Phần thứ nhất
lịch sử hình thành và phát triển của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam - quan điểm chỉ đạo việc xây dựng Luật Hôn nhân và gia đình mới
Trong xã hội ta, gia đình có vị trí, vai trò quan trọng, là môi trường bảo tồn văn hoá truyền thống, giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách con người đồng thời ngày càng hoàn thiện về thể chất, trí tuệ, tinh thần của mỗi cá nhân, chuẩn bị hành trang cho con người hoà nhập vào cộng đồng xã hội...
Hôn nhân và gia đình là những hiện tượng phát sinh trong quá trình phát triển của loài người. Cũng như những hiện tượng xã hội khác, hôn nhân và gia đình chịu sự tác động có tính quyết định của các điều kiện kinh tế- xã hội. Lịch sử phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình phát sinh thay đổi những hình thái hôn nhân và gia đình. Đặc biệt là từ khi xuất hiện Nhà nước, sự liên kết của các cá nhân nhằm xây dựng gia đình được coi là sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ. Quan hệ hôn nhân và gia đình không chỉ thể hiện ý chí của cá nhân mà còn mang ý chí của Nhà nước
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm to lớn tới vấn đề gia đình và đã sớm có chủ trương thể chế hoá về mặt nhà nước đường lối chính sách của Đảng đối với gia đình. Có thể nói, sự hình thành và phát triển của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam được thể hiện qua những thời kỳ sau:
I. Luật cổ
Lịch sử Việt Nam gắn liền với chế độ phong kiến tập quyền kéo dài hàng nghìn năm, luật pháp chịu ảnh hưởng nhiều tư tưởng triết học Nho Giáo, Phật giáo.. với quan niệm "trọng nam khinh nữ", "tam tòng tứ đức", "ngũ luân"... Bên cạnh đó luật pháp về hôn nhân và gia đình có liên quan nhiều đến phong tục tập quán và đạo đức, rất nhiều điều luật được bắt rễ từ phong tục tập quán của Việt Nam và đi sâu vào tiềm thức thành thói quen ứng xử trong nhân dân.
Gia đình cổ Việt Nam được xây dựng trên cơ sở phương thức sản xuất phong kiến: ruộng đất và lao động nông nghiệp là nền tảng kinh tế và là điều kiện vật chất để duy trì và phát triển gia đình. Quy mô của gia đình cổ tuỳ thuộc theo quy mô ruộng đất tích tụ, nếu có nhiều ruộng đất thì gia đình duy trì nhiều thế hệ chung sống trong một nhà, nếu có ít ruộng đất thì gia đình duy trì số thế hệ vừa phải. Về mặt tổ chức, gia đình trong luật cổ và tục lệ cổ theo chế độ phụ quyền. Đứng đầu gia đình là người gia trưởng (chủ gia đình). Gia đình (chứ không phải là cá nhân) là chủ thể của quyền sở hữu tài sản và việc thực hiện quyền sở hữu đó là của người gia trưởng. Gia trưởng là người điều hành các công việc thuộc sinh hoạt nội bộ của gia đình, kể cả việc dựng vợ, gả chồng cho con cháu.
Dưới thời Lê, quan hệ hôn nhân gia đình được thiết lập trên những nguyên tắc: tôn ti trật tự, đẳng cấp trong mối quan hệ giữa các thành viên gia đình, trọng nam khinh nữ, xác lập quyền tối cao của người gia trưởng.
Về độ tuổi kết hôn mặc dù Luật không quy định rõ nhưng theo "Hồng Đức hôn giá nghi lễ" có chỉ rõ con trai từ 18, con gái từ 16 tuổi trở lên mới được dựng vợ gả chồng. Đây là quy định nhằm hạn chế nạn tảo hôn tồn tại trong xã hội.
Trong quan hệ vợ chồng, sự bất bình đẳng giữa người vợ và người chồng thể hiện rõ nét với quan niệm "chồng chúa vợ tôi". Một người chồng có quyền cưới nhiều vợ "trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng". Khi người chồng phạm lỗi với vợ thì Luật không xử phạt trừ khi đánh vợ bị thương hoặc chết nhưng cũng xử nhẹ hơn tội đánh người thường ba bậc, tiền đền mạng được bớt ba phần.. Trong khi đó hành vi mưu giết cha mẹ chồng bị xếp vào tội thập ác (Điều 2). Nếu người chồng chết mà người vợ đi lấy chồng khác thì không được hưởng tài sản, hoa lợi từ tài sản do người chồng để lại, song nếu người vợ chết trước nếu người chồng lấy vợ khác thì vẫn được hưởng tài sản của vợ để lại.
Trong quan hệ ly hôn, người chồng có quyền tự ý bỏ vợ hoặc do hai bên thoả thuận hoặc do bị bắt buộc. Người chồng có quyền bỏ vợ khi vợ phạm vào tội thất xuất- bẩy lỗi của người vợ như không có con, dâm đãng, ghen tuông, trộm cắp, bất hoà, ác tật, không kính trọng bố mẹ chồng..., ngược lại bảy lỗi này không phải là căn cứ để người vợ xin ly hôn. Trong trường hợp người chồng dấu tật xấu của vợ mà bị phát hiện thì bị xử tội "biếm chức". Tuy nhiên pháp luật cũng quy định chế độ "tam bất khứ" để bảo vệ người phụ nữ: người chồng không được bỏ vợ cho dù vợ phạm "thất xuất" trong trường hợp khi lấy nhau vợ chồng nghèo nhưng về sau giàu có, hoặc khi vợ đã để tang nhà chồng ba năm, hoặc khi lấy nhau vợ còn bà con họ hàng nhưng khi bỏ nhau vợ không có nơi nương tựa. Về hậu quả ly hôn thì pháp luật phong kiến quy định quan hệ vợ chồng chấm dứt, không bên nào có nghĩa vụ với bên nào.
Trong quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, quyền lực của chủ gia đình nằm trong tay cả cha và mẹ. Nếu cha mất, thì mẹ nắm trọn quyền của chủ gia đình và ngược lại. Nếu vợ chồng có con chung thì sau khi chồng chết, vợ nắm trọn quyền chỉ huy gia đình, cai quản tài sản của gia đình và vẫn giữ các quyền đó ngay cả khi kết hôn lại với người khác. Nếu vợ chồng không có con chung thì khi vợ hoặc chồng chết, tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân được chia làm đôi, người còn sống (dù là vợ hay chồng) nhận được một nửa cùng với tất cả tài sản có nguồn gốc từ gia đình của cha mẹ ruột của mình (Điều 374, 375, 376 Quốc triều hình luật). Việc thờ cúng tổ tiên được ưu tiên giao phó cho con trai, bắt đầu từ con trai trưởng, nếu không có con trai thì con gái cũng có thể đảm nhận việc thờ cúng đó (Điều 391). Quốc triều hình luật đặc biệt coi trọng tôn ti trật tự trong gia đình, con cái có nghĩa vụ chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, ông bà, Điều 475 quy định nếu con cháu làm trái lời dạy của ông bà, cha mẹ mà bị đánh chết thì ông bà, cha mẹ chỉ bị tội làm khao đinh, con cháu được phép xin chịu tội thay cho ông bà cha mẹ.
So với luật cùng thời kỳ của các nước, luật nhà Lê có những bước tiến đáng kể trong việc nâng cao phần nào vai trò của người phụ nữ so với người đàn ông trong gia đình. Mặc dù Quốc triều hình luật duy trì khá sâu sắc quan niệm trọng nam khinh nữ, nhưng trong giai đoạn này việc công nhận một số quyền lợi cho người phụ nữ là bước tiến bộ đáng ghi nhận. Quan điểm tiến bộ nhân đạo của nhà làm luật chính là sự ghi nhận một thực tế lịch sử vai trò của người phụ nữ, bộ luật cũng quy định cho người phụ nữ có một số quyền lợi nhất định và công nhận bình đẳng tương đối giữa nam nữ như khi bán tài sản trong gia đình phải có đủ chữ ký của vợ chồng, vợ có quyền có tài sản riêng (thê điền sản), 1/20 đất hương hoả là tài sản dùng vào việc thờ cúng tổ tiên, phần còn lại giao cho con cái nếu không có con trai thì con gái được hưởng thừa kế. Bên cạnh đó người phụ nữ cũng được hưởng những ưu đãi khi bị xử tội như nếu đang có thai thì để sinh đẻ sau 100 ngày mới đem hành hình, trong Chương "Thông gian" về xử phạt tội xâm phạm nhân phẩm người phụ nữ đã thể hiện khá rõ ràng sự bảo vệ của pháp luật đối với thuần phong mỹ tục, đạo đức truyền thống của dân tộc.
Những chế định trong Quốc triều hình luật mang sắc thái Việt Nam thuần tuý thể hiện tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc. Đây là những chế định dân sự tinh vi, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo luật hướng Nho và phong tục tập quán. Với những giá trị này mà Quốc triều hình luật là một di sản văn hoá, chính trị - pháp lý vô cùng sâu sắc.
Dưới thời Nguyễn, luật viết xây dựng khuôn mẫu gia đình theo mô hình gia đình phụ quyền Trung Quốc. Thực ra, Bộ luật Gia Long chỉ dành cho gia đình sự quan tâm có chừng mực. Tuy nhiên, từ các quy định rải rác trong các văn bản luật (kể cả trong các lệnh dưới các điều luật chính), có thể thấy chủ trương của người làm luật thời Nguyễn là tôn vinh vai trò của người đàn ông trong gia đình, hạ thấp vai trò, vị trí của người phụ nữ. Toàn bộ tài sản và quyền lực gia đình nằm trong tay người đàn ông; nếu người này chết, thì người mẹ goá không kết hôn lại giữ vị trí chủ gia đình dưới sự giám sát của gia tộc; nếu cả cha và mẹ đều chết thì vai trò chủ gia đình do con trai trưởng đảm nhận. Nếu con trai trưởng chưa trưởng thành thì việc quản lý được tộc trưởng đảm nhận cho đến khi con trai trưởng đủ sức tự mình gánh vác công việc. Việc thờ cúng tổ tiên cũng giao cho người con trai trưởng. Nếu không có con trai, thì người chủ gia đình phải tiến hành lập tự bằng cách nhận con nuôi trong số các con trai của những người thân thuộc (nam) bên nội cùng vai vế với mình. Quyền lợi của người phụ nữ ít được đề cập hơn, nhiều quy định tiến bộ trong Quốc triều hình luật không được thừa kế đặc biệt là trong các vấn đề về tài sản, thừa kế, luật thời Nguyễn là một bước lùi so với luật thời Lê. Điều này xuất phát từ nhiều lý do lịch sử.
II. Chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam thời kỳ thực dân phong kiến (trước năm 1945).
Từ năm 1858 đến trước năm 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến. Chế độ thuộc địa hầu như không quan tâm tới việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nước bị nô dịch. Cho đến cuối thời kỳ thuộc địa, Việt Nam vẫn là nước nông nghiệp lạc hậu. Người Việt Nam thời kỳ này vẫn duy trì hình thái gia đình đại phụ quyền và sinh sống trên các mảnh ruộng mà gia đình có nhiệm vụ giữ gìn để truyền đời. Mô hình đại gia đình phụ quyền vẫn được ghi nhận trong pháp luật thuộc địa như là mô hình kiểu mẫu.
Sau khi nắm được toàn bộ lãnh thổ nước ta, chính quyền thực dân Pháp đã lần lượt ban hành những văn bản pháp luật mới, quy định nhiều việc thay đổi nếp sinh hoạt cổ truyền của dân tộc. Bản thân quan hệ hôn nhân và gia đình cũng bị rơi vào tình trạng vừa thể hiện xu hướng Âu hóa theo kiểu Pháp, vừa cố duy trì những phong tục tập quán của người Việt Nam. Có thể coi đây là bước quá độ chuyển từ quan điểm cổ điển mang sắc thái đặc thù của luật cổ nước ta sang quan điểm pháp lý Tây phương trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Thời kỳ này, thực dân Pháp chia cắt đất nước ta làm ba miền, mỗi miền áp dụng một bộ dân luật để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình. Nhìn chung, thực dân Pháp và giai cấp địa chủ đã lợi dụng chế độ hôn nhân gia đình phong kiến đã tồn tại và duy trì từ nhiều thế kỷ ở Việt Nam để củng cố nền thống trị của chúng. ở Bắc Kỳ áp dụng những quy định trong Bộ dân luật 1931. ở Trung Kỳ áp dụng những quy định trong Bộ dân luật 1936. ở Nam Kỳ áp dụng các quy định theo tập Dân luật giản yếu 1883. Chế độ hôn nhân gia đình Việt Nam thời kỳ này thực ra chỉ là công cụ pháp lý của nhà nước thực dân phong kiến nhằm củng cố và bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến.
-
Bộ Dân luật giản yếu (1883)
Bộ dân luật giản yếu là văn bản pháp luật dân sự được ban hành sớm nhất dưới chế độ thuộc địa (1883). Tuy nhiên, văn bản này chỉ quan tâm tới những vấn đề lớn về nhân thân và chỉ xây dựng được các quy định tương ứng với quyền thứ nhất của Bộ luật Dân sự Pháp, nghĩa là về hiệu lực của luật viết, quyền dân sự, hộ tịch, nơi cư trú, kết hôn, quan hệ vợ chồng, quan hệ cha mẹ- con, ly hôn, bảo vệ người mất năng lực hành vi... Do công tác điều tra về tình trạng của tục lệ được tiến hành khá sơ sài, người làm luật không có đủ các thông tin cần thiết nhằm đặt cơ sở cho việc xây dựng các quy tắc phù hợp với tâm lý dân cư. Bộ Dân luật giản yếu hầu như không phản ánh, đúng hơn là chỉ phản ánh một cách phiến diện tư duy pháp lý của người Việt Nam cùng thời kỳ.
Bộ Dân luật giản yếu thừa nhận tình trạng bất bình đẳng trong gia đình, quy định nhiều nghĩa vụ của người phụ nữ như nghĩa vụ chung thuỷ của người vợ mà không bắt buộc đối với người chồng. Bộ Dân luật giản yếu vừa có những quy định mang tính kế thừa của các bộ luật trước đó như chế độ "tam bất khứ", nuôi con nuôi, thừa tự, để tang, trật tự thê thiếp, gia trưởng vẫn được xác lập và duy trì, vừa có nhiều quy định mới du nhập từ Tây phương như chế định ly thân.
-
Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ (1931) và Trung Kỳ (1936).
Cũng như các quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình trước đây, Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ và Trung Kỳ chịu nhiều ảnh hưởng của quan niệm phong kiến.
Trong quan hệ kết hôn: hai bộ dân luật vẫn duy trì chế độ hôn nhân cưỡng ép phụ thuộc vào các bậc cha mẹ hay thân trưởng trong gia đình, dù con đã thành niên "Phàm con cái đã thành niên cũng như chưa thành niên, không khi nào không có cha mẹ bằng lòng mà kết hôn được" (Điều 77 Bộ dân luật Bắc Kỳ). Chế độ đa thê cũng được duy trì: Bộ dân luật Bắc kỳ quy định "Có hai cách giá thú hợp phép: giá thú về chính thất và giá thú thứ thất" (Điều 79) và "Chưa lấy vợ chính thì không được lấy vợ thứ" (Điều 80).
Quan hệ gia đình nói chung và quan hệ vợ chồng nói riêng được tổ chức theo chế độ gia trưởng, phụ quyền, tức người chồng là người đứng đầu gia đình trong quan hệ nội bộ và là người thay mặt cho gia đình trong quan hệ với người thứ ba (Điều 95 Bộ dân luật Bắc Kỳ, Điều 94 Bộ dân luật Trung Kỳ). Người vợ được phép thay mặt cho gia đình xác lập các giao dịch với người thứ ba nhằm đáp ứng các nhu cầu của gia đình, nhưng người chồng có thể tước quyền đó trong trường hợp người vợ lam dụng (Điều 100 Bộ dân luật Bắc Kỳ, Điều 98 Bộ dân luật Trung Kỳ). Vận dụng một phần luật phương Tây, các tác giả Bộ dân luật Bắc Kỳ, Trung Kỳ cho phép vợ, chồng khi kết hôn được thoả thuận về nội dung của các quan hệ tài sản giữa họ trong thời kỳ hôn nhân, nhưng trong mọi trường hợp, các thoả thuận đó không được đi ngược lại nguyên tắc chồng là người đứng đầu gia đình, là chủ khối tài sản của gia đình (Điều 104 Bộ dân luật Bắc Kỳ, Điều 102 Bộ dân luật Trung Kỳ). Trong trường hợp người chồng chết, người vợ thay thế người chồng để điều hành công việc của gia đình song việc điều hành ấy đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của hội đồng gia tộc bên chồng. Người vợ goá mà kết hôn với người khác sẽ mất quyền gia trưởng, phải đi khỏi gia đình, chỉ được mang theo tài sản riêng và chỉ có quyền nhận một nửa khối tài sản chung của vợ chồng, nếu chồng không có con (Điều 360 Bộ dân luật Bắc Kỳ, Điều 369 Bộ dân luật Trung Kỳ). Nếu không có tài sản riêng, thì người vợ goá kết hôn lại có thể được hội đồng gia tộc bên chồng cấp cho một ít tài sản thuộc khối tài sản chung, tuỳ theo công sức đóng góp của người vợ vào khối tài sản ấy (Điều 359 Bộ dân luật Trung Kỳ).
Trong quan hệ giữa cha mẹ con, các con sống trong gia đình như thành phần phụ của gia đình, cha mẹ có toàn quyền quyết định mọi việc. Giữa các con trai, con gái, con trong giá thú và con ngoài giá thú có sự phân biệt về cách đối xử và quyền lợi. Con trai là người nối dõi tông đường vì vậy "nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", con ngoài giá thú không được khởi kiện để truy tìm cha mẹ trước Toà án (Điều 174 BLDS Bắc Kỳ) hoặc con sinh ra do loạn luân hay do người mẹ ngoại tình thì hộ lại không được làm thủ tục đăng ký hộ tịch cho đứa con đó (Điều 168). Người chồng có quyền thừa nhận con ngoại tình, trong khi việc thừa nhận con ngoại tình của vợ hoàn toàn bị cấm (Điều 168 BLDS Bắc Kỳ, Điều 171 BLDS Trung Kỳ).
Về ly hôn, việc giải quyết ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng. Người chồng có quyền ly hôn khi vợ ngoại tình, bỏ nhà chồng đi không chịu về, vợ thứ đánh chửi vợ chính (Điều 118 Bộ dân luật Bắc Kỳ, Điều 117 Bộ dân luật Trung Kỳ). Trong khi đó người vợ có thể xin ly hôn khi người chồng không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng không có quyền xin ly hôn khi chồng ngoại tình. Người vợ chỉ được kết hôn với người khác sau 300 ngày kể từ ngày phán quyết ly hôn có hiệu lực.
Các bộ luật cũng quy định chế độ để tang những người thuộc tôn tộc. Con cháu phải để đại tang ông bà, cha mẹ trong vòng 27 tháng mới được kết hôn. Nếu vợ chết, chồng phải để tang 12 tháng mới được tái thú nhưng nếu chồng chết vợ phải để tang 27 tháng mới được tái giá.
Trước Cách Mạng tháng 8-1945, các văn bản pháp luật do nhà nước thực dân phong kiến ban hành phần lớn dựa vào phong tục tập quán lạc hậu của xã hội phong kiến Việt Nam và Bộ dân luật Pháp 1804 với các quy định thuần tuý coi quan hệ hôn nhân gia đình là một chế định do dân luật điều chỉnh, là công cụ pháp lý của Nhà nước thực dân phong kiến nhằm củng cố và bảo vệ quyền lợi của giai cấp địa chủ phong kiến. Về chế độ hôn nhân và gia đình, các Bộ luật trên đều duy trì chế độ bất bình đẳng trong quan hệ giữa vợ và chồng, củng cố quyền của người gia trưởng, phân biệt đối xử giữa các con, đây là những quan niệm lạc hậu, ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống và nhân cách con người.
Bởi vậy, ngay sau khi được thành lập tháng 2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ phải xoá bỏ chế độ hôn nhân- gia đình phong kiến lạc hậu, coi đó là một yêu cầu cấp thiết của cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ nói riêng, của sự nghiệp cách mạng "bỏ hết thảy các pháp luật và tục lệ hủ bại làm cho đàn bà không được bình đẳng với đàn ông, bỏ chế độ áp bức của cha mẹ đối với con cái, của chồng đối với vợ... cấm tục lấy nhiều vợ, đàn bà được giữ lại con mình khi ly dị". Vào thời kỳ này, trong các chương trình hành động của thanh niên, phong trào dân tộc dân chủ cũng thể hiện nội dung yêu cầu đấu tranh đó.
III. Luật Hôn nhân và gia đình thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1945-1954).
Cách mạng tháng Tám thành công đã giải phóng dân tộc Việt Nam nói chung và phụ nữ nói riêng ra khỏi ách thống trị hết sức hà khắc và đối xử thậm tệ của chế độ thực dân phong kiến, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Tuy nhiên, sau Cách mạng tháng Tám, Nhà nước ta chưa ban hành đạo luật cụ thể mà tiến hành phong trào “vận động đời sống mới” nhằm vận động nhân dân xoá bỏ những thủ tục phong kiến, lạc hậu trong đời sống Hôn nhân và gia đình, bởi vì giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám, quan hệ sản xuất phong kiến vẫn còn tồn tại và việc xoá bỏ chế độ hôn nhân gia đình phong kiến không phải là việc dễ dàng và nhanh chóng.Vì vậy, Sắc lệnh số 90- SL của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã được ban hành vào ngày 10/10/1945 cho phép vận dụng những quy định trong pháp luật cũ một cách có chọn lọc, theo nguyên tắc không được đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, của Nhà nước.
Năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời đã xác định “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Đây chính là sự ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ, là lời tuyên ngôn của Nhà nước Việt Nam độc lập nhằm giải phóng phụ nữ thoát khỏi ách áp bức hàng ngàn năm trong lịch sử dưới chế độ phong kiến, là cơ sở pháp lý để đấu tranh xoá bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, tạo cơ sở cho việc xây dựng chế độ hôn nhân gia đình mới, phù hợp chế độ dân chủ tiến bộ của một quốc gia độc lập.
Để đảm bảo tình hình phát triển của xã hội về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá trong quá trình đấu tranh cách mạng chống đế quốc và phong kiến, cùng sự phát triển của phong trào giải phóng phụ nữ, cần xoá bỏ một số chế định trong các Bộ dân luật cũ về các quan hệ hôn nhân và gia đình cản trở sự phát triển của xã hội mới. Vì thế, trong giai đoạn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành các sắc lệnh đầu tiên về dân luật và hôn nhân gia đình. Đó là Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật và Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/1/1950 quy định vấn đề ly hôn.
Sắc lệnh số 97-SL gồm có 15 điều, trong đó 8 điều quy định về hôn nhân và gia đình (các điều khác quy định một số nguyên tắc của pháp luật dân sự) với những nội dung sau:
- Xoá bỏ tính cách phong kiến của quyền gia trưởng ràng buộc và áp bức cá nhân, trái với mục đích giải phóng con người của một nền pháp chế dân chủ. Vì vậy, con người đã thành niên, từ nay có quyền tự chỉ huy mình và quản trị tài sản riêng. Con đã thành niên lấy vợ, lấy chồng không cần phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc các bậc tôn trưởng trong gia đình (Điều 2).
- Xoá bỏ việc cấm kết hôn trong thời kỳ có tang "trong thời kỳ tang chế vẫn có thể lấy vợ, lấy chồng được" (Điều 3), người đàn bà sau khi ly dị chồng có thể lấy chồng khác ngay sau khi có phán quyết cho phép ly hôn, nếu dẫn chứng được rằng mình không có thai (Điều 4).
- Thực hiện nam nữ bình đẳng trong gia đình: người đàn bà có chồng có toàn năng lực thực hiện mọi hành vi dân sự, không cần được chồng cho phép như trước nữa (Điều 5, Điều 6)
- Xoá bỏ quyền "trừng giới" của cha mẹ đối với các con: cha mẹ không có quyền xin giam cầm con cái khi chúng phạm lỗi (Điều 8).
- Bảo vệ quyền thừa kế của cha mẹ và các con trong gia đình: Trong lúc còn sinh thời, người chồng goá, hay vợ goá, các con đã thành niên có quyền xin chia tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết sau khi đã thanh toán tài sản chung (Điều 11).
- Cho phép người con hoang vô thừa nhận được quyền thưa trước Toà án để truy nhận cha mẹ của mình (Điều 9).
Sắc lệnh số 97-SL có thể được xem như văn bản pháp luật đầu tiên về gia đình của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, là bước đi tiên phong trong quá trình xây dựng và hoàn thiện mô hình gia đình mới. Mặc dù Sắc lệnh không định nghĩa bằng một hệ thống các quy tắc chặt chẽ về mô hình gia đình mà người làm luật xã hội chủ nghĩa muốn xây dựng để thay thế mô hình gia đình phụ quyền, song những nguyên tắc lớn đã được khẳng định trong Sắc lệnh: đó là nguyên tắc bình đẳng nam nữ, không phân biệt đối xử giữa các con, nguyên tắc tự do kết hôn. Những nguyên tắc ấy, cộng với sự thừa nhận cho cá nhân, đặc biệt là thừa nhận năng lực chủ thể của người phụ nữ có chồng đã góp phần thúc đẩy sự hình thành gia đình Việt Nam mới mà trong đó các mối quan hệ dân chủ tiến bộ đan xen với những quan hệ truyền thống tốt đẹp giúp cá nhân có điều kiện phát triển toàn diện.
Sắc lệnh số 159-SL quy định về vấn đề ly hôn, gồm có 9 điều chia thành 3 mục duyên cớ ly hôn, thủ tục ly hôn, hiệu lực của việc ly hôn.
- Sắc lệnh thừa nhận nguyên tắc tự do hôn nhân: tự do giá thú và tự do ly hôn; xoá bỏ sự phân biệt bất bình đẳng về các duyên cớ ly hôn riêng của vợ và chồng; quy định các duyên cớ ly hôn chung cho cả hai vợ chồng: Vợ, chồng có quyền ly hôn nếu một bên ngoại tình hoặc can án phạt giam, mắc bệnh điên hoặc một bệnh khó chữa khỏi; một bên bỏ nhà đi quá 2 năm không có duyên cớ chính đáng; vợ chồng tính tình không hợp hoặc đối xử với nhau đến nỗi không thể sống chung được nữa (Điều 2).
- Sắc lệnh quy định đơn giản thủ tục ly hôn: thủ tục tố tụng áp dụng thường như xử các việc hộ khác. Trong trường hợp vợ chồng xin thuận tình ly hôn (Điều 3), nếu Toà án nhân dân huyện hoặc thị xã hoà giải không thành và nếu sau đó một tháng, vợ chồng vẫn giữ ý kiến xin ly hôn thì Toà án nhân dân huyện hoặc thị xã sẽ chính thức công nhận sự ly hôn (Điều 4).
Thực hiện nguyên tắc bảo vệ phụ nữ có thai và thai nhi khi ly hôn: khi xin ly hôn nếu người vợ đang có thai thì vợ hoặc chồng có thể xin toà án hoãn đến sau kỳ sinh nở mới xử việc ly hôn (Điều 5).
Bảo vệ quyền lợi con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn: toà án sẽ quyết định người nuôi con tuỳ thuộc vào việc xem xét quyền lợi của con, hai vợ chồng đều phải có trách nhiệm chịu phí tổn nuôi dạy con theo khả năng của mình.
- Hiệu lực của Sắc lệnh số 159-SL: Thống nhất luật lệ về ly hôn trong toàn quốc
Sắc lệnh số 159-SL là bước tiếp theo của người làm luật xã hội chủ nghĩa trong những nỗ lực xây dựng cơ sở pháp lý của gia đình mới. Có thể nói, pháp luật về hôn nhân và gia đình trong giai đoạn này đã góp phần xoá bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu, giải phóng phụ nữ thoát khỏi sự ràng buộc quá khắt khe và không tôn trọng quyền lợi chính đáng của họ. Quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong gia đình và ngoài xã hội bước đầu được thực hiện. Mặc dù vậy, do ra đời trong hoàn cảnh xã hội và điều kiện lịch sử nhất định nên hai sắc lệnh này vẫn còn những hạn chế như: Sắc lệnh chưa xoá bỏ tận gốc chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, chế độ hôn nhân một vợ một chồng chưa được ghi nhận, duyên cớ xin ly hôn vẫn chưa dựa trên bản chất quan hệ hôn nhân. Vì thế, những tục lệ phong kiến về hôn nhân và gia đình (tảo hôn, đa thê, phụ nữ bị đánh đập) vẫn chưa chấm dứt. Một số lĩnh vực hôn nhân gia đình được quy định còn dựa trên quy định của giai cấp tư sản phong kiến.
IV. Pháp Luật Hôn nhân và gia đình thời kỳ đất nước chưa thống nhất (1955- 1975)
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ vào năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai nhiệm vụ cách mạng: Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội với việc tiến hành cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp và thủ công nghiệp, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, Miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ, đấu tranh thống nhất đất nước. Những thành tựu của cuộc cải cách ruộng đất đã tạo điều kiện vật chất cần thiết cho sự hình thành các quan hệ sản xuất mới và cho sự hình thành cơ sở kinh tế của chế độ xã hội chủ nghĩa. Dưới tác động của chế độ kinh tế mới, gia đình Việt Nam thay đổi rất nhanh về quy mô tổ chức và về nội dung của các quan hệ nội bộ. Sắc lệnh số 97-SL và Sắc lệnh số 159-SL quy định về hôn nhân gia đình ban hành vào năm 1950 đã hoàn thành vai trò lịch sử, góp phần vào việc xoá bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu nhưng không còn đáp ứng được yêu cầu và tình hình phát triển Cách mạng. Mặt khác hai Sắc lệnh đã trở nên quá đơn giản, thiếu những chế định hết sức quan trọng như độ tuổi, điều kiện kết hôn, mối quan hệ vợ chồng, quan hệ cha mẹ và con cái, con nuôi... Với những lý do trên "việc ban hành một đạo luật mới về hôn nhân và gia đình đã trở thành một đòi hỏi cấp bách của toàn thể xã hội. Đó là một tất yếu khách quan thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta"(1). Việc xây dựng và ban hành một đạo luật mới về hôn nhân và gia đình là một tất yếu khách quan, đáp ứng sự nghiệp giải phóng phụ nữ; “nếu không giải phóng phụ nữ thì xây dựng chủ nghĩa xã hội mới một nửa” (Hồ Chủ Tịch).
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được Quốc hội Khoá 1 Kỳ họp 11 thông qua ngày 31/12/1959 và Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 1/1/1960. Điều 24 Hiến pháp quy định "Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình... Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình". Từ quy định mang tính nguyên tắc đó, các giải pháp chi tiết của vấn đề hoàn thiện chế độ hôn nhân và gia đình đã được xây dựng và ghi nhận tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - Luật Hôn nhân và gia đình đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được Quốc hội thông qua ngày 29/12/1959 và được công bố ngày 13/1/1960, một trong những đạo luật được ban hành sớm nhất, giữ vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Luật Hôn nhân và gia đình năm1959 (gồm có 35 điều, 6 chương) là công cụ pháp lý của Nhà nước ta được xây dựng và thực hiện với hai nhiệm vụ cơ bản là: xoá bỏ những tàn tích của chế độ hôn nhân gia đình phong kiến lạc hậu, xây dựng chế độ hôn nhân gia đình mới XHCN “hạnh phúc, dân chủ và hoà thuận trong đó mọi người đoàn kết thương yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ”(2).
- Chương I: Nguyên tắc chung
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 được xây dựng trên bốn nguyên tắc cơ bản là: hôn nhân tự do và tiến bộ, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, nguyên tắc nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong gia đình, bảo vệ quyền lợi của các con.
- Chương II: Kết hôn
Với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, chế độ đa thê và hôn nhân cưỡng ép, hai đặc trưng cơ bản nhất của chế độ hôn nhân lạc hậu bị chính thức đặt ra ngoài vòng pháp luật. Độ tuổi kết hôn được quy định chính thức là nữ từ 18 tuổi trở lên, nam từ 20 tuổi trở lên mới được kết hôn. Các trường hợp cấm kết hôn cũng được quy định chặt chẽ hơn.
- Chương III: Nghĩa vụ và quyền lợi của vợ chồng.
Về quan hệ vợ chồng: Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, quý trọng, chăm sóc nhau..., vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau. Do hầu hết các tư liệu sản xuất đều thuộc sở hữu Nhà nước hoặc được tập thể hoá, sở hữu tư nhân chỉ bao gồm các tư liệu tiêu dùng, vợ chồng hầu như chỉ có các tài sản phục vụ sinh hoạt. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vợ trong quan hệ gia đình về tài sản, trong khung cảnh của cuộc đấu tranh xoá bỏ tàn dư của chế độ phong kiến, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định vợ chồng có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới (Điều 15), chưa thừa nhận quyền có tài sản riêng của vợ chồng, quyền chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại.
- Chương IV: Quan hệ cha mẹ và con cái
Trong quan hệ gia đình, quyền gia trưởng của người chồng (người cha) bị loại bỏ. Mô hình gia đình gồm có cha mẹ và con được thừa nhận như là mô hình được khuyến khích phát triển. Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi nấng, giáo dục con cái; con cái có nghĩa vụ kính yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Chế độ phụ quyền được thay thế bằng chế độ hợp tác giữa Nhà nước và cha mẹ trong việc nuôi dạy con cái "cha mẹ không được hành hạ con cái, không được đối xử tàn tệ với con dâu, con nuôi, con riêng". Con trai, con gái; con nuôi, con đẻ; con trong giá thú, con ngoài giá thú có quyền và nghĩa vụ như nhau. Luật Hôn nhân gia đình 1959 đã nhấn mạnh tính chất, nghĩa vụ của việc nuôi dạy con, quan hệ giữa xã hội và gia đình được quan tâm điều chỉnh, quyền tự do cá nhân được coi trọng.
- Chương V: Ly hôn
Luật quy định hai trường hợp xin ly hôn là thuận tình ly hôn và một bên xin ly hôn, từ đó thủ tục xét xử cũng có sự khác nhau. Đồng thời, luật hạn chế quyền ly hôn của người chồng khi người vợ đang mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi. Vợ chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau, tuy nhiên luật không quy định rõ nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
- Chương VI: Điều khoản thi hành
Đối với vùng dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước ta thực hiện chủ trương tôn trọng và giữ gìn những truyền thống, tập quán tốt đẹp của từng dân tộc, vận động xoá bỏ những tập tục lạc hậu, nạn mê tín dị đoan đồng thời đảm bảo cho Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 phát huy hiệu lực UBTVQH đã phê chuẩn Điều lệ áp dụng, thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Gồm Điều lệ áp dụng cho khu tự trị Việt Bắc được Hội đồng nhân dân khu thông qua ngày 03/7/1966 gồm 18 điều và được Uỷ ban thường vụ quốc hội phê chuẩn tại Nghị quyết số 542 NQ/TVQH ngày 18/4/1968; Điều lệ thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 trong khu tự trị Tây Bắc được Hội đồng nhân dân khu thông qua ngày 29/10/1969 gồm 12 điều và được UBTVQH phê chuẩn tại Nghị quyết số 873 NQ/TVQH ngày 18/12/1970.
Có thể nói, việc ban hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 là một bước phát triển dần hoàn thiện hệ thống pháp Luật Hôn nhân và gia đình, là cơ sở để từng bước xây dựng ngành Luật Hôn nhân và gia đình trong toàn bộ hệ thống pháp luật XHCN của Nhà nước Việt Nam.
Tuy nhiên, ở Miền Nam, sau năm 1959, đế quốc Mỹ đã thay chân thực dân Pháp nhảy vào tiếp tục chính sách cai trị của chủ nghiã đế quốc. Từ năm 1954 đến năm 1975, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã ban hành một số văn bản pháp luật áp dụng trong các quan hệ hôn nhân và gia đình. Đó là:
- Bộ luật gia đình ngày 2/1/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm (Luật số 1-59).
- Sắc luật 15/64 ngày 23/7/1964 về giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng.
- Bộ dân luật ngày 20/12/1972 của chính quyền nguỵ Sài Gòn.
Nội dung Luật gia đình 1-59 đã đề ra nhiều quy định xa lạ với phong tục tập quán dân tộc, quy định nhiều điều cấm đoán, xử phạt khắt khe đối với việc vi phạm nghĩa vụ vợ chồng, quy định giải quyết ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của người chồng đặc biệt Bộ luật gia đình cấm vợ chồng không được ly hôn... Nhiều vấn đề quan trọng khác trong lĩnh vực gia đình đã bị bỏ trống trong Luật này như vấn đề thừa kế tài sản giữa vợ và chồng.
Nhìn chung, cả ba văn bản pháp luật này tuy đã bãi bỏ chế độ đa thê song vẫn thừa nhận nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ và chồng, sự phân biệt đối xử giữa các con; quyền gia trưởng của người chồng tiếp tục được duy trì tuy không còn mang tính tuyệt đối như trong cổ luật. Các văn bản này chính là công cụ của Nhà nước phản động, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân lao động.
V. Luật Hôn nhân và gia đình thời kỳ đầu thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (1976-1986)
Sau năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Quốc hội khoá VI trong kỳ họp thứ nhất đã quyết định đổi tên nước ta thành “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ quốc gia. Xuất phát từ yêu cầu đó, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 76/CP ngày 25/3/1977 quy định việc thi hành thống nhất Luật Hôn nhân và gia đình trong phạm vi cả nước. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 chính thức thay thế luật viết về hôn nhân và gia đình của chế độ Sài Gòn và được áp dụng tại miền Nam cho đến thời điểm đó. Nhằm phổ biến rộng rãi và thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Toà án nhân dân tối cao đã ra Thông tư số 68/TANDTC ngày 23/4/1979 về việc ngành Toà án nhân dân đẩy mạnh việc tuyên truyền Luật Hôn nhân và gia đình ở các tỉnh phía Nam. Ngày 18/12/1979, Ban thường vụ Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã ra Chỉ thị số 07/CT về việc đẩy mạnh việc thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình trong cả nước, thấm nhuần ý nghĩa chính trị- pháp lý của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 góp phần giải phóng phụ nữ và là cơ sở pháp lý để đấu tranh xoá bỏ những tập tục hôn nhân gia đình phong kiến và thực dân kiểu mới của chế độ Sài Gòn cũ.
Hiến pháp năm 1980 chính thức được Quốc Hội thông qua ngày 18/12/1980 đã quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá- xã hội, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, đồng thời các Điều 38, 47, 63, 64 đã quy định các nguyên tắc của chế độ hôn nhân và gia đình XHCN. Gần 30 năm thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 ở Miền Bắc, hơn 10 năm thi hành ở Miền Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, đó là xoá bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, xây dựng chế độ hôn nhân gia đình mới XHCN. Có thể nói, đã có sự chuyển biến tích cực về mặt nhận thức của đông đảo quần chúng nhân dân đối với quyền bình đẳng nam nữ trong gia đình trong gia đình và xã hội.
Luật hôn nhân gia đình 1959 bên cạnh những thành tựu đã đạt được, không thể tránh khỏi một số hạn chế sau:
- Do việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp Luật Hôn nhân và gia đình chưa thực sự sâu rộng và triệt để nên trên thực tế còn tồn tại tư tưởng trọng nam khinh nữ, tình trạng đa thê, cưỡng hôn, ngược đãi vợ con vẫn còn xảy ra. Được xây dựng trong thời kỳ đấu tranh gay gắt chống chủ nghĩa thực dân phong kiến, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có rất nhiều quy định mang tính chất đối kháng về quan điểm với các quy định tương ứng trong pháp luật phong kiến, thực dân nhưng lại thiếu các quy định thực sự có tác dụng đặt cơ sở hoàn chỉnh cho các quan hệ hôn nhân gia đình mới xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là các quan hệ nhân thân và tài sản phát sinh trong đời sống gia đình.
- Chế định đỡ đầu, xác định cha mẹ cho con, quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài... chưa được dự liệu; các quy định như chế độ tài sản vợ chồng, vấn đề thừa kế trong gia đình, vấn đề nuôi con nuôi có tính khái quát cao nên khó áp dụng trong thực tiễn cuộc sống; một số quy định tỏ ra không còn phù hợp, thuật ngữ không chặt chẽ...
Trong tình hình nước ta giai đoạn này đã thay đổi về cơ bản, việc ban hành Luật Hôn nhân và gia đình mới là một tất yếu khách quan thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Ngày 29/12/1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã chính thức được Quốc hội khoá VII, kỳ họp thứ 12 thông qua và được Hội đồng nhà nước công bố ngày 3/1/1987.
VI. Tình hình thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 trong thời kỳ đổi mới cho đến nay và sự cần thiết ban hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời trong thời kỳ đổi mới của đất nước, kế thừa những nguyên tắc dân chủ và tiến bộ của chế độ hôn nhân gia đình mới được thể chế hoá trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đã góp phần vào việc xây dựng và củng cố chế độ gia đình XHCN, giữ gìn và phát huy những phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp về hôn nhân và gia đình, từng bước nâng cao nhận thức và ý thức của nhân dân trong việc thi hành các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Về cơ bản, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 kế thừa và tiếp tục phát huy những thành tựu lập pháp của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đồng thời bổ sung những chế định quan trọng phù hợp với giai đoạn phát triển mới. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 gồm 57 điều, 10 chương với những nội dung cơ bản sau:
- Chương I: Những quy định chung (gồm 4 điều)
Các nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 được tiếp tục coi là những nguyên tắc được quán triệt trong toàn bộ nội dung của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Riêng nguyên tắc hôn nhân tự do và tiến bộ, nguyên tắc đặc trưng của thời kỳ đấu tranh giải phóng cá nhân, giải phóng phụ nữ ra khỏi những ràng buộc của chế độ gia đình phong kiến lạc hậu, được sửa lại thành nguyên tắc hôn nhân tự nguyện và tiến bộ. Một số nguyên tắc mới như nguyên tắc vợ chồng có nghĩa vụ sinh đẻ có kế hoạch, nghiêm cấm cưỡng ép ly hôn và quan hệ gắn bó gia đình giữa cha mẹ và con cái được coi như một nguyên tắc mới.
- Chương II: Kết hôn (gồm 5 điều)
Các điều kiện kết hôn và cấm kết hôn có sửa đổi khác so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959: bỏ quy định cấm những người mắc bệnh hủi hoặc bất lực hoàn toàn sinh lý kết hôn; thay vì cấm kết hôn trong phạm vi 5 đời như trước luật quy định chỉ cấm kết hôn trong phạm vi 3 đời. Điều 9 quy định việc vi phạm các điều kiện kết hôn (Điều 5, 6,7) là trái pháp luật, Toà án nhân dân có quyền huỷ hôn nhân trái pháp luật đó. Đây được coi là chế tài nhằm nâng cao ý thức thực hiện pháp luật của nhân dân.
- Chương III: Nghĩa vụ và quyền của vợ, chồng (gồm 9 điều)
Luật quy định đầy đủ về nghĩa vụ, quyền nhân thân và tài sản vợ chồng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 tiếp tục thừa nhận trên nguyên tắc tài sản của vợ hoặc của chồng là tài sản chung và được sử dụng vì lợi ích chung của gia đình, quy định cụ thể hơn những tài sản nào được coi là tài sản chung, quyền bình đẳng của vợ chồng trong việc định đoạt khối tài sản chung. Điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 là thừa nhận quyền có tài sản riêng và quyền định đoạt tài sản riêng của vợ chồng, quy định việc chia tài sản khi hôn nhân còn tồn tại.
- Chương IV: Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con (gồm 9 điều)
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 tiếp tục coi gia đình hộ như là mô hình chính thức trong xã hội xã hội chủ nghĩa và tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy tắc liên quan đến nghĩa vụ của cha mẹ đối với con. Tuy nhiên, khác với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 coi quan hệ nghĩa vụ giữa cha mẹ và con là quan hệ nghĩa vụ tương hỗ: con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo của cha mẹ (Điều 21), con từ 16 tuổi trở lên còn ở chung với cha mẹ có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình, nếu có thu nhập riêng thì phải đóng góp vào nhu cầu của gia đình (Điều 23). Điều 26 quy định biện pháp tước quyền cha mẹ đối với con khi cha mẹ có hành vi phạm tội như hành hạ, ngược đãi nghiêm trọng con chưa thành niên, đây là chế tài quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của con cái, hạn chế hiện tượng bạo hành trong gia đình làm ảnh hưởng tâm sinh lý và sức khoẻ của trẻ vị thành niên. Luật cũng có nhắc đến quan hệ giữa ông bà và cháu (Điều 27) nhưng không coi họ như các thành viên của cùng một gia đình hộ mà quan hệ giữa ông bà và cháu được chi phối trong hoàn cảnh bi kịch tức là cháu không còn cha mẹ. Một quy định mới được pháp điển hoá là mối quan hệ giữa anh, chị, em trong hoàn cảnh như trên. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 coi đó là nghĩa vụ đương nhiên dựa trên truyền thống đạo đức trong gia đình chứ chưa quy định đó là nghĩa vụ pháp luật bởi vậy việc giải thích, áp dụng luật gặp nhiều trở ngại.
- Chương V: Xác định cha mẹ cho con (gồm 6 điều).
Quan hệ xác định cha mẹ cho con được chính thức quy định thành một chương mới thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước tới vấn đề có tính chất nhạy cảm trong xã hội. Luật quy định nguyên tắc suy đoán pháp lý "con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng, trường hợp có yêu cầu xác định vấn đề này thì phải có chứng cứ khác". Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 không dự liệu vấn đề này, chỉ quy định quyền khởi kiện và thủ tục nhận cha, mẹ và con theo thủ tục hành chính hoặc thủ tục tư pháp nhưng chưa có nguyên tắc xác định cha mẹ cho con.
- Chương VI: Nuôi con nuôi (gồm 6 điều)
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định mục đích, ý nghĩa của việc nhận nuôi con nuôi; điều kiện của người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi; các điều kiện để công nhận việc nuôi con nuôi là hợp pháp; thủ tục và trường hợp huỷ việc nuôi con nuôi vì lợi ích của người được nhận làm con nuôi hoặc cha mẹ nuôi. Luật hôn nhân gia đình 1959 quy định 1 điều duy nhất về quan hệ nuôi con nuôi là thủ tục công nhận và sự bình đẳng giữa con nuôi và con đẻ mà chưa dự liệu cụ thể các vấn đề quan trọng khác như điều kiện, thủ tục, trường hợp huỷ việc nhận nuôi
- Chương VII: Ly hôn (gồm 6 điều)
Luật Hôn nhân và gia đình quy định các trường hợp xin ly hôn, căn cứ cho ly hôn về cơ bản giống Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Tuy nhiên điểm khác là theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì hòa giải được coi như là một thủ tục pháp lý bắt buộc phải có trong quá trình giải quyết các vụ việc về ly hôn, đồng thời nguyên tắc phân chia tài sản chung vợ chồng được quy định chi tiết hơn.
- Chương VIII: Chế độ đỡ đầu (gồm 6 điều)
Đây là chương mới trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định về mục đích, ý nghĩa việc đỡ đầu với người chưa thành niên, quyền hạn, nghĩa vụ của người đỡ đầu. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 chưa dự liệu vấn đề này.
- Chương IX: Quan hệ hôn nhân và gia đình của công dân Việt Nam với người nước ngoài (gồm 3 điều)
Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được điều chỉnh từ Điều 52 đến Điều 54 quy định về điều kiện kết hôn, thủ tục kết hôn, quan hệ vợ chồng, quan hệ tài sản, vấn đề ly hôn, nguyên tắc áp dụng điều ước quốc tế. Những quy định này góp phần tháo gỡ những vướng mắc vì thiếu luật điều chỉnh, tôn trọng và tạo điều kiện cho sự phát triển của các quan hệ xã hội vượt ra ngoài phạm vi quốc gia..
- Chương X: Điều khoản cuối cùng (gồm 3 điều).
Bên cạnh những điểm tiến bộ vượt bậc, qua hơn 10 năm thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 cũng đã bộc lộ một số mặt hạn chế:
Thứ nhất, tình trạng nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (hôn nhân thực tế), nạn tảo hôn, tình trạng đa thê diễn ra phổ biến ở nhiều vùng nông thôn, miền núi. Trong đó, hôn nhân thực tế là vấn đề bức xúc, nổi cộm mà Báo cáo tổng kết công tác xét xử của ngành Toà án năm năm trở lại đây đã nêu. Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: "việc kết hôn vi phạm một trong các Điều 5, 6, 7 của luật này là trái pháp luật”. Điều này có nghĩa Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 không coi những người sống chung với nhau như vợ chồng (không vi phạm các Điều 5, 6, 7 và không đăng ký kết hôn) là trái pháp luật mà đây chỉ là sự vi phạm về thủ tục. Có ý kiến cho rằng đây là sự thừa nhận gián tiếp hôn nhân thực tế. Theo Nghị quyết số 01/NQ/HĐTP năm 1988 thì nếu đương sự yêu cầu chấm dứt hôn nhân thì Toà án sẽ giải quyết theo thủ tục ly hôn. Do hoàn cảnh lịch sử, ý thức pháp luật của nhân dân, công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật trong thời kỳ này còn yếu nên việc giải quyết hôn nhân thực tế là hợp lý. Tuy nhiên, thực tế xét xử vấn đề này tại các Toà án rất lúng túng và áp dụng không thống nhất, mặt khác yêu cầu nâng cao nhận thức của nhân dân ngày càng bức thiết nên việc thừa nhận các quan hệ này là quan hệ hôn nhân thực tế không còn phù hợp nữa. Nếu thừa nhận hôn nhân thực tế sẽ dẫn đến những diễn biến phức tạp trong đời sống xã hội và thực tiễn áp dụng pháp luật, ý thức coi thường không tuân thủ quy định của luật về thủ tục đăng ký kết hôn, Nhà nước sẽ không kiểm soát được vấn đề kết hôn liên quan đến các thủ tục hành chính khác, sự ổn định của các quan hệ xã hội cũng bị ảnh hưởng.
Trước tình hình trên, việc xây dựng Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi là cần thiết với mục đích quy định chặt chẽ các thủ tục và nghi thức đăng ký kết hôn trong đó Nhà nước không công nhận hôn nhân thực tế theo hướng cơ quan nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi đăng ký kết hôn, nhất là việc kết hôn ở các vùng miền núi, đồng bào các dân tộc thiểu số.
Thứ hai, nhiều quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 còn mang tính khái quát chung, chưa cụ thể nên khó áp dụng trong thực tế, chưa có cơ sở pháp lý thống nhất để giải quyết các tranh chấp về nhân thân và tài sản giữa các thành viên trong gia đình. Ví dụ các quy định liên quan đến căn cứ cho ly hôn, việc phân chia tài sản giữa vợ và chồng, nhất là phân chia nhà ở khi ly hôn, trách nhiệm cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình, các quy định về nuôi con nuôi, xác định cha mẹ cho con, chế độ đỡ đầu...Vì thế, Luật Hôn nhân và gia đình mới cần cụ thể hoá các quy định có tính nguyên tắc của Luật Hôn nhân gia đình 1986, tạo cơ sở pháp lý thống nhất để pháp luật được thực thi trong cuộc sống và giải quyết hiệu quả các tranh chấp phát sinh.
Việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành các quy định mang tính nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình còn chậm và thiếu, làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc thi hành Luật trong thực tế, đặc biệt là liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Việc vận dụng các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán, báo cáo tổng kết công tác hàng năm của ngành Toà án, các công văn, thông tư... trong hoạt động xét xử để bù đắp những khoảng trống nhiều khi không thống nhất và không phù hợp với nguyên tắc pháp chế XHCN.
Thứ ba, những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường đã phần nào ảnh hưởng xấu đến lối sống, đạo đức trong gia đình dẫn đến tình trạng vi phạm nghiêm trọng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình đã xảy ra ngày càng phổ biến. Trong hoàn cảnh quyền cha mẹ không được xây dựng thành một chế định pháp lý hoàn chỉnh thì việc con không kính trọng, chăm sóc, lắng nghe lời dạy bảo của cha mẹ cộng với suy nghĩ lệch lạc của một bộ phận thanh thiếu niên có xu hướng phát triển thành thái độ đặc trưng cho lối sống phản kháng, nổi loạn. Vì thế, việc xây dựng Luật Hôn nhân và gia đình mới với những quy định cụ thể nhằm đề cao trách nhiệm đối với nhau giữa các thành viên trong gia đình là hết sức cần thiết. Mặt khác, tình hình kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay có nhiều thay đổi, trong đó quan hệ hôn nhân và gia đình cũng đã phát sinh nhiều vấn đề mới cần được pháp luật điều chỉnh như vấn đề kết hôn giữa những người cùng giới, kết hôn giữa những người bị nhiễm HIV, giải quyết vấn đề tài sản, con cái khi vợ chồng ly hôn.
Thứ tư, các quan hệ hôn nhân và gia đình luôn chịu sự tác động của nhiều mối quan hệ khác nhau như dân sự, đất đai, kinh doanh, đầu tư nước ngoài... Cho đến nay, khi Nhà nước ta ban hành nhiều văn bản pháp luật mới để điều chỉnh các mối quan hệ đó như Bộ luật Dân sự, Luật đất đai, Luật doanh nghiệp... thì Luật Hôn nhân và gia đình cũng cần phải sửa đổi, bổ sung cho đồng bộ với các văn bản pháp luật hiện hành.
Xuất phát từ những lý do trên, việc xây dựng và ban hành Luật Hôn nhân gia đình mới là điều hoàn toàn cần thiết, qua đó chúng ta có thể xây dựng các chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, góp phần xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân gia đình XHCN. Việc xây dựng Luật Hôn nhân gia đình mới cũng chính nhằm hoàn thiện pháp Luật Hôn nhân và gia đình, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất giữa các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình với các quy định của văn bản pháp luật có liên quan, khắc phục tình trạng thiếu đồng bộ, thiếu cụ thể của Luật Hôn nhân và gia đình, đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong điều kiện nền kinh tế xã hội của nước ta hiện nay.
Ngoài ra, việc ban hành Luật Hôn nhân và gia đình mới còn nhằm mục tiêu tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, đề cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội đối với quan hệ hôn nhân và gia đình, tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho công tác xét xử của Toà án, đảm bảo cho Luật Hôn nhân và gia đình được nghiêm chỉnh thực thi trong cuộc sống.
VII. Một số nội dung cơ bản và Những quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
Cuối tháng 9 năm 1994, Ban dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi được thành lập mà nòng cốt là Bộ Tư pháp, cùng các thành viên khác như Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Uỷ ban chăm sóc và giáo dục trẻ em... Nhiệm vụ của Ban dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi là giúp Chính Phủ xây dựng để trình cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội trước khi trình cho Quốc hội dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình mới thay thế Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Tư tưởng chủ đạo được xác định như sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng văn bản luật, đó là tiếp tục duy trì những nguyên tắc cơ bản được thiết lập trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, sửa đổi ở mức độ cần thiết Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 cho phù hợp với tình hình mới, cụ thể hoá và chi tiết hoá các quy định của luật cũ nhằm tạo mặt bằng pháp lý cần thiết cho việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong suốt thời gian chuẩn bị dự án Luật, Ban dự thảo đã tổ chức, chỉ đạo việc tổng kết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ở các địa phương, các vùng, qua đó ghi nhận những thành tựu từ việc đưa quy tắc của Luật vào cuộc sống, đồng thời phát hiện những bất hợp lý, những thiếu sót của Luật nhằm đặt cơ sở cho việc xây dựng một văn bản luật hoàn thiện hơn. Ban dự thảo cũng đã chỉ đạo tiến hành nhiều cuộc điều tra về tình trạng hiện tại của tục lệ trong lĩnh vực hôn nhân gia đình nhằm kịp thời phát hiện những tục lệ tốt đẹp có thể được thể chế hoá trong luật. Ngoài ra, trong xu thế hội nhập và mở cửa, pháp Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện đại cũng phải hoà nhập với đời sống pháp lý chung của thế giới. Vì thế, Ban dự thảo đã tổ chức việc tham khảo pháp luật về hôn nhân và gia đình ở nhiều nước, đặc biệt là các nước trong khu vực và một số nước có hệ thống pháp luật tiên tiến nhằm ghi nhận những giải pháp có thể được vận dụng vào khung cảnh của pháp luật Việt Nam.
Sau nhiều lần soạn thảo, chỉnh lý, sửa chữa, trên cơ sở tổng hợp trí tuệ tập thể của các nhà chuyên môn, ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân, dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh, trình Quốc hội Khoá X, kỳ họp thứ 7 và được Quốc hội chính thức thông qua vào ngày 9 tháng 6 năm 2000. Luật Hôn nhân và gia đình có hiệu lực từ ngày 1/1/2001.
1. Quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
1.1 Việc xây dựng Luật Hôn nhân và gia đình mới nhằm cụ thể hoá Hiến pháp 1992, đồng thời kế thừa những nguyên tắc, chế định cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986 trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 trong 12 năm qua.
Hiến pháp 1992 - Hiến pháp của nhà nước Việt Nam thời kỳ đổi mới đã thể chế hoá đường lối, quan điểm đổi mới của Đảng của Nhà nước ta trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Điều 64 Hiến pháp 1992 quy định: “Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con”.
Đồng thời, các điều từ Điều 35 đến Điều 40, Điều 49, 51, 57, 58, 59, 70, 71, 232, 611 và 625 Bộ luật Dân sự cũng điều chỉnh các quan hệ về nhân thân và tài sản trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình như: quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng vợ chồng, sở hữu chung của vợ chồng, giám hộ... Đây là cơ sở mang tính nguyên tắc và được cụ thể hoá trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
1.2 Xây dựng, củng cố gia đình Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc về hôn nhân và gia đình, đề cao vai trò của gia đình trong cuộc sống cộng đồng, chống ảnh hưởng xấu của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến và tư sản, hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đối với quan hệ hôn nhân và gia đình.
Trong điều kiện hiện nay, với sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, sự phân hoá giầu nghèo diễn ra nhanh chóng trong xã hội, đã xuất hiện sự xuống cấp về đạo đức, lối sống thực dụng ích kỷ, sự phân hoá trong gia đình. Trong nhiều gia đình đã xảy ra tình trạng con cháu không kính trọng, bỏ mặc không cấp dưỡng, chăm sóc ông bà, cha mẹ; anh chị em không nhìn mặt nhau... Vì thế, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cần có những quy định khẳng định giá trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam, khuyến khích các thành viên trong gia đình quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, con cái kính trọng, lễ phép với ông bà, cha mẹ, ông bà cha mẹ là những tấm gương sáng về đạo đức cho con cháu noi theo. Nhà nước và xã hội khuyến khích các thế hệ trong gia đình thương yêu, đùm bọc nhau nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam.
1.3. Mở rộng quyền, đồng thời đề cao trách nhiệm của các thành viên trong gia đình; đề cao trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã hội trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ, trẻ em, và người cao tuổi.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cần phải cụ thể hoá các quy định về quyền nhân thân và tài sản cũng như nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình, đó không chỉ là quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng, cha mẹ và con mà còn của ông bà và cháu, của anh chị em và các thành viên khác trong gia đình.
Vấn đề bình đẳng nam nữ cũng như trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, giúp đỡ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ phải được coi là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Đây cũng chính là sự nội luật hoá Công ước Cedaw- Công ước của Liên hiệp quốc chống các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, Công ước về quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên.
1.4. Khuyến khích đồng bào các dân tộc giữ gìn và phát huy các phong tục, tập quán tốt đẹp về hôn nhân và gia đình thể hiện bản sắc riêng của mỗi dân tộc, đồng thời vận động đồng bào các dân tộc xoá bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình.
Nước Việt Nam ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống, mỗi dân tộc có những phong tục, tập quán riêng về hôn nhân và gia đình. Có thể nói, các phong tục tập quán đó đã ăn sâu vào đời sống xã hội của mỗi dân tộc và trong nhiều trường hợp, nó được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ về hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, việc áp dụng các phong tục tập quán này phải đảm bảo nguyên tắc: không trái với những nguyên tắc quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình, chẳng hạn nguyên tắc hôn nhân tự nguyện tiến bộ, một vợ, một chồng; vợ chồng bình đẳng... và trong trường hợp Luật Hôn nhân và gia đình không có quy định. Với những phong tục tập quán tốt đẹp, tiến bộ, Luật Hôn nhân và gia đình có thể chọn lọc để chuyển hoá thành các quy phạm pháp luật; đồng thời vận động đồng bào dân tộc xoá bỏ những phong tục lạc hậu về hôn nhân và gia đình.
1.5. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, đề cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, cộng đồng xã hội đối với các quan hệ hôn nhân và gia đình, hạn chế tranh chấp, tháo gỡ các vướng mắc của các Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình, bảo đảm cho Luật Hôn nhân và gia đình được thực thi trong cuộc sống.
2. Những điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
2.1. Về cơ cấu:
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 bao gồm 13 chương với 110 điều (Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 gồm 10 chương và 57 điều).
- Trong số 13 chương, có 3 chương hoàn toàn mới là: Chương V: Quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa anh chị em và giữa các thành viên trong gia đình; Chương VI: Cấp dưỡng; Chương XII: Xử lý vi phạm
- Có 2 chương mới về nội dung so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, đó là: Chương IX: Giám hộ giữa các thành viên trong gia đình; Chương XI: Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
2.2. Một số điểm mới về nội dung của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Chương I- Những quy định chung.
So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 trong Chương I có 4 điều mới, đó là:
- Điều 3: Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với Hôn nhân và gia đình.
- Điều 5: áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự.
- Điều 6: áp dụng phong tục tập quán về hôn nhân và gia đình.
- Điều 7: áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Một số điều được bổ sung:
- Điều 1 quy định cụ thể nhiệm vụ và phạm vi điều chỉnh của luật.
- Điều 2 bổ sung nguyên tắc cơ bản nhằm cụ thể hoá Hiến pháp 1992 “Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con”.
- Điều 8 "Giải thích từ ngữ" rất cần thiết để có cách hiểu thống nhất, 14 thuật ngữ quan trọng đã được giải thích như: Kết hôn trái pháp luật, cấp dưỡng, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài...
Chương II- Kết hôn.
- Điều 9 quy định theo hướng mở rộng hơn phạm vi độ tuổi được kết hôn, theo đó nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở nên có quyền được kết hôn.
- Điều 10 quy định những trường hợp cấm kết hôn: bỏ quy định cấm kết hôn với người mắc bệnh hoa liễu; bổ sung một điểm mới quan trọng là cấm kết hôn giữa những người cùng giới, giữa những người từng là: cha mẹ nuôi với con nuôi, giữa bố chồng với con dâu, giữa mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
- Điều 11 có quy định mới “Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng". Đây là quy định hết sức quan trọng thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước là không thừa nhận hôn nhân thực tế nữa, đồng thời giải quyết "vấn đề chưa rõ ràng" trong việc áp dụng Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.
Chương III- Quan hệ giữa vợ chồng.
So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã bổ sung 9 điều mới trong đó có 6 điều liên quan đến nghĩa vụ và quyền nhân thân của vợ và chồng; 3 Điều liên quan đến nghĩa vụ và quyền về tài sản của vợ chồng.
- Điều 18: Tình nghĩa vợ chồng.
- Điều 21: Tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng.
- Điều 24: Đại diện cho nhau giữa vợ chồng.
- Điều 25: Trách nhiệm liên đới của vợ chồng với giao dịch do một bên thực hiện.
- Điều 26: Quan hệ hôn nhân khi một bên bị tuyên bố là đã chết trở về.
- Điều 28: Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
- Điều 30: Hậu quả chia tài sản chung của vợ chồng.
- Điều 33: Chiếm hữu, sử dụng định đoạt tài sản riêng.
Bên cạnh đó Điều 27, 29, 31 có bổ sung một số nội dung mới quan trọng như quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng nếu pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận phải ghi tên vợ chồng...
Chương IV- Quan hệ giữa cha mẹ con.
Chương này được có 6 điều mới so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 cụ thể hoá nghĩa vụ và quyền hạn của cha mẹ và con đối với nhau.
- Điều 36: Nghĩa vụ và quyền chăm sóc nuôi dưỡng.
- Điều 37: Nghĩa vụ và quyền giáo dục con.
- Điều 38: Nghĩa vụ và quyền của bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc chồng.
- Điều 42: Người có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền của cha mẹ với con cái.
- Điều 43: Hậu quả pháp lý việc cha mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.
- Điều 46: Định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên.
Chương V- Quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa anh, chị, em và giữa các thành viên trong gia đình.
Đây là một chương mới được phát triển từ nội dung Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, có ý nghĩa đề cao vai trò trách nhiệm cũng như quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình, đồng thời khẳng định quan hệ giữa ông bà và cháu, giữa anh chị em và giữa các thành viên trong gia đình là một bộ phận của quan hệ hôn nhân và gia đình cần được pháp luật bảo vệ, khuyến khích việc duy trì và phát triển gia đình nhiều thế hệ theo truyền thống á Đông.
Chương VI- Cấp dưỡng.
Đây là chương mới được phát triển từ Điều 43, 45 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã mở rộng phạm vi quan hệ cấp dưỡng. Không chỉ cấp dưỡng khi ly hôn mà cấp dưỡng trong mọi trường hợp của đời sống, không chỉ cha mẹ cấp dưỡng cho con mà cả con cấp dưỡng cho cha mẹ, anh chị cấp dưỡng cho em chưa thành niên, em cấp dưỡng cho anh chị không có khả năng lao động, ông bà cấp dưỡng cho cháu, cháu cấp dưỡng cho ông bà… Luật cũng quy định những người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng và căn cứ chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng.
Chương VII- Xác định cha mẹ cho con.
Trong chương này có một số điểm mới quan trọng như:
- Điều 63: Quy định xác định cha mẹ cho con sinh ra theo phương pháp khoa học (Khoản 2).
- Con sinh ra trước ngày kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng.
- Con đã thành niên xin nhận cha không đòi hỏi có sự đồng ý của mẹ và ngược lại.
- Không chỉ xác định cha mẹ cho con ngoài giá thú mà còn xác định cha mẹ cho con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự và xác định con cho cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự.
Chương VIII- Nuôi con nuôi.
Trong chương này có một số điểm mới quan trọng như:
- Điều 69: Điều kiện của người nhận nuôi con nuôi.
- Điều 75: Cha mẹ nuôi có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền thay đổi họ tên cho con nuôi.
- Điều 76: Quan hệ nuôi con nuôi còn có thể bị chấm dứt khi cả hai bên cùng tự nguyện chấm dứt.
- Điều 78: Con nuôi được trích chia công sức đóng góp trong khối tài sản của cha mẹ nuôi.
Chương IX- Giám hộ giữa các thành viên trong gia đình.
Chương chế độ đỡ đầu trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 được thay thế bằng chương Giám hộ giữa các thành viên trong gia đình dựa vào các quy định của BLDS với những nội dung rõ ràng hơn, đồng thời bổ sung quy định về việc con riêng giám hộ cho bố dượng, mẹ kế (Điều 72).
Chương X- Ly hôn.
So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã bổ sung mới 5 điều, quy định cụ thể những vấn đề nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, bảo vệ quyền lợi chính đáng của mỗi bên, nhất là người phụ nữ khi ly hôn.
- Điều 86: Hoà giải cơ sở.
- Điều 92: Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn.
- Điều 97: Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn.
- Điều 98: Chia nhà ở thuộc sở hữu chung vợ chồng.
- Điều 99: Giải quyết quyền lợi của vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp nhà ở thuộc quyền sở hữu riêng của mỗi bên.
Chương XI- Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Các điểm mới dựa trên cơ sở cụ thể hoá các quy định của Bộ luật Dân sự và xuất phát từ yêu cầu hội nhập và mở cửa trên thực tế. Khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định cụ thể hơn những vấn đề về cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, vấn đề kết hôn, ly hôn, nuôi con nuôi, giám hộ yếu tố nước ngoài.
Chương XII- Xử lý vi phạm.
Đây là chương mới được quy định nhằm đảm bảo cho việc chấp hành nghiêm Luật Hôn nhân và gia đình; đồng thời là cơ sở cho việc phối hợp đồng bộ các quy định pháp luật để phòng ngừa, xử lý và khắc phục hậu quả của các vi phạm pháp luật.
2.3. Về kỹ thuật xây dựng văn bản.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã cụ thể hoá, chi tiết hoá các quy định có tính khái quát, chung chung của Luật 1986, đặc biệt là các nghĩa vụ và quyền về nhân thân và tài sản của các thành viên trong gia đình.
Luật mới cũng tránh những quy định có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau trong quá trình áp dụng như Điều 8, 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, đồng thời ở mỗi điều luật đều có tiêu đề cụ thể tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu, tra cứu và áp dụng.
Với những điểm mới quan trọng trên Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã khắc phục được phần nào những thiếu sót của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, góp phần điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình theo chiều hướng tốt đẹp, duy trì những quan hệ truyền thống, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các thành viên trong gia đình.
Như vậy, quá trình phát triển của lịch sử xã hội với sự điều chỉnh tương ứng của các quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình đã cho thấy bản chất, thực trạng và sự phát triển của đời sống gia đình, kinh tế, văn hoá của ở mỗi thời kỳ cũng như tư tưởng, đường lối, thái độ của Nhà nước và xã hội đối với các vấn đề về phụ nữ, Hôn nhân và gia đình. Trong đó, sự bình đẳng về giới, tính dân chủ, nhân đạo trong các quan hệ gia đình được thể hiện đậm nét qua nội dung các quy định của pháp luật là thước đo nền dân chủ, tiến bộ, văn minh của xã hội.
-------------------------------------------------------------
Phần thứ hai
Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 điều chỉnh các quan hệ nhân thân và tài sản giữa các thành viên trong gia đình, xác lập các chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên gia đình, kế thừa và phát huy các truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam, nhằm xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Đồng thời, Luật cũng đề cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng và củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam. Hầu hết, các quy định quan trọng, mang tính nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã được kế thừa và được cụ thể hoá trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật của nước ta, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã cụ thể hoá các quy định có liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình trong Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự, Luật này cũng liên quan chặt chẽ với các quy định của pháp luật về kinh doanh, đất đai, tố tụng dân sự, hình sự, hành chính... Do vậy, khi nghiên cứu, giải thích hoặc tìm hiểu các quy định của Luật cần được xem xét trong mối quan hệ với các quy định của pháp luật có liên quan nói trên.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 gồm Lời nói đầu, 13 chương và 110 điều.
Lời nói đầu:
“Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
Để đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát huy truyền thống và những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xoá bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình;
Để nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam;
Kế thừa và phát triển pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam;
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Luật này quy định chế độ hôn nhân và gia đình”.
1. Các quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 mang tính kế thừa những quy định phù hợp, đồng thời pháp điển hoá và phát triển một bước quan trọng hệ thống các quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình của nước ta từ trước đến nay. Tính kế thừa và phát triển của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thể hiện ở ý nghĩa và vai trò của Luật nêu trong Lời nói đầu. Nếu mục đích và yêu cầu cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 là xoá bỏ những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, xác lập chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa; mục đích của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 là tiếp tục xây dựng và củng cố chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa, xây dựng con người mới và nếp sống mới xã hội chủ nghĩa trong quan hệ hôn nhân và gia đình, thì mục đích và yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là đề cao vai trò, tầm quan trọng của gia đình trong đời sống của mỗi cá nhân cũng như đối với sự phát triển chung của xã hội, khẳng định tầm quan trọng của việc giữ gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xoá bỏ những hủ tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình; nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Lịch sử đã cho thấy, ở bất cứ thời điểm nào, trong bất kỳ hình thái kinh tế nào, xã hội luôn là tập hợp của các gia đình."Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt". Đây là tổng hợp các chức năng và vai trò của gia đình đối với mỗi cá nhân cũng như đối với toàn xã hội. Gia đình là nơi hình thành và phát triển nhân cách, trí lực của mỗi cá nhân và đến lượt mình, mỗi cá nhân lại trở thành những người sáng lập ra một gia đình khác góp phần làm nên xã hội. Và như vậy, việc tổ chức xã hội thành gia đình là một tất yếu khách quan cần thiết để mỗi cá nhân cũng như xã hội được duy trì và phát triển bền vững.
Từ góc độ tự nhiên và xã hội, khởi nguồn của gia đình là sự kết hợp giữa hai người nam nữ và cũng theo thiên chức tự nhiên, khi con cái ra đời, cha mẹ là người có trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục. Xã hội thông qua cha mẹ, đầu tư cho sự phát triển thể chất, trí tuệ và nhân cách của cá nhân theo những tiêu chí chung đã được đặt ra. Và đến lượt mình con cái trở thành một chủ thể độc lập hoà nhập vào đời sống cộng đồng và lại tiếp tục hình thành một gia đình mới như một sự duy trì và phát triển xã hội.
Dưới góc độ kinh tế, gia đình là một đơn vị sản xuất và tiêu dùng cho xã hội. Các thành viên trong gia đình, dưới tác động của phân công lao động, tuỳ thuộc vào năng lực và phẩm chất của mình sẽ tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất của xã hội góp phần tạo dựng và phát triển cơ sở vật chất, tinh thần nhất định cho xã hội.
Việc nhấn mạnh và khẳng định vai trò, tầm quan trọng của gia đình tại đoạn đầu Lời nói đầu của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã thể hiện được đường lối, tư tưởng và quan điểm của Nhà nước ta đối với việc xây dựng và phát triển một mô hình gia đình lý tưởng trong đó, mọi người đều có quyền bình đẳng, dân chủ và hạnh phúc.
2. Tiếp tục kế thừa các quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình đã được khẳng định trong các đạo luật về hôn nhân và gia đình năm 1959 và năm 1986, trong Lời nói đầu của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng nhấn mạnh những yêu cầu đặt ra trong việc xây dựng Luật, đó là: “Đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát huy truyền thống và những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xoá bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình”, đồng thời khẳng định việc “nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam”.
Trong nhiều thế kỷ, chế độ phong kiến với hệ tư tưởng nho giáo đã hình thành tại Việt Nam những mô hình gia đình khác nhau nhưng nhìn chung, đều thừa nhận tư cách gia trưởng của người chồng, người cha, áp đặt sự chuyên quyền và bất bình đẳng trong quan hệ gia đình. ở từng địa phương khác nhau đã dần hình thành nên những phong tục, tập quán thể hiện đậm nét bản sắc riêng của đời sống vật chất và tinh thần về các vấn đề trong hôn nhân, gia đình. Những tục lệ này tồn tại lâu đời đã có ảnh hưởng lớn, chi phối sâu sắc tới đời sống xã hội dưới nhiều góc độ, tích cực có, tiêu cực có. Cùng với sự phát triển của nền dân chủ, văn minh xã hội, một trong những nhiệm vụ quan trọng cần đặt ra là xoá bỏ những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, xác lập chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa, xây dựng những tư tưởng tiến bộ theo đó, quyền tự do, lợi ích và vai trò của mỗi cá nhân hay mọi thành viên trong gia đình được đề cao, tôn trọng và bảo vệ. Bên cạnh đó, nhằm duy trì, phát huy những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam quan điểm cơ bản nêu trong Lời nói đầu đã được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quán triệt và cụ thể hoá tại nhiều điều luật tương ứng. Một loạt các quy định về điều kiện kết hôn, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, của cha mẹ và con, các quy định về nuôi con nuôi, giám hộ, quy định về điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình của đồng bào các dân tộc đã thể hiện rõ sự tôn trọng, kế thừa và phát huy các tập quán, truyền thống tốt đẹp của nhân dân, đồng thời xoá bỏ, loại trừ các phong tục, tập quán lạc hậu có ảnh hưởng không tốt...
Bên cạnh đó, các quy định của Luật về trách nhiệm của Nhà nước đối với việc ghi nhận, thực thi và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình, trách nhiệm cụ thể của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu Toà án ra các quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, yêu cầu người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, yêu cầu xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, yêu cầu Toà án chấm dứt việc nuôi con nuôi,... đều thể hiện rõ một trong những yêu cầu quan trọng của việc xây dựng đạo luật này là nhằm nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Chương I
|
Những quy định chung
|
Chương I gồm 8 điều (từ Điều 1 đến Điều 8) với nội dung chủ yếu là quy định về nhiệm vụ, phạm vi điều chỉnh của Luật, những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với Hôn nhân và gia đình, việc bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình, việc áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự, áp dụng phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình, áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra, Chương này có dành một điều giải thích các từ ngữ sử dụng trong Luật để có cách hiểu thống nhất.
|
|
Điều 1. Nhiệm vụ và phạm vi điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình
Luật Hôn nhân và gia đình có nhiệm vụ góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Luật Hôn nhân và gia đình quy định chế độ hôn nhân và gia đình, trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam.
|
|
1. Nhiệm vụ quan trọng nhất của pháp luật là điều chỉnh, định hướng các quan hệ xã hội theo lợi ích và trật tự chung mà Nhà nước đã đặt ra. Vì vậy, Luật Hôn nhân và gia đình, với tư cách là tập hợp các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân gia đình cũng có vai trò là cơ sở pháp lý vững chắc góp phần xây dựng, duy trì, phát triển và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ phù hợp với điều kiện và bản chất của xã hội Việt Nam. Nhiệm vụ này đã được Nhà nước xác định ngay từ Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, theo đó "Nhà nước bảo đảm việc thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ, một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái, nhằm xây dựng những gia đình hạnh phúc, dân chủ và hoà thuận, trong đó mọi người hoà thuận, đoàn kết, thương yêu nhau, giúp nhau tiến bộ”(Điều 1), “ Xoá bỏ những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh nữ, coi rẻ quyền lợi của con cái” (Điều 2).
Quan điểm xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ nêu trên đã được kế thừa và phát triển thêm một bước trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Điều 1 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 khẳng định: “Nhà nước bảo đảm thực hiện chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng, nhằm xây dựng gia đình dân chủ, hoà thuận, hạnh phúc, bền vững. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo khác nhau, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo được tôn trọng và bảo vệ”.
Kế thừa và phát huy các nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng nhấn mạnh: “Luật Hôn nhân và gia đình có nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững”
Đây là cơ chế cần thiết để bảo đảm cho việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy tắc đó- nhằm đạt được mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững, thể hiện tinh thần Nghị Quyết số 04 NQ/TƯ của Bộ Chính trị ngày 12/6/1994 về tăng cường và đổi mới công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới.
Nhiệm vụ kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam thể hiện rõ trong các quy định có liên quan đến điều kiện kết hôn, quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình, đặc biệt, truyền thống đạo đức tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình Việt Nam đã được kế thừa và phát huy qua các quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ giám hộ cho nhau giữa các thành viên trong gia đình khi cần thiết.
2. Về phạm vi điều chỉnh, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 điều chỉnh các quan hệ về kết hôn, ly hôn, nghĩa vụ và quyền giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con, con nuôi, giám hộ, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài và những vấn đề khác liên quan đến Hôn nhân và gia đình. Để thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Chính phủ đã ban hành một số văn bản hướng dẫn thi hành Luật, trong đó có quy định liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình của đồng bào các dân tộc thiểu số, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, việc xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm quy định của Luật Hôn nhân và gia đình...
Điều 2. Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình
1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
3. Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
4. Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau.
5. Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú.
6. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.
|
|
1. Các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình thể hiện những quan điểm cơ bản, chủ đạo xuyên suốt trong các quy định của Luật.
-
Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng là nguyên tắc quan trọng và cơ bản nhất của chế độ hôn nhân và gia đình được Nhà nước ta bảo hộ, đồng thời cũng là nguyên tắc có tính kế thừa và xuyên suốt trong các đạo luật về hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta từ năm 1959 đến nay. Tính tự nguyện thể hiện ở sự tự do ý chí của các chủ thể trong các quan hệ nhân thân và tài sản trong đời sống hôn nhân gia đình,
- Tự do lựa chọn người bạn đời không phụ thuộc ý chí của người khác
- Tự do ý chí trong việc nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng
- Tự do trong việc xin chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khi có lý do chính đáng hoặc chia tài sản khi đời sống chung của vợ chồng đã tan vỡ, mục đích hôn nhân không đạt được thì vợ, chồng đều có quyền thuận tình ly hôn...
Đây là nguyên tắc thể hiện bản chất tiến bộ của quan hệ hôn nhân hiện đại khác hẳn với quan niệm “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” của chế độ phong kiến
-
Tính “tiến bộ” được quy định tại Điều 2 là sự cụ thể hoá của tư tưởng chủ đạo “xoá bỏ những phong tục tập quán lạc hậu về hôn nhân gia đình” của Nhà nước ta. Theo đó, các thủ tục kết hôn như lễ nghi phức tạp, gây tốn kém, gây cản trở hôn nhân... có tác động không tốt cần được loại bỏ. Trong đời sống gia đình những tư tưởng gia trưởng lạc hậu, trọng nam khinh nữ... cũng cần được loại bỏ để đảm bảo sự tiến bộ và dân chủ.
-
“Một vợ một chồng” là nguyên tắc cơ bản và cần thiết để có thể “xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ” với quan điểm rõ ràng “bản chất của tình yêu là không thể sẻ chia”[1]. Nguyên tắc này phủ nhận hoàn toàn chế độ hôn nhân đa thê đã được thừa nhận từ rất lâu trong lịch sử xã hội Việt Nam nói riêng và nhiều nước trên thế giới nói chung, gây bất bình đẳng về giới, hạ thấp vị trí của người phụ nữ trong gia đình, mặt khác đi ngược lại với bản chất của hôn nhân.
-
Nguyên tắc “vợ chồng bình đẳng” được quy định tại Chương I Luật Hôn nhân và gia đình một lần nữa tiếp tục khẳng định tư tưởng tiến bộ của Nhà nước ta trong việc quyết tâm xây dựng những tế bào của xã hội trên nền tảng vững chắc, tự do và tiến bộ. Phụ nữ và sự bình đẳng về giới trong nhiều thập kỷ qua vẫn là vấn đề nhức nhối không chỉ trong phạm vi của lĩnh vực hôn nhân gia đình, cũng không chỉ riêng ở Việt Nam mà đó là mối quan tâm của toàn thế giới. Ngày nay, phụ nữ muốn bình đẳng trong xã hội, trong nghề nghiệp và trong gia đình - đó là nguyện vọng hoàn toàn chính đáng cần được Nhà nước quan tâm, tôn trọng, ghi nhận và bảo vệ.
2. Điều 2 còn quy định một số nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình nước ta, cụ thể là:
-
Nguyên tắc hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Đây là nguyên tắc kế thừa quy định trong Luật năm 1986, đồng thời cũng là sự thể chế hoá các nguyên tắc đã được khẳng định tại Điều 70 của Hiến pháp năm 1992[2] và Điều 43 Bộ luật Dân sự về việc Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của công dân. Quy định này cũng nhằm bảo đảm quyền tự do kết hôn của nam nữ, thể hiện chính sách bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc trong quan hệ hôn nhân, chính sách tôn giáo, đồng thời phù hợp với chính sách "hội nhập, mở cửa" của Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.
-
Nguyên tắc “vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình”: Kế hoạch hoá gia đình một vấn đề cấp bách nằm trong chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, chính sách này đã được thực hiện trong nhiều năm nhằm giảm tỷ lệ phát triển dân số, nâng cao chất lượng của cuộc sống, bảo đảm cho trẻ em sinh ra được nuôi dạy tốt và góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình không chỉ là trách nhiệm của mỗi cặp vợ chồng, mà còn là trách nhiệm chung của các ngành, các cấp và của toàn xã hội. Điều cần lưu ý là khi thực hiện nguyên tắc này, chúng ta không thể áp dụng hoặc lạm dụng các biện pháp cưỡng chế, mà cần coi trọng biện pháp tuyên truyền, vận động, thuyết phục các cặp vợ chồng chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Nhà nước về dân số, tránh tình trạng hiện nay một số cơ quan, địa phương đã tự quy định chế tài phạt đối với các cặp vợ chồng sinh con thứ ba như phạt tiền, phạt bằng thóc, không cho lên lương, lên cấp mặc dù đã đến hạn...
-
Nguyên tắc “Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ”. Bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em là vấn đề không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa đạo lý, là truyền thống tốt đẹp của người dân Việt Nam, mà còn là vấn đề có tính nguyên tắc mang tính toàn cầu. Nguyên tắc này được thế giới công nhận và bảo vệ thể hiện trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em, Công ước Cedaw về xoá bỏ tất cả các các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và được nội luật hoá trong nhiều đạo luật quan trọng của Việt Nam như: Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em... và đặc biệt, nguyên tắc này được thể hiện rất rõ nét trong các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình trong một loạt các quy định liên quan đến quyền bình đẳng của vợ chồng, các quan hệ về nhân thân và tài sản, quyền bình đẳng giữa các con trong gia đình, quyền thừa kế của con đã thành thai, việc hạn chế quyền xin ly hôn của người chồng trong trường hợp vợ đang có thai, quy định về trách nhiệm của vợ chồng trong việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn, việc giao con dưới ba tuổi cho người mẹ trực tiếp nuôi giữ khi vợ chồng ly hôn, nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên trong việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn... Như vậy, trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nguyên tắc này đã được bảo đảm và vượt xa so với những yêu cầu của Công ước Cedaw và Công ước về quyền trẻ em
-
Nguyên tắc Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú.... là nguyên tắc nhằm bảo đảm quyền bình đẳng giữa các con, không phân biệt đối xử giữa con trai, con gái, con đẻ, con nuôi, con trong giá thú, con ngoài giá thú..., là sự thể chế hoá quy định tại Điều 64 của Hiến pháp năm 1992[3]. Nguyên tắc này đã được cụ thể hoá trong một số quy định của Luật, như quy định về sự bình đẳng giữa các con về các quyền và nghĩa vụ trong gia đình, quy định về quyền nhận cha, mẹ hoặc được Toà án cho nhận, mẹ của con ngoài giá thú, sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa con trong giá thú và con ngoài giá thú, giữa con đẻ và con nuôi,...
-
Để thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo khi xây dựng Luật là quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ mở rộng quyền và đề cao trách nhiệm đối với nhau giữa các thành viên trong gia đình, tại Điều 2 đã bổ sung thêm một số nguyên tắc mới như: Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Trên cơ sở các nguyên tắc này, Luật có các quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con, giữa anh chị em đối với nhau, giữa ông bà và cháu, giữa các thành viên trong gia đình. Quan điểm này được thể hiện đặc biệt rõ nét tại Chương VI của Luật quy định về Cấp dưỡng.
|
|
Điều 3. Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với Hôn nhân và gia đình
1. Nhà nước có chính sách, biện pháp tạo điều kiện để các công dân nam, nữ xác lập hôn nhân tự nguyện, tiến bộ và gia đình thực hiện đầy đủ chức năng của mình; tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình; vận động nhân dân xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc; xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ.
2. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giáo dục, vận động cán bộ, công chức, các thành viên của mình và mọi công dân xây dựng gia đình văn hoá; thực hiện tư vấn về hôn nhân và gia đình; kịp thời hoà giải mâu thuẫn trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình.
3. Nhà trường phối hợp với gia đình trong việc giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình cho thế hệ trẻ.
|
|
1. Để nâng cao và xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc hỗ trợ, giúp đỡ xây dựng và củng cố gia đình Việt Nam, tại Khoản 1 Điều 3 của Luật quy định cụ thể trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với gia đình: Nhà nước có các chính sách, biện pháp tạo điều kiện để các công dân nam, nữ xác lập quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ và giúp đỡ các gia đình thực hiện đầy đủ chức năng của mình; Nhà nước, xã hội có các biện pháp cần thiết để tăng cường các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình, vận động nhân dân xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ.
Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với gia đình được thể hiện thông qua nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có các biện pháp liên quan đến việc xây dựng các chính sách về dân số, kế hoạch hoá gia đình, các chính sách về dân tộc, kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế... và thông qua việc xây dựng và ban hành các đạo luật nhằm điều chỉnh các quan hệ liên quan đến lĩnh vực hôn nhân và gia đình, nhằm xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp về hôn nhân và gia đình, thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc.
2. Để đề cao vai trò của các cơ quan, tổ chức trong việc tuyên truyền pháp luật, thực hiện việc hoà giải và tư vấn về hôn nhân và gia đình, tại các khoản 2 và khoản 3 Điều 3 của Luật quy định rõ việc Nhà nước khuyến khích các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giáo dục, vận động cán bộ, công chức, các thành viên của mình và mọi công dân xây dựng gia đình văn hoá; thực hiện tư vấn về hôn nhân và gia đình, kịp thời hoà giải các mâu thuẫn, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình; Bên cạnh đó, Nhà nước cũng giao trách nhiệm cho nhà trường phải phối hợp với gia đình trong việc giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình cho thế hệ trẻ.
Điều 4. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình
1. Quan hệ hôn nhân và gia đình thực hiện theo quy định của Luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
2. Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn, ly hôn; cấm cưỡng ép ly hôn, ly hôn giả tạo; cấm yêu sách của cải trong việc cưới hỏi.
Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.
Cấm ngược đãi, hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, anh, chị, em và các thành viên khác trong gia đình.
3. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan khác có thẩm quyền có biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm minh đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.
|
|
Khoản 1 Điều 4 quy định rõ về nguyên tắc, quan hệ hôn nhân và gia đình tuân theo các quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Các quy định của Luật đã liệt kê những hành vi cụ thể bị coi là vi phạm phạm luật về hôn nhân và gia đình và bị pháp luật nghiêm cấm, đó là các hành vi tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn, cưỡng ép ly hôn, ly hôn giả tạo, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, ngược đãi, hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, anh, chị, em và các thành viên khác trong gia đình, cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc cấm người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.
2. Bộ luật Hình sự năm 1999 đã dành một chương riêng (Chương XV) quy định về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình. Theo quy định của Bộ luật Hình sự thì các hành vi xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình sau đây, tuỳ theo mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra mà có thể bị xử lý về hình sự với các khung hình phạt khác nhau, đó là các tội danh:
- Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ (Điều 146);
- Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 147);
- Tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn (Điều 148);
- Tội đăng ký kết hôn trái pháp luật (Điều 149);
- Tội loạn luân ( Điều 150);
- Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình ( Điều 151);
- Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152).
