Kỹ thuật lập pháp có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần quyết định chất lượng của các văn bản pháp luật nói chung cũng như Bộ luật Hình sự (BLHS) nói riêng. Tuy nhiên, trong suốt quá trình từ khi có BLHS đầu tiên đến nay, vấn đề này chưa khi nào được đặt ra trong các lần sửa đổi, bổ sung BLHS.
Từ đó đòi hỏi trong lần sửa đổi cơ bản, toàn diện BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), vấn đề kỹ thuật lập pháp cần phải được đặt ra. Trong đó, có những vấn đề cụ thể sau:
- Xây dựng hệ thống các thuật ngữ trong Phần chung BLHS (trên cơ sở sửa đổi các thuật ngữ đang được sử dụng và bổ sung một số thuật ngữ cần thiết) đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đối với thuật ngữ.
- Xây dựng hệ thống các định nghĩa khái niệm trong Phần chung BLHS (trên cơ sở sửa đổi các định nghĩa đang được sử dụng và bổ sung các định nghĩa cần thiết nhưng chưa có) đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đối với định nghĩa khái niệm.
- Chuẩn hóa tên các chương tội phạm trong Phần các tội phạm BLHS để bảo đảm đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đối với tên nhóm tội.
- Chuẩn hoá các tội danh trong BLHS để bảo đảm đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đối với tội danh.
Để có cơ sở cho việc hoàn thiện BLHS về mặt kỹ thuật lập pháp với các nội dung cụ thể nêu trên việc nghiên cứu để xây dựng, chuẩn hóa hệ thống các thuật ngữ luật hình sự là rất cần thiết, có ý nghĩa thiết thực.
Mục tiêu nghiên cứu của Đề tài là tạo danh mục các thuật ngữ luật hình sự đã được chuẩn hóa phục vụ việc sửa đổi, bổ sung BLHS, bao gồm:
- Danh mục các thuật ngữ trong Phần chung BLHS;
- Bảng định nghĩa các khái niệm trong Phần chung BLHS;
- Danh mục tên các chương tội phạm;
- Danh mục các tội danh.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, Ban chủ nhiệm Đề tài đã triển khai các bước sau: Nghiên cứu lý thuyết; Đánh giá thực tiễn; Tổng hợp các đánh giá và đề xuất; Thăm dò ý kiến; Hoàn chỉnh kết quả nghiên cứu.
Qua nghiên cứu, Đề tài xác định được các yêu cầu đối với thuật ngữ và định nghĩa khái niệm trong Phần chung cũng như đối với tội danh và tên các chương trong Phần các tội phạm BLHS. Trên cơ sở này, Đề tài đã đánh giá các thuật ngữ, các định nghĩa khái niệm, các tội danh
và tên các chương tội phạm trong BLHS theo các yêu cầu đã được xác định và từ đó đề xuất:
+ Sửa đổi 36 thuật ngữ và bổ sung 4 thuật ngữ;
+ Sửa đổi 20 định nghĩa khái niệm và bổ sung 23 định nghĩa khái niệm;
+ Sửa đổi 119 tội danh;
+ Nguyên tắc đặt tên các chương trong Phần các tội phạm BLHS.
1. Về các thuật ngữ trong Phần chung Bộ luật Hình sự
1.1. Các yêu cầu đối với thuật ngữ trong Phần chung Bộ luật Hình sự
Thuật ngữ luật hình sự là từ hoặc cụm từ được dùng làm tên gọi chính xác của các khái niệm thuộc lĩnh vực luật hình sự. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của một số nhà ngôn ngữ học đã được công bố[1] cũng như căn cứ vào thực trạng của việc sử dụng thuật ngữ luật hình sự trong BLHS nhóm nghiên cứu cho rằng thuật ngữ luật hình sự cần có các đặc điểm sau:
- Có tính chính xác;
- Có tính hệ thống;
- Đúng về ngữ học;
- Ngắn gọn.
Thuật ngữ luật hình sự được coi là có tính chính xác khi thuật ngữ đó rõ ràng về nghĩa, phản ánh đúng khái niệm, tránh hiểu nhầm, không gây nhầm lẫn với các khái niệm khác thuộc luật hình sự cũng như khái niệm của các ngành luật khác; mỗi khái niệm thuộc luật hình sự chỉ có một thuật ngữ là tên gọi và ngược lại mỗi thuật ngữ luật hình sự chỉ có thể là tên gọi của một khái niệm thuộc luật hình sự mà không thể là tên gọi của các khái niệm thuộc các ngành luật khác.
Thuật ngữ luật hình sự được coi là có tính hệ thống khi thuật ngữ đó thể hiện được vị trí, mối quan hệ của nó với các thuật ngữ khác trong hệ thống các thuật ngữ luật hình sự, phản ánh tính hệ thống của các khái niệm thuộc ngành luật hình sự. Theo đó, việc sử dụng từ ngữ và cách cấu trúc các thuật ngữ phải có tính thống nhất.
Thuật ngữ luật hình sự có thể là từ nhưng cũng có thể là tập hợp từ. Đối với những thuật ngữ là tập hợp từ, khi xây dựng cần bảo đảm được cấu trúc đúng cách vì thuật ngữ cũng như thuật ngữ luật hình sự đều là bộ phận của ngôn ngữ nói chung, “chịu sự chi phối của các quy luật ngữ âm, cấu tạo từ và ngữ pháp của ngôn ngữ nói chung”[2].
Ngoài ba yêu cầu trên, thuật ngữ luật hình sự cũng cần đáp ứng yêu cầu về tính ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ của thuật ngữ.
1.2. Kết quả đánh giá các thuật ngữ được sử dụng trong Phần chung BLHS và kiến nghị sửa đổi, bổ sung
Đối chiếu các thuật ngữ trong Phần chung BLHS Việt Nam với các yêu cầu của thuật ngữ, nhóm nghiên cứu xác định có 47 thuật ngữ bảo đảm yêu cầu; 36 thuật ngữ cần sửa đổi. Đó là các thuật ngữ không bảo đảm tính chính xác (trùng lặp với thuật ngữ của ngành khác, không rõ ràng về nghĩa, phản ánh không đúng, không chuẩn xác khái niệm); không bảo đảm tính hệ thống, logic hoặc không bảo đảm tính ngắn gọn, chuẩn xác về ngữ học. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng đề xuất bổ sung 4 thuật ngữ mới, trong đó có 2 thuật ngữ là tên gọi của hai khái niệm đã được thừa nhận trong thực tiễn và 2 thuật ngữ là tên gọi của các khái niệm cần được bổ sung để phù hợp với pháp luật quốc tế.
1.2.1. Các thuật ngữ cần được sửa đổi
Các thuật ngữ cần được sửa đổi có thể phân thành các nhóm sau:
Thứ nhất, nhóm các thuật ngữ trùng với các thuật ngữ của ngành luật hành chính
Một số thuật ngữ đang được sử dụng trong BLHS hoàn toàn trùng với thuật ngữ phản ánh các khái niệm của ngành luật hành chính. Đó là tên gọi một số loại hình phạt. Cụ thể, các thuật ngữ cảnh cáo (Điều 29), phạt tiền (Điều 30), trục xuất (Điều 32) là tên gọi của các hình phạt trong BLHS nhưng cũng là tên gọi của 3 hình thức xử phạt của trách nhiệm hành chính. Do vậy, những thuật ngữ này không bảo đảm tính chính xác.
Để khắc phục sự trùng lặp này có thể sửa đổi bằng cách bổ sung từ “hình phạt” vào tên gọi hiện nay để có các thuật ngữ: Hình phạt cảnh cáo; hình phạt tiền, hình phạt trục xuất.
Thuật ngữ là tên gọi các loại hình phạt khác tuy rõ ràng, không trùng với các thuật ngữ thuộc ngành luật khác nhưng để bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống cũng cần sửa các thuật ngữ này theo cách chung nêu trên[3]. Ngoài ra, thuật ngữ “cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định” (Điều 36) cần tách hai thuật ngữ là “hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ” và thuật ngữ “hình phạt cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định”. Việc tách này là cần thiết vì cấm đảm nhiệm chức vụ và cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định có tính chất khác nhau nên không thể để chung là một loại hình phạt.
Thứ hai, nhóm các thuật ngữ phản ánh chưa rõ, không đúng khái niệm
- Thuật ngữ “các biện pháp tư pháp” (Chương VI)
Thuật ngữ này chưa thể hiện rõ ràng khái niệm cần phản ánh trong sự so sánh với khái niệm hình phạt. Với tên gọi này thì hình phạt cũng có thể được xác định thuộc các biện pháp tư pháp vì hình phạt cũng thuộc lĩnh vực tư pháp. Khái niệm được đề cập ở đây tuy có liên quan với khái niệm hình phạt nhưng là khái niệm độc lập phản ánh đối tượng có mục đích và nội dung riêng. Tên gọi của khái niệm này phải phản ánh được đặc điểm riêng đó để có thể phân biệt được với khái niệm hình phạt. Tham khảo luật hình sự của một số quốc gia khác, cũng không thấy quốc gia nào khi đặt tên cho các biện pháp này sử dụng từ “tư pháp”. Cụ thể: Tên gọi của khái niệm tương ứng với khái niệm này trong BLHS Cộng hoà Liên bang Đức là “các biện pháp xử lý hoàn thiện và bảo đảm an toàn” (Điều 61); trong BLHS Liên bang Nga là “các biện pháp pháp luật hình sự khác” (Mục VI); trong BLHS Thụy Điển là “các biện pháp xử lý hình sự đặc biệt khác đối với tội phạm” và trong BLHS của Việt Nam cộng hoà năm 1972 là “biện pháp phòng vệ” (Điều 50).
Căn cứ vào mục đích cũng như nội dung của các biện pháp tư pháp đã được quy định có thể sửa đổi thuật ngữ “các biện pháp tư pháp” thành “biện pháp khắc phục, phòng ngừa”. Tên gọi này phản ánh rõ mục đích trực tiếp của biện pháp là khắc phục hậu quả của hành vi phạm tội cũng như phòng ngừa việc phạm tội lại. Điều này cũng thể hiện sự khác biệt của khái niệm này với khái niệm hình phạt.
- Thuật ngữ “sự kiện bất ngờ” (Điều 11)
Thuật ngữ này chưa thể hiện rõ ràng khái niệm. Đối tượng được khái niệm này phản ánh là một trường hợp không có lỗi - trường hợp chủ thể do khách quan đã không thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi của mình. Tên gọi hiện nay của khái niệm không thể hiện được nội dung này mà mới chỉ phản ánh được nguyên nhân của việc không có lỗi. Tham khảo luật hình sự của một số quốc gia khác, không có quốc gia nào có tên gọi tương tự như vậy. Tên gọi của khái niệm tương ứng với khái niệm này trong BLHS Liên bang Nga là “gây ra hậu quả nhưng không có lỗi” (Điều 28).
Do vậy, thuật ngữ “sự kiện bất ngờ” cần phải được thay thế bằng thuật ngữ phản ánh đúng nội dung của khái niệm. Thuật ngữ thay thế có thể là “không có lỗi do sự kiện bất ngờ”. Từ thuật ngữ này có thể xây dựng tên gọi cho các trường hợp không có lỗi khác: Không có lỗi do bất khả kháng (trường hợp này được gọi trong một số tài liệu là trường hợp “bất khả kháng”) và không có lỗi do không có năng lực lỗi. Tuy nhiên, tên gọi “không có lỗi do sự kiện bất ngờ” cũng chưa thật rõ ràng bởi ở trường hợp ‘bất khả kháng” cũng có tính bất ngờ. “Sự kiện bất ngờ” và trường hợp “bất khả kháng” khác nhau ở chỗ: “bất ngờ” nên không thấy trước hậu quả và “bất ngờ” nên không thể tránh được hậu quả mặc dù thấy trước hậu quả. Do vậy, tên chính xác hơn cho “sự kiện bất ngờ” có thể là: “Không có lỗi do không thấy trước hậu quả” còn tên cho “bất khả kháng” có thể là: “Không có lỗi do không thể tránh được hậu quả”.
