• Thuộc tính
Tên đề tài Cơ sở khoa học nhằm xây dựng bộ giáo trình chuẩn cho Đại học Luật
Nội dung tóm tắt

NỘI DUNG ĐỀ TÀI

Trong trường đại học, bộ giáo trình chuẩn được coi là dấu hiệu thể hiện năng lực và uy tín của đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu khoa học của mỗi trường và là một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá và kiểm định chất lượng đào tạo của trường đại học. Công tác đào tạo đại học luật nước ta có sự chậm trễ lớn so với các lĩnh vực đào tạo khác, vì vậy việc phát triển các yếu tố bảo đảm chất lượng đào tạo nói chung, trong đó có việc xây dựng hệ thống giáo trình tài liệu còn hạn chế. Trong tình hình đó, việc triển khai nghiên cứu một cách toàn diện để hình thành cơ sở khoa học nhằm xây dựng và hoàn thiện bộ giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật là nhu cầu có tính thời sự, cấp thiết và có nhiều ý nghĩa đối với đào tạo đại học luật ở nước ta hiện nay. Đặc biệt, với chủ trương đổi mới giáo dục đại học mà một trong những nhiệm vụ trọng tâm là chuyển từ chế độ đào tạo theo niên chế sang chế độ đào tạo theo học chế tín chỉ, việc xây dựng một bộ giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật sẽ có vai trò quan trọng trong đào tạo đại học luật ở nước ta hiện nay. Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo trình, giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật và xây dựng luận cứ khoa học cho việc xây dựng bộ giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO TRÌNH ĐẠI HỌC, GIÁO TRÌNH CHUẨN VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG BỘ GIÁO TRÌNH CHUẨN ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC LUẬT

1. Giáo trình - khái niệm và những đặc điểm cơ bản

Giáo trình, nói một cách khái quát nhất, là một loại sách được biên soạn theo từng môn học (học phần) để sử dụng chính thức trong các khoa, trường đại học. Giáo trình có một số đặc điểm cơ bản là:

Thứ nhất, về cấu trúc nội dung, giáo trình luôn có tính bao quát và tính hệ thống. Nội dung của giáo trình bao gồm các kiến thức cơ bản, toàn diện, phổ biến và tương đối ổn định của một môn học (học phần), được biên soạn một cách khoa học với hệ thống kiến thức được sắp xếp hợp lý, phù hợp với yêu cầu giảng dạy và học tập của môn học. Tổ chức nội dung của giáo trình có ba bậc gồm: Khối kiến thức cốt lõi - là khối kiến thức bắt buộc cho tất cả sinh viên nhằm đạt mục tiêu cơ bản nhất của môn học; Khối kiến thức hữu ích - là khối kiến thức dành cho sinh viên ham học hỏi, muốn tìm hiểu sâu thêm vấn đề đang nghiên cứu; Khối kiến thức bổ trợ - là khối kiến thức giới thiệu các vấn đề liên quan tới chủ đề đang nghiên cứu, giúp sinh viên hiểu rõ hơn lịch sử của vấn đề hay xu thế phát triển của vấn đề trong tương lai.

Thứ hai, giáo trình là tài liệu chính thức của khoa, trường đại học. Việc biên soạn, lựa chọn và cho sử dụng giáo trình do người có thẩm quyền của cơ sở đào tạo quyết định. Thông thường, giáo trình do cá nhân hoặc tập thể giảng viên và các nhà khoa học có uy tín trong lĩnh vực chuyên ngành biên soạn và được Hội đồng khoa học của cơ sở đào tạo thẩm định và được cơ sở đào tạo quyết định việc sử dụng chính thức giáo trình đó trong việc giảng dạy và nghiên cứu của cơ sở đào tạo.

Thứ ba, về hình thức, giáo trình được in dưới hình thức trang trọng, có đủ các yếu tố cần thiết của một tài liệu chính thức của cơ sở đào tạo.

Với những đặc trưng đã nêu, theo đúng nghĩa của từ, thì giáo trình chỉ có trong các cơ sở đào tạo đại học, mặc dù trên thực tế khái niệm giáo trình thường được dùng để chỉ cả những tài liệu chính thức được dùng trong các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Nhiều nhà khoa học đồng ý với quan niệm này.

Một điểm đáng chú ý là, bên cạnh tính cơ bản, toàn diện, phổ biến, chính thức, chuẩn mực và tương đối toàn diện, giáo trình còn có tính gợi mở và tính định hướng. Việc xác định mức độ và cân đối các đặc tính nói trên của giáo trình như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào mục tiêu, yêu cầu nội dung đào tạo của các trường đại học và cách nhìn nhận, thể hiện các vấn đề của người có trách nhiệm của cơ sở đào tạo và các tác giả biên soạn giáo trình. Vì vậy, trong cùng một môn học hay học phần, có thể có nhiều giáo trình khác nhau được sử dụng trong các cơ sở đào tạo đại học. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa sách giáo trình với sách giáo khoa và các tài liệu khác.

2. Giáo trình chuẩn - quan niệm và tiêu chí xác định

Khái niệm giáo trình chuẩn chỉ có tính tương đối và nó chỉ phù hợp khi được vận dụng trong phạm vi bộ môn, khoa, trường đào tạo đại học. Ở phạm vi rộng hơn, khái niệm giáo trình chuẩn được hiểu tương đồng với khái niệm sách giáo khoa. Việc xác định các tiêu chí của giáo trình chuẩn do từng bộ môn, khoa, trường đề ra, phù hợp với mục tiêu, chương trình và phương pháp đào tạo của mỗi cơ sở đào tạo. Giáo trình chuẩn đào tạo đại học phải đáp ứng được các tiêu chí chung cơ bản là: (i) tính học thuật; (ii) tính thực tiễn; (iii) tính mở; (iv) Tính liên thông; (v) tính truyền thống và tính hiện đại; (vi) tính hấp dẫn; (vii) tính phù hợp với mục tiêu, chương trình và phương pháp đào tạo; (viii) có cấu trúc khoa học và hình thức trang trọng.

i. Tính học thuật. Đây là giá trị hàng đầu của giáo trình đại học. Tính học thuật đòi hỏi, giáo trình phải thể hiện được những kiến thức khoa học có tính lý luận cơ bản, toàn diện, phổ biến và tương đối ổn định của một bộ môn khoa học với hệ thống khái niệm, luận điểm, nguyên tắc, phương pháp có tính chất chìa khóa, nhằm để trang bị cho sinh viên phương pháp tư duy khoa học về môn khoa học, trên cơ sở đó sinh viên có thể chủ động định hướng và tự học hỏi mở rộng kiến thức, nâng cao trình độ không ngừng.

ii. Tính thực tiễn. Tính thực tiễn của giáo trình thể hiện trên hai bình diện, hai hướng, hai phương pháp tiếp cận và giải quyết vấn đề có liên hệ rất mật thiết với nhau: Từ thực tiễn để luận chứng, khái quát hóa thành lý luận (khái niệm, luận điểm, nguyên tắc, phương pháp và kinh nghiệm) và từ những khái quát về lý thuyết để xem xét, bình luận, nhận xét về những vấn đề thực tiễn để chứng minh và gợi mở.

iii. Tính mở. Tính mở của giáo trình là tiêu chí vừa có tính khách quan lại vừa có tính chủ quan; vừa là nhu cầu lại vừa là đòi hỏi. Vì giáo trình chỉ có thể và chủ yếu là phải chứa đựng những vấn đề có tính cơ bản, toàn diện, phổ biến và tương đối ổn định của một bộ môn khoa học, vì vậy tính gợi mở của giáo trình là cần thiết để hướng dẫn sinh viên chủ động học hỏi, tham khảo mở rộng kiến thức và nâng cao trình độ. Mặt khác, giáo trình có tính thực tiễn, nó phải phản ánh hơi thở của cuộc sống, mà đời sống xã hội thì biến đổi không ngừng, việc đổi mới và hoàn thiện giáo trình luôn được đặt ra không thể định vị và cầu toàn. Hơn nữa, tính gợi mở sẽ tạo ra một tâm lý tốt cho người dạy và người học, tạo động cơ và thái độ không ỷ lại vào giáo trình mà luôn có ý thức tìm tòi khám phá không ngừng.

iv. Tính liên thông. Giáo trình không phải là tài liệu duy nhất được sử dụng trong quá trình giáo dục đại học. Mỗi loại tài liệu như sách tham khảo, chuyên khảo, hướng dẫn, bài tập… đều có vị trí và vai trò quan trọng. Vì vậy, giáo trình cần thể hiện đúng những nội dung thiết yếu, cần thiết, việc soạn thảo giáo trình cần tính đến mối quan hệ tương hỗ, phụ thuộc lẫn nhau giữa giáo trình với các loại sách và tư liệu khác.

v. Tính truyền thống và tính hiện đại. Đây là tiêu chí phản ánh giá trị văn hóa của giáo trình. Tiêu chí này đòi hỏi người biên soạn giáo trình phải có sự hiểu biết sâu rộng những kiến thức lý thuyết, thực tiễn, kinh nghiệm, biết chọn lọc, kế thừa và phát triển các yếu tố hợp lý và sắp xếp các vấn đề một cách khoa học, để bảo đảm cho giáo trình có chất lượng và có sức hấp dẫn.

vi. Tính hấp dẫn. Đây là một trong những tiêu chí quan trọng. Có thể nói một cách hình ảnh rằng, người viết giáo trình như một thày thuốc, các kiến thức mang tính học thuật, tính thực tiễn, tính mở, tính liên thông, tính truyền thống và hiện đại, tính thời sự… như những vị thuốc bổ quý giá. Nhưng nếu không có phương pháp tốt để sử dụng các vị thuốc đó một cách hợp lý thì cũng không thể có được một thang thuốc bổ cao cấp. Vì vậy, tính hấp dẫn của giáo trình luôn được đặt ra để bảo đảm giáo trình có chất lượng và được đón nhận nồng nhiệt, tạo động cơ cho việc giảng dạy và học tập, thu hút sự chú ý và tạo cơ sở cho sự năng động và sáng tạo trong giảng dạy và học tập.

vii. Tính phù hợp với mục tiêu, chương trình và phương pháp đào tạo. Đây vừa là tiêu chí chung, vừa là tiêu chí riêng. Vì tùy thuộc vào mục tiêu, chương trình, phương pháp đào tạo của các khoa, trường đại học vừa có thống nhất ở những nét chung, vừa mang những đặc điểm riêng của mỗi cơ sở. Theo đó, tính chất, nội dung, hình thức của giáo trình luôn phải đáp ứng những yêu cầu chung và riêng đó.

viii. Có cấu trúc khoa học và hình thức trang trọng. Đây là tiêu chí không đơn thuần chỉ là về mặt kỹ thuật mà còn chứa đựng yếu tố khoa học sâu sắc. Bởi vì, hình thức của giáo trình luôn là hình thức biểu hiện cụ thể của nội dung. Giáo trình có cấu trúc bên trong khoa học là sự thể hiện rõ nét của nội dung khóa học của giáo trình. Hình thức trang trọng thể hiện tính chính thức và tính văn hóa của giáo tình, góp phần quan trọng vào việc tạo ra tâm lý tôn trọng giá trị đích thực của giáo trình trong quá trình giáo dục đại học.

Ngoài những tiêu chí trên, giáo trình chuẩn đại học luật còn có tiêu chí đặc thù đó là phải bảo đảm tính pháp lý. Tính pháp lý được quán triệt và xuyên suốt trong tất cả các vấn đề từ nội dung, phương pháp tiếp cận, đến cách thức và ngôn ngữ biểu đạt nữa.

3. Giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật

3.1. Giáo trình đào tạo đại học luật ở các cơ sở đào tạo đại học luật ở nước ngoài và sự cần thiết của việc xây dựng giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật ở Việt Nam

Chương trình đào tạo cử nhân luật được coi là đào tạo cơ bản ở bậc đại học và vì thế phổ biến ở các cơ sở đào tạo ở nhiều nước trên thế giới. Mỗi trường đều có những chương trình đào tạo với những đặc thù và thế mạnh riêng nhưng vẫn có những tương đồng nhất định. Thông thường các chương trình đào tạo trong các trường cùng một hệ thống pháp luật như Common Law hay Civil Law thì có nhiều nét tương đồng hơn. Những chương trình đào tạo cử nhân luật được thực hiện dựa trên sự kết hợp nhiều yếu tố khác nhau trong đó giáo trình và tài liệu có vai trò đặc biệt quan trọng. Tầm quan trọng của giáo trình tài liệu đối với các chương trình đào tạo ở nhiều nước thể hiện ở một số điểm sau:

Thứ nhất, đa số các cơ sở đào tạo cử nhân luật trên thế giới đều hướng quá trình đào tạo vào việc tự học của sinh viên. Sinh viên được hướng dẫn tự nghiên cứu nhiều hơn so với lên lớp nghe giảng. Việc tự học của sinh viên đòi hỏi phải có hệ thống sách tham khảo, giáo trình đầy đủ.

Thứ hai, việc đảm bảo cho sinh viên có được những giáo trình cần thiết buộc giảng viên hoặc phải tự mình biên soạn giáo trình, tài liệu tham khảo hoặc phải tìm hiểu, đọc và giới thiệu cho sinh viên hoặc cung cấp cho họ dưới dạng tài liệu phát tay (hand-out). Hệ quả của quá trình này là trách nhiệm của giảng viên được nâng cao. Tình trạng một bài giảng được sử dụng lặp đi lặp lại trong nhiều khóa đào tạo không thể xảy ra.

Quan niệm giáo trình khá khác nhau ở mỗi nước. Giáo trình (textbook) được coi là sách được sử dụng chính thức cho việc dạy và học một môn học nhất định trong các trường học1. Theo định nghĩa này và cũng như trong thực tế giảng dạy và học tập ở các trường đại học ở nhiều nước, giáo trình không nhất thiết phải do cơ sở đào tạo biên soạn và phát hành, không nhất thiết phải do một hội đồng nào đó của cơ sở đào tạo thông qua. Trong chương trình các môn luật của các cơ sở đào tạo ở Australia như Trường đại học Quốc gia Australia (Australian National University), Đại học Canbera (University of Canbera); Trường đại học New South Wales (University of New South Wales), Đại học Melbourne2 (University of Melbourne) đều không xác định tài liệu chính thức cho môn học. Các môn học được liệt kê chi tiết với thời lượng và nội dung cụ thể, giáo sư hay giảng viên thực hiện môn học đó. Trong các chương trình đào tạo của Đại học Harvard, Đại học Quốc gia Singgapo cũng có tình trạng tương tự.

Khác với ở các nước đã nêu, trong chương trình đào tạo của các trường đại học tại Liên bang Nga thì có các chỉ dẫn về tài liệu. Có lẽ ảnh hưởng của mô hình đào tạo dưới thời kỳ Xô viết vẫn còn để lại những dấu ấn sâu đậm. Trước đây, trong các chương trình giảng dạy ở các trường đại học trong thời kỳ Xô viết, sinh viên được thông báo những yêu cầu cụ thể của môn học và tài liệu chính thức, tài liệu tham khảo mà sinh viên phải tìm kiếm để đọc. Đối với các môn thuộc khoa học chính trị Mác - Lênin, tài liệu tham khảo chính thức là các tác phẩm kinh điển và giáo trình được qui định trong chương trình. Đối với các môn luật thì tài liệu học tập chính thức là các giáo trình luật được xác định trong chương trình.

Việt Nam cũng có tình trạng giống như ở Liên bang Nga. Sinh viên luật ở các cơ sở đào tạo của Việt Nam học theo các giáo trình được chọn làm tài liệu chính thức. Sinh viên phải theo đúng các kiến thức được thể hiện trong giáo trình. Các kiến thức này thường được coi là chuẩn ở mức độ nhất định. Việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên được xác định căn cứ vào mức tiếp thu các kiến thức từ giáo trình. Việc mở rộng kiến thức ra ngoài phạm vi giáo trình không được khuyến khích, thậm chí chứa đựng rủi ro bị giảng viên cho điểm kém.

Thứ ba, việc biên soạn giáo trình chính thức về cơ bản là do đội ngũ giảng viên của cơ sở đào tạo thực hiện và do Hội đồng khoa học và đào tạo (hay định chế tương tự) xem xét và hiệu trưởng quyết định. Thực tế này dẫn đến một hệ quả tích cực là giảng viên được thu hút sâu hơn vào hoạt động nghiên cứu tài liệu và chuẩn bị giảng dạy. Tuy nhiên, cũng có thể thấy ngay là cách tiếp cận này có những hạn chế rất lớn, đáng lưu ý nhất là khả năng tiếp cận của sinh viên đối với những thành tựu của khoa học pháp lý rất thấp. Chính vì thế, phần lớn các cơ sở đào tạo trên thế giới không chọn giải pháp buộc phải có giáo trình chính thức cho các môn học. Các cơ sở đào tạo này đặt ra các yêu cầu rất chi tiết đối với mỗi môn học. Người học và người dạy phải làm sao đạt được những yêu cầu đó, còn cách thức làm sao đạt được chúng thì hoàn toàn do giảng viên quyết định.

3.2. Giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật ở Việt Nam

Hiện tại, các cơ sở đào tạo luật ở nước ta đã có các giáo trình cho phần lớn các môn học như Luật tài chính, Luật ngân hàng, Luật hình sự, Luật tố tụng dân sự v.v... Các giáo trình mới của các môn học này cũng được biên soạn trong thời gian gần đây nhằm đáp ứng với những thay đổi rất lớn trong chương trình đào tạo. Với thực trạng đào tạo luật hiện nay, xét cả về đội ngũ lẫn các điều kiện khác, việc xác định các giáo trình được sử dụng cho các môn học cụ thể vẫn cần được duy trì. Điều này xuất phát từ những lý do cơ bản sau đây:

Một là, nền khoa học pháp lý của ta chưa phát triển đến mức độ có thể tạo ra những công trình kinh điển, có giá trị lớn về học thuật ở tầm quốc gia đối với các môn học luật. Trong hoàn cảnh này, việc giáo viên tự chọn ra một vài cuốn sách làm tài liệu chính thức cho việc giảng dạy và học tập một môn luật cụ thể khó tạo ra được sự đồng thuận. Sự can thiệp của Hội đồng khoa học và đào tạo hay định chế tương ứng vào vấn đề học liệu là nhằm tạo ra sự đồng thuận đó.

Hai là, chương trình đào tạo và cách thực hiện như hiện nay chưa cho phép giảng viên đại học, thậm chí giảng viên sau đại học tự lựa chọn học liệu cần thiết cho môn giảng của mình. Mỗi môn giảng không phải chỉ do một giảng viên thực hiện mà do 3, 4 người, thậm chí 8, 9 người thực hiện. Chính sự tham gia của nhiều giảng viên như vậy dẫn đến nhu cầu phải thống nhất nội dung giảng và tài liệu giảng dạy. Giáo trình chính thức của cơ sở đào tạo có khả năng đáp ứng đòi hỏi này.

Ba là, vấn đề phương pháp đào tạo. Có thể nhận thấy dễ dàng rằng, phần lớn các môn học trong Trường Đại học Luật Hà Nội cũng như các cơ sở đào tạo khác đều được thực hiện theo phương pháp thuyết giảng. Bám sát giáo trình được coi như là một yêu cầu bắt buộc đối với người giảng. Việc mở rộng kiến thức chỉ có thể xảy ra với giảng viên có kinh nghiệm, chịu khó nghiên cứu và có nhiều thông tin (thực tế là không nhiều).

Với phương pháp thuyết giảng, việc buộc sinh viên đọc thêm tài liệu theo hướng dẫn của giảng viên rất hạn chế. Giảng viên không có cơ hội kiểm tra xem học viên có tuân thủ yêu cầu đọc tài liệu hay không. Trong khi đó, trong các cơ sở đào tạo ở nước ngoài, với phương pháp đối thoại, giảng theo vấn đề hoặc theo tình huống, giảng viên hoàn toàn có cơ hội kiểm tra việc sinh viên có tuân thủ yêu cầu đọc tài liệu và tự phát triển kiến thức của mình hay không.

Thế nào là một giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật?

Trên cơ sở quan niệm về giáo trình và giáo trình chuẩn nói chung được phân tích ở trên, gắn với những đặc điểm của việc đào tạo đại học luật, nhóm nghiên cứu cho rằng:

Giáo trình chuẩn dành cho hệ đào tạo Đại học ngành Luật là tài liệu chính thức dành cho việc giảng dạy, nghiên cứu và học tập mà nội dung của nó bao gồm các thông tin và các kiến thức khoa học cơ bản, tiên tiến và đảm bảo chất lượng đào tạo ở trình độ Đại học về môn học pháp lý chuyên ngành có liên quan trong lĩnh vực luật học và được thừa nhận chung bởi đa số các nhà khoa học - luật gia thuộc chuyên ngành đó, do cá nhân hoặc tập thể giảng viên (cộng tác viên) của bộ môn tương ứng biên soạn và được Hội đồng khoa học - đào tạo của cơ sở đào tạo luật có bộ môn ấy thẩm định để thông qua theo đúng quy trình, đồng thời được một Nhà xuất bản có thẩm quyền phát hành theo đúng các quy định chung của pháp luật.

Tuy nhiên, xuất phát từ những điểm đặc thù của đào tạo đại học luật, nhóm nghiên cứu cho rằng, ngoài việc thỏa mãn những tiêu chí của một giáo trình chuẩn nói chung, giáo trình đào tạo đại học luật cần phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau:

Thứ nhất, giáo trình đào tạo đại học luật phải chứa đựng hệ thống các khái niệm và quan điểm, quan niệm được xây dựng trên cơ sở khoa học và đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn pháp luật trở thành những khái niệm, quan điểm phổ biến trong khoa học pháp lý.

Thứ hai, giáo trình đào tạo đại học luật luôn gắn liền với những quy định pháp luật và thực tiễn Việt Nam, có so sánh, đối chiếu với pháp luật và thực tiễn nước ngoài.

Thứ ba, đảm bảo sự thống nhất giữa các phần khác nhau của một giáo trình cũng như sự thống nhất giữa các giáo trình của các khoa học pháp lý khác nhau.

Thứ tư, giáo trình đào tạo đại học luật phải có sự cân đối giữa trang bị kiến thức lý luận và khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn.

II. THỰC TRẠNG GIÁO TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC LUẬT TRONG CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO LUẬT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1. Nhận xét chung

Hiện nay, ở nước ta có nhiều cơ sở đào tạo cử nhân luật đó là: Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật thuộc Đại học Huế, Khoa Luật thuộc Đại học Đà Lạt, Khoa Luật thuộc Đại học Cần Thơ, Học viện Cảnh sát, Học viện An ninh, Đại học Mở Hà Nội, Khoa Luật thuộc Đại học Kinh tế quốc dân…

Hàng năm, các cơ sở đào tạo luật thực hiện nhiệm vụ đào tạo hàng nghìn cán bộ pháp lý có trình độ khác nhau trong đó, chủ yếu là là trình độ đại học. Hình thức đào tạo của các cơ sở này cũng rất phong phú và đa dạng bao gồm: chính quy, tại chức, hoàn thiện kiến thức, đào tạo từ xa, văn bằng II, trung cấp…

Qua khảo sát việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập và hệ thống tài liệu được sử dụng trong việc nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo ở các cơ sở này, có thể có một số nhận xét sau:

Thứ nhất, mặc dù các cơ sở đào tạo ở Việt Nam đã có những cố gắng nhất định để xây dựng giáo trình và các tài liệu khác phục vụ cho việc nghiên cứu và đào tạo đại học luật nhưng chỉ một vài cơ sở đào tạo lớn mới có một hệ thống giáo trình tương đối hoàn chỉnh như Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.

Thứ hai, nhiều cơ sở đào tạo cử nhân luật hiện nay vẫn chưa có bộ giáo trình chính thức của mình mà đang sử dụng bộ giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội và Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.

Thứ ba, một số cơ sở đào tạo cử nhân luật đã đưa vào chương trình giảng dạy một số môn học hoặc chuyên đề có tính đặc thù của vùng, miền nơi mà cơ sở đó đang tham gia đào tạo. Đó là thế mạnh của những cơ sở này nhưng cũng chưa có một giáo trình được phổ biến rộng rãi mà mới chỉ dừng lại ở các tập bài giảng hoặc chỉ là giáo trình được lưu hành với một phạm vi rất hạn chế.

Thứ tư, mặc dù hệ thống giáo trình của các cơ sở đào tạo đại học luật của Việt Nam chưa hoàn thiện, nhưng chúng đều được các cơ sở đào tạo khác nhau ở Việt Nam sử dụng. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo cũng có tham khảo giáo trình của nước ngoài để xây dựng và hoàn chỉnh chương trình của mình. Tuy nhiên, tất cả các cơ sở đào tạo đại học luật ở Việt Nam đều không sử dụng giáo trình của nước ngoài để giảng dạy mà chỉ sử dụng nó như là những tài liệu tham khảo để hỗ trợ cho việc nghiên cứu so sánh.

Thứ năm, các cơ sở đào tạo đại học chưa có hệ thống giáo trình hoàn chỉnh đều đang có kế hoạch biên soạn giáo trình chính thức của mình để phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy ở cơ sở đào tạo của mình.

3. Thực trạng giáo trình hiện đang được sử dụng tại một số cơ sở đào tạo đại học luật

Những kết quả đã đạt được:

- Các giáo trình của các cơ sở đào tạo đại học luật đã cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản nhất về các khoa học pháp lý và kỹ năng vận dụng kiến thức đã học được để giải quyết những tình huống cụ thể trong quan hệ xã hội và trong hoạt động hoạt động thực tiễn.

- Các giáo trình đào tạo đại học luật hiện nay đã chuẩn hóa hệ thuật ngữ.

- Nội dung của các giáo trình đào tạo đại học luật cũng đã cân đối được giữa trang bị kiến thức lý luận và khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn.

- Bám sát qui định pháp luật và thực tiễn Việt Nam, có so sánh, đối chiếu pháp luật và thực tiễn nước ngoài cũng là một trong những điểm đáng chú ý của các giáo trình đào tạo đại học luật hiện nay.

- Đảm bảo sự thống nhất giữa các phần khác nhau trong một giáo trình cũng như sự thống nhất giữa các giáo trình của các môn học hoặc các học phần khác nhau của cùng một hệ đào tạo.

Những hạn chế của các giáo trình đào tạo đại học luật

Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong các giáo trình đào tạo đại học luật đã được nêu ở trên, các giáo trình cũng còn có những hạn chế cần khắc phục để đáp ứng một cách tốt hơn yêu cầu của việc đào tạo đại học luật trong điều kiện hiện nay:

Về nội dung giáo trình.

+ Trong một số giáo trình đang được sử dụng phổ biến hiện nay, những vấn đề mang tính chất lý luận cơ bản của một lĩnh vực khoa học pháp lý được trình bày chưa đạt tới sự tự hình thành phương pháp luận khoa học và tư duy khoa học trong nhận thức và phân tích các vấn đề về nhà nước, pháp luật và chưa tạo ra được khả năng vận dụng lý luận vào việc giải quyết những vấn đề cụ thể của thực tiễn.

+ Một số giáo trình còn thiếu sự cân đối giữa tính chất lý luận với thực tiễn và khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn. Nói cách khác, còn không ít chỗ nặng về lý luận kinh viện, nhẹ về lý luận thực hành, nghĩa là lý luận mang hơi thở cuộc sống sinh động, có khả năng đem đến cho người ta sự nhận thức liên tưởng thực tiễn cao, từ đó hình thành và bồi dưỡng năng lực vận dụng linh hoạt và sáng tạo lý luận vào thực tiễn để giải quyết những vấn đề cụ thể của thực tiễn.            

+ Trong một số giáo trình, có một số vấn đề lý luận chưa được xem xét phân tích một cách thấu đáo cho phù hợp với thực tiễn do sự biến đổi của thực tiễn và sự phát triển của khoa học pháp lý, các khoa học khác có liên quan ở trong và ngoài nước.

+ Xét về cấu trúc nội dung, các giáo trình chưa tuân thủ triệt để các nguyên tắc chung về xây dựng cấu trúc nội dung của giáo trình. Trong đó có biểu hiện chưa thể hiện rõ nguyên tắc tổ chức nội dung giáo trình theo các khối kiến thức khác nhau (khối kiến thức cốt lõi, khối kiến thức hữu ích và khối kiến thức bổ trợ). Một số chương trong các giáo trình mới chỉ tập trung chủ yếu vào khối kiến thức cốt lõi mà thiếu khối kiến thức hữu ích và khối kiến thức bổ trợ. Trái lại, ở một số giáo trình cũng có biểu hiện mở rộng phạm vi khối kiến thức hữu ích và khối kiến thức bổ trợ ở một số nội dung.