Nhìn chung, các tội danh trên đây được xử lý ở mức hình phạt cao hơn so với mức hình phạt quy định đối với các tội danh này trong Bộ luật Hình sự năm 1985, điều này cũng cho thấy Nhà nước ta luôn coi trọng việc áp dụng các biện pháp cần thiết, kể cả việc áp dụng các hình phạt nghiêm khắc để xử lý các cá nhân có hành vi vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình, bảo đảm cho các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình được thực thi nghiêm chỉnh trong cuộc sống.
3. Bên cạnh các chế tài về hình sự, sau khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được ban hành, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Nghị định này quy định cụ thể về các hành vi vi phạm, hình thức và mức xử phạt, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Nghị định đã quy định việc xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm sau:
- Hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn;
- Hành vi cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
- Hành vi vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng;
- Hành vi vi phạm quy định về đăng ký kết hôn;
- Hành vi vi phạm quy định về quan hệ giữa cha mẹ và con;
- Hành vi ngược đãi, hành hạ thành viên trong gia đình hoặc người có công nuôi dưỡng mình;
- Hành vi vi phạm quy định về cấp dưỡng;
- Hành vi vi phạm quy định về giám hộ;
- Hành vi vi phạm quy định về nuôi con nuôi;
- Hành vi vi phạm quy định về quyền thăm nom con sau khi ly hôn.
Về hình thức xử phạt, Nghị định quy định một số hình thức xử phạt chủ yếu như: cảnh cáo, phạt tiền, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm, tước quyền sử dụng giấy phép, buộc cấp dưỡng, buộc bồi thường thiệt hại thay cho con, buộc thực hiện nghĩa vụ giám hộ theo quy định pháp luật.
Về mức phạt, Nghị định có quy định các mức phạt tiền khác nhau, tuỳ theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm, trong đó có quy định mức phạt cao nhất lên đến 5.000.000, đồng đối với tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nuôi con nuôi có hành vi xâm phạm quy định của pháp luật về nuôi con nuôi.
4. Các quy định của Nghị định số 87/2001/ NĐ-CP là căn cứ pháp luật quan trọng để từng bước đưa các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình được thực thi nghiêm chỉnh trong cuộc sống. Ngoài ý nghĩa là tiền đề quan trọng để các quy định của Bộ luật Hình sự về việc xử lý các hành vi phạm tội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình có căn cứ để thực thi[4], thì các quy định của Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình còn có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần vào việc khắc phục được tình trạng yếu kém của chúng ta, đó là khâu tổ chức thực thi các quy định của pháp luật. Cơ chế pháp lý đồng bộ và đầy đủ sẽ đưa các quy định của pháp luật thực sự đi vào cuộc sống của người dân, thực sự có ý nghĩa giáo dục, răn đe và trừng phạt nghiêm khắc đối với các cá nhân hoặc tổ chức có hành vi xâm phạm các quy định của pháp luật.
|
|
Điều 5. áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự
Các quy định của Bộ luật Dân sự liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình trong trường hợp pháp luật về hôn nhân và gia đình không có quy định.
|
|
Do đặc điểm quan hệ hôn nhân gia đình không chỉ liên quan đến việc hình thành, chấm dứt quan hệ kết hôn mà còn liên quan nhiều đến quan hệ nhân thân và tài sản, nhiều vấn đề như đại diện, giám hộ, tuyên bố mất tích, chết hay tài sản chung hợp nhất theo phần, vấn đề cấp dưỡng. Ngoài các quy định cơ bản về một số quyền nhân thân có liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình như quyền kết hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình, quyền ly hôn, quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con, quyền được nhận con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi[5], Bộ luật Dân sự còn có một số quy định quan trọng khác về nơi cư trú của người chưa thành niên, nơi cư trú của người được giám hộ, nơi cư trú của vợ chồng, các quy định liên quan đến đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi, đăng ký giám hộ, các quy định về chế độ giám hộ, chế độ sở hữu chung về tài sản của vợ chồng, trách nhiệm cụ thể của cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên hoặc do người đã thành niên bị mất năng lực hành vi gây ra cho người khác, quy định về quyền thừa kế của cá nhân... Do vậy, Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về nguyên tắc áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình là rất cần thiết, nhằm xác định rõ thứ tự ưu tiên áp dụng luật trong điều kiện có nhiều văn bản pháp luật cùng có quy định để điều chỉnh một lĩnh vực nhưng ở mức độ khác nhau và dưới góc độ khác nhau.
|
|
Điều 6. áp dụng phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, những phong tục, tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc mà không trái với những nguyên tắc quy định tại Luật này thì được tôn trọng và phát huy.
|
|
1. Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, phong tục, tập quán không chỉ là yếu tố thể hiện bản sắc văn hoá riêng của mỗi dân tộc, mà còn là một trong những yếu tố rất quan trọng, có ảnh hưởng và tác động rất lớn, chi phối cách ứng xử của mỗi cá nhân trong cộng đồng đối với những quan hệ phát sinh trong đời sống, đặc biệt là trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Vấn đề đặt ra là Nhà nước cần có thái độ và định hướng như thế nào để một mặt vừa có thể duy trì, phát huy được những phong tục, tập quán tốt đẹp về hôn nhân và gia đình- coi đó là công cụ đắc lực để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình, mặt khác, vừa có định hướng xoá bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu, nhằm từng bước xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ trong đời sống của đồng bào các dân tộc.
2. Có thể nói các quy định tại Điều 6 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về nguyên tắc áp dụng phong tục, tập quán trong quan hệ hôn nhân và gia đình là một bước tiến mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Trước đây, theo quy định tại Điều 35 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội (theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959) hoặc Hội đồng Nhà nước (theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986) sẽ căn cứ vào Luật đó và tình hình cụ thể mà có những quy định thích hợp để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình của đồng bào các dân tộc thiểu số. Tuy vậy, trong suốt thời gian sau này, cho đến khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được ban hành, thì các cơ quan nêu trên vẫn chưa ban hành văn bản pháp luật nào để điều chỉnh vấn đề nói trên, ngoại trừ Nghị quyết số 542 - NQ - TVQH ngày 18/4/1968 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn ban hành Điều lệ quy định việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình trong khu tự trị Việt Bắc và Nghị quyết số 873 - NQ - TVQH ngày 18/12/ 1970 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Điều lệ quy định việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình trong khu tự trị Tây Bắc. Tuy vậy, trong cả hai bản Điều lệ nói trên đều chưa có các quy định cụ thể để áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số, mà chỉ nhắc lại các quy định có tính nguyên tắc đã được khẳng định trong Luật.
3. Để thực sự đưa các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình đi vào đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số. trên cơ sở quy định có tính nguyên tắc được khẳng định tại Điều 6 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, ngày 27/3/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 32/2002/ NĐ-CP quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số. Quy định của Nghị định này được áp dụng đối với người dân thuộc các dân tộc thiểu số đang sinh sống ở vùng sâu, vùng xa. Đồng thời, cũng quy định việc áp dụng các phong tục, tập quán của các dân tộc về hôn nhân và gia đình. Về cơ bản các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình của đồng bào các dân tộc thiểu số, như quy định về điều kiện kết hôn, quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình, việc trông nom, chăm sóc con khi ly hôn, việc chia tài sản khi ly hôn...
Nghị định số 32/2002/ NĐ-CP có một số quy định nét đặc thù so với quy định chung của Luật để phù hợp với trình độ phát triển và đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, đó là các quy định liên quan đến thủ tục đăng ký kết hôn, việc áp dụng các phong tục, tập quán về nghi thức cưới hỏi, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi, việc thừa nhận quan hệ nuôi con nuôi trên thực tế của đồng bào các dân tộc thiểu số. Đây là những quy định quan trọng nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đồng bào các dân tộc thiểu số khi thực hiện các quy định của Luật về đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi. Bên cạnh đó, Nghị định cũng ban hành 2 danh mục: Danh mục phong tục, tập quán tốt đẹp về hôn nhân và gia đình được khuyến khích phát huy và Danh mục phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình của các dân tộc bị cấm áp dụng hoặc cần vận động xoá bỏ.
|
|
Điều 7. áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
-
Các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được áp dụng đối với các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.
-
Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy đinh khác với quy định của Luật này, thì áp dụng quy định của Điều ước Quốc tế.
|
|
1. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được điều chỉnh theo nguyên tắc: các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình cũng được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp Luật này có quy định khác. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà nước ta tham gia hoặc ký kết có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.
2. Bên cạnh quy định tại Điều 7 về áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 dành một chương riêng (Chương XI) để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Để cụ thể hoá hơn nữa các quy định của Luật về quan hệ có yếu tố nước ngoài, ngày 10/7/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 68/ 2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Nghị định này quy định chi tiết để thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình, bao gồm quy định về kết hôn, nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài thường trú tại Việt Nam với nhau; công nhận việc kết hôn, ly hôn, nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước ngoài đã được tiến hành tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Trên cơ sở này, Bộ Tư pháp sẽ ban hành Thông tư hướng dẫn về việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài và quan hệ hôn nhân và gia đình của đồng bào thuộc khu vực biên giới giữa nước ta với các nước láng giềng.
|
|
|
Nhìn chung, các quy định có tính chất giải thích các thuật ngữ trên đây trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là căn cứ pháp lý để thống nhất khi áp dụng Luật, tuy vậy, do vẫn còn một số thuật ngữ khác nêu trong Luật nhưng chưa có sự giải thích chính thức, nên trong một số văn bản dưới Luật đã bổ sung việc giải thích các thuật ngữ sử dụng trong Luật, như trong Nghị quyết số 02/NQ- HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy định để giải thích một số thuật ngữ sử dụng trong Luật như: việc một bên bị ép buộc khi kết hôn, việc một bên bị lừa dối khi kết hôn, việc một bên hoặc cả hai bên nam và nữ bị người khác cưỡng ép kết hôn, thế nào là người đang có vợ, có chồng... Ngoài các quy định trên đây, tại Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình cũng có một số điều quy định mang tính chất giải thích thuật ngữ của Luật như: Người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, tuổi kết hôn.
Vấn đề cần lưu ý là mặc dù tại Điều 8 của Luật đã có giải thích về nội dung của một số thuật ngữ, nhưng qua việc áp dụng các quy định của Luật trên thực tế cũng cho thấy việc giải thích một số thuật ngữ của Luật cũng chưa thực sự đáp ứng và phù hợp với thực tế đa dạng và phức tạp của cuộc sống, các thuật ngữ này vẫn cần phải được tiếp tục nghiên cứu, trao đổi và cần có sự giải thích bổ sung để có cách hiểu và vận dụng thống nhất các quy định của Luật.
Gia đình là một thể chế cơ bản của xã hội. Chức năng tái sản xuất ra con người là một quá trình cần thiết của cuộc sống trong một xã hội nhất định, quá trình này thể hiện "hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những con người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và con cái, đó là gia đình"[6]. Khởi nguồn để hình thành nên một gia đình thực sự là việc xác lập mối quan hệ hôn nhân giữa hai người nam nữ. Khi Nhà nước quản lý và điều chỉnh quan hệ hôn nhân thì việc nam nữ tạo lập gia đình trở thành sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ vợ chồng, sự kiện này thể hiện dưới một khái niệm gọi là kết hôn.
Kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về kết hôn và đăng ký kết hôn. Kết hôn chính là sự thừa nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quan hệ vợ chồng của những người khác giới, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa họ đối với nhau. Để gia đình thực sự đầm ấm, bền vững và hạnh phúc, Nhà nước quản lý việc kết hôn của cá nhân thông qua quy định pháp luật về điều kiện kết hôn, thủ tục kết hôn cùng những quy định về giải quyết những vi phạm trong lĩnh vực kết hôn. Vì thế, kết hôn trở thành một chế định quan trọng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986 và năm 2000 bên cạnh các chế định khác như quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha, mẹ, con; ly hôn, cấp dưỡng. Chỉ có thể nói tới quan hệ giữa vợ và chồng, vấn đề cấp dưỡng, giám hộ, vấn đề ly hôn... và một số vấn đề khác trong cuộc sống gia đình khi có sự kiện kết hôn giữa nam và nữ, khi Nhà nước công nhận việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai bên khi kết hôn.
Hệ thống pháp Luật Hôn nhân và gia đình quy định: nam nữ kết hôn phải đảm bảo hai yếu tố: thứ nhất, thể hiện ý chí của nam nữ muốn kết hôn với nhau; thứ hai, việc kết hôn phải tuân theo điều kiện và thủ tục Nhà nước quy định mới được thừa nhận. Điều 64 Hiến pháp năm 1992 quy định “Nhà nước chỉ thừa nhận khi việc kết hôn tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện và thủ tục đăng ký kết hôn”. Pháp luật nước ta quy định các điều kiện kết hôn, đăng ký kết hôn thể hiện tính khoa học và phù hợp điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội, đồng thời cũng phù hợp tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Thông qua việc đăng ký kết hôn, Nhà nước công nhận hôn nhân của đôi nam nữ, là cơ sở pháp lý ghi nhận hai bên nam nữ đã phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ chồng. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chủ thể của quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái và xác định rõ thời điểm làm phát sinh các quan hệ đó.
Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có 5 điều quy định về vần đề kết hôn bao gồm: độ tuổi kết hôn, trường hợp cấm kết hôn, huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên, dù đã đề cập tới các yếu tố của việc kết hôn song một số quy định vẫn mang tính chất chung chung và qua hơn 10 năm thi hành, một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 tỏ ra không còn phù hợp với thực tiễn xã hội. Chẳng hạn, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 gián tiếp thừa nhận vấn đề hôn nhân thực tế. Đây là một vấn đề gây ra nhiều diễn biến phức tạp trong đời sống xã hội, ý thức pháp luật của nhân dân và thực tiễn áp dụng pháp luật. Nhiều vấn đề mới phát sinh mà không được Luật Hôn nhân gia đình 1986 điều chỉnh như vấn đề kết hôn giữa những người cùng giới tính; giữa những người có quan hệ nuôi dưỡng như cha mẹ nuôi, bố dượng với con riêng của vợ. Vì thế, trên cơ sở kế thừa và có sửa đổi, bổ sung, chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được quy định đầy đủ, cụ thể hơn bao gồm 9 Điều về bốn vấn đề cơ bản là: điều kiện kết hôn, các trường hợp cấm kết hôn, đăng ký kết hôn và huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Quy định vấn đề kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình cũng là sự nội luật hoá Công ước Cedaw- Công ước xoá bỏ mọi phân biệt, đối xử với phụ nữ. Điều 16 Công ước quy định nam nữ "có quyền tự do như nhau lựa chọn người để kết hôn và chỉ kết hôn khi mình được tự do quyết định và hoàn toàn tự nguyện”, “việc hứa hôn và kết hôn của trẻ em không có giá trị pháp lý... và bắt buộc phải đăng ký trong hồ sơ chính thức của Nhà nước”.
|
|
Điều 9. Điều kiện kết hôn
Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10 của Luật này.
|
|
Kết hôn là việc hai bên nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng, là mốc khởi đầu của quan hệ hôn nhân. Nhà nước quy định điều kiện kết hôn nhằm hướng đến xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc, hôn nhân tự nguyện tiến bộ. Điều kiện kết hôn bao gồm những điều kiện về mặt nội dung và điều kiện về hình thức- pháp luật chỉ bảo vệ quan hệ hôn nhân tuân thủ đầy đủ những điều kiện này.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định nam nữ kết hôn phải đáp ứng đủ ba điều kiện về mặt nội dung như sau:
-
Điều kiện thứ nhất: Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên. Quy định này kế thừa Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Xuất phát từ những cơ sở khoa học về tâm lý lứa tuổi, sức khoẻ con người Việt Nam, việc pháp luật quy định nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn là nhằm bảo đảm sự phát triển đầy đủ về mặt thể chất, đảm bảo con cái sinh ra được khoẻ mạnh, đảm bảo cho đôi nam nữ thực hiện được các chức năng sinh đẻ, giáo dục con cái và nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình đối với gia đình. Theo kết quả nghiên cứu khoa học, đây là độ tuổi phát triển đầy đủ về thể chất và nhận thức được vấn đề giới tính, mới có thể suy xét chín chắn về việc kết hôn của mình, thể hiện ý chí tự nguyện của mình trong việc kết hôn, có thể tham gia lao động sản xuất để đảm bảo cuộc sống gia đình. Đây là quy định thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với sức khoẻ của cộng đồng và đảm bảo tốt chức năng của gia đình. Quy định về độ tuổi kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 16 Công ước Cedaw- Công ước chống mọi sự phân biệt, đối xử với phụ nữ “Việc hứa hôn và kết hôn của trẻ em phải bị coi là không có hiệu lực pháp lý và tất cả các hoạt động cần thiết kể cả luật pháp phải được tiến hành nhằm quy định độ tuổi tối thiểu có thể kết hôn”.
Hiện nay, Nhà nước ta đang thực hiện cuộc vận động dân số "Gái 20 tuổi, trai 26 tuổi mới kết hôn" và "Phụ nữ 22 tuổi trở lên mới sinh con đầu lòng". Nội dung của cuộc vận động không trái quy định của pháp luật mà còn rất cần thiết trong việc bảo vệ lợi ích xã hội, gia đình và bản thân những người kết hôn. Tuy nhiên, có những địa phương chưa hiểu tinh thần của cuộc vận động này nên đã đặt ra quy định riêng cho địa phương mình là nam phải 26 tuổi, nữ phải 22 tuổi mới được đăng ký kết hôn. Điều này hoàn toàn trái với quy định của pháp luật về độ tuổi kết hôn.
Vấn đề về cách tính độ tuổi kết hôn: Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986 và 2000 đều quy định như nhau, tức nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn. Theo tập quán hành chính lâu nay ở nước ta (được khẳng định trong các giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, khoa Luật Trường ĐHQG) thì có hai cách tính tuổi: một là, tính theo tuổi tròn (tức khi đủ 12 tháng mới được tính là một tuổi và phải căn cứ vào ngày, tháng, năm sinh được ghi trong giấy tờ hộ tịch để tính; hai là, tính tuổi theo ngày đầu năm dương lịch (theo cách này, chỉ căn cứ vào năm sinh, cứ bước qua ngày 1/1 đầu năm dương lịch là tính thêm một tuổi. Lâu nay các cơ quan hộ tịch ở nước ta áp dụng theo cách tính thứ nhất, tức khi xác định tuổi kết hôn phải đủ năm, đủ tháng. Chẳng hạn, người con trai sinh ngày 15/11/1981 thì phải đến ngày 15/11/2001 mới được coi là đủ 20 tuổi, khi đó mới được kết hôn. Trong khi đó, theo Điều 3 Nghị định số 70/2001/ NĐ-CP của Chính phủ ngày 3/10/2001 hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình 2000 thì “nam đang ở độ tuổi 20, nữ đang ở độ tuổi 18 thì đủ điều kiện về độ tuổi kết hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình”. Nghị quyết số 02/2000/NQ- HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 như sau: nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên không bắt buộc nam phải từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn mà nam đã bước sang tuổi 20, nữ bước sang tuổi 18 mà kết hôn là không vi phạm về điều kiện kết hôn. Đồng thời Công văn số 268/CV- BTP ngày 19/4/2001 của Bộ Tư pháp cũng quy định “độ tuổi kết hôn được hiểu: nam bước sang ngày hôm sau của sinh nhật lần thứ 19, nữ bước sang ngày hôm sau của sinh nhật lần thứ 17”. Sau khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực và các văn bản hướng dẫn, giải thích trên ra đời, đã có nhiều ý kiến khác nhau bàn về cách tính tuổi kết hôn của luật mới.
ý kiến thứ nhất cho rằng: theo quy định của Bộ luật Dân sự (Điều 20), nữ chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên. Đây là hai vấn đề khác nhau nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau. Người vợ 17 tuổi 1 ngày theo Luật Hôn nhân và gia đình mới có các quyền và nghĩa vụ về tài sản như quyền có tài sản riêng, quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng nhưng theo BLDS thì người vợ này vẫn là người chưa thành niên khi thực hiện các quyền về tài sản của mình. Khi họ xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được sự đồng ý của cha mẹ là người đại diện theo pháp luật (Điều 22 BLDS). Như vậy, pháp luật mới đề cập đến năng lực pháp luật của người vợ 17 tuổi 1 ngày mà chưa đề cập đến năng lực hành vi dân sự của người đó. Mặt khác quy định trên sẽ mâu thuẫn với Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội tảo hôn (Điều 148). Việc văn bản hướng dẫn độ tuổi như vậy là giảm 1 năm so với quy định trước đây, không đúng tinh thần của Nhà nước ta không thay đổi độ tuổi kết hôn so với trước đây.
ý kiến thứ hai cho rằng: pháp luật quy định là chặt chẽ, cách hiểu chúng ta lâu nay là chưa thấu đáo. Theo từ điển Tiếng Việt: "từ " là biểu thị điểm xuất phát, điểm khởi đầu hay nguồn gốc của việc được nói đến; "đủ" có số lượng hoặc mức độ đáp ứng được yêu cầu, không ít hơn cũng không nhiều hơn. Như vậy theo cách hiểu thuật ngữ "từ 18 tuổi trở lên đối với nữ" có nghĩa là từ ngày đầu tiên bước vào tuổi 18. Trước đây việc xác định tuổi căn cứ vào tập quán hành chính và về lý luận chứ không phải là văn bản hướng dẫn của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Văn bản giải thích mới là bước tiến bộ đáng kể trong việc tổ chức thực hiện pháp luật, quy định về độ tuổi như vậy là tạo khoảng không gian rộng cho nam nữ lựa chọn thời điểm để kết hôn mà không phải đợi đến tròn 20 tuổi và tròn 18 tuổi. Một số nước trên thế giới cũng quy định độ tuổi kết hôn thấp hơn tuổi thành niên như Anh, Pháp... trên cơ sở lý luận Hôn nhân gia đình và BLDS là hai ngành Luật có sự độc lập tương đối.
Tuy nhiên, thực tế Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, khi quy định các vấn đề liên quan đến độ tuổi, pháp luật đều tính tuổi tròn bằng cách sử dụng cụm từ sau: "từ đủ". Chẳng hạn, "Con từ đủ mười lăm tuổi trở lên còn sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình...” (Điều 44), " Con từ đủ mười lăm tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý...” (Điều 45), “Con từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng...” (Điều 46), "Việc thay đổi họ tên của con nuôi từ đủ chín tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó” (Điều 75). Theo pháp luật của một số nước trên thế giới như BLDS của Pháp quy định “Nam chưa đủ mười tám tuổi tròn, nữ chưa đủ mười lăm tuổi tròn không thể kết hôn” (Điều 144). Bộ luật Gia đình của Hunggari quy định “Đàn ông mười tám tuổi, đàn bà mười sáu tuổi tròn mới được kết hôn” (Điều 10). Vì thế, để có cách hiểu đúng và thống nhất, để phù hợp với các quy định về độ tuổi trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nên chăng, cần quy định độ tuổi kết hôn theo cách tính tuổi tròn tức nam phải từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn. Hoặc nếu duy trì cách hiểu pháp luật "mềm" như hiện nay cần thiết nâng cao trình độ của cán bộ hộ tịch, hướng dẫn cách hiểu đúng về mối quan hệ giữa Luật Hôn nhân và gia đình với BLDS. Việc hướng dẫn giải thích luật là điều cần thiết nhưng giải thích như thế nào để người áp dụng hiểu đúng và thống nhất là vấn đề rất quan trọng mà các nhà làm luật, giải thích luật cần phải nghiên cứu, xem xét.
-
Điều kiện thứ hai: Việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định, không bên nào ép buộc, lừa dối bên nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở.
Kết hôn trước hết là một quyền chứ không phải là nghĩa vụ. Vì vậy, về nguyên tắc không thể có hôn nhân ngoài ý muốn của người kết hôn. Đây là điều kiện hết sức quan trọng được pháp luật hầu hết các nước phát triển, văn minh trên thế giới ghi nhận để đảm bảo giá trị đích thực của hôn nhân. “Không có hôn nhân khi không có sự tự nguyện”[7] và cuộc sống gia đình chỉ thực sự có hạnh phúc khi được xây dựng trên cơ sở sự hoà hợp và tự nguyện của hai bên nam nữ. Sự cưỡng ép, lừa dối từ hai phía đối với nhau hay sự cưỡng ép hay cản trở từ phía gia đình, xã hội đều không thể đem lại hạnh phúc trong quan hệ vợ chồng. Tự nguyện kết hôn là việc hai bên nam nữ thể hiện sự đồng ý trở thành vợ chồng của nhau, mỗi bên không bị tác động bởi ý chí của bên kia hay của bất kỳ người nào khiến cho họ phải kết hôn với người mà họ không có tình yêu. Hôn nhân tự nguyện tiến bộ là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986, 2000, nhằm xoá bỏ hoàn toàn chế độ hôn nhân cưỡng ép, phụ thuộc vào cha mẹ của chế độ hôn nhân gia đình phong kiến và xây dựng chế độ hôn nhân gia đình mới xã hội chủ nghĩa. Quy định về điều kiện kết hôn này hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Công ước Cedaw - Công ước xoá bỏ mọi phân biệt đối xử đối với phụ nữ. Điểm b khoản 1 Điều 16 Công ước quy định "quyền tự do như nhau được lựa chọn người để kết hôn và chỉ kết hôn khi mình được tự do quyết định và hoàn toàn tự nguyện" và phù hợp với Điều 35 BLDS “nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hôn, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào, không ai được cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép kết hôn”. Pháp luật luôn tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của các bên khi xác lập một quan hệ pháp luật, một giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố vô hiệu do bị lừa dối cưỡng ép; quan hệ kết hôn cũng có thể bị huỷ khi có dấu hiệu cưỡng ép, không tự nguyện.
-
Điều kiện thứ ba, việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10 (xem bình luận Điều 10 về những trường hợp cấm kết hôn).
|
|
Điều 10. Những trường hợp cấm kết hôn
Việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây:
1. Người đang có vợ hoặc có chồng;
2. Người mất năng lực hành vi dân sự;
3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
4. Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
5. Giữa những người cùng giới tính.
|
|
Những trường hợp cấm kết hôn là điều kiện thứ ba trong các điều kiện về kết hôn quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Chỉ khi nào hai bên nam nữ tuân thủ đầy đủ các điều kiện về độ tuổi kết hôn, về tự do tự nguyện kết hôn và không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn tại Điều 10 thì hôn nhân đó mới có giá trị pháp lý và được Nhà nước bảo hộ. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và 2000 đều có điều khoản quy định về các trường hợp cấm kết hôn bởi đây là vấn đề hết sức quan trọng. Trên thực tế có những trường hợp có quan hệ chung sống khi một trong hai bên đã có vợ hoặc chồng, hoặc có những người không có năng lực hành vi nhưng vẫn bị gia đình lừa dối ép buộc phải kết hôn. Đặc biệt có những trường hợp tồn tại hôn nhân giữa hai bên nam nữ có quan hệ về nuôi dưỡng hoặc có cùng dòng máu về trực hệ. Dù thuộc trường hợp nào kể trên thì đây cũng là một trong những nguyên nhân đem lại mọi sự đau khổ, bất hạnh cho các gia đình và không phù hợp với truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Vì thế, trên cơ sở kế thừa Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định rất cụ thể các trường hợp cấm nam nữ kết hôn và bổ sung một số trường hợp mới.
1. Cấm người đang có vợ có chồng kết hôn với người khác.
Trên cơ sở Hiến pháp 1992 (Điều 64) và đoạn 1 Điều 38 BLDS, Điều 1 Luật hôn nhân gia đình năm 1959, 1986, Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định là sự kế thừa và cụ thể hoá nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân gia đình đó là nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng. Quy định này là hết sức cần thiết đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của Luật Hôn nhân và gia đình là xoá bỏ chế độ hôn nhân gia đình phong kiến, xoá bỏ sự đối xử bất bình đẳng đối với người phụ nữ, xây dựng chế độ hôn nhân tiến bộ XHCN.
Pháp luật phong kiến Việt Nam quy định người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ (Điều 79, 80 Bộ dân luật Bắc Kỳ). Pháp luật của nhà nước tư sản cũng quy định hôn nhân theo nguyên tắc một vợ một chồng nhưng trên thực tế “nguyên tắc đó đã bị phá vỡ do tệ nạn ngoại tình và mại dâm công khai”, do đó xét về bản chất "hôn nhân của giai cấp tư sản thật ra là chế độ cộng thê”[8]. Bản chất của hôn nhân XHCN là hôn nhân một vợ một chồng như Ph. Angghen đã chỉ rõ: "Vì bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ... cho nên hôn nhân dựa trên tình yêu của nam và nữ do ngay bản chất của nó là hôn nhân một vợ một chồng”.
Theo pháp luật Việt Nam, chỉ những người chưa kết hôn hoặc những người tuy đã kết hôn nhưng vợ, chồng đã chết hoặc hai người đã ly hôn thì mới có quyền kết hôn với người khác. Quy định cấm người đang có vợ có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác nhằm xoá bỏ tận gốc chế độ đa thê thời phong kiến, bảo đảm hạnh phúc và sự bền vững của gia đình.
Tuy nhiên, cần lưu ý trường hợp người bị Toà án tuyên bố là đã chết. Theo Điều 91 Bộ luật Dân sự, một người nếu sau 3 năm kể từ ngày tuyên bố mất tích của Toà án có hiệu lực pháp luật, mất tích trong chiến tranh, bị tai nạn, thiên tai thảm hoạ... mà sau một thời gian luật định vẫn không có tin tức gì là còn sống thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố người đó chết. Sau khi tuyên bố của Toà án có hiệu lực pháp luật thì vợ hoặc chồng của người đó có quyền kết hôn với người khác. Trong trường hợp đó, việc kết hôn này hoàn toàn hợp pháp. Nếu người bị tuyên bố là đã chết trở về, Toà án ra quyết định huỷ bỏ tuyên bố chết mà vợ hoặc chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau vẫn có hiệu lực pháp luật, nếu người vợ hoặc chồng chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục lại. Cũng cần lưu ý trường hợp do hoàn cảnh lịch sử để lại, những quan hệ hôn nhân xác lập trước khi Nghị quyết số 76 ngày 25/3/1977 của Quốc hội “về việc thống nhất pháp luật hai miền Nam Bắc” có hiệu lực thì pháp luật vẫn công nhận một số rất ít trường hợp quan hệ đa thê, và đối với trường hợp những cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc thì Thông tư số 60/TATC ngày 22/2/1978 của Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn giải quyết các trường hợp cán bộ, bộ đội trong Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác"vẫn có hiệu lực, đây được coi là những tồn tại do thực tế lịch sử và Nhà nước chấp nhận tình trạng đa thê của họ.
Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng có hình phạt cho tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng, thể hiện thái độ nghiêm khắc và chế tài dành cho kẻ cố tình vi phạm pháp luật. Tuy nhiên trên thực tế, tình trạng vợ lớn, vợ bé tồn tại khá phổ biến, nhất là ở các tỉnh miền Nam mà pháp luật chưa thể can thiệp được hết, nguyên nhân của những vụ xô xát, đánh ghen, tạt axít... Đây là vấn đề nhức nhối trong dư luận đòi hỏi sự giám sát của cơ quan chức năng để phòng ngừa những hậu quả xấu và ảnh hưởng đến tiến bộ xã hội.
2. Cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn.
Trước đây, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định cấm kết hôn với "người mắc bệnh loạn óc mà chưa chữa khỏi" (Điều 10) và Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định cấm kết hôn đối với người “đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức hành vi của mình". Tuy nhiên, đến Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, cụm từ này được sửa thành "cấm người mất năng lực hành vi dân sự " kết hôn. Sự thay đổi về thuật ngữ này là nhằm đảm bảo tính khái quát và phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự về năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
Đây là quy định hoàn toàn đúng đắn và cần thiết bởi vì người không nhận thức được hành vi thì không có khả năng thể hiện một cách đúng đắn ý chí của mình trong vấn đề kết hôn, cũng không thể nhận thức và thực hiện được trách nhiệm làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ trong đời sống gia đình. Nếu họ kết hôn sẽ ảnh hưởng tới cuộc sống, quyền lợi và sức khoẻ của vợ, chồng, con cái họ. Mặt khác theo Điều 24 Bộ luật Dân sự Việt Nam "Mọi giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự do người đại diện theo pháp luật xác lập thực hiện". Nhưng quyền kết hôn và ly hôn là quyền nhân thân của mỗi người nên không thể để cho người đại diện thực hiện. Vì thế, về nguyên tắc người mất năng lực hành vi dân sự không thể kết hôn.
Bên cạnh đó, luật mới cũng bỏ quy định của luật cũ là "cấm những người đang mắc bệnh hoa liễu" kết hôn với nhau. Bệnh hoa liễu là bệnh nan y khó chữa tuy nhiên ngày nay khoa học kỹ thuật phát triển, bệnh hoa liễu có thể chữa khỏi, di chứng để lại không ảnh hưởng tới sức khoẻ. Vì thế việc luật pháp bỏ quy định cấm những người này kết hôn với nhau là điều hoàn toàn phù hợp.
3. Cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời.
Khoản 12, 13 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình quy định “những người có dòng máu về trực hệ là cha, mẹ đối với con; ông, bà đối với cháu nội và cháu ngoại”, “những người có họ trong phạm vi 3 đời là những người cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú con bác, con cô con cậu, con dì là đời thứ ba”.
Quy định cấm kết hôn giữa những người này là hoàn toàn phù hợp với khoa học và phong tục tập quán, truyền thống của nước ta. Việc cấm những người này kết hôn với nhau là để đảm bảo duy trì nòi giống khoẻ mạnh, theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì con sinh ra do quan hệ giữa những người có họ hàng trong phạm vi ba đời thường có những biến chứng như quái thai, thoái hoá, dị tật do cấu trúc gen di truyền của họ. Về mặt xã hội và truyền thống dân tộc thì việc kết hôn giữa những người này sẽ phá vỡ tôn ti trật tự trong họ hàng, cách xưng hô; những chuẩn mực đạo đức bị xâm phạm, suy đồi...
Luật cổ Việt Nam cũng từng có những quy định hết sức nghiêm khắc nhằm chống lại quan hệ hôn nhân trái đạo lý như Điều 139 và Điều 142 Quốc triều hình luật “Người vô loại lấy cô, dì, chị em gái, kế nữ (con gái riêng của vợ), người thân thích đều phỏng theo luật gian dâm mà trị tội”, “là anh, là em, là học trò mà lấy vợ của em, của anh, của thầy học đã chết đều xử tội lưu; người đàn bà bị giảm một bậc; đều phải ly dị”. Hầu hết các nước trên thế giới đều có quy định cấm kết hôn giữa những người có dòng máu trực hệ hoặc có họ trong phạm vi nào đó. Ví dụ Bungari quy định cấm kết hôn giữa những người trực hệ và những người thân thuộc bàng hệ trong bốn đời; Luật của Cộng hoà Pháp nghiêm cấm việc kết hôn giữa những người cùng một dòng họ trong quan hệ trực hệ; cấm việc kết hôn giữa anh em, chị em chính thức hoặc ngoài giá thú trong bàng hệ, đồng thời, cấm kết hôn giữa chú, bác và cháu gái, cô và cháu trai, dù quan hệ họ hàng là chính thức hay ngoài giá thú (Điều 161, 162,163 BLDS Pháp).
Trước đây Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định cấm kết hôn trong phạm vi năm đời phần nào do Luật được xây dựng trong giai đoạn vừa chuyển từ chế độ hôn nhân phong kiến sang chế độ gia đình XHCN nên vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc của những tập tục cũ, nhưng Luật hôn nhân gia đình năm 1986 và năm 2000 chỉ cấm trong phạm vi ba đời trên cơ sở quy định như vậy đã đảm bảo hạnh phúc gia đình về mặt khoa học và đạo đức truyền thống của dân tộc.
Điều 107 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “Người nào vi phạm các điều kiện kết hôn...thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Theo Luật Hôn nhân và gia đình hành vi vi phạm các điều cấm mới bổ sung như “kết hôn giữa những người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng” thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, tuy nhiên trong Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy định trách nhiệm hình sự cho những hành vi này nên dĩ nhiên người vi phạm sẽ không bị xử lý về hình sự. Thời gian qua, khi giải quyết các vụ án hình sự, đã có một số người vi phạm điều cấm của Luật Hôn nhân và gia đình như phạm tội giao cấu với cháu, cô, chú, bác ruột... (có họ trong phạm vi ba đời) và đã bị Toà án xét xử về tội loạn luân, tuy nhiên, Bộ luật Hình sự không coi đó là tội phạm. Theo luật thì những trường hợp này bị kết án oan sai và đương nhiên đương sự có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường thiệt ỡƠÁ7
ð¿
fÿ
bjbjUU
8&7|7|}ÿ
™2ọÿÿÿÿÿÿlrrr*œèxxxŒLJLJLJ8„JlỡƠÁ7
ð¿
fÿ
bjbjUU
8&7|7|}ÿ
™2ọÿÿÿÿÿÿlrrr*œèxxxŒLJLJLJ8„Jlxử lý về mặt hình sự. Hành vi kết hôn giữa những người trong phạm vi ba đời phải được coi là tội loạn luân, còn hành vi chung sống như vợ chồng giữa những người là cha mẹ nuôi với con nuôi, mẹ vợ với con rể... nên quy định tương tự như đối với hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng, nhẹ thì xử lý hành chính, nếu gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn tái phạm thì cần truy cứu trách nhiệm hình sự. Để thực hiện được điều này, cần phải sửa đổi, điều chỉnh sự chênh nhau trong quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Hình sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và các văn bản pháp luật khác cho phù hợp.
4. Cấm kết hôn giữa người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, giữa người đã từng là bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, giữa người đã từng là bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
Quy định này có sự mở rộng hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, điểm d Điều 7 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định cấm kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi nhưng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cấm cả những người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi và mở rộng thêm một số đối tượng khác nữa. Xét về mặt thực tế, giữa những người này không có quan hệ về huyết thống tuy nhiên trước đây giữa họ đã có mối quan hệ cha mẹ - con và có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng. Do vậy, việc pháp luật quy định cấm những người này kết hôn với nhau là điều hoàn toàn đúng đắn, đảm bảo thuần phong mỹ tục của dân tộc và đảm bảo thực hiện các nguyên tắc của cuộc sống nhằm làm ổn định mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, phù hợp với đạo đức xã hội và truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, ngăn chặn hiện tượng cưỡng ép kết hôn do mối quan hệ phụ thuộc giữa cha mẹ nuôi và con nuôi.
5. Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính
Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính là quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Trước đây, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và năm 1986 không dự liệu trường hợp những người đồng giới chung sống với nhau. Do đó, trên thực tế, ở một số địa phương đã có hiện tượng các cặp nam, nữ cùng giới chung sống với nhau như vợ chồng và tổ chức kết hôn công khai. Đây là một hiện tượng không những không phù hợp với đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục và truyền thống gia đình Việt Nam mà còn là hiện tượng phản khoa học bởi nếu hôn nhân được xác lập trên cơ sở sự kết hôn giữa những người đồng giới sẽ không đảm bảo được chức năng của hôn nhân gia đình là tái sản xuất ra con người để duy trì nòi giống.
Thực tế ở một số nước Bắc Âu như Bỉ, Đan Mạch, Hà Lan có đạo luật cho phép những người đồng giới có thể kết hôn, trên cơ sở lý luận đây là sự tôn trọng quyền tự do lựa chọn hạnh phúc của con người, những gia đình này vẫn đảm bảo chức năng duy trì nòi giống cho xã hội bằng cách thụ tinh trong ống nghiệm qua các ngân hàng tinh trùng, mang thai hộ, hoặc nhận con nuôi. Pháp luật Việt Nam và hầu hết các nước trên thế giới không cho phép những người đồng giới kết hôn vì không phù hợp với đạo đức, tập quán và quy luật sinh học. Theo các bác sỹ tâm lý, hiện tượng những người thích chung sống như vợ chồng với người cùng giới về bản chất là trạng thái tâm lý trái ngược và hoàn toàn có thể điều trị được. Do vậy, từ hiện tượng xã hội, luật pháp đã cấm những người cùng giới kết hôn với nhau.
Tuy nhiên có một số điểm vướng mắc là pháp luật không quy định việc xác định giới tính của một người theo cơ sở sinh học hay cơ sở pháp lý, trên thực tế có người ngay từ lúc sinh ra đã bị xác định nhầm giới tính (ví dụ như một vận động viên ở An Giang (trong giấy khai sinh là nữ) đã đạt thành tích cao trong cuộc thi điền kinh của tỉnh, cho đến lúc có khiếu nại và kiểm tra giới tính mới xác định đúng vận động viên này là nam giới) nhưng trong các văn bản pháp luật về vấn đề cải chính giấy hộ tịch liên quan đến việc chuyển đổi nam thành nữ hoặc nữ thành nam hoàn toàn chưa được đề cập, thực tế nhiều cơ quan hộ tịch từ chối cải chính giới tính cho những người bị nhầm lẫn này. Một vướng mắc nữa là nhờ thành tựu y học hiện đại có nhiều người đã qua phẫu thuật chuyển đổi giới tính thì Nhà nước sẽ công nhận hay không công nhận giới tính mới của họ? Trên đây là một số trường hợp vướng mắc khi xác định giới tính của công dân mà các văn bản hướng dẫn chưa hề đề cập đến, nếu những người này đăng ký kết hôn sẽ hết sức khó khăn cho cơ quan hộ tịch ở địa phương.
Nhìn chung phạm vi cấm kết hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986 là rộng và cụ thể, đầy đủ hơn, phù hợp hơn với thực tế xã hội và với pháp luật của một số nước trên thế giới nhằm mục tiêu cao nhất là đảm bảo sự yên ấm và hạnh phúc của mỗi gia đình.
|
|
Điều 11. Đăng ký kết hôn
-
Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này.
Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị pháp lý.
Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
2. Chính phủ quy định việc đăng ký kết hôn ở vùng sâu, vùng xa
|
|
Đăng ký kết hôn là thủ tục do Nhà nước quy định - như một điều kiện về hình thức- nhằm công nhận việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai bên nam nữ là hợp pháp. Việc pháp luật quy định sự kiện kết hôn phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chứng nhận là sự ràng buộc pháp lý, là cơ sở để các bên thực hiện và quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. ở các nước khác nhau, hình thức thủ tục, nghi lễ kết hôn là khác nhau. Có những nước thừa nhận hình thức kết hôn trên cơ sở nghi lễ tôn giáo (tại nhà thờ) mà không cần thông qua các thủ tục hành chính như Mỹ, Anh... Một số nước khác lại quy định hình thức kết hôn pháp lý tức là phải được sự chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như Pháp, Trung Quốc...
ở Việt Nam, việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều. Đăng ký kết hôn là biện pháp để cơ quan Nhà nước có thể kiểm tra và kịp thời ngăn chặn các hiện tượng vi phạm điều kiện kết hôn của nam nữ và tuyên truyền, giải thích pháp luật cho họ hiểu. Quy định này hoàn toàn phù hợp với khoản 2 Điều 16 Công ước Cedaw- Công ước xoá bỏ mọi sự phân biệt, đối xử với phụ nữ, đó là hôn nhân “bắt buộc phải đăng ký kết hôn trong hồ sơ chính thức của Nhà nước”
Về thẩm quyền đăng ký kết hôn, trước đây Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định việc kết hôn “do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai người kết hôn công nhận và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định”. Tuy nhiên, tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 cũng quy định: "việc kết hôn vi phạm một trong các Điều 5, 6, 7 của luật này là trái pháp luật". Điều này có nghĩa Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 không coi những người sống chung với nhau như vợ chồng không vi phạm các Điều 5, 6, 7 mà không đăng ký kết hôn là trái pháp luật mà đây chỉ là sự vi phạm về thủ tục, trường hợp này gọi là hôn nhân thực tế. Theo Nghị quyết số 01/NQ/HĐTP năm 1988 thì nếu đương sự yêu cầu chấm dứt hôn nhân thì Toà án sẽ giải quyết theo thủ tục ly hôn. Hôn nhân thực tế là quan hệ mà trong đó hai bên nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nhưng họ chỉ thiếu một điều kiện duy nhất là không đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Do một số vấn đề về thực tế lịch sử như ý thức pháp luật của nhân dân trong giai đoạn này còn hạn chế, điều kiện chiến tranh khốc liệt, nhiều người vội vàng nhập ngũ, tổ chức lễ cưới trong vùng địch tạm chiếm, nhiều người không có thời gian thực hiện thủ tục đăng ký; cũng như trong thời gian này cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký chưa được kiện toàn chặt chẽ, hiệu quả công tác tuyên truyền pháp luật chưa cao nên việc Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 công nhận hôn nhân thực tế trong giai đoạn này là giải pháp hợp lý. Tuy nhiên, trong tình hình mới nếu tiếp thừa nhận hôn nhân thực tế sẽ dẫn đến hậu quả xấu. Về phía người dân: ý thức chấp hành pháp luật kém, coi thường thủ tục đăng ký kết hôn, nhiều diễn biến phức tạp trong đời sống. Về phía Nhà nước: nhiều chỗ, nhiều nơi còn buông lỏng việc đăng ký kết hôn cho nhân dân, Nhà nước sẽ không kiểm soát được vấn đề kết hôn liên quan đến các thủ tục hành chính khác; công tác xét xử của Toà án gặp nhiều lúng túng khi xác định một quan hệ có đủ yếu tố là hôn nhân thực tế hay không? Việc thừa nhận hôn nhân thực tế sẽ không thấy hết được ý nghĩa của việc đăng ký kết hôn; sẽ không thể nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân và yêu cầu pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Bởi vậy trong quá trình xây dựng dự thảo Luật hôn nhân gia đình mới, đa số các ý kiến đều đồng tình không thừa nhận hôn nhân thực tế. Khoản 1, Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định “Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng”. Việc Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không thừa nhận hôn nhân thực tế, thể hiện rõ thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với những trường hợp kết hôn không tuân thủ quy định của pháp luật. Nghị quyết số 35/2000/QH10 đã có hướng dẫn áp dụng khoản 1 Điều 11 về việc giải quyết hậu quả pháp lý đối với các trường hợp hôn nhân thực tế. Theo tinh thần của Khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 và Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 thì:
- Nếu quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn thì được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận tiện cho đăng ký kết hôn. Việc đăng ký kết hôn đối với những trường hợp này không bị hạn chế về thời gian. Những trường hợp này pháp luật không bắt buộc mà chỉ khuyến khích đăng ký kết hôn vì thực tế họ đã ở vào tuổi ông, bà. Trong trường hợp phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
- Nếu nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày1/1/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 1/1/2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các yêu cầu về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 1/1/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.
Thông tư liên tịch số 01/2001/ TTLT- TANDTC- VKSNDTC- BTP quy định những trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 01/1/2001 đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ tính “hồi tố” trở về trước, tức là hôn nhân của họ được công nhận kể từ ngày họ chung sống với nhau như vợ chồng chứ không phải kể từ ngày đăng ký kết hôn.
- Nếu nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 1/1/2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a, b khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10, mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Theo Điều 4 Nghị định số 77/2001/NĐ-CP thì việc đăng ký kết hôn đối với các trường hợp trên được miễn lệ phí.
Như vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 vẫn có “cửa sổ” để công nhận quan hệ hôn nhân thực tế ở giai đoạn từ ngày 1/1/2001 đến ngày 1/1/2003 đối với quan hệ chung sống như vợ chồng trước ngày 1/1/2001 trở về trước. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, phải hiểu như thế nào là “chung sống như vợ chồng”. Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BTP ngày 3/1/2001 hướng dẫn: “được coi là nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nếu họ có đủ các điều kiện để kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và thuộc một trong các trường hợp sau: có tổ chức lễ cưới khi về chung sống, việc chung sống với nhau được gia đình một trong hai bên chấp nhận, hoặc được người khác hay tổ chức chứng kiến và họ thực sự có chung sống với nhau, cùng nhau xây dựng gia đình”. Trên thực tế, có trường hợp nam nữ sau khi tổ chức đám cưới vài ngày, chưa kịp đăng ký kết hôn thì đột ngột qua đời, như vậy có thể coi là đã chung sống như vợ chồng hay chưa? Có trường hợp nam nữ cùng chung sống dưới một mái nhà nhiều năm nhưng không có con, gia đình hai bên không công nhận, người đàn ông coi người phụ nữ chỉ là người giúp việc và hàng xóm chỉ biết họ sống chung dưới một mái nhà mà không biết có quan hệ luyến ái hay không thì có được coi là chung sống như vợ chồng không? Vì vậy, cần có quy định thống nhất khái niệm “chung sống như vợ chồng” trong đó xác định thời gian chung sống là bao lâu, thể hiện của quan hệ vợ chồng phải như thế nào và có cần thiết phải hội tụ cả điều kiện về thời gian và thể hiện cuộc sống như vợ chồng ra bên ngoài không?
Trước khi có Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nhà nước ta chưa ban hành một văn bản quy phạm pháp luật riêng để hướng dẫn việc đăng ký kết hôn cho đồng bào vùng sâu, vùng xa nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Do đó, tình hình vi phạm pháp luật về đăng ký kết hôn diễn ra ở nhiều địa phương và diễn biến phức tạp. Chẳng hạn, ở tỉnh Lào Cai, hai dân tộc người Dao và người H’mông là hai dân tộc chiếm tỷ lệ dân số cao nhất tỉnh và cũng là hai dân tộc thường sống ở vùng cao, vùng xa có đến 90% các cặp vợ chồng kết hôn với nhau mà không đăng ký kết hôn. Vì thế, để tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc vùng sâu vùng xa tiến hành việc đăng ký kết hôn, Khoản 2 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định "Chính phủ quy định việc đăng ký kết hôn ở vùng sâu, vùng xa". Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính Phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số trong đó có quy định vấn đề kết hôn (Từ Điều 4 đến Điều 9) với thủ tục gọn nhẹ, thuận tiện và linh hoạt tạo điều kiện cho người dân thực hiện quy định của pháp luật.
“Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn, thực hiện việc đăng ký kết hôn.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các bên kết hôn, việc đăng ký kết hôn cho người dân được thực hiện tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc tại tổ dân phố, thôn, bản, phum, sóc, nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn.
Khi đăng ký kết hôn, các bên nam, nữ cần làm Tờ khai đăng ký kết hôn và xuất trình Giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ hợp lệ thay thế. Sau khi nhận Tờ khai đăng ký kết hôn, Uỷ ban nhân dân cấp xã kiểm tra, nếu các bên đã có đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Nghị định này, thì thực hiện việc đăng ký kết hôn. Sau khi hai bên nam, nữ ký tên vào Giấy chứng nhận kết hôn và Sổ đăng ký kết hôn, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ký Giấy chứng nhận kết hôn. Bản chính Giấy chứng nhận kết hôn được trao cho vợ, chồng tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc tại nơi cư trú.
Việc đăng ký kết hôn cho người dân thuộc các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa được miễn lệ phí”.
Để thực hiện tốt quy định trên, cán bộ hộ tịch tư pháp cần quán triệt nguyên tắc giải quyết công việc linh hoạt, năng động, nhất là trong việc vận dụng thủ tục đăng ký kết hôn không chỉ thuần tuý dựa trên các quy định về thủ tục hành chính cứng nhắc. Xuất phát từ đời sống còn nhiều khó khăn của đồng bào vùng sâu, vùng xa, điều kiện đi lại khó khăn, phải tạo thuận lợi cho nhân dân bằng cách tổ chức đăng ký lưu động. Chính quyền địa phương cần bố trí cán bộ có thẩm quyền cùng với cán bộ hộ tịch tư pháp hàng tháng tăng cường xuống cơ sở để nắm tình hình và tổ chức đăng ký kết hôn ngay tại nơi cư trú.
|
|
Điều 12. Thẩm quyền đăng ký kết hôn
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn.
Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài.
|
|
Trên cơ sở kế thừa quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, tại Điều 22 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/199 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch, Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn theo hai trường hợp: đăng ký kết hôn tại Việt Nam và công dân Việt Nam kết hôn ở nước ngoài.
-
Trường hợp đăng ký kết hôn tại Việt Nam
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc đăng ký kết hôn cho hai bên nam nữ là Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của một trong hai bên kết hôn. Việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, thì UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là cơ quan Nhà nước cơ thẩm quyền thực hiện việc đăng ký (khoản 1 Điều 102).
- Trường hợp đăng ký kết hôn đối với quan hệ vợ chồng xác lập trước ngày 3/1/1987, nếu một trong hai bên không thường trú hoặc tạm trú dài hạn tại nơi đăng ký kết hôn nhưng Uỷ ban nhân dân biết rõ tình trạng hôn nhân của họ thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn cũng phải giải quyết việc đăng ký kết hôn ngay. Khi Uỷ ban nhân dân thấy có tình tiết chưa rõ họ có vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng hay không thì Uỷ ban nhân dân có thể yêu cầu họ làm giấy cam đoan, trong đó có xác nhận của ít nhất hai người làm chứng về nội dung cam đoan (Điều 6 Nghị Định số 77/ 2001/NĐ-CP).
- Việc đăng ký kết hôn cho trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001 mà chưa đăng ký kết hôn được quy định: Nếu hai bên kết hôn không có hộ khẩu thường trú nhưng có đăng ký tạm trú có thời hạn theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ khẩu thì Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi một trong hai bên đăng ký tạm trú có thời hạn thực hiện việc đăng ký kết hôn (Nghị định số 77/2001/NĐ- CP ngày 22/10/2001).
- Trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001 cần phải tuân thủ theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 77/2001/ NĐ-CP, theo đó, nếu một trong hai bên không có hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú có thời hạn tại nơi đăng ký kết hôn thì Tờ khai đăng ký kết hôn của họ phải được cơ quan, đơn vị nơi đang công tác (với cán bộ công chức, người đang phục vụ trong lực lượng vũ trang) hoặc Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú có thời hạn xác nhận tình trạng hôn nhân của người đó. Nếu cả hai bên cùng thường trú hoặc tạm trú có thời hạn tại nơi đăng ký kết hôn thì không cần sự xác nhận trên.
-
Trường hợp hai công dân Việt Nam kết hôn với nhau ở nước ngoài
Cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn là cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài.
Như vậy, tuỳ từng trường hợp, cơ quan đăng ký kết hôn có thể là UBND cấp xã, UBND cấp tỉnh hoặc cơ quan ngoại giao, lãnh sự. Trong trường hợp vỡƠÁ7
ð¿
fÿ
bjbjUU
8&7|7|}ÿ
™2ọÿÿÿÿÿÿlrrr*œèxxxŒLJLJLJ8„JlỡƠÁ7
ð¿
fÿ
bjbjUU
Điều 13. Giải quyết việc đăng ký kết hôn
1. Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật về hộ tịch, cơ quan đăng ký kết hôn kiểm tra hồ sơ đăng ký kết hôn; nếu xét thấy hai bên nam nữ có đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn tổ chức đăng ký kết hôn.
2. Trong trường hợp một bên hoặc cả hai bên không đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn từ chối đăng ký và giải thích rõ lý do bằng văn bản; nếu người bị từ chối không đồng ý thì có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật.
|
|
8&7|7|}ÿ
™2ọÿÿÿÿÿÿlrrr*œèxxxŒLJLJLJ8„Jlt hôn. Vì thế, trên cơ sở kế thừa luật cũ, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định cụ thể hơn về thẩm quyền đăng ký kết hôn, giải quyết việc đăng ký kết hôn và tổ chức việc đăng ký kết hôn tại từng điều luật cụ thể.
-
Thủ tục tiến hành đăng ký kết hôn
Hai bên nam nữ phải nộp bộ hồ sơ trong đó có các giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật về hộ tịch cho cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn. Cơ quan đăng ký kết hôn phải kiểm tra hồ sơ đăng ký kết hôn và khi xét thấy họ đủ điều kiện mới tiến hành tổ chức việc đăng ký kết hôn. Hồ sơ và thủ tục xin đăng ký kết hôn được chia làm hai trường hợp:
Trường hợp thứ nhất: Đăng ký kết hôn thông thường.
Theo Điều 23 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch, hồ sơ xin đăng ký kết hôn gồm có các loại giấy tờ sau:
“1. Giấy khai sinh của mỗi bên;
2. Sổ hộ khẩu gia đình của bên nam hoặc bên nữ nơi đăng ký kết hôn.
3. Tờ khai xin đăng ký kết hôn. Tờ khai đăng ký kết hôn phải có xác nhận của cơ quan, đơn vị nơi công tác (đối với cán bộ, công chức, người lao động, lực lượng vũ trang nhân dân), hoặc của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú (đối với nhân dân) của mỗi bên về tình trạng hôn nhân. Việc xác nhận tình trạng hôn nhân này có giá trị không quá 30 ngày.
Nếu không có đủ các giấy tờ trên, thì phải có giấy tờ hợp lệ thay thế.”
Trong trường hợp nghi ngờ một bên hoặc cả hai bên nam nữ mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức được hành vi của mình, đang mắc bệnh hoa liễu, thì phải có giấy khám sức khoẻ của cơ quan Y tế cấp huyện. Nếu một trong hai bên hoặc cả hai bên đã có vợ hoặc chồng nhưng đã ly hôn hay người kia đã chết, thì phải nộp bản sao bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án về việc cho ly hôn hoặc bản sao Giấy chứng tử.
Điều 25 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP quy định “Khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Uỷ ban nhân dân cấp xã sẽ tiến hành xác minh điều kiện kết hôn và niêm yết tại trụ sở UBND trong thời hạn 7 ngày. Nếu cần xác minh thì thời hạn kéo dài không quá 7 ngày. Sau thời hạn nói trên, nếu hai bên nam nữ có điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân - gia đình và không có khiếu nại tố cáo về việc kết hôn thì UBND cấp xã phải thông báo cho hai bên biết về ngày đăng ký. Sau thời hạn 7 ngày kể từ ngày thông báo, nếu hai bên nam nữ không đến đăng ký kết hôn mà không có lý do chính đáng thì Uỷ ban nhân dân huỷ việc xin đăng ký kết hôn đó và thông báo cho đương sự biết”
Thực tế áp dụng Điều 23 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP có một số điểm vướng mắc sau:
Thứ nhất, do quy định không rõ ràng thế nào là giấy tờ thay thế, có trường hợp người xin đăng ký kết hôn không có hộ khẩu thường trú, có địa phương linh hoạt bằng cách cho phép thay thế bằng sổ tạm trú dài hạn (KT3) hoặc chấp nhận sự xác nhận của cơ quan nơi đương sự đang làm việc, hoặc nơi tạm trú mà chưa được cấp sổ. Nhưng có địa phương rất cứng nhắc bắt đương sự quay về nơi có hộ khẩu thường trú để đăng ký. Có trường hợp đương sự không có giấy khai sinh cán bộ có thẩm quyền cũng không chấp nhận chứng minh nhân dân, hộ khẩu hay lý lịch cán bộ để thay thế. Thứ hai, về việc xác định tình trạng hôn nhân cho đương sự. Trường hợp hai bên nam nữ không cư trú tại một địa phương, ví dụ nếu đăng ký kết hôn tại UBND cấp xã nơi cư trú của bên nữ, cần phải có xác nhận tình trạng độc thân của UBND cấp xã nơi cư trú của bên nam, nhưng không hề có quy định sau đó UBND xã nơi đã thực hiện thủ tục dăng ký kết hôn phải phản hồi, thông báo cho UBND cấp xã nơi cư trú của bên nam là trường hợp này đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn để địa phương vào sổ quản lý, theo dõi các trường hợp này. Dẫn đến nhiều khi người chồng lợi dụng việc này để quay lại địa phương nơi mình cư trú xin kết hôn với người khác.
Mặt khác, quy định thủ trưởng cơ quan, đơn vị xác nhận vào tờ khai đăng ký kết hôn của cán bộ, công nhân viên vừa có nhiều kẽ hở vừa làm rắc rối thêm công tác quản lý hộ tịch. Nhiều cơ quan không quản lý hồ sơ gốc của cán bộ công nhân viên mà chỉ quản lý qua lý lịch của họ, không có văn bản nào quy định Thủ trưởng các cơ quan có trách nhiệm phải giám sát, kiểm tra tình trạng hôn nhân của họ xem họ đã kết hôn ở địa phương, đã ly hôn hay chưa và nhiều vấn đề khác như tuyên bố mất tích, tuyên bố chết của Toà án, giấy khai tử... nên nhiều khi xác nhận của thủ trưởng cơ quan đơn vị là không thể chính xác được. Đương sự hoàn toàn có thể lợi dụng quy định này để xin xác nhận tình trạng độc thân để kết hôn với người khác. Theo chúng tôi cần quy định chặt chẽ hơn về thẩm quyền thủ trưởng cơ quan đơn vị trong việc xác định tình trạng hôn nhân của đương sự.
Trường hợp thứ hai: thủ tục đăng ký kết hôn đối với trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập trước ngày 3/1/1987 và trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001 mà chưa đăng ký kết hôn đơn giản hơn so với thủ tục bình thường. Theo tinh thần của Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 quy định chi tiết Nghị quyết số 35/2000/QH10 về đăng ký kết hôn thì các bên chỉ cần làm tờ khai đăng ký kết hôn và xuất trình giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ hợp lệ thay thế (Điều 5). Tuy nhiên, trong tờ khai đăng ký kết hôn này, các bên phải ghi bổ sung ngày, tháng, năm xác lập quan hệ vợ chồng hoặc chung sống với nhau như vợ chồng trên thực tế. Nếu cả hai vợ chồng không cùng xác định được ngày, tháng xác lập quan hệ vợ chồng hoặc chung sống với nhau như vợ chồng trên thực tế thì sẽ xác định ngày tháng theo cách sau: Nếu xác định được tháng mà không xác định được ngày thì lấy ngày 01 của tháng tiếp theo; Nếu xác định được năm mà không xác định được ngày, tháng, thì lấy ngày 01 tháng 01 của năm tiếp theo.
Nếu một trong hai người không thể đến nộp hồ sơ xin đăng ký kết hôn mà có lý do chính đáng, thì có thể gửi cho UBND nơi đăng ký kết hôn đơn xin nộp hồ sơ vắng mặt, trong đơn phải nêu rõ lý do vắng mặt, có xác nhận của UBND cấp xã nơi cư trú.
-
Trường hợp từ chối đăng ký kết hôn
Trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền từ chối đăng ký vì một hoặc hai bên không đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 9 thì trong thời hạn 7 ngày, Uỷ ban nhân dân cấp xã mời hai bên nam, nữ đến Uỷ ban nhân dân để thông báo việc từ chối đăng ký, lý do từ chối phải ghi rõ bằng văn bản (theo Điều 26 Nghị định số 83/1998/NĐ- CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch).
Điều 14. Tổ chức đăng ký kết hôn
Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên.
|
|
Xét theo góc độ pháp lý, một quan hệ hôn nhân chỉ phát sinh hiệu lực kể từ khi đăng ký kết hôn tại cơ quan hộ tịch có thẩm quyền.
Thông thường, lễ đăng ký kết hôn được tổ chức tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một hoặc hai bên. Tại trụ sở Uỷ ban nhân dân, phải có mặt cả hai bên nam nữ kết hôn. Đại diện Uỷ ban nhân dân sẽ hỏi lần cuối ý kiến của hai bên đối với việc kết hôn của mình, khẳng định lại sự tự nguyện của hai bên trước khi tiến hành kết hôn, khẳng định hôn nhân không bị cưỡng ép, lừa dối. Nếu hai bên vẫn đồng ý kết hôn thì cán bộ hộ tịch tư pháp sẽ mời họ cùng ký vào giấy chứng nhận đăng ký kết hôn và sổ đăng ký kết hôn. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn sẽ ký và trao cho mỗi bên một bản giấy chứng nhận đăng ký kết hôn và giải thích cho hai bên về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Giấy chứng nhận kết hôn là chứng cứ xác nhận giữa hai bên đã phát sinh và tồn tại quan hệ vợ chồng, quan hệ này được Nhà nước ghi nhận và bảo hộ.
Tuy nhiên, Điều 14 không quy định cụ thể việc tổ chức đăng ký kết hôn phải được tiến hành ở đâu, do đó có thể hiểu địa điểm tổ chức đăng ký kết hôn có thể là một nơi khác không phải là trụ sở của cơ quan đăng ký kết hôn (theo hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP tại khoản 2 mục c điểm c1). Theo Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 quy định chi tiết Nghị quyết số 35/2000/QH10 về đăng ký kết hôn, với các trường hợp hợp quan hệ vợ chồng xác lập trước ngày 3/1/1987 và nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001 mà không đăng ký kết hôn, thì địa điểm đăng ký kết hôn có thể được thực hiện tại trụ sở của Uỷ ban nhân dân hoặc tại thôn, bản, tổ dân phố theo kế hoạch của Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Theo Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của luật này đều không có giá trị pháp lý”. Theo tinh thần của Nghị quyết số 02/2000/NQ- HĐTP của Toà án nhân dân tối cao (mục 2 điểm c): việc kết hôn không theo quy định tại Điều 14 sẽ không có giá trị pháp lý nhưng nếu có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật thì mặc dù có vi phạm một trong các điều kiện kết hôn thì Toà án sẽ không tuyên bố huỷ hôn nhân trái pháp luật mà áp dụng khoản 1 Điều 11 để tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng.
Điều 14 cũng quy định "Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn". Quy định này tạo điều kiện để hai bên cùng công khai thể hiện sự tự nguyện trong vấn đề kết hôn của mình trước Nhà nước và pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu vì lý do chính đáng mà một trong hai bên không thể trực tiếp đến trụ sở Uỷ ban nhân dân để đăng ký kết hôn thì việc đăng ký kết hôn không bị coi là không theo nghi thức quy định tại Điều 14, nếu trước khi tổ chức đăng ký kết hôn họ đã thực hiện đúng quy định tại khoản 1 Điều 13 và sau khi tổ chức đăng ký kết hôn họ thực sự về chung sống với nhau (Theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tại đoạn c 2, điểm c mục 2 Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
Điều 15. Người có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật
1. Bên bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 9 của Luật này.
2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Toà án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của Luật này.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án hủy việc kết
|
|
Huỷ kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, theo yêu cầu của người có quyền khởi tố, khởi kiện, Toà án sẽ tuyên bố chấm dứt việc kết hôn trái pháp luật. Việc kết hôn trái pháp luật không những vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chính những người kết hôn mà còn ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của những người khác như vợ, chồng, con của họ và lợi ích xã hội. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi của cá nhân, lợi ích gia đình và xã hội, pháp luật quy định rộng rãi những người có quyền yêu cầu huỷ hôn nhân trái pháp luật. Theo Điều 15, những người có quyền yêu cầu huỷ hôn nhân trái pháp luật bao gồm:
* Bên bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn trong trường hợp hôn nhân vi phạm điều kiện về tự do, tự nguyện, vi phạm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ: đây là những người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ trực tiếp bị xâm phạm do kết hôn trái pháp luật, họ có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Theo hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:
- Nếu sau khi bị ép buộc, lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn mà mà hôn nhân của họ không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng thì Toà án quyết định huỷ việc kết hôn;
- Nếu hai bên đã có sự thông cảm và tiếp tục chung sống hoà thuận thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn thì Toà án thụ lý để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung (khoản 2 mục d điểm d1).
* Viện Kiểm sát nhân dân có quyền yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật: khi hôn nhân vi phạm về độ tuổi kết hôn tức nam chưa bước sang tuổi 20, nữ chưa bước sang tuổi 18 hoặc khi hôn nhân phạm vào các trường hợp bị cấm kết hôn quy định tại Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 như một hoặc hai bên đang có vợ hoặc có chồng, hai người cùng giới, hai người có cùng dòng máu về trực hệ ...
- Với trường hợp vi phạm về độ tuổi kết hôn, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn:
+ Đến thời điểm có yêu cầu huỷ mà một hoặc cả hai bên chưa đến tuổi kết hôn thì quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật;
+ Đến thời điểm có yêu cầu huỷ mà hai bên đã đến tuổi kết hôn nhưng cuộc sống của họ không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng thì quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật;
Nếu đến thời điểm có yêu cầu huỷ mà hai bên đã đến tuổi kết hôn, thời gian qua họ chung sống bình thường, có con, có tài sản chung thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn mà có yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn thì Toà án thụ lý giải quyết ly hôn theo thủ tục chung (Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, khoản 2 mục d điểm d1).
- Với trường hợp kết hôn khi đang có vợ có chồng cần phải chú ý trường hợp sau:
+ Nếu thuộc trường hợp cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954, đã có vợ có chồng ở miền Nam mà lấy vợ, lấy chồng ở miền Bắc thì vẫn xử lý theo Thông tư số 60/TATC ngày 22/2/1978 của Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn giải quyết các trường hợp cán bộ, bộ đội trong Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác".
+ Khi một người đang có vợ hoặc có chồng nhưng tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài mà đã kết hôn với người khác thì lần kết hôn sau là thuộc trường hợp cấm kết hôn quy định tại điểm 1 Điều 10. Tuy nhiên, nếu khi có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật mà họ đã ly hôn với vợ hoặc chồng của lần kết hôn trước thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật đối với lần kết hôn sau. Nếu có yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn thì Toà án thụ lý để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
* Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ, một số cơ quan khác cũng như vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát nhân dân yêu cầu Toà án huỷ hôn nhân vi phạm khoản 2 Điều 9 và Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Trong trường hợp này có thể áp dụng khoản 3 Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cho phép các cá nhân, cơ quan tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật khi việc kết hôn vi phạm khoản 2 Điều 9 (việc kết hôn vi phạm yếu tố tự nguyện) mà người bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn không dám yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Hơn nữa, quy định tại khoản 4 Điều 15 là nhằm tạo điều kiện cho nhiều người tham gia vào việc đấu tranh đối với những trường hợp kết hôn nhưng không tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn.
Việc pháp luật quy định các đương sự có quyền khởi kiện nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của các đương sự, đồng thời bảo vệ lợi ích chung của gia đình và toàn xã hội. Quyền khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân chính là xuất phát từ chức năng kiểm sát chung việc tuân theo pháp luật. Việc khởi kiện của các đoàn thể nhân dân xuất phát từ việc phát huy vai trò của nhân dân trong việc đấu tranh bảo vệ pháp luật.
Như vậy, qua các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và các văn bản hướng dẫn về các trường hợp tuyên bố huỷ việc kết hôn trái pháp luật, có thể thấy bên cạnh những quy định mang tính nguyên tắc quản lý Nhà nước và đảm bảo quyền lợi công dân, pháp luật rất tôn trọng hạnh phúc thực sự của các bên. Vì vậy, không phải mọi trường hợp việc kết hôn trái pháp luật đều bị tuyên bố huỷ mà chỉ những trường hợp thực tế cho thấy việc kết hôn trái pháp luật là nguyên nhân dẫn đến tìnhh trạng không hạnh phúc trong gia đình pháp luật mới quy định tuyên bố huỷ. Như vậy, những trường hợp tại thời điểm kết hôn có dấu hiệu trái pháp luật nhưng qua thời gian chung sống, dấu hiệu trái pháp luật không còn nữa, đời sống gia đình hoà thuận, hạnh phúc thì Nhà nước hoàn toàn tôn trọng và công nhận là hôn nhân hợp pháp. Điều này thể hiện được nhân đạo cũng như sự linh động trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật của Nhà nước ta.
Điều 16. Hủy việc kết hôn trái pháp luật
Theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 15 của Luật này, Toà án xem xét và quyết định việc hủy kết hôn trái pháp luật và gửi bản sao quyết định cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn. Căn cứ vào quyết định của Toà án, cơ quan đăng ký kết hôn xoá đăng ký kết hôn trong Sổ đăng ký kết hôn.
|
|
Kết hôn trái pháp luật là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng (có thực hiên thủ tục đăng ký kết hôn) nhưng vi phạm các điều kiện kết hôn do pháp luật quy định, cụ thể là vi phạm một trong các quy định tại Điều 9, 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Việc kết hôn trái pháp luật dẫn tới những ảnh hưởng xấu tới nhiều mặt của đời sống xã hội như vi phạm nghiêm trọng về đạo đức, nhân cách, lối sống của gia đình Việt Nam, phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, ảnh hưởng đến sức khoẻ và việc duy trì nòi giống của dân tộc. Nhà nước ta đã thể hiện thái độ nghiêm khắc thông qua chế tài huỷ hôn nhân trái pháp luật.
Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về trình tự, thủ tục của Toà án về huỷ việc kết hôn trái pháp luật (vấn đề này trước đây Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986 chưa có quy định). Khi nhận được yêu cầu của những người có quyền yêu cầu huỷ hôn nhân trái pháp luật, Toà án sẽ xem xét và quy định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Sau đó, Toà án gửi bản sao quyết định cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn. Sau khi nhận được bản sao quyết định này, UBND xã, phường, thị trấn sẽ xoá đăng ký kết hôn trong sổ đăng ký kết hôn.
Việc huỷ việc kết hôn trái pháp luật ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của hai người kết hôn trái pháp luật và con cái của họ. Vì vậy, khi xử lý các trường hợp kết hôn trái pháp luật, Toà án phải điều tra làm rõ hành vi vi phạm điều kiện kết hôn, mức độ vi phạm và hoàn cảnh vi phạm, phải xem xét và đánh giá thực chất mối quan hệ tình cảm giữa họ kể từ khi kết hôn cho đến lúc Toà án xem xét cuộc hôn nhân của họ để từ đó có quyết định xử lý đúng đắn.
|
|
Điều 17. Hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật
1. Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên nam, nữ phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng.
2. Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn.
3. Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thoả thuận của các bên; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.
|
|
Cùng với việc quy định về những người có quyền yêu cầu huỷ kết hôn trái pháp luật, về thủ tục huỷ việc kết hôn trái pháp luật, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 còn quy định về hậu quả pháp lý của việc huỷ kết hôn trái pháp luật. Về cơ bản giống với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986, nhưng có phần chặt chẽ và cụ thể hơn.
Về quan hệ nhân thân, khi Toà án tuyên bố huỷ hôn nhân trái pháp luật, Nhà nước sẽ không thừa nhận và bảo hộ hôn nhân trái pháp luật kể từ thời điểm kết hôn cho đến khi có yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn đó. Do đó quan hệ vợ chồng mà hai bên xác lập sẽ không có giá trị pháp lý.
Về quan hệ tài sản: Hai bên trong quan hệ hôn nhân trái pháp luật không có quan hệ vợ chồng, do vậy tài sản mà họ tạo ra trong khoảng thời gian chung sống không phải là tài sản chung hợp nhất mà là tài sản chung theo phần. Do vậy, việc thanh toán tài sản chung này tuân theo quy định của BLDS. Trước hết, việc chia tài sản dựa trên nguyên tắc: tài sản riêng của ai vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó, tài sản chung chia theo sự thoả thuận của các bên. Điểm khác của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986, đó là: luật mới quy định Toà án có thẩm quyền trong việc chia tài sản cho hai bên nếu hai bên không đạt được sự thoả thuận trong việc chia tài sản chung. Khi chia, Toà án phải xem xét xem ai có công sức đóng góp nhiều hơn vào việc xây dựng, duy trì, phát triển khối tài sản chung để quyết định người đó được chia nhiều hơn. Pháp luật cũng quy định việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ và con bởi đây là những đối tượng thường gặp nhiều khó khăn hơn về kinh tế, về tình cảm sau khi hôn nhân của họ bị huỷ. Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ và trẻ em luôn được pháp luật quan tâm và đặt lên hàng đầu. Đây cũng chính là một trong những điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Về quan hệ cha mẹ con: quan hệ cha mẹ và con phát sinh trên cơ sở huyết thống, nuôi dưỡng, không phụ thuộc vào quan hệ hôn nhân của cha mẹ có hợp pháp hay không. Do vậy khi Toà án tuyên bố huỷ hôn nhân trái pháp luật thì "quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn”. Như vậy, việc giao con cái cho ai nuôi là dựa trên sự thoả thuận của hai bên căn cứ vào tình hình kinh tế, hoàn cảnh của mỗi bên để đảm bảo cho con cái được chăm sóc, nuôi dưỡng một cách tốt nhất. Theo Điều 92 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 sau khi ly hôn, vợ chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên, đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình... và về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác. Như vậy, pháp luật luôn tôn trọng sự thoả thuận của các bên trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng con cái khi hôn nhân của cha mẹ bị huỷ bỏ nhằm đảm bảo cho trẻ em được quan tâm chăm sóc, được phát triển đầy đủ cả về thể chất lẫn tinh thần. Điều này hoàn toàn phù hợp với Công ước về quyền trẻ em "Cha mẹ có trách nhiệm hàng đầu trong việc nuôi dạy con cái và Nhà nước phải giúp họ thực hiện trách nhiệm ấy. Nhà nước phải giúp đỡ một cách thích hợp cha mẹ trong việc nuôi dạy con cái" và phù hợp với Công ước Cedaw- Công ước về xoả bỏ mọi phân biệt đối xử với phụ nữ (điểm d khoản 1 Điều 16), đó là: "Quyền và trách nhiệm như nhau trong vai trò làm cha mẹ bất kể tình trạng hôn nhân của họ ra sao về các vấn đề liên quan đến con cái của họ. Trong tất cả các trường hợp, lợi ích của con cái là điều quan trọng nhất”.
Vè vấn đề cấp dưỡng: Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa hai người là vợ chồng. Khi huỷ việc kết hôn trái pháp luật, hai người không được công nhận là vợ chồng do vậy về nguyên tắc vấn đề cấp dưỡng không được đặt ra. Trên thực tế, người phụ nữ thường gặp nhiều khó khăn hơn trong đời sống tình cảm cũng như vật chất so với nam giới. Nên dù pháp luật không quy định nhưng để bảo vệ quyền lợi cho họ nhất là trường hợp bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn gặp khó khăn túng thiếu trong cuộc sống và khi họ có yêu cầu cấp dưỡng, Toà án sẽ căn cứ vào khả năng kinh tế của bên kia để quyết định mức cấp dưỡng. Đối với nghĩa vụ cấp dưỡng cho con cái vẫn được áp dụng như trường hợp bố mẹ ly hôn, bên không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con (Điều 92 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Đây là quy định mang tính chất nhân đạo thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đến đời sống của cá nhân, góp phần ổn định đời sống xã hội.
Chương III
|
Quan hệ giữa vợ và chồng
|
Trên cơ sở kế thừa tư tưởng cũng như quy định tiến bộ của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có những quy định mới để điều chỉnh tất cả các lĩnh vực của quan hệ hôn nhân. Cùng với các chế định khác trong luật, chế định về quan hệ giữa vợ và chồng được quy định cụ thể và chặt chẽ hơn thể hiện sâu sắc quan điểm, tư tưởng bình đẳng, bình quyền trong quan hệ giữa vợ và chồng, đặc biệt liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
Quan hệ giữa vợ và chồng được quy định tại Chương III Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 “Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng” bao gồm 9 điều, từ Điều 10 đến Điều 18. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa lại tên của Chương này thành “Quan hệ giữa vợ và chồng” mang tính chất khái quát cao hơn bởi quan hệ vợ, chồng không chỉ là quyền và nghĩa vụ đối với nhau mà nó còn là tình cảm cao đẹp, đó là tình nghĩa vợ, chồng. Chương này gồm có 16 điều từ Điều 18 đến Điều 33 nhiều hơn 7 điều so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đó là một số quy định mới về quyền nhân thân và quyền tài sản nhằm cụ thể hoá hơn nữa quan hệ nhân thân cũng như quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, qua đó khẳng định sự bình đẳng, bình quyền trong quan hệ giữa vợ và chồng.
Quan hệ pháp luật về quyền nhân thân giữa vợ và chồng bao gồm các quan hệ nhân thân phi tài sản (không mang nội dung kinh tế) là quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về lao động, học tập, hoạt động nghề nghiệp, nó còn bao hàm cả tình yêu, sự chung thuỷ, hoà thuận và kính trọng lẫn nhau, những cư xử đúng đắn và việc dạy bảo con cái... dựa trên những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, các quy tắc tập quán của dân tộc và đạo đức xã hội. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 khẳng định quyền bình đẳng vợ chồng thể hiện ở các quyền như tự do lựa chọn chỗ ở, lựa chọn nghề nghiệp, nghĩa vụ chung thuỷ yêu thương, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 một lần nữa khẳng định và mở rộng hơn các quyền đó như: tôn trọng danh dự nhân phẩm, uy tín, tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ chồng, vợ chồng giúp đỡ tạo điều kiện cho nhau phát triển, quyền đại diện cho nhau cũng như trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện.
Bên cạnh quan hệ pháp luật về nhân thân, nội dung quan hệ pháp luật về tài sản của vợ chồng gồm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng phát sinh từ những lợi ích vật chất trên cơ sở những quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng. Do bản chất của quan hệ hôn nhân xã hội chủ nghĩa, quan hệ hôn nhân gia đình đều dựa trên cơ sở tình cảm nên tài sản không có ý nghĩa quyết định trong việc xác lập và xây dựng quan hệ vợ chồng. Quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ và chồng đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh những quan hệ khác trong gia đình, là cơ sở pháp lý để thực hiện các chức năng kinh tế và đáp ứng những nhu cầu vật chất của vợ chồng và các thành viên khác trong gia đình.
Việc quy định chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình là điều kiện để Nhà nước điều tiết và quản lý các quan hệ xã hội, đảm bảo các mục tiêu xây dựng và phát triển xã hội vững mạnh, công bằng, văn minh. Đây cũng là điều kiện cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các thành viên trong gia đình, tránh những tranh chấp xảy ra làm tổn thương đến tình cảm và sự đoàn kết trong gia đình. Quy định này còn tạo điều kiện để vợ chồng tham gia các quan hệ xã hội nhằm phát triển kinh tế gia đình, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba khi tham gia quan hệ tài sản với vợ, chồng. Quy định chế độ tài sản của vợ chồng còn là cơ sở pháp lý cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng.
Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng được Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định từ Điều 14 đến Điều 18. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có 7 điều quy định về vấn đề này và trong mỗi điều đều quy định cụ thể các vấn đề có liên quan đến tài sản chung của vợ, chồng đến tài sản riêng, vấn đề thừa kế, cũng như vấn đề chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Cũng như Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự hay Bộ luật lao động và một số ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, việc đề cao quyền bình đẳng vợ, chồng trong quan hệ tài sản của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là sự kế thừa, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện theo hướng thể hiện ngày một toàn diện và sâu sắc nguyên tắc bình đẳng nam nữ mà Công ước Cedaw đề cập trên cơ sở phù hợp điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của đất nước “Quyền như nhau của cả vợ và chồng đối với việc sở hữu, thu nhận, kiểm soát, quản lý, hưởng thụ và sử dụng tài sản, dù đó là tài sản không phải trả tiền, hay đó là tài sản có giá trị lớn”. Trên cơ sở một số quyền mà Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã quy định như: quyền có tài sản chung, tài sản riêng, quyền thừa kế và quyền chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định cụ thể hơn các loại tài sản được coi là tài sản chung, quy định rõ quyền chiếm hữu, định đoạt của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng, các trường hợp chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại đồng thời dự liệu những trường hợp vợ, chồng sẽ gặp phải khó khăn trong vấn đề thừa kế tài sản của nhau khi người kia chết và đưa ra giải pháp khắc phục khó khăn đó. Quy định về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng đã cụ thể hoá một số quy định về sở hữu của Bộ luật Dân sự, đồng thời bổ sung một số quy định nhằm đáp ứng với tình hình phát triển về kinh tế xã hội ở nước ta, đặc biệt là các quy định liên quan đến quyền sử dụng đất của vợ chồng, chế độ pháp lý đối với hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung, tài sản riêng giúp Toà án có thêm căn cứ pháp lý khi xét xử các tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng.
Như vậy, có thể thấy rằng, phạm vi điều chỉnh của Chương III Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 rộng hơn, đầy đủ hơn so với Chương III Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Trên cơ sở quy định của pháp luật về quyền nhân thân và quyền tài sản của vợ chồng, Nhà nước ta đã khẳng định và đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội, khẳng định sự bình đẳng vợ chồng trong quan hệ hôn nhân đồng thời thể hiện rõ tư tưởng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em. Bình đẳng vợ, chồng trong cuộc sống gia đình chính là một trong những nội dung quan trọng, cơ bản của Chương III. Quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 phù hợp với pháp luật Việt Nam và Công ước quốc tế về bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945, luật pháp phong kiến và thực dân chủ yếu bảo vệ quyền gia trưởng của người chồng và quyền lợi của phụ nữ nói chung và người vợ trong gia đình nói riêng không được tôn trọng và bảo vệ, tồn tại sự bất bình đẳng về nhân thân và tài sản. Người vợ hoàn toàn phụ thuộc vào người chồng, thậm chí cả con trai để giữ đạo “tam tòng”.
Cho đến sau năm 1945, nguyên tắc bình đẳng nam nữ và quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình Việt Nam được tôn trọng và bảo vệ. Nguyên tắc bình đẳng nam, nữ được ghi nhận, đề cao và phát triển trên cơ sở Hiến pháp năm 1946 "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9) và được đảm bảo thực hiện thông qua các chính sách phát triển kinh tế xã hội nhằm từng bước xoá bỏ những quan niệm phong kiến, thủ tục lạc hậu trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, góp phần nâng cao địa vị của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Hiến pháp năm 1992 cũng quy định “Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ, chồng bình đẳng”(Điều 64).
Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995, một trong những đạo luật quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam luôn coi bình đẳng là một nguyên tắc cơ bản. Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Điều 35 Bộ luật Dân sự quy định về quyền kết hôn “Hôn nhân được xây dựng trên nguyên tắc một vợ, một chồng” và Điều 36 quy định về quyền bình đẳng vợ chồng “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi việc trong gia đình và trong giao lưu dân sự, cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, bền vững, hoà thuận, hạnh phúc”. Đặc biệt chúng ta là thành viên của Công ước Cedaw vào năm 1982- Công ước của Liên Hiệp quốc về xoá bỏ mọi phân biệt đối xử đối với phụ nữ. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được thông qua trong hoàn cảnh đất nước Việt Nam đang tiến hành hoàn thành Báo cáo quốc gia lần thứ ba và thứ tư về việc thực hiện Công ước Cedaw. Các quy định trong Công ước (Điều 16) về việc loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ trong các quan hệ hôn nhân và gia đình đã được chuyển hoá thành nội dung quan trọng của luật.
Điều 18. Tình nghĩa vợ chồng
Vợ chồng chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
|
|
Gia đình là nơi hình thành và là môi trường quan trọng nuôi dưỡng nhân cách của mỗi con người. Để gia đình thực sự là mái ấm, Điều 18 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định vợ chồng có nghĩa vụ chung thuỷ, yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau. Quy định này là sự kế thừa nội dung của Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, một lần nữa khẳng định giá trị và vai trò của tình cảm yêu thương giữa vợ và chồng trong cuộc sống gia đình. “Bản chất của tình yêu là không thể sẻ chia”[9] và chung thuỷ là nền tảng để duy trì hạnh phúc gia đình, đó không đơn thuần là nghĩa vụ mang tính pháp lý mà còn là đạo đức, nhân cách của con người. Tuy nhiên, chung thuỷ chưa phải là yếu tố đủ để xây đắp lên mái ấm mà chính tình thương yêu, sự quý trọng lẫn nhau mới là nội dung sâu sắc của mối quan hệ này. Yêu thương là tình cảm gắn bó xuất phát từ bản chất của tình yêu. Điều 18 đã đề cao được đạo lý chung và ý thức của mỗi người về một gia đình trọn vẹn với hạnh phúc đích thực của đời sống vợ chồng. Quy định này không chỉ xác lập nghĩa vụ về mặt pháp lý nhằm củng cố nền tảng gia đình mà còn là sự bác bỏ quan điểm phong kiến trước đây "Trai năm thê bẩy thiếp, gái chính chuyên một chồng". Việc xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc là trách nhiệm chung của cả hai người, là quyền và nghĩa vụ mà vợ và chồng cần chung sức, sẻ chia.
Vì vậy, cuộc sống vợ chồng tự nhiên và cần thiết phải được xây đắp, duy trì trên cơ sở sự gắn kết giữa tình yêu và trách nhiệm. Trách nhiệm trong quan hệ vợ chồng được thể hiện ở sự “chăm sóc, giúp đỡ nhau”, là sự quan tâm chia sẻ, tương trợ lẫn nhau trong đời sống vật chất và tinh thần để có thể cùng nhau đạt tới được mục đích thực sự của hôn nhân là “xây dựng một gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững”.
Tuy nhiên, việc quy định về tình nghĩa vợ chồng chủ yếu là nhằm đề cao đạo lý chung và tạo ra ý thức trách nhiệm cho mỗi người trong quan hệ vợ chồng chứ không nhằm cũng như không thể bằng các biện pháp cưỡng chế hay quyền lực nhà nước mà điều chỉnh mối quan hệ xã hội vốn tế nhị và riêng tư này. Trên thực tế, không thể xác định được một cách chính xác thế nào là không chung thuỷ cũng như không thể xác định được giới hạn nghĩa vụ yêu thương và chế tài buộc hai người phải tiếp tục yêu thương nhau khi mà tình yêu giữa họ không còn nữa. Pháp luật chỉ có thể đánh giá và điều chỉnh các quan hệ trên cơ sở hành vi trong khi bản chất của quan hệ vợ chồng lại xuất phát từ tình cảm, từ suy nghĩ chứ không đơn thuần là những biểu hiện bên ngoài. Có thể coi hành vi của một người đã có vợ hoặc chồng mà “chung sống như vợ chồng với người khác” là biểu hiện của sự không chung thuỷ và pháp luật có những chế tài hình sự, hành chính nhất định để xử lý những trường hợp này. Tuy nhiên, đối với các trường hợp không chung thuỷ trong tư tưởng hay không thực hiện nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc giúp đỡ vợ hoặc chồng thì luật chưa đề ra một biện pháp xử lý nào hữu hiệu ngoài việc quy định quyền được yêu cầu ly hôn của vợ hoặc chồng khi “tình trạng gia đình trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”.
|
|
Điều 19. Bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng
Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình.
|
|
Bình đẳng là quyền quan trọng và cơ bản trong mối quan hệ vợ-chồng. Đây là một trong những quyền có tính chất dân chủ, tiến bộ được hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi nhận và quy định trong pháp luật về hôn nhân và gia đình. Hiến pháp năm 1992 quy định "Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 52), “Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng” (Điều 64). Quyền bình đẳng vợ chồng cũng được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự: "Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong giao lưu dân sự “ (Điều 36). Quy định này cũng chính là sự kế thừa Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 "Vợ, chồng có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình”. Nếu như trước đây người phụ nữ không có vai trò gì trong gia đình và hoàn toàn phụ thuộc vào người cha, người chồng, hay con trai thì ngày nay phụ nữ được xã hội nhìn nhận là có vai trò, địa vị bình đẳng như nam giới và được pháp luật đề cao, bảo vệ. Một lần nữa, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 khẳng định sự bình đẳng, bình quyền về mọi mặt trong mối quan hệ giữa vợ và chồng “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình”. Khái niệm bình đẳng ở đây được hiểu theo hai khía cạnh. Thứ nhất, bình đẳng là sự ngang nhau về các quyền và nghĩa vụ trong gia đình. Thứ hai, quyền bình đẳng còn được thể hiện ở việc hôn nhân không làm cho vợ chồng hoà nhập về mặt tư cách pháp lý. Mỗi người với tư cách là cá thể độc lập đều có năng lực pháp luật và năng lực hành vi riêng, được giữ lai lịch pháp lý riêng của mình không bị phụ thuộc hay triệt tiêu về quyền và nghĩa vụ hay tên họ[10].. Khác với quy định pháp luật thời kỳ phong kiến và Pháp thuộc nhằm thiết lập một trật tự gia đình trong đó người chồng giữ vị trí chủ gia đình, vị trí người bảo hộ đối với người vợ, hạn chế quyền tự do tham gia các giao dịch, ký kết hợp đồng của người phụ nữ khi đã kết hôn thì ngày nay, để giải phóng người phụ nữ khỏi những bất công này, Đảng và Nhà nước chủ trương xoá bỏ sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng thừa nhận, đề cao và bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ ở tất cả các lĩnh vực như nhân thân, tài sản, văn hoá, chính trị...
