PHẦN I
TỔNG THUẬT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Cùng với sự đổi mới và phát triển của nền kinh tế; Đảng và Nhà nước ta cũng không ngừng đổi mới về tổ chức, hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Trong bối cảnh đó, Bộ Tư pháp đã và đang được giao ngày càng nhiều các nhiệm vụ mới, trọng trách mới. Đặc biệt, từ năm 1993, Bộ Tư pháp được giao nhiều nhiệm vụ quản lý mới như: Công tác thi hành án dân sự, công tác trợ giúp pháp lý người nghèo, công tác bán đấu giá tài sản, công tác đăng ký giao dịch bảo đảm… Chỉ tính riêng các nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong Nghị định 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức Bộ Tư pháp so với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong Nghị định 38/CP ngày 4/6/1993 thì Bộ Tư pháp đã được bổ sung 24 nhiệm vụ mới.
Để đáp ứng cùng với sự phát triển về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp thì Thanh tra Bộ Tư pháp cũng như Thanh tra Sở Tư pháp (thanh tra tư pháp) có nhiệm vụ ngày càng tăng, góp phần thực hiện tốt việc quản lý Nhà nước theo chức năng của ngành. Hơn nữa trong đời sống xã hội của sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì hoạt động nghiệp vụ trong lĩnh vực tư pháp cũng ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng hơn.
Nhưng thực trạng trình độ nghiệp vụ của cán bộ thanh tra Tư pháp, nhất là nghiệp vụ chuyên ngành đặc thù của ngành, hiện vẫn chưa được củng cố và phát triển theo đúng yêu cầu đã đặt ra. Sở dĩ có sự chưa theo kịp được yêu cầu về nhiệm vụ đối với tình hình mới là do có những vấn đề vướng mắc cần được giải quyết như:
- Vấn đề tư tưởng nhận thức về vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra tư pháp đặc biệt là vấn đề trình độ nghiệp vụ trong hoạt động của Thanh tra Tư pháp.
- Vấn đề đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác Thanh tra Tư pháp.
- Vấn đề quan tâm của những người có trách nhiệm đối với công tác thanh tra.
- Vấn đề dảm bảo điều kiện đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ làm công tác thanh tra.
- Vấn đề cơ cấu tổ chức bộ máy Thanh tra Tư pháp sao cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định…
Đứng trước yêu cầu đó, đòi hỏi Thanh tra Tư pháp phải được đổi mới về hoạt động nghiệp vụ, mà chủ yếu là xu hướng nâng cao trình độ cán bộ làm công tác thanh tra tư pháp để đáp ứng được yêu cầu về nhiệm vụ trong hoàn cảnh mới. Thực trạng trên cho chúng ta thấy rằng cần phải có một cơ sở lý luận để làm sáng tỏ các vấn đề một cách khoa học, qua đó tạo điều kiện cho việc xây dựng một tổ chức Thanh tra tư pháp đủ mạnh đáp ứng được yêu cầu về nghiệp vụ để có thể đảm đương được nhiệm vụ, từ đó góp phần không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý Ngành.
2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Hoạt động của nghiệp vụ thanh tra nói chung và thanh tra Tư pháp nói riêng có phạm vi rất rộng, nó tác động trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Mỗi lĩnh vực mà ngành tư pháp quản lý có cách sử dụng, áp dụng nghiệp vụ thanh tra khác nhau. Việc nghiên cứu đầy đủ, toàn diện vấn đề này đòi hỏi phải có thời gian và điều kiện nhất định. Do vậy, trong phạm vi đề tài này chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu lý luận về khái niệm, trình tự, thủ tục cơ bản và thực trạng của hoạt động nghiệp vụ thanh tra Tư pháp trên một số lĩnh vực thiết thực, cơ bản đặc thù của ngành.
Qua việc thực hiện đề tài này, chúng tôi với mong muốn sẽ tạo ra một bước đột phá về cơ sở lý luận cũng như thực tiễn để thực hiện từng bước nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thanh tra trong ngành Tư pháp, nhằm đáp ứng nhiệm vụ thanh tra trong ngành.
3. Quá trình nghiên cứu và kết quả nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực tế tại nhiều địa phương và thanh tra các Bộ, Ngành khác như Thanh tra Bộ Tài chính, Thanh tra Bộ Công an, Thanh tra Bộ Xây dựng, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước… và tổ chức nhiều cuộc hội thảo, toạ đàm với các chuyên gia có kinh nghiệm và trình độ chuyên sâu về lĩnh vực thanh tra để đón nhận các ý kiến đóng góp cho đề tài.
Các phương pháp được sử dụng trong đề tài này bao gồm phương pháp thống kê, lịch sử, phân tích, so sánh, quy nạp… nhằm làm rõ bản chất của vấn đề một cách khoa học, qua đó tạo ra một cơ sở lý luận vững chắc cho đề tài; đồng thời có kết hợp với thực tiễn từ cơ sở và thực tế quản lý của Nhà nước ta trong điều kiện kinh tế thị trường, để đảm bảo tính khả thi của đề tài. Trên thực tế, đề tài này đã và đang được ứng dụng có hiệu quả, thể hiện rõ ở sự trưởng thành về hoạt động nghiệp vụ của Thanh tra Bộ và sự chuyển mình của Thanh tra Sở Tư pháp địa phương.
I/ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1/ Khái niệm công tác thanh tra
Hoạt động thanh tra chính là hoạt động của các cơ quan thanh tra nằm trong hệ thống các cơ quan Nhà nước, trong đó hoạt động thanh tra không phải bao gồm tất cả các hành vi thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước mà được coi là “một chức năng thiết yếu” của cơ quan quản lý Nhà nước.
Khái niệm thanh tra bắt nguồn từ tiếng La tinh “inspectare” nghĩa là nhìn vào bên trong. Theo từ điển tiếng Anh thì thanh tra là “inspect” có nghĩa là kiểm tra, xem xét kỹ lưỡng một cái gì đó. Trong từ điển tiếng Việt thì thanh tra là kiểm tra xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp.
Hoạt động thanh tra trong quản lý Nhà nước có nghĩa là kiểm tra xem xét một công việc được giao của cơ quan Nhà nước xem công việc đó được thực hiện đến đâu? Thực hiện như thế nào? Và căn cứ vào pháp luật chế độ chính sách của Đảng, Nhà nước để đưa ra kết luận kiến nghị của mình. Ở đâu có hoạt động quản lý Nhà nước, thì ở đó có hoạt động thanh tra. Hoạt động quản lý Nhà nước tới đâu, thì hoạt động thanh tra cũng tới đó. Hoạt động quản lý là loại hoạt động gì, thì hoạt động thanh tra cũng áp dụng chuyên môn nghiệp vụ đó.
Như vậy, công tác thanh tra là một loại hoạt động nghiệp vụ, trong đó có thể được phân ra như sau:
Thứ nhất: Trong quá trình thanh tra một lĩnh vực chuyên môn cụ thể thì phải áp dụng chuyên môn nghiệp vụ ở lĩnh vực đó.
Thứ hai: Trong quá trình hoạt động thanh tra ở bất kỳ lĩnh vực chuyên môn nào cũng đều phải áp dụng các quy trình nghiệp vụ của công tác thanh tra.