+ Một số giáo trình chưa thể hiện được "tính mở" do còn đóng khung trong quan điểm được coi là chính thống, ít có sự so sánh, phê phán. Bên cạnh đó, tính kế thừa trong các chương của giáo trình cũng chưa được chú ý đúng mực. Do vậy, có sự lặp lại kiến thức, thể hiện ở chỗ có nhiều nội dung chỉ là sự cụ thể hóa một cách đơn giản những kiến thức đã được đề cập ở các chương trước. Những hạn chế này có thể gây nhàm chán cho sinh viên, không tạo ra động lực thúc đẩy sinh viên tìm tòi, nghiên cứu…

- Về hình thức giáo trình:

+ Một số giáo trình có kết cấu chưa thật sự hợp lý, thiếu cơ sở khoa học và không bảo đảm được tính liên thông với các môn học pháp lý khác có mối quan hệ trực tiếp. Chẳng hạn, một số nội dung trong giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật thiếu sự liên thông với các khoa học pháp lý khác như Lịch sử nhà nước và pháp luật, Luật hiến pháp.

+ Văn phạm và kỹ thuật hành văn còn một số hạn chế ở những đoạn, chỗ khác nhau, cụ thể là: câu, chữ, lời văn chưa thật sự đúng ngữ pháp tiếng Việt Nam, còn cầu kỳ, phức tạp, dài, khó hiểu; lời văn (văn phong) chưa thật sáng sủa, chưa có tính khoa học và lôgíc cao; chưa nêu được ý nghĩa, tầm quan trọng về lý luận và thực tiễn của vấn đề được trình bày; hoặc đưa ra ngay khái niệm mà không lập luận cơ sở khoa học của nó, hoặc có lập luận cơ sở khoa học rồi mới đưa ra khái niệm nhưng cơ sở khoa học đó không vững chắc và thiếu sức thuyết phục; hoặc không đưa ra khái niệm và phân tích nội dung khái niệm; chưa kết hợp phân tích, giải thích với việc đưa ra luận điểm, kết luận mà nhiều khi chỉ đưa ra quan điểm, kết luận mà không giải thích; chưa có dẫn chứng thực tế khi phân tích, giải thích vấn đề; hoặc nói chung chung hoặc quá chi tiết mà không nêu được dẫn chứng cụ thể; ít chứa đựng những thông tin thực tế cần thiết.

+ Một số giáo trình còn thiếu các phần cần thiết của giáo trình như tài liệu tham khảo, hoặc danh mục các tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu sâu hơn.

Nguyên nhân của tình trạng trên có thể được khái quát ở một số điểm cơ bản sau:

 Thứ nhất, trong quá trình biên soạn các giáo trình còn còn thiếu hệ các tiêu chí chuẩn để đánh giá, xác định vấn đề nào là cơ bản để đưa vào nội dung giáo trình.

Thứ hai, các chương trình đào tạo đại học luật luôn có những thay đổi về kết cấu của từng học phần, từng môn học cũng như thời lượng của mỗi môn, vì vậy, việc biên soạn một bộ giáo trình phù hợp với những thay đổi đó không phải dễ dàng.

Thứ ba, các cơ sở đào tạo luật ở nước ta hiện nay đều phải đảm nhiệm việc đào tạo cán bộ pháp lý ở bậc đại học với các hình thức khác nhau. Bên cạnh đó, các học viên lại có những đặc điểm khác nhau về tuổi tác, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm việc… Vì thế, việc xây dựng một bộ giáo trình phù hợp với tất cả các đối tượng không phải là một công việc đơn giản.

Thứ tư, chưa có những quy định bắt buộc có tính thống nhất về cấu trúc hình thức của một cuốn giáo trình. Vì vậy, các phần trong các giáo trình khác nhau được các tác giả khác nhau biên soạn thường phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người biên soạn cũng như của chủ biên. Điều đó đã dẫn tới tình trạng ngay trong một cơ sở đào tạo, giáo trình của các môn học khác nhau nhưng có hình thức cấu trúc khác nhau. Chẳng hạn, có giáo trình có phần danh mục tài liệu tham khảo, có giáo trình không có; hoặc có giáo trình có phần câu hỏi thảo luận, nhưng cũng có giáo trình không có.

Thực trạng trên đặt ra vấn đề cần phải xây dựng một bộ giáo trình chuẩn phục vụ cho việc đào tạo cử nhân luật phù hợp với điều kiện ở nước ta hiện nay.

III.  MỤC TIÊU, YÊU CẦU VÀ QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG MỘT SỐ GIÁO TRÌNH CHUẨN CỦA MỘT SỐ MÔN HỌC ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC LUẬT

1. Xây dựng giáo trình chuẩn cho môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật

Mục tiêu của giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật là cung cấp cho người học những kiến thức chung cơ bản nhất, quan trọng nhất về nhà nước và pháp luật, tạo cơ sở, nền tảng nhận thức đúng đắn và khoa học để họ tiếp tục học tập các môn học pháp lý khác. Nói cách khác, giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật trang bị cho sinh viên cơ sở phương pháp luận, phương pháp tư duy khoa học về các vấn đề chung mang tính lý luận và thực tiễn của nhà nước và pháp luật, nhờ đó mới có thể tiếp tục đi sâu tìm hiểu và nhận thức những vấn đề cụ thể của nhà nước và pháp luật.

Yêu cầu

Việc đổi mới nội dung của giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật cũng nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Tuy vậy, nội dung của giáo trình mới của môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật cần bảo đảm các yêu cầu sau đây về tính khoa học, tính cơ bản, tính toàn diện, tính thiết thực, tính hiện đại, tính liên thông với các môn học pháp lý khác.

Quan điểm

Từ mục tiêu của giáo trình dẫn tới những yêu cầu cụ thể của giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật.

Thứ nhất, giáo trình phải trình bày một cách có chọn lọc những tri thức khoa học tinh túy nhất trong hệ thống tri thức của khoa học Lý luận về nhà nước và pháp luật, vừa trang bị kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật phù hợp với mục tiêu chương trình đào tạo, vừa tạo cơ sở cho việc mở rộng kiến thức của khoa học lý luận về nhà nước và pháp luật.

Thứ hai, giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật phải đáp ứng được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển từ phương pháp "độc thoại một chiều" sang phương pháp "đồng thoại hai chiều", nhằm phát huy tinh thần chủ động và sáng tạo của sinh viên trong học tập.

Thứ ba, giáo trình phải hỗ trợ được việc học tập chủ động, sáng tạo và phát huy tư duy trừu tượng, tư duy lôgíc trong việc tiếp nhận kiến thức và vận dụng kiến thức để luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhà nước và pháp luật.

Nội dung

Xuất phát từ tính chất, mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nhiệm vụ, mục đích, đối tượng, thời lượng của môn học, có thể xác định được nội dung cụ thể của giáo trình môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật. Nội dung đó không thể bao quát hết toàn bộ những vấn đề về nhà nước và pháp luật thuộc đối tượng nghiên cứu của khoa học Lý luận về nhà nước và pháp luật đề cập, mà chỉ bao gồm những vấn đề cơ bản nhất và quan trọng nhất của nhà nước và pháp luật mà thôi. Nói cách khác, nội dung đó chỉ bao gồm một khối lượng kiến thức cơ bản về các vấn đề quan trọng nhất và cơ bản nhất của nhà nước và pháp luật.

Những vấn đề cơ bản đó là:

+ Những khái niệm chung của nhà nước và pháp luật, gồm: nguồn gốc nhà nước, bản chất nhà nước, chức năng nhà nước, bộ máy nhà nước, hình thức nhà nước, kiểu nhà nước; nguồn gốc pháp luật, bản chất pháp luật, chức năng của pháp luật, hình thức pháp luật, kiểu pháp luật, quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật, thực hiện pháp luật, vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lý, ý thức pháp luật, pháp chế và trật tự pháp luật.

+ Các kiểu nhà nước trong lịch sử, gồm: nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa.

+ Các kiểu pháp luật trong lịch sử, gồm: pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản, pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Với những nội dung cụ thể đó, giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật nên được cấu trúc như sau:

Cấu trúc nội dung của giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật gồm bài nhập môn và ba phần. Việc phân chia các chương, mục cụ thể phụ thuộc vào nội dung từng phần và từng vấn đề được đề cập.

+ Bài nhập môn cung cấp cho sinh viên những kiến thức chủ yếu về Lý luận về nhà nước và pháp luật nhằm đạt được hai mục đích: Một là, sinh viên nhận thức được Lý luận về nhà nước và pháp luật là môn khoa học pháp lý cơ sở, nền tảng, mang tính phương pháp luận cho các khoa học pháp lý khác (các khoa học pháp lý chuyên ngành và các khoa học pháp lý ứng dụng), qua đó thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa khoa học Lý luận về nhà nước và pháp luật với các khoa học pháp lý khác; Hai là, nhận thức được nhiệm vụ, mục đích, yêu cầu của môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật, trên cơ sở đó cũng thấy được mối quan hệ giữa môn học này với các môn học pháp lý khác.

+ Nhiệm vụ, mục đích của Phần một là cung cấp những kiến thức cơ bản về các khái niệm chung của nhà nước và pháp luật nhằm hình thành ở sinh viên nền tảng nhận thức để tiếp tục đi sâu học tập, nghiên cứu các vấn đề cụ thể của lý luận và thực tiễn nhà nước và pháp luật. Yêu cầu về mặt kỹ thuật thể hiện nội dung ở đây là phải bảo đảm được tính khoa học, tính chính xác, tính cô đọng và tính lôgíc. Các khái niệm chung về nhà nước và pháp luật cần được trình bày ở phần này gồm: nguồn gốc nhà nước, bản chất nhà nước, chức năng nhà nước, bộ máy nhà nước, hình thức nhà nước, kiểu nhà nước, nguồn gốc pháp luật, bản chất pháp luật, chức năng của pháp luật, hình thức pháp luật, kiểu pháp luật, quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật, thực hiện pháp luật, vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lý, ý thức pháp luật, pháp chế và trật tự pháp luật.

+ Phần hai cung cấp những kiến thức cơ bản về bốn kiểu nhà nước trong lịch sử: nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu về kỹ thuật thể hiện nội dung ở đây là vừa bảo đảm được tính lý luận sâu sắc, vừa mang tính thực tiễn cao, tránh lội sang khoa học Lịch sử nhà nước và pháp luật. Nội dung của phần này gồm các vấn đề chủ yếu sau: sự ra đời, bản chất, chức năng, bộ máy, hình thức của nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa (có liên hệ vào Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); nhà nước trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa (có liên hệ vào Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (có liên hệ vào Việt Nam hiện nay).

+ Phần ba cung cấp những kiến thức cơ bản về bốn kiểu pháp luật trong lịch sử: pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu về kỹ thuật thể hiện nội dung trong phần này là vừa phải bảo đảm được tính lý luận cao, vừa có tính thực tiễn phong phú, không nhảy sang khoa học Lịch sử nhà nước và pháp luật. Những vấn đề chủ yếu cần được trình bày ở đây là: sự ra đời, bản chất, đặc điểm, hình thức, vai trò của pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa (có liên hệ vào pháp luật Việt Nam hiện nay); xây dựng pháp luật, hệ thống hóa pháp luật và giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay; ý thức pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay; pháp chế, trật tự pháp luật và tăng cường pháp chế, bảo vệ trật tự pháp luật ở Việt Nam hiện nay;…

2. Xây dựng giáo trình chuẩn cho môn học Luật hành chính

Mục tiêu:

- Giới thiệu cho người học những kiến thức cơ bản nhất về Luật hành chính và Khoa học Luật lành chính và kỹ năng vận dụng kiến thức đã học được để giải quyết những tình huống cụ thể trong quan hệ xã hội và trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.

- Định hướng tự học, tự nghiên cứu, phát triển, mở rộng.

- Hiện đại hóa giáo trình, chuẩn hóa hệ thuật ngữ.

Yêu cầu:

- Xây dựng được một giáo trình phù hợp để phục vụ các đối tượng là những người theo học bậc đại học thuộc tất cả các hệ đào tạo.

- Xây dựng được một giáo trình có tính chất gợi mở để người học có thể tiếp thu kiến thức và tự học, tự nghiên cứu trong điều kiện thời gian lên lớp giảm nhiều mà nội dung cần chuyển tải không giảm.

 Nguyên tắc:

Việc xây dựng giáo trình Luật hành chính cần được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc chủ đạo sau đây:

 - Kế thừa có chọn lọc những kết quả mà quá trình xây dựng giáo trình 25 năm qua đem lại.

- Cân đối giữa trang bị kiến thức lý luận và khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn.

- Bám sát qui định pháp luật và thực tiễn Việt Nam, có so sánh, đối chiếu pháp luật và thực tiễn nước ngoài.

- Đảm bảo sự thống nhất giữa các phần khác nhau của giáo trình cũng như sự thống nhất giữa giáo trình Luật hành chính với các giáo trình liên quan như giáo trình Luật tố tụng hành chính, giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo…

Các phương án xây dựng giáo trình Luật hành chính

Có thể tiến hành xây dựng giáo trình Luật hành chính theo một trong hai phương án sau đây:

* Phương án thứ nhất: xây dựng giáo trình với kết cấu đúng như chương trình khung qui định, tức là chỉ giới hạn trong việc giới thiệu phần chung của Luật hành chính và trình bày các vấn đề theo đúng trật tự đã được ghi nhận ở chương trình khung.

* Phương án thứ hai: xây dựng giáo trình căn cứ vào chương trình khung với những thay đổi nhất định đúc kết từ thực tiễn giảng dạy và học tập môn học Luật hành chính tại Trường Đại học Luật Hà Nội những năm qua.

Trong hai phương án trên thì phương án thứ hai có nhiều ưu điểm hơn và chỉ phương án này mới cho phép thể hiện một cách tương đối đầy đủ nội dung của Luật hành chính (phương án thứ nhất không nhận được sự ủng hộ của các thành viên của bộ môn).

Một điều đáng tiếc là khi Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng chương trình khung giáo dục đại học ngành luật học thì phần riêng không được đưa vào chương trình đó mặc dù nội dung của nó là những vấn đề thiết thực, đặc biệt là đối với học viên hệ tại chức (cũng cần nhắc lại là phần riêng của Luật hành chính mới chỉ được xây dựng và giảng dạy ở trường Đại học Luật Hà Nội). Theo chương trình hiện nay, chỉ sinh viên thuộc chuyên ngành Luật hành chính của Trường Đại học Luật Hà Nội được học thêm một học phần bắt buộc thuộc nội dung của Luật hành chính. Học phần này được đặt tên mới là "Quản lý hành chính nhà nước trong các lĩnh vực" (chính là chương trình Luật hành chính phần riêng đã được giảng dạy tại Trường Đại học Luật Hà Nội từ năm 1998). Tên gọi mới này không những không chính xác mà đôi khi còn gây hiểu lầm trong quá trình thực hiện chương trình và tổ chức đánh giá kết quả học tập của học viên. Nên chăng quay trở lại dùng thuật ngữ "Luật hành chính phần riêng" để đặt tên cho học phần này nhằm đảm bảo sự chính xác và tránh hiểu lầm.

3. Xây dựng giáo trình chuẩn cho môn học Luật hình sự

Mục tiêu của giáo trình Luật hình sự Việt Nam nhằm cung cấp cho sinh viên kiến thức cơ bản về nội dung của ngành luật hình sự, về nội dung của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành để trên cơ sở đó sinh viên có thể áp dụng Luật hình sự Việt Nam giải quyết các vụ án hình sự cũng như có thể có sự đánh giá nhất định về thực tiễn lập pháp hình sự và thực tiễn áp dụng luật hình sự.

Về phương pháp dạy - học của môn Luật hình sự Việt Nam, nhóm nghiên cứu cho rằng cần có sự áp dụng khác nhau giữa hai phần khác nhau của môn học. Phần chung về lý thuyết nên phương pháp dạy - học đối với phần này chủ yếu là thuyết trình có kết hợp với phương pháp thảo luận. Đối với phần các tội phạm nên áp dụng chủ yếu phương pháp giải bài tập, vì nội dung chủ yếu của phần này là các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội phạm cụ thể3.

Từ mục tiêu của giáo trình và phương pháp dạy - học của môn học, nhóm nghiên cứu cho rằng giáo trình Luật hình sự Việt Nam nên có cấu trúc hình thức như sau:

- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam nên chia thành hai phần với hai cách viết khác nhau phù hợp với đặc điểm riêng và phương pháp dạy - học của từng phần. Phần chung được cấu trúc thành các chương theo các vấn đề lý luận, không phụ thuộc vào kết cấu của Bộ luật hình sự hiện hành và theo trật tự từ các chế định, các vấn đề về tội phạm đến các chế định, các vấn đề về hình phạt. Phần các tội phạm cũng được cấu trúc theo các chương nhưng số chương, nội dung từng chương và trật tự sắp xếp các chương là theo các chương thuộc phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.

- Trong mỗi chương cần có phần câu hỏi và danh mục tài liệu tham khảo4. Tính chất của câu hỏi và tài liệu tham khảo cần có sự khác nhau giữa các chương thuộc phần chung và các chương thuộc phần các tội phạm. Đối với các chương thuộc phần chung nên tập trung vào các câu hỏi có tính tranh luận, trao đổi về các quan điểm khoa học để làm rõ về mặt lý luận các chế định thuộc phần chung Luật hình sự. Trong khi đó, các câu hỏi của các chương thuộc phần các tội phạm nên dưới dạng các bài tập về vụ án cụ thể để cho sinh viên rèn luyện kỹ năng áp dụng Luật hình sự giải quyết các vụ án hình sự. Theo đó, tài liệu tham khảo cho các chương thuộc phần chung nên là các giáo trình của các cơ sở đào tạo khác nhau, các sách chuyên khảo, tham khảo, các bài báo (tiếng Việt hoặc dịch ra tiếng Việt), các văn bản pháp luật cũng như các văn bản hướng dẫn. Tài liệu tham khảo cho các chương thuộc phần các tội phạm nên là các bài tranh luận án, các bài bình luận án, các phán quyết của Tòa án nhân dân tối cao… Câu hỏi cũng như danh mục tài liệu tham khảo có thể không nhất thiết phải được thể hiện tất cả trong giáo trình mà có thể được thể hiện một phần trong giáo trình và phần khác được thể hiện trong một loại tài liệu khác có thể thay đổi cho từng khóa học, năm học. Câu hỏi và danh mục tài liệu tham khảo được thể hiện trong tài liệu khác có thể là các vụ án có tính thời sự, các bài báo hoặc sách mới được công bố nhưng có giá trị tham khảo…

Về cấu trúc nội dung, giáo trình Luật hình sự đòi hỏi phải được tổ chức theo ba khối kiến thức - khối kiến thức cốt lõi (cần biết), khối kiến thức hữu ích (nên biết) và khối kiến thức bổ trợ (có thể biết). Khối kiến thức cốt lõi của môn học Luật hình sự Việt Nam là những kiến thức tối thiểu về ngành luật hình sự Việt Nam mà mỗi sinh viên phải lĩnh hội được. Nó bao gồm những lý luận cơ bản về luật hình sự theo quan điểm chính thống mà trên cơ sở đó sinh viên có thể hiểu và áp dụng được luật hình sự hiện hành. Ở đây cần chú ý, những vấn đề lý luận thuộc khối kiến thức cốt lõi phải được giới hạn ở mức độ chuyên sâu vừa đủ ở mức cần thiết để sinh viên có thể hiểu và áp dụng được luật hình sự mà không thể là kiến thức chuyên sâu thuộc chương trình đào tạo sau đại học.

Khối kiến thức hữu ích của môn Luật hình sự Việt Nam có thể là những kiến thức có tính giới thiệu, so sánh các quan điểm khoa học hoặc đánh giá Luật hình sự hiện hành cũng như đề cập các vấn đề thực tiễn phức tạp mà việc giải quyết đòi hỏi phải có sự hiểu biết sâu hơn kiến thức cốt lõi.

Khối kiến thức bổ trợ của môn Luật hình sự Việt Nam có thể là những kiến thức về lịch sử phát triển của luật hình sự nói chung cũng như lịch sử luật hình sự Việt Nam nói riêng, kiến thức về so sánh luật hình sự hiện hành của các nước, …

Trong ba khối kiến thức, khối kiến thức cốt lõi là khối kiến thức dễ xác định thống nhất vì có tính tương đối cố định. Trong khi đó thì hai khối kiến thức còn lại có tính "mở", việc xác định giới hạn của những khối kiến thức này rất dễ khác nhau giữa các tác giả hoặc nhóm tác giả. Nếu không chú ý có thể dẫn đến tình trạng hai khối kiến thức này được xây dựng "quá rộng", "quá sâu" lấn sang kiến thức của chương trình đào tạo sau đại học hoặc bị bỏ qua, không được xây dựng một cách đầy đủ, cẩn thận. Theo nhóm nghiên cứu, khối kiến thức cốt lõi là khối kiến thức giữ vai trò chính, các khối kiến thức khác chỉ giữ vai trò bổ sung, phục vụ khối kiến thức cốt lõi. Khối kiến thức hữu ích và khối kiến thức bổ trợ chỉ là sự mở thêm khối kiến thức cốt lõi theo "chiều sâu" và "chiều rộng". Điều này đòi hỏi phải có sự cân nhắc hết sức thận trọng khi xác định mức độ mở. Chúng ta nên dừng việc mở này ở mức cần thiết và các điều kiện khác cho phép. Việc trình bày khối kiến thức hữu ích và khối kiến thức bổ trợ nên thiên theo hướng giới thiệu, gợi mở. Hai khối kiến thức này nên được xem như sự mở đầu của khối kiến thức chuyên ngành trong chương trình đào tạo sau đại học.

Việc xác định rõ các khối kiến thức nói trên không chỉ là cơ sở cho việc biên soạn giáo trình, cơ sở thống nhất cho việc chuẩn bị giáo án và thuyết trình cũng như thảo luận mà còn là cơ sở thống nhất cho việc ra đề thi, kiểm tra, xây dựng thang điểm của đáp án. Việc xác định này cũng là cơ sở cho việc xây dựng chương trình đào tạo cao học và tiến sĩ.

Trên cơ sở nhận thức chung về hình thức và nội dung cấu trúc của giáo trình Luật hình sự như trình bày trên, nhóm nghiên cứu đề xuất hướng xây dựng giáo trình luật hình sự Việt Nam như sau:

* Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung cần phải thể hiện được các nhóm vấn đề và theo trật tự cũng như những yêu cầu cụ thể được trình bày dưới đây.

Nhóm vấn đề thứ nhất: Những vấn đề chung về ngành luật hình sự và về Bộ luật hình sự Việt Nam - nguồn của Luật hình sự.

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này bao gồm: Khái niệm, nhiệm vụ và các nguyên tắc của ngành luật hình sự Việt Nam; Cấu tạo và hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là vấn đề nguồn của luật hình sự, là phần giới thiệu về các quan điểm liên quan đến các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam, là phần giới thiệu về lịch sử phát triển của luật hình sự Việt Nam từ 1945 đến nay5.

Nhóm vấn đề thứ hai: Khái niệm tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam.

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này bao gồm: Định nghĩa khái niệm tội phạm theo Bộ luật hình sự hiện hành; các dấu hiệu của tội phạm theo định nghĩa đó; căn cứ và ý nghĩa của việc phân loại tội phạm trong Bộ luật hình sự; phân biệt tội phạm với vi phạm. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu về các cách định nghĩa tội phạm khác nhau trong các Bộ luật hình sự của một số nước; các quan điểm khác nhau trong việc xác định các dấu hiệu của tội phạm; so sánh việc phân loại tội phạm trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành với Bộ luật hình sự trước đó cũng như với cách phân loại trong Bộ luật hình sự một số nước khác.

Nhóm vấn đề thứ ba: Nội dung của bốn yếu tố của tội phạm.

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này là những kiến thức cơ bản về nội dung của từng yếu tố của tội phạm. Cụ thể:

- Đối với yếu tố chủ thể của tội phạm, kiến thức cốt lõi là định nghĩa khái niệm chủ thể của tội phạm; nội dung, ý nghĩa của hai dấu hiệu của chủ thể của tội phạm - dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và dấu hiệu độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; khái niệm chủ thể đặc biệt. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu về nhân thân người phạm tội, về chủ thể của tội phạm là pháp nhân theo luật hình sự một số nước khác; về việc quy định dấu hiệu độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự một số nước cũng như trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam.

- Đối với yếu tố mặt khách quan của tội phạm, kiến thức cốt lõi là định nghĩa khái niệm mặt khách quan của tội phạm; nội dung của các biểu hiện của mặt khách quan của tội phạm (hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội (cũng như quan hệ nhân quả giữa hai biểu hiện này) và các biểu hiện khác (như phương tiện, địa điểm…). Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu về các dạng quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội.

- Đối với yếu tố mặt chủ quan của tội phạm, kiến thức cốt lõi là định nghĩa khái niệm mặt chủ quan của tội phạm; nội dung của bốn loại trường hợp có lỗi và trường hợp không có lỗi (tình trạng không thể khắc phục được, sự kiện bất ngờ) theo Bộ luật hình sự Việt Nam; khái niệm động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu về quan điểm nghiên cứu lỗi về nội dung (định nghĩa lỗi, định nghĩa lỗi cố ý, định nghĩa lỗi vô ý).

- Đối với yếu tố khách thể của tội phạm, kiến thức cốt lõi là khái niệm khách thể của tội phạm nói chung, khái niệm khách thể của từng nhóm tội phạm, khái niệm khách thể của tội danh cụ thể; phân biệt khách thể của tội phạm với đối tượng tác động của tội phạm.

Nhóm vấn đề thứ tư: Cấu thành tội phạm - Hình thức phản ánh tội phạm trong Luật hình sự và vấn đề định tội danh.

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này là khái niệm cấu thành tội phạm; mối quan hệ giữa tội phạm và cấu thành tội phạm; các dấu hiệu của các yếu tố của tội phạm được phản ánh trong cấu thành tội phạm; phân loại cấu thành tội phạm; lý luận về định tội danh (trừ vấn đề định tội danh trong những trường hợp đặc biệt là vấn đề được trình bày trong các phần tiếp theo). Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu lý luận về cấu thành tội phạm (yêu cầu, nội dung và kỹ thuật thể hiện các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm) và trên cơ sở đó đánh giá các cấu thành tội phạm trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành.

Nhóm vấn đề thứ năm: Các căn cứ loại trừ tính trái Luật hình sự của hành vi (các căn cứ hợp pháp)6.

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này là khái niệm các căn cứ loại trừ tính trái luật hình sự của hành vi; ý nghĩa và nội dung của hai căn cứ loại trừ tính trái luật hình sự của hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam (phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết). Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu về các căn cứ khác được quy định trong luật hình sự một số nước khác và sự thừa nhận các căn cứ này trong thực tiễn áp dụng Luật hình sự Việt Nam.

Nhóm vấn đề thứ sáu: Chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt7.

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này là khái niệm chuẩn bị phạm tội (ở tội cố ý) và phạm tội chưa đạt (ở tội cố ý) theo Bộ luật hình sự để phân biệt với trường hợp phạm tội bình thường (tội phạm hoàn thành); vấn đề trách nhiệm hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội cũng như trong trường hợp phạm tội chưa đạt8; vấn đề định tội trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu quan điểm về vấn đề này trong Luật hình sự một số nước khác.

Nhóm vấn đề thứ bảy: Đồng phạm.

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này là khái niệm đồng phạm (các dấu hiệu của đồng phạm, phân loại đồng phạm); dấu hiệu của từng loại người đồng phạm; vấn đề định tội trong trường hợp đồng phạm. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu về chế định này trong Bộ luật hình sự một số nước khác cũng như về lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về vấn đề này.

Nhóm vấn đề thứ tám: Trách nhiệm hình sự; hình phạt và biện pháp tư pháp9.

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này là khái niệm trách nhiệm hình sự và việc miễn trách nhiệm hình sự; vấn đề thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; khái niệm hình phạt (bao gồm cả mục đích của hình phạt) và việc miễn hình phạt; hệ thống hình phạt và các biện pháp tư pháp theo Bộ luật hình sự hiện hành. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu các quan điểm khác nhau về mục đích của hình phạt cũng như là phần giới thiệu về lịch sử phát triển hệ thống hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam. Ngoài ra còn có thể giới thiệu những nét đặc biệt trong hệ thống hình phạt của một số nước.

Nhóm vấn đề thứ chín: Quyết định hình phạt10.

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này là các căn cứ quyết định hình phạt; quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt; quyết định hình phạt trong đồng phạm và vấn đề tổng hợp hình phạt. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu về lý thuyết phạm nhiều tội; về các nguyên tắc tổng hợp hình phạt cũng như thực tiễn lập pháp ở một số nước về vấn đề này.

Nhóm vấn đề thứ mười: Vấn đề chấp hành hình phạt và xóa án tích.

