• Thuộc tính
Tên đề tài Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện - thực trạng và giải pháp kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động
Nội dung tóm tắt

I. Tính cấp thiết của đề tài

Yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân đã đặt ra cho ngành Tư pháp nói chung và Phòng Tư pháp cấp huyện nói riêng những yêu cầu mới, nhiệm vụ mới trong các lĩnh vực công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Do vậy, việc kiện toàn về tổ chức và cán bộ, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của Phòng Tư pháp cấp huyện là hết sức cần thiết và là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp chính quyền và của ngành Tư pháp. Việc triển khai nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ và toàn diện về “Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện - thực trạng và giải pháp kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động" làm cơ sở khoa học và thực tiễn để kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện là hết sức cấp thiết.

Mục tiêu nghiên cứu của Đề tài

- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện.

- Đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp, những ưu điểm, kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế; tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện.

- Thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò của Phòng Tư pháp và công tác tư pháp ở cấp huyện, sự cần thiết khách quan và các phương hướng, biện pháp tiếp tục kiện toàn, củng cố Phòng Tư pháp cấp huyện.

I. VÀI NÉT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÒNG TƯ PHÁP CẤP HUYỆN.

1. Giai đoạn 1945 đến 1959:

Trong các sắc lệnh đầu tiên thiết lập mô hình tổ chức của chính quyền địa phương (Sắc lệnh số 63-SL ngày 23/11/1945, Sắc lệnh số 77-SL ngày 21/12/1945, Sắc lệnh của Chủ tịch nước số 13 ngày 24/1/1946) cũng như quy định tại Hiến pháp năm 1946, tổ chức chính quyền địa phương gồm cấp kỳ, tỉnh, huyện và xã. Thời kỳ này cấp huyện được coi là cấp chính quyền trung gian, với mô hình tổ chức chỉ có Uỷ ban hành chính đảm nhận những nhiệm vụ có tính chất truyền tải những nội dung, yêu cầu quản lý từ cấp tỉnh tới cơ sở

Theo quy định tại Nghị định số 37 ngày 1/12/1945 về tổ chức của Bộ Tư pháp, Sắc lệnh số 63-SL ngày 23/11/1945, Thông tư số 12B NV-CT ngày 29/12/1946 giải thích rõ công việc tư pháp trong một khu, địa vị và nhiệm vụ của Giám đốc Tư pháp và Sắc lệnh của Chủ tịch nước số 13 ngày 24/1/1946, hệ thống cơ quan tư pháp gồm có Bộ Tư pháp (trung ương), Sở Tư pháp (cấp tỉnh) và Ban Tư pháp (cấp xã). Công việc hành chính, tư pháp được giao cho Uỷ ban hành chính hoặc Toà án nhân dân cùng cấp đảm nhận.

2. Giai đoạn từ 1960 đến 1972

Do yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, theo quy định của Hiến pháp 1959 và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, trong tổ chức Chính phủ không có Bộ Tư pháp, ở UBND cấp tỉnh và cấp huyện không có các cơ quan tư pháp. Giai đoạn này cũng thể hiện sự gián đoạn trong quá trình phát triển của ngành Tư pháp với sự giải thể Bộ Tư pháp.

Công tác tư pháp cấp huyện do nhiều cơ quan thực hiện, trong đó chủ yếu là Tòa án nhân dân cấp huyện. Luật Tổ chức Toà án nhân dân 1960 và Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Toà án nhân dân tối cao và tổ chức của các Toà án nhân dân địa phương ngày 30/3/1961 thì Toà án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp và hướng dẫn công tác hoà giải ở các thị trấn và xã; tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân.

3. Giai đoạn từ 1972 đến 1981

Điều 5 Nghị định số 190/CP quy định, hệ thống các cơ quan pháp chế được thành lập ở các cấp. Cấp tỉnh có Sở pháp chế, Ty pháp chế; cấp huyện có Phòng hoặc Tổ pháp chế; cấp xã có Tổ pháp chế hoặc cán bộ pháp chế. Đến giai đoạn này, ở cấp huyện đã hình thành một cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện về công tác pháp chế, đây chính là tiền thân của Phòng Tư pháp. Tuy nhiên, việc thành lập hệ thống các cơ quan pháp chế từ trung ương đến cơ sở gặp nhiều khó khăn, Phòng Tư pháp cấp huyện cũng chưa được quy định cụ thể, rõ ràng.

4. Giai đoạn từ 1981 đến 1992

Ngày 22/11/1981, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 143/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp. Theo Nghị định này, cơ quan tư pháp địa phương với vị trí, vai trò là cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp các công tác tư pháp đã được thành lập ở cả 3 cấp: cấp tỉnh có Sở Tư pháp, cấp huyện có Phòng Tư pháp và cấp xã là Ban Tư pháp.

Tuy vậy, trong thực tế, từ năm 1989, thực hiện chủ trương tinh giản biên chế và giảm đầu mối tổ chức,  một số tỉnh đã giải thể Sở Tư pháp chuyển thành Phòng Tư pháp hoặc tổ chuyên viên trực thuộc Uỷ ban nhân dân, Phòng Tư pháp cấp huyện sáp nhập vào cơ quan chuyên môn khác của Uỷ ban nhân dân hoặc chỉ để 1-2 cán bộ tư pháp làm việc trực tiếp với chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, thậm chí có nơi bố trí nửa biên chế làm công tác tư pháp.

5. Giai đoạn từ 1992 đến nay

Theo quy định của Nghị định 38/CP ngày 4/6/1993 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp và các văn bản pháp luật khác như Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Nghị định số 83/1998/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký hộ tịch, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 18/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực, Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở, Nghị định số 160/1999/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Pháp lệnh hoà giải ở cơ sở… đã khẳng định chức năng, nhiệm vụ của Phòng Tư pháp cấp huyện trong việc giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý công tác tư pháp ở địa phương và là một mắt xích của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm sự thống nhất quản lý nhà nước về công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở.

Ngày 27/3/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2001/NĐ-CP quy định về sắp xếp tổ chức các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân các cấp. Thực hiện Nghị định số 12/2001/NĐ-CP, ở một số địa phương đã tiếp tục quan tâm kiện toàn, củng cố Phòng Tư pháp. Tuy nhiên, một số tỉnh đã sáp nhập Phòng Tư pháp cấp huyện vào Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Việc sáp nhập này đã gây khó khăn trong việc triển khai thực hiện các công tác tư pháp.

Trước tình hình đó, nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò và nhiệm vụ của Phòng Tư pháp, ngày 29/9/2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 172/2004/NĐ-CP quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Nghị định này đã xác định Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện được tổ chức thống nhất trong cả nước.

II. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA PHÒNG TƯ PHÁP CẤP HUYỆN

1. Vị trí, vai trò của Phòng Tư pháp cấp huyện

Trải qua 60 năm xây dựng và phát triển, tổ chức của Phòng Tư pháp cấp huyện đã từng bước được củng cố, đội ngũ cán bộ được tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng bảo đảm hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Với vị trí là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Phòng Tư pháp cấp huyện đã và đang phải đảm nhận một khối lượng công việc lớn trong các lĩnh vực. Phòng Tư pháp cấp huyện đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong đời sống xã hội, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tư pháp cấp huyện

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Nghị định số 172/29004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ, ngày 5/5/2005, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp. Theo quy định tại Thông tư này, Phòng Tư pháp là cơ quan giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước về công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, chứng thực, hộ tịch, trợ giúp pháp lý, hoà giải ở cơ sở và công tác tư pháp khác theo quy định  của pháp luật. Cụ thể như sau:

2.1. Về công tác xây dựng pháp luật

Phòng Tư pháp cấp huyện được giao nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước về công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật với những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau:

a) Trình Uỷ ban nhân dân cấp huyện các văn bản để tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ và pháp luật về quản lý công tác tư pháp trên địa bàn cấp huyện;

b) Thẩm định và chịu trách nhiệm trước Uỷ ban nhân dân cấp huyện về nội dung thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do Uỷ ban nhân dân cấp huyện ban hành theo quy định pháp luật.

c) Tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật, pháp lệnh theo sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp huyện và hướng dẫn của Sở Tư pháp;

d) Rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện ban hành.

2.2. Về kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật

Phòng Tư pháp giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước về công tác kiểm tra văn bản với những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể như sau:

a) Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra văn bản ở địa phương;

b) Đôn đốc, chỉ đạo công tác kiểm tra văn bản ở địa phương;

c) Sơ kết, tổng kết, tổ chức công tác kiểm tra văn bản của địa phương; định kỳ 6 tháng và hàng năm báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp huyện về công tác kiểm tra văn bản;

d) Phối hợp và tạo điều kiện để các cơ quan kiểm tra văn bản kiểm tra theo thẩm quyền;

đ) Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra văn bản; tổ chức và quản lý đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản tại địa phương; tổ chức nghiên cứu khoa học về kiểm tra văn bản;

e) Tổ chức mạng lưới thông tin, xây dựng và quản lý hệ cơ sở dữ liệu phục vụ việc kiểm tra văn bản;

g) Khen thưởng, kỷ luật và đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng, kỷ luật các cán bộ, công chức và cộng tác viên trong công tác kiểm tra văn bản ở địa phương ;

h) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về kiểm tra văn bản theo thẩm quyền.

2.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật

Phòng Tư pháp cấp huyện được giao trách nhiệm là đầu mối giúp Uỷ ban nhân dân trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa phương, có các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau:

a) Xây dựng các chương trình, kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật của địa phương trình Uỷ ban nhân dân cấp huyện và hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các chương trình, kế hoạch đó;

b) Thường trực Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cấp huyện;

c) Xây dựng đội ngũ báo cáo viên pháp luật cấp huyện và hướng dẫn việc xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật cấp xã;

d) Hướng dẫn công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp xã;

đ) Hướng dẫn, kiểm tra việc xây dựng, quản lý và khai thác, sử dụng Tủ sách pháp luật ở địa phương;

g) Sơ kết, tổng kết công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa phương;

h) Thực hiện chế độ báo cáo về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo quy định của pháp luật.

2.4. Về thi hành án dân sự

Theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 28/1/2004, Phòng Tư pháp là cơ quan có chức năng :

- Giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch công tác thi hành án dân sự;

- Tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị ở địa phương theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự và lợi ích của nhà nước;

- Giúp Uỷ ban nhân dân chỉ đạo sự phối hợp giữa cơ quan thi hành án, các cơ quan chuyên môn với các đoàn thể liên quan trên địa bàn trong công tác thi hành án;

- Tổ chức kiểm tra hoạt động của cơ quan thi hành án huyện trên địa bàn.

- Thường trực Ban chỉ đạo Thi hành án cấp huyện.

- Hướng dẫn, kiểm tra Uỷ ban nhân dân cấp xã trong việc thi hành án dân sự

2.5. Chứng thực

Phòng Tư pháp có trách nhiệm sau:

1. Hướng dẫn, kiểm tra hoạt động chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã;

2. Giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện giải quyết khiếu nại, tố cáo về chứng thực theo thẩm quyền và trình tự, thủ tục quy định tại Điều 66 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP;

3. Tổng hợp tình hình và thống kê số liệu về chứng thực để báo cáo Sở Tư pháp theo định kỳ 6 tháng và hàng năm.

2.6. Về công tác hộ tịch

Phòng Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn như sau:

a) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác đăng ký và quản lý hộ tịch trong địa phương mình;

b) Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các quy định của pháp luật về hộ tịch;

c) Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp - hộ tịch trong địa phương mình;

d) Tổng hợp tình hình và báo cáo, thống kê các số liệu hộ tịch cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh theo định kỳ sáu tháng và hàng năm.

đ) Quản lý việc sử dụng các loại sổ sách, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ Tư pháp.

2.7. Về hoà giải ở cơ sở

Phòng Tư pháp giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước về hoà giải ở cơ sở, cụ thể như sau:

a) Hướng dẫn các Ban Tư pháp triển khai thực hiện các quy định về công tác hoà giải ở địa phương; đề xuất với Uỷ ban nhân dân cấp huyện biện pháp kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động hoà giải ở địa phương;

b) Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ hoà giải ở địa phương theo hướng dẫn của cơ quan tư pháp cấp trên;

c) Sơ kết, tổng kết công tác hoà giải của Tổ hoà giải ở địa phương và báo cáo về công tác hoà giải với Uỷ ban nhân dân cấp huyện và cơ quan tư pháp cấp trên; tổ chức thi đua, khen thưởng công tác hoà giải của Tổ hoà giải ở địa phương.

2.8. Các nhiệm vụ cụ thể khác

- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ đối với công tác tư pháp cấp xã, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của tư pháp cấp xã và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp cấp xã.

II. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ PHÁP CẤP HUYỆN

1. Thực trạng tổ chức, cán bộ của phòng tư pháp cấp huyện

1.1. Về tổ chức

Sau khi Quốc hội có Nghị quyết về việc chia tách và thành lập một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ưưong, tính đến ngày 31/12/2004, cả nước có 659 huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và số lượng các Phòng Tư pháp bị sáp nhập vào cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện không có sự thay đổi. Ở các tỉnh, thành phố mới được hình thành, Phòng Tư pháp được xác định trong cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

Số lượng cán bộ trung bình của 01 Phòng Tư pháp là 3,13 cán bộ, trong đó nhiều Phòng Tư pháp 5-7 cán bộ. Phòng Tư pháp có nhiều cán bộ nhất là Phòng Tư pháp Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh với 09 cán bộ.

Ngày 29/9/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 172/2004/NĐ-CP trong đó quy định Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân được tổ chức thống nhất trong cả nước. Ngay sau khi Nghị định số 172/2004/NĐ-CP được ban hành, các Phòng Tư pháp về cơ bản đã được thành lập lại, kiện toàn tổ chức, tăng cường cán bộ để thực hiện các nhiệm vụ được giao.

1.2. Về cán bộ

1.2.1. Số lượng cán bộ

Theo báo cáo của 64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tính đến ngày 01/01/2004, tổng số cán bộ tư pháp cấp huyện là 1.928 cán bộ. Trong đó có 463 Trưỏng phòng, 186 Phó trưởng Phòng, 10 Chánh Văn phòng và 67 Phó Chánh Văn phòng phụ trách công tác tư pháp và 06 cán bộ được giao phụ trách công tác tư pháp.

1.2.2. Chất lượng cán bộ:

a) Trình độ văn hoá: (i) Cấp III: 1853 người (chiếm 96% tổng số cán bộ tư pháp cấp huyện); (ii) Cấp II: 52 người (chiếm 4%).

b) Trình độ chuyên môn: Trên đại học: 03 người; Đại học luật: 1142 người (chiếm 64%); Trung cấp luật: 263 người (chiếm 15%); Đại học khác: 157 người (chiếm 9%);  Cao đẳng: 44 người (chiếm 2%), trong đó có 24 người có trình độ cao đẳng an ninh, kiểm sát, và toà án; Trung cấp khác là 156 người (chiếm 9%); Sơ cấp khác: 11 người.

c) Trình độ lý luận chính trị: Đại học: 58 người (chiếm 5%); Cao cấp chính trị: 143 người (chiếm 13%); Trung cấp chính trị: 560 người (chiếm 51%); Sơ cấp chính trị: 338 người (chiếm 31%).

d) Quản lý nhà nước;

Tính đến 01/01/2003, trong tổng số cán bộ tư pháp cấp huyện có 331 cán bộ đã được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước. Trong đó có 04 cán bộ có trình độ đại học, 18 cán bộ có trình độ cao cấp, 190 cán bộ có trình độ trung cấp.

đ) Ngoại ngữ:  Đại học: 05 người; Trình độ C: 49 người; Trình độ B: 215 người; Trình độ A: 259 người.

e) Tin học:  Đại học: 01 người; Trình độ C: 01 người; Trình độ B: 107 người; Trình độ A: 335 người.

1.3. Đánh giá về tổ chức, cán bộ tư pháp cấp huyện

1.3.1. Ưu điểm:

a) Nghị định số 172/2004/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV đã khẳng định Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, đồng thời là mắt xích quan trọng trong hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm công tác tư pháp được triển khai thống nhất từ trung ương đến cơ sở.

b) Phần lớn đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, tận tuy, có tinh thần, ý thức trách nhiệm với công việc. Trình độ của đội ngũ cán bộ này đang từng bước được nâng cao.

c) Đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện có sự kế thừa giữa các thế hệ, có nhiều cán bộ trẻ, năng động, có khả năng thích nghi với cơ chế mới.

d) Đa số cán bộ tư pháp cấp huyện được tuyển dụng từ nguồn tại chỗ của địa phương nên nắm vững các điều kiện kinh tế - xã hội ở địa phương, hiểu biết rõ về phong tục, tập quán, thói quen cũng như những đặc thù về văn hoá, lịch sử.

1.3.2. Tồn tại, hạn chế

a) Mô hình tổ chức của Phòng Tư pháp cấp huyện trong thời gian qua chưa ổn định.

b) Số lượng cán bộ tư pháp cấp huyện tuy đã được tăng cường một bước nhưng nhìn chung vấn còn thiếu, không ổn định, cơ cấu cán bộ chưa hợp lý, dẫn  đến một cán bộ phải đảm nhận nhiều lĩnh vực  công tác, hoạt động còn dàn trải, không chuyên sâu.

c) Trình độ của đội ngũ cán bộ tuy đã được nâng cao nhưng vẫn chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

d) Một bộ phận cán bộ còn thiếu năng lực, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật chưa cao. Một số ít cán bộ còn có các vi phạm dẫn đến bị kỷ luật.

đ) Cơ chế chính sách quản lý đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện chưa thoả đáng, hoàn chỉnh, chưa có sự khuyến khích, thu hút cán bộ có trình độ và tạo các điều kiện cần thiết để đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện yên tâm công tác.

2. Thực trạng hoạt động của Phòng tư pháp cấp huyện

2.1. Tình hình và kết quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện

2.1.1. Về công tác xây dựng pháp luật

Thực tiễn cho thấy, cùng với việc tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân trong công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm chất lượng của hệ thống văn bản pháp luật của địa phương. Tuy nhiên, công tác xây dựng pháp luật của tư pháp cấp huyện cũng bộc lộ những tồn tại sau:

- Số lượng các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan tư pháp cấp huyện soạn thảo, tham gia soạn thảo, thẩm định, tham gia ý kiến không nhiều, chủ yếu chỉ là các văn bản cá biệt;

- Trong một thời gian dài trước khi Luật ban hành văn ban quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2004 thì nhận thức  về vị trí, vai trò của công tác thẩm định và tham gia ý kiến chưa đầy đủ

2.1.2. Về phổ biến, giáo dục pháp luật

Hình thức tuyên truyền chủ yếu là thi tìm hiểu pháp luật, hoạt động văn hoá, văn nghệ, phương tiện thông tin đại chúng, triển khai xuống các xã, phường, biên soạn, cung cấp tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật; tuyên truyền miệng về pháp luật. Một số hình thức khác đã được sử dụng để tuyên truyền, phổ biến. Đội ngũ báo cáo viên pháp luật được kiện toàn, phát triển.