Hai loại hoạt động nghiệp vụ trên khác nhau về nội dung, cũng như phạm vi áp dụng. Nội dung về hoạt động nghiệp vụ thanh tra thứ hai là những nghiệp vụ chung nhất về trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra, các biện pháp tác nghiệp khi tiến hành. Nội dung này đòi hỏi phải có trong bất kỳ một cán bộ thanh tra trong các tổ chức thanh tra. Còn nội dung hoạt động nghiệp vụ thứ nhất chỉ đòi hỏi phải có ở mỗi cán bộ thanh tra cụ thể khi thực hiện nhiệm vụ trong một lĩnh vực chuyên môn nhất định. Hai hoạt động nghiệp vụ trên có tác động hỗ trợ, bổ sung cho nhau để giúp cho cán bộ thanh tra hoàn thành nhiệm vụ. Nừu một cán bộ thanh tra chỉ có nghiệp vụ chuyên môn thứ nhất mà không có nghiệp vụ chuyên môn thứ hai thì trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình dễ gặp vướng mắc mà không thể vượt qua. Ngược lại nếu chỉ có ở trình độ nghiệp vụ thứ hai mà không có trình độ ở nghiệp vụ thứ nhất thì kết quả công việc sẽ không có chất lượng. Như vậy, cả hai thái cực trên đều dẫn đến khả năng không hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Một trong các yêu cầu cơ bản của công tác thanh tra là đòi hỏi về nghiệp vụ chuyên môn; nếu một cán bộ thanh tra có trình độ nghiệp vụ tốt thì khả năng hoàn thành nhiệm vụ sẽ cao hơn. Trong tình hình hiện nay, với cơ chế của nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động xã hội đều có xu hướng ngày càng đa dạng, phong phú và đi vào chiều sâu, chuyên môn hoá cao thì vấn đề trình độ, chuyên môn của công tác thanh tra càng được coi là một yêu cầu cần thiết hơn bao giờ hết để hoàn thành nhiệm vụ.
Thanh tra Tư pháp là tổ chức nằm trong hệ thống các cơ quan Tư pháp (Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp), có chức năng chính là thanh tra, kiểm tra để giúp lãnh đạo làm nhiệm vụ quản lý Nhà nước trên nhiều lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Giám đốc Sở Tư pháp; đặc biệt có nhiều những lĩnh vực rất khó khăn thì yêu cầu về nghiệp vụ công tác thanh tra hiện nay càng đòi hỏi cấp bách hơn lúc nào hết về lý luận lẫn thực tiễn.
2/ Quá trình phát triển của công tác nghiệp vụ thanh tra.
Trước đây hoạt động công tác thanh tra Tư pháp còn rất mờ nhạt, chưa rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Sau khi tái thành lập vào năm 1981, ngày 15/11/1982, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ra Quyết định số 247/QĐ-TC về việc thành lập Ban thanh tra thuộc Bộ Tư pháp. Theo đó Ban thanh tra có chức năng, nhiệm vụ sau:
- Giúp Bộ trưởng thanh tra việc thực hiện chủ trương, phương hướng nhiệm vụ công tác của Bộ đối với các tổ chức Tư pháp và Toà án địa phương.
- Chỉ đạo và hướng dẫn công tác thanh tra cho các Toà án địa phương và các Sở Tư pháp thuộc phạm vi trách nhiệm của Bộ quản lý.
- Đôn đốc và thanh tra các cơ quan thuộc ngành Tư pháp và Toà án địa phương trong việc xét, giải quyết khiếu tố trong phạm vi trách nhiệm của Bộ Tư pháp.
Với chức năng , nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp lúc đó thì các lĩnh vực quản lý bao gồm: Quản lý luật sư, công chứng, giám định, hộ tịch quốc tịch, lý lịch tư pháp, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật… Sau khi có Nghị định 38/CP năm 1993 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp thì Bộ Tư pháp được giao thêm một số nhiệm vụ như quản lý công tác thi hành án dân sự, Toà án địa phương về mặt tổ chức (nay chuyển về Toà án nhân dân tối cao), quản lý tài chính đối với Toà án địa phương và các cơ quan thi hành án dân sự.
Ngoài ra, từ năm 1993 đến nay, Bộ Tư pháp lại được bổ sung một số nhiệm vụ như: Công tác trợ giúp pháp lý đối với người nghèo, quản lý công tác bán đấu giá tài sản, đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm… Và mới đây là việc ra đời của Nghị định 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp thì Bộ Tư pháp còn được bổ sung một số nhiệm vụ mới, trong đó có nhiệm vụ kiểm tra văn bản; là công việc trước đây thuộc ngành Kiểm sát, trong công tác kiểm sát chung. Đây là một công việc đã từng chiếm một tỷ trọng lớn trong hoạt động của ngành Kiểm sát.
Cùng với sự bổ sung về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp thì hoạt động của Thanh tra Tư pháp cũng mở rộng phạm vi hoạt động nghiệp vụ. Đặc biệt từ khi có chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực quản lý Nhà nước của ngành Tư pháp, như công chứng, cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, lý lịch tư pháp, đăng ký tài sản giao dịch, thi hành án dân sự…, với tính chất, mức độ ngày càng phức tạp. Công tác Thanh tra Tư pháp với vai trò giúp cho lãnh đạo quản lý ngành tốt hơn đã đứng trước một thực tế là ngày càng tham gia nhiều hơn, sâu hơn các lĩnh vực quản lý chuyên môn bằng nghiệp vụ của mình.
Từ chỗ, ban đầu hoạt động thanh tra Tư pháp chỉ là xem xét các đơn thư và chuyển đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết ; đến nay hoạt động thanh tra yêu cầu đòi hỏi phải có mặt hầu hết ở các mặt quản lý. Bên cạnh việc giải quyết các đơn thư, giúp Bộ trưởng giải quyết các khiếu nại, tố cáo trong ngành, thanh tra Bộ Tư pháp hàng năm đều có hoạt động thanh tra định kỳ, theo kế hoạch, do đó khối lượng công việc tăng lên không ngừng.
Cùng với thanh tra Bộ, thanh tra các Sở Tư pháp cũng có sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tương tự khi làm nhiệm vụ thanh tra Tư pháp tại địa phương. Sở dĩ như vậy vì hầu hết các đầu mối thuộc thẩm quyền quản lý Nhà nước của Bộ Tư pháp đều được phân cấp cho Sở Tư pháp theo thẩm quyền quản lý Nhà nước tại địa phương.
Như vậy, so với trước đây nhiệm vụ của Thanh tra Tư pháp chỉ là giúp Bộ trưởng giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo trong phạm vi chức năng nhiệm vụ, quyền hạn hẹp thì nay ngoài công việc đó trên phạm vi rộng hơn gấp nhiều lần. Thanh tra Tư pháp còn phải làm thêm những chức năng mới nữa, đó là chức năng thanh tra Nhà nước và thanh tra chuyên ngành.
Với những yêu cầu cần phải đáp ứng ngày càng cao nhiệm vụ của ngành trong tình hình mới, trong khi đó trình độ nghiệp vụ của cán bộ thanh tra Tư pháp còn chưa theo kịp những yếu cầu đó, thì việc nâng cao trình độ nghiệp vụ công tác cho cán bộ ngành thanh tra Tư pháp là một đòi hỏi khách quan và đang trở nên bức xúc hơn lúc nào hết.
II/ NỘI DUNG NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC THANH TRA TƯ PHÁP.
Là những yêu cầu nghiệp vụ kỹ năng, xử lý tình huống trong hoạt động thanh tra nói chung và những hiểu biết chuyên môn đối với từng ngành, lĩnh vực cụ thể mà người cán bộ thanh tra đó phải đạt được. Xét cho cùng, thì các yêu cầu nội dung nghiệp vụ thanh tra có mối quan hệ chặt chẽ với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật quy định cho tổ chức đó. Nghiệp vụ thanh tra tư pháp là những yêu cầu về trình độ, tiêu chuẩn, chức trách mà theo đó mỗi cán bộ thanh tra cần đạt được để áp dụng nó vào hoạt động công tác của mình. Mỗi cán bộ thanh tra tư pháp có hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình không, điều đó phụ thuộc rất lớn vào trình độ nghiệp vụ của họ.