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này là chế định thời hiệu thi hành bản án hình sự; chế định án treo; chế định miễn chấp hành hình phạt; chế định giảm thời hạn chấp hành hình phạt; chế định hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù và chế định xóa án tích. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu về lịch sử các quy định về án treo trong Luật hình sự Việt Nam có so sánh với Luật hình sự một số nước khác cũng như giới thiệu về thực tiễn áp dụng chế định này hiện nay.

Mười nhóm vấn đề thuộc Phần chung Luật hình sự trên đây có thể được tổ chức thành 10 chương khác nhau - mỗi chương giải quyết trọn vẹn một loại vấn đề. Trong trường hợp cần thiết có thể xây dựng nhiều chương khác nhau để giải quyết một nhóm vấn đề nhất định như nhóm vấn đề thứ ba có thể cần được cơ cấu thành 4 chương. Tuy nhiên, trật tự các nhóm vấn đề và từng vấn đề trong mỗi nhóm cần phải được tuân thủ theo trật tự nêu trên.

* Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm cần được xây dựng theo các chương của Bộ luật hình sự hiện hành. Tương ứng với mỗi chương thuộc phần các tội phạm của Bộ luật hình sự là một chương giáo trình.

Khối kiến thức cốt lõi của mỗi chương là dấu hiệu pháp lý trong cấu thành tội phạm và nội dung của các dấu hiệu định khung hình phạt của từng tội danh. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này là đặc điểm chung của cả nhóm tội trong chương cũng như của từng nhóm tội nhỏ trong chương; là khái quát lịch sử lập pháp của từng nhóm tội; là thực tiễn xét xử từng tội hoặc nhóm tội; là những hạn chế của các cấu thành tội phạm, của các khung hình phạt cũng như hướng hoàn thiện…

 Với yêu cầu như trên, mỗi chương của giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm có thể gồm hai phần chính. Đó là phần khái quát chung về nhóm tội trong chương và phần trình bày về từng tội danh cụ thể. Phần trình bày về từng tội danh gồm hai nội dung. Nội dung thứ nhất là các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm và nội dung thứ hai là các khung hình phạt cùng dấu hiệu định khung hình phạt. Khi trình bày nội dung thứ nhất cần tuân theo trật tự thống nhất là:

- Trình bày dấu hiệu chủ thể của tội phạm đối với tội phạm có chủ thể đặc biệt;

- Trình bày các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm, trong đó có dấu hiệu về đối tượng tác động của tội phạm11;

- Trình bày các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm;

- Trình bày các dấu hiệu cho phép xác định hành vi là tội phạm mà không còn là vi phạm (đối với những tội danh có ranh giới này).

Khi trình bày nội dung thứ hai nên nhóm và sắp xếp các dấu hiệu định khung hình phạt theo trật tự nhất định trước khi phân tích ý nghĩa và giải thích nội dung từng dấu hiệu một.

Việc biên soạn giáo trình Luật tố tụng hình sự phải đáp ứng được các yêu cầu sau:

Một là, giáo trình Luật tố tụng hình sự cần được biên soạn trên cơ sở khoa học luật tố tụng hình sự, những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, những văn bản pháp luật khác liên quan đồng thời phải gắn với hoạt động thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự để đạt được mục tiêu sau đây: Trang bị cho sinh viên những lý luận cơ bản của luật tố tụng hình sự; sinh viên nắm vững các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành; trên cơ sở đó, sinh viên có khả năng tự nghiên cứu và biết đánh giá các vấn đề phát sinh; biết vận dụng kiến thức của mình trong quá trình học tập để xử lý các tình huống thực tế.

Hai là, yêu cầu của việc biên soạn giáo trình Luật tố tụng hình sự phải đặt trong mối liên quan với nội dung giáo trình Luật hình sự để không trùng lặp vấn đề vì, có một số nội dung vừa được quy định trong Bộ luật hình sự, vừa được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể bỏ qua vấn đề vì nó đã được viết trong giáo trình Luật hình sự mà mỗi giáo trình nghiên cứu, phân tích ở các góc độ khác nhau. Đó là điều mà không ai có thể phủ nhận.

Ba là, sau khi sinh viên học xong Luật hình sự mới có thể học được Luật tố tụng hình sự. Do vậy, khi viết về những vấn đề liên quan cần tránh tình trạng viết lấn sân mà phải xác định rằng khi học Luật tố tụng hình sự thì những vấn đề đó sinh viên đã nắm vững nội dung. Nếu cần thì họ có thể xem lại các vấn đề đó trong giáo trình Luật hình sự.

Bốn là, việc biên soạn giáo trình Luật tố tụng hình sự phải căn cứ vào số tiết giảng được phân bổ. Căn cứ vào khả năng đáp ứng có thể của tài liệu tham khảo của nội dung vấn đề mà xác định giới hạn, phạm vi biên soạn của giáo trình. Hiện nay có những vấn đề rất nhiều công trình nghiên cứu hoặc sách chuyên khảo đề cập đến nhưng cũng có những vấn lại gần như là mới và ít người quan tâm đến nhưng dù sao thì vẫn phải dự vào mục tiêu đào tạo đại học để viết giáo trình.

Năm là, việc biên soạn giáo trình Luật tố tụng hình sự phải căn cứ vào phương pháp đào tạo và phương pháp giảng dạy để khích lệ sinh viên tự tổ chức quá trình nhận thức, phát huy tính sáng tạo và lĩnh hội kiến thức đồng thời có khả năng phê phán.

Sáu là, việc biên soạn giáo trình phải được tiến hành liên tục, kiến thức phải mang tính kế thừa nhưng cũng cần phải quan tâm đến tính đổi mới. Có như vậy thì sinh viên mới có kiến thức tốt và đáp ứng được mục tiêu đào tạo.

5. Xây dựng giáo trình chuẩn cho môn học Luật dân sự

Mục tiêu giáo trình Luật dân sự cần đạt được:

Luật dân sự là một môn học trong chương trình đào tạo luật, do đó không tách rời với mục tiêu đào tạo nói chung, vì vậy giáo trình Luật dân sự không tách rời các giáo trình khác của các môn cơ bản. Tuy nhiên, do sự độc lập tương đối của môn học giáo trình Luật dân sự phải đạt được những mục tiêu cơ bản sau đây

+ Trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về khoa học Luật dân sự trên cơ sở đó hiểu biết luật thực định và thực tiễn việc áp dụng pháp Luật dân sự, tạo cơ sở bước đầu để sinh viên sau khi ra trường có thể làm quen với việc áp dụng pháp Luật dân sự để giải quyết những công việc thực tế;

+ Tạo cơ sở ban đầu cho người học nhận xét về điều kiện, nguyên nhân hình thành các quy định của luật thực định;

+ Định hướng chuyên sâu cho sinh viên nghiên cứu chuyên ngành Luật dân sự sau này;

+ Giáo trình phải còn là cẩm nang cho những người mong muốn tìm hiểu pháp Luật dân sự có những khái quát chung về khoa học Luật dân sự, trên cơ sở đó có thể tự mình tìm hiểu khoa học Luật dân sự.

Những yêu cầu của giáo trình Luật dân sự trong điều kiện hoàn cảnh hiện nay

Tiếp nhận có chọn lọc những quan điểm cơ bản về lý luận Luật dân sự của các nước trên thế giới và của truyền thống lập pháp dân sự của Việt Nam từ trước tới nay theo nguyên tắc truyền thống kết hợp với hiện đại nhằm bảo đảm cho người học tiếp nhận, làm quen với lịch sử lập pháp dân sự. Trên cơ sở đó, nhận thức Luật dân sự của chúng ta hiện nay kế thừa có chọn lọc và phát triển cho phù hợp với điều kiện hiện tại. Tuy nhiên, vẫn còn có những tồn tại trong lý luận và thực tiễn về Luật dân sự đã và sẽ còn trong hệ thống pháp luật của chúng ta và của nhiều nước trên thế giới. Trên cơ sở đó giáo trình chuẩn phải bảo đảm những yêu cầu sau đây: tính hệ thống, tính logic, tính khoa học, tính kế thừa, tính thực tiễn, tương đối ổn định. Không nên để giáo trình phụ thuộc vào các văn bản dưới luật (nghị định, thông tư...).

Nội dung chính của giáo trình

Để bảo đảm những yêu cầu trên giáo trình Luật dân sự phải thể hiện nội dung chính sau đây:

Phần thứ nhất: Phần chung (tên gọi phần này có thể đặt theo các tên khác nhau: những quy định chung; phần chung; những khái niệm chung). Đây là phần được bố trí trong học phần 1 với thời lượng 15 tiết (không có trong chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học Luật Hà Nội bổ sung phần này). Tuy nhiên, xét về mặt lý luận, khoa học Luật dân sự phần này lại là phần quan trọng nhất, do vậy viết giáo trình trong phần này càng chi tiết càng tốt. Cần phải để cho người học có thể tự mình tìm hiểu Luật dân sự thông qua những khái niệm chung nhất được trình bày ở đây. Nhưng dù với tên gọi nào thì phần này cũng phải nêu được tất cả các vấn đề liên quan đến lĩnh vực dân sự.

Phần thứ hai: Tài sản và quyền sở hữu, thừa kế

Việc thiết kế chương trình cho học phần hai bao gồm các vấn đề: tài sản, quyền sở hữu và thừa kế vừa không mang tính lôgic vừa không mang tính hệ thống. Đây là hai loại quyền dân sự có đặc điểm hoàn toàn khác nhau. Tài sản và quyền sở hữu thuộc loại quyền tuyệt đối nhưng là vật quyền. Quyền thừa kế là loại quyền dân sự đặc biệt có cả yếu tố trái quyền. Phấn thừa kế phải được thiết kế thành một phần riêng biệt và nên để ở phần cuối cùng của chương trình. Điều này quy định trong Bộ luật dân sự cũng không hợp lý vì việc thừa kế liên quan đến tất cả các quyền tài sản và quyền nhân thân của một cá nhân.

Nếu theo chương trình được cấu trúc tại học phần hai thì giáo trình cũng nên xếp theo quy định đó. Do vậy, giáo trình phần này phải được cấu trúc thành ba chương: Tài sản, quyền sở hữu, thừa kế.

Phần thứ 3: Nghĩa vụ và hợp đồng

Trong Luật dân sự, nghĩa vụ và hợp đồng là phần phức tạp nhất điều này được thể hiện trong thực tiễn cũng như pháp luật do liên quan đến việc dịch chuyển tài sản. Luật thương mại, Luật lao động, Luật thương mại quốc tế cũng phát sinh trên cơ sở nghĩa vụ do đặc thù của các loại quan hệ thương mại, lao động, thương mại quốc tế. Ngoài ra, các căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ cũng đa dạng, phức tạp mà pháp luật không thể dự liệu hết được các trường hợp riêng biệt. Nền kinh tế thị trường với đặc thù sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ để trao đổi theo quy luật thị trường cung - cầu ngày càng phức tạp do nhu cầu của con người, xã hội ngày càng tăng, những rủi ro cũng ngày càng lớn. Với bản chất của quan hệ nghĩa vụ là quan hệ trái quyền: người có quyền chỉ có thể thỏa mãn quyền của mình thông qua hành vi của người khác, phụ thuộc vào ý chí của người khác. Giáo trình phần này được kết cấu thành 3 chương: Lý luận chung về nghĩa vụ; Hợp đồng và Các hợp đồng cơ bản thông dụng.

Phần thứ tư: Nghĩa vụ ngoài hợp đồng.

Mặc dầu chương V phần thứ tư Bộ luật dân sự 1995 quy định với tên: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nhưng bản chất đây là một trong những căn cứ làn phát sinh nghĩa vụ, ngoài ra còn hai căn cứ làn phát sinh nghĩa vụ không được đề cập đến trong chương trình là một điều khiếm khuyết hiện nay. Nhóm nghiên cứu cho rằng, giáo trình Luật dân sự phải bao gồm cả hai căn cứ đó với tên gọi nghĩa vụ ngoài hợp đồng. Với suy nghĩ đó phần thứ tư của giáo trình bao gồm 3 chương: Nghĩa vụ phát sinh do gây thiệt hại; Nghĩa vụ phát sinh do chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; và Thực hiện công việc không có ủy quyền.

6. Xây dựng giáo trình chuẩn cho môn học Luật thương mại

Yêu cầu xây dựng giáo trình chuẩn Luật thương mại

Trong điều kiện liên tục có sự hình thành, phát triển của các quan hệ thương mại mà kéo theo đó là việc ban hành, sửa đổi, bổ sung của hàng loạt văn bản pháp Luật thương mại quan trọng, việc xây dựng giáo trình chuẩn cho môn học Luật thương mại là không đơn giản. Sinh viên tiếp nhận thông tin, tích lũy kiến thức cho họ không giới hạn trong khuôn khổ nội dung cơ bản của giáo trình là mục tiêu của Giáo trình Luật thương mại.

Cấu trúc của giáo trình Luật thương mại chuẩn

Cấu trúc của một giáo trình chuẩn phải được chú trọng về cả cấu trúc hình thức và cấu trúc nội dung12. Trên cơ sở mục tiêu của giáo trình, phương pháp giảng dạy, học tập môn Luật thương mại, Giáo trình Luật thương mại nên có cấu trúc như sau:

Cấu trúc hình thức:

Ngoài các thông tin thông thường như tên giáo trình, đối tượng sử dụng, tên tác giả, lời giới thiệu, mục lục..., phần nội dung chính của giáo trình Luật thương mại nên kết cấu thành ba phần chính với hệ mục tiêu rõ ràng, riêng biệt và theo thứ tự logíc: (i) Các chủ thể kinh doanh (ii) Quan hệ thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ (iii) Phá sản và giải quyết tranh chấp. Trong mỗi phần sẽ chia thành các chương, bài. Trong mỗi chương, bài có sự phân chia thành mục, tiểu mục. Phù hợp với phương pháp đào tạo có kết hợp thuyết trình và thảo luận, giải quyết tình huống, trong mỗi chương của Giáo trình Luật thương mại nên biên soạn bổ sung các câu hỏi phục vụ cho các buổi thảo luận. Nội dung các câu hỏi này có thể liên quan đến các kiến thức cơ bản, giúp sinh viên giải quyết tốt các bài tập tình huống điển hình. Phần này cho phép hướng dẫn sinh viên học tập, nghiên cứu từng chương, bài và môn học một cách hiệu quả nhất.

Cấu trúc nội dung:

Giáo trình Luật thương mại cần tổ chức nội dung giáo trình theo ba bậc:

- Khối kiến thức cốt lõi

Khối kiến thức cốt lõi trong giáo trình Luật thương mại bao gồm ba học phần bắt buộc: (i) Luật công ty và các chủ thể kinh doanh khác; (ii) Pháp luật về thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ; (iii) Luật phá sản và giải quyết tranh chấp. Đây là khối kiến thức tối thiểu, bắt buộc cho tất cả cho sinh viên theo học chương trình đào tạo đại học luật, nhằm đạt được mục tiêu cơ bản nhất của môn học.

Học phần 1: Luật công ty và các chủ thể kinh doanh khác

Mục tiêu của học phần này là nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về các loại chủ thể kinh doanh thuộc các hình thức sở hữu khác nhau trong nền kinh tế thị trường. Quyền tự do kinh doanh là quyền hiến định của các tổ chức cá nhân, nhưng để thực hiện nó, người có vốn đầu tư phải lựa chọn một hình thức pháp lý phù hợp để thực hiện các hoạt động kinh doanh. Các chủ thể kinh doanh được thành lập là tế bào của nền kinh tế, là thực thể pháp lý tham gia vào quan hệ kinh doanh, quan hệ pháp Luật thương mại, do đó, việc nắm bắt các kiến thức cơ bản, cần thiết về chúng là vô cùng quan trọng.

Học phần 2: Pháp luật về thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ

Không có nhiệm vụ làm rõ các vấn đề lý thuyết về hợp đồng13, học phần "Pháp luật về thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ" có mục tiêu giúp sinh viên nghiên cứu cụ thể về các hợp đồng trong quan hệ thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ. Trên cơ sở Luật thương mại và thực tiễn hoạt động thương mại, giáo trình Luật thương mại chọn và đưa vào phân tích các nội dung chủ yếu như sau:

+ Pháp luật về thương mại hàng hóa (bao gồm: mua bán hàng hóa trong thương mại, mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa, nhượng quyền thương mại...)

+ Pháp luật về vận chuyển hàng hóa, dịch vụ logistic;

+ Pháp luật về dịch vụ giám định hàng hóa;

+ Pháp luật về dịch vụ trung gian thương mại;

+ Pháp luật về các dịch vụ xúc tiến thương mại.

Học phần 3: Luật phá sản và giải quyết tranh chấp

Phần này có nhiệm vụ cung cấp hai khối kiến thức cơ bản là pháp luật về phá sản và pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh. Phần pháp luật về phá sản, giáo trình Luật thương mại chỉ tập trung vào hai nội dung cốt lõi:

+ Những vấn đề chung về phá sản và pháp luật phá sản;

+ Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.

Phần giải quyết tranh chấp thương mại, giáo trình Luật thương mại cung cấp cho sinh viên kiến thức cơ bản về giải quyết tranh chấp thương mại theo thủ tục trọng tài. Việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại theo thủ tục tòa án đã được làm rõ trong giáo trình Luật tố tụng dân sự.

- Khối kiến thức hữu ích

Khối kiến thức hữu ích trong giáo trình Luật thương mại có giá trị giúp sinh viên tìm hiểu mở rộng và sâu sắc hơn các vấn đề của Luật thương mại. Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền được kết cấu là một chương của giáo trình Luật thương mại với các nội dung chủ yếu: Lý thuyết về cạnh tranh, độc quyền và pháp luật về cạnh tranh, kiểm soát độc quyền; Các hành vi hạn chế cạnh tranh; Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh; Giải quyết vi phạm pháp luật cạnh tranh (thủ tục tố tụng cạnh tranh).

- Khối kiến thức bổ trợ

Giáo trình Luật thương mại có thiết kế phần kiến thức bổ trợ, nhằm bổ sung thêm kiến thức cho sinh viên, với hai chương: Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại và pháp luật về sở hữu công nghiệp trong hoạt động thương mại.

Phần quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại cung cấp bổ sung một số kiến thức về việc Nhà nước sử dụng pháp luật là một công cụ quản lý hữu hiệu. Quản lý bằng giấy phép kinh doanh, quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý giá... là những nội dung chính được phân tích trong giáo trình Luật thương mại. Chương pháp luật về sở hữu công nghiệp trong hoạt động thương mại có mục tiêu giúp sinh viên tìm hiểu thêm về quan hệ thương mại liên quan đến sở hữu công nghiệp, không nghiên cứu quy định của pháp luật về sở hữu công nghiệp vì nội dung này đã được trình bày trong giáo trình Luật dân sự.

7. Xây dựng giáo trình chuẩn cho môn học Luật lao động

Những nội dung thiết yếu cần được thể hiện trong giáo trình Luật lao động bao gồm:

i) Những vấn đề lý luận pháp lý về mối quan hệ lao động;

ii) Những vấn đề lý luận pháp lý về sự bảo vệ lao động;

iii) Những vấn đề pháp lý liên quan khác tới quan hệ lao động và quá trình lao động đó (công đoàn, đại diện của giới sử dụng lao động, cơ chế ba bên, vai trò của nhà nước, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động, đình công, cơ chế giải quyết đình công).

Trong ba nhóm trên, hai nhóm đầu là quan trọng nhất. Chính nó tạo ra cho Luật lao động một sắc thái riêng biệt, trong đó, những vấn đề pháp lý về mối quan hệ lao động tập trung vào quan hệ lao động giữa các bên (người lao động với người sử dụng lao động), những vấn đề pháp lý về sự bảo vệ lao động tập trung vào trình bày một cách khoa học sự bảo vệ của pháp luật đối với người lao động.

Ba nhóm vấn đề lớn đó được thể hiện trong các chương của giáo trình Luật lao động. Các chương, về cơ bản phải quán xuyến được các vấn đề căn bản sau đây:

- Pháp luật về việc làm và bảo vệ việc làm.

- Pháp luật về học nghề.

- Pháp luật về hợp đồng lao động (hình thức pháp lý của quan hệ lao động cá nhân.

- Pháp luật về thoả ước lao động tập thể (hình thức pháp lý chủ yếu của quan hệ giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động).

- Pháp luật về quản lý lao động trong các đơn vị sử dụng lao động.

- Pháp luật về Công đoàn (tổ chức đại diện của người lao động) và hiệp hội của người sử dụng lao động.

- Pháp luật về quản lý nhà nước về lao động.

- Pháp luật về điều kiện lao động (thời giờ làm việc - thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội).

- Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.

- Pháp luật về đình công và giải quyết đình công.

IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP

1. Cần có một chương trình tổng thể về giáo trình đào tạo đại học luật trong đó, xác định những giáo trình cụ thể, với mục đích yêu cầu cụ thể

Để có được bộ giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật, các cơ sở đào tạo đại học luật cần phải xây dựng được một chương trình tổng thể về giáo trình. Chương trình tổng thể này phải đáp ứng được những yêu cầu cơ bản theo quy định về chương trình khung. Bên cạnh đó, chương trình tổng thể về bộ giáo trình phải phản ánh được thế mạnh và đặc thù của từng cơ sở đào tạo cũng như yêu cầu thực tiễn của sản phẩm đào tạo. Trên cơ sở chương trình tổng thể xây dựng bộ giáo trình, các nhóm biên soạn giáo trình xây dựng những nội dung trong giáo trình của từng môn học để đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống giáo trình.

2. Xác định rõ phạm vi về nội dung phù hợp với bậc đào tạo đại học luật, xây dựng đề cương thống nhất trong toàn bộ bộ giáo trình để tránh sự trùng lặp về kiến thức

Bộ giáo trình đào tạo đại học luật cần được xây dựng một cách đồng bộ. Mỗi giáo trình khi xây dựng phải được đặt trong mối quan hệ với các giáo trình khác trong cùng một chương trình đào tạo, cùng một cơ sở đào tạo để đảm bảo khối kiến thức được trình bày trong các giáo trình không trùng lặp. Sở dĩ như vậy vì các môn khoa học pháp lý có mối quan hệ mật thiết với nhau gắn liền với hệ thống pháp luật thực định. Một nội dung của một vấn đề pháp luật có thể liên quan đến nhiều môn học khác nhau, vì thế vấn đề khoa học về nó có thể được trình bày trong các giáo trình của các môn học đó. Để tránh tình trạng trùng lặp, các nhóm biên soạn giáo trình cần có sự trao đổi thống nhất những vấn đề cần trình bày trong giáo trình của mình.

Hơn nữa, việc trao đổi thống nhất giữa các nhóm biên soạn giáo trình còn là cơ sở để đảm bảo tính thống nhất của các quan điểm khoa học trong một bộ giáo trình được sử dụng trong một cơ sở đào tạo. Các quan điểm khoa học về các vấn đề có thể khác nhau, nhưng khi đặt một vấn đề khoa học nào đó trong một bộ giáo trình thống nhất thì cần phải đảm bảo tính thống nhất và chính thống về các quan điểm khoa học. Việc thống nhất về các quan điểm mang tính chính thống trong một bộ giáo trình đảm bảo được sự thống nhất trong việc giảng dạy, đánh giá kết quả nghiên cứu và học tập của sinh viên một cách thống nhất.

c. Xác định rõ mục đích của giáo trình đào tạo đại học với mục đích của đào tạo đại học

Mục tiêu của giáo trình đào tạo đại học luật là nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về nội dung của ngành luật, về nội dung của pháp luật Việt Nam hiện hành để trên cơ sở đó sinh viên có thể áp dụng các quy định của pháp luật trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể thực tiễn và có thể đánh giá nhất định về thực tiễn lập pháp và thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam.

Việc xác định rõ mục đích của mỗi giáo trình có ý nghĩa rất lớn đối với việc đảm bảo nội dung cần thiết của giáo trình đào tạo đại học luật. Với mỗi bậc học khác nhau, nội dung vấn đề cần được trình bày ở những mức độ khác nhau, vì vậy, xác định mục đích đào tạo sẽ là cơ sở để các nhà biên soạn giáo trình xác định mức độ kiến thức cần thiết được trình bày trong giáo trình đào tạo, tránh được tình trạng kiến thức trong giáo trình đào tạo quá sơ sài (chỉ phù hợp với cấp đào tạo thấp hơn như trung cấp hoặc cao đẳng) hoặc quá chuyên sâu (chỉ phù hợp với chương trình đào tạo sau đại học).

d. Xác định một cách cụ thể về tỉ lệ giữa các khối kiến thức trong mỗi giáo trình

Về cấu trúc nội dung, giáo trình luật hình sự đòi hỏi phải được tổ chức theo ba khối kiến thức - Khối kiến thức cốt lõi (cần biết), khối kiến thức hữu ích (nên biết) và khối kiến thức bổ trợ (có thể biết). Vấn đề đặt ra là cần xác định đúng nội dung của từng khối kiến thức và liên kết các khối kiến thức đó trong từng tiểu mục, mục, chương và trong cả giáo trình. Sự liên kết các khối kiến thức có tính tuyệt đối trong cả giáo trình nhưng chỉ có tính tương đối trong từng chương, từng mục và từng tiểu mục. Trong cả giáo trình đòi hỏi phải có đủ cả ba khối kiến thức nhưng trong chương, mục, tiểu mục cụ thể có thể chỉ có một hoặc hai khối kiến thức.

Khối kiến thức cốt lõi của môn khoa học pháp lý chuyên ngành là những kiến thức tối thiểu về ngành luật mà mỗi sinh viên phải lĩnh hội được. Nó bao gồm những lý luận cơ bản về ngành luật theo quan điểm chính thống mà trên cơ sở đó sinh viên có thể hiểu và áp dụng được các quy định của pháp luật hiện hành. Ở đây cần chú ý, những vấn đề lý luận thuộc khối kiến thức cốt lõi phải được giới hạn ở mức độ chuyên sâu vừa đủ ở mức cần thiết để sinh viên có thể hiểu và áp dụng được pháp luật mà không thể là kiến thức chuyên sâu thuộc chương trình đào tạo sau đại học.

Khối kiến thức hữu ích của môn học có thể là những kiến thức có tính giới thiệu, so sánh các quan điểm khoa học hoặc đánh giá pháp luật hiện hành cũng như đề cập các vấn đề thực tiễn phức tạp mà việc giải quyết đòi hỏi phải có sự hiểu biết sâu hơn kiến thức cốt lõi.

Khối kiến thức bổ trợ của các môn khoa học pháp lý chuyên ngành có thể là những kiến thức về lịch sử phát triển của lĩnh vực pháp luật cụ thể, kiến thức về so sánh với pháp luật của các nước, …

Trong ba khối kiến thức, khối kiến thức cốt lõi là khối kiến thức dễ xác định thống nhất vì là khối kiến thức có tính tương đối cố định. Trong khi đó thì hai khối kiến thức còn lại có tính "mở", việc xác định giới hạn của những khối kiến thức này rất dễ khác nhau giữa các tác giả hoặc nhóm tác giả. Nếu không chú ý có thể dẫn đến tình trạng hai khối kiến thức này được xây dựng "quá rộng", "quá sâu" lấn sang kiến thức của chương trình đào tạo sau đại học hoặc bị bỏ qua, không được xây dựng một cách đầy đủ, cẩn thận. Theo nhóm nghiên cứu, khối kiến thức cốt lõi là khối kiến thức giữ vai trò chính, các khối kiến thức khác chỉ giữ vai trò bổ sung, phục vụ khối kiến thức cốt lõi. Khối kiến thức hữu ích và khối kiến thức bổ trợ chỉ là sự mở thêm khối kiến thức cốt lõi theo "chiều sâu" và "chiều rộng". Điều này đòi hỏi phải có sự cân nhắc hết sức thận trọng khi xác định mức độ mở. Chúng ta nên dừng việc mở này ở mức cần thiết và các điều kiện khác cho phép. Việc trình bày khối kiến thức hữu ích và khối kiến thức bổ trợ nên thiên theo hướng giới thiệu, gợi mở. Hai khối kiến thức này nên được xem như sự mở đầu của khối kiến thức chuyên ngành trong chương trình đào tạo sau đại học.

Việc xác định rõ các khối kiến thức nói trên không chỉ là cơ sở cho việc biên soạn giáo trình, cơ sở thống nhất cho việc chuẩn bị giáo án và thuyết trình cũng như thảo luận mà còn là cơ sở thống nhất cho việc ra đề thi, kiểm tra, xây dựng thang điểm của đáp án. Việc xác định này cũng là cơ sở cho việc xây dựng chương trình đào tạo cao học và tiến sĩ.