Đề cập đến quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân với mục đích xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khoản 1 Điều 16 Công ước Cedaw - Công ước của Liên hiệp quốc về xoá bỏ mọi sự phân biệt, đối xử với phụ nữ được thông qua ngày 18-2-1979 và Việt Nam là thành viên vào ngày 19-3-1982 đã quy định “Các nước tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ trong tất cả các vấn đề liên quan đến hôn nhân và quan hệ gia đình và đặc biệt phải đảm bảo trên cơ sở bình đẳng nam nữ”. Sự bình đẳng về quyền nhân thân được Công ước quy định cụ thể ở điểm c khoản 1 Điều 16 “quyền và trách nhiệm như nhau giữa vợ và chồng trong thời gian hôn nhân cũng như khi hôn nhân bị thủ tiêu” và ở điểm g khoản 1 Điều 16 “Quyền cá nhân như nhau đối với vợ cũng như chồng bao gồm quyền được lựa chọn tên họ của mình, chọn nghề nghiệp, việc làm của bản thân mình”. Sự đối xử, phân biệt ở đây là cách hiểu và quan niệm thiên lệch, thiếu khách quan về phụ nữ và nam giới trong đó quá đề cao nam giới mà đánh giá thấp vai trò, vị trí của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Như vậy, có thể thấy, vấn đề bình đẳng giới và bảo vệ quyền lợi của phụ nữ không chỉ là vấn đề của mỗi một quốc gia mà là vấn đề đáng quan tâm của nhân loại mang tính quốc tế. Không chỉ phụ nữ của riêng quốc gia nào mà tất cả phụ nữ trên thế giới đều cần được bảo vệ, được tôn trọng và đối xử bình đẳng như nam giới, quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 là sự nội luật hoá nội dung và tinh thần của Công ước Cedaw
Điều 20. Lựa chọn nơi cư trú của vợ, chồng
Nơi cư trú của vợ, chồng do vợ chồng lựa chọn, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán, địa giới hành chính.
|
|
Trên cơ sở sự bình đẳng về mọi mặt trong quan hệ giữa vợ và chồng được quy định ở Điều 19, Điều 20 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã làm rõ hơn sự bình đẳng vợ chồng trong các quan hệ về nhân thân. Đó là sự tự do lựa chọn nơi nơi cư trú của vợ, chồng. Nơi cư trú, tức chỗ ở của vợ chồng phải do hai vợ chồng cùng thoả thuận lựa chọn. Sự lựa chọn này không bị phụ thuộc vào phong tục tập quán của địa phương, vào địa giới hành chính, hay là sự định đoạt của người chồng. Bởi vì chỗ ở chính là nơi diễn ra đời sống sinh hoạt của mỗi cá nhân, là nơi sinh ra, lớn lên và là địa điểm chủ yếu để xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự của mỗi con người. Do vậy nơi cư trú có vị trí quan trọng đối với cuộc sống của mỗi người. Do vậy để đảm bảo sự bình đẳng, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định việc lựa chọn nơi cư trú là quyền của vợ cũng như của chồng, không có sự áp đặt việc lựa chọn của người chồng đối với vợ. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định trên cơ sở kế thừa quy định của Luật năm 1986, tuy nhiên có bổ sung thêm, đó là sự tự do lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng còn không bị phụ thuộc vào địa giới hành chính (Điều 20). Đây là quy định quan trọng thể hiện tư tưởng tiến bộ cũng như thể hiện chủ trương đường lối giải phóng người phụ nữ của Đảng và Nhà nước ta. Quy định này hoàn toàn phù hợp với khoản 4 Điều 15 Công ước Cedaw "các nước tham gia Công ước phải cho nam và nữ những quyền như nhau về mặt pháp luật liên quan đến việc đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú và chỗ ở của họ" và phù hợp với nội dung của Bộ luật Dân sự về quyền được đảm bảo an toàn về chỗ ở, quyền tự do đi lại của cá nhân "Cá nhân có quyền tự do đi lại, cư trú theo quy định của pháp luật. Việc đi lại, lựa chọn nơi cư trú do cá nhân quyết định phù hợp với nhu cầu, khả năng, hoàn cảnh của mình"(khoản 1 Điều 44 BLDS). Tuy nhiên, để thực hiện được điều này đòi hỏi phải sửa đổi các văn bản pháp luật về đăng ký hộ khẩu cũng như cải cách các thủ tục hành chính cho thống nhất và phù hợp với thực tiễn. Ngoài ra, vợ chồng có thể thoả thuận lựa chọn nơi cư trú, song trong một số vợ chồng không thể thoả thuận được với nhau về nơi ở dẫn đến tình trạng không cùng chung sống thì có thể coi là kết quả của sự thoả thuận được công nhận hay không? Như vậy có sự xung đột giữa quyền và mục đích của hôn nhân mà luật và thực tiễn đều chưa có cơ sở hợp lý để điều chỉnh.
Trước đây trong xã hội thực dân phong kiến, người phụ nữ khi đi lấy chồng hoàn toàn phụ thuộc và toàn tâm, toàn ý theo mệnh lệnh của người chồng. Họ không có quyền quyết định bất cứ việc gì trong gia đình cho nên chỗ ở của vợ chồng cũng do người chồng quyết định vì lúc này người vợ ở vào vị trí phụ thuộc “Thuyền theo lái, gái theo chồng”. Ngày nay, một số đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn duy trì tập quán ở rể, người đàn ông lấy vợ phải về ở nhà vợ, nếu chẳng may vợ chết thì người chồng bắt buộc phải quay lại làng cũ và có thể kết hôn với người khác, dẫn đến hậu quả đàn con nhỏ không có người chăm sóc nuôi dưỡng. Như vậy, việc loại bỏ những quan niệm cổ hủ lạc hậu, những phong tục không phù hợp với truyền thống dân tộc là điều hết sức cần thiết để xây dựng gia đình mới XHCN.
Điều 21. Tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng
1. Vợ, chồng tôn trọng và giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau.
2. Cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau.
|
|
1. Danh dự là phạm trù xã hội nhằm cá thể hoá và phân biệt giữa chủ thể này và chủ thể khác trong quan hệ pháp luật. Danh dự là yếu tố gắn liền với một chủ thể nhất định và là một trong những yếu tố khẳng định vị trí, vai trò, uy tín của chủ thể đó trong xã hội.[11]
Nhân phẩm là những phẩm chất tạo nên giá trị của con người.
Uy tín là sự tín nhiệm, tin tưởng, mến phục của mọi người đối với một cá nhân, tổ chức nhất định.[12]
Đây là những yếu tố quan trọng của mỗi người mang tính nhân quyền cao được quy định tại Điều 71 Hiến pháp 1992: "Công dân có quyền bất khả xâm phạm về danh dự và nhân phẩm". Mọi cá nhân không phân biệt giới tính đều có quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình đồng thời có nghĩa vụ tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác. Phù hợp với quy định của Hiến pháp 1992 và quy định của Bộ luật Dân sự (Điều 33), Điều 21 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định nghĩa vụ tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau của vợ và chồng đồng thời cấm hành vi xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau. Khi hai người khác giới tự nguyện kết hôn, cùng nhau xây dựng gia đình thì việc tôn trọng và giữ gìn uy tín, danh dự, nhân phẩm cho nhau trong suốt quá trình chung sống là điều hết sức cần thiết cho hạnh phúc gia đình.
Tư tưởng lạc hậu “trọng nam khinh nữ” tồn tại từ ngàn đời trong xã hội, địa vị bất bình đẳng của người phụ nữ trong gia đình dẫn đến tình trạng phổ biến là danh dự, nhân phẩm, uy tín của họ không được coi trọng và bảo vệ. Đặc biệt là trong xã hội phong kiến, tồn tại những tập tục đáng lên án và chà đạp nhân cách người phụ nữ như “gọt đầu bôi vôi, bêu chợ” nếu người đàn bà có chửa hoang... Ngày nay, để vấn đề bình đẳng giới được thực hiện, đồng thời để duy trì nền tảng hạnh phúc gia đình thì vợ chồng cần phải tôn trọng và giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau. Bởi vì chỉ có tôn trọng danh dự của nhau cũng như yêu thương quý trọng tình nghĩa vợ chồng thì mới có thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ đối với nhau.
2. Cùng với việc quy định nghĩa vụ tôn trọng danh dự, nhân phẩm uy tín của vợ và chồng, khoản 2 Điều 21 còn quy định: “Cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau”. Đây là một quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 vì Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 chưa có điều khoản nào quy định cấm hành vi ngược đãi của vợ, chồng đối với nhau.
Theo báo cáo của Liên hiệp quốc năm 1989 thì bạo lực chống lại người phụ nữ trong gia đình là một vấn đề nghiêm trọng của tất cả các nước trên thế giới. Bạo lực chống lại người phụ nữ được hiểu là “bất kỳ hành động bạo lực nào dựa trên cơ sở về giới nào dẫn đến những tổn thất về thân thể, về tình dục hay tâm lý, hay những đau khổ của người phụ nữ bao gồm cả sự đe doạ có những hành động như vậy. Sự cưỡng bức hay sự tước đoạt một cách tuỳ tiện sự tự do, dù nó xảy ra ở nơi công cộng hay cuộc sống riêng tư...”[13]. ở Việt Nam, tầm quan trọng của vấn đề này cũng đang ngày càng được sự quan tâm và lưu ý khi “vấn đề này chẳng những làm nhức nhối lương tâm mỗi người mà còn trở thành nỗi lo âu của toàn xã hội”. Thống kê liên tục qua nhiều năm của Toà án nhân dân cho thấy trên 80% tổng số đơn ly hôn tại Toà án xuất phát từ nguyên nhân mâu thuẫn gia đình và do bị đánh đập, ngược đãi mà nạn nhân chủ yếu là người phụ nữ[14]. Như vậy, quy định mới này trong Luật Hôn nhân và gia đình chính là cơ sở pháp lý đảm bảo tốt hơn cho quan hệ hôn nhân và gia đình, nhất là bảo vệ người phụ nữ. Bất kỳ hành vi nào vi phạm nguyên tắc bình đẳng nam nữ, cũng như làm những điều pháp luật cấm đều phải chịu chế tài nhất định. Để thực hiện tốt quy định này cần bỏ tư tưởng cổ hủ coi việc cư xử trong quan hệ vợ chồng là việc riêng tư, việc của cá nhân mà xã hội và pháp luật không có vai trò can thiệp.
Người vợ hoặc chồng trong những trường hợp bị ngược đãi, hành hạ hay bị xúc phạm đến danh dự nhân phẩm thì có thể khởi kiện và yêu cầu các biện pháp xử lý như xin lỗi, cải chính công khai hay bồi thường thiệt hại... phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, trong những trường hợp Toà án quyết định phải bồi thường thì tài sản bồi thường sẽ được lấy ra từ khối tài sản chung hay nguồn tài sản riêng của mỗi người là một vấn đề mà chúng ta cần cân nhắc và có quy định cụ thể.
Điều 22. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng
Vợ, chồng tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau; không được cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
|
|
Tín ngưỡng được hiểu là niềm tin nội tâm thể hiện qua một số tập tục như thờ cúng tổ tiên. Tôn giáo là khái niệm được dùng để chỉ một hình thái ý thức xã hội gồm hệ thống những quan niệm tín ngưỡng đối với một hay nhiều vị thần linh nào đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, trở thành quyền công dân được Hiến pháp thừa nhận (Điều 26 Hiến pháp năm 1959, Điều 68 Hiến pháp năm 1980 và đặc biệt là Điều 70 Hiến pháp năm 1992) đồng thời được Bộ luật Dân sự ghi nhận với tư cách là quyền nhân thân thể hiện một chiều sâu mới trong quan niệm nhân quyền.
Quyền nhân thân trên của công dân được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cụ thể hoá thành quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân. Mỗi người đều quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo riêng. Pháp luật quy định vợ chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền nhân thân ấy của mỗi người. Trong các gia đình thời kỳ phong kiến ở Việt Nam nói riêng và phần lớn các nước trên thế giới nói chung, một tục lệ lâu đời và phổ biến là người phụ nữ khi kết hôn thì buộc phải theo hoặc cải đạo theo tôn giáo của chồng. Thực tế hiện nay ở nước ta vẫn tồn tại không ít những trường hợp người vợ hoặc người chồng phải miễn cưỡng theo hoặc không theo một tôn giáo nào đó do sức ép nhất định từ phía chồng, phía vợ hay gia đình bên chồng, bên vợ. Và điều này không phù hợp với bản chất tự do, dân chủ của một xã hội văn minh và tiến bộ. Vì thế, Điều 22 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định vợ chồng "không được cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào". Quy định này chính là sự đảm bảo của Nhà nước cho mỗi cá nhân được tự do ý chí trong việc theo hoặc không theo một tín ngưỡng hoặc tôn giáo. Trong gia đình, vợ cũng như chồng không có quyền áp đặt, cưỡng chế nhau phải theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào đó trái với ý muốn của họ. Nhà nước thừa nhận quyền tự do tín ngưỡng. Tín đồ của các tôn giáo khác nhau, người theo các tín ngưỡng khác nhau đều có địa vị pháp lý bình đẳng như nhau trước pháp luật.
Điều 23. Giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt
Vợ, chồng cùng bàn bạc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mỗi người.
|
|
Về nghĩa vụ giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển, trước đây Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: vợ, chồng có nghĩa vụ "giúp đỡ nhau tiến bộ... Chồng có nghĩa vụ tạo điều kiện cho vợ thực hiện tốt chức năng của người mẹ". Tuy nhiên, quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 còn chung chung vì thế nghĩa vụ "giúp đỡ nhau tiến bộ" được thực hiện rất hạn chế trên thực tế, đôi khi quyền được giúp đỡ, tạo điều kiện phát triển của người vợ bị vi phạm nghiêm trọng. Hơn nữa, trong gia đình ngày nay, người vợ không chỉ thực hiện duy nhất chức năng làm mẹ mà họ còn tham gia các hoạt động như chính trị, kinh tế, xã hội khác phù hợp với nhu cầu và khả năng của bản thân. Chính vì vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định cụ thể hơn vấn đề này tại Điều 23 về "Giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt".
Vợ chồng có nghĩa vụ bàn bạc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau chọn nghề nghiệp. Quy định này kế thừa Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 “Vợ chồng có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp chính đáng, tham gia công tác chính trị, văn hoá, xã hội". Lao động là nghĩa vụ và quyền của mọi công dân. Điều này đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992 và được Bộ luật Dân sự ghi nhận tại Điều 45 "Cá nhân có quyền lao động. Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp". Lao động, việc làm chính là hoạt động sống thiết yếu, là phương thức tồn tại của con người. Đây là quyền nhân thân rất quan trọng của mỗi cá nhân. Việc pháp luật quy định vợ chồng có nghĩa vụ giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau lựa chọn nghề nghiệp là sự ghi nhận quyền bình đẳng của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân. Trong gia đình người vợ không chỉ thực hiện chức năng làm mẹ mà còn được tự do lựa chọn nghề nghiệp, việc làm phù hợp với nhu cầu, năng lực và điều kiện của mình. Họ bình đẳng với chồng trong việc quyết định vấn đề lao động và việc làm của bản thân. Đây cũng chính là sự cụ thể hoá nội dung của khoản 1 Điều 11 Công ước Cedaw "Các nước tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ trong lĩnh vực việc làm nhằm đảm bảo những quyền như nhau trên cơ sở bình đẳng nam nữ” và Điểm a, Khoản 1 Điều 11 "Quyền được làm việc- Một quyền không thể chối bỏ của mọi con người”. Theo Báo cáo của Bộ khoa học Công nghệ và Môi trường nhân dịp 20 năm ra đời công ước Cedaw, hiện nay trong tổng số cán bộ có trình độ từ Cao đẳng, Đại học trở lên, số cán bộ nữ chiếm 37%, số chị em có trình độ tiến sĩ là 1635 người chiếm 19,9% tổng số, số nữ cán bộ khoa học là giáo sư và phó giáo sư là 132 người (chiếm 6,7% tổng số nữ). Như vậy, vai trò và vị trí của người phụ nữ trong xã hội ngày càng được khẳng định.
Luật Hôn nhân và gia đình mới không chỉ quy định sự tự do lựa chọn nghề nghiệp của vợ và chồng mà còn quy định nghĩa vụ giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau tìm việc làm thích hợp với mình. Trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, người phụ nữ hoàn toàn có cơ hội bình đẳng về mặt pháp lý đối với nam giới không chỉ trong các quan hệ về gia đình mà còn đòi hỏi người chồng phải tạo điều kiện, giúp đỡ người vợ học tập, nâng cao trình độ, năng lực, chuyên môn để có cơ hội độc lập tham gia vào đời sống xã hội bình đẳng với nam giới. Đây là yêu cầu quan trọng xuất phát từ mục tiêu, chiến lược phát triển con người của Việt Nam trong thời kỳ mới, phù hợp với các Nghị quyết của Đảng về sự tiến bộ của phụ nữ. Để đảm bảo quyền bình đẳng vợ, chồng về mặt pháp luật cũng như thực tế cuộc sống, Nhà nước đã có những chính sách, biện pháp bảo đảm cho phụ nữ được tham gia các công việc xã hội như: tăng cường mạng lưới kinh tế dịch vụ, mở rộng mạng lưới nhà trẻ, mẫu giáo, ban hành chế độ lao động phù hợp, có những chính sách ưu đãi đối với phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ. Vì vậy ngày càng nhiều chị em tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, chính trị, xã hội.
Tuy nhiên, kết quả điều tra xã hội học về hộ gia đình và quyền sử dụng đất tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh của dự án JICA- Cơ quan hợp tác quốc tế của Nhật Bản và Bộ tư pháp Việt Nam từ 1997-1999 cho thấy[15]: Thực tế phụ nữ thất nghiệp vẫn nhiều hơn nam giới. Trong số 1000 hộ gia đình được phỏng vấn thì có tới 19,4% số hộ làm nội trợ (bình quân 0,23 người/hộ, riêng khu vực nội thành tỷ lệ hộ có người làm nội trợ là 27,38%) và 11,3% số hộ có người không làm nghề gì (bình quân 0,14 người/hộ) mà người làm nội trợ ở đây đa phần là nữ. Con số này cho thấy tỷ lệ hộ gia đình không có người tham gia hoạt động kinh tế là nữ khá cao. Do tư tưởng phong kiến, sự ràng buộc của phong tục, tập quán và văn hoá cộng đồng nói chung đã làm cho người phụ nữ gặp khó khăn trong việc dứt bỏ gánh nặng gia đình để đi công tác ở nơi khác cũng như tham gia vào các hoạt động khác, làm thu hẹp khả năng tiếp cận việc làm so với nam giới.
Chính vì thế, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có những quy định cụ thể tạo cho người phụ nữ có nhiều cơ hội hơn trong việc phát triển năng lực cá nhân cũng như thực hiện một cách tốt hơn và hài hoà hơn chức năng của mình vì lợi ích gia đình và xã hội.
|
|
Điều 24. Đại diện cho nhau giữa vợ, chồng.
1. Vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả vợ chồng; việc ủy quyền phải được lập thành văn bản.
2. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó.
|
|
Đại diện cho nhau giữa vợ và chồng là quy định mới trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 mà trước đây Luật Hôn nhân gia đình năm 1986 chưa đề cập. Theo khoản 1 Điều 148 Bộ luật Dân sự: “đại diện là việc một người (gọi là người đại diện) nhân danh một người khác (gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện”. Trong đời sống dân sự, phần lớn các chủ thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch. Tuy nhiên, cũng có trường hợp vì nhiều lý do như bệnh tật, ốm đau, điều kiện công tác mà một người cần người khác thay mình thực hiện công việc, ta gọi quan hệ đó là quan hệ đại diện. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định vấn đề đại diện cho nhau giữa vợ và chồng trên cơ sở phù hợp với Bộ luật Dân sự.
1. Quy định tại Khoản 1 Điều 24 là quan hệ đại diện theo uỷ quyền giữa vợ và chồng (tương ứng với Điều 151 Bộ luật Dân sự): Vợ chồng có thể đại diện cho nhau xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả vợ chồng. Quy định này thể hiện mối quan hệ bình dẳng giữa vợ và chồng trong các giao dịch mà pháp luật quy định phải có sự đồng ý của cả vợ chồng, nếu như trước kia trong gia đình chỉ có người chồng mới có quyền xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch dân sự thì ngày nay người vợ hoàn toàn có quyền đại diện cho chồng thực hiện các giao dịch dân sự đó. Địa vị pháp lý của vợ và chồng là hoàn toàn bình đẳng. Tuy nhiên, đại diện theo uỷ quyền giữa vợ và chồng phải được lập thành văn bản. Những giao dịch dân sự mà pháp luật quy định phải có sự đồng ý của cả vợ và chồng thường là những giao dịch liên quan đến tài sản chung vợ chồng có giá trị lớn như đất đai, nhà ở tác động nhiều đến đời sống chung của gia đình. Do vậy khi vợ chồng uỷ quyền cho nhau thực hiện các giao dịch đó cần thiết hai bên phải lập văn bản uỷ quyền, có chữ ký của người uỷ quyền và người được uỷ quyền nhằm xác nhận sự tự nguyện của hai bên đồng thời ghi nhận trách nhiệm của người đại diện trong phạm vi công việc được uỷ quyền.
2. Vấn đề đại diện theo pháp luật giữa vợ và chồng cũng được đặt ra khoản 2 Điều 24. Khi vợ (hoặc chồng) bị mất năng lực hành vi dân sự thì người kia nếu có điều kiện sẽ đương nhiên trở thành người giám hộ cho người đó, hoặc khi một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà người kia được Toà án chỉ định làm người đại diện thì sẽ làm người đại diện cho vợ (hoặc chồng) mình. Việc quy định vợ, chồng có thể đại diện cho nhau cho thấy một lần nữa luật pháp khẳng định vai trò vị trí như nhau của người chồng và người vợ trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Người chồng không còn là người gia trưởng trong gia đình, đại diện và chỉ huy mọi hoạt động của vợ mà người vợ có quyền đại diện cho chồng làm người giám hộ khi chồng mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm người đại diện theo pháp luật cho chồng khi Toà án chỉ định do chồng bị hạn chế năng lực hành vi. Quy định này hoàn toàn đúng đắn và phù hợp bởi vì trong gia đình, quan hệ vợ chồng được xác lập trên cơ sở tình yêu, sự tự nguyện và bình đẳng giữa hai bên. Do vậy, họ có thể là chỗ dựa tin cậy cho nhau khi người kia không đủ năng lực hành vi dân sự để thực hiện giao dịch. Quy định này một lần nữa ràng buộc trách nhiệm của vợ chồng với nhau trong việc thực hiện giao dịch dân sự vì mục tiêu duy trì đời sống chung của gia đình.
|
|
Điều 25. Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện
Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình.
|
|
Lần đầu tiên, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đặt ra vấn đề: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”. Điều này có nghĩa khi vợ chồng thực hiện giao dịch dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình thì đương nhiên được coi đã có sự thoả thuận của cả hai vợ chồng và vợ chồng cùng liên đới chịu trách nhiệm. Trong cuộc sống và sinh hoạt gia đình, để đáp ứng nhu cầu về mặt vật chất và tinh thần của các thành viên, việc vợ hoặc chồng phải tham gia giao kết nhiều loại hợp đồng dân sự với các chủ thể khác là phổ biến, pháp luật không thể kiểm soát mỗi khi giao kết hợp đồng phải có sự thoả thuận, thậm chí bằng văn bản của hai bên. Vì vậy, mặc dù giao dịch đó chỉ do một bên vợ hoặc chồng thực hiện với người thứ ba nhưng vẫn được thừa nhận là phù hợp với pháp luật, vợ hoặc chồng không thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng này bị vô hiệu với lý do chưa có sự đồng ý của mình. Việc thực hiện hợp đồng phải được đảm bảo bằng tài sản chung của vợ chồng, tức vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đảm bảo nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình. Có như vậy, quyền lợi của người thứ ba tham gia xác lập hợp đồng liên quan đến tài sản chung vợ chồng mới được đảm bảo trước pháp luật.
Đây là một quy định rất quan trọng và cần thiết nhằm ràng buộc trách nhiệm của vợ chồng đối với nhau và đối với cuộc sống gia đình. Điều này khắc phục một tình trạng vẫn xảy ra trên thực tế: đó là sự thờ ơ vô trách nhiệm của vợ chồng đối với công việc gia đình. Đôi khi vợ hoặc chồng tự mình thực hiện những giao dịch dân sự vì nhu cầu sinh hoạt chung thiết yếu của gia đình, nhưng khi trách nhiệm phát sinh người chồng hoặc vợ không chịu chia sẻ trách nhiệm, không có sự hỗ trợ và tạo điều kiện cho nhau trong cuộc sống gia đình. Chính vì thế, quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với truyền thống yêu thương, quý trọng và hỗ trợ nhau trong gia đình. Có thể nói rằng quy định tại Điều 25 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là một bước cụ thể hoá về nghĩa vụ tài sản của vợ chồng.
Tuy nhiên, trên thực tế cũng có một số trường hợp một trong hai bên đã lợi dụng quy định của pháp luật để trốn tránh trách nhiệm hoặc gây thiệt hại làm ảnh hưởng đến quyền lợi về tài sản của vợ hoặc chồng. Vì thế, cần phải có văn bản hướng dẫn làm rõ hơn khái niệm "nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình". Về vấn đề này, Luật dân sự của nước Cộng hoà Pháp có những quy định rất rõ ràng và hợp lý nhằm hạn chế sự lạm dụng của người vợ và người chồng đối với chế độ liên đới trách nhiệm, theo đó “không có trách nhiệm liên đới đối với những món chi tiêu rõ ràng là quá đáng so với đời sống của gia đình, là vô ích hoặc do người ký kết không có thiện ý” (Điều 220).
Như vậy, trên cơ sở Công ước Cedaw quy định về việc xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong tất cả các vấn đề liên quan đến quyền nhân thân giữa vợ và chồng như “Quyền cá nhân như nhau đối với vợ cũng như chồng bao gồm quyền được lựa chọn tên, họ của mình, chọn nghề nghiệp việc làm của bản thân mình”, vấn đề bình đẳng trong quan hệ vợ chồng và bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ đã được Nhà nước Việt Nam ghi nhận, đề cao trong Hiến pháp và cụ thể trong pháp luật và các chính sách phát triển kinh tế xã hội. Đó là Hiến pháp 1992, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự năm 2000, Bộ luật Lao động...và đặc biệt trên cơ sở kế thừa phát huy những quan điểm tiến bộ về vấn đề bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có những quy định mới hơn, chi tiết và cụ thể hơn. Điều này cũng thể hiện sự tiến bộ về trình độ, kỹ thuật lập pháp cũng như tiến bộ trong cách tiếp cận với bình đẳng giới.
Điều 26. Quan hệ hôn nhân khi một bên bị tuyên bố là đã chết mà trở về.
Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết theo quy định tại Điều 93 của Bộ luật Dân sự mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục; trong trường hợp vợ hoặc chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật.
|
|
Theo quy định của pháp luật dân sự thì Toà án có thể ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong các trường hợp như bị tai nạn, thảm hoạ, thiên tai, bị mất tích trong chiến tranh, bị biệt tích mà sau một thời hạn luật định vẫn không có tin tức gì. Theo quy định tại Điều 92 BLDS, quan hệ về hôn nhân và gia đình và các quan hệ nhân thân khác của người bị tuyên bố chết được giải quyết như đối với người chết. Điều này có nghĩa: khi quyết định tuyên bố một người là đã chết của Toà án có hiệu lực pháp luật thì quan hệ về hôn nhân giữa người bị tuyên bố là đã chết với vợ hoặc chồng của người đó sẽ đương nhiên chấm dứt và vợ hoặc chồng của người đó có quyền kết hôn với người khác. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn xảy ra trường hợp: một người bị Toà án tuyên là đã chết nay trở về. Vậy phải giải quyết vấn đề hôn nhân của họ như thế nào? Điều 26 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là quy định hoàn toàn mới nhằm giải quyết vấn đề hôn nhân của người bị Toà án tuyên là đã chết nay trở về. Theo đó, pháp luật đặt ra hai trường hợp:
Thứ nhất, vợ hoặc chồng của người bị tuyên là đã chết chưa kết hôn với người khác.Trong trường hợp này đương nhiên quan hệ hôn nhân của họ được khôi phục khi Toà án ra quyết định huỷ bỏ tuyên bố một người là đã chết theo Điều 93 BLDS. Tuy nhiên trường hợp này được đặt ra với điều kiện cả hai bên đều tự nguyện, đồng ý tiếp tục nối lại quan hệ hôn nhân với nhau. Có thể thấy rằng, pháp luật luôn coi trọng và đề cao tình cảm tự nguyện gắn bó yêu thương giữa vợ và chồng. Có thể họ bị Toà án tuyên là đã chết vì lý do tai nạn, thiên tai, chiến tranh…nhưng khi họ quay trở về và có nguyện vọng nối lại hôn nhân với vợ hoặc chồng của mình thì pháp luật vẫn ghi nhận sự quay trở lại của hai người.
Thứ hai, vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác. Trong trường hợp này pháp luật ghi nhận cuộc hôn nhân sau kể cả khi Toà án ra quyết định huỷ bỏ tuyên bố người đó là đã chết. Đây cũng là điều hoàn toàn đúng đắn bởi quan hệ hôn nhân được xác lập sau khi có tuyên bố một người đã chết của Toà án, cuộc hôn nhân sau không vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Pháp luật luôn ghi nhận và tôn trọng hôn nhân hợp pháp của cá nhân.
Điều 27. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
|
|
1. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 về chế độ tài sản giữa vợ và chồng thuộc phạm trù quyền sở hữu của công dân đã có quy định “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”.
Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đã bước đầu xác lập sự bình đẳng trong việc hợp nhất tài sản chung vợ, chồng. Chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 là chế độ sở hữu chung. Mọi tài sản của vợ chồng không phân biệt nguồn gốc có trước hoặc sau khi cưới đều thuộc sở hữu chung và vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang ngau đối với tài sản chung. Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định“Tài sản chung của vợ, chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ, chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung”, như vậy không phải tất cả các tài sản đều là tài sản chung vợ chồng. Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về tài sản chung của vợ chồng trên cơ sở kế thừa quy định của Luật Hôn nhân gia đình năm 1986 và xác định cụ thể hơn về các loại tài sản thuộc sở hữu chung của vợ, chồng.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, nam nữ kết hôn dựa trên cơ sở tình yêu chân chính, bình đẳng và tự nguyện. Khi trở thành vợ chồng, tính cộng đồng tài sản giữa họ được thiết lập, đó là chế độ tài sản chung của vợ chồng. Có hai căn cứ để xác định tài sản chung của vợ chồng: căn cứ pháp lý và căn cứ vào nguồn gốc tài sản.
-
Căn cứ pháp lý: việc xác định khối tài sản chung của vợ, chồng căn cứ vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân- quan hệ vợ chồng. Theo khoản 1 Điều 27, “Tài sản chung của vợ chồng do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân...”. Theo khoản 7 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”. Thời kỳ hôn nhân bắt đầu từ khi kết hôn tức là ngày Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn- nơi thường trú của vợ hoặc chồng vào Sổ đăng ký kết hôn và cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho hai vợ chồng và chấm dứt khi một bên vợ hoặc chồng chết, trường hợp vợ chồng ly hôn thì thời kỳ đó được xem như chấm dứt từ khi phán quyết ly hôn của Toà án có hiệu lực pháp luật. Như vậy, mọi tài sản trong gia đình có được trong thời kỳ hôn nhân đều được coi là tài sản chung của vợ chồng, vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà không phụ thuộc vào khả năng trực tiếp tạo ra tài sản hay công sức đóng góp của mỗi bên.
-
Căn cứ vào nguồn gốc tài sản:
- Thứ nhất, tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân.
Tài sản chung của vợ chồng có thể do công sức của cả hai vợ chồng tạo ra hoặc chỉ do vợ (chồng) tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, bằng cách trực tiếp (lao động sản xuất, tiền lương…) hoặc gián tiếp thông qua các giao dịch dân sự (buôn bán, đầu tư tìm kiếm lợi nhuận…). Hoa lợi, lợi tức có được từ tài sản chung hoặc riêng của vợ, chồng cũng là tài sản chung, là thu nhập có được trong thời kỳ hôn nhân.
Theo điểm a khoản 2 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, “lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập”, vì thế trong cuộc sống gia đình, đôi khi vì sức khoẻ hoặc vì hoàn cảnh và khả năng lao động mà tài sản chỉ do một người tạo ra thì vẫn coi vợ chồng cùng đóng góp công sức vào việc tạo lập khối tài sản chung. Trong lao động của người chồng đã bao hàm cả lao động của người vợ và ngược lại, bởi vì nếu như không có vợ hoặc chồng chăm lo gia đình, bảo quản tài sản, chăm sóc con cái tạo điều kiện cho người kia lao động tạo thu nhập thì khó có thể tạo ra được khối tài sản chung một cách trọn vẹn. Đó chính là đặc trưng của cuộc sống vợ chồng mang tính chất cộng đồng.
- Thứ hai, tài sản chung của vợ chồng là “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung”.
Về căn cứ xác lập tài sản chung, bên cạnh những căn cứ đã được xác định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật mới đã làm rõ hơn khái niệm “thu nhập về nghề nghiệp” bằng quy định “thu nhập do lao động, hoạt động do sản xuất kinh doanh...” cũng là tài sản chung. Đây là thu nhập thường xuyên, cơ bản, chính đáng và chủ yếu của mỗi người để đảm bảo cuộc sống vật chất ổn định, lâu dài của gia đình. Pháp luật không căn cứ vào mức thu nhập để quy định mà chỉ quy định “thu nhập về nghề nghiệp” của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Dù vợ chồng làm việc ở những ngành nghề khác nhau với mức thu nhập khác nhau song mọi thu nhập từ lao động, từ hoạt động sản xuất kinh doanh của vợ chồng đều là tài sản chung của vợ chồng. Điều này phù hợp hơn với điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay và cũng hoàn toàn phù hợp với quy định về quyền nhân thân của vợ chồng là tự do lựa chọn việc làm. Chính công việc cũng như sức lao động của mỗi người đều góp phần vào khối tài sản chung trong gia đình.
Theo Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn việc áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, "những thu nhập hợp pháp khác" quy định tại khoản 1 Điều 27 có thể là tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số mà vợ chồng có được hoặc tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định tại các Điều 247, 248, 249, 250, 251, 252 của Bộ luật Dân sự (xác lập quyền sở hữu trong điều kiện do pháp luật quy định đối với vật bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm thấy, vật bị đánh rơi, bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên). Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm tài sản vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung. Đối với tài sản vợ hoặc chồng được thừa kế, tặng cho riêng sẽ trở thành tài sản chung của vợ chồng khi có sự thể hiện ý chí của người sở hữu đồng ý nhập vào khối tài sản chung.
Như vậy, căn cứ vào nguồn gốc tài sản và căn cứ pháp lý “thời kỳ hôn nhân” luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Do yêu cầu của lao động, học tập hoặc vì lý do nào đó vợ chồng có thể sống xa nhau thì tính chất cộng đồng của hôn nhân vẫn không thay đổi. Những tài sản có nguồn gốc hợp pháp phát sinh trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng.
- Thứ ba, khoản 1 Điều 27 còn quy định tài sản chung là những tài sản mà “vợ chồng thoả thuận là tài sản chung”. Điều này có thể hiểu: có những tài sản thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng do vợ (chồng) có được trước khi kết hôn, được thừa kế, được tặng cho riêng về nguyên tắc là tài sản riêng, tuy nhiên những tài sản đó sẽ là tài sản chung nếu như trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thoả thuận coi là tài sản chung của vợ chồng. Quy định này hoàn toàn hợp lý và có cơ sở bởi vì trong cuộc sống gia đình, nhiều tài sản riêng của vợ chồng được đưa vào sử dụng chung, phục vụ nhu cầu sinh hoạt chung của tất cả các thành viên trong gia đình. Nếu cả hai bên vợ, chồng đều có thoả thuận và đồng ý nhập vàp khối tài sản chung thì đó là tài sản chung của vợ chồng. Quy định này mang tính mềm dẻo, linh hoạt nhằm bảo đảm quyền tự định đoạt của vợ chồng quyết định về phạm vi tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Quy định này cũng phù hợp xu hướng phát triển của pháp luật nước ta là ưu tiên và khuyến khích việc xây dựng, củng cố chế độ tài sản chung hợp nhất của vợ chồng góp phần củng cố sự bền vững của gia đình.
- Thứ tư, nếu vợ chồng xẩy ra tranh chấp về xác định tài sản chung riêng nhưng mỗi bên đều không có chứng cứ chứng minh đó là tài sản riêng của mình thì coi đã là tài sản chung của vợ chồng (khoản 3 Điều 27). Quy định này mang tính nguyên tắc suy đoán được áp dụng trong trường hợp chia tài sản khi ly hôn hoặc các trường hợp khác khi có tranh chấp về tài sản của vợ chồng.
- Thứ năm, “Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ, chồng. Quyền sử dụng mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi có thoả thuận” (Đoạn 2 khoản 1 Điều 27). Quyền sử dụng đất là tài sản đặc biệt và có giá trị lớn, trên thực tế, người chồng thường nắm giữ toàn bộ tài sản trong gia đình và thường đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, việc quy định đất đai có được sau khi kết hôn cũng là tài sản chung của vợ, chồng có ý nghĩa đảm bảo tốt, sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ về tài sản. Bởi vì, trên thực tế, vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân hoặc sau ly hôn là nhà cửa, quyền sử dụng đất rất phức tạp do các giấy tờ pháp lý liên quan đến quyền sử dụng đất chỉ đứng tên một người và việc xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung hay riêng để đảm bảo lợi ích chính đáng của mỗi người là rất khó khăn. Việc Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định một cách rõ ràng quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung hoặc có được trước khi kết hôn mà vợ, chồng thoả thuận là tài sản chung sẽ là một cơ sở pháp lý cần thiết cho vấn đề giải quyết tranh chấp về đất đai khi chia tài sản chung của vợ chồng. Một quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là “Tài sản chung vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất” (Điều 27). Quy định này hoàn toàn phù hợp với nội dung của Bộ luật Dân sự về quyền sở hữu. Chế độ sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với truyền thống gia đình Việt Nam như câu cha ông thường nói “của chồng, công vợ”. Chính sự hợp nhất về tài sản chung của vợ chồng là yếu tố tạo nên sự hài hoà và bền chặt hơn trong quan hệ gia đình.
2. Khoản 2 Điều 27 quy định: tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên cả vợ chồng. Đây là quy định mới khẳng định sự bình đẳng vợ chồng trong quan hệ về tài sản, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ quyền sở hữu của người vợ. Việc pháp luật quy định quyền được ghi tên của cả vợ và chồng vào giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với tài sản chung vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu một mặt là thể chế hoá Điều 174 Bộ luật Dân sự "Những tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì phải được đăng ký" (phù hợp điểm h, khoản 1 Điều 16 Công ước Cedaw "Quyền như nhau của cả vợ và chồng đối với việc sở hữu, thu nhận, kiểm soát, quản lý, hưởng thụ và sử dụng tài sản, dù đó là tài sản không phải trả tiền hay đó là tài sản có giá trị lớn") và là biện pháp đảm bảo an toàn về mặt pháp lý quyền sở hữu của phụ nữ đối với tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; mặt khác, qua đó có thể tránh được những tranh chấp phát sinh về quyền tài sản giữa vợ chồng, đồng thời tạo cơ sở để Toà án giải quyết một cách đúng đắn việc phân chia tài sản (khi ly hôn cũng như khi hôn nhân tồn tại), bảo vệ tốt hơn quyền lợi của phụ nữ.
Từ trước đến nay, tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi đăng ký quyền sở hữu thông thường chỉ ghi tên một người là tên vợ hoặc tên chồng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời quy định việc đăng ký quyền sở hữu tài sản chung phải ghi tên cả hai người. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn như sau: “Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng, nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng quy định tại khoản 1 Điều 32. Trong trường hợp không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo quy định tại khoản 3 Điều 27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng”. Hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2000/HĐTP là rất rõ ràng và thể hiện được tinh thần chủ đạo của các nhà lập pháp khi xây dựng khoản 2 Điều 27.
Thực tiễn áp dụng khoản 2 Điều 27có một số vướng mắc:
Thứ nhất, theo Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình thì tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi đăng ký phải ghi tên cả vợ và chồng bao gồm: “nhà ở, quyền sử dụng đất và những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu” (khoản 1 Điều 5). Tuy nhiên, "những tài sản khác" là tài sản nào? Quyền tác giả, quyền đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp có phải là tài sản chung vợ chồng không? Bởi vì, tác giả, chủ sở hữu tác phẩm có thể đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền là Cục Bản quyền hoặc Cục sở hữu công nghiệp. Nếu đó là quyền tài sản chung của vợ chồng thì phải ghi tên cả vợ và chồng vào văn bằng bảo hộ. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn cụ thể loại tài sản nào phải ghi cả tên chồng, loại nào chỉ cần ghi tên một chủ sở hữu như lâu nay.
Thứ hai, việc quy định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi đăng ký phải ghi tên của cả vợ và chồng đã làm phát sinh nghĩa vụ mới của công dân. Do trên thực tế, quan hệ vợ chồng có nhiều dạng như: có đăng ký kết hôn, không đăng ký kết hôn và không được công nhận là vợ chồng, không đăng ký kết hôn nhưng vẫn được công nhận là vợ chồng. Với trường hợp không đăng ký kết hôn mà được công nhận thì đương sự lấy giấy tờ gì chứng minh để ghi tên cả hai người vào giấy chứng nhận? Ngược lại, trong trường hợp những người độc thân muốn đăng ký quyền sở hữu đối với những tài sản pháp luật có quy định đăng ký như nhà, xe... thì đương nhiên cũng có nghĩa vụ chứng minh tình trạng độc thân của mình thông qua xác nhận của UBND xã, phường và vấn đề sẽ vô cùng phức tạp khi đương sự là người đã từng cư trú ở nhiều nơi khác nhau
Thứ ba, để điều luật này được thi hành trên thực tế thì trước hết, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải thay đổi lại một loạt các mẫu giấy chứng nhận đăng ký tài sản bởi vì từ trước đến nay, mẫu này chỉ ghi tên của một người là chủ sở hữu.
Từ những vấn đề trên cần có sự xem xét và cân nhắc để điều luật đảm bảo được tính hợp lý và khả thi trong thực tiễn.
Điều 28. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
1. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.
|
|
Việc xác lập quan hệ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa trên cơ sở bình đẳng và nhằm mục đích xây dựng gia đình dân chủ hoà thuận, hạnh phúc. Chế độ cộng đồng tài sản là một chế độ có nhiều ưu điểm phù hợp với tình hình phát triển xã hội, nhu cầu và tâm lý của vợ chồng. Chế độ cộng đồng tài sản không chỉ có trong Luật Hôn nhân và gia đình nước ta mà luật pháp của nhiều nước trên thế giới đều quy định vấn đề này. Chẳng hạn, theo Điều 13 Bộ Luật Hôn nhân và gia đình cộng hoà dân chủ Đức quy định “Những vật thuộc quyền sở hữu và để dành cho một người hoặc cả hai vợ chồng có được trong thời gian hôn nhân, do lao động hay do thu nhập trong lao động đều cùng thuộc quyền sở hữu của hai vợ chồng”. Điều 27 Luật Hôn nhân gia đình và giám hộ của Hungari quy định: “Được coi là sở hữu chung không chia phần tất cả những gì hai người hoặc một trong hai người (vợ, chồng) có được trong thời kỳ hôn nhân trừ những tài sản mà thuộc sở hữu cá nhân của mỗi người".
Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có quy định quyền và nghĩa vụ ngang nhau của vợ, chồng đối với tài sản chung. Để phù hợp với điều kiện mới và phù hợp với các quy định của Bộ luật Dân sự "Vợ, chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người, có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung... Vợ, chồng cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung..."(khoản 2, 3 Điều 233 BLDS). Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã làm rõ hơn “quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung". Vấn đề ngang quyền trong việc sử dụng tài sản chung được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 khẳng định ở mức khái quát lên thành quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự về chế định quyền sở hữu. Trong gia đình, vợ cũng như chồng đều có quyền nắm giữ, quản lý tài sản thuộc sở hữu chung, đều có quyền khai thác công dụng, hưởng lợi ích từ tài sản cũng như quyền định đoạt số phận của tài sản đó như chuyển giao quyền sở hữu hoặc từ bỏ quyền sở hữu.
Theo khoản 1 Điều 28, quyền chiếm hữu là yếu tố đầu tiên của quyền sở hữu, đó là quyền năng của chủ sở hữu tự mình nắm giữ, quản lý tài sản thuộc sở hữu của mình, là quyền kiểm soát, làm chủ và chi phối vật đó theo ý chí của mình. Vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm giữ tài sản chung, điều đó không có nghĩa cả hai bên phải là người trực tiếp nắm giữ, quản lý tài sản mà cho dù chỉ một bên nắm giữ tài sản (do người kia đi công tác xa hoặc do một trong hai bên cất giữ) thì cả hai bên đều có quyền định đoạt, sử dụng đối với khối tài sản chung đó.
Điều 28, quy định tài sản chung của vợ, chồng được chi dùng để đảm bảo nhu cầu chung của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. Nội dung này thể hiện rất rõ quyền năng định đoạt tài sản chung của vợ chồng- một nội dung quan trọng của quyền sở hữu. Có thể nói, nhu cầu chung của gia đình không chỉ là nhu cầu vật chất và tinh thần của vợ chồng và con cái mà còn mở rộng hơn nữa là nhu cầu của ông bà, bố mẹ, anh chị em trong gia đình, bởi gia đình là sự liên kết của nhiều người dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Vấn đề này không chỉ được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam mà còn được pháp luật nhiều nước trên thế giới đề cập. Điều 13 Luật Gia đình Bungari quy định: “Tài sản hữu hình, động sản và bất động sản cũng như quyền về tài sản hữu hình do vợ chồng thủ đắc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu chung của vợ chồng, không cứ là vợ hoặc chồng dùng quyền thủ đắc tài sản đó và đều được dùng để thoả mãn nhu cầu của gia đình...”. Theo Điều 12 Luật Hôn nhân gia đình và giám hộ Hunggari, “Thu nhập của hai vợ chồng là những tài sản chung phải được dùng trước tiên để trang trải những chi phí trong gia đình”. Tuy nhiên, trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam cũng chưa có quy định cụ thể những nhu cầu nào được coi là “thiết yếu của gia đình”, dẫn đến một số vướng mắc khi áp dụng luật. Bởi vì trong cuộc sống gia đình, ngoài những nhu cầu về vật chất như: ăn, ở, mặc, trang thiết bị phục vụ cho sinh hoạt và lao động trong gia đình còn có những nhu cầu về tinh thần như: thể thao, du lịch, thưởng thức văn hoá nghệ thuật... Như vậy cần có tiêu chí như khả năng kinh tế, thói quen, mức sinh hoạt trong gia đình để xác định nhu cầu thiết yếu và chính đáng.
Tài sản chung của vợ chồng còn được chi dùng để thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng, đó là nghĩa vụ phát sinh khi một bên hoặc cả hai vợ chồng thực hiện hành vi vì lợi ích của gia đình hoặc nghĩa vụ phát sinh theo thoả thuận của hai vợ chồng. Trên cơ sở chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nghĩa vụ chung (hay còn gọi là nợ chung) được xác định:
+ Nếu căn cứ vào sự thoả thuận của vợ chồng và nghĩa vụ liên đới trong việc làm phát sinh các nghĩa vụ tài sản thì có những nghĩa vụ chung sau: Nghĩa vụ phát sinh có liên quan đến những công việc do hai vợ chồng cùng tiến hành, bao gồm cả các khoản nợ phát sinh trước khi kết hôn; những khoản nợ phát sinh do một bên thực hiện công việc không vì lợi ích của gia đình nhưng được bên kia đồng ý dùng tài sản chung để thực hiện; những khoản nợ phát sinh do một bên thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình.
+ Nếu căn cứ vào phạm vi, nguồn gốc tài sản chung của vợ chồng quy định tại khoản 1 Điều 27, nghĩa vụ phát sinh khi vợ chồng thực hiện các hành vi tạo lập, quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản chung là các nghĩa vụ chung bao gồm: Nghĩa vụ phát sinh trong quá trình vợ hoặc chồng tạo ra tài sản trong gia đình; nghĩa vụ phát sinh trong khi vợ hoặc chồng lao động để tạo thu nhập hoặc tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân; nghĩa vụ phát sinh khi một bên vợ hoặc chồng tiến hành khai thác hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng của mình trong thời kỳ hôn nhân (trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh từ việc khai thác hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng trong trường hợp quy định tại Điều 30).
Khoản 3 Điều 28 quy định “Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận...”. Theo Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ thì tài sản có giá trị lớn "được xác định căn cứ vào phần giá trị của tài sản đó trong khối tài sản chung của vợ chồng" (khoản 3 Điều 4). Cũng theo khoản 4 Điều 4 của Nghị định thì trường hợp vợ chồng xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung mà không có sự đồng ý của một bên tức giao dịch đó không có sự đồng ý của cả vợ và chồng thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu theo Điều 139 BLDS (giao dịch vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức) và hậu quả pháp lý được giải quyết theo quy định tại Điều 146 BLDS (không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm xác lập). Sự thoả thuận, bàn bạc ở đây vừa thể hiện sự bình đẳng trong quan hệ tài sản, vừa thể hiện sự đồng tâm nhất trí của vợ, chồng, sự tôn trọng lẫn nhau trong quan hệ về nhân thân. Thực tế cho thấy, ở nước ta hiện nay vẫn tồn tại khá phổ biến những tư tưởng mang nặng định kiến trọng nam khinh nữ, đề cao vai trò của người chồng, nhất là ở khu vực miền núi, nông thôn, người chồng quyết định tất cả các vấn đề trong gia đình trong đó có quyền định đoạt tài sản. Do vậy, việc quy định vợ, chồng phải bàn bạc, thoả thuận trước khi xác lập, thực hiện hay chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung vợ chồng có giá trị lớn là điều cần thiết để đảm bảo nguyên tắc bình đẳng của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân. Trong trường hợp người chồng không đạt được thoả thuận với vợ thì hợp đồng dân sự bị coi là vô hiệu, không có giá trị pháp lý. Quy định của điều luật một lần nữa đã khẳng định được vai trò, vị trí của người phụ nữ trong gia đình và xã hội, được tự do lên tiếng và được bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
Tuy nhiên, điều luật không dự liệu những trường hợp một bên vợ hoặc chồng có thể tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất trong một số trường hợp đặc biệt mà không thể có được sự thoả thuận của hai bên. Đây là vấn đề cần phải xem xét. Theo chúng tôi, một bên có thể tiến hành giao dịch nếu ở vào một trong các trường hợp sau:
+ Bên vợ (hoặc chồng) uỷ quyền hợp pháp cho họ và việc uỷ quyền đó phải lập thành văn bản (khoản 1 Điều 24);
+ Một bên mất hoặc hạn chế năng lực hành vi;
+ Một bên đi xa mà không có tin tức và địa chỉ;
+ Một bên có nhu cầu giao dịch chính đáng nhưng bên kia kiên quyết phản đối mà không có lý do chính đáng. Nếu xuất phát từ lợi ích cấp bách của gia đình thì cho phép bên kia tiến hành giao dịch (nếu vì lợi ích cá nhân thì giao dịch đó là vô hiệu).
Điều 29. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận.
|
|
1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 không đặt ra vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, mà tất cả tài sản của vợ chồng đều thuộc sở hữu chung của cả hai người, không phân biệt tài sản chung và tài sản riêng. Bởi vì thời kỳ này, lợi ích cá nhân phải luôn gắn liền với lợi ích tập thể, không tồn tại nhiều hình thức sở hữu và đa dạng về thành phần kinh tế như hiện nay. Tuy nhiên, khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời, trên cơ sở kế thừa và phát huy các quy định của Hiến pháp năm 1980 về quyền sở hữu riêng của công dân đã công nhận quyền có tài sản riêng của vợ chồng cũng như quyền được yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân còn tồn tại khi có lý do chính đáng và được Toà án chấp thuận.
-
Quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là điều cần thiết, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn đời sống kinh tế, xã hội và phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân:
Thứ nhất, trong cuộc sống gia đình nhiều khi không thể tránh khỏi những căng thẳng, bất hoà dẫn đến tình trạng không muốn chung sống cùng nhau nhưng vì nhiều lý do trong đó chủ yếu vì con cái, họ lại không muốn ly hôn. Quy định này là một giải pháp dung hoà nhằm tối thiểu hoá những xung đột, mâu thuẫn của vợ chồng trước hết trong quan hệ tài sản, sau đó, là những quan hệ nhân thân khác đồng thời, giữ được hoà khí cũng như tạo ra sự ổn định nhất định giữa các thành viên khác trong gia đình.
Thứ hai, trên cơ sở kế thừa những quy định tiến bộ của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, cũng như xuất phát từ yêu cầu khách quan là thay đổi để phù hợp Hiến pháp năm 1992 (Điều 57), Bộ luật Dân sự năm 1995 và Luật doanh nghiệp năm 1999 về việc mở rộng quyền tự do kinh doanh của cá nhân, quy định tại điều 29 Luật hôn nhân gia đình 2000 còn nhằm đảm bảo quyền tự chủ của vợ chồng khi tham gia vào các quan hệ kinh tế, xã hội nhất định. Với tư cách là công dân, vợ hoặc chồng đều có quyền thực hiện các quyền năng hợp pháp của mình (quyền tự do kinh doanh, quyền tham gia các giao dịch dân sự). Để tránh những hậu quả không tốt có thể xảy ra ảnh hưởng đến kinh tế chung gia đình, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho vợ, chồng được tự do thực hiện các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình thì pháp luật quy định vợ, chồng có quyền yêu cầu Toà án cho chia tài sản chung của vợ chồng ngay trong thời kỳ hôn nhân còn tồn tại.
Thứ ba, quy định này đảm bảo quyền lợi của người thứ ba khi tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng. Hiện nay, việc duy trì và phát triển đời sống gia đình đã thúc đẩy vợ, chồng tham gia rộng rãi vào các giao dịch dân sự. Hoạt động này mang lại lợi ích cho vợ chồng cũng như phát sinh nghĩa vụ của vợ chồng đối với người thứ ba cùng tham gia giao dịch. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, người thứ ba cần phải biết quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản để xác định phạm vi giao dịch, mức độ tài sản của vợ chồng trong việc thực hiện nghĩa vụ. Quy định này nhằm tạo sự công bằng, hợp lý, đảm bảo sự an toàn về tài sản không những cho người thứ ba mà còn cho cả gia đình.
-
Để hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề, cần so sánh quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân với chế định ly thân được áp dụng ở nước ta dưới chế độ cũ hay trong luật hiện hành của một số nước trên thế giới.
Trong hệ thống Pháp luật dân sự và hôn nhân gia đình của Nhà nước công hoà XHCN Việt Nam từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến khi ban hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đều không quy định vấn đề ly thân của vợ chồng. Có quan điểm cho rằng quy định tại Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là hình thức thừa nhận chế định ly thân dưới chế độ cũ. Mặc dù có một số nét giống nhau nhưng xét về bản chất thì hai quy định này hoàn toàn khác nhau.
Thứ nhất, điều kiện áp dụng chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là khi vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác. Như vậy, lý do chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân hoàn toàn khác lý do ly thân trong pháp luật của chế độ cũ là dựa vào yếu tố lỗi làm căn cứ để Toà án giải quyết việc ly thân.
Thứ hai, về hậu quả pháp lý, theo Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, vợ chồng có quyền yêu cầu chia một phần hoặc toàn bộ trong khối tài sản chung. Phần tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của vợ chồng, phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung (vợ chồng chỉ xin chia tài sản phục vụ cho mục đích kinh doanh của mình còn tài sản sử dụng cho cuộc sống sinh hoạt của gia đình vẫn thuộc sở hữu chung). Điều này cho thấy chế độ sở hữu chung cũng như đời sống chung của vợ chồng không chấm dứt. Trong khi đó Điều 168 Bộ dân luật năm 1972 quy định “chế độ cộng đồng tài sản chấm dứt vì án ly thân hay biệt sản”.
Thứ ba, pháp luật dưới chế độ cũ coi ly thân là bước quá độ trước khi ly hôn. Sau 3 năm có án ly thân, mỗi bên vợ chồng có thể xin hoán cải án ấy thành ly hôn mà không cần phải xét đến lý do ly hôn (Sắc luật 15/64). Ly thân trong chế độ cũ là giải pháp tạm thời giải toả xung đột của vợ chồng, tạo cho vợ chồng có khoảng thời gian sống riêng cân nhắc kỹ lại mối quan hệ của họ trước khi quyết định ly hôn. Còn mục đích quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm làm ổn định quan hệ gia đình khi chưa cần thiết phải ly hôn, bảo đảm quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ chồng, của các thành viên trong gia đình và người khác. Lý do xin chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không phải là lý do xin ly hôn của vợ chồng vì căn cứ để Toà án xét xử cho ly hôn là mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
-
Theo quy định tại Điều 18 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì việc chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân còn tồn tại là trường hợp đặc biệt, chỉ khi có lý do chính đáng thì vợ chồng mới được chia tài sản chung và phải do Toà án xem xét chấp nhận. Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng quy định này đã gặp rất nhiều khó khăn khi xác định thế nào là “có lý do chính đáng” và quy định phải được Toà án chấp nhận là sự can thiệp khá sâu vào tính tự nguyện, thoả thuận. Kế thừa và sửa đổi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định cụ thể các lý do cần thiết để Toà án giải quyết việc chia tài sản chung và việc chia tài sản do vợ chồng tự thoả thuận mà không cần phải được sự cho phép của Toà án. Các lý do đó là “Khi hôn nhân đang tồn tại, trong trường hợp vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng...”. Việc đưa ra các lý do này hoàn toàn phù hợp với điều kinh tế thị trường hiện nay và tạo điều kiện cho người phụ nữ trong gia đình có khả năng tiếp cận với các quyền tự do kinh doanh, tiếp cận các giao dịch dân sự có giá trị lớn, khắc phục tình trạng người chồng nắm quyền quản lý toàn bộ tài sản chung của vợ chồng để kinh doanh, dẫn đến nhiều khi thua lỗ, phá tán tài sản. Trong khi đó người vợ không được phép lên tiếng, không được phép can thiệp vào công việc kinh doanh của chồng chỉ vì muốn giữ cho gia đình mình êm ấm. Việc pháp luật quy định tài sản chung vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất thể hiện tình cảm yêu thương gắn bó, hoà hợp giữa vợ và chồng phù hợp với bản sắc truyền thống văn hoá Việt Nam, song việc pháp luật cũng quy định lý do để phân chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại cũng là điều hoàn toàn hợp lý để đảm bảo và khẳng định một lần nữa sự bình đẳng đối với nhau trong việc tiếp cận cơ hội kinh doanh, trong việc nắm giữ, quản lý tài sản.
Trên thực tế, cũng có những trường hợp vợ, chồng sống với nhau, về già tính tình không hợp và có nhiều mâu thuẫn. Do vậy, cả hai cùng thoả thuận chia tài sản chung và sống ly thân. Dù không phải là chia tài sản chung để đầu tư, kinh doanh nhưng đây cũng là một dạng của việc chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại thuộc trường hợp "có lý do chính đáng" theo quy định của pháp luật. Luật Hôn nhân và gia đình tôn trọng vấn đề này bởi việc chia tài sản chung và ở riêng là do có sự thoả thuận và nhất trí của cả hai vợ chồng nhằm ổn định cuộc sống của mỗi bên. Mặc dù họ chia tài sản và không còn sống chung nhưng hôn nhân của họ vẫn tồn tại trước pháp luật. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý đó là “lý do chính đáng” phải là lý do hết sức đặc biệt. Việc Toà án cho phép chia tài sản chung phải được đánh giá kỹ lưỡng về bản chất và mức độ trầm trọng của các nguyên nhân làm rạn nứt gia đình. Nếu không đánh giá đúng lý do chính đáng sẽ dẫn tới việc lạm dụng các quy định của pháp luật nhằm mục đích không chính đáng làm phản tác dụng và giảm giá trị của quy phạm pháp luật. Ngoài hai trường hợp nêu trên, nên chăng cần quy định các “lý do chính đáng” cụ thể hơn như:
- Vợ, chồng được xác định là đã mất tích;
- Một bên có hành vi phá tán tài sản hay hoang phí tài sản chung của gia đình mà bên kia ngăn cản nhưng không được;
- Một trong hai người bị tịch thu tài sản do phạm tội;
- Mâu thuẫn vợ chồng, tình trạng đời sống chung không thể kéo dài nhưng vì danh dự, con cái mà không ly hôn.
Như vậy, cũng cần phải có văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể, dự liệu rõ ràng hơn các trường hợp được yêu cầu chia tài sản, để việc thực thi và vận dụng nội dung điều luật được thống nhất đảm bảo đảm bảo quyền của công dân phù hợp lợi ích của gia đình và toàn xã hội.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng phải được lập thành văn bản, có đủ chữ ký của cả vợ và chồng, phải có ngày tháng lập văn bản, văn bản có thể công chứng, chứng thực theo yêu cầu của bên vợ hoặc chồng hoặc theo quy định của pháp luật. Theo Điều 6 Nghị định số 70/2001/NĐ- CP, văn bản thoả thuận phải đảm bảo các nội dung sau:
“a. Lý do chia tài sản chung;
b. Phần tài sản chia được mô tả rõ những tài sản hoặc phần giá trị tài sản được chia;
c. Phần tài sản còn lại chưa chia, nếu có;
d. Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản
đ. Các nội dung khác,nếu có”
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, cần thiết để xác định rõ phần tài sản của mối bên sau khi chia, là chứng cứ quan trọng để giải quyết nếu giữa hai bên phát sinh tranh chấp.
Mặc dù Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không đề cập đến vấn đề khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng, song Nghị định số 70/2001/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình đã đề cập vấn đề phục hồi chế độ tài sản chung của vợ chồng vì vấn đề này đã xảy ra trên thực tế. Có những người chia tài sản chung để thực hiện việc đầu tư, kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng. Khi hoạt động này kết thúc hoặc khi hoàn cảnh đã thay đổi, họ có nhu cầu sáp nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung, tức khôi phục chế độ tài sản chung như trước đây. Yêu cầu này hoàn toàn chính đáng. Vì thế, theo tinh thần Điều 9 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP của Chính phủ thì nếu vợ chồng đã chia tài sản chung mà sau đó muốn khôi phục chế độ tài sản chung, thì vợ chồng phải thoả thuận bằng văn bản và văn bản đó phải có các nội dung như: Lý do chia tài sản chung, phần tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên, phần tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, nếu có, thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung và các nội dung khác nếu có.
Một vấn đề cần xem xét, đó là việc chia tài sản chung của vợ chồng khi một người qua đời. Đây là vấn đề quan trọng, bởi vì từ đó mới xác định được khối di sản của người chết và thực hiện việc phân chia di sản. Các Đạo Luật Hôn nhân và gia đình trước đây đều có quy định về vấn đề này. Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định "Khi một bên chết trước, nếu tài sản của vợ chồng cần chia thì chia như quy định của Điều 29" (tức chia như khi ly hôn). Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 cũng quy định "Khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi". Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 lại không có điều khoản nào quy định về vấn đề này. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cũng không đề cập đến việc phân chia tài sản chung khi một bên chết. "Lỗ hổng" pháp lý này đang là một khó khăn trong việc xác định, phân chia di sản nói chung và phân chia quyền sử dụng đất khi người sử dụng đất qua đời.
2. Khoản 2 Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định không công nhận việc chia tài sản chung nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản. Đây cũng là quy định cụ thể hơn Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 bởi vì trên thực tế có nhiều trường hợp việc vợ hoặc chồng yêu cầu chia tài sản chung không vì mục đích kinh doanh riêng hay các mục đích chính đáng khác mà nhằm mục đích lẩn tránh pháp luật, trốn tránh các nghĩa vụ tài sản của mình dẫn đến việc ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của một bên vợ hoặc chồng hoặc đối với người thứ ba (nghĩa vụ trả nợ, bồi thường thiệt hại, nuôi dưỡng, cấp dưỡng cho người khác, nộp thuế..).
Theo Điều 11 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP: “theo yêu cầu của những người có quyền, lợi ích liên quan thì việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ về tài sản sau đây bị Toà án tuyên bố là vô hiệu:
1. Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng người khác theo quy định của pháp luật.
2. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
3. Nghĩa vụ thanh toán khi bị Toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
4. Nghĩa vụ nộp thuế và nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước.
5. Nghĩa vụ trả nợ cho người khác.
6. Các nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của pháp luật".
Điều 30. Hậu quả chia tài sản chung của vợ chồng
Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
|
|
Thực tế giải quyết các vụ án về hôn nhân gia đình trong những năm qua cho thấy còn gặp rất nhiều khó khăn và vướng mắc khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Nghị quyết số 01- NQ/HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao năm 1988 không có quy định và hướng dẫn về vấn đề hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đang tồn tại. Vì thế, Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã khắc phục bất cập trên của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 bằng cách quy định hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Về quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng: quan hệ vợ chồng vẫn tồn tại do vợ chồng chưa ly hôn. Vợ chồng có thể ở chung hay ở riêng nhưng các quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng vẫn được đảm bảo thực hiện. Vợ, chồng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không được kết hôn với người khác và cùng nhau nuôi dạy con cái... Đồng thời, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cũng không làm chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng.
Về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng: Sau khi chia tài sản chung của vợ chồng, quan hệ tài sản đã có những thay đổi cơ bản. Chế độ cộng đồng tài sản dưới hình thức sở hữu chung chấm dứt thay vào đó là hai chủ sở hữu riêng biệt trong khối tài sản chung được tách ra. Tuy nhiên, vấn đề này không hoàn toàn tuyệt đối vì vẫn tồn tại “thời kỳ hôn nhân” và việc chia tài sản cũng không triệt để như khi ly hôn.
- Nếu vợ chồng yêu cầu chia một phần trong khối tài sản chung:
+ Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; Đồng thời thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác;
+ Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng (Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP).
- Nếu vợ chồng yêu cầu chia hết khối tài sản chung, hai bên đã ở riêng và đoạn tuyệt về tình cảm thì coi như không còn căn cứ xác lập khối tài sản chung theo Điều 27, tài sản được chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã chia cùng tài sản vợ chồng tạo lập được sau này là tài sản riêng của vợ chồng. Chỉ nói đến tài sản chung nếu hai bên được "thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung". Cần phải khẳng định rằng việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không ảnh hưởng gì tới quyền thừa kế của vợ chồng. Nếu một bên chết thì người còn lại được hưởng thừa kế thuộc hàng thứ nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Thực tế trong quá trình giải quyết của Toà án, việc vận dụng điều luật để giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân rất đa dạng và phức tạp. Ngoài việc cân nhắc kỹ các căn cứ để áp dụng chia, Toà án phải xem xét kỹ các nguyên nhân chia tài sản, vì vấn đề này liên quan đến lợi ích của nhiều người.
Ví dụ minh hoạ: Bản án số 57/LHST ngày 10/4/2000 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội[16]
Anh Hà và chị Yến xây dựng gia đình với nhau có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Thịnh Quang-quận Đống Đa, có hai con là Minh và Thuỳ. Quá trình sống chung, anh chị có nhiều mâu thuẫn. Anh Hà không có trách nhiệm đóng góp vào chi tiêu trong gia đình và thường xuyên đi công tác ở nước ngoài, tiền gửi về cho bố mẹ anh, chị Yến không hề biết. Năm 1986, ông Cung là bố anh Hà bán căn nhà đang ở cho vợ chồng chị là 1,9 lạng vàng để mua nhà ở riêng. Số vàng này anh Hà đã mua 203m2 đất cho 40m2 nhà cấp 4 của chị Nguyễn Thị Nghệ An, có giấy mua bán ngày 21/1/1986. Ông Cung mua nhà ở 77 Nguyên Công Hoan ở từ đó đến nay. Năm 1997, vợ chồng chị Yến chỉ bán 2/3 diện tích đất được 300.000.000 đồng lấy tiền xây ngôi nhà 2,5 tầng tại 66 ngõ Thịnh Quang với diện tích xây là 140m2, còn thừa 80.000.000 đồng anh Hà đưa cho ông Cung.
Nay chị yến xin chia tài sản với lý do chung vốn với bạn mở phòng khám tư nhân. Anh Hà đi công tác nước ngoài không có trách nhiệm đưa tiền cho vợ con và hai người không thống nhất được việc sử dụng tài sản chung. Anh Hà và ông Cung phản đối yêu cầu chia tài sản chung của chị Yến và cả hai đều khẳng định ngôi nhà số 66 ngõ 302 Thịnh Quang là của ông Cung cho anh Hà và hai cháu chứ không phải của chị Yến. Chị Yến không được chia căn nhà trên. Tài sản chung là động sản gồm: 1 tủ lạnh, 1 vô tuyến, 1 bộ ghế salon đệm, 1 bếp ga đôi, tổng cộng trị giá là 10.660.000 đồng.
Sau khi xem xét, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội chấp nhận đơn xin chia tài sản chung của chị yến và việc chia tài sản chung được giải quyết như sau:
+ Về động sản trị giá 10.660.000 đồng: Toà án công nhận sự thoả thuận của hai vợ chồng giao cho chị Yến sở hữu nhưng chị Yến phải thanh toán 1/2 giá trị tài sản cho anh Hà là 5.330.000 đồng.
+ Về ngôi nhà tại 66 ngõ 302 Thịnh Quang: Toà án nhận định là nhà cấp 4, diện tích 40m2 xây trên đất 203m2. Tiền mua nhà giá 1,9 lạng vàng là của ông Cung cho anh Hà để anh mua nhà đất nói trên.
Việc mua bán giữa anh Hà và chị An được lập thành văn bản ngày 21/1/1986. Như vậy, nhà đất này là của vợ chồng anh Hà chứ không phải của ông Cung khai, thực tế ông Cung cho vợ chồng anh Hà 1,9 lạng vàng để mua nhà. Về nguyên tắc, việc tặng cho từ năm 1990 đến nay ông Cung không có quyền đòi lại. Với nhận xét trên, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của anh Hà nói rằng ngôi nhà số 66 ngõ 302 Thịnh Quang là của bố mẹ anh đồng thời không chấp nhận yêu cầu của ông Cung đòi lại nhà. Từ đó có đủ căn cứ để xác nhận ngôi nhà trên là tài sản chung của vợ chồng anh Hà có giá trị là 195.074.668 đồng. Nhà này mua bán trao tay, chưa sang tên trước bạ, chưa được cấp sổ đỏ để chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp. Do đó không tính giá đất để chia mà chỉ tạm giao đất cho đương sự sử dụng theo hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao.
Về ngôi nhà trị giá 195.074.668 đồng là tài sản chung của vợ chồng nhưng xét thấy công sức của anh Hà nhiều hơn. Về nguyên thuỷ nhà và đất do ông Cung cho 1,9 lạng vàng để mua nhà đất. Do đó chia cho anh Hà 3/5 giá trị thành tiền là 117.004.800 đồng, chia cho chị Yến 2/5 giá trị thành tiền là 78.029.867 đồng. Do đó chị Yến phải đền bù chênh lệch tài sản cho anh Hà là 33.421.610 đồng.
Về đất:
+ Tạm giao cho anh Hà sử dụng 31,5m2 trên khuôn viên đất này có nhà và cầu thang anh Hà được chia;
+ Tạm giao cho chị Yến sử dụng 34,5m2 trên khuôn viên đất này có nhà, sàn và tường rào chị Yến được chia.
Về con cái: vì anh Hà thường xuyên đi công tác nên ghi nhận sự tự nguyện của chị Yến nuôi cả hai con, ghi nhận sự thoả thuận trong vấn đề cấp dưỡng của cả hai vợ chồng.
Trong vụ án này, mặc dù Toà án đã căn cứ vào điều kiện áp dụng, nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng rất khách quan và chính xác. Tuy nhiên, Toà án vẫn thiếu sót khi khi không xem xét một cách toàn diện đến tình trạng thực tế của gia đình cũng như công sức đóng góp của mỗi bên. Vì quá trình đi công tác ở nước ngoài, anh Hà chỉ gửi tiền về cho bố mẹ mà không đóng góp vào chi tiêu của gia đình, việc nuôi con do chị Yến lo liệu. Sau khi chia tài sản chung, mặc dù không yêu cầu cấp dưỡng nhưng Toà án nên ấn định mức cấp dưỡng cụ thể trong bản án. Có như vậy mới đảm bảo được trách nhiệm bình đẳng giữa vợ chồng trong gia đình.
Điều 31. Quyền thừa kế tài sản giữa vợ chồng
1. Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế.
2. Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
3. Trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định; nếu hết thời hạn do Tòa án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Tòa án cho chia di sản thừa kế
|
|
Chế định thừa kế được BLDS điều chỉnh khá hoàn chỉnh và trọn vẹn, bởi vậy
Luật Hôn nhân và gia đình chỉ điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến quyền thừa kế tài sản giữa vợ và chồng. Điều 31 quy định về quyền thừa kế tài sản giữa vợ và chồng nhằm mục đích tạo cơ sở pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của một bên vợ hoặc chồng còn sống. Trước đây, Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định “Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau”, tuy nhiên, quy định này còn chung chung bởi vấn đề quản lý di sản, phân chia di sản như thế nào không được pháp luật quy định và thực tế đã gặp khó khăn trong việc áp dụng. Vì thế, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định cụ thể hơn ở khoản 2, 3 Điều 31: “Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý”.
Tuy nhiên, việc quản lý tài sản chung của bên vợ hoặc chồng còn sống khi bên kia chết chỉ trong phạm vi khai thác, sử dụng tài sản để hưởng hoa lợi, lợi tức phát sinh từ di sản. Việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến việc định đoạt di sản phải được sự đồng ý của những người thừa kế khác. Nếu bên còn sống thực hiện các giao dịch dân sự nhằm tẩu tán, phá tán, làm hư hỏng, mất mát di sản thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu và có quyền yêu cầu chia di sản.
“Trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên có quyền yêu cầu Toà án xác định phần di sản và những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định...”. Theo Điều 12 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 3/10/2001 hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000:
- Việc chia di sản thừa kế ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ (hoặc chồng) còn sống được hiểu như sau: trong trường hợp người chết có để lại di sản nhưng nếu đem di sản này chia cho những người thừa kế được hưởng thì vợ hoặc chồng còn sống và gia đình gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống như không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất để tạo thu nhập hoặc vì các lý do chính đáng khác...
- Người yêu cầu chỉ có quyền yêu cầu xác định phần di sản mà họ được hưởng và họ chỉ có quyền yêu cầu chia di sản sau một thời hạn nhất định, cụ thể là ba năm, nếu trong thời hạn này bên còn sống là vợ hoặc chồng của người đã chết chưa kết hôn với người khác. Nếu người thừa kế của bên vợ hoặc chồng có cuộc sống quá khó khăn, túng thiếu, không có khả năng lao động, không có tài sản để nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng thì Toà án sẽ xem xét, quyết định việc chia di sản thừa kế trên cơ sở cân nhắc quyền lợi của bên vợ hoặc bên chồng còn sống và quyền lợi của những người thừa kế khác.
- Trong trường hợp Toà án chưa cho chia di sản thì bên còn sống chỉ có quyền sử dụng, khai thác để hưởng hoa lợi, lợi tức phát sinh từ di sản và phải giữ gìn, bảo quản di sản như đối với tài sản của chính mình; không được thực hiện các giao dịch có liên quan đến việc định đoạt di sản, nếu không được sự đồng ý của những người thừa kế khác. Trong trường hợp bên còn sống thực hiện các giao dịch nhằm tẩu tán, phá tán hoặc làm hư hỏng, mất mát di sản, thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu và có quyền yêu cầu chia di sản; bên còn sống phải bồi thường thiệt hại cho những người thừa kế khác theo quy định của pháp luật.
- Toà án sẽ thụ lý yêu cầu chia di sản thừa kế đối với trường hợp được nêu trên khi thuộc một trong các trường hợp: hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác.
Có thể thấy, quy định tại Điều 31 thể hiện rõ nét tư tưởng bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự (Điều 635) “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại di sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hay theo pháp luật. Đối với tài sản chung vợ chồng thì vợ chồng có thể lập di chúc định đoạt tài sản chung và chỉ được sửa đổi, bổ sung, thay thế di chúc đó khi có sự đồng ý của người kia”. Ngoài ra các Điều 666, 667 Bộ luật Dân sự còn quy định trong trường hợp vợ (chồng) không có khả năng lao động đều là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, đương nhiên được hưởng di sản bằng 2/3 suất của người thừa kế theo pháp luật.
|
|
Điều 32. Tài sản riêng của vợ, chồng
1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.
|
|
Trước đây, vấn đề tài sản riêng của vợ, chồng được quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, tuy nhiên quy định này còn chung chung: “Đối với tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào tài sản chung của vợ chồng". Kế thừa quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định cụ thể và có bổ sung tại Điều 32 “Vợ chồng có quyền có tài sản riêng”. Việc quy định chế độ tài sản riêng của vợ chồng dựa trên cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn:
-
Về cơ sở pháp lý: Hiến pháp năm 1992 (Điều 58) ghi nhận quyền sở hữu riêng của công dân.
-
Về cơ sở thực tiễn:
Thứ nhất, trong xã hội hiện nay, lao động vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của mỗi công dân. Trước khi kết hôn, vợ, chồng bằng sức lao động và nghề nghiệp của mình có thể tạo ra được khối tài sản lớn hoặc cũng có thể được tặng cho, thừa kế riêng mà những tài sản này không liên quan gì đến công sức của một bên vợ hoặc chồng. Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 coi những tài sản đó đều là tài sản chung của vợ chồng. Điều này dẫn đến tình trạng một số người mưu cầu lợi ích kinh tế để hưởng lợi cho riêng mình chứ không vì mục đích cao đẹp của hôn nhân là xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc.
Thứ hai, việc quy định vợ chồng có tài sản riêng sẽ giúp cho mỗi bên giải quyết tốt vấn đề tế nhị như giúp đỡ bà con, bạn bè, đùm bọc được người thân những lúc khó khăn mà vẫn vẹn toàn tình nghĩa vợ chồng, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc.
Thứ ba, Điều 57 Hiến pháp quy định: mọi người được tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật. Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình cũng quy định: vợ chồng có quyền đầu tư kinh doanh riêng, do đó có quyền yêu cầu Toà án hoặc tự thoả thuận với nhau chia tài sản chung để lấy tài sản riêng đó sử dụng vào mục đích kinh doanh của mình. Khi kinh doanh thua lỗ dẫn đến phá sản doanh nghiệp, trước hết người vợ hoặc chồng phải lấy tài sản riêng của mình để chịu trách nhiệm về tài sản. Chỉ khi nào tài sản riêng không đủ thì mới lấy phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ của mình. Như vậy, quyền lợi của mỗi bên vợ chồng cũng như mọi người trong xã hội được bảo vệ.
Như vậy, quyền có tài sản riêng được pháp luật công nhận và người kia phải có nghĩa vụ tôn trọng.
-
Điều 32 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ chồng rộng hơn, cụ thể hơn so với Luật Hôn nhân gia đình năm 1986. Tài sản riêng của vợ chồng bao gồm:
- Tài sản mỗi người có trước khi kết hôn: trước khi kết hôn, vợ và chồng đều là những chủ thể pháp lý độc lập với các quyền và nghĩa vụ hoàn toàn độc lập không có sự ràng buộc mặt pháp lý trong mối quan hệ hôn nhân gia đình. Tài sản riêng đó có thể là thu nhập do lao động, do hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp của bản thân mỗi người tạo ra. Tài sản riêng này cũng có thể do vợ, chồng được tặng, cho, thừa kế .
- Tài sản được thừa kế, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, phần tài sản này nếu vợ hoặc chồng không tự nguyện nhập vào khối tài sản chung thì đương nhiên vẫn là tài sản riêng của mỗi người.
- Tài sản riêng của vợ chồng là những tài sản được chia riêng cho vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 (chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân còn tồn tại), hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó, thu nhập có được sau khi chia tài sản chung. Vợ hoặc chồng có thể sử dụng tài sản riêng đó để đầu tư, kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng.
- Tài sản riêng của vợ chồng còn là đồ dùng tư trang cá nhân. Hiện nay, chưa có văn bảo nào quy định "đồ dùng tư trang cá nhân” là gì và giá trị của nó như thế nào? Chúng tôi cho rằng, đồ dùng tư trang cá nhân là những đồ dùng phục vụ nhu cầu tối thiểu của mỗi người (quần áo, giầy dép...) và một số tài sản phục vụ nhu cầu công việc của họ (nếu tài sản ấy không quá lớn so với khối tài sản chung của vợ chồng). Đối với những tài sản là đồ vật có tính chất kỷ niệm riêng- chúng ta chỉ xét mặt ý nghĩa của đồ vật đó mà không coi trọng giá trị về vật chất của nó - là tài sản riêng của vợ chồng.
Một nguyên tắc rất quan trọng đã được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 kế thừa từ Luật Hôn nhân gia đình năm 1986 là “vợ chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung”. Quy định này có ý nghĩa:
- Nhằm đảm bảo quyền tự định đoạt của vợ chồng đối với tài sản riêng
- Tạo môi trường pháp lý bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng. Đồng thời đảm bảo sự tự do của vợ chồng khi tham gia các giao dịch dân sự ngoài xã hội cũng như xác định rõ khả năng thanh toán của mỗi người.
- Quy định này cùng với quy định về chia tài sản chung khi hôn nhân tồn tại và thể hiện sự tôn trọng địa vị pháp lý của cá nhân, vừa bảo vệ quyền lợi chính đáng của mỗi người, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ.
Mặc dù pháp luật Việt Nam tôn trọng, thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu riêng về tài sản của vợ chồng nhưng không thừa nhận (và không cho phép) việc vợ, chồng xác lập chế độ biệt sản hay hợp đồng tài sản (hôn khế) trong hôn nhân như phần lớn các nước tư bản. Vì thế, nguyên tắc sở hữu chung hợp nhất luôn là nguyên tắc chủ đạo, chi phối toàn bộ chế độ tài sản trong quan hệ vợ chồng. Theo Nghị định số 70/2001/NĐ-CP, việc nhập tài sản riêng của vợ hoặc chồng là nhà ở, quyền sử dụng đất và những tài sản khác có giá trị lớn vào khối tài sản chung của vợ chồng phải được lập thành văn bản có chữ ký của cả vợ và chồng. Văn bản này có thể được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật. Đây là căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp về tài sản chung, tài sản riêng. Một khi giữa vợ và chồng đã có văn bản thoả thuận (có chữ ký của hai bên) tài sản riêng của một bên nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng thì đương nhiên đó là tài sản chung kể cả khi có tranh chấp xảy ra. Nghị định cũng quy định hành vi nhập tài sản riêng và khối tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ riêng của bên nhập tài sản như nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng cho người khác, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nộp thuế và nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước, trả nợ ... thì sẽ bị vô hiệu, tức trong trường hợp này thoả thuận của vợ chồng sẽ không có giá trị pháp lý (Điều 13 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP)
|
|
|
-
Khoản 1 Điều 33 dựa trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự về quyền của chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình.Vợ chồng có toàn quyền trong việc nắm giữ quản lý tài sản riêng, khai thác công dụng, hưởng lợi ích từ tài sản riêng cũng như định đoạt số phận tài sản riêng của mình như chuyển giao quyền sở hữu hoặc từ bỏ quyền sở hữu. Họ có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của mình.
-
So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Khoản 2 và 3 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã làm rõ hơn quyền của vợ chồng đối với tài sản riêng, quyền đó không chỉ là quyền nhập hay không nhập tài sản riêng vào tài sản chung mà còn là quyền quản lý, quyền sử dụng tài sản để thanh toán cho nghĩa vụ riêng của mình. Chính vì tài sản thuộc sở hữu của riêng nên việc quản lý tài sản là quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Tuy nhiên, pháp luật cũng đặt ra vấn đề vợ hoặc chồng có quyền quản lý tài sản của người kia khi một trong hai bên không thể tự mình quản lý nổi tài sản vì ốm đau, bệnh tật, đi xa và cũng không uỷ quyền cho người khác quản lý. Quy định này một mặt nhằm mục đích bảo toàn giá trị của tài sản, mặt khác nó còn đề cao trách nhiệm của vợ chồng đối với nhau trong việc quản lý tài sản dù tài sản đó không thuộc quyền sở hữu của mình.
-
Thông thường, tài sản chung được sử dụng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt trong gia đình và đảm bảo các nghĩa vụ chung (Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Tuy nhiên, trong nhiều gia đình, người phụ nữ không có tài sản riêng, cuộc sống gia đình gặp rất nhiều khó khăn vì tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình. Vì thế, để ngăn chặn sự gia trưởng từ người chồng, tránh cho phụ nữ và trẻ em lâm vào hoàn cảnh phụ thuộc vào chồng, vào cha và để đảm bảo cho cuộc sống gia đình bền vững, khoản 4 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: nếu tài sản chung của vợ chồng không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì tài sản riêng của vợ hoặc chồng cũng được đưa vào để sử dụng.
-
Theo phong tục tập quán của người Việt Nam, thông thường không có sự phân biệt tài sản chung và tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Thực tế, mỗi bên vợ chồng đều mặc nhiên chiếm hữu, sử dụng tài sản riêng của bên kia mà không cần phải có sự cho phép của vợ hoặc chồng. Vì vậy, đối với tài sản riêng của vợ chồng, thông thường, vợ, chồng có thể chiếm hữu, sử dụng tài sản của nhau nhưng quyền định đoạt phải do chủ sở hữu quyết định. Quy định tại Khoản 5 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có điểm đặc thù và có tính chất ngoại lệ là: "Trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thỏa thuận của cả vợ chồng". Đây là quy định hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Nếu pháp luật quy định giao dịch đó phải tuân theo hình thức nhất định, thì việc thoả thuận phải lập thành văn bản có chữ ký của vợ chồng hoặc phải công chứng, chứng thực. Nếu giao dịch pháp luật không bắt buộc phải tuân theo hình thức nhất định, thì việc xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch đó nhất thiết vẫn phải có sự thoả thuận bằng văn bản của vợ chồng (Điều 4 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP).
Như vậy, vợ hoặc chồng không có quyền đơn phương định đoạt tài sản riêng của mình nếu điều đó dẫn đến hậu quả ảnh hưởng nguồn sống duy nhất của gia đình. Đây không phải là sự vi phạm quyền sở hữu của cá nhân mà là cơ sở để đảm bảo duy trì đời sống gia đình ổn định, bền vững, là cơ sở để ràng buộc trách nhiệm của vợ chồng với gia đình. Đây cũng chính là một ngoại lệ của quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Tuy nhiên trong thực tế cuộc sống gia đình, để có hạnh phúc trọn vẹn vợ chồng không nhất thiết phải phân chia rạch ròi tài sản chung và tài sản riêng, việc chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại chỉ nên đặt ra trong trường hợp thực sự cần thiết, bên cạnh đó vợ chồng cần có cách cư xử hợp lý nhất sao cho phù hợp pháp luật và đạo đức xã hội. Có như vậy mới tạo được sự hài hoà trong quan hệ gia đình, đảm bảo xây dựng một gia đình hạnh phúc.
Trên cơ sở nội dung của Công ước Cedaw “áp dụng mọi biện pháp thích hợp để xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong tất cả các vấn đề liên quan đến hôn nhân và quan hệ gia đình và đặc biệt phải đảm bảo trên nguyên tắc bình đẳng nam nữ”, trên cơ sở kế thừa Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1959, 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã thể chế hoá quyền bình đẳng của phụ nữ trong các quy định về quyền nhân thân và tài sản. Có thể nói, tinh thần và nội dung của Công ước Cedaw (Điều 3, khoản 4 Điều 15, khoản 1 Điều 11 và Điều 16) đã được chuyển hoá thành những nội dung quan trọng và mới mẻ của Chương III Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Thể hiện ở những nội dung sau:
- Khẳng định và đề cao tình cảm cao đẹp trọng quan hệ vợ chồng ở mức cao nhất, đó là tình nghĩa vợ chồng;
- Khẳng định sự bình đẳng, bình quyền trong các quan hệ về nhân thân: như quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm, tự do, tín ngưỡng;
- Trong quan hệ về tài sản: đó là sự bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng, nghĩa vụ bàn bạc, thoả thuận khi sử dụng tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để thực hiện các hành vi kinh doanh riêng cũng như việc quy định vợ chồng có quyền có tài sản riêng và toàn quyền trong việc định đoạt tài sản riêng của mình.