1. Nghiệp vụ thanh tra chung:
Nghiệp vụ thanh tra chung là những yêu cầu về nghiệp vụ công tác thanh tra cơ bản nhất mà cán bộ thanh tra, thanh tra vien cần có. Theo pháp lệnh thanh tra được công bố ngày 01/4/1990, thì các tổ chức thanh tra Nhà nước có nhiệm vụ, quyền hạn như sau:
- Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch Nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân, trừ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, kiểm sát của các cơ quan Điều tra, Kiểm sát, Toà án, trọng tài giải quyết tranh chấp hộ đồng kinh tế.
- Xem xét, kiến nghị cấp có thẩm quyền giải quyết hoặc giải quyết theo thẩm quyền các khiếu nại, tố cáo.
- Trong phạm vi chức năng của mình, chỉ đạo tổ chức và hoạt động đối với cơ quan, tổ chức hữu quan.
- Tuyên truyền, hướng dẫn việc thực hiện pháp luật về thanh tra.
- Kiến nghị với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền những vấn đề quản lý Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành cádc quy định phù hợp với yêu cầu quản lý Nhà nước.
Trong quá trình thanh tra, các tổ chức Thanh tra Nhà nước có quyền:
- Yêu cầu cơ quan, đơn vị, cá nhân có biện pháp liên quan cung cấp thông tin cần thiết phục vụ cho việc thanh tra; yêu cầu cơ quan, đơn vị hữu quan cử người tham gia hoạt động thanh tra.
- Trưng cầu giám định.
- Yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp tài liệu, báo cáo bằng văn bản, trả lời những chất vấn của tổ chức thanh tra hoặc thanh tra viên; khi cần thiết tiến hành kiểm tra tài sản.
- Quyết định niêm phong tài liệu, kê biên tài sản, khi có căn cứ để nhận định có vi phạm pháp luật; ra quyết định yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép được cấp hoặc sử dụng trái pháp luật hoặc để xác minh tình tiết làm chứng cứ cho việc kết luận, xử lý.
- Đình chỉ việc làm xét thấy đang hoặc sẽ gây tác hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.
- Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định kỷ luật, thuyên chuyển công tác người đang cộng tác với tổ chức thanh tra hoặc đang là đối tượng thanh tra, nếu xét thấy việc thi hành quyết định gây trở ngại cho việc thanh tra.
- Cảnh cáo, tạm đình chỉ công tác nhân viên nhà nước cố ý cản trở việc thanh tra hoặc không thực hiện yêu cầu, kiến nghị, quyết định của tổ chức thanh tra hoặc thanh tra viên.
- Kết luận, kiến nghị hoặc quyết định xử lý theo quy định của pháp luật.
- Chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra hình sự có thẩm quyền giải quyết, nếu xét thấy có dấu hiệu cấu thành tội phạm.
Đối với Thanh tra Bộ có nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội và công dân theo thẩm quyền quản lý Nhà nước của Bộ.
- Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao của cơ quan, đơn vị, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp của thủ trưởng cùng cấp.
- Kiến nghị thủ trưởng cùng cấp giải quyết khiếu nại, tố cáo về vấn đề thuộc thẩm quyền của thủ trưởng cùng cấp; giải quyết khiếu nại, tố cáo mà thủ trưởng cơ quan đơn vị do thủ trưởng quản lý trực tiếp đã giải quyết, nhưng đương sự còn khiếu nại hoặc phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
- Hướng dẫn, kiểm tra thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý Nhà nước của Bộ về công tác thanh tra và xét giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Tạm đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ kiến nghị, quyết định không đúng về công tác thanh tra của cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý trực tiếp của thủ trưởng cùng cấp.
- Chỉ đạo công tác tổ chức và nghiệp vụ thanh tra đối với cơ quan đơn vị thuộc quyền quản lý trực tiếp của thủ trưởng cùng cấp; hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành cho thanh tra Sở.
- Kiến nghị thủ trưởng cùng cấp giải quyết những vấn đề công tác thanh tra; trong trường hợp kiến nghị không được chấp nhận, thì có quyền bảo lưu và báo cáo Tổng Thanh tra Nhà nước giải quyết.
Với những yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn nói trên, mỗi cán bộ Thanh tra Tư pháp phải tự xác định được vị trí, nội dung yêu cầu của công tác mà mình cần phải có, để từ đó có thể trang bị cho mình được những kiến thức cần thiết, qua đó đáp ứng được các yêu cầu của một công chức thanh tra trong ngành.
Trước hết công chức thanh tra phải đáp ứng các tiêu chuẩn nghiệp vụ được ban hành theo Quyết định số 818/TCCB-CP ngày 21/10/1993 của Bộ trưởng – Trưởng ban Tổ chức cán bộ Chính phủ về việc ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức ngành thanh tra Nhà nước. Trong đó, ngoài những tiêu chuẩn nghiệp vụ chung của các ngạch, bậc chuyên viên cùng cấp, thanh tra viên các cấp còn phải đáp ứng được các yêu cầu tiêu chuẩn ngành, lĩnh vực mà thanh tra viên công tác, như:
- Lập được kế hoạch tổ chức thực hiện các vụ việc thanh tra, xét khiếu nại, tố cáo.
- Trực tiếp thực hiện tổ chức việc phối hợp với các cơ quan, đơn vị hữu quan và phân công các thành viên trong đoàn thu thập chứng cứ, hồ sơ có liên quan đến vụ việc thanh tra, xét khiếu nại, tố cáo.
- Biết lập biên bản và viết báo cáo các loại rõ, đúng, sai, nguyên nhân, trách nhiệm; kiến nghị biện pháp giải quyết, chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về kết luận kíên nghị của mình, có khả năng thực hiện tốt được.
- Có khả năng áp dụng được các quyền hạn được quy định trong pháp lệnh thanh tra và văn bản pháp luật khác quy định.
- Tổ chức rút kinh nghiệm về việc được giao, bàn giao hồ sơ, tài liệu của cuộc thanh tra theo quy định của cấp có thẩm quyền.
- Nắm được chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để vận dụng vào hoạt động thanh tra.
- Nắm được nguyên tắc, chế độ, thể lệ trong quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội, quản lý Nhà nước, có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ chuyên ngành.
- Am hiểu tình hình kinh tế – xã hội.
- Nắm chắc quy trình nghiệp vụ thanh tra.
- Có khả năng tổ chức và tập hợp quần chúng để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
- Có năng lực phân tích, tổng hợp, đánh giá tình hình hoạt động quản lý theo yêu cầu.
- Có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ chuyên ngành theo lĩnh vực được phân công, đảm nhận.
Để có được những tiêu chuẩn như vậy, cán bộ thanh tra phải tích luỹ kinh nghiệm, trải qua các cuộc thanh tra, qua các công việc như: xét đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân và các công việc hành chính khác. Chính vì vậy, một trong các điều kiện xét bổ nhiệm thanh tra viên là phải có một thời gian công tác nhất định trong ngành thanh tra. Tuy nhiên, xét ở một góc độ khác thì không phải ai có được thời gian công tác nhất định cũng đều được bổ nhiệm thanh tra viên, mà vấn đề cơ bản trong thời gian đó cán bộ thanh tra đó đã tích luỹ cho mình đầy đủ những kiến thức về nghiệp vụ thanh tra chưa. Đó mới chính là điều kiện cơ bản để xem xét bổ nhiệm Thanh tra viên.
Trong ngạch thanh tra thì Thanh tra viên là cấp được bổ nhiệm khởi đầu. để được bổ nhiệm Thanh tra viên chính hay Thanh tra viên cao cấp thì đòi hỏi trình độ nghiệp vụ ở mức độ tương ứng cao hơn.
Như vậy, tiêu chuẩn về nghiệp vụ thanh tra không phải sau khi được bổ nhiệm Thanh tra viên là đã đáp ứng được toàn bộ các yêu cầu mà có những cấp độ ngày càng cao hơn. Do đó, sự phấn đấu về nghiệp vụ thanh tra là một quá trình diễn ra liên tục, đòi hỏi mỗi cán bộ thanh tra phải không ngừng phấn đấu để nâng cao trình độ nghiệp vụ cho bản thân thì mới đáp ứng được yêu cầu về nhiệm vụ.