- Thuật ngữ “tình thế cấp thiết” (Điều 16)
Đây cũng là thuật ngữ chưa thể hiện rõ ràng khái niệm. Đối tượng được khái niệm này phản ánh là trường hợp gây thiệt hại nhưng được coi là hợp pháp và việc gây thiệt hại được thừa nhận là quyền của mỗi cá nhân vì việc làm này là cần thiết cho xã hội được xác định bởi hoàn cảnh khách quan có tính cấp thiết. Tên gọi hiện nay của khái niệm mới chỉ thể hiện được hoàn cảnh khách quan đó mà chưa thể hiện được nội dung chính của khái niệm là hành vi gây thiệt hại hợp pháp của chủ thể. Do vậy, thuật ngữ “tình thế cấp thiết” cần được sửa đổi để phản ánh đúng khái niệm. Thuật ngữ thay thế cho “tình thế cấp thiết” có thể là “gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết” hoặc “hành vi cấp thiết”. Tham khảo 6 BLHS có tên gọi cho trường hợp này cho thấy, tên gọi trong 3 BLHS phản ánh hành vi chứ không phản ánh hoàn cảnh. Cụ thể: Tên gọi của khái niệm tương ứng với khái niệm này trong BLHS Trung Quốc là “phòng tránh nguy hiểm” (Điều 21); trong BLHS Nhật Bản là “ngăn ngừa mối nguy hiểm đang diễn ra” (Điều 37) và trong BLHS của Việt Nam cộng hoà năm 1972 là “hành vi thiết bách” (Điều 75).
- Thuật ngữ “giảm mức hình phạt đã tuyên” (Điều 58)
Thuật ngữ này không thể hiện đúng khái niệm. Đối tượng được khái niệm này phản ánh không phải là việc thay đổi (giảm) hình phạt đã tuyên. Hình phạt đã tuyên trong bản án không có sự thay đổi. Đây chỉ là trường hợp giảm thời hạn chấp hành hình phạt đã tuyên và định nghĩa khái niệm cũng xác định rõ như vậy. Tên gọi này cũng mâu thuẫn với tên gọi “giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt” (Điều 59). Cùng chỉ một vấn đề - ở trường hợp bình thường và trường hợp đặc biệt nhưng tên gọi cho hai trường hợp này lại khác nhau hoàn toàn: “giảm mức hình phạt đã tuyên” và “giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt”. Trong đó, thuật ngữ thứ hai là thuật ngữ phản ánh đúng khái niệm. Do vậy, thuật ngữ “giảm mức hình phạt đã tuyên cần thay đổi thành “giảm thời hạn chấp hành hình phạt” để cho đúng với nội dung khái niệm và cũng thống nhất với thuật ngữ “giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt”.
- Thuật ngữ “tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự” (Điều 13)
Thuật ngữ này thể hiện không đúng khái niệm vì có nội dung rộng hơn so với khái niệm. Khái niệm được mô tả trong điều luật chỉ là một trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự - không có năng lực trách nhiệm hình sự do mắc bệnh dẫn đến mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi. Bên cạnh đó còn có trường hợp khác cũng thuộc tình trạng này là trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.[4] Như vậy, tên gọi của khái niệm bao quát cả hai trường hợp nhưng nội dung của khái niệm được mô tả chỉ thể hiện một trường hợp.
Như vậy, tên gọi cho khái niệm được quy định tại Điều 13 BLHS không phải là “tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự”. Tên gọi cho trường hợp này có thể là “tình trạng không có năng lực lỗi” hay “không có năng lực lỗi”. Tên gọi “tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự” hay “không có năng lực trách nhiệm hình sự” được dùng cho khái niệm khác. Đó là trường hợp không có năng lực lỗi và trường hợp chưa đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Trong các BLHS được nghiên cứu, chỉ có BLHS của Liên bang Nga đặt tên tương tự như BLHS Việt Nam. Tên gọi của khái niệm tương ứng với khái niệm này trong BLHS của Cộng hoà Liên bang Đức là “không có năng lực lỗi do các rối loạn tâm thần” (Điều 20). Trong BLHS của Pháp (Điều 122-1), Bộ luật hình sự của Việt Nam cộng hoà năm 1972 (Điều 76) hay trong Bộ tổng luật Hoa Kỳ (Điều 17 chương 1 Tiểu mục 18) đều có quy định về việc loại trừ trách nhiệm hình sự do bị mắc bệnh tâm thần nhưng không có tên gọi cho các trường hợp này.
Thứ ba, nhóm thuật ngữ phản ánh chưa chuẩn xác khái niệm
- Thuật ngữ “trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại” (Điều 42)
Thuật ngữ này chưa thể hiện được tính chất cưỡng chế của biện pháp khắc phục, phòng ngừa. Trong khi đó, một biện pháp khắc phục, phòng ngừa khác có tên gọi thể hiện rất rõ tính chất cưỡng chế này đó là thuật ngữ “buộc công khai xin lỗi”. Việc trả lại tài sản, sửa chữa hay bồi thường thiệt hại ở đây không phải là việc làm bình thường như trong quan hệ pháp luật dân sự mà là biện pháp cưỡng chế bên cạnh biện pháp cưỡng chế khác là hình phạt. Do vậy, để phản ánh chuẩn xác khái niệm và cũng để bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống cần bổ sung từ “buộc” vào tên gọi hiện nay. Ngoài ra, cũng cần tách biện pháp này thành 2 biện pháp là “buộc trả lại tài sản” và “buộc sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại” vì trả lại tài sản có tính chất khác với sửa chữa và bồi thường thiệt hại. Do vậy, thuật ngữ “trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại” cần được sửa đổi thành “buộc trả lại tài sản” và “buộc sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại”.
- Thuật ngữ “đưa vào trường giáo dưỡng” (Điều 70)
Thuật ngữ này chưa thể hiện được nội dung chính của khái niệm. Vấn đề ở đây là giáo dục tại trường giáo dưỡng chứ không chỉ đơn thuần là việc đưa vào trường giáo dưỡng. Do vậy, để phản ánh chuẩn xác khái niệm cần sửa đổi thuật ngữ “đưa vào trường giáo dưỡng” thành “giáo dục tại trường giáo dưỡng”. Thuật ngữ mới này cũng sẽ bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống với thuật ngữ “giáo dục tại xã, phường, thị trấn (trong phần tiếp theo, thuật ngữ này được đề nghị sửa thành “giáo dục tại cộng đồng”). BLHS của Liên bang Nga và của Thụy Điển là 2 BLHS có quy định biện pháp tương tự đều đặt tên gắn với hoạt động chăm sóc, giáo dục tác động đến người phạm tội. Cụ thể: Trong BLHS của Liên bang Nga là “các biện pháp giáo dục bắt buộc”, trong BLHS Thụy Điển là “chăm sóc người chưa thành niên”.
Thứ tư, nhóm thuật ngữ không bảo đảm tính hệ thống, logic
- Thuật ngữ “phạm tội có tổ chức” (Điều 20)
Thuật ngữ này không bảo đảm tính hệ thống, logic vì khái niệm cần được đặt tên không phải là về trường hợp đặc biệt của phạm tội nói chung mà là trường hợp đặc biệt của hình thức phạm tội “đồng phạm” bên cạnh hình thức phạm tội riêng lẻ. Do vậy, thuật ngữ “phạm tội có tổ chức” cần được sửa đổi thành “đồng phạm có tổ chức” để phân biệt với trường hợp đồng phạm thông thường.
- Thuật ngữ “tái phạm nguy hiểm” (Điều 49)
Thuật ngữ này không bảo đảm tính hệ thống, logic. Khi có thuật ngữ “tái phạm nguy hiểm” thì theo tính hệ thống, logic phải có “tái phạm không nguy hiểm”. Tuy nhiên, không thể có “tái phạm không nguy hiểm”. Trong hệ thống, bên cạnh trường hợp đang được gọi là “tái phạm nguy hiểm” chỉ có “tái phạm”. Do vậy, để bảo đảm tính hệ thống, logic thuật ngữ này cần được sửa đổi thành “tái phạm đặc biệt” hoặc “tái phạm nghiêm trọng” trong sự so sánh với “tái phạm” (bình thường). Trong 2 BLHS có quy định tương tự, BLHS của Liên bang Nga (Điều 18) đặt tên tương tự như Việt Nam còn Trung Quốc đặt tên là “tái phạm đặc biệt” (Điều 66).
Thứ năm, nhóm các thuật ngữ chưa bảo đảm tính ngắn gọn
Đây là các thuật ngữ có nội dung diễn giải không cần thiết. Để rút gọn các thuật ngữ này có thể lược bớt từ không cần thiết hoặc dùng từ thay thế ngắn gọn hơn. Thuộc nhóm này có các thuật ngữ sau:
- Thuật ngữ “tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác” (Điều 14)
Ở thuật ngữ này có thể lược bớt cụm từ không cần thiết có nội dung giải thích nguyên nhân của tình trạng say. Theo đó, có thuật ngữ mới ngắn gọn hơn là “tình trạng say”. Phần bị lược bỏ sẽ được sử dụng khi định nghĩa khái niệm. Trong 5 BLHS có khái niệm tương tự, chỉ có BLHS Liên bang Nga đặt tên như Việt Nam còn các BLHS của Cộng hòa Liên bang Đức (Điều 64), Trung Quốc (Điều 18), Thụy Điển và Mỹ (Điều 2.08 (5) BLHS mẫu đều sử dụng tên gọi ‘tình trạng say” hoặc “tình trạng tự say”).
- Thuật ngữ “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” (Điều 19)
Thuật ngữ này cần rút gọn thành “tự chấm dứt việc phạm tội”. Trong đó, cụm từ “tự chấm dứt” là cụm từ khái quát thay thế cho cụm từ diễn giải cụ thể “tự ý nửa chừng chấm dứt”. Các BLHS được nghiên cứu có đặt tên cho trường hợp này đều không đặt tên theo kiểu diễn giải. Tên gọi trường hợp này là “tự chấm dứt” (Điều 24 BLHS Cộng hòa Liên bang Đức), “Tự nguyện từ bỏ việc phạm tội” (Điều 31 BLHS Liêng bang Nga), “dừng lại giữa chừng việc phạm tội (Điều 24 BLHS của Trung Quốc), ”từ bỏ việc phạm tội” (Điều 5.01 (4) BLHS mẫu Mỹ).
- Thuật ngữ “giáo dục tại xã, phường, thị trấn” (Điều 70)
Thuật ngữ này cần sửa đổi thành “giáo dục tại cộng đồng”. Ở đây, từ “cộng đồng” là từ được dùng tương đối phổ biến hiện nay để sử dụng thay thế cho các từ xã, phường, thị trấn. Việc thay thế này vừa bảo đảm cho thuật ngữ ngắn gọn hơn, vừa bảo đảm tính khái quát. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, cụm từ “cộng đồng” có nghĩa tương đối rộng nên không thật phù hợp. Do vậy, có phương án khác là thay “giáo dục tại xã, phường, thị trấn” thành “giáo dục tại nơi cư trú”.
- Thuật ngữ “thời hạn để xoá án tích” (Điều 67)
Thuật ngữ này cần được sửa đổi thành “thời hạn xoá án tích” để thuật ngữ ngắn gọn hơn và bớt “nặng nề”.
Thứ sáu, nhóm các thuật ngữ
chưa chuẩn về ngữ học (từ hoặc cấu trúc chưa chuẩn)
- Thuật ngữ “phòng vệ chính đáng” (Điều 15)
Trong thuật ngữ này, từ “phòng vệ” chưa thật phù hợp với khái niệm. “Phòng vệ” thường được hiểu là phòng thủ, phòng ngừa còn đối tượng của khái niệm cần được đặt tên không còn là phòng thủ, phòng ngừa mà là hành động chống trả sự tấn công. Do vậy, cần thay “phòng vệ” bằng từ khác thể hiện sự “chống trả”. Từ đó có thể là “tự vệ”[5]. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng từ “tự vệ” lại bó hẹp quyền của chủ thể vì “tự vệ” là chống trả khi chính mình bị tấn công, trong khi chế định này không giới hạn như vậy. Nhưng có hai lý do cho phép có thể chấp nhận từ “tự vệ”: Chế định này xuất phát trước hết từ quyền được tự bảo vệ và tiếp đó là mở rộng quyền được bảo vệ người khác. Hơn nữa, cần hiểu tự vệ ở một nghĩa rộng là một dạng bảo vệ từ phía người dân trong sự thống nhất với bảo vệ từ phía Nhà nước.