2.1.3. Về thi hành án dân sự

Phòng Tư pháp đã thực hiện thường xuyên việc kiểm tra hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án cấp huyện, đưa ra nhiều kiến nghị với Uỷ ban nhân dân quan tâm, tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động thi hành án dân sự cấp huyện. Tuy nhiên, vai trò của Phòng Tư pháp trong quản lý hoạt động thi hành án dân sự còn hạn chế, sự phối hợp giữa Phòng Tư pháp và Đội Thi hành án còn nhiều vướng mắc, chưa đáp ứng được đòi hỏi của tình hình thực tiễn đặt ra, cá biệt còn có tình trạng mất đoàn kết giữa Phòng Tư pháp và Đội Thi hành.

2.1.4. Về chứng thực

Trong thực hiện nghiệp vụ, các Phòng Tư pháp vẫn còn lúng túng trong việc xác định hình thức văn bản cho phù hợp với nội dung chứng thực, một số trường hợp còn sai sót về nội dung chứng thực.

2.1.5. Về công tác hộ tịch

Phòng Tư pháp đã triển khai tới các xã, phường, thị trấn trong phạm vi địa phương nhằm vận động các trường hợp vợ chồng chưa đăng ký kết hôn thực hiện việc đăng ký kết hôn.Tuy nhiên, trong quản lý công tác hộ tịch ở địa phương, Phòng Tư pháp đã bộc lộc một số tồn tại, hạn chế trong việc hướng dẫn, kiểm tra về nghiệp vụ đối với công tác hộ tịch, do đó trong nhiều trường hơp chưa phát hiện, chấn chỉnh kịp thời những sai sót trong công tác đăng ký hộ tịch

2.1.6. Về hoà giải ở cơ sở

Thực tiễn đã khẳng định được hiệu quả của những biện pháp này như việc ban hành văn bản hướng dẫn việc kiện toàn, củng cố tổ chức và hoà giải viên phù hợp với điều kiện của địa phương, kết hợp việc bầu tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, trưởng bản với việc bầu, bổ sung thành viên tổ hoà giải; đề xuất có chế độ bồi dưỡng đối với các hoà giải viên trong các trường hợp hoà giải thành; sơ kết, tổng kết, khen thưởng định kỳ và hàng năm.

2.1.7. Về chỉ đạo, hướng dẫn công tác tư pháp  cấp xã:

Với vai trò là một mắt xích trong hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm sự thống nhất quản lý công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở, Phòng Tư pháp thực hiện nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ đối với Ban Tư pháp xã, phường, thị trấn. Nhiệm vụ này được thực hiện dưới các hình thức như ban hành văn bản giải quyết những khó khăn, vướng mắc; theo dõi, kiểm tra tình hình hoạt động của Ban Tư pháp cấp xã và thực hiện việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã.

 

2.2. Đánh giá về hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện

2.2.1. Ưu điểm

- Trong thời gian qua, Phòng Tư pháp cấp huyện đã triển khai trên thực tế các nhiệm vụ được giao theo quy định trong các lĩnh vực công tác xây dựng văn bản, thẩm định, rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, quản lý thi hành án dân sự, chứng thực, quản lý công tác hộ tịch…

- Các hoạt động tư pháp cấp huyện đã từng bước đi vào nền nếp, theo chương trình, kế hoạch, mục tiêu rõ ràng, có sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của Uỷ ban nhân dân cùng cấp và cơ quan tư pháp cấp trên.

- Thực hiện phương châm hướng về cơ sở, tăng cường và nâng cao hiệu lực hoạt động cho chính quyền xã, phường, thị trấn, Phòng Tư pháp cấp huyện đã phát huy vai trò chỉ đạo, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ đối với Ban Tư pháp ở cấp xã.

- Phòng Tư pháp cấp huyện đã tích cực triển khai thực hiện cải cách hành chính, công khai và đơn giản hoá những thủ tục hành chính như chứng thực, hộ tịch, trợ giúp pháp lý. Một số nơi đã nghiên cứu và áp dụng Tiêu chuẩn ISO 9001 về hệ thống quản lý chất lượng vào công tác để nâng cao hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công tác tư pháp trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

2.2.2. Những tồn tại, hạn chế

- Công tác tư pháp cấp huyện triển khai còn chậm, chất lượng, hiệu quả chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

- Việc triển khai thực hiện nhiệm vụ trong các lĩnh vực công tác của Phòng Tư pháp chưa đồng đều

- Phương thức, lề lối làm việc của Phòng Tư pháp và các quan hệ công tác giữa Phòng Tư pháp với Uỷ ban nhân dân và các cơ quan, đơn vị có liên quan còn hạn chế, bất cập.

- Kinh phí, phương tiện và các điều kiện phục vụ cho hoạt động của tư pháp cấp huyện còn hạn chế.

3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong tổ chức và hoạt động của Phòng tư pháp cấp huyện

Một là, nhận thức của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương về vị trí, vai trò của công tác tư pháp nói chung cũng như vị trí, vai trò của Phòng Tư pháp cấp huyện nói riêng trong quản lý nhà nước có lúc, có nơi còn chưa đầy đủ, thống nhất.

Hai là, sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp uỷ, chính quyền địa phương và cơ quan tư pháp cấp trên đối với tổ chức, cán bộ và công tác tư pháp cấp huyện có lúc, có nơi còn chưa  kịp thời, thường xuyên, chưa bao quát hết và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn triển khai công tác tư pháp cấp huyện. Các cơ quan tư pháp cấp trên chưa thật sự sâu sát, nắm bắt đầy đủ tình hình cũng như khó khăn, vướng mắc trong tổ chức, hoạt động của Phòng Tư pháp để kịp thời đề xuất hoặc kiến nghị các biện pháp kiện toàn, củng cố, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động tư pháp cấp huyện.

Ba là, hệ thống pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức cán bộ, cơ chế hoạt động và những quy định về lĩnh vực thuộc phạm vi, đối tượng quản lý của ngành tư pháp từ trung ương đến cơ sở còn có những điểm bất cập. Cụ thể là chưa đầy đủ, thống nhất và đồng bộ, chưa phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của từng vùng, miền, địa phương.

Bốn là,  hạn chế về số lượng, chất lượng và năng lực của đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện. Ở nhiều địa phương, đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện còn thiếu về số lượng và chất lượng, chưa đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ được giao, do đó đã chưa phát huy được vai trò chủ động, sáng tạo trong việc tham mưu cho cấp uỷ và chính quyền địa phương để tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ công tác ở cơ sở.

Năm là, việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết bảo đảm hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện như tài chính, phương tiện kỹ thuật chưa đầy đủ. Các nguồn lực để bảo đảm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cán bộ, công chức để thực hiện việc tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ còn chưa được thiết lập rộng rãi và áp dụng bắt buộc.

III. PHƯƠNG HƯỚNG KIỆN TOÀN, NÂNG CAO NĂNG LỰC, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ PHÁP CẤP HUYỆN

1. Những quan điểm chỉ đạo việc kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của phòng tư pháp cấp huyện

1.1. Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân

Yêu cầu của sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đặt ra cho ngành Tư pháp nói chung trong đó có Phòng Tư pháp cấp huyện là phải đóng góp tích cực vào việc quản lý nhà nước bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của công dân.

Trong giai đoạn hiện nay, để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phòng Tư pháp đã được giao thêm nhiều nhiệm vụ mới, việc kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện trước hết phải xuất phát từ yêu cầu và để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho công tác tư pháp ở địa phương cũng như trong cả nước trong giai đoạn hiện nay.

1.2. Kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện là một nội dung quan trọng trong đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền cấp huyện và hệ thống cơ quan tư pháp từ trung ương đến cơ sở.

Theo quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 và Nghị định số 172/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ, Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước công tác tư pháp ở địa phương. Do đó, việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, xác định rõ vị trí, vai trò của chính quyền cấp huyện sẽ tác động trực tiếp tới mô hình và cơ cấu tổ chức, sự tồn tại cũng như cơ chế, phương thức hoạt động của các cơ quan chuyên môn trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Phòng Tư pháp cấp huyện cũng cần xác định rõ việc kiện toàn, nâng cao năng lực hoạt động phải dựa trên cơ sở và để bảo đảm cho việc đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng đã đề ra.

1.3. Gắn việc kiện toàn tổ chức với việc xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới phương pháp, quy trình làm việc, cải cách hành chính.

Mô hình tổ chức và đội ngũ cán bộ là hai vấn đề gắn bó chặt chẽ với nhau, có quan hệ tác động qua lại với nhau. Do vậy, việc kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện phải được tiến hành trên cơ sở xác định rõ mục tiêu, mô hình tổ chức, cơ cấu cán bộ hợp lý và cơ chế hoạt động có hiệu quả, đổi mới phương thức và quy trình làm việc theo hướng công khai, đơn giản, thuận tiện, tăng cường tính chuyên nghiệp và giải quyết nhanh công việc của nhân dân, đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính. 

1.4. Phù hợp với tình hình thực tiễn, có bước đi thích hợp với điều kiện từng vùng, miền, địa phương, trên cơ sở kế thừa và phát triển những kết quả đã đạt được.

Trên cơ sở quán triệt những quan điểm mới được thể hiện trong các chủ trương, chính sách của Đảng, tổng kết thực tiễn ngành Tư pháp trong những năm qua, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, việc kiện toàn, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện phải quan tâm đến các đặc điểm, điều kiện thực tiễn của từng vùng, miền, địa phương, từ thực trạng tổ chức và cán bộ tư pháp cấp huyện để có bước đi và các biện pháp thích hợp nhằm khai thác thuận lợi, phát huy những kết quả đã được, khắc phục những hạn chế, tồn tại trong tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của địa phương và của ngành Tư pháp.

2. Mục tiêu của việc kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của phòng tư pháp cấp huyện

Mục tiêu tổng quát:

Quán triệt những quan điểm chỉ đạo của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, việc kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp nhằm mục tiêu Thống nhất về tổ chức Phòng Tư pháp cấp huyện trong cả nước, tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển,  đáp ứng yêu cầu triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của ngành Tư pháp, cải cách hành chính, quản lý nhà nước bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hội nhập khu vực và quốc tế.

Mục tiêu cụ thể:

1. Kiện toàn tổ chức Phòng Tư pháp, bảo đảm 100% huyện có Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương. Tuỳ theo khối lượng công việc, điều kiện cụ thể của từng vùng, miền, địa phương hình thành tổ chức, giao biên chế và cán bộ bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp ở địa phương.

2. Xác định cụ thể nội dung và thẩm quyền quản lý công tác tư pháp đổi mới cơ chế hoạt động, quy trình và phương thức làm việc, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu thực hiện chủ trương đẩy mạnh phân cấp cho địa phương.

3. Tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, có phẩm chất chính trị, đạo đức, thạo về chuyên môn, có năng lực triển khai trên thực tế các nhiệm vụ công tác tư pháp cấp huyện; nhận thức đầy đủ về mối quan hệ, ý nghĩa, tầm quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ của cán bộ tư pháp cấp huyện đối với việc thực thi các nhiệm vụ chung của ngành và địa phương.

3. Phương hướng và giải pháp cụ thể kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của phòng tư pháp cấp huyện

3.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện.

- Tiến hành sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức, cơ cấu chức danh của cơ quan tư pháp địa phương nói chung và cấp huyện nói riêng, cơ chế phối hợp thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp cấp huyện giữa Phòng Tư pháp với các cơ quan, đơn vị có liên quan.

- Sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật khác thuộc phạm vi, đối tượng quản lý của ngành Tư pháp như quốc tịch, thi hành án, hoà giải ở cơ sở, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý… theo hướng cụ thể, đồng bộ, thống nhất, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức triển khai thực hiện ở cơ sở.

3.2. Kiện toàn tổ chức, cán bộ Phòng Tư pháp cấp huyện.

- Căn cứ vào Nghị định số 172/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành lập lại Phòng Tư pháp đã bị sáp nhập vào cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

- Tiếp tục củng cố tổ chức Phòng Tư pháp trong phạm vi cả nước, tăng cường biên chế phù hợp với từng địa phương, vùng miền: cấp quận là 8-10 người, cấp huyện ở vùng đô thị và đồng bằng là 6-8 người, đối với huyện ít biên chế, thiếu cán bộ, số lượng cán bộ có thể từ 4-5 người. Cơ cấu công chức gồm có Trưởng phòng, Phó trưởng phòng và các công chức khác đảm nhận nhiệm vụ về xây dựng và tuyên truyền, phổ biến pháp luật; chứng thực; quản lý hộ tịch và hướng dẫn nghiệp vụ đối với tư pháp cấp xã.

- Thực hiện tuyển dụng những công chức có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực theo tiêu chuẩn, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ Phòng Tư pháp không ngừng học tập, rèn luyện; nâng cao chất lượng cho đội ngũ công chức tư pháp cấp huyện theo những hình thức, phương pháp phù hợp với điều kiện của địa phương đáp ứng yêu cầu triển khai công tác tư pháp cấp huyện và hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ đối với công tác tư pháp cơ sở.

3.3. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp uỷ, chính quyền địa phương và cơ quan tư pháp cấp trên đối với công tác tư pháp cấp huyện.

- Đề cao trách nhiệm của cấp uỷ và chính quyền địa phương đối với việc kiện toàn, củng cố cơ quan tư pháp cấp  huyện cũng như trong lãnh đạo và chỉ đạo công tác tư pháp cấp huyện.

- Cơ quan tư pháp cấp trên (Sở Tư pháp)  cần quan tâm đến việc chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Phòng Tư pháp, thường xuyên tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu thực tiễn, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ công tác tư pháp.

- Coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, đánh giá đúng chất lượng, hiệu quả công tác để khẳng định vị trí, vai trò của công tác tư pháp cấp huyện, giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện đồng thời để nâng cao nhận thức, thống nhất sự phối hợp hoạt động của các cấp, các ngành đối với công tác tư pháp ở cấp huyện.

- Đầu tư thoả đáng cho việc nghiên cứu định hướng, chiến lược xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan hành chính các cấp nói riêng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, với những giải pháp tổ chức thực hiện cụ thể. Cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cấp chính quyền, từng cơ quan trong bộ máy nhà nước từ đó hình thành tổ chức phù hợp.

3.4. Đổi mới cơ chế quản lý đối với tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp

- Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Sở Tư pháp  trong quản lý tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện, đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành bảo đảm sự quản lý thống nhất, thông suốt và phát huy được tính chủ động, sáng tạo của Phòng Tư pháp trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao.

- Thực hiện đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà  nước về công tác tư pháp cho cấp huyện, cấp xã và xác định rõ hơn nội dung quản lý nhà nước cụ thể của mỗi cấp.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, đánh giá tình hình và kết quả hoạt động của tư pháp cấp huyện, từng bước mở rộng các hình thức giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện. Khi phát hiện có vi phạm pháp luật cần xử lý kịp thời, nghiêm minh tổ chức, cá nhân có vi phạm, công khai hoá kết quả xử lý nhằm mục đích phòng ngừa, và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật.

3.5. Đổi mới phương thức hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện.

a) Hoàn thiện cơ chế hoạt động, cải tiến lề lối làm việc.

b) Thực hiện nghiêm túc chế độ sơ kết, định kỳ 6 tháng và tổng kết hàng năm.

c) Xây dựng cơ chế và bảo đảm sự phối hợp giữa Phòng Tư pháp với các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp như công tác xây dựng văn bản, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật

3.6. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện

- Đổi mới công tác đánh giá cán bộ, gắn đánh giá với quy hoạch, bố trí và sử dụng cán bộ.

- Xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện.

- Thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, tiến hành phân loại và xác định các biện pháp để từng bước thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ.

- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các chế độ, chính sách phù hợp với công chức tư pháp bảo đảm mối quan hệ hợp lý giữa tiền lương với chức năng, nhiệm vụ đang đảm nhận.

3.7. Bảo đảm nguồn kinh phí phục vụ hoạt động của Tư pháp cấp huyện.

- Cần xác định rõ khoản kinh phí cho các hoạt động của tư pháp cấp huyện là một bộ phận của ngân sách cấp huyện để Phòng Tư pháp chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai các hoạt động tư pháp ở địa phương.

- Cần có biện pháp và cơ chế động viên, khuyến khích, phát huy nguồn nhân lực, tài lực ở địa phương vào việc thực hiện công tác tư pháp ở cơ sở./.

 

Nội dung toàn văn

CHƯƠNG I

VỊ TRÍ, VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA PHÒNG TƯ PHÁP CẤP HUYỆN

 

I. VÀI NÉT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÒNG TƯ PHÁP CẤP HUYỆN.

Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ nhân dân đã ra đời.  Ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời ra Tuyên cáo công bố danh sách nội các thống nhất quốc gia, trong số mười ba bộ trưởng đầu tiên có Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Theo đó, hệ thống các cơ quan Tư pháp từ trung ương đến cơ sở đã được hình thành và phát triển. Ngày 28/8/1945 đã trở thành ngày truyền thống của ngành Tư pháp.

Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển từ khi ngành Tư pháp của nhà nước dân chủ Việt Nam ra đời năm 1945 theo Tuyên cáo ngày 28 tháng 8 năm 1945, chúng ta có thể thấy với vị trí là  một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, cùng với những bước thăng trầm trong quá trình tồn tại là sự không ổn định và thống nhất về  mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện.

1. Giai đoạn 1945 đến năm 1959:

Trong các Sắc lệnh đầu tiên thiết lập mô hình tổ chức của chính quyền địa phương (Sắc lệnh số 63-SL ngày 23/11/1945, Sắc lệnh số 77-SL ngày 21/12/1945, Sắc lệnh của Chủ tịch nước số 13 ngày 24/1/1946) cũng như quy định tại Hiến pháp năm 1946, tổ chức chính quyền địa phương gồm cấp kỳ, tỉnh, huyện và xã. Thời kỳ này cấp huyện được coi là cấp chính quyền trung gian, với mô hình tổ chức chỉ có Uỷ ban hành chính đảm nhận những nhiệm vụ có tính chất truyền tải những nội dung, yêu cầu quản lý từ cấp tỉnh tới cơ sở ví dụ như kiểm soát sự thi hành mệnh lệnh của các cấp trên, kiểm soát các Uỷ ban hành chính xã và các Hội đồng nhân dân xã; thủ tiêu những quyết nghị của Hội đồng nhân dân xã trái với chỉ thị của các cấp trên hay trái với quyền lợi của nhân dân xã… Điều 79 Sắc lệnh số 63 về tổ chức của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân địa phương quy định “ở cấp huyện phân công theo năng lực của Uỷ viên”.