Đây là những điểm mới của Chương II trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thể hiện sâu sắc quan niệm, tư tưởng tiến bộ của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội về vai trò, vị trí của người phụ nữ trong xã hội, khẳng định một cách nhất quán trong việc tiếp cận về bình đẳng giới. Xét cả về lý luận, cả về hệ thống pháp luật thực định và việc thực thi pháp luật trong cuộc sống, có thể thấy Đảng, Nhà nước đã từng bước nội luật hoá Công ước Cedaw ở Việt Nam, tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho sự bình đẳng và phát triển thật sự của phụ nữ, để người phụ nữ có địa vị pháp lý bình đẳng trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ công dân.
Chương IV
|
quan hệ giữa cha mẹ và con
|
Hình thức của hôn nhân được biểu hiện ra bằng một quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân, đó là quan hệ vợ chồng mà bản chất và ý nghĩa của nó là nhằm giúp đỡ nhau trong cuộc sống, kết hợp với nhau sản sinh ra thế hệ trẻ, cùng nhau nuôi dạy con cái thành những công dân có ích cho xã hội. Chức năng cơ bản của hôn nhân suy cho cùng là để tái sản xuất ra con người mà con người lại là động lực tái sản xuất ra của cải, vật chất của xã hội. Như Bác Hồ đã nhận định: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Trong gia đình, mối quan hệ máu mủ, nuôi dưỡng, tình thương và trách nhiệm gắn kết các thành viên với nhau, trong đó mối quan hệ giữa cha mẹ và con là lâu bền và thiêng liêng nhất. Quan hệ giữa cha mẹ và con cần được hiểu theo hai khía cạnh về đạo lý làm người và về pháp luật. Trong một xã hội văn minh, xã hội mà mọi người phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật thì điều chỉnh mối quan hệ cha mẹ - con cái theo đạo lý là chưa đủ. Việc pháp luật điều chỉnh quan hệ cha mẹ- con cái là rất cần thiết. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với loại quan hệ này đòi hỏi phải thỏa mãn không những các yêu cầu về mặt pháp lý mà còn phải đặc biệt tôn trọng các đạo lý, truyền thống tốt đẹp của đời sống xã hội.
Trước Cách mạng Tháng 8-1945
Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến dưới sự đô hộ của thực dân Pháp. Thời kỳ này, ở Việt Nam tồn tại ba Bộ luật ở ba miền: Bắc kỳ có Bộ dân luật năm 1931, Trung kỳ có Bộ dân luật năm 1936 và Nam kỳ có Bộ dân luật năm 1883. Quy định của những bộ luật dù có khác nhau, song đã cùng xác lập một chế độ hôn nhân và gia đình nửa phong kiến, nửa thuộc địa ở Việt Nam. Liên quan đến quan hệ cha mẹ và con, pháp luật thời kỳ này duy trì quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ trong gia đình, nam giới luôn được coi trọng với quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một con trai cũng là có, mười con gái cũng coi như không). Chế độ hôn nhân và gia đình thời kỳ này rất coi trọng việc bảo vệ và củng cố quyền của người con trưởng, tạo nên sự phân biệt đối xử không bình đẳng giữa các con trong gia đình, coi rẻ quyền lợi của con gái, con ngoài giá thú thì không được truy nhận cha mẹ trước Toà án.
Giai đoạn từ năm 1945 đến 1959
Để xoá bỏ những tàn tích của chế độ phong kiến trong các quan hệ hôn nhân - gia đình, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 97/SL ngày 22-5-1950 gồm 15 điều trong đó có 8 điều quy định về hôn nhân và gia đình với những nội dung:
- Con đã thành niên từ nay có quyền tự chỉ huy mình và quản trị tài sản riêng. Con đã thành niên lấy vợ, lấy chồng, không cần phải có sự thoả thuận đồng ý của cha mẹ hoặc của một thân trưởng nào khác (Điều 2).
- Xoá bỏ quyền "trừng giới" của cha mẹ đối với con "cha mẹ không có quyền xin giam cầm con cái khi chúng phạm tội" (Điều 8).
- Cho phép người con hoang thừa nhận được quyền thưa trước toà án để truy nhận cha, mẹ của mình (Điều 9).
- Bảo vệ quyền thừa kế của cha mẹ và con cái trong gia đình trong lúc còn sinh thời, người chồng goá hay người vợ goá, các con đã thành niên có quyền xin chia tài sản thuộc sở hữu của người chết sau khi đã thanh toán tài sản chung (Điều 11).
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959
Quan hệ cha mẹ và con cái được quy định tại chương IV gồm có 4 Điều (từ Điều 17 đến Điều 20). Theo đó, quan hệ bình đẳng giữa vợ chồng, người thân trong gia đình và giữa cha mẹ với con cái được hình thành trên cơ sở xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa, xây dựng gia đình hoà thuận, hạnh phúc và bền vững. Như vậy, ngay từ Luật Hôn nhân và gia đình đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã chú trọng đến mối quan hệ giữa cha mẹ và con.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986
Quan hệ giữa cha mẹ và con được quy định tại Chương IV bao gồm 8 điều từ Điều 19 đến Điều 26. Trong chương IV, nghĩa vụ và quyền nhân thân và tài sản của cha mẹ và con đã được quy định đầy đủ hơn. Đặc biệt, tại Điều 26 quy định biện pháp tước quyền của cha mẹ đối với con - có thể coi đây là biện pháp xử lý có ý nghĩa như chế tài của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 áp dụng đối với hành vi của cha, mẹ phạm tội như hành hạ, ngược đãi nghiêm trọng con chưa thành niên, nhằm bảo vệ quyền lợi của con trong gia đình. Điều 27 cũng đã quy định nghĩa vụ phải chăm sóc, nuôi dưỡng nhau giữa những người thân trong gia đình ngoài quan hệ cha mẹ và con (như ông bà và cháu, anh chị em ruột thịt). Trước đây theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 coi đây là nghĩa vụ đương nhiên dựa trên truyền thống đạo đức trong gia đình Việt Nam. Nhưng lại không quy định trong luật, dẫn tới việc giải thích, áp dụng gặp nhiều trở ngại, thiếu cơ sở pháp lý.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 - đạo luật thứ ba điều chỉnh các quan hệ hôn nhân gia đình, trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy định tiến bộ của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, xây dựng và củng cố gia đình theo truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tránh ảnh hưởng tiêu cực theo lối sống thực dụng của kinh tế thị trường đối với quan hệ hôn nhân và gia đình. Quan hệ cha mẹ và con được quy định tại Chương IV.
So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, tại chương quy định về quan hệ cha mẹ và con của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã bổ sung mới 6 điều: quy định về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng (Điều 36), về nghĩa vụ và quyền giáo dục con (Điều 37), về người có quyền yêu cầu toà án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con cái chưa thành niên (Điều 38) và việc định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên (Điều 46). Đồng thời, những quy định của chương này đã cụ thể hoá các nghĩa vụ và quyền hạn của cha mẹ và con đối với nhau.
Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, quy định về nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con vẫn được xây dựng dựa trên nguyên tắc cha và mẹ bình đẳng với nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ và quyền đối với con. Tuy nhiên tại các Điều 34, 35, 36, và 37 đã thay cụm từ nghĩa vụ bằng cụm từ nghĩa vụ và quyền tại tên và trong nội dung các điều, vì đây không chỉ là nghĩa vụ đơn thuần mà vừa là nghĩa vụ vừa là quyền giữa các bên. So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con rõ ràng và cụ thể hơn. Ngoài ra, xuất phát từ nguyên tắc Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã bổ sung quy định mới về nghĩa vụ và quyền của bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc chồng (Điều 38).
Trong 13 điều của Chương IV về quan hệ cha mẹ- con, có thể chia thành 2 loại chính là các điều quy định chung về quan hệ cha mẹ- con (Điều 34, 35, 36, 37) và các điều quy định về quan hệ cha mẹ - con trong các trường hợp cụ thể (từ Điều 38 đến Điều 46). Cụ thể, chương IV điều chỉnh các quan hệ sau đây:
- Nghĩa vụ và quyền cơ bản của cha mẹ đối với con (Điều 34, 36, 37, 38, 39, 40).
- Nghĩa vụ và quyền của con (Điều 35, 36, 38).
- Việc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên và hậu quả pháp lý (Điều 41, 42, 43).
- Quy định về tài sản riêng của con và việc cha mẹ quản lý, định đoạt tài sản riêng của con (Điều 44, 45, 46).
Điều 34. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ
1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.
2. Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
|
|
1. Gia đình là sự liên kết của nhiều người, nhiều thế hệ dựa trên cơ sở mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng, trong đó mọi người cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau về tinh thần và vật chất, có các nghĩa vụ và quyền đối với nhau theo quy định của pháp Luật Hôn nhân và gia đình. Quan hệ cha, mẹ và con là một trong hai mối quan hệ cơ bản để hình thành lên một gia đình hạt nhân.
Khác với các quan hệ pháp lý thông thường khác, quan hệ gia đình chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật và cả các yếu tố truyền thống, đạo đức, lễ nghĩa. Cha mẹ, với tư cách là người sinh ra con cái có thiên chức và trách nhiệm nuôi dạy con trưởng thành đồng thời cũng có những quyền nhất định. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con cái không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân giữa cha mẹ, mà được phát sinh và duy trì trên cơ sở mối quan hệ tự nhiên, bất biến.
Như vậy, thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của cha mẹ đối với con. Là quyền bởi không ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào có thể ngăn trở hoặc tước đi quyền được yêu thương, chăm sóc đối với con cái từ phía người cha, người mẹ ngoại trừ những trường hợp đặc biệt, vì lợi ích của con mà quyền này bị hạn chế theo một quyết định hoặc bản án của Toà án. Là nghĩa vụ bởi lẽ không một người cha, người mẹ nào có quyền ruồng rẫy, ngược đãi hoặc từ chối trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc con cái do mình sinh ra. Vì lợi ích, vì sự phát triển bình thường và lành mạnh của con, đạo đức xã hội cũng như pháp luật đặt ra những trách nhiệm, nghĩa vụ tối thiếu của cha, mẹ đối với con mình:
- Quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc: Sinh ra con, cha mẹ có trách nhiệm bảo đảm những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày, cho sự phát triển của con trong phạm vi khả năng cho phép của mình như: ăn, mặc, ở, chữa bệnh... Trong những trường hợp thông thường, nghĩa vụ nuôi dưỡng của cha mẹ được pháp luật Quy định là từ khi con sinh ra cho đến khi trưởng thành (18 tuổi).
- Quyền và nghĩa vụ giáo dục: cha mẹ bằng khả năng lớn nhất có thể phải tạo điều kiện cho con cái học hành, chịu các chi phí phát sinh từ đó. Đây là trách nhiệm cần thiết của cha mẹ để con cái có thể hình thành nhân cách, phát triển trí tuệ tạo nền tảng về thể trí cho tương lai của con cái.
- Quyền và nghĩa vụ bảo vệ, giám hộ con cái: Trong trường hợp có bất cứ rủi ro nào xảy ra với con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng không có hoặc hạn chế năng lực pháp luật thì cha mẹ, với tư cách người đại diện đương nhiên có quyền và nghĩa vụ đứng ra bảo vệ, che chở vì quyền lợi của con.
Có thể nói những quyền và nghĩa vụ cơ bản trên là pháp điển hoá những quan hệ đạo đức truyền thống đã tồn tại như một bản năng vốn có giữa những người cùng huyết thống. Tuy nhiên, việc giới hạn các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con trong luật cũng tạo ra một khung pháp lý nhất định tránh trường hợp cha mẹ chuyên quyền như dưới chế độ gia đình phong kiến. Trong xã hội dân chủ, phát triển, văn minh thì nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái ngày càng được nâng cao, ngoài việc đảm bảo cho con những nhu cầu tối thiểu về sinh hoạt, học tập, vui chơi cha mẹ còn có nghĩa vụ tôn trọng ý kiến của con cái, tạo điều kiện về vật chất và tinh thần đầy đủ để cuộc sống của con cái ngày càng trở nên hoàn thiện hơn. Điều 64 Hiến pháp năm 1992 đã quy định “Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt..” Bộ luật Dân sự cũng quy định tại Điều 37 Quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình: “Các thành viên trong gia đình có quyền được hưởng sự chăm sóc, giúp đỡ nhau phù hợp với truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Con, cháu chưa thành niên được hưởng sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ, ông bà; con, cháu có bổn phận kính trọng, chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ, ông bà....”
Đây là quan niệm thể hiện cách nhìn nhận gia đình không chỉ dưới khía cạnh quan hệ vật chất (quan hệ nuôi dưỡng), mà cả khía cạnh của các quan hệ tình cảm, văn hóa giữa các thành viên trong gia đình. Những quan hệ này là những yếu tố mang tính đạo lý, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo nên tính đặc thù về bản sắc văn hóa, gia đình Việt Nam và là nét đẹp truyền thống của gia đình Việt Nam.
2. Trước đây, vấn đề “không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con” là một trong những nội dung của nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con cái được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Tuy nhiên, thực tế thực hiện quan hệ giữa cha mẹ và con vẫn còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng hôn nhân và gia đình phong kiến, cha mẹ còn có tư tưởng “hơn, kém” giữa các con thậm chí là trọng nam khinh nữ. Hiện tượng này đã gây ra tình trạng bất bình đẳng giữa các con, tâm lý mặc cảm, coi thường giữa các anh, chị, em làm cho tình đoàn kết giữa các thành viên trong một số gia đình bị tổn hại nghiêm trọng. Để bảo vệ quyền lợi của các con một cách bình đẳng phù hợp với đạo đức xã hội chủ nghĩa, củng cố các mối quan hệ gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đưa vấn đề: “không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con” thành một nguyên tắc độc lập trong hệ thống những nguyên tắc cơ bản của pháp Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã bổ sung một nguyên tắc cơ bản "Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú". Nguyên tắc này cụ thể hoá quy định tại Điều 64 của Hiến pháp năm 1992. Quy định này thể hiện rõ ràng hơn thái độ kiên quyết của Nhà nước trong việc loại bỏ những hành vi đối xử bất bình đẳng đối với các con.
Khoản 2 Điều 34 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là sự quán triệt nguyên tắc “không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con”. Các con không phân biệt về thứ tự, giới tính, cùng huyết thống hoặc không cùng huyết thống đều được cha mẹ thương yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục như nhau. Khi được hưởng lợi về tài sản, các con cũng phải được như nhau; ví dụ: con cả, con thứ, con trai, con gái, con nuôi, con đẻ, con trong giá thú và con ngoài giá thú đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất hưởng di sản thừa kế của người cha hoặc người mẹ chết. Mọi hành vi của cha mẹ như không thực hiện nghĩa vụ đối với các con, xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp của các con đều bị xã hội lên án, bị xử lý theo quy định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của các con mà không có bất kỳ sự phân biệt nào, chẳng hạn con ngoài giá thú vẫn có quyền được đăng ký khai sinh, được xác định cha, mẹ; con nuôi hay con đẻ đều được cấp dưỡng khi cha mẹ ly hôn...
Cha mẹ không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Cụ thể:
- Cha mẹ không được có những hành vi đối xử tồi tệ về ăn, mặc, ở và các sinh hoạt hàng ngày khác và không được nhục mạ mắng chửi con cái, để cho con cái ăn mặc rách rưới, cho ở nơi khổ cực trong khi có điều kiện tốt hơn. Nếu những hành vi này diễn ra một cách thường xuyên và có hệ thống sẽ làm cho con luôn bị dày vò về tình cảm, đau khổ về tinh thần, không thể phát triển bình thường về thể chất...và phần nào tổn hại tới sức khoẻ, hoặc tuy không diễn ra thường xuyên nhưng được thực hiện một cách đặc biệt tàn nhẫn, gây cho con cái nỗi khiếp sợ và gây ra sự bất bình lớn đối với quần chúng xung quanh thì sẽ bị xử lý theo pháp luật hình sự (Tội Ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình được quy định tại Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 1999).
- Hiện nay, dưới sự tác động của nhiều yếu tố tiêu cực trong xã hội, không ít những bậc cha mẹ với lối sống thực dụng, vụ lợi, vô trách nhiệm đã quên đi lợi ích tương lai của con mình mà có hành vi lạm dụng sức lao động của con cái như bắt con nhỏ đi ăn xin hoặc bỏ học đi làm thuê kiếm tiền hay xúi giục, ép buộc con cái làm những việc phi pháp, trái đạo đức xã hội nhằm phục vụ cho mục đích của mình như ép buộc con gái bán dâm, trộm cắp, buôn bán, vận chuyển ma tuý. Cha mẹ không đảm bảo là tấm gương, giúp đỡ con cái nhìn nhận cuộc sống một cách đúng đắn, lành mạnh và phù hợp với lứa tuổi.
Để bảo vệ sự phát triển lành mạnh của trẻ em, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nghiêm cấm cha mẹ lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
|
|
Điều 35. Nghĩa vụ và quyền của con
Con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.
Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.
Nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ.
|
|
Quan hệ gia đình với tính chất đặc thù của mình luôn thiết lập một tôn ti, trật tự tự nhiên của nó. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ, giáo dục con cái, ngược lại, con cái với tư cách là người được hưởng sự yêu thương, nuôi dưỡng và hy sinh của cha mẹ phải có bổn phận kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ. Việc cha mẹ và con cái thực hiện quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định đã trở thành một chuẩn mực đạo đức được cả xã hội thừa nhận. Những hành vi bất kính của con đối với cha mẹ, làm tổn thương đến lòng yêu thương và sự hy sinh của cha mẹ tuỳ thuộc vào mức độ mà đều bị lên án hoặc bởi dư luận đạo đức xã hội hoặc bị xử lý theo quy định pháp luật nếu mức độ nghiêm trọng.
Ngoài ra, con cái, với tư cách là thế hệ nối tiếp và kế thừa lịch sử phải có nghĩa vụ tôn trọng, phát huy danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình. Quy định này thể hiện tư tưởng của Đảng và Nhà nước trong việc đề cao giá trị những bản sắc quý báu, truyền thống đạo đức tốt đẹp trong gia đình Việt Nam, tránh lối sống thực dụng, cá nhân, phủ nhận lịch sử như cách nhìn nhận của một bộ phận thanh niên nam nữ trong cuộc sống hiện đại ngày nay.
Luật còn quy định, con cái có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Một sự thật mà ai cũng phải thấu hiểu là những gì mỗi người tạo dựng được trong cuộc sống hôm nay đều do sự hy sinh của cha mẹ mà thành. Vì vậy, khi cha mẹ già yếu hoặc không có điều kiện lao động, tự lo cho cuộc sống của mình nữa, thì con cái đến lượt mình phải có bổn phận và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Đây là một nét đặc thù, một đạo lý tốt đẹp của truyền thống gia đình á Đông khác hẳn với chế độ gia đình phần lớn các nước phương Tây, chăm sóc người già chủ yếu do Nhà nước hoặc các tổ chức từ thiện thực hiện do quan niệm người làm cha, làm mẹ đương nhiên có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc cho con cái, nhưng khi về già, con cái không buộc phải có nghĩa vụ chăm sóc nuôi dưỡng cho cha mẹ mà xã hội là người có trách nhiệm này.
Tuy nhiên, thực tế xã hội, không ít những trường hợp khi cha mẹ cần sống nương tựa vào con cái đã bị con cái hành hạ, ngược đãi.
- Hành hạ cha mẹ là hành vi đối xử tàn ác làm cho cha mẹ đau đớn về thể xác hoặc tinh thần;
- Ngược đãi được hiểu là việc đối xử tồi tệ về ăn, mặc, ở và các mặt sinh hoạt hàng ngày đối với cha mẹ như xỉ vả, mắng chửi, bỏ đói, để mặc rét...
Sự tha hoá về mặt đạo đức đã khiến một số người không ý thức được đạo lý xã hội và bổn phận của mình có rất nhiều hành vi cư xử không đúng và không tốt có thể gây tổn thương về sức khoẻ và danh dự của cha mẹ. Vì vậy, để đề cao đạo lý làm con, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cha mẹ, nhắc nhở và giáo dục những người không làm tròn đạo hiếu, pháp luật quy định: “nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ”.
Pháp luật đã đề ra những chế tài nghiêm khắc đối với những người có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ mình “tuỳ theo tính chất, mức độ, vi phạm mà xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường” nhằm bảo vệ trật tự và đạo lý xã hội.
|
|
Điều 36. Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng
1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
2. Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu tàn tật; trong trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.
|
|
1. Thông thường, pháp luật chỉ quy định nghĩa vụ nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con cái là từ khi sinh ra cho đến lúc thành niên. Đến tuổi thành niên, con người có đủ năng lực để bằng ý chí và hành vi của mình tự tạo dựng một cuộc sống độc lập. Tuy nhiên, nhiều trường hợp con sinh ra bị bệnh tật bẩm sinh, hoặc do tai nạn... khi đã thành niên vẫn không có khả năng lao động, không thể tự chăm lo và nuôi sống bản thân mình thì cha mẹ có trách nhiệm tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ cho con mình, điều này là phù hợp với thực tế và đạo lý xã hội. Theo quy định của Điều 24 BLDS, khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền. Khi đó, mặc dù con đã thành niên nhưng do bị tàn tật (bị khiếm khuyết về thể chất), mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì cha mẹ phải là những người cùng chăm sóc, nuôi dưỡng. Trong trường hợp này, nếu con chưa có vợ, chồng, con hoặc có nhưng những người này đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha mẹ có đủ điều kiện phải là người giám hộ. Khi đó, theo quy định tại Điều 77 BLDS thì cha mẹ có nghĩa vụ:
- Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho con cái;
- Đại diện cho con cái trong các giao dịch dân sự;
- Quản lý tài sản của con cái;
- Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con cái.
Đối với con cái bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, cha mẹ có nghĩa vụ chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho con cái. Trong thời gian này, mọi giao dịch dân sự có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của con cái đều do cha mẹ thực hiện với tư cách là người đại diện theo pháp luật.
Khi con cái được chữa trị khỏi bệnh, theo yêu cầu của chính người đó hoặc của những người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này việc đại diện của cha mẹ chấm dứt, người đã được giám hộ có quyền tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự.
2. Trong quan hệ gia đình, thông thường nghĩa vụ của chủ thể này đồng thời là quyền của chủ thể kia, ví dụ con cái được hưởng quyền chính là kết quả của việc cha mẹ thực hiện nghĩa vụ và ngược lại. Bảo vệ quyền lợi của cha, mẹ, các con trong gia đình thực chất là việc nhằm đảm bảo thực hiện những quan hệ gia đình được Nhà nước bảo hộ, phải được xác định là một nguyên tắc cơ bản của pháp Luật Hôn nhân và gia đình. Vì vậy, bên cạnh việc quy định nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con cái, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 còn có quy định về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng của con cái đối với cha mẹ. Theo đó, con cái có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt trong trường hợp cha mẹ ốm đau, già yếu tàn tật.
Điều 1 Pháp lệnh về người tàn tật của Uỷ ban thường vụ Quốc hội số 06/1998/ PL-UBTVQH10 ngày 30/ 7/ 1998 đã quy định: “Người tàn tật theo quy định của Pháp lệnh này không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn”. Quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 phù hợp với phong tục tập quán của người Việt Nam, thể hiện được truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Đối với trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đại diện cho cha mẹ trong các giao dịch cần thiết nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cha mẹ.
|
|
Điều 37. Nghĩa vụ và quyền giáo dục con
1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập.
Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con.
2. Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động xã hội của con.
3. Khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được, cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con.
|
|
1. Một trong những quyền cơ bản nhất của trẻ em là quyền được học tập. Trong Công ước về quyền trẻ em cũng như trong pháp luật Việt Nam, học tập không những được quy định là quyền của trẻ em mà còn là bổn phận của cha mẹ, xã hội bởi vì trẻ em là tương lai của đất nước. Chính vì vậy, dưới góc độ quan hệ gia đình hay xã hội thì cha mẹ đều có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con được học tập. Việc giáo dục con không thể phó mặc cho một người (cha hoặc mẹ) mà cả hai người đều có quyền ngang nhau trong giáo dục con cái. Từ xa xưa, cha ông ta đã có câu: “Mẹ dạy thì con khéo, bố dạy thì con khôn", nghĩa là để giáo dục toàn diện một đứa trẻ, cần phải có sự phối hợp hài hoà giữa bố và mẹ.
Trẻ em là những tâm hồn trong trắng, non nớt về trí tuệ, do đó việc giáo dục trong giai đoạn này là rất quan trọng “gieo nhân nào thì gặt quả nấy". Các tiềm năng trí tuệ và thể lực được tạo dựng trong suốt thời kỳ trẻ trưởng thành và phát triển. Vì vậy, sức khoẻ yếu kém và sự chăm sóc giáo dục không đầy đủ đối với trẻ em thường dẫn đến những thiệt hại không thể bù đắp được khi trẻ em lớn lên. Đề cập đến vấn đề chăm sóc và giáo dục con cái trong mỗi gia đình, cha ông ta thường nói "Con hơn cha là nhà có phúc". Sự vượt trội của con trẻ so với thế hệ đi trước về cả trí tuệ và thể lực để trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội là ước mong lớn nhất và là niềm hạnh phúc lớn nhất đối với những bậc làm cha làm mẹ, đúng như tinh thần của Công ước về quyền trẻ em trong vấn đề mục tiêu giáo dục: "Giáo dục phải nhằm phát triển nhân cách, tài năng, các khả năng tinh thần và thể chất của trẻ em đến mức cao nhất. Giáo dục phải chuẩn bị cho trẻ em một cuộc sống tích cực ở tuổi người lớn trong một xã hội tự do và khuyến khích trẻ em lòng kính trọng cha mẹ, bản sắc, văn hoá, ngôn ngữ và các giá trị của mình cũng như nguồn gốc văn hoá và các giá trị của người khác".
Bên cạnh đó, cha mẹ còn có nghĩa vụ và quyền tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con. Trẻ em sinh ra có quyền được yêu thương, có quyền được chăm sóc và có quyền được sống chung với cha mẹ, không ai có quyền buộc trẻ em phải cách ly cha mẹ trừ trường hợp pháp luật quy định khác vì lợi ích của chính đứa trẻ. Trẻ trong giai đoạn vị thành niên rất dễ bị tổn thương về mặt tình cảm, chưa có đủ nhận thức để suy xét thấu đáo về các vấn đề trong cuộc sống, do đó cần có sự hướng dẫn, giáo dục của cha mẹ. Nếu thiếu sự yêu thương, săn sóc của một trong hai người, nếu không được sống trong một môi trường gia đình tốt thì con trẻ sẽ dễ có tâm lý không ổn định, ảnh hưởng xấu đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này. Chính vì vậy "cha mẹ phải tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hoà thuận...". Tuy nhiên trong những năm gần đây, mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo, luồng tư tưởng và lối sống ngoại nhập đã tác động tiêu cực đến quan hệ hôn nhân và gia đình. Cách suy nghĩ thực dụng, lối sinh hoạt tuỳ tiện, thiếu gương mẫu của cha mẹ trong cách hành xử hàng ngày đã làm giảm vai trò của họ trong việc giáo dục con cái, gây cho đứa trẻ tâm lý chán nản, thất vọng về cuộc sống hoặc con cái chịu ảnh hưởng từ lối sống của cha mẹ dẫn đến những hậu quả không tốt cho cuộc sống của các em sau này. Qua phân tích tình hình trẻ em hư phạm pháp ở tỉnh Bình thuận từ 1994 đến 1995 cho thấy: 34% số trẻ em phạm pháp sống trong hoàn cảnh cha mẹ khắt khe, cư xử thô bạo, hay hắt hủi đánh đập con cái. Tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có gần 3000 trẻ em lang thang sống không có người chăm sóc, không có người quản lý[17]. Thực trạng này là hậu quả tất yếu từ sự vô trách nhiệm, thiếu quan tâm của những bậc làm cha, làm mẹ. Đây cũng chính là nguyên nhân chính của những tệ nạn xã hội đang diễn ra ngày càng phức tạp và phổ biến ở các nơi trên cả nước mà hầu hết những người trong cuộc đều có xuất phát là những trẻ em không có một mái ấm gia đình hạnh phúc và sự quan tâm đúng mực của cha mẹ. Chính vì thế, Quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là cần thiết và phù hợp nhằm khẳng định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc giáo dục và giúp đỡ con hoàn thiện về nhân cách, trưởng thành lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội.
2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định việc lựa chọn nghề nghiệp, việc tham gia hoạt động xã hội là quyền của con đã thành niên còn ở chung với cha mẹ “Con đã thành niên còn ở chung với cha mẹ có quyền lựa chọn nghề nghiệp, tham gia các công tác chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội” (Điều 22 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986). Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 tại khoản 2 Điều 37 quy định tiến bộ hơn, coi đây vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cha mẹ phải thực hiện đối với con cái nói chung: "cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động xã hội của con”. Như vậy, trẻ em cũng được coi là một đối tượng, một chủ thể, một con người có quyền tự quyết định lấy tương lai của mình, các em được coi như những thành viên của quá trình phát triển và đóng một vai trò tích cực trong cộng đồng xã hội. Theo quy định của Bộ luật lao động thì mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên, đối với ngành nghề và công việc được nhận trẻ em vào làm việc, học nghề, tập nghề phải có sự đồng ý theo dõi của cha mẹ. Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng giao kết hợp đồng lao động; người học nghề ở cơ sở dạy nghề ít nhất phải đủ 13 tuổi, trừ một số nghề do Bộ Lao động thương binh và Xã hội quy định và phải có đủ sức khỏe phù hợp với yêu cầu của nghề theo học. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định cha mẹ bình đẳng trong việc hướng dẫn con cái thực hiện quyền chọn nghề của chúng. Hơn ai hết cha mẹ là những người theo dõi sát sao sự lớn lên và trưởng thành của con trẻ, thông qua tính cách, hành vi của con trẻ họ sẽ nắm bắt được những điểm mạnh, điểm yếu cũng như năng khiếu, sở trường của chúng, từ đó cha mẹ giúp đỡ con cái, đưa ra những lời chỉ bảo, khuyên răn cần thiết trong việc định hướng cho con trẻ phát huy theo khả năng đó khi lựa chọn ngành nghề cho tương lai. Việc chọn ngành nghề nào cũng như việc tham gia hoạt động xã hội nào là do trẻ quyết định, cha và mẹ không có quyền dùng ảnh hưởng của mình để ép buộc trẻ phải chọn ngành nghề và tham gia các hoạt động xã hội không phù hợp với sự phát triển năng lực của trẻ.
Có thể nói, Việt Nam là một trong những quốc gia thành viên thực hiện quy định của Công ước về quyền trẻ em trong việc “đảm bảo cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng, được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về tất cả mọi vấn đề có ảnh hưởng đến trẻ em và những quan điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách thích ứng với tuổi và độ trưởng thành của trẻ em” (Điều 12).
Mặt khác, vấn đề giáo dục trẻ em được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không đơn thuần là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, không chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình mà còn là trách nhiệm chung của các cơ quan, tổ chức và của toàn xã hội. Khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được, cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức xã hội giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con. Đây là quy định bổ sung cần thiết và phù hợp với Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Trên thực tế, có nhiều trẻ em hư mặc mặc dù đã được gia đình và chính quyền áp dụng nhiều biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, nhưng các em vẫn bị lôi kéo vào các hoạt động phạm pháp gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội mới có thể đạt được hiệu quả tốt hơn trong việc giúp đỡ, giáo dục trẻ em. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuỳ từng trường hợp có thể áp dụng biện pháp cần thiết như đưa vào trường giáo dưỡng để các em học văn hoá, giáo dục hướng nghiệp, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường.
Có thể nói, quy định tại Điều 37 hàm chứa tính dân chủ, tiến bộ, sâu sắc, vừa đề cao được trách nhiệm của cha mẹ trong việc đảm bảo được quyền lợi tương lai của con cái, vừa thể hiện được sự tôn trọng của gia đình và xã hội đối với năng lực, sở thích cá nhân của mỗi người trong nghề nghiệp của mình.
Điều 38. Nghĩa vụ và quyền của bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng
1. Bố dượng mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng cùng sống chung với mình theo quy định tại các Điều 34, 36 và 37 của Luật này.
2. Con riêng có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình theo quy định tại Điều 35 và Điều 36 của Luật này.
3. Bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau.
|
|
Mối quan hệ con riêng, con chung, cha dượng, mẹ kế từ lâu vẫn là một trong những vấn đề phức tạp, tế nhị và nan giải trong đời sống nhiều gia đình. Xuất phát từ nguyên tắc Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã bổ sung quy định mới về nghĩa vụ và quyền của bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc chồng. Theo quy định của điều luật này thì các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con quy định tại các Điều 34, 36 và 37 cũng được áp dụng trong quan hệ giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc của chồng nếu họ sống chung với nhau.
Mối quan hệ này phát sinh trong trường hợp cha hoặc mẹ xây dựng lại gia đình sau khi có con riêng với cuộc hôn nhân trước hoặc có con ngoài giá thú. Trong những năm gần đây, tình trạng ly hôn ở nước ta xảy ra rất nhiều, chiếm trên 90% trong các án kiện về hôn nhân và gia đình. Hàng năm, các Toà án trong phạm vi cả nước đã thụ lý và giải quyết trên dưới 50.000 việc về ly hôn. Bên cạnh mặt tích cực của ly hôn là giải phóng cho vợ, chồng thoát khỏi xung đột gia đình, ly hôn còn ảnh hưởng theo chiều hướng "tiêu cực" tới gia đình và xã hội. Cụ thể, ở những gia đình ly tán, trẻ em thiếu sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trực tiếp, thường xuyên hoặc của cha, hoặc của mẹ. Hiện nay, không ít những trẻ em do cha mẹ ly hôn, hoặc sớm lâm vào cảnh mất cha, mất mẹ, còn nhỏ tuổi chưa thể tự mình nuôi thân để trưởng thành, các em phải sống chung với bố dượng, mẹ kế. Đối với xã hội và pháp luật, các em vẫn là đối tượng cần được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. Vì vậy, để giải quyết mối quan hệ giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định mặc dù là con riêng của vợ hoặc của chồng nhưng bố dượng, mẹ kế vẫn có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ như người cha người mẹ đối với con ruột của mình và ngược lại. Quy định này phù hợp với đạo lý truyền thống, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam, cho dù không phải là người sinh thành ra mình, nhưng bố dượng, mẹ kế cũng là người thay thế cha mẹ đẻ chăm sóc, nuôi dưỡng con riêng nên người, quan hệ giữa người con riêng với bố dượng, mẹ kế cũng là quan hệ cha mẹ con.
Xuất phát từ bản chất của mối quan hệ nay vốn mang tính nhạy cảm và các chủ thể trong mối quan hệ do tác động về mặt tâm lý, tình cảm, lợi ích, trên thực tế, đôi khi không tránh khỏi những suy nghĩ, hành vi ích kỷ, hẹp hòi. Chính vì vậy, pháp luật nghiêm cấm bố dượng, mẹ kế có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con riêng của vợ hoặc của chồng và ngược lại. Đây là quy định thể hiện sự quan tâm bảo vệ của pháp luật đối với trẻ em, nhằm tránh tình trạng ở một số gia đình có sự phân biệt đối xử giữa con chung con riêng. Đây cũng là nhiệm vụ của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nhằm xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống, đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng tiến bộ hạnh phúc, bền vững.
|
|
Điều 39. Đại diện cho con
Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật.
|
|
Theo quy định tại Điều 148 BLDS, đại diện là việc một người (gọi là người đại diện) nhân danh một người khác (gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định (Điều 149 BLDS).
Điều 150 BLDS quy định người đại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên là cha, mẹ. Trong trường hợp này, cha mẹ là đại diện đương nhiên cho con cái trước pháp luật và trước người thứ ba.
Đối với con đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự thì phông phải mọi trường hợp cha mẹ đều đương nhiên là người đại diện mà chỉ trong những trường hợp cần thiết nếu con chưa có vợ, chồng, con hoặc có vợ, chồng, con nhưng đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ/đại diện thì cha, mẹ có đủ điều kiện phải là người đại diện.
Trường hợp vợ/chồng hoặc con của người mất năng lực hành vi dân sự không đủ điều kiện làm đại diện là khi:
Những người này cũng bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc con chưa đủ tuổi thành niên. Hoặc tuy có năng lực hành vi dân sự những không đủ điều kiện cần thiết (liên tục công tác xa, kinh tế khó khăn...) hoặc đạo đức (có hành vi phá tán tài sản, hành hạ, ngược đãi...) để có thể đại diện vì quyền lợi của người được đại diện trước pháp luật thì vì quyền và lợi ích chính đáng của con mình, cha, mẹ của người mất năng lực hành vi dân sự có thể được chỉ định để đứng ra làm người đại diện cho con.
Trong các trường hợp trên, cha mẹ có nghĩa vụ đại diện cho con cái trong các giao dịch dân sự vì lợi ích của con cái mình. Đối với trường hợp giao dịch dân sự nhỏ, giản đơn nhằm phục vụ những nhu cầu sinh hoạt hàng ngày (ăn quà sáng, mua sắm sách vở, đồ dùng học tập...) thì con cái có thể tự mình xác lập, thực hiện.
Trong trường hợp con cái có tài sản riêng, cha mẹ phải quản lý tài sản của người đó như tài sản của chính mình. Cha mẹ được sử dụng tài sản của con cái để chăm sóc, chi dùng cho những yêu cầu cần thiết của con cái.
Khi quyền dân sự của con cái bị xâm phạm, thì cha mẹ có quyền thực hiện các biện pháp mà pháp luật cho phép để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con cái. Trước cơ quan bảo vệ pháp luật, cha mẹ là người đại diện đương nhiên của con cái.
|
|
Điều 40. Bồi thường thiệt hại do con gây ra
Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định tại Điều 611 của Bộ luật Dân sự.
|
|
Theo Điều 611 BLDS, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là “người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường thiệt hại”. Tuy nhiên, dựa trên cơ sở phân định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo năng lực hành vi dân sự và khả năng kinh tế, Điều 611 BLDS tại các khoản 2 và 3 quy định:
- Khi người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ, thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng, thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 625 của Bộ luật này.
Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại, thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường, thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
- Khi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có cá nhân, tổ chức giám hộ, thì cá nhân, tổ chức đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường, thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ, thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Điều 625 quy định về trường hợp bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lý như sau: “Trường học, bệnh viện, các tổ chức khác nếu có lỗi trong việc quản lý, thì phải liên đới cùng với cha, mẹ, người giám hộ bồi thường thiệt hại do người chưa đủ mười lăm tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự gây ra cho người khác trong thời gian trường học, bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lý những người đó; nếu trường học, bệnh viện, các tổ chức khác không có lỗi, thì cha, mẹ, người giám hộ phải bồi thường".
Từ các quy định trên cho thấy, việc cha mẹ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con gây ra được phân thành các cấp độ sau:
- Khi con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi gây thiệt hại, nếu có tài sản riêng thì phải chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của mình. Chỉ khi tài sản riêng của con cái không đủ để bồi thường, thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
- Trường hợp con dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ, thì cha, mẹ phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại bằng tài sản của chính mình. Con dưới mười lăm tuổi đối tượng không có năng lực bồi thường thiệt hại, do đó không có trách nhiệm bồi thường khi gây thiệt hại. Chỉ trong trường hợp tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại có tài sản riêng, thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu.
- Trường hợp con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có cá nhân, tổ chức giám hộ, thì cá nhân, tổ chức đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường, thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ, thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Tuy nhiên, nếu thiệt hại do con dưới mười lăm tuổi hoặc mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lý mà các cơ sở này có lỗi trong việc để người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì phải liên đới cùng với cha, mẹ, người giám hộ bồi thường thiệt hại, nếu các cơ sở này không có lỗi, thì cha, mẹ, người giám hộ phải bồi thường. Lỗi của trường học, bệnh viện hay các tổ chức đang quản lý những người đó, thường là những lỗi về quản lý như: thiếu trách nhiệm, lơ là nhiệm vụ...
Khi xác định mức độ lỗi của các tổ chức đang quản lý, cần chú ý đến mục đích quản lý, độ tuổi của người chưa thành niên, hoặc mức độ bệnh tật của người mất năng lực hành vi... để xác định chính xác giữa trách nhiệm của cha, mẹ hoặc người giám hộ và trách nhiệm của tổ chức trực tiếp quản lý người gây ra thiệt hại. Cũng có thể căn cứ vào hợp đồng giữa cha, mẹ hoặc người giám hộ và tổ chức quản lý (nếu có). Trong trường hợp các tổ chức quản lý đã làm hết trách nhiệm (không có lỗi) thì họ không phải bồi thường thiệt hại mà cha, mẹ hoặc người giám hộ phải bồi thường toàn bộ.
Quy định về trách nhiệm của cha mẹ trong việc bồi thường thiệt hại do con gây ra thực chất là việc thể chế hoá Quy định của luật dân sự vào Luật Hôn nhân và gia đình.
|
|
Điều 41. Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
Khi cha, mẹ đã bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; phá tán tài sản của con; có lối sống đồi trụy, xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì tùy từng trường hợp cụ thể Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 42 của Luật này ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ một năm đến năm năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.
|
|
Cha mẹ là người thầy đầu tiên và quan trọng nhất đối với sự phát triển và trưởng thành của con cái. Tuy nhiên, trong cuộc sống, nhiều nơi, nhiều lúc những giá trị vật chất được coi trọng hơn những giá trị đạo đức, nhiều bậc cha mẹ càng quan tâm lo lắng đến sự phát triển nhân cách của con em mình, ngược lại không ít những bậc cha mẹ lại tỏ ra thờ ơ, coi nhẹ trách nhiệm và các quy định của pháp luật. Nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên bị vi phạm một cách nghiêm trọng. ở nhiều gia đình, cha mẹ dùng uy quyền của mình để áp đặt cho con cái buộc chúng phải nghe theo, đồng thời, khi cần cha mẹ sẵn sàng dùng vũ lực hoặc những lời lẽ có tính chất xúc phạm, hành hạ, ngược đãi con, bỏ rơi con, mặc cho con sống một cuộc sống “thả nổi”trên các đường phố... Một số trường hợp khác, cha mẹ còn xúi giục ép buộc các em làm những việc mà pháp luật nghiêm cấm và xã hội lên án như trộm cắp, cướp bóc, mại dâm... Đây là những hành vi phải được xem xét và có biện pháp ngăn chặn, trừng trị kịp thời, bảo đảm cho các em được sống trong một môi trường giáo dục tốt để các em có thể phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, không bị lôi kéo vào con đường phạm tội.
Xuất phát từ quan điểm trên, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã kế thừa các quy định về việc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, đồng thời làm rõ hơn và bổ sung thêm một số trường hợp cụ thể cho phép Toà án có thể hạn chế một số quyền của cha, mẹ. Theo đó “khi cha, mẹ đã bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con, phá tán tài sản của con, có lối sống đồi trụy, xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội” Toà án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 42 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình cũng quy định Toà án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này tuỳ thuộc vào thái độ của cha mẹ.
Điều 378- Bộ luật Dân sự Pháp cũng quy định việc tước toàn bộ hay một phần quyền của cha mẹ đối với con trong những trường hợp “cha, mẹ bị kết tội là thủ phạm, đồng thủ phạm hoặc tòng phạm một tội đại hình hay tiểu hình vi phạm nhân thân con mình”. Ngoài ra, “cha, mẹ cũng có thể bị tước quyền trong trường hợp đối xử không tốt với con cái hoặc nêu gương độc hại như thường xuyên say rượu, phẩm hạnh xấu hoặc thiếu chăm sóc hướng dẫn đứa trẻ, gây nguy hiểm đến sự an toàn, sức khoẻ và đạo đức của đứa trẻ”.
Như vậy, có thể thấy quyền và lợi ích của trẻ em được bảo vệ một cách rộng rãi và tương đối thống nhất ở nhiều nơi trên toàn thế giới, và kể cả cha, mẹ cũng có thể bị hạn chế quyền đối với con trong trường hợp những người này có hành vi làm tổn hại hoặc không đủ tư cách để đảm bảo sự phát triển bình thường và lành mạnh của con mình. Quy định như Điều 41 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thể hiện biện pháp chế tài của Luật Hôn nhân và gia đình áp dụng đối với những trường hợp cha mẹ có hành vi có lỗi hoặc phạm tội mà xâm phạm đến lợi ích của con cái. Tuy nhiên, khi áp dụng điều luật này, Toà án cần cân nhắc thận trọng, chỉ tước quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con của cha mẹ trong những trường hợp thật cần thiết vì lợi ích của con.
|
|
Điều 42. Người có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
1. Cha, mẹ, người thân thích của con chưa thành niên theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc đề nghị Viện Kiểm sát yêu cầu Tòa án hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
2. Viện Kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
3. Cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc đề nghị Viện Kiểm sát yêu cầu Tòa án hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên:
a) Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em;
b) Hội liên hiệp phụ nữ.
4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện Kiểm sát xem xét, yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
|
|
Đây là một quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nhằm đảm bảo một cách tốt nhất, triệt để nhất quyền và lợi ích của trẻ em. Bên cạnh quy định Toà án có quyền hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con luật còn quy định chi tiết những người có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền của cha mẹ đối với con, cụ thể:
-
Cha, mẹ, người thân thích của con chưa thành niên có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc đề nghị Viện Kiểm sát yêu cầu Tòa án hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Khi cha hoặc mẹ đứa trẻ có một trong những hành vi được liệt kê tại Điều 41 thì với tư cách là thành viên trong gia đình cũng như là người trực tiếp nuôi dạy con, hơn ai hết, người cha, mẹ còn lại của đứa con là người sớm nhận biết một cách rõ nhất những hành vi này, cũng là người có trách nhiệm lớn nhất đối với con mình có quyền tự mình hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án hạn chế một số quyền của người kia đối với con cái nhằm kịp thời bảo vệ quyền và lơi ích chính đáng của con. Trong trường hợp vì lý do nào đó mà cha, mẹ còn lại của đứa trẻ không yêu cầu thì những người thân thích của người chưa thành niên bao gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; anh ruột, chị ruột; cụ nội, cụ ngoại; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chưa thành niên (Điều 15 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP).
-
Viện Kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Theo quy định tại Điều 8 và Điều 28 Khoản 1 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 7 tháng 12 năm 1989, thì trong các vụ việc xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi của người chưa thành niên hoặc của người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, nếu không có ai khởi kiện thì Viện kiểm sát - với tư cách là cơ quan có chức năng giám sát việc thi hành pháp luật có quyền khởi tố. Đây là một quy định quan trọng và cần thiết để bảo vệ một cách khách quan và kịp thời quyền lợi của trẻ em trong những trường hợp các em không có người đại diện đứng ra bảo vệ hoặc yêu cầu các Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi của mình bị xâm phạm.
-
Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự cũng có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Đây là quy định đề cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức xã hội trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của con cái nhằm hạn chế tất cả các hình thức ngược đãi của cha mẹ đối với con. Ngoài các cá nhân và tổ chức nói trên, các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác cũng có quyền đề nghị Viện Kiểm sát xem xét, yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Điều 43 đã thể hiện được quá trình nội luật hoá Điều 19 Công ước về quyền trẻ em trong vấn đề bảo vệ chống lại sự lạm dụng và sao nhãng: “Nhà nước phải bảo vệ trẻ em chống lại tất cả các hình thức ngược đãi của cha mẹ hay của những người khác chịu trách nhiệm chăm sóc trẻ em và phải lập ra những chương trình xã hội nhằm dành sự hỗ trợ cần thiết cho trẻ em và cho những người chăm sóc trẻ em, cũng như cho các hình thức phòng ngừa khác và cho việc xác định, báo cáo, chuyển cấp, điều tra, xử lý và tiến hành những bước tiếp theo trong các trường hợp ngược đãi trẻ em như đã mô tả trước đây và nếu thích hợp cho việc tham gia của pháp luật”.
|
|
Điều 43. Hậu quả pháp lý của việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên
1. Trong trường hợp một trong hai người là cha hoặc mẹ bị Tòa án hạn chế một số quyền đối với con chưa thành niên thì người kia thực hiện quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện theo pháp luật cho con.
2. Trong trường hợp cha mẹ đều bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên thì việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con và quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên được giao cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự và luật này.
3. Cha, mẹ đã bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
|
|
Đây cũng là một quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nhằm bảo vệ quyền, lợi ích tốt nhất cho con chưa thành niên đồng thời thể hiện quyền bình đẳng của cha mẹ trong việc thực hiện quyền đối với con chưa thành niên. Luật đã quy định cụ thể hơn về hậu quả pháp lý của việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên. Theo đó, khi một trong hai người (cha/mẹ) bị Toà án hạn chế một số quyền đối với con chưa thành niên, thì người kia phải thực hiện quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện theo pháp luật cho con. Đây là một điều đương nhiên bởi vì trong trường hợp mọi đối với trẻ chưa thành niên thì cha, mẹ là người đại diện đương nhiên của con mình.
Trong trường hợp cả cha và mẹ đều bị Toà án hạn chế quyền đó thì việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con và quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên được giao cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự. Đó là những người sau:
1. Trong trường hợp anh, chị, em ruột không có thoả thuận khác, thì anh cả hoặc chị cả đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ của em chưa thành niên; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ, thì người tiếp theo đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ;
2. Trong trường hợp không có anh, chị, em ruột hoặc anh, chị, em ruột không có đủ điều kiện làm người giám hộ, thì ông, bà nội, ông, bà ngoại có đủ điều kiện phải là người giám hộ (Điều 71 BLDS).
3. Trường hợp không có người giám hộ đương nhiên nói trên thì những người thân thích của người chưa thành niên đó cử một người trong số họ làm người giám hộ; nếu không có ai trong số người thân thích có đủ điều kiện làm người giám hộ, thì họ có thể cử một người khác làm người giám hộ.
4. Khi người thân thích cũng không cử được người giám hộ, thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm cùng các tổ chức xã hội tại cơ sở cử người giám hộ hoặc đề nghị tổ chức từ thiện đảm nhận việc giám hộ (Điều 72 BLDS).
5. Trong trường hợp không có người giám hộ đương nhiên và cũng không cử được người giám hộ, không có tổ chức từ thiện đảm nhận việc giám hộ, thì cơ quan lao động, thương binh và xã hội nơi cư trú của người được giám hộ đảm nhận việc giám hộ (Điều 73 BLDS).
Cha, mẹ đã bị Toà án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
|
|
Điều 44. Quyền có tài sản riêng của con
1. Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và các thu nhập hợp pháp khác.
2. Con từ đủ mười lăm tuổi trở lên còn sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình; nếu có thu nhập thì đóng góp vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình.
|
|
Xuất phát từ những đổi mới của nền kinh tế- xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay và nhằm cụ thể hoá các quy định về căn cứ xác lập quyền sở hữu, các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân khi tham gia các giao dịch dân sự ở những độ tuổi nhất định trong Bộ luật Dân sự, đồng thời trên cơ sở kế thừa các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định một cách toàn diện và cụ thể hơn vấn đề về quyền có tài sản riêng của con trong gia đình nhằm bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của con. Luật quy định về căn cứ xác lập tài sản riêng của con bao gồm: tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và các thu nhập hợp pháp khác. Ví dụ: một em bé 6 tuổi nếu được một người nào đó viết di chúc cho hưởng một phần di sản thì phần di sản này là thuộc quyền sở hữu và là tài sản riêng của em. Việc quản lý tài sản, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản của người chưa thành niên theo quy định của BLDS
Bên cạnh việc quy định về quyền có tài sản riêng của con, nhằm gắn kết trách nhiệm giữa con cái với gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam 2000 cũng quy định con từ đủ mười lăm tuổi trở lên còn sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình; nếu có thu nhập thì đóng góp vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình. Con cái từ đủ 15 tuổi trở lên hoàn toàn có thể đỡ đần gánh vác với bố mẹ một số việc trong gia đình. Nếu con có tài sản riêng, hoa lợi lợi tức thu được từ tài sản riêng, hoặc có thu nhập từ lao động phù hợp với lứa tuổi có trách nhiệm đóng góp một phần vào sinh hoạt chung của gia đình, nhất là khi bố mẹ khó khăn, không đủ trang trải các chi phí thiết yếu.
Như vậy, không chỉ cha mẹ mới có trách nhiệm phải chăm lo cho cuộc sống của gia đình mà cả con cái trong những trường hợp có thể cũng phải có trách nhiệm cùng với cha mẹ chăm lo đời sống chung của gia đình, đóng góp vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình nếu có thu nhập thêm.
|
|
Điều 45. Quản lý tài sản riêng của con
1. Con từ đủ mười lăm tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý.
2. Tài sản riêng của con dưới mười lăm tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự thì do cha mẹ quản lý. Cha mẹ có thể ủy quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của con.
3. Cha mẹ không quản lý tài sản riêng của con trong trường hợp người tặng cho tài sản hoặc để lại tài sản thừa kế theo di chúc cho người con đã chỉ định người khác quản lý tài sản đó hoặc những trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
|
|
1. Bên cạnh việc quy định quyền có tài sản riêng của con, Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định cho con từ đủ mười lăm tuổi trở lên mà có tài sản riêng, nếu có đủ khả năng thì có thể tự mình quản lý tài sản của chính mình hoặc nhờ cha mẹ quản lý. Điều này phù hợp với hệ thống các quy định trong luật dân sự và luật lao động khi người từ đủ mười lăm tuổi trở nên đã có thể tự mình tham gia các giao dịch dân sự thông thường hoặc có thể tham gia vào quan hệ lao động trong các công việc đơn giản. Như vậy, về mặt thực tế và pháp lý, thì cá nhân ở độ tuổi trên 15 được đánh giá là đã có những suy nghĩ và nhận thức nhất định có thể tự mình làm được nhiều việc độc lập và cũng có thể tự mình quản lý tài sản của mình trong những trường hợp nếu thấy đủ khả năng.
Pháp luật một số nước quy định về năng lực hành vi rất linh động phụ thuộc vào độ chín chắn, trưởng thành của từng cá nhân. Đối với những người tuy chứ đủ tuổi thành niên theo luật định nhưng nếu đã lập gia đình thì vẫn được coi là người trưởng thành và được tự mình thực hiện mọi hành vi dân sự và chịu trách nhiệm phát sinh từ đó (Ví dụ: Luật dân sự của Cộng hoà Pháp và Nhật Bản).
2. Trong trường hợp con dưới mười lăm tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự mà có tài sản riêng thì tài sản đó do cha mẹ quản lý hoặc cha mẹ có thể ủy quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của con. Điều 79 BLDS quy định vấn đề quản lý tài sản riêng của con như sau:
“1- Cha mẹ phải quản lý tài sản của con cái như tài sản của chính mình.
2- Việc sử dụng, định đoạt tài sản của con cái chỉ được thực hiện vì lợi ích của người đó. Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc tài sản có giá trị lớn của con cái phải được sự đồng ý của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cha mẹ cư trú.Cha mẹ không được đem tài sản của con cái tặng cho người khác.
3- Các giao dịch dân sự giữa cha mẹ với con cái có liên quan đến tài sản của con cái đều vô hiệu”.
Như vậy, cha mẹ phải quản lý tài sản riêng của con cái như tài sản của chính mình, phải bảo quản, giữ gìn cẩn trọng và chu đáo tài sản của con cái. Đối với tài sản có khả năng sinh lợi thì cha mẹ tận dụng, phát triển khả năng đó để làm tăng giá trị của tài sản (ví dụ tài sản là tiền thì gửi tiết kiệm để lấy lãi, hoặc vườn cây thì phải chăm sóc để thu hoạch được hoa quả...). Đối với tài sản cần có sự bảo dưỡng, sửa chữa như máy móc, nhà ở thì cha mẹ phải tiến hành bảo dưỡng, sửa chữa theo định kỳ hoặc khi tài sản bị hư hỏng.
Việc sử dụng, định đoạt tài sản của con cái chỉ được thực hiện vì lợi ích của con. Vì vậy, cha mẹ khi sử dụng, định đoạt tài sản của con cái mà gây thiệt hại cho con thì phải bồi thường. Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký quỹ tài sản có giá trị lớn của con cái phải được sự đồng ý của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cha mẹ cư trú. Quy định này có ý nghĩa phòng ngừa nhằm bảo toàn tài sản của con cái.
Các giao dịch dân sự giữa cha mẹ với con cái có liên quan đến tài sản của con cái đều vô hiệu. Ví dụ: cha mẹ không được mua, hoặc thuê tài sản của con cái cho chính mình nhằm tránh việc lạm dụng có thể gây thiệt hại cho con cái.
Trong những trường hợp cha mẹ ủy quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của con thì người được uỷ quyền cũng phải tuân thủ các quy định trên của BLDS về quản lý tài sản riêng của con.
3. Tuy nhiên, không phải cha mẹ luôn là người quản lý tài sản riêng của con cái trong mọi trường hợp. Đối với những trường hợp người tặng cho tài sản hoặc để lại tài sản thừa kế theo di chúc cho người con đã chỉ định người khác quản lý tài sản đó hoặc những trường hợp khác theo quy định của pháp luật thì cha mẹ không quản lý tài sản riêng của con. Trong trường hợp này áp dụng quy định tại Điều 641, 642, 643 BLDS để xác định trách nhiệm của người quản lý di sản thừa kế.
|
|
Điều 46. Định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên
1. Trong trường hợp cha mẹ quản lý tài sản riêng của con dưới mười lăm tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, có tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên.
2. Con từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng; nếu định đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý của cha mẹ.
|
|
1. Trong trường hợp con dưới mười lăm tuổi có tài sản riêng do cha mẹ quản lý thì quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với khối tài sản riêng đó gắn liền với nhau nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con cái. Cha mẹ không chỉ có nghĩa vụ quản lý mà còn có quyền sử dụng tài sản đó để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu cần thiết, hợp lý của con cái. Thông thường nhu cầu cần thiết được thể hiện ở các lĩnh vực ăn, mặc, ở, học hành, đi lại. Những nhu cầu này cần phải đáp ứng để bảo đảm sự phát triển của con cái nói chung. Việc sử dụng tài sản của con cái phải đúng mục đích nêu trên. Trong quá trình quản lý tài sản của con cái, cha mẹ chỉ được phép thanh toán từ tài sản của con cái cho những công việc cần thiết, ví dụ sửa chữa tài sản để duy trì chất lượng của nó, đưa tài sản vào khai thác để thu lợi cho con cái.
Ngoài ra, khi con từ đủ 9 tuổi trở lên, việc sử dụng, định đoạt tài sản riêng của con phải tính đến nguyện vọng của con. Quy định này xuất phát từ trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái trong việc quản lý tài sản của con và nhằm bảo vệ tài sản cho con chưa thành niên. Cha mẹ có nghĩa vụ giữ gìn và sử dụng hợp lý tài sản của con vì lợi ích của con. Việc định đoạt tài sản của con như bán thứ gì là tài sản của con, mua thứ gì bằng tiền thuộc tài sản của con phải vì lợi ích của con, không được tùy tiện lấy tài sản riêng của con để mua, bán không vì lợi ích của con.
2. Khoản 2 Điều 46 quy định: Con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng, nếu định đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý của cha mẹ. Như vậy, khác với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, quy định trẻ em từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi cũng được trao quyền tự quản lý tài sản riêng của mình và có quyền tự định đoạt. Tuy nhiên, đối với những tài sản có giá trị lớn hoặc khi các em muốn dùng tài sản riêng để kinh doanh thì phải có sự đồng ý của cha mẹ. Quy định này cũng nhằm bảo vệ lợi ích cho các em. Bởi vì ở lứa tuổi dưới 18, các em chưa có sự phát triển đầy đủ về thể chất, chưa có đủ kinh nghiệm để tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, cần sự quan tâm, chỉ bảo của cha mẹ để tránh gây thiệt hại cho khối tài sản riêng của các em.
Chương V
|
Quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa anh chị em và giữa các thành viên trong gia đình
|
Luật Hôn nhân và gia đình đầu tiên của nước ta (năm 1959) mới chỉ chú trọng đến vấn đề kết hôn, ly hôn, quan hệ giữa cha, mẹ và con cái, còn nhiều vấn đề trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình chưa được Luật điều chỉnh. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới kế thừa những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Bên cạnh các chế định như kết hôn, quan hệ giữa vợ và chồng, ly hôn, giám hộ, quan hệ giữa cha mẹ và con thì chế định về quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em trong gia đình đã bước đầu được Luật điều chỉnh (Điều 27).
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế với xu hướng hội nhập hoá, quốc tế hoá, trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình cuộc sống gia đình phương Tây đã bắt đầu du nhập vào Việt Nam. Xét dưới góc độ tích cực, thanh niên, nam cũng như nữ được tự do hơn, độc lập hơn trong mọi vấn đề và ít chịu sự chi phối của cha mẹ, ông bà. Nam, nữ bình đẳng hơn trong quan hệ gia đình, đặc biệt nữ giới ngày càng có cơ hội tham gia nhiều hơn vào các công tác xã hội, trẻ em ngày càng được gia đình và toàn xã hội quan tâm. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, cuộc sống hiện đại cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề, nhiều hiện tượng đang dần làm tan rã và mai một những đạo lý truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Đó là lối sống cá nhân, ích kỷ, xu hướng phủ nhận giá trị lịch sử, chạy theo các lợi ích kinh tế, thương mại mà ít coi trọng những truyền thống gia đình thể hiện qua quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình ngày càng trở nên rời rạc, thiếu gắn kết đặc biệt là sự thiếu quan tâm của con cái đối với cha mẹ, cháu chắt đối với ông bà, anh chị em đối với nhau...
Thực tiễn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 trong những năm qua cho thấy: một số quy định của luật nhằm điều chỉnh các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình còn mang tính nguyên tắc chung, thiếu cụ thể nên đã gây khó khăn khi vận dụng, thiếu thống nhất khi thi hành.
Trên cơ sở kế thừa những điểm tiến bộ đồng thời sửa đổi, bổ sung một số quy định Luật Hôn nhân và gia đình 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có nhiều quy định mới và cụ thể, đặc biệt là để củng cố thêm mối quan hệ gia đình vững chắc: quy định rõ hơn mối quan hệ giữa ông bà và các cháu, giữa các anh, chị, em và giữa các thành viên trong gia đình. Đây thực chất là sự khẳng định lại các quan hệ vốn thuộc phạm trù của đạo đức, văn hoá truyền thống trong pháp luật nhằm thể hiện ý chí của Nhà nước và xã hội trong việc đề cao, tôn trọng và bảo vệ các truyền thống tốt đẹp vốn có của gia đình Việt Nam. Từ Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định về mối quan hệ giữa ông bà và các cháu, giữa anh, chị em trong gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã phát triển thành một chương mới, đó là Chương V với tên gọi “Quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên trong gia đình”. Chương này gồm có 3 điều (Điều 47, 48, 49) và mỗi điều đều có tiêu đề cụ thể thể hiện sự tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp nhằm tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng điều luật.
|
|
Điều 47. Nghĩa vụ và quyền của ông bà nội, ông bà ngoại và cháu
1. Ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ và quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu. Trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 48 của Luật này thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu.
2. Cháu có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại.
|
|
1.Nghĩa vụ và quyền của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với các cháu
-
Nghĩa vụ và quyền của ông, bà trong việc trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 điều chỉnh quan hệ gia đình theo nghĩa hẹp, chủ yếu theo mô hình gia đình hạt nhân bao gồm quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, còn những quan hệ về nhân thân và tài sản giữa những người thân thích khác (giữa các thành viên trong gia đình theo nghĩa rộng) chưa quy định cụ thể. Chính vì vậy, nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con cái trước tiên là nghĩa vụ của cha, mẹ. Chỉ khi cả cha và mẹ không còn, thì ông, bà là người có trách nhiệm thay cha, mẹ để nuôi dưỡng và giáo dục các cháu chưa thành niên (Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986).
Trên thực tế, trong một gia đình, ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của một đứa trẻ, ngoài cha, mẹ- người sinh thành ra chúng- còn có ông, bà (nội- ngoại) là lớp thế hệ trước sinh thành ra cha, mẹ các cháu. Cho nên việc chăm sóc, giáo dục các cháu không những chỉ là quan hệ tình cảm, gia đình mà còn là trách nhiệm đặt ra đối với ông, bà để cho trẻ em phát triển được toàn diện hơn. Vì thế, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã sửa đổi, bổ sung thành một điều mới, theo đó: “Ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ và quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu...” (khoản 1 Điều 47). Như vậy, việc chăm sóc, trông nom, giáo dục cháu không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền của ông bà, ngay cả khi các cháu vẫn ở cùng cha, mẹ, không phân biệt là cháu chưa thành niên hay đã thành niên. Ông bà nội, ông bà ngoại đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc trông nom, chăm sóc và giáo dục cháu. Như vậy quan niệm về mô hình gia đình hạt nhân theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 gồm có nhiều thế hệ và mở rộng hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình 1986.
Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con, cháu trong gia đình của cha, mẹ cũng như ông, bà phải phù hợp với quy định của pháp luật và nhất là phải đảm bảo quyền trẻ em. Ví dụ: liên quan đến vấn đề giáo dục, cha, mẹ, ông, bà không những phải có quyền và nghĩa vụ giáo dục con, cháu mình thành những công dân có ích cho xã hội, mà còn phải đảm bảo cho con, cháu mình được đến trường nhằm phát triển tối đa về nhân cách, tài năng của đứa trẻ như quy định tại Điều 10 Luật giáo dục năm 1998 "Gia đình có trách nhiệm tạo điều kiện cho các thành viên trong độ tuổi quy định của gia đình mình được học tập để đạt trình độ giáo dục phổ cập". Hoặc trong việc trông nom, chăm sóc trẻ em, cha, mẹ hoặc ông bà phải tạo điều kiện để đảm bảo cho trẻ em "có quyền vui chơi, giải trí lành mạnh, được hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với lứa tuổi" (Điều 11Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991), và để đảm bảo cho trẻ em trong gia đình phát triển đầy đủ cả về thể chất lẫn tinh thần, pháp luật nước ta "nghiêm cấm việc ngược đãi, làm nhục, hành hạ, ruồng bỏ trẻ em...", "nghiêm cấm việc... cho trẻ em sử dụng văn hóa phẩm đồi trụy, đồ chơi hoặc trò chơi có hại cho sự phát triển lành mạnh của trẻ em" (khoản 2 Điều 8, khoản 3 Điều 14 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em), "nghiêm cấm lạm dụng sức lao động của người chưa thành niên" (khoản 2 Điều 119 Bộ luật Lao động năm 1994)... Trẻ em theo pháp luật Việt Nam là công dân dưới mười sáu tuổi "không phân biệt gái trai, con trong giá thú, con ngoài giá thú, con đẻ, con nuôi, con chung; không phân biệt dân tộc tôn giáo, địa vị xã hội, chính kiến của cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được hưởng các quyền theo quy định của pháp luật” (Điều 2 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em).
-
Nghĩa vụ của ông,bà trong việc hình thành phong cách, lối sống của các cháu
Trên thực tế, phong cách, lối sống của ông, bà (nội - ngoại) đều có những ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống của con, cháu trong gia đình. Chính vì vậy, một điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là quy định nghĩa vụ của ông, bà là phải sống mẫu mực và nêu gương tốt cho các cháu. Trách nhiệm này cũng được từng được đề cập đến tại Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em "cha, mẹ. các thành viên lớn tuổi khác trong gia đình, người đỡ đầu phải làm gương tốt về mọi mặt cho trẻ em noi theo”, “người cao tuổi phải nêu gương tốt trong việc rèn luyện phẩm chất đạo đức và chấp hành pháp luật, giáo dục thế hệ trẻ phải giữ gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc" (Điều 7 Pháp lệnh người cao tuổi năm 2000). Chính lối sống mẫu mực của ông bà (cùng với cha mẹ các cháu) là sự định hướng tốt cho nhân cách của các cháu ngay từ nhỏ, đó là môi trường gia đình đầm ấm, hạnh phúc, có giáo dục. Chính vì thế mà lời nói đầu của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã nhấn mạnh “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách...”
-
Nghĩa vụ của ông, bà trong việc nuôi dưỡng các cháu.
Nghĩa vụ nuôi dưỡng các cháu của ông, bà đã được quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 “Ông bà có nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục cháu chưa thành niên trong trường hợp cháu không còn cha mẹ”. Như vậy trách niệm nuôi dưỡng của ông bà chỉ phát sinh khi các cháu không còn cha mẹ, quy định này đã không dự liệu được hết các trường hợp cháu cần có sự chăm sóc nuôi dưỡng của ông bà (như bố mẹ các cháu tàn tật, không có khả năng lao động, ở tù hoặc đi xa...) vì thế đã gây khó khăn trong quá trình áp dụng.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã được sửa đổi theo hướng quy định cụ thể nghĩa vụ của ông bà (nội - ngoại) trong việc nuôi dưỡng các cháu. Đó là “trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng... thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu” (Điều 47). Tuy nhiên về cụm từ “không có người nuôi dưỡng” có hai cách hiểu và áp dụng cần có hướng dẫn cụ thể, đó là:
- Thứ nhất, cháu không còn cha mẹ, cha mẹ không có điều kiện nuôi dưỡng.
- Thứ hai, cháu không còn cha mẹ và không còn anh, chị, em hoặc anh, chị em không có khả năng nuôi dưỡng; cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con và không còn anh, chị, em hoặc anh, chị em không có khả năng nuôi dưỡng.
Lần đầu tiên Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đề cập đến trách nhiệm của ông bà đối với cháu bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự. Theo Pháp lệnh người tàn tật năm 1998 thì "Người tàn tật không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn" (Điều 1). Người mất năng lực hành vi dân sự là "người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình" (Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 1995). Có thể thấy, người bị tàn tật hay người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, người không có khả năng lao động là những người ở vào trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bất hạnh, chịu sự thiệt thòi về tinh thần và thể chất. Thực chất việc chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ quyền lợi của người bị tàn tật, người bị mất năng lực hành vi dân sự là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Vì thế, Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: "Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hoá và học nghề phù hợp" (Điều 59) "... người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ". Với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã một mặt đề cao trách nhiệm của ông bà (những người thân thích, gần gũi với các cháu) phải nuôi dưỡng cháu bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động mà không có người nuôi dưỡng để các cháu tìm thấy được niềm vui, sự chở che từ gia đình, tránh mặc cảm và hòa nhập được với cộng đồng. Mặt khác giảm bớt trách nhiệm cho Nhà nước.
Các quy định nói trên trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng như trong các văn bản pháp luật khác của nước ta phù hợp với tinh thần của Công ước về quyền trẻ em. Ví dụ quy định Điều 2, Điều 28, Điều 29 Công ước về quyền trẻ em các quốc gia thành viên phải phải tôn trọng và đảm bảo quyền của trẻ em, không được phân biệt, đối xử, phải đảm bảo cho trẻ em được học hành, được phát triển cả thể chất cũng như tinh thần. Công ước đã dành bốn điều (Điều 23, 24, 25, 26) để quy định các quyền của trẻ em bị khuyết tật cũng như trách nhiệm của quốc gia, của cộng đồng trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ lợi ích của trẻ em và đảm bảo điều kiện tốt nhất về phương tiện chữa bệnh và phục hồi sức khỏe cho các em. Khoản 1, 2 Điều 23 Công ước quy định “Các quốc gia thành viên thừa nhận rằng trẻ em bị khuyết tật về tinh thần hay thể chất cần được hưởng một cuộc sống trọn vẹn và tử tế trong những điều kiện đảm bảo phẩm giá, thúc đẩy khả năng tự lực và tạo điều kiện dễ dàng cho trẻ em tham gia tích cực vào cộng đồng.Các quốc gia thành viên thừa nhận quyền của trẻ em khuyết tật được chăm sóc đặc biệt và theo khả năng sẵn có, phải khuyến khích và đảm bảo dành cho trẻ em khuyết tật và cho những người có trách nhiệm chăm sóc sự giúp đỡ mà họ yêu cầu và thích hợp với điều kiện của trẻ em đó và hoàn cảnh của cha mẹ hay những người khác chăm sóc trẻ em đó”.
Như vậy,nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em bị tàn tật không những thuộc về cộng đồng xã hội, bố mẹ mà cả ông bà nội ngoại và những người khác trong gia đình.
2. Trách nhiệm của các cháu đối với ông bà
Khác với các nước phương Tây, chăm sóc người già chủ yếu do Nhà nước hoặc các tổ chức từ thiện thực hiện, hầu hết người già sống trong các viện dưỡng lão. Phong tục của dân tộc Việt Nam lại hoàn toàn khác khi cho rằng người già cần sống trong gia đình để hưởng thọ trong sự đầm ấm yên vui, ông, bà càng sống lâu càng để phúc lớn cho con, cho cháu. Chính vì vậy, đồng thời với việc quy định quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng của ông bà đối với các cháu, pháp luật cũng quy định luôn bổn phận của các cháu trong việc kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại. Quy định này hoàn toàn phù hợp đạo lý truyền thống của gia đình Việt Nam, đó là sự tôn trọng tôn ti trật tự trong gia đình, đó là lễ nghĩa kính trên nhường dưới và sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau của mọi người. Việc pháp luật quy định trách nhiệm phụng dưỡng, chăm sóc, kính trọng ông bà của các cháu là một điều rất cần thiết bởi đó là sự giáo dục, một sự định hướng nhân cách tốt cho các em ngay từ khi còn nhỏ. Tuỳ thuộc vào từng lứa tuổi, các cháu có thể thể hiện sự chăm sóc, phụng dưỡng ông bà theo những cách khác nhau, nhưng những biểu hiện đó đều toát lên tình yêu thương, kính trọng của các cháu đối với ông bà. Tránh tình trạng các cháu bỏ mặc, không quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng ông bà già yếu, không nơi nương tựa. Vì thế, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã sửa đổi Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 "Cháu đã thành niên có nghĩa vụ nuôi dưỡng ông bà trong trường hợp ông bà không còn con" thành khoản 2 Điều 47 "Cháu có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại”. Nghĩa vụ này trước tiên thể hiện ở cha, mẹ chúng khi giữ lễ nghĩa với những người sinh thành ra mình. Để làm gương tốt cho con, cháu, trước tiên cha, mẹ phải thực hiện tốt bổn phận của mình với những người đã có công sinh thành. Pháp luật đã quy định: "Mọi công dân phải kính trọng người cao tuổi", "Người có nghĩa vụ phụng dưỡng người cao tuổi là vợ hoặc chồng, con, cháu ruột”, “Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ biết ơn, kính trọng và chăm sóc người cao tuổi" (Điều 2, khoản 2 Điều 9 Pháp lệnh người cao tuổi). Nghĩa vụ này được gìn giữ và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, giáo dục cho con, cháu từ khi chúng mới sinh ra "bổn phận yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, lễ phép với người lớn... giúp đỡ người già yếu, tàn tật... " (khoản 1 Điều 13 Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em), cho đến khi lớn lên, nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng, có thể được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau: như nuôi dưỡng hoặc thực hiện việc giám hộ cho ông bà nội, ông bà ngoại (xem bình luận Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000), cấp dưỡng cho ông bà nếu không sống chung với ông, bà (xem bình luận Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
|
|
Điều 48. Nghĩa vụ và quyền của anh, chị, em
Anh, chị, em có bổn phận thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có nghĩa vụ và quyền đùm bọc, nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.
|
|
Về mối quan hệ giữa anh chị, em trong gia đình, trước đây, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: "Anh, chị, em có nghĩa vụ đùm bọc lẫn nhau trong trường hợp không còn cha mẹ" là phù hợp với bản năng tự nhiên, nhưng chưa đủ. Vì vậy, Điều 48 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã bổ sung thêm trường hợp cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng con cái.
Để có thể thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau khi cha, mẹ không còn, cha hoặc mẹ không có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng thì trước hết, anh, chị, em trong gia đình phải yêu thương và quý trọng nhau, tạo nên được tình cảm gắn bó với nhau. Điều 48 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định: "Anh, chị, em có bổn phận thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau”. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình không chỉ là quan hệ giữa vợ - chồng, cha, mẹ với con cái, ông, bà với các cháu mà còn bao gồm cả quan hệ giữa anh, chị, em với nhau. Từ trước đến nay chúng ta luôn được cha, mẹ, ông, bà dạy dỗ "anh - em như thể tay - chân", “môi hở răng lạnh”. Trong gia đình, nếu anh, chị, em thương yêu, giúp đỡ, đùm bọc nhau, thì đó là yếu tố đem lại sự yên ấm, hạnh phúc cho mỗi gia đình. Đây là sự công nhận của pháp luật đối với truyền thống tốt đẹp từ ngàn đời của gia đình Việt Nam.
Quy định tại Điều 48 đã bao hàm được các hoàn cảnh có thể xảy ra trong thực tế là khi cha mẹ không còn hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì trách nhiệm đó thuộc về anh, chị, em trong gia đình. Việc quy định như vậy là cần thiết bởi thực tế cuộc sống của nhiều gia đình cho thấy: mặc dù cha mẹ vẫn còn nhưng những khó khăn về tài chính, về sức khoẻ, về tuổi tác không cho phép họ có thể chăm sóc con cái mình một cách chu đáo và cần có sự chia sẻ của chính những người con trong gia đình. Con cái cần được giáo dục "thương yêu em nhỏ... giúp đỡ gia đình làm những việc vừa sức mình" (khoản 1 Điều 13 Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em). Quy định này cũng là một cách thức đề cao trách nhiệm, bổn phận quan tâm, chăm sóc đến nhau của những người con trong gia đình, giảm gánh nặng cho cha, mẹ và cho xã hội.
|
|
Điều 49. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
1. Các thành viên cùng sống chung trong gia đình đều có nghĩa vụ quan tâm, giúp đỡ nhau, cùng nhau chăm lo đời sống chung của gia đình, đóng góp công sức, tiền và tài sản khác để duy trì đời sống chung phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mình.
Các thành viên trong gia đình có quyền được hưởng sự chăm sóc, giúp đỡ nhau. Quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
2. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các thế hệ trong gia đình chăm sóc, giúp đỡ nhau nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam.
|
|
Trước đây, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 chưa đề cập đến mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Đây là một bất cập trong quá trình thực thi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Vấn đề này đã được bổ sung, quy định mới tại Điều 49 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Từ xưa đến nay trong các gia đình Việt Nam, thường không chỉ có một thế hệ mà nhiều thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà, không chỉ những người có quan hệ ruột thịt như vợ - chồng, cha mẹ và con cái mà có nhiều thành phần cùng chung sống như con dâu, con rể, con chung, con riêng, con nuôi, ông bà nội, ông bà ngoại....
Thực tế cuộc sống, khi có nhiều thế hệ, nhiều gia đình nhỏ cùng chung sống dưới một mái nhà thường xảy ra xung đột, cãi vã giữa mẹ chồng nàng dâu, chị em dâu, anh em họ hàng, chú bác.. và không ai chịu chăm lo đời sống chung của gia đình, thậm chí đùn đẩy trách nhiệm. Dẫn đến trách nhiệm nuôi dưỡng bố mẹ già, ý thức giữ gìn nhà cửa, tài sản chung bị sao nhãng, nhiều khi xảy ra những hậu quả đau lòng... Trước thực tế này, việc xác định trách nhiệm pháp lý cho các thành viên cùng chung sống trong gia đình để điều chỉnh một cách toàn diện và đầy đủ hơn mối quan hệ giữa các thành viên là cần thiết.
Ngoài quan hệ gắn bó về tình cảm, giữa các thành viên trong gia đình còn có những mối quan hệ khác rất quan trọng, liên quan đến các quyền và nghĩa vụ pháp lý về mặt nhân thân và tài sản.
- Về quan hệ nhân thân, pháp luật quy định "Các thành viên sống chung trong gia đình đều có nghĩa vụ quan tâm giúp đỡ nhau, cùng chăm lo đời sống chung của gia đình”. Để gia đình thực sự là mái ấm, là cái nôi hình thành nuôi dưỡng nhân cách con người thì điều trước tiên và quan trọng nhất là giữa các thành viên phải có sự chăm lo, giúp đỡ và quan tâm đến nhau. Chính vì quyền "sống chung trong gia đình" cho nên mọi người đều có nghĩa vụ chung là "chăm lo đời sống chung của gia đình". Sự chia sẻ trách nhiệm của mọi người trong gia đình càng thắt chặt hơn mối quan hệ gắn bó trong cuộc sống.
- Nghĩa vụ về tài sản, mọi người có trách nhiệm "cùng nhau đóng góp công sức, tiền và tài sản khác để duy trì đời sống chung, phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mình". Như vậy, pháp luật đặt ra vấn đề bình đẳng về trách nhiệm của mọi người trong gia đình để duy trì đời sống chung. Cuộc sống chỉ có thể được duy trì và gia đình chỉ có thể hạnh phúc khi mỗi thành viên đều ý thức và thấy rõ được trách nhiệm vật chất của bản thân trong việc chăm lo và duy trì đời sống chung của gia đình.
Cùng với việc quy định nghĩa vụ của các thành viên, khoản 1 Điều 49 cũng quy định "Các thành viên trong gia đình có quyền được hưởng sự chăm sóc, giúp đỡ nhau. Quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ". Đây là quyền lợi chính đáng đã quy định tại Điều 37 Bộ luật Dân sự quy định.
Quan điểm của Nhà nước ta là "khuyến khích và tạo điều kiện để các thế hệ trong gia đình chăm sóc, giúp đỡ nhau nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam" (khoản 2 Điều 49 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000) một lần nữa khẳng định lại giá trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam. Quy định tại điều 49 có giá trị giáo dục cao trước sự xuống cấp đáng ngại về đạo đức trong gia đình.
Các quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình cũng như các văn bản pháp luật khác có liên quan đến mối quan hệ giữa cha mẹ và con, giữa ông bà và các cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên trong gia đình có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Từ khi lọt lòng mẹ cho đến suốt cuộc đời mình, mỗi cá nhân tìm thấy ở gia đình mình sự đùm bọc về vật chất và tinh thần, tiếp thu sự giáo dưỡng về mọi mặt, hưởng thụ những niềm vui của cuộc sống, được an ủi khi gặp khó khăn. Gia đình đảm bảo những điều kiện cho trẻ thơ phát triển, người già có nơi nương tựa, không hưu quạnh, cô đơn, người lao động được phục hồi sức khoẻ. Đời sống gia đình hạnh phúc là nguồn động viên tinh thần hết sức cần thiết cho mỗi cá nhân.
Trong cuộc sống, nhiều người do nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan lâm vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu cần sự trợ giúp của người khác. Trong những trường hợp như vậy, việc xác định ai là người có trách nhiệm trợ giúp luôn là vấn đề có ý nghĩa. Để củng cố sự phát triển bền vững của mỗi cá nhân, gia đình và của toàn xã hội, chế định cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề này.
Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000[18], lần đầu tiên các quan hệ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình được điều chỉnh tương đối toàn diện và các quy phạm điều chỉnh quan hệ cấp dưỡng được quy định thành một chương độc lập của đạo luật.
Trước đây, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986 chỉ điều chỉnh quan hệ cấp dưỡng giữa các bên đã từng là vợ, chồng sau khi ly hôn có bên lâm vào tình trạng túng thiếu. Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định "Khi ly hôn, nếu bên túng thiếu yêu cầu cấp dưỡng thì bên kia phải cấp dưỡng theo khả năng của mình...”. Việc cấp dưỡng của cha mẹ đối với con được quy định dưới hình thức “đóng góp phí tổn nuôi dưỡng” (chia sẻ phí tổn nuôi dưỡng) chứ không gọi đích danh là cấp dưỡng. Việc cấp dưỡng giữa anh, chị em trong gia đình, giữa ông bà và cháu chưa được quy định cụ thể. Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 chỉ quy định "Ông, bà có nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục cháu chưa thành niên trong trường hợp cháu không còn cha mẹ. Cháu đã thành niên có nghĩa vụ nuôi dưỡng ông bà trong trường hợp ông bà không còn con. Anh chị em có nghĩa vụ đùm bọc lẫn nhau trong trường hợp không còn cha mẹ". Thêm vào đó, tuy các Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986 có nhắc tới cụm từ “cấp dưỡng” nhưng thuật ngữ này cũng chưa được định nghĩa cụ thể.
Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 chế định cấp dưỡng được quy định tương đối hoàn thiện. Theo quy định tại Khoản 11 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì: “Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, là người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình”. Như vậy, quan hệ cấp dưỡng bao giờ cũng là quan hệ giữa các cá nhân với nhau (không thể có quan hệ cấp giữa hai tổ chức hoặc giữa tổ chức với cá nhân) trong đó, các bên (người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng) có quan hệ rất gần gũi, thân thiết với nhau thể hiện ở một trong 3 mối quan hệ sau:
+ Quan hệ hôn nhân: giữa vợ và chồng hoặc giữa những hai người đã từng là vợ hoặc chồng.
+ Quan hệ huyết thống: cha, mẹ (đẻ) với con (đẻ); ông bà (nội, ngoại) với cháu; anh chị em ruột (bất kể trong giá thú hay ngoài giá thú).
+ Quan hệ nuôi dưỡng: cha mẹ nuôi với con nuôi.
Tuy nhiên, nghĩa vụ cấp dưỡng bao giờ cũng là loại quan hệ có điều kiện, tức là không phải cứ các bên có một trong 3 mối quan hệ kể trên là đương nhiên giữa các bên tồn tại nghĩa vụ cấp dưỡng mà chỉ trong những trường hợp cụ thể thì mới phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng. Cụ thể là:
- Người chưa thành niên và không có tài sản để tự nuôi mình;
- Người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc là người gặp khó khăn, túng thiếu.
Một trong những đặc điểm của quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng là “các bên phải không sống chung với nhau” bởi lẽ nếu như các bên có quan hệ như vậy mà sống chung với nhau thì theo các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình đương nhiên các bên có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, không cần phải đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nữa trừ trường hợp rất đặc biệt. Đặc điểm này chính là tiêu chí quan trọng phân biệt khái niệm cấp dưỡng và khái niệm nuôi dưỡng trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong quan hệ nuôi dưỡng, các bên cùng sống chung trong một gia đình, ngược lại trong quan hệ cấp dưỡng, các bên không sống chung với nhau. Tuy nhiên, trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau mà trốn tránh nghĩa vụ này thì việc đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng là rất cần thiết. Khoản 2 Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định "Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà trốn tránh nghĩa vụ đó thì buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật này”. Đây chính là trường hợp nghĩa vụ nuôi dưỡng được chuyển hoá thành nghĩa vụ cấp dưỡng. Bên cạnh đó, bằng quy định "Nhà nước và xã hội khuyến khích các tổ chức, cá nhân trợ giúp bằng tiền hoặc tài sản khác cho các gia đình, cá nhân có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, túng thiếu" (Điều 62), từ "cấp dưỡng" giữa những người thân trong gia đình đến trợ giúp xã hội có mối quan hệ hỗ trợ nhau theo tinh thần "lá lành đùm lá rách" - một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Bằng quy định này, truyền thống, giá trị đó đã được luật hoá.
Trong 12 điều của Chương VI về Cấp dưỡng, có thể chia thành 2 loại quy phạm chính là
- Các quy định chung về cấp dưỡng (Từ Điều 50 đến Điều 55, Điều 61 và Điều 62) Các quy định chung được áp dụng đối với tất cả các trường hợp cấp dưỡng cụ thể.
- Các quy định về việc cấp dưỡng trong các trường hợp cụ thể (từ Điều 56 đến Điều 60).
|
|
Điều 50. Nghĩa vụ cấp dưỡng
1. Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này.
Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.
2. Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà trốn tránh nghĩa vụ đó thì buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại Luật này.
|
|
1. Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này.
Như vậy nghĩa vụ cấp dưỡng không phải được thực hiện giữa mọi chủ thể có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng mà nó chỉ có thể được thực hiện giữa những người có quan hệ gần gũi nhất về hôn nhân đó là giữa vợ và chồng, về huyết thống đó là giữa cha mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, về nuôi dưỡng đó là giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Chỉ khi các bên trong quan hệ đó không cùng chung sống và một trong các bên của quan hệ đó gặp những khó khăn về mặt kinh tế và không có khả năng tự mình vượt qua được thì bên kia mới có nghĩa vụ cấp dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng thể hiện trách nhiệm chăm lo chăm sóc lẫn nhau giữa những người này, nhằm giúp cho người gặp khó khăn có thể trang trải được cho những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống.
Đặc điểm của nghĩa vụ cấp dưỡng:
- Thứ nhất, nghĩa vụ cấp dưỡng gắn với quyền nhân thân của người có nghĩa vụ cấp dưỡng cũng như người được cấp dưỡng, không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.
Tính nhân thân thể hiện ở đặc điểm "không thể chuyển giao" của nghĩa vụ này, nếu như một người có nghĩa vụ cấp dưỡng với người khác thì không thể chuyển giao nghĩa vụ này cho bên thứ ba cấp dưỡng thay cho mình, ngay cả người được cấp dưỡng cũng không được chuyển giao quyền của mình cho người khác. Ví dụ, người cha già yếu đang được người con cấp dưỡng không thể chuyển giao quyền này ông bạn thân của mình đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn hơn.
Tính nhân thân của nghĩa vụ cấp dưỡng còn thể hiện ở đặc điểm “không thể thay thế” của nghĩa vụ này. Điều này có nghĩa, bên có nghĩa vụ cấp dưỡng không thể cam kết sẽ dùng nghĩa vụ khác để thay thế, bù trừ nghĩa vụ cấp dưỡng.
Tính không thể chuyển giao và tính không thể thay thế của nghĩa vụ cấp dưỡng đã được ghi nhận tại Điều 385 và 387 BLDS về việc không thể chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng bằng việc thay thế nghĩa vụ khác và không thể bù trừ nghĩa vụ trong trường hợp nghĩa vụ định bù trừ là nghĩa vụ cấp dưỡng. Điều 315 BLDS đã quy định: “Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người khác... trừ những trường hợp sau đây: a) Quyền yêu cầu gắn liền với nhân thân người có quyền, kể cả yêu cầu cấp dưỡng...”.
Tính nhân thân của nghĩa vụ cấp dưỡng còn thể hiện ở một điểm nữa là ngay cả trường hợp các bên thoả thuận cấp dưỡng theo phương thức một lần[19] và khoản cấp dưỡng một lần này đã được thực hiện thì cũng không được coi là căn cứ chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng, bởi Khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã khẳng định: “khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi”. Điều 19 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: trong trường hợp người được cấp dưỡng một lần lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng do bị tai nạn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế để cấp dưỡng ở mức cao hơn, thì phải cấp dưỡng bổ sung theo yêu cầu của người được cấp dưỡng.