đ. Xác định các giáo trình trên cơ sở chương trình khung đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành

Giáo trình phải gắn với chương trình đào tạo, vì vậy khi biên soạn giáo trình đào tạo nói chung và đào tạo đại học luật nói riêng, những người biên soạn không thể không căn cứ và chương trình khung đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Việc biên soạn giáo trình gắn với chương trình khung có những ý nghĩa cơ bản sau đây:

Thứ nhất, xét ở phương diện xây dựng bộ giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật, chương trình khung giúp cho các cơ sở đào tạo đại học luật có thể xác định được số lượng các giáo trình tối thiểu cần được biên soạn trong chương trình đào tạo của ngành luật. Bởi vì, chương trình khung là chương trình bắt buộc cho tất cả các cơ sở giáo dục đại học có đào tạo trình độ đại học14. Thêm vào đó, ngoài những giáo trình cần thiết trên cơ sở chương trình khung, các cơ sở đào tạo cũng có thể xây dựng các giáo trình cho các môn học cũng như các nội dung có liên quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng năng lực hoạt động của sinh viên sau khi tốt nghiệp.

Ngoài ra, chương trình khung còn giúp cho các nhà biên soạn giáo trình tránh sự trùng lặp về kiến thức giữa các giáo trình của các môn học khác nhau. Các môn khoa học pháp lý trong chương trình đào tạo có mỗi quan hệ mật thiết với nhau, vì vậy các nhóm biên soạn giáo trình khi biên soạn giáo trình của môn học dựa trên cơ sở chương trình khung sẽ xác định được nội dung cần được trình bày trong giáo trình của mình, tránh được sự trùng lặp về nội dung giữa các giáo trình của các môn học gần nhau. Tất nhiên, để đảm bảo được điều này, đòi hỏi các nhóm biên soạn giáo trình phải có sự trao đổi về các vấn đề có liên quan. Điều này vừa đảm bảo tính thống nhất của các quan điểm khoa học, vừa đảm bảo mối liên hệ về nội dung giữa các giáo trình và môn học khác nhau, đồng thời cũng tránh được những trùng lặp về nội dung, đảm bảo sự thống nhất trong toàn bộ nội dung của bộ giáo trình.

Thứ hai, xét ở khía cạnh của từng giáo trình cụ thể, chương trình khung đào tạo đại học là cơ sở để xác định nội dung tối thiểu của mỗi giáo trình khi biên soạn. Chương trình khung đã xác định lượng kiến thức cốt lõi của mỗi môn học, vì thế, từ chương trình khung, các nhà biên soạn giáo trình có thể xác định những nội cũng cần phải có trong giáo trình mà mình biên soạn.

Hơn nữa, cũng trên cơ sở chương trình khung, những người biên soạn giáo trình cũng có thể định lượng một cách cơ bản số trang của giáo trình. Theo đó, tuỳ thuộc vào thời lượng của mỗi học phần hoặc môn học, các nhà biên soạn giáo trình cần thống nhất về định lượng số trang của mỗi giáo trình trên cơ sở số trang giáo trình theo giờ. Việc định lượng số trang này có ý nghĩa rất lớn là đảm bảo được mức độ chuyên sâu cần thiết của vấn đề được trình bày trong giáo trình, sự cân đối về nội dung giữa các giáo trình. Đồng thời việc giới hạn định lượng số trang cho mỗi giáo trình cũng giúp cho những người biên soạn giáo trình cân nhắc về nội dung cần thiết được trình bày trong giáo trình.

e. Xác định tỉ lệ hợp lý giữa kiến thức khoa học pháp lý và pháp luật thực định

Giáo trình cần xác định một tỉ lệ hợp lý giữa khối kiến thức khoa học pháp lý và khối kiến thức luật thực định ở mức độ hợp lý. Giáo trình đào tạo đại học luật có những đặc thù nhất định như đã phân tích ở trên là không thể tách rời với luật thực định. Tuy nhiên, bản thân giáo trình là một công trình hàm chứa tính khoa học trong đó, vì thế cuốn giáo trình không thể là một cuốn sách giải thích pháp luật thông thường. Nội dung của giáo trình phải chứa đựng những kiến thức khoa học pháp lý. Hai yếu tố này phải có sự gắn kết với nhau. Vì vậy, đối với các nhà biên soạn giáo trình, nhất là các giáo trình của các môn khoa học pháp lý chuyên ngành đòi hỏi phải giải quyết được mối tương quan giữa pháp luật thực định và kiến thức khoa học trong nội dung của một giáo trình. Nếu không giải quyết một cách hợp lý mối quan hệ giữa pháp luật thực định và kiến thức khoa học pháp lý trong một giáo trình thì sẽ có thể dẫn đến tình trạng hoặc giáo trình thiếu tính thời sự và thiếu thực tiễn mà chỉ là những kiến thức lý luận thuần tuý; hoặc giáo trình chỉ là cuốn sách giải thích pháp luật mang tính chất phổ thông và nó sẽ luôn phải bổ sung, sửa chữa khi pháp luật thực định thay đổi và như thế sẽ không đảm bảo được tính ổn định của giáo trình.

Điểm đáng chú ý khi giải quyết mối quan hệ này là tỉ lệ này trong giáo trình của mỗi môn luật cũng không đồng đều. Trong một chương, một mục của giáo trình, tỉ lệ này cũng không nhất thiết phải có sự đồng đều. Điều này tuỳ thuộc vào đặc điểm về nội dung của từng môn luật, từng chương, từng phần. Vì thế, việc xác định tỉ lệ giữa khoa học pháp lý và nội dung pháp luật thực định đòi hỏi các nhà biên soạn giáo trình phải có sự cân nhắc, thảo luận một các kỹ lưỡng thì mới có thể có một cuốn giáo trình.

Xét ở khía cạnh bộ giáo trình đào tạo đại học luật, tỉ lệ giữa luật thực định và kiến thức khoa học pháp lý cũng cần phải được giải quyết một cách hợp lý. Trong các môn khoa học pháp lý, có những môn học có tính chất lý luận cao, vì thế đối với giáo trình của những môn đó, không thể đòi hỏi nhiều nội dung của pháp luật thực định mà nội dung của nó phải là kiến thức khoa học pháp lý, chẳng hạn như lý luận về nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, có những môn gắn liền với pháp luật thực định, vì thể tỉ lệ giữa luật thực định và kiến thức khoa học pháp lý sẽ khác với các môn khoa học pháp lý có tính chất lý luận thuần tuý lý luận, chẳng hạn giáo trình của các môn khoa học pháp lý chuyên ngành.

g. Xây dựng một cơ chế khoa học trong việc thẩm định giáo trình

Để đảm bảo chất lượng của giáo trình, các cơ sở đào tạo cần phải xây dựng một cơ chế nghiêm ngặt trong việc thẩm định giáo trình. Đây là một việc làm rất có ý nghĩa, nó không chỉ đảm bảo tính pháp lý của giáo trình mà nó còn đảm bảo uy tín cũng như đảm bảo chính thống về mặt khoa học của giáo trình.

Cơ chế thẩm định giáo trình phải giải quyết được một số vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, trình tự, thủ tục thẩm định giáo trình. Trong trình tự, và thủ tục cần xác định rõ các bước cũng như thành phần tham gia vào quá trình thẩm định giáo trình.

Thứ hai, hội đồng thẩm định, phải là những chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực chuyên ngành. Hội đồng thẩm định cần có những người thuộc giới học thuật và những người làm công tác thực tiễn pháp luật.

h. Xây dựng những tiêu chuẩn cụ thể về nội dung và hình thức của giáo trình đào tạo đại học luật

Để đảm bảo tính thống nhất trong việc đào tạo cũng như giảng dạy và phục vụ tốt việc nghiên cứu và học tập của người học, ngoài những vấn đề mang tính chất học thuật về nội dung, cũng nhưng kết cấu khoa học của các chương và các mục trong một giáo trình, các giáo trình đào tạo đại học luật cần phải đảm bảo được những yêu cầu về hình thức:

Thứ nhất, trong mỗi chương cần có phần câu hỏi. Tính chất câu hỏi có sự khác nhau tuỳ thuộc vào nội dung của từng chương. Các câu hỏi có thể tập trung vào các vấn đề mang tính chất tranh luận về các quan điểm khoa học để làm rõ những vấn đề về mặt lý luận hoặc các câu hỏi có thể dưới dạng các bài tập ứng dụng liên quan đến việc áp dụng pháp luật thực định.

Thứ hai, phần tài liệu tham khảo cũng là một phần nên đưa vào nội dung của giáo trình. Phần này rất có ích đối với người đọc khi muốn mở rộng kiến thức của mình về một vấn đề nào đó. Ở đây, cần lưu ý là ngoài những tài liệu được trích dẫn và sử dụng để viết giáo trình thì các tài liệu tham khảo còn bao gồm cả những tài liệu có liên quan đến vấn đề. Vì thế, các tài liệu tham khảo có thể xếp theo các chương của giáo trình hoặc là được trình bày ở phần cuối của giáo trình cho toàn bộ giáo trình.

i. Giải quyết một cách hợp lý mối quan hệ giữa giáo trình với sách chuyên khảo và sách tham khảo

Với quan niệm là nội dung của giáo trình bao gồm các kiến thức cơ bản, toàn diện, phổ biến và tương đối ổn định của một môn học, do đó, khi biên soạn giáo trình, nhóm biên soạn cần phải xác định một cách cụ thể những nội dung nào và mức độ chuyên sâu của những nội dung đó cần được trình bày trong giáo trình. Những nội dung khác hoặc mức độ chuyên sâu hơn cần nên được trình bày trong các tài liệu tham khảo hoặc các sách chuyên khảo. Nói cách khác, nhóm biên soạn giáo trình cần xác định và giải quyết một cách hợp lý mối quan hệ giữa giáo trình với tài liệu tham khảo và sách chuyên khảo. Việc xác định một cách hợp lý mối quan hệ này có ý nghĩa rất lớn đối với việc đảm bảo nội dung kiến thức pháp lý cơ bản cần được trình bày trong giáo trình phù hợp với mục đích và chương trình đào tạo đại học.

k. Giải pháp về tổ chức biên soạn

Để đảm bảo cho việc biên soạn giáo trình được thống nhất theo đúng yêu cầu đặt ra đòi hỏi hướng hoàn thiện giáo trình cần được thảo luận một cách đầy đủ và cặn kẽ giữa các tác giả cùng với sự tham gia của đông đảo chuyên gia trong các lĩnh vực. Trên cơ sở thảo luận như vậy cần xây dựng được đề cương chi tiết của giáo trình. Trong đó phải thể hiện được kết cấu của cả giáo trình cũng như kết cấu của từng chương chi tiết đến tiểu mục với các yêu cầu cụ thể về nội dung thể hiện. Quá trình xây dựng đề cương chi tiết được thực hiện trên cơ sở cá nhân được phân công chuẩn bị dự thảo theo định hướng chung và tập thể tác giả cùng đóng góp ý kiến cho dự thảo. Chỉ sau khi đề cương chi tiết đã được thông qua các tác giả mới triển khai biên soạn nội dung. Trong quá trình biên soạn nếu thấy cần điều chỉnh đề cương thì các tác giả nêu vấn đề để tập thể tác giả cùng xem xét. Sau khi nội dung giáo trình đã được biên soạn xong chủ biên làm nhiệm vụ biên tập nội dung để đảm bảo tính thống nhất của giáo trình và sau đó sẽ được biên tập kỹ thuật.



1 American Heritage Dictionary. Third Edition. Houghton Miffin Company. Page 1857.

2 Xem Studying law in Australia 2005. CALD 2004. IưSN 1038-975X.

3 Theo chương trình giảng dạy hiện nay phần chung gồm hai học phần và phần các tội phạm là một học phần.

4 Ngoài phần câu hỏi và tài liệu thạm khảo ở cuối mỗi chương có thể có thêm phần liệt kê các thuật ngữ cơ bản thuộc nội dung của chương giáo trình. Đó là những thuật ngữ mà việc nắm được nội dung của những thuật ngữ này trong từng chương sẽ giúp hiểu được nội dung cơ bản của từng chương giáo trình.

5 Hiện nay, có giáo trình luật hình sự Việt Nam trình bày cả phần lịch sử luật hình sự Việt Nam thời phong kiến. Chúng tôi cho rằng không nên quá mở rộng như vậy.

6 Trong một số giáo trình Luật hình sự Việt Nam, vấn đề này được gọi là các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Cách gọi này chưa thể hiện được rõ và trực tiếp bản chất của vấn đề này.

7 Trong các giáo trình Luật hình sự Việt Nam hiện nay, nhóm vấn đề này có tên gọi là các giai đoạn thực hiện tội phạm. Tên gọi như vậy chưa thật phù hợp với nội dung chính được đặt ra của nhóm vấn đề này. Đó là trách nhiệm hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt ở các tội phạm cố ý.

8 Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không được ghép vào nhóm vấn đề này vì đây là một loại trường hợp miễn trách nhiệm hình sự nên xếp vào nhóm vấn đề: Miễn, giảm trách nhiệm hình sự.

9 Nhóm vấn đề này có cả nội dung đối với người chưa thành niên phạm tội.

10 Nhóm vấn đề này có cả nội dung đối với người chưa thành niên phạm tội.

11 Khách thể của tội phạm đều được phản ánh gián tiếp trong cấu thành tội phạm qua đối tượng tác động của tội phạm hoặc qua mục đích phạm tội. Do vậy, khi trình bày dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm từng tội danh không nên có mục khách thể của tội phạm như thực tế hiện nay ở trong một số chương của giáo trình. Thay vào đó là nội dung trình bày đối tượng tác động của tội phạm hoặc mục đích phạm tội.

12 Xem: phần bài viết PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Khoa Sư phạm, Đại học Quốc gia HN.

13 Phần này thuộc nhiệm vụ của Giáo trình Luật dân sự.

14 Chương trình khung giáo dục đại học ngành luật, Ban hành kèm theo Quyết định số 29/2005/QĐ-BGD&ĐT ngày 16/9/2005 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.

 

Nội dung toàn văn

MỞ ĐẦU

 

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong hệ thống các sách được dùng trong trường đại học, bao gồm: Sách giáo trình, sách chuyên khảo, sách tham khảo, sách hướng dẫn, sách bài tập, thực hành… thì giáo trình bao giờ cũng có vị trí đặc biệt quan trọng. Giáo trình là tài liệu chính thức, chứa đựng những kiến thức cơ bản nhất của mỗi môn học, học phần được biên soạn một cách công phu, khoa học, có hệ thống, phù hợp mục tiêu, yêu cầu, phương pháp đào tạo và trình độ nhận thức của sinh viên. Cũng chính vì thế mà trong trường đại học, bộ giáo trình chuẩn được coi là dấu hiệu thể hiện năng lực và uy tín của đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu khoa học của mỗi trường và là một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá và kiểm định chất lượng đào tạo của trường đại học. Với ý nghĩa và tầm quan trọng đó, mỗi trường đại học đều có hướng xây dựng và không ngừng hoàn thiện bộ giáo trình chuẩn của mình.

Công tác đào tạo đại học luật nước ta có sự chậm trễ lớn so với các lĩnh vực đào tạo khác, vì vậy việc phát triển các yếu tố bảo đảm chất lượng đào tạo nói chung, trong đó có việc xây dựng hệ thống giáo trình tài liệu còn hạn chế. Mặc dù, trong những năm vừa qua Trường Đại học Luật Hà Nội và một số cơ sở đào tạo luật khác ở nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng các giáo trình đào tạo đại học luật và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, có thể nói chất lượng của nhiều giáo trình đào tạo đại học luật đang được sử dụng trong các cơ sở đào tạo luật ở nước ta hiện nay còn thấp, thậm chí rất thấp. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này như: chưa có sự quan tâm và đầu tư đúng mức, năng lực và trình độ của người viết còn hạn chế, chế độ nhuận bút thấp… Nhưng trước hết phải kể đến là cho đến nay chúng ta vẫn chưa có được kế hoạch và giải pháp khả thi cho việc xây dựng bộ giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật và việc nghiên cứu để xây dựng cơ sở khoa học cho việc xây dựng, đánh giá thẩm định giáo trình dường như còn bỏ ngỏ hoặc mới dừng ở ý tưởng của một số nhà lãnh đạo, nhà giáo, nhà khoa học có tâm huyết với công tác đào tạo luật.

Trong tình hình đó, việc triển khai nghiên cứu một cách toàn diện để hình thành cơ sở khoa học nhằm xây dựng và hoàn thiện bộ giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật là nhu cầu có tính thời sự, cấp thiết và có nhiều ý nghĩa đối với đào tạo đại học luật ở nước ta hiện nay. Đặc biệt, với chủ trương đổi mới giáo dục đại học mà một trong những nhiệm vụ trọng tâm là chuyển từ chế độ đào tạo theo niên chế sang chế độ đào tạo theo học chế tín chỉ, việc xây dựng một bộ giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật sẽ có vai trò quan trọng trong đào tạo đại học luật ở nước ta hiện nay.

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo trình, giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật và xây dựng luận cứ khoa học cho việc xây dựng bộ giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

3. Nhu cầu kinh tế - xã hội và địa chỉ áp dụng

      Kết quả nghiên cứu của đề tài trước hết sẽ được sử dụng để xây dựng bộ giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật của Trường Đại học Luật Hà Nội, góp phần thiết thực cho việc thực hiện đổi mới nội dung chương trình và phương pháp đào tạo của Trường Đại học Luật Hà Nội, nâng cao chất lượng đào tạo và nâng cao uy tín của Trường Đại học Luật Hà Nội.

      Kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị thiết thực cho việc thẩm định hệ thống giáo trình của các cơ sở đào tạo đại học luật ở Việt Nam nhằm thực hiện thống nhất Chương trình khung đào tạo ngành luật do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành để áp dụng chung cho các trường đại học đào tạo luật ở Việt Nam.

      Kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham khảo cho các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam trong việc đánh giá lại hệ thống giáo trình của cơ sở mình và tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống giáo trình mới vừa bảo đảm tính thống nhất vừa bảo đảm tính phong phú và đa dạng của hệ thống giáo trình tài liệu phục vụ cho đào tạo đại học luật và các bậc học khác.

4. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm: Phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tiễn, thống kê, so sánh và hệ thống hóa.

5. Các chuyên đề được nghiên cứu chính của đề tài

- Tính chất, đặc điểm, nội dung và hình thức của giáo trình đào tạo đại học.

- Bộ giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật - quan niệm, tiêu chí, giá trị và phạm vi sử dụng.

- Về những đặc trưng của giáo trình chuẩn dành cho hệ đào tạo đại học luật ở Việt Nam.

- Thực trạng của bộ giáo trình dùng để giảng dạy trong một số cơ sở đào tạo đại học luật tại Việt Nam.

- Giáo trình trong các cơ sở đào tạo luật ở một số nước trên thế giới và một vài đề xuất ban đầu.

- Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới giáo trình môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật ở các cơ sở đào tạo đại học luật ở nước ta hiện nay.

- Xây dựng giáo trình chuẩn Luật Hiến pháp.

- Cơ sở khoa học xây dựng giáo trình Luật hành chính - chương trình đại học.

- Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng giáo trình môn Luật dân sự.

- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - thực trạng và hướng hoàn thiện.

- Xây dựng giáo trình chuẩn Luật thương mại - lý luận và thực tiễn.

- Quan điểm về việc xây dựng giáo trình Luật lao động chuẩn

- Phương pháp và kỹ năng viết giáo trình Luật tố tụng hình sự trong đào tạo đại học luật.

- Giáo trình Luật quốc tế trong đào tạo đại học luật ở nước ngoài.

- Nâng cao hiệu quả dạy học thông qua việc áp dụng bài giảng điện tử.

6. Lực lượng tham gia đề tài

6.1. Ban chủ nhiệm đề tài

-   Chủ nhiệm đề tài: GS.TS Lê Minh Tâm - Trường Đại học Luật Hà Nội.

-   Thư ký đề tài: TS Nguyễn Quốc Hoàn - Trường Đại học Luật Hà Nội.

6.2. Các cộng tác viên tham gia viết các chuyên đề

- GS.TS Lê Hồng Hạnh - Trường Đại học Luật Hà Nội.

- GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa - Trường Đại học Luật Hà Nội.

- PGS.TSKH Lê Cảm - Đại học Quốc gia Hà Nội.

- TS. Bùi Ngọc Cường - Trường Đại học Luật Hà Nội.

- PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc - Đại học Quốc gia Hà Nội.

- PGS.TS Nguyễn Văn Động - Trường Đại học Luật Hà Nội.

- TS. Lưu Bình Nhưỡng - Trường Đại học Luật Hà Nội.

- TS. Trần Minh Hương - Trường Đại học Luật Hà Nội.

- PGS.TS Thái Vĩnh Thắng - Trường Đại học Luật Hà Nội.

- TS. Phạm Công Lạc - Trường Đại học Luật Hà Nội.

- TS. Hoàng Thị Sơn - Trường Đại học Luật Hà Nội.

- TS. Trương Quang Vinh - Trường Đại học Luật Hà Nội.

- TS. Tôn Quang Cường - Đại học Quốc gia Hà Nội.

 

Phần thứ nhất

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO TRÌNH ĐẠI HỌC,
GIÁO TRÌNH CHUẨN VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
BỘ GIÁO TRÌNH CHUẨN ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC LUẬT

 

1.1.   Giáo trình - khái niệm và những đặc điểm cơ bản

Trong đào tạo bậc đại học, giáo trình có vai trò quan trọng và là một trong những tài liệu có ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào tạo, bởi lẽ nó chứa đựng nội dung kiến thức cơ bản - tiêu chí đặt ra đòi hỏi sinh viên trong quá trình học tập phải lĩnh hội. Tùy theo tính chất đặc thù của từng môn học, ngành học mà mỗi giáo trình được biên soạn với nội dung và hình thức không giống nhau. Tuy nhiên, việc biên soạn một bộ giáo trình chuẩn phục vụ cho việc đào tạo là cần thiết đối với bất cứ cơ sở đào tạo nào. Chất lượng của giáo trình thể hiện năng lực chuyên môn, năng lực đào tạo và khả năng nghiên cứu khoa học... của cơ sở đào tạo. Bên cạnh giáo trình - tài liệu được sử dụng chính thức trong các cơ sở đào tạo thì các tài liệu khác cũng có vai trò nhất định.

Có nhiều loại sách, tài liệu giảng dạy được sử dụng cho quá trình giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong các trường đại học như giáo trình, sách giáo khoa, sách chuyên khảo, tập bài giảng... trong đó giáo trình có một vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng. Hiện nay, có những quan niệm khác nhau về vị trí, vai trò của giáo trình trong hệ thống tài liệu được sử dụng trong các trường đại học. Thậm chí, còn có những câu trả lời khác nhau đối với câu hỏi: "Giáo trình được sử dụng trong các cấp đào tạo nào, đại học hay cả đại học và trung học chuyên nghiệp?". Tuy nhiên, các nhà giáo dục đều có chung một quan niệm giáo trình là tài liệu chính thức, chứa đựng những kiến thức cơ bản nhất của mỗi môn học (hoặc học phần), được biên soạn một cách khoa học, có hệ thống nhằm đạt những mục tiêu nhất định của chương trình đào tạo, định hướng cho phương pháp dạy - học và kiểm tra đánh giá kết quả môn học (học phần) đối chiếu với mục tiêu ấy.

Vì vậy, giáo trình, nói một cách khái quát nhất, là một loại sách được biên soạn theo từng môn học (học phần) để sử dụng chính thức trong các khoa, trường đại học. Giáo trình có một số đặc điểm cơ bản là[1]:

Thứ nhất, về cấu trúc nội dung, giáo trình luôn có tính bao quát và tính hệ thống. Nội dung của giáo trình bao gồm các kiến thức cơ bản, toàn diện, phổ biến và tương đối ổn định của một môn học (học phần), được biên soạn một cách khoa học với hệ thống kiến thức được sắp xếp hợp lý, phù hợp với yêu cầu giảng dạy và học tập của môn học. Mỗi môn học (học phần) trong chương trình đào tạo đều có những mục tiêu xác định, hay nói cách khác, mỗi môn học đều nhằm cung cấp những kiến thức, kỹ năng cần thiết đáp ứng mục tiêu của chương trình đào tạo. Vì vậy, giáo trình phải phù hợp với nội dung và mục đích của mỗi môn học (học phần) và phải đáp ứng được mục tiêu chung của chương trình đào tạo nói chung.

Dung lượng kiến thức được trình bày trong mỗi giáo trình là vừa đủ, không thừa cũng không thiếu so với mục tiêu và yêu của của môn học (học phần). Tổ chức nội dung của giáo trình có ba bậc gồm: Khối kiến thức cốt lõi - cần biết đây là khối kiến thức bắt buộc cho tất cả sinh viên nhằm đạt mục tiêu cơ bản nhất của môn học; Khối kiến thức hữu ích - nên biết là khối kiến thức dành cho sinh viên ham học hỏi, muốn tìm hiểu sâu thêm vấn đề đang nghiên cứu; Khối kiến thức bổ trợ - có thể biết là khối kiến thức giới thiệu các vấn đề liên quan tới chủ để đang nghiên cứu, giúp sinh viên hiểu rõ hơn lịch sử của vấn đề hay xu thế phát triển của vấn đề trong tương lai.

Thứ hai, giáo trình là tài liệu chính thức của khoa, trường đại học. Việc biên soạn, lựa chọn và cho sử dụng giáo trình do người có thẩm quyền của cơ sở đào tạo quyết định. Thông thường, giáo trình do cá nhân hoặc tập thể giảng viên và các nhà khoa học có uy tín trong lĩnh vực chuyên ngành biên soạn và được Hội đồng khoa học của cơ sở đào tạo thẩm định và được cơ sở đào tạo quyết định việc sử dụng chính thức giáo trình đó trong việc giảng dạy và nghiên cứu của cơ sở đào tạo.

Thứ ba, về hình thức, giáo trình được in dưới hình thức trang trọng, có đủ các yếu tố cần thiết của một tài liệu chính thức của cơ sở đào tạo.

Với những đặc trưng đã nêu, theo đúng nghĩa của từ, thì giáo trình chỉ có trong các cơ sở đào tạo đại học, mặc dù trên thực tế khái niệm giáo trình thường được dùng để chỉ cả những tài liệu chính thức được dùng trong các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Nhiều nhà khoa học đồng ý với quan niệm này. Ví dụ, theo GS. Văn Tân, thì "Giáo trình là tập những bài giảng về một bộ môn trong trường đại học"[2]. Còn GS. Vũ Ngọc Khánh thì định nghĩa: "Giáo trình là tài liệu giáo khoa được biên soạn và sử dụng trong từng khoa, từng trường đại học, chưa được nhà nước phê duyệt làm sách giáo khoa chung cho cả nước"[3].

Một điểm đáng chú ý là, bên cạnh tính cơ bản, toàn diện, phổ biến, chính thức, chuẩn mực và tương đối toàn diện, giáo trình còn có tính gợi mở và tính định hướng. Việc xác định mức độ và cân đối các đặc tính nói trên của giáo trình như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào mục tiêu, yêu cầu nội dung đào tạo của các trường đại học và cách nhìn nhận, thể hiện các vấn đề của người có trách nhiệm của cơ sở đào tạo và các tác giả biên soạn giáo trình. Vì vậy, trong cùng một môn học hay học phần, có thể có nhiều giáo trình khác nhau được sử dụng trong các cơ sở đào tạo đại học. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa sách giáo trình với sách giáo khoa và các tài liệu khác.

1.2.   Giáo trình chuẩn - quan niệm và tiêu chí xác định

Chương trình đào tạo đại học có nhiều môn học/học phần khác nhau, được chia thành hai khối kiến thức chủ yếu là: Khối kiến thức giáo dục đại cương và khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp. Đây chỉ là sự phân chia về đại thể và có tính ước lệ. Trong khối kiến thức giáo chuyên nghiệp lại bao gồm ba khối kiến thức đó là: Kiến thức cơ sở của khối ngành, kiến thức cơ sở của ngành và kiến thức chuyên ngành. Đi sâu hơn, trong khối kiến thức chuyên ngành lại có kiến thức chuyên nghiệp và kiến thức bổ trợ, các môn học/học phần bắt buộc và các môn học/học phần tự chọn… Hơn thế, trong xu hướng giáo dục đại học hiện đại, mỗi khoa, trường đào tạo đại học phải luôn chủ động tìm tòi, sáng tạo để điều chỉnh mục tiêu, phát triển nội dung, chương trình và đổi mới phương pháp đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo trong nước và hội nhập quốc tế. Vì vậy, quan điểm của người quản lý cơ sở đào tạo, của hội đồng khoa học đào tạo cũng như của cán bộ giảng dạy trong mỗi cơ sở đào tạo về vị trí, vai trò, mục tiêu, dung lượng kiến thức, phương pháp giảng dạy môn học/học phần trong chương trình đào tạo có thẻ cũng khác nhau. Tất cả những điều đó đều tác động đến công tác xây dựng giáo trình, đặc biệt là quan niệm về giáo trình chuẩn.