Từ “chính đáng” trong thuật ngữ cũng không phù hợp. Vấn đề đặt ra ở đây là tự vệ (phòng vệ) như thế nào thì được luật thừa nhận và trở thành chính đáng? Đó chính là dấu hiệu “cần thiết” để có thể ngăn chặn hành vi tấn công. Từ “cần thiết” cũng được sử dụng trong BLHS để định nghĩa khái niệm. Do vậy, cần sửa đổi thuật ngữ “phòng vệ chính đáng” thành “tự vệ cần thiết”. Trong các BLHS được nghiên cứu, khái niệm này được đặt tên cũng rất khác nhau. Cụ thể: Trong BLHS của Nhật Bản được gọi là “tự vệ” (Điều 36); trong BLHS của Liên bang Nga là “phòng vệ cần thiết” (Điều 37); trong BLHS của Thụy Điển là “tự vệ chính đáng” (Điều 1 Chương 21), trong BLHS của Cộng hòa Liên bang Đức là tự vệ khẩn cấp (Điều 32).
- Thuật ngữ “thời gian thử thách” (Điều 60)
Thuật ngữ này cần được sửa đổi thành “thời hạn thử thách” để tránh hiểu thời gian theo nghĩa là thời điểm. Thời gian có thể hiểu theo hai nghĩa là khoảng thời gian (nghĩa đúng) và thời điểm (nghĩa hiểu sai trong thực tế). Ở thuật ngữ này, thời gian được sử dụng theo nghĩa đúng - nghĩa thời hạn. Do vậy, thuật ngữ “thời hạn thử thách” rõ ràng hơn so với thuật ngữ “thời gian thử thách”. Nhiều BLHS được nghiên cứu sử dụng từ “thời hạn” như BLHS của Liên bang Nga (Điều 73), BLHS của Nhật Bản (các Điều 25, 26, 27), BLHS của Thụy Điển (Điều 4 Chương 28) ...
- Thuật ngữ “vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết” (Điều 16)
Thuật ngữ này chưa chính xác khi sử dụng từ “yêu cầu”. Hơn nữa, việc sử dụng từ “yêu cầu” cũng mâu thuẫn với thuật ngữ “vượt quá giới hạn của tự vệ cần thiết”. Cùng là vượt quá nhưng ở “tự vệ cần thiết” là vượt quá “giới hạn” còn ở đây là vượt quá “yêu cầu”. Giữa “giới hạn” và “yêu cầu” cần phải chọn một để bảo đảm tính thống nhất. Vượt quá ở cả hai trường hợp này đều là vượt “quyền”. Do vậy, chỉ có thể là vượt quá giới hạn vì chỉ có thể nói giới hạn của quyền chứ không nói yêu cầu của quyền.
Ngoài ra, thuật ngữ này cũng cần sửa lại để phù hợp với việc thuật ngữ “tình thế cấp thiết” đã được sửa đổi. Do vậy, thuật ngữ “vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết” cần được sửa đổi thành “vượt quá giới hạn gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết” hoặc “vượt quá giới hạn của hành vi cấp thiết”. Các BLHS được nghiên cứu đều không sử dụng từ “yêu cầu”, trong đó, BLHS của Liên bang Nga (Điều 39), BLHS của Trung Quốc (Điều 21) sử dụng từ “giới hạn”.
- Thuật ngữ “người thực hành” (Điều 20)
Thuật ngữ này cần được sửa đổi thành “người thực hiện”. Thực hành có thể hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa áp dụng lý thuyết vào thực tế và nghĩa thực hiện. Trong trường hợp này, thực hành được hiểu là thực hiện. Do vậy, việc sử dụng từ “thực hiện” thay cho từ “thực hành” làm cho thuật ngữ rõ ràng hơn. Đồng thời, thuật ngữ mới này cũng làm cho diễn đạt có liên quan “thuận” hơn. Ví dụ: Diễn đạt “xúi giục thực hiện tội phạm hay giúp sức thực hiện tội phạm” rõ ràng “thuận” hơn so với diễn đạt “xúi giục thực hành tội phạm hay giúp sức thực hành tội phạm”. Khi sửa đổi thuật ngữ “người thực hành” thành “người thực hiện” thì thuật ngữ chung cho 4 loại người đồng phạm cần được thống nhất là “người phạm tội”. Người phạm tội có thể là người thực hiện (tội phạm), người xúi giục (thực hiện tội phạm), người giúp sức (thực hiện tội phạm) hay người tổ chức (thực hiện tội phạm). Trong các BLHS được nghiên cứu chỉ có BLHS của Pháp sử dụng từ “thực hành”, các BLHS của Cộng hoà Liên bang Đức (Điều 25), Liên bang Nga (Điều 33), Thụy Điển (Điều 4 Chương 23) đều sử dụng từ “thực hiện” còn BLHS của Nhật dùng từ “chính phạm” (Điều 60), BLHS của Việt Nam Cộng hòa năm 1972 dùng từ “chánh phạm”.
- Thuật ngữ “dấu hiệu định tội” (Điều 46) và “yếu tố định tội” (Điều 48)
Hai thuật ngữ này cùng được sử dụng trong BLHS là tên gọi của một khái niệm. Do vậy, cần phải chọn một trong hai thuật ngữ để bảo đảm tính thống nhất. Khi nói đến quy định của luật thì “dấu hiệu” là từ thường được sử dụng. Từ “yếu tố” thường được sử dụng khi nói về cấu trúc của tội phạm. Theo đó, cần sử dụng thuật ngữ “dấu hiệu định tội” và thêm từ “danh” để cho thuật ngữ rõ ràng hơn.
Như vậy, thuật ngữ “dấu hiệu định tội” và thuật ngữ “yếu tố định tội” cần được sửa đổi thành “dấu hiệu định tội danh”.
- Thuật ngữ “dấu hiệu định khung” (Điều 46) và “yếu tố định khung” (Điều 48)
Hai thuật ngữ này cần được sửa đổi thành “dấu hiệu định khung hình phạt” với các lý do tương tự như đã trình bày đối với trường hợp thuật ngữ “dấu hiệu định tội” và thuật ngữ “yếu tố định tội”.
- Thuật ngữ “bắt buộc chữa bệnh” (Điều 43)
Thuật ngữ này cần được sửa đổi thành “chữa bệnh bắt buộc” cho đúng với cấu trúc ngôn ngữ. Từ “chữa bệnh” thể hiện nội dung của biện pháp, còn từ “bắt buộc” thể hiện tính chất của chữa bệnh nên phải được đặt ở vị trí là tính từ đứng sau từ chữa bệnh. BLHS của Liên bang Nga cũng sử dụng cụm từ chữa bệnh bắt buộc khi đặt tên Chương 15 là: Các biện pháp chữa bệnh bắt buộc.
- Thuật ngữ “đương nhiên xoá án tích” (Điều 64)
Thuật ngữ này cần được sửa đổi thành “xoá án tích đương nhiên” cho đúng với cấu trúc ngôn ngữ. Từ “đương nhiên” được sử dụng xác định tính chất của xoá án tích nên phải được đặt ở vị trí là tính từ đứng sau từ “xoá án tích”. Từ đó tạo ra sự thống nhất trong cách sử dụng từ giữa hai loại xoá án tích: Xoá án tích đương nhiên và xoá án tích theo quyết định của tòa án (Điều 65).
Thứ bảy, nhóm các thuật ngữ cần sửa đổi theo các thuật ngữ khác đã được sửa đổi
Đây là các thuật ngữ phải sửa đổi để thống nhất với thuật ngữ đã được sửa đổi khác. Đây chỉ là sự sửa đổi có tính cơ học. Ngoài một số thuật ngữ đã được trình bày ở các mục trên, cho phù hợp với thuật ngữ “phòng vệ chính đáng” đã được sửa thành “tự vệ cần thiết”, cần sửa đổi thuật ngữ “vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” thành “vượt quá giới hạn tự vệ cần thiết”.
1.2.2. Các thuật ngữ cần được bổ sung
Thứ nhất, các thuật ngữ đã được thực tiễn thừa nhận
- “Người đồng thực hiện” là thuật ngữ đi cùng thuật ngữ “người thực hiện” (Điều 20). Trong BLHS chưa có quy định về “người đồng thực hiện” nhưng trong các giáo trình cũng như trong một số sách về luật hình sự Việt Nam, loại người đồng phạm này đều được xác định và trong thực tiễn xét xử, loại người đồng phạm này xảy ra cũng tương đối phổ biến[6]. Do vậy, việc bổ sung thuật ngữ “người đồng thực hiện” là cần thiết để tạo điều kiện cho BLHS có thể bổ sung quy định về loại người đồng phạm này. Trong các BLHS của Liên bang Nga (Điều 33), Thụy Điển (Điều 4 Chương 23), Cộng hòa Liên bang Đức (Điều 25), Nhật Bản (Điều 60), loại người này đều có tên gọi là đồng thực hiện.
- “Tự ngăn chặn tội phạm” là thuật ngữ đi cùng thuật ngữ “tự chấm dứt việc phạm tội” (Điều 19). BLHS của Việt Nam chưa có quy định về trường hợp “tự ngăn chặn tội phạm” nhưng khả năng xảy ra trường hợp này trong thực tế là hoàn toàn có thể và do vậy, trong một số giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, vấn đề này cũng được nêu ra. Việc bổ sung chế định này trong BLHS Việt Nam là cần thiết và do vậy cần bổ sung thuật ngữ “tự ngăn chặn tội phạm” vào hệ thống các thuật ngữ thuộc Phần chung BLHS Việt Nam. Trong BLHS của nhiều nước đều có chế định này như BLHS của Cộng hoà Liên bang Đức (các Điều 83a, 306e, 314a, 320 và 330b), Liên bang Nga (khoản 4 Điều 31), Trung Quốc (Điều 24), Thụy Điển (Điều 3 Chương 23).
Thứ hai, các thuật ngữ liên quan đến pháp luật quốc tế
Trong BLHS hiện nay còn thiếu 2 chế định rất quan trọng liên quan đến pháp luật quốc tế là “tổ chức tội phạm” và “tội phạm có tổ chức”[7]. Do vậy, nhóm nghiên cứu Đề xuất phải bổ sung 2 thuật ngữ làm tên gọi cho hai chế định này là: 1) Thuật ngữ “tổ chức tội phạm” và 2) Thuật ngữ “tội phạm có tổ chức”.
2. Về các định nghĩa khái niệm trong Phần chung BLHS
2.1. Các khái niệm trong Phần chung BLHS cần định nghĩa và yêu cầu đối với các định nghĩa này
Về lý thuyết, không phải tất cả các khái niệm đều phải được định nghĩa và về thực tiễn, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam cũng xác định việc định nghĩa chỉ đặt ra cho các khái niệm “cần xác định rõ nội dung”. Việc xác định rõ nội dung của khái niệm qua định nghĩa trong BLHS nhằm bảo đảm hiểu đúng khái niệm để qua đó hiểu đúng và áp dụng đúng điều luật. Theo đó, những khái niệm cần được định nghĩa là:
- Các khái niệm được quy định là dấu hiệu của điều luật: Đây là những khái niệm được xác định trong các dấu hiệu của các điều luật và do vậy, việc áp dụng các điều luật này đòi hỏi phải hiểu đúng khái niệm đã được xác định trong các dấu hiệu đó. Ví dụ: Để có thể áp dụng Điều 17 BLHS khi xác định một người không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi gây thiệt hại của mình đòi hỏi phải hiểu rõ nội dung của khái niệm “phòng vệ chính đáng” (tự vệ cần thiết); để có thể áp dụng Điều 12 BLHS khi xác định một người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không về hành vi phạm tội của mình đòi hỏi phải hiểu rõ nội dung của các khái niệm về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng v.v..
- Một số khái niệm trong số các khái niệm không được quy định là dấu hiệu của điều luật: Do là những khái niệm không được quy định là dấu hiệu của điều luật và do vậy, việc áp dụng các điều luật không phụ thuộc vào sự nhận thức về các khái niệm này. Đó là những khái niệm như: khái niệm tội phạm (khoản 1 Điều 8), khái niệm hình phạt (Điều 26), khái niệm án treo (Điều 60) hay khái niệm hình phạt tử hình (Điều 35). Những khái niệm này do không có ý nghĩa như các khái niệm được quy định là dấu hiệu của điều luật cho nên về nguyên tắc không đòi hỏi phải được định nghĩa. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, khái niệm không được quy định là dấu hiệu của điều luật vẫn cần được định nghĩa. Đó có thể là các khái niệm có ý nghĩa đặc biệt của luật hình sự như khái niệm tội phạm, khái niệm hình phạt hoặc là các khái niệm có khả năng bị hiểu không đúng, hiểu không đầy đủ như khái niệm án treo.