- Thứ hai, nghĩa vụ cấp dưỡng không những là nghĩa vụ mang tính nhân thân thuần tuý mà đó còn mang tính tài sản. Tính tài sản thể hiện ở chỗ: khi tham gia quan hệ cấp dưỡng bên được cấp dưỡng trước hết hướng tới việc thụ hưởng một lượng lợi ích vật chất nào đó. Khi thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, luôn có sự chuyển giao một lượng lợi ích nào đó từ phía người phải cấp dưỡng sang người được cấp dưỡng[20]. Trường hợp bên có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế không thể thực hiện việc cấp dưỡng thì tuy nghĩa vụ cấp dưỡng chưa chấm dứt nhưng ý nghĩa thực tế của nghĩa vụ này cũng hầu như không có.
2. Khoản 2 Điều 50 quy định “trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà trốn tránh nghĩa vụ đó thì buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại Luật này”.
Như vậy, từ sự trốn tránh nghĩa vụ "nuôi dưỡng" pháp luật đã chuyển hoá thành việc phải thực hiện "nghĩa vụ cấp dưỡng". Bằng quy định này, nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh trong cả trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng cùng cư trú với người được cấp dưỡng khi người có nghĩa vụ nuôi dưỡng không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng của mình. Ví dụ, cha, mẹ cùng sống với con chưa thành niên nhưng không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con, con đã thành niên có khả năng lao động đang sống cùng với cha mẹ đã già yếu, không có khả năng lao động nhưng không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng cha mẹ...
ở đây, nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh chính là do người có nghĩa vụ nuôi dưỡng đã không thực hiện nghĩa vụ của mình, họ đã bỏ bê, không thực hiện việc chăm sóc nuôi dưỡng người mà mình có nghĩa vụ phải nuôi dưỡng. Cấp dưỡng trong trường hợp này chính là một chế tài mà nhà nước áp dụng đối với người không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.
|
|
Điều 51. Một người cấp dưỡng cho nhiều người.
Trong trường hợp một người cấp dưỡng cho nhiều người thì người cấp dưỡng và những người được cấp dưỡng thỏa thuận với nhau về phương thức và mức cấp dưỡng phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của những người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
|
|
Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định cách ứng xử của người cấp dưỡng với những người được cấp dưỡng trong trường hợp một người phải cấp dưỡng cho nhiều người. Khi nhiều người cùng được cấp dưỡng từ một người, vấn đề thứ tự ưu tiên về mức cấp dưỡng giữa những người được cấp dưỡng luôn là vấn đề có ý nghĩa.
So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì đây là quy định hoàn toàn mới. Theo quy định tại Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, người cấp dưỡng và những người được cấp dưỡng được thoả thuận với nhau về phương thức cấp dưỡng và mức cấp dưỡng trên cơ sở thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của những người được cấp dưỡng.
Người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thoả thuận với nhau về việc cấp dưỡng. Thỏa thuận về việc cấp dưỡng có thể bằng miệng hoặc lập thành văn bản, nêu rõ ngày người có nghĩa vụ cấp dưỡng bắt đầu thực hiện nghĩa vụ, mức cấp dưỡng và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, các thỏa thuận khác về việc thay đổi mức hoặc phương thức cấp dưỡng.
Về phương thức cấp dưỡng: tùy theo thoả thuận của bên được cấp dưỡng (hoặc người được giám hộ của người này) với bên phải cấp dưỡng, việc cấp dưỡng có thể được thực hiện bằng tiền hoặc tài sản. Nghĩa vụ cấp dưỡng được ưu tiên thực hiện theo phương thức định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm hoặc hàng năm[21]. Tất nhiên các bên có thể thoả thuận theo chu kỳ khác tùy theo điều kiện, hoàn cảnh của mình.
Trong trường hợp giữa các bên không thoả thuận được về mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thì thể yêu cầu Toà án giải quyết.
Như vậy, việc giải quyết mối quan hệ cấp dưỡng về phương thức và mức cấp dưỡng giữa người cấp dưỡng và những người được cấp dưỡng trước hết pháp luật tôn trọng sự thoả thuận của các bên. Chỉ trường hợp các bên không đạt được sự thoả thuận, Toà án mới tiến hành giải quyết. Tất nhiên, sự can thiệp này không phải là sự can thiệp mang tính cưỡng chế của nhà nước mà chỉ nó được thực hiện theo yêu cầu của các bên theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
|
|
Điều 52. Nhiều người cùng cấp dưỡng cho một người hoặc cho nhiều người.
Trong trường hợp nhiều người cùng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho một người hoặc cho nhiều người thì những người này thỏa thuận với nhau về phương thức và mức đóng góp phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mỗi người và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
|
|
Trong thực tiễn đời sống, không ít trường hợp một người được nhận cấp dưỡng từ nhiều người hoặc nhiều người cùng cấp dưỡng cho nhiều người, điều này đòi hỏi pháp luật phải quy định các quy tắc ứng xử cho các chủ thể. Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Bộ luật Dân sự năm 1995 cũng chưa có quy định nào giải quyết các tình huống này. Để khắc phục khoảng trống này, khi xây dựng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, các nhà làm luật đã quy định: Trong trường hợp nhiều người cùng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho một người hoặc cho nhiều người thì những người này thỏa thuận với nhau về phương thức và mức đóng góp phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mỗi người và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quy định này được áp dụng cho 2 trường hợp:
Thứ nhất, trường hợp nhiều người cùng phải cấp dưỡng cho một người, chẳng hạn, cả bố, mẹ đều phải cấp dưỡng cho con không ở chung với mình. Nhiều người con cùng phải cấp dưỡng cho bố hoặc mẹ. Nhiều anh, chị cùng phải cấp dưỡng cho một người em của mình... Trong các trường hợp này, nếu pháp luật quy định không cụ thể việc phân định trách nhiệm giữa những người này, rất có thể xảy ra tình trạng đùn đẩy trách nhiệm cấp dưỡng khiến cho quyền lợi của người được cấp dưỡng không được đảm bảo.
Thứ hai, trường hợp nhiều người cùng phải cấp dưỡng cho nhiều người, chẳng hạn các con cùng phải cấp dưỡng cho cả bố và mẹ. Các anh chị em cùng phải cấp dưỡng cho các anh chị em ruột khác... Khi đó việc xác định phần đóng góp của mỗi người có nghĩa vụ cấp dưỡng sao cho công bằng, hợp lý không phải là chuyện đơn giản.
Trong cả hai trường hợp trên thì những người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người (hoặc những người) được cấp dưỡng phải tự thoả thuận với nhau về phương thức và mức đóng góp trong việc cấp dưỡng. Việc thoả thuận này không phải chỉ thuần túy theo ý chí chủ quan của những người phải cấp dưỡng và người được cấp dưỡng mà phải dựa trên hai căn cứ quan trọng là phải phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mỗi người có nghĩa vụ cấp dưỡng và đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Trong trường hợp nhiều người cùng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho một người, mà trong số đó có người có khả năng thực tế và có người không có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì người có khả năng thực tế phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho người được cấp dưỡng.
|
|
Điều 53. Mức cấp dưỡng.
1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết
|
|
Thông thường, người có nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ muốn mình phải cấp dưỡng ở mức thấp, trong khi đó, người được cấp dưỡng lại mong muốn mình được cấp dưỡng ở mức cao. Việc quy định nguyên tắc pháp lý giải quyết mâu thuẫn này là rất cần thiết nhằm hướng dẫn các bên cách thoả thuận một mức cấp dưỡng công bằng. Tuy nhiên, pháp luật không thể ấn định một mức cấp dưỡng cố định được, bởi như thế, chắc chắn không phù hợp mọi quan hệ cấp dưỡng vốn vô cùng đa dạng. Xuất phát từ lý do này, các nhà làm luật chọn giải pháp tương đối linh hoạt là chỉ đưa ra các tiêu chuẩn (căn cứ) định tính để đánh giá về sự hợp lý của mức cấp dưỡng trong mỗi quan hệ cấp dưỡng cụ thể. Mức cấp dưỡng là nhiều hay ít, cao hay thấp trước hết do các bên đương sự (người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng- hoặc người giám hộ của người được cấp dưỡng) thoả thuận. Sự thoả thuận này không phải thuần túy theo ý chí chủ quan của các bên mà phải dựa vào những căn cứ nhất định đó là thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Khi không đạt được thoả thuận, thì các đương sự có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.
Việc đưa căn cứ xác định mức cấp dưỡng hợp lý bao gồm thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, đó là những căn cứ định tính.
- Người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được hiểu là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết của người đó. Chi phí thông thường cần thiết gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác được xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người phải cấp dưỡng cư trú.
- Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, theo quy định trên thì nhu cầu này được xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú bao gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác để bảo đảm cuộc sống của người được cấp dưỡng. Lưu ý là nhu cầu thiết yếu của mỗi người phụ thuộc vào lứa tuổi, tâm lý, hoàn cảnh sống, sinh hoạt, học tập, điều kiện sức khoẻ của người được cấp dưỡng. Chính vì thế, nhu cầu thiết yếu của người già không giống của người trẻ, của trẻ em không giống của thanh niên, của người khoẻ không giống của người bị ốm thường xuyên, của người sống ở thành phố khác với người ở vùng nông thôn, của người đang đi học khác với những người không còn đi học... Riêng đối với trường hợp cấp dưỡng cho con thì tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con.
Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Quy định này xuất phát từ thực tế là, nghĩa vụ cấp dưỡng thường được thực hiện trong thời gian tương đối dài. Trong khoảng thời gian dài như vậy, cả bên được cấp dưỡng lẫn bên phải cấp dưỡng đều có những thay đổi nhất định, nhất là sự thay đổi về thu nhập, điều kiện kinh tế và nhu cầu thiết yếu. Ví dụ, người phải cấp dưỡng đang có việc làm thì bị thất nghiệp, người được cấp dưỡng chưa thành niên ngày một lớn... Khi đó, mức cấp dưỡng đã thoả thuận giữa các bên trước đây có thể trở nên không phù hợp. Việc pháp luật cho phép các bên xem xét lại mức cấp dưỡng là hoàn toàn hợp lý.
|
|
Điều 54. Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần.
Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
|
|
Trong quan hệ cấp dưỡng thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thoả thuận về phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bằng tiền hoặc bằng tài sản.
Về mặt thời gian, phương thức cấp dưỡng có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau: Đó là cấp dưỡng định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong đó nghĩa vụ cấp dưỡng được ưu tiên thực hiện theo phương thức định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm hoặc hàng năm.
Phương thức cấp dưỡng một lần chỉ áp dụng trong một số trường hợp nhất định nhằm đảm bảo lợi ích cho người được hưởng cấp dưỡng. Cụ thể, việc cấp dưỡng một lần chỉ có thể được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
+ Do người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thoả thuận với người có nghĩa vụ cấp dưỡng.
+ Theo yêu cầu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và được Toà án chấp thuận.
+ Theo yêu cầu của người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó và được Toà án chấp thuận trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng thường xuyên có các hành vi phá tán tài sản hoặc cố tình trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng mà hiện có tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần.
+ Theo yêu cầu của người trực tiếp nuôi con khi vợ chồng ly hôn mà có thể trích từ phần tài sản được chia của bên có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Khi áp dụng phương thức cấp dưỡng một lần, thông thường khoản cấp dưỡng tương đối lớn, chính vì thế, khoản cấp dưỡng này cần được quản lý chu đáo nhằm tránh mất mát, thất thoát dẫn tới quyền lợi của người được cấp dưỡng không được đảm bảo. Chính vì thế, việc quản lý tài sản cấp dưỡng trong trường hợp này cũng phải được thực hiện theo một cách thức hết sức chặt chẽ, cụ thể là:
- Theo yêu cầu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, khoản cấp dưỡng một lần có thể được gửi tại ngân hàng hoặc được giao cho người được cấp dưỡng, người giám hộ của người được cấp dưỡng quản lý, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
- Người được giao quản lý khoản cấp dưỡng một lần có trách nhiệm bảo quản tài sản đó như đối với tài sản của chính mình và chỉ được trích ra để bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Do nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ nhân thân có tính tài sản, việc thực hiện xong nghĩa vụ cấp dưỡng một lần không hoàn toàn đồng nghĩa với việc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các bên với nhau. Trong những trường hợp nhất định, mặc dù đã thực hiện xong việc cấp dưỡng một lần, bên có nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn có thể phải tiếp tục cấp dưỡng bổ sung cho người được cấp dưỡng. Cụ thể là trong trường hợp người được cấp dưỡng một lần lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng do bị tai nạn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế để cấp dưỡng ở mức cao hơn, thì phải cấp dưỡng bổ sung theo yêu cầu của người được cấp dưỡng.
Điều 55. Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
1. Người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc đề nghị Viện Kiểm sát yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
2. Viện Kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
3. Cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc đề nghị Viện Kiểm sát yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó:
a) Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em;
b) Hội liên hiệp phụ nữ.
4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện Kiểm sát xem xét, yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
|
|
Trong thực tiễn, không phải mọi trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng đều nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ của mình. Khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng không nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ của mình, quyền lợi của người được cấp dưỡng sẽ không được đảm bảo. Chính vì thế, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được cấp dưỡng, người được cấp dưỡng (hoặc người giám hộ của người này) được pháp luật trao cho quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải nghiêm chỉnh chấp hành nghĩa vụ của mình. Với tư cách là bên yếu thế trong quan hệ cấp dưỡng, người được cấp dưỡng cần được sự hỗ trợ cần thiết từ phía Nhà nước cũng như phía cộng đồng trong việc bảo vệ quyền lợi của mình. Thể hiện điều đó, trong những trường hợp nhất định được pháp luật tố tụng dân sự quy định cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cụ thể là Viện Kiểm sát, ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em), tổ chức chính trị xã hội (Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam) cũng có quyền chủ động yêu cầu Toà án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ của mình.
Ngoài ra, mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức đều có quyền đề nghị Viện Kiểm sát xem xét, yêu cầu Toà án buộc người thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
Mặc dù đã được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nhưng đến nay, quyền khởi tố các vụ án dân sự nhằm buộc người không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ của mình chưa được quy định một cách đầy đủ trong pháp luật về tố tụng dân sự. Điều 28 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 quy định:
1- Đối với việc vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc quyền lợi của người lao động trong quan hệ lao động, kết hôn trái pháp luật, xác định cha, mẹ cho người con chưa thành niên ngoài giá thú, xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi của người chưa thành niên hoặc của người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, nếu không có ai khởi kiện thì Viện kiểm sát có quyền khởi tố.
2- Viện kiểm sát có nhiệm vụ tham gia tố tụng đối với những vụ án mà Viện kiểm sát đã khởi tố.
3- Nếu Viện kiểm sát khởi tố vụ án thì Viện kiểm sát có trách nhiệm cung cấp chứng cứ.
Có ý kiến cho rằng, có thể xếp loại việc vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng của người có nghĩa vụ cấp dưỡng là loại việc nêu tại khoản 1 Điều 28 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (nhưng chỉ đối với trường hợp người được cấp dưỡng là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không có ai khởi kiện) và sẽ áp dụng Điều 28 này để xác định tư cách tham gia tố tụng của Viện Kiểm sát. Tuy nhiên, dù ý kiến đó có được coi là hợp lý thì các trường hợp vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng trong đó người được cấp dưỡng không phải là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần (chẳng hạn người được cấp dưỡng là người già yếu, không có tài sản để nuôi sống bản thân hoặc các đối tượng khác) thì vẫn không thể dẫn chiếu Điều 28 của Pháp lệnh kể trên để trao cho Viện Kiểm sát quyền khởi tố, trừ trường hợp chấp nhận việc áp dụng pháp luật tương tự.
Theo chúng tôi, trong thời gian tới cần sớm sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự để có cơ chế đầy đủ thực thi quy định tại Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 liên quan đến quyền khởi tố của Viện Kiểm sát. Ngoài ra, cho đến nay, trình tự, thủ tục yêu cầu Toà án buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ của mình từ phía ủy ban chăm sóc bà mẹ và trẻ em chưa được pháp luật tố tụng dân sự quy định cụ thể. Chính vì vậy, chúng tôi cũng cho rằng khi sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự cũng phải giải quyết vấn đề này.
Riêng đối với việc Hội liên hiệp phụ nữ khởi kiện theo Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì có thể áp dụng Điều 29 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (Điều 29 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định: “Tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn, trừ quyền hoà giải”) bởi việc khởi kiện nêu tại Điều luật này có thể coi là việc khởi kiện vì lợi ích chung.
Khi người được cấp dưỡng (hoặc người giám hộ của người này), Viện Kiểm sát, ủy ban chăm sóc bà mẹ và trẻ em hoặc Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam yêu cầu về việc cấp dưỡng, Toà án ra quyết định buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó[22].
Trong trường hợp này thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì thời điểm đó được tính từ ngày ghi trong bản án, quyết định của Toà án.
Khi đã có quyết định buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của Toà án mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn không tự nguyện thi hành, thì các tổ chức, cá nhân nêu trên không phải yêu cầu Toà án buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng lần thứ hai. Khi đó, thẩm quyền buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng thực hiện nghĩa vụ của mình thuộc về Cơ quan thi hành án dân sự theo thủ tục thi hành án dân sự. Trong trường hợp này, người có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ của mình là người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người này trong trường hợp người được cấp dưỡng có người giám hộ, Viện Kiểm sát, ủy ban chăm sóc bà mẹ và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ. Trong trường hợp cơ quan thi hành án dân sự buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng thực hiện nghĩa vụ của mình, thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được tính từ ngày ghi trong bản án, quyết định của Toà án.
|
|
Điều 56: Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn
Khi ly hôn, cha mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Mức cấp dưỡng cho con do cha, mẹ thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.
|
|
Vấn đề cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn đã được quy định tại Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 về "đóng góp phí tổn nuôi dưỡng" nhưng chưa được gọi là nghĩa vụ cấp dưỡng như quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, cả Điều 56 và Điều 92 đều điều chỉnh quan hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con khi ly hôn với nội dung cơ bản là khi cha mẹ ly hôn, người không trực tiếp nuôi dưỡng con có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con.
-
Điều kiện của việc cấp dưỡng khi cha, mẹ ly hôn: nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly hôn được đặt ra khi đáp ứng đủ hai điều kiện sau:
- Thứ nhất: Bên được cấp dưỡng (con) phải là người chưa thành niên hoặc nếu đã thành niên thì thuộc diện bị tàn tật, bị mất năng lực hành vi, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, không phân biệt đó là con đẻ hay con nuôi. Đối với trường hợp khi cha mẹ ly hôn mà tất cả các đứa con đều đã thành niên và đều có khả năng lao động hoặc đã thành niên và có tài sản để tự nuôi mình thì nghĩa vụ cấp dưỡng không phát sinh.
- Thứ hai: cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Tuy nhiên, có ngoại lệ là trường hợp cha, mẹ trực tiếp nuôi dưỡng con mà trốn tránh nghĩa vụ đó thì bị buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng (theo Khoản 2 Điều 50), khi này nghĩa vụ nuôi dưỡng chuyển hoá thành nghĩa vụ cấp dưỡng.
Trong trường hợp có phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ với con khi cha mẹ ly hôn, thì mức cấp dưỡng do cha mẹ thoả thuận, nếu các bên không thoả thuận được thì do Toà án quyết định.
Khác với những loại nghĩa vụ cấp dưỡng khác, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con là nghĩa vụ của cha mẹ nên không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không thì người không trực tiếp nuôi con vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Toà án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con.
-
Mức cấp dưỡng: Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tùy vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà Toà án quyết định mức cấp dưỡng nuôi con hợp lý.
-
Phương thức cấp dưỡng: do các bên thoả thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng. Như vậy phương thức cấp dưỡng trong trường hợp này cũng tương tự như những trường hợp thông thường khác là dựa trên sự thoả thuận giữa các bên và ưu tiên thực hiện cấp dưỡng theo định kỳ.
|
|
Điều 57. Nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha mẹ.
Con đã thành niên không sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
|
|
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và năm 1986 đều chưa quy định rõ nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha mẹ. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định một cách cụ thể về nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha mẹ.
Điều kiện cấp dưỡng: Việc cấp dưỡng đặt ra khi đủ hai điều kiện sau
- Thứ nhất, con đã thành niên và không sống chung với cha mẹ.
Việc cấp dưỡng đối với cha mẹ không đặt ra đối với mọi người con, mà chỉ những người con đã thành niên. Nếu người con chưa thành niên, dù có tài sản riêng, có thu nhập cao (chẳng hạn, đứa con này là một lập trình viên hoặc một diễn viên nổi tiếng...) thì người con này cũng không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.
Hơn nữa, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ đặt ra đối với người con không sống chung với cha mẹ. Nếu như người con đã thành niên hiện đang sống chung với cha, mẹ thì vấn đề thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đương nhiên không đặt ra. Vì trong quan hệ giữa người con này với cha mẹ là nghĩa vụ nuôi dưỡng chăm sóc, chỉ khi người con này trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng thì vấn đề nghĩa vụ cấp dưỡng mới đặt ra đối với họ như một chế tài bắt buộc do vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng.
- Thứ hai, cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Không có khả năng lao động được hiểu là cha mẹ do những nguyên nhân như già yếu, ốm đau, bệnh tật nên không có đủ sức khoẻ để làm việc có thu nhập nuôi sông bản thân mình. Không có tài sản để tự nuôi mình được hiểu là cha mẹ hoàn toàn không có một chút tài sản nào hoặc tuy có tài sản nhưng đó là những vật dụng thiết yếu không thể bán đi để lấy tiền sinh sống được (như đồ thờ cúng, quần áo thiết yếu...).
|
|
Điều 58. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh, chị, em.
1. Trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con thì anh, chị đã thành niên không sống chung với em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
2. Em đã thành niên không sống chung với anh, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh, chị không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
|
|
Đây là quy định hoàn toàn mới so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.
1. Cùng với quy định tại Điều 48 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về nghĩa vụ và quyền của anh, chị, em, Khoản 1 Điều 58 đã xác định rõ nghĩa vụ cấp dưỡng của anh, chị, em trong hoàn cảnh đặc biệt. Nghĩa vụ này phát sinh khi thoả mãn đồng thời các điều kiện sau đây:
- Thứ nhất: điều kiện đối với người được cấp dưỡng (em)
+ Là người chưa thành niên và không có tài sản để tự nuôi mình, hoặc:
+ Là người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
-
Thứ hai: điều kiện đối với cha, mẹ người được cấp dưỡng (em):
+ Cha mẹ không còn, hoặc:
+ Cha mẹ còn nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con.
Như vậy, pháp luật đã khẳng định nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng người chưa thành niên và không có tài sản để tự nuôi sống mình hoặc người đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình trước hết thuộc về cha mẹ. Chỉ trong trường hợp cha mẹ không còn hoặc cha mẹ còn nhưng không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình thì nghĩa vụ đó mới thuộc về các anh, chị trong gia đình.
-
Thứ ba: điều kiện đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng (anh, chị): là người đã thành niên và không chung sống với em. Trong trường hợp người đang nuôi dưỡng đứa em có khả năng nuôi dưỡng thì đây vẫn không phải là điều kiện miễn trừ nghĩa vụ cấp dưỡng đối với những người anh, chị khác.
2. Người em có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với anh, chị của mình khi đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Thứ nhất: người được cấp dưỡng (anh, chị) là người đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình.
- Thứ hai: người có nghĩa vụ cấp dưỡng (em) phải là người đã thành niên và không sống chung với anh, chị.
Trong trường hợp người em đã thành niên mà thuộc diện được cấp dưỡng từ người khác (do người em không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình) thì thì đương nhiên nghĩa vụ cấp dưỡng của người em đối với các anh, chị của mình cũng không tồn tại.
|
|
Điều 59. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu.
1. Ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người cấp dưỡng theo quy định tại Điều 58 của Luật này.
2. Cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà nội, ông bà ngoại trong trường hợp ông bà không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng theo quy định của Luật này.
|
|
Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 điều chỉnh quan hệ cấp dưỡng giữa ông bà (nội, ngoại) với cháu (nội, ngoại). Đây cũng là một là quy định hoàn toàn mới so với các Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.
1. Về việc ông, bà thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với cháu, Khoản 1 Điều này quy định: “Ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người cấp dưỡng theo quy định tại Điều 58 của Luật này".
Nghĩa vụ cấp dưỡng của ông bà với cháu chỉ phát sinh khi có phát sinh những điều kiện nhất định. Cụ thể, người cháu chỉ có thể được cấp dưỡng từ phía ông, bà nếu thoả mãn đồng thời 3 điều kiện sau đây:
- Thứ nhất, người cháu phải là: Người chưa thành niên (tức là chưa đủ 18 tuổi); hoặc Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động (chẳng hạn bị tàn tật, bị mất năng lực hành vi dân sự...). Như vậy, đối với những người đã thành niên mà có khả năng lao động, thì dù người này có túng thiếu đến mấy thì cũng không phải đối tượng mà pháp luật chấp nhận được hưởng cấp dưỡng từ phía ông, bà của mình. Trách nhiệm đảm bảo cuộc sống của mình phải do người này tự định đoạt, anh (chị) ta không thể viện vào lý do túng thiếu hay bất kỳ lý do nào khác mà yêu cầu toà án buộc ông, bà của mình (dù rất giàu có) thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
- Thứ hai, người cháu phải không có tài sản để tự nuôi mình. Điều này có nghĩa là, nếu như người cháu chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động nhưng có tài sản để tự nuôi mình thì người này không được hưởng sự cấp dưỡng từ phía ông bà của mình.
- Thứ ba, phải là đối tượng không có người cấp dưỡng theo quy định tại Điều 58 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Điều 58 Luật Hôn nhân và gia đình quy định " Trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con thì anh, chị đã thành niên không sống chung với em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Em đã thành niên không sống chung với anh, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh, chị không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình".
Như vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng của ông bà cho cháu có thể coi chỉ là ở hàng thứ 3 (sau hàng thứ nhất là cha mẹ, hàng thứ hai là anh, chị, em).
2. Nghĩa vụ cấp dưỡng của cháu với ông bà đặt ra khi đủ các điều kiện
-
Thứ nhất, điều kiện đối với người cấp dưỡng (cháu): đã thành niên và không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại
-
Thứ hai, ông bà không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng (không còn con hoặc có con nhưng con không có khả năng lao động không có tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng). Quy định này thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn của người Việt Nam ta.
|
|
Điều 60. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn.
Khi ly hôn, nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình.
|
|
Vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn đã được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (Điều 30) và Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 (Điều 43). Hai điều luật này quy định hoàn toàn giống nhau là:
"Khi ly hôn, nếu một bên túng thiếu yêu cầu cấp dưỡng, thì bên kia phải cấp dưỡng tùy theo khả năng của mình.
Khoản cấp dưỡng và thời gian cấp dưỡng sẽ do hai bên thoả thuận; trường hợp hai bên không thoả thuận với nhau được thì Toà án nhân dân sẽ quyết định. Khi người được cấp dưỡng lấy vợ, lấy chồng khác, thì sẽ không được cấp dưỡng nữa".
Tiếp tục ghi nhận truyền thống đạo đức của người Việt Nam về quan hệ vợ chồng là "một ngày nên nghĩa", dù hiện tại họ không còn là vợ, chồng nữa, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã kế thừa có phát triển Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986, thể hiện ở chỗ khoản cấp dưỡng và thời gian cấp dưỡng hoàn toàn do bên cấp dưỡng quyết định tuỳ theo khả năng kinh tế của mình chứ không cần phải có sự thoả thuận của người được cấp dưỡng như trước đây.
Quan hệ cấp dưỡng giữa vợ, chồng sau ly hôn là loại quan hệ có điều kiện. Tức là chỉ trong những trường hợp nhất định, nghĩa vụ cấp dưỡng mới phát sinh. Ngoài trường hợp đó, nghĩa vụ cấp dưỡng không đặt ra.
Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn là:
-
Thứ nhất: bên được cấp dưỡng
+ Có khó khăn, túng thiếu, và:
+ Chưa kết hôn với người khác, trong trường hợp người được cấp dưỡng kết hôn với người khác sẽ là một trong những căn cứ chấm dứt việc được cấp dưỡng. Trái lại, nếu bên cấp dưỡng kết hôn với người khác thì nghĩa vụ cấp dưỡng cho vợ (chồng) cũ không đương nhiên được miễn trừ.
- Thứ hai: bên được cấp dưỡng phải có yêu cầu. Như vậy, nếu vợ, chồng sau khi ly hôn có rơi vào hoàn cảnh túng thiếu, khó khăn mà không có yêu cầu, tức là không bày tỏ nguyện vọng yêu cầu bên kia cấp dưỡng thì nghĩa vụ cấp dưỡng cũng không phát sinh.
Có thể thấy, khác với những trường hợp cấp dưỡng khác, việc cấp dưỡng giữa vợ chồng đã ly hôn mang tính mềm dẻo và ít cưỡng chế hơn. Điều này thể hiện ở việc Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không quy định về việc xác định phương thức và mức cấp dưỡng mà để cho người cấp dưỡng tự quyết định tuỳ theo khả năng của mình.
|
|
Điều 61. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng.
Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động;
2. Người được cấp dưỡng có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi mình;
3. Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi;
4. Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng;
5. Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết;
6. Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác;
7. Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
|
|
Nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ nhân thân có tính tài sản và thuộc loại nghĩa vụ có điều kiện, vì vậy nghĩa vụ này chỉ có thể chấm dứt khi trong những điều kiện nhất định.
- Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt khi người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động: Một người chưa thành niên và không có tài sản để nuôi sống mình thì họ được hưởng sự cấp dưỡng nhằm đảm bảo cho như cầu sinh sống tối thiểu. Khi người đó đã thành niên và có khả năng bằng lao động của chính mình tạo ra thu nhập để nuôi bản thân thì việc cấp dưỡng là không cần thiết nữa và đương nhiên quan hệ cấp dưỡng chấm dứt.
- Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt khi người được cấp dưỡng có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi mình: Khi người được cấp dưỡng dù là đã thành niên hay chưa thành niên, có khả năng lao động hay không nhưng người đó có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi sống mình. Như vậy, điều kiện để người đó được hưởng sự cấp dưỡng của người khác không còn nữa do vậy quan hệ cấp dưỡng cũng chấm dứt kể từ khi người đó có thu nhập hoặc tài sản đủ để nuôi sông mình. Nếu như người đó có thu nhập hoặc tài sản nhưng không đủ để nuôi sống mình thì quan hệ cấp dưỡng vẫn tồn tại tuy nhiên người cấp dưỡng có thể được xem xét giảm mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập hoặc tài sản mà người được cấp dưỡng có được.
- Quan hệ cấp dưỡng chấm dứt khi người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi: Trong trường hợp này do người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi của người khác tức là họ đã được đảm bảo sự chăm sóc giáo dục từ phía cha, mẹ nuôi, do vậy vấn đề cấp dưỡng cũng chấm dứt.Đối với người được cấp dưỡng là già cô đơn không nơi nương tựa mà được người khác nhận làm cha mẹ nuôi thì quan hệ cấp dưỡng cũng chấm dứt.
- Quan hệ cấp dưỡng chấm dứt khi người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng: Trong trường hợp này thì do quan hệ cấp dưỡng đã chuyển thành quan hệ nuôi dưỡng. Người cấp dưỡng đã tự minh chăm sóc nuôi nấng người được cấp dưỡng thì đương nhiên quan hệ cấp dưỡng cũng không còn nữa.
- Quan hệ cấp dưỡng chấm dứt khi người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết:Do bản chất của quan hệ cấp dưỡng là quan hệ nhân thân, không thể chuyển giao cho người khác nên khi một trong hai người là người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết đi thì quan hệ cấp dưỡng cũng đương nhiên chấm dứt.
- Quan hệ cấp dưỡng chấm dứt khi bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác: Do quan hệ cấp dưỡng đặt ra khi một trong hai bên sau khi ly hôn có khó khăn túng thiếu không thể tự nuôi dưỡng bản thân nên bên kia phải có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu người được cấp dưỡng đã kết hôn với người khác thì trách nhiệm chăm lo vật chất thuộc về người vợ hoặc chồng mới, đời sống của người này đã được cải thiện vì vậy quan hệ cấp dưỡng cũng phải chấm dứt.
- Quan hệ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Quy định này được hiểu là có thể trong một số trường hợp nhất định mà pháp luật chưa dự liệu hết nhưng dẫn tới điều kiện để được hưởng cấp dưỡng không còn nữa thì quan hệ cấp dưỡng cũng chấm dứt.
|
|
Điều 62. Khuyến khích việc trợ giúp của tổ chức, cá nhân.
Nhà nước và xã hội khuyến khích các tổ chức, cá nhân trợ giúp bằng tiền hoặc tài sản khác cho các gia đình, cá nhân có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, túng thiếu.
|
|
Có thể nói, nội dung quy định tại Điều 62 không phải là quy phạm điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình. Đáng lẽ đây phải là quy định trong các văn bản pháp luật về từ thiện hoặc trợ giúp xã hội, trợ giúp nhân đạo. Tuy nhiên, đây là cơ sở pháp lý cho hoạt động trợ giúp nhân đạo đối với các gia đình, cá nhân có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, túng thiếu đã được Luật chính thức ghi nhận. Đây là sự thừa nhận về mặt pháp luật các hoạt động nhân đạo có tính truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Để đảm bảo các quy định của pháp luật về cấp dưỡng được thực thi nghiêm chỉnh trong thực tế, Điều 20 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định về việc buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
“1. Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình mà không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thì theo yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định tại Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình, Toà án ra quyết định buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì thời điểm đó được tính từ ngày ghi trong bản án, quyết định của Toà án.
2. Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của Toà án không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình, thì người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được tính từ ngày ghi trong bản án, quyết định của Toà án.
3. Theo quyết định của Toà án, cơ quan, tổ chức trả tiền lương, tiền công lao động, các thu nhập thường xuyên khác cho người có nghĩa vụ cấp dưỡng có trách nhiệm thực hiện việc khấu trừ khoản cấp dưỡng để chuyển trả cho người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó theo đúng mức và phương thức cấp dưỡng cho người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó và người có nghĩa vụ cấp dưỡng thoả thuận hoặc theo mức và phương thức cấp dưỡng do Toà án quyết định”.
Ngoài ra pháp luật còn có chế tài xử lý hành vi vi phạm quy định về cấp dưỡng: “1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 20.000 đồng đến 100.000 đồng đối với hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn, anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu theo quy định của pháp luật; 2. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng đối với hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng cha mẹ, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật” (Điều 12 Nghị định số 87/2001/ NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình). Điều 152 Bộ luật Hình sự năm 1999 còn quy định chế tài hình sự cho hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng “Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.
Với các quy định này có thể nói rằng pháp luật điều chỉnh khá đồng bộ và hoàn chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình về vấn đề cấp dưỡng.
Chương VII
|
Xác định cha mẹ con
|
Theo thuyết tự nhiên, mỗi người sinh ra đều có cha và mẹ. Tuy nhiên, trên thực tế, có không ít những đứa trẻ không thể biết cha mẹ mình là ai và cũng có những cha, mẹ vì lý do nào đó mà không nhìn nhận hoặc thất lạc con mình. Vì vậy, quyền có cha, mẹ và được xác định cha, mẹ là một quyền thiêng liêng của con người, phù hợp với quy luật tự nhiên, đạo lý xã hội và được pháp luật thừa nhận.
Ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học cũng như sự tác động nhất định của mặt trái nền kinh tế thị trường, các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ trong lĩnh vực hôn nhân gia đình nói riêng đang diễn ra ngày càng phức tạp và có rất nhiều vấn đề mới nảy sinh. Việc xác định cha, mẹ cho con và xác định con cho cha mẹ cũng trở nên khó khăn hơn, nhạy cảm hơn và được Đảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt. Điều này được thể chế hoá bằng các quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan.
Điều 65 Hiến pháp 1992 quy định: “Trẻ em được gia đình, nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”. Điều 5 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định: "Trẻ em có quyền được khai sinh và có quốc tịch. Trẻ em không rõ cha mẹ khi có yêu cầu được cơ quan có thẩm quyền giúp đỡ xác định cha mẹ cho mình". Điều 39 Bộ luật Dân sự quy định về quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con.
Như vậy, Đảng, Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm tạo mọi điều kiện để cho trẻ em được phát triển trong một môi trường lành mạnh, có đủ các điều kiện để phát triển cả về thể chất, trí tuệ và tâm hồn. Việc đảm bảo quyền có cha mẹ hay việc xác định cha mẹ cho trẻ cũng là một trong những trách nhiệm đó.
Nhà nước quy định các căn cứ, điều kiện làm cơ sở pháp lý cho việc xác định mối quan hệ này. Các quy định về việc xác định cha mẹ cho con đã được đề cập đến trong đạo luật về hôn nhân gia đình đầu tiên của nước ta đó là Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Các quy định về xác định cha mẹ con trong đạo luật này mặc dù còn hạn chế và thiếu, không bao hàm được tất cả các mối quan hệ nhưng cũng đã tạo được những cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc xác định cha mẹ con đồng thời tạo những bước khởi đầu cơ bản quan trọng cho việc hình thành nên chế định độc lập về xác định cha mẹ con trong các đạo luật về hôn nhân gia đình sau này. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: “Con ngoài giá thú được xin nhận cha hoặc mẹ trước Toà án nhân dân; Người mẹ cũng có quyền xin nhận cha cho đứa trẻ chưa thành niên; Người thay mặt cũng có quyền xin nhận cha hoặc mẹ thay cho đứa trẻ chưa thành niên; Con ngoài giá thú được cha, mẹ nhận hoặc được Toà án nhân dân cho nhận cha, mẹ có quyền lợi và nghĩa vụ như con chính thức”.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 trên cơ sở kế thừa và phát triển Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đã đưa nhóm quan hệ xác định cha mẹ con thành một chương độc lập - Chương V, bao gồm 6 Điều quy định về các vấn đề như: Nguyên tắc suy đoán pháp lý để xác định cha, mẹ, con, trong thời kỳ hôn nhân; Quyền nhận cha mẹ; Xác định cha; Xác định con; Các chủ thể có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con và các cơ quan có thẩm quyền công nhận việc xác định cha, mẹ, con. Cùng với sự phát triển chung của các quan hệ xã hội, các quan hệ trong việc xác định cha mẹ con cũng nảy sinh nhiều vấn đề mới đòi hỏi phải có sự quy định kịp thời của pháp luật để điều chỉnh. Do đó trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Chế định Xác định cha, mẹ, con đã có sự quy định mới cho phù hợp, có sự thay đổi trong phạm vi điều chỉnh, trong cơ cấu của Chế định, trong nội dung và cả trong kỹ thuật xây dựng.
Chế định xác định cha, mẹ, con được quy định tại Chương XII của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (từ Điều 63 đến Điều 66); đây là sự cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp và Bộ luật Dân sự về hôn nhân và gia đình, trên cơ sở có sự kế thừa và phát triển các nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Đồng thời, hủy bỏ những quy định không còn phù hợp và sửa đổi bổ sung thêm những quy định mới nhằm điều chỉnh những vấn đề mới đang đặt ra, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay. Có những điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập pháp trong chế định này, như:
- Đổi tên cho chế định từ "Xác định cha, mẹ cho con" thành " Xác định cha, mẹ, con”. Điều này đã thể hiện được hai loại quan hệ, đó là xác định cha mẹ cho con và ngược lại xác định con cho cha mẹ, vì vậy tên của chế định mang tính khái quát và cụ thể hơn.
- Bổ sung một số quy định mới nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của cha, mẹ và con trong mối quan hệ này. Quyền lợi của con phát sinh trước khi cha mẹ chính thức đăng ký kết hôn, Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định thêm nội dung: “Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng”. Ngoài ra sau khi đưa dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi ra lấy ý kiến nhân dân và các ngành, các cấp thì khoản 2 Điều 63 của Luật đã được bổ sung quy định mới: “việc xác định cha mẹ cho con được sinh ra theo phương pháp khoa học do Chính phủ quy định”. Việc bổ sung thêm này dựa trên sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại ngày nay khi việc xác định, làm rõ mối quan hệ cha mẹ con có thể dựa hoàn toàn vào kết quả giám định gien. Với quy định như vậy nhưng cho đến nay vẫn chưa có một văn bản nào của Chính phủ hướng dẫn cụ thể chi tiết vấn đề này.
- Quy định cụ thể chi tiết hơn về các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác định cha mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự.
Xác định quan hệ cha, mẹ và con có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cha, mẹ và con. Ngoài ra nó còn góp phần giải quyết các tranh chấp khác như tranh chấp về nuôi dưỡng, về cấp dưỡng, về thừa kế...Tuy nhiên việc xác định các mối quan hệ này trong thực tế gặp phải rất nhiều khó khăn và phức tạp. Vì vậy, nghiên cứu các quy định trong chế định: "Xác định cha mẹ con" trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là rất cần thiết nhằm làm rõ những điểm phù hợp và còn hạn chế nhằm từng bước hoàn thiện, đồng thời nâng cao cơ sở lý luận và hiệu quả của việc áp dụng trong thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự nói chung và trong các vụ án yêu cầu xác định cha mẹ con nói riêng trong thời kỳ hiện nay.
Tuy nhiên, hiện tại việc thực hiện các quy định về xác định về xác định cha, mẹ, con đã bộc lộ một số những hạn chế và bất cập trong một số vấn đề sau:
- Cũng như Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 vẫn chưa dự liệu cơ sở pháp lý cho việc xác định cha, mẹ cho con ngoài giá thú. Hay việc xác định mối quan hệ giữa cha, mẹ, con trong những trường hợp “con được sinh ra theo phương pháp khoa học” như trường hợp thụ tinh nhân tạo, có con trong ống nghiệm, mang thai hộ... chưa có hướng dẫn cụ thể.
- Bên cạnh đó, theo nguyên tắc chung, khi các đương sự yêu cầu Toà án xác định mối quan hệ cha, mẹ, con giữa các chủ thể, các đương sự phải có chứng cứ và phải được Toà án xác định. Tuy nhiên, chưa có quy định về hệ thống các chứng cứ mà các đương sự dựa vào để chứng minh mối quan hệ cha, mẹ, con để được Toà án chấp nhận. Vì vậy, cần có các quy định của pháp luật về các chứng cứ này để tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết của các Toà án trong thực tiễn.
|
|
Điều 63. Xác định cha, mẹ
1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng.
2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Toà án xác định.
Việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra theo phương pháp khoa học do Chính phủ quy định.
|
|
Dựa trên những căn cứ về mặt pháp lý, quan hệ giữa cha, mẹ và con được xếp thành 2 nhóm:
Nhóm thứ nhất, là nhóm quan hệ chính thống được xác lập trong điều kiện cha, mẹ là vợ chồng hợp pháp và con sinh ra thường rất dễ xác định. Pháp luật gọi con sinh ra trong mối quan hệ này là con trong giá thú, và mối quan hệ cha, mẹ, con mặc nhiên được thừa nhận. Nhưng vì một lý do nào đó mà người cha hoặc mẹ không công nhận mối quan hệ này thì phải có chứng cứ và được Toà án xác định.
Nhóm thứ hai, là nhóm quan hệ tự nhiên được xác lập trong điều kiện cha, mẹ không là vợ chồng hợp pháp, con sinh ra trong nhóm quan hệ này là con ngoài giá thú. Việc xác định cha, mẹ, con trong hoàn cảnh này là phức tạp nhất, nó thường phát sinh nhiều tình huống nằm ngoài sự trù liệu của pháp luật. Vì không có hôn nhân hợp pháp nên không thể dùng nguyên tắc suy đoán pháp lý như quy định tại Khoản 3 Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Việc xác định các chủ thể trong mối quan hệ này phải dựa vào nhiều yếu tố như quan hệ chung sống, việc thăm nom, chăm sóc, thư từ... đồng thời kết hợp với các biện pháp khoa học khác như thử máu, giám định gien...
1. Đối với việc xác định quan hệ cha mẹ và con trong giá thú, pháp luật quy định như sau: “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng. Con sinh ra trước ngày kết hôn nếu được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng”.
Thông thường, một đứa trẻ khi sinh ra, quan hệ mẹ - con mặc nhiên được xác lập qua sự kiện sinh đẻ. Còn quan hệ cha - con được xác lập thông qua sự kiện thụ thai giữa cha, mẹ của đứa trẻ. Như vậy, một căn cứ quan trọng để xác định mối quan hệ cha, con chính là thời điểm người mẹ thụ thai đứa trẻ. Trên thực tế, việc xác định chính xác ngày thụ thai của đứa trẻ là rất khó khăn. Tuy nhiên, có thể thông qua thời gian mang thai của người mẹ và ngày sinh của đứa con mà xác định một cách tương đối thời điểm thụ thai con. Y học đã chứng minh rằng thời gian mang thai của người phụ nữ có thể kéo dài tối thiểu là 200 ngày, tối đa là 286 ngày. Mặc dù vậy, trên nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em, pháp luật quy định thời kỳ này tối thiểu là 189 ngày, tối đa là 300 ngày (Thông tư 15/DS ngày 27/9/1974).
Thời kỳ hôn nhân được hiểu là khoảng thời gian quan hệ vợ chồng tồn tại, được tính từ khi kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt do ly hôn (tính từ khi có quyết định ly hôn của Toà án có thẩm quyền), hoặc một trong hai vợ chồng bị chết, bị tuyên bố chết hay mất tích. Sau khi kết hôn, vợ chồng cùng nhau xây dựng đời sống chung gia đình. Dựa trên cơ sở mối quan hệ tự nhiên về hôn nhân và sinh đẻ thì con được thụ thai và sinh ra trong thời kỳ này mặc nhiên được suy đoán là con chung của vợ chồng. Có thể xuất hiện 3 trường hợp:
- Thứ nhất: con được thụ thai và sinh ra trong thời kỳ hôn nhân được pháp luật mặc nhiên thừa nhận là con chung của vợ chồng. Nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với khoa học, đạo lý thông thường và dễ dàng được xã hội thừa nhận.
- Thứ hai: con được thụ thai trong thời kỳ hôn nhân nhưng sự kiện sinh đẻ diễn ra sau khi hôn nhân chấm dứt thì vẫn được coi là con chung của vợ chồng và người con được hưởng đầy đủ các quyền lợi của mình được xác lập từ mối quan hệ cha con như: cấp dưỡng, thừa kế... Tuy nhiên, trong trường hợp này, việc xác định thời điểm thụ thai đứa trẻ so với thời điểm hôn nhân chấm dứt là rất cần thiết. Điều này phụ thuộc vào khoảng thời gian đứa trẻ được sinh ra tính từ thời điểm người chồng chết hoặc quan hệ hôn nhân chấm dứt. Nếu đứa trẻ được sinh ra trong vòng 300 ngày sau đó thì theo quy định của pháp luật, đứa trẻ mặc nhiên được xác định là con do người vợ có thai với người chồng khi người chồng còn sống hoặc khi vợ chồng chưa ly hôn. Tuy nhiên, trong trường hợp người chồng, hoặc những người có quyền và nghĩa vụ có liên quan nếu người chồng đã chết (trong quan hệ thừa kế) có thể không công nhận mối quan hệ huyết thống này nếu chứng minh được điều ngược lại và được Toà án chấp nhận.
- Thứ ba: con được thụ thai trước khi kết hôn và sinh ra trong thời kỳ hôn nhân theo quy định của pháp luật vẫn được coi là con chung của vợ chồng. Trong trường hợp này đứa trẻ được sinh ra có thể là con đẻ hoặc không phải là con đẻ của người chồng. Do trên thực tế hiện tượng nam nữ tìm hiểu, chung sống với nhau như vợ chồng trước khi kết hôn diễn ra khá phổ biến nên quy định này trước hết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của bà mẹ và trẻ em, sau nữa trong trường hợp đứa trẻ sinh ra không phải là con đẻ của người chồng thì việc xác định như vậy cũng phù hợp với quan hệ nuôi dưỡng thực tế và đạo lý, tính nhân bản của quan hệ gia đình. Tuy nhiên, cũng như đối với trường hợp thứ hai, người chồng có thể chứng minh mình không phải là cha đứa trẻ và phải được Toà án xác nhận.
Ngoài các trường hợp trên, để đảm bảo một cách tốt nhất quyền lợi của con, pháp luật còn quy định “con sinh ra trước ngày kết hôn nếu được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng”. Tuy nhiên, trong trường hợp này, mối quan hệ cha, mẹ và con không phải được đương nhiên xác lập mà pháp luật tôn trọng sự tự nguyện thừa nhận của người vợ và người chồng. Nếu người chồng không tự nguyện thừa nhận thì quan hệ này không được đương nhiên xác lập, người mẹ muốn xác định chồng mình là cha của con thì phải chứng minh được điều đó.
Thông qua nội dung của quy định này có thể thấy được tư tưởng xuyên suốt của Nhà nước ta là bảo vệ một cách triệt để quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em trong việc xác định mối quan hệ cha, mẹ và con. Trên cơ sở mốc thời gian được tính từ thời điểm kết hôn đến khi hôn nhân chấm dứt, nếu việc thành thai phát sinh trước thời điểm kết hôn thì pháp luật dựa trên sự kiện sinh đẻ để xác định cha mẹ cho con. Ngược lại, nếu sự kiện sinh đẻ xảy ra sau khi hôn nhân đã chấm dứt thì việc căn cứ để xác định lại là thời điểm thụ thai.
Nguyên tắc suy đoán trên được hầu hết các nước trên thế giới vận dụng để xác định quan hệ cha, mẹ và con kể cả trong thời kỳ hôn nhân và con ngoài giá thú. Ví dụ, Luật dân sự Cộng hoà Pháp có quy định rất chi tiết và đầy đủ những nguyên tắc suy đoán quan hệ cha - con chính thức (trong thời kỳ hôn nhân), theo đó “nếu con được thụ thai trong thời kỳ hôn nhân thì người chồng là cha đứa trẻ”[23].
Tuy nhiên, để xác định cha mẹ cho con thì ngoài những căn cứ dựa trên cơ sở sự thụ thai và sinh đẻ, trên thực tế người ta còn phải dựa vào nhiều yếu tố, sự kiện khác như:
- Biểu hiện của giao tiếp xã hội giữa các chủ thể được xác định là cha mẹ và con. Ví dụ như giữa các chủ thể xưng hô là cha con, mẹ con với nhau.
- Việc người con mang họ của cha mẹ theo phong tục tập quán của cộng đồng. Thông thường người con khi sinh ra sẽ mang họ của người cha nhưng cũng có thể mang họ của người mẹ theo sự thoả thuận hay phong tục tập quán. Điều này thể hiện trong các giấy tờ, văn bằng, chứng chỉ.
- Thái độ trong giao tiếp ứng xử giữa các chủ thể phản ánh thực tế mối quan hệ cha, mẹ - con như sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng, hay sự vâng lời, kính trọng...
- Dư luận xã hội đánh giá về mối quan hệ giữa họ.
Ngày nay, để xác định mối quan hệ huyết thống, người ta hoàn toàn có thể tiến hành các phương pháp sinh lý hoá để xét nghiệm nhóm máu, giám định gien.... Và với tiến bộ của y học hiện đại thì việc xác định mối quan hệ này gần như chính xác tuyệt đối. Tuy nhiên, chúng ta chưa thấy một quốc gia nào thiết lập quy tắc pháp lý của việc xác định cha mẹ con hoàn toàn dựa vào kết quả xét nghiệm này. Điều 63 và Điều 64 của Luật Hôn nhân và gia đình và Điểm 5b Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Toà án nhân dân tối cao cũng chỉ quy định trong trường hợp cần thiết thì tiến hành giám định gien nhưng không khẳng định chính thức của việc dựa hoàn toàn vào kết quả xét nghiệm để xác định mối quan hệ cha mẹ con.
Nhìn chung, việc xác định cha mẹ cho con cần phải dựa trên sự đánh giá toàn diện các yếu tố về sinh học, yếu tố xã hội, yếu tố khoa học và về mặt pháp lý nhằm đảm bảo tính chính xác và hợp tình, hợp lý.
2. Việc xác định quan hệ cha mẹ và cho con ngoài giá thú là một vấn đề phức tạp và khó khăn hơn rất nhiều vì giữa cha mẹ của con không có hôn nhân hợp pháp để có thể áp dụng nguyên tắc suy đoán như đối với trường hợp đã được đề cập tại Khoản 1 Điều này. Mặt khác, hiện nay Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam cũng chưa có quy định cụ thể để điều chỉnh vấn đề này. Đây là một hạn chế của Luật 2000 cần được khắc phục nhằm đảm bảo đầy đủ hơn quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan. Trên thực tế, con ngoài giá thú được sinh ra trong một số trường hợp sau:
- Người phụ nữ không có chồng mà sinh con.
- Người phụ có chồng nhưng quan hệ và có con với người khác.
- Hai bên nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng không có đăng ký kết hôn, trong thời gian chung sống có con chung với nhau. (Kể cả trong trường hợp hai vợ chồng đã ly hôn, phán quyết ly hôn của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, sau đó lại tái hợp cùng chung sống nhưng không đăng ký kết hôn lại theo thủ tục pháp luật quy định).
Đối với việc xác định quan hệ mẹ - con trong các trường hợp người mẹ sau khi sinh con ngoài giá thú vì lý nào đó do tâm lý, tình cảm xáo trộn, hoàn cảnh khó khăn, dư luận xã hội... đã không thể nuôi, nhận con hay thất lạc mà sau đó muốn nhận lại con thì phải có nghĩa vụ chứng minh trước cơ quan pháp luật mình đã sinh ra đứa trẻ đó. Việc xác minh sự kiện sinh đẻ này có thể dựa trên cơ sở chứng thư, giấy tờ, nhân chứng thực tế, hoặc có thể chứng minh bằng các đặc điểm nhận dạng của đứa con mà chỉ những người đã từng có quan hệ gần gũi nuôi dưỡng như cha mẹ mới có thể biết hay yêu cầu giám định về mặt sinh học là phương pháp khoa học, chính xác và đáng tin cậy hơn cả.
Đối với việc xác định quan hệ cha - con ngoài giá thú thì Toà án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn tại Thông tư số 15/DS ngày 27/9/1974, theo đó, người được suy đoán là cha của đứa trẻ trong các trường hợp sau:
- Trong thời gian có thể thụ thai đứa con, người đàn ông được khai là cha của đứa trẻ và người mẹ của đứa trẻ đã công nhiên chung sống với nhau như vợ chồng.
- Hai người đã thương yêu nhau, hứa hẹn kết hôn với nhau và trong thời gian có thể thụ thai đứa con đã ăn nằm với nhau như vợ chồng, rồi sau khi có con, bỏ không cưới nữa.
- Người mẹ đã bị người này hiếp dâm, cưỡng dâm trong thời gian có thể thụ thai đứa con.
- Sau khi sinh đứa con, người này đã thăm nom, chăm sóc đứa con như là con của mình. Có những thư từ mà người này viết xác nhận đứa con mà người phụ nữ đó sinh ra là con của họ.
Trong trường hợp người cha hoặc người mẹ lẩn tránh việc nhận con ngoài giá thú của mình thì theo yêu cầu của người con đã thành niên, Toà án sẽ xác định cha mẹ cho người con theo trình tự do luật định. Và căn cứ vào bản án của Toà án, họ tên cha mẹ sẽ được ghi vào giấy khai sinh của người con.
Có thể thấy, nội dung của văn bản hướng dẫn này được mô phỏng và dựa theo các quy định tương đương của Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà Pháp về việc kiện truy nhận quan hệ cha - con ngoài giá thú.[24] Tuy nhiên, luật của Pháp còn quy định rất cụ thể các trường hợp việc kiện truy nhận sẽ không được chấp nhận khi:
- Nếu chứng minh được trong thời gian thụ thai theo luật định, người mẹ có hành động vô luân một cách công khai hoặc có quan hệ với một người khác trừ phi kết quả thử máu hoặc một biện pháp y học khác cho thấy chắc chắn rằng người ấy không thể là cha;
- Nếu người được suy đoán là cha trong cùng thời gian ấy lại ở trong tình trạng không thể là cha về mặt thể chất, do xa vợ hoặc hậu quả của một tai nạn nào đó;
-
Nếu người được suy đoán là cha chứng minh bằng cách thử máu hoặc bằng một biện pháp y học khác, rằng mình không thể là cha đứa trẻ.
Với các quy định này có thể thấy, việc xác định cha mẹ- con trong các trường hợp nhất định là có căn cứ rõ ràng thể hiện được tính hợp lý và tương đối chính xác. Đây là một trong những vấn đề mà chúng ta cần tham khảo để hoàn thiện hơn Luật hôn nhân gia đình Việt Nam.
3. Hiện nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đã xuất hiện tương đối phổ biến các đứa trẻ được sinh ra do thụ tinh trong ống nghiệm, hay hiện tượng mang thai hộ... cũng là một vấn đề phức tạp và gây nhiều tranh cãi trong việc xác định mối quan hệ thực sự giữa cha, mẹ và con. Ai trong số những người góp phần tạo ra đứa trẻ sẽ được xác định là cha mẹ đẻ của nó khi khoa học kỹ thuật đã làm đảo lộn mọi trật tự và quy luật tự nhiên vốn có. Ngoài ra, vấn đề này còn liên quan đến một loạt các quan hệ pháp lý khác về thừa kế, cấp dưỡng... Tuy nhiên, trong thực tiễn có xu hướng thừa nhận rằng nếu đứa trẻ được sinh ra là kết quả của việc phối hợp giữa các yếu tố vật chất của vợ chồng thì vợ chồng đó sẽ là cha mẹ của đứa trẻ được sinh ra mà không phụ thuộc vào người mang thai nó. Người mang thai chỉ đóng vai trò là người hỗ trợ cần thiết cho sự ra đời của đứa trẻ ấy. Còn trong trường hợp vợ chồng không cung cấp được đầy đủ những yếu tố vật chất bổ khuyết đó thì người cung cấp những yếu tố này sẽ được giấu kín lai lịch và trong mọi trường hợp không được vi phạm các thoả thuận trước đó về việc yêu cầu xác lập quan hệ huyết thống đó. Đứa trẻ sinh ra về mặt pháp lý sẽ được coi là con của cặp vợ chồng đó.
ở Việt Nam, để điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh này, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định "Việc xác định cha mẹ cho con theo phương pháp khoa học do Chính phủ quy định". Tuy nhiên, cho đến nay, trên thực tế vẫn chưa có văn bản nào của Chính phủ điều chỉnh vấn đề này.
|
|
Điều 64. Xác định con
Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Toà án xác định người đó là con mình.
Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Toà án xác định người đó không phải là con mình.
|
|
Việc xác định con được hiểu là việc tìm các căn cứ để làm rõ, chứng minh một người có phải là con của người khác hay không trong một mối quan hệ xác định dựa trên các thủ tục và phương pháp do cơ quan có thẩm quyền quy định.
So với nội dung được quy định tại Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì quy định tại Điều 64 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về nội dung cơ bản là giữ nguyên. Tuy nhiên cụm từ “Người không được khai là cha, mẹ” trong Luật 1986 đã được sửa đổi thành "Người không được nhận là cha mẹ" còn về các nội dung khác vẫn được giữ nguyên. Phạm vi của khái niệm "được khai" so với khái nhiệm "được nhận" là hẹp hơn. Việc thay đổi thuật ngữ này đã phản ánh một cách đầy đủ hơn và mở rộng khả năng quyền của chủ thể trên thực tế. Đồng thời cũng khiến cho điều luật trở nên dễ hiểu, và rõ ràng hơn.
Phần lớn những trường hợp trên thực tế, mối quan hệ cha, mẹ và con sẽ được xác lập đương nhiên trên cơ sở nguyên tắc suy đoán khi những người này cùng chung sống như các thành viên trong một gia đình, hay có sự thừa nhận hiển nhiên giữa các bên. Tuy nhiên, không ít những trường hợp, vì hoàn cảnh, điều kiện nhất định mà cha, mẹ, con phải sống cách ly, thậm chí không được biết về nhau. Ví dụ nam nữ sống chung rồi bỏ nhau, người đàn ông không hề biết người phụ nữ có thai, khi biết được, bằng suy đoán về thời gian chung sống anh ta cho rằng đứa con đó là của mình và yêu cầu xác định cha cho con. Để đảm bảo cho quyền truy tìm nguồn gốc của đứa con và quyền nhận lại con của cha, mẹ mà luật quy định: “Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Toà án xác định người đó là con mình”.
Người yêu cầu Toà án xác định con phải có những chứng cứ xác thực nhằm chứng minh mối liên hệ huyết thống giữa mình và người được suy đoán là con. Hiện nay, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam chưa có quy định cụ thể về các chứng cứ được chấp nhận trong các trường hợp truy nhận con. Đây là một hạn chế dẫn đến một số khó khăn trong quá trình giải quyết các vụ việc này mà pháp luật cần sớm bổ sung.
Trên thực tế, để xác định con mình, cha, mẹ thường phải cung cấp những chứng cứ có cơ sở pháp lý như giấy khai sinh, nếu không có giấy tờ pháp lý liên quan thì có thể đưa ra nhân chứng hoặc thông qua các biện pháp sinh học. Về vấn đề này, Luật dân sự của Pháp quy định rất cụ thể: “Quan hệ giữa cha, mẹ và con chính thức được chứng minh bằng chứng thư khai sinh đăng ký vào sổ hộ tịch”[25].
“Nếu không có chứng thư khai sinh, nhưng thực tế vẫn có quan hệ như con chính thức thì cũng đủ để chứng minh quan hệ giữa cha, mẹ, con cái”[26].
“Tuy nhiên, nếu viện dẫn được rằng có sự đánh tráo hoặc thay thế đứa trẻ, dù vô tình trước hoặc sau khi lập chứng thư khai sinh thì có thể đưa ra chứng cứ bằng mọi cách và chứng cứ có thể được chấp nhận”3.
“Nếu không có tất cả những chứng cứ trên thì chứng cứ về quan hệ cha, mẹ con cái chỉ có thể được xác lập bằng nhân chứng”[27].
Trên thực tế, trường hợp yêu cầu Toà án xác định phủ nhận mỗi quan hệ cha, mẹ con thường ít xảy ra hơn so với trường hợp xin nhận cha, nhận mẹ. Nó chỉ xuất hiện khi người nhận cha mẹ có sự nhầm lẫn, ngộ nhận hoặc cũng có thể vì các mục đích không lành mạnh khác như: mạo nhận quan hệ để vụ lợi về tài sản, danh tiếng, phúc lợi xã hội...
Tóm lại, đây là một sự trù liệu của pháp luật nhằm xây dựng một khung pháp lý hoàn thiện về mối quan hệ hôn nhân gia đình, còn trên thực tế việc khởi kiện ra Toà án để yêu cầu xác định một người là con mình (hay không là con mình) khi người đó không được nhận (hay được nhận) là một việc ít xẩy ra. Tuy nhiên, đây cũng là một quyền chính đáng của một người nhằm xác minh và làm rõ sự thật, góp phần ổn định các quan hệ xã hội và đảm bảo lợi ích của các chủ thể trong quan hệ..
|
|
Điều 65. Quyền nhận cha, mẹ
1. Con có quyền xin nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết.
2. Con đã thành niên xin nhận cha, không đòi hỏi phải có sự đồng ý của mẹ; xin nhận mẹ, không đòi hỏi phải có sự đồng ý của cha.
|
|
Quyền có cha mẹ và được nhận cha mẹ là một quyền thiêng liêng của mỗi con người. Việc một người không có cha, mẹ hoặc không biết cha, mẹ mình thật sự là một mất mát, thiệt thòi không thể bù đắp được cả về mặt vật chất và đời sống tình cảm, tinh thần. Vì vậy, việc con được nhận cha, mẹ mình không đơn thuần chỉ là một quy định mang tính pháp lý góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong mối quan hệ đó mà cao hơn nữa, nó còn mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, phù hợp với truyền thống đạo đức, luân lý trong xã hội. Chính vì vậy, trong trường hợp cha mẹ đã qua đời thì người con vẫn có quyền được xác định quan hệ huyết thống của mình với người đã khuất.
Trên cơ sở sự kế thừa quy định tại Điều 31 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, tại Khoản 1 Điều 65 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Con có quyền nhận cha mẹ của mình cả trong trường hợp cha mẹ đã chết". Như vậy, xin xác nhận cha mẹ trong trường hợp này là một loại kiện dân sự đặc biệt chỉ có nguyên đơn mà không có bị đơn. Nhằm xác định sự thật về một tình trạng, một loại quan hệ đã tồn tại trên thực tế nhưng chưa được công nhận về mặt pháp luật do một bên chủ thể là cha, mẹ đã chết. Tuy nhiên, quan hệ huyết thống và nguồn gốc của mỗi cá nhân là điều bất biến và vĩnh cửu. Vì vậy, đây là một quyền chính đáng và pháp luật không vì việc một bên chủ thể đã chết mà không thừa nhận mối quan hệ này.
So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 dùng từ “con” thay cho “con ngoài giá thú”. Điều này thể hiện rõ tư tưởng tiến bộ, đảm bảo sự bình đẳng, không phân biệt con trong giá thú hay ngoài giá thú của Nhà nước ta.
Ngoài ra, trường hợp “Con đã thành niên xin nhận cha không đòi hỏi phải có sự đồng ý của mẹ; xin nhận mẹ không cần có sự đồng ý của cha". Đây là quy định mới được bổ sung vào Điều 65 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nhằm khẳng định quyền quyết định nhận cha mẹ của người con đã thành niên là một quyền hoàn toàn mang tính độc lập tôn trọng ý kiến của các cá nhân trưởng thành, độc lập suy nghĩ, quyết định và làm chủ hành vi của mình. Hơn nữa, việc trao quyền quyết định cho người con mà không cần phải phụ thuộc vào sự đồng ý của người cha (mẹ) nhằm tránh tình trạng có những trở ngại xảy ra trong trường hợp cha, mẹ do hay mâu thuẫn, có những thành kiến không tốt về nhau, vì ích kỷ cá nhân hay quá cả nghĩ mà không muốn cho con xác lập quan hệ chính thức với người kia làm ảnh hưởng đến đời sống tình cảm và quyền lợi chính đáng của con cái.
Nhìn chung các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về vấn đề này là hoàn toàn phù hợp với truyền thống đạo lý xã hội cũng như đảm đảm được quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể trong việc xác định cha, mẹ, con.
Điều 66. Người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự
1. Mẹ, cha hoặc người giám hộ theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự.
2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự.
3. Cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự:
a) Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em;
b) Hội liên hiệp phụ nữ.
4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự.
|
|
So với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định cụ thể chi tiết hơn về các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác định cha mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự.
Cha mẹ là người giám hộ đương nhiên cho con chưa thành niên, con thành niên mất năng lực hành vi dân sự. Chính vì vậy cha, mẹ có quyền yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác định cha mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.
Trong trường hợp con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa xác định được cha mẹ thì người giám hộ có quyền yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác định cha mẹ cho người con.
Trường hợp cha mẹ bị mất năng lực hành vi dân sự thì người giám hộ cũng có quyền thực hiện việc yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác định con cho cha mẹ.
Trường hợp còn lại không được luật quy định đó là con thành niên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và cha mẹ có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, lúc đó họ tự quyết định việc có hay không xác định mối quan hệ cha mẹ con cho bản thân mình. Do ở trường hợp này, họ hoàn toàn làm chủ được ý thức cũng như hành vi của mình, hay họ hoàn toàn có đủ điều kiện để quyết định việc xác lập cũng như bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Nhóm chủ thể thứ hai có quyền yêu cầu xác định cha mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự, xác định con cho cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự là Viện kiểm sát. Do chức năng của Viện kiểm sát là thực hiện quyền công tố, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia quan hệ tố tụng. Chính vì vậy Viện kiểm sát được pháp luật quy định có quyền yêu cầu Toà án xác định cha mẹ cho con chưa thành niên, con thành niên mất năng lực hành vi dân sự, xác định con cho cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự.
Nhóm chủ thể thứ ba có quyền xác định cha mẹ cho con chưa thành niên, con thành niên mất năng lực hành vi dân sự, xác định con cho cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự là Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em và Hội liên hiệp phụ nữ. Đây là hai tổ chức chính trị xã hội thực hiện việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và giúp đỡ cho sự phát triển của trẻ em và phụ nữ. Đây cũng là một phần trong việc thực hiện chức năng của hai tổ chức này.
Nhóm chủ thể thứ tư có quyền yêu cầu xác định cha mẹ cho con chưa thành niên, con thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự, xác định con cho cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự được pháp luật quy định bằng một quy định mở "Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Toà án xác định...”. Việc quy định này nhằm tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức khác tham gia trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể có sự hạn thiểu về năng lực trong xã hội. Đây là một quy định rất mới so với quy định trong Điều 31 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Và điều này cũng cho thấy trách nhiệm và sự quan tâm của cả cộng đồng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của những cá nhân bị mất và hạn chế năng lực hành vi dân sự. Từ đó cho thấy tính nhân văn sâu sắc của chế độ xã hội nước ta.
Nuôi con nuôi là chế định pháp lý quan trọng trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia và trong pháp luật quốc tế. Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã khẳng định: “Để phát triển đầy đủ và hài hoà nhân cách của mình, trẻ em cần được trưởng thành trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và thông cảm". Với tư cách là một Quốc gia thành viên của Công ước, Nhà nước ta luôn có chính sách nhằm bảo vệ quyền lợi của trẻ em, luôn quan tâm đến trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nhất là những trẻ em không có mái ấm gia đình. Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng trong pháp luật về hôn nhân và gia đình góp phần vào việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đặc biệt là đối với trẻ em mồ côi, bị tàn tật, bị cha mẹ bỏ rơi. Quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi là quyền dân sự của cá nhân, các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về con nuôi chính là sự cụ thể hoá "Quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi" quy định tại Điều 40 Bộ luật Dân sự 1995. Việc nuôi con nuôi trước hết phải xuất phát từ mục đích quan trọng là vì lợi ích của người được nhận làm con nuôi, nhằm mang lại cho đứa trẻ được nhận làm con nuôi một mái ấm gia đình, được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, bên cạnh đó, việc nuôi con nuôi cũng xuất phát từ nhu cầu tình cảm của người nhận nuôi, nhằm thiết lập quan hệ tình cảm gắn bó giữa cha mẹ và con cái. Xuất phát từ ý nghĩa xã hội và mục đích nhân đạo của việc nuôi con nuôi, mà bên cạnh việc khuyến khích nhận trẻ mồ côi, trẻ lang thang cơ nhỡ, trẻ bị bỏ rơi, bị tàn tật làm con nuôi, Nhà nước còn cho phép nhận người đã thành niên là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự làm con nuôi hoặc được làm con nuôi của người già yếu cô đơn, để cha, mẹ nuôi và con nuôi nương tựa, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau và việc nuôi con nuôi đó là phù hợp với đạo đức xã hội[28].
Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (năm 1999), ở Việt Nam có:
Số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
|
Số được hưởng trợ cấp xã hội
|
- Trẻ mồ côi: 100.000
|
27.000 (tỷ lệ 27%)
|
- Trẻ bị tàn tật nặng: 190.000
|
14.462 (tỷ lệ 7,6 %)
|
- Trẻ lang thang đường phố: 23.000
|
1.970 (tỷ lệ 8,29%)
|
Số trẻ em được nhận làm con nuôi từ năm 1990-2000 (có đăng ký) trên cả 61 tỉnh thành khoảng 10.000 em, kể cả các em có hoàn cảnh khó khăn lẫn các em khác. Qua số liệu trên cho thấy tỷ lệ trẻ em nhận được sự giúp đỡ của cộng đồng xã hội còn rất khiêm tốn, số trẻ em khó khăn cần có một mái ấm gia đình là rất lớn. Việc pháp luật tạo những điều kiện và cơ chế pháp lý cho trẻ em được nhận làm con nuôi vừa tạo điều kiện cho các em có cuộc sống ôn định vừa giảm bớt gánh nặng cho công tác xã hội. Tuy nhiên, việc xây dựng quy chế pháp lý phù hợp với quan hệ con nuôi không phải là điều dễ dàng, do trên thực tế có gần 10% số con nuôi bị cha mẹ nuôi trả lại cho các trung tâm với nhiều lý do như: cha mẹ không có kinh nghiệm; không đủ điều kiện nuôi dưỡng; cha mẹ nuôi không chăm sóc tận tình, không giúp đỡ vì quan niệm con nuôi không phải là cốt nhục; trẻ em chậm phát triển, quậy phá, gây rắc rối; các bên không hiểu biết pháp luật...
Quy định về nuôi con nuôi trong các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình được Nhà nước ta ban hành từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay có những bước phát triển phù hợp, nhằm đáp ứng với yêu cầu của thực tế cuộc sống qua từng giai đoạn.
Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đạo luật đầu tiên về hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta sau cách mạng tháng 8 năm 1945, vấn đề nuôi con nuôi được quy định tại 1 điều duy nhất (Điều 24). Đó là quy định mang tính nguyên tắc, khẳng định con nuôi có quyền và nghĩa vụ như con đẻ và xác định cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận hoặc huỷ bỏ việc nuôi con nuôi. Sau khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 được ban hành, có một số văn bản pháp luật khác quy định nội dung liên quan đến thủ tục đăng ký công nhận việc nuôi con nuôi, trong đó có Nghị định số 4/CP ngày 16/1/1961 của Chính phủ ban hành Điều lệ Đăng ký hộ tịch và một số văn bản khác hướng dẫn thi hành Nghị định số 4/CP. Tuy nhiên Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 chưa quy định cụ thể về điều kiện của người nhận con nuôi, người được làm con nuôi, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi và con nuôi, trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi...
Quy định về nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã có bước phát triển mới. Chế định nuôi con nuôi được quy định tại Chương VI gồm 6 điều, từ Điều 34 đến Điều 39. Tuy nhiên, quy định về nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 chủ yếu vẫn mang tính nguyên tắc, khái quát chung, bao gồm các quy định về mục đích của việc nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi và con nuôi, điều kiện để được nhận con nuôi và điều kiện để được nhận làm con nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc nuôi con nuôi hoặc ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi, các căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi. Để hướng dẫn thi hành quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 nói chung và quy định về nuôi con nuôi nói riêng, ngày 20 tháng 1 năm 1988, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ- HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Tại Mục 6 của Nghị quyết hướng dẫn việc nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, bao gồm quy định về con nuôi thực tế, giải quyết trường hợp cha mẹ đòi lại con đã cho người khác làm con nuôi, quyền thừa kế của con nuôi đối với tài sản của cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ, các trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi và hậu quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi. Ngoài ra, vấn đề công nhận con nuôi thực tế còn được hướng dẫn thêm trong Kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1990. Sau khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 được ban hành, thủ tục đăng ký công nhận nuôi con nuôi vẫn được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 4/CP ngày 16/1/1961 ban hành Điều lệ đăng ký hộ tịch, cũng trong giai đoạn này, do yêu cầu của việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy nhà nước, có sự chuyển giao công tác hộ tịch từ Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp, sau đó thủ tục đăng ký nuôi con nuôi được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 83/1998/NĐ - CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch và một số văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định này. Đối với quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, vấn đề này được điều chỉnh theo quy định của Nghị định số 184/ CP ngày 30/11/1994 của Chính phủ quy định về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.
Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 chế định Nuôi con nuôi được quy định tại Chương VIII bao gồm 12 điều, từ Điều 67 đến Điều 78, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài quy định cụ thể tại Nghị định số 68/2002/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (có hiệu lực từ ngày 02/1/2003). Những quy định này khá chi tiết và cụ thể, tạo cơ sở pháp lý điều chỉnh chặt chẽ việc cho và nhận con nuôi, các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi,... nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế hiện nay.
Điều 67. Nuôi con nuôi
1. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội.
Một người có thể nhận một hoặc nhiều người làm con nuôi.
Giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi có các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định của Luật này.
2. Nhà nước và xã hội khuyến khích việc nhận trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ bị tàn tật làm con nuôi.
3. Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác.
|
|
1. Mục đích của việc nhận nuôi con nuôi
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội.
Nếu như quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con được xác lập tên cơ sở huyết thống thì quan hệ giữa con nuôi với cha nuôi, mẹ nuôi được xác định dựa trên cơ sở quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng.
Mục đích cơ bản nhất của việc nuôi con nuôi chính là bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Thực tiễn cuộc sống rất nhiều em nhỏ sinh ra bị bố mẹ bỏ rơi, nhiều em nhỏ bị tàn tật bẩm sinh hoặc vì hậu quả chiến tranh để lại, các em phải lang thang cơ nhỡ không có một môi trường giáo dục tốt, một mái ấm để các em phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần hoặc bố mẹ đẻ các em không có đủ điều kiện để chăm sóc giáo dục. Nếu như các em đó được nhận làm con nuôi, được hưởng sự nuôi dưỡng, chăm sóc tốt từ phía cha, mẹ nuôi thì sẽ đảm bảo được sự phát triển toàn diện, tránh đi vào con đường lầm lỡ. Vì vậy dù với bất cứ trong điều kiện hoàn cảnh nào thì việc nuôi con nuôi đều phải đảm bảo mục đích người con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội.
Quy định tại khoản 1 Điều 67 còn được hiểu rằng trong trường hợp già neo đơn không nơi nương tựa nhận người đã thành niên làm con nuôi thì cũng phải đảm bảo mục đích người già được nhận sự chăm sóc nuôi dưỡng của người con nuôi, đảm bảo cho người già được sống trong tuổi già có sự yêu thương của con cháu.
So với pháp luật chế độ phong kiến, mục đích của việc nhận con nuôi trong Luật hôn nhân gia đình Việt Nam là sự phát triển vượt bậc.Nuôi con nuôi ở các gia đình trong triều đại nhà Lê chủ yếu là nhằm những mục đích đảm bảo sự kế tục trong việc thờ cúng tổ tiên, nối dõi tông đường; khuyếch trương quyền thế gia đình; nhận con nuôi để trừ nợ; nuôi con nuôi vì mê tín dị đoan để người con nuôi gánh vận đen cho gia đình. Có thể nhận thấy rõ rằng dưới chế độ phong kiến thì việc nuôi con nuôi trước hết vì lợi ích của người nhận nuôi con nuôi chứ không xuất phát từ quyền lợi của con nuôi.
Mục đích của việc nhận nuôi con nuôi của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước Việt Nam và có sự tương đồng so với chế định con nuôi của một số nước tiên tiến trên thế giới. Chẳng hạn như điều 1741 BLDS Đức, Điều 2 Luật về nuôi con nuôi của Cộng hoà nhân dân Trung hoa đều quy định: mục đích của việc nhận con nuôi là phải nhằm thiết lập quan hệ cha mẹ và con cái giữa người nuôi và người con nuôi, đảm bảo vì sự phát triển và hạnh phúc của người con nuôi. Quy định về mục đích việc nhận con nuôi được coi như một điều kiện nhằm đảm bảo ý nghĩa xã hội của việc nhận con nuôi, mặt khác quy định nhằm chống lại sự trá hình của việc buôn bán trẻ em, thậm chí là những đường dây buôn bán trẻ em xuyên quốc gia. Pháp luật một số nước quy định nếu thiếu hoặc không đạt điều kiện về mục đích nuôi con nuôi thì Toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ không công nhận hoặc cho phép nhận con nuôi (Điều 1475 Bộ luật Dân sự Đức). Tuy nhiên một yếu tố cần nữa là việc nhận con nuôi cũng phải tôn trọng quyền lợi của người nhận con nuôi và con cái của họ (Điều 1745 Bộ luật Dân sự Đức). Việc pháp luật Việt Nam có nét tương đồng so với pháp luật một số nước thể hiện chính sách nhân đạo và tư duy tiến bộ về quan hệ nuôi con nuôi, sự tôn trọng pháp luật Quốc tế và các Công ước về Quyền trẻ em mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
2. Nguyên tắc nhận nuôi con nuôi
-
Một người có thể nhận một hoặc nhiều người làm con nuôi; Nhà nước và xã hội khuyến khích việc nhận trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ bị tàn tật làm con nuôi.
Quy định này chính là cơ sở pháp lý tạo điều kiện để trẻ em được nhận làm con nuôi, xuất phát từ mục đích đảm bảo cho trẻ em được hưởng sự nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục của gia đình, cộng với thực tế có rất nhiều trẻ em vì những lý do nào đó mà không được nuôi dưỡng chăm sóc, trong khi đó lại có nhiều gia đình không có con hoặc có điều kiện kinh tế khá giả mong muốn được chăm sóc, nuôi dưỡng các em. Pháp luật không hạn chế số lượng con nuôi nếu như mục đích của việc nhận con nuôi được đảm bảo. Trên thực tế những người nhận nhiều trẻ em làm con nuôi luôn được sự quan tâm động viên của chính quyền cơ sở và các tổ chức nhân đạo, đây là biểu hiện sự quan tâm của Nhà nước và cộng đồng xã hội.
Nhà nước ta khuyến khích việc nhận trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (bị mồ côi, bị bỏ rơi, bị tàn tật, hoàn cảnh kinh tế gia đình quá khó khăn... mà không có người nuôi dưỡng, chăm sóc) làm con nuôi là xuất phát từ chính mục đích của việc nuôi con nuôi, đồng thời cũng thể hiện tính nhân đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tạo điều kiện cho các em không nơi nương tựa có một mái ấm gia đình, được hưởng sự nuôi dưỡng, giáo dục tốt để phát triển lành mạnh cả về thể chất và trí tuệ. Quy định là sự kế thừa và phát triển quy định tại Điều 38 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 “Nhà nước và xã hội khuyến khích việc nhận các trẻ em mồ côi làm con nuôi”, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2002 không chỉ khuyến khích việc nhận trẻ mồ côi làm con nuôi mà tất cả những trẻ em khác không được hưởng sự thương yêu chăm sóc giáo dục của gia đình như trẻ bị bỏ rơi, trẻ tàn tật cũng đều được nhà nước khuyến khích nhận làm con nuôi. Dù hoàn cảnh nào các em đều là những con người thực sự cần tình cảm yêu thương và bàn tay chăm sóc của cha mẹ. Hơn nữa do hậu quả chiến tranh để lại, đặc biệt là do tác động của chất độc màu da cam, trên thực tế rất nhiều trẻ em sinh ra không được nguyên vẹn về thể chất và trí não, bố mẹ các em vì điều kiện kinh tế quá khó khăn không thể chăm sóc, chạy chữa được, việc khuyến khích nhận những trẻ em này làm con nuôi để có cơ hội cho các em được chữa bệnh, chăm sóc giáo dục tốt hơn là chủ trương nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta.
-
Giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi có các nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con theo quy định của Luật này.
Quy định này xuất phát từ nguyên tắc Hiến định "Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú"[29], việc nhận nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa các bên, vì vậy quyền và nghĩa vụ phát sinh giữa cha mẹ nuôi và con nuôi cũng là quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con. Con nuôi cũng có đầy đủ mọi nghĩa vụ và quyền trong quan hệ với cha mẹ nuôi như con đẻ, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào giữa con nuôi và con đẻ. Đồng thời, cha mẹ nuôi cũng có đầy đủ mọi nghĩa vụ và quyền đối với con nuôi như là cha mẹ đẻ đối với đứa con do mình sinh ra.
Trước đây, Pháp luật phong kiến chia con nuôi là hai loại là con nuôi lập tự và con nuôi thông thường. Con nuôi có nghĩa vụ như con đẻ (như nghiã vụ chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, nghĩa vụ để tang...), cha mẹ nuôi có nghĩa vụ nuôi dưỡng giáo dục con nuôi chu đáo, ân cần. Con nuôi lập tự (chỉ trong gia đình không có con) có quyền tương đương con đẻ (ví dụ như được hưởng toàn bộ gia sản sau khi bố mẹ nuôi qua đời), mặt khác phải có nghĩa vụ phụng dưỡng hiếu thảo với cha mẹ nuôi. Với con nuôi thông thường thì việc đối xử có sự khác biệt, ví dụ hình phạt cho con nuôi thông thường có nương nhẹ hơn con đẻ nếu có sự vi phạm nghĩa vụ làm con (Điều 506 Quốc triều hình luật) nhưng quyền thừa kế lại sau con đẻ và con nuôi lập tự một bậc. Có thể thấy, pháp luật phong kiến ít nhiều có sự phân biệt giữa con nuôi và con đẻ, giữa các loại con nuôi với nhau.
-
Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác.
Đây là quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, quy định này nhằm đảm bảo đúng mục đích của việc nuôi con nuôi. Thực tế thời gian qua, ở một số địa phương, do việc buông lỏng quản lý và lợi dụng kẽ hở của pháp luật đã phát sinh các hiện tượng tiêu cực trong quá trình giải quyết cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Một số cơ sở y tế hoặc cá nhân dưới danh nghĩa nhân đạo, tư vấn pháp lý hoặc làm đại diện cho các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam đã có các hành vi thu gom, móc nối, môi giới trẻ em giữa bên cho và bên nhận để trục lợi. Một số trường hợp khác người nhận nuôi đã lợi dụng việc nuôi con nuôi có các hành vi bóc lột sức lao động của con nuôi, xâm phạm tình dục đối với con nuôi. Những việc làm đó là hoàn toàn trái với mục đích của việc nhận nuôi con nuôi, trái pháp luật và đạo đức xã hội. Quy định này của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 chính là cơ sở để phòng ngừa, ngăn chặn, và xử lý những hiện tượng xã hội tiêu cực đó. Trên cơ sở quy định này, pháp luật có các chế tài hành chính và hình sự tương ứng.
|
|
Điều 68. Người được nhận làm con nuôi
1. Người được nhận làm con nuôi phải là người từ mười lăm tuổi trở xuống.
Người trên mười lăm tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu cô đơn.
2. Một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của cả hai người là vợ chồng.
|
|
Điều 68 quy định những điều kiện của người được nhận làm con nuôi
-
Về độ tuổi của con nuôi:
Giữa người nhận con nuôi và con nuôi phải tuân theo những điều kiện nhất định về độ tuổi để đảm bảo có sự chênh lệnh và khoảng cách cần thiết giữa hai thế hệ. Có như vậy việc nuôi con nuôi mới bảo đảm được mục đích là xác lập quan hệ cha mẹ và con, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội.
-
Người được nhận làm con nuôi phải là “người từ mười lăm tuổi trở xuống”.
Quy định này xuất phát từ cơ sở những người chưa thành niên từ 15 tuổi trở xuống là người chưa có năng lực hành vi đầy đủ, họ chưa nhận thức được đầy đủ hành vi của mình, quan hệ nuôi con nuôi sẽ đảm bảo cho người con nuôi có được sự giám hộ của cha mẹ nuôi. Hơn nữa, thực tế những người trên 15 tuổi đã có thể tự lập kiếm sống nuôi bản thân và thông thường người nhận con nuôi cũng mong muốn được bảo trợ cho những em nhỏ, tạo cho các em mái ấm gia đình. Như vậy nếu nhận người đã thành niên hoặc người trên 15 tuổi thì mục đích của việc nhận con nuôi ít nhiều không còn nguyên giá trị.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 chưa hề có quy định về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi, đến Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 điều kiện này mới được quy định nhằm đảm bảo khoảng cách cần thiết của cha mẹ và con, khuyến khích nhận trẻ em làm con nuôi. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã kế thừa quy định về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi. Quy định về độ tuổi này hoàn toàn phù hợp với Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi mà Việt Nam đã ký kết với Pháp.
Trong quá trình soạn thảo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, đã có ý kiến quy định độ tuổi của người được nhận làm con nuôi là "dưới 15 tuổi", ý kiến này không hợp lý vì nếu như vậy sẽ chênh lệch 1 tuổi so với Luật Hôn nhân gia đình 1986 và mâu thuẫn với Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với Pháp trong đó hai bên thoả thuận độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi là từ 15 tuổi trở xuống. Quy định về độ tuổi như vậy là hợp lý, vừa đảm bảo sự kế thừa vừa phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
-
Trong trường hợp sau người trên 15 tuổi có thể được nhận làm con nuôi:
- Thứ nhất: Người được nhận làm con nuôi là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự. Những người này, nếu phát triển bình thường thì họ có thể tự chăm sóc cho cuộc sống của mình, tuy nhiên do hạn chế về thể chất hoặc tinh thần nên họ khó có thể tự đảm bảo cho cuộc sống của bản thân, và về bản chất thì những người này cũng gần giống với người từ 15 tuổi trở xuống, họ là những người thật sự cần được chăm sóc, giúp đỡ. So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy tiến bộ hơn, nếu trước kia chỉ có người có nhược điểm về thể chất trên 15 tuổi thì mới được nhận làm con nuôi thì nay Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định không những người có nhược điểm về thể chất mà cả những người có nhược điểm về tinh thần cũng được nhận làm con nuôi mà không giới hạn tuổi tác của họ.
- Thứ hai: Người trên 15 tuổi làm con nuôi cho người già yếu cô đơn. Đây là trường hợp ngoại lệ vì việc nhận nuôi con nuôi không phải xuất phát từ lợi ích mang lại cho người được nhận nuôi con nuôi mà là xuất phát từ lợi ích của người nuôi con nuôi, đó là nhằm chăm sóc, giúp đỡ người nhận nuôi con nuôi. Trong trường hợp này, người được nhận làm con nuôi hay nói đúng hơn là người nhận cha mẹ nuôi là những người trên 15 tuổi, không những có đầy đủ khả năng để chăm lo cho chính mình mà còn muốn đem lại sự chăm sóc, nuôi dưỡng người già yếu cô đơn giúp đỡ họ phần nào khó khăn trong cuộc sống, sinh hoạt và tình cảm. Quy định này của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là sự kế thừa của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, đó chính là sự thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta là lá lành đùm lá rách, tương thân tương ái, thể hiện tấm lòng nhân ái và tình cảm gia đình nhân hậu của con người Việt Nam..
Hầu hết các nước đều quy định người được nhận làm con nuôi phải là vị thành niên (trừ một số nước có chế định riêng đối với việc nuôi con nuôi đã thành niên như Đức), quy định về độ tuổi thành niên của các nước là tương đối khác nhau, ví dụ Hà Lan quy định tuổi thành niên là 18, việc nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi thì người con nuôi phải dưới 6 tuổi. Trung Quốc quy định trẻ em vị thành niên là trẻ em dưới 14 tuổi và chỉ những nhóm trẻ em sau mới có thể làm con nuôi: trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em con các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Như vậy so với pháp luật một số nước, pháp luật Việt Nam cho phép nhận người trên 15 tuổi, người đã thành niên làm con nuôi trong những trường hợp đặc biệt nói trên thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của Đảng và Nhà nước.