Theo quy định tại Nghị định số 37 ngày 1/12/1945 về tổ chức của Bộ Tư pháp, Sắc lệnh số 63-SL ngày 23/11/1945, Thông tư số 12B NV-CT ngày 29/12/1946 giải thích rõ công việc tư pháp trong một khu, địa vị và nhiệm vụ của Giám đốc Tư pháp và Sắc lệnh của Chủ tịch nước số 13 ngày 24/1/1946, hệ thống cơ quan tư pháp gồm có Bộ Tư pháp (trung ương), Sở Tư pháp (cấp tỉnh) và Ban Tư pháp (cấp xã). Công việc hành chính, tư pháp được giao cho Uỷ ban hành chính hoặc Toà án nhân dân cùng cấp đảm nhận. Cụ thể như sau:

- Công tác xét xử: căn cứ vào Sắc lệnh ngày 13/9/1945 về thiết lập các toà án quân sự, Uỷ ban Hành chính cấp huyện tạm thời thực hiện xét xử các vụ án dân sự và một số các vụ án hình sự do Toà án quân sự không thể đảm nhiệm xét xử tất cả các vụ án dân sự và hình sự. Khi Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 quy định về tổ chức các Toà án, Sắc lệnh số 22B ngày 18/2/1946, Thông tư số 21/TTg ngày 7/5/1950 được ban hành, Uỷ ban hành chính huyện được coi như là Toà án sơ thẩm ở những nơi chưa thành lập được Toà án. Uỷ ban hành chính có thể điều khiển Công tố viên trong địa hạt mình trước Toà án thường cũng như Toà án đặc biệt; vạch đường lối xét xử cho từng thời kỳ nhất định hoặc từng vụ án (tuy nhiên, Toà án không nhất thiết phải tuân theo); giao cho công tố viện kháng cáo lên Toà án trên.

- Công tác Thi hành án: Theo Sắc lệnh số 153 ngày 19/7/1946, Sắc lệnh số 254 ngày 19/1/1948 và Sắc lệnh số 85 ngày 22/11/1950, công tác thi hành án cấp huyện do Toà án nhân dân cấp huyện thực hiện.

- Công tác hộ tịch: Nghị định số 764/TTg ngày 8/5/1956  quy định Uỷ ban hành chính cấp huyện quản lý công tác đăng ký hộ tịch của các Uỷ ban hành chính cấp xã thuộc phạm vi địa bàn của mình.

- Công tác công chứng: Sắc lệnh số 59/SL ngày 15/11/1945 ấn định thể lệ việc thị thực các giấy tờ và Sắc lệnh số 85/SL ngày 25/9/1952 quy định thể lệ trước bạ về việc mua, bán, cho đổi nhà cửa ruộng đất quy định một số việc chứng nhận các giấy tờ do Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp thực hiện.

2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1972

Do yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, theo quy định của Hiến pháp 1959 và các Luật về tổ chức bộ máy Nhà nước, trong tổ chức Chính phủ không có Bộ Tư pháp, ở UBND cấp tỉnh và cấp huyện không có các cơ quan Tư pháp. Giai đoạn này cũng thể hiện sự gián đoạn trong quá trình phát triển của ngành tư pháp với sự giải thể Bộ Tư pháp.

Công tác tư pháp cấp huyện do nhiều cơ quan thực hiện, trong đó chủ yếu là Tòa án nhân dân cấp huyện. Luật Tổ chức Toà án nhân dân 1960 và Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Toà án nhân dân tối cao và tổ chức của các Toà án nhân dân địa phương ngày 30/3/1961 thì Toà án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp và hướng dẫn công tác hoà giải ở các thị trấn và xã; tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân. Chánh án Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có nhiệm vụ hướng dẫn công tác tư pháp ở các thị trấn và xã; chỉ đạo công tác xây dựng tổ chức tư pháp ở địa phương và công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân.

3. Giai đoạn từ năm 1972 đến năm 1981

Nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, Nhà nước ta đã thành lập Uỷ ban Pháp chế thuộc Hội đồng Chính phủ. Theo Nghị định số 190/CP ngày 9/10/1972, Uỷ ban pháp chế có nhiệm vụ về xây dựng pháp luật, đào tạo cán bộ pháp lý, tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật, theo dõi việc thi hành pháp luật; theo dõi, hướng dẫn hoạt động của pháp chế ngành, phụ trách công tác hành chính tư pháp, nghiên cứu khoa học, tổng kết công tác pháp lý.

Điều 5 Nghị định số 190/CP quy định, hệ thống các cơ quan pháp chế được thành lập ở các cấp. Cấp tỉnh có Sở pháp chế, Ty pháp chế; cấp huyện có Phòng hoặc Tổ pháp chế; cấp xã có Tổ pháp chế hoặc cán bộ pháp chế.

Đến giai đoạn này, ở cấp huyện đã hình thành một cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện về công tác pháp chế, đây chính là tiền thân của Phòng Tư pháp.

Tuy nhiên, do điều kiện, hoàn cảnh về kinh tế, xã hội nên việc thành lập hệ thống các cơ quan pháp chế từ trung ương đến cơ sở gặp nhiều khó khăn, Nghị định số 190/CP cũng chỉ rõ “Việc thực hiện hệ thống tổ chức pháp chế sẽ được tiến hành từng bước, tuỳ theo tình hình của mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi cơ sở, theo phương châm gọn nhẹ và có hiệu lực thực sự”. Trong điều kiện như vậy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan pháp chế ở địa phương trong đó có Phòng Tư pháp cấp huyện cũng chưa được quy định cụ thể, rõ ràng.

4. Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1992

Sau khi miền Nam giải phóng, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã xác định quản lý nhà nước bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngày 22/11/1981, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 143/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp. Theo Nghị định này, cùng với việc thành lập Bộ Tư pháp là việc kiện toàn, củng cố các cơ quan tư pháp địa phương.

Cơ quan tư pháp địa phương với vị trí, vai trò là cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp các công tác tư pháp đã được thành lập ở cả 3 cấp: cấp tỉnh có Sở Tư pháp, cấp huyện có Phòng Tư pháp và cấp xã là Ban Tư pháp. Theo Thông tư số 08/TT ngày 6/11/1982 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện Nghị định 143/HĐBT của Hội đồngBộ trưởng, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Ban Tư pháp cấp huyện, quận, thị xã và cấp tương đương được quy định như sau:

- Tham gia ý kiến về mặt pháp lý các văn bản do các cơ quan trong huyện trình Uỷ ban nhân dân huyện ban hành. Dự thảo các văn bản pháp quy do Uỷ ban nhân dân huyện trực tiếp giao cho.

- Thẩm tra tính hợp pháp của các văn bản do các cơ quan thuộc cấp huyện ban hành. Thẩm tra tính hợp pháp của các bản nội quy hợp tác xã nông nghiệp. Kiến nghị với Uỷ ban nhân dân sự việc và báo cáo với Sở Tư pháp về các văn bản, các nội quy trái pháp luật, vi phạm thẩm quyền.

- Chỉ đạo công tác của các Ban Tư pháp xã, phường. Trong thời gian trước mắt cần chỉ đạo việc thành lập việc thành lập các Ban Tư pháp xã và hướng dẫn cho các ban này về nghiệp vụ, xây dựng nền nếp trong hoạt động của Ban Tư pháp xã.

Theo dõi và rút kinh nghiệm về hoạt động của các tổ hoà giải, xã, phường để kiện toàn, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ hoà giải. Trong việc này, Ban Tư pháp cấp huyện cần phối hợp chặt chẽ với Toà án nhân dân huyện và các ơ quan có liên quan ở cấp huyện;

- Quản lý các công tác tư pháp khác như công tác bào chữa trước Toà án nhân dân huyện và công tác công chứng, hội thẩm nhân dân theo sự phân công của Sở Tư pháp.

- Chấp hành các án dân sự và hôn nhân gia đình, do Tòa án huyện xét xử hoặc do Toà án tỉnh uỷ nhiệm;

- Tập hợp văn bản pháp luật của nhà nước và tư liệu pháp lý của cơ quan cấp trên để thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục trong cán bộ và nhân dân. Xây dựng các xóm, xã, hợp tác xã điển hình tuân theo pháp luật;

- Hướng dẫn và giúp đỡ về mặt pháp lý cho các hợp tác xã nông nghiệp và thủ công nghiệp.

- Giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện công tác đăng ký hộ tịch theo quy định tại Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng.

Về tổ chức, Phòng Tư pháp cấp huyện được phân thành các tổ công tác phụ trách theo mảng công việc.

Như vậy, từ năm 1981 chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu và tổ chức của Phòng Tư pháp cấp huyện đã được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật. Phòng Tư pháp cấp huyện vừa là cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp các công tác tư pháp ở địa phương, đồng thời là mắt xích trong hệ thống các cơ quan tư pháp, giúp cơ quan tư pháp cấp trên trong việc triển khai các công tác tư pháp.

Tuy vậy, trong thực tế, từ năm 1989, thực hiện chủ trương tinh giản biên chế và giảm đầu mối tổ chức,  một số tỉnh đã giải thể Sở Tư pháp chuyển thành Phòng Tư pháp hoặc tổ chuyên viên trực thuộc Uỷ ban nhân dân, Phòng Tư pháp cấp huyện sáp nhập vào cơ quan chuyên môn khác của Uỷ ban nhân dân hoặc chỉ để 1-2 cán bộ tư pháp làm việc trực tiếp với chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, thậm chí có nơi bố trí nửa biên chế làm công tác tư pháp. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho công tác tư pháp gặp nhiều khó khăn, không hiệu quả và không đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ công tác ở địa phương.

5. Giai đoạn từ năm 1992 đến nay

Hiến pháp 1992 ra đời trên cơ sở những thành tựu bước đầu của công cuộc đổi mới theo chủ trương của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 21/6/1994 quy định: các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ở địa phương và bảo đảm sự thống nhất quản lý nhà nước trong phạm vi ngành, lĩnh vực từ Trung ương đến cơ sở. Trước yêu cầu mới, nhiệm vụ mới, hệ thống các cơ quan tư pháp nói chung và Phòng Tư pháp cấp huyện nói riêng đã được kiện toàn và củng cố một bước bảo đảm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao.

Theo quy định của Nghị định 38/CP ngày 4/6/1993 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp và các văn bản pháp luật khác như Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Nghị định số 83/1998/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký hộ tịch, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 18/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực, Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở, Nghị định số 160/1999/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Pháp lệnh hoà giải ở cơ sở… đã khẳng định chức năng, nhiệm vụ của Phòng Tư pháp cấp huyện trong việc giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý công tác tư pháp ở địa phương và là một mắt xích của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm sự thống nhất quản lý nhà nước về công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở.

Ngày 27/3/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2001/NĐ-CP quy định về sắp xếp tổ chức các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân các cấp. Thực hiện Nghị định số 12/2001/NĐ-CP, ở một số địa phương đã tiếp tục quan tâm kiện toàn, củng cố Phòng Tư pháp đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ công tác tư pháp trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xác định trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Tuy nhiên trong quá trình triển khai Nghị định số 12/2001/NĐ-CP, một số tỉnh đã sáp nhập Phòng Tư pháp cấp huyện vào Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Việc sáp nhập này đã gây khó khăn trong việc triển khai thực hiện các công tác tư pháp; nhiều hoạt động tư pháp cấp huyện ở những địa phương này đã giảm sút về chất lượng và hiệu quả nhất là trong việc hướng dẫn nghiệp vụ cho Ban Tư pháp cơ sở, thi hành án dân sự, chứng thực.

Trước tình hình đó, nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò và nhiệm vụ của Phòng Tư pháp trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trong giai đoạn hiện nay, ngày 29/9/2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 172/2004/NĐ-CP quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Nghị định này đã xác định Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện được tổ chức thống nhất trong cả nước, thực hiện tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, chứng thực, hộ tịch, trợ giúp pháp lý, hoà giải ở cơ sở và các công tác tư pháp khác.

II. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA PHÒNG TƯ PHÁP CẤP HUYỆN

1. Vị trí, vai trò của Phòng Tư pháp cấp huyện

Quản lý các công tác tư pháp là một trong những lĩnh vực trọng tâm trong quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính các cấp nói chung và của Uỷ ban nhân dân cấp huyện nói riêng. Theo quy định tại Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, trong lĩnh vực thi hành pháp luật, Uỷ ban nhân dân cấp huyện có các nhiệm vụ, quyền hạn sau:

1. Chỉ đạo, tổ chức công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiểm tra việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;

2. Tổ chức thực hiện và chỉ đạo Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện các biện pháp bảo vệ tài sản của nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, bảo vệ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân;

3. Chỉ đạo công tác hộ tịch trên địa bàn;

4. Tổ chức, chỉ đạo thực hiện công tác thi hành án theo quy định của pháp luật;

5. Tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra nhà nước, tổ chức tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân, hướng dẫn công tác hoà giải ở xã, phường, thị trấn.

Để giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện triển khai thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao, trong tổ chức bộ máy của Uỷ ban nhân dân cấp huyện hình thành cơ quan chuyên môn với tên gọi là Phòng Tư pháp. Trải qua 60 năm xây dựng và phát triển, tổ chức của Phòng Tư pháp cấp huyện đã từng bước được củng cố, đội ngũ cán bộ được tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng bảo đảm hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Với vị trí là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Phòng Tư pháp cấp huyện đã và đang phải đảm nhận một khối lượng công việc lớn trong các lĩnh vực công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực hiện pháp luật. Bằng kết quả hoạt động trong thực tiễn, Phòng Tư pháp cấp huyện đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong đời sống xã hội, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Đồng thời, trong hệ thống tổ chức ngành Tư pháp, Phòng Tư pháp cấp huyện là một mắt xích quan trọng, có trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện phương hướng, chương trình, kế hoạch công tác của các cơ quan Tư pháp cấp trên. Phòng Tư pháp cấp huyện thực hiện nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ đối với công tác tư pháp cấp xã nhằm bảo đảm chất lượng và hiệu quả hoạt động tư pháp ở cấp cơ sở và góp phần bảo đảm việc triển khai thống nhất công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở. Bên cạnh đó, Phòng Tư pháp còn đảm nhận những nhiệmn vụ công tác tư pháp với những đòi hỏi cao về chuyên môn, nghiệp vụ. Theo quy định tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực, Phòng Tư pháp cấp huyện được giao thực hiện một số nhiệm vụ chứng thực thuộc phạm vi thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng quy định Trưởng phòng Tư pháp là thành viên của Hội đồng tư vấn đưa vào trường giáo dưỡng và Hội đồng tư vấn đưa vào cơ sở chữa bệnh. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2004 và Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật đã quy định cụ thể trách nhiệm của Phòng Tư pháp trong việc kiểm tra và xử lý văn bản trái pháp luật.

Trong giai đoạn hiện nay, để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam, Phòng Tư pháp đã được giao thêm nhiều nhiệm vụ mới, nhiều nhiệm vụ được mở rộng, tăng cường với những yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao về tiến độ và chất lượng. Nhận thức được vị trí, vai trò của Phòng Tư pháp cấp huyện, ngày 29/9/2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 172/2004/NĐ-CP trong đó khẳng định Phòng Tư pháp cấp huyện là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân được tổ chức thống nhất trong phạm vi cả nước. Yêu cầu đặt nhiệm vụ trên đòi hỏi phải tiếp tục củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện để bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.

2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tư pháp cấp huyện

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Nghị định số 172/29004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ, ngày 5/5/2005, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp. Theo quy định tại Thông tư này, Phòng Tư pháp là cơ quan giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước về công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, chứng thực, hộ tịch, trợ giúp pháp lý, hoà giải ở cơ sở và công tác tư pháp khác theo quy định  của pháp luật. Cụ thể như sau:

2.1. Về công tác xây dựng pháp luật

Để kịp thời tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước ở địa phương, theo quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Uỷ ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền ban hành các văn bản dưới hình thức quyết định, chỉ thị. Các văn bản này phải được ban hành đúng thẩm quyền, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất, phù hợp với tình hình chính trị, kinh tế, xã hội ở địa phương. Để đáp ứng yêu cầu này, Phòng Tư pháp cấp huyện được giao nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước về công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật với những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau:

a. Trình Uỷ ban nhân dân cấp huyện các văn bản để tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ và pháp luật về quản lý công tác tư pháp trên địa bàn cấp huyện;

b. Thẩm định và chịu trách nhiệm trước Uỷ ban nhân dân cấp huyện về nội dung thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do Uỷ ban nhân dân cấp huyện ban hành theo quy định pháp luật.

c. Tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật, pháp lệnh theo sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp huyện và hướng dẫn của Sở Tư pháp;

d. Rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật do Hội dodòng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện ban hành.

Trong những năm gần đây, cùng với việc không ngừng đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, các hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư đã góp phần hỗ trợ không nhỏ trong việc thực hiện pháp luật của Nhà nước, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội mang tính tự quản tại cộng đồng dân cư ở cơ sở. Để các hương ước, quy ước phát huy được vai trò tích cực trong đời sống xã hội, việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước phải bảo đảm phù hợp với những phong tục, tập quán tốt đẹp, loại trừ những tập tục lạc hậu. Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg ngày 19/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước ở làng, thôn, bản, ấp và cụm dân cư, Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003 của Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đã quy định trách nhiệm của Phòng Tư pháp trong việc phối hợp với Phòng Văn hoá - Thông tin giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước đối với việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước; thẩm định hương ước, quy ước trước khi trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phê duyệt. Trong trường hợp hương ước, quy ước không được phê duyệt do chưa đảm bảo thủ tục soạn thảo, thông qua, phê duyệt hương ước, quy ước hoặc do nội dung không phủ hợp với quy định của pháp luật, Phòng Tư pháp có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Phòng Văn hoá - thông tin hướng dẫn chỉnh lý, hoàn thiện lại các hương ước, quy ước đó.

2.2. Về kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật

Để đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật, các địa phương đã ban hành ngày càng nhiều các văn bản quy phạm pháp luật để tổ chức thực hiện các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Trong số này có không ít những văn bản được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức và nội dung quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; một số văn bản sau một thời gian thực hiện đã không còn phù hợp do tình hình kinh tế - xã hội thay đổi hoặc do có văn bản mới của cơ quan nhà nước cấp trên.

Để phát hiện, xử lý kịp thời các văn bản trái pháp luật nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, đồng bộ, thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và tăng cường trật tự, kỷ cương trong công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nghị định số 135/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/11/2003 về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật đã quy định Phòng Tư pháp giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước về công tác kiểm tra văn bản với những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể như sau:

a. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra văn bản ở địa phương;

b. Đôn đốc, chỉ đạo công tác kiểm tra văn bản ở địa phương;

c. Sơ kết, tổng kết, tổ chức công tác kiểm tra văn bản của địa phương; định kỳ 6 tháng và hàng năm báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp huyện về công tác kiểm tra văn bản;

d. Phối hợp và tạo điều kiện để các cơ quan kiểm tra văn bản kiểm tra theo thẩm quyền;

đ. Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra văn bản; tổ chức và quản lý đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản tại địa phương; tổ chức nghiên cứu khoa học về kiểm tra văn bản;

e. Tổ chức mạng lưới thông tin, xây dựng và quản lý hệ cơ sở dữ liệu phục vụ việc kiểm tra văn bản;

g. Khen thưởng, kỷ luật và đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng, kỷ luật các cán bộ, công chức và cộng tác viên trong công tác kiểm tra văn bản ở địa phương mình; khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân phát hiện và đề nghị hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện kiểm tra và xử lý văn bản có dấu hiệu trái pháp luật;

h. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về kiểm tra văn bản theo thẩm quyền.