2. Nghiệp vụ thanh tra trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Khiếu nại, tố cáo là vấn đề rất bức xúc hiện nay và vì vậy việc giải quyết khiếu nại tố cáo cũng rất phức tạp. Bởi nó liên quan trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân, nhất là trong thời kỳ quá độ. Chuyển đổi từ một nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thanh tra Tư pháp với vai trò là đầu mối giúp Bộ trưởng, Giám đốc Sở trong lĩnh vực này cũng gặp nhiều khó khăn. Việc xác minh, kết luận, kiến nghị trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo không những gặp khó khăn do pháp luật còn chưa hoàn thiện mà còn do kết quả của yếu tố lịch sử để lại. Trên thực tế hiện nay, có nhiều vụ việc khiếu kiện kéo dài, giải quyết qua nhiều ngành, nhiều cấp nhưng vẫn không kết thúc được. Trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo, mỗi kết luận, kiến nghị về một vấn đề luôn có liên quan đến lợi ích của các bên tham gia, nhưng kết luận, kiến nghị lại chỉ đáp ứng được quyền lợi cho một bên, do đó rất dễ dẫn đến khiếu kiện. Điều đó đòi hỏi cán bộ thanh tra khi kết luận, kiến nghị về một vấn đề phải khách quan, vô tư, giỏi về áp dụng pháp luật, có nghiệp vụ, đồng thời mỗi lý lẽ đưa ra phải đảm bảo tính thuyết phục với các bên có liên quan trong vụ kiện.
Trong giải quyết khiếu nại, tố cáo còn một lĩnh vực rất đáng quan tâm nữa đó là vấn đề tiếp dân. đến nay xu hướng người khiếu nại, tố cáo ngày càng đông, tính chất phức tạp cũng tăng lên. Người dân đến khiếu kiện thường có một tâm trạng rất bức xúc, một số trường hợp gây mất trật tự nơi công sở, làm ảnh hưởng tới sự tôn nghiêm của pháp luật.
Thanh tra Tư pháp là đầu mối giúp Bộ trưởng và Giám đốc Sở Tư pháp trong lĩnh vực tiếp công dân, do vậy cũng cần đến cán bộ có đủ tài, đức, thì mới làm tròn nhiệm vụ. Trong lĩnh vực này người cán bộ tiếp dân cần phải nhẫn nại, lắng nghe ý kiến trình bày của người dân tránh gây phiền hà, sách nhiễu người dân. Cán bộ tiếp dân cũng phải nắm chắc kiến thức pháp luật trong mọi lĩnh vực thì mới có thể giải thích, hướng dẫn người dân đi đến đúng nơi cần đến, biết được nội dung mình cần khiếu nại.
Theo quy chế tổ chức tiếp công dân của Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 89/CP ngày 7/8/1997 của Chính phủ thì cán bộ được giao nhiệm vụ tiếp dân phải là người có phẩm chất tốt, liêm khiết, trung thực, có năng lực chuyên môn, am hiểu thực tế, nắm vững chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện nhiệt tình và trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao.
Như vậy, ngoài các tiêu chuẩn thanh tra nói chung, cán bộ thanh tra làm công tác tiếp dân còn được yêu cầu chặt chẽ về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, sự hiểu biết về chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, sự nhiệt tình trách nhiệm đối với công việc được giao. Các yêu cầu này xuất phát từ công tác tiếp dân, đó là công việc luôn luôn tiếp xúc với người dân có những quyền và nghĩa vụ xung đột nhau. Họ đến cơ quan Nhà nước với tâm trạng bức xúc, thiếu bình tĩnh; cùng với sự thiếu hiểu biết về chính sách, pháp luật họ thường gây ra những rắc rối cho cơ quan Nhà nước mà trực tiếp là cán bộ tiếp dân. Đối với những trường hợp như vậy, cán bộ tiếp dân phải hết sức bình tĩnh, hiểu biết, thông cảm, nếu không dễ dẫn đến nóng nảy, có hành vi thiếu tôn trọng người dân. Việc tiếp xúc với dân cũng dễ làm nảy sinh các tiêu cực khác như vòi vĩnh, nhận hối lộ, tham ô của dân. Vì thế đòi hỏi cán bộ tiếp dân phải liêm khiết, trung thực.
Như vậy, cho thấy bên cạnh những nghiệp vụ thanh tra cơ bản, công tác tiếp dân đòi hỏi cán bộ tiếp dân phải có tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt tình với công việc, liêm khiết, đạo đức cách mạng cao thì mới đáp ứng được công việc được giao.
3. Nghiệp vụ Thanh tra Tư pháp trong lĩnh vực chuyên môn.
Như ta biết, Thanh tra ngành Tư pháp hoạt động trong phạm vi các lĩnh vực nghiệp vụ rất rộng. Điều đó, do chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong ngành Tư pháp quyết định.
Theo quy định tại Nghị định 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp thì Bộ Tư pháp có những nhiệm vụ sau:
1. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch dài hạn năm năm và hàng năm thuộc các lĩnh vực quản lý Nhà nước của Bộ.
2. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch sau khi được phê duyệt và các văn bản pháp luật khác thuộc phạm vi quản lý của Bộ.
3. Về công tác xây dựng pháp luật:
a. Lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh về những vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ và theo dõi việc thực hiện chương trình đó sau khi được quyết định.
b. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các dự án luật, pháp lệnh và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về các lĩnh vực quản lý Nhà nước của các Bộ và các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo sự phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
c. Ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư thuộc các lĩnh vực quản lý Nhà nước của Bộ.
d. Trực tiếp tham gia xây dựng các dự án luật, pháp lệnh do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ soạn thảo.
đ. Thẩm định các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo điều ước quốc tế theo quy định của pháp luật.
e. Hướng dẫn, kiểm tra công tác rà soát, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế thuộc các lĩnh vực quản lý của Bộ.
4. Về kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật:
a. Thống nhất quản lý công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; hướng dẫn, kiểm tra công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật.
b. Thực hiện kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành về những nội dung liên quan đến các lĩnh vực quản lý Nhà nước do Bộ phụ trách.
c. Giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Yhành phố trực thuộc Trung ương theo quy định của pháp luật; kiến nghị xử lý, xử lý theo thẩm quyền hoặc xử lý theo uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ các văn bản trái pháp luật.
5. Về phổ biến, giáo dục pháp luật:
a. Thống nhất quản lý công tác phổ biến giáo dục pháp luật.
b. Thông tin pháp luật, biên soạn, xuất bản, phát hành các tài liệu phục vụ công tác phổ bíên, giáo dục pháp luật.
c. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về các lĩnh vực quản lý Nhà nước của Bộ.
d. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, trường học.
6. Về thi hành án dân sự:
a. Thống nhất quản lý công tác thi hành án dân sự.
b. Quản lý thống nhất hệ thống tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự từ Trung ương đến địa phương theo quy định của pháp luật.
c. Chỉ đạo việc thi hành và trực tiếp thi hành các bản án, quyết định của Toà án theo quy định của pháp luật.
7. Thống nhất quản lý về công chứng, chứng thực, hộ tịch, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, quốc tịch, lý lịch tư pháp và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong các lĩnh vực này theo quy định của pháp luật.
8. Thống nhất quản lý về tổ chức và hoạt động của luật sư trong nước, luật sư nước ngoài tại Việt Nam; về tổ chức và hoạt động tư vấn pháp luật, hoạt động giám định tư pháp, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật.
9. Thống nhất quản lý và thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, đối tượng chính sách và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật; quản lý, sử dụng quỹ trợ giúp pháp lý ở Trung ương và hướng dẫn việc sử dụng các nguồn tài trợ trợ giúp pháp lý ở địa phương.