Từ sự phân tích trên, có thể thấy khái niệm giáo trình chuẩn chỉ có tính tương đối và nó chỉ phù hợp khi được vận dụng trong phạm vi bộ môn, khoa, trường đào tạo đại học. Ở phạm vi rộng hơn, khái niệm giáo trình chuẩn được hiểu tương đồng với khái niệm sách giáo khoa. Việc xác định các tiêu chí của giáo trình chuẩn do bộ từng bộ môn, khoa, trường đề ra, phù hợp với mục tiêu, chương trình và phương pháp đào tạo của mỗi cơ sở đào tạo. Tuy nhiên, bộ môn, khoa, trường đều là những bộ phận của hệ thống giáo dục quốc gia và suy rộng hơn là của hệ thống giáo dục quốc tế và luôn chịu sự tác động và ảnh hưởng của các yếu tố chung. Vì vậy, mặc dù mỗi cơ sở đào tạo có thể có những tiêu chí riêng đối với trình chuẩn của cơ sở mình, nhưng cũng luôn phải tính đến đến các tiêu chí chung đối với một giáo trình đại học.

Giáo trình chuẩn đào tạo đại học phải đáp ứng được các tiêu chí chung cơ bản là: (i) tính học thuật; (ii) tính thực tiễn; (iii) tính mở; (iv) Tính liên thông; (v) tính truyền thống và tính hiện đại; (vi) tính hấp dẫn; (vii) tính phù hợp với mục tiêu, chương trình và phương pháp đào tạo; (viii) có cấu trúc khoa học và hình thức trang trọng.

i. Tính học thuật. Đây là giá trị hàng đầu của giáo trình đại học. Tính học thuật đòi hỏi, giáo trình phải thể hiện được những kiến thức khoa học có tính lý luận cơ bản, toàn diện, phổ biến và tương đối ổn định của một bộ môn khoa học với hệ thống khái niệm, luận điểm, nguyên tắc, phương pháp có tính chất chìa khóa, nhằm để trang bị cho sinh viên phương pháp tư duy khoa học về môn khoa học, trên cơ sở đó sinh viên có thể chủ động định hướng và tự học hỏi mở rộng kiến thức, nâng cao trình độ không ngừng.

ii. Tính thực tiễn. Tính thực tiễn của giáo trình thể hiện trên hai bình diện, hai hướng, hai phương pháp tiếp cận và giải quyết vấn đề có liên hệ rất mật thiết với nhau: Từ thực tiễn để luận chứng, khái quát hóa thành lý luận (khái niệm, luận điểm, nguyên tắc, phương pháp và kinh nghiệm) và từ những khái quát về lý thuyết để xem xét, bình luận, nhận xét về những vấn đề thực tiễn để chứng minh và gợi mở.

iii. Tính mở. Tính mở của giáo trình là tiêu chí vừa có tính khách quan lại vừa có tính chủ quan; vừa là nhu cầu lại vừa là đòi hỏi. Vì giáo trình chỉ có thể và chủ yếu là phải chứa đựng những vấn đề có tính cơ bản, toàn diện, phổ biến và tương đối ổn định của một bộ môn khoa học, vì vậy tính gợi mở của giáo trình là cần thiết để hướng dẫn sinh viên chủ động học hỏi, tham khảo mở rộng kiến thức và nâng cao trình độ. Mặt khác, giáo trình có tính thực tiễn, nó phải phản ánh hơi thở của cuộc sống, mà đời sống xã hội thì biến đổi không ngừng, việc đổi mới và hoàn thiện giáo trình luôn được đặt ra không thể định vị và cầu toàn. Hơn nữa, tính gợi mở sẽ tạo ra một tâm lý tốt cho người dạy và người học, tạo động cơ và thái độ không ỷ lại vào giáo trình mà luôn có ý thức tìm tòi khám phá không ngừng.

iv. Tính liên thông. Giáo trình không phải là tài liệu duy nhất được sử dụng trong quá trình giáo dục đại học. Mỗi loại tài liệu như sách tham khảo, chuyên khảo, hướng dẫn, bài tập… đều có vị trí và vai trò quan trọng. Vì vậy, giáo trình cần thể hiện đúng những nội dung thiết yếu, cần thiết, việc soạn thảo giáo trình cần tính đến mối quan hệ tương hỗ, phụ thuộc lẫn nhau giữa giáo trình với các loại sách và tư liệu khác.

v. Tính truyền thống và tính hiện đại. Đây là tiêu chí phản ánh giá trị văn hóa của giáo trình. Tiêu chí này đòi hỏi người biên soạn giáo trình phải có sự hiểu biết sâu rộng những kiến thức lý thuyết, thực tiễn, kinh nghiệm, biết chọn lọc, kế thừa và phát triển các yếu tố hợp lý và sắp xếp các vấn đề một cách khoa học, để bảo đảm cho giáo trình có chất lượng và có sức hấp dẫn.

vi. Tính hấp dẫn. Đây là một trong những tiêu chí quan trọng. Có thể nói một cách hình ảnh rằng, người viết giáo trình như một thày thuốc, các kiến thức mang tính học thuật, tính thực tiễn, tính mở, tính liên thông, tính truyền thống và hiện đại, tính thời sự… như những vị thuốc bổ quý giá. Nhưng nếu không có phương pháp tốt để sử dụng các vị thuốc đó một cách hợp lý thì cũng không thể có được một thang thuốc bổ cao cấp. Vì vậy, tính hấp dẫn của giáo trình luôn được đặt ra để bảo đảm giáo trình có chất lượng và được đón nhận nồng nhiệt, tạo động cơ cho việc giảng dạy và học tập, thu hút sự chú ý và tạo cơ sở cho sự năng động và sáng tạo trong giảng dạy và học tập.

vii. Tính phù hợp với mục tiêu, chương trình và phương pháp đào tạo. Đây vừa là tiêu chí chung, vừa là tiêu chí riêng. Vì tùy thuộc vào mục tiêu, chương trình, phương pháp đào tạo của các khoa, trường đại học vừa có thống nhất ở những nét chung, vừa mang những đặc điểm riêng của mỗi cơ sở. Theo đó, tính chất, nội dung, hình thức của giáo trình luôn phải đáp ứng những yêu cầu chung và riêng đó.

 viii. Có cấu trúc khoa học và hình thức trang trọng. Đây là tiêu chí không đơn thuần chỉ là về mặt kỹ thuật mà còn chứa đựng yếu tố khoa học sâu sắc. Bởi vì, hình thức của giáo trình luôn là hình thức biểu hiện cụ thể của nội dung. Giáo trình có cấu trúc bên trong khoa học là sự thể hiện rõ nét của nội dung khóa học của giáo trình. Hình thức trang trọng thể hiện tính chính thức và tính văn hóa của giáo tình, góp phần quan trọng vào việc tạo ra tâm lý tôn trọng giá trị đích thực của giáo trình trong quá trình giáo dục đại học.

Ngoài những tiêu chí trên, giáo trình chuẩn đại học luật còn có tiêu chí đặc thù đó là phải bảo đảm tính pháp lý. Tính pháp lý được quán triệt và xuyên suốt trong tất cả các vấn đề từ nội dung, phương pháp tiếp cận, đến cách thức và ngôn ngữ biểu đạt nữa.

1.3. Giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật

1.3.1. Giáo trình đào tạo đại học luật ở các cơ sở đào tạo đại học luật ở nước ngoài và sự cần thiết của việc xây dựng giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật ở Việt Nam

Chương trình đào tạo cử nhân luật được coi là đào tạo cơ bản ở bậc đại học và vì thế phổ biến ở các cơ sở đào tạo ở nhiều nước trên thế giới. Mỗi trường đều có những chương trình đào tạo với những đặc thù và thế mạnh riêng có những tương đồng nhất định. Thông thường các chương trình đào tạo trong các trường cùng một hệ thống pháp luật như Common Law hay Civil Law thì có nhiều nét tương đồng hơn. Những chương trình đào tạo cử nhân luật được thực hiện dựa trên sự kết hợp nhiều yếu tố khác nhau trong đó giáo trình và tài liệu có vai trò đặc biệt quan trọng. Tầm quan trọng của giáo trình tài liệu đối với các chương trình đào tạo ở nhiều nước thể hiện ở một số điểm sau:

Thứ nhất, đa số các cơ sở đào tạo cử nhân luật trên thế giới đều hướng quá trình đào tạo vào việc tự học của sinh viên. Sinh viên được hướng dẫn tự nghiên cứu nhiều hơn so với lên lớp nghe giảng. Việc tự học của sinh viên đòi hỏi phải có hệ thống sách tham khảo, giáo trình đầy đủ. Việc so sánh các chương trình đào tạo của một số cơ sở đào tạo ở các nước với chương trình của Trường Đại học Luật sẽ thấy rõ điều này.

Thứ hai, việc đảm bảo cho sinh viên có được những giáo trình cần thiết buộc giảng viên hoặc phải tự mình biên soạn giáo trình, tài liệu tham khảo hoặc phải tìm hiểu, đọc và giới thiệu cho sinh viên hoặc cung cấp cho họ dưới dạng tài liệu phát tay (hand-out). Hệ quả của quá trình này là trách nhiệm của giảng viên được nâng cao. Tình trạng một bài giảng được sử dụng lặp đi lặp lại trong nhiều khóa đào tạo không thể xảy ra.

Giáo trình luật được coi là một trong những loại tài liệu mà sinh viên luật cần phải được trang bị khi theo học ở các chương trình đào tạo cơ bản (đào tạo cử nhân). Tuy nhiên, cách tiếp cận và vai trò của giáo trình không giống nhau ở các môn học. Thông thường ngay ở các môn học được coi là bắt buộc, giáo trình cho các môn học khác nhau vẫn không được qui định thống nhất. Chẳng hạn, Luật Hiến pháp được coi là môn bắt buộc cho chương trình đào tạo cử nhân luật và môn học này do các giáo sư khác nhau đảm nhiệm. Trong trường hợp này Luật Hiến pháp I do giáo sư A đảm nhiệm, còn Luật Hiến pháp II do giáo sư B đảm nhiệm. Sinh viên có thể đăng ký theo lớp học giáo sư A hoặc giáo sư B giảng dạy. Sinh viên theo học các môn học này có thể được yêu cầu sử dụng một hoặc hai giáo trình nhất định nào đó rất khác nhau. Việc chỉ định giáo trình, đúng hơn là sách nào cần đọc hoàn toàn do giáo sư A hay B xác định. Ngoài ra, các tài liệu khác có thể được giáo sư A hay B giới thiệu và sinh viên cũng buộc phải đọc các tài liệu đó. Nhìn chung, sinh viên ở các trường đại học ở nước ngoài, nhất là đại học luật, phải đọc một số lượng tài liệu rất lớn. Tại Trường Luật Harvard, sinh viên thường phải đọc từ 120 đến 150 trang sách mỗi ngày, có khi còn nhiều hơn.

Quan niệm giáo trình khá khác nhau ở mỗi nước. Giáo trình (textbook) được coi là sách được sử dụng chính thức cho việc dạy và học một môn học nhất định trong các trường học[4]. Theo định nghĩa này và cũng như trong thực tế giảng dạy và học tập ở các trường đại học ở nhiều nước thì giáo trình không nhất thiết phải do cơ sở đào tạo biên soạn và phát hành, không nhất thiết phải do một hội đồng nào đó của cơ sở đào tạo thông qua. Trong chương trình các môn luật của các cơ sở đào tạo ở Australia như Trường đại học Quốc gia Australia (Australian National University), Đại học Canbera (University of Canbera); Trường đại học New South Wales (University of New South Wales), Đại học Melbourne[5] (University of Melbourne) đều không xác định tài liệu chính thức cho môn học. Các môn học được liệt kê chi tiết với thời lượng và nội dung cụ thể, giáo sư hay giảng viên thực hiện môn học đó. Ví dụ, trong chương trình đào tạo thạc sĩ về luật công ty và chứng khoán, Trường đại học Melbourne đã liệt kê chi tiết 30 môn học như kế toán dành cho luật sư, giao dịch mua bán công ty, Thương mại điện tử, Luật chứng khoán, Tài chính công ty v.v... Trường cũng liệt kê các giáo sư trong và ngoài nước tham gia thực hiện các môn giảng này. Không một chỉ dẫn nào về tài liệu chính thức mà sinh viên buộc phải sử dụng khi theo học chương trình thạc sĩ chuyên về luật công ty và chứng khoán này[6].

Trong các chương trình đào tạo của Đại học Harvard cũng có tình trạng tương tự. Trong toàn bộ các chương trình đào tạo ở các cấp học khác nhau, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ, Trường cũng chỉ liệt kê các môn học, thời lượng, các yêu cầu đối với việc tích lũy kiến thức chứ không hề có bất cứ chỉ dẫn nào về tài liệu giáo trình được sử dụng chính thức trong các môn học. Chương trình đào tạo thiết kế cho cho năm học 2004-2005[7] liệt kê 400 môn học về các chuyên ngành khác nhau bao gồm 40 môn về luật tổ chức kinh doanh, thương mại và tài chính, 30 môn học về luật hiến pháp và lý luận về pháp luật; 15 môn học về luật hình sự v.v... không có chỉ dẫn nào về tài liệu sử dụng chính thức cho môn học.

Trong chương trình đào tạo của Đại học Quốc gia Singgapo, chúng ta cũng chỉ có thể tìm thấy các môn học, các yêu cầu của môn học và tên tuổi các giáo sư, giảng viên sẽ đảm nhiệm môn học đó. Trong toàn bộ những liệt kê về môn học của các chương trình đào tạo khác nhau (cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ) không có chỉ dẫn nào về tài liệu mà sinh viên cần phải mua, mượn hay vào thư viện để đọc[8].

Khác với ở các nước đã nêu, trong chương trình đào tạo của các trường đại học tại Liên bang Nga thì có các chỉ dẫn về tài liệu. Có lẽ ảnh hưởng của mô hình đào tạo dưới thời kỳ Xô viết vẫn còn để lại những dấu ấn sâu đậm. Trước đây, trong các chương trình giảng dạy ở các trường đại học trong thời kỳ Xô viết, sinh viên được thông báo những yêu cầu cụ thể của môn học và tài liệu chính thức, tài liệu tham khảo mà sinh viên phải tìm kiếm để đọc. Đối với các môn thuộc khoa học chính trị Mác - Lênin, tài liệu tham khảo chính thức là các tác phẩm kinh điển và giáo trình được qui định trong chương trình. Đối với các môn luật thì tài liệu học tập chính thức là các giáo trình luật được xác định trong chương trình.

Việt Nam cũng có tình trạng giống như ở Liên bang Nga. Sinh viên luật ở các cơ sở đào tạo của Việt Nam học theo các giáo trình được chọn làm tài liệu chính thức. Sinh viên phải theo đúng các kiến thức được thể hiện trong giáo trình. Các kiến thức này thường được coi là chuẩn ở mức độ nhất định. Việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên được xác định căn cứ vào mức tiếp thu các kiến thức từ giáo trình. Việc mở rộng kiến thức ra ngoài phạm vi giáo trình không được khuyến khích, thậm chí chứa đựng rủi ro bị giảng viên cho điểm kém.

Như vậy, có thể thấy rõ một sự khác nhau khá xa trong cách tiếp cận vấn đề học liệu ở các nước. Đối với một số nước (không nhiều) các cơ sở đào tạo xác định giáo trình chính thức của môn học được sử dụng. Sinh viên buộc phải học theo giáo trình này có kèm theo một số tài liệu, giáo trình khác mang tính chất tham khảo. Mỗi môn học gần như chỉ có một giáo trình được chọn chính thức. Cách tiếp cận này đối với vấn đề học liệu có những ưu điểm của nó. Ưu điểm dễ nhận thấy là nó tạo ra được sự thống nhất giữa những người dạy về nội dung của môn học hay môn học. Để đánh giá mức độ tiếp thu của sinh viên thì giáo trình chính thức cũng tạo ra được sự thống nhất nhất định và đó chính là ưu điểm thứ hai.

Thứ ba, việc biên soạn giáo trình chính thức về cơ bản là do đội ngũ giảng viên của cơ sở đào tạo thực hiện và do Hội đồng khoa học và đào tạo (hay định chế tương tự) xem xét và hiệu trưởng quyết định. Thực tế này dẫn đến một hệ quả tích cực là giảng viên được thu hút sâu hơn vào hoạt động nghiên cứu tài liệu và chuẩn bị giảng dạy.

Tuy nhiên, cũng có thể thấy ngay là cách tiếp cận này có những hạn chế rất lớn. Hạn chế đáng lưu ý nhất là khả năng tiếp cận của sinh viên đối với những thành tựu của khoa học pháp lý rất thấp. Bị gò trong những kiến thức đã module hóa, sinh viên không muốn vươn đến những tri thức khác. Tiếp đó, bản thân giáo viên cũng chỉ biết đến giáo trình của mình, chăm lo cho nó kể cả từ việc bảo vệ các quan điểm đến việc tiêu thụ sách. Tình trạng giảng viên buộc sinh viên phải mua sách của mình soạn ra không phải là điều hiếm thấy trong thực tiễn của Việt Nam và của các cơ sở đào tạo luật. Một hạn chế tiếp theo là việc sử dụng giáo trình chính thức của một trường tạo ra một tính cục bộ, sự thiếu năng động trong việc tiếp thu những thành tựu từ các cơ sở đào tạo và nghiên cứu khác. Trong khi có những giáo trình, những chuyên khảo do các nhà khoa học nổi tiếng biên soạn về một môn khoa học cụ thể không được sử dụng thì nhiều cơ sở đào tạo lại buộc các giảng viên vừa mới tốt nghiệp biên soạn giáo trình riêng. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của cách tiếp cận này đối với vấn đề học liệu là sự thụ động của sinh viên trong việc tự học tập và nghiên cứu.

Chính vì những hạn chế này, phần lớn các cơ sở đào tạo trên thế giới không chọn giải pháp buộc phải có giáo trình chính thức cho các môn học. Các cơ sở đào tạo này đặt ra các yêu cầu rất chi tiết đối với mỗi môn học. Người học và người dạy phải làm sao đạt được những yêu cầu đó, còn cách thức làm sao đạt được chúng thì hoàn toàn do giảng viên quyết định. Ví dụ, trong chương trình đào tạo luật của Đại học Melbourne việc học môn học Luật môi trường quốc tế cần đáp ứng các yêu cầu sau:

- Người học cần đánh giá được nhu cầu đối với Luật môi trường quốc tế và sự phát triển của nó;

- Hiểu biết các nguyên tắc cơ bản, các quan điểm cơ bản của Luật môi trường quốc tế;

- Phân tích một cách có phê phán sự đóng góp của các án lệ và hiệp ước, các định chế vào sự phát triển của luật môi trường quốc tế;

- Chỉ ra được các điểm yếu của chế độ môi trường quốc tế hiện tại và phương thức khắc phục chúng, hoàn thiện luật môi trường quốc tế.

- Phát triển kỹ năng tư duy pháp lý phê phán, nghiên cứu pháp lý thông qua việc đánh giá các vấn đề liên quan đến luật môi trường quốc tế.

Nội dung của môn học cũng được xác định khá cụ thể. Những vấn đề cơ bản của môn học này là: Nhu cầu đối với luật môi trường quốc tế và sự phát triển của nó; các nguyên tắc và quan điểm cơ bản cần cho việc nhận thức luật môi trường quốc tế; các định chế, các chủ thể bị lôi cuốn vào việc định hình và thực thi luật môi trường quốc tế; các án lệ và các hiệp ước chủ yếu về luật môi trường quốc tế; sự liên quan của luật môi trường quốc tế đối với Australia về các vấn đề như thay đổi khí hậu, di sản thiên nhiên, đa dạng sinh học.

Một lý do khác là hiện nay ở các cơ ở đào tạo, những môn học mà chúng ta quen gọi là ngành khoa học luật được chia nhỏ thành các môn học khác nhau. Việc chia nhỏ này nhằm tạo cho người học chọn không phải toàn bộ môn học mà chỉ những phân có liên quan tới chuyên ngành của mình để học. Những môn học nhỏ này có độ liên thông khá cao giữa các cơ sở đào tạo nên việc lựa chọn chúng để học thay thế cho các môn học khác nhau rất dễ được thực hiện. Ví dụ môn, người nào theo học chuyên ngành luật hình sự ở Trường đại học Luật Havớt sẽ tìm thấy 15 môn học sau đây[9]:

1.    Tố tụng hình sự nâng cao

2.    Chứng cứ (môn A1 và A2)

3.    Chứng cứ (của B1, B2, và B3)

4.    Chứng cứ

5.    Luật hình sự Liên bang

6.    Luật sư công

7.    Luật hình sự quốc tế;

8.    Vai trò của công tố;

9.    Nhập môn về bào chữa: Tư pháp hình sự

10.    Nhập môn về bào chữa: Triển vọng của hoạt động công tố

11.    Lịch sử pháp luật: Lịch sử Luật Tố tụng hình sự Mỹ

12.    Các vấn đề về khủng bố;

13.    Nghề luật: Chiến thuật, Đạo đức trong tranh tụng hình sự;

14.    Khủng bố trong thế kỷ 21

15. Xử lý các chứng cứ khoa học tại tòa án.

Nếu ở các cơ sở đào tạo khác có những môn học tương tự thì sinh viên có thể theo học ở đó nếu vì lý do nào đó không học được ở trường Havớt.

Dĩ nhiên, việc chia nhỏ các môn học như thế thì khó có thể đòi hỏi có giáo trình chính thức vì các môn học thay đổi theo năm học. Có môn học năm này được thực hiện song năm sau không được thực hiện do không có người chọn, không có giảng viên thích hợp hay do giảng viên chuyển sang nơi khác. Toàn bộ tài liệu mà sinh viên cần tham khảo đều do giảng viên xác định và nêu trong chương trình môn học (syllabus). Thông thường, giảng viên hướng dẫn để sinh viên đọc các cuốn sách mà theo họ sinh viên có thể có điều kiện đáp ứng tốt nhất các yêu cầu mà cơ sở đào tạo đặt ra đối với môn học. Bất cứ cuốn sách nào về môn học, bất luận của giáo sư nào, trong nước hay nước ngoài, đều có thể được sử dụng để học theo chỉ dẫn của giảng viên. Bên cạnh đó, những sinh viên nhận thêm bộ tài liệu do các giáo sư thu thập hệ thống hóa. Sinh viên nếu không đọc các cuốn sách được giáo sư gợi ý và không đọc tập tài liệu phát trước khi lên lớp thì khó có thể hiểu nổi giáo sư đang giảng điều gì. Khi bị chỉ định nêu quan điểm của mình về các vấn đề mà giáo sư đưa ra trong giờ giảng thì việc không đọc trước tài liệu sẽ đặt sinh viên vào một trạng thái bất lợi về kết quả học tập và cả về danh dự bản thân. Không thể hai ba lần giảng viên hỏi đều trả lời không biết hoặc không hiểu sự kiện mà giảng viên đang đề cập xuất phát từ đâu. Như thế, sự đa dạng về tài liệu (đồng nghĩa với sự đa dạng về kiến thức) giúp cho sinh viên có một cách nhìn bao quát và đầy đủ hơn kể cả về thực tiễn lẫn lý luận, trong phạm vi một nước và cả tầm quốc tế đối với nội dung đang được học tập và nghiên cứu.

1.3.2. Giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật ở Việt Nam

Với việc tiếp cận vấn đề học liệu của các trong các trường đại học của nhiều nước trên thế giới và thực tiễn đào tạo đại học luật của Việt Nam hiện nay, vấn đề được đặt ra là có cần hay không cần giáo trình chính thức cho từng môn học trong chương trình đào tạo đại học luật?

Hiện tại, các cơ sở đào tạo luật ở nước ta đã có các giáo trình cho phần lớn các môn học như Luật tài chính, Luật ngân hàng, Luật hình sự, Luật tố tụng dân sự v.v... Các giáo trình mới của các môn học này cũng được biên soạn trong thời gian gần đây nhằm đáp ứng với những thay đổi rất lớn trong chương trình đào tạo. Với thực trạng đào tạo luật hiện nay, xét cả về đội ngũ lẫn các điều kiện khác, việc xác định các giáo trình được sử dụng cho các môn học cụ thể vẫn cần được duy trì. Điều này xuất phát từ những lý do cơ bản sau đây:

Một là, nền khoa học pháp lý của ta chưa phát triển đến mức độ có thể tạo ra những công trình kinh điển, có giá trị lớn về học thuật ở tầm quốc gia đối với các môn học luật. Chẳng hạn, nếu như ở lĩnh vực sử học, ngôn ngữ chúng ta có những công trình lớn của GS. Trần Văn Giàu, GS. Phạm Huy Thông, GS. Vũ Khiêu, GS. Nguyễn Tài Cẩn có thể dùng làm giáo trình hoặc tài liệu học tập chính thức ở nhiều trường mà không gặp phải sự phản ứng nào do thiếu tính chính xác, tính hàn lâm của chúng thì ngược lại ở lĩnh vực luật học chưa có được điều kiện này. Điều này cũng dễ hiểu vì khoa học pháp lý Việt Nam còn quá non trẻ, lại gắn liền với nhiều thay đổi cơ bản trong đời sống, chính trị của đất nước trong hai chục năm vừa qua. Trong hoàn cảnh này, việc giáo viên tự chọn ra một vài cuốn sách làm tài liệu chính thức cho việc giảng dạy và học tập một môn luật cụ thể khó tạo ra được sự đồng thuận. Sự can thiệp của Hội đồng khoa học và đào tạo hay định chế tương ứng vào vấn đề học liệu là nhằm tạo ra sự đồng thuận đó.

Hai là, chương trình đào tạo và cách thực hiện như hiện nay chưa cho phép giảng viên đại học, thậm chí giảng viên sau đại học tự lựa chọn học liệu cần thiết cho môn giảng của mình. Mỗi môn giảng không phải chỉ do một giảng viên thực hiện mà do 3, 4 người, thậm chí 8, 9 người thực hiện. Chính sự tham gia của nhiều giảng viên như vậy dẫn đến nhu cầu phải thống nhất nội dung giảng và tài liệu giảng dạy. Giáo trình chính thức của cơ sở đào tạo có khả năng đáp ứng đòi hỏi này.

Ba là, vấn đề phương pháp đào tạo. Có thể nhận thấy dễ dàng rằng, phần lớn các môn học, môn học trong Trường Đại học Luật Hà Nội cũng như các cơ sở đào tạo khác đều được thực hiện theo phương pháp thuyết giảng. Giảng viên lên lớp thuyết giảng, thậm chí đọc cho sinh viên những kiến thức được xác định trong giáo trình. Bám sát giáo trình được coi như là một yêu cầu bắt buộc đối với người giảng. Việc mở rộng kiến thức chỉ có thể xảy ra với giảng viên có kinh nghiệm, chịu khó nghiên cứu và có nhiều thông tin. Việc mở rộng kiến thức so với giáo trình trong thực tế là không nhiều. Tuy ở mức độ đáng kể, các giảng viên của Trường Đại học Luật Hà Nội cũng như ở các cơ sở đào tạo khác đang áp dụng các phương pháp đào tạo mới song về cơ bản thì phương pháp thuyết giảng (lecturing) vẫn đang thắng thế. Với phương pháp thuyết giảng, việc buộc sinh viên đọc thêm tài liệu theo hướng dẫn của giảng viên rất hạn chế. Giảng viên không có cơ hội kiểm tra xem học viên có tuân thủ yêu cầu đọc tài liệu hay không. Trong khi đó, trong các cơ sở đào tạo ở nước ngoài, với phương pháp đối thoại, giảng theo vấn đề hoặc theo tình huống, giảng viên hoàn toàn có cơ hội kiểm tra việc sinh viên có tuân thủ yêu cầu đọc tài liệu và tự phát triển kiến thức của mình hay không. Khi thuyết giảng, nhất là trong điều kiện giảm tải thời lượng đứng trên bục như hiện nay, giảng viên không thể có điều kiện kiểm tra việc tự học của sinh viên. Dù có yêu cầu sinh viên đọc bài này hay bài kia, song nếu thiếu sự kiểm tra thì giảng viên không thể buộc sinh viên phải thực hiện nhiệm vụ được giao. Tính thụ động của giảng viên tất yếu dẫn đến tính thụ động và đối phó của sinh viên trong học tập. Tình trạng này có thể nhìn thấy rõ ở nhiều cơ sở đào tạo đại học nói chung và đào tạo đại học luật nói riêng ở nước ta. Vì thế, việc chuyển từ chế độ đào tạo theo niên chế sang chế độ đào tạo theo tính chỉ là một trong những giải pháp để khắc phục những hạn chế đó.