2. Một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của cả hai người là vợ chồng
Quy định này nhằm đảm bảo cho người con nuôi về nơi ăn, chốn ở, về sự hoà hợp và sự ổn định thống nhất trong cách sống, cách chăm sóc giáo dục. Nếu một người làm con nuôi của nhiều người khác nhau thì sẽ khó có sự ổn định cho người con nuôi, bởi vì nếu như vậy thì người con nuôi sẽ phải hôm nay ở với người này mai ở với người kia, đồng chịu hưởng của cách giáo dục không giống nhau của những người nhận nuôi dẫn đến hiện tượng trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Thêm vào đó, nếu một người được nhận làm con nuôi của nhiều gia đình sẽ làm mất đi mục đích xã hội của việc nuôi con nuôi, bởi lẽ trong trường hợp đó người con nuôi đã được hưởng sự chăm sóc giáo dục, quan hệ con nuôi với một người khác nữa là điều không cần thiết.
Quy định này là phù hợp với pháp luật các nước trên thế giới, hầu hết các nước đều quy định không được phép làm con nuôi hai lần, quy định này nhằm mục đích chống lại khả năng lạm dụng việc nuôi con nuôi để buôn bán trẻ em. Tuy nhiên, pháp luật các nước quy định trường hợp ngoại lệ là nếu bố mẹ nuôi hoặc người nhận nuôi chết trong khi con nuôi chưa thành niên thì người con nuôi đó có thể được nhận làm con nuôi của người khác.
Trên tinh thần của điều luật này, theo quan điểm của chúng tôi, quy định "Một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của cả hai người là vợ chồng" không áp dụng với trường hợp người đã thành niên làm con nuôi của người già yếu cô đơn. Bởi vì, quan hệ con nuôi là xuất phát từ lợi ích của người nuôi con nuôi, tức là của người già yếu cô đơn, nên một người đã thành niên có thể được nhận là con nuôi của nhiều người già yếu cô đơn. Như vậy sẽ phù hợp với thực tế xã hội Việt Nam hiện nay có không ít người nhận phụng dưỡng chăm sóc nhiều cụ già cô đơn, không nơi nương tựa.
Điều 69. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi
Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:
1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
2. Hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên;
3. Có tư cách đạo đức tốt;
4. Có điều kiện thực tế bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;
5. Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội
|
|
Để bảo đảm cho người nhận nuôi con nuôi làm tốt chức năng làm cha, làm mẹ của mình, người nhận con nuôi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện liên quan đến năng lực hành vi, khoảng cách chênh lệch về độ tuổi, tư cách đạo đức và các điều kiện thực tế khác để được nhận nuôi con nuôi. Bao gồm các điều kiện sau đây:
-
Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ:
Theo quy định của Bộ luật Dân sự, người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người đáp ứng đủ hai điều kiện sau:
- Từ đủ mười tám tuổi trở lên,
- Không phải là người bị mất năng lực hành vi dân sự (người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình hoặc người bị Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự). Và không phải là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (người do nghiện ma tuý hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình, bị Toà án ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự).
Điều kiện về năng lực hành vi dân sự của người nhận nuôi con nuôi là quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Quy định này là cần thiết nhằm đảm bảo cho người con nuôi có được một cuộc sống trọn vẹn, được chăm sóc nuôi dưỡng... Nếu người nhận con nuôi không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì họ không thể tự nhận thức được trách nhiệm làm cha, làm mẹ của họ, họ không thể thể hiện ý chí của mình một cách đúng đắn trong quyết định nhận con nuôi và trong suốt quá trình nuôi dưỡng sẽ không thể đảm bảo cho người con nuôi có được cuộc sống bình thường, mục đích của việc nuôi con nuôi không đạt được.
Tuy nhiên, trong trường hợp người nuôi con nuôi là người già yếu cô đơn thì vấn đề năng lực hành vi dân sự không đặt ra đối với người nuôi mà trái lại người con nuôi, (tức là người nhận người già yếu cô đơn làm cha, mẹ nuôi) phải có năng lực hành vi đầy đủ.
-
Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên:
Quy định này kế thừa Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, đây là điều kiện là cần thiết vì cha mẹ nuôi có các nghĩa vụ của cha mẹ đối với con, để có thể đảm đương được nghĩa vụ của mình.Về mặt sinh học, giữa hai thế hệ kế cận luôn có một khoảng cách tuổi tác mới đảm bảo được sự tôn trọng và khả năng nuôi dưỡng giáo dục con cái. Đồng thời quy định này cũng nhằm tránh những trường hợp người nhận nuôi con nuôi lạm dụng tình dục đối với người con nuôi.
Nếu một người làm con nuôi của cả hai vợ chồng thì cả cha nuôi, mẹ nuôi đều phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên.
Hầu hết pháp luật các nước đều quy định yêu cầu tuổi của người nhận nuôi con nuôi. Tuy nhiên, tuổi tối thiểu để có thể nhận con nuôi là khác nhau tuỳ từng điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau của mỗi nước, mà đến một độ tuổi nào đó con người mới có được nhận thức về trách nhiệm làm cha, làm mẹ và kinh nghiệm tâm lý xã hội; có đủ khả năng tài chính để gánh vác trách nhiệm đó. (Ví dụ Hàn Quốc quy định người thành niên có thể nhận nuôi con nuôi, Trung Quốc quy định người từ 35 tuổi trở lên có thể nhận nuôi con nuôi, Phần Lan quy định người từ 25 tuổi trở lên có thể nhận con nuôi, Pháp quy định độ tuổi này là 30 tuổi). Ngoài ra pháp luật các nước còn quy định độ tuổi chênh lệch giữa người nhận nuôi con nuôi và người được làm con nuôi (Pháp quy định người nuôi con nuôi phải nhiều hơn con nuôi 15 tuổi, ElSaivado yêu cầu độ chênh lệch này là 5 tuổi). So với pháp luật Việt Nam, pháp luật Trung Quốc quy định về điều kiện đối với người nhận con nuôi có phần khắt khe hơn khi yêu cầu họ phải không có con, nếu người đàn ông độc thân muốn nhận một bé gái làm con nuôi thì phải hơn con nuôi ít nhất là 40 tuổi
-
Có tư cách đạo đức tốt, có điều kiện thực tế để bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi:
Đây là điều kiện hết sức quan trọng để bảo đảm cho người con nuôi, nhất là người con nuôi chưa thành niên, được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt, được sống trong một môi trường lành mạnh, thuận lợi cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Quy định này là điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Do trên thực tế nhiều người nhận nuôi con nuôi đã không thực hiện trách nhiệm làm cha làm mẹ mà có sự phân biệt đối xử giữa con nuôi và con đẻ, có hành vi ngược đãi con nuôi hoặc tạo không khí nặng nề trong gia đình, có trường hợp hoàn cảnh kinh tế quá khó khăn không đảm bảo việc chăm sóc nuôi dưỡng con cái. Người con nuôi đã không có một mái ấm gia đình thực sự, mục đích việc nhận con nuôi không đảm bảo.
Tuy nhiên, trong trường hợp người già yếu cô đơn nhận con nuôi thì quy định này khó đảm bảo được, bởi chính họ là người cần được trông cậy, chăm sóc nên khó có thể đáp ứng được yêu cầu "có đủ điều kiện thực tế" (ví dụ như về sức khoẻ). Vì vậy, có thể khẳng định rằng điều kiện này không áp dụng đối với trường hợp người già yếu, cô đơn nhận người trên 15 tuổi làm con nuôi. Theo chúng tôi khoản 4 điều 69 cần bổ sung "không áp dụng quy định này trong trường hợp người nhận con nuôi là người già yếu" để phù hợp với Điều 68.
Nhiều nước trên thế giới cũng quy định điều kiện người nhận nuôi con nuôi phải có đủ năng lực về tài chính, có nhân cách tốt, có sức khoẻ tốt và quan hệ giữa bố mẹ nuôi phải thích hợp để nuôi dạy con nuôi (Điều 268a BLDS Thuỵ Sỹ, Điều 6 điểm 2 Luật về nhận nuôi con nuôi của CHND Trung Hoa). Một số nước còn quy định rằng, khi xem xét đơn xin công nhận việc nuôi con nuôi Toà án có thể lấy ý kiến giám định về các điều kiện nói trên đối với người nhận nuôi con nuôi (Thuỵ Sỹ, Gahna), đối với việc nhận con nuôi nước ngoài, người muốn nhận con nuôi phải qua một khoá huấn luyện về nuôi con nuôi người nước ngoài (Hà Lan).
-
Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Đây là những quy định mới bổ sung của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Những người đã có những hành vi trên thì không thể có đủ tư cách đạo đức để nuôi dạy con nuôi, vì bản thân họ đã xâm hại đến những người thân thiết, máu mủ của họ thì không thể là tấm gương cho người con nuôi noi theo, không có gì đảm bảo được rằng họ sẽ đối xử tốt với người được nhận làm con nuôi. Quy định nhằm đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi được sống trong một môi trường trong sạch, được chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục tốt về thể chất và nhân cách.
Theo chúng tôi cần cho phép một số trường hợp ngoại lệ không đủ điều kiện vẫn được nhận con nuôi. Như trường hợp sau có thể là ngoại lệ cho phép nhận con nuôi khi không đủ điều kiện về độ tuổi: A có con nuôi (cũng tương tự với con riêng hoặc con ngoài giá thú) là B trước khi kết hôn, sau đó A lập gia đình với C, C muốn nhận B là con nuôi của mình, nhưng C lớn hơn B chỉ có 15 tuổi, nếu không cho phép C nhận B làm con nuôi, thì họ sống trong một gia đình nhưng không phát sinh quan hệ cha mẹ con mà chỉ là quan hệ về quyền và nghĩa vụ của bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ, chồng.
Điều 70. Vợ chồng cùng nhận nuôi con nuôi
Trong trường hợp vợ chồng cùng nhận nuôi con nuôi thì vợ chồng đều phải có đủ các điều kiện quy định tại Điều 69 của Luật này.
|
|
Điều kiện cơ bản đối với trường hợp vợ chồng cùng nhận nuôi con nuôi là cả vợ và chồng đều phải có đáp ứng đầy đủ các quy định tại Điều 69. Quy định này là hết sức cần thiết nhằm khẳng định tư cách đạo đức, ý thức pháp luật, điều kiện về thời gian, về kinh tế của người nhận con nuôi, bảo đảm cho người con nuôi được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục tốt, lớn lên trong một môi trường lành mạnh. Trong trường hợp nếu một bên vợ hoặc chồng không có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 69 của Luật thì cặp vợ chồng đó cũng không được nhận nuôi con nuôi, ví dụ: một bên vợ hoặc chồng có độ tuổi chênh lệch so với con nuôi không đủ điều kiện thực tế, điều kiện về đạo đức... Trong các trường hợp như vậy thì cặp vợ chồng đó cũng không được nhận nuôi con nuôi.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không cấm vợ hoặc chồng nhận nuôi con nuôi riêng, nên được hiểu là pháp luật nước ta cho phép vợ hoặc chồng nhận nuôi con nuôi riêng. Mặt khác khoản 2 Điều 68 quy định "Một người chỉ có thể được làm con nuôi của một người hoặc của cả hai người là vợ chồng", như vậy vợ hoặc chồng hoàn toàn có thể được nhận con nuôi riêng. Điều này cũng phù hợp trong trường hợp một trong hai vợ chồng không đủ điều kiện theo quy định tại Điều 69. Vì vậy nếu trong trường hợp một người không đáp ứng được các điều kiện nhận nuôi con nuôi thì người có đủ điều kiện vẫn có quyền nhận nuôi con nuôi riêng. Thực tế hiện nay có nhiều trường hợp chỉ một bên vợ hoặc chồng có yêu cầu nhận nuôi con nuôi riêng, vì nhiều lý do khác nhau, ví dụ: do người vợ không đủ độ tuổi chênh lệch là 20 tuổi so với người mà cặp vợ chồng đó muốn nhận làm con nuôi hoặc do chỉ một bên muốn nhận con nuôi.
Trước đây, Điều 36 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: “Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự thoả thuận của hai vợ chồng người nuôi”, tuy nhiên, trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không có quy định này. Đây chính là điểm tiến bộ của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, bởi vì quyền được nhận nuôi con nuôi là quyền nhân thân của mỗi con người họ có quyền tự do nhận hay không nhân con nuôi mà không phụ thuộc vào ý chí của người khác.
Tuy nhiên pháp luật không điều chỉnh một vấn đề rất dễ xảy ra xung đột là trường hợp trong gia đình chỉ có vợ hoặc chồng nhận con nuôi còn người kia phản đối hoặc không có ý kiến gì. Vậy tài sản dùng vào việc chăm sóc, nuôi dưỡng con nuôi sẽ là tài sản chung hay tài sản riêng, nếu người nhận con nuôi không có tài sản riêng và người vợ hoặc chồng không đồng ý cho sử dụng tài sản chung để nuôi dưỡng con nuôi sẽ xử lý như thế nào? Mặt khác, quan hệ cha mẹ con, quan hệ thừa kế cũng không phát sinh mà giữa họ chỉ có quan hệ bố dượng hoặc mẹ kế với con riêng của vợ, chồng. Điều này không bảo đảm các điều kiện thuận lợi thông thường cho việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đối với con nuôi, nhất là đối với người chưa thành niên. Theo chúng tôi, đây là vấn đề cần được pháp luật về hôn nhân và gia đình quy định cụ thể để điều chỉnh thống nhất.
Khác với Việt Nam, trường hợp hai vợ chồng cùng nhận nuôi con nuôi, bên cạnh một số điều kiện về độ tuổi, đạo đức... pháp luật một số nước còn quy định phải đảm bảo điều kiện thời gian đã kết hôn với nhau nhằm đảm bảo tính ổn định của gia đình mà đứa trẻ được nhận về nuôi, trách sự xáo trộn xấu như bố mẹ nuôi ly hôn, cãi vã, xung đột (hầu hết các nước như Pháp, Thuỵ Sỹ quy định là 5 năm vì khoa học tâm lý đã chứng minh rằng khủng hoảng tâm lý gia đình thường xảy ra trong 5 năm đầu sau khi kết hôn).
|
|
Điều 71. Sự đồng ý của cha mẹ đẻ, người giám hộ và người được nhận làm con nuôi
1. Việc nhận người chưa thành niên, người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự làm con nuôi phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ đẻ của người đó; nếu cha mẹ đẻ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được cha, mẹ thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của người giám hộ.
2. Việc nhận trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên làm con nuôi phải được sự đồng ý của trẻ em đó.
|
|
Trước đây, Điều 36 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định “việc nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ hoặc người đỡ đầu của người con nuôi chưa thành niên”. Quy định này chưa chặt chẽ và thiếu rõ ràng, do vậy, Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định điều kiện về ý chí chủ thể trong quan hệ nhận nuôi con nuôi đã khắc phục được hạn chế nói trên.
-
Trường hợp nhận người chưa thành niên, người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự (Khoản 1 Điều 71)
- Nếu cả cha mẹ đẻ của người con nuôi con sống và đều có năng lực hành vi dân sự thì việc nhận người chưa thành niên, người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự làm con nuôi phải có sự đồng ý bằng văn bản của cả cha mẹ đẻ (kể cả trường hợp họ đã ly hôn);
- Nếu cha hoặc mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi đã chết, hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; hoặc chỉ xác định được một bên cha, mẹ đẻ thì chỉ cần sự đồng ý của người mẹ đẻ hoặc cha đẻ còn sống, có năng lực hành vi dân sự;
- Nếu cả cha và mẹ đẻ đều đã chết; cha hoặc mẹ đẻ đã chết còn người kia mất năng lực hành vi dân sự; cả hai người đều mất năng lực hành vi dân sự; không xác định được cha mẹ đẻ là ai thì việc nhận con nuôi cần phải có sự đồng ý bằng văn bản của người giám hộ. Theo Điều 67 Bộ luật Dân sự thì người giám hộ gồm có “cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan Nhà nước được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ”
Sự đồng ý của cha, mẹ đẻ hoặc của người giám hộ trong tất cả các trường hợp trên phải được thể hiện bằng văn bản và dựa trên ý chí tự nguyện, không bị lừa dối cưỡng ép. Nếu có dấu hiệu lừa dối, cưỡng ép hay gian lận để đạt được sự đồng ý này sẽ bị coi là vô hiệu và việc nuôi con nuôi sẽ bị huỷ.
Pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều quy định hiệu lực của việc nhận nuôi con nuôi phụ thuộc vào sự đồng ý của những người có liên quan. Toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chỉ ra quyết định công nhận việc nuôi con nuôi hoặc cho phép nuôi con nuôi nếu đã có ý kiến đồng ý của những người liên quan. Nhóm người thứ nhất có liên quan gồm là cha mẹ đẻ của đứa trẻ hoặc người đại diện theo pháp luật hoặc người giám hộ hoặc người thân thích hoặc Hội đồng gia tộc (Trung Quốc, Hàn Quốc). Đây là những có trách nhiệm nuôi dạy đứa trẻ và họ có quyền được quyết định giao đứa trẻ cho ai để nó có được cuộc sống tốt đẹp nhất. Nhóm người thứ hai có liên quan là bố mẹ nuôi của đứa trẻ, nếu hai vợ chồng cùng nhận con nuôi thì họ phải cùng làm đơn xin nhận con nuôi, nếu chỉ một người xin nhận con nuôi thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người kia.
-
Trường hợp nhận người từ đủ9 tuổi trở lên làm con nuôi (Khoản2 Điều 71)
Ngoài việc đáp ứng các yêu cầu của khoản 1 Điều 71 còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó. Đây là quy định được kế thừa từ Điều 36 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Quy định này thể hiện sự tôn trọng nguyện vọng của người được nhận làm con nuôi, khi đến độ tuổi này người được nhận làm con nuôi đã có nhận thức về môi trường sống và hệ quả của việc làm con nuôi, họ có quyền không đồng ý làm con nuôi nếu thấy không phù hợp với bản thân. Pháp luật các nước cũng quy định về vấn đề này nhưng độ tuổi khác nhau tuỳ thuộc điều kiện xã hội của mỗi nước, Trung Quốc quy định độ tuổi này là trên 10 tuổi, Đức 14 tuổi, Pháp 13 tuổi, Thuỵ Điển 12 tuổi.... Một số nước còn quy định người muốn nuôi con nuôi phải trải qua một thời gian chung sống và nuôi dạy đứa trẻ nhất định để họ tìm hiểu cá tính, cuộc sống của nhau xem có phù hợp hay không (Pháp quy định 3 tháng, Đức quy định phải có một thời gian hợp lý...).
|
|
Điều 72. Đăng ký việc nuôi con nuôi
Việc nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký và ghi vào Sổ hộ tịch.
Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi, giao nhận con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
|
|
-
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi
-
Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người nuôi hoặc của con nuôi trong trường hợp nhận con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau.
-
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi thường trú của công dân Việt Nam trong trường hợp nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
-
Uỷ ban nhân dân cấp xã trong trường hợp nhận nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với công dân nước láng giềng ở khu vực biên giới.
-
Thủ tục đăng ký nuôi con nuôi, giao nhận nuôi con nuôi được thực hiện theo Nghị định số 83/1998/ NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính Phủ về đăng ký hộ tịch. Cụ thể:
- Về hồ sơ xin nhận con nuôi, Điều 36 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP quy định
"Người xin nhận nuôi con nuôi phải nộp đơn xin nhận nuôi con nuôi, giấy thoả thuận về việc đồng ý cho trẻ em làm con nuôi của cha, mẹ đẻ, người giám hộ, cơ sở y tế hoặc cơ sở nuôi dưỡng và xuất trình các giấy tờ sau:
1. Giấy khai sinh của người nhận nuôi con nuôi;
2. Chứng minh nhân dân của người nhận nuôi con nuôi;
3. Sổ hộ khẩu gia đình của người nhận nuôi con nuôi hoặc của người được làm con nuôi tại nơi đăng ký nhận nuôi con nuôi
4. Giấy khai sinh của người được nhận làm con nuôi. Trong trường hợp trẻ em chưa được khai sinh thì phải đăng ký khai sinh trước khi đăng ký nhận nuôi con nuôi
5. Nếu người được nhận làm con nuôi từ 9 tuổi trở lên thì phải có sự đồng ý của người đó
Trong trường hợp không có đủ các giấy tờ theo quy định tại điểm 1, 2, 3 trên đây, thì phải có giấy tờ hợp lệ thay thế.
Đơn xin nhận nuôi con nuôi phải có xác nhận của cơ quan, đơn vị nơi người nhận nuôi công tác (đối với cán bộ, công chức, người lao động, lực lượng vũ trang nhân dân), hoặc Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú (đối với nhân dân) của người nhận nuôi về việc người đó có tư cách đạo đức tốt và có đủ điều kiện khác để nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Trong đơn phải có cam kết của người xin nhận nuôi con nuôi về việc chăm sóc, giáo dục trẻ em. Nếu người nhận nuôi con nuôi có vợ hoặc chồng, thì đơn phải có chữ ký của cả vợ và chồng.
Trong trường hợp con nuôi là thương binh, người tàn tật hoặc người xin nhận con nuôi già yếu, cô đơn, thì đơn phải có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú về hoàn cảnh đặc biệt đó.
Giấy thoả thuận của cha, mẹ đẻ, người giám hộ, cơ sở y tế, hoặc cơ sở trực tiếp nuôi dưỡng trẻ em về việc đồng ý cho trẻ em đó làm con nuôi phải có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của cha, mẹ, người giám hộ hoặc nơi có trụ sở của cơ sở Y tế, cơ sở trực tiếp nuôi dưỡng trẻ em đó”.
- Về thời hạn đăng ký nhận nuôi con nuôi, Điều 37 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP quy định:
“Khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Uỷ ban nhân dân cấp xã phải tiến hành xác minh việc xin nhận nuôi con nuôi. Trong trường hợp trẻ em được nhận làm con nuôi có nguồn gốc không rõ ràng, thì Uỷ ban nhân dân cấp xã phải tiến hành niêm yết công khai việc xin nhận nuôi con nuôi tại trụ sở Uỷ ban nhân dân, đồng thời thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 7 ngày. Trong trường hợp cần phải xác minh thêm, thì thời hạn kéo dài không quá 7 ngày.
Sau thời hạn nói trên, nếu xét thấy việc xin nhận nuôi con nuôi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và không có khiếu nại, tố cáo thì Uỷ ban nhân dân cấp xã phải thông báo cho bên giao và bên nhận con nuôi biết về ngày đăng ký.
Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày thông báo, nếu bên giao, bên nhận và con nuôi không đến đăng ký việc nhận nuôi con nuôi mà không có lý do chính đáng, thì Uỷ ban nhân dân huỷ việc xin đăng ký nhận nuôi con nuôi đó và thông báo cho đương sự biết. Sau đó, nếu đương sự xin đăng ký lại việc nhận nuôi con nuôi, thì thủ tục đăng ký được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Nghị định này".
- Trường hợp xét thấy có đủ điều kiện công nhận việc nuôi con nuôi, cơ quan có thẩm quyền tiến hành thực hiện lễ giao nhận con nuôi, Điều 38 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP quy định:
Tại lễ giao nhận con nuôi, bên giao, bên nhận con nuôi và người được xin làm con nuôi phải có mặt. Bên giao, bên nhận con nuôi phải cùng ký tên vào Sổ đăng ký nhận nuôi con nuôi và biên bản giao, nhận con nuôi. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ký và trao cho mỗi bên một bản chính Quyết định công nhận nuôi con nuôi, giải thích cho bên nhận nuôi và con nuôi về quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Bản sao và số lượng bản sao Quyết định công nhận nuôi con nuôi cấp theo yêu cầu của hai bên giao và nhận nuôi con nuôi.
Như vậy, pháp luật Việt Nam quy định khá cụ thể và chặt chẽ thủ tục nhận nuôi con nuôi. Pháp luật các nước trên thế giới quy định thủ tục nhận nuôi theo một trong hai phương thức: quyết định của cơ quan có thẩm quyền (Toà án, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Uỷ ban nhân dân địa phương..) hoặc thông qua sự thoả thuận giữa người con nuôi và người nhận con nuôi, dù theo phương thức nào thì hiệu lực của việc nhận con nuôi đều được xác định bằng quyết định hoặc việc vào sổ đăng ký của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
-
Thủ tục đăng ký nuôi con nuôi ở các vùng dân tộc thiểu số được thực hiện theo Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27-03-2002 quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số. Quy định tại Nghị định này có phần đơn giản hơn nhằm phát huy phong tục tập quán tốt đẹp và khuyến khích đồng bào thực hiện đúng các quy định pháp luật.
Điều 15 Nghị định 32/2002/NĐ-CP thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước đối với phong tục tốt đẹp của các đồng bào dân tộc thiểu số: “Nhà nước khuyến khích phát huy tập quán của các dân tộc nhận những người thân thích trong dòng họ có hoàn cảnh khó khăn và trẻ em mồ côi không nơi nương tựa làm con nuôi, nếu việc nuôi con nuôi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật”.
Vận động xoá bỏ tập quán nhận nuôi con nuôi mà người nhận nuôi con nuôi không hơn người được nhận làm con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên. Điều 16 Nghị định 32/2002/NĐ-CP quy định về đăng ký nuôi con nuôi như sau:
- Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người nhận nuôi con nuôi hoặc của người được nhận làm con nuôi, thực hiện việc đăng ký nuôi con nuôi.
- Để tạo điều kiện thuận lợi cho các bên, việc đăng ký nuôi con nuôi được thực hiện tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc tại tổ dân phố, thôn, bản, phum, sóc, nơi cư trú của người nhận nuôi con nuôi hoặc của người được nhận làm con nuôi.
-
Khi đăng ký nuôi con nuôi, người xin nhận nuôi con nuôi phải nộp đơn xin nhận nuôi con nuôi và các giấy tờ hợp lệ khác. Sau khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Uỷ ban nhân dân cấp xã tiến hành xác minh việc xin nhận nuôi con nuôi, nếu đã có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật, thì thực hiện việc đăng ký nuôi con nuôi. Sau khi bên giao và bên nhận nuôi con nuôi cùng ký tên vào Sổ đăng ký nhận nuôi con nuôi và biên bản giao, nhận con nuôi, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ký Quyết định công nhận nuôi con nuôi. Bản chính Quyết định công nhận nuôi con nuôi được trao cho mỗi bên một bản tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc tại nơi cư trú của người nhận nuôi con nuôi hoặc của người được nhận làm con nuôi. Việc đăng ký nuôi con nuôi cho người dân thuộc các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa được miễn lệ phí.
Trên thực tế, nhất là các vùng dân tộc thiểu số tình trạng con nuôi thực tế (tức là không đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền) diễn ra khá phổ biến và hết sức phức tạp. Trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, chúng ta chưa có văn bản nào điều chỉnh cụ thể vấn đề này, cũng không có văn bản hướng dẫn vấn đề đăng ký nuôi con nuôi thực tế có được công nhận hiệu lực hồi tố hay không.
Trước đây Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/1/ 1988 hướng dẫn “Đối với những trường hợp nuôi con nuôi trước ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực (3/1/1987) thì vẫn có giá trị pháp lý (trừ những việc nuôi con nuôi trái với mục đích xã hội của việc nhận nuôi con nuôi như nuôi con nuôi nhằm bóc lột sức lao động hoặc sử dụng con nuôi trong những hoạt động xấu xa, phạm pháp). Nếu việc nhận con nuôi trước đây chưa được ghi vào sổ hộ tịch nhưng việc nuôi con nuôi đã được mọi người công nhận, cha mẹ nuôi đã thực hiện nghĩa vụ đối với con nuôi thì việc nuôi con nuôi vẫn có những hậu quả pháp lý do luật định”. Như vậy quan hệ nuôi con nuôi thực tế xác lập trước ngày 3/1/1987 được thừa nhận.
Tuy nhiên Nghị quyết số 01/NQ- HĐTP đã hết hiệu lực pháp luật và vấn đề này được đề cập đến tại Điều 17 Nghị định số 32/2002/NĐ-CP quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số "Những trường hợp nhận nuôi con nuôi được xác lập trước ngày 01 tháng 01 năm 2001, ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực pháp luật, mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng có đủ điều kiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và trên thực tế, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi đã được xác lập, các bên đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình, thì được pháp luật công nhận và được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký nuôi con nuôi. Nếu có tranh chấp liên quan đến việc xác định quan hệ giữa cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi thì do Toà án giải quyết".
Như vậy, Luật Hôn nhân và gia đình chỉ thừa nhận việc nuôi con nuôi thực tế xác lập trước ngày 1/1/2001 đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các quan hệ nuôi con nuôi xác lập sau ngày 1/1/2001 chỉ được pháp luật công nhận sau khi thực hiện thủ tục đăng ký nuôi con nuôi. Các quan hệ nuôi con nuôi ở các vùng khác không thực hiện thủ tục đăng ký không được công nhận giá trị pháp lý.
|
|
Điều 73. Từ chối việc đăng ký nuôi con nuôi
Trong trường hợp một bên hoặc các bên không có đủ các điều kiện nhận nuôi con nuôi hoặc làm con nuôi thì cơ quan đăng ký việc nuôi con nuôi từ chối đăng ký và giải thích rõ lý do bằng văn bản; nếu cha mẹ đẻ, người giám hộ và người nhận nuôi con nuôi không đồng ý thì có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật.
|
|
Về nguyên tắc, để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý, được pháp luật công nhận và bảo vệ thì phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và ghi vào Sổ hộ tịch. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp mặc dù các bên đi đăng ký nuôi con nuôi nhưng do một bên hoặc các bên không có đủ các điều kiện nhận nuôi con nuôi hoặc làm con nuôi thì cơ quan đăng ký việc nuôi con nuôi từ phải chối đăng ký và giải thích rõ lý do bằng văn bản. Nếu cha mẹ đẻ, người giám hộ và người nhận nuôi con nuôi không đồng ý thì có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật.
Quy định này nhằm đảm bảo việc tuân thủ quy định của pháp luật về các điều kiện của người nhận con nuôi và người con nuôi, thông qua đó đảm bảo được mục đích tốt đẹp của quan hệ nuôi con nuôi. Chỉ khi người nhận nuôi con nuôi, đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 69, Điều 70; người được nhận làm con nuôi đáp ứng đầy đủ những điều kiện quy định tại các Điều 68 và các bên các thoả mãn các quy định tại Điều 67, Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì quan hệ nuôi con nuôi đó mới được pháp luật thừa nhận và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành thủ tục đăng ký.
|
|
Điều 74. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi
Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định tại Luật này, kể từ thời điểm đăng ký việc nuôi con nuôi.
Con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng được người khác nhận làm con nuôi vẫn được tiếp tục hưởng mọi quyền lợi của con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng.
|
|
Kế thừa tư tưởng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định kể từ thời điểm đăng ký việc nuôi con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định Luật Hôn nhân và gia đình. Quy định này thể hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các con, con nuôi có quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản như con đẻ. Điều đó có nghĩa rằng từ thời điểm được nhận làm con nuôi thì giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ như giữa cha mẹ đẻ và con đẻ.
Cụ thể là:
- Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con, tôn trọng ý kiến của con, chăm lo việc học tập, giáo dục con để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội;
- Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
- Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập. Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hoà thuận, làm gương tốt cho con về mọi mặt, phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con. Khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được, cha mẹ có thể đề nghị cơ quan nhà nước, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con;
- Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề, tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động xã hội của con;
- Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác đại diện theo pháp luật;
- Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật Dân sự;
- Cha mẹ có quyền quản lý hoặc uỷ quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của con dưới mười lăm tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự, cha mẹ có quyền định đoạt tài sản riêng của con dưới mười lăm tuổi vì lợi ích của con và có tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ chín tuổi trở lên; nếu con từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi định đoạt tài sản riêng có giá trị lớn của mình hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì cũng phải có sự đồng ý của cha mẹ;
- Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con, không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
- Cha mẹ và con có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của Bộ luật Dân sự.
- Con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình;
- Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật; trong trường hợp gia đình có nhiều con, thì các con phải cùng nhau chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ;
Trong quan hệ với cha mẹ đẻ: khác với quy định pháp luật của nhiều nước Phương Tây, theo đó việc nuôi con nuôi theo hình thức trọn vẹn sẽ cắt đứt hoàn toàn quan hệ với cha mẹ đẻ. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người đã được nhận làm con nuôi, pháp luật Việt Nam quy định việc đi làm con nuôi không chấm dứt hoàn toàn quan hệ với cha mẹ đẻ. Quy định này tồn tại từ Quốc triều hình luật, Bộ luật Gia Long, đến các Bộ dân luật đầu thế kỷ XX đều quy định con có nghĩa vụ để tang cho cha mẹ dù đã đi làm con nuôi của người khác, con nuôi vẫn có quyền thừa kế tài sản của cha mẹ đẻ.
Trước đây, trên cơ sở Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ra Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20 tháng 01 năm 1988 trong đó hướng dẫn: Đối với cha mẹ đẻ thì người con nuôi không còn thuộc hàng thừa kế theo luật của cha mẹ đẻ nữa, trừ trường hợp họ được thừa kế theo di chúc của cha mẹ đẻ hoặc được những người thừa kế theo luật bằng lòng cho họ hưởng một phần di sản của người chết. Có thể nói hướng dẫn này của Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP là một bước thụt lùi của pháp luật.
Bộ luật Dân sự năm 1995, tại Điều 681 và Điều 679 đã quy định rõ ràng con nuôi có quyền hưởng thừa kế của cha mẹ nuôi và của cha mẹ đẻ theo quy định của pháp luật và ngược lại.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, đã xác định rõ ràng hơn quyền lợi của con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng: trong trường hợp được người khác nhận làm con nuôi vẫn được tiếp tục hưởng mọi quyền lợi của con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng. Quy định này sẽ tránh trường hợp nhiều cơ quan có thẩm quyền tự ý cắt chế độ chính sách đối với con thương binh, con liệt sĩ, con người có công với cách mạng khi những người này được nhận làm con nuôi, và đồng thời thể hiện của đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, vốn là truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam.
|
|
Điều 75. Thay đổi họ, tên; xác định dân tộc của con nuôi
1. Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi.
Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ chín tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó.
Việc thay đổi họ, tên của con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
2. Việc xác định dân tộc của con nuôi được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của BLDS.
|
|
Quyền thay đổi họ tên và xác định dân tộc là quyền nhân thân được Nhà nước thừa nhận.
-
Về việc thay đổi họ tên của con nuôi
- Căn cứ thay đổi: Điều 29 Bộ luật Dân sự quy định những trường hợp cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thay đổi họ tên, trong đó có trường hợp việc thay đổi họ tên theo yêu cầu của cha, mẹ nuôi về thay đổi họ tên cho con nuôi.
- Thủ tục: thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú hoặc nơi đã đăng ký khai sinh của người có đơn yêu cầu có thẩm quyền cho thay đổi họ, tên, đã được đăng ký trong bản chính Giấy khai sinh.
- Việc thay đổi họ tên cho con nuôi từ đủ 9 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó. Nếu không có sự đồng ý này thì việc thay đổi họ tên không có giá trị pháp lý và không được cơ quan có thẩm quyền công nhận.
-
Việc xác định dân tộc của con nuôi được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, để quy định cụ thể và làm rõ hơn việc xác định dân tộc của con nuôi, tại Điều 22 của Nghị định số 70/2001/NĐ-CP hướng dẫn như sau: “Con nuôi được xác định dân tộc theo dân tộc của cha, mẹ đẻ. Trong trường hợp cha, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau, thì dân tộc của người con nuôi được xác định là dân tộc của cha đẻ hoặc của mẹ đẻ theo tập quán hoặc theo thoả thuận của cha, mẹ đẻ.
Trong trường hợp không xác định được dân tộc của cha, mẹ đẻ của người con nuôi là ai, thì dân tộc của người con nuôi được xác định theo dân tộc của cha, mẹ nuôi; nếu cha, mẹ nuôi thuộc hai dân tộc khác nhau, thì dân tộc của người con nuôi được xác định theo dân tộc của cha nuôi hoặc của mẹ nuôi theo tập quán hoặc theo thoả thuận của cha, mẹ nuôi; nếu sau đó xác định được cha, mẹ đẻ, thì dân tộc của con nuôi có thể được xác định lại theo yêu cầu của người con nuôi đã thành niên, yêu cầu của cha mẹ đẻ hoặc của cha mẹ nuôi”.
Quy định này thể hiện sự tôn trọng quyền của cá nhân đối với thành phần dân tộc, đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần dân tộc.
-
Thủ tục thay đổi họ tên, xác định lại dân tộc: được quy định tại Điều 52, Nghị định số 83/1998/NĐ- CP:
- Thẩm quyền: UBND cấp tỉnh nơi cư trú hoặc nơi đã đăng ký khai sinh của người có đơn yêu cầu thay đổi họ tên, xác định lại dân tộc đã được đăng ký trong bản chính Giấy khai sinh.
- Thủ tục đăng ký việc thay đổi họ tên, xác định lại dân tộc:
Hồ sơ gồm: Bản chính Giấy khai sinh; Sổ hộ khẩu gia đình của người có đơn yêu cầu; Chứng minh nhân dân; Các giấy tờ cần thiết khác chứng minh đủ điều kiện theo quy định tại Điều 29 BLDS (đối với trường hợp xin thay đổi họ, tên), và Điều 30 BLDS (đối với trường hợp xin xác định lại dân tộc). Trong trường hợp không có đủ các giấy tờ theo quy định trên đây thì phải có giấy tờ hợp lệ thay thế.
Trong 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, nếu xét thấy việc xin thay đổi họ tên, xác định lại dân tộc không trái với các quy định của pháp luật, thì Chủ tịch UBND cấp tỉnh ký và cấp cho đương sự một bản chính Quyết định cho phép thay đổi họ tên, xác định lại dân tộc. Sở Tư pháp ghi rõ nội dung thay đổi vào Sổ đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch và bản chính Giấy khai sinh của đương sự và gửi một bản sao cho cơ quan Công an cùng cấp, UBND cấp xã nơi đã đăng ký khai sinh.
Điều 76. Chấm dứt việc nuôi con nuôi
Theo yêu cầu của những người quy định tại Điều 77 của Luật này, Toà án có thể quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp sau đây:
1. Cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi;
2. Con nuôi bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của cha, mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha, mẹ nuôi hoặc có hành vi phá tán tài sản của cha, mẹ nuôi;
3. Cha mẹ nuôi đã có các hành vi quy định tại khoản 3 Điều 67 hoặc khoản 5 Điều 69 của Luật này.
|
|
Khác với quan hệ pháp luật giữa cha mẹ đẻ và con đẻ không thể “khước từ” về mặt pháp lý, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có thể chấm dứt trong một số trường hợp nhất định. Cách thức thiết lập quan hệ nuôi con nuôi ảnh hưởng đến cách thức chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi. Quan hệ nuôi con nuôi được xác lập trên cơ sở quyết định của Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền và chấm dứt phải bằng quyết định của Toà án.
-
Về các trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi
Điều 39 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 chỉ quy định một số trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi, đó là: khi người nuôi hoặc con nuôi hoặc cả hai người có hành vi nghiêm trọng xâm phạm thân thể, nhân phẩm của nhau hoặc những hành vi khác làm cho tình cảm giữa người nuôi và con nuôi không còn nữa. Điều 76 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 bổ sung thêm trường hợp tự nguyện chấm dứt quan hệ và quy định cụ thể hơn các trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi.
- Quan hệ chấm dứt khi hai bên tự nguyện (Khoản 1 Điều 76)
Trường hợp này được hiểu là khi giữa cha, mẹ nuôi và người con nuôi vì một lý do nào đó lại không muốn tiếp tục quan hệ nuôi con nuôi nữa mà mong muốn chấm dứt quan hệ đó một cách tự nguyện, không bên nào cưỡng ép bên nào thì toà án có quyền ra quyết định chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi giữa họ với nhau.
-
Quan hệ chấm dứt khi con nuôi vi phạm pháp luật (Khoản 2 Điều 76):
Việc nuôi con nuôi là sự thiết lập mối quan hệ giữa cha mẹ và con, đảm bảo cho cha mẹ nuôi và người được nhận làm con nuôi được hưởng sự chăm sóc lẫn nhau, khi người con nuôi đã có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm của cha mẹ nuôi, ngược đãi hành hạ cha mẹ nuôi... và bị toà án kết tội thì rõ ràng mục đích xã hội của quan hệ nuôi con nuôi đã không đạt được và việc tiếp tục quan hệ nuôi con nuôi là không cần thiết, làm thiệt hại đến quyền lợi của cha, mẹ nuôi. Quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt nhằm bảo vệ quyền lợi của cha mẹ nuôi do con nuôi không thực hiện đúng vai trò của người con trong gia đình
-
Quan hệ chấm dứt khi cha, mẹ nuôi vi phạm pháp luật (khoản 3 Điều 76):
+ Cha mẹ nuôi có hành vi ngược đãi con nuôi, không thực hiện đúng mục đích của việc nhận nuôi con nuôi
+ Cha mẹ nuôi đã lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác hoặc cha mẹ nuôi bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác, ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Rõ ràng trong trường hợp này mục đích xã hội và tính nhân đạo của việc nuôi là không đạt được, người nhận nuôi con nuôi đã không chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục người con nuôi mà ngược lại còn có hành vi xâm phạm đến người con nuôi hoặc có những hành vi vi phạm pháp luật hình sự, điều đó ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của người được nhận là con nuôi, việc huỷ bỏ quan hệ này là vì hạnh phúc và sự phát triển của người con nuôi.
Chỉ khi có một trong ba căn cứ trên dây thì toà án mới có quyền ra quyết định chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi, nếu không có căn cứ nào trên đây thì toà án không có quyền ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Cũng như pháp luật hầu hết các nước trên thế giới (Pháp, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc) việc pháp luật Việt Nam quy định 3 lý do để huỷ bỏ việc nuôi con nuôi là hoàn toàn phù hợp với quyền lợi của các bên có liên quan, phù hợp với tình hình thực tế khi mục đích của việc nuôi con nuôi không đạt được.
|
|
Điều 77. Người có quyền yêu cầu Toà án chấm dứt việc nuôi con nuôi
1. Con nuôi đã thành niên, cha, mẹ đẻ, người giám hộ của con nuôi, cha, mẹ nuôi theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp quy định tại Điều 76 của Luật này.
2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp quy định tại điểm 2 và điểm 3 Điều 76 của Luật này.
3. Cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp quy định tại điểm 2 và điểm 3 Điều 76 của Luật này:
a) Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em;
b) Hội liên hiệp phụ nữ.
4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp quy định tại điểm 2 và điểm 3 Điều 76 của Luật này.
|
|
Quan hệ nuôi con nuôi được xác lập trên cơ sở đăng ký tại cơ quan hộ tịch bởi vậy và việc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi dựa trên quyết định của toà án nhân dân.
- Quan hệ nuôi con nuôi được xác lập trên cơ sở nuôi dưỡng và có tính chất từ nguyện. Chính vì thế khi các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi cảm thấy không cần thiết hoặc không có khả năng duy trì hoặc việc kéo dài quan hệ nuôi con nuôi làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên thì trước hết chính họ là người có quyền yêu cầu toà án hoặc đề nghị viện kiểm sát yêu cầu toà án ra quyết định chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi dựa trên những căn cứ do pháp luật quy định. Các chủ thể đó là: Con nuôi đã thành niên, cha, mẹ đẻ, người giám hộ của con nuôi, cha, mẹ nuôi.
- Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể, đây là cơ quan có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm quyền dân chủ của công dân và trật tự an toàn xã hội. Điều 28 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989 quy định Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong trường hợp người con nuôi bị kết án về một trong các tội xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của cha, mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha, mẹ nuôi hoặc có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi hoặc trong các trường hợp cha mẹ nuôi đã lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác hoặc cha, mẹ nuôi bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác, ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
-
Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ là những tổ chức xã hội luôn chăm lo cho sự phát triển của trẻ em. Đây là những cơ quan gần gũi với đời sống của trẻ em và gia đình các em nhất, họ có thể sát sao thực tế cuộc sống của các em và đưa ra những kiến nghị phù hợp nhất. Chính vì vậy pháp luật cũng quy định các cơ quan này cũng có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp đã nêu trên theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Trước đây, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu Toà án chấm dứt việc nuôi con nuôi. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ quy định Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Hội Liên hiệp phụ nữ là những tổ chức có quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị Viện kiểm sát nhân dân yêu cầu Toà án chấm dứt việc nuôi con nuôi; còn Công Đoàn, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và các cá nhân tổ chức khác chỉ có quyền đề nghị Viện kiểm sát nhân dân yêu cầu Toà án chấm dứt. Quy định mới này phù hợp hơn với thực tiễn cuộc sống và trách nhiệm của những cơ quan có liên quan. Có thể nói quy định cụ thể về những người có quyền yêu cầu Toà án chấm dứt việc nuôi con nuôi đã tạo ra một hành lang pháp lý tốt nhất cho các bên trong quan hệ được bảo vệ và tự quyết định cuộc sống của bản thân.
|
|
Điều 78. Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi
1. Khi chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quyết định của Toà án, các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi cũng chấm dứt; nếu con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì Toà án ra quyết định giao người đó cho cha mẹ đẻ hoặc cá nhân, tổ chức trông nom, nuôi dưỡng.
|
|
Đây là quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Khi quyết định chấm dứt quan hệ hôn nhân của Toà án nhân dân có hiệu lực thì mọi quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa cha mẹ nuôi và con nuôi hoàn toàn chấm dứt. Kể từ thời điểm này các bên không có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Người con nuôi và cha mẹ nuôi không có quyền thừa kế đối với khối di sản của nhau nếu thời điểm mở thừa kế xảy ra sau khi quyết định chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi có hiệu lực. Khác với Việt Nam, Pháp luật Trung Quốc quy định khi quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt, con nuôi đã thành niên vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho bố mẹ nuôi nếu bố mẹ nuôi thực sự khó khăn, nhằm hạn chế sự “vong ân bội nghĩa” của người con nuôi.
Việc giải quyết tài sản khi chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi dựa trên nguyên tắc nếu con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó của mình, trong trường hợp người con nuôi đã có công đóng góp xây dựng khối tài sản chung của gia đình cha mẹ nuôi thì được trích một phần từ khối tài sản chung đó trên cơ sở thoả thuận của các bên. Nếu giữa các bên không thể tự thoả thuận được việc phân chia tài sản đó thì họ có thể yêu cầu toà án giải quyết, việc giải quyết của toà án dựa trên việc xác định công sức đóng góp của người con nuôi vào khối tài sản chung.
Khi quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt, nếu người con nuôi đã thành niên thì họ có quyền sống độc lập chăm lo cho cuộc sống riêng của bản thân mình mà không phụ thuộc vào bố mẹ đẻ. Tuy nhiên, nếu con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì Toà án ra quyết định giao người đó cho cha mẹ đẻ hoặc cá nhân, tổ chức trông nom, nuôi dưỡng. Điều này là hoàn toàn phù hợp vì chỉ có như vậy mới đảm bảo cho người con nuôi chưa thành niên có đủ điều kiện được chăm sóc, giáo dục và phát triển.
Về quyền đối với họ tên, nếu khi đi làm con nuôi người được nhận làm con nuôi đã thay đổi họ tên trên cơ sở sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với yêu cầu của cha mẹ nuôi thì khi quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt họ vẫn có quyền mang họ tên đó, cha mẹ nuôi không có quyền bắt họ phải từ bỏ họ, tên mà họ đang mang. Tuy nhiên, nếu như người con nuôi đã thành niên hoặc cha mẹ đẻ của người con nuôi chưa thành niên không muốn người này tiếp tục mang họ tên theo họ tên mà cha mẹ nuôi đã thay đổi thì họ có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc lấy lại họ, tên mà cha, mẹ đẻ đã đặt. Việc công nhận này được thực hiện dưới hình thức đăng ký tại cơ quan hộ tịch.
Chương IX
|
Giám hộ giữa các thành viên trong gia đình
|
Quan hệ giám hộ giữa các thành viên trong gia đình được quy định lần đầu tiên trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 với thuật ngữ “đỡ đầu” (từ Điều 46 đến Điều 51). Theo đó, việc đỡ đầu được thực hiện trong trường hợp cần bảo đảm việc chăm nom, giáo dục và bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên mà cha mẹ đã chết, hoặc tuy cha mẹ còn sống nhưng không có điều kiện để làm những nhiệm vụ đó (Điều 1). Tuy nhiên, các quy định về vấn đề đỡ đầu trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 rất sơ sài, không quy định cụ thể ai là người thực hiện việc đỡ đầu, thủ tục cử người đỡ đầu, cũng như khi không cử được người đỡ đầu thì cơ quan, tổ chức nào đứng ra thực hiện nhiệm vụ này nên trên thực tế việc thực hiện các quy định này gặp nhiều khó khăn.
Ngày 28-10-1995, Bộ luật Dân sự đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-1996 đã quy định khá đầy đủ về việc chăm sóc và bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ nói chung đã được quy định trong Bộ luật Dân sự một cách khá đầy đủ. Bộ luật Dân sự đã làm rõ khái niệm cũng như các đối tượng được giám hộ, nghĩa vụ của người được giám hộ và của người giám hộ. Điều 67 Bộ luật Dân sự quy định “Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan nhà nước (gọi là người giám hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình (gọi là người được giám hộ)”.
Với Chế định giám hộ trong Bộ luật Dân sự, thì các quy định về chế độ đỡ đầu trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 không còn phù hợp và mâu thuẫn với các quy định của Bộ luật Dân sự. Ví dụ điều kiện về độ tuổi của người giám hộ theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 là từ 21 tuổi trở lên (Điều 48), còn theo quy định của Bộ luật Dân sự là từ 18 tuổi trở lên (khoản 1 Điều 69). Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 không có khái niệm về đỡ đầu. Việc đỡ đầu được thực hiện trong trường hợp cần bảo đảm việc chăm nom, giáo dục và bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên mà cha, mẹ đã chết hoặc tuy cha mẹ còn sống nhưng không có điều kiện để thực hiện những trách nhiệm đó (Điều 46 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986). Như vậy, đối tượng được đỡ đầu (giám hộ) quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 hẹp hơn quy định của Bộ luật Dân sự. Đồng thời các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ cũng rất sơ sài, chưa đáp ứng được các yêu cầu của đời sống. Chế định đỡ đầu theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 cần được thay thế phù hợp hơn với yêu cầu và tình hình mới.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời đã khắc phục được nhược điểm thiếu thống nhất trong các quy định pháp luật cùng điều chỉnh vấn đề giám hộ, trong đó Luật đã quy định việc thống nhất áp dụng các quy định về giám hộ trong Bộ luật Dân sự và Luật Hôn nhân và gia đình để tránh trùng lặp, mâu thuẫn. Đồng thời quy định một số vấn đề về giám hộ giữa các thành viên trong gia đình.
|
|
Điều 79. áp dụng pháp luật về giám hộ trong quan hệ gia đình
Khi trong gia đình có người cần được giám hộ thì việc giám hộ được thực hiện theo các quy định về giám hộ của Bộ luật Dân sự và Luật này.
|
|
Điều 79 xác định phạm vi điều chỉnh của các quy định về giám hộ là trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Bộ luật Dân sự điều chỉnh tất cả những vấn đề liên quan đến giám hộ nói chung, không phân biệt mối quan hệ giữa người giám hộ và người được giám hộ. Trong khi đó xuất phát từ nhiệm vụ “bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực phát lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình...”, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ quy định về giám hộ giữa các thành viên trong gia đình chưa được quy định hoặc quy định chưa cụ thể trong Bộ luật Dân sự. Các điều kiện, trình tự, thủ tục đăng ký giám hộ, cử người giám hộ, quyền và nghĩa vụ của người giám hộ, người được giám hộ là các thành viên trong gia đình cũng phải tuân theo các quy định chung của Bộ luật Dân sự.
-
Về đối tượng được giám hộ
Các đối tượng được giám hộ được quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 67 BLDS. Trong đó các đối tượng được giám hộ được chia làm hai loại:
- Đối tượng bắt buộc phải có người giám hộ: người dưới mười lăm tuổi khi không còn cả cha lẫn mẹ hoặc tuy còn cha và mẹ, nhưng họ đều mất năng lực hành vi, bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục và có yêu cầu hoặc người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
- Đối tượng không bắt buộc phải có người giám hộ: người chưa thành niên ở lứa tuổi từ 15 đến dưới 18 mà không còn cả cha lẫn mẹ, hoặc còn cha, mẹ, nhưng họ đều bị mất năng lực hành vi, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ, không có điều kiện chăm sóc, giáo dục và có yêu cầu về việc giám hộ cho con mình.
Quy định này xuất phát từ việc năng lực hành vi dân sự của cá nhân được pháp luật thừa nhận phụ thuộc vào khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của họ, nên cá nhân ở mỗi độ tuổi, mỗi mức độ phát triển có trình độ nhận thức và năng lực hành vi dân sự khác nhau. Người chưa đủ sáu tuổi là người không có năng lực hành vi dân sự. Mọi giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi đều phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng đủ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không đòi hỏi phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Điều 22, 23 BLDS). Pháp luật không đặt ra vấn đề bắt buộc phải có giám hộ đối với người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi.
-
Người giám hộ: Cha, mẹ có thể giám hộ cho con cái; Con đã thành niên giám hộ cha mẹ; Anh, chị em đã thành niên giám hộ cho nhau; Ông, bà giám hộ cho cháu, và những người thân thích khác. Mục đích của giám hộ là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
Để trở thành người giám hộ cá nhân phải có đủ những điều kiện sau đây:
- Đủ mười tám tuổi trở lên;
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Có điều kiện cần thiết bảo đảm thực hiện việc giám hộ.
Vấn đề là hiểu như thế nào về “điều kiện cần thiết để đảm bảo thực hiện việc giám hộ”. Trên thực tế có những người hoàn toàn có điều kiện về kinh tế, có trình độ hiểu biết, có công ăn việc làm ổn định, nhưng vì công việc luôn luôn phải đi công tác xa thì làm sao có thể thực hiện việc giám hộ đối với một người khác. Hay những người có đủ ba điều kiện trên nhưng không có tư cách đạo đức, phá tán tài sản...thì có tư cách làm giám hộ hay không? Hoặc hiện nay, mức lương thực tế mà Nhà nước quy định áp dụng đối với công chức Nhà nước là rất thấp. Thu nhập ngoài lương không xác định được cụ thể. Vậy nếu xét trên cơ sở lương, thì một công chức chưa thể đảm bảo cuộc sống cho bản thân mình, thì lấy cơ sở nào để xét họ có đủ điều kiện để thực hiện việc giám hộ hay không?
Vì vậy, để có thể đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng của người được giám hộ cũng như tạo điều kiện cho việc áp dụng một cách đúng đắn, thống nhất quy định này cần thiết Nhà nước phải có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn.
-
Nghĩa vụ của người giám hộ
Tùy thuộc vào đối tượng giám hộ là người chưa thành niên ở lứa tuổi nào, hoặc người mất năng lực hành vi dân sự, Bộ luật Dân sự quy định nghĩa vụ cụ thể của người giám hộ.
- Đối với người được giám hộ là người dưới mười lăm tuổi, thì người giám hộ có các nghĩa vụ sau đây:
+ Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ. Người chưa thành niên do mồ côi cha, mẹ, không xác định được cha mẹ, hoặc cả cha và mẹ bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên, thì nghĩa vụ này được người được giám hộ thực hiện. Chăm sóc, giáo dục ở đây được hiểu cả việc nuôi dưỡng bằng các giá trị vật chất và việc chăm lo đời sống tinh thần, giáo dục để người chưa thành niên phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức để trở thành công dân có ích cho xã hội.
+ Người giám hộ có nghĩa vụ đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự vì lợi ích của người được giám hộ. Trong trường hợp pháp luật có quy định người dưới mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự nhằm phục vụ những nhu cầu sinh hoạt hàng ngày (cắt tóc, mua sách vở, ăn quà sáng...) thì người đó có quyền tự thực hiện.
+ Quản lý tài sản của người được giám hộ.
+ Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
- Đối với người được giám hộ là người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi, nghĩa vụ của người giám hộ cũng bao gồm các nghĩa vụ tương tự như đối với người được giám hộ là người dưới mười lăm tuổi, trừ nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục người được giám hộ. Tuy nhiên, mức độ thực hiện các nghĩa vụ về đại diện cho người được giám hộ, quản lý tài sản của người được giám hộ hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người giám hộ cũng có những điểm khác so với nghĩa vụ đối với người được giám hộ là người dưới mười lăm tuổi. Quan điểm của nhà làm luật cho rằng, người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã có những nhận thức và hiểu biết hơn về các giao dịch do mình thực hiện. Thêm vào đó người chưa thành niên ở lứa tuổi này đã có thể tham gia lao động sản xuất để tự nuôi sống bản thân, nên họ có nhiều quyền hơn trong việc quyết định các giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Tuy nhiên, trên thực tế ở lứa tuổi này, nếu không có sự theo dõi, chăm sóc, giáo dục của người giám hộ, hoặc của những người thân thích khác, người chưa thành niên rất dễ bị sa ngã và tiếp tay cho kẻ xấu thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật. Như vậy việc giảm nghĩa vụ (chăm sóc, giáo dục) của người giám hộ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải tự tìm cách vươn lên, nhưng vấn đề này cũng cần phải xem xét lại. Như trên đã phân tích người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi không phải là đối tượng bắt buộc phải có người giám hộ. Đối với những người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có khả năng tự tạo lập cuộc sống riêng của mình (có công ăn việc làm và có thu nhập ổn định) có thể không cần người giám hộ. Nhưng còn với những người chưa thành niên khác thì cần phải có người giám hộ. Đã cần có người giám hộ thì dù ở bất cứ lứa tuổi nào cũng cần phải quy định nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên của người giám hộ.
- Đối với người được giám hộ là người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, thì ngoài các nghĩa vụ về đại diện, về quản lý tài sản, về bảo vệ quyền. Lợi ích hợp pháp của người được giám hộ, người giám hộ còn có một nghĩa vụ đặc biệt là chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ.
-
Quyền của người giám hộ (được quy định tại Điều 78 BLDS): sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu cần thiết của người được giám hộ; được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lý tài sản của người được giám hộ; Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ (xem bình luận Điều 80 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
-
Đăng ký giám hộ: Việc giám hộ có hiệu lực pháp lý sau khi được đăng ký tại ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người giám hộ hoặc nơi có trụ sở của cơ quan, tổ chức đảm nhận việc giám hộ (Điều 57 Bộ luật Dân sự). Thủ tục đăng ký giám hộ được thực hiện theo Điều 41 đến Điều 46 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch.
Điều 80. Cha mẹ giám hộ cho con
Trong trường hợp cha mẹ cùng giám hộ cho con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì họ đều phải thực hiện quyền và nghĩa vụ của người giám hộ. Cha, mẹ thoả thuận với nhau về việc đại diện theo pháp luật cho con trong các giao dịch dân sự vì lợi ích của con.
|
|
Người bị mất năng lực hành vi dân sự được hiểu là một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền. Tuy nhiên, pháp luật không quy định rõ “các bệnh khác” là bệnh gì. Những người do tai biến mạch máu não có những lúc họ tỉnh táo, có những lúc lại không nhận thức được hành vi của mình có thuộc trường hợp này hay không là những vấn đề cần được pháp luật quy định rõ. Vấn đề đặt ra là những người bị mắc bệnh tâm thần hoặc những bệnh khác chỉ được coi là mất năng lực hành vi dân sự khi có quyết định của Tòa án.
Vấn đề giám hộ đương nhiên của người đã thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự được áp dụng theo quy định tại Điều 71 Bộ luật Dân sự. Trong đó, cha, mẹ là người giám hộ đương nhiên của người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình được xác định trong các trường hợp sau:
- Người thành niên bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình và chưa có vợ, chồng, con;
- Người thành niên bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình đã có vợ, chồng, con nhưng cả vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ.
Như vậy, đối với trường hợp người thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con, thì cha, mẹ còn sống và có đủ điều kiện giám hộ cho con phải thực hiện nghĩa vụ giám hộ. Còn nếu họ đã có vợ, chồng hoặc con thì nghĩa vụ giám hộ, thì việc giám hộ trước tiên xét đến điều kiện của người vợ, chồng, con của người thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự đó. Cụ thể khoản 1, 2 Điều 71 Bộ luật Dân sự có quy định:
- Trong trường hợp vợ bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, thì chồng có đủ điều kiện phải là người giám hộ; nếu chồng bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, thì vợ có đủ điều kiện phải là người giám hộ;
- Trong trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, thì người con cả đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ, thì người con tiếp theo đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ.
Điều 80 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã làm rõ hơn trách nhiệm của cha, mẹ khi cùng thực hiện việc giám hộ cho con đã thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự, cha và mẹ đều phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với con. Quyền và nghĩa vụ này đã được quy định tại Điều 77, 78 Bộ luật Dân sự.
Cha, mẹ có các nghĩa vụ sau:
- Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ. Đối với người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, thì việc chăm sóc và điều trị bệnh cho người đó gặp rất nhiều khó khăn. Tuy là người bị mất năng lực hành vi dân sự, nhưng họ rất cần tình yêu thương, chăm sóc của những người thân thiết, đặc biệt là của cha, mẹ khi họ không còn những người thân thích nào khác.
- Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự. Để thực hiện nghĩa vụ này cha mẹ thỏa thuận với nhau về việc đại diện cho con trong các giao dịch dân sự vì lợi ích của con.
- Quản lý tài sản của người được giám hộ. Để bảo vệ quyền lợi của người được giám hộ, Điều 79 Bộ luật Dân sự có quy định khi thực hiện nghĩa vụ quản lý tài sản của người được giám hộ, người giám hộ phải thực hiện nghĩa vụ này như quản lý tài sản của chính mình. Việc sử dụng, định đoạt tài sản của người được giám hộ chỉ được thực hiện vì lợi ích của người đó. Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người giám hộ cư trú. Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác. Đồng thời pháp luật cũng quy định các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu.
- Khi quyền dân sự của người được giám hộ bị xâm phạm, thì người giám hộ có quyền thực hiện các biện pháp mà pháp luật cho phép để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Cha, mẹ có các quyền sau đây khi giám hộ cho con thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự:
- Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu cần thiết của người được giám hộ. Nhu cầu cần thiết của người được giám hộ được xác định căn cứ vào nhu cầu chung của người được giám hộ. Thông thường nhu cầu cần thiết được thể hiện ở các lĩnh vực ăn, mặc, ở, học hành, đi lại, chi dùng cho việc chữa bệnh... Những nhu cầu này cần phải đáp ứng để bảo đảm cuộc sống của người được giám hộ nói chung. Việc sử dụng tài sản của người được giám hộ phải đúng mục đích nêu trên và vì lợi ích của người được giám hộ.
- Được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lý tài sản của người được giám hộ. Trong quá trình quản lý tài sản của người được giám hộ, người giám hộ chỉ được phép thanh toán từ tài sản của người được giám hộ cho những công việc cần thiết, ví dụ sửa chữa tài sản để duy trì chất lượng của nó, đưa tài sản vào khai thác để thu lợi cho người được giám hộ. Để xác định chi phí cần thiết hay không cần căn cứ vào tính hợp lý của việc chi dùng, ý nghĩa, mục đích của việc chi dùng và lợi ích của người được giám hộ. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi cho người giám hộ, nhưng trên thực tế đối với người bị mất năng lực hành vi dân sự từ nhỏ, hầu như họ không có tài sản gì. Cho đến khi họ lớn lên, cha mẹ nuôi dưỡng chăm sóc họ vì tình mẫu tử. Ngay cả đối với những người sau khi đã trưởng thành mới mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà bị mất năng lực hành vi dân sự, cha mẹ không những dùng tình cảm thương yêu để chăm lo cho con của mình, mà họ còn đem tất cả tài sản của mình để chạy chữa cho con.
- Với tư cách là người giám hộ, cha, mẹ là người đại diện cho con trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Cha, mẹ có thể thỏa thuận với nhau về việc đại diện cho con trong các giao dịch dân sự vì lợi ích của con
- Việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con đã thành niên nhưng bị mất năng lực hành vi dân sự vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của người được giám hộ.
|
|
Điều 81. Cha mẹ cử người giám hộ cho con
Trong trường hợp cha mẹ còn sống nhưng không có điều kiện trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì cha mẹ có thể cử người khác giám hộ cho con; cha mẹ và người giám hộ thoả thuận về việc người giám hộ thực hiện một phần hoặc toàn bộ việc giám hộ.
|
|
Pháp luật không đặt ra vấn đề giám hộ cho con chưa thành niên còn cha, mẹ và cha, mẹ đủ điều kiện chăm sóc, giáo dục vì đây là nghĩa vụ đương nhiên do bản chất của quan hệ giữa cha, mẹ và con. Nghĩa vụ của cha, mẹ (cha mẹ đẻ hay cha mẹ nuôi) đối với con chưa thành niên là thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con (Điều 34, 36, 74 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Trong các giao dịch dân sự cha, mẹ là người đại diện đương nhiên theo pháp luật đối với con chưa thành niên (Điều 150 Bộ luật Dân sự).
Như vậy pháp luật chỉ đặt ra vấn đề giám hộ đối với con chưa thành niên, cha mẹ mặc dù còn sống nhưng không có điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục con. Cha mẹ khi không có đủ điều kiện cần thiết để thực hiện việc giám hộ (xem bình luận Điều 79 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000) có thể cử người giám hộ cho con chưa thành niên, con đã thành niên bị mất năng lực hành vi dân dự theo thủ tục quy định tại Điều 74 Bộ luật Dân sự. Việc cử người giám hộ phải được lập thành văn bản. Văn bản cử người giám hộ phải có nội dung chủ yếu sau đây:
- Lý do cử người giám hộ, ví dụ người chưa thành niên, người bị mất năng lực hành vi dân sự tuy còn cha, mẹ nhưng cha mẹ không có việc làm, không có thu nhập ổn định hoặc đi công tác xa nên không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con.
- Họ, tên địa chỉ và sự đồng ý của người giám hộ. Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản là việc cử người giám hộ phải bảo đảm tự nguyện, không ép buộc và cần xem xét cả khả năng có đủ điều kiện làm giám hộ hay không, khoản 2 Điều 74 quy định việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người được cử làm giám hộ, sự đồng ý này phải thể hiện trong văn bản cử người giám hộ. Đồng thời Điều 60 Bộ luật Dân sự có quy định: nơi cư trú của người được giám hộ là nơi cư trú của người giám hộ, trừ trường hợp người giám hộ từ đủ 16 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi có thể có nơi cư trú khác. Vì vậy trong văn bản cử người giám hộ cần ghi rõ họ tên và địa chỉ của người giám hộ.
- Tình trạng tài sản của người được giám hộ. Trong văn bản cử người giám hộ phải ghi rõ số lượng, giá trị của tài sản thuộc quyền sở hữu của người được giám hộ, mô tả chung về tài sản đó, chất lượng... Vấn đề này có liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ trong việc quản lý tài sản của người được giám hộ.
- Quyền, nghĩa vụ cụ thể của người giám hộ.
Việc ghi cụ thể các nội dung nêu trên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xem xét cha mẹ có thoái thác trách nhiệm giám hộ cho con hay không, người giám hộ có thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người giám hộ hay không (có lạm quyền hay vi phạm nghĩa vụ hay không).
Việc cử người giám hộ phải được phải được ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người được giám hộ công nhận và được đăng ký tại ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người giám hộ. Thủ tục đăng ký giám hộ đã được quy định tại Điều 58 Bộ luật Dân sự: Người được cử làm giám hộ phải nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền văn bản cử giám hộ của cha mẹ người được giám hộ, trong đó thể hiện ý chí tự nguyện của cá nhân, cơ quan, tổ chức được cử làm người giám hộ đã được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người giám hộ công nhận. Đồng thời, người được cử làm giám hộ phải xuất trình các giấy tờ khác để cơ quan thụ lý hồ sơ kiểm tra như: giấy khai sinh, sổ hộ khẩu gia đình, giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy ủy quyền của người hoặc tổ chức được cử làm giám hộ (Điều 46 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10-10-1998). Mục đích của việc xuất trình các giấy tờ này là để cơ quan có thẩm quyền kiểm tra xem đương sự có đủ các điều kiện để trở thành người giám hộ hợp pháp trong quan hệ giám hộ đó hay không. Trong trường hợp không có đủ các giấy tờ nói trên, đương sự phải chứng minh bằng các giấy tờ thay thế hợp lệ. Ví dụ thay thế cho Sổ hộ khẩu gia đình có thể là giấy xác nhận thường trú...
Sau khi đương sự nộp đầy đủ hồ sơ hợp lệ, trong thời hạn 7 ngày, nếu xét thấy việc cử người giám hộ đáp ứng được các yêu cầu của pháp luật, ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tiến hành đăng ký việc cử người giám hộ. Kết quả việc đăng ký việc giám hộ được thể hiện bằng quyết định công nhận giám hộ. Quyết định công nhận đăng ký giám hộ làm phát sinh các quyền, nghĩa vụ trong quan hệ giám hộ và trách nhiệm giám sát việc giám hộ của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người giám hộ cư trú và cha, mẹ của người được giám hộ.
Điều 82. Con riêng giám hộ cho bố dượng, mẹ kế
Trong trường hợp bố dượng, mẹ kế không có người giám hộ theo quy định tại Điều 72 của Bộ luật Dân sự thì con riêng đang sống chung với bố dượng, mẹ kế làm người giám hộ, nếu có đủ điều kiện làm người giám hộ.
|
|
Đây là một quy định mới chưa được Bộ luật Dân sự quy định cụ thể. Xuất phát từ quan hệ nuôi dưỡng, bố dượng, mẹ kế và con riêng sống chung trong gia đình cũng có những tình cảm nhất định. Bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc con riêng cùng sống chung với mình. Con riêng có nghĩa vụ và quyền nuôi dưỡng, chăm sóc bố dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình (Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). áp dụng đồng thời với Điều 70, 71, 72 Bộ luật Dân sự, vấn đề con riêng giám hộ cho bố dượng, mẹ kế được đặt ra trong trường hợp bố dượng, mẹ kế mà bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không làm chủ được hành vi của mình mà không có người giám hộ đương nhiên (vợ, hoặc chồng không còn sống, hoặc còn sống nhưng cũng bị mất năng lực hành vi, hoặc còn sống có năng lực hành vi nhưng không đủ điều kiện làm giám hộ; không có con hoặc có con nhưng con không đủ điều kiện làm giám hộ)
Quy định này đã thể hiện được sự gắn bó về mặt tình cảm giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế. ở nước ta việc con riêng sống chung với bố dượng, mẹ kế là khá phổ biến. Cũng có những trường hợp bố dượng, mẹ kế với con riêng không hòa thuận với nhau vì nhiều lý do như không có tình yêu thương máu mủ, vì sự vị kỷ của mỗi người... Nhưng cũng không ít trường hợp bố dượng, mẹ kế chăm lo cho con riêng của vợ hoặc chồng mình chu đáo, như đối với giọt máu của mình. Với quy định như vậy, nhà làm luật cũng có một mong muốn gắn bó hơn nữa tình cảm giữa những người cùng sống chung trong một gia đình, đây không những là trách nhiệm của người con đối với người cha, người mẹ thứ hai của mình, mà còn là trách nhiệm đối với xã hội.
Điều 83. Giám hộ giữa anh, chị, em
1. Trong trường hợp anh, chị, em ruột cần được giám hộ thì anh, chị, em đã thành niên có năng lực hành vi dân sự thoả thuận cử một người trong số họ có đủ điều kiện làm người giám hộ.
2. Khi quyết định các vấn đề liên quan đến nhân thân, tài sản của em chưa thành niên thì anh, chị là người giám hộ của em phải tham khảo ý kiến của những người thân thích và ý kiến của em, nếu em từ đủ chín tuổi trở lên.
|
|
Đây cũng là quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 chỉ quy định “nghĩa vụ đùm bọc lẫn nhau của anh, chị, em trong trường hợp không còn cha mẹ” (Điều 27). Quy định này còn mang tính nguyên tắc chung, chưa thể hiện trách nhiệm pháp lý của anh, chị, em đối với nhau trong các trường hợp một trong số họ cần được giám hộ. Trong khi đó Bộ luật Dân sự năm 1995 đã quy định nghĩa vụ giám hộ đương nhiên của anh, chị, em trong gia đình đối với nhau (Điều70). Để khắc phục nhược điểm này Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định về giám hộ giữa anh chị, em trong gia đình. Theo đó, nếu anh, chị, em ruột cần được giám hộ thì anh, chị, em đã thành niên có năng lực hành vi dân sự thỏa thuận cử một người trong số họ có đủ điều kiện làm người giám hộ. Trường hợp này anh, chị, em ruột được hiểu là anh, chị, em cùng cha, cùng mẹ hoặc cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha.
1. Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định việc giám hộ giữa anh, chị, em trong gia đình trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận giữa họ.
Nếu họ không thỏa thuận được thì áp dụng quy định tại Khoản 1 Điều 70 Bộ luật Dân sự về giám hộ đương nhiên hoặc Điều 72 về giám hộ cử.
- Theo khoản 1 Điều 70 Bộ luật Dân sự việc giám hộ đương nhiên cho em chưa thành niên được đặt ra đối với anh, chị trong trường hợp: bố, mẹ không còn sống, không xác định được cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc còn cha, mẹ nhưng cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu. Trong trường hợp này nếu anh, chị, em ruột không có thoả thuận khác, thì anh cả hoặc chị cả đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ của em chưa thành niên; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ, thì người tiếp theo đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ.
- Theo Điều 72 Bộ luật Dân sự trong trường hợp người chưa thành niên, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình không có người giám hộ đương nhiên theo quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật này, thì những người thân thích của người đó cử một ngời trong số họ làm người giám hộ; nếu không có ai trong số người thân thích có đủ điều kiện làm người giám hộ, thì họ có thể cử một người khác làm người giám hộ. Như vậy, em đã thành niên có thể trở thành người giám hộ cử cho anh chị trong trường hợp anh chị cần có người giám hộ.
Nếu không có ai trong số những người thân thích có đủ các điều kiện làm người giám hộ, thì những người thân thích có thể cử người khác làm giám hộ trên cơ sở sự tin cậy và sự tự nguyện của người được cử (thủ tục cử người giám hộ - xem bình luận Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
Bộ luật Dân sự còn đặt ra khả năng người bị mất năng lực hành vi dân sự không còn người thân thích nào, hoặc người thân thích không cử được người giám hộ, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm cùng với các tổ chức xã hội tại cơ sở cử người giám hộ hoặc đề nghị tổ chức từ thiện đảm nhận việc giám hộ. Nếu không có người giám hộ đương nhiên và cũng không cử được người giám hộ, không có tổ chức từ thiện đảm nhận việc giám hộ theo quy định tại các Điều 70, 71, 72 Bộ luật Dân sự, thì cơ quan lao động, thương binh và xã hội nơi cư trú của người được giám hộ đảm nhận việc giám hộ.
2. Khi quyết định đến các vấn đề liên quan đến nhân thân, tài sản của em chưa thành niên thì anh, chị là người giám hộ của em phải tham khảo ý kiến của những người thân thích và ý kiến của em, nếu em từ đủ chín tuổi trở lên. Quy định này nhằm đảm bảo tính khách quan trong quá trình giám hộ cũng như bảo vệ tốt nhất cho quyền và lợi ích chính đáng của người được giám hộ.
áp dụng tương tự pháp luật, chúng ta có thể hiểu “người thân thích” trong quy định trên là những người đã được liệt kê tại Điều 15 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định người thân thích của người chưa thành niên có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên bao gồm: “ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; anh ruột, chị ruột; cụ nội, cụ ngoại; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chưa thành niên..” Tuy vậy, nếu bất cứ trường hợp nào khi quyết định các vấn đề liên quan đến nhân thân, tài sản của em chưa thành niên cũng phải tham khảo ý kiến của những người thân thích này, thì trên thực tế là không hợp lý và tạo ra những khó khăn, cản trở nhất định cho quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của người giám hộ nhất là trong trường hợp những người thân thích này ở xa...Về vấn đề này, luật cần có những hướng dẫn cụ thể: theo đó, chỉ khi quyết định các vấn đề lớn liên quan nhân thân và tài sản của em chưa thành niên thì mới cần hỏi ý kiến của những người thân thích. Mặt khác cũng cần quy định rõ là người giám hộ phải hỏi ý kiến của tất cả những người thân thích hay chỉ cần hỏi ý kiến một trong số những người thân thích nêu trên?
Điều 84. Giám hộ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu
1. Trong trường hợp cháu cần được giám hộ mà ông bà nội, ông bà ngoại có đủ điều kiện làm người giám hộ thì những người này thoả thuận cử một bên làm người giám hộ.
2. Cháu có đủ điều kiện làm người giám hộ thì phải giám hộ cho ông bà nội, ông bà ngoại, nếu ông bà không có con phụng dưỡng.
|
|
1. Việc áp dụng khoản 1 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng cần kết hợp với các quy định khoản 2 Điều 70 (về giám hộ đương nhiên đối với cháu chưa thành niên) và Điều 72 Bộ luật Dân sự (người giám hộ được cử trong số những người thân thích đối với người được giám hộ).
Đối với cháu chưa thành niên, ông, bà chỉ là người giám hộ đương nhiên khi có đầy đủ các điều kiện sau:
- Cháu chưa thành niên mà cha, mẹ không còn sống, không xác định được cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc còn cha, mẹ nhưng cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và cha, mẹ có yêu cầu.
- Cháu chưa thành niên không có anh, chị, em ruột hoặc anh, chị, em ruột không có đủ điều kiện làm người giám hộ.
- Ông, bà có đủ điều kiện làm giám hộ.
Lúc này vai trò của ông bà nội, ông bà ngoại như nhau. Vì vậy nếu cả ông bà nội, ông bà ngoại đều có đủ điều kiện làm giám hộ thì ông bà nội và ông bà ngoại phải cùng nhau thỏa thuận để giám hộ cho cháu.
Đối với cháu đã thành niên và bị mất năng lực hành vi dân sự ông, bà chỉ có thể là người giám hộ, khi cháu không có người giám hộ đương nhiên, được cử làm người giám hộ cho cháu theo quy định tại Điều 72 Bộ luật Dân sự và tự nguyện làm người giám hộ.
2. Để khắc phục tình trạng một người bị mất năng lực hành vi dân sự mà con cái đã chết trước, không có ai phụng dưỡng, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định trường hợp “cháu có đủ điều kiện làm người giám hộ, thì phải giám hộ cho ông, bà nội, ông, bà ngoại, nếu ông bà không có con phụng dưỡng” (khoản 2 Điều 82). Quy định này dựa trên cơ sở nghĩa vụ “chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông, bà ngoại” được quy định cụ thể tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Đồng thời thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, đó là truyền thống “uống nước nhớ nguồn”.
Ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp đã nảy sinh từ rất sớm trong xã hội có giai cấp. "Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc của cả hai vợ chồng[30]. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, ly hôn là một mặt của quan hệ hôn nhân, nó là mặt trái, mặt bất bình thường nhưng là mặt không thể thiếu được của quan hệ hôn nhân và gia đình. Thực hiện quyền tự do hôn nhân của cá nhân bao gồm quyền tự do kết hôn nhằm xác lập quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật, khi đời sống tình cảm, yêu thương giữa vợ chồng đã hết, mâu thuẫn gia đình sâu sắc, mục đích của hôn nhân nhằm tạo lập cho xã hội những gia đình- tế bào xã hội tốt đẹp đã không thể đạt được. Ly hôn nhằm giải phóng cho vợ, chồng, các con và thành viên khác trong gia đình khỏi những xung đột, mâu thuẫn, bế tắc trong đời sống gia đình bởi vì “tự do ly hôn không có nghĩa là làm “tan rã” những mối quan hệ gia đình mà ngược lại nó củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn minh"[31]. Quyền yêu cầu ly hôn là quyền nhân thân, quyền chính đáng gắn liền với bản thân vợ, chồng, chỉ có vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu ly hôn; ngoài vợ chồng thì không ai có quyền yêu cầu ly hôn được[32]. Ly hôn là kết quả tất yếu khi quan hệ hôn nhân đã tan vỡ.
Trong một xã hội có giai cấp thì ly hôn cũng thể hiện tính giai cấp sâu sắc, phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội trong lịch sử phát triển của xã hội và ý chí của nhà nước. Nhà nước bằng pháp luật tôn trọng quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, nhưng cũng bằng pháp luật kiểm soát quyền tự do ly hôn, bởi vì ly hôn không đơn thuần chỉ ảnh hưởng tới quyền lợi riêng của cá nhân vợ, chồng mà còn ảnh hưởng tới lợi ích của nhà nước, của xã hội. Bên cạnh mặt tích cực của ly hôn là giải phóng cho vợ chồng thoát khỏi xung đột gia đình, ly hôn còn ảnh hưởng theo chiều hướng “tiêu cực" tới gia đình và xã hội: sự ly tán gia đình, phân chia tài sản, trẻ em thiếu sự chăm sóc, giáo dục trực tiếp của cha mẹ. Hậu quả của ly hôn để lại cho gia đình và xã hội nhiều vấn đề phải giải quyết.
Nhà nước bằng pháp luật quy định về căn cứ ly hôn: trong những điều kiện, tình tiết cụ thể mới chấp nhận cho vợ chồng ly hôn. Ly hôn không thể phụ thuộc vào ý chí tuỳ tiện của vợ chồng muốn sao làm vậy.
Dưới chế độ thực dân phong kiến ở nước ta quyền ly hôn của vợ chồng có thể bị pháp luật của nhà nước cấm đoán hoặc hạn chế; quy định giải quyết ly hôn thường dựa vào lỗi của vợ, chồng, dựa vào hình thức của quan hệ hôn nhân. Hệ thống pháp Luật Hôn nhân và gia đình của nhà nước ta từ năm 1945, đặc biệt là từ Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 vừa bảo đảm quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, vừa quy định căn cứ giải quyết cho ly hôn dựa vào bản chất của quan hệ hôn nhân đã hoàn toàn tan vỡ, không dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng.
Trong những năm gần đây, tình trạng ly hôn ở nước ta xảy ra rất phổ biến, với những nguyên nhân, lý do đa dạng, phức tạp cả về chủ thể và nội dung. Vấn đề giải quyết hậu quả của ly hôn cũng rất phức tạp và còn nhiều hạn chế, vướng mắc. Theo báo cáo của các cơ quan chức năng, những án kiện về hôn nhân và gia đình luôn chiếm trên dưới 50% trong tổng số các án kiện dân sự. Trong các án kiện về hôn nhân và gia đình thì án kiện về ly hôn chiếm trên 90%. Hàng năm các Toà án trong phạm vi cả nước đã thụ lý và giải quyết trên dưới 50.000 các việc về ly hôn[33].
Chế định Ly hôn được quy định tại Chương X của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (từ Điều 85 đến Điều 99) trên cơ sở kế thừa và phát triển Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986. Có những điểm mới về kỹ thuật lập pháp, về nội dung (quyền yêu cầu ly hôn, thủ tục giải quyết, căn cứ và hậu quả pháp lý của ly hôn). Việc nghiên cứu chế định ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là rất cần thiết, cần làm rõ những quy định của luật về ly hôn, những điểm cần hoàn thiện; góp phần nâng cao cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết các tranh chấp từ các án kiện ly hôn hiện nay.
Điều 85. Quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn.
2. Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn.
|
|
1. Điều 38- Bộ luật Dân sự quy định “Vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền yêu cầu Toà án cho chấm dứt quan hệ hôn nhân khi có lý do chính đáng”. Ly hôn là mặt trái của quan hệ hôn nhân đặt ra khi hạnh phúc gia đình không còn tồn tại, cuộc sống chung nảy sinh nhiều mâu thuẫn, mục đích của việc kết hôn không đạt được. Với đặc điểm của quan hệ pháp Luật Hôn nhân và gia đình, quyền kết hôn, ly hôn là quyền nhân thân không thể chuyển giao, chỉ có chủ thể của quan hệ pháp luật mới có quyền yêu cầu giải quyết. Nên cha, mẹ bên vợ hoặc bên chồng hay bất cứ người nào khác không thể yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn, mà chỉ có vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu ly hôn khi có lý do chính đáng.
Cần lưu ý trường hợp một bên vợ hoặc chồng mất năng lực hành vi dân sự, về nguyên tắc vấn đề thuận tình ly hôn không thể đặt ra. Vì thuận tình ly hôn đòi hỏi phải có sự bày tỏ ý chí tự nguyện thuận tình ly hôn của cả hai vợ chồng. Người vợ hoặc người chồng bị mất năng lực hành vi dân sự thì không thể bày tỏ ý chí của mình được. Mặt khác, những người thân thuộc của người vợ hoặc người chồng bị mất năng lực hành vi dân sự cũng không thể đại diện thay thế người đó để yêu cầu ly hôn được. Trong trường hợp này việc ly hôn có thể được thực hiện do yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng.
2. Vấn đề thời hiệu khởi kiện không áp dụng đối với quan hệ pháp Luật Hôn nhân và gia đình. Vì vậy trong mọi khoảng thời gian của thời kỳ hôn nhân (tính từ khi kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt trước pháp luật), vợ, chồng hoặc cả vợ chồng đều có quyền yêu cầu ly hôn (trừ trường hợp quy định tại khoản 2-Điều 85). Luật Hôn nhân và gia đình của nhà nước ta không đặt ra điều kiện ngăn cấm quyền yêu cầu ly hôn của vợ chồng. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ bà mẹ, trẻ em, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vợ và con chưa thành niên, phụ nữ có thai, thai nhi, cũng là bảo vệ lợi ích của xã hội; Khoản 2 - Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định: "Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn"[34]. Khoa học pháp lý gọi là đây là trường hợp hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng. Theo quy định này người chồng không được yêu cầu ly hôn (với tư cách là nguyên đơn) trong trường hợp: Người vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, dù người vợ có thai với ai hoặc đứa con sinh ra là con của người nào. Trường hợp người vợ có thai mà đã bị sảy thai hoặc sau khi sinh con, đứa con bị chết thì người chồng sẽ không bị hạn chế quyền ly hôn.
Cũng theo quy định tại khoản 2- Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì trường hợp hạn chế yêu cầu ly hôn chỉ áp dụng với người chồng mà không áp dụng đối với người vợ. Trong mọi khoảng thời gian, dù người vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi nếu xét thấy tình cảm yêu thương giữa vợ chồng đã hết, mâu thuẫn gia đình đến mức sâu sắc, mục đích của hôn nhân không đạt được; nếu duy trì sẽ bất lợi cho quyền lợi của người vợ, ảnh hưởng tới sức khỏe của người vợ hoặc thai nhi hay trẻ sơ sinh mà người vợ có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý giải quyết vụ kiện theo thủ tục chung.Đây là một trong những quy định thể hiện sâu sắc tính nhân bản và tiến bộ trong tư tưởng cũng như bản chất nội dung pháp luật nước ta nói chung và pháp luật về hôn nhân gia đình nói riêng. Quyền lợi của trẻ em và phụ nữ - những người yếu thế - được pháp luật tôn trọng, đề cao và bảo vệ chặt chẽ.
So với nội dung Điều 41- Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì khoản 2-Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định rõ ràng hơn. Điều 41- Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định:" Trong trường hợp vợ có thai chồng chỉ có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh con được một năm". Quy định này đã dẫn đến những cách hiểu khác nhau khi vận dụng. Ví dụ: Trường hợp người vợ sau khi sinh con thì đứa con bị chết, vẫn có thể hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng.
Trước đây, hệ thống pháp luật dân sự và hôn nhân gia đình ở nước ta dưới chế độ cũ (trước năm 1945 và ở miền Nam trước năm 1975) đã có một số quy định hạn chế quyền ly hôn của vợ chồng, nhất là trường hợp thuận tình ly hôn.
- Bộ Dân luật Giản yếu (1883) áp dụng ở Nam Kỳ quy định “vợ chồng không được thuận tình ly hôn nếu: quan hệ vợ chồng xác lập chưa được hai năm hoặc đã quá 20 năm; người chồng dưới 25 tuổi; người vợ dưới 21 tuổi hoặc đã quá 45 tuổi. Ngoài ra những thân thuộc có quyền ưng thuận giá thú cũng cần phải ưng thuận sự ly hôn này mới được”.
- Điều 121- Bộ dân luật Bắc Kỳ(1931) và điều 120 - Bộ dân luật Trung Kỳ (1936) quy định “sau hai năm giá thú thì vợ chồng mới có thể xin thuận tình ly hôn”
- Điều 170 - Bộ Dân luật Sài Gòn năm 1972 dưới chế độ Nguỵ quyền Sài Gòn cũng quy định “vợ chồng có thể xin thuận tình ly hôn nếu hôn thú được lập trên hai năm và không quá hai mươi năm”. Đặc biệt Điều 55 Luật Gia đình dưới chế độ Ngô Đình Diệm(1959) “cấm vợ chồng không được ly hôn; trường hợp đặc biệt việc ly hôn do tổng thống quyết định”.
Như vậy các quy định về giải quyết ly hôn trong chế độ cũ không dựa trên tình trạng thực tế của quan hệ hôn nhân mà chủ yếu dựa vào các căn cứ như thời gian kết hôn, tuổi của vợ, chồng, nếu không đủ các điều kiện đó thì người chồng không được xin ly hôn. Các quy định này cũng không thể hiện được tư tưởng bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
Ngoài ra, tuy pháp luật tố tụng dân sự chưa quy định, nhưng đối với người có đơn yêu cầu ly hôn mà bị Toà án bác đơn yêu cầu ly hôn thì sau một năm kể từ ngày bản án quyết định của Toà án bác đơn xin ly hôn có hiệu lực pháp luật, người đó mới lại được yêu cầu tòa án giải quyết việc xin ly hôn[35].
Điều 86: Khuyến khích hoà giải ở cơ sở
Nhà nước và xã hội khuyến khích hoà giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn. Việc hoà giải được thực hiện theo quy định của pháp luật về hoà giải cơ sở
|
|
Hoà giải ở cơ sở là một trong những hình thức hoà giải có sự giúp đỡ của người trung gian như Tổ hoà giải hoặc các hình thức thích hợp khác của nhân dân ở thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố, cụm dân cư bằng các lý lẽ có tình có lý hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thoả thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những tranh chấp trong nội bộ gia đình, thôn xóm.