2.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật

Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý xã hội, là phương tiện để công dân thực hiện quyền làm chủ của mình, là công cụ để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Yêu cầu đặt ra là cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là việc tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống xã hội một cách hiệu quả, phát huy tác dụng tích cực trong công cuộc đổi mới đất nước đã và đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối đề chuyển tải pháp luật vào cuộc sống, để cho tất cả các cơ quan, tổ chức và đoàn thể xã hội biết và sử dụng một cách có hiệu quả công cụ, phương tiện đó. Đây là một quá trình tác động thường xuyên, liên tục và lâu dài của chủ thể lên đối tượng giáo dục. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã khẳng định: “Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần được tăng cường thường xuyên, liên tục và ở tầm cao hơn nhằm làm cho cán bộ và nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, thông qua đó mà kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật”.

Những năm vừa qua, các cơ quan tư pháp luôn được coi là một kênh để truyền tải thông tin pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống, là cầu nối, mắt xích quan trọng giữa Nhà nước và quần chúng nhân dân trong việc nâng cao hiểu biết và ý thức pháp luật, hình thành niềm tin và thói quen chấp hành pháp luật của công dân. Phòng Tư pháp cấp huyện được giao trách nhiệm là đầu mối giúp Uỷ ban nhân dân trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa phương, có các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau:

a. Xây dựng các chương trình, kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật của địa phương trình Uỷ ban nhân dân cấp huyện và hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các chương trình, kế hoạch đó;

b. Thường trực Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cấp huyện;

c. Xây dựng đội ngũ báo cáo viên pháp luật cấp huyện và hướng dẫn việc xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật cấp xã;

d. Hướng dẫn công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp xã;

đ. Hướng dẫn, kiểm tra việc xây dựng, quản lý và khai thác, sử dụng Tủ sách pháp luật ở địa phương;

g. Sơ kết, tổng kết công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa phương;

h. Thực hiện chế độ báo cáo về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo quy định của pháp luật.

2.4. Về thi hành án dân sự

Thi hành án dân sự là một hoạt đông thể hiện quyền Tư pháp của Nhà nước nhằm bảo đảm tính hiệu lực của các bản án, quyết định của Toà án, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế - xã hội. Điều 136 Hiến pháp 1992 quy định “Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh thi hành”. Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, việc tổ chức thi hành án thuộc trách nhiệm của các cơ quan thi hành án và chấp hành viên, cơ quan tư pháp các cấp, trong đó có Phòng Tư pháp cấp huyện chỉ tham gia với vai trò là cơ quan phối hợp trong việc tổ chức thi hành án dân sự trong phạm vi địa phương.

Theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 28/1/2004, Phòng Tư pháp là cơ quan có chức năng giúp Uỷ ban nhan dân cùng cấp quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:

- Giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch công tác thi hành án dân sự;

- Tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị ở địa phương theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự và lợi ích của nhà nước;

- Giúp Uỷ ban nhân dân chỉ đạo sự phối hợp giữa cơ quan thi hành án, các cơ quan chuyên môn với các đoàn thể liên quan trên địa bàn trong công tác thi hành án;

- Tổ chức kiểm tra hoạt động của cơ quan thi hành án huyện trên địa bàn.

- Thường trực Ban chỉ đạo Thi hành án cấp huyện.

Chỉ thị số 20/2001/CT-TTg ngày 11/9/2001 về tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự và Quyết định số 96/2002/QĐ-BTP ngày 22/3/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện đã xác định Trưởng phòng Tư pháp là Phó trưởng ban thường trực Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự cấp huyện, có các nhiệm vụ, quyền hạn sau:

a. Thường trực Ban chỉ đạo, thay mặt Trưởng ban chỉ đạo điều hành hoạt động của Ban chỉ đạo khi Trưởng ban vắng mặt hoặc khi được Trưởng ban uỷ quyền;

b. Giúp Trưởng ban chỉ đạo và chịu trách nhiệm về những công việc đã được Trưởng ban chỉ đạo giao;

c. Trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định biện pháp chỉ đạo thi hành án dân sự tại địa phương sau khi có ý kiến kết luận cuộc họp của Ban chỉ đạo;

d. Đôn đốc cơ quan thi hành án, các cơ quan, tổ chức hữu quan thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện về thi hành án dân sự tại địa phương.

- Hướng dẫn, kiểm tra Uỷ ban nhân dân cấp xã trong việc thi hành án dân sự

Thực hiện Chỉ thị số 20/2001/CT-TTg ngày 11/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan thi hành án dân sự địa phương đã tiến hành chuyển giao một số vụ việc thi hành án có giá trị không quá 500.000 đồng cho Uỷ ban nhân dân cấp xã trực tiếp đôn đốc thi hành. Để bảo đảm việc thi hành án được thực hiện theo đúng thẩm quyền, trình tự và thủ tục luật định, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Phòng Tư pháp có trách nhiệm cùng với cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện hướng dẫn và kiểm tra Uỷ ban nhân dân cấp xã trong việc thi hành án như thủ tục ra quyết định, lập và giao nhận hồ sơ chuyển giao cho Uỷ ban nhân dân cấp xã; trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp xã; cơ chế quản lý tài chính đối với các vụ việc thi hành án do Uỷ ban nhân dân cấp xã trực tiếp đôn đốc thi hành và kinh phí tổ chức cưỡng chế thi hành án...

2.5. Chứng thực

Chứng thực là việc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định. Trong những năm gần đây, trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại thì nhu cầu của nhân dân trong việc chứng thực các văn bản, tài liệu ngày càng phát sinh với khối lượng lớn. Để đáp ứng nhu cầu trên và tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng thực, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực đã quy định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước và thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân các cấp. Trong đó, Phòng Tư pháp có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước về chứng thực, cụ thể như sau:

1. Hướng dẫn, kiểm tra hoạt động chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã;

2. Giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện giải quyết khiếu nại, tố cáo về chứng thực theo thẩm quyền và trình tự, thủ tục quy định tại Điều 66 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP;

3. Tổng hợp tình hình và thống kê số liệu về chứng thực để báo cáo Sở Tư pháp theo định kỳ 6 tháng và hàng năm.

Nghị định số 75/2000/NĐ-CP quy định Trưởng Phòng Tư pháp có trách nhiệm chứng thực các việc theo sự uỷ quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, bao gồm:

- Chứng thực bản sao giấy tờ, văn bằng, chứng chỉ bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài;

- Chứng thực chữ ký của công dân Việt Nam trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch dân sự trong nước;

- Chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản theo thẩm quyền địa hạt quy định tại Khoản 2 Điều 23 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP;

- Chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến động sản có giá trị dưới 50 triệu đồng;

- Chứng thực văn bản thoả thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản;

- Các việc khác theo quy định của pháp luật.

2.6. Về công tác hộ tịch

Quản lý hộ tịch là công việc của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện để theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tạo cơ sở xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình.

Điều 10 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch quy định: Phòng Tư pháp giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện quản lý hộ tịch trong phạm vi địa phương, có nhiệm vụ, quyền hạn như sau:

a. Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác đăng ký và quản lý hộ tịch trong địa phương mình;

b. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các quy định của pháp luật về hộ tịch;

c. Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp - hộ tịch trong địa phương mình;

d. Tổng hợp tình hình và báo cáo, thống kê các số liệu hộ tịch cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh theo định kỳ sáu tháng và hàng năm.

đ. Quản lý việc sử dụng các loại sổ sách, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ Tư pháp.

2.7. Về hoà giải ở cơ sở

Hoà giải ở cơ sở là một truyền thống tốt đẹp, góp phần củng cố, gìn giữ khối đoàn kết cộng đồng, xây dựng tình tương thân, tương ái của dân tộc Việt nam. Tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở còn là một hình thức phát huy dân chủ của nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn nói riêng và trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội nói chung. Để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi để công tác hoà giải ở cơ sở phát huy hơn nữa vai trò và ý nghĩa của mình trong đời sống xã hội, trong Pháp lệnh Tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở ngày 25/12/1998, Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18/10/1999 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh này đã xác định cụ thể các nội dung và trách nhiệm quản lý nhà nước về hoà giải ở cơ sở của Bộ Tư pháp và Uỷ ban nhân dân các cấp. Khoản 2 Điều 6 Nghị định số 160/1999/NĐ-CP đã quy định trách nhiệm của Phòng Tư pháp trong việc giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước về hoà giải ở cơ sở, cụ thể như sau:

a. Theo sự chỉ đạo của cơ quan tư pháp cấp trên và Uỷ ban nhân dân cấp huyện, hướng dẫn các Ban Tư pháp triển khai thực hiện các quy định về công tác hoà giải ở địa phương; đề xuất với Uỷ ban nhân dân cấp huyện biện pháp kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động hoà giải ở địa phương;

b. Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ hoà giải ở địa phương theo hướng dẫn của cơ quan tư pháp cấp trên;

c. Sơ kết, tổng kết công tác hoà giải của Tổ hoà giải ở địa phương và báo cáo về công tác hoà giải với Uỷ ban nhân dân cấp huyện và cơ quan tư pháp cấp trên; tổ chức thi đua, khen thưởng công tác hoà giải của Tổ hoà giải ở địa phương.

2.8. Các nhiệm vụ cụ thể khác

Ngoài các nhiệm vụ cụ thể nói trên, Phòng Tư pháp cấp huyện còn thực hiện những nhiệm công tác tư pháp cụ thể như sau:

- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ đối với công tác tư pháp cấp xã, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của tư pháp cấp xã và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp cấp xã.

Theo quy định tại Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2004 của Chính phủ về cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và Nghị định số 11/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn, Phòng Tư pháp có trách nhiệm phối hợp với Phòng Tổ chức chính quyền cấp huyện trong việc tuyển chọn và quản lý đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ này đủ về số lượng, vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao.

- Trưởng Phòng Tư pháp cấp huyện là thành viên của Hội đồng tư vấn về việc đưa vào trường giáo dưỡng và Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở chữa bệnh ở cấp huyện.

Ngoài các hình thức xử phạt vi phạm hành chính (cảnh cáo, phạt tiền, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính) và các biện pháp xử lý khác được áp dụng kèm theo (như buộc khôi phục lại tình trạng bạn đầu, buộc bồi thường thiệt hại …), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính còn quy định các biện pháp xử lý hành chính khác. Các biện pháp này bao gồm: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh và quản chế hành chính. Điều 29 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định việc đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở chữa bệnh. Để bảo đảm việc áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính này được đúng đối tượng, đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện thành lập Hội đồng tư vấn với thành viên là người đứng đầu các cơ quan chuyên môn có liên quan ở cấp huyện. Trong đó, theo quy định tại Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Trưởng Phòng Tư pháp là một trong số các thành viên của Hội đồng tư vấn về việc đưa vào trường giáo dưỡng và Hội động tư vấn về việc đưa vào cơ sở chữa bệnh ở cấp huyện.

- Nghị định số 34/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002 của Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục và chế độ cai nghiện đối với người nghiện ma tuý đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Trưởng phòng Tư pháp là thành viên Hội đồng tư vấn để giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện xét duyệt hồ sơ đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

- Trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách.

Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân, có mục đích bảo vệ pháp chế, bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội và của công dân. Công tác này là một bộ phận quan trọng trong tổng thể chính sách thực hiện dân chủ ở cơ sở, tăng cường kỷ cương, phép nước và thực hiện công bằng xã hội. Chỉ thị số 05/2001/CT-TTg ngày 1/3/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác trợ giúp pháp lý đã xác định trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc chỉ đạo sử dụng mạng lưới cộng tác viên, mở rộng và nâng cao chất lượng phục vụ hoạt động trợ giúp pháp lý đến cấp huyện và cấp xã để người nghèo và đối tượng chính sách ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao thực sự nhận được sự trợ giúp pháp lý. Căn cứ Nghị định số 172/2004/NĐ-CP và để thực hiện Chỉ thị số 05/2001/CT-TTg, Phòng Tư pháp được giao nhiệm vụ trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách.

 

Hiến pháp 1992 khẳng định Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Để quản lý xã hội bằng pháp luật, cùng với việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật thì việc tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống thực tiễn là hết sức quan trọng. Việc Nghị định số 172/2004/NĐ-CP quy định Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện được tổ chức thống nhất trong cả nước đã khẳng định vị trí, vai trò của Phòng Tư pháp cấp huyện trong quá trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời, Nghị định này cũng là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc củng cố, kiện toàn Phòng Tư pháp đáp ứng với yêu cầu xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại…đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.

 

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA PHÒNG TƯ PHÁP CẤP HUYỆN

 

I. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC, CÁN BỘ CỦA PHÒNG TƯ PHÁP CẤP HUYỆN

1. Về tổ chức

Theo báo cáo của 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tính đến ngày 31/12/2002, trong tổng số 631 huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, có 140 Phòng Tư pháp cấp huyện (chiếm 22,1%) ở 16 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã bị sáp nhập vào cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân. Sau khi Quốc hội có Nghị quyết về việc chia tách và thành lập một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ưưong, tính đến ngày 31/12/2004, cả nước có 659 huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và số lượng các Phòng Tư pháp bị sáp nhập vào cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện không có sự thay đổi. Ở các tỉnh, thành phố mới được hình thành, Phòng Tư pháp được xác định trong cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

Số lượng cán bộ trung bình của 01 Phòng Tư pháp là 3,13 cán bộ, trong đó nhiều Phòng Tư pháp 5-7 cán bộ như Phòng Tư pháp thị xã Lào Cai tỉnh Lào Cai, Phòng Tư pháp thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, Phòng Tư pháp cấp huyện của Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Thuận, tỉnh Quảng Nam, tỉnh Đồng Nai… Phòng Tư pháp có nhiều cán bộ nhất là Phòng Tư pháp Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh với 09 cán bộ.

Trong số 16 địa phương đã sáp nhập Phòng Tư pháp thì có 08 tỉnh, thành phố đã sáp nhạp hoàn toàn Phòng Tư pháp vào Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Từ thực tiễn hoạt động cho thấy, do không có đầu mối Phòng Tư pháp nên việc triển khai thực hiện công tác tư pháp ở những địa phương này gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật ở địa phương. Do vậy, thành phố Hồ Chí Minh sau khi thí điểm sáp nhập một số Phòng Tư pháp vào Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đã quyết định thành lập lại Phòng Tư pháp ở những quận, huyện đó.

Ngày 29/9/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 172/2004/NĐ-CP trong đó quy định Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân được tổ chức thống nhất trong cả nước. Quy định này đã không chỉ khẳng định vị trí, vai trò của Phòng Tư pháp trong hệ thống các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện mà còn là cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện việc kiện toàn, củng cố Phòng Tư pháp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Ngay sau khi Nghị định số 172/2004/NĐ-CP được ban hành, các Phòng Tư pháp về cơ bản đã được thành lập lại, kiện toàn tổ chức, tăng cường cán bộ để thực hiện các nhiệm vụ được giao.

2. Về cán bộ

2.1. Số lượng cán bộ

Theo báo cáo của 64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tính đến ngày 01/01/2004, tổng số cán bộ tư pháp cấp huyện là 1.928 cán bộ. Trong đó có 463 Trưỏng phòng, 186 Phó trưởng Phòng, 10 Chánh Văn phòng và 67 Phó Chánh Văn phòng phụ trách công tác tư pháp và 06 cán bộ được giao phụ trách công tác tư pháp.

2.2. Chất lượng cán bộ:

a- Trình độ văn hoá:

- Cấp III: 1853 người (chiếm 96% tổng số cán bộ tư pháp cấp huyện);

- Cấp II: 52 người (chiếm 4%).

b- Trình độ chuyên môn:

- Trên đại học: 03 người;

- Đại học luật: 1142 người (chiếm 64% );

- Trung học luật: 263 người (chiếm 15% );

- Đại học khác: 157 người (chiếm 9%);

- Cao đẳng: 44 người (chiếm 2%), trong đó có 24 người có trình độ cao đẳng an ninh, kiểm sát, và toà án.

- Trung học khác là 156 người (chiếm 9%);

- Sơ cấp khác: 11 người.

Biểu 1. Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện

c- Trình độ lý luận chính trị:

- Đại học: 58 người (chiếm 5%);

- Cao cấp chính trị: 143 người (chiếm 13%);

- Trung cấp chính trị: 560 người (chiếm 51%);

- Sơ cấp chính trị: 338 người (chiếm 31%).

 

Biểu 2. Trình độ lý luận chính trị của cán đội ngũ  bộ tư pháp cấp huyện

d- Quản lý nhà nước;

Tính đến 01/01/2003, trong tổng số cán bộ tư pháp cấp huyện có 331 cán bộ đã được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước. Trong đó có 04 cán bộ có trình độ đại học, 18 cán bộ có trình độ cao cấp, 190 cán bộ có trình độ trung cấp.

đ- Ngoại ngữ:

- Đại học: 05 người;

- Trình độ C: 49 người;

- Trình độ B: 215 người;

- Trình độ A: 259 người.

e- Tin học:

- Đại học: 01 người;

- Trình độ C: 01 người;

- Trình độ B: 107 người;

- Trình độ A: 335 người.

1.2.3. Phân loại cán bộ:

a- Theo ngạch công chức:

- Chuyên viên chính: 28 người;

- Chuyên viên: 1143 người;

- Cán sự: 574 người;

- Công chức khác: 133 người;

- Nhân viên hợp đồng: 50 người.

Biểu 2. Phân loại cán bộ tư pháp cấp huyện theo ngạch công chức

b- Theo giới tính:

- Nam: 1441 người;

- Nữ: 487 người

c- Theo dân tộc:

- Kinh: 1672 người;

- Dân tộc khác: 256 người.

d- Theo độ tuổi:

- Dưới 30 tuổi: 438 người;

- Từ 30 đến 40 tuổi: 590 người;

- Từ 41 đến 50 tuổi: 667 người;

- Trên 50 tuổi: 233 người.

Biểu 4. Phân loại đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện  theo độ tuổi

đ- Theo thời gian làm công tác tư pháp:

- Dưới 1 năm: 144 người;

- Từ 1 - 3 năm: 424 người;

- Từ 3 - 5 năm: 298 người;

- Từ 5 - 10 năm: 604 người;

- Trên 10 năm: 400 người.

(Chưa xác định được thời gian làm công tác tư pháp: 58 người).

Biểu 5. Phân loại đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện theo thời gian công tác tư pháp

3. Đánh giá về tổ chức, cán bộ tư pháp cấp huyện

3.1. Ưu điểm:

a. Cơ sở pháp lý của việc kiện toàn, củng cố, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện ngày càng hoàn thiện. Sau Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là Nghị định số 172/2004/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV đã khẳng định Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện quản lý nhà nước các công tác tư pháp ở địa phương, đồng thời là mắt xích quan trọng trong hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm công tác tư pháp được triển khai thống nhất từ trung ương đến cơ sở.