Từ đó, có thể xác định các khái niệm không cần định nghĩa là các khái niệm đơn giản, dễ hiểu, khó có sự hiểu sai và việc áp dụng luật không phụ thuộc vào sự nhận thức cụ thể, đầy đủ những khái niệm này.
Từ yêu cầu chung đối với định nghĩa khái niệm[8], nhóm nghiên cứu rút ra một số yêu cầu cụ thể đối với các định nghĩa khái niệm trong Phần chung BLHS như sau:
- Mô tả rõ ràng các dấu hiệu cơ bản (nội hàm);
- Xác định đúng phạm vi (ngoại diên);
- Diễn đạt đơn giản, dễ hiểu, tách biệt với nội dung điều chỉnh của điều luật.
Trong 3 yêu cầu trên, yêu cầu thứ ba gắn liền với đặc điểm của định nghĩa khái niệm trong luật. Khái niệm của luật hình sự có thể được định nghĩa trong nghiên cứu và trong luật và yêu cầu đối với hai loại định nghĩa này không giống nhau do mục đích định nghĩa có sự khác nhau nhất định. Định nghĩa khái niệm trong luật nhằm giúp việc áp dụng và tuyên truyền luật nên đòi hỏi phải đơn giản, dễ hiểu còn định nghĩa khái niệm trong nghiên cứu cũng phục vụ áp dụng luật nhưng còn có tính học thuật nên đòi hỏi cao hơn về độ chính xác.
Theo đó, định nghĩa khái niệm trong Phần chung BLHS có thể theo 2 công thức chung:
- A là … (định nghĩa mô tả) hoặc
- A bao gồm … (định nghĩa liệt kê).
Trong cả hai cách định nghĩa này, phần mô tả và phần liệt kê đều phải rõ ràng, dễ hiểu, đúng với nội hàm và ngoại diên của khái niệm.
2.2. Kết quả đánh giá các định nghĩa khái niệm trong Phần chung BLHS và kiến nghị sửa đổi, bổ sung
Trên cơ sở đối chiếu với các yêu cầu được đặt ra cho định nghĩa khái niệm, nhóm nghiên cứu xác định, trong số 42 định nghĩa khái niệm chỉ có 20 định nghĩa đạt yêu cầu, 20 định nghĩa cần phải được sửa đổi và 2 định nghĩa vừa không đạt yêu cầu vừa không cần thiết. Nhóm nghiên cứu cũng xác định, trong số 41 khái niệm không được định nghĩa có 19 khái niệm cần phải được định nghĩa bổ sung vì những định nghĩa này là cần thiết cho nhận thức và áp dụng một số quy định của BLHS mà trong đó có dấu hiệu liên quan đến các khái niệm này. Ngoài ra, 4 khái niệm có tên gọi là 4 thuật ngữ được nhóm nghiên cứu đề nghị bổ sung cũng cần được định nghĩa.
2.2.1. Các định nghĩa khái niệm cần được sửa đổi
Mỗi định nghĩa khái niệm cần được sửa đổi đều có lý do cụ thể riêng nhưng có thể phân các định nghĩa khái niệm cần được sửa đổi thành các nhóm sau[9]:
Thứ nhất, nhóm các định nghĩa khái niệm không tách biệt với nội dung điều chỉnh của điều luật.
Các điều luật trong Phần chung BLHS thường có hai nội dung: Nội dung định nghĩa khái niệm và nội dung điều chỉnh. Ví dụ: Điều luật về chuẩn bị phạm tội (Điều 17) có 2 nội dung là định nghĩa chuẩn bị phạm tội và xác định trách nhiệm hình sự của chuẩn bị phạm tội. Về nguyên tắc, 2 nội dung này cần được xây dựng riêng biệt (trong từng khoản hay từng đoạn riêng) để cho định nghĩa khái niệm có điều kiện thể hiện được rõ ràng. Tuy nhiên, trong trường hợp nhất định, 2 nội dung này có thể được lồng ghép và thể hiện trong cùng một đoạn nhưng phải bảo đảm sự rõ ràng. Trong Phần chung BLHS có 6 điều luật mà trong đó nội dung định nghĩa khái niệm được xây dựng đan xen với nội dung điều chỉnh. Đó là các điều luật về sự kiện bất ngờ (Điều 11, theo đề xuất được sửa đổi thành “không có lỗi do sự kiện bất ngờ” hoặc “không có lỗi do không thấy trước hậu quả”), về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 13, theo đề xuất được sửa đổi thành “tình trạng không có năng lực lỗi” hoặc “không có năng lực lỗi”), về vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết (Điều 16, theo đề xuất được sửa đổi thành “vượt quá giới hạn gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết” hoặc “vượt quá giới hạn của hành vi cấp thiết”), về che giấu tội phạm (Điều 21), về không tố giác tội phạm (Điều 22) và về người chưa thành niên phạm tội (Điều 68). Trong 6 định nghĩa này, định nghĩa khái niệm sự kiện bất ngờ là định nghĩa có sự đan xen với nội dung điều chỉnh nên nội dung định nghĩa không rõ ràng. Theo diễn đạt của Điều 11 (“Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”) thì khó có thể trả lời sự kiện bất ngờ là gì? Do vậy, để làm rõ định nghĩa khái niệm sự kiện bất ngờ cần tách riêng nội dung định nghĩa của điều luật này và sửa đổi lại cho đúng.
Trong các điều luật còn lại, phần thể hiện nội dung định nghĩa khái niệm tuy rõ ràng về hình thức diễn đạt nhưng cũng nên được tách riêng để bảo đảm tính thống nhất.
Từ đó, nhóm nghiên cứu đề xuất việc sửa đổi các định nghĩa khái niệm thuộc nhóm này như sau:
- Không có lỗi do sự kiện bất ngờ (không có lỗi do không thấy trước hậu quả) là trường hợp do hoàn cảnh khách quan mà người gây ra thiệt hại đã không thấy trước thiệt hại đã gây ra này.
- Tình trạng không có năng lực lỗi (không có năng lực lỗi) là tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác.
- Che giấu tội phạm là hành vi che giấu người phạm tội, các dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội mà không có hứa hẹn trước đó.
- Không tố giác tội phạm là hành vi không báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà mình biết.
- Người chưa thành niên phạm tội là người ở thời điểm thực hiện hành vi phạm tội đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi.[10]
Thứ hai, nhóm các định nghĩa khái niệm thiếu dấu hiệu cơ bản của khái niệm
Trong các định nghĩa khái niệm hiện nay có 3 định nghĩa không khái quát được dấu hiệu cơ bản của đối tượng được khái niệm phản ánh mà chỉ liệt kê một số biểu hiện cụ thể của đối tượng. Những định nghĩa kiểu này có thể dễ hiểu, dễ áp dụng khi gặp những trường hợp đúng như liệt kê nhưng sẽ không đáp ứng được yêu cầu khi gặp những trường hợp khác. Đó là các định nghĩa sau:
- Định nghĩa về “chuẩn bị phạm tội” (Điều 17): Liệt kê một số dạng hành vi chuẩn bị - tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện,...;
- Định nghĩa về “người tổ chức” (Điều 20): Liệt kê các loại người tổ chức nhưng với tên gọi tương đối trừu tượng - chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy;
- Định nghĩa về “người xúi giục” (Điều 20): Liệt kê một số thủ đoạn mà người xúi giục có thể sử dụng - kích động, dụ dỗ,....
Các định nghĩa khái niệm trên cần được sửa đổi bằng cách bổ sung dấu hiệu cơ bản của khái niệm và tiếp đó có thể liệt kê một số biểu hiện thường gặp của khái niệm như là ví dụ cụ thể. Từ phân tích trên nhóm nghiên cứu đề xuất việc sửa đổi các định nghĩa khái niệm thuộc nhóm này như sau:
- Chuẩn bị phạm tội là hành vi tạo ra điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm như chuẩn bị kế hoạch, công cụ, phương tiện phạm tội hay tìm người đồng phạm cùng với mình.
- Người tổ chức là người tập hợp, phân công hoặc điều hành người khác thực hiện tội phạm cố ý.
- Người xúi giục là người cố ý thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm cố ý bằng các thủ đoạn như kích động, cưỡng ép, dụ dỗ, mua chuộc.
Thứ ba, nhóm các định nghĩa khái niệm có nội dung chưa chính xác
Trong các định nghĩa khái niệm hiện nay có 6 định nghĩa thuộc loại định nghĩa có nội dung chưa chính xác do xác định dấu hiệu cơ bản không đúng. Cụ thể là các định nghĩa sau:
- Định nghĩa về “đồng phạm” (Điều 20): Dấu hiệu “cùng thực hiện” trong định nghĩa làm ngoại diên của định nghĩa hẹp hơn so với ngoại diên của khái niệm. Dấu hiệu đúng phải là “cùng tham gia”, trong đó bao gồm cả thực hiện, cả xúi giục, giúp sức và tổ chức thực hiện tội phạm.
- Định nghĩa về “đồng phạm có tổ chức” (Điều 20): Phải sửa theo định nghĩa khái niệm đồng phạm (thay dấu hiệu “cùng thực hiện” bằng dấu hiệu “cùng tham gia”).
- Định nghĩa về “hình phạt” (Điều 26): Dấu hiệu “nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích” trong định nghĩa là dấu hiệu không đúng vì tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích là nội dung của đối tượng chứ không phải là mục đích nên không thể có từ “nhằm”. Dấu hiệu đúng phải là “tước bỏ hay hạn chế quyền, lợi ích”.
- Định nghĩa về “người thực hành” (Điều 20) - thuật ngữ được đề xuất thay thế là “người thực hiện”: Dấu hiệu “trực tiếp thực hiện” trong định nghĩa làm ngoại diên của định nghĩa hẹp hơn so với ngoại diên của khái niệm. Theo định nghĩa này thì người thực hành không bao gồm dạng thứ hai - người không trực tiếp thực hiện tội phạm (người thực hiện gián tiếp). Dấu hiệu đúng trong định nghĩa phải là: “tự thực hiện hoặc thực hiện qua người khác”.
- Định nghĩa về “phạm tội chưa đạt” (Điều 18): Dấu hiệu “không thực hiện được đến cùng” trong định nghĩa là dấu hiệu không đúng với khái niệm. Dấu hiệu đúng phải là “tội phạm không hoàn thành”. Hai dấu hiệu này phản ánh hai thời điểm khác nhau - thời điểm gắn với ý muốn chủ quan của chủ thể và thời điểm gắn với quy định của pháp luật hay còn gọi là thời điểm pháp lý.
- Định nghĩa về “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” (Điều 19) - thuật ngữ được đề xuất thay thế là “tự chấm dứt việc phạm tội”: Dấu hiệu “không thực hiện tội phạm đến cùng” trong định nghĩa là dấu hiệu không đúng với khái niệm. Dấu hiệu này phản ánh mục đích chủ quan của chủ thể, trong khi dấu hiệu đúng ở đây là dấu hiệu chỉ thời điểm pháp lý. Đó là dấu hiệu “khi tội phạm chưa hoàn thành”.
Từ phân tích trên nhóm nghiên cứu đề xuất việc sửa đổi các định nghĩa khái niệm thuộc nhóm này như sau:
- Đồng phạm là trường hợp phạm tội cố ý có sự cùng cố ý tham gia của hai người trở lên với vai trò là người thực hiện, đồng thực hiện, người tổ chức, người xúi giục hay người giúp sức.
- Đồng phạm có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng tham gia thực hiện
tội phạm.
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong BLHS, có nội dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội.
- Người thực hiện là người trực tiếp thực hiện tội phạm hoặc thực hiện tội phạm qua người khác mà người này không phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với họ.
- Phạm tội chưa đạt là đã bắt đầu thực hiện tội phạm cố ý nhưng tội phạm không hoàn thành vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
- Tự chấm dứt việc phạm tội là tự nguyện không thực hiện tiếp tội phạm khi tội phạm chưa hoàn thành.