10. Thống nhất quản lý về đăng ký giao dịch bảo đảm; thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, tài sản cho thuê tài chính và các giao dịch tài sản khác theo quy định của pháp luật.
11. Hướng dẫn, kiểm tra về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở.
12. Thống nhất quản lý các hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp luật; thực hiện hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật.
13 Nghiên cứu khoa học pháp lý; phát triển và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học pháp lý trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước của Bộ.
14. Xây dựng và phát triển các cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản quy phạm pháp luật, giao dịch bảo đảm, công chứng, hộ tịch, lý lịch tư pháp và cơ sở dữ liệu khác theo quy định của pháp luật.
15. Quyết định các chủ trương, biện pháp cụ thể và chỉ đạo việc thực hiện cơ chế hoạt động của các tổ chức dịch vụ thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật; quản lý và chỉ đạo hoạt động đối với các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ.
16. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động của Hội, tổ chức phi chính phủ, thuộc các lĩnh vực quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật.
17. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, tiêu cực và xử lý các vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ.
18. Về cải cách hành chính:
a. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả cải cách thể chế hành chính Nhà nước.
b. Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Bộ theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính Nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
19. Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế; chỉ đạo thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức thuộc phạm vi quản lý của Bộ; xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp và bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh tư pháp thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ; đào tạo cán bộ pháp lý; đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp theo quy định của pháp luật.
20. Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân sách được phân bổ theo quy định của pháp luật.
Như vậy, sau Nghị định 62/2003/NĐ-CP, Bộ Tư pháp được bổ sung nhiều chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác như tổ chức trợ giúp pháp lý người nghèo, câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp, quản lý trung tâm bán đấu giá tài sản, đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, thuê tài chính, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật… Đồng thời với việc tăng cường chức năng, nhiệm vụ , quyền hạn, hầu hết các nhiệm vụ quản lý khác của ngành cũng được tăng cường như: công tác quản lý hộ tịch có yếu tố nước ngoài, công tác hợp tác quốc tế, thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, công chứng, luật sư, tư vấn pháp luật…
Hiện nay Thanh tra Bộ cùng các đơn vị chức năng đã dự thảo Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp theo đó đã phát sinh một số hoạt động quan trọng của thanh tra ngành tư pháp đó là thanh tra chuyên ngành xử phạt vi phạm hành chính. đây là những công việc mới đòi hỏi phải có sự đầu tư về trình độ nghiệp vụ mà Thanh tra Tư pháp cần có sự chuẩn bị ngay từ bây giờ, để có thể chủ động khi bắt đầu công việc.
Đối với mỗi đầu mối công tác nghiệp vụ nêu trên đều đòi hỏi những yêu cầu về trình độ nghiệp vụ nhất định mới có khả năng thanh tra, kiểm tra đem lại hiệu quả, chính vì vậy, muốn có được trình độ nghiệp vụ thanh tra đòi hỏi mỗi cán bộ thanh tra Tư pháp phải có tâm huyết về nghiệp vụ, khả năng tự rèn luyện phấn đấu không ngừng để nâng cao trình độ.
Bên cạnh đó, để xây dựng được một đội ngũ cán bộ thanh tra tư pháp giỏi lãnh đạo Bộ Tư pháp, lãnh đạo các Sở Tư pháp, lãnh đạo các cơ quan đơn vị có liên quan cũng cần quan tâm hơn nữa đến việc bồi dưỡng tăng cường nghiệp vụ thanh tra cho cán bộ thanh tra ngành Tư pháp.
Các đầu mối về nghiệp vụ thanh tra Tư pháp đã mở rộng, hơn nữa mỗi lĩnh vực lại rất phức tạp nên đòi hỏi trình độ nghiệp vụ rất chuyên sâu mới có thể kiểm tra, thanh tra đạt hiệu quả. Tính chất phức tạp trong nghiệp vụ thanh tra tư pháp còn được thể hiện ơr chỗ trong các công tác nghiệp vụ đó đều có những mối quan hệ đa chiều rất phức tạp, chẳng hạn như vấn đề quản lý luật sư, hộ tịch, công chứng, giám định, quốc tịch, lý lịch tư pháp, thi hành án… Để giải quyết được một vụ việc cần phải quan hệ, phối hợp với nhiều cơ quan, đơn vị có liên quan. Ví dụ: để giải quyết việc cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi thì Thanh tra tư pháp cần phối hợp với nhiều cơ quan như: Công an, Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em, bệnh viện, bên cho con nuôi, bên nhận con nuôi, chính quyền địa phương…
Do đó, vấn đề nghiệp vụ thanh tra tư pháp không mang tính nghiệp vụ đơn thuần mà đòi hỏi cán bộ thanh tra ngoài những kiến thức nghiệp vụ chuyên môn còn phải có những kiến thức tổng hợp, khả năng ứng xử thích hợp trong những trường hợp cụ thể.
Trong lĩnh vực hoạt động chuyên môn thuộc ngành Tư pháp có thể nói là rất rộng vì có nhiều lĩnh vực quản lý. Điều này sẽ là một khó khăn cho can bộ thanh tra thuộc ngành Tư pháp trau dồi nghiệp vụ của mình để đáp ứng được với yêu cầu của ngành. Tuy nhiên, theo chúng tôi, dù có nhiều lĩnh vực chuyên môn thì các lĩnh vực nghiệp vụ mà thanh tra ngành tư pháp cần phải chú trọng có thể chia ra các loại cơ bản như sau:
Thứ nhất: Thanh tra trong lĩnh vực quản lý tài chính.
Quản lý tài chính không phải là nhiệm vụ trọng tâm trong ngành Tư pháp nhưng lại là vấn đề ở mọi nơi, mọi lúc luôn cần thiết, vì những tiêu cực trong quản lý Nhà nước thường có liên quan đến vấn đề này. Do đó, trong quản lý tài chính yêu cầu phải được tiến hành thanh tra, kiểm tra thường xuyên, liên tục.
Trong ngành tư pháp có thể chia ra các lĩnh vực về tài chính cần thanh tra và kiểm tra như sau:
+ Thanh tra sử dụng kinh phí ngân sách hành chính thuộc ngành Tư pháp: sử dụng kinh phí của các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, các cơ quan thi hành án dân sự…
+ Thanh tra việc sử dụng kinh phí ở đơn vị hành chính sự nghiệp có thu trong các cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của ngành tư pháp như: trường đại học Luật Hà Nội, Báo pháp luật, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật…
+ Thanh tra thu, chi kinh phí từ hoạt động nghiệp vụ thi hành án dân sự.
Nghiệp vụ thanh tra tài chính ngành Tư pháp chủ yếu tập trung vào lĩnh vực kinh phí hành chính sự nghiệp, còn vấn đề tài chính doanh nghiệp thì chúng ta chỉ dừng lại ở mức độ tham khảo. Vì ngành tư pháp không quản lý các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Trong lĩnh vực thanh tra tài chính ngành tư pháp cán bộ thanh tra không những cần phải có nghiệp vụ về kế toán tài chính, nắm được các nguyên tắc thu, chi tài chính và chế độ áp dụng trong ngành Tư pháp mà còn phải biết vận dụng linh hoạt những hiểu biết đó vào công tác thanh tra, kiểm tra có như vậy mới mong đạt được kết quả tốt trong công tác thanh tra. Chẳng hạn việc vận dụng chế độ, chính sách về thu chi tài chính phải phù hợp với tính chất công việc của địa phương, đặc điểm địa lý, kinh tế – xã hội ở địa phương đó. Ví dụ: Đối với việc thu chi tài chính ở các địa phương vùng sâu, vùng xa, miền núi… thì việc áp dụng các chế độ cấp phát, chi tiêu cũng phải căn cứ vào từng đặc điểm cụ thể để thực hiện cho phù hợp.