Thế nào là một giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật? Khía cạnh đầu tiên cần xem xét là khái niệm chuẩn. "Chuẩn" trong tiếng Việt có nghĩa là đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định và cũng có nghĩa là hoàn thiện ở mức độ có thể trở thành tiêu chí so sánh. Từ đó có thể suy ra rằng giáo trình chuẩn là giáo trình đạt đến mức hoàn thiện cao, trở thành giáo trình được sử dụng để xác định mức độ hoàn thiện của các giáo trình khác hoặc giáo trình đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định. Hiểu theo nghĩa thứ nhất thì các giáo trình được sử dụng trong các cơ sở đào tạo luật của Việt Nam hiện nay khó được coi là hoàn thiện. Chẳng hạn, kết quả khảo sát giáo trình được sử dụng tại Đại học Luật Hà Nội được thực hiện năm 1999[10] cho thấy một số điểm sau đây: Tính hấp dẫn của giáo trình chưa cao. Phần lớn các ý kiến khảo sát đánh giá mức hấp dẫn là khả quan hoặc trung bình. Độ chính xác khoa học của các giáo trình được đánh giá là khả quan chiếm tỷ lệ cao. Phần lớn giáo trình được đánh giá ở mức trung bình theo nhiều tiêu chí khác nhau. Những cố gắng của tập thể cán bộ giảng dạy của Trường đã cải thiện một cách đáng kể hệ giáo trình cả về số lượng lẫn chất lượng. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan khó khẳng định rằng các giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội chuẩn theo nghĩa hoàn thiện. Như vậy, ở thời điểm hiện nay, chúng ta tìm cách xây dựng các giáo trình chuẩn thì nên hiểu từ khía cạnh này hay không. Liệu chúng ta có thể xây dựng được những giáo trình mà các cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào đó để xác định mức độ chuẩn của các giáo trình được sử dụng trong các cơ sở đào tạo khác không? Nếu không thì chuẩn ở đây cần hiểu như thế nào. Điều này có nghĩa chuẩn mà chúng ta nêu ở đây là chuẩn của trường, của ngành hay của quốc gia.

Ở một khía cạnh khác, "chuẩn" theo nghĩa đáp ứng các tiêu chí nhất định. Việc hiểu chuẩn theo nghĩa này có khá nhiều khía cạnh cần làm rõ: Các tiêu chí mà giáo trình cần đạt là tiêu chí nào? Trong trường hợp này chúng ta xây dựng giáo trình không phải để đạt đến mức độ trở thành hình mẫu. Rõ ràng chúng ta đang đi tìm hình mẫu để xây dựng những giáo trình cần có. Vậy hình mẫu đó ra sao? Tiêu chí cho hình mẫu đó là gì? Tiêu chí đó áp dụng cho thời điểm nào?. Như vậy, để xác định giáo trình chuẩn, điều quan trọng đầu tiên là xây dựng hệ tiêu chí. Để đánh giá giáo trình hay bất cứ sự vật nào đều cần có hệ tiêu chí. Vì thế xây dựng giáo trình chuẩn theo nghĩa này thì cần phải xác định các tiêu chuẩn mà giáo trình cần đạt được. Phần trên của báo cáo tổng quan đã đưa ra các tiêu chí của một giáo trình chuẩn. Tuy nhiên, cần phải làm rõ hơn nữa "chuẩn" trong phạm vi đề tài này là chuẩn cho sự hoàn thiện hay là các tiêu chuẩn tối thiểu mà giáo trình cần đạt được.

Trên cơ sở quan niệm về giáo trình và giáo trình chuẩn nói chung được phân tích ở trên, gắn với những đặc điểm của việc đào tạo đại học luật, chúng tôi cho rằng:

Giáo trình chuẩn dành cho hệ đào tạo Đại học ngành Luật là tài liệu chính thức dành cho việc giảng dạy, nghiên cứu và học tập mà nội dung của nó bao gồm các thông tin và các kiến thức khoa học cơ bản, tiên tiến và đảm bảo chất lượng đào tạo ở trình độ Đại học về môn học pháp lý chuyên ngành có liên quan trong lĩnh vực luật học và được thừa nhận chung bởi đa số các nhà khoa học - luật gia thuộc chuyên ngành đó, do cá nhân hoặc tập thể giảng viên (cộng tác viên) của Bộ môn tương ứng biên soạn và được Hội đồng khoa học-đào tạo của cơ sở đào tạo Luật có Bộ môn ấy thẩm định để thông qua theo đúng quy trình, đồng thời được một Nhà xuất bản có thẩm quyền phát hành theo đúng các quy định chung của pháp luật.

Đào tạo đại học có mục tiêu là giúp cho người học nắm vững được kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành về một ngành nghề, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo. Mỗi chuyên ngành đào tạo đại học khác nhau có những đặc điểm khác nhau về nội dung, chương trình, thời gian, phương pháp khác nhau vì vậy các tài liệu được sử dụng trong quá trình đào tạo cũng khác nhau. Đào tạo đại học luật có những đặc trưng riêng xuất phát từ chương trình, mục đích và phương pháp. Chính vì vậy các tài liệu nói chung và giáo trình nói riêng được sử dụng trong đào tạo đại học luật cũng có những đặc trưng riêng của nó phù hợp với mục tiêu và nội dung của chương trình.

Giáo trình đào tạo đại học luật chỉ có thể đạt chuẩn khi đáp ứng được những tiêu chí của giáo trình đã được phân tích ở trên. Tuy nhiên, xuất phát từ những điểm đặc thù của đào tạo đại học luật, chúng tôi cho rằng, ngoài việc thỏa mãn những tiêu chí của một giáo trình chuẩn nói chung, giáo trình đào tạo đại học luật cần phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau:

Thứ nhất, giáo trình đào tạo đại học luật phải chứa đựng hệ thống các khái niệm và quan điểm, quan niệm được xây dựng trên cơ sở khoa học và đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn pháp luật trở thành những khái niệm, quan điểm phổ biến trong khoa học pháp lý. Hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia được xây dựng trên cơ sở lý luận nhất định vì vậy, để hiểu được các vấn đề của pháp luật thực định cũng như xử lý được những vấn đề có thể nảy sinh trong cuộc sống đòi hỏi sinh viên phải được trang bị nền tảng lý luận khoa học, các quan điểm, quan điểm mà các nhà làm luật dựa vào đó để xây dựng hệ thống pháp luật của mình. Vì lẽ đó, nội dung của giáo trình đào tạo đại học luật phải thể hiện được những kiến thức khoa học, với một hệ thống khái niệm, luận điểm nguyên tắc phổ biến trong khoa học pháp lý đã được sử dụng trong thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật.

Thứ hai, giáo trình đào tạo đại học luật luôn gắn liền với những quy định pháp luật và thực tiễn Việt Nam, có so sánh, đối chiếu với pháp luật và thực tiễn nước ngoài. Nghiên cứu và giảng dạy pháp luật trước hết là phải nghiên cứu và hiểu được các quy định của pháp luật thực định, cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy định đó. Vì thế, giáo trình đào tạo luật luôn phải gắn liền với những quy định của pháp luật và phải là cơ sở cho việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn pháp lý đặt ra.

Thứ ba, đảm bảo sự thống nhất giữa các phần khác nhau của một giáo trình cũng như sự thống nhất giữa các giáo trình của các khoa học pháp lý khác nhau. Pháp luật là một hệ thống các quy phạm pháp luật, vì vậy, việc nghiên cứu, giảng dạy pháp luật phải đảm bảo tính hệ thống, không làm mất đi tính lôgíc và hệ thống chặt chẽ vốn có của toàn bộ hệ thống pháp luật. Mặc dù, hệ thống quy phạm pháp luật được phân định thành các ngành luật và các chế định pháp luật khác nhau, nhưng chúng vẫn giữ được mối liên hệ thống nhất. Vì vậy, việc biên soạn các giáo trình cho từng môn học hoặc học phần của các khoa học pháp lý đặc biệt là các khoa học pháp lý chuyên ngành luôn phải đảm bảo tính thống nhất để tránh tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong việc nghiên cứu và giảng dạy về nội dung của các quy định pháp luật thực định. Bên cạnh đó, các khoa học pháp lý khác nhau luôn có mối liên hệ chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau trong việc làm sáng tỏ cơ sở lý luận của các quy định pháp luật thực định, do đó, hệ thống giáo trình được sử dụng để đào tạo đại học luật luôn phải đảm bảo mối liên hệ và sự hỗ trợ đó.

Thứ tư, giáo trình đào tạo đại học luật phải có sự cân đối giữa trang bị kiến thức lý luận và khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn. Đào tạo đại học luật không đơn giản chỉ là sự cung cấp những kiến thức pháp luật thông thường mà phải giúp cho người học sau khi học xong phải vận dụng được những kiến thức đã học được để giải quyết những vấn đề thực tế của đời sống xã hội đặc biệt là tham gia vào các quá trình pháp luật như xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Vì vậy, nội dung của giáo trình đào tạo luật không phải chỉ là những kiến thức pháp luật thuần túy, không phải là sự giải thích đơn thuần các quy định của pháp luật thực định mà phải giúp cho người học có được những kỹ năng pháp lý cần thiết cho các hoạt động thực tế.

Nói tóm lại, giáo trình đào tạo đại học luật là tài liệu chính thức được sử dụng để nghiên cứu, giảng dạy trong chương trình đại học luật. Nó phải đáp ứng được yêu cầu của một giáo trình đại học nói chung. Đồng thời, giáo trình được sử dụng trong đào tạo đại học luật phải phản ánh được những đặc thù của mục tiêu và chương trình đào tạo đại học luật nói riêng.

 

Phần thứ hai

THỰC TRẠNG GIÁO TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC LUẬT
TRONG CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO LUẬT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

 

2.1.     Nhận xét chung

Hiện nay, ở nước ta có nhiều cơ sở đào tạo cử nhân luật đó là: Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật thuộc Đại học Huế, Khoa Luật thuộc Đại học Đà Lạt, Khoa Luật thuộc Đại học Cần Thơ, Học viện Cảnh sát, Học viện An ninh, Đại học Mở Hà Nội, Khoa luật thuộc Đại học Kinh tế quốc dân…

Hàng năm, các cơ sở đào tạo luật thực hiện nhiệm vụ đào tạo hàng nghìn cán bộ pháp lý có trình độ khác nhau trong đó, chủ yếu là là trình độ đại học. Hình thức đào tạo của các cơ sở này cũng rất phong phú và đa dạng bao gồm: chính quy, tại chức, hoàn thiện kiến thức, đào tạo từ xa, văn bằng II, trung cấp…

Qua khảo sát việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập và hệ thống tài liệu được sử dụng trong việc nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo ở các cơ sở này, có thể có một số nhận xét sau:

Thứ nhất, mặc dù các cơ sở đào tạo ở Việt Nam đã có những cố gắng nhất định để xây dựng giáo trình và các tài liệu khác phục vụ cho việc nghiên cứu và đào tạo đại học luật nhưng chỉ một vài cơ sở đào tạo lớn mới có một hệ thống giáo trình tương đối hoàn chỉnh như Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Đại học Luật Hà Nội - cơ sở đào tạo luật lớn nhất ở Việt Nam hiện nay có khoảng 40 giáo trình các loại của hầu hết các môn học kể cả những môn học còn khá mới trong chương trình đào tạo cử nhân luật lĩnh vực khoa học còn khá mới mẻ ở Việt Nam như Luật so sánh[11]. Nhiều giáo trình đã được xây dựng khá hoàn chỉnh qua nhiều lần tái bản, sửa đổi hoặc bổ sung. Thậm chí có những giáo trình đã được viết lại để đáp ứng sự thay đổi của đời sống xã hội cũng như sự phát triển của hệ thống khoa học pháp lý.

Thứ hai, nhiều cơ sở đào tạo cử nhân luật hiện nay vẫn chưa có bộ giáo trình chính thức của mình mà đang sử dụng bộ giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội và Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.

Ở Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh - một trong những cơ sở đào tạo luật lớn ở phía Nam đến thời điểm này, các tài liệu dùng để giảng dạy và tham khảo cho người học chủ yếu là các tập bài giảng của từng giảng viên. Trên thực tế, giáo trình của Đại học Luật Hà Nội được xem là nguồn tài liệu chủ yếu để sinh viên tham khảo. Ở Khoa Luật Đại học Cần Thơ, cũng chưa có bộ giáo trình hoàn chỉnh mà mới chỉ có giáo trình của một số môn học. Tuy nhiên, tất cả các giáo trình này mới chỉ là những tài liệu lưu hành nội bộ do các giảng viên tự biên soạn. Các môn học còn lại Khoa đều sử dụng giáo trình của Đại học Luật Hà Nội. Tại Khoa Luật thuộc Đại học Đà Lạt cũng chưa biên soạn một cuốn giáo trình nào. Phần lớn giáo trình của các môn học luật là của Đại học Luật Hà Nội và nó được coi gần như là tài liệu chính thức được sử dụng ở đây. Ngoài ra, giáo trình của một số cơ sở đào tạo khác cũng được sử dụng nhưng chỉ là những tài liệu tham khảo. Tại Khoa Luật thuộc Đại học Huế, mặc dù được thành lập từ năm 1990, nhưng cho đến nay, Khoa vẫn chưa có bộ giáo trình của riêng mình mà chủ yếu sử dụng bộ giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội. Một số môn học mặc dù đã có tài liệu nhưng chỉ là các tập bài giảng lưu hành nội bộ trong khoa như tập bài giảng Luật Kinh tế, Tập bài giảng Luật Quốc tế.

Thứ ba, một số cơ sở đào tạo cử nhân luật đã đưa vào chương trình giảng dạy một số môn học hoặc chuyên đề có tính đặc thù của vùng, miền nơi mà cơ sở đó đang tham gia đào tạo. Đó là thế mạnh của những cơ sở này nhưng cũng chưa có một giáo trình được phổ biến rộng rãi mà mới chỉ dừng lại ở các tập bài giảng hoặc chỉ là giáo trình được lưu hành với một phạm vi rất hạn chế. Chẳng hạn, ở Khoa Luật - Đại học Cần Thơ, một số môn học đã có các tập bài giảng được các giảng viên tự biên soạn như Luật hành chính đô thị, nông thôn (quản lý nhà nước trong lĩnh vực quy hoạch đô thị, xây dựng đô thị, nông thôn; ở Khoa Luật - Đại học Đà Lạt có các tập bài giảng của các môn như Luật tục, Pháp luật về du lịch, quản lý nhà nước về lâm nghiệp cũng do các giảng viên giảng dạy tự biên soạn. Ở Khoa Luật thuộc Đại học Huế, có một số môn học đặc thù đã có tập bài giảng được các giảng viên biên soạn như Hương ước - Qui ước làng văn hóa trong đời sống người Việt xưa và nay; Chính sách pháp luật Việt Nam về quản lý biển và tài nguyên ven bờ.

Thứ tư, mặc dù hệ thống giáo trình của các cơ sở đào tạo đại học luật của Việt Nam chưa hoàn thiện, nhưng chúng đều được các cơ sở đào tạo khác nhau ở Việt Nam sử dụng. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo cũng có tham khảo giáo trình của nước ngoài để xây dựng và hoàn chỉnh chương trình của mình. Tuy nhiên, tất cả các cơ sở đào tạo đại học luật ở Việt Nam đều không sử dụng giáo trình của nước ngoài để giảng dạy mà chỉ sử dụng nó như là những tài liệu tham khảo để hỗ trợ cho việc nghiên cứu so sánh.

Thứ năm, các cơ sở đào tạo đại học học chưa có hệ thống giáo trình hoàn chỉnh đều đang có kế hoạch biên soạn giáo trình chính thức của mình để phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy ở cơ sở đào tạo của mình. Đại học Luật Hà Nội - cơ sở đào tạo đại học luật lớn nhất cả nước mặc dù đã có bộ giáo trình tương đối đầy đủ nhưng cũng đã có kế hoạch tiếp tục hoàn thiện bộ giáo trình của mình với việc viết mới một số giáo trình và tiếp tục chỉnh lý những giáo trình đã xuất bản; Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã có kết hoạch xây dựng hệ thống giáo trình riêng của mình nhưng cho đến nay vẫn chưa được thực hiện một cách hoàn chỉnh. Khoa Luật thuộc Đại học Cần Thơ có kế hoạch biên soạn một số giáo trình mới và nâng cấp một số giáo trình hiện tại của một số môn học mà các giảng viên của Khoa thực sự có thể mạnh và am hiểu về nó. Khoa Luật thuộc Đại học quốc gia Hà Nội có kế hoạch xây dựng 33 giáo trình của các môn học khác nhau trong đó có 20 giáo trình của các môn học tương ứng với các chuyên ngành khoa học luật trong hệ thống pháp luật và 13 môn học tương ứng với các chuyên ngành khoa học trong hệ thống khoa học pháp lý.

2.2.     Thực trạng giáo trình hiện đang được sử dụng tại một số cơ sở đào tạo đại học luật

Những kết quả đã đạt được

Hiện tại, ở các cơ sở đào tạo luật, giáo trình luôn được xem là một tác phẩm khoa học được sử dụng làm tài liệu giảng dạy và học tập chính thức ở đại học luật, trong đó chứa đựng một hệ thống các tri thức khoa học mang tính tổng hợp, cơ bản, khoa học, hiện đại, thực tiễn nhằm trang bị cho sinh viên những nhận thức chung, phương pháp tư duy đúng đắn và khoa học về các vấn đề chủ yếu của pháp luật. Một cuốn sách chuyên khảo cũng là một tác phẩm khoa học, nhưng khác giáo trình ở chỗ nó chỉ chứa đựng một hệ thống các tri thức khoa học về một vấn đề cụ thể trong toàn bộ các vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu của khoa học pháp lý nói chung. Các giáo trình luật học được xây dựng căn cứ vào nội dung, tính chất, nhiệm vụ, mục yêu, yêu cầu, đối tượng, thời lượng của từng môn học (học phần), cho nên nội dung của nó đã phần nào phù hợp với những yêu cầu và nhiệm vụ của việc đào tạo đại học luật.

Hệ thống các giáo trình cũng luôn được sửa đổi, bổ sung và cập nhật phù hợp với những thay đổi của cuộc sống cũng như của hệ thống pháp luật thực định. Điều này cũng xuất phát từ thực tế là, đời sống nhà nước, pháp luật cũng như đời sống xã hội và tình hình quốc tế luôn luôn vận động, biến đổi nhanh chóng và nảy sinh nhiều vấn đề mới, trong khi đó, giáo trình của khoa học pháp lý luôn phải đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn và của pháp luật thực định đòi hỏi hệ thống khoa học pháp lý phải giải đáp và tạo ra cơ sở lý luận để giải quyết những vấn đề của thực tiễn. Trong bối cảnh đó, nội dung của các giáo trình vừa phải đáp ứng yêu cầu là những tri thức khoa học, hiện đại, vừa phải giữ được tính ổn định tương đối của mình.

Xuất phát từ nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo đại học luật, các cơ sở đào tạo đã và đang xây dựng được một bộ giáo trình tương đối hoàn chỉnh để phục vụ các đối tượng là những người theo học bậc đại học thuộc tất cả các hình thức đào tạo khác nhau. Tại các cơ sở đào tạo đại học luật hiện nay, như ở Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, việc đào tạo ở bậc đại học được tiến hành dưới những hình thức khác nhau như chính qui, tại chức, văn bằng II, hoàn thiện kiến thức… Người học thuộc các hệ đào tạo khác nhau có mặt bằng văn hóa phổ thông và văn hóa chuyên môn khác nhau; khả năng tiếp thu kiến thức và tiếp nhận cái mới khác nhau; thời gian và tâm sức dành cho việc học khác nhau, mục đích học tập và những kiến thức họ cần không hoàn toàn giống nhau. Sinh viên hệ chính qui dài hạn có sức trẻ, tiếp thu nhanh, có nhiều thời gian dành cho việc học nhưng lại thiếu kiến thức xã hội là điều rất quan trọng để có thể nhận thức một cách toàn diện và đầy đủ về khoa học pháp lý. Học viên tại chức có nền kiến thức xã hội khá tốt, tuy nhiên họ bị chi phối bởi công việc, gia đình và khả năng tiếp nhận kiến thức mới giảm do tuổi tác và tính bảo thủ. Học viên hệ hoàn thiện kiến thức cũng gặp những khó khăn tương tự học viên tại chức. Bên cạnh đó, do khoa học pháp lý nói chung và khoa học luật hành chính nói riêng phát triển khá nhanh trong thời gian gần đây nên việc cập nhật kiến thức mới, nhất là những yếu tố hiện đại, đối với học viên hệ hoàn thiện kiến thức không phải là dễ dàng. Tất cả những điều đó cho thấy việc xây dựng một giáo trình chung phù hợp với tất cả các đối tượng khác nhau là việc rất cần thiết nhưng không đơn giản. Tuy nhiên, trên thực tế, tất cả các cơ sở đào tạo luật đều thường sử dụng một cuốn giáo trình cho mỗi môn học làm tài liệu chính thức cho tất cả các loại hình đào tạo khác nhau ở bậc đại học.

Một điểm đáng chú ý khác về hệ thống giáo trình của các cơ sở đào tạo đại học luật là các cơ sở đều biên soạn các giáo trình có tính chất gợi mở để người học có thể tiếp thu kiến thức và tự học, tự nghiên cứu trong điều kiện thời gian lên lớp giảm nhiều mà nội dung cần chuyển tải ngày càng lớn. Thời lượng dành cho các môn khoa học pháp lý trong chương trình đào tạo luật ngày càng giảm đi do số lượng các môn học, học phần tăng cùng với lượng kiến thức tăng lên nhưng quỹ thời gian chung cho chương trình đào tạo lại không tăng, thậm chí có xu hướng giảm xuống. Điều đó đòi hỏi xây dựng một giáo trình chứa đựng đầy đủ kiến thức cần thiết và dễ hiểu để người học có thể căn cứ vào đó mà tự học và nghiên cứu thêm về những nội dung mà giáo viên không có thời gian giới thiệu trên lớp. Chính việc biên soạn các giáo trình có tính chất mở nên các cơ sở đã khắc phục được khắc phục khó khăn này

 Các giáo trình của các cơ sở đào tạo đại học luật đã cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản nhất về các khoa học pháp lý và kỹ năng vận dụng kiến thức đã học được để giải quyết những tình huống cụ thể trong quan hệ xã hội và trong hoạt động hoạt động thực tiễn. Mục tiêu của chương trình đào tạo đại học luật nói chung không chỉ là cung cấp cho người học kiến thức cơ bản về các khoa học pháp lý nhằm giúp họ tiến hành hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, xây dựng pháp luật… được thuận lợi mà còn tạo cho người học khả năng vận dụng những điều đã học được vào trong đời sống hàng ngày và trong các hoạt động thực tiễn, đảm bảo cho hoạt động này được tiến hành đúng mục đích mà pháp luật đặt ra, đồng thời trang bị cho họ khả năng tham gia một cách chủ động và hiệu quả vào các hoạt động pháp lý liên quan đến công việc cụ thể.

Các giáo trình đào tạo đại học luật đã được xây dựng theo quan điểm định hướng tự học, tự nghiên cứu, phát triển, mở rộng. Xu hướng phổ biến hiện nay là người học không chỉ dừng lại ở việc hoàn tất chương trình đại học. Nhiều người có nguyện vọng học tiếp ở những bậc học cao hơn, nhiều người có khả năng và điều kiện để tiến hành hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, quản lý… Chính vì vậy, một trong những mục tiêu quan trọng của việc xây dựng giáo trình các khoa học pháp lý là ngoài việc cung cấp cho người học kiến thức và kỹ năng cần thiết để tiến hành hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, mà còn nhằm vào việc kích thích người học tự nghiên cứu phát triển mở rộng để phát huy khả năng sáng tạo của người học, trên cơ sở đó tạo cho họ khả năng và điều kiện đóng góp tích cực vào sự phát triển của khoa học pháp lý nói chung.

Các giáo trình đào tạo đại học luật hiện nay đã chuẩn hóa hệ thuật ngữ. Khoa học pháp lý là một trong những khoa học xã hội đòi hỏi sự chính xác. Sự chính xác ở đây thể hiện rõ nhất là sự đòi hỏi sự chính xác về thuật ngữ. Các tác giả biên soạn giáo trình được sử dụng trong đào tạo đại học luật đã có những cố gắng rất lớn trong việc thể hiện những nội dung của khoa học pháp lý trong một văn phong trong sáng, dễ hiểu. Đồng thời, các khái niệm, các thuật ngữ pháp lý cũng được giải thích và sử dụng một cách chính xác nhằm giúp cho người đọc có thể hiểu hoặc tra cứu một cách dễ dàng.

Nội dung của các giáo trình đào tạo đại học luật cũng đã có được cân đối giữa trang bị kiến thức lý luận và khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn. Các giáo trình luật học đã đáp ứng được mục tiêu của đào tạo đại học nói chung và đào tạo đại học luật nói riêng là giúp cho người học nắm vững kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành một ngành nghề, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành đào tạo[12]. Vì thế, trong quá trình xây dựng đề cương và biên soạn giáo trình, các tác giả cũng đã có những cố gắng trong việc giải quyết những vấn đề vừa mang tính lý luận khoa học của khoa học pháp lý, vừa cố gắng trang bị cho người học những kỹ năng để có thể vận dụng lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn.

 Bám sát qui định pháp luật và thực tiễn Việt Nam, có so sánh, đối chiếu pháp luật và thực tiễn nước ngoài cũng là một trong những điểm đáng chú ý của các giáo trình đào tạo đại học luật hiện nay. Gắn liền với những quy định của pháp luật thực định là một trong những đặc thù của giáo trình đào tạo đại học luật. Các qui định của pháp luật và thực tiễn Việt Nam có nhiều nét riêng độc đáo xuất phát từ điều kiện tự nhiên, lịch sử và chính trị, từ trình độ phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội… của Việt Nam. Vì vậy, trong quá trình biên soạn giáo trình, các tác giả đã cố gắng bám sát các quy định của pháp luật thực định nhằm tạo ra cơ sở lý luận giúp cho người học có thể vận dụng những kiến thức đã học để giải quyết những vấn đề từ thực tiễn. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đã nghiên cứu, tham khảo, học tập kinh nghiệm nước ngoài, so sánh, đối chiếu để tìm ra những nét tương đồng, những điểm khác biệt nhằm mở rộng tầm hiểu biết và phần nào học tập kinh nghiệm nước ngoài cho người học. Chính vì vậy, trong giáo trình phần nội dung so sánh đã được đề cập đến ở những mức độ nhất định.

Đảm bảo sự thống nhất giữa các phần khác nhau trong một giáo trình cũng như sự thống nhất giữa các giáo trình của các môn học hoặc các học phần khác nhau của cùng một hệ đào tạo. Trong hệ thống các giáo trình được sử dụng trong việc đào tạo đại học luật, các tác giả khi biên soạn cũng đã tham khảo, nghiên cứu các giáo trình khác nhau trong một hệ thống để đảm bảo các nội dung được trình bày về cùng một vấn đề trong các giáo trình của các môn học khác nhau không bị mâu thuẫn, không bị lặp lại nhằm tạo được tính hấp dẫn của các giáo trình cũng như đảm bảo được tính thống nhất trong việc thực hiện chương trình đào tạo đại học luật đáp ứng đòi hỏi của thực tế.

Những hạn chế của các giáo trình đào tạo đại học luật

Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong các giáo trình đào tạo đại học luật đã được nêu ở trên, các giáo trình cũng còn có những hạn chế cần khắc phục để đáp ứng một cách tốt hơn yêu cầu của việc đào tạo đại học luật trong điều kiện hiện nay:

Thứ nhất, về nội dung giáo trình.

+ Trong một số giáo trình đang được sử dụng phổ biến hiện nay, những vấn đề mang tính chất lý luận cơ bản của một lĩnh vực khoa học pháp lý chưa được trình bày để độ đạt tới sự tự hình thành phương pháp luận khoa học và tư duy khoa học trong nhận thức và phân tích các vấn đề về nhà nước, pháp luật và chưa tạo ra được khả năng vận dụng lý luận vào việc giải quyết những vấn đề cụ thể của thực tiễn. Một vài chương trong một số giáo trình đôi khi còn dàn trải, ôm đồm, chưa cô đọng, súc tích hoặc còn nặng giải thích các quy định của pháp luật thực định mà nhẹ về mặt khái quát lý luận để đưa ra những kết luận, quan điểm khoa học cần thiết ở tầm phương pháp luận. Chẳng hạn, các giáo trình Luật dân sự hiện nay của các cơ sở đào tạo đại học luật là Trường Đại học Luật Hà Nội, Viện Đại học mở Hà Nội và Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội vẫn thiết kế theo các giáo trình của Liên Xô trước đây mặc dầu đã hướng theo luật thực định của Việt Nam, phần lớn vẫn chỉ giải thích luật thực định mà chưa tập hợp các quan điểm về các vấn đề lý luận trong Luật dân sự, chưa có định hướng rõ nét cho người học hướng nghiên cứu chuyên sâu, thật sự cũng chưa trở hành cẩm nang cho người học, người tìm hiểu pháp luật; hoặc trong là các chương thuộc giáo trình luật hình sự - Phần các tội phạm, phần kiến thức này ở một số chương mới chỉ thiên về giải thích luật thực định thiếu những vấn đề lý luận mang tính chất khoa học; tương tự như vậy, các giáo trình luật hiến pháp của chúng ta nặng về phân tích pháp luật thực định, thiếu tính chất gợi mở và tranh luận khoa học. Giáo trình chưa phải là chiếc cầu nối kiến thức giữa quá khứ và hiện tại, trong nước và nước ngoài, chưa thể hiện được những quan điểm khác nhau hết sức đa dạng, phong phú trên nhiều lĩnh vực, nhiều bình diện của khoa học luật hiến pháp đương đại.