Thứ tư, nhóm các định nghĩa khái niệm chưa đúng về hình thức cấu trúc
Trong các định nghĩa khái niệm hiện nay có 2 định nghĩa không đúng về hình thức cấu trúc. Đó là định nghĩa về cố ý phạm tội và định nghĩa về vô ý phạm tội. Mỗi định nghĩa đều bao gồm 2 định nghĩa khác nhau. Trong đó, mỗi định nghĩa như là một phần của định nghĩa chung. Cụ thể:
- Khái niệm “cố ý phạm tội” (Điều 9) được định nghĩa bằng 2 định nghĩa cho hai loại trường hợp cố ý phạm tội - cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp.
- Khái niệm “vô ý phạm tội” (Điều 10) được định nghĩa bằng 2 định nghĩa cho hai loại trường hợp vô ý phạm tội - vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả.
Ngoài ra, cả hai định nghĩa về cố ý phạm tội đều chưa chính xác. Ngoại diên được định nghĩa hẹp hơn so với ngoại diên của khái niệm vì các định nghĩa đều gắn với dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu của các tội phạm có cấu thành vật chất. Do vậy, cả hai định nghĩa về cố ý phạm tội và về vô ý phạm tội đều phải được định nghĩa lại để phản ánh dấu hiệu chung của cố ý phạm tội cũng như của vô ý phạm tội.
Từ phân tích trên nhóm nghiên cứu đề xuất việc sửa đổi các định nghĩa khái niệm thuộc nhóm này như sau:
- Cố ý phạm tội là trường hợp nhận thức được hành vi của mình có dấu hiệu tội phạm nhưng vẫn thực hiện vì mong muốn hoặc chấp nhận hành vi này.
- Vô ý phạm tội là trường hợp đã gây ra hậu quả của tội phạm nhưng khi thực hiện hành vi, người phạm tội do chủ quan nên cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc do cẩu thả nên đã không thấy trước hậu quả đó.
Thứ năm, nhóm các định nghĩa khái niệm không còn phù hợp do tên gọi của khái niệm (thuật ngữ) đã thay đổi
Trong các định nghĩa khái niệm hiện nay có 1 định nghĩa không còn phù hợp do có sự thay đổi tên gọi của khái niệm (thuật ngữ). Do vậy, cần sửa định nghĩa theo tên gọi (thuật ngữ) mới. Đó là định nghĩa khái niệm “gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết” hoặc “hành vi cấp thiết” - thuật ngữ đang sử dụng là “tình thế cấp thiết” (Điều 16). Cụ thể, khái niệm này được định nghĩa lại như sau: Gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết (hành vi cấp thiết) là hành vi gây thiệt hại khi không còn cách nào khác để tránh nguy cơ đang thực tế đe dọa gây ra thiệt hại lớn hơn cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức hoặc cho quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân.
Thứ sáu, nhóm các định nghĩa khái niệm chưa ngắn gọn, rõ ràng, logic
Trong các định nghĩa khái niệm hiện nay có 3 định nghĩa khái niệm thuộc nhóm này. Cụ thể:
- Định nghĩa về “tội phạm” (Điều 8) là định nghĩa tương đối dài, không bảo đảm tính ngắn gọn của định nghĩa. Trong định nghĩa này, các khách thể bảo vệ của luật hình sự đã được liệt kê cụ thể mà không được mô tả một cách khái quát. Do vậy, để bảo đảm tính ngắn gọn cần phải mô tả khái quát các khách thể bảo vệ của luật hình sự khi định nghĩa khái niệm tội phạm.
- Định nghĩa về “vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết’ (Điều 16) - thuật ngữ được đề xuất thay thế là “vượt quá giới hạn gây thiệt hại trong tình thế cấp” hoặc “vượt quá giới hạn của hành vi cấp thiết” là định nghĩa chưa rõ ràng vì dấu hiệu “vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết” được xác định trong định nghĩa là dấu hiệu trừu tượng và không phù hợp với định nghĩa về “tình thế cấp thiết’ (thuật ngữ được đề xuất thay thế là “gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết” hoặc “hành vi cấp thiết”). Dấu hiệu đúng ở đây phải là “lớn hơn thiệt hại cần ngăn ngừa”. Dấu hiệu này vừa cụ thể, rõ ràng và vừa phù
hợp với định nghĩa về “tình thế cấp thiết”, trong đó có dấu hiệu “nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa”.
- Định nghĩa về “vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng” (Điều 15) - thuật ngữ được đề xuất thay thế là “vượt quá giới hạn tự vệ cần thiết” là định nghĩa chưa logic. Đây là một trường hợp của tự vệ nhưng đã vượt quá giới hạn cần thiết nên không được coi là tự vệ cần thiết. Do vậy, không thể định nghĩa vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả... mà phải định nghĩa vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng “là trường hợp hành vi chống trả rõ ràng...”.
Từ phân tích trên nhóm nghiên cứu đề xuất sửa đổi các định nghĩa khái niệm thuộc nhóm này như sau:
- Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật này (hoặc các luật khác), do người có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý hoặc vô ý thực hiện, xâm hại lợi ích của xã hội, của Nhà nước, xâm phạm quyền hay lợi ích hợp pháp của người khác.
- Vượt quá giới hạn gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết (vượt quá giới hạn của hành vi cấp thiết) là trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng là lớn hơn thiệt hại cần ngăn cản.
- Vượt quá giới hạn tự vệ cần thiết là trường hợp hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
2.2.2. Các định nghĩa khái niệm cần được bổ sung
Các khái niệm cần được định nghĩa bổ sung thuộc hai nhóm sau:
Thứ nhất, nhóm các khái niệm cần được định nghĩa bổ sung vì cần thiết cho việc áp dụng các quy định của BLHS
Trong BLHS còn một số khái niệm chưa được định nghĩa, trong đó có những khái niệm thuộc nội dung của các dấu hiệu trong điều luật và việc áp dụng các điều luật này đòi hỏi người áp dụng phải hiểu các khái niệm đó. Nếu những khái niệm như vậy không được định nghĩa thì việc hiểu và áp dụng điều luật sẽ không thống nhất và có thể không đúng. Do vậy, BLHS cần phải định nghĩa bổ sung các khái niệm này. Theo đánh giá của nhóm nghiên cứu, có những khái niệm sau cần phải được định nghĩa bổ sung:
- Án tích và xoá án tích (“chưa được xoá án tích” là dấu hiệu được quy định tại nhiều điều luật của BLHS - Điều 49 và một số điều trong Phần các tội phạm BLHS);
- Dấu hiệu định khung hình phạt và dấu hiệu định tội danh (là dấu hiệu được quy định tại các điều 46 và 48 BLHS);
- Phạm nhiều tội (là dấu hiệu được quy định tại các điều 50, 75 BLHS);
- Tình trạng say (là dấu hiệu được quy định tại Điều 14 BLHS);
- Tự thú (là dấu hiệu được quy định tại các điều 25 và 46 BLHS);
- Tự ngăn chặn tội phạm (được đề nghị bổ sung vào Điều 19 BLHS);
- Người đồng thực hiện (được đề nghị bổ sung vào Điều 20 BLHS);
- Tổ chức tội phạm (được đề nghị bổ sung vào BLHS);
- Tội phạm có tổ chức (được đề nghị bổ sung vào BLHS).
Các khái niệm trên đây được đề xuất định nghĩa như sau:
- Án tích là đặc điểm đã bị kết án của một người và do có đặc điểm này mà họ phải chịu những bất lợi nhất định.
- Xoá án tích là xoá đặc điểm đã bị kết án để người được xoá coi như chưa bị kết án.
- Dấu hiệu định khung hình phạt là dấu hiệu được xác định ở tội phạm cụ thể, cho phép áp dụng khung hình phạt tăng nặng hoặc khung hình phạt giảm nhẹ của tội phạm đó.
- Dấu hiệu định tội danh là dấu hiệu được xác định ở tội phạm cụ thể, cho phép phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác hoặc với trường hợp vi phạm.
- Phạm nhiều tội là trường hợp đã thực hiện và chưa bị xét xử từ hai tội trở lên.
- Tình trạng say là tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do đã sử dụng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác.
- Tự thú là tự đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền khai báo về hành vi phạm tội của mình khi chưa bị phát hiện.
- Tự ngăn chặn tội phạm là hành động tự nguyện làm cho tội phạm do mình đã thực hiện không hoàn thành được.
- Người đồng thực hiện là người thực hiện tội phạm cùng với một hoặc nhiều người thực hiện khác.
- Tổ chức tội phạm là nhóm liên kết chặt chẽ có tính lâu dài từ ba người trở lên nhằm mục đích thực hiện các tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
- Tội phạm có tổ chức là tội phạm được thực hiện bởi tổ chức tội phạm và các tội phạm liên quan đến việc thành lập, tham gia tổ chức tội phạm.
Thứ hai, nhóm các khái niệm cần được định nghĩa bổ sung vì cần thiết cho việc hiểu đúng các quy định có liên quan của BLHS
Đây là những khái niệm tuy không thuộc dấu hiệu cần xác định khi áp dụng BLHS nhưng vẫn cần phải được định nghĩa nếu không các khái niệm này có thể bị hiểu không đúng và dẫn đến các quy định có liên quan cũng bị hiểu sai. Theo đó, có những khái niệm sau cần phải được định nghĩa bổ sung:
- Án treo (Điều 60 BLHS quy định các điều kiện cho hưởng án treo nhưng không có điều luật nào định nghĩa án treo là gì);
- Biện pháp khắc phục, phòng ngừa (Chương VI BLHS quy định về các biện pháp khắc phục, phòng ngừa nhưng không có điều luật định nghĩa theo kiểu liệt kê các biện pháp cụ thể thuộc về các biện pháp khắc phục, phòng ngừa như điều luật định nghĩa theo kiểu liệt kê về các hình phạt, về hình phạt chính và về hình phạt bổ sung);
- Chữa bệnh bắt buộc (Điều 43 BLHS xác định điều kiện cho phép áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc nhưng không định nghĩa rõ khái niệm này);
- Giáo dục tại cộng đồng/Giáo dục tại nơi cư trú (Điều 70 BLHS xác định điều kiện cho phép áp dụng biện pháp giáo dục tại cộng đồng nhưng không định nghĩa rõ khái niệm này);
- Giáo dục tại trường giáo dưỡng (Điều 70 BLHS xác định điều kiện cho phép áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng nhưng không định nghĩa rõ khái niệm này);
- Hình phạt cảnh cáo (Điều 29 BLHS xác định điều kiện cho phép áp dụng hình phạt cảnh cáo nhưng không định nghĩa rõ khái niệm này);
- Hình phạt cải tạo không giam giữ (Điều 31 BLHS xác định điều kiện cho phép áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ nhưng không định nghĩa rõ khái niệm này);
- Hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ (Điều 36 BLHS xác định điều kiện cho phép áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhưng không định nghĩa rõ khái niệm này);
- Hình phạt cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định (Điều 36 BLHS xác định điều kiện cho phép áp dụng hình phạt cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định nhưng không định nghĩa rõ khái niệm này);
- Hình phạt tước một số quyền công dân (Điều 39 BLHS xác định điều kiện cho phép áp dụng hình phạt tước một số quyền công dân nhưng không định nghĩa rõ khái niệm này);
- Năng lực trách nhiệm hình sự (là một đặc điểm của tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS nhưng không có điều luật tiếp theo nào định nghĩa khái niệm này);
- Trách nhiệm hình sự (là khái niệm được thể hiện ở nhiều điều luật khác nhau mà trong đó quy định phải chịu, không phải chịu hay được miễn trách nhiệm hình sự nhưng không có điều luật nào định nghĩa trách nhiệm hình sự là gì?).
Các khái niệm trên đây được đề xuất định nghĩa như sau:
- Án treo là biện pháp cho phép người bị kết án với hình phạt tù có thời hạn không phải chấp hành hình phạt để thử thách trong thời hạn nhất định.
- Biện pháp khắc phục, phòng ngừa bao gồm buộc công khai xin lỗi; buộc trả lại tài sản; buộc sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; chữa bệnh bắt buộc; giáo dục tại trường giáo dưỡng và giáo dục tại cộng đồng.
- Chữa bệnh bắt buộc là biện pháp buộc người bị áp dụng phải chữa bệnh tại một cơ sở điều trị chuyên khoa hoặc chữa bệnh ngoại trú dưới sự chăm nom của gia đình, người giám hộ và dưới sự dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Giáo dục tại cộng đồng/Giáo dục tại nơi cư trú là biện pháp buộc người bị áp dụng phải thực hiện nghĩa vụ nhất định về học tập, lao động tại nơi cư trú dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền cơ sở và tổ chức xã hội.