Nhờ vậy, trong thời gian qua, Phòng Tư pháp đã từng bước được củng cố, kiện toàn, đội ngũ cán bộ cũng ngày càng được tăng cường về số lượng để triển khai thực hiện các hoạt động tư pháp, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương cũng như của ngành Tư pháp.

b. Phần lớn đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, tận tuy, có tinh thần, ý thức trách nhiệm với công việc. Trình độ của đội ngũ cán bộ này đang từng bước được nâng cao. Theo báo cáo của các địa phương, đến nay, trong tổng số cán bộ tư pháp cấp huyện có 1.302 cán bộ có trình độ từ đại học trở lên (chiếm 67,53%), trong đó 86,3% cán bộ có trình độ Đại học Luật. Số cán bộ đã qua đào tạo về luật ở trình độ trung học chiếm 15%, và 11% số cán bộ tư pháp cấp huyện có trình độ cao đẳng (chuyên ngành an ninh, kiểm sát, toà án) và trung học khác.

c. Đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện có sự kế thừa giữa các thế hệ, có nhiều cán bộ trẻ, năng động, có khả năng thích nghi với cơ chế mới. Kết quả khảo sát đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện cho thấy chỉ có 12,8% cán bộ có tuổi đời trên 50. Số cán bộ còn lại phân bố tương đối đồng đều theo các lứa tuổi: 22,7% cán bộ dưới 30 tuổi; 30,6% cán bộ có độ tuổi từ 30-40 tuổi; 34,6% cán bộ ở độ tuổi từ 41-50 tuổi, thể hiện sự kế thừa giữa các thế hệ cán bộ. Đây là một trong những yếu tố thuận lợi cho việc quy hoạch phát triển, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ.

Theo kết quả khảo sát đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện, 52% tổng số cán bộ tư pháp cấp huyện có thời gian làm công tác tư pháp từ 5 năm trở lên. Trong đó, có 09 cán bộ có thâm niên công tác hơn 30 năm, 30 cán bộ có thâm niên công tác từ 25-30 năm. Có 02 cán bộ có thâm niên công tác lâu năm nhất là 35 năm.

d. Đa số cán bộ tư pháp cấp huyện được tuyển dụng từ nguồn tại chỗ của địa phương nên nắm vững các điều kiện kinh tế - xã hội ở địa phương, hiểu biết rõ về phong tục, tập quán, thói quen cũng như những đặc thù về văn hoá, lịch sử. Điều này giúp cho việc triển khai thực hiện công tác tư pháp ở địa phương hết sức thuận lợi đặc biệt là trong lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật, quản lý công tác hộ tịch, hoà giải ở cơ sở...

2.2. Tồn tại, hạn chế

a. Mô hình tổ chức của Phòng Tư pháp cấp huyện trong thời gian qua chưa ổn định. Ở một số địa phương, Phòng Tư pháp đã bị sáp nhập vào Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân hân hoặc cơ quan chuyên môn khác của Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển khai thực hiện các hoạt động tư pháp cấp huyện, đặc biệt trong các hoạt động như chứng thực, quản lý công tác thi hành án dân sự, hướng dẫn nghiệp vụ cho Ban Tư pháp, tổ chức phối hợp thực hiện các nhiệm vụ như phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án…Đồng thời, do tổ chức có nhiều biến động nên đội ngũ cán bộ, công chức của Phòng Tư pháp cũng không ổn định. Số cán bộ được đào tạo có kinh nghiệm thường được thuyên chuyển mỗi khi sáp nhập tổ chức và khi tách ra thì lại điều động cán bộ mới về (kể cả cán bộ chủ chốt và cán bộ chuyên môn, tâm lý cán bộ chưa yên tâm công tác và khó khăn cho công tác quy hoạch đào tạo cán bộ).

b. Số lượng cán bộ tư pháp cấp huyện tuy đã được tăng cường một bước nhưng nhìn chung vấn còn thiếu, không ổn định, cơ cấu cán bộ chưa hợp lý, dẫn  đến một cán bộ phải đảm nhận nhiều lĩnh vực  công tác, hoạt động còn dàn trải, không chuyên sâu.

Đặc biệt ở một số địa phương (nhất là ở những nơi sáp nhập Phòng Tư pháp) chỉ bố trí 01- 02 cán bộ tư pháp cấp huyện như một số huyện thuộc tỉnh Hà Nam, Hưng Yên… thì việc triển khai các công tác tư pháp cấp huyện gặp rất nhiều khó khăn, nhiều lĩnh vực hoạt động còn bị bỏ trống do thiếu cán bộ.

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo Phòng Tư pháp ở một số địa phương còn hay bị thay đổi. Trong thời gian qua, do tổ chức tư pháp không ổn định, có nhiều biến động nên đội ngũ cán bộ thường không ổn định và có thể được thuyên chuyển sang đảm nhận công tác khác. Đến khi tổ chức được thành lập lại hoặc kiện toàn thì lại điều chuyển cán bộ mới về. Điều này đã tạo ra tâm lý không yên tâm cho cán bộ cũng như gây khó khăn cho công tác quy hoạch nguồn cán bộ cho công tác tư pháp, đặc biệt là cán bộ có trình độ, chuyên môn.

c. Trình độ của đội ngũ cán bộ tuy đã được nâng cao nhưng vẫn chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

+ Về trình độ văn hoá: trong số cán bộ tư pháp cấp huyện vẫn còn 2,7% cán bộ chưa tốt nghiệp cấp III.

+ Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: số lượng cán bộ chưa qua đào tạo về luật còn lớn (chiếm tỷ lệ 27%), trong đó vẫn còn 8,5% tổng số cán bộ chưa được đào tạo cơ bản. Trình độ, năng lực thực tiễn, khả năng nắm bắt, phân tích và tổ chức thực hiện chính sách của một bộ phận cán bộ tư pháp cấp huyện còn hạn chế, chưa đáp ứng được với những biến động của tình hình thực tiễn.

+ Về trình độ lý luận chính trị và quản lý nhà nước: số lượng cán bộ chưa qua đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị còn chiếm tỷ lệ cao. Trong tổng số cán bộ tư pháp cấp huyện, có 43% cán bộ chưa có trình độ lý luận chính trị, 82,8% cán bộ chưa được bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước.

+ Về trình độ ngoại ngữ, tin học: số cán bộ chưa có kiến thức về ngoại ngữ, tin học còn chiếm tỷ lệ cao, 72,6% tổng số cán bộ tư pháp cấp huyện không biết ngoại ngữ, 77% cán bộ chưa được bồi dưỡng kiến thức tin học. Trong giai đoạn mở rộng hội nhập quốc tế và khu vực hiện nay, thì việc thiếu kiến thức về ngoại ngữ, tin học sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc tiếp cận thông tin, tiến bộ khoa học áp dụng vào các quy trình giải quyết công việc.

d. Một bộ phận cán bộ còn thiếu năng lực, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật chưa cao. Một số ít cán bộ còn có các vi phạm dẫn đến bị kỷ luật. Theo báo cáo chưa đầy đủ của 41 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì năm 2002, trong tổng số cán bộ tư pháp cấp huyện có 09 trường hợp bị kỷ luật, trong đó có 01 trường hợp bị áp dụng hình thức kỷ luật cách chức, 04 trường hợp bị cảnh cáo và 04 trường hợp bị khiển trách.

đ. Cơ chế chính sách quản lý đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện chưa thoả đáng, hoàn chỉnh, chưa có sức khuyến khích, thu hút cán bộ có trình độ và tạo các điều kiện cần thiết để đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện yên tâm công tác. Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa được đổi mới phù hợp với yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện, đặc biệt là yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế.

II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ PHÁP CẤP HUYỆN

1. Tình hình và kết quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện

1.1. Về công tác xây dựng pháp luật

Xây dựng pháp luật là một lĩnh vực công tác được Phòng Tư pháp chú trọng, nhằm tham mưu cho Uỷ ban nhân dân thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật ở địa phương với các hoạt động như xây dựng chương trình, kế hoạch ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương, soạn thảo, tham gia ý kiến, thẩm định, tổ chức việc lấy ý kiến và rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật.

Nhiều Phòng Tư pháp đã xây dựng và trình Uỷ ban nhân dân cấp huyện phê duyệt chương trình lập quy hoặc chương trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương như Vĩn Phúc, Bình Định, Quảng Bình, Quảng Ninh. Trên cơ sở chương trình lập quy đã được phê duyệt, Phòng Tư pháp cấp huyện đã trực tiếp soạn thảo, tham gia soạn thảo và góp ý kiến vào các văn bản pháp luật ở địa phương.

Khảo sát về công tác xây dựng pháp luật của tư pháp cấp huyện cả nước, trong năm 2002, cho thấy 65,8% các Phòng Tư pháp cấp huyện đã trực tiếp soạn thảo hoặc tham gia với các cơ quan chuyên môn khác của Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong việc soạn thảo các văn bản pháp luật. Tổng hợp số liệu khảo sát tại 129 Phòng Tư pháp cấp huyện ở các vùng, miền trong cả nước, trong năm 2003, các Phòng Tư pháp này đã chủ trì soạn thảo 2.572 văn bản (21văn bản/ Phòng) và tham gia soạn thảo với các cơ quan chuyên môn khác 2.445 văn bản (19 văn bản/Phòng).

Cả nước đã có 35,1% Phòng Tư pháp cấp huyện đã thực hiện được việc thẩm định và góp ý kiến đối với dự thảo các văn bản pháp luật do Uỷ ban nhân dân cấp huyện soạn thảo. Các văn bản do Phòng Tư pháp soạn thảo, tham gia soạn thảo, thẩm định, góp ý kiến bao gồm văn bản quy phạm pháp luật và các quyết định cá biệt để áp dụng pháp luật. Nội dung của các văn bản này thường liên quan đến các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương như Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân về việc thực hiện các nhiệm vụ tại địa phương, về hộ tịch, giải quyết các vấn đề liên quan đến đất đai, quyết định xử lý vi phạm hành chính trên các lĩnh vực kinh doanh trái phép, nghĩa vụ quân sự, thuế, văn hoá, an ninh trật tư, bảo vệ và phát triển rừng… Công tác thẩm định văn bản đã góp phần vào việc bảo đảm cho các văn bản do Uỷ ban nhân dân cấp huyện ban hành đúng quy định pháp luật, thống nhất và có tính khả thi.

Trong năm 2002, Phòng Tư pháp cấp huyện đã tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với các dự án luật, pháp lệnh được 1.852 lượt. Việc lấy ý kiến được tổ chức dưới nhiều hình thức như họp đại diện đoàn thể cụm dân cư, triển khai đến các tổ dân phố, cụm dân cư, triển khai đến các trường học trên địa bàn. Ngoài ra còn có hình thức niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân, tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt của cấp huyện, xã hoặc hội nghị rộng rãi trong nhân dân, dùng hệ thống truyền thanh cơ sở, các tờ tin, tờ gấp; tổ chức hòm thư góp ý kiến cho các dự án luật, pháp lệnh.

Công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản cũng đã được triển khai thực hiện. 67,2% tổ chức tư pháp cấp huyện đã thực hiện việc rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật. Tiến hành khảo sát với 68 huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, tổ chức tư pháp cấp huyện đã rà soát được 40.977 văn bản. Hoạt động rà soát, hệ thống hoá đã góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật ở địa phương. Kết quả đã đề nghị sửa đổi, bổ sung đối với 3.092 văn bản (chiếm 7,56%) và đề nghị bãi bỏ, huỷ bỏ đối với 1.628 văn bản (chiếm 3,97%). Thông qua việc rà soát, hệ thống hoá văn bản đã phát hiện và kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ những văn bản có nội dung và hình thức không đúng quy định pháp luật hoặc được ban hành không đúng thẩm quyền.

Số lượng hương ước, quy ước được ban hành ngày càng tăng, tính đến tháng 12/2003 tổng số hướng ước, quy ước đã được ban hành là 32.283 văn bản, trong đó tổ chức tư pháp cấp huyện đã thẩm định được 28.736 hương ước, quy ước (đạt 89%).

Trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ thẩm định hương ước, quy ước, một số biện pháp đã được Phòng Tư pháp thực hiện để nhằm nâng cao chất lượng hương ước, quy ước như xây dựng Quy chế phối hợp giữa Phòng Tư pháp và các đơn vị có liên quan trong việc thẩm định hương ước, quy ước, hướng dẫn Uỷ ban nhân dân cấp xã thành lập Ban soạn thảo hương ước, quy ước…

Thực tiễn cho thấy, cùng với việc tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân trong công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm chất lượng của hệ thống văn bản pháp luật của địa phương, ở nhiều địa phương trong cả nước như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Quảng Ninh, Hà Tây,… Phòng Tư pháp còn đảm nhận nhiệm vụ tư vấn các vấn đề pháp lý cho Uỷ ban nhân dân trong quá trình quản lý nhà nước ở địa phương. Việc tư vấn pháp lý được thể hiện dưới nhiều hình thức như tư vấn với tư cách là thành viên các Hội đồng hoặc thông qua những nhiệm vụ cụ thể được giao như tham mưu cho Uỷ ban nhân dân huyện, quận về xử phạt, tổ chức thực hiện các quyết định xử phạt vi phạm hành chính, tư vấn cho Uỷ ban nhân dân giải quyết các vụ việc khiếu kiện, bức xúc kéo dài chủ yếu về lĩnh vực đô thị, đất đai.

Tuy nhiên, công tác xây dựng pháp luật của tư pháp cấp huyện cũng bộc lộ những tồn tại sau:

- Số lượng các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan tư pháp cấp huyện soạn thảo, tham gia soạn thảo, thẩm định, tham gia ý kiến không nhiều, chủ yếu chỉ là các văn bản cá biệt;

- Trong một thời gian dài trước khi Luật ban hành văn ban quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2004 được ban hành, do thiếu một quy trình, thủ tục thống nhất về xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cấp huyện cũng như những nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò của công tác thẩm định và tham gia ý kiến (bao gồm giá trị pháp lý, quy trình thủ tục thực hiện), ý kiến thẩm định, tham gia của cơ quan tư pháp không được coi trọng, thực hiện, nhiều văn bản được ban hành mà không có ý kiến thẩm định của cơ quan tư pháp;

- Một số đơn vị đã tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật nhưng kết quả chưa cao, đặc biệt là vấn đề kiến nghị, sửa đổi, bổ sung khi văn bản của Uỷ ban nhân dân cùng cấp có sai sót.

- Thực tế cho thấy, đối với những tỉnh đã thí điểm sáp nhập Phòng Tư pháp vào cơ quan chuyên môn khác của Uỷ ban nhân dân, công tác xây dựng, soạn thảo và thẩm định văn bản chưa được thực hiện thường xuyên, chất lượng và hiệu quả còn hạn chế.

1.2. Về phổ biến, giáo dục pháp luật

Những năm qua, Phòng Tư pháp đóng vai trò trung tâm, chủ động tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện xây dựng kế hoạch, phối hợp với các ban, ngành trong việc tuyên truyền pháp luật đến với các tầng lớp nhân dân.

- Kết quả khảo sát cho thấy 96,5% huyện đã thành lập Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp huyện. Số lượng thành viên Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là 6.377 người, trung bình 15 người/Hội đồng. 84% Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp huyện được đánh giá là hoạt động có hiệu quả, trong đó 43,7% Hội đồng được đánh giá là có hiệu quả hoạt động tốt.

Để bảo đảm chất lượng, hiệu quả hoạt động, 93,4% huyện đã xây dựng chương trình, kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong trường hợp chưa xây dựng chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật, việc phổ biến, giáo dục pháp luật được căn cứ vào sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân, Sở Tư pháp hoặc khi có văn  bản quy phạm pháp luật mới được ban hành, hoặc tuỳ theo yêu cầu thực tiễn.

Kết quả khảo sát ở 383 huyện, số lượng văn bản đã tuyên truyền, phổ biến trong năm 2003 là 4.446 văn bản trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như đất đai, kinh tế, an toàn giao thông, khiếu nại tố cáo, bảo vệ môi trường, lao động, việc làm, xử lý vi phạm hành chính, phòng chống ma tuý và tệ nạn xã hội, hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự; hôn nhan gia đình, dân số, bảo vệ và chăm sóc trẻ em; luật giáo dục, luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật nghĩa vụ quân sự, phòng cháy chữa cháy…

Hình thức tuyên truyền chủ yếu là thi tìm hiểu pháp luật, hoạt động văn hoá, văn nghệ, phương tiện thông tin đại chúng, triển khai xuống các xã, phường, biên soạn, cung cấp tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật; tuyên truyền miệng về pháp luật. Một số hình thức khác đã được sử dụng để tuyên truyền, phổ biến là tổ chức họp tổ dân phố, hội nghị, tủ sách pháp lụat, pano-áphíc, băng cát sét, tờ gấp, tờ rơi, hỏi đáp, lồng ghép vào các chương trình khuyến nông, khuyến ngư, dân số, thông qua hoạt động của câu lạc bộ hoà giải, hệ thống truyền thanh cơ sở, thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý và tổ hoà giải. Ngoài ra, đối với các huyện là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật còn được thực hiện bằng tiếng H’Mông… Thực tiễn cho thấy, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ngày càng thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận quần chúng nhân dân, từ đó đạt được nhiều thành công trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Đội ngũ báo cáo viên pháp luật được kiện toàn, phát triển. Kết quả khảo sát ở 347 huyện, số báo cáo viên pháp luật trên địa bàn là 10.256 người. Trung bình 30 người/huyện. Báo cáo viên thuộc các cơ quan bảo vệ pháp luật, ban, ngành địa phương, tổ chức đoàn thể và giáo viên dạy giáo dục công dan ở các trường học. Việc tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ báo cáo viên đã được quan tâm, 78,6% huyện đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho báo cáo viên trog đó có 29% huyện tổ chức thường xuyên.

1.3. Về thi hành án dân sự

Thi hành án dân sự là hoạt động khó khăn, phức tạp nhưng đồng thời cũng được xác định là hoạt động trọng tâm của ngành Tư pháp. Trong thời gian qua, Phòng Tư pháp đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện các quy định của pháp luật và Quy chế phối hợp để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Với vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, Phòng Tư pháp thực hiện việc nắm bắt chương trình, kế hoạch công tác thi hành án dân sự, tình hình hoạt động thi hành án dân sự trên địa bàn, những vấn đề vướng mắc nảy sinh từ hoạt động thi hành án dân sự có liên quan trực tiếp đến sự chỉ đạo, điều hành hoạt động kinh tế - xã hội của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, vấn đề an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội có liên quan đến hoạt động thi hành án. Cùng với đó, Phòng Tư pháp đã thực hiện thường xuyên việc kiểm tra hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án cấp huyện, đưa ra nhiều kiến nghị với Uỷ ban nhân dân quan tâm, tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động thi hành án dân sự cấp huyện.

Để tạo sự phối hợp giữa các ban, ngành có liên quan, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, Phòng Tư pháp đã tham mưu với Uỷ ban nhân dân cấp huyện thành lập Ban chỉ đạo thi hành án dân sự. Kết quả khảo sát cho thấy 93,2% cấp huyện đã thành lập Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự, trong đó Phòng Tư pháp có vai trò quan trọng trong vịêc tổ chức phối hợp giữa Đội Thi hành án với Công an và các cơ quan chuyên môn khác của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên,… Với vai trò là thường trực Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự cấp huyện, Phòng Tư pháp đã tham mưu cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh tổ chức, chỉ đạo thi hành đối với những vụ án điểm, phức tạp theo đúng quy định của pháp luật như kiến nghị các giải pháp hữu ích, giải quyết khiếu nại, tố cáo có liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự ở địa phương, làm đầu mối tổ chức các cuộc họp liên ngành ở địa phương để bàn bạc, giải quyết các vụ án phải thi hành có tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp. Nhờ đó mà khắc phục được phần nào án dân sự tồn đọng, khiếu kiện kéo dài, vượt cấp.