Có thể nói rằng những tổ chức ở cơ sở, thôn xóm hoạt động gần gũi với đời sống quần chúng hơn cả nên có thể tìm hiểu thực trạng cuộc sống của các gia đình hiệu quả nhất. Bởi vậy Điều 86 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã thể hiện quan điểm của Nhà nước là khuyến khích hoạt động hoà giải cơ sở, thông qua đó khẳng định vai trò của các tổ chức hoà giải cơ sở.
Nhiều đôi vợ chồng đệ đơn lên Toà án yêu cầu ly hôn, nhưng việc xác định mâu thuẫn gia đình của họ đã đến mức trầm trọng hay chưa, đời sống chung có thật là không thể kéo dài hay không là điều mà cơ quan có thẩm quyền phải tìm hiểu kỹ càng, cân nhắc cẩn thận để có phán quyết chính xác. Nhà nước và xã hội khuyến khích việc hoà giải cơ sở khi vợ, chồng có đơn yêu cầu ly hôn bởi đây là hoạt động phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội và phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân ta nhằm giúp vợ chồng có cơ hội nhìn nhận lại thực chất vấn đề trong gia đình, suy nghĩ chín chắn hơn và tránh quyết định ly hôn vội vàng khi mà mâu thuẫn chưa đến mức trầm trọng, vợ chồng vẫn còn thương yêu nhau. Khác với thủ tục hoà giải tại Toà án là thủ tục bắt buộc phải thực hiện trong quá trình tố tụng, hoà giải cơ sở là biện pháp hiệu quả được Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích thực hiện trong cộng đồng dân cư.
Hoạt động hoà giải cơ sở được quy định tại Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải cơ sở của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 25/12/1998 và Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18/10/1999 quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải cơ sở.
- Phạm vi hoà giải cơ sở được tiến hành đối với các tranh chấp nhỏ trong cộng đồng dân cư, liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình có: hoà giải các mâu thuẫn xích mích giữa các thành viên trong gia đình do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính tình không hợp; hoà giải tranh chấp về quyền lợi ích phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như: thực hiện quyền và nghĩa vụ vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ con, nhận nuôi con nuôi, ly hôn, yêu cầu cấp dưỡng (Điều 4 Nghị định số 160/1999/NĐ-CP).
-
Nguyên tắc hoà giải: việc hoà giải được tiến hành theo các nguyên tắc sau:
+ Phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân;
+ Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên tranh chấp phải tiến hành hoà giải;
+ Khách quan, công minh, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên tranh chấp; tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng;
+ Kịp thời, chủ động, kiên trì nhằm ngăn chặn vi phạm pháp luật, hạn chế những hậu quả xấu khác có thể xảy ra và đạt được kết quả hoà giải. (Điều 4 Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải cơ sở)
- Tổ hoà giải cơ sở là tổ chức tự quản của nhân dân được thành lập ở thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố và các cụm dân cư khác để thực hiện hoặc tổ chức việc hoà giải. Tổ hoà giải gồm có tổ trưởng và các tổ viên với những tiêu chuẩn nhất định như phẩm chất đạo đức tốt; có khả năng thuyết phục, vận động đối tượng cần hoà giải; có tinh thần trách nhiệm và sự nhiệt tình trong công tác hoà giải.
- Phương thức hoà giải: việc hoà giải được tiến hành bằng lời nói, trong trường hợp các bên có yêu cầu hoặc được các bên đồng ý, việc hoà giải được tổ viên Tổ hoà giải lập biên bản. Tổ viên Tổ hoà giải có thể tiến hành việc hoà giải bằng cách gặp gỡ từng bên hoặc các bên. Sau khi tìm hiểu sự việc, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, tham khảo ý kiến của cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan, lắng nghe ý kiến của các bên, tổ viên Tổ hoà giải phân tích, thuyết phục các bên đạt được thoả thuận phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân và tự nguyện thực hiện thoả thuận đó. (Điều 13 Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải cơ sở)
- Kết thúc việc hoà giải: khi các bên đã đạt được thoả thuận và tự nguyện thực hiện thoả thuận đó. Trong trường hợp việc thực hiện thỏa thuận có khó khăn, thì tổ viên Tổ hoà giải động viên, thuyết phục các bên thực hiện thoả thuận và có thể đề nghị Trưởng thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố hoặc kiến nghị với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn tạo điều kiện để các bên tự nguyện thực hiện thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thể đạt được thoả thuận và việc tiếp tục hoà giải không thể đạt kết quả, thì tổ viên Tổ hoà giải hướng dẫn cho các bên làm thủ tục cần thiết để đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết (Điều 16 Nghị định số 160/1999/NĐ-CP)
Như vậy, hoạt động hoà giải có tính chất quần chúng sâu rộng, thể hiện được tình cảm tương thân tương ái của con người Việt Nam, duy trì lối sống làng xã gần gũi và tập quán tốt đẹp của dân tộc từ bao đời nay “tối lửa tắt đèn có nhau”. Chủ trương khuyến khích của Nhà nước thông qua các quy định pháp luật về hoà giải cơ sở chính là sự pháp điển hoá những tập quán tiến bộ, qua đó phục vụ được lợi ích xã hội, giải quyết được những vấn đề mâu thuẫn thường ngày trong nhân dân mà không phải lúc nào việc can thiệp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng đạt hiệu quả.
|
|
Điều 87. Thụ lý đơn yêu cầu ly hôn
Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại Khoản 1 Điều 11 của Luật này; nếu có.yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật này.
|
|
Khi vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hợp lý, Toà án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn của vợ, chồng. Theo quy định tại Điều 37- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989: Nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Toà án báo ngay cho nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày nộp đơn, nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn án phí hoặc được miễn nộp tiền tạm ứng án phí. Toà án thụ lý vụ án kể từ ngày nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí. Nếu đương sự được miễn án phí thì ngày thụ lý là ngày Toà án nhận được đơn khởi kiện. Nếu đương sự được miễn nộp tiền tạm ứng án phí thì ngày thụ lý là ngày Toà án cho miễn nộp tiền tạm ứng án phí.
Người không có quyền yêu cầu ly hôn mà nộp đơn khởi kiện ly hôn thì Toà án trả lại đơn khởi kiện cho người nộp đơn (Điều 36- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ).
Trong trường hợp người vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi mà người chồng có yêu cầu ly hôn thì giải quyết như sau:
- Trong trường hợp chưa thụ lý vụ án thì Toà án áp dụng Điểm 1- Điều 36- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trả lại đơn xin ly hôn cho người nộp đơn (người chồng).
- Trong trường hợp đã thụ lý vụ án thì Toà án cần giải thích cho người nộp đơn biết là họ chưa có quyền yêu cầu xin ly hôn. Nếu người nộp đơn rút đơn yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng điểm 2 - Điều 46 - Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Nếu người nộp đơn không rút đơn yêu cầu ly hôn thì Toà án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung và quyết định bác yêu cầu xin ly hôn của họ (Điểm 6, Nghị quyết số 02/2000/NQ- HĐTP).
Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1- Điều 11- Luật hôn nhân gia đình năm 2000; nếu có yêu cầu về con hoặc tài sản thì giải quyết theo quy định tại khoản 2 và khoản 3- Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Về vấn đề này chúng ta cần lưu ý: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã xoá bỏ tình trạng " kết hôn không đăng ký". Tại khoản 1, Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định: nam nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Vì vậy, về nguyên tắc kể từ ngày 01/01/2001 là ngày Luật Hôn nhân và gia đình có hiệu lực pháp luật mà các bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn theo thủ tục luật định thì họ không được thừa nhận là vợ chồng của nhau trước pháp luật. Nếu sau này họ có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng của họ.
Tuy nhiên, do nhiều yếu tố tác động, nhà nước ta đã công nhận những trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực pháp luật, đã được gia đình tổ chức lễ cưới theo tập quán mà chưa đăng ký kết hôn, nếu có đủ các điều kiện kết hôn khác; chỉ vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn, đã được gia đình, xã hội thừa nhận là vợ chồng thì quan hệ vợ chồng vẫn được công nhận (gọi là hôn nhân thực tế và có giá trị như hôn nhân hợp pháp) [36]
Về vấn đề này, theo Nghị quyết số 35/ 2000/ QH 10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Thông tư liên tịch số 01/2001/ TTLT- TANDTC-VKSNDTC- BTP; Nghị định số 70/2001/NĐ- CP; Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP cần lưu ý hai trường hợp sau:
1. Đối với trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/1/1987 (Ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn. Sau này họ đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ được xác lập kể từ ngày chung sống với nhau như vợ chồng chứ không phải từ ngày đăng ký kết hôn nhằm hợp thức hóa quan hệ vợ chồng. Trong thời gian họ chưa đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
2. Trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3.1.1987 đến ngày 01/01/2001 mà chưa đăng ký kết hôn, nếu có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì họ có nghĩa vụ đăng kí kết hôn trong thời hạn 2 năm, kể từ ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực (từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003). Trong thời hạn này, nếu họ đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ được tính xác lập kể từ ngày chung sống với nhau như vợ chồng, chứ không phải là ngày đăng ký kết hôn. Trong trường hợp họ không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng. Nếu sau ngày 1/1/2003 họ mới đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ được tính kể từ ngày đăng ký kết hôn chứ không phải là từ ngày chung sống với nhau như vợ chồng.
Như vậy, theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, kể từ ngày Luật có hiệu lực pháp luật (01/01/2001) mà nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn (trừ hai trường hợp trên) thì không được pháp luật thừa nhận là vợ chồng, nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý giải quyết và tuyên bố giữa họ không có quan hệ vợ chồng. Trường hợp chỉ được áp dụng đến ngày 01/01/2003, nếu sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn và có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng, nếu có yêu cầu về con cái và tài sản thì Toà án áp dụng khoản 2, 3 Điều17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết, tức là về hậu quả pháp lý đối với con cái và tài sản được giải quyết như đối với trường hợp huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Theo quy định tại Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nếu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật (đối với trường hợp kết hôn có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm các điều kiện kết hôn) hoặc tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng (đối với trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn), khi phán quyết của Toà án có hiệu lực pháp luật, buộc họ phải chấm dứt hành vi chung sống với nhau như vợ chồng đó.
Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn, vì quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con phát sinh dựa trên sự kiện huyết thống (sinh đẻ) hoặc nuôi dưỡng (nhận nuôi con nuôi) không phụ thuộc vào hôn nhân của cha mẹ là hợp pháp hay không hợp pháp, còn tồn tại hay chấm dứt. Toà án áp dụng các Điều 92, 93, 94 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Về tài sản giữa những người chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó (nếu có tranh chấp thì người có tài sản riêng muốn lấy tài sản đó về thì phải chứng minh đó là tài sản riêng của mình). Tài sản chung được chia theo thoả thuận của các bên nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết; có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên, ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.
Điều 88. Hoà giải tại Toà án
Sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Toà án tiến hành hoà giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
|
|
Theo nguyên tắc chung, thủ tục hoà giải do tòa án tiến hành là thủ tục pháp lý bắt buộc phải có khi giải quyết các tranh chấp dân sự, Hôn nhân và gia đình (Điều 5 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự), trừ một số loại việc theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự như huỷ việc kết hôn trái pháp luật, đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của nhà nước; những việc phát sinh từ giao dịch trái pháp luật... không phải hoà giải (Điều 43-Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự).
Đối với các án kiện ly hôn, dù do vợ chồng thuận tình hay do một bên vợ, chồng yêu cầu thì Toà án đều phải tiến hành hoà giải, nếu trong hồ sơ về ly hôn mà không có biên bản hoà giải không thành thì bản án, quyết định của Toà án sẽ bị huỷ. Theo Điều 43, 44 - Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 và Nghị quyết số 03/1990/NQ-HĐTP ngày 19.10.1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và lợi ích liên quan phải có mặt khi hòa giải, trường hợp các đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Toà án lập biên bản hoà giải thành. Nếu các đương sự không thoả thuận được với nhau thì Toà án lập biên bản hòa giải không thành để đưa vụ án ra xét xử. Nếu bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng thì Toà án đưa vụ án ra xét xử.
Xuất phát từ lợi ích gia đình, quyền lợi của vợ chồng, các con cũng như những thành viên khác; sự ổn định của các quan hệ hôn nhân và gia đình trong xã hội, thủ tục hoà giải có ý nghĩa cực kỳ quan trọng khi Toà án giải quyết các án kiện về ly hôn. Qua công tác điều tra, khi đã nắm bắt được các vấn đề "cốt lõi" của việc ly hôn như nguyên nhân nào dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng, mức độ mâu thuẫn vợ chồng đã sâu sắc hay chưa, tình cảm giữa vợ chồng còn hay hết, điều kiện, hoàn cảnh, tâm tư, nguyện vọng của vợ chồng... Toà án tiến hành hoà giải nhằm giải quyết xung đột, mâu thuẫn giữa vợ chồng, đoàn tụ gia đình đương sự.
Thực tiễn xét xử cho thấy, khi vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có đơn ly hôn yêu cầu Toà án giải quyết, thông thường mâu thuẫn giữa hai vợ chồng đã khá trầm trọng, tự họ không thể hoà giải được với nhau. Nhiều vụ việc đã được hoà giải ở cơ sở nhưng không thành; Toà án là cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết ly hôn, quyết định tới quan hệ nhân thân và tài sản của vợ chồng đương sự. Nhằm bảo đảm lợi ích của gia đình và xã hội, với phương châm kiên trì "còn nước, còn tát", thủ tục hòa giải nhằm đoàn tụ gia đình phải được tiến hành theo đúng bản chất của sự việc, tránh qua loa đại khái mang tính hình thức "làm cho xong, cho đúng thủ tục" sẽ dễ dẫn tới phán quyết khinh xuất của Toà án, ảnh hưởng đến lợi ích của đương sự. Khi tiến hành hòa giải, cần phân tích, động viên, giúp đỡ vợ chồng giải quyết xung đột, mâu thuẫn trở về đoàn tụ. Nếu xét thấy việc ly hôn xuất phát từ động cơ không chính đáng hoặc do vợ, chồng vì bị cưỡng ép, bị lừa phỉnh, dụ dỗ hoặc tự ái, sĩ diện mà miễn cưỡng xin ly hôn thì Toà án cần phê phán, giáo dục vợ chồng, cũng có thể phát hiện những trường hợp thuận tình ly hôn giả tạo nhằm đạt những lợi ích trái pháp luật. Trên cơ sở đó, Toà án có những nhận định phán quyết chính xác: Có thể quyết định cho ly hôn khi mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng mục đích của hôn nhân là không thể đạt được; hoặc xử bác đơn ly hôn của vợ chồng nếu xét thấy việc xin ly hôn là bị ép buộc hoặc lừa dối, tự ái sĩ, diện thách nhau ly hôn. Trường hợp hoà giải thành Toà án lập biên bản hoà giải thành, trong đó nêu rõ nội dung vụ việc và những điều mà các đương sự đã thoả thuận. Nếu hoà giải không thành thì Toà án lập biên bản hoà giải không thành và quyết định đưa vụ án ra xét xử.
|
|
Điều 89. Căn cứ cho ly hôn
1. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
|
|
Căn cứ ly hôn là những tình tiết được quy định trong pháp luật, chỉ khi có những tình tiết (điều kiện) đó thì Toà án mới được xử cho ly hôn. Căn cứ ly hôn là cơ sở pháp lý để Toà án dựa vào đó giải quyết ly hôn.
Trong xã hội có giai cấp, ly hôn cũng thể hiện tính giai cấp. Việc quy định về ly hôn và căn cứ cho ly hôn thể hiện ý chí, quan điểm của giai cấp thống trị xã hội.
Quan điểm của những nhà làm luật tư sản cho rằng hôn nhân thực chất là một “khế ước”, một “hợp đồng” do hai bên nam, nữ tự do, tự nguyện xác lập, vậy thì chỉ được xoá bỏ hôn nhân - khế ước đó trên cơ sở “lỗi” của các bên... Bộ luật Dân sự Pháp quy định “vợ hoặc chồng có thể xin ly hôn do những sự việc bên kia gây ra, vi phạm nghiêm trọng và liên tục bổn phận và nghĩa vụ hôn nhân khiến cho đời sống chung không thể duy trì được.” (Điều 242 Mục III Thiên VI). Theo đó, việc giải quyết các hậu quả của ly hôn như quyền lợi về tài sản, trách nhiệm đối với con cái, cũng dựa trên căn cứ này.
Hệ thống pháp luật ở nước ta dưới chế độ phong kiến, thực dân cũng đã quy định căn cứ ly hôn dựa vào “tội” của vợ như “thất suất” hoặc lỗi của chồng, với những căn cứ, điều kiện phản ánh hình thức của quan hệ hôn nhân.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực hiện quyền tự do hôn nhân phải bảo đảm quyền tự do kết hôn của nam, nữ nhằm xác lập quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn của vợ chồng nhằm chấm dứt quan hệ trước pháp luật. Đồng thời, phải giải quyết ly hôn theo đúng bản chất của sự việc: “Ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện - đó là cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối”. Đương nhiên, không phải ý chí của nhà lập pháp, cũng không phải sự tuỳ tiện của các cá nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định được cuộc hôn nhân này đã chết hay chưa... Nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều kiện theo bản chất của mối quan hệ, theo đó, những trường hợp nào về mặt pháp lý, hôn nhân được coi là tan vỡ, nghĩa là về thực chất, hôn nhân tự nó đã bị phá vỡ rồi và việc Toà án cho phép phá bỏ hôn nhân chỉ là việc ghi biên bản công nhận sự tan vỡ bên trong của nó (C.Mác - “Bản dự luật về ly hôn - 1842”) và chỉ khi nào hôn nhân xét về bản chất không còn là hôn nhân nữa, Toà án mới được xử cho ly hôn. Theo quan điểm này, từ Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (Điều 26), Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 (Điều 40) và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 89) của Nhà nước ta quy định căn cứ cho ly hôn dựa vào bản chất của hôn nhân tan vỡ, hoàn toàn không dựa vào lỗi của vợ, chồng. Xét về nội dung căn cứ chung, để giải quyết ly hôn trong ba văn bản luật này là như nhau.
1. Khoản 1 Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về nội dung căn cứ ly hôn và được hướng dẫn cụ thể tại Mục 8- Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 của Toà án nhân dân tối cao:
“Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
- Vợ chồng không thương yêu, quí trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như: Người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau như: Thường xuyên đánh đập hoặc có hành vi khác xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần
- Vợ chồng không chung thuỷ với nhau, như: Có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức nhắc nhở, khuyên bỏ nhiều lần nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình.
Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại Điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống “ly thân”, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.
Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt ”.
Như vậy, theo hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao, nội dung căn cứ chung để cho ly hôn là xuất phát từ những nguyên nhân, lý do cụ thể trong đời sống vợ chồng như: vợ, chồng luôn có hành vi ngược đãi, đánh đập, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau; vợ chồng không chung thuỷ với nhau đã được gia đình, những người thân thích, cơ quan tổ chức, đoàn thể khuyên can, hoà giải nhiều lần mà giữa vợ chồng vẫn có những hành vi trên, dẫn đến đời sống tình cảm yêu thương giữa vợ chồng đã hết, mâu thuẫn đã sâu sắc không thể hoà giải được, mục đích của hôn nhân nhằm xác lập quan hệ vợ chồng chung sống hoà thuận, hạnh phúc, bền vững, xây dựng gia đình- những tế bào xã hội đã không thể đạt được; và ly hôn nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng là tất yếu khách quan.
2. Khoản 2 Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định căn cứ thứ hai để Toà án giải quyết việc ly hôn: “trong trường hợp vợ hay chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án sẽ giải quyết cho ly hôn”[37]. Xét về kỹ thuật lập pháp, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 coi đây là một căn cứ để giải quyết ly hôn (trước đây, theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và năm 1986 của Nhà nước ta không quy định vấn đề này). Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử các án kiện ly hôn nhiều năm qua ở nước ta, khi chưa có Bộ luật Dân sự năm 1995, Toà án vẫn giải quyết ly hôn theo yêu cầu của đương sự khi vợ, chồng của họ đã bị tuyên bố mất tích[38].
Đường lối giải quyết ly hôn khi vợ, chồng bị mất tích được hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2000/NQ- HĐTP:
- Người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Toà án tuyên bố người chồng hoặc người vợ của mình mất tích và yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn. Trong trường hợp này, nếu Toà án tuyên bố người đó đã mất tích thì giải quyết cho ly hôn; nếu Toà án thấy chưa đủ điều kiện tuyên bố người đó mất tích thì bác các yêu cầu của người vợ hoặc người chồng.
- Người vợ hoặc người chồng đã bị Toà án tuyên bố mất tích theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Sau khi bản án của Toà án tuyên bố người vợ hoặc người chồng mất tích đã có hiệu lực pháp luật thì người chồng hoặc người vợ của người đó có yêu cầu xin ly hôn với người đó. Trong trường hợp này Tòa án giải quyết cho ly hôn.
- Khi Toà án giải quyết cho ly hôn với người bị tuyên bố mất tích thì cần chú ý giải quyết việc quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích theo đúng quy định tại Điều 89 Bộ luật Dân sự năm 1995.
Quá trình xây dựng Dự án Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi) đã có một số ý kiến cho rằng: Pháp luật của Nhà nước ta nên quy định căn cứ ly hôn dựa vào lỗi của vợ, chồng; có Dự thảo dự liệu tới 10 lỗi (duyên cớ ly hôn) cho cả vợ và chồng. Tuy nhiên, quan điểm này đã không được Quốc hội chấp thuận. Nội dung căn cứ ly hôn chung nhất vẫn là “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Nội dung căn cứ ly hôn này đã được áp dụng ở nước ta từ khi Nhà nước ban hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng.
Điều 90. Thuận tình ly hôn
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Toà án công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận về tài sản và con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con; nếu không thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định.
|
|
Thuận tình ly hôn là vợ chồng cùng yêu cầu Toà án cho phép họ được ly hôn. Vì vậy, trong việc thuận tình ly hôn đòi hỏi cả hai vợ chồng cùng bày tỏ ý chí xin ly hôn một cách tự nguyện, không bị cưỡng ép, lừa dối trên cơ sở nguyên tắc hôn nhân tự nguyện và tiến bộ. Như vậy, sự tự nguyện ly hôn của vợ chồng là cơ sở để Toà án xem xét, giải quyết việc ly hôn. Trường hợp một bên vợ, chồng bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc mất tích thì không thể có thuận tình ly hôn được.. Pháp luật quy định việc thuận tình ly hôn đã công nhận và bảo đảm quyền tự do ly hôn chính đáng của cả hai vợ chồng; không bên nào được ép buộc bên nào, không ai được cưỡng ép, lừa dối, cản trở việc ly hôn của hai vợ chồng. Giải quyết ly hôn trong trường hợp hai vợ chồng thuận tình ly hôn cần lưu ý: Nếu như khi kết hôn sự tự nguyện của hai bên nam nữ là cơ sở của việc xác lập quan hệ vợ chồng, nhưng khi ly hôn sự tự nguyện chỉ là cơ sở để Toà án xem xét, giải quyết vụ việc chứ không phải là căn cứ quyết định chấm dứt hôn nhân. Toà án quyết định cho hoặc không cho vợ chồng thuận tình ly hôn vẫn phải dựa trên căn cứ ly hôn theo Luật định (Điều 89 khoản 1).
Trước đây, khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực (13/01/1960), việc giải quyết ly hôn được hướng dẫn tại Thông tư số 690/TT-TANDTC ngày 29.04.1960 của Toà án nhân dân tối cao: “Khi Toà án xử lý, phải xem xét thận trọng cơ sở tình cảm giữa hai bên vợ chồng còn hay hết và phải thẩm tra tính chất tự nguyện xin ly hôn của cả hai bên để bảo đảm quyền tự do ly hôn chính đáng của các đương sự. Nếu xét đúng là cả hai bên không còn yêu nhau nữa và đều có sự tự nguyện thực sự, vấn đề con cái, tài sản được giải quyết thoả đáng thì Toà án sẽ công nhận việc thuận tình ly hôn của họ. Nhưng nếu xét một bên bị lừa phỉnh, vì nông nổi, sĩ diện, tự ái mà xin thuận tình ly hôn một cách miễn cưỡng thì Toà án không nên công nhận. Toà án cần hoà giải để giải quyết mâu thuẫn và giáo dục hai bên trở về đoàn tụ. Trong trường hợp xét thấy người chồng dùng thủ đoạn lừa phỉnh vợ thì nên giáo dục, phê bình một cách thích đáng để cải thiện quan hệ vợ chồng được tốt hơn”.
Như vậy, đối với những trường hợp vợ chồng xin thuận tình ly hôn, nhưng thực tế quan hệ vợ chồng chưa phải là đã đến mức “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” thì Toà án không quyết định cho vợ chồng thuận tình ly hôn. Qua công tác điều tra và hoà giải việc thuận tình ly hôn cần xác định vợ chồng có thật sự tự nguyện thuận tình ly hôn hay không? Mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trầm trọng chưa? Mục đích của hôn nhân có đạt được hay không? Những yếu tố này tạo nên căn cứ đầy đủ để Toà án công nhận thuận tình ly hôn. Muốn vậy, cán bộ xét xử phải tận tâm với công việc, có tinh thần trách nhiệm cao trước hạnh phúc gia đình của đương sự và lợi ích của xã hội, liên hệ mật thiết với cơ sở, quần chúng mới đánh giá được chính xác ý chí tự nguyện thật sự ly hôn của vợ chồng. Qua đó mới có thể phát hiện những trường hợp thuận tình ly hôn do một bên vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng bị lừa dối, bị cưỡng ép ký đơn; hoặc có trường hợp thuận tình ly hôn giả tạo để đạt những lợi ích trái pháp luật, mưu cầu lợi ích riêng của vợ chồng như xin thuận tình ly hôn giả nhằm chuyển hộ khẩu, hoặc tạo điều kiện cho người chồng lấy vợ lẽ một cách hợp pháp; hoặc tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đối với người khác... (vi phạm Khoản 2 Điều 4 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
Như vậy việc pháp luật quy định và công nhận sự thuận tình ly hôn của hai vợ chồng là nhằm giải quyết và chấm dứt những mâu thuẫn, xung đột trầm trọng trong cuộc sống vợ chồng mà từ đó, mục đích hôn nhân không đạt được, ảnh hưởng đến cuộc sống của con cái và các thành viên khác trong gia đình. Tuy nhiên, vợ chồng không thể xin ly hôn một cách tuỳ tiện, vô trách nhiệm mà phải phù hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội trên cơ sở cân nhắc đến lợi ích chung của gia đình con cái.
Cũng theo Điều 90- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, trong việc thuận tình ly hôn, ngoài ý chí thật sự sự nguyện xin thuận tình ly hôn của cả hai vợ chồng, đòi hỏi vợ chồng còn phải có sự thoả thuận với nhau về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con; nếu vợ chồng không thể thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định.
Tại mục 9 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã nêu rõ:
“Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu xin ly hôn thì Toà án phải tiến hành hoà giải. Trong trường hợp Toà án hoà giải không thành thì Toà án lập Biên bản về việc tự nguyện ly hôn và hoà giải đoàn tụ không thành. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản nếu vợ hoặc chồng không có sự thay đổi ý kiến cũng như Viện kiểm sát không có phản đối sự thoả thuận đó, thì Toà án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn mà không phải mở phiên toà khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Hai bên thật sự tự nguyện ly hôn;
- Hai bên đã thoả thuận được với nhau về việc chia hoặc không chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con;
- Sự thoả thuận của hai bên về tài sản và con trong trường hợp cụ thể này là bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con.
Quyết định công nhận thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật ngay, các bên không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Trong trường hợp hoà giải tại Toà án mà thiếu một trong các điều kiện được nêu tại điểm a mục này thì Toà án lập biên bản về việc hoà giải đoàn tụ không thành, về những vấn đề hai bên không thoả thuận được hoặc có thoả thuận nhưng không bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và con, đồng thời tiến hành mở phiên toà xét xử vụ án ly hôn theo thủ tục chung.”
Nội dung quy định tại Điều 90 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về thuận tình ly hôn vừa đảm bảo được tính bao quát, vừa chi tiết, cụ thể hơn so với đoạn 2 Điều 40 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, tạo điều kiện cho việc giải thích, áp dụng Luật chính xác.
|
|
Điều 91. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành thì Toà án xem xét, giải quyết việc ly hôn.
|
|
Bên cạnh những trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn, còn có nhiều trường hợp việc ly hôn chỉ xuất phát từ ý chí của một bên vợ hoặc chồng mà không có sự thuận tình của bên kia vì những lý do khác nhau: do không nhận thức được mâu thuẫn giữa vợ chồng đã sâu sắc, trầm trọng, quan hệ hôn nhân đã tan vỡ hoặc có thể nhận thức được nhưng vẫn không muốn ly hôn vì động cơ nào đó như quyền lợi con cái, danh dự, uy tín cá nhân, muốn cứu vãn hạnh phúc gia đình hoặc cũng có thể muốn gây khó khăn cho bên kia, coi đó là áp lực, là điều kiện trong quá trình ly hôn... Theo quy định tại Điều 91, khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành thì Toà án xem xét, giải quyết việc ly hôn. Về nguyên tắc, Toà án chỉ xét xử cho ly hôn nếu xét thấy quan hệ vợ chồng đã ở vào “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” (nội dung căn cứ ly hôn). Như vậy, xét về bản chất, giải quyết ly hôn trong trường hợp thuận tình ly hôn hoặc một bên vợ, chồng yêu cầu là giống nhau.
Toà án chỉ quyết định công nhận thuận tình ly hôn hoặc xử cho ly hôn (trong trường hợp một bên vợ, chồng yêu cầu ly hôn) khi quan hệ hôn nhân đã tan vỡ, mâu thuẫn vợ chồng đã sâu sắc, trầm trọng, tình cảm yêu thương giữa vợ chồng đã hết, mục đích của hôn nhân đã không đạt được. Bản án hoặc quyết định ly hôn của Toà án khi có hiệu lực pháp luật đều là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ vợ chồng. Khi giải quyết ly hôn, Toà án không dựa trên cơ sở sự yêu cầu cũng như lỗi của vợ chồng để tuyên bố cho ly hôn mà phải dựa vào xác định bản chất của quan hệ hôn nhân, phải áp dụng căn cứ ly hôn (Điều 89) một cách chính xác mới là giải pháp nhằm củng cố các quan hệ gia đình trên cơ sở mới, theo chiều hướng tích cực. Về trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ, chồng, tại mục 10 Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP hướng dẫn như sau:
“Khi một bên vợ, chồng yêu cầu ly hôn thì Toà án phải tiến hành hoà giải. Nếu hoà giải đoàn tụ thành mà người yêu cầu xin ly hôn rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án áp dụng điểm 2 điều 46 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Nếu người xin ly hôn không rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án lập biên bản hoà giải đoàn tụ thành. Sau 15 ngày kể từ ngày lập biên bản, nếu vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng đều không có sự thay đổi ý kiến, cũng như Viện kiểm sát không phản đối thì Toà án án ra quyết định công nhận hoà giải đoàn tụ thành. Quyết định công nhận hoà giải đoàn tụ thành có hiệu lực pháp luật ngay và các đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Trong trường hợp hoà giải đoàn tụ không thành thì Toà án lập biên bản hoà giải đoàn tụ không thành, đồng thời tiến hành mở phiên toà xét xử vụ án ly hôn theo thủ tục chung”.
Riêng đối với trường hợp vợ, chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích có yêu cầu ly hôn, tại Mục 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn:
“Theo quy định tại khoản 2 Điều 89: “trong trường hợp vợ hoặc chồng bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn”. Thực tiễn cho thấy có thể xảy ra hai trường hợp như sau:
- Người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu tuyên bố người chồng hoặc người vợ của mình mất tích và yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn. Trong trường hợp này nếu Toà án tuyên bố người đó mất tích thì giải quyết cho ly hôn; nếu Toà án thấy chưa đủ điều kiện tuyên bố người đó mất tích thì bác yêu cầu ly hôn của người vợ hoặc người chồng.
- Người vợ hoặc người chồng đã bị Toà án tuyên bố mất tích theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Sau khi bản án của Toà án tuyên bố người vợ hoặc người chồng mất tích có hiệu lực pháp luật thì người chồng hoặc người vợ của người đó có yêu cầu xin ly hôn với người đó. Trong trường hợp này Toà án giải quyết cho ly hôn.
- Khi Toà án giải quyết cho ly hôn với người bị tuyên bố mất tích thì cần chú ý giải quyết việc quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích theo đúng quy định tại Điều 89 - Bộ luật Dân sự”.
Tóm lại: Về căn cứ ly hôn và các trường hợp ly hôn theo luật định, so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có những quy định mới cả về kỹ thuật và nội dung.
Điều 40 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã gộp các quy định về thủ tục, về nội dung căn cứ ly hôn và các trường hợp ly hôn (thuận tình ly hôn và ly hôn do một bên vợ, chồng yêu cầu) vào trong một điều luật.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 khi quy định vấn đề này đã “chia” thành ba điều luật riêng (Điều 89, Điều 90 và Điều 91). Đặc biệt, Điều 89 với tiêu đề “Căn cứ cho ly hôn”, bao gồm căn cứ chung: Trong các trường hợp ly hôn, nếu hoà giải không thành thì Toà án xét xử và nếu xét thấy “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” thì Toà án xử cho ly hôn (khoản 1 Điều 89); và còn quy định căn cứ ly hôn cụ thể khi “người vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn” (khoản 2 Điều 89). Quy định về nội dung căn cứ ly hôn tại một điều luật riêng đã thống nhất cách hiểu và vận dụng pháp luật một cách thuận lợi. Căn cứ ly hôn này áp dụng cho các trường hợp ly hôn theo Luật định: trường hợp thuận tình ly hôn và ly hôn do một bên vợ, chồng yêu cầu; hoặc vợ, chồng yêu cầu ly hôn với những nguyên nhân, lý do cụ thể (ngoại tình, không có con, tính tình không hợp, mâu thuẫn gia đình...) khi quyết định Toà án đều phải quán triệt việc áp dụng căn cứ ly hôn thật chính xác. Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 với nội dung cụ thể hơn khi “định lượng” các tiêu chí để Toà án quyết định công nhận thuận tình ly hôn.
|
|
Điều 92. Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác.
|
|
Theo nguyên tắc chung, bản án, quyết định ly hôn của Toà án có hiệu lực pháp luật là sự thừa nhận chính thức sự tan vỡ của một gia đình - dù trước đó, nhiều gia đình đã tan vỡ thực sự. Theo đó, các mối quan hệ hậu ly hôn như cha mẹ - con cái, quan hệ tài sản, cấp dưỡng... cần được giải quyết. Nếu vợ chồng thoả thuận được với nhau về việc giải quyết các vấn đề trên, bảo đảm quyền lợi chính đáng của người phụ nữ và con, thì Toà án công nhận sự thoả thuận đó; nếu vợ chồng không thoả thuận được với nhau hoặc có thoả thuận nhưng quyền lợi của người vợ và các con không được bảo đảm thì Toà án sẽ quyết định.
- Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn là một phần hậu quả pháp lý của ly hôn.
Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con phát sinh dựa trên sự kiện sinh đẻ (huyết thống) và nuôi dưỡng (nhận nuôi con nuôi). Về thực chất, việc hôn nhân còn tồn tại hay không không ảnh hưởng đến quan hệ cũng như các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ với con cái. Vợ chồng (nếu có con chung), với tư cách là cha mẹ đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng các con mình. Trong trường hợp con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, bị mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì những nghĩa vụ đó không đơn thuần phát sinh dựa trên cơ sở quan hệ tình cảm ruột thịt mà là nghĩa vụ pháp định. Thực tế thì sau sự kiện ly hôn, không phải bản thân người vợ hay chồng mà chính con cái là những người phải chịu nhiều ảnh hưởng và thiệt thòi nhất về mặt tâm lý, tình cảm cũng như những yếu tố khác trong đời sống bình thường. Chính vì vậy, vấn đề con cái trong quá trình xem xét và giải quyết ly hôn là một vấn đề quan trọng nhất mà trước hết người có trách nhiệm là hai vợ, chồng. Theo quy định pháp luật, khi ly hôn vợ chồng phải thoả thuận với nhau về vấn đề nuôi con, nếu không thoả thuận được thì Toà án trên cơ sở hoàn cảnh thực tiễn và quyền lợi mọi mặt của con cái mà quyết định ai là người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con. Trong trường hợp con từ đủ 9 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con (con thích ở với ai). Về nguyên tắc, con dưới 3 tuổi do cần có sự chăm sóc từ phía người mẹ hơn nên được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác.
Khi quyết định, Toà án cần xem xét về tư cách đạo đức, hoàn cảnh công tác, điều kiện kinh tế, thời gian của mỗi bên vợ, chồng... xem bên nào có điều kiện thực tế để có thể trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con tốt hơn thì quyết định giao con cho người đó. Ngoài ra, Toà án nên xem xét đến tâm tư, tình cảm của con gắn bó nhiều với cha hay mẹ hơn. Cần thấy rằng, sau khi ly hôn, trong hoàn cảnh vợ chồng ly tán, ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển bình thường của các con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, bị mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Toà án cần giáo dục, hướng dẫn, giải thích cho đương sự hiểu rõ về trách nhiệm và bổn phận của họ đối với các con, không vì mâu thuẫn giữa cha mẹ mà làm ảnh hưởng đến cuộc sống, tình cảm của các con. Toà án cần phải điều tra, tìm hiểu kỹ càng, không thể chỉ dựa vào ý muốn của hai bên vợ chồng khi ly hôn. Trường hợp vợ chồng đã có thoả thuận với nhau về việc giao con cho bên nào muôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con; về mức cấp dưỡng cho con nếu xét thấy chưa hợp lý, quyền lợi của con không được bảo đảm thì Toà án cần phải xem xét để điều chỉnh cho đúng vì lợi ích của con. Trường hợp cha mẹ ly hôn thì càng phải tạo điều kiện để cha mẹ được gần gũi con, tiếp xúc với con và trực tiếp nuôi dạy con; tạo cho con tâm lý thoải mái, nhẹ nhàng để việc ly hôn của cha mẹ không ảnh hưởng tới sự phát triển bình thường của con, để con không cảm thấy bị cô đơn, thiệt thòi.
Trường hợp đặc biệt, nếu xét thấy cả cha và mẹ đều không có đủ tư cách đạo đức hoặc điều kiện thực tế chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển bình thường của người con, Toà án có thể quyết định giao cho ông bà hoặc những người thân thích khác trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.
- Cùng với việc giao con cho bên nào nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, với tư cách là cha, là mẹ, luật cũng quy định người không trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con vẫn có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con đồng thời có trách nhiệm đóng góp phí tổn cấp dưỡng nuôi con. Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con (khoản11- Điều 8), Toà án có trách nhiệm giải quyết phù hợp với các quy định về điều kiện cấp dưỡng, mức cấp dưỡng và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại Chương VI của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (từ Điều 50 đến Điều 62).
Đối tượng được cha mẹ cấp dưỡng gồm con đẻ và con nuôi là con chung của hai vợ chồng. Theo nguyên tắc chung, cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho đến khi con đã thành niên (đủ 18 tuổi). Trường hợp con đã thành niên mà bị tàn tật, bị mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì cha mẹ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đến khi con khỏi bệnh, phục hồi sức khoẻ và có thể lao động tự túc được.
Về mức cấp dưỡng nuôi con phải đảm bảo các chi phí tối thiểu về ăn mặc, học hành, chữa bệnh và các khoản phí tổn khác cho đời sống bình thường của người con. Khi quyết định, Toà án căn cứ vào hoàn cảnh điều kiện thực tế, khả năng kinh tế của hai bên vợ, chồng để ấn định mức cấp dưỡng hợp lý. Có ý kiến cho rằng nên quy định mức cấp dưỡng cụ thể trong luật để thuận lợi cho việc áp dụng, tránh sự tùy tiện, cảm tính khi xét xử.
Tuy nhiên, trên thực tế, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình nói chung, trong đó có nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con sau khi cha mẹ ly hôn phải dựa trên khả năng thực tế của các đương sự; nhất là khả năng của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Sự phát triển kinh tế và mức sống của người dân ở các vùng, miền hoặc ngay trong từng địa phương cũng có sự khác nhau ở nước ta, rất khó có thể dự liệu một mức cấp dưỡng cụ thể để áp dụng chung cho các trường hợp. Nếu giữa các đương sự không thoả thuận được với nhau, khi giải quyết Toà án có toàn quyền quyết định căn cứ vào khả năng thực tế của các bên và nhu cầu của người cần cấp dưỡng, phù hợp với tình hình kinh tế ở địa phương là hợp lý, bảo đảm được quyền lợi của các bên đương sự.
Mục 11- Nghị quyết số 02/2000/NQ- HĐTP ngày 23/12/2000 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn:
“Khi áp dụng quy định tại Điều 92 cần chú ý một số điểm sau:
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 92 thì người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ nuôi con, đây là nghĩa vụ của cha mẹ; do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Trong những trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Toà án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con.
- Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý.
- Về phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ hàng tháng, hàng quí, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng...”
Hướng dẫn trên đây của Toà án nhân dân tối cao là phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay và đặc điểm của quan hệ về cấp dưỡng. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, để tránh sự “hiểu lầm”, trong trường hợp người được giao nuôi con trực tiếp có khả năng kinh tế mà không yêu cầu bên kia phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con là chỉ áp dụng trong trường hợp khi cha mẹ ly hôn; tôn trọng sự thỏa thuận của các bên nếu xét thấy quyền lợi của con được bảo đảm. Đây không phải là cơ sở để “chấm dứt” nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con, kể cả trường hợp đã công nhận việc cấp dưỡng nuôi con một lần. Vì lợi ích của con, nếu sau này người được giao nuôi con trực tiếp có yêu cầu thì vẫn có thể quyết định bên kia phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Cần hiểu như vậy mới “thấu tình đạt lý” và hiểu đúng bản chất quan hệ pháp luật giữa cha mẹ, con là không thể thoả thuận để “khước từ‘ nghĩa vụ.
Điều 93. Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con và phải tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên.
|
|
Trong những năm gần đây, thực tế xét xử cho thấy xảy ra khá nhiều trường hợp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo yêu cầu của đương sự. Dựa trên nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ và các con khi cha mẹ ly hôn; pháp luật quy định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên. Theo Điều 93, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con. Có nhiều lý do để đương sự yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:
- Người trực tiếp nuôi con không còn khả năng thực tế bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con mà bên kia có điều kiện hơn; người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn đi công tác xa nhà nhiều năm, bị bệnh tật lâu ngày; hoặc có hành vi xâm phạm lợi ích của con, hành hạ, ngược đãi con chưa thành niên; hoặc phải thi hành án phạt tù hay bị mất năng lực hành vi dân sự...
Tuỳ theo từng trường hợp mà khi đương sự yêu cầu Toà án xem xét quyền lợi về mọi mặt của con, quyết định thay đổi việc nuôi dưỡng, giáo dục con.
- Trường hợp người không trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con hoặc cả hai bên có yêu cầu thay đổi việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con; xét thấy hợp lý, quyền lợi của con được bảo đảm, Toà án chấp nhận và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con (nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên, Toà án hỏi ý kiến, nguyện vọng của con xem con có đồng ý việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hay không). Đồng thời, giúp đỡ các đương sự thoả thuận về việc cấp dưỡng nuôi con, nếu hai bên không thoả thuận được, Toà án căn cứ vào điều kiện, khả năng thực tế của cả hai bên để quyết định về việc cấp dưỡng nuôi con.
- Trường hợp bên không được giao nuôi con trực tiếp khi ly hôn có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi, nếu xét thấy quyền lợi của con không được bảo đảm, việc có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con xuất phát từ mục đích, động cơ không chính đáng; hoặc nhằm gây khó khăn cho bên kia; mặt khác, nguyện vọng của con (từ đủ 9 tuổi trở lên) cũng không đồng ý thay đổi người trực tiếp nuôi thì Toà án không chấp nhận yêu cầu của đương sự, xử bác đơn của họ.
Điều 94. Quyền thăm nom con sau khi ly hôn
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.
Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
|
|
Như đã phân tích, quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con phát sinh và tồn tại không phụ thuộc vào hôn nhân của cha mẹ là hợp pháp hay không, còn tồn tại hay đã chấm dứt. Vì vậy, dù cha, mẹ ly hôn, không làm thay đổi các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con và nghĩa vụ cấp dưỡng con của cha mẹ là bình đẳng, là quyền chính đáng của cha, mẹ. Khi cha, mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đối với con theo Luật định, không ai được ngăn cấm, cản trở. Quy định này nhằm hạn chế tối thiểu những tác động, ảnh hưởng tiêu cực của việc ly hôn lên quá trình phát triển thể chất và nhân cách bình thường của con cái- những người phải chịu thiệt thòi nhất sau sự kiện ly hôn.
Hai bên có thể thoả thuận bất kỳ lúc nào, người không được trực tiếp nuôi con được đến thăm con; hoặc theo một thời gian biểu (ngày, tháng) cụ thể với khoảng thời gian ước định (sáng, chiều, tối). Dù vợ chồng đã ly hôn, không còn chung sống như những thành viên trong gia đình nhưng họ vẫn cùng phải có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục con trưởng thành. Người được giao nuôi con phải tạo điều kiện thuận lợi cho bên kia được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con. Không được vì những mâu thuẫn, ích kỷ cá nhân mà ảnh hưởng đến quyền lợi của con trẻ.
Trong trường hợp người được trực tiếp nuôi con đã có hành vi ngăn cấm, cản trở, gây khó khăn cho bên kia thực hiện quyền và nghĩa vụ thăm nom, giáo dục con, có thể yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội có chức năng hoặc Toà án kịp thời can thiệp để bảo đảm quyền được thăm nom con của mình. Ngược lại, nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Hiện nay, một số văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn thực hiện áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Ví dụ: Toà án hạn chế quyền thăm nom con của cha, mẹ như thế nào? Hạn chế có thời hạn hay không?
Thực tiễn của đời sống xã hội cho thấy, có một số trường hợp sau khi ly hôn, vì mâu thuẫn, thù ghét nhau mà vợ, chồng (với tư cách là cha, mẹ của con chung) đã “quên” cả lợi ích của con. Có trường hợp người được giao nuôi con trực tiếp đã “giáo huấn” con căm ghét chính người cha, người mẹ của mình; bên trực tiếp nuôi con, cùng những người thân thích đã đe doạ, cấm đoán không cho bên kia thực hiện quyền thăm nom con theo Luật định. Có trường hợp người không được trực tiếp nuôi con đã thực hiện hành vi “đánh cắp” con mình gửi giấu cho người thân ở nơi khác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Bên trực tiếp nuôi cùng những người thân thích đã yêu cầu Toà án giải quyết hoặc có yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự; gây nên tình trạng căng thẳng, mất ổn định an ninh trật tự xã hội. Theo chúng tôi, cần phải có hướng dẫn cụ thể vấn đề này từ phía các cơ quan chức năng. Việc giáo dục ý thức cho các cặp vợ chồng khi ly hôn “hiểu luật”, biết được quyền, nghĩa vụ của các bậc cha, mẹ đối với con; phương thức bảo vệ quyền đó vì lợi ích của con cần phải được quan tâm đặc biệt.
Pháp luật đã quy định chế tài đối với hành vi vi phạm quy định về quyền thăm nom con sau khi ly hôn “Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 20.000 đồng đến 100.000 đồng đối với hành vi thường xuyên cản trở người không trực tiếp nuôi con thăm nom con sau khi ly hôn, trừ trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền thăm nom con theo quyết định của Toà án” (Điều 15 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình)
Điều 95. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn
1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.
2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.
|
|
Trong việc giải quyết các hậu quả pháp lý của ly hôn, “vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng là điều cần thiết đảm bảo điều kiện sống cho mỗi bên sau khi ly hôn. Song đây cũng là hậu quả pháp lý nặng nề nhất, chứng kiến sự tan rã toàn bộ các cơ sở tinh thần, vật chất của một gia đình với tư cách là tế bào của xã hội”[39]... Điều 42 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã quy định các nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, tuy nhiên do tính chất phức tạp của loại việc và các quan hệ xã hội vốn có nhiều biến động nên việc áp dụng quy định có tính nguyên tắc chung này bộc lộ nhiều khó khăn và vướng mắc. Để khắc phục những hạn chế này cũng như nhằm đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích của các bên khi ly hôn, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã dự liệu cụ thể hơn về các nguyên tắc chung khi xác định và chia tài sản riêng, tài sản chung của vợ chồng; đặc biệt, đối với các tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ chồng (Điều 95, 96, 97, 98, 99- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
Theo quy định tại Điều 95, việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết (Khoản 1). Quy định này thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc tự nguyện và quyền “tự định đoạt” của vợ chồng. So với Điều 42 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 “việc chia tài sản do hai bên thoả thuận và phải được Toà án nhân dân công nhận”, Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đề cao hơn nữa sự ý chí của các bên khi bỏ cụm từ “phải được sự công nhận của Toà án nhân dân” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án, bảo đảm quyền lợi chính đáng của cả vợ chồng. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, đặc biệt của phụ nữ và con cũng như tránh sự lợi dụng những quy định này nhằm đạt mục đích tư lợi, không lành mạnh của vợ chồng, việc tự thoả thuận này không được trái với nguyên tắc mà pháp luật đã đề ra. Thực tiễn trong những năm qua cho thấy không ít những trường hợp nhiều cặp vợ chồng xin ly hôn giả rồi tự thoả thuận về việc chia tài sản nhằm tẩu tán tài sản, lẩn tránh nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng đối với Nhà nước, với bên thứ ba. Để tạo điều kiện cho việc hiểu và áp dụng điều luật tốt hơn, cần có hướng dẫn cụ thể của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về vấn đề này.
Việc vợ chồng thoả thuận trong việc chia tài sản chung khi ly hôn được Nhà nước rất khuyến khích và tôn trọng, tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào vợ chồng cũng có thể đi đến một giải pháp chung khi mà mâu thuẫn giữa các bên đã trầm trọng dẫn đến thiếu sự hợp tác, cảm thông lẫn nhau. Vì vậy, luật quy định: “nếu vợ chồng không thoả thuận được với nhau thì yêu cầu Toà án giải quyết”.
Trước hết, để bảo đảm chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn được công bằng, hợp lý, cần xác định đâu là tài sản riêng và đâu là tài sản chung của vợ, chồng; xác định nguồn gốc, giá trị, số lượng, tình hình tài sản, tình trạng cụ thể của gia đình và công sức đóng góp của mỗi bên vợ, chồng... sau đó áp dụng các nguyên tắc quy định tại Điều 95- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để chia; Kết hợp với từng trường hợp cụ thể được quy định tại các Điều 96, 97, 98 và 99 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình.
-
Đối với tài sản riêng của vợ, chồng: Khoản 1- Điều 95 quy định tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó. Việc xác định tài sản riêng của vợ, chồng cần căn cứ vào quy định Điều 32- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Ngoài ra, việc chứng minh tài sản riêng còn có thể dựa vào sự thừa nhận của bên kia hoặc bằng các giấy tờ xác nhận quyền sở hữu của vợ, chồng (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, đăng ký xe máy; di chúc; quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền...). Nếu vợ chồng không chứng minh được đó là tài sản riêng của mình thì xác định là tài sản chung của vợ chồng để chia (khoản 3 - Điều 27).
Theo quy định về chế độ tài sản của vợ chồng (Điều 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33 Luật Hôn nhân và gia đình), khi chia tài sản là tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng mà có tranh chấp, cần lưu ý đã có sự trộn lẫn, ẩn chứa các loại tài sản chung và tài sản riêng trong quá trình sử dụng ở thời kỳ hôn nhân. Trường hợp vợ, chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng đã chi dùng cho gia đình mà không còn nữa thì người có tài sản riêng không có quyền đòi lại hoặc đền bù. Có trường hợp tài sản riêng của một bên đã được tu sửa bằng tài sản chung làm tăng giá trị lên nhiều lần, khi có yêu cầu, Toà án cần xác định phần tăng giá trị đó, nhập vào tài sản chung để chia.
Đối với những đồ trang sức mà vợ, chồng được cha mẹ vợ (hoặc cha mẹ chồng) tặng cho riêng trong ngày cưới là tài sản riêng; nhưng nếu những thứ đó được cha mẹ cho chung cả hai người với tính chất là tạo dựng cho vợ chồng một số vốn thì coi là tài sản chung.
Trường hợp người vợ, người chồng đã vay mượn tiền bạc của người khác để chi dùng cho mục đích, nhu cầu riêng, thì người vợ hoặc người chồng phải có nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản riêng (Khoản 3 Điều 33). Nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ để thanh toán thì phải thanh toán bằng phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung của vợ chồng; hoặc vợ chồng có thể thoả thuận với nhau để thanh toán bằng tài sản chung của vợ chồng.
Trường hợp con đã thành niên có công sức đóng góp đáng kể vào việc tạo lập và phát triển tài sản của cha mẹ, nếu người con có yêu cầu thì được trích chia một phần tài sản của gia đình theo công sức đóng góp của con. Nếu con chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự mà có tài sản riêng (tài sản do con được thừa kế riêng, tặng cho riêng hoặc các thu nhập hợp pháp của con) thì Toà án không chia; Toà án quyết định sẽ giao cho người nào nuôi giữ, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản của con.
Thực tiễn cho thấy, khi ly hôn, tình cảm vợ chồng đã hết, mâu thuẫn giữa các bên trầm trọng, thường có tranh chấp gay gắt về tài sản. Vấn đề cần xác định đâu là tài sản riêng của vợ, chồng; đâu là tài sản chung để chia gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp vì tài sản đã được sử dụng trong thời kỳ hôn nhân, nhiều khi đã vài chục năm, đã qua nhiều lần luân chuyển, biến đổi.
-
Đối với tài sản chung của vợ chồng, khi đã xác định được Toà án áp dụng các nguyên tắc được quy định tại khoản 2 Điều 95 để chia:
- Tại điểm a khoản 2 Điều 95 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phá triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập”. Theo nguyên tắc của chế độ tài sản vợ chồng, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất (Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 233 Bộ luật Dân sự 1995). Tài sản chung của vợ chồng không cần phải cả hai vợ chồng cùng tạo ra một cách trực tiếp; không phụ thuộc vào công sức đóng góp nhiều, ít giữa vợ chồng; không phụ thuộc vào điều kiện vợ chồng sống cách xa nhau vì lý do chính đáng (điều kiện nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình...); theo tính chất nghề nghiệp, điều kiện sức khoẻ của vợ, chồng mà vợ, chồng có thể có thu nhập nhiều ít khác nhau; nhưng trên cơ sở tính chất đặc biệt của mối quan hệ hôn nhân, pháp luật luôn ghi nhận “công sức" đóng góp để xác lập tài sản chung của vợ, chồng là “như nhau”, là “bằng nhau”; lao động trong gia đình (một bên chỉ làm công việc nội trợ, chăm sóc các con...) được tính là lao động có thu nhập và về nguyên tắc vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung một cách bình đẳng. Vì vậy, khi ly hôn, pháp luật dự liệu tài sản chung của vợ chồng được chia đôi.
Tuy nhiên, để bảo đảm tính công bằng, sự phù hợp với nguyên tắc phân phối theo lao động; không phải trường hợp nào khi quyết định, Toà án đều “chia đôi” tài sản chung của vợ chồng cho mỗi bên, mà vẫn cân nhắc và xem xét đến “công sức” đóng góp, hoàn cảnh cụ thể của mỗi bên... cho đạt lý, thấu tình. Toà án chỉ quyết định “chia đôi” tài sản chung của vợ chồng cho mỗi bên khi xét thấy công sức tạo lập, phát triển tài sản chung của vợ, chồng ngang nhau; ngược lại, Toà án vẫn có thể quyết định chia “phần nhiều hơn” hoặc “ít hơn” cho mỗi bên vợ, chồng khi ly hôn.
- Điểm b khoản 2 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn phải “bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”. Nguyên tắc này nhằm xoá bỏ triệt để quan niệm của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến trước đây, coi rẻ quyền lợi của người vợ và con. Cần hiểu rằng “bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình” phải trên cơ sở pháp luật, tránh tuỳ tiện. Toà án có thể kết hợp trong việc chia những tài sản cụ thể, ví dụ: khi chia tài sản chung của vợ chồng là nhà ở, xét thấy cả hai bên vợ chồng đều có nhu cầu cấp bách về chỗ ở, người vợ lại được giao nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên... thì có thể chia ngôi nhà cho người vợ sở hữu, người chồng sẽ được chia những tài sản khác theo công sức đóng góp của họ.
- Việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn phải “bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động có thu nhập” (điểm c khoản 2 Điều 95). Tuỳ theo khả năng, tính chất nghề nghiệp chuyên môn của vợ, chồng, khi chia tài sản của vợ chồng phải bảo đảm được giá trị, công dụng của tài sản, phù hợp với nghề nghiệp của vợ, chồng; tạo sự ổn định nghề nghiệp và phát huy được giá trị, công dụng của tài sản của vợ, chồng trong sản xuất, kinh doanh. Cần tránh việc chia tài sản của vợ chồng làm mất đi công dụng; giá trị của tài sản, không bảo đảm lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp của mỗi bên như giết thịt trâu bò, phá dỡ nhà cửa...; hoặc tài sản đó do một bên vợ, chồng đang sử dụng phù hợp cho công việc sản xuất, kinh doanh, nghề nghiệp của mình mà lại quyết định chia tài sản đó cho bên kia. Thực tế khi ly hôn, vợ chồng ly tán, cần bảo đảm ổn định nghề nghiệp, chuyên môn của vợ, chồng tiếp tục lao động tạo thu nhập, ổn định cuộc sống.
- Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch (Điểm d- khoản 2- Điều 95).
Như trên đã phân tích, để bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ chồng, tạo sự ổn định cuộc sống, ổn định nghề nghiệp, phù hợp với chuyên môn; bảo đảm công dụng, phát huy giá trị tài sản trong sản xuất, kinh doanh của vợ chồng, thì theo nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật mới tính theo giá trị (giá giao dịch thực tế ở địa phương tại thời điểm xét xử) và chia bằng tiền, phù hợp với công sức đóng góp của vợ, chồng. Nếu bên nhận tài sản bằng hiện vật lại có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệnh từ tài sản đã nhận.
Ngoài ra, trên thực tế, xảy ra nhiều trường hợp trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng vay nợ người khác nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình (Điều 25, 27) được xác định là nợ chung của hai vợ chồng thì khi ly hôn, tài sản chung của vợ chồng được bảo đảm để vợ chồng thanh toán trả món nợ chung đó. Sau khi ly hôn, việc vợ chồng ly tán thường gây khó khăn, trở ngại cho việc thanh toán nghĩa vụ chung làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba (chủ nợ, người được hưởng lợi ích về tài sản...). Khoản 3 - Điều 95 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã xác định khi ly hôn vợ chồng thỏa thuận thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Đây là một quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 nhằm hạn chế những hậu quả tiêu cực do sự kiện ly hôn gây ra nhằm bảo đảm quyền lợi của người thứ ba. Vì vậy, khi vợ chồng thỏa thuận với nhau về thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, cần phải có sự công nhận của chủ nợ, người được hưởng lợi ích về tài sản... Trường hợp vợ chồng thỏa thuận với nhau thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản hoặc tẩu tán tài sản thì sự thỏa thuận đó không có giá trị (vô hiệu).
Trong trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi quyết định, trên nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của người thứ ba, tòa án (có thể) quyết định mỗi bên vợ chồng có nghĩa vụ trả nợ “một nửa món nợ” chung đó (nghĩa vụ theo phần của mỗi bên vợ, chồng).
Điều 96. Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn
1. Trong trường hợp vợ, chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia.
|
|
Trong thực tế đời sống xã hội, sau khi kết hôn nhiều đôi vợ chồng cùng sống chung với gia đình cha mẹ chồng (người vợ làm dâu) hoặc cha mẹ vợ (người chồng ở rể) theo phong tục tập quán ở một số vùng, địa phương hoặc do hoàn cảnh của gia đình bên nhà chồng hay bên nhà vợ “ neo người”, cha mẹ đã già yếu, cần có con phụng dưỡng, chăm sóc, cũng có khi vợ chồng người con mới lấy nhau, điều kiện cuộc sống còn khó khăn mà cha mẹ bên nhà vợ hoặc bên nhà chồng muốn “chăm lo, dìu dắt” cho các con một thời gian, khi có đủ điều kiện bảo đảm cuộc sống mới cho các con ra ở riêng.
Khi ly hôn, nếu hai vợ chồng thoả thuận được với nhau và với gia đình bên nhà chồng hoặc bên nhà vợ thì tài sản của vợ chồng sẽ được chia theo thoả thuận đó; nếu không thoả thuận được, vợ, chồng và gia đình có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.
Một số trường hợp hai vợ chồng mới kết hôn và sống chung với gia đình được một thời gian ngắn (một vài tháng), phần tài sản chung của vợ chồng chưa có gì đáng kể, công sức đóng góp của người con dâu (người vợ) đối với việc phát triển tài sản của gia đình nhà chồng, (hay công sức của người con rể (người chồng) đối với việc phát triển tài sản của gia đình bên nhà vợ) chưa rõ ràng, thì khi có tranh chấp, cách giải quyết ổn thoả thường là tài sản riêng ai vẫn thuộc người ấy và không chia tài sản chung của gia đình.
Nhiều trường hợp hai vợ chồng người con đã sống chung với gia đình bên nhà chồng hay bên nhà vợ nhiều năm, tình trạng “ ăn chung, ở chung” cùng gia đình có thể dẫn tới một số trường hợp là khi vợ chồng người con ly hôn, phần tài sản của vợ chồng người con không xác định được, khi người vợ (con dâu) ra khỏi nhà chồng, hoặc người chồng (con rể) ra khỏi nhà vợ thì cần phải trích chia cho họ một phần tài sản của gia đình, tương ứng với công sức đóng góp của người được chia vào việc tạo lập, phát triển, duy trì tài sản của gia đình cũng như công sức đóng góp vào nhu cầu đời sống chung của gia đình và lao động trong gia đình được coi như lao động có thu nhập nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người chồng hoặc người vợ. Đặc biệt là trường hợp người phụ nữ về làm dâu, đóng góp công sức không nhỏ để chăm lo vun vén cho gia đình chồng nhưng đến khi ly hôn, do những định kiến lạc hậu, hay do áp lực của nhà chồng mà phải ra đi tay trắng mà quyền và lợi ích không được đảm bảo, gặp nhiều khó khăn.
Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 việc chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp này được quy định tại Khoản c Điều 42. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 vừa có sự kế thừa, vừa điều chỉnh vấn đề này một cách cụ thể hơn trong một điều luật riêng là Điều 96. “Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình, căn cứ vào công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thoả thuận với gia đình, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”.
Không nên tính công sức đóng góp nhiều hay ít của người vợ, người chồng đối với việc tạo lập, duy trì phát triển tài sản chung của gia đình dựa vào thời gian làm dâu hay ở rể nhiều hay ít năm để chia tài sản nhiều hay chia ít hơn. Luật quy định khi chia một phần tài sản chung của gia đình cho người vợ hoặc người chồng phải căn cứ vào công sức thực tế của người vợ, người chồng. Cần phải xem xét cụ thể đối với từng trường hợp: Khi sống chung với gia đình thì người vợ, người chồng làm gì, thu nhập thực tế như thế nào, nhiều hay ít; Là lao động chính trong gia đình hay bị đau ốm bệnh tật nhiều năm; Có tài sản nào có giá trị lớn đã đóng góp vào việc tạo dựng, duy trì, phát triển tài sản chung của gia đình không? Người vợ (đã về làm dâu) hay người chồng (đã về ở rể) cùng sống chung với gia đình nhiều năm hay mới về chung sống... Tùy theo từng trường hợp cụ thể để tính công sức đóng góp nhiều hay ít đối với người vợ (chồng) để chia một phần tài sản trong khối tài sản chung của gia đình thoả đáng nhất.
Có trường hợp vợ (chồng) mới về làm dâu (ở rể) cùng sống chung với gia đình được một thời gian ngắn, nhưng khi về sống chung với gia đình người vợ (chồng) đó đã có số tài sản riêng có giá trị lớn để đóng góp vào khối tài sản chung của gia đình; Mặt khác, họ lại là lao động chính, có thu nhập cao... thì dù mới về sống chung với gia đình được một thời gian chưa nhiều, cũng phải “tính” cho họ là người có nhiều công sức đóng góp và trích chia cho họ phần tài sản chung của gia đình cho thỏa đáng. Vả lại, có trường hợp mặc dù người vợ ( chồng ) đã sống chung với gia đình nhiều năm, nhưng họ không phải là lao động chính, thu nhập lại thấp, hoặc thường đau ốm do bệnh tật kéo dài... thì không thể “tính” cho họ có nhiều công sức khi chia một phần tài sản chung của gia đình.
Trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được tính từ khối tài sản chung đó để chia (Điều 96- Khoản 2).
Trong thực tế có một số trường hợp khi hai vợ chồng sống chung với gia đình, quá trình cùng chung sống với gia đình, cả vợ, chồng đã đóng góp công sức vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung của gia đình một cách rõ ràng; các thành viên cùng sống chung với gia đình đều thừa nhận phần tài sản mà hai vợ chồng đã tạo dựng thì phần tài sản đó sẽ được trích ra từ khối tài sản chung của gia đình để chia. Khi chia, nếu vợ chồng không thỏa thuận được với nhau thì Tòa án áp dụng các nguyên tắc quy định tại Điều 95 để chia, khi vợ chồng có yêu cầu.
|
|
Điều 97. Chia quyền sử dụng đất của vợ, chồng khi ly hôn
1. Quyền sử dụng đất riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó.
2. Việc chia quyền sử dụng đất chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau:
a) Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thoả thuận của hai bên; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định tại Điều 95 của Luật này.
Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng;
b) Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản này;
c) Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 95 của Luật này;
d) Việc chia quyền sử dụng đối với các loại đất khác được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật dân sự.
3. Trong trường hợp vợ, chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 96 của Luật này.
|
|
Đây là một quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Thực chất, trong quan hệ hôn nhân, quyền sử dụng đất cũng là một loại tài sản riêng của vợ, chồng hoặc tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, do quyền sử dụng đất là loại tài sản mang tính chất đặc biệt, thường có giá trị thực tế và giá trị sử dụng lớn nhất, có ý nghĩa nhất trong khối tài sản chung của vợ chồng nên tranh chấp khi chia tài sản của vợ, chồng diễn ra rất phổ biến về số lượng và phức tạp về nội dung, việc giải quyết gặp nhiều khó khăn, chậm trễ, nhiều vụ phải xét xử nhiều lần do không có những quy định điều chỉnh một cách cụ thể, rõ ràng. Vì vậy, để kịp thời khắc phục những khó khăn trên, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định nguyên tắc chia quyền sử dụng đất của vợ chồng trong một điều luật riêng. Khi vợ chồng ly hôn, tùy theo điều kiện, hoàn cảnh của vợ chồng và tùy theo từng loại đất để chia quyền sử dụng đất của vợ chồng cho công bằng, hợp lý, bảo đảm quyền lợi của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình.
Theo nguyên tắc chung, quyền sử dụng đất của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ, chồng có được trước khi kết hôn do được chuyển nhượng, chuyển đổi, thừa kế, nhận thế chấp hoặc được nhà nước giao, được cho thuê trước khi kết hôn được coi là tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng;
Việc chia quyền sử dụng đất chung của vợ chồng khi ly hôn, tùy theo từng loại đất và điều kiện thực tế của vợ chồng, được xác định và giải quyết như sau:
-
Chia quyền sử dụng đất mà vợ, chồng được Nhà nước giao.
Sau khi kết hôn, quyền sử dụng đất mà vợ chồng hoặc mỗi bên vợ, chồng được nhà nước giao, kể cả giao khoán là tài sản chung của vợ chồng; khi ly hôn, việc chia quyền sử dụng đất đó được thực hiện:
- Đối với quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối:
+ Trong trường hợp cả vợ và chồng đều có nhu cầu sử dụng đất và có điều kiện trực tiếp sử dụng, thì quyền sử dụng đất được chia theo thỏa thuận của vợ chồng; Nếu vợ chồng không thỏa thuận được thì Tòa án áp dụng quy định tại Điều 95- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết khi vợ chồng yêu cầu.
+ Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất, thì người đó có quyền được trực tiếp sử dụng toàn bộ đất đó sau khi đã thỏa thuận với bên kia; Nếu không thỏa thuận được thì bên sử dụng đất phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà bên đó được hưởng theo mức mà hai bên thỏa thuận; Nếu không thỏa thuận được, thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong trường hợp một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất nhưng không thể thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà bên đó được hưởng, thì bên kia có quyền chuyển nhượng phần quyền sử dụng đất của mình cho người thứ ba, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
- Việc chia quyền sử dụng đất đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở được nhà nước giao, đất chuyên dùng là tài sản chung của vợ chồng, khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại Điều 95- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 24- Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001).
-
Chia quyền sử dụng đất mà vợ, chồng được nhà nước cho thuê
Sau khi kết hôn, quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc chỉ có một bên vợ hoặc chồng được nhà nước cho thuê là tài sản chung của vợ chồng; Khi ly hôn, việc chia quyền sử dụng đất đó được giải quyết theo nguyên tắc:
- Trong trường hợp vợ chồng trả tiền thuê đất hàng năm mà khi ly hôn, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất đó thì việc chia quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại Điều 95- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Các bên phải ký lại hợp đồng thuê đất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Trong trường hợp vợ chồng đã trả tiền thuê đất hàng năm mà khi ly hôn, nếu chỉ một bên có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng đất, thì bên đó được trực tiếp sử dụng đất và phải ký lại hợp đồng thuê đất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nếu hợp đồng thuê đất trước đây do bên kia hoặc cả hai người đứng tên; Nếu các bên đã đầu tư vào tài sản có trên đất, thì phải thanh toán cho bên kia một phần giá trị tài sản đã đầu tư trên đất mà người đó được hưởng vào thời điểm chia tài sản khi ly hôn,căn cứ vào tài sản và công sức đầu tư của bên kia, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Trong trường hợp vợ chồng đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê thì khi ly hôn, các bên thỏa thuận về việc sử dụng đất đó và thanh toán cho nhau phần tiền thuê đất đã nộp trong thời gian thuê đất còn lại.
Trường hợp một bên được tiếp tục sử dụng toàn bộ diện tích đất thì phải thanh toán cho bên kia một nửa số tiền thuê đất tương ứng với thời gian thuê đất còn lại, kể từ thời điểm chia tài sản khi ly hôn, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu các bên đã đầu tư vào tài sản trên đất thì bên tiếp tục thuê đất phải thanh toán cho bên kia một phần giá trị tài sản đã đầu tư trên đất vào thời điểm đã chia tài sản khi ly hôn, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác (Điều 25- Nghị định số 70/2001/ NĐ-CP ngày 3.10.2001).
-
Chia tài sản của vợ chồng được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế chung, được thế chấp
- Khi ly hôn, việc chia quyền sử dụng đất do vợ chồng được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế chung được thực hiện theo quy định tại Điều 95- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
- Trong trường hợp vợ chồng nhận thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba thì khi ly hôn, quyền nhận thế chấp đất cũng thuộc khối tài sản chung của vợ chồng và được chia theo quy định tại Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
-
Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng được giao chung với hộ gia đình
Trong trường hợp cả vợ và chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, làm muối, đất lâm nghiệp được giao chung với hộ gia đình sau khi kết hôn, thì khi ly hôn, phần quyền sử dụng đất của vợ và chồng của con không tiếp tục sống chung với hộ gia đình được tách ra và chia theo quy định tại Điểm a khoản 2 Điều 97 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Quy định về chia quyền sử dụng đất của vợ, chồng khi ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình đã thực sự giúp cho việc giải quyết vấn đề chia tài sản sau khi ly hôn của vợ chồng đạt được những hiệu quả khả quan hơn hẳn so với trước đây. Tuy nhiên, tranh chấp quyền sử dụng đất nói chung và trong lĩnh vực hôn nhân gia đình nói riêng vẫn là một trong những vấn đề pháp lý phức tạp nhất hiện nay mà việc giải quyết triệt để đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn trong việc xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật về đất đai một cách đồng bộ, phù hợp với thực tế khách quan và cụ thể hơn.
Trong thực tế, quá trình các Toà án áp dụng các quy định của pháp luật để chia tài sản (chủ yếu là nhà ở và quyền sử dụng đất) khi vợ chồng ly hôn là không thống nhất. Trường hợp một bên được tiếp tục sử dụng tài sản và thanh toán cho bên kia phần giá trị tương đương, việc xác định giá trị tài sản theo khung giá do Chính phủ ban hành, khung giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định hay giá giao dịch thực tế ở địa phương được các Toà án áp dụng không thống nhất. Để đảm bảo quyền lợi, sự công bằng cho các bên trong quan hệ, cần thiết phải có hướng dẫn cụ thể để các Toà án có cơ sở áp dụng.
Điều 98. Chia nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng
Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng có thể chia để sử dụng thì khi ly hôn được chia theo quy định tại Điều 95 của Luật này; nếu không thể chia được thì bên được tiếp tục sử dụng nhà ở phải thanh toán cho bên kia phần giá trị mà họ được hưởng
|
|
Chia nhà thuộc sở hữu chung của vợ chồng là quy định mới của Luật Hôn nhân gia đình năm 2000. Quy định này nhằm đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích của vợ, chồng cũng như tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho Toà án khi giải quyết các tranh chấp về chia tài sản là nhà, quyền sử dụng đất. Giống như quyền sử dụng đất, thông thường nhà ở là loại tài sản có giá trị thực tế, giá trị sử dụng lớn và thiết thực nhất trong khối tài sản chung của vợ chồng. Thực tế giải quyết tranh chấp về nhà ở của vợ chồng khi ly hôn là loại việc rất phức tạp và thường gặp nhiều khó khăn. Thường khi ly hôn, vợ, chồng đều yêu cầu được chia nhà ở nhằm ổn định cuộc sống, “chỗ ăn, chỗ ở” sau khi ly hôn. Tùy từng trường hợp cụ thể, Toà án cần xem xét bên nào có nhu cầu thiết yếu hơn về chỗ ở sau khi vợ chồng ly hôn; Thiết kế, cấu trúc của căn nhà có thể chia hoặc không thể chia được. Để giải quyết chia nhà ở là tài sản chung của vợ chồng hợp lý, cần chú trọng quyền lợi chính đáng cho vợ chồng, nhất là quyền lợi của người vợ và các con chưa thành niên, hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Trước đây, Chỉ thị số 69-DS ngày 24.12.1979 của Tòa án nhân dân Tối cao đã chỉ rõ: “Khi chia nhà ở là tài sản chung của vợ chồng cần bảo đảm quyền lợi của vợ chồng, trong đó ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vợ và các con chưa thành niên. Trong mọi trường hợp, bảo đảm cho vợ, chồng sau khi ly hôn đều có chỗ ở, đặc biệt cần quán triệt nguyên tắc không được để vợ, con chưa thành niên ra khỏi nhà nếu họ thực sự chưa có chỗ ở mới”.
-
Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng có thể chia để sử dụng thì Tòa án áp dụng các nguyên tắc được quy định tại Điều 95- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để chia cho mỗi bên một phần diện tích nhà, đất, bảo đảm ổn định “chỗ ăn, chỗ ở” cho vợ chồng sau khi ly hôn, ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vợ và các con chưa thành niên, hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Tuy nhiên, thực tế cho thấy “vạn bất đắc dĩ” vợ, chồng sau khi ly hôn vẫn ở cùng ngôi nhà (dù sau khi chia, ngôi nhà đã được phân định ngăn đôi, hoặc người ở tầng trên, người ở tầng dưới), vì bất tiện cho quá trình sử dụng, vì liên quan tới tình cảm vợ chồng. Sau khi ly hôn, do những mâu thuẫn đã xảy ra, nhiều trường hợp họ thù ghét nhau, gây khó khăn cho nhau trong cuộc sống. Mặc dù bản án, quyết định ly hôn của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng đương sự vẫn có nhiều đơn thư khiếu nại, yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong quá trình sử dụng nhà ở.
-
Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng không thể chia được (do cấu trúc xây dựng hoặc để đảm bảo an toàn) thì bên được tiếp tục sử dụng nhà ở phải thanh toán cho bên kia phần giá trị mà họ được hưởng. Tòa án xem xét nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng về chỗ ở, trong đó ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vợ và con chưa thành niên, hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, để chia.
Toà án có thể giải quyết bằng cách giao ngôi nhà cho người vợ, chồng sở hữu, còn người kia được chia những tài sản khác trong khối tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp người được chia nhà ở mà giá trị của ngôi nhà nhiều hơn giá trị tài sản mà mình được chia thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị mà họ được hưởng (theo giá thị trường ở địa phương đó vào thời điểm xét xử).
Thực tế giải quyết các tranh chấp về nhà ở của vợ chồng khi ly hôn thường gắn liền với quyền sử dụng đất. Có trường hợp nhà ở là tài sản chung của vợ chồng nhưng lại được xây dựng trên đất thuộc quyền sử dụng của vợ hoặc chồng hoặc của gia đình bên vợ (hoặc bên nhà chồng).
Có trường hợp khi ly hôn, khối tài sản chung của vợ chồng có giá trị rất lớn; Trong đó vợ chồng có nhiều nhà, “nhiều đất”. Khi có yêu cầu, xét theo từng trường hợp cụ thể, điều kiện, hoàn cảnh, công sức của vợ chồng để Tòa án quyết định chia nhà ở, quyền sử dụng đất của vợ chồng theo các nguyên tắc quy định tại Điều 95, Điều 98 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Thực tế giải quyết chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn có vấn đề vướng mắc sau: Có vợ chồng khi cưới nhau được bố mẹ chồng cắt đất (trong khoảng đất ở của hộ gia đình) và xây nhà ở nhưng không lập thành văn bản có chứng thực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Khi vợ chồng ly hôn, cha mẹ lấy cớ chỉ cho vợ chồng ở nhờ trong thời gian chưa tự lập được hoặc việc cho nhà ở không lập thành văn bản nên không có giá trị (theo Điều 463 Bộ luật Dân sự việc tặng cho tài sản là bất động sản phải được lập thành văn bản có chứng thực của cơ quan nhà nước), hơn nữa trong Bộ luật Dân sự chưa có quy định nào về việc tặng cho quyền sử dụng đất. Do không đủ căn cứ xác định nhà và quyền sử dụng đất là tài sản của vợ chồng nên Toà án không thể chia tài sản cho vợ chồng được, việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật trên thực tế rất thiệt thòi cho quyền lợi của người phụ nữ. Đây là một điểm bất cập của pháp luật cần được sửa đổi, bổ sung.
|
|
Điều 99. Giải quyết quyền lợi của vợ, chồng khi ly hôn trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên
Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên đã được đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn, nhà ở đó vẫn thuộc sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà, nhưng phải thanh toán cho bên kia một phần giá trị nhà, căn cứ vào công sức bảo dưỡng, nâng cấp, cải tạo, sửa chữa nhà.
|
|
Theo chính sách về nhà ở của nhà nước ta, nhà ở có thể là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, có thể nhà ở là tài sản riêng của vợ (chồng); Có thể nhà ở đó thuộc quyền sở hữu của người khác hoặc của nhà nước mà vợ chồng khi kết hôn đã thuê, mượn để sử dụng trong thời kỳ hôn nhân. Cuộc sống chung của hai vợ chồng đã dẫn tới những trường hợp: Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung hoặc nhà ở do vợ chồng thuê của tư nhân, của Nhà nước mà trong quá trình sử dụng đã được xây dựng mới, nâng cấp, sửa chữa, cải tạo làm tăng giá trị của ngôi nhà đó. Theo quy định tại Điều 99- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 28, 29, 30- Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 thì việc giải quyết quyền lợi của vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng, hoặc nhà ở mà vợ chồng đã thuê của tư nhân, của nhà nước được giải quyết như sau:
-
Trường hợp nhà ở do vợ hoặc chồng hoặc cả vợ và chồng thuê của Nhà nước trước hoặc sau khi kết hôn:
- Trong trường hợp hợp đồng thuê nhà vẫn còn thời hạn, thì các bên thỏa thuận về việc tiếp tục thuê nhà ở đó; Nếu các bên không thỏa thuận được và cả hai bên đều có nhu cầu sử dụng thì được toà án giải quyết theo quy định tại Điều 95- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Trong trường hợp vợ chồng đã nâng cấp, sửa chữa, cải tạo nhà thuê của nhà nước hoặc xây dựng mới trên diện tích có nhà thuê của nhà nước, thì khi ly hôn, việc chia quyền sử dụng nhà ở và phần diện tích nâng cấp, sửa chữa, cải tạo, xây dựng mới do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được, thì được Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 95- Luật Hôn nhân và gia đình. Nếu chỉ một bên có nhu cầu sử dụng, thì bên sử dụng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền thuê nhà của nhà nước và một phần giá trị nhà đã nâng cấp, sửa chữa, cải tạo, xây dựng mới mà bên đó được hưởng vào thời điểm chia tài sản khi ly hôn.
- Trong trường hợp vợ chồng đã được nhà nước chuyển quyền sử hữu đối với nhà đó, thì việc chia nhà khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại Điều 95- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
-
Trường hợp vợ chồng thuê nhà ở của tư nhân
Việc phân chia quyền sử dụng nhà ở đó phải bảo đảm quyền lợi của chủ sở hữu nhà và tuân theo quy định sau đây:
- Trong trường hợp thời hạn thuê đang còn, thì các bên thoả thuận với nhau về phần diện tích mà mỗi bên được thuê và làm lại hợp đồng với chủ sở hữu nhà.
- Trong trường hợp thời hạn thuê đang còn mà chủ sở hữu nhà chỉ đồng ý cho một bên được tiếp tục thuê nhà, thì các bên thoả thuận về việc một bên được tiếp tục thuê.
- Trong trường hợp nhà ở thuê đã nâng cấp, sửa chữa cải tạo, xây dựng thêm diện tích gắn liền với nhà thuê và được sự đồng ý của chủ sở hữu nhà, thì bên tiếp tục ở phải thanh toán cho bên kia phần giá trị nhà đã nâng cấp, sửa chữa, cải tạo, xây dựng thêm mà bên đó được hưởng vào thời điểm chia tài sản khi ly hôn.
- Trong trường hợp xây dựng thêm diện tích nhà độc lập với diện tích thuê và được sự đồng ý của chủ nhà, các bên đã thanh toán tiền sử dụng đất cho chủ nhà, thì việc chia nhà ở đó thực hiện theo quy định tại Điều 95 của Luật Hôn nhân và gia đình.
-
Trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên
Về nguyên tắc, nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ (chồng) thì khi vợ chồng ly hôn, nhà ở đó vẫn là tài sản riêng của vợ (chồng), dù vợ chồng ở chung trong ngôi nhà đó hoặc đã cho người khác thuê, mượn để ở; trừ trường hợp có thoả thuận khác.
- Khi ly hôn, bên vợ, chồng có nhà có nghĩa vụ hỗ trợ cho bên kia tìm chỗ ở mới, nếu bên kia thực sự có khó khăn và không thể tự tìm được chỗ ở. Bên chưa có chỗ ở được lưu cư trong thời hạn sáu tháng để tìm chỗ ở khác và bảo đảm ổn định cuộc sống sau khi ly hôn (Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001). Cách giải quyết này dựa trên tinh thần tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau và truyền thống đạo đức “một ngày nên nghĩa” của dân tộc ta mặc dù giữa họ không còn quan hệ vợ chồng nữa.
- Trong trường hợp nhà ở đó đã được xây dựng mới, nâng cấp, sửa chữa, cải tạo, thì bên vợ, chồng là sở hữu nhà phải thanh toán cho bên kia phần giá trị nhà đã xây dựng mới, nâng cấp, sửa chữa, cải tạo mà bên đó được hưởng vào thời điểm chia tài sản khi ly hôn. Như vậy, phần giá trị xây dựng mới, nâng cấp, sửa chữa, cải tạo được xác định là tài sản chung của vợ chồng và được chia theo quy định chung
Có thể nói, với những quy định tiến bộ, chặt chẽ, đầy đủ và cụ thể hơn rất nhiều về chế định ly hôn so với các bộ luật về hôn nhân và gia đình trước đây, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết thoả đáng và bảo vệ được lợi ích chính đáng của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là quyền lợi của người phụ nữ và con cái, khi sự kiện ly hôn - một hiện tượng tiêu cực trong gia đình - xảy ra. Những quy định này đã trở thành cơ sở pháp lý vững chắc và rõ ràng điều chỉnh một cách hữu hiệu các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này. Suy cho cùng, việc ghi nhận và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các cá nhân trong quá trình tạo lập và duy trì hạnh phúc gia đình đã là một điều không dễ nhưng vấn đề này còn trở nên khó khăn hơn rất nhiều khi mà mối quan hệ hôn nhân đã tan vỡ và lợi ích của các thành viên trong một gia đình không còn thống nhất với nhau. Tuy nhiên, vai trò của pháp luật lại càng trở nên quan trọng và cần thiết khi mà yếu tố tình cảm không còn là nền tảng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ vốn mang bản chất duy tình này.
Chương XI
|
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
|
Cùng với sự phát triển của quá trình hội nhập quốc tế, các quan hệ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ngày càng gia tăng và phức tạp về tính chất, nội dung. Chỉ riêng về tình hình kết hôn và nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, trung bình mỗi năm có hàng ngàn quan hệ được đăng ký.
Theo thống kê chưa đầy đủ từ năm 1995 đến năm 1999 đã có 48.923 trường hợp công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, trong đó thành phố Hồ Chí Minh có số lượng đông nhất (trên 20.000 trường hợp, chiếm gần 41%). Điều đặc biệt là số phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan cũng ngày càng tăng lên (trên 10.5000 trường hợp, chiếm 21,5%). Tính từ năm 1994, từ khi Nhà nước ta ban hành Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài và Nghị định số 184- CP ngày 30/11/1994 đến đầu năm 2001 đã có 66.141 trường hợp kết hôn với người nước ngoài mà chủ yếu là phụ nữ Việt Nam kết hôn với công dân cuả 40 nước khác nhau trên thế giới. Theo phía Đài Loan cung cấp số liệu thì cho đến năm 2002 đã có khoảng từ 65.000 đến 66.000 cô dâu là người Việt Nam (số liệu của Viện Nghiên cứu Trung ương Đài Loan cung cấp), riêng ở thành phố Hồ Chí Minh đến tháng 11/2001 có 10.175 phụ nữ kết hôn với người Đài Loan (số liệu Sơ kết thực hiện Nghị định số 184-CP do Bộ Tư pháp tổ chức năm tháng 11/2001)
Tình hình người nước ngoài nhận xin nhận trẻ em làm con nuôi cũng ngày một tăng. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ năm 1995 đến năm 1999 đã có 9.322 trẻ em thuộc 56/61 tỉnh thành được người nước ngoài nhận làm con nuôi, trong đó trẻ em Việt Nam được làm con nuôi tại Pháp là 3.407 (36,5%). Đến năm 2002 số trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi người nước ngoài đã là 11.000 trẻ em (số liệu của Vụ pháp luật quốc tế và Hợp tác quốc tế- Bộ Tư pháp).
Trước xu hướng trên về giao lưu dân sự có yếu tố nước ngoài việc hoàn thiện pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ đó là yêu cầu tất yếu có tính khách quan và có tính cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được quy định tại Chương XI, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, gồm 7 Điều (từ Điều 100 đến Điều 106). Đây là những quy định có tính nguyên tắc về các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 (chỉ có 3 điều là Điều 52, 53 và 54), thì các quy định về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài tại Chương XI của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có đối tượng và phạm vi điều chỉnh cũng rộng hơn, đầy đủ hơn.
Về đối tượng, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 (Chương IX) chỉ điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình của công dân Việt Nam với người nước ngoài; còn Chương XI của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam, giữa các công dân Việt Nam phát sinh ở nước ngoài.
Về phạm vi, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 (Chương IX) chỉ điều chỉnh vấn đề kết hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài (Điều 52); còn các quan hệ vợ chồng, quan hệ tài sản, quan hệ cha mẹ và con, huỷ việc kết hôn, ly hôn, nuôi con nuôi và đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài Luật giao cho Hội đồng Nhà nước quy định (Điều 53). Phạm vi điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đầy đủ hơn, cụ thể hơn và có tính khả thi hơn. Bao gồm các vấn đề sau đây trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài: bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; áp dụng pháp luật nước ngoài đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; thẩm quyền giải quyết các việc về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; kết hôn có yếu tố nước ngoài; ly hôn có yếu tố nước ngoài; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; giám hộ trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Về khái niệm “quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài”.
Khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được quy định lần đầu tiên tại khoản 14 Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Đó là sự vận dụng quy định tại Điều 826 của Bộ luật Dân sự (về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài) đối với quan hệ hôn nhân và gia đình. Theo khoản 14 Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình là quan hệ hôn nhân và gia đình:
a) Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;
b) Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam;
c) Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.
Từ khái niệm trên đây, có một số nội dung quan trọng cần làm rõ như sau:
Thứ nhất, về chủ thể tham gia quan hệ hôn nhân và gia đình:
- Có ít nhất một bên chủ thể là người nước ngoài tham gia quan hệ hôn nhân và gia đình, thì đó là quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Người nước ngoài trong trường hợp này phải được hiểu là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngoài (hay còn gọi là công dân nước ngoài) và người không quốc tịch (không là công dân của bất kỳ nước nào). Ví dụ một công dân Việt Nam kết hôn với công dân Nhật Bản, công dân Việt Nam phải tuân theo pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn, công dân Nhật Bản phải đáp ứng điều kiện kết hôn theo pháp luật Nhật Bản và phù hợp với nguyên tắc chung của pháp luật Việt Nam.
- Trường hợp các chủ thể tham gia quan hệ hôn nhân và gia đình đều là công dân Việt Nam, nhưng căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài, thì vẫn được coi là quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Ví dụ, hai công dân Việt Nam kết hôn với nhau tại nhà thờ Đức Bà Paris (Pháp); hai công dân Việt Nam ly hôn với nhau tại Toà án của CHLB Đức. Đặc trưng của yếu tố nước ngoài trong các quan hệ này là ở chỗ, việc kết hôn được tiến hành ở nhà thờ Paris (Pháp) và tuân theo pháp luật của Pháp về nghi thức kết hôn; việc ly hôn được giải quyết tại Toà án Đức và tuân theo pháp luật tố tụng của Đức, theo nguyên tắc Lex fori (luật toà án).