+ Một số giáo trình còn thiếu sự cân đối giữa tính chất lý luận với thực tiễn và khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn. Nói cách khác, còn không ít chỗ nặng về lý luận kinh viện, nhẹ về lý luận thực hành, nghĩa là lý luận mang hơi thở cuộc sống sinh động, có khả năng đem đến cho người ta sự nhận thức liên tưởng thực tiễn cao, từ đó hình thành và bồi dưỡng năng lực vận dụng linh hoạt và sáng tạo lý luận vào thực tiễn để giải quyết những vấn đề cụ thể của thực tiễn.         

+ Trong một số giáo trình, có một số vấn đề lý luận chưa được xem xét phân tích một cách thấu đáo cho phù hợp với thực tiễn do sự biến đổi của thực tiễn và sự phát triển của khoa học pháp lý, các khoa học khác có liên quan ở trong và ngoài nước, như một số khái niệm trong giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật như chức năng nhà nước; tính chất giai cấp và tính chất xã hội của nhà nước; tính chất giai cấp, tính chất xã hội, các chức năng của nhà nước tư sản đương đại; pháp điển hóa; trách nhiệm pháp lý;… Bên cạnh đó, cũng có những vấn đề mới của khoa học pháp lý trong điều kiện hiện nay cần đưa vào nội dung giảng dạy nhưng chưa làm được việc đó, như nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta; vai trò của nhà nước và pháp luật trong xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa hiện nay; hành vi pháp lý; văn hóa pháp lý; ở một vài giáo trình, một số kiến thức trong giáo trình là kiến thức cũ của thời kỳ nước ta theo cơ chế hành chính bao cấp, thiếu thông tin và cách nhìn nhận thiếu khách quan do quan điểm chủ quan duy ý chí. Vì vậy một vài chương, đoạn trong giáo trình còn mang tính chất sáo rỗng, xa rời thực tế, học viên không thể tiếp thu được hoặc tiếp thu theo quan điểm của người dạy một cách gượng ép.

+ Xét về cấu trúc nội dung, các giáo trình chưa tuân thủ triệt để các nguyên tắc chung về xây dựng cấu trúc nội dung của giáo trình. Trong đó có biểu hiện chưa thể hiện rõ nguyên tắc tổ chức nội dung giáo trình theo các khối kiến thức khác nhau (khối kiến thức cốt lõi, khối kiến thức hữu ích và khối kiến thức bổ trợ). Một số chương trong các giáo trình mới chỉ tập trung chủ yếu vào khối kiến thức cốt lõi mà thiếu khối kiến thức hữu ích và khối kiến thức bổ trợ. Trái lại, ở một số giáo trình cũng có biểu hiện mở rộng phạm vi khối kiến thức hữu ích và khối kiến thức bổ trợ ở một số nội dung.

+ Một số giáo trình chưa thể hiện được "tính mở" do còn đóng khung trong quan điểm được coi là chính thống, ít có sự so sánh, phê phán. Bên cạnh đó, tính kế thừa trong các chương của giáo trình cũng chưa được chú ý đúng mực. Do vậy, có sự lặp lại kiến thức thể hiện ở chỗ có nhiều nội dung chỉ là sự cụ thể hóa một cách đơn giản những kiến thức đã được đề cập ở các chương trước. Những hạn chế này có thể gây nhàm chán cho sinh viên, không tạo ra động lực thúc đẩy sinh viên tìm tòi, nghiên cứu…

- Đối với hình thức giáo trình.

+ Một số giáo trình có kết cấu chưa thật sự hợp lý, thiếu cơ sở khoa học và không bảo đảm được tính liên thông với các môn học pháp lý khác có mối quan hệ trực tiếp. Chẳng hạn, một số nội dung trong giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật thiếu sự liên thông với các khoa học pháp lý khác như Lịch sử nhà nước và pháp luật, Luật hiến pháp. Ví dụ, phần một của giáo trình là "Những khái niệm chung" (trong đó có cả bài nhập môn và chỉ bao gồm một số khái niệm về nhà nước, pháp luật mà còn thiếu những khái niệm khác về pháp luật bảo đảm sự liên thông với các môn học khác). Hơn nữa, trong một số giáo trình hiện nay còn một số điểm thiếu thống nhất giữa một số chương về cách tiếp cận, giới hạn phạm vi thuật ngữ…; chẳng hạn, Luật Hành chính, Luật Tố tụng hành chính và môn Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo có một số thuật ngữ tương tự nhưng được dùng với giới hạn phạm vi không hoàn toàn giống nhau.

+ Văn phạm và kỹ thuật hành văn còn một số hạn chế ở những đoạn, chỗ khác nhau, cụ thể là: câu, chữ, lời văn chưa thật sự đúng ngữ pháp tiếng Việt Nam, còn cầu kỳ, phức tạp, dài, khó hiểu; lời văn (văn phong) chưa thật sáng sủa, chưa có tính khoa học và lôgíc cao; chưa nêu được ý nghĩa, tầm quan trọng về lý luận và thực tiễn của vấn đề được trình bày; hoặc đưa ra ngay khái niệm mà không lập luận cơ sở khoa học của nó, hoặc có lập luận cơ sở khoa học rồi mới đưa ra khái niệm nhưng cơ sở khoa học đó không vững chắc và thiếu sức thuyết phục; hoặc không đưa ra khái niệm và phân tích nội dung khái niệm; chưa kết hợp phân tích, giải thích với việc đưa ra luận điểm, kết luận mà nhiều khi chỉ đưa ra quan điểm, kết luận mà không giải thích; chưa có dẫn chứng thực tế khi phân tích, giải thích vấn đề; hoặc nói chung chung hoặc quá chi tiết mà không nêu được dẫn chứng cụ thể; ít chứa đựng những thông tin thực tế cần thiết.

+ Một số giáo trình còn thiếu các phần cần thiết của giáo trình như tài liệu tham khảo, hoặc danh mục các tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu sâu hơn. Chẳng hạn, các bộ giáo trình Luật hình sự Việt Nam đều thiếu một số phần, trong đó có các phần đáng chú ý là danh mục sách tham khảo phục vụ việc tự học, tự nghiên cứu sâu hơn của sinh viên (danh mục sách tham khảo chung cho cả giáo trình cũng như danh mục sách tham khảo ở cuối mỗi chương thuộc phần nội dung chính của giáo trình) và các câu hỏi phục vụ thảo luận sau mỗi chương của giáo trình…

Nguyên nhân của tình trạng trên có thể được khái quát ở một số điểm cơ bản sau:

 Thứ nhất, trong quá trình biên soạn các giáo trình còn còn thiếu hệ các tiêu chí chuẩn để đánh giá, xác định vấn đề nào là cơ bản để đưa vào nội dung giáo trình, điều đó dẫn đến tình trạng là việc đưa vấn đề này hay vấn đề kia vào nội dung giáo trình với liều lượng bao nhiêu chủ yếu đều do người viết giáo trình quyết định. Chính vì điều đó nên những người biên soạn giáo trình không xác định được rõ ràng các khối kiến thức khi chuẩn bị cũng như khi thực hiện việc biên soạn giáo trình.

Thứ hai, các chương trình đào tạo đại học luật luôn có những thay đổi về kết cấu của từng học phần, từng môn học cũng như thời lượng của mỗi môn, vì vậy, việc biên soạn một bộ giáo trình phù hợp với những thay đổi đó không phải dễ dàng.

Thứ ba, các cơ sở đào tạo luật ở nước ta hiện nay đều phải đảm nhiệm việc đào tạo cán bộ pháp lý ở bậc đại học với các hình thức khác nhau. Bên cạnh đó, các học viên lại có những đặc điểm khác nhau về tuổi tác, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm việc… Vì thế, việc xây dựng một bộ giáo trình phù hợp với tất cả các đối tượng không phải là một công việc đơn giản.

Thứ tư, chưa có những quy định bắt buộc có tính thống nhất về cấu trúc hình thức của một cuốn giáo trình. Vì vậy, các phần trong các giáo trình khác nhau được các tác giả khác nhau biên soạn thường phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người biên soạn cũng như của chủ biên. Điều đó đã dẫn tới tình trạng ngay trong một cơ sở đào tạo, giáo trình của các môn học khác nhau nhưng có hình thức cấu trúc khác nhau. Chẳng hạn, có giáo trình có phần danh mục tài liệu tham khảo, có giáo trình không có; hoặc có giáo trình có phần câu hỏi thảo luận, nhưng cũng có giáo trình không có.

Thực trạng trên đặt ra vấn đề cần phải xây dựng một bộ giáo trình chuẩn phục vụ cho việc đào tạo cử nhân luật phù hợp với điều kiện ở nước ta hiện nay.

 

 

Phần thứ ba

MỤC TIÊU, YÊU CẦU VÀ QUAN ĐIỂM
XÂY DỰNG MỘT SỐ GIÁO TRÌNH CHUẨN
CỦA MỘT SỐ MÔN HỌC ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC LUẬT

 

3.1. Xây dựng giáo trình chuẩn cho môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật

Mục tiêu của giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật là cung cấp cho người học những kiến thức chung cơ bản nhất, quan trọng nhất về nhà nước và pháp luật, tạo cơ sở, nền tảng nhận thức đúng đắn và khoa học để họ tiếp tục học tập các môn học pháp lý khác. Nói cách khác, giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật trang bị cho sinh viên cơ sở phương pháp luận, phương pháp tư duy khoa học về các vấn đề chung mang tính lý luận và thực tiễn của nhà nước và pháp luật, nhờ đó mới có thể tiếp tục đi sâu tìm hiểu và nhận thức những vấn đề cụ thể của nhà nước và pháp luật.

Yêu cầu

Việc đổi mới nội dung của giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật cũng nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Tuy vậy, nội dung của giáo trình mới của môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật cần bảo đảm các yêu cầu sau đây: 

+ Tính khoa học. Tính khoa học của nội dung giáo trình được thể hiện ở chỗ: toàn bộ khối lượng kiến thức trong giáo trình là những thành quả nghiên cứu đã được thực tế kiểm nghiệm của khoa học Lý luận về nhà nước và pháp luật và của các khoa học khác có liên quan, trước hết là các khoa học pháp lý chuyên ngành và các khoa học pháp lý ứng dụng, bao gồm đối tượng và phạm vi nghiên cứu; cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu cụ thể; hệ thống các khái niệm và phạm trù cơ bản; những phân tích, đánh giá, luận điểm, kết luận khoa học về những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của nhà nước và pháp luật. Những kết quả nghiên cứu khoa học pháp lý được đưa vào trong nội dung giáo trình còn chứa đựng một phần hợp lý nội dung của pháp luật thực định có liên quan trực tiếp tới từng bài giảng. Qua khảo sát, điều tra 100 giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội thì 79 người (chiếm 79%) cho rằng phải truyền đạt các tri thức của khoa học pháp lý có kết hợp một phần với nội dung pháp luật thực định chứ không phải chỉ thuyết giảng nội dung pháp luật thực định.

+ Tính cơ bản. Trong nội dung giáo trình chỉ đề cập những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất trong toàn bộ các vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu của khoa học Lý luận về nhà nước và pháp luật và đối với các vấn đề đó cũng chỉ trình bày một lượng kiến thức nhất định phù hợp với mục tiêu đào tạo cử nhân luật học nói chung, yêu cầu, nhiệm vụ, mục đích, đối tượng và thời lượng của môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật nói riêng. Khối lượng kiến thức này có tính bắt buộc phải tích lũy đối với mọi sinh viên luật, có tác dụng hình thành ở họ cơ sở nhận thức khoa học và phương pháp tư duy khoa học về các vấn đề cơ bản của nhà nước, pháp luật, trên cơ sở đó sinh viên mới có thể tiếp tục đi sâu học tập các môn học pháp lý khác.

+ Tính toàn diện. Các vấn đề cơ bản của nhà nước và pháp luật được phân tích, mổ xẻ, đánh giá đầy đủ cả về nội dung lẫn hình thức. Chẳng hạn, để hiểu được bản chất của nhà nước thì trước hết phải nêu ý nghĩa và tầm quan trọng về lý luận và thực tiễn của vấn đề bản chất của nhà nước; mối quan hệ giữa bản chất của nhà nước với nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động, chức năng, bộ máy, hình thức, phương pháp hoạt động của nhà nước. Sau đó định nghĩa khái niệm bản chất trong triết học và "bản chất nhà nước" trong khoa học lý luận về nhà nước và pháp luật; nêu và phân tích các nhân tố quyết định nhất (ảnh hưởng quyết định nhất) tới bản chất nhà nước là cơ sở kinh tế - xã hội, những biểu hiện bản chất nhà nước (tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước), mối quan hệ của nhà nước với kinh tế, chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hóa; định nghĩa khái niệm nhà nước.

+ Tính thiết thực. Tính thiết thực trong nội dung giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật thể hiện ở chỗ: toàn bộ kiến thức trong đó đều được chắt lọc ra, được chưng cất từ sự phân tích, đánh giá một cách sâu sắc, khoa học, toàn diện đời sống thực tiễn xã hội nói chung và thực tiễn đời sống nhà nước và đời sống pháp luật nói riêng; các kiến thức ấy, về cơ bản, đã được kiểm định qua một thời gian nhất định, đủ khẳng định tính đúng đắn và tính khoa học của chúng; những kiến thức ấy không chỉ có tác dụng hình thành, nâng cao nhận thức tư tưởng, tư duy khoa học, phương pháp phân tích, đánh giá các vấn đề lý luận và thực tiễn của nhà nước và pháp luật, mà còn có khả năng giúp người học tự học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ lý luận và khả năng vận dụng lý luận vào việc giải quyết những vấn đề thực tiễn; các kiến thức ấy phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

+ Tính hiện đại. Tính hiện đại của nội dung giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật thể hiện ở chỗ: nó luôn chứa đựng những tri thức khoa học là những thành quả nghiên cứu mới nhất của khoa học Lý luận về nhà nước và pháp luật và các khoa học pháp lý, của khoa học chính trị và các khoa học khác có liên quan ở trong nước và ngoài nước và đã được thực tế kiểm nghiệm; nội dung phù hợp với nội dung của những văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực thi hành; phản ánh và phù hợp với đời sống xã hội hiện tại ở trong và ngoài nước.

+ Tính liên thông với các môn học pháp lý khác. Tính liên thông của giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật với các môn học pháp lý khác thể hiện ở chỗ: một bộ phận kiến thức hoặc phần lớn kiến thức quan trọng nhất, cơ bản nhất, trước hết là những kiến thức về các khái niệm chung, cơ bản của khoa học Lý luận về nhà nước và pháp luật phải được truyền đạt tới sinh viên trước khi họ học tập các môn học pháp lý khác, đặc biệt là các môn học pháp lý kề cận như Lịch sử nhà nước và pháp luật, Luật hiến pháp, Luật hành chính, v.v… Ví dụ: sinh viên phải học các khái niệm chung, cơ bản về nhà nước và pháp luật trước khi học các môn học pháp lý chuyên ngành, như bản chất pháp luật, hình thức pháp luật, quy phạm pháp luật, chế định pháp luật, ngành luật, hệ thống pháp luật,…

Quan điểm

Từ mục tiêu của giáo trình dẫn tới những yêu cầu cụ thể của giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật.

Thứ nhất, giáo trình phải trình bày một cách có chọn lọc những tri thức khoa học tinh túy nhất trong hệ thống tri thức của khoa học Lý luận về nhà nước và pháp luật vừa trang bị kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật phù hợp với mục tiêu chương trình đào tạo vừa tạo cơ sở cho việc mở rộng kiến thức của khoa học lý luận về nhà nước và pháp luật.

Thứ hai, giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật phải đáp ứng được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển từ phương pháp "độc thoại một chiều" sang phương pháp "đồng thoại hai chiều", nhằm phát huy tinh thần chủ động và sáng tạo của sinh viên trong học tập.

Thứ ba, giáo trình phải hỗ trợ được việc học tập chủ động, sáng tạo và phát huy tư duy trừu tượng, tư duy lôgíc trong việc tiếp nhận kiến thức và vận dụng kiến thức để luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhà nước và pháp luật.

Nội dung

Xuất phát từ tính chất, mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nhiệm vụ, mục đích, đối tượng, thời lượng của môn học, có thể xác định được nội dung cụ thể của giáo trình môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật. Nội dung đó không thể bao quát hết toàn bộ những vấn đề về nhà nước và pháp luật thuộc đối tượng nghiên cứu của khoa học Lý luận về nhà nước và pháp luật đề cập, mà chỉ bao gồm những vấn đề cơ bản nhất và quan trọng nhất của nhà nước và pháp luật mà thôi. Nói cách khác, nội dung đó chỉ bao gồm một khối lượng kiến thức cơ bản về các vấn đề quan trọng nhất và cơ bản nhất của nhà nước và pháp luật.

Những vấn đề cơ bản đó là:

+ Những khái niệm chung của nhà nước và pháp luật, gồm: nguồn gốc nhà nước, bản chất nhà nước, chức năng nhà nước, bộ máy nhà nước, hình thức nhà nước, kiểu nhà nước; nguồn gốc pháp luật, bản chất pháp luật, chức năng của pháp luật, hình thức pháp luật, kiểu pháp luật, quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật, thực hiện pháp luật, vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lý, ý thức pháp luật, pháp chế và trật tự pháp luật.

+ Các kiểu nhà nước trong lịch sử, gồm: nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa.

+ Các kiểu pháp luật trong lịch sử, gồm: pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản, pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Với những nội dung cụ thể đó, giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật nên được cấu trúc như sau:

Cấu trúc nội dung của giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật gồm bài nhập môn và ba phần. Việc phân chia các chương, mục cụ thể phụ thuộc vào nội dung từng phần và từng vấn đề được đề cập.

+ Bài nhập môn cung cấp cho sinh viên những kiến thức chủ yếu về Lý luận về nhà nước và pháp luật nhằm đạt được hai mục đích - một là: sinh viên nhận thức được Lý luận về nhà nước và pháp luật là môn khoa học pháp lý cơ sở, nền tảng, mang tính phương pháp luận cho các khoa học pháp lý khác (các khoa học pháp lý chuyên ngành và các khoa học pháp lý ứng dụng), qua đó thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa khoa học Lý luận về nhà nước và pháp luật với các khoa học pháp lý khác; hai là: nhận thức được nhiệm vụ, mục đích, yêu cầu của môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật, trên cơ sở đó cũng thấy được mối quan hệ giữa môn học này với các môn học pháp lý khác.

+ Nhiệm vụ, mục đích của Phần một là cung cấp những kiến thức cơ bản về các khái niệm chung của nhà nước và pháp luật nhằm hình thành ở sinh viên nền tảng nhận thức để tiếp tục đi sâu học tập, nghiên cứu các vấn đề cụ thể của lý luận và thực tiễn nhà nước và pháp luật. Yêu cầu về mặt kỹ thuật thể hiện nội dung ở đây là phải bảo đảm được tính khoa học, tính chính xác, tính cô đọng và tính lôgíc. Các khái niệm chung về nhà nước và pháp luật cần được trình bày ở phần này gồm: nguồn gốc nhà nước, bản chất nhà nước, chức năng nhà nước, bộ máy nhà nước, hình thức nhà nước, kiểu nhà nước, nguồn gốc pháp luật, bản chất pháp luật, chức năng của pháp luật, hình thức pháp luật, kiểu pháp luật, quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật, thực hiện pháp luật, vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lý, ý thức pháp luật, pháp chế và trật tự pháp luật.

+ Phần hai cung cấp những kiến thức cơ bản về bốn kiểu nhà nước trong lịch sử là nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu về kỹ thuật thể hiện nội dung ở đây là vừa bảo đảm được tính lý luận sâu sắc, vừa mang tính thực tiễn cao, tránh lội sang khoa học Lịch sử nhà nước và pháp luật. Nội dung của phần này gồm các vấn đề chủ yếu sau: sự ra đời, bản chất, chức năng, bộ máy, hình thức của nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa (có liên hệ vào Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); nhà nước trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa (có liên hệ vào Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (có liên hệ vào Việt Nam hiện nay).

+ Phần ba cung cấp những kiến thức cơ bản về bốn kiểu pháp luật trong lịch sử là pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu về kỹ thuật thể hiện nội dung trong phần này là vừa phải bảo đảm được tính lý luận cao, vừa có tính thực tiễn phong phú, không nhảy sang khoa học Lịch sử nhà nước và pháp luật. Những vấn đề chủ yếu cần được trình bày ở đây là: sự ra đời, bản chất, đặc điểm, hình thức, vai trò của pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa (có liên hệ vào pháp luật Việt Nam hiện nay); xây dựng pháp luật, hệ thống hóa pháp luật và giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay; ý thức pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay; pháp chế, trật tự pháp luật và tăng cường pháp chế, bảo vệ trật tự pháp luật ở Việt Nam hiện nay;…

3.2. Xây dựng giáo trình chuẩn cho môn học Luật hành chính

Mục tiêu:

- Giới thiệu cho người học những kiến thức cơ bản nhất về Luật Hành chính và Khoa học Luật Hành chính và kỹ năng vận dụng kiến thức đã học được để giải quyết những tình huống cụ thể trong quan hệ xã hội và trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.

Mục tiêu của chương trình môn học Luật hành chính không chỉ là cung cấp cho người học kiến thức cơ bản về Luật hành chính và Khoa học Luật Hành chính nhằm giúp họ tiến hành hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, xây dựng pháp luật… được thuận lợi mà còn tạo cho người học khả năng vận dụng những điều đã học được vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước, đảm bảo cho hoạt động này được tiến hành đúng mục đích mà pháp luật đặt ra, đồng thời trang bị cho họ khả năng tham gia một cách chủ động và hiệu quả vào các quan hệ pháp luật hành chính.

- Định hướng tự học, tự nghiên cứu, phát triển, mở rộng.

Xu hướng phổ biến hiện nay là người học không chỉ dừng lại ở việc hoàn tất chương trình đại học. Nhiều người có nguyện vọng học tiếp ở những bậc học cao hơn, nhiều người có khả năng và điều kiện để tiến hành hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, quản lý… Chính vì vậy, một trong những mục tiêu quan trọng của việc xây dựng giáo trình Luật Hành chính là cung cấp cho người học kiến thức và kỹ năng cần thiết để tiến hành hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, quản lý; khiến họ cảm thấy yêu thích môn học này và tạo cho họ khả năng và điều kiện đóng góp tích cực vào sự phát triển của khoa học Luật Hành chính.

- Hiện đại hóa giáo trình, chuẩn hóa hệ thuật ngữ.

Giáo trình hiện hành còn mang dấu ấn của chế độ quản lý tập trung, một số nội dung chậm được hiện đại hóa, việc cập nhật kiến thức hiện đại và qui định mới không phải lúc nào cũng kịp thời. Hệ thuật ngữ Luật Hành chính vẫn được coi là yếu tố kém phát triển nhất trong các yếu tố hợp thành khoa học Luật Hành chính và chưa nhận được sự quan tâm đầy đủ của nhà lập pháp cũng như của các nhà giáo, các nhà khoa học công tác trong lĩnh vực này. Chính vì vậy mà hiện đại hóa giáo trình và chuẩn hóa hệ thuật ngữ là một trong những mục tiêu quan trọng của việc xây dựng giáo trình chuẩn.

Yêu cầu:

- Xây dựng được một giáo trình phù hợp để phục vụ các đối tượng là những người theo học bậc đại học thuộc tất cả các hệ đào tạo. Hiện nay, đào tạo đại học luật ở các cơ sở đào tạo đại học luật ở Việt Nam đang được tiến hành dưới những hình thức khác nhau như chính qui, tại chức, văn bằng II, hoàn thiện kiến thức… Người học thuộc các hệ đào tạo khác nhau có mặt bằng văn hóa phổ thông và văn hóa chuyên môn khác nhau; khả năng tiếp thu kiến thức và tiếp nhận cái mới khác nhau; thời gian và tâm sức dành cho việc học khác nhau, mục đích học tập và những kiến thức họ cần không hoàn toàn giống nhau. Sinh viên hệ chính qui dài hạn có sức trẻ, tiếp thu nhanh, có nhiều thời gian dành cho việc học nhưng lại thiếu kiến thức xã hội là điều rất quan trọng để có thể nhận thức một cách toàn diện và đầy đủ về khoa học pháp lý. Học viên tại chức có nền kiến thức xã hội khá tốt, tuy nhiên họ bị chi phối bởi công việc, gia đình và khả năng tiếp nhận kiến thức mới giảm do tuổi tác và tính bảo thủ. Học viên hệ hoàn thiện kiến thức cũng gặp những khó khăn tương tự học viên tại chức. Bên cạnh đó, do khoa học pháp lý nói chung và khoa học luật hành chính nói riêng phát triển khá nhanh trong thời gian gần đây nên việc cập nhật kiến thức mới, nhất là những yếu tố hiện đại, đối với học viên hệ hoàn thiện kiến thức không phải là dễ dàng. Tất cả những điều đó cho thấy việc xây dựng một giáo trình chung phù hợp với tất cả các đối tượng khác nhau là việc rất cần thiết nhưng không đơn giản.

- Xây dựng được một giáo trình có tính chất gợi mở để người học có thể tiếp thu kiến thức và tự học, tự nghiên cứu trong điều kiện thời gian lên lớp giảm nhiều mà nội dung cần chuyển tải không giảm.

 Thời lượng dành cho môn học Luật Hành chính tại Trường Đại học Luật Hà Nội lúc cao nhất là 160 tiết (120 tiết cho phần chung và 40 tiết cho phần riêng). Theo chương trình hiện nay (Chương trình khung giáo dục đại học ngành luật được ban hành kèm theo Quyết định số 29/2005/QĐ-BGD&ĐT ngày 16 tháng 9 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) thì thời lượng dành cho phần chung bị cắt giảm rất nhiều (từ 120 tiết xuống còn 75 tiết). Điều này là một bất hợp lý lớn bởi môn học Luật Hành chính là một môn học khó và không mấy hấp dẫn, với thời lượng giảm tới hơn 1/3 mà nội dung không giảm thì không chỉ người học khó tiếp thu mà cả người dạy cũng rất vất vả trong quá trình chuyển tải kiến thức. Điều đó đòi hỏi xây dựng một giáo trình chứa đựng đầy đủ kiến thức cần thiết và dễ hiểu để người học có thể căn cứ vào đó mà tự học và nghiên cứu thêm về những nội dung mà giáo viên không có thời gian giới thiệu trên lớp.

Nguyên tắc:

Việc xây dựng giáo trình Luật Hành chính cần được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc chủ đạo sau đây:

 - Kế thừa có chọn lọc những kết quả mà quá trình xây dựng giáo trình 25 năm qua đem lại.

25 năm qua việc xây dựng giáo trình Luật Hành chính luôn được nhà trường dành cho sự quan tâm đầy đủ. Kết quả cũng đáng khích lệ: trường Đại học Luật Hà Nội là cơ sở đào tạo luật duy nhất ở Việt Nam đưa được nội dung phần riêng của Luật Hành chính vào giảng dạy. Kết quả này cũng được thể hiện trong Giáo trình thứ tư ấn hành năm 2000 và liên tục tái bản cho đến nay. Việc xây dựng giáo trình chuẩn không thể bỏ qua yếu tố này và phải được tiến hành theo phương châm kế thừa có chọn lọc những thành quả của quá trình xây dựng giáo trình 25 năm qua.

 - Cân đối giữa trang bị kiến thức lý luận và khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn.

Giáo trình Luật Hành chính phải khác giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật và giáo trình Luật Hiến pháp. Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật mang nặng chất lý luận bởi nó có nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp cho người học, người đọc kiến thức lý luận về nhà nước và pháp luật. Luật Hành chính nhiều năm trước đây được coi là một phân ngành của Luật Hiến pháp (và hiện nay ở một số nước vẫn còn có những tác giả quan niệm như vậy) nên việc hai môn học này cùng đề cập đến một số vấn đề chung là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, ở những khía cạnh chung này thì giáo trình Luật Hiến pháp giới thiệu những vấn đề mang tính chất cơ bản và bao trùm, còn giáo trình Luật Hành chính thì giới thiệu những nội dung cụ thể trong quản lý hành chính nhà nước nên việc cân đối giữa trang bị kiến thức lý luận và khả năng vận dụng chúng trong thực tiễn là điều rất quan trọng và làm cho nó khác với giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật cũng như giáo trình Luật Hiến pháp.