Thực hiện Thông tư số 05/2002/TT-BTP ngày 27/2/2002 của Bộ Tư pháp hướng dẫn việc chuyển giao một số vụ việc thi hành án cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn trực tiếp đôn đốc, thi hành, Phòng Tư pháp đã tổ chức tập huấn cho cán bộ của Uỷ ban nhân dân cấp xã được phân công nhiệm vụ đôn đốc thi hành án. Một số địa phương đã lấy kết quả đôn đốc, thi hành án của Uỷ ban nhân dân cấp xã làm tiêu chí để xét thi đua, khen thưởng.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, những địa phương khi thực hiện việc sáp nhập Phòng Tư pháp vào Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân có nhiều khó khăn trong việc tổ chức phối hợp với các cơ quan có liên quan trong công tác thi hành án dân sự. Sau khi Phòng Tư pháp bị giải thể, nhiệm vụ quản lý thi hành án dân sự không được quan tâm thực hiện. Cơ quan được giao làm nhiệm vụ thường trực Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự cấp huyện có sự thay đổi nhưng chưa được củng cố, kiện toàn. Việc giúp Uỷ ban nhân dân trong chỉ đạo, kiểm tra hoạt động thi hành án dân sự còn buông lỏng do không có Phòng Tư pháp nên không chủ động, thiếu tập trung và chưa có quy chế pháp lý để thực thi nhiệm vụ.

Vai trò của Phòng Tư pháp trong quản lý hoạt động thi hành án dân sự còn hạn chế, sự phối hợp giữa Phòng Tư pháp và Đội Thi hành án còn nhiều vướng mắc, chưa đáp ứng được đòi hỏi của tình hình thực tiễn đặt ra, cá biệt còn có tình trạng mất đoàn kết giữa Phòng Tư pháp và Đội Thi hành.

1.4. Về chứng thực

Trong những năm gần đây, việc thực hiện chứng thực của các cơ quan Nhà nước nói chung và Uỷ ban nhân dân cấp huyện nói riêng gia tăng nhiều về số lượng và các việc chứng thực ngày càng phức tạp hơn so với trước. Khảo sát ở 292 huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, số việc chứng thực đã thực hiện trong năm 2003 là 3.854.724 việc. Trong đó 74,4 % là chứng thực bản sao, còn lại là chứng thực chữ ký, chứng thực hợp đồng giao dịch liên quan đến bất động sản hoặc động sản, chứng thực văn bản thoả thuận phân chia di sản, khai nhận di sản.

Trong giải đoạn cải cách hành chính hiện nay, việc thí điểm giải quyết thủ tục theo cơ chế “một cửa, một dấu” tại quận, huyện đã tác động đến quy trình thực hiện công tác chứng thực, nhiều Phòng Tư pháp đã có những sáng kiến trong việc cải tiến quy trình, trình tự chứng thực, niêm yết công khai thủ tục, hồ sơ, lệ phí và cán bộ đảm nhận nhiệm vụ nhằm rút ngắn thời gian và đơn giản hoá thủ tục hành chính, giảm chi phí, không gây phiền hà, mất thời gian cho công dân. Phần lớn các cấp huyện đều uỷ quyền cho Trưởng phòng, Phó trưởng phòng Tư pháp ký chứng thực. Cán bộ tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra, tham mưu đề xuất chứng thực chủ yếu là cán bộ của Phòng Tư pháp. Hoạt động chứng thực của cấp huyện đã bước đầu đi vào nền nếp, đáp ứng được yêu cầu chứng thực của tổ chức và công dân, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Một số địa phương, khi sáp nhập Phòng Tư pháp đã mất đi chức danh Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng Tư pháp. Vì vậy, việc ký chứng thực tập trung vào các chức danh của Uỷ ban nhân dân nên thời giải quyết hồ sơ cho nhân dân chưa kịp thời. Việc chứng thực không đúng thẩm quyền theo quy định và có nơi do Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quá bận nên dễ dẫn đến phiền hà cho người dân khi có yêu cầu chứng thực. Một số cấp huyện bố trí cán bộ giúp việc cho hoạt động chứng thực còn thiếu hoặc biên chế của Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân dẫn đến việc chỉ đạo, phối hợp, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ còn gặp nhiều khó khăn, không thống nhất.

Trong thực hiện nghiệp vụ, các Phòng Tư pháp vẫn còn lúng túng trong việc xác định hình thức văn bản cho phù hợp với nội dung chứng thực, một số trường hợp còn sai sót về nội dung chứng thực.

1.5. Về công tác hộ tịch

Thực hiện nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong quản lý hộ tịch trong phạm vi địa phương, đa số các Phòng Tư pháp đã thực hiện thường xuyên việc theo dõi, tổng hợp tình hình đăng  ký hộ tịch ở địa phương, nhờ đó đã phát hiện và uốn nắn kịp thời những sai sót trong công tác hộ tịch ở cơ sở.

Thực hiện Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 và triển khai việc đăng ký đối với các trường hợp hôn nhân thực tế theo tinh thần của Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9 tháng 6 năm 2000 của Quốc hội về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình và Nghị định số 77/2001/NĐ-VP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, Phòng Tư pháp đã triển khai tới các xã, phường, thị trấn trong phạm vi địa phương nhằm vận động các trường hợp vợ chồng chưa đăng ký kết hôn thực hiện việc đăng ký kết hôn.

Để giải quyết cơ bản tình trạng trẻ em chưa được đăng ký khai sinh, Phòng Tư pháp đã thực hiện việc tổng rà soát và chỉ đạo cho Ban Tư pháp xã, phường, thị trấn có biện pháp tuyên truyền vận động nhân dân để không xảy ra tình trạng trẻ em sinh ra không được đăng ký khai sinh. Kết quả khảo sát ở 129 cấp huyện cho thấy, tỷ lệ đăng ký khai sinh đúng hạn là 70.1% (143.767/205.082 trường hợp), đăng ký quá hạn là 29,9%, tỷ lệ khai tử đạt 82,3%.

Tuy nhiên, trong quản lý công tác hộ tịch ở địa phương, Phòng Tư pháp đã bộc lộc một số tồn tại, hạn chế trong việc hướng dẫn, kiểm tra về nghiệp vụ đối với công tác hộ tịch, do đó trong nhiều trường hơp chưa phát hiện, chấn chỉnh kịp thời những sai sót trong công tác đăng ký hộ tịch. Một số địa phương còn thiếu sót trong công tác quản lý dẫn đến tình trạng hư hỏng, thất lạc sổ hộ tịch.

1.6. Về hoà giải ở cơ sở

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác hoà giải ở cơ sở trong đời sống xã hội, trong những năm qua, tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở đã không ngừng được củng cố, kiện toàn và phát triển với quy mô rộng lớn, tăng cả về số lượng và chất lượng, hình thức và nội dung hoạt động phong phú. Theo số liệu báo cáo chính thức của 59/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đến nay, trong cả nước đã có 117.305 tổ hoà giải với 527.488 hoà giải viên. Trung bình hàng năm, mỗi tỉnh hoà giải được 4.217 vụ việc, trong đó số vụ việc hoà giải thành đạt gần 85%. Thành viên tổ hoà giải thường là những người hưu trí, già làng, trưởng thôn, trưởng bản, tổ trưởng tổ dân phố, đại diện mặt trận tổ quốc, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ và đoàn thanh niên ở cơ sở.

Với vai trò là cơ quan tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước về công tác hoà giải ở cơ sở, 89,5% tổ chức tư pháp cấp huyện đã đề xuất với Uỷ ban nhân dân nhiều biện pháp để kiện toàn và củng cố tổ hoà giải ở cơ sở. Thực tiễn đã khẳng định được hiệu quả của những biện pháp này như việc ban hành văn bản hướng dẫn việc kiện toàn, củng cố tổ chức và hoà giải viên phù hợp với điều kiện của địa phương, kết hợp việc bầu tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, trưởng bản với việc bầu, bổ sung thành viên tổ hoà giải; đề xuất có chế độ bồi dưỡng đối với các hoà giải viên trong các trường hợp hoà giải thành; sơ kết, tổng kết, khen thưởng định kỳ và hàng năm.

Kết quả trong năm 2003, 80,1% Phòng Tư pháp cấp huyện đã tổ chức việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng hoà giải cho tổ viên tổ hoà giải, trong đó có 45% cấp huyện tổ chức được thường xuyên việc bồi dưỡng từ 3-4 lần trong năm. Nội dung bồi dưỡng nghiệp vụ bao gồm việc cung cấp cho hoà giải viên những kiến thức pháp lý cơ bản, phổ biến những quy định pháp luật mới, bồi dưỡng nghiệp vụ hoà giải.

1.7. Về chỉ đạo, hướng dẫn công tác tư pháp  cấp xã:

Với vai trò là một mắt xích trong hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm sự thống nhất quản lý công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở, Phòng Tư pháp thực hiện nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ đối với Ban Tư pháp xã, phường, thị trấn. Nhiệm vụ này được thực hiện dưới các hình thức như ban hành văn bản giải quyết những khó khăn, vướng mắc; theo dõi, kiểm tra tình hình hoạt động của Ban Tư pháp cấp xã và thực hiện việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã.

Tổng hợp kết quả khảo sát tại 257 cấp huyện trong cả nước, trong năm 2002, số lượng văn bản được ban hành để giải quyết những khó khăn, vướng mắc của Ban Tư pháp cấp xã là 2.687 văn bản. Cả nước có 91,6% tổ chức tư pháp cấp huyện tổ chức theo dõi, kiểm tra tình hình hoạt động của Ban Tư pháp cấp xã. Nôi dung kiểm tra có thể là theo chuyên đề cụ thể hoặc kiểm tra tình hình hoạt động chung. Phổ biến ở các địa phương là việc kết hợp giữa kiểm tra hoạt động chung với kiểm tra theo chuyên đề, trong đó kiểm tra tình hình hoạt động chung được thực hiện định kỳ.  Hình thức kiểm tra chủ yếu là  họp hoặc họp giao ban với Ban Tư pháp để nắm tình hình định kỳ, thường xuyên; tổ chức đoàn kiểm tra và yêu cầu báo cáo định kỳ. Trong thực tiễn, từ những hình thức cơ bản này, nhiều địa phương đã có những cách thức kiểm tra, theo dõi linh hoạt hơn để bảo đảm nắm bắt đầy đủ và sát với thực tế tình hình hoạt động ở địa phương như tổ chức kiểm tra chéo, kiểm tra đột xuất, cử cán bộ trực tiếp xuống cơ sở để nắm tình hình, kết hợp với các đoàn kiểm tra khác trong địa phương.... Cùng với đó là việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho Ban Tư pháp cấp xã. 82% tổ chức tư pháp cấp huyện đã thực hiện việc bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp xã, trong đó có 49,1% thực hiện thường xuyên, định kỳ từ 3-4 lần/năm. Một số huyện đã quan tâm nhiều đến việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp cấp xã như huyện Hoằng Hoá - Thanh Hoá, Việt Trì - Phú Thọ, Nghi Lộc - Nghệ An, Vụ Bản - Nam Định, Tam Nông - Đồng Tháp, Quận 3 - Thành phố Hồ Chí Minh, Lạc Thuỷ - Hoà Bình... Tổng hợp số lượng lớp đã bồi dưỡng nghiệp vụ của 297 huyện là 495 lớp (năm 2002), bao gồm các lĩnh vực nghiệp vụ đăng ký hộ tịch, tuyên truyền giáo dục pháp luật, kỹ năng xây dựng văn bản, nghiệp vụ thi hành án, hoà giải ở cơ sở .

2. Đánh giá về hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện

2.1. Ưu điểm

- Trong thời gian qua, Phòng Tư pháp cấp huyện đã triển khai trên thực tế các nhiệm vụ được giao theo quy định trong các lĩnh vực công tác xây dựng văn bản, thẩm định, rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, quản lý thi hành án dân sự, chứng thực, quản lý công tác hộ tịch… Ngoài ra, cơ quan tư pháp cấp huyện cũng đã đảm nhận nhiều nhiệm vụ do Uỷ ban nhân dân trực tiếp giao cho như tham gia vào các Ban chỉ đạo của huyện trong việc xây dựng đời sống văn hoá, phòng ngừa và chống tội phạm trong phạm vi địa phương; tham gia giải quyết tranh chấp do Uỷ ban nhân dân cấp xã chuyển lên; tiếp dân, đề xuất giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp, liên quan đến nhà, đất; tham mưu cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong việc xử lý vi phạm hành chính, tư vấn pháp luật. Bằng kết quả và hiệu quả của công tác tư pháp trong thực tiễn, Phòng Tư pháp đã đóng góp tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, tăng cường và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước bằng pháp luật của chính quyền địa phương.

- Các hoạt động tư pháp cấp huyện đã từng bước đi vào nền nếp, theo chương trình, kế hoạch, mục tiêu rõ ràng, có sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của Uỷ ban nhân dân cùng cấp và cơ quan tư pháp cấp trên. Kết quả khảo sát cho thấy 94,2% tổ chức tư pháp cấp huyện có xây dựng chương trình, kế hoạch để triển khai thực hiện nhiệm vụ; 80% Uỷ ban nhân dân cấp huyện đã có sự chỉ đạo đối với việc xây dựng chương trình, kế hoạch công tác tư pháp trong phạm vi địa phương; 90,8% cấp huyện đã tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ từ đó đề ra những giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác.Việc tổ chức sơ kết, tổng kết được tiến hành định kỳ, theo sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp huyện hoặc Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

- Thực hiện phương châm hướng về cơ sở, tăng cường và nâng cao hiệu lực hoạt động cho chính quyền xã, phường, thị trấn, Phòng Tư pháp cấp huyện đã phát huy vai trò chỉ đạo, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ đối với Ban Tư pháp ở cấp xã. Do đó, việc triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch công tác cũng như sự chỉ đạo, hướng dẫn của ngành Tư pháp đã được phổ biến và thực hiện ở xã, phường, thị trấn, cấp gần dân nhất. Hoạt động của Phòng Tư pháp đã góp phần bảo đảm triển khai thống nhất công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở.

- Phòng Tư pháp cấp huyện đã tích cực triển khai thực hiện cải cách hành chính, công khai và đơn giản hoá những thủ tục hành chính như chứng thực, hộ tịch, trợ giúp pháp lý. Một số nơi đã nghiên cứu và áp dụng Tiêu chuẩn ISO 9001 về hệ thống quản lý chất lượng vào công tác để nâng cao hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công tác tư pháp trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Kết quả công cuộc cải cách hành chính tại cấp huyện với mô hình "một cửa, một dấu" trong đó Phòng Tư pháp là một phòng chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân và việc thực hiện khoán biên chế và kinh phí hành chính đã tạo điều kiện cho Phòng Tư pháp sắp xếp bộ máy làm việc tinh gọn, hợp lý, nâng cao hiệu quả giải quyết công việc cho người dân, đồng thời tăng thu nhập cho cán bộ, công chức.

2.2. Những tồn tại, hạn chế

- Công tác tư pháp cấp huyện triển khai còn chậm, chất lượng, hiệu quả chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

Trong thời gian qua, công tác tư pháp cấp huyện đã có sự chuyển biến tích cực, đạt được những kết quả thiết thực, tuy nhiên kết quả đó còn chưa đáp ứng được với yêu cầu đặt ra đối với công tác tư pháp trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay cũng như yêu cầu tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật, xây dưng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Kết quả triển khai công việc tư pháp từ cấp huyện tới cấp xã thường chậm, hạn chế, chưa đáp ứng được với yêu cầu bức xúc đặt ra của quản lý nhà nước và của người dân ở địa phương. Đặc biệt là ở những nơi khi thực hiện việc sáp nhập Phòng Tư pháp vào cơ quan chuyên môn khác của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, vai trò, chất lượng hiệu quả hoạt động và sự hỗ trợ đối với công tác tư pháp cấp xã của Phòng Tư pháp hạn chế và gặp nhiều khó khăn, không phát hiện và khắc phục kịp thời những khó sai sót về nghiệp vụ trong quá trình thực thi nhiệm vụ của tư pháp cơ sở, ảnh hưởng đến việc giải quyết các yêu cầu của người dân.

- Việc triển khai thực hiện nhiệm vụ trong các lĩnh vực công tác của Phòng Tư pháp chưa đồng đều

Hoạt động tư pháp phong phú, đa dạng, diễn ra trên nhiều lĩnh vực công tác xây dựng pháp luật, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, thi hành án dân sự, chứng thực, quản lý hộ tịch nhưng Phòng Tư pháp quan tâm, triển khai, thực hiện các mảng việc chưa đều, mới chỉ tập trung cho một hoặc một số lĩnh vực công tác nhất định. Kết quả khảo sát về những lĩnh vực công tác đã được triển khai thực hiện của Phòng Tư pháp cho thấy những lĩnh vực được tập trung triển khai bao gồm phổ biến, giáo dục pháp luật (93% cấp huyện có thực hiện), quản lý nhà nước về chứng thực và chứng thực các việc theo sự quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện (89% cấp huyện có thực hiện), quản lý nhà nước về hộ tịch (92% cấp huyện thực hiện) và chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ cho Ban Tư pháp cấp xã và tổ hoà giải cơ sở (92% cấp huyện thực hiện). Trong khi đó chỉ có 65% cấp huyện thực hiện việc soạn thảo các văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, 75% cấp huyện thực hiện thẩm định hoặc có tham gia ý kiến đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan khác của Uỷ ban nhân dân soạn thảo trước khi trình Uỷ ban nhân dân cấp huyện ban hành và tỷ lệ các Phòng Tư pháp thực hiện tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện quản lý công tác thi hành án dân sự trong phạm vi địa phương chỉ đạt 83%.

- Phương thức, lề lối làm việc của Phòng Tư pháp và các quan hệ công tác giữa Phòng Tư pháp với Uỷ ban nhân dân và các cơ quan, đơn vị có liên quan còn hạn chế, bất cập.

 Trong điều kiện công tác tư pháp đòi hỏi các đơn vị phải năng động tham mưu, đề xuất giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện tốt việc quản lý nhà nước bằng pháp luật thì một số cơ quan tư pháp cấp huyện, chủ yếu là trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đã chưa chủ động trong tổ chức và thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của đơn vị, còn lúng túng trong phương pháp tổ chức hoạt động, chất lượng và hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Đối với những địa phương khi thực hiện sáp nhập Phòng Tư pháp vào Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện, sự chủ động và độc lập trong triển khai công tác tư pháp càng hạn chế. Thực tế cho thấy, người phụ trách công tác tư pháp thường là Chánh Văn phòng hoăc Phó Chánh Văn phòng ngoài vịêc phụ trách công tác tư pháp còn phải đảm nhận nhiều công việc hành chính, quản trị, phục vụ của Văn phòng như tổng hợp, đối ngoại, tổ chức phục vụ hội nghị, hội thảo… theo sự phân công, giao nhiệm vụ của lãnh đạo Uỷ ban nhân dân nên không có điều kiện để tổ chức thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp ở cấp huyện.