- Giáo dục tại trường giáo dưỡng là biện pháp buộc người bị áp dụng phải sống, học tập và lao động trong trường giáo dưỡng.
- Hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt buộc người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ để tự cải tạo tại cộng đồng dưới sự giám sát của cơ quan, tổ chức được tòa án giao.
- Hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ là hình phạt không cho phép người bị kết án được giữ các chức vụ của cơ quan, tổ chức.
- Hình phạt cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định là hình phạt không cho phép người bị kết án được hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
- Hình phạt cảnh cáo là hình phạt công khai lên án người bị kết án trước tòa án.
- Hình phạt tước một số quyền công dân là hình phạt không cho phép người bị kết án thực hiện quyền ứng cử, bầu cử đại biểu cơ quan Nhà nước; quyền làm việc trong cơ quan Nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân.
- Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực có thể phải chịu trách nhiệm hình sự của người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không trong tình trạng không có năng lực lỗi.
- Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm phải gánh chịu các hậu quả pháp lý là hình phạt, là biện pháp khắc phục, ngăn ngừa và mang án tích.
3. Về các tội danh
3.1. Các yêu cầu đối với tội danh
Với ý nghĩa là tên gọi chính thức của mỗi loại hành vi phạm tội, tội danh được biểu đạt bằng từ hoặc cụm từ và phải đảm các yêu cầu đối với thuật ngữ. Đó là tính chính xác, tính hệ thống, đúng về ngữ học và ngắn gọn. Ngoài ra, tội danh cũng cần có sự phù hợp nhất định với kỹ thuật lập pháp của pháp luật quốc tế.
Tội danh được coi là có tính chính xác khi rõ ràng về nghĩa, phản ánh đúng khái niệm về một loại hành vi phạm tội, không gây nhầm lẫn với các khái niệm về các loại hành vi phạm tội khác; mỗi khái niệm về một loại hành vi phạm tội chỉ có một tội danh là tên gọi và ngược lại mỗi tội danh chỉ có thể là tên gọi của một khái niệm về một loại hành vi phạm tội. Trong đó, yêu cầu trước hết là phải biểu đạt được rõ ràng về loại lỗi (cố ý hoặc vô ý) của tội phạm mà tội danh phản ánh. Yêu cầu này được đặt ra vì hiện nay BLHS Việt Nam vẫn đang xác định, tội phạm có thể là cố ý hoặc vô ý[11]. Tiếp đó, tội danh phải phù hợp với nội dung mô tả của cấu thành tội phạm về hành vi và lỗi cũng như phải bao quát hết các dạng hành vi trong cấu thành tội phạm.
Tội danh được coi là có tính hệ thống khi việc sử dụng từ ngữ và cách cấu trúc tội danh có tính thống nhất với các tội danh khác để bảo đảm tính hệ thống của tất cả các tội danh. Mỗi tội danh là độc lập và có tính riêng biệt so với các tội danh khác nhưng vẫn phải thể hiện là một phần không tách rời của hệ thống các tội danh nói chung.
Tội danh được coi là đúng về ngữ học khi tội danh được cấu trúc đúng cách, tuân theo “các quy luật ngữ âm, cấu tạo từ và ngữ pháp của ngôn ngữ nói chung”[12]. Việc liên kết các từ ngữ khi xây dựng tội danh cũng như thuật ngữ luật hình sự ở Phần chung đều phải tuân thủ các quy tắc của ngôn ngữ mà không thể tùy tiện. Ngoài ra, việc chọn từ ngữ để xây dựng tội danh cũng cần chú ý tránh chọn các từ ngữ mà thường được hiểu theo nghĩa tích cực.
Tội danh cũng cần phải ngắn gọn, tránh quá dài và không được xây dựng theo kiểu mô tả hay liệt kê.
Đối với các hành vi phạm tội đã được pháp luật quốc tế xác định và đặt tên thì việc đặt tội danh cho các hành vi này trong BLHS Việt Nam cần bảo đảm có sự tương thích, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động có liên quan.
3.2. Kết quả đánh giá các tội danh được sử dụng trong BLHS và kiến nghị sửa đổi
Trên cơ sở các yêu cầu được đặt ra cho tội danh, nhóm nghiên cứu Đề tài đã đánh giá từng tội danh và xác định có 119 tội danh đang sử dụng phải được sửa đổi vì các lý do khác nhau. Cụ thể, có các nhóm lý do và cách sửa đổi sau:
Thứ nhất, sửa đổi các tội danh dài có tính mô tả, liệt kê
Nhóm tội danh này gồm 36 tội danh. Nhóm nghiên cứu đề xuất sửa các tội danh này ngắn gọn lại theo các cách:
- Bớt các từ không cần thiết (18 tội danh);
- Bớt một số từ khi các từ còn lại vẫn có thể đại diện được (9 tội danh);
- Bớt một số từ khi có thể quy ước dùng từ đại diện (3 tội danh);
- Diễn đạt lại để tội danh ngắn gọn hơn (6 tội danh).
Cụ thể:
- Bỏ bớt các từ không cần thiết
Đây là các từ không đóng vai trò xác định mà chỉ làm rõ thêm nội hàm của tội danh. Do vậy, việc bỏ bớt các từ này không có ảnh hưởng gì. Các từ này có thể được sử dụng khi mô tả cấu thành tội phạm để tránh sự trùng nhau giữa tội danh và cấu thành tội phạm. Ví dụ:
+ Tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật được sửa thành Tội buộc thôi việc trái pháp luật (Tội danh dài nhưng cũng chưa đủ vì còn thiếu viên chức; trong cấu thành tội phạm (CTTP), sẽ mô tả liệt kê các đối tượng của hành vi buộc thôi việc);
+ Tội vi phạm quy định về xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng được sửa thành Tội vi phạm quy định về xây dựng (trong BLHS có rất nhiều CTTP mô tả hậu quả nghiêm trọng của hành vi vi phạm nhưng tội danh đều không thể hiện hậu quả);
+ Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên được sửa thành Tội vi phạm các quy định về tài nguyên (trong CTTP, sẽ mô tả rõ phạm vi các quy định).
- Bỏ bớt từ khi các từ còn lại vẫn có thể đại diện được
Đây là các từ mà trong mối quan hệ với các từ còn lại, nó có thể được xem như là một bộ phận cụ thể. Do vậy, việc bỏ bớt các từ này không có ảnh hưởng gì. Ví dụ:
+ Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy được sửa thành Tội trồng cây có chứa chất ma túy (Bỏ từ cây thuốc phiện vì cây có chứa chất ma túy đã bao hàm cả cây thuốc phiện. CTTP sẽ mô tả các cây có chứa chất ma túy - cây thuốc phiện và các cây khác);
+ Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ được sửa thành Tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Bỏ từ điều động vì từ giao đã bao hàm cả điều động - điều động là một dạng giao có tính hành chính. CTTP sẽ mô tả các dạng hành vi giao - điều động và giao thông thường);
+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác được sửa thành Tội cố ý gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Bỏ từ gây thương tích vì từ gây tổn hại đã bao hàm cả gây thương tích - thương tích là một dạng của tổn hại cho sức khỏe. CTTP sẽ mô tả các dạng tổn hại cho sức khỏe - thương tích và tổn hại khác).
- Bỏ bớt từ khi có thể quy ước dùng từ đại diện
Sử dụng từ đại diện là kỹ thuật tương tự như dùng từ viết tắt có thể được sử dụng để làm ngắn gọn tội danh cũng như cấu thành tội phạm. Để thực hiện kỹ thuật này cần có điều luật định nghĩa các từ đại diện. Ví dụ:
+ Tội phát tán vi rút, chương trình tin học có tính năng gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet, thiết bị số được sửa thành Tội phát tán vi rút tin học (Có thể dùng điều luật giải thích từ ngữ giải thích vi rút tin học bao gồm cả chương trình tin học có tính năng gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet, thiết bị số);
+ Tội truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số của người khác được sửa thành Tội truy cập mạng trái phép (Có thể dùng điều luật giải thích từ ngữ giải thích mạng bao gồm mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet và thiết bị số). Tuy nhiên, để hạn chế điều luật giải thích từ ngữ có thể đặt tội danh là “Tội truy cập trái phép” vì chỉ trong lĩnh vực này mới sử dụng từ truy cập;
+ Tội xâm phạm quyền tác giả và các quyền liên quan được sửa thành Tội xâm phạm quyền tác giả (Có thể dùng điều luật giải thích từ ngữ giải thích quyền tác giả bao gồm cả các quyền có liên quan).
Cũng như viết tắt, việc sử dụng từ đại diện không thể tùy tiện. Ở đây đòi hỏi phải có quan hệ nhất định giữ từ đại diện và từ được đại diện, trong đó, từ được đại diện phản ánh hiện tượng tương tự và có thể được coi như bộ phận mở rộng của hiện tượng được từ đại diện phản ánh.
- Diễn đạt lại để tội danh ngắn gọn hơn
Đây là trường hợp không thể bỏ bớt từ một cách cơ học để làm ngắn gọn tội danh mà cần phải diễn đạt lại khi bớt hoặc thay từ. Ví dụ:
+ Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (của người khác) được sửa thành Tội vô ý làm hư hại tài sản của người khác (CTTP sẽ mô tả cụ thể dấu hiệu hậu quả);
+ Tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ được sửa thành Tội xâm phạm chế độ sử dụng tài sản cứu trợ[13];
+ Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản được sửa thành Tội chiếm đoạt tài sản qua mạng.
Thứ hai, sửa đổi các tội danh dài do ghép nhiều hành vi, nhiều đối tượng
Nhóm tội danh này gồm 56 tội danh. Nhóm đề xuất sửa đổi các tội danh này ngắn gọn lại theo một trong các cách sau:
- Sử dụng từ chung bao quát các hành vi, đối tượng khác nhau (23 tội danh);
- Sử dụng cụm từ Tội về ... (10 tội danh);
- Sử dụng cụm từ Tội xâm phạm ... (11 tội danh);
- Tách thành nhiều tội danh theo hành vi, theo đối tượng (12 tội danh).
Cụ thể:
- Sử dụng từ chung bao quát được các hành vi, đối tượng khác nhau
Đây là cách chọn và sử dụng từ chung cho nhiều hành vi hoặc cho nhiều đối tượng khác nhau. Khi đó, tội danh sẽ ngắn gọn vì không còn sự liệt kê các hành vi, các đối tượng khác nhau. Ví dụ:
+ Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình được sửa thành Tội đối xử tồi tệ với người thân (đối xử tồi tệ thay cho các dạng hành vi và người thân thay cho các đối tượng của hành vi; CTTP sẽ mô tả các dạng hành vi cũng như các dạng đối tượng);
+ Tội vi phạm quy định về duy tu, sửa chữa, quản lý các công trình giao thông được sửa thành Tội vi phạm quy định bảo đảm an toàn các công trình giao thông (bảo đảm an toàn thay cho về duy tu, sửa chữa, quản lý).
- Sử dụng cụm từ Tội về ...
Trong thực tiễn lập pháp, BLHS đã sử dụng cụm từ “các tội phạm về” để đặt tên cho một số chương tội phạm. Ví dụ: Tên của Chương XXI là Các tội phạm về chức vụ. Theo đó, cụm từ tội về cũng có thể được sử dụng đặt tội danh để làm ngắn gọn tội danh khi không muốn tách tội danh vì lý do nhất định. Tuy nhiên, cụm từ “Tội về ...” chỉ có thể được sử dụng thay cho các hành vi khác nhau đối với đối tượng có tính chất không hợp pháp. Ví dụ:
+ Tội sản xuất, buôn bán hàng giả được sửa thành Tội về hàng giả;
+ Tội làm tem giả, vé giả, tội buôn bán tem giả, vé giả được sửa thành Tội về tem, vé giả;
+ Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác được sửa thành Tội về giấy tờ có giá giả;
- Sử dụng cụm từ Tội xâm phạm ...
Trong thực tiễn lập pháp, BLHS đã sử dụng cụm từ “các tội xâm phạm” để đặt tên cho 10 chương tội phạm và cụm từ “tội xâm phạm” để đặt tên cho 10 hành vi phạm tội. Ví dụ: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình; tội xâm phạm chỗ ở của công dân; v.v.. Trong đó, các tội danh có sử dụng cụm từ xâm phạm đều là tội cố ý[14].