Thứ hai, có một số quan hệ hôn nhân và gia đình tuy liên quan đến tính quốc tế (nước ngoài), nhưng thực chất lại không phải là quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, xét dưới góc độ Tư pháp quốc tế. Ví dụ, hai công dân Việt Nam kết hôn với nhau tại Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài; công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước kết hôn với công dân ở trong nước. Đây là các quan hệ hôn nhân giữa công dân Việt Nam với nhau, hoàn toàn không có yếu tố nước ngoài. Bởi lẽ, trong các trường hợp đó không dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật[40]. Chúng ta đều biết, xung đột pháp luật là bản chất của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói riêng. Hiện tượng xung đột pháp luật chỉ xảy ra đối với các quan hệ xã hội có yếu tố nước ngoài. Do đó, việc hai công dân Việt Nam kết hôn với nhau tại Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài hoặc công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước kết hôn với công dân ở trong nước, hoàn toàn là quan hệ hôn nhân của công dân Việt Nam với nhau (tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam). Các trường hợp này không nảy sinh hiện tượng xung đột pháp luật, tức là không dẫn tới việc áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh quan hệ đó.
Thứ ba, nội dung của khái niệm "quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài" nêu tại khoản 14 Điều 8 và phạm vi điều chỉnh của Chương XI không đồng nhất với nhau. Nói cách khác, có nhiều nhóm quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài đã không được quy định trong Chương XI (như quan hệ giữa vợ và chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa các thành viên trong gia đình; xác định cha, mẹ, con; vấn đề cấp dưỡng). Vì thế cũng có thể nói rằng, phạm vi điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài tại Chương XI Luật hôn nhân gia đình năm 2000 hẹp hơn rất nhiều so với quan hệ hôn nhân và gia đình thông thường khác. Nguyên nhân của vấn đề là bắt nguồn từ thực trạng đời sống kinh tế- xã hội của Việt Nam liên quan đến tình hình thi hành các quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình nói chung và có yếu tố nước ngoài nói riêng.
Một điểm quan trọng của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là trong việc xây dựng quy phạm xung đột (điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài), xu hướng áp dụng pháp luật Việt Nam đã được quan tâm hơn và chỉ rõ trong từng quy định cụ thể. Nói cách khác, việc xây dựng quy phạm xung đột một bên (tức là áp dụng pháp luật Việt Nam) để giải quyết xung đột giữa hệ thống pháp luật Việt Nam với pháp luật các nước về hôn nhân và gia đình đã được thể hiện đậm nét trong các điều luật. Đây là điểm khác lớn nhất của Luật 2000 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Mục đích của nó một mặt giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhất là Thẩm phán, dễ dàng áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc phát sinh, mặt khác cũng là cơ hội đề cao pháp luật dân sự, Hôn nhân và gia đình tiến bộ của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là hạn chế hoặc từ chối việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Về nguyên tắc, pháp luật nước ngoài vẫn được áp dụng, nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia dẫn chiếu hoặc được pháp luật Việt Nam quy định.
|
|
Điều 100. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
1. ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
2. Trong quan hệ hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam được hưởng các quyền và có nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác.
3. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế.
4. Các quy định của Chương này cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài
|
|
Quy định này vừa có ý nghĩa như một tuyên ngôn của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, vừa là cơ sở pháp lý để Toà án vận dụng nhằm giải quyết các vụ việc cụ thể khi cần thiết. Nội dung của quy định này có một số điểm quan trọng sau:
Thứ nhất, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trên cơ sở pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
Những nguyên tắc chung của pháp luật trong điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình đối với công dân Việt Nam đều được áp dụng trong các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, bên cạnh đó do tính đặc thù của quan hệ này nên trong một số trường hợp việc điều chỉnh có sự chặt chẽ hơn theo một số quy định riêng.
Trong trường hợp Việt Nam ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế về hôn nhân và gia đình thì các quy định trong các điều ước này được ưu tiên áp dụng. Các điều ước quốc tế này chủ yếu là các Hiệp định tương trợ tư pháp, Hiệp định lãnh sự, Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi v.v... Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và ưu tiên áp dụng các điều ước Quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, ví dụ Điều 4 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài quy định “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có khác với Nghị định này, thì áp dụng quy định của đièu ước quốc tế đó ”
Như vậy:
- Quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài không hề bị hạn chế, ngăn cản hay cấm đoán dưới bất cứ hình thức nào, mà nó được Nhà nước tôn trọng, thừa nhận và bảo vệ bằng nhiều biện pháp thích hợp.
- Quan hệ hôn nhân và gia đình của người nước ngoài với nhau tại Việt Nam cũng được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ, phù hợp với pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Tuy nhiên, xuất phát từ chủ quyền quốc gia và đảm bảo trật tự an toàn xã hội, Nhà nước Việt Nam không thừa nhận các quan hệ hôn nhân và gia đình của người nước ngoài tại Việt Nam, nếu các quan hệ đó trái với các nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Chẳng hạn, như Hà Lan thừa nhận và cho phép kết hôn giữa những người đồng giới tính (nam kết hôn với nam; nữ kết hôn với nữ). Pháp luật Việt Nam cấm kết hôn giữa những người đồng giới, bởi vậy, quan hệ hôn nhân này không được thừa nhận và bảo hộ tại Việt Nam.
Thứ hai, trong quan hệ hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam được hưởng các quyền và có nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác. Đây là tuyên bố của Nhà nước Việt Nam về việc áp dụng chế độ đãi ngộ như công dân đối với người nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam. Về nguyên tắc, có thể nói trong các quan hệ như nhân thân, quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, người nước ngoài được hưởng quyền và gánh chịu nghĩa vụ tương đối ngang bằng với quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam, trừ trường hợp các văn bản pháp luật của Việt Nam có quy định khác.
Trong một số trường hợp nhất định liên quan đến chính sách của Đảng, lợi ích của Nhà nước, hoặc để đảm bảo vấn đề về an ninh quốc gia mà người nước ngoài tại Việt Nam không được hưởng các quyền và lợi ích ngang bằng với công dân Việt Nam trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Theo quy định pháp luật hiện hành, người nước ngoài không có quyền sở hữu bất động sản tại Việt Nam (trừ trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài có thể mua nhà ở tại Việt Nam), họ không được hưởng quyền sử dụng đất như công dân Việt Nam; trong trường hợp được thừa kế tài sản là bất động sản thì họ cũng chỉ được hưởng giá trị tài sản đó chứ không có quyền sở hữu bất động sản. Một số quyền và nghĩa vụ khác của người nước ngoài chưa được pháp luật Việt Nam điều chỉnh như trong quan hệ cấp dưỡng, xác định cha, mẹ. con...
Thứ ba, bên cạnh việc thừa nhận và bảo hộ quyền lợi của công dân nước ngoài, Nhà nước Việt Nam tuyên bố bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam trong quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế.
Quy định này rất có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay, tạo cơ sở pháp lý thống nhất để Nhà nước tiến hành bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ta trong quan hệ hôn nhân và gia đình ở nước sở tại. Hiện nay, có khoảng hai triệu rưỡi người Việt Nam định cư tại hơn 80 nước trên thế giới. Rất nhiều người trong số họ còn giữ quốc tịch Việt Nam. Từ khi nước ta thực hiện chính sách đổi mới, nhiều người Việt Nam đã về nước để lập gia đình với công dân trong nước và sau đó bảo lãnh cho vợ (chồng) ra nước ngoài đoàn tụ. Việc bảo hộ quyền lợi của công dân được thực hiện thông qua cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của ta ở nước ngoài. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao và Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự mà Nhà nước ta đã gia nhập.
Như vậy, trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên không phân biệt họ là người Việt Nam hay người nước ngoài. Việc bảo vệ quyền lợi của các bên đều được thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình của Việt Nam, và các điều ước quốc tế mà Việt Nam có ký kết hoặc tham gia. Việt Nam cũng bày tỏ thái độ kiên quyết trong đấu tranh chống các hành vi lợi dụng quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích mua bán, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ và trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác.
Điều 101. áp dụng pháp luật nước ngoài đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Trong trường hợp Luật này, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam có quy định hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia viện dẫn thì pháp luật nước ngoài được áp dụng, nếu việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc quy định trong Luật này.
Trong trường hợp pháp luật nước ngoài dẫn chiếu trở lại pháp luật Việt Nam thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam.
|
|
Việc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết đối với các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trước hết là xuất phát từ phương pháp điều chỉnh đặc thù các loại quan hệ này xét dưới góc độ lý luận của Tư pháp quốc tế. Như đã nói ở trên, do bản chất của quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (là dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật), nên có ít nhất hai hệ thống pháp luật (pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài hữu quan) cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ đó. Việc áp dụng pháp luật nước nào không phải do ý chí chủ quan của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà là do sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột. Theo Điều 101, trong các trường hợp sau, pháp luật nước ngoài được áp dụng:
- Một là, khi quy phạm xung đột trong Luật Hôn nhân và gia đình dẫn chiếu áp dụng pháp luật nước ngoài.
- Hai là, trong các văn bản pháp luật khác của Việt Nam (bao gồm cả các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000) dẫn chiếu áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình.
- Ba là, điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia dẫn chiếu áp dụng pháp luật nước ngoài.
Như vậy, căn cứ để áp dụng pháp luật nước ngoài, trước hết phải dựa trên các quy phạm xung đột được quy định trong pháp luật Việt Nam hoặc trong điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài bắt buộc phải đảm bảo điều kiện không trái với các nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, với sự thừa nhận có hiện tượng xung đột pháp luật, việc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết các vụ việc phát sinh là điều không tránh khỏi và thực tiễn tư pháp ở nhiều nước đã chứng tỏ điều này[41]. Trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, Việt Nam không nằm ngoài xu thế chung đó. Vì thế mà trong nhiều văn bản pháp luật (Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Hàng hải...) đều có các quy phạm xung đột dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài.
Quy định tại Điều 101 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng cho thấy việc áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết xung đột với pháp luật các nước đã được quan tâm hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.
Điều 102. Thẩm quyền giải quyết các việc về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc đăng ký kết hôn, nuôi cơn nuôi và giám hộ có yếu tố nước ngoài theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.
Việc đăng ký kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam do Chính phủ quy định.
2. Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài thực hiện việc đăng ký kết hôn, giải quyết các việc về nuôi con nuôi và giám hộ có yếu tố nước ngoài theo quy định của Luật này, các quy định khác có liên quan của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia, nếu việc đăng ký, giải quyết đó không trái với pháp luật của nước sở tại; có trách nhiệm thực hiện việc bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
3. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ có yếu tố nước ngoài, xem xét việc công nhận hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của nước ngoài theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.
Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi cư trú của công dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.
|
|
Đây là quy định mới so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 (Điều 52 và Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 không quy định rõ thẩm quyền giải quyết các vấn đề có yếu tố nước ngoài).
Thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật ở nước ta, đặc biệt từ thời kỳ đổi mới (1986) đến nay cho thấy, khi quy định về cơ quan cơ thẩm quyền giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài, kể cả về hành chính cũng như về tố tụng, đều thống nhất quy định thẩm quyền thuộc cơ quan nhà nước cấp tỉnh (Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Toà án nhân dân cấp tỉnh). Đó là điều khác so với nhiều nước. Vì thế, trên thực tế ở nước ta đã hình thành hai loại thủ tục: một loại áp dụng đối với công dân Việt Nam ở trong nước; một loại áp dụng đối với các quan hệ có yếu tố nước ngoài.
Đối với việc phân định thẩm quyền giải quyết các vụ việc cụ thể về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài theo Điều 102 thể hiện một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, việc đăng ký kết hôn, nuôi con nuôi, nhận cha, mẹ, con và giám hộ giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; giữa người nước ngoài thường trú tại Việt Nam với nhau thì thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Do yêu cầu quản lý Nhà nước để bảo vệ quyền lợi của các bên và đặc trưng của quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài là phức tạp về nội dung, đỏi hỏi phải có sự xác minh chính xác, mặt khác do khả năng quản lý của cơ quan hành chính cấp xã còn hạn chế nên việc giao thẩm quyền tròn quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài cho UBND cấp tỉnh là hoàn toàn hợp lý.
Thứ hai, đối với việc đăng ký kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, thì thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ.
Theo Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành luật Hôn nhân và gia đình trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yêú tố nước ngoài (có hiệu lực từ ngày 02/1/2003): “Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của công dân Việt Nam ở khu vực biên giới thực hiện đăng ký việc kết hôn, nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng thường trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng thường trú ở khu vực biên giới theo quy định tại Nghị định này”. Trước đây, Nghị định số 184/CP ngày 30/11/1994 quy định thẩm quyền này thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thực tế áp dụng ở nhiều địa phương phản ánh là không khả thi, do điều kiện đi lại xa xôi, thủ tục phức tạp (nhiều loại giấy tờ), lệ phí đắt đỏ... nên người dân không muốn đi đăng ký. Vì lý do trên việc chuyển thẩm quyền này cho Uỷ ban nhân dân cấp xã là phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Uỷ ban nhân dân cấp xã là đơn vị hành chính gần dân nhất, phù hợp với điều kiện giao thông đi lại của nhân dân ở khu vực biên giới; với thủ tục đơn giản, thời hạn đăng ký ngắn, cách thức đăng ký năng động (vừa đăng ký tại trụ sở cơ quan nhà nước, vừa tổ chức đăng ký lưu động), mức thu lệ phí hợp lý (có tính đến việc miễn, giảm lệ phí cho những người nghèo), hạn chế được tình trạng không đăng ký (điều mà bấy lâu nay vẫn tồn tại khá phổ biến ở các khu vực biên giới).
Thứ ba, việc kết hôn, nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi, giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài với người nước ngoài hoặc giữa công dân Việt Nam cùng cư trú ở nước ngoài với nhau thì do Cơ quan đại diện Ngoại giao, Cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài (sau đây gọi là Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam) giải quyết nếu việc giải quyết đó không trái với pháp luật của nước sở tại. Bên cạnh đó Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam còn có trách nhiệm thực hiện việc bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở nước sở tại.
Thứ tư, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là Toà án nhân dân cấp tỉnh) là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài, giữa công dân nước ngoài với nhau (hoặc với người không quốc tịch) tại Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên (hoặc cả hai bên) định cư ở nước ngoài. Cụ thể là Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ có yếu tố nước ngoài, xem xét việc công nhận hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của nước ngoài.
Việc giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện.
Việc phân định thẩm quyền cho Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện như trên đây là phù hợp với thực tiễn hiện nay ở nước ta, nhất là đối với các tỉnh biên giới giáp Trung Quốc, Lào, Cămpuchia tình hình hôn nhân và gia đình có nhiều phức tạp. Việc giao thẩm quyền cho Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết các việc về hôn nhân và gia đình (huỷ kết hôn trái pháp luật, ly hôn, tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, nhận cha mẹ con, nuôi con nuôi) ở khu vực biên giới vừa đảm bảo thích ứng với trình độ dân trí ở khu vực biên giới, vừa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ kịp thời quyền lợi của công dân và có tính khả thi cao. Một mặt tránh được tình trạng dồn ép công việc cho Toà án nhân dân cấp tỉnh, mặt khác tháo gỡ được các khó khăn do thực tiễn phát sinh đối với đồng bào ở khu vực biên giới trong việc thực hiện quyền tham gia tố tụng (điều kiện đi lại khó khăn, trình độ pháp lý có hạn...). Việc thực hiện tốt các quy định trên đây sẽ góp phần bảo vệ tốt hơn các quyền của công dân trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Có thể kết luận rằng các quy định về thẩm quyền giải quyết các việc về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được quy định thực tế hơn, rõ ràng hơn và có tính khả thi hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Một mặt, vẫn đảm bảo tập trung thẩm quyền giải quyết các việc về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài cho các cơ quan nhà nước cấp tỉnh (Uỷ ban nhân dân và Tòa án nhân dân cấp tỉnh). Mặt khác do các quan hệ hôn nhân và gia đình ở khu vực biên giới có những đặc thù riêng nên các quy định về thủ tục đăng ký kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ, nhận cha, mẹ, con đơn giản hơn và phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Điều đó xuất phát từ yêu cầu công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, nhằm tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho nhân dân, việc quy định thẩm quyền đăng ký thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã là hoàn toàn phù hợp và bảo đảm được các quyền về hôn nhân và gia đình của công dân ở khu vực biên giới.
Điều 103. Kết hôn có yếu tố nước ngoài
1. Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn.
Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn.
2. Nghiêm cấm lợi dụng việc kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác.
|
|
1. Pháp luật mỗi nước đều có quy định rõ ràng về điều kiện kết hôn, nghi thức kết hôn tuy nhiên, những quy định này rất khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội của mỗi nước. Chẳng hạn về độ tuổi kết hôn: ở pháp tuổi kết hôn đối với nam là 18 tuổi tròn, còn nữ là 15 tuổi tròn, ở Mỹ thì tuổi kết hôn của nam là 14, nữ là 12, trong khi đó theo pháp luật Việt Nam thì nam phải đủ 20 tuổi, nữ đủ 18 tuổi mới có quyền kết hôn. Chính vì vậy, trong các quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài tất yếu sẽ dẫn đến có sự xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn, nghi thức kết hôn; do đó việc xác định pháp luật nước nào được áp dụng là điều rất quan trọng để bảo đảm quyền kết hôn của con người.
Để giải quyết những xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn, pháp luật các nước trên thế giới chủ yếu áp dụng các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Nguyên tắc luật quốc tịch; theo nguyên tắc này thì điều kiện kết hôn do luật của các bên tham gia kết hôn mang quốc tịch điều chỉnh; tuy nhiên, nếu luật của đương sự mang quốc tịch có quy định trái với trật tự công cộng của nước sở tại ( nơi đăng ký kết hôn) thì nước này có quyền không chấp nhận điều kiện đó. Bên cạnh đó các nước áp dụng nguyên tác này cũng có một số quy định khác như: ngoài việc tuân thủ luật của của nước mà đương sự mang quốc tịch thì đương sự còn phải tuân theo một số điều kiện do luật của nước nơi kết hôn quy định ( ví dụ Pháp)..
- Nguyên tắc luật nơi cư trú của đương sự; theo nguyên tắc này thì luật điều chỉnh việc kết hôn của các đương sự do pháp luật nơi đương sự cư trú điều chỉnh (ví dụ Anh).
- Ngoài ra có nước còn áp dụng nguyên tắc luật nơi tiến hành kết hôn; theo đó thì pháp luật của nước nơi đương sự tiến hành kết hôn là luật điều chỉnh việc kết hôn, không phụ thuộc vào luật nơi đương sự cư trú hay đương sự mang quốc tịch ( Mỹ).
Theo pháp luật Việt Nam thì nguyên tắc cơ bản để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn là nguyên tắc luật quốc tịch của các bên đương sự.
Cụ thể là:
- Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; người nước ngoài còn phải tuân theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn, nếu việc kết hôn được tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
- Trong việc kết hôn giữa người nước ngoài với nhau tại Việt Nam, trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mà họ là công dân hoặc thường trú (đối với người không quốc tịch) về điều kiện kết hôn; ngoài ra, còn phải tuân theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn.
Quy định của Việt Nam rất gần với quy định của Bộ luật Dân sự pháp về giải quyết xung đột về điều kiện kết hôn.
Vấn đề khó khăn khi đương sự là người có hai hay nhiều quốc tịch nước ngoài thì sẽ áp dụng pháp luật nước nào để giải quyết. Thực tế hiện nay một số nước thừa nhận hoặc không phản đối tình trạng hai hay nhiều quốc tịch (như Canada, Vương Quốc Anh, Ôxtrâylia...). Cho nên trong trường hợp một người vừa có quốc tịch Anh, vừa có quốc tịch Canada (người hai quốc tịch) xin kết hôn với công dân Việt Nam, thì vấn đề đặt ra là xác định điều kiện kết hôn của người đó theo pháp luật của nước nào trong hai nước mà người đó có quốc tịch. Về vấn đề này, trong pháp luật cũng như thực tiễn tư pháp quốc tế ở nhiều nước vận dụng nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu. Trước đây, tại Điều 21 của Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài ngày 2/12/1993 đã quy định về vấn đề quốc tịch hữu hiệu để giải quyết xung đột pháp luật, trong trường hợp này, trong dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình cũng đã đề cập đến vấn đề này, tuy nhiên trong quá trình thông qua Luật Hôn nhân và gia đình, có một số ý kiến đề nghị bỏ điều này, nên trong Chương XI của Luật năm 2000 không còn vấn đề quốc tịch hữu hiệu. Mặc dù vậy, nếu thực tiễn xảy ra vụ việc thì chúng tôi cho rằng vẫn có thể tham khảo Điều 21 của Pháp lệnh nêu trên để xác định điều kiện kết hôn theo nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu[42].
Điều 103 của Luật năm 2000 về kết hôn có yếu tố nước ngoài không có quy định giải quyết xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn (vốn là vấn đề được tư pháp quốc tế của nhiều nước rất quan tâm và đã được quy định khá kỹ tại Điều 6 của Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài ngày 2/12/1993). Vấn đề này được quy định trong Nghị định số 68/NĐ-CP năm 2002 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài theo đó vấn đề xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn được áp dụng nguyên tắc luật nơi tiên hành kết hôn để giải quyết. Cụ thể là: Việc kết hôn được tiến hành tại Việt Nam hoặc tại cơ quan ngoại giao, lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài thì phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo nghi thức nhà nước.Trình tự thủ tục đăng ký kết hôn tại Việt Nam tuân theo Điều 13 đến Điều 17 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP về hồ sơ đăng ký, thủ tục nộp hồ sơ, thời hạn giải quyết việc đăng ký, trình tự giải quyết đăng ký kết hôn.
Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước ngoài đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, phù hợp với pháp luật của nước đó thì được công nhận tại Việt Nam, nếu vào thời điểm kết hôn công dân Việt Nam không vi phạm quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn.
Trong trường hợp có sự vi phạm pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn, nhưng vào thời điểm yêu cầu công nhận việc kết hôn, hậu quả của sự vi phạm đó đã được khắc phục hoặc công nhận việc kết hôn đó là có lợi cho việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em thì hôn nhân đó cũng được công nhận tại Việt Nam.Đây thực sự là quy định mang tính nhân đạo, là sự thể hiện của nguyên tắc bảo hộ quyền lợi của công dân trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, do đó những hành vi lợi dụng việc kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác đều bị pháp luật nghiêm cấm.
Điều 104. Ly hôn có yếu tố nước ngoài
1. Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo quy định của Luật này.
2. Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì theo pháp luật Việt Nam.
3. Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.
4. Bản án, quyết định ly hôn của Tòa án hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài được công nhận tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam.
|
|
Theo quy định tại khoản 1 thì việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Xét dưới khía cạnh lý luận của Tư pháp quốc tế, thì đây là loại quy phạm xung đột một bên, khẳng định pháp luật của nước sở tại (Việt Nam) để điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài. Ưu thế của phương pháp này là ở chỗ, Thẩm phán dễ dàng áp dụng pháp luật (kể cả pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng) để giải quyết vụ việc phát sinh. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là không phải lúc nào việc áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết ly hôn cũng có thể đảm bảo được một cách tốt nhất quyền lợi của công dân Việt Nam. Có trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài lại có lợi hơn trong việc đảm bảo quyền lợi của công dân Việt Nam[43]. Trong trường hợp này việc áp dụng quy phạm xung đột một bên tỏ ra bất cập.
Vì vậy, quy định tại khoản 1 Điều 104 chỉ thích hợp khi các bên đương sự (hoặc ít nhất một bên đương sự là công dân Việt Nam) thường trú tại Việt Nam vào thời điểm xin ly hôn. Chỉ khi đó, việc áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết ly hôn mới có ý nghĩa. Ngoài ra, việc xây dựng quy phạm xung đột hai bên là phổ biến và cần thiết hơn. Đó cũng là mục đích ban hành khoản 2 và khoản 3 của Điều 104 như sau:
- Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn, thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì giải quyết theo pháp luật Việt Nam.
- Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.
Từ các quy định trên đây cho thấy, trong việc xác định nội dung các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng để giải quyết ly hôn, thì tuân theo hệ thuộc lex domicilii - nơi cư trú (thường trú) chung - là phù hợp hơn cả. Thực tiễn tư pháp quốc tế cho thấy, thông thường khi người nước ngoài cư trú trên lãnh thổ của quốc gia nào, thì được hưởng quyền lợi và phải chịu sự ràng buộc của hệ thống pháp luật quốc gia đó. Vì thế hệ thống pháp luật quốc gia mà người đó có quốc tịch, trong trường hợp này, chỉ còn là hình thức. Đối với hơn hai triệu rưỡi người Việt Nam hiện đang định cư ở nước ngoài, pháp luật Việt Nam cũng chỉ có giá trị về hình thức. Bởi thực tế họ được hưởng các quyền và lợi ích theo pháp luật của nước sở tại, họ không có điều kiện và cơ hội để thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân theo pháp luật Việt Nam (như bầu cử, ứng cử, làm nghĩa vụ quân sự...). Cho nên áp dụng hệ thuộc nơi thường trú chung của vợ chồng để giải quyết ly hôn, trong trường hợp này, là có ý nghĩa thực tiễn và khả thi hơn cả.
Theo thực tiễn tư pháp và thông lệ quốc tế, hệ thuộc Lex rei sitae (pháp luật nước nơi có tài sản) được áp dụng để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài, đặc biệt được áp dụng triệt để nhằm xử lý các vấn đề liên quan đến bất động sản, chỉ trừ một số ngoại lệ (liên quan đến sở hữu nhà nước hay có tính chất công pháp quốc tế). Khoản 3 Điều 104 cũng quy định theo trong trường hợp bất động sản ở tại Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, vấn đề phức tạp nhất hiện nay ở Việt Nam liên quan đến quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài là ở chỗ, pháp luật chưa quy định một cách thống nhất về quyền sở hữu bất động sản của người nước ngoài ở tại Việt Nam. Tuỳ thuộc vào việc người nước ngoài thuộc đối tượng nào (nhà đầu tư, thương gia, viên chức ngoại giao, lãnh sự...) mà pháp luật Việt Nam dành cho họ quyền sở hữu bất động sản ở các mức độ phù hợp. Chính vì vậy, việc xác định tài sản của vợ chồng (giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài) trên nguyên tắc sở hữu chung hợp nhất là rất phức tạp, đặc biệt nếu họ có tài sản chung là bất động sản tại Việt Nam.
Vấn đề công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định ly hôn do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xét xử được quy định tại khoản 4 của Điều 104. Thực tiễn các năm qua cho thấy, có nhiều trường hợp công dân Việt Nam ly hôn với nhau tại Toà án (hoặc cơ quan tư pháp) nước ngoài, sau đó về Việt Nam kết hôn với người trong nước. Vấn đề đặt ra là bản án, quyết định ly hôn của nước ngoài có được công nhận và thi hành tại Việt Nam hay không. Ngày 17/4/1993 Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài. Đây là cơ sở pháp lý để Toà án Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự nói chung và về ly hôn nói riêng của công dân Việt Nam do Toà án nước ngoài xét xử. Tuy nhiên, do không dự liệu được hết các khó khăn, phức tạp nảy sinh nên Pháp lệnh có nhiều điểm hạn chế[44], khiến cho hầu hết các bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không được công nhận và thi hành tại Việt Nam. Do đó, để phần nào tháo gỡ khó khăn, Nghị định 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ đã cho phép thực hiện ghi vào sổ sự thay đổi về hộ tịch của công dân Việt Nam do việc ly hôn ở nước ngoài.
Điều 105. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1. Người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam hoặc nhận trẻ em nước ngoài thường trú tại Việt Nam làm con nuôi phải tuân theo quy định của Luật này và quy định trong pháp luật của nước mà người đó là công dân về điều kiện nhận nuôi con nuôi.
Việc công dân Việt Nam nhận trẻ em là người nước ngoài làm con nuôi đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì được công nhận tại Việt Nam.
Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác.
2. Trong trường hợp việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, việc chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được thực hiện tại nước ngoài thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, việc chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo pháp luật của nước nơi thường trú của con nuôi.
|
|
Vấn đề nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội phổ biến xảy ra ở tất cả các quốc gia. Tùy theo điều kiện kinh tế- xã hội, văn hóa, tập quán... mà pháp luật của các nước có những quy định khác nhau: Độ tuổi được nhận làm con nuôi, thủ tục nhận nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ của người nhận nuôi và người con nuôi. Sự khác nhau đó đã làm phát sinh những xung đột trong việc điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Để giải quyết xung đột này, đa số các nước áp dụng nguyên tắc luật nhân thân của người nhận nuôi hoặc người con nuôi. Chẳng hạn như ở Pháp thì luật được áp dụng là luật của nước mà người con nuôi mang quốc tịch, còn ở Đức thì áp dụng luật của nước mà người nhận nuôi con nuôi mang quốc tịch.
Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến vấn đề hợp tác quốc tế về nuôi con nuôi, các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết với các nước (Liên Xô, Tiệp Khắc, Cu Ba, Hungary, Bungary, Lào, Ucraina, Mông Cổ, Trung Quốc..) đều có điều khoản liên quan đến vấn đề nhận nuôi con nuôi. Việt Nam đã tham gia Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em, đang xem xét phê chuẩn Công ước Lahay1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi giữa các nước thành viên công ước. Việc nhận nuôi con nuôi trong nước và quốc tế luôn diễn ra theo xu thế chung của thời đại là đảm bảo cuộc sống tốt nhất cho trẻ em và ngăn ngừa tối đa nạn bắt cóc, buôn bán trẻ em.
1. Theo pháp luật Việt Nam thì xung đột pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi được giải quyết dựa trên nguyên tắc luật của nước sở tại, luật quốc tịch, và luật nơi cư trú. Cụ thể là người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam (hoặc trẻ em nước ngoài thường trú tại Việt Nam) làm con nuôi, thì phải tuân theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam và quy định trong pháp luật của nước mà người đó là công dân về điều kiện nhận nuôi con nuôi. Quy định này là phù hợp với thực tiễn tư pháp quốc tế của nhiều nước, cũng như phù hợp với quy phạm xung đột thống nhất trong các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết với các nước.
Điều kiện đối với người xin nhận con nuôi được quy định tại Điều 69 của Luật năm 2000. Người nước ngoài muốn xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, trước hết phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện này. Đồng thời người đó còn phải tuân theo điều kiện nuôi con nuôi trong pháp luật của nước họ là công dân. Nói cách khác, người xin nhận con nuôi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện về nhận nuôi con nuôi mà pháp luật Việt Nam và pháp luật nước người đó mang quốc tịch quy định; trong trường hợp người nước ngoài đó là người không quốc tịch thì chỉ cần tuân theo pháp luật Việt Nam. Cụ thể là:
- Người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải có đủ điều kiện để nuôi con nuôi theo quy định tại Điều 69 của Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam và pháp luật của nước nơi người đó thường trú. Ngoài ra theo khoản 2 Điều 35 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP “Việc cho người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận trẻ em có quốc tịch Việt Nam làm con nuôi được xem xét giải quyết nếu Việt Nam và nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú đã ký kết hoặc cùng gia nhập Điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi. Việc cho người nước ngoài thường trú tại nước chưa ký kết hoặc chưa cùng gia nhập với Việt Nam điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi được xem xét giải quyết, nếu xin đích danh trẻ em đang sống tại gia đình, nếu thuộc trường hợp là trẻ em mồ côi, tàn tật hoặc có quan hệ họ hàng thân thích với người xin nhận con nuôi.”
- Công dân Việt Nam xin nhận trẻ em nước ngoài thường trú tại Việt Nam làm con nuôi phải có đủ điều kiện nuôi con nuôi theo quy định tại Điều 69 của Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam và pháp luật của nước mà trẻ em đó có quốc tịch. Trong trường hợp vợ chồng xin nhận con nuôi thì mỗi người đều phải tuân theo quy định này.
2. Việc người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi; việc công dân Việt Nam xin nhận trẻ em nước ngoài thường trú tại Việt Nam làm con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký theo trình tự, thủ tục luật định. Việc nuôi con nuôi mà không được đăng ký thì không được thừa nhận.
Thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết việc đăng ký nuôi tại Việt Nam được quy định tại Điều 39 đến Điều 46 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP, theo đó thủ tục được tiến hành chặt chẽ hơn so với việc nhận nuôi con nuôi trong nước. Quy định của pháp luật chính là để đảm bảo quyền lợi cho trẻ em được nhận làm con nuôi, tránh việc lợi dụng nhận con nuôi vì các mục đích xấu.
Việc công dân Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam hoặc trẻ em nước ngoài làm con nuôi đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, được công nhận tại Việt Nam, trừ các trường hợp: Người xin nhận con nuôi không đáp ứng đủ điều kiện nuôi con nuôi; Trẻ em được nhận làm con nuôi không đáp ứng đủ điều kiện để được nhận làm con nuôi; Có căn cứ để khẳng định việc xin nhận con nuôi là nhằm mục đích mua bán trẻ em, bóc lột sức lao động của trẻ em, xâm phạm tình dục đối với trẻ em hoặc nhằm mục đích trục lợi khác.Việc công nhận được ghi chú vào sổ đăng ký theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch (Điều 57 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP)
Mặt khác, việc nuôi con nuôi phải đảm bảo tuân thủ các điều kiện nhất định nào đó thì mới được công nhận mặc nhiên. Nói cách khác, nếu việc nuôi con nuôi vi phạm quy định về mục đích nhân đạo, thì sẽ không được thừa nhận tại Việt Nam. Việc cho, nhận trẻ em làm con nuôi chỉ được thực hiện trên tinh thần nhân đạo, nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em. Do đó nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi nhằm mục đích bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác.
3. Khi quan hệ nuôi con nuôi được xác lập thì vấn đề tất yếu là xác định nội dung các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Để giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề này, khoản 2 Điều 105 quy định việc áp dụng hệ thuộc luật nơi thường trú (lex domicilii ) là hệ thuộc cơ bản được sử dụng để xác định quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Hệ thuộc này được nhiều nước sử dụng, đồng thời cũng được quy định trong Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết với các nước, trong trường hợp cha mẹ nuôi và con nuôi khác quốc tịch.
- Nếu việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, việc chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo quy định của luật hôn nhân gia đình Việt Nam năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Nếu việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại nước không phải là Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, việc chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo quy định của pháp luật nước nơi người con nuôi cư trú, trong trường hợp này pháp luật Việt Nam không được áp dụng.
Điều 106. Giám hộ trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
1. Việc giám hộ trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại Việt Nam, việc giám hộ được đăng ký tại Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài phải tuân theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.
2. Trong trường hợp việc giám hộ trong quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được thực hiện tại nước ngoài thì quyền và nghĩa vụ giữa người giám hộ và người được giám hộ được xác định theo pháp luật của nước nơi thường trú của người giám hộ.
|
|
Giám hộ là việc người giám hộ thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình (gọi là người được giám hộ).
Trong pháp luật của các nước đều có những quy định về chế độ giám hộ cho người Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc còn cha, mẹ nhưng cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó; Người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình... Mỗi nước đều quy định về tiêu chuẩn để lựa chọn người giám hộ, về quyền và trách nhiệm của người giám hộ... Nguyên tắc, thủ tục, mục đích, nội dung ý nghĩa của việc đỡ đầu theo pháp luật mỗi nước khác nhau tuỳ theo các điều kiện kinh tế, xã hội chính trị mỗi nước và đặc điểm mỗi dân tộc. Chính vì sự khác nhau đó đã dẫn đến xung đột pháp luật trong việc giám hộ có yếu tố nước ngoài. Để giải quyết vấn đề này mỗi nước áp dụng những nguyên tắc khác nhau. Chẳng hạn như ở Pháp thì việc giám hộ có yếu tố nước ngoài được thực hiện theo pháp luật nước người giám hộ mang quốc tịch; ở Anh thì việc giám hộ có yếu tố nước ngoài được xác lập theo quy định của pháp luật Anh.
Tại Việt Nam, việc giải quyết xung đột về giám hộ có yếu tố nước ngoài dựa trên nguyên tắc áp dụng luật của nước nơi thực hiện việc giám hộ.
Cụ thể là nếu việc giám hộ trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại Việt Nam, việc giám hộ được đăng ký tại Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài thì pháp luật Việt Nam là pháp luật duy nhất được áp dụng để giải quyết. Nếu việc giám hộ trong quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được thực hiện tại nước ngoài thì quyền và nghĩa vụ giữa người giám hộ và người được giám hộ được xác định theo pháp luật của nước nơi thường trú của người giám hộ chứ không phải là pháp luật Việt Nam.
Xử lý vi phạm trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình là một trong những chương mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Trong hai đạo Luật Hôn nhân và gia đình trước đây[45] vấn đề xử lý vi phạm chưa được quy định một cách cụ thể, dến Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 “khoảng trống” này đã được bổ sung cho phù hợp với tình hình mới cũng như đảm bảo cho các quy định tiến bộ của pháp luật được thực hiện một cách triệt để, nghiêm túc trong thực tế cuộc sống.
Quá trình áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986 đã đạt được những thành tựu lớn trong việc xoá bỏ các tập tục lạc hậu của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa góp phần vào sự nghiệp ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và mở rộng giao lưu quốc tế có nhiều yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến quan hệ hôn nhân và gia đình. Chủ nghĩa thực dụng, sự coi thường đạo đức, truyền thống đã “len lỏi” vào trong cuộc sống các gia đình. Tình trạng cha mẹ ngược đãi, không chăm sóc giáo dục con cái, không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, giám hộ hoặc con cháu đã thành niên bạc đãi bỏ mặc ông bà, cha mẹ lâm vào tình trạng cô đơn không nơi nương tựa có xu hướng tăng lên. Tình trạng ly hôn, bạo hành trong gia đình ngày càng xảy ra phổ biến.
Trong khi đó công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật hôn nhân gia đình chưa được thường xuyên. Hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến lĩnh vực hôn nhân và gia đình còn chưa cao. Tình trạng nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm thủ tục đăng ký, hoặc trong việc đăng ký nuôi con nuôi, xác định cha, mẹ, con không đúng quy định về thủ tục, thẩm quyền còn khá phổ biến... Mặt khác, phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn của nhiều cán bộ của các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này còn nhiều yếu kém đã ảnh hưởng đến việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình trên thực tế. Các vi phạm đó đã tác động đến mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình với nhau và gây mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Những hành vi vi phạm pháp luật hôn nhân gia đình diễn ra ngày càng phổ biến với nhiều mức độ khác nhau, vi phạm các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình, vi phạm quyền và lợi ích cơ bản của công dân, ảnh hưởng đến truyền thống tốt đẹp, luân thường đạo lý dân tộc ta. Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 chưa quy định cụ thể về việc xử lý đối với các trường hợp đó. Các văn bản hướng dẫn, như Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 01/NQ-HĐTP ngày 20 tháng 01 năm 1988 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, có quy định nhưng còn nhiều thiếu sót, chưa hợp lý và chủ yếu là hướng dẫn xử lý các trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn. Các quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1985, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính không quy định cụ thể hoặc có nhưng không sát với thực tế.
Để bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa, đồng thời để gia đình thực sự là tổ ấm cho mọi người, góp phần vào việc giữ vững trật tự, ổn định và phát triển kinh tế xã hội, ngoài việc xây dựng các chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên trong gia đình thì việc quy định các biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm pháp Luật Hôn nhân và gia đình là rất cần thiết. Với tinh thần đó, Bộ luật Hình sự năm 1999 ở Chương các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình đã bổ sung thêm một số tội như: tội đăng ký kết hôn trái pháp luật (Điều 149); tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151); tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152).
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 09 tháng 06 năm 2000, tại Chương XII gồm có hai điều (Điều 107 và Điều 108) quy định về các biện pháp xử lý (hành chính, kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự) đối với các hành vi vi phạm đến các quan hệ hôn nhân và gia đình. Để đảm bảo cho các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình đi vào cuộc sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Chính phủ đã kịp thời ban hành một số Nghị định mới như:
- Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2001 quy định chi tiết về việc đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình;
- Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2001 quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình
- Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2001 của Chính phủ quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Có thể nói rằng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã dự liệu khá đầy đủ các hành vi vi phạm trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, từ đó các chế tài tương ứng cũng thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước trong việc bảo vệ quan hệ hết sức nhạy cảm này.
|
|
Điều 107. Xử lý vi phạm pháp luật trong quan hệ hôn nhân gia đình
Người nào vi phạm các điều kiện kết hôn; cản trở hôn nhân đúng pháp luật; giả mạo giấy tờ để đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi; hành hạ, ngược đãi, xúc phạm danh dự, nhân phẩm ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con và các thành viên khác trong gia đình; lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi; không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ giám hộ hoặc có các hành vi khác vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
|
|
-
Xử lý vi phạm độ tuổi kết hôn (vi phạm khoản 1 Điều 9):
Tuổi kết hôn là độ tuổi theo quy định của pháp luật nam và nữ được xác lập quan hệ vợ chồng. Khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 vẫn giữ nguyên tuổi kết hôn là nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn giống như Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Tuy nhiên theo các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “không bắt buộc nam phải từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn, do đó nam đã bước sang tuổi 20, nữ đã bước sang tuổi 18 mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về độ tuổi kết hôn”.
Trong thực tế, hiện tượng tảo hôn xảy ra khá phổ biến ở nhiều địa phương đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, ví dụ một số vùng vẫn duy trì tập tục độ tuổi kết hôn là “nam thập lục, nữ thập tam”. Vì vậy, để đảm bảo cho việc kết hôn theo đúng quy định của pháp luật về độ tuổi, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định các biện pháp xử lý dân sự, hành chính hoặc hình sự đối với việc kết hôn trái pháp luật .
- Xử lý dân sự:
+ Nếu đến thời điểm có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật mà một bên hoặc hai bên vẫn chưa đến tuổi kết hôn thì quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
+ Nếu đến thời điểm có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật cả hai bên đã đến tuổi kết hôn, nhưng cuộc sống của họ trong thời gian đã qua không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng, thì quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
+ Nếu đến thời điểm có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật cả hai bên đã đến tuổi kết hôn, trong thời gian đã qua họ chung sống bình thường, đã có con, có tài sản chung thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu của Toà án giải quyết việc ly hôn thì Toà án thụ lý để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung (điểm d.1 mục 2 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP).
Theo điểm 2 Điều 15 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn. Đồng thời tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà người có hành vi kết hôn do vi phạm độ tuổi kết hôn có thể bị xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự.
- Xử lý hành chính: Theo Điều 6 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình quy định: “Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Toà án buộc chấm dứt quan hệ đó;
b) Tổ chức việc kết hôn cho người chưa đến tuổi kết hôn.”
- Xử lý hình sự: Nếu việc kết hôn vi phạm độ tuổi kết hôn trái pháp luật trên đã bị xử lý hành chính mà hai bên vẫn cố tình tổ chức kết hôn thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 148 Bộ luật Hình sự năm 1999: “Tổ chức việc kết hôn cho những người chưa đến tuổi kết hôn; Cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Toà án buộc chấm dứt quan hệ đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.
-
Xử lý vi phạm điều kiện kết hôn về sự tự nguyện (vi phạm khoản 2 Điều 9) - cản trở việc kết hôn đúng pháp luật:
Khoản 2 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 trên cơ sở kế thừa Điều 6 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã quy định: “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở”. Tự nguyện quyết định, không bị ép buộc lừa dối, cưỡng ép hoặc cản trở là yếu tố rất quan trọng để hôn nhân tồn tại và cũng là điều kiện để hôn nhân có giá trị pháp lý. Việc kết hôn có yếu tố lừa dối, bị cưỡng ép hoặc cản trở được hiểu là: nam và nữ kết hôn mà một bên ép buộc (đe doạ dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần hoặc dùng vật chất); hoặc lừa dối (lừa dối là nếu kết hôn sẽ xin việc làm phù hợp hoặc kết hôn sẽ bảo lãnh ra nước ngoài, không có khả năng sinh lý nhưng cố tình che dấu...); hoặc cả hai bên nam và nữ bị người khác cưỡng ép (như bố mẹ cưỡng ép con kết hôn để trả nợ...) buộc người bị cưỡng ép kết hôn trái với nguyện vọng của họ (điểm 1 mục b của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ngày 23-12-2000).
Do ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến hoặc do tác động của những tiêu cực của cơ chế thị trường mà hiện nay, việc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ vẫn xảy ra tương đối phổ biến. Các hành vi đó được thực hiện bởi những người có uy tín ở trong gia đình như (cha, mẹ, anh, chị...) dưới các hình thức như: hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải trong cưới xin... hoặc bằng các hành vi khác làm cho người bị lệ thuộc đau khổ về thể chất, tinh thần hoặc đe doạ sẽ gây thiệt hại đến tính mạng, tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm hoặc đến một lợi ích quan trọng khác mà làm cho họ không thể kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân hợp pháp của mình.
Để bảo vệ quyền kết hôn của công dân, đồng thời khắc phục thiếu sót của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định: hôn nhân vi phạm khoản 2 điều 9 có thể bị huỷ, và tuỳ theo tính chất hoặc mức độ vi phạm mà có xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm đó.
- Xử lý dân sự: Bên bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn trong trường hợp hôn nhân vi phạm điều kiện về tự do, tự nguyện, vi phạm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Theo hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:
+ Nếu sau khi bị ép buộc, lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn mà mà hôn nhân của họ không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng thì Toà án quyết định huỷ việc kết hôn;
+ Nếu hai bên đã có sự thông cảm và tiếp tục chung sống hoà thuận thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn thì Toà án thụ lý để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung (khoản 2 mục d điểm d1).
- Xử lý hành chính: Theo Điểm a và c Điều 7 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP “phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng đối với hành vi sau đây:
+ Cưỡng ép hoặc cản trở người khác kết hôn, ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần hoặc bằng thủ đoạn khác.
+ Cản trở người khác kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác”.
- Xử lý hình sự: Điều 146 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định “Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, bằng cách hành hạ, ngược đãi uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm”.
-
Xử lý vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng (vi phạm khoản 1 Điều 10)
Điều 7 Khoản 2, đoạn 2 và khoản 1 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: cấm kết hôn với người đang có vợ có chồng. Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân tối cao ngày 23 -12-2000 có hướng dẫn người đang có vợ chồng được hiểu như sau:
+ Người kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn.
+ Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03-01-1987 và đang sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
+ Người sống chung với người khác như vợ chồng từ ngày 03-01-1987 đến trước ngày 01-01-2001 và đang sống chung với nhau như vợ chồng mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn (trường hợp này chỉ áp dụng từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực cho đến trước ngày 01/01/2003, còn từ ngày 1/1/2003 trở đi thì sẽ xử lý nghiêm khắc theo pháp luật).
Thực tế ở nước ta đang tồn tại trường hợp một chồng hai vợ hoặc một vợ hai chồng, không ít trường hợp người chưa có vợ, có chồng lại kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ có chồng. Có thể nói, việc kết hôn trái pháp luật này đã để lại cho gia đình nói riêng và xã hội nói chung những hậu quả không nhỏ: làm rạn nứt, thậm chí làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, vợ chồng bỏ nhau, con cái bị bỏ rơi không ai chăm sóc nuôi dưỡng...
Để thực hiện tốt hơn nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có những quy định nghiêm khắc hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 trong việc xử lý đối với trường hợp kết hôn vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng. Theo quy định tại Điều 15 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Toà án xem xét và xử huỷ việc kết hôn trái pháp luật và gửi bản sao quyết định cho cơ quan đăng ký kết hôn. Căn cứ vào quyết định của Toà án, cơ quan đăng ký kết hôn xoá đăng ký kết hôn vào sổ đăng ký kết hôn (Điều 16). Đồng thời, theo (Điều 107) tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm mà xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
- Xử lý hành chính: Theo điểm a khoản 1 Điều 8 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP của Chính phủ thì phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi: “Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng; chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ nhưng chưa gây hậu quả nghiệm trọng”.
- Xử lý hình sự: Nếu việc kết hôn trên sau khi đã áp dụng các biện pháp giáo dục, thuyết phục kết hợp với việc xử phạt hành chính mà vẫn không chịu sửa chữa lại tái phạm gây hậu quả nghiêm trọng như: làm cho gia đình nạn nhân tan nát, vợ chồng chia lìa, cha mẹ chia lìa con cái hoặc việc đó chưa đến mức tan vỡ gia đình nhưng cuộc sống của gia đình căng thẳng làm cho con cái bị ảnh hưởng, hư hỏng... thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 147 Bộ luật hìh sự năm 1999 với hình phạt là: “Phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm đối với người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ hoặc đang có chồng gây hậu quả nghiêm trọng đã bị xử phạt hành chính về hành vi đó mà còn vi phạm ”. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
-
Xử lý vi phạm điều kiện về năng lực hành vi (vi phạm khoản 2 Điều 10):
Tại khoản 2 Điều 10 quy định: “Cấm kết hôn với người mất năng lực hành vi dân sự”. Theo Điều 24 của Bộ luật Dân sự (BLDS) thì người mất năng lực hành vi dân sự là: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở giám định của tổ chức có thẩm quyền”. Nghị quyết 02/2000/ NQ-HĐTP ngày 23-12-2000, tại điểm 1 mục c quy định: Người mất năng lực hành vi dân sự là người mất khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.
Khi kiểm tra và phát phát hiện thấy có việc kết hôn trái pháp luật với người mất năng lực hành vi dân sự, thì Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật đó.
-
Xử lý vi phạm về việc kết hôn với người có họ hàng thân thuộc (vi phạm khoản 3 Điều 10)
Khoản 3 Điều 10 quy định: “cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời”.
- Những người có quyền yêu cầu huỷ kết hôn trái Khoản 3 Điều 10 bao gồm: vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn; Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ. Theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự họ có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật đó. Ngoài việc xử huỷ việc kết hôn trái pháp luật người kết hôn còn bị xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm.
- Xử lý hành chính: điểm c khoản1 Điều 8 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP của Chính phủ quy định: “phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng đối với trường hợp kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi ba đời”.
- Xử lý về mặt hình sự: Nếu việc kết hôn đó đã buộc chấm dứt và đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân trái pháp luật, vi phạm nghiêm trọng thuần phong mỹ tục, truyền thống đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam thì sẽ xử theo Điều 150 của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội loạn luân với mức phạt từ sáu tháng đến năm năm:“Người nào giao cấu với người cùng dòng máu về trực hệ, với anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”
-
Xử lý việc kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng ( vi phạm Khoản 4 Điều 10)
So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã bổ sung thêm một số trường hợp mà pháp luật cấm kết hôn đó là: giữa những người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
- Theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự thì những người theo khoản 3 Điều 15 có quyền yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
- Xử lý hành chính: điểm d khoản 1 Điều 8 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP của Chính phủ quy định: “phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng đối với việc kết hôn giữa những người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng”.
Tuy nhiên, pháp luật mới dừng lại ở mức xử phạt vi phạm hành chính mà chưa có chế tài hình sự cho những hành vi vi phạm này.
-
Xử lý vi phạm về điều kiện giới tính (vi phạm khoản 5 Điều 10)
- Theo quy định tại Khoản 3 Điều 15 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 thì cá nhân (cha, mẹ, anh, chị, em...), tổ chức (Hội liên hiệp phụ nữ, Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em) hoặc các cá nhân, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn giữa những người cùng giới.
- Xử lý hành chính: điểm e khoản 1 Điều 8 Nghị định 87/2001/NĐ-CP của Chính phủ quy định: “phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi kết hôn giữa những người cùng giới tính”.
-
Xử lý các trường hợp giả mạo giấy tờ để đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi:
Để đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi thì các bên đăng ký phải nộp và xuất trình giấy tờ cần thiết theo quy định tại Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10-10-1998 của Chính phủ. Các giấy tờ này là cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan đăng ký tiến hành việc đăng ký cho các bên.
Trên thực tế hiện nay thì tình trạng giả mạo giấy tờ để tiến hành việc đăng ký xảy ra khá phổ biến, dưới nhiều hình thức khác nhau như: khai sai ngày, tháng, năm sinh hoặc đang có vợ, có chồng mà khai là chưa có hoặc thêm, bớt, sửa chữa nội dung, tẩy xoá chữ ký, làm giả con dấu trong giấy khám sức khoẻ, giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân, đơn xin nhận nuôi con nuôi của cơ quan, đơn vị nơi mà mình hiện đang công tác (đối với cán bộ công chức) hoặc các giấy tờ khác theo quy định...
Hành vi giả mạo giấy tờ để thực hiện việc đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi trực tiếp xâm hại đến quyền và lợi ích của những người liên quan như: làm cho một bên kết hôn không thể biết được tình trạng hôn nhân, sức khoẻ, nhân thân của bên kia...hoặc không đảm bảo được quyền lợi của người con nuôi. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 chưa có điều luật quy định việc xử lý đối với hành vi giả mạo giấy tờ đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã khắc phục được thiếu sót đó với quy định người nào giả mạo giấy tờ để đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
- Xử lý hành chính: Khoản1 Điều 9, và khoản 1 Điều 14 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP quy định: “Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi sửa chữa, làm sai lệch nội dung hoặc giả mạo giấy tờ để đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; cố ý khai gian dối hoặc có hành vi lừa dối khác khi đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi”.
Khoản 3 Điều 14 quy định: “phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nuôi con nuôi có một trong những hành vi: sửa chữa, làm sai lệch hoặc giả mạo hồ sơ, tài liệu để được cấp giấy phép hoạt động trong lĩnh vực nuôi con nuôi mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.”
Bên cạnh đó Nghị định số 87/2001/NĐ-CP còn quy định các hình thức xử phạt bổ sung hoặc các biện pháp khác như: tịch thu và tiêu huỷ giấy tờ đã bị sửa chữa làm sai lệch nội dung hoặc giấy tờ giả mạo.
- Xử lý hình sự: Nếu hành vi giả mạo giấy tờ trên đã bị xử phạt hành chính mà vẫn còn vi phạm, gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 267 BLHS năm 1999, với tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức: “người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đó nhằm lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”(Khoản 1); “phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm: có tổ chức, phạm tội nhiều lần, gây hậu quả nghiêm trọng, tái phạm nguy hiểm” (Khoản 2); “phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ bốn năm đến bảy năm” (Khoản3); “người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng” (Khoản 4).
-
Xử lý hành vi hành hạ, ngược đãi, xúc phạm danh dự, nhân phẩm ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu và các thành viên khác trong gia đình (vi phạm Điều 4, khoản 2, đoạn 3):
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 tại Điều 4 quy định: “...cấm ngược đãi, hành hạ cha, mẹ, vợ, chồng, con cái”. Trên cơ sở kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 (Điều 64, 69, 70, 71), của Bộ luật Dân sự (Điều 32, 33) và Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã mở rộng phạm vi bảo vệ, cụ thể là:
- “cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau” (khoản 2 Điều 21);
- “cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con...” (khoản 2 Điều 34);
- “nghiêm cấm có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ” (Điều 35);
- “bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau” (khoản 3 Điều 38);
- “nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác” (khoản 3 Điều 67).
Thực tế ở nước ta trong những năm gần đây, sự phát triển của nền kinh tế thị trường phần nào đã tác động đến đời sống gia đình, giá trị đạo đức trong quan hệ gia đình đã phần nào bị mai một nhường chỗ cho lối sống thực dụng. Những hành vi như: hành hạ, ngược đãi, xúc phạm danh dự, nhân phẩm ông, bà, cha, mẹ, con, cháu và các thành viên khác trong gia đình diễn ra không ít với mức độ, tính chất khác nhau. Thậm chí ở nhiều gia đình tình trạng này đã trở thành thường xuyên, liên tục. Ví dụ: con cháu đã có hành vi mắng chửi, thậm chí có không ít trường hợp còn đánh đập ông bà, cha mẹ, hoặc do sự xuống cấp trong đạo đức, lối sống mà ở nhiều gia đình vẫn có xảy ra tình trạng cha mẹ đã cưỡng ép hoặc cản trở việc kết hôn của con cái bằng cách hành hạ, ngược đãi, xúc phạm danh dự, nhân phẩm để buộc con cái phải tuân theo ý chí của mình...Tuy nhiên, việc xử lý đối với những trường hợp vi phạm này thì chưa được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 mà chỉ hành vi nghiêm trọng mới được xử lý theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985 nay là Bộ luật Hình sự năm 1999. Để khắc phục thiếu sót đó cũng như nhằm bảo vệ tốt hơn mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình với nhau, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định người nào hành hạ, ngược đãi, xúc phạm danh dự, nhân phẩm ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con và các thành viên khác trong gia đình; thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
- Xử lý hành chính: “phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi ngược đãi, hành hạ, ông, bà, cha, mẹ, người có công nuôi dưỡng mình, các thành viên khác trong gia đình nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng” (Điều 11 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP).
- Xử lý hình sự: Nếu hành vi trên sau khi bị xử phạt vi phạm hành chính mà tiếp tục vi phạm và mức độ vi phạm có tính chất nguy hiểm cho xã hội có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 151 của Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “Người nào ngược đãi ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm”.
-
Xử lý hành vi lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi:
Trong hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay, vấn đề nuôi con nuôi được các ngành luật quan tâm như Hiến pháp, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Bộ luật Dân sự, Luật quốc tịch Việt Nam và trực tiếp nhất là Luật Hôn nhân và gia đình. Hiến pháp năm 1992 quy định: "Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục"(Điều 65) và khẳng định nguyên tắc "Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con" (Điều 64).
Khoản 3 Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác”. Việc nuôi con nuôi theo đúng nguyên tắc, tinh thần của pháp luật hiện đại trong lĩnh vực nuôi con nuôi, đó là “tìm cho trẻ em một mái ấm gia đình” chứ không phải “tìm cho gia đình một đứa trẻ” có ý nghĩa xã hội lớn, tránh tình trạng trẻ em lang thang, người già yếu cô đơn, người tàn tật không nơi nương tựa, qua đó thể hiện được chính sách nhân đạo của Nhà nước, truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc của Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hành vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này xảy ra phổ biến, việc lợi dụng nuôi con nuôi vào mục đích đen tối ngày càng có xu hướng tăng lên. Ví dụ: lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động hoặc nhiều trường hợp do xuống cấp trong đạo đức, lối sống đồi trụy mà người nhận nuôi con nuôi đã có hành vi xâm phạm tình dục đối với người được nhận làm con nuôi hoặc nhiều trường hợp lợi dụng việc nuôi con nuôi để kiếm tiền bất hợp pháp đó là tham gia đường dây buôn bán trẻ em xuyên quốc gia qua việc nhận con nuôi, hoặc nhận con nuôi để thừa kế tài sản chứ không nhằm mục đích đảm bảo cho người được nhận nuôi một mái ấm gia đình. Nhiều tổ chức trung gian, môi giới, dịch vụ nhận nuôi con nuôi hoạt động trái quy định của pháp luật nhằm mục đích lợi nhuận mà bỏ qua mục đích tốt đẹp của quan hệ nuôi con nuôi.
Để bảo vệ quyền lợi của người con nuôi, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì những hành vi lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi phải bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Những người sau đây có quyền tự mình (hoặc đề nghị Viện kiểm sát) yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi: con nuôi đã thành niên, cha mẹ đẻ, người giám hộ của con nuôi, cha mẹ nuôi, Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ. Những cá nhân, cơ quan, tổ chức khác không có quyền tự mình yêu cầu Toà án nhưng có quyền đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi đó. Ngoài các chủ thể trên, thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi. Đồng thời tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà áp dụng hình thức xử lý theo quy định của pháp luật.
- Xử lý hành chính:
Điều 10 Nghị định 87/2001/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về quan hệ giữa cha mẹ và con, nếu người nhận nuôi con nuôi có hành vi lợi dụng việc nhận con nuôi để lạm dụng sức lao động, ép buộc con nuôi làm những việc trái pháp luật thì có thể bị “Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi trốn tránh nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con, lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên hoặc xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật mà cha đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.”
Ngoài ra Điều 14 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP còn quy định về xử phạt hành vi vi phạm quy định về nuôi con nuôi đối với những cơ quan tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc nuôi con nuôi:
“1. Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi sửa chữa, làm sai lệch nội dung, giả mạo giấy tờ để đăng ký nuôi con nuôi mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; cố ý kê khai gian dối hoặc có hành vi lừa dối khác khi đăng ký nuôi con nuôi.
2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nuôi con nuôi có một trong những hành vi sau đây:
a) Vi phạm quy định về đăng ký hoạt động tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở địa phương;
b) Không thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có sự thay đổi về tên gọi, người đứng đầu tổ chức, thay đổi trụ sở chính tại nơi thành lập.
3. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nuôi con nuôi có một trong những hành vi sau đây:
a) Hoạt động trong lĩnh vực nuôi con nuôi mà không có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
b) Sửa chữa, làm sai lệch hoặc giả mạo hồ sơ, tài liệu để được cấp giấy phép hoạt động mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;
c) Tự ý thay đổi Trưởng Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, thay đổi phạm vi nội dung hoạt động, địa bàn hoạt động tại Việt Nam;
d) Tiếp tục hoạt động khi giấy phép đã hết hạn;
đ) Thu lợi bất chính hoặc có hành vi trục lợi khác liên quan đến việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi.
4. Hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khác:
a) Tịch thu và tiêu hủy giấy tờ giả mạo, giấy tờ đã bị sửa chữa, làm sai lệch nội dung đối với trường hợp vi phạm quy định tại khoản 1, điểm b khoản 3 Điều này;
b) Tước quyền sử dụng giấy phép đến 6 tháng hoặc tước quyền sử dụng giấy phép vĩnh viễn đối với trường hợp vi phạm điểm đ khoản 3 Điều này”.
- Xử lý hình sự: người có hành vi lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với các tội danh và hình phạt tương ứng được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội xâm hại tài sản, nhân phẩm, tính mạng sức khoẻ người khác, tội lừa đảo, giả mạo giấy tờ... chẳng hạn như:
+ Tội hành hạ người khác theo Điều 110 Bộ luật Hình sự 1999
“1. Người nào đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm: Đối với người già, trẻ em, phụ nữ có thai hoặc người tàn tật; Đối với nhiều người.”;
+ Tội mua bán đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em theo Điều 120 BLHS
“1. Người nào mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: Có tổ chức; Có tính chất chuyên nghiệp; Vì động cơ đê hèn; Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt nhiều trẻ em; Để đưa ra nước ngoài; Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo; Để sử dụng vào mục đích mại dâm; Tái phạm nguy hiểm; Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc phạt quản chế từ một năm đến năm năm.”
+ Tội giả mạo chức vụ, cấp bậc theo Điều 265 Bộ luật Hình sự
“Người nào giả mạo chức vụ, cấp bậc thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.”
Như vậy, mặc dù Bộ luật Hình sự không quy định cụ thể tội danh lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi nhưng nếu người vi phạm có đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của pháp luật hoàn toàn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh tương ứng.
-
Xử lý hành vi không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ giám hộ:
Theo Điều 107 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy định những người không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ giám hộ có thể bị xử lý hành chính hoặc hình sự tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm:
- Xử lý hành chính: Tại Điều 12 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP thì “phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 20.000 đồng đến 100.000 đồng đối với hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn, anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và các cháu theo quy định của pháp luật”(khoản 1) và phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng đối với hành vi từ chối trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cha mẹ, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.
Đối với trường hợp vi phạm quy định về giám hộ: “phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 20.000 đồng đến 100.000 đồng đối với hành vi trốn tránh, không thực hiện nghĩa vụ giám hộ sau khi đã làm thủ tục giám hộ tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn theo quy định của pháp luật” (Điều 13 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP).
- Xử lý hình sự: Nếu các hành vi trên có tính chất nguy hiểm, gây hậu quả nghiêm trọng, như không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ làm người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn, nguy kịch hoặc người có nghĩa vụ cấp dưỡng có biểu hiện vô đạo đức, trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng đã bị xử phạt hành chính mà còn có hành vi trên thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 152 của Bộ luật Hình sự năm 1999: "Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố ý tù chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm".
Điều 108. Xử lý vi phạm pháp luật của người có chức vụ, quyền hạn
Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi, xác định cha, mẹ, con trái pháp luật; vi phạm thẩm quyền, thủ tục đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi; không thực hiện yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình hoặc có các hành vi khác lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
|
|
-
Các hành vi vi phạm của người có chức vụ quyền hạn
- Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi, xác định cha, mẹ, con trái pháp luật.
Đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi, xác định cha, mẹ, con là thủ tục pháp lý bắt buộc có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi công dân và đối với công tác quản lý nhà nước. Thông qua việc đăng ký đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới kiểm soát được việc tuân theo Luật Hôn nhân và gia đình, cũng như việc quản lý và đăng ký hộ tịch. Trách nhiệm của những người đi đăng ký và về phía cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà trực tiếp là những người có chức vụ, quyền hạn phải chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật (đối với cán bộ, công chức còn phải chấp hành đúng kỷ cương, kỷ luật trong công tác).
Cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền chỉ tiến hành việc đăng ký khi các bên đăng ký đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà pháp luật quy định. Cụ thể, đối với việc đăng ký kết hôn thì hai bên phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều 9 và Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, đối với đăng ký nuôi con nuôi phải đáp ứng được điều kiện quy định tại Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và đối với đăng ký xác nhận cha, mẹ, con phải thoả mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật thì cơ quan đăng ký mới tiến hành việc đăng ký. Tuy nhiên, trên thực tế đã xảy ra không ít trường hợp đăng ký trái pháp luật do cán bộ, công chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hành để đăng ký trái pháp luật đó được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm mục đích khác nhau (có thể là do quen biết, vị nể hoặc có thể là vụ lợi cá nhân...) vi phạm Pháp Luật Hôn nhân và gia đình cũng như các quy định về nội quy, kỷ luật trong công tác đối với các cán bộ, công chức, gây mất lòng tin trong nhân dân.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 chưa có quy định nào xử lý vi phạm đối với người có chức vụ quyền hạn, để khắc phục thiếu sót này, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định: “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi, xác định cha, mẹ, con trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường” (Điều 108).
- Hành vi vi phạm thẩm quyền, thủ tục đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi
So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định chi tiết và cụ thể hơn về thẩm quyền và thủ tục trong việc đăng ký kết hôn và đăng ký nuôi con nuôi. Tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 chỉ quy định về cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn, còn về thủ tục đăng ký thì không được quy định cụ thể mà do các văn bản hướng dẫn. Còn ở Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, tại các Điều 12, 13 và 14 đã có quy định về thẩm quyền và thủ tục đăng ký. Tương tự, đối với đăng ký nuôi con nuôi thì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định đầy đủ hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Tuy nhiên, những quy định trên vẫn mang tính nguyên tắc, còn các quy định cụ thể về thẩm quyền và thủ tục đăng ký đều do văn bản của Chính phủ quy định.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn và đăng ký nuôi con nuôi là Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam nữ, người nhận nuôi hoặc người con nuôi (Điều 22 và Điều 35 của Nghị định 83/1998/NĐ/CP ngày 10-10-1998). Khái niệm “nơi cư trú” trong quy định này được hiểu là nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của các bên theo quy định trên; trong trường hợp cả hai bên kết hôn, người nhận nuôi và con nuôi không có hoặc chưa có nơi đăng ký hôn khẩu thường trú, mà có đăng ký hộ khẩu tạm trú có thời hạn, thì “nơi cư trú” được hiểu là nơi đăng ký hộ khẩu tạm trú có thời hạn của các bên. Khái niệm “hộ khẩu tạm trú có thời hạn” ở đây được hiểu theo quy định tại Điều 15, Nghị định số 51/CP ngày 10-5-1997 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ khẩu và hướng dẫn tại Thông tư số 06/TT/BNV ngày 20-6-1997 của Bộ Nội vụ, (nay là Bộ Công an).
Vi phạm thẩm quyền, thủ tục trong việc đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi được hiểu là:
- Việc cán bộ hộ tịch của ban tư pháp thực hiện việc đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi cho người mà không thuộc phạm vi quản lý của địa phương mình (không có đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc đăng ký hộ khẩu tạm trú có thời hạn tại địa phương), cán bộ hộ tịch không có thẩm quyền đăng ký kết hôn, nuôi con nuôi hoặc:
- Cán bộ hộ tịch vẫn tiến hành việc đăng ký khi các bên đăng ký không đáp ứng đầy đủ các giấy tờ như quy định tại Điều 23 và Điều 36 của Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998.
- Hành vi không thực hiện yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình hoặc có các hành vi khác lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm Pháp Luật Hôn nhân và gia đình.
Có thể nói, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình là một trong những nhiệm vụ cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình. Ngay từ Điều1 đã khẳng định, nhiệm vụ của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là góp phần xây dựng, hoàn hiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình...Tại khoản 2 Điều 3 của luật này cũng khẳng định trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với Hôn nhân và gia đình "... kịp thời hoà giải mâu thuẫn trong gia đình, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình". Tại khoản 3 Điều 4 quy định: "mọi hành vi phạm pháp Luật Hôn nhân và gia đình phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh đúng pháp luật". Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải trường hợp nào có yêu cầu bảo vệ cũng được cơ quan chức năng, người có nhiệm vụ thực hiện kịp thời. Tình trạng kéo dài thời gian hoặc có biều hiện quan liêu trong việc giải quyết các vụ việc liên quan đến hôn nhân và gia đình.
Trong Thông Tư số 12/1999/TT-BTP ngày 25-6-1999 của Bộ Tư pháp, tại mục V quy định: "việc giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của công dân, cơ quan, tổ chức, góp phần tăng cường, củng cố chất lượng và phẩm chất của đội ngũ cán bộ làm công tác hộ tịch từ trung ương đến cơ sở. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm tạo điều kiện để công dân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của họ theo đúng quy định của pháp luật”.
- Hành vi không thực hiện yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình hoặc các hành vi khác lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình
Những hành vi này được hiểu là việc người có chức vụ quyền hạn vì thiếu trách nhiệm hoặc vì vụ lợi không thực hiện một số hành vi như biết người đăng ký kết hôn không đủ tuổi kết hôn, mặc dù đã có yêu cầu của người có liên quan nhưng vẫn tiến hành cho đăng ký kết hôn; hoặc lợi dụng chức vụ quyền hạn để sách nhiễu, gây khó khăn, đòi hỏi nhân dân khi họ thiếu giấy tờ thủ tục, không hiểu biết đầy đủ thủ tục, hoặc thái độ làm việc cứng nhắc không chấp nhận những giấy tờ thay thế... Các hành vi này dù ở mức độ nào cũng gây bất bình, làm mất lòng tin trong nhân dân, ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật, các quy định tiến bộ của Luật Hôn nhân và gia đình không phát sinh hiệu lực trên thực tế.
-
Xử lý vi phạm pháp luật của người có chức vụ, quyền hạn
Việc xử lý đối với các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chưa được Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định, mà việc xử lý đối với những hành vi đó chỉ được quy định trong Điều 93 của Nghị định 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về quản lý hộ tịch: “Người có thẩm quyền trong việc đăng ký và quản lý hộ tịch mà do thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc cố ý làm trái với các quy định của Nghị định này và các văn bản khác về hộ tịch, thì tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”.
Để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của công dân trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, cũng như đảm bảo cho các quy định của luật thực sự đi vào cuộc sống, đồng thời thể hiện được sự nghiêm khắc hơn trong việc xử lý đối với những người có trách nhiệm mà vi phạm pháp luật, kỷ luật trong công tác Điều 108 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định xử lý đối với những có chức vụ quyền hạn.
- Trách nhiệm kỷ luật:
Điều 1 Khoản 3 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP quy định “Đối với những hành vi vi phạm chế độ công vụ của cán bộ, công chức trong khi thi hành nhiệm vụ được giao trong lĩnh vực hôn nhân gia đình mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức”
Nếu cán bộ phụ trách công tác Tư pháp- hộ tịch ở phường, xã, thị trấn không phải là lực lượng công chức (là nhân viên hợp đồng) nếu vi phạm thì xử lý theo quy định của Bộ luật Lao động với các hình thức như (khiển trách, chuyển làm công việc khác có mức lương thấp hơn, sa thải).
Đối với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và các cán bộ khác là những cán bộ, công chức nhà nước nếu vi phạm thì xử lý một trong các hình thức kỷ luật sau:
+ “khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc” (Khoản 1 Điều 39 Pháp lệnh cán bộ công chức).
+ “Cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ gây thiệt hại cho người khác thì phải hoàn trả cho cơ quan, tổ chức khoản tiền mà cơ quan, tổ chức đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật” (Khoản 5 Điều 39 Pháp lệnh cán bộ công chức).
+ “Trong thời gian đang bị xem xét kỷ luật, cán bộ, công chức có thể bị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý ra quyết định tạm đình chỉ công tác nếu xét thấy cán bộ, công chức đó tiếp tục làm việc có thể gây khó khăn cho việc xác minh hoặc tiếp tục có hành vi vi phạm..” (Khoản 1 Điều 39 Pháp lệnh cán bộ công chức).
- Xử lý hình sự: Biện pháp này được áp dụng khi những hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà người có hành vi vi phạm đó không chịu sửa chữa lỗi lầm, tái phạm hoặc trường hợp vi phạm đó có mức độ nghiêm trọng. Người có chức vụ quyền hạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với các tội danh như:
+ Tội đăng ký kết hôn trái pháp luật (Điều 149 Bộ luật Hình sự): "Người nào có trách nhiệm trong việc đăng ký kết hôn, biết rõ người xin đăng ký kết hôn không đủ điều kiện kết hôn mà vẫn đăng ký cho người đó đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm".
+ Tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận các tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 265 BLHS)
+ Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ(Điều 281 BLHS)
+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282 BLHS)
+ Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283 BLHS)
+ Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 285 BLHS)
Kết luận:
Do đặc thù của quan hệ hôn nhân và gia đình là xuất phát từ yếu tố tình cảm của các thành viên trong quan hệ quan hệ kết hôn, quan hệ huyết thống và nuôi dưỡng nên khi xử lý đối với những trường hợp vi phạm, ngoài việc đảm bảo các nguyên tắc pháp chế, nhân đạo, dân chủ, bình đẳng trước pháp luật cũng phải bảo đảm quyền lợi của các thành viên trong gia đình với nhau. Do đó, việc xử lý đối với các hành vi vi phạm này chủ yếu là biện pháp hành chính, dân sự, nhằm phân rõ phải, trái, phê phán và sửa chữa đối với các hành vi vi phạm, nhằm hàn gắn lại mối quan hệ tốt đẹp giữa các thành viên trong gia đình với nhau, có tác dụng giáo dục, thuyết phục người dân nâng cao ý thức pháp luật. Biện pháp xử lý theo luật hình sự chỉ được đặt ra khi những hành vi đó có tính chất nguy hiểm, vi phạm nghiêm trọng truyền thống đạo lý, đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam, đã bị xử phạt hành chính mà vẫn còn cố tình vi phạm.
---------------------------------------------------------------------------
Danh mục tài liệu tham khảo
|
Tên tài liệu
|
Tác giả
|
|
1
|
C.Mac.Ph.Angghen toàn tập, Tập 3 "Hệ tư tưởng Đức"
|
|
NXB Sự thật, Hà Nội, 1986
|
2
|
C.Mac và Ph.Angghen - Tuyên ngôn Đảng cộng sản.
|
|
|
3
|
C.Mac- Ph.Angghen tuyển tập (Tập 1)
|
|
NXB Sự thật, Hà Nội, 1986
|
4
|
Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà Pháp.
|
|
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1998
|
5
|
Đại từ điển Tiếng Việt 2000
|
|
NXB Văn hoá - Thông tin
|
6
|
Báo cáo tổng kết ngành Toà án các năm 1996,1997, 1998, 1999, 2000, 2001
|
|
|
7
|
Báo cáo tổng hợp kết quả điều tra xã hội học về hộ gia đình và quyền sử dụng đất tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh của Dự án JICA
|
|
|
8
|
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
|
ThS. Nguyễn Văn Cừ
ThS. Ngô Thị Hường
|
Nxb Chính trị Quốc gia, 2003 .
|
9
|
Binh luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
|
TS. Nguyễn Ngọc Điện
|
Nxb TP.Hồ Chí Minh, 2002
|
10
|
Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
|
ThS. Nguyễn Văn Cừ
|
Nxb Công an nhân dân,1999
|
11
|
Một số vấn đề xung quanh Dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình
|
ThS. Mai Bộ
|
Tạp chí Toà án nhân dân số 5/2000
|
12
|
Một số quy định trong Dự thảo Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi)
|
Nguyễn Huy Du
|
Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 2/2000
|
13
|
Những vấn đề đã được sửa đổi bổ sung trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
|
Nguyễn Đức Lương
|
Tạp chí Kiểm sát số 3/2000
|
14
|
Một số ý kiến về Dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi)
|
Ngô Minh Tuấn
|
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2000
|
15
|
Vấn đề Hôn nhân thực tế theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
|
ThS Nguyễn Văn Cừ
|
Tạp chí Luật Học số 5/2000
|
16
|
Tìm hiểu tính kế thừa trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
|
Nguyễn Đức Lương
|
Tạp chí Kiểm sát số 4/2001
|
17
|
Tìm hiểu các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam trong thời kỳ phong kiến (từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19)
|
Lê Hương Lan
|
Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 3/1999
|
18
|
“Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam”
|
Đinh Thị Thanh Hà
|
Luận văn tốt nghiệp năm 2001.
|
19
|
Vấn đề tài sản có giá trị lớn và tài sản chung có giá trị lớn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
|
Nguyễn Thị Diễm
|
Tạp chí Kiểm sát số 4/2001
|
20
|
Những quy định cơ bản về quan hệ cha, mẹ và con trong Dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi)
|
Lê Hương Lan
|
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 3/2000
|
21
|
Quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng trong Dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi)
|
Lê Hương Lan
|
Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 4/2000
|
22
|
Một số vấn đề về xác định cha, mẹ, con ngoài giá thú theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
|
ThS. Nguyễn Văn Cừ
|
Tạp chí Luật học số 2/2002.
|
23
|
Hiểu thêm về Luật Hôn nhân và gia đình ở Singapo
|
Trình Đình Thể
|
Tạp chí Người bảo vệ công lý số 10/1999
|
24
|
Một số ý kiến về hoàn thiện chế định nuôi con nuôi
|
Nguyễn Công Khanh
|
Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 2/2000
|
25
|
Về chế định nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
|
ThS. Ngô Thị Hường
|
Tạp chí Luật học số 3/2001
|
26
|
Tình hình và ảnh hưởng của ly hôn đối với phụ nữ và gia đình tại thành phố Hồ Chí Minh.
|
TS Thái Thị Ngọc Dư
|
|
27
|
Ly hôn- nghiên cứu trường hợp Hà Nội
|
Nguyễn Thị Thanh Tâm (chủ biên)
|
NXB Khoa học xã hội, năm 2002
|
28
|
Vấn đề chia nhà ở và quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
|
Hoàng Thị Thanh
|
Tạp chí Toà án nhân dân số 7/2001
|
29
|
Hạn chế quyền yêu cầu chia di sản thừa kế của vợ chồng khi một bên chết và hậu quả pháp lý của quy định này
|
Bùi Thuỷ Nguyên- Toà án Nhân dân tối cao
|
Tạp chí Toà án nhân dân số 3/2002
|
30
|
Hạn chế quyền ly hôn của vợ chồng khi vợ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi
|
Từ Văn Thiết- Toà án nhân dân tối cao
|
Tạp chí Toà án nhân dân số 7/2002.
|
31
|
Xác định người mất tích tại toà án là một trong những căn cứ giải quyết việc ly hôn
|
Đào Xuân Tiến
|
Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 11/2001
|
32
|
Vấn đề giải quyết nhà ở, quyền sử dụng đất khi ly hôn
|
Hoàng Thị Thanh
|
Tạp chí Toà án nhân dân số 7/2001
|
33
|
Giải quyết việc ly hôn mà vợ, chồng thường trú ở nước ngoài
|
Nguyễn Thị Liên Hương
|
Tạp chí Luật học số 2/1999
|
34
|
Hoà giải trong vụ án ly hôn
|
Khánh Hiền
|
Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 11/1997
|
35
|
Về việc hoà giải trong khi giải quyết các vụ án về hôn nhân và gia đình
|
Phan Anh Đức
|
Tạp chí Kiểm sát số 2/2000
|
36
|
Vấn đề ly thân trong Luật Hôn nhân và gia đình một số nước
|
Nguyễn Văn Cừ
|
Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 2/2000
|
37
|
Việt Nam và các điều ước quốc tế về nuôi con nuôi
|
TS Vũ Đức Long
|
Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 7/2000
|
38
|
Những điểm mới về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
|
Nguyễn Đức Lương
|
Tạp chí Kiểm sát số 5/2001
|
39
|
Vấn đề con nuôi nước ngoài
|
Vũ Ngọc Bình
|
Nxb Chính trị quốc gia, 2000
|
40
|
Những quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình 2000 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
|
ThS Nguyễn Hồng Bắc
|
Tạp chí luật học số 3/2000
|
41
|
Chế định nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam và quốc tế
|
Viện NCKH pháp lý
|
Số chuyên đề thông tin, 1998
|
42
|
Những điểm mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
|
ThS Nguyễn Hồng Bắc
|
Tạp chí Luật học số 3/2001
|
43
|
Bàn về giám hộ trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
|
Thái Công Khanh
|
Tạp chí Toà án nhân dân số 12/2000
|
44
|
Vấn đề quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
|
Thái Công Khanh
|
Tạp chí Toà án nhân dân số 4/2000
|
45
|
Những điểm mới trong Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
|
Nguyễn Văn Hoàn
|
Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 2/2000
|
Các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình và các văn bản pháp luật có liên quan
Các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình
1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
2. Nghị quyết số 35/2000/QH 10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
3. Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
4. Nghị định số 32/2002/ND-CP ngày 27/03/2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số
5. Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân gia đình.
6. Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH 10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.
7. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
8. Chỉ thị số 15/2000/CT-TTg ngày 9/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
9. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
10. Thông tư số 07/2001/TT-BTP ngày 10/12/2001 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị định số 77/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH 10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.
11. Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3/11/ 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH 10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.
12. Công văn số 62/2001/KHXX ngày 23/6/2001 của Toà án nhân dân tối cao về việc trả lời một số vấn đề về ly hôn (trích).
13. Công văn số 112/2001/KHXX ngày 14/9/2001 của Toà án nhân dân tối cao về thời điểm thụ lý vụ án Hôn nhân và gia đình.
14. Công văn số 410/TP-PLDSKT ngày 3/4/2001 của Vụ Pháp luật Dân sự kinh tế-Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.
15. Công văn số 61/2002/KHXX ngày 20/06/2002 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn các Toà án địa phương về việc công nhận thuận tình ly hôn.
Các văn bản pháp luật có liên quan
16. Bộ luật Dân sự 1995 (trích)
17. Bộ luật Hình sự (trích)
18. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
19. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002
20. Nghị định số 374/HĐBT ngày 11/11/1991 của Hội đồng bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
21. Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính Phủ quy định về đăng ký hộ tịch
22. Thông tư số 12/1999/TT-BTP ngày 5/6/1999 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch.
23. Quyết định số 57/2000/QĐ-BTC ngày 20/4/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành mức thu lệ phí đăng ký hộ tịch
Điều ước quốc tế và các văn bản pháp luật liên quan
24. Công ước CEDAW thông qua ngày 18/02/1979 - Công ước của Liên Hiệp quốc về xoá bỏ mọi phân biệt đối xử đối với phụ nữ.
25. Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Pháp
26. Quyết định số 142/2000/QĐ-TTg ngày 11/12/2000 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế về thực hiện Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Pháp.
27. Thông tư số 04/2001/TT-BTP ngày 20/03/2001 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Quy chế thực hiện Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Pháp ban hành kèm theo Quyết định số 142/2000/QĐ-TTg ngày 11/12/2000 của Thủ tướng Chính phủ.
28. Quyết định số 15/2001/QĐ-BTP ngày 18/05/2001 của Bộ trưởng Bộ tư pháp về việc thành lập nhóm công tác liên ngành thực hiện Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Pháp.
29. Quyết định số 42/2001/QĐ-BTP ngày 27/11/2001 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc sửa đổi, bổ sung mẫu giấy tờ ban hành kèm theo Thông tư số 04/2001/TT-BTP ngày 20 tháng 3 năm 2001 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Quy chế thực hiện Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Pháp.
(1) Tờ trình của Chính phủ trước Quốc hội ngày 23/12/1959 về dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình- Công báo số 1 năm 1960
(2) Lời nói đầu Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.
[2] Điều 70 của Hiến pháp năm 1992 quy định: "Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật... Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước".
[3] Điều 64 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con".
[4] Trong Bộ luật Hình sự năm 1999, về các tội phạm có liên quan đến lĩnh vực hôn nhân và gia đình, có nhiều tội danh được quy định là chỉ bị xử lý về hình sự, nếu đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, như quy định tại Điều 146 về tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; quy định tại Điều 147 về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng; quy định tại Điều 148 về tội tảo hôn, tổ chức tảo hôn; quy định tại Điều 151 về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; quy định tại Điều 152 về tội từ chối hoặc cố tình trốn tránh nghĩa vụ cấp dưõng...
[5] Quy định từ Điều 35 đến Điều 40 của Bộ luật Dân sự - các quy định này của Bộ luật Dân sự đã được cụ thể hoá trong Luật Hôn nhân và gia đình.
[6] C.Mac.Ph.Ăngghen toàn tập, Tập 3 "Hệ tư tưởng Đức"- NXB Sự thật, Hà Nội, 1986
[7] Điều 146 - Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà Pháp
[8] C.Mac và Ph.Angghen, Tuyên ngôn Đảng cộng sản, C.Mac- Ph.Angghen tuyển tập, tập 1, tr 564.
[10] Luật dân sự của Pháp có những quy định thể hiện người phụ nữ khi kết hôn thì không dùng tên riêng mà sử dụng theo tên của chồng. Sau khi ly hôn, mỗi người lại sử dụng tên của mình (Điều 264– Bộ luật Dân sự Napoleon)
[11] Đại từ điển Tiếng Việt 2000 - Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin
[12] Đại từ điển Tiếng Việt 2000 - Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin
[13] Tuyên bố của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc 1993
[14] Xem: tình hình và ảnh hưởng của ly hôn đối với phụ nữ và gia đình tại thành phố Hồ Chí Minh - Tiến sĩ Thái Thị Ngọc Dư.
[15] Báo cáo tổng hợp kết quả điều tra xã hội học về hộ gia đình và quyền sử dụng đất tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh của Dự án JICA
[16] Ví dụ tham khảo tại Luận văn tốt nghiệp của Đinh Thị Thanh Hà “Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam”(năm 2001).
[17] Pháp luật và vấn đề trợ giúp pháp lý cho trẻ em ở Việt Nam - Tạ Thị Minh Lý
[18]Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 không có chương riêng quy định về vấn đề này.
[19] Điều 54 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
[20] Tất nhiên không loại trừ khả năng người tham gia quan hệ cấp dưỡng (người được cấp dưỡng hoặc người phải cấp dưỡng) suy nghĩ rằng việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là nhằm củng cố, duy trì tình cảm, sự thương yêu, qúy mến lẫn nhau giữa hai người.
[21] Điều 18 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.
[22]Điều 20 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP.
[23] Điều 312 – Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà Pháp.
[24] Điều 340 – Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà Pháp.
[25] Điều 319 Bộ luật Dân sự Cộng hoà Pháp
[26] Điều 320 Bộ luật Dân sự Cộng hoà Pháp
3 Điều 322-1 Bộ luật Dân sự Cộng hoà Pháp
[27] Điều 323 Bộ luật Dân sự Cộng hoà Pháp
[28] Điều 67, Điều 68 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
[29] Điều 64 Hiến pháp năm 1992, Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
[30] Xem: Khoản 8- Điều 8- Luật HN&GĐ năm 2000
[31] Xem: Khoản 8- Điều 8- Luật HN&GĐ năm 2000
[32] Xem: Điều 38- BLDS Việt Nam (1995); Điều 85- Luật HN&GĐ năm 2000
[33] Xem: Báo cáo tổng kết ngành Toà án các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001.
[34] Xem: Điều 27- Luật HN&GĐ (1959); Điều 41- luật HN&GĐ (1986)
[35] Xem: Mục 10- Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23.12.2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao.
[36] Xem: Thông tư số 112- NCPL ngày 19.8.1972 cuẩ TATC hướng dẫn xử lý các trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn.
[37] Xem: Khoản 2 Điều 88 BLDS năm 1995.
[38] Xem: Mục 3 Nghị quyết số 03/1990/NQ/HĐTP ngày 29/10/1990 của HĐTPTANDTC
[39] Ly hôn – nghiên cứu trường hợp Hà Nội của Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ do Nguyễn Thanh Tâm chủ biên – Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 2002.
[40] Xét về mặt lý luận của tư pháp quốc tế, thì xung đột pháp luật là hiện tượng pháp luật của hai hay nhiều nước khác nhau cùng có thể được áp dụng nhằm điều chỉnh một quan hệ xã hội có yếu tố nước ngoài (Xem giáo trình Tư pháp quốc tế của Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 1997, tr.29)
[41] Toà án CHLB Đức khi giải quyết ly hôn giữa công dân Việt Nam với nhau, thường áp dụng pháp luật Việt Nam (Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986) trên nguyên tắc lex patriae - pháp luật của nước mà cả hai vợ chồng mang quốc tịch.
[42] Pháp luật áp dụng sẽ là pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch đồng thời có nơi thường trú vào thời điểm phát sinh vụ việc; nếu người đó không thường trú tại một trong các nước có quốc tịch, thì áp dụng pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch đồng thời có quan hệ gắn bó nhất (gắn bó ở đây được hiểu là nơi người đó thực hiện phần lớn các quyền và nghĩa vụ công dân của mình, hoặc nơi có phần lớn tài sản).
[43] Theo ý kiến của nhiều Luật gia, trong các vụ án xác định cha và cấp dưỡng nuôi con, người con sinh sống ở nước ngoài, nếu áp dụng pháp luật Việt Nam để xác định điều kiện, phương thức và mức cấp dưỡng cho con, chắc chắn không lợi bằng việc áp dụng pháp luật nước ngoài.
[44] Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, hạn chế lớn nhất là ở chỗ, Pháp lệnh quy định (tại Điều 2) chỉ công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài trên cơ sở điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết với các nước; nếu không có điều ước thì phải được pháp luật Việt Nam quy định. Pháp lệnh không quy định áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong việc công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài.
[45] Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986