- Kinh phí, phương tiện và các điều kiện phục vụ cho hoạt động của tư pháp cấp huyện còn hạn chế. Một số địa phương đã triển khai thí điểm khoán kinh phí và biên chế hành chính với mức khoán thấp, làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả công tác của tư pháp cấp huyện. 94% Phòng cho biết thiếu kinh phí, mức khoán quá thấp, không bảo đảm thực hiện nhiệm vụ công tác, đặc biệt là kinh phí phục vụ hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tư pháp cơ sở và các khoản kinh phí khác để thực hiện các đề án, nhiệm vụ đột xuất, ngoài kế hoạch của Phòng.

III. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ PHÁP CẤP HUYỆN

Từ kết quả nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp nói trên, có thể rút ra những nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, hạn chế, trong tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp như sau:

Một là, nhận thức của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương về vị trí, vai trò của công tác tư pháp nói chung cũng như vị trí, vai trò của Phòng Tư pháp cấp huyện nói riêng trong quản lý nhà nước có lúc, có nơi còn chưa đầy đủ, thống nhất. Vì vậy, vai trò của công tác tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân chưa được coi trọng. Do đó, sự quan tâm, đầu từ cho lĩnh vực công tác này chưa được thoả đáng. Điều này không chỉ biểu hiện sự bất ổn về mô hình tổ chức của Phòng Tư pháp bằng việc sáp nhập Phòng Tư pháp và các chức năng, nhiệm vụ của nó được chuyển giao cho cơ quan khác, mà còn là những hạn chế, khó khăn về cơ sở vật chất, điều kiện và phương tiện làm việc.

Cùng với đó là sự nhận thức không thống nhất về vị trí, vai trò cũng như mô hình tổ chức của chính quyền cấp huyện. Thời gian qua, để đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhiều định hướng, đề xuất và giải pháp cho việc đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước đã được đưa ra và thực hiện. Nhiều quan điểm về tổ chức bộ máy nhà nước được đề xuất như xây dựng mô hình chính quyền địa phương tự quản, trao quyền cho địa phương quyết định các vấn đề trong phạm vi địa phương. Hoặc đề xuất xây dựng mô hình chính quyền bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phân cấp; trong đó cấp trung ương quyết định những vấn đề vĩ mô, định hướng phát triển, bằng pháp luật chính sách và chính quyền địa phương là cấp tổ chức thực hiện, quyết định các vấn đề của địa phương. Cùng với các đề xuất là các câu hỏi liên quan đến tổ chức bộ máy nhà nước như quy mô cấp tỉnh như thế nào là hợp lý? Nên tiếp tục chia nhỏ các tỉnh như mô hình của Pháp hay tập trung lớn như mô hình của Trung Quốc? Số lượng các sở, ban, ngành của tỉnh; phòng, ban của huyện bao nhiêu là vừa?... Đối với chính quyền cấp huyện, quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu và quản lý coi đây là cấp chính quyền trung gian. Do đó, mỗi quan điểm khác nhau thì vị trí, vai trò của chính quyền cấp huyện cũng khác nhau, thậm chí ngay trong cả những người cùng quan điểm thì mô hình tổ chức của chính quyền cấp huyện cũng không thống nhất. Ví dụ như đề xuất chỉ nên coi hoạt động của chính quyền cấp huyện có tính chất chuyển tải những nội dung, yêu cầu quản lý từ cấp tỉnh tới cơ sở và có xu hướng tinh gọn đầu mối trong quá trình thực hiện cải cách hành chính. Hoặc đề xuất xây dựng chính quyền địa phương hai cấp, hay thực hiện mô hình cấp quận, phường chỉ có cơ quan hành chính để bảo đảm việc quản lý đô thị được thông xuất, đúng với đặc điểm đô thị… Tuy nhiên, do chưa có một nghiên cứu mang tính chiến lược, gắn lý luận với thực tiễn, thí điểm và rút kinh nghiệm và thiếu những giải pháp, tiêu chí thực hiện cụ thể nên những quan điểm về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, mô hình tổ chức của chính quyền cấp huyện được nêu ra nhưng chưa sức thuyết phục nên chưa được chấp nhận trong cả nhận thức cũng như tổ chức thực hiện.

Hai là, sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp uỷ, chính quyền địa phương và cơ quan tư pháp cấp trên đối với tổ chức, cán bộ và công tác tư pháp cấp huyện có lúc, có nơi còn chưa  kịp thời, thường xuyên, chưa bao quát hết và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn triển khai công tác tư pháp cấp huyện. Các cơ quan Tư pháp cấp trên chưa thật sự sâu sát, nắm bắt đầy đủ tình hình cũng như khó khăn, vướng mắc trong tổ chức, hoạt động của Phòng Tư pháp để kịp thời đề xuất hoặc kiến nghị các biện pháp kiện toàn, củng cố, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động tư pháp cấp huyện. 52% số cán bộ tư pháp cấp huyện được hỏi cho biết, cơ quan tư pháp cấp trên bao gồm Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp đã giải quyết không kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của tư pháp cấp huyện. Công tác kiểm tra, tổng kết thực tiễn để đánh giá, rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm chưa đáp ứng được với yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện.

Ba là, hệ thống pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức cán bộ, cơ chế hoạt động và những quy định về lĩnh vực thuộc phạm vi, đối tượng quản lý của ngành tư pháp từ Trung ương đến cơ sở còn có những điểm bất cập. Cụ thể là chưa đầy đủ, thống nhất và đồng bộ, chưa phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của từng vùng, miền, địa phương. Trong một thời gian dài, chưa có một văn bản pháp luật, một cơ chế đồng bộ, thống nhất quy định về chức năng, nhiệm vụ cụ thể và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cũng như của Phòng Tư pháp cấp huyện. Chức năng, nhiệm vụ của Phòng Tư pháp còn chung chung, chồng chéo, chưa phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm với cấp tỉnh và cấp cơ sở. Những điểm bất cập này đang là một trở ngại lớn cho việc tổ chức triển khai thực hiện công tác tư pháp cấp huyện, đồng thời cũng gây khó khăn cho việc xác định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn để thực thi nhiệm vụ.

Bốn là,  hạn chế về số lượng, chất lượng và năng lực của đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện. Ở nhiều địa phương, đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện còn thiếu về số lượng và chất lượng, chưa đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ được giao, do đó đã chưa phát huy được vai trò chủ động, sáng tạo trong việc tham mưu cho cấp uỷ và chính quyền địa phương để tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ công tác ở cơ sở. Một bộ phận cán bộ tư pháp cấp huyện còn chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Phòng Tư pháp, chức trách của cán bộ tư pháp cấp huyện. Một bộ phận cán bộ, công chức chưa thích nghi được với phương thức hoạt động quản lý hành chính mới trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ còn hạn chế, chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ công tác tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Thậm chí ở một số nơi, việc thực hiện các quy định pháp luật chưa nghiêm túc, còn lúng túng, thiếu sót trong thực thi tác nghiệp của công tác tư pháp nên hoạt động còn mang tính hình thức, chất lượng và hiệu quả chưa cao.

Công tác quản lý cán bộ chưa đáp ứng được với những đòi hỏi của việc xây dựng một đội ngũ công chức hiện đại, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Công tác quản lý cán bộ tư pháp cấp huyện cũng có nhMột số nơi, chính quyền cấp huyện chưa quan tâm tới việc quy hoạch, bổ sung cán bộ làm công tác tư pháp cấp huyện. Việc đánh giá cán bộ chưa thường xuyên. Quan điểm và tiêu chí chưa rõ ràng, cụ thể, chưa gắn với chức trách, nhiệm vụ cụ thể của cán bộ tư pháp cấp huyện. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp cấp huyện nói chung, trong đó có đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện còn hạn chế và chưa được thực hiện thường xuyên. Việc bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ chưa được quan tâm đúng mức.  Nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng chưa phù hợp với từng đối tượng.

Năm là, việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết bảo đảm hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện như tài chính, phương tiện kỹ thuật chưa đầy đủ. Các nguồn lực để bảo đảm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cán bộ, công chức để thực hiện việc tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ (đưa ra khỏi nền công vụ những người không có đủ trình độ, năng lực và tuyển mới những cán bộ, công chức có năng lực, trình độ) còn rất hạn chế. Việc hiện đại hoá công sở, tin học hoá, sử dung phương thức quản lý qua mạng, cơ sở vật chất cho những thay đổi cách thức làm việc của Phòng Tư pháp cấp huyện còn chưa được thiết lập rộng rãi và áp dụng bắt buộc.

Quá trình xây dựng và phát triển của ngành Tư pháp ghi nhận sự cố gắng, nỗ lực cũng như sự phát triển của Phòng Tư pháp. Bằng kết quả hoạt động trong thực tiễn, với vị trí là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Phòng Tư pháp đã khẳng định được vai trò của mình trong tổ chức bộ máy chính quyền cấp huyện. Trong giai đoạn hiện nay, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Phòng Tư pháp đã một lần nữa được khẳng định bằng Nghị định số 172/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ và Thông tư số 04/2005/TTLT-TP-NV ngày 5/5/2005. Các văn bản này được ban hành đã đánh dấu một bước phát triển mới của Phòng Tư pháp, là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức, củng cố đội ngũ cán bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong quá trình thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hội nhập quốc tế và khu vực.

 

CHƯƠNG III

PHƯƠNG HƯỚNG KIỆN TOÀN, NÂNG CAO NĂNG LỰC, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ PHÁP CẤP HUYỆN

 

I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC KIỆN TOÀN, NÂNG CAO NĂNG LỰC, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ PHÁP CẤP HUYỆN

Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, cải cách hành chính là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, hướng tới mục tiêu Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Ba khoá VIII đã xác định kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị là một nội dung quan trọng của cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra định hướng đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá… Phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ giữa quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân; kiện toàn các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân và bộ máy chính quyền xã, phường, thị trấn.

Quán triệt những quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, xuất phát từ vị trí, vai trò và thực trạng tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp cũng như những yêu cầu mới đặt ra cho công tác tư pháp trong giai đoạn hiện nay, việc kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện phải quán triệt, thực hiện theo những quan điểm chỉ đạo cơ bản sau đây:

1. Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân

Trong giai đoạn hiện nay, do ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của nền kinh tế thị trường, của tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, của quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế đã dẫn đến những thay đổi hết sức sâu sắc về chính trị - xã hội. Bộ máy nhà nước được cải cách theo hướng tăng cường yếu tố dân chủ, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây chính là quá trình làm cho bộ máy nhà nước thích ứng với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, hướng tới mục tiêu Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Một trong những biện pháp đã được xác định là thực hiện phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương, giữa từng cấp chính quyền địa phương theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 Khoá VIII xác định “việc nào do cấp nào sát với thưc tế hơn thì giao cho cấp đó. Nói cách khác, công việc nào mà cấp chính quyền làm tốt hay cơ quan nào làm tốt, có hiệu quả thì giao cho cấp chính quyền, cơ quan đó”. Việc phân cấp quản lý cho địa phương, cho từng cấp của chính quyền địa phương đang đi theo hướng xác định các công việc một cách cụ thể, rõ ràng cho mỗi cấp chính quyền địa phương. Phân cấp quản lý phải được thực hiện đồng bộ trên 4 phương diện: nhiệm vụ, ngân sách - tài chính, tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đặt ra cho ngành Tư pháp nói chung trong đó có Phòng Tư pháp cấp huyện là phải đóng góp tích cực vào việc quản lý nhà nước bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của công dân.

Trong giai đoạn hiện nay, để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phòng Tư pháp đã được giao thêm nhiều nhiệm vụ mới, nhiều nhiệm vụ được mở rộng, tăng cường với những yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao về tiến độ và chất lượng. Căn cứ Nghị định số 172/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, ngày 5/5/2005, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 04/2005/TTLT-TP-NV quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của các cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp. So với Nghị định số 38/CP ngày 4/6/1993 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp và Thông tư liên bộ số 12/TTLB ngày của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ, Phòng Tư pháp được giao nhiều nhiệm vụ trên hơn 10 lĩnh vực công tác, trong đó có những nhiệm vụ được bổ sung, mở rộng như thẩm định văn bản quy phạm pháp luật do Uỷ ban nhân dân ban hành, phổ biến, giáo dục pháp luật; những nhiệm vụ mới được giao như kiểm tra văn bản, chỉ đạo hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ về công tác tư pháp cấp xã, trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách…

Do vậy, việc kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện trước hết phải xuất phát từ yêu cầu và để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho công tác tư pháp ở địa phương cũng như trong cả nước trong giai đoạn hiện nay.

2. Kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện là một nội dung quan trọng trong đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền cấp huyện và hệ thống cơ quan tư pháp từ trung ương đến cơ sở.

Theo quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 và Nghị định số 172/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ, Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước công tác tư pháp ở địa phương. Do đó, việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, xác định rõ vị trí, vai trò của chính quyền cấp huyện sẽ tác động trực tiếp tới mô hình và cơ cấu tổ chức, sự tồn tại cũng như cơ chế, phương thức hoạt động của các cơ quan chuyên môn trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, trong đó có Phòng Tư pháp. Mặt khác, kết quả hoạt động của Phòng Tư pháp có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật của chính quyền cấp huyện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xã hội của địa phương.

Theo quy định của pháp luật, các cơ quan tư pháp không chỉ giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc quản lý các công tác tư pháp ở địa phương mà còn bảo đảm quản lý thống nhất các công tác tư pháp từ Trung ương đến cơ sở. Đây là nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa quản lý ngành và quản lý theo lãnh thổ trong tổ chức quản lý nhà nước. Trong hệ thống các cơ quan tư pháp, Phòng Tư pháp chịu sự quản lý, chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp. Đồng thời, với vị trí là cơ quan chuyên môn cấp trên, Phòng Tư pháp cấp huyện có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ đối với công tác tư pháp cấp xã. Mặt khác, Phòng Tư pháp còn trực tiếp thực hiện nhiều nhiệm vụ mang tính chuyên ngành Tư pháp như trong quản lý công tác thi hành án dân sự, thực hiện chứng thực theo sự uỷ quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện… Hoạt động của Phòng Tư pháp đã góp phần tích cực vào việc tổ chức triển khai thực hiện trên thực tế ở địa phương các đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước cũng như các chương trình, kế hoạch công tác, sự chỉ đạo, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan tư pháp cấp trên.

Như vây, việc kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp là một nội dung quan trọng, có ý nghĩa trong quá trình kiện toàn, củng cố chính quyền cơ sở và hệ thống cơ quan tư pháp nhằm phát huy hiệu quả, sức mạnh của tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Đồng thời, Phòng Tư pháp cấp huyện cũng cần xác định rõ việc kiện toàn, nâng cao năng lực hoạt động phải dựa trên cơ sở và để bảo đảm cho việc đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng đã đề ra trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.

3. Gắn việc kiện toàn tổ chức với việc xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới phương pháp, quy trình làm việc, cải cách hành chính.

Mô hình tổ chức và đội ngũ cán bộ là hai vấn đề gắn bó chặt chẽ với nhau, có quan hệ tác động qua lại với nhau. Những biến động về tổ chức thường có ảnh hưởng mạnh đến đội ngũ cán bộ, quyết định đến phương hướng phát triển và sử dụng đội ngũ cán bộ, tạo điều kiện cho mỗi cán bộ có thể phát huy được năng lực, trình độ của mình. Và ngược lại đội ngũ cán bộ sẽ là nhân tố quyết định đến chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức. Thực tiễn, trong thời gian qua, những biến động về tổ chức của Phòng Tư pháp đã ảnh hưởng không nhỏ đến đội ngũ cán bộ cũng như chất lượng và hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện (Số cán bộ được đào tạo, có kinh nghiệm thường được thuyên chuyển mỗi khi sáp nhập tổ chức, đến khi tách ra lại điều động cán bộ mới về, kể cả cán bộ chủ chốt và cán bộ chuyên môn, tâm lý cán bộ chưa yên tâm công tác, khó khăn cho công tác quy hoạch đào tạo cán bộ).

 Cùng với đó, yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay đặt ra mục tiêu xây dựng một nền hành chính nhà nước thống nhất, ổn định, hoạt động thông suốt, có chế độ trách nhiệm rành mạch và kỷ cương nghiêm minh.

Do vậy, việc kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện phải được tiến hành trên cơ sở xác định rõ mục tiêu, mô hình tổ chức, cơ cấu cán bộ hợp lý và cơ chế hoạt động có hiệu quả, đổi mới phương thức và quy trình làm việc theo hướng công khai, đơn giản, thuận tiện, tăng cường tính chuyên nghiệp và giải quyết nhanh công việc của nhân dân, đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính. 

4. Phù hợp với tình hình thực tiễn, có bước đi thích hợp với điều kiện từng vùng, miền, địa phương, trên cơ sở kế thừa và phát triển những kết quả đã đạt được.

Như đã phân tích, trong quá trình hình thành và tồn tại của mình, tổ chức của Phòng Tư pháp luôn có sự biến động, không ổn định. Gần đây nhất là sau khi Nghị định số 12/2001/NĐ-CP ngày 27/3/2001 của Chính phủ về tổ chức lại một số cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh được ban hành, nhiều địa phương đã giữ ổn định và tiếp tục kiện toàn, củng cố tổ chức và cán bộ của Phòng Tư pháp. Trong khi đó, một số địa phương khác đã giải thể, sáp nhập Phòng Tư pháp vào cơ quan chuyên môn khác của Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Việc sáp nhập này đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cũng như đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện.

Cùng với đó, thực trạng tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp cho thấy đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện ở một số địa phương còn thiếu về số lượng và không hợp lý về cơ cấu cán bộ. Trình độ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ tư pháp cấp huyện còn thiếu năng lực, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật chưa cao, một số ít cán bộ còn có các vi phạm dẫn đến bị kỷ luật. Chất lượng, hiệu quả hoạt động của tư pháp cấp huyện vẫn chưa đồng đều và chưa đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vu. Đặc biệt, những khó khăn bất cập ngày càng gay gắt và bức xúc hơn đối với những địa phương sáp nhập Phòng Tư pháp vào Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Trên cơ sở quán triệt những quan điểm mới được thể hiện trong các chủ trương, chính sách của Đảng, tổng kết thực tiễn ngành tư pháp trong những năm qua, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, việc kiện toàn, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện phải quan tâm đến các đặc điểm, điều kiện thực tiễn của từng vùng, miền, địa phương, từ thực trạng tổ chức và cán bộ tư pháp cấp huyện để có bước đi và các biện pháp thích hợp nhằm khai thác thuận lợi, phát huy những kết quả đã được, khắc phục những hạn chế, tồn tại trong tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài địa phương và của ngành tư pháp.