Trong thanh tra tài chính ngành tư pháp có những lĩnh vực đòi hỏi nghiệp vụ chuyên môn sâu hơn mà cán bộ thanh tra Tư pháp cần phải biết để nâng cao trình độ nghiệp vụ tương ứng như thanh tra về sử dụng kinh phí trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, hoạt động sự nghiệp có thu. Đối với các lĩnh vực này, ngoài các kiến thức nêu trên, cán bộ thanh tra cần phải nắm thêm các yêu cầu về nghiệp vụ riêng như kiến thức về thanh tra xây dựng cơ bản, kiến thức về hoạt động tài chính của các cơ quan hoạt động sự nghiệp có thu.
Thứ hai: Thanh tra trong lĩnh vực quản lý chuyên môn nghiệp vụ:
Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp là các cơ quan quản lý theo ngành về chuyên môn, nghiệp vụ là chủ yếu do đó tính chất quản lý chuyên môn, nghiệp vụ là rất quan trọng. Hiện ngành tư pháp được giao quản lý tới hàng chục đầu mối về chuyên môn nghiệp vụ, trong đó có những hoạt động chuyên môn rất phức tạp, như: Công chứng, hộ tịch, luật sư, tư vấn pháp luật, thi hành án dân sự…
Đặc điểm trong lĩnh vực quản lý chuyên môn của ngành Tư pháp đó là trong lĩnh vực quản lý đều có những văn bản pháp lý riêng biệt điều chỉnh, có đối tượng và phạm vi điều chỉnh khác nhau, do đó cán bộ thanh tra cũng phải có trình độ nghiệp vụ thanh tra tương ứng khi thực hiện nhiệm vụ.
Sự đa dạng và phức tạp của các lĩnh vực về chuyên môn nghiệp vụ cũng đặt ra yêu cầu lớn hơn đối với cán bộ thanh tra và thanh tra viên trong ngành Tư pháp. Do đó mỗi cán bộ thanh tra, thanh tra viên ngành Tư pháp không những phải hiểu được những vấn đề về nghiệp vụ thanh tra nói chung một cách sâu sắc mà còn cần phải nắm chắc từng hoạt động của các lĩnh vực chuyên môn của ngành quản lý thì mới có thể tham gia các hoạt động thanh tra của ngành một cách có hiệu quả. Cụ thể như: Khi tiến hành thanh tra công tác thi hành án dân sự thì cán bộ thanh tra cần phải nắm được chuyên môn nghiệp vụ của công tác thi hành án, phải nghiên cứu các văn bản liên quan đến công tác quản lý đối với hoạt động này, như pháp lệnh thi hành án dân sự, Nghị định 69/CP ngày 18/10/1993 của Chính phủ về thủ tục thi hành án dân sự, Nghị định 30/CP ngày 2/6/1993 của Chính phủ về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự… Tương tự như vậy, khi thanh tra về hoạt động công chứng, hộ tịch, luật sư, tư vấn… thì đòi hỏi cán bộ thanh tra cũng phải có kiến thức thực tế về vấn đề đó thì mới có thể thực hiện nhiệm vụ một cách có hiệu quả.
Thứ ba: Thanh tra trong lĩnh vực về tổ chức.
Ngoài sự quản lý về tổ chức biên chế đối với cơ quan đơn vị thuộc ngành tư pháp, ngành Tư pháp còn được giao quản lý về tổ chức đối với các cơ quan thi hành án dân sự và phối hợp với Uỷ ban nhân dân các cấp để quản lý về vấn đề tổ chức, nhân sự đối với các lĩnh vực mà ngành tham gia quản lý.
Nội dung thanh tra về lĩnh vực tổ chức bao gồm: Việc tuyển chọn thi tuyển biên chế, sắp xếp cơ cấu tổ chức bộ máy, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, quản lý cán bộ… Trong lĩnh vực tổ chức, cán bộ thanh tra và thanh tra viên cần nắm chắc về chế độ của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ, công chức, vấn đề lao động, tiền lương các quy định của ngành về tiêu chuẩn cán bộ. Bên cạnh đó cán bộ thanh tra và thanh tra viên cũng cần phải nắm được những yêu cầu cụ thể của mỗi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể về chính sách cán bộ. Có như vậy chúng ta mới có thể đưa ra được những nhận xét, kết luận, kiến nghị chính xác trong quá trình thanh tra về lĩnh vực tổ chức.
Như vậy, nghiệp vụ thanh tra về lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ ngành Tư pháp về cơ bản có thể chia ra làm 3 lĩnh vực như trên. Trong mỗi lĩnh vực, mỗi cán bộ thanh tra Tư pháp đều cần có những kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, cũng như các yêu cầu nhất định về kiến thức xã hội, thì mới có thể hoàn thành nhiệm vụ.
Bên cạnh những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ riêng, cán bộ thanh tra Tư pháp cũng cần phải biết kết hợp chũng với nhau để tạo thành kiến thức tổng hợp phục vụ cho công tác. Chẳng hạn, thanh tra về công tác bán đấu giá tài sản để thi hành án thì chắc chắn có liên quan đến công tác thi hành án; do đó phải kết hợp giữa công tác thanh tra về bán đấu giá với các quy định về xử lý tài sản thi hành án. Hoặc thanh tra về công tác thu chi tiền thi hành án thì cũng cần kết hợp với hoạt động sử dụng kinh phí hành chính sự nghiệp, để phát hiện những trường hợp cùng một nghịêp vụ tài chính nhưng thanh toán ở hai nguồn kinh phí khác nhau…
Qua việc phân loại nghiệp vụ như trên sẽ dễ dàng cho mỗi cán bộ thanh tra và thanh tra viên ngành Tư pháp có được cái nhìn tổng quát về các lĩnh vực hoạt động của ngành, qua đó có được chiến lược phát triển, trau dồi nghiệp vụ, đưa ra được phương pháp, kế hoạch cho riêng mình, để đáp ứng được yêu cầu của ngành đề ra.
4. Nghiệp vụ bổ trợ công tác thanh tra.
Trong hoạt động thanh tra, bên cạnh những chuyên môn nghiệp vụ đã phân tích ở các phần trên, mỗi cán bộ thanh tra và thanh tra viên có các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. để hoàn thành những nhiệm vụ đó cũng cần phải có những kỹ năng nghề nghiệp nhất định thì mới có thể nắm bắt, khai thác được những thông tin cần thiết, xử lý tốt các tình huống để phục vụ cho hoạt động thanh tra.
Người cán bộ thanh tra giỏi không chỉ dựa vào chuyên môn mà phải biết xử lý các tình huống khó, biết sử dụng quyền năng của mình một cách phù hợp, không quá lạm dụng quyền, cũng không nên quá dè dặt; cả hai thái cực đó đều dẫn đến hiệu quả công việc không như mong muốn.
Trong nhiều trường hợp, do không sử dụng tốt quyền năng hay không xử lý đúng khi tình huống xảy ra mà dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ.
Trong pháp lệnh thanh tra có quy định 9 quyền đối với tổ chức thanh tra Nhà nước như:
+ Quyền yêu cầu cung cấp thông tin;
+ Quyền trưng cầu giám định;
+ Quyền yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo và cung cấp tài liệu;
+ Quyền niêm phong tài liệu, kê biên tài sản, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép được cấp;
+ Quyền đình chỉ việc làm;
+ Quyền tạm đình chỉ Quyết định kỷ luật, thuyên chuyển công tác người đang công tác với tổ chức thanh tra hoặc đang là đối tượng thanh tra;
+ Quyền cảnh cáo, tạm đình chỉ nhân viên Nhà nước;
+ Quyền kết luận, kiến nghị hoặc quyết định xử lý theo quy định của pháp luật;
+ Quyền chuyển hồ sơ sự việc sang cơ quan điều tra hình sự.