Từ đó, nhóm nghiên cứu đề xuất sử dụng cụm từ “tội xâm phạm” để thay cho các hành vi cố ý khác nhau vi phạm các quy định về quản lý đối với đối tượng cần quản lý nhất định. Đồng thời, khi sử dụng cụm từ này cũng sử dụng từ chế độ để thay thế cho cụm từ các quy định[15]. Việc sử dụng cụm từ “xâm phạm chế độ” sẽ “thuận” hơn so với cụm từ “tội xâm phạm các quy định”. Đối với “các quy định” BLHS đã sử dụng cụm từ “Tội vi phạm (các) quy định ...” để đặt tên cho một số tội vô ý[16]. Với việc cho phép sử dụng cụm từ này cho tội cố ý BLHS sẽ có một cặp cụm từ - một cho tội cố ý và một cho tội vô ý.
Từ đó, nhóm nghiên cứu đề xuất sử dụng cụm từ “tội xâm phạm chế độ” để thay thế cho các hành vi phạm tội cố ý khác nhau khi không muốn tách các hành vi này thành các tội danh riêng. Ví dụ:
+ Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ được sửa thành Tội xâm phạm chế độ quản lý chất phóng xạ (hành vi chiếm đoạt chất phóng xạ có thể được quy định thành tội danh riêng - Tội chiếm đoạt chất phóng xạ) hoặc sửa thành tội về chất phóng xạ;
+ Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật nhà nước được sửa thành Tội xâm phạm chế độ bí mật nhà nước;
+ Tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội được sửa thành Tội xâm phạm chế độ văn thư.
- Tách thành nhiều tội danh theo hành vi, theo đối tượng (sau khi tách có thể được sửa tiếp theo các cách trên)
Đây là cách được sử dụng khi thấy tách là cần thiết hoặc khi 2 cách trên không áp dụng được trực tiếp. Ví dụ:
+ Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát được tách thành Tội xúi giục người khác tự sát và Tội giúp người khác tự sát;
+ Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại được tách thành Tội nhập khẩu các loài ngoại lai xâm hại và Tội phát tán các loài ngoại lai xâm hại;
+ Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc được tách và sửa thành Tội xâm phạm chế độ quản lý chất cháy và Tội xâm phạm chế độ quản lý chất độc.
Trong nhóm này có 2 tội danh sau khi được tách, còn cần được sửa tiếp để bảo đảm yêu cầu của tội danh. Cụ thể:
+ Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em: Tội danh ghép này gồm 3 hành vi khác nhau. Hành vi thứ nhất là hành vi mua bán. Hành vi này cần đổi thành hành vi buôn để phù hợp với tội danh buôn người cũng như phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế. Hành vi đánh tráo thực ra chỉ là thủ đoạn của hành vi chiếm đoạt - chiếm đoạt có và không có sự thay thế bằng trẻ em khác. Do vậy, hai trường hợp này không cần tách thành hai. Tuy nhiên, cũng không thể sử dụng từ chiếm đoạt ở đây vì từ này đã được sử dụng cho nhiều tội phạm thuộc Chương các tội phạm về sở hữu. Trong đó, đối tượng của chiếm đoạt được xác định là tài sản đang có người quản lý. Như vậy, không thể quy định hành vi chiếm đoạt cho đối tượng là con người. Theo đó, cần đổi chiếm đoạt thành bắt và có Tội bắt trẻ em. Trong tội danh này, bao hàm cả trường hợp bắt trẻ em bằng thủ đoạn đánh tráo trẻ em. Như vậy, tội danh ghép mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em được tách thành 2 tội danh là tội buôn trẻ em và tội bắt trẻ em.
+ Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy: Tội danh ghép này gồm 4 hành vi khác nhau. 3 hành vi đầu có thể được xây dựng thành 3 tội danh khác nhau. Đó là tội tàng trữ chất ma túy; tội vận chuyển chất ma túy và tội mua bán chất ma túy. Đối với hành vi thứ tư, có vấn đề được đặt ra về mặt lô gic. BLHS đã được sử dụng dấu hiệu chiếm đoạt cho nhiều tội phạm thuộc Chương các tội phạm về sở hữu. Trong đó, đối tượng của chiếm đoạt được xác định là tài sản đang có người quản lý và khách thể bị xâm phạm của hành vi chiếm đoạt là quyền sở hữu. Do vậy, không thể gắn chất ma túy với hành vi chiếm đoạt. Từ đó, không thể xây dựng tội danh chiếm đoạt chất ma túy. Như vậy, tội danh ghép tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy được tách thành 3 tội danh là tội tàng trữ chất ma túy; tội vận chuyển chất ma túy và tội mua bán chất ma túy. Trường hợp “chiếm đoạt chất ma túy” có thể bị xử theo một trong 3 tội danh trên tùy thuộc việc phát hiện sau khi
đã “chiếm đoạt được chất ma túy”, phát hiện khi đang tàng trữ hay đang vận chuyển hay đang bán chất ma túy đã “chiếm đoạt được”.
Thứ ba, sửa đổi các tội danh không chính xác.
Nhóm tội danh này gồm 18 tội danh. Sự không chính xác ở đây có thể là thể hiện sai về loại lỗi, về hành vi hoặc không bao quát hết các hành vi phạm tội.
- Sửa đổi các tội danh thể hiện không đúng loại lỗi.
Đây là các trường hợp, trong đó lỗi được thể hiện ở tội danh không đúng, có thể tội phạm được mô tả là tội cố ý nhưng tội danh lại thể hiện là tội vô ý và ngược lại. Do vậy, tội danh phải sửa lại để thể hiện đúng lỗi của tội phạm mà tội danh phản ánh. Để bảo đảm các đề xuất sửa đổi vì lý do này có thể thực hiện được cần thống nhất 2 nguyên tắc sau:
+ Khắc phục tình trạng một tội danh được mô tả có thể là tội cố ý hoặc tội vô ý (do BLHS bổ sung dấu hiệu về nhân thân thay cho dấu hiệu hậu quả)[17]. Theo đó, mỗi tội danh chỉ có thể là tội cố ý hoặc là tội vô ý.
+ Cụm từ xâm phạm trong tội danh chỉ được sử dụng cho tội cố ý và cụm từ vi phạm chỉ được sử dụng cho tội vô ý.
Trong BLHS có 30 tội danh sử dụng cụm từ “Tội vi phạm quy định ...” và các tội này đều là tội vô ý vì CTTP đòi hỏi có dấu hiệu hậu quả và lỗi đối với hậu quả là lỗi vô ý, như Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ; Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt v.v... Từ thực tiễn lập pháp này có thể hiểu các tội sử dụng cụm từ “Tội vi phạm quy định ...” là tội vô ý và cách hiểu này được nhóm nghiên cứu đồng tình như đã khẳng định[18]. Tuy nhiên, trong BLHS có 9 tội danh sử dụng cụm từ này nhưng CTTP của các tội phạm này lại thể hiện là tội cố ý. Như vậy, ở đây có sự mâu thuẫn trong việc sử dụng cụm từ “Tội vi phạm quy định ...”. Chúng ta chỉ có thể chấp nhận một nghĩa ở mỗi cụm từ. Do vậy, cần phải tìm cụm từ khác thể hiện là tội cố ý. Tất nhiên, cụm từ được tìm này và cụm từ “Tội vi phạm quy định ...” chỉ có tính qui ước, tương đối. Theo đó, nhóm nghiên cứu đề xuất cụm từ đó là cụm từ “Tội xâm phạm chế độ ...”. Trên cơ sở quy ước như vậy, nhóm nghiên cứu đề xuất phải thay cụm từ “Tội vi phạm quy định ...” thành “Tội xâm phạm chế độ ...” ở tất cả các tội danh mà CTTP thể hiện là tội cố ý. Ví dụ:
+ Tội vi phạm quy chế về khu vực biên giới được sửa thành Tội xâm phạm chế độ về khu vực biên giới vì theo sự mô tả của cấu thành tội phạm thì tội phạm này là tội cố ý - cố ý với hành vi và CTTP là CTTP hình thức;
+ Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được sửa thành Tội xâm phạm chế độ một vợ, một chồng vì theo sự mô tả của cấu thành tội phạm thì tội phạm này cũng là tội cố ý - cố ý với hành vi và CTTP là CTTP hình thức.
Trái ngược với các trường hợp trên, Tội phá thai trái phép cần sửa thành Tội vi phạm quy định về phá thai vì trong trường hợp thông thường, tội này là tội vô ý (vô ý gây hậu quả ...) nhưng tội danh lại thể hiện là tội cố ý[19].
- Sửa đổi các tội danh thể hiện không đúng hành vi
Đây là các trường hợp, trong đó, tội danh không phù hợp với hành vi được mô tả trong CTTP. Ví dụ:
+ “Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người người”: Với tội danh này người đọc sẽ hiểu hành vi phạm tội của tội này là hành vi làm lây lan ... nhưng trong CTTP, hành vi phạm tội được mô tả chỉ là hành vi cố ý vi phạm các quy định có mục đích phòng ngừa lây lan chứ không phải là hành vi làm lây lan. Do vậy, tội danh này cần được sửa thành Tội xâm phạm chế độ phòng ngừa lây lan dịch bệnh ở người.
+ Tội khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật: Với tội danh này người đọc chỉ có thể hiểu có hai hành vi là hành vi khai báo gian dối và hành vi cung cấp tài liệu sai sự thật nhưng trong CTTP, hành vi phạm tội được mô tả bao gồm 3 loại hành vi gian dối do 3 loại chủ thể khác nhau thực hiện - Người làm chứng, người giám định và người phiên dịch. Do vậy, tội danh này cần được sửa thành 3 tội danh: Tội làm chứng gian dối; Tội giám định gian dối và Tội dịch gian dối trong TTHS.
+ Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật: Với tội danh này người đọc chỉ có thể hiểu có hai hành vi là hành vi mua chuộc và hành vi cưỡng ép người khác khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật nhưng trong CTTP, đối tượng bị mua chuộc, bị cưỡng ép là 4 chủ thể khác nhau - Người bị hại, người làm chứng, người giám định và người phiên dịch. Do vậy, tội danh này cần được sửa thành 3 tội danh: Tội xúi giục làm chứng gian dối; Tội xúi giục giám định gian dối và Tội xúi giục dịch gian dối.
- Sửa đổi các tội danh không bao quát hết các hành vi phạm tội
Đây là trường hợp, trong đó hành vi phạm tội được mô tả trong CTTP rộng hơn so với tội danh và để khắc phục tình trạng này cần phải bổ sung tội danh hoặc tách thành các tội danh khác nhau. Cụ thể:
+ Tội giết con mới đẻ: CTTP của tội danh này mô tả hai loại hành vi phạm tội khác nhau - hành vi “giết” và hành vi “vứt bỏ dẫn đến chết”. Đây là hai trường hợp phạm tội khác nhau.[20] Do vậy, cần phải tách hành vi phạm tội thứ hai ra khỏi tội danh này và xây dựng tội danh mới cho hành vi phạm tội được tách ra. Theo đó, ngoài Tội giết con mới đẻ BLHS cần có thêm Tội vứt bỏ con mới đẻ. Ngoài ra, xét về góc độ sử dụng từ ngữ, nhóm nghiên cứu cũng đề xuất thay từ con mới đẻ thành trẻ sơ sinh để có các tội danh: Tội giết trẻ sơ sinh và tội vứt bỏ trẻ sơ sinh. Hai tội danh này có hạn chế là chưa xác định rõ phạm vi chủ thể của tội phạm. Tuy vậy, vẫn có thể chấp nhận được hai tội danh này vì bản thân tội danh giết con mới đẻ cũng chưa thể hiện rõ ràng phạm vi của chủ thể cũng như nhiều tội danh khác cũng không thể hiện được điều này. Ví dụ: Tội hiếp dâm; tội giao cấu với người chưa thành niên v.v..
+ Tội bức tử: CTTP của tội danh này mô tả hành vi phạm tội là hành vi cố ý nhưng không xác định lỗi đối với hậu quả tự sát, còn thực tiễn coi lỗi đối với hậu quả chỉ có thể là vô ý hoặc cố ý gián tiếp. Theo đó, tội phạm được quy định dưới tội danh bức tử có thể là tội cố ý hoặc tội vô ý. Điều này là không thể được. Do vậy, nếu vẫn giữ nguyên quan điểm về các hành vi phạm tội như thực tiễn thừa nhận thì tội danh này cần tách và sửa thành Tội vô ý làm người khác tự sát và Tội cố ý làm người khác tự sát[21].
