sở; qua hình thức sinh hoạt câu lạc bộ; lồng ghép trong các hoạt động văn hoá, văn nghệ. 

[22] Tiểu mục 11 "Chi tuyên truyền, giáo dục pháp luật theo Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày 7-1-1998 của Chính phủ" và Tiểu mục 12 "Chi Tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn theo Quyết định số1067/1998/QĐ-TTg ngày 25-11-1998 của Chính phủ" trong Mục 111 của Hệ thống Mục lục ngân sách Nhà nước.  

[23] Chuyên đề: Đánh giá nhu cầu phát triển hệ thống thông tin pháp luật và phổ biến, giáo dục pháp luật ở Việt Nam đến năm 2010 – Thông tin Khoa học pháp lý, số 3/2003, trang 11.

[24] Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ PBGDPL – Dự án VIE/98/001 "Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam – Giai đoạn II", Hà Nội 2002,  trang 8.

[25] Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương, Khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia,  Hà Nội 1995,  trang 26.

[26] Xem "Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa", Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,  Hà Nội 1993,  trang 127.

[27] Đại từ điển Kinh tế thị trường – Viện Nghiên cứu và phổ biến tri thức Bách khoa, Hà Nội 1998,  trang 114.

[28] Xem Chuyên đề về: Sửa đổi, bổ sung một số điều Hiến pháp 1992 – Thông tin khoa học pháp lý, số 8/2001,  trang 13.

[29] Theo Hoàng Thế Liên, “Diễn đàn pháp luật Việt Nam”, số 1 tháng 9/1994.

[30] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội 1982.

[31] Bộ Tư pháp được thành lập lại năm 1981 sau một thời gian bị giải thể. Trong thời gian đó, Uỷ ban pháp chế thuộc Chính phủ thực hiện một phần chức năng của Bộ Tư pháp.

[32] Điều 4 Nghị định số 143 - HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp.

[33] Báo cáo điển hình của Trường Đại học Luật Hà Nội tại Đại hội thi đua ngành Tư pháp lần thứ nhất, tháng 9/2000.

[34] Từ năm 1980 việc dạy và học pháp luật mới từng bước được triển khai trong hệ thống các trường Đảng, trường của các tổ chức xã hội, các trường đại học, trung học, dạy nghề và hệ thống các trường phổ thông.

[35] So với thời gian 40 năm trước đó (1945 - 1985) thì trong hơn 15 năm thực hiện đổi mới, số văn bản pháp luật được ban hành nhiều hơn 40 năm trước cộng lại (tính đến tháng 6/2001, Quốc hội đã ban hành 203 văn bản, trong đó có 5 bộ luật, 87 luật và 111 pháp lệnh).

[36] Theo Nghị định số 38-CP ngày 4/6/1993 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Bộ Tư pháp.

[37] Điểm a khoản 5 Điều 2 Nghịđịnh số 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp.

[38] Thành phần Hội đồng gồm một số cơ quan nhà nước có chức năng đặc thù trong PBGDPL, Ban, ngành hữu quan và các tổ chức chính trị xã hội. Tính đến tháng 3/2004, ở trung ương có Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL của Chính phủ, Hội đồng (Ban) phối hợp của một số Bộ, ngành, đoàn thể; ở địa phương, Hội đồng cấp tỉnh được thành lập tại 61/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Hội đồng cấp huyện được thành lập ở hầu hết các đơn vị cấp huyện; gần 70% đơn vị cấp xã trong cả nước thành lập Hội đồng hoặc Ban phối hợp PBGDPL.

[39] Năm 2001 tăng 6,9%, năm 2002 tăng 7,04%, năm 2003 tăng 7,24% - Báo cáo kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX - Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004, trang 20.

[40] Cả nước đã không còn hộ đói kinh niên, số hộ nghèo giảm rõ rệt. Số lao động được giải quyết việc làm trong 3 năm đạt khoảng 4,3 triệu người – Sđd, trang 38, 39.

[41] Sđd, trang 76.

[42] Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.

[43] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, trang 135.

[44] Sđd, trang 330.

[45] Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XI (2002 – 2007) gồm 137 dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết, trong đó có 118 dự án thuộc Chương trình chính thức (Nghị quyết số 12/2002/QH11).

[46] Những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Chuyên ngành: CNDVBC và CNDVLS, Mã số 5.01.02, Hà Nội- 2000.

[47] Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.

[48] Năm 2001 có 2325 xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa (Tạp chí Cộng sản, số 14, tháng 5/2003). Hiện nay cả nước có khoảng 2 nghìn xã nghèo, với 10 triệu người đói nghèo. Nếu tính theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới thì  có 28 triệu người đói nghèo (Tạp chí Cộng sản, số 19, tháng 7/2003).

[49] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,  Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, trang 31.

[50] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, trang 151.

[51] Báo cáo sơ kết 2 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 09 và Chương trình quốc gia Phòng chống tội phạm của Bộ Công an, năm 2001.

[52] Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật đất đai (1993-2003) của Bộ Tài nguyên và Môi trường (số 712/BTNMT-ĐĐ ngày 10/4/2003).

 

File đính kèm downloadTải về