II. MỤC TIÊU CỦA VIỆC KIỆN TOÀN, NÂNG CAO NĂNG LỰC, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ PHÁP CẤP HUYỆN

Mục tiêu tổng quát:

Quán triệt những quan điểm chỉ đạo của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, việc kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp nhằm mục tiêu Thống nhất về tổ chức Phòng Tư pháp cấp huyện trong cả nước, tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển,  đáp ứng yêu cầu triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của ngành Tư pháp, cải cách hành chính, quản lý nhà nước bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hội nhập khu vực và quốc tế.

Mục tiêu cụ thể:

1. Kiện toàn tổ chức Phòng Tư pháp, bảo đảm 100% huyện có Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương. Tuỳ theo khối lượng công việc, điều kiện cụ thể của từng vùng, miền, địa phương hình thành tổ chức, giao biên chế và cán bộ bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp ở địa phương.

2. Xác định cụ thể nội dung và thẩm quyền quản lý công tác tư pháp đổi mới cơ chế hoạt động, quy trình và phương thức làm việc, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu thực hiện chủ trương đẩy mạnh phân cấp cho địa phương và Chương trình cải cách tổng thể nền hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010.

3. Tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, có phẩm chất chính trị, đạo đức, thạo về chuyên môn, có năng lực triển khai trên thực tế các nhiệm vụ công tác tư pháp cấp huyện; nhận thức đầy đủ về mối quan hệ, ý nghĩa, tầm quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ của cán bộ tư pháp cấp huyện đối với việc thực thi các nhiệm vụ chung của ngành và địa phương.

Đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện bảo đảm đáp ứng các tiêu chuẩn sau:

+ Trung thành với chế độ, tận tuỵ với nhân dân, trọng sạch về đạo đức, lối sống;

+ Nắm bắt kịp thời quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, am hiểu tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ công tác Tư pháp được giao.

+ Chủ động, sáng tạo vận dụng các quan điểm, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như ý kiến chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương và cơ quan tư pháp cấp trên trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ được giao;

+ Thông thạo kỹ năng nghiệp vụ công tác tư pháp, có khả năng chủ động tổ chức thực hiện và phối hợp với các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị  để triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp đến cơ sở.

Về trình độ chuyên môn: Đại học Luật,  trung cấp lý luận chính trị, có kiến thức cơ bản về quản lý nhà nước,  ngoại ngữ, vi tính theo tiêu chuẩn ngạch công chức được bổ nhiệm.

III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CỤ THỂ KIỆN TOÀN, NÂNG CAO NĂNG LỰC, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ PHÁP CẤP HUYỆN

1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện.

Việc hoàn thiện cơ sở pháp lý có liên quan đến tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương là cần thiết để mở đường cho việc kiện toàn và nâng cao năng lực, đổi mới phương thức hoạt động, lề lối làm việc của Phòng Tư pháp cấp huyện trên cơ sở các quy định của pháp luật. Cụ thể như sau:

- Tiến hành sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức, cơ cấu chức danh của cơ quan tư pháp địa phương nói chung và cấp huyện nói riêng, cơ chế phối hợp thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp cấp huyện giữa Phòng Tư pháp với các cơ quan, đơn vị có liên quan.

+ Sửa đổi Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về quản lý và đăng ký hộ tịch theo hướng bảo đảm quyền và nghĩa vụ của công dân, đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hoá thủ tục; phân định rõ thẩm quyền của cơ quan tư pháp địa phương, xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tư pháp địa phương các cấp trong quản lý và đăng ký hộ tịch. Đối với Phòng Tư pháp, việc sửa đổi nhằm tăng cường vai trò của Phòng Tư pháp trong việc tham mưu với Uỷ ban nhân dân cùng cấp tổ chức tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật về hộ tịch; hướng dẫn, kiểm tra công tác đăng ký hộ tịch ở cấp xã bao gồm việc tổ chức thực hiện và thực hiện các quy định về đăng ký hộ tịch, ghi sổ sách, biểu mẫu hộ tịch; kiến nghị, đề xuất việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo, xử lý các vi phạm về hộ tịch theo quy định (trong đó có cả việc xử lý giấy tờ hộ tịch do Uỷ ban nhân dân cấp xã cấp trái với quy định của pháp luật).

+ Sửa đổi Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực theo hướng xã hội hoá  hoạt động công chứng trên cơ sở phân định rõ nội dung, giá trị pháp lý của công chứng và chứng thực; áp dụng cơ chế “một cửa” trong hoạt động chứng thực của Phòng Tư pháp.

- Sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật khác thuộc phạm vi, đối tượng quản lý của ngành Tư pháp như quốc tịch, thi hành án, hoà giải ở cơ sở, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý… theo hướng cụ thể, đồng bộ, thống nhất, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức triển khai thực hiện ở cơ sở.

2. Kiện toàn tổ chức, cán bộ Phòng Tư pháp cấp huyện.

- Căn cứ vào Nghị định số 172/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành lập lại Phòng Tư pháp đã bị sáp nhập vào cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

- Tiếp tục củng cố tổ chức Phòng Tư pháp trong phạm vi cả nước, tăng cường biên chế phù hợp với từng địa phương, vùng miền: cấp quận là 8-10 người, cấp huyện ở vùng đô thị và đồng bằng là 6-8 người, đối với huyện ít biên chế, thiếu cán bộ, số lượng cán bộ có thể từ 4-5 người. Cơ cấu công chức gồm có Trưởng phòng, Phó trưởng phòng và các công chức khác đảm nhận nhiệm vụ về xây dựng và tuyên truyền, phổ biến pháp luật; chứng thực; quản lý hộ tịch và hướng dẫn nghiệp vụ đối với tư pháp cấp xã.

- Thực hiện tuyển dụng những công chức có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực theo tiêu chuẩn, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ Phòng Tư pháp không ngừng học tập, rèn luyện; nâng cao chất lượng cho đội ngũ công chức tư pháp cấp huyện theo những hình thức, phương pháp phù hợp với điều kiện của địa phương đáp ứng yêu cầu triển khai công tác tư pháp cấp huyện và hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ đối với công tác tư pháp cơ sở.

3. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp uỷ, chính quyền địa phương và cơ quan tư pháp cấp trên đối với công tác tư pháp cấp huyện.

- Đề cao trách nhiệm của cấp uỷ và chính quyền địa phương đối với việc kiện toàn, củng cố cơ quan tư pháp cấp  huyện cũng như trong lãnh đạo và chỉ đạo công tác tư pháp cấp huyện.

Cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương cần tăng cường chỉ đạo việc kiện toàn, củng cố Phòng Tư pháp và đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện. Các nhiệm vụ công tác tư pháp cấp huyện được xác định một nội dung trong chương trình, kế hoạch công tác định kỳ định kỳ, thường xuyên của cấp uỷ, chính quyền cấp huyện trong việc củng cố, kiện toàn bộ máy, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp huyện.

- Cơ quan tư pháp cấp trên (Sở Tư pháp)  cần quan tâm đến việc chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ Phòng Tư pháp, thường xuyên tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu thực tiễn, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ công tác tư pháp.

- Coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, đánh giá đúng chất lượng, hiệu quả công tác để khẳng định vị trí, vai trò của công tác tư pháp cấp huyện, giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện đồng thời để nâng cao nhận thức, thống nhất sự phối hợp hoạt động của các cấp, các ngành đối với công tác Tư pháp ở cấp huyện.

- Đầu tư thoả đáng cho việc nghiên cứu định hướng, chiến lược xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan hành chính các cấp nói riêng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, với những giải pháp tổ chức thực hiện cụ thể. Cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cấp chính quyền, từng cơ quan trong bộ máy nhà nước từ đó hình thành tổ chức phù hợp.

4. Đổi mới cơ chế quản lý đối với tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp

- Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Sở Tư pháp  trong quản lý tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện, đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành bảo đảm sự quản lý thống nhất, thông suốt và phát huy được tính chủ động, sáng tạo của Phòng Tư pháp trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao.

- Thực hiện đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà  nước về công tác tư pháp cho cấp huyện, cấp xã và xác định rõ hơn nội dung quản lý nhà nước cụ thể của mỗi cấp.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, đánh giá tình hình và kết quả hoạt động của tư pháp cấp huyện, từng bước mở rộng các hình thức giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện. Khi phát hiện có vi phạm pháp luật cần xử lý kịp thời, nghiêm minh tổ chức, cá nhân có vi phạm, công khai hoá kết quả xử lý nhằm mục đích phòng ngừa, răn để vào giáo dục ý thức chấp hành pháp luật.

5. Đổi mới phương thức hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện.

a - Hoàn thiện cơ chế hoạt động, cải tiến lề lối làm việc.

- Đổi mới và nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch công tác theo sự chỉ đạo, hướng dẫn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện và cơ quan Tư pháp cấp trên. Kế hoạch, chương trình công tác tư pháp cấp huyện phải quán triệt và thực hiện được nội dung, kế hoạch chương trình công tác của cơ quan tư pháp cấp trên và đồng thời thể hiện được Nghị quyết và kế hoạch, chương trình công tác của cấp uỷ, chính quyền địa phương cùng cấp, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở từng địa phương.

- Quy định rõ thẩm quyền và xác định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan về kết quả, chất lượng, hiệu quả, tiến độ thực hiện nhiệm vụ của Phòng Tư pháp cấp huyện.

- Xây dựng và thực hiện các quy trình làm việc hiệu quả, khoa học, đơn giản, thuận tiện cho nhân dân. Đối với các công việc có liên quan đến công dân, thực hiện công khai các quy trình thủ tục, thời gian và mức lệ phí thực hiện; hướng dẫn về địa điểm và cán bộ thực hiện; theo dõi và đánh giá sự đáp ứng yêu cầu của công dân trong việc thực hiện công việc thông qua ý kiến phản hồi của công dân, đặc biệt là trong lĩnh vực chứng thực và quản lý công tác hộ tịch ở địa phương.

- Đổi mới và hiện đại hoá từng bước phương tiện làm việc.

- Xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện, đặt kết quả, chất lượng hoạt động trong mối quan hệ với mục đích và yêu cầu nhiệm vụ, số lượng và nội dung của các khiếu nại của nhân dân đối với hoạt động của Phòng  Tư pháp và cán bộ tư pháp cấp huyện.

b- Thực hiện nghiêm túc chế độ sơ kết, định kỳ 6 tháng và tổng kết hàng năm. Nội dung sơ kết, tổng kết cần tập trung, kiểm điểm đánh giá kết quả đã đạt được, những tồn tại cần khắc phục, đồng thời biểu dương, khen thưởng kịp thời những đơn vị, cá nhân có thành tích tốt, kinh nghiệm hay trong công tác và đề ra phương hướng, chương trình, kế hoạch công tác sát hợp với nhiệm vụ công tác trong thời gian tiếp theo.

c- Xây dựng cơ chế và bảo đảm sự phối hợp giữa Phòng Tư pháp với các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp như công tác xây dựng văn bản, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật... Tăng cường sự phối hợp giữa Phòng Tư pháp với các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức tự quản của nhân dân trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp ở địa phương, đặc biệt là trong lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý và hoà giải ở cơ sở.

 

6. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện

Tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ có ý nghĩa quyết định tới việc nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện, “có cán bộ tốt, việc gì cũng xong, mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.  Để xây dựng và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện  cần thực hiện đồng bộ các biện pháp cụ thể sau đây:

- Đổi mới công tác đánh giá cán bộ, gắn đánh giá với quy hoạch, bố trí và sử dụng cán bộ, xác định đánh giá cán bộ là một yêu cầu bắt buộc trong quy trình thực hiện hiện quy hoạch, sử dụng và bố trí cán bộ bao gồm việc tự đánh giá của cán bộ và đánh giá của cơ quan, tổ chức đối với cán bộ, bên cạnh việc đánh giá cán bộ thường niên. Việc đánh giá căn cứ vào kết quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo, phẩm chất và năng lực cán bộ, xây dựng những tiêu chí cụ thể để đánh giá cán bộ.

- Xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện. Quy hoạch đội ngũ cán bộ này phải tiến hành đồng thời với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện nói chung và phải xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của Phòng Tư pháp, thực trạng đội ngũ cán bộ hiện có, dự kiến nhu cầu, khả năng phát triển của đội ngũ cán bộ để chủ động tạo nguồn cán bộ đủ tiêu chuẩn theo quy định bao gồm cả cán bộ chuyên môn và cán bộ lãnh đạo.

- Thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, tiến hành phân loại và xác định các biện pháp để từng bước thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ. Đối với những cán bộ đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định đã đề ra thì cần tạo điều kiện để họ làm việc ổn định, lâu dài. Đối với những nơi còn thiếu, thực hiện việc tuyển chọn cán bộ đáp ứng đủ các tiêu chuẩn chức danh theo quy định và theo mục tiêu đã đề ra.

- Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phát triển nguồn nhân lực là một trong những nội dung mấu chốt của việc kiện toàn, củng cố tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện và thực hiện cải cách phương thức và lề lối làm việc của cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay.

  • Bộ Tư pháp phối hợp với các cơ quan Nhà nước có liên quan tiếp tục hoàn thiện mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp nói chung và trong đó có cán bộ tư pháp cấp huyện; xây dựng nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng thống nhất trong phạm vi cả nước, trong đó chú trọng cơ cấu phần kỹ năng nghiệp vụ tương xứng với yêu cầu đặt ra cho đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện; 
  • Trên cơ sở mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Tư pháp cấp huyện, xây dựng và hoàn thiện hệ thống giáo trình, tài liệu phục vụ kịp thời công tác đào tạo, bồi dưỡng theo hướng phù hợp với các quan điểm, đường lối của Đảng, sát với thực tiễn đất nước, nội dung thiết thực với các vùng mình, các địa phương.
  • Mở rộng và đa dạng hoá các loại hình đạo tạo, bồi dưỡng phù hợp với điều kiện từng vùng miền, địa phương và đối tượng đào tạo, bồi dưỡng, quan tâm đến việc bồi dưỡng các tiếng dân tộc đối với những cấp huyện có đồng bào dân tộc sinh sống. Đổi mới phương pháp giảng dạy, kết hợp lý luận với thực tiễn, gắn lý thuyết với thực hành, kỹ năng xử lý các tình huống trong trường hợp cụ thể.

- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các chế độ, chính sách phù hợp với công chức tư pháp bảo đảm mối quan hệ hợp lý giữa tiền lương với chức năng, nhiệm vụ đang đảm nhận.

7. Bảo đảm nguồn kinh phí phục vụ hoạt động của Tư pháp cấp huyện.

Chuẩn bị các nguồn lực cho việc kiện toàn, củng cố Phòng Tư pháp cấp huyện cũng như bảo đảm các điều kiện vật chất, tài chính, phương tiện kỹ thuật cho hoạt động tư pháp cấp huyện.

- Cần xác định rõ khoản kinh phí cho các hoạt động của tư pháp cấp huyện là một bộ phận của ngân sách cấp huyện để Phòng Tư pháp chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai các hoạt động tư pháp ở địa phương.

Đối với những huyện có khó khăn về kinh phí cấp tỉnh cần có sự hỗ trợ về kinh phí hoặc trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác Tư pháp ở những địa phương này, khắc phục tình trạng bỏ trống nhiệm vụ do thiếu kinh phí thực hiện.

- Những địa phương thực hiện việc thí điểm khoán kinh phí và biên chế hành chính đối với Phòng Tư pháp đánh giá kết quả đã đạt được cũng như những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, trên cơ sở đó có sự điều chỉnh định mức khoán cho phù hợp.

- Cần có biện pháp và cơ chế động viên, khuyến khích, phát huy nguồn nhân lực, tài lực ở địa phương vào việc thực hiện công tác Tư pháp ở cơ sở./.

 

KẾT LUẬN

 

Phòng Tư pháp cấp huyện là một bộ phận hữu cơ của hệ thống chính quyền nhà nước và là một mắt xích quan trọng của hệ thống các cơ quan tư pháp, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước và phục vụ nhân dân.  Trải qua lịch sử 60 năm xây dựng và phát triển, cùng với sự vững mạnh của chính quyền nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự trưởng thành và lớn mạnh của ngành tư pháp, Phòng Tư pháp cũng không ngừng được củng cố, tăng cường và phát triển, đáp ứng kịp thời yêu cầu cách mạng của mỗi thời kỳ, đóng góp to lớn vào sự nghiệp chung của đất nước, của dân tộc.

Trong giai đoạn đổi mới, Phòng Tư pháp cấp huyện đã có bước phát triển mới về chức năng, nhiệm vụ, từng bước được kiện toàn, củng cố về tổ chức và cán bộ. Nhiều lĩnh vực hoạt động của tư pháp cấp huyện đã được triển khai sâu rộng và có hiệu quả như giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý thống nhất công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thực hiện tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, quản lý hộ tịch, thực hiện chứng thực, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ cho Ban Tư pháp cấp xã. Các hoạt động của tư pháp cấp huyện đã góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của địa phương và của ngành Tư pháp, bảo đảm sự thống nhất quản lý công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở. Cơ sở pháp lý cũng như thực tiễn hoạt động đã khẳng định Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, được tổ chức thống nhất trong cả nước và đồng thời là mắt xích quan trọng của hệ thống cơ quan tư pháp từ trung ương đến cơ sở, thực hiện chức năng “tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, chứng thực, hộ tịch, trợ giúp pháp lý, hoà giải ở cơ sở và các công tác tư pháp khác ”.

Yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và xu thế hội nhập quốc tế và khu vực theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba Khoá VIII  đã đặt ra cho ngành Tư pháp nói chung và Phòng Tư pháp nói riêng những yêu cầu mới và nhiệm vụ mới, trong đó có những nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cũng như tạo lập cơ chế tổ chức thực hiện và đưa pháp luật vào cuộc sống một cách có hiệu quả, nâng cao ý thức pháp luật, mở rộng và phát huy dân chủ ở cơ sở, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân.

Vì vậy, việc kiện toàn, củng cố, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay là hết sức khách quan và cấp thiết. Việc kiện toàn, củng cố Phòng Tư pháp cấp huyện không chỉ đáp ứng yêu cầu trước mắt mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương cũng như các nhiệm vụ của ngành Tư pháp. Quá trình kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện là khó khăn, phức tạp, có liên quan đến trách nhiệm của nhiều cấp, nhiều ngành từ Trung ương đến cơ sở mà trước hết là chính quyền cấp huyện và cơ quan tư pháp các cấp. Điều đó đòi hỏi phải có sự nhận thức thống nhất, quyết tâm cao, phát huy thế mạnh và tính chủ động, sáng tạo của địa phương, đồng thời cần có bước đi thích hợp với điều kiện thực tiễn của từng vùng, miền địa phương; thực hiện đồng bộ và hiệu quả các giải pháp như xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp, kiện toàn về tổ chức và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp uỷ, chính quyền địa phương và cơ quan tư pháp cấp trên đối với công tác tư pháp cấp huyện, đổi mới phương thức, cải tiến lề lối làm việc, đổi mới cơ chế quản lý đối với tổ chức và hoạt động của tư pháp cấp huyện, chuẩn bị và bảo đảm các nguồn lực cần thiết về tài chính, cơ sở vật chất-kỹ thuật cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp cũng như cho việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp cấp huyện.

 

 

 

 

File đính kèm downloadTải về downloadTải về