Việc sử dụng đối với mỗi quyền lại phải được xem xét trong mỗi điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, và trong mỗi quyền đó khi được thực hiện cũng phải có những yêu cầu, thủ tục, các bước tiến hành rất cụ thể; nếu không sẽ làm mất tác dụng của việc áp dụng quyền. Ví dụ: trong việc lấy lời khai của đối tượng thanh tra, thì tuỳ từng trường hợp, từng đối tượng, nội dung sự việc mà thanh tra viên sẽ phải tổ chức cuộc đối thoại như thế nào, chuẩn bị nội dung các câu hỏi ra sao mới mong có kết quả tốt. Hoặc cùng trong một sự việc về thu thập chứng cứ, nếu thanh tra viên xác định đúng hướng và phương pháp thu thập đúng đắn thì nhận được chứng cứ tốt, ngược lại sẽ không thu thập được chứng hoặc thu thập được chứng cứ không có giá trị.
Nếu như, trong hoạt động nghiệp vụ thông thường thì để có nghiệp vụ tốt cán bộ thanh tra và thanh tra viên có thể tự nâng cao bằng cách nghiên cứu, học hỏi, nhưng trong công tác bổ trợ thanh tra để có cách xử lý tốt các tình huống trong thanh tra, xử dụng tốt các quyền năng thanh tra thì ngoài việc học hỏi, nghiên cứu, cán bộ thanh tra và thanh tra viên còn phải có kiến thức thực tế và hiểu biết về kiến thức xã hội sâu sắc.
Trên đây là 4 nhóm nghiệp vụ công tác thanh tra mà mỗi cán bộ thanh tra viên ngành Tư pháp cần nắm được, qua đó có thể có được kế hoạch tự tìm hiểu bồi dưỡng nghiệp vụ cho mình để đáp ứng được những yêu cầu của ngành. Tuy nhiên, không phải ở mọi nơi, mọi lúc cán bộ thanh tra và thanh tra viên trong ngành đều phải cùng một lúc nghiên cứu tất cả mọi lĩnh vực; mà tuỳ từng điều kiện, hoàn cảnh và yêu cầu của ngành ở mỗi giai đoạn và công việc cụ thể mà có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ vào những từng lĩnh vực cần chú trọng. Chẳng hạn, để tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của ngành về lĩnh vực cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, hay thi hành án dân sự, thì ta có thể tập trung vào vấn đề đó nhiều hơn.
Tuy nhiên, nếu thanh tra viên mới chỉ đạt được các yêu cầu tiêu chuẩn nghiệp vụ như nêu trên thì mức độ hoàn thành công việc của thanh tra viên chỉ được coi là trung bình. Khả năng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của thanh tra viên còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, như các tình huống phát sinh ngoài dự tính, các yếu tố gây cản trở công tác thanh tra… Nếu không tỉnh táo để vượt qua được những rào cản đó thì mức độ hoàn thành công việc sẽ bị hạn chế, đôi khi dẫn đến thất bại. Do vậy, ngoài các yêu cầu trên các thanh tra viên còn phải tự trang bị cho mình những khả năng thuộc về nghề nghiệp, như bản lĩnh nghề nghiệp, linh cảm nghề nghiệp, khả năng phán đoán diễn biến của công việc, phán đoán được phản ứng của các đối tượng thanh tra đối với kết quả thanh tra, khả năng xử lý linh hoạt các tình huống phát sinh trong thanh tra…
III/ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC NGHIỆP VỤ THANH TRA VÀ GIẢI PHÁP.
1. Thực trạng:
Như trên cho thấy, trong ngành tư pháp, để đào tạo, bồi dưỡng một cán bộ thanh tra, hoặc thanh tra viên giỏi đòi hỏi rất nhiều công sức.
Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng qua các lớp nghiệp vụ họ còn phải trải qua thời gian hoạt động thực tế tương đối dài và tự thân mỗi cán bộ thanh tra phải có một quá trình học hỏi, nghiên cứu, trau dồi, phấn đấu thì mới hội tụ đủ các yếu tố để thực hiện tốt công việc của một đoàn viên trong đoàn thanh tra hay đảm đương nhiệm vụ của một trưởng đoàn thanh tra và thực hiện các công việc khác về thanh tra.
Tuy nhiên, thực trạng về trình độ, nghiệp vụ thanh tra trong ngành Tư pháp thực sự còn rất hạn chế về nhiều mặt, cụ thể như sau:
+ Thanh trư Bộ, ngành nói chung, cũng như Thanh tra Bộ tư pháp nói riêng, theo pháp lệnh thanh tra có nhiệm vụ hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra ngành cho thanh tra các Sở Tư pháp. Song trên thực tế mối liên hệ giữa thanh tra Bộ và thanh tra các Sở Tư pháp còn rất hạn chế. Sở dĩ như vậy là do hiện nay thanh tra các Sở Tư pháp còn ít về số lượng, công việc phụ thuộc vào Giám đốc các Sở Tư pháp giao cho và thường là giúp giải quyết về hành chính đơn thư khiếu nại, tố cáo cho Giám đốc Sở, nên thanh tra Sở ít có việc để báo cáo hoặc trao đổi nghiệp vụ với thanh tra Bộ.
+ Đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra trong các Sở Tư pháp hầu hết được điều động rất tỳu tiện, theo ý muốn chủ quan của Giám đốc Sở Tư pháp nên thường xuyên bị xáo trộn. Từ đó dẫn đến việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ thanh tra các Sở Tư pháp còn gặp khó khăn. Chẳng hạn có những Sở tư pháp một năm thay đến 3 cán bộ làm công tác thanh tra; có Sở bố trí vào thanh tra trong khi chờ nhiệm vụ mới; nhiều Sở không bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác thanh tra; không thành lập thanh tra Sở.
+ Hầu hết cán bộ làm công tác thanh tra trong ngành đều mới chỉ tốt nghiệp Đại học Luật, không có kiến thức về tài chính kế toán, xây dựng nên rất khó thực hiện các cuộc thanh tra về tài chính, đặc biệt là về xây dựng cơ bản.
+ Hàng năm các cuộc thanh tra trong ngành chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Như vậy, về lĩnh vực quản lý đã rộng nhưng cán bộ thanh tra lại rất ít cọ sát với thực tế nên rất khó có thể nâng cao được trình độ nghiệp vụ.
Có thể thấy thực trạng về nghiệp vụ thanh tra trong ngành Tư pháp hiện nay chưa đáp ứng về nghiệp vụ. điều đó có thể xác định được do các nguyên nhân cơ bản sau:
+ Do công tác thanh tra trong ngành Tư pháp chưa được chú trọng đúng mức; nhiều nơi, nhiều lúc, thanh tra được coi là cái túi đựng những cán bộ không có năng lực, sắp nghỉ hưu hoặc chỗ đứng tạm thời.
+ Do các quy định của pháp luật về tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn về thanh tra còn nhiều bất cập, các quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn không rõ ràng và nặng về hình thức; quyền năng chưa tương xứng để thực hiện nhiệm vụ.
+ Trong khi đó các chế độ, chính sách đối với cán bộ thanh tra lại chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến cán bộ thanh tra chưa yên tâm công tác.
+ Do thanh tra ngành Tư pháp hoạt động nhưng chưa có những chiến lược, kế hoạch phát triển đồng bộ trong toàn ngành; thường hoạt động mang tính rời rạc, đơn lẻ mà không có sự chỉ đạo thống nhất từ trên xuống.
Thanh tra Tư pháp hiện đang đứng trước yếu cầu phải hoàn thiện, tăng cường về nghiệp vụ để đáp ứng được nhiệm vụ của ngành. Chúng tôi cũng coi đây là một trong những bước quan trọng để thúc đẩy quá trình kiện toàn về tổ chức đối với hệ thống thanh tra ngành tư pháp.