Thứ tư, sửa đổi các tội danh chưa phù hợp về ngôn ngữ
Đây là các trường hợp, trong đó, tội danh đúng về mặt nội dung nhưng chưa thật hoàn chỉnh về mặt từ ngữ. Đối với những tội danh này, nhóm nghiên cứu cũng đề xuất cần thay đổi từ ngữ cho phù hợp. Cụ thể:
+ Tội vu khống sửa thành Tội tố cáo gian dối;
+ Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy sửa thành Tội phát tán ấn phẩm đồi trụy;
+ Tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật sửa thành Tội ép buộc công chức tư pháp làm trái pháp luật.
Trong các trường hợp trên đây, “tố cáo gian dối” rõ hơn “vu khống”, “phát tán”, “ấn phẩm”, “công chức” chính xác hơn “truyền bá”, “văn hóa phẩm” và “nhân viên”.
Thứ năm, sửa đổi các tội danh cho tương thích với cách sử dụng trong pháp luật quốc tế.
Đây là các trường hợp, trong đó việc xác định phạm vi các hành vi phạm tội hoặc việc sử dụng từ ngữ ở tội danh có sự chưa tương thích với cách sử dụng thường gặp trong pháp luật quốc tế. Cụ thể:
+ Tội dâm ô đối với trẻ em sửa thành Tội lạm dụng tình dục trẻ em. Từ lạm dụng tình dục thể hiện tương đối rõ hơn so với từ dâm ô. Hơn nữa, từ lạm dụng tình dục thường được sử dụng trong các văn bản pháp luật quốc tế (Xem: Điều 34 Công ước về quyền trẻ em 1989; Điều 2 Công ước của Liên Hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ 1979)(CEDAW);
+ Tội mua bán người sửa thành Tội buôn người (Bản chất của hành vi phạm tội này là kinh doanh với đối tượng kinh doanh là con người. Do vậy, từ thể hiện hoạt động kinh doanh phải là từ buôn hoặc buôn bán chứ không phải là mua bán. Trong các văn bản pháp luật quốc tế như Nghị định thư về ngăn ngừa, trấn áp và trừng trị việc buôn người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, từ được dùng là từ Traffic (buôn bán, thương mại);
+ Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản sửa thành Tội bắt cóc con tin (Khi nói bắt cóc thì luôn hiểu với nội dung đầy đủ là bắt cóc con tin và mục đích của bắt cóc có thể rất khác nhau, trong đó có mục đích chiếm đoạt. Dùng tên gọi bắt cóc con tin vẫn đúng cho trường hợp bắt cóc nhằm chiếm đoạt và tương thích với cách dùng trong các văn bản pháp luật quốc tế như Công ước 1979 về ngăn chặn và trừng trị hành vi bắt cóc con tin (Taking of Hostages);
+ Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy sửa thành Tội chiếm tàu bay, tàu thủy (Chiếm đoạt gắn với sự thay đổi chủ sở hữu. Hành vi phạm tội ở tội này chỉ là sử dụng được các phương tiện, chỉ là chiếm “quyền” điều khiển phương tiện. Do vậy không thể dùng từ chiếm đoạt. Công ước Lahay năm 1970 nhằm ngăn chặn việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay sử dụng từ Seizure (có nghĩa là chiếm hoặc chiếm hữu);
+ Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược sửa thành Tội xâm lược vì gây chiến tranh xâm lược cũng đồng nghĩa phá hoại hòa bình. Hơn nữa, tên gọi này đã được sử dụng trong các văn bản pháp luật quốc tế (Hiến chương Liên Hợp quốc năm 1945, Hiến chương Tòa án quân sự quốc tế Nurembéc năm 1945, Nghị quyết số 3314 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc năm 1974, Quy chế Rôm về Tòa án hình sự quốc tế 1988 (Quy chế Rôm 1998) và cũng bao quát hết các hành vi được miêu tả trong điều luật về tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược;
+ Tội chống loài người tách thành Tội chống loài người và Tội diệt chủng (Trong mô tả của điều luật về tội chống loài người có những hành vi thuộc tội diệt chủng theo Điều 6 Quy chế Rôm 1998).
4. Về tên các chương trong Phần các tội phạm BLHS
Trong BLHS, tên gọi các chương tội phạm được xây dựng theo các cách sau:
- Cách thứ nhất có công thức: Các tội phạm về + đối tượng bị xâm hại (Môi trường) hoặc với đối tượng liên quan (Chức vụ; ma túy). Cách đặt tên này được sử dụng đặt tên cho 3 chương - Các tội phạm về môi trường; các tội phạm về ma túy và các tội phạm về chức vụ;
- Cách thứ hai có công thức: Các tội xâm phạm + đối tượng bị xâm phạm. Trong đó, đối tượng bị xâm phạm được mô tả rất khác nhau … Cách này được sử dụng để đặt tên cho 10 chương trong số 11 chương còn lại;
Chương cuối cùng của BLHS được đặt tên không theo cả hai cách trên mà theo kiểu liệt kê các tội phạm chính trong chương để có tên là Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh.
Để bảo đảm tính thống nhất tương đối trong việc đặt tên các chương tội phạm cần xây dựng công thức chung cho việc đặt tên các chương trong Phần các tội phạm BLHS, trừ chương cuối cùng có thể sử dụng tên gọi chung của quốc tế: Các tội phạm quốc tế. Công thức chung này phải bảo đảm 2 yêu cầu: Tên chương phải bao quát được tất cả các tội danh trong chương và tên chương phải ngắn gọn, hạn chế việc gộp nhiều nhóm tội và tránh diễn đạt theo cách liệt kê.
Việc có một công thức chung không chỉ phục vụ cho việc đặt tên của 13 chương tội phạm đang có trong BLHS hiện nay mà còn phục vụ việc đặt tên cho các chương phát sinh sau này cũng như cho các nhóm tội trong chương. Công thức chung đó có thể là một công thức mới hoặc là chọn 1 trong 2 công thức đang được sử dụng là công thức 1 và công thức 2 nói trên. Việc chọn 1 trong 2 công thức đang được sử dụng làm công thức chung có thuận lợi hơn việc tìm một công thức mới làm công thức chung vì công thức được chọn là công thức đã được chấp nhận và sử dụng sẽ có khả năng dễ được chấp nhận hơn so với công thức mới chưa được kiểm nghiệm.
Trong 2 công thức đã sử dụng, công thức 1 tuy chỉ được áp dụng đặt tên cho 3 chương nhưng tính linh hoạt lại rất cao, có thể được sử dụng dễ dàng, đơn giản cho tất cả các chương còn lại mà không gặp trở ngại. Trái lại, công thức 2 tuy đã được sử dụng để đặt tên cho 10 chương nhưng lại không thể dùng để đặt tên một cách dễ dàng cho 3 chương còn lại, trừ chương các tội phạm về môi trường.
Từ đó, chúng tôi đề xuất công thức chung cho việc đặt tên các chương tội phạm cũng như các nhóm tội phạm trong chương là:
Các tội phạm về + đối tượng bị xâm phạm hoặc đối tượng có liên quan./.
[1] Các kết quả nghiên cứu được nhóm nghiên cứu tham khảo là: Dẫn luận ngôn ngữ học của Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Nxb. Giáo dục, 2011; Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt của Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiêu, Hoàng Trọng Phiến, Nxb. Giáo dục, 2009; Thuật ngữ khoa học của Nguyễn Hỹ Hậu, nguồn: http://tiengvietmenyeu.wordpress.com/2011/06/01/thu%E1%BA%ADt-ng%E1%BB%AF-khoa-%E1%BB%8Dc/
[2] Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb. Giáo dục Việt Nam. 2011, tr. 122
[3] Trong BLHS Cộng hoà Liên bang Đức, tên gọi hầu hết các loại hình phạt đều có từ “Strafe” (có nghĩa trong tiếng Việt là hình phạt) là một bộ phận cấu thành thuật ngữ: Geldstrafe (hình phạt tiền), Freiheitstrafe (hình phạt tự do). Ngoài ra, hai hình phạt đã bị bãi bỏ cũng có tên gọi được cấu trúc tương tự là Vermoegensstrafe (hình phạt tài sản) và Todesstrafe (hình phạt chết - tử hình). Xem: Các điều từ Điều 38 BLHS Cộng hoà Liên bang Đức, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2011 (bản tiếng Đức và tiếng Việt).
[4] Về vấn đề năng lực trách nhiệm hình sự hiện còn có ý kiến khác nhau. Có thể tham khảo: Nguyễn Ngọc Hoà, “Vấn đề năng lực trách nhiệm hình sự - Từ lý thuyết đến sự thể hiện trong Bộ luật Hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 4/2014
[5] Trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, NXB. Khoa học xã hội, 1994, khi giải thích hai từ này, Từ điển đã lấy ví dụ cho từ tự vệ là Quyền tự vệ (tr. 1041).
[6] Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, tập 1. Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2013, tr. 180, 181; Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2003, tr. 258, 259.
[7] Về vấn đề này có thể xem: PGS.TS. Lê Thị Sơn, “Tội phạm có tổ chức và việc bổ sung chế định tổ chức tội phạm trong Bộ luật Hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 12/2012.
[8] Về các quy tắc định nghĩa khái niệm có thể tham khảo Giáo trình Logic học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an Nhân dân, 2012, tr. 54 và các trang tiếp theo.
[9] Có thể có định nghĩa khái niệm phải sửa đổi vì nhiều lý do khác nhau. Khi đó, chúng tôi căn cứ vào lý do chính để xếp định nghĩa khái niệm vào nhóm lý do cụ thể.
[10] Định nghĩa khái niệm “vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết” còn vấn đề khác về nội dung nên được xem xét ở nhóm thứ sáu tiếp theo.
[11] BLHS của nhiều quốc gia khác xác định tội phạm phải là hành vi cố ý; trường hợp vô ý phải được quy định cụ thể. Theo đó, ở các quốc gia này, khi không quy định lỗi thì luôn được hiểu là cố ý và do vậy, chỉ khi muốn xác định là tội vô ý thì mới cần quy định rõ về lỗi. Chúng tôi cho rằng, BLHS mới của Việt Nam nên thừa nhận và ghi nhận nguyên tắc này. Ví dụ: Điều 15 BLHS của Cộng hòa liên bang Đức quy định: “Chỉ thực hiện cố ý mới bị xử phạt trừ khi Luật đe dọa việc thực hiện vô ý với hình phạt một cách rõ ràng”; Điều 2 BLHS của Thụy Điển quy định: “Trừ khi có quy định khác, hành vi chỉ bị coi là tội phạm nếu được thực hiện một cách cố ý.”
[12] Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2011, tr. 122
[13] Kỹ thuật sử dụng cụm từ Tội xâm hại … được trình bày cụ thể ở phần tiếp theo
[14] Xem các Điều 81, 124, 125, 126, 129, 130, 132, 170a, 171 và 246 BLHS.
[15] Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, NXB. Khoa học xã hội, 1994 thì chế độ được hiểu là “Toàn bộ nói chung những điều quy định cần tuân theo trong một việc nào đó (tr. 143)
[16] Cụm từ “Tội xâm phạm chế độ …” và cụm từ “tội vi phạm (các) quy định sẽ được trình bày rõ hơn tại mục: Thứ ba, sửa đổi các tội danh không chính xác.
[17] Về vấn đề này có thể xem thêm: Nguyễn Ngọc Hòa, Bộ luật Hình sự năm 1999 với việc quy định đặc điểm về nhân thân là dấu hiệu định tội, Tạp chí Luật học, số 6/2001.
[18] Xem các điều 147, 164b, 170, 172, 176, 177, 179, 182a, 182b, 191, 202, 208, 212, 216, 220, 227, 228, 229, 234, 237, 239, 240, 241, 242, 244, 272, 330, 331, 332 và 333.
[19] Tội đua xe trái phép cũng trong tình trạng tương tự nhưng nhóm nghiên cứu đề xuất giữ nguyên tội danh và sửa CTTP cho phù hợp với tội danh vì như vậy mới phù hợp.
[20] Vì không thuộc phạm vi nghiên cứu của Đề tài nên nhóm nghiên cứu không phân tích cụ thể sự khác nhau này.
[21] Theo quan niệm chung thì trường hợp cố ý làm người khác tự sát có thể được coi như trường hợp giết người (thực hiện gián tiếp qua chính nạn nhân).