2. Giải pháp.
Như trên đã cho thấy tăng cường nghiệp vụ công tác thanh tra là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. đây là một yêu cầu thống nhất giữa lý luận và thực tiễn công tác nghiệp vụ thanh tra trong ngành Tư pháp hiện nay. Khi bàn về công tác quản lý, Lênin đã khẳng định: “Quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản lý và thanh tra là một chứ không phải là hai”.
Để thực hiện được quan điểm của Lênin nói trên, chúng ta phải có những biện pháp tăng cường cho đội ngũ cán bộ thanh tra Tư pháp về mọi mặt, trong đó công tác nghiệp vụ là quan trọng và cần được tiến hành càng sớm càng tốt.
Để tăng cường công tác nghiệp vụ thanh tra Tư pháp, chúng tôi xin đưa ra một số biện pháp sau:
Biện pháp 1: Cải tiến quan hệ về công tác thanh tra.
Bằng những biện pháp tuyên truyền, giải thích và bằng chính những kết quả thanh tra trong ngành Tư pháp, qua đó giúp cho mọi người thấy rõ vai trò của thanh tra đối với công tác quản lý; từ đó xoá bỏ suy nghĩ coi nhẹ thanh tra, coi thanh tra là “bánh xe thứ năm”, là cái “túi”… Khi đã nhận thức đúng những quan niệm về công tác thanh tra thì chắc chắn sẽ là những bước tiếp theo để tăng cường hoạt động thanh tra, qua đó thúc đẩy công tác nghiệp vụ. Đồng thời tăng cường mối quan hệ trao đổi nghiệp vụ thường xuyên giữa thanh tra Bộ và thanh tra Sở Tư pháp, giữa thanh tra Bộ, thanh tra Sở Tư pháp với thanh tra Nhà nước các cấp và với các cấp, các ngành có liên quan.
Biện pháp 2: Mở các lớp tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra.
Đây là giải pháp cơ bản nhằm không ngừng tăng cường nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ thanh tra Tư pháp. Biện pháp này không những thúc đẩy mối quan hệ giữa thanh tra Bộ với thanh tra các Sở Tư pháp mà còn trực tiếp nâng cao kiến thức nghiệp vụ cho cán bộ thanh tra Tư pháp. Trước mắt cần bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ thanh tra Tư pháp trên cơ sở chọn lọc có trọng tâm, trọng điểm để đáp ứng nhiệm vụ trước mắt. Về lâu dài sẽ dần dần bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ thanh tra Tư pháp một cách toàn diện, có hệ thống.
Trên thực tế, từ trước tới nay chúng ta mới mở được hai lớp tập huấn nghiệp vụ cho thanh tra các Sở Tư pháp và kết hợp với thanh tra Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em mở hai lớp với chủ đề về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Do việc mở lớp còn hạn hẹp hiệu quả chưa cao: người tham gia giảng dạy chưa có kinh nghiệm; người đi học chưa đúng thành phần; số lượng không đầy đủ. Theo chúng tôi tập huấn nghiệp vụ thanh tra tư pháp cần tiến hành nhiều hơn và mỗi lần chỉ nên tập trung vào một hoặc hai lĩnh vực chuyên môn nhất định và nội dung tập huấn phải mang tính thời sự. Có như vậy, chúng ta mới đi sâu vào từng lĩnh vực hơn, tạo ra một bước đột phá rõ ràng trong việc bồi dưỡng nghiệp vụ. để mỗi cán bộ thanh tra sau khi tập huấn có được kết quả rõ ràng.
Biện pháp 3: Tăng cường hoạt động thanh tra tại cơ sở.
Hoạt động thanh tra Tư pháp gần đây đã được tăng cường song còn chưa đáp ứng về yêu cầu nhiệm vụ. Hiện nay, hàng năm thanh tra Bộ tiến hành khoảng 6 đến 7 cuộc thanh tra, thanh tra các Sở Tư pháp tiến hành khoản 10 cuộc. Ngoài ra, thanh tra Bộ cũng như thanh tra các Sở Tư pháp hàu như chỉ xem xét đơn thư khiếu nại, tố cáo. Tỷ lệ thanh tra, kiểm tra ở cơ sở như vậy là thấp, điều đó sẽ làm mai một dần kiến thức nghiệp vụ mà họ tích luỹ, dẫn đến việc nâng cao trình độ nghiệp vụ là rất khó khăn. Do vậy, biện pháp tăng cường hoạt động thanh tra tại cơ sở được coi là biện pháp quan trọng để nâng cao nghiệp vụ thanh tra cho các cán bộ thanh tra và thanh tra viên trong ngành Tư pháp.
Biện pháp 4: Sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật về thanh tra, xây dựng Luật Thanh tra. Trong đó sửa đổi, bổ sung theo hướng xây dựng các biện pháp, cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền đã được quy định trong Pháp lệnh thanh tra, như áp dụng các biện pháp chế tài cần thiết, bỏ bớt những quyền không có tính khả thi trong việc thực hiện.
Biện pháp 5: Hàng năm Thanh tra Bộ cần xây dựng chương trình kế hoạch hoạt động thanh tra trong toàn ngành để làm cơ sở cho thanh tra các Sở tư pháp hoạt động, từ đó tạo ra tính thống nhất trong hoạt động thanh tra toàn ngành, đồng thời có tác dụng định hướng và thúc đẩy thanh tra các Sở tư pháp hoạt động mạnh mẽ hơn.
Biện pháp 6: Chuyên môn hoá tổ chức thanh tra theo các lĩnh vực.
Do thanh tra Tư pháp hoạt động trên diện rộng nên việc trau dồi nghiệp vụ gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc chuyên môn hoá công chức thanh tra theo các lĩnh vực là rất cần thiết để có kế hoạch bồi dưỡng có hiệu quả. Về vấn đề này trong đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn để đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra Tư pháp” do Thanh tra Bộ chủ trì đã đề cập đến. Theo đó, cơ cấu tổ chức của thanh tra Bộ Tư pháp dự kiến sẽ thành lập 3 phòng, thanh tra các Sở Tư pháp không phân thành các phòng nhưng có phân ra các bộ phận chuyên môn nhất định.
3. Kiến nghị
Từ những phân tích nêu trên chúng tôi có một số kiến nghị như sau:
a) Đối với Bộ Tư pháp:
Lãnh đạo Bộ cần có nhận thức rõ ràng về công tác thanh tra để tạo điều kiện cho tổ chức thanh tra cũng như công tác hoạt động nghiệp vụ đạt hiệu quả, quan tâm hơn nữa đến các việc:
+ Mở các lớp tập huấn bồi dưỡng thanh tra theo từng chuyên đề riêng biệt để tạo ra bước đột phá về cải tiến nghiệp vụ thanh tra cho cán bộ thanh tra Tư pháp, mà trước hết là đối với cán bộ thanh tra của Bộ.
+ Hoàn thiện tổ chức bộ mya thanh tra Bộ Tư pháp theo hướng chuyên môn hoá lĩnh vực thanh tra, bổ sung biên chế, lãnh đạo thanh tra, có chế độ đãi ngộ thích hợp đối với cán bộ làm công tác thanh tra.
+ Tăng cường hoạt động thanh tra trên thực tế, coi đó là nơi bồi dưỡng nghiệp vụ quan trọng nhất cho can bộ thanh tra.
b) Đối với Giám đốc Sở Tư pháp:
+ Thành lập tổ chức thanh tra Sở đầy đủ về số lượng, chất lượng phải đảm bảo; tuyển chọn cán bộ vào làm công tác thanh tra phải đúng với yêu cầu về tiêu chuẩn nghiệp vụ.
+ Cần coi trọng công tác thanh tra, kiểm tra tại cơ sở theo lĩnh vực quản lý. Coi việc thanh tra, kiểm tra tại cơ sở là nhiệm vụ chính, không hình thức, hành chính hoá công tác thanh tra./.