- Bám sát qui định pháp luật và thực tiễn Việt Nam, có so sánh, đối chiếu pháp luật và thực tiễn nước ngoài.

Qui định của pháp luật và thực tiễn Việt Nam có nhiều nét riêng độc đáo xuất phát từ điều kiện tự nhiên, lịch sử và chính trị, từ trình độ phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội… của Việt Nam. Tuy nhiên cũng còn nhiều vấn đề ta còn lúng túng trong cách đặt vấn đề cũng như giải quyết chúng. Việc nghiên cứu, tham khảo, học tập kinh nghiệm nước ngoài, so sánh, đối chiếu để tìm ra những nét tương đồng, những điểm khác biệt nhằm mở rộng tầm hiểu biết và phần nào học tập kinh nghiệm nước ngoài cho người học là cần thiết. Chính vì vậy, trong giáo trình phần nội dung so sánh cần được dành một tỉ lệ thích đáng.

- Đảm bảo sự thống nhất giữa các phần khác nhau của giáo trình cũng như sự thống nhất giữa giáo trình Luật Hành chính với các giáo trình liên quan như giáo trình Luật Tố tụng hành chính, giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo…

Trong giáo trình hiện nay còn một số điểm thiếu thống nhất giữa một số chương về cách tiếp cận, giới hạn phạm vi thuật ngữ …; mặt khác, Luật Hành chính, Luật Tố tụng hành chính và môn Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo có một số thuật ngữ tương tự nhưng được dùng với giới hạn phạm vi không hoàn toàn giống nhau nên đảm bảo sự thống nhất giữa các chương của giáo trình và giữa các giáo trình liên quan là một trong những nguyên tắc xây dựng giáo trình chuẩn.

Qua quá trình phát triển của khoa học pháp lý nước ta, nội dung môn học Luật Hành chính không ngừng được đổi mới và hoàn thiện. Việc đổi mới và hoàn thiện chương trình giảng dạy môn học Luật Hành chính trong những năm qua đã được tiến hành theo phương hướng nhất quán là:

- Xây dựng chương trình giảng dạy ngày càng đầy đủ hơn, toàn diện hơn;

- Chuẩn hóa dần từng bước, đặc biệt là việc xây dựng các khái niệm cũng như hệ thuật ngữ;

-     Hiện đại hóa và cập nhật thường xuyên.

Việc xây dựng và hoàn thiện giáo trình, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, còn gặp không ít khó khăn. Các qui định không những thiếu, không đồng bộ mà còn luôn bị thay đổi đòi hỏi việc chỉnh lý, bổ sung, sửa đổi giáo trình phải được tiến hành thường xuyên. Việc giải quyết mâu thuẫn giữa thời lượng bị cắt giảm mạnh và nội dung cần chuyển tải không những không giảm mà còn tăng với những đòi hỏi cao hơn là một bài toán khó. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ cao, có kinh nghiệm và chuyên tâm nghiên cứu khoa học, chịu khó viết còn quá mỏng. Tính bảo thủ, ngại đổi mới, ngại việc trong một số người cũng tạo nên những trở ngại nhất định.

Các phương án xây dựng giáo trình Luật Hành chính

Có thể tiến hành xây dựng giáo trình Luật Hành chính theo một trong hai phương án sau đây:

* Phương án thứ nhất là phương án xây dựng giáo trình với kết cấu đúng như chương trình khung qui định, tức là chỉ giới hạn trong việc giới thiệu phần chung của Luật Hành chính và trình bày các vấn đề theo đúng trật tự đã được ghi nhận ở chương trình khung.

Theo phương án này sẽ có những thay đổi lớn sau đây:

- Phần "Quy phạm và quan hệ pháp luật hành chính" sẽ được tách khỏi chương I để tạo thành một chương độc lập. Việc thực hiện thay đổi này là để đảm bảo sự phù hợp với kết cấu chương trình khung chứ bản thân những người đã và đang tham gia giảng dạy môn học này cho rằng chỉ nên để thành một phần trong chương I bởi trong chương trình môn Lí luận về Nhà nước và Pháp luật đã có riêng một chương về quy phạm pháp luật, một chương về quan hệ pháp luật và một chương về việc thực hiện và áp dụng pháp luật. Trong chương trình môn học Luật Hành chính (thông thường được giảng sau môn Lý luận), chỉ cần giới thiệu cho người học những đặc thù của quy phạm và quan hệ pháp luật hành chính mà thôi. Theo chương trình khung thì chương I sẽ mang tên gọi mới là "Luật Hành chính và Quản lý nhà nước". Tên gọi này nhấn mạnh mối quan hệ giữa Luật Hành chính và Quản lý nhà nước, tuy nhiên nó không bao hàm đầy đủ bằng "Những vấn đề chung của Luật Hành chính" bởi nội dung của chương này không chỉ là mối quan hệ giữa Luật Hành chính và Quản lý nhà nước mà rộng hơn rất nhiều (như đã phân tích ở phần trên).

- Chương IV theo chương trình khung có tên là "Vi phạm hành chính và trách nhiệm hành chính" và được chuyển xuống vị trí thứ 11 trong chương trình giảng dạy. Nếu xét riêng về nội dung thì việc thay phần "Xử lý vi phạm hành chính" bằng "Trách nhiệm hành chính" là hợp lý bởi khái niệm trách nhiệm hành chính rộng hơn khái niệm vi phạm hành chính và việc giảng dạy về trách nhiệm hành chính là cần thiết (trước đây chương trình cũng đã từng được thiết kế với nội dung này). Tuy nhiên, việc chuyển vị trí như vậy chưa hẳn là hợp lý bởi trước đây chương này được đặt sau chương "Hình thức và phương pháp quản lý hành chính nhà nước" là do nội dung hai chương có liên quan mật thiết với nhau, chương sau là sự phát triển một nội dung quan trọng của chương trước (cưỡng chế hành chính). Thực hiện chương trình theo trình tự như vậy người học sẽ dễ tiếp thu hơn và việc giảng dạy cũng được liền mạch hơn.

- Chương XII theo chương trình khung có tên là "Những biện pháp bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước". Khái niệm "biện pháp bảo đảm pháp chế" là khái niệm rất rộng và không sát với nội dung đang được giảng dạy tại trường cũng như thời lượng dành cho chương này (03 tiết), bởi trong chương trình hiện nay chỉ giới thiệu cho người học về những biện pháp bảo đảm pháp lý mà thôi. Điều này được rút ra từ kinh nghiệm 25 năm nghiên cứu và giảng dạy môn học Luật hành chính tại trường, trước đây đã có lúc chương này được đặt tên như thế nhưng sau đó phải thêm hai từ "pháp lý "để giới hạn nội dung và đảm bảo sự chính xác.

* Phương án thứ hai là xây dựng giáo trình căn cứ vào chương trình khung với những thay đổi nhất định đúc kết từ thực tiễn giảng dạy và học tập môn học Luật Hành chính tại Trường Đại học Luật Hà Nội những năm qua.

Theo phương án này sẽ có những điểm đáng chú ý sau đây:

- Về kết cấu giáo trình sẽ giữ nguyên kết cấu của giáo trình thứ tư, tức là một giáo trình Luật Hành chính tương đối đầy đủ gồm hai phần chung và riêng.

Nội dung Luật Hành chính bao gồm hai phần chung và riêng và trong tất cả các cơ sở có đào tạo luật ở Việt Nam thì chỉ riêng Trường Đại học Luật Hà Nội là đưa được một phần của Luật Hành chính phần riêng vào giảng dạy.

Mặt khác, theo phương án này thì chỉ riêng trong phần chung thôi cũng sẽ khắc phục được những nhược điểm của chương trình khung đã được đề cập đến khi trình bày về phương án thứ nhất.

Tận dụng cơ hội có được qua việc tham gia đề tài này tôi mạnh dạn đề cập đến những điểm bất hợp lý của chương trình khung bởi vì khi xây dựng chương trình khung Bộ môn Luật Hành chính không có đại diện tham gia và chính vì vậy cũng không có điều kiện để thể hiện quan điểm của mình. Các giáo viên của bộ môn có nhiệm vụ thay đổi nội dung giảng dạy và giáo trình theo chương trình khung nhưng cũng hy vọng có một dịp nào đó hoặc một diễn đàn nào đó để có thể giải trình cho rõ bởi kinh nghiệm của những người trực tiếp giảng dạy đã nhiều năm chắc chắn sẽ góp phần tích cực vào việc hoàn thiện chương trình.

- Tiếp tục xây dựng và đưa vào giảng dạy một số nội dung mới

Do thời lượng dành cho môn học có hạn nên các nội dung mới thuộc chương trình môn học Luật Hành chính sẽ được đưa vào giảng dạy dưới dạng các chuyên đề tự chọn dành cho sinh viên chuyên ngành Hành chính-Nhà nước. Khoa và bộ môn đã và đang xây dựng một số chuyên đề tự chọn thuộc nội dung của Luật Hành chính hoặc bổ trợ cho việc giảng dạy môn học Luật Hành chính như: Các học thuyết về quản lý; Lịch sử nền hành chính Việt Nam; Văn bản quản lý và hành chính văn phòng; Kỹ năng tổ chức công sở; Tổ chức nhân sự hành chính; Công chứng và chứng thực; Quản lý hộ tịch…, trong đó một số chuyên đề đã được đưa vào giảng dạy như Lịch sử nền hành chính Việt Nam, Văn bản quản lý và hành chính văn phòng, Công chứng và chứng thực … Các chuyên đề khác đang được hoàn thiện để sớm đưa vào giảng dạy trong chương trình tự chọn cho sinh viên các khóa sau.

-    Tiếp tục việc hoàn thiện giáo trình môn Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo

Nội dung chương trình môn Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo thực chất là một phần nội dung của Luật Hành chính cho nên cần dành cho môn này một sự quan tâm đầy đủ hơn. Môn học này đặc biệt có ý nghĩa thiết thực đối với học viên hệ tại chức là những người trong quá trình công tác ít nhiều cũng có trách nhiệm thực hiện những nhiệm vụ liên quan đến khiếu nại, tố cáo, công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Trong hai phương án trên thì phương án thứ hai có nhiều ưu điểm hơn và chỉ phương án này mới cho phép thể hiện một cách tương đối đầy đủ nội dung của Luật Hành chính (phương án thứ nhất không nhận được sự ủng hộ của các thành viên của bộ môn).

Một điều đáng tiếc là khi Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng chương trình khung giáo dục đại học ngành luật học thì phần riêng không được đưa vào chương trình đó mặc dù nội dung của nó là những vấn đề thiết thực, đặc biệt là đối với học viên hệ tại chức (cũng cần nhắc lại là phần riêng của Luật Hành chính mới chỉ được xây dựng và giảng dạy ở trường Đại học Luật Hà Nội). Theo chương trình hiện nay thì chỉ sinh viên thuộc chuyên ngành Luật Hành chính của Trường Đại học Luật Hà Nội được học thêm 1 học phần bắt buộc thuộc nội dung của Luật Hành chính. Học phần này được đặt cho một cái tên mới là "Quản lý hành chính nhà nước trong các lĩnh vực" (chính là chương trình Luật Hành chính phần riêng đã được giảng dạy tại Trường Đại học Luật Hà Nội từ năm 1998) với thời lượng là 40 tiết (2 đơn vị học trình). Tên gọi mới này không những không chính xác mà đôi khi còn gây hiểu lầm trong quá trình thực hiện chương trình và tổ chức đánh giá kết quả học tập của học viên. Bản thân tác giả chuyên đề này đã có lần phải đọc đề thi qua điện thoại bởi khi giáo viên đi giảng môn sau lấy đề thi phần này để tổ chức thi hết học phần thì lại lấy nhầm đề của môn học Luật Hành chính (phần chung). Nên chăng quay trở lại dùng thuật ngữ "Luật Hành chính phần riêng" để đặt tên cho học phần này nhằm đảm bảo sự chính xác và tránh hiểu lầm.

3.3. Xây dựng giáo trình chuẩn cho môn học Luật Hình sự

Từ thực trạng của các giáo trình luật hình sự Việt Nam hiện nay, đối chiếu với các yêu cầu về hình thức và nội dung của giáo trình đại học chúng tôi cho rằng việc hoàn thiện giáo trình luật hình sự Việt Nam cần bắt đầu từ việc xác định rõ ràng mục tiêu mà giáo trình luật hình sự Việt Nam cần cung cấp nội dung kiến thức để thỏa mãn mục tiêu đào tạo cử nhân luật nói chung. Trên cơ sở mục tiêu này, chúng ta mới có thể xác định được phạm vi nội dung của giáo trình và sắp xếp những nội dung đó theo các phần, chương, mục cụ thể cũng như xác định được các khối kiến thức trong giáo trình, trong từng phần, từng chương, từng mục. Cùng với việc xác định mục tiêu và cũng từ mục tiêu cần xác định phương pháp dạy học của các học phần thuộc môn học luật hình sự Việt Nam để xây dựng giáo trình luật hình sự Việt Nam và các tài liệu tham khảo khác cho phù hợp.

Mục tiêu của giáo trình Luật hình sự Việt Nam là nhằm cung cấp cho sinh viên kiến thức cơ bản về nội dung của ngành luật hình sự, về nội dung của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành để trên cơ sở đó sinh viên có thể áp dụng luật hình sự Việt Nam giải quyết các vụ án hình sự cũng như có thể có sự đánh giá nhất định về thực tiễn lập pháp hình sự và thực tiễn áp dụng luật hình sự.

Về phương pháp dạy - học của môn luật hình sự Việt Nam, chúng tôi cho rằng cần có sự áp dụng khác nhau giữa hai phần khác nhau của môn học. Phần chung là phần thiên về lý thuyết nên phương pháp dạy - học đối với phần này chủ yếu là thuyết trình có kết hợp với phương pháp thảo luận. Đối với phần các tội phạm nên áp dụng chủ yếu phương pháp giải bài tập vì nội dung chủ yếu của phần này là các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội phạm cụ thể[13].

Từ mục tiêu của giáo trình và phương pháp dạy - học của môn học chúng tôi thấy giáo trình Luật hình sự Việt Nam nên có cấu trúc hình thức như sau:

- Giáo trình luật hình sự Việt Nam nên chia thành hai phần với hai cách viết khác nhau phù hợp với đặc điểm riêng và phương pháp dạy - học của từng phần. Phần chung được cấu trúc thành các chương theo các vấn đề lý luận, không phụ thuộc vào kết cấu của Bộ luật hình sự hiện hành và theo trật tự từ các chế định, các vấn đề về tội phạm đến các chế định, các vấn đề về hình phạt. Phần các tội phạm cũng được cấu trúc theo các chương nhưng số chương, nội dung từng chương và trật tự sắp xếp các chương là theo các chương thuộc phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.

- Trong mỗi chương cần có phần câu hỏi và danh mục tài liệu tham khảo[14]. Tính chất của câu hỏi và tài liệu tham khảo cần có sự khác nhau giữa các chương thuộc phần chung và các chương thuộc phần các tội phạm. Đối với các chương thuộc phần chung nên tập trung vào các câu hỏi có tính tranh luận, trao đổi về các quan điểm khoa học để làm rõ về mặt lý luận các chế định thuộc phần chung luật hình sự. Trong khi đó, các câu hỏi của các chương thuộc phần các tội phạm nên dưới dạng các bài tập về vụ án cụ thể để cho sinh viên rèn luyện kỹ năng áp dụng luật hình sự giải quyết các vụ án hình sự. Theo đó, tài liệu tham khảo cho các chương thuộc phần chung nên là các giáo trình của các cơ sở đào tạo khác nhau, là các sách chuyên khảo, tham khảo, các bài báo (tiếng Việt hoặc dịch ra tiếng Việt), các văn bản pháp luật cũng như các văn bản hướng dẫn. Tài liệu tham khảo cho các chương thuộc phần các tội phạm nên là các bài tranh luận án, các bài bình luận án, các phán quyết của Tòa án nhân dân tối cao… Câu hỏi cũng như danh mục tài liệu tham khảo có thể không nhất thiết phải được thể hiện tất cả trong giáo trình mà có thể được thể hiện một phần trong giáo trình và phần khác được thể hiện trong một loại tài liệu khác có thể thay đổi cho từng khóa học, năm học. Câu hỏi và danh mục tài liệu tham khảo được thể hiện trong tài liệu khác có thể là các vụ án có tính thời sự, các bài báo hoặc sách mới được công bố nhưng có giá trị tham khảo…

Về cấu trúc nội dung, giáo trình luật hình sự đòi hỏi phải được tổ chức theo ba khối kiến thức - Khối kiến thức cốt lõi (cần biết), khối kiến thức hữu ích (nên biết) và khối kiến thức bổ trợ (có thể biết). Vấn đề đặt ra là cần xác định đúng nội dung của từng khối kiến thức và liên kết các khối kiến thức đó trong từng tiểu mục, mục, chương và trong cả giáo trình. Sự liên kết các khối kiến thức có tính tuyệt đối trong cả giáo trình nhưng chỉ có tính tương đối trong từng chương, từng mục và từng tiểu mục. Trong cả giáo trình đòi hỏi phải có đủ cả ba khối kiến thức nhưng trong chương, mục, tiểu mục cụ thể có thể chỉ có một hoặc hai khối kiến thức.

Khối kiến thức cốt lõi của môn học luật hình sự Việt Nam là những kiến thức tối thiểu về ngành luật hình sự Việt Nam mà mỗi sinh viên phải lĩnh hội được. Nó bao gồm những lý luận cơ bản về luật hình sự theo quan điểm chính thống mà trên cơ sở đó sinh viên có thể hiểu và áp dụng được luật hình sự hiện hành. Ở đây cần chú ý, những vấn đề lý luận thuộc khối kiến thức cốt lõi phải được giới hạn ở mức độ chuyên sâu vừa đủ ở mức cần thiết để sinh viên có thể hiểu và áp dụng được luật hình sự mà không thể là kiến thức chuyên sâu thuộc chương trình đào tạo sau đại học.

Khối kiến thức hữu ích của môn luật hình sự Việt Nam có thể là những kiến thức có tính giới thiệu, so sánh các quan điểm khoa học hoặc đánh giá luật hình sự hiện hành cũng như đề cập các vấn đề thực tiễn phức tạp mà việc giải quyết đòi hỏi phải có sự hiểu biết sâu hơn kiến thức cốt lõi.

Khối kiến thức bổ trợ của môn luật hình sự Việt Nam có thể là những kiến thức về lịch sử phát triển của luật hình sự nói chung cũng như lịch sử luật hình sự Việt Nam nói riêng, kiến thức về so sánh luật hình sự hiện hành của các nước, …

Trong ba khối kiến thức, khối kiến thức cốt lõi là khối kiến thức dễ xác định thống nhất vì là khối kiến thức có tính tương đối cố định. Trong khi đó thì hai khối kiến thức còn lại có tính "mở", việc xác định giới hạn của những khối kiến thức này rất dễ khác nhau giữa các tác giả hoặc nhóm tác giả. Nếu không chú ý có thể dẫn đến tình trạng hai khối kiến thức này được xây dựng "quá rộng", "quá sâu" lấn sang kiến thức của chương trình đào tạo sau đại học hoặc bị bỏ qua, không được xây dựng một cách đầy đủ, cẩn thận. Theo chúng tôi, khối kiến thức cốt lõi là khối kiến thức giữ vai trò chính, các khối kiến thức khác chỉ giữ vai trò bổ sung, phục vụ khối kiến thức cốt lõi. Khối kiến thức hữu ích và khối kiến thức bổ trợ chỉ là sự mở thêm khối kiến thức cốt lõi theo "chiều sâu" và "chiều rộng". Điều này đòi hỏi phải có sự cân nhắc hết sức thận trọng khi xác định mức độ mở. Chúng ta nên dừng việc mở này ở mức cần thiết và các điều kiện khác cho phép. Việc trình bày khối kiến thức hữu ích và khối kiến thức bổ trợ nên thiên theo hướng giới thiệu, gợi mở. Hai khối kiến thức này nên được xem như sự mở đầu của khối kiến thức chuyên ngành trong chương trình đào tạo sau đại học.

Việc xác định rõ các khối kiến thức nói trên không chỉ là cơ sở cho việc biên soạn giáo trình, cơ sở thống nhất cho việc chuẩn bị giáo án và thuyết trình cũng như thảo luận mà còn là cơ sở thống nhất cho việc ra đề thi, kiểm tra, xây dựng thang điểm của đáp án. Việc xác định này cũng là cơ sở cho việc xây dựng chương trình đào tạo cao học và tiến sĩ.

Trên cơ sở nhận thức chung về hình thức và nội dung cấu trúc của giáo trình luật hình sự như trình bày trên, chúng tôi đề xuất hướng xây dựng giáo trình luật hình sự Việt Nam như sau:

* Giáo trình luật hình sự Việt Nam - phần chung cần phải thể hiện được các nhóm vấn đề và theo trật tự cũng như những yêu cầu cụ thể được trình bày dưới đây.

Nhóm vấn đề thứ nhất: Những vấn đề chung về ngành luật hình sự và về Bộ luật hình sự Việt Nam - nguồn của luật hình sự.

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này bao gồm: Khái niệm, nhiệm vụ và các nguyên tắc của ngành luật hình sự Việt Nam; Cấu tạo và hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là vấn đề nguồn của luật hình sự, là phần giới thiệu về các quan điểm liên quan đến các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam, là phần giới thiệu về lịch sử phát triển của luật hình sự Việt Nam từ 1945 đến nay[15].

Nhóm vấn đề thứ hai: Khái niệm tội phạm trong luật hình sự Việt Nam.

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này bao gồm: Định nghĩa khái niệm tội phạm theo Bộ luật hình sự hiện hành; các dấu hiệu của tội phạm theo định nghĩa đó; căn cứ và ý nghĩa của việc phân loại tội phạm trong Bộ luật hình sự; phân biệt tội phạm với vi phạm. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu về các cách định nghĩa tội phạm khác nhau trong các Bộ luật hình sự của một số nước; các quan điểm khác nhau trong việc xác định các dấu hiệu của tội phạm; so sánh việc phân loại tội phạm trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành với Bộ luật hình sự trước đó cũng như với cách phân loại trong Bộ luật hình sự một số nước khác.

Nhóm vấn đề thứ ba: Nội dung của bốn yếu tố của tội phạm.

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này là những kiến thức cơ bản về nội dung của từng yếu tố của tội phạm. Cụ thể:

- Đối với yếu tố chủ thể của tội phạm, kiến thức cốt lõi là định nghĩa khái niệm chủ thể của tội phạm; nội dung, ý nghĩa của hai dấu hiệu của chủ thể của tội phạm - dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và dấu hiệu độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; khái niệm chủ thể đặc biệt. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu về nhân than người phạm tội, về chủ thể của tội phạm là pháp nhân theo luật hình sự một số nước khác; về việc quy định dấu hiệu độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự một số nước cũng như trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam.

- Đối với yếu tố mặt khách quan của tội phạm, kiến thức cốt lõi là định nghĩa khái niệm mặt khách quan của tội phạm; nội dung của các biểu hiện của mặt khách quan của tội phạm (hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội (cũng như quan hệ nhân quả giữa hai biểu hiện này) và các biểu hiện khác như phương tiện, địa điểm…). Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu về các dạng quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội.

- Đối với yếu tố mặt chủ quan của tội phạm, kiến thức cốt lõi là định nghĩa khái niệm mặt chủ quan của tội phạm; nội dung của bốn loại trường hợp có lỗi và trường hợp không có lỗi (tình trạng không thể khắc phục được, sự kiện bất ngờ) theo Bộ luật hình sự Việt Nam; khái niệm động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu về quan điểm nghiên cứu lỗi về nội dung (định nghĩa lỗi, định nghĩa lỗi cố ý, định nghĩa lỗi vô ý).

- Đối với yếu tố khách thể của tội phạm, kiến thức cốt lõi là khái niệm khách thể của tội phạm nói chung, khái niệm khách thể của từng nhóm tội phạm, khái niệm khách thể của tội danh cụ thể; phân biệt khách thể của tội phạm với đối tượng tác động của tội phạm.

Nhóm vấn đề thứ tư: Cấu thành tội phạm - Hình thức phản ánh tội phạm trong luật hình sự và vấn đề định tội danh.

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này là khái niệm cấu thành tội phạm; mối quan hệ giữa tội phạm và cấu thành tội phạm; các dấu hiệu của các yếu tố của tội phạm được phản ánh trong cấu thành tội phạm; phân loại cấu thành tội phạm; lý luận về định tội danh (trừ vấn đề định tội danh trong những trường hợp đặc biệt là vấn đề được trình bày trong các phần tiếp theo). Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu lý luận về cấu thành tội phạm (yêu cầu, nội dung và kỹ thuật thể hiện các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm) và trên cơ sở đó đánh giá các cấu thành tội phạm trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành.

Nhóm vấn đề thứ năm: Các căn cứ loại trừ tính trái luật hình sự của hành vi (các căn cứ hợp pháp)[16].

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này là khái niệm các căn cứ loại trừ tính trái luật hình sự của hành vi; ý nghĩa và nội dung của hai căn cứ loại trừ tính trái luật hình sự của hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam (phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết). Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu về các căn cứ khác được quy định trong luật hình sự một số nước khác và sự thừa nhận các căn cứ này trong thực tiễn áp dụng luật hình sự Việt Nam.

Nhóm vấn đề thứ sáu: Chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt[17].

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này là khái niệm chuẩn bị phạm tội (ở tội cố ý) và phạm tội chưa đạt (ở tội cố ý) theo Bộ luật hình sự để phân biệt với trường hợp phạm tội bình thường (tội phạm hoàn thành); vấn đề trách nhiệm hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội cũng như trong trường hợp phạm tội chưa đạt[18]; vấn đề định tội trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu quan điểm về vấn đề này trong luật hình sự một số nước khác.

Nhóm vấn đề thứ bảy: Đồng phạm.

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này là khái niệm đồng phạm (các dấu hiệu của đồng phạm, phân loại đồng phạm); dấu hiệu của từng loại người đồng phạm; vấn đề định tội trong trường hợp đồng phạm. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu về chế định này trong Bộ luật hình sự một số nước khác cũng như về lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về vấn đề này.

Nhóm vấn đề thứ tám: Trách nhiệm hình sự; hình phạt và biện pháp tư pháp[19].

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này là khái niệm trách nhiệm hình sự và việc miễn trách nhiệm hình sự; vấn đề thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; khái niệm hình phạt (bao gồm cả mục đích của hình phạt) và việc miễn hình phạt; hệ thống hình phạt và các biện pháp tư pháp theo Bộ luật hình sự hiện hành. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu các quan điểm khác nhau về mục đích của hình phạt cũng như là phần giới thiệu về lịch sử phát triển hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam. Ngoài ra còn có thể giới thiệu những nét đặc biệt trong hệ thống hình phạt của một số nước.

Nhóm vấn đề thứ chín: Quyết định hình phạt[20].

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này là các căn cứ quyết định hình phạt; quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt; quyết định hình phạt trong đồng phạm và vấn đề tổng hợp hình phạt. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu về lý thuyết phạm nhiều tội; về các nguyên tắc tổng hợp hình phạt cũng như thực tiễn lập pháp ở một số nước về vấn đề này.

Nhóm vấn đề thứ mười: Vấn đề chấp hành hình phạt và xóa án tích.

Khối kiến thức cốt lõi của nhóm này là chế định thời hiệu thi hành bản án hình sự; chế định án treo; chế định miễn chấp hành hình phạt; chế định giảm thời hạn chấp hành hình phạt; chế định hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù và chế định xóa án tích. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này có thể là phần giới thiệu về lịch sử các quy định về án treo trong luật hình sự Việt Nam có so sánh với luật hình sự một số nước khác cũng như giới thiệu về thực tiễn áp dụng chế định này hiện nay.

Mười nhóm vấn đề thuộc phần chung luật hình sự trên đây có thể được tổ chức thành 10 chương khác nhau - mỗi chương giải quyết trọn vẹn một loại vấn đề. Trong trường hợp cần thiết có thể xây dựng nhiều chương khác nhau để giải quyết một nhóm vấn đề nhất định như nhóm vấn đề thứ ba có thể cần được cơ cấu thành 4 chương. Tuy nhiên, trật tự các nhóm vấn đề và từng vấn đề trong mỗi nhóm cần phải được tuân thủ theo trật tự nêu trên.

* Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm cần được xây dựng theo các chương của Bộ luật hình sự hiện hành. Tương ứng với mỗi chương thuộc phần các tội phạm của Bộ luật hình sự là một chương giáo trình.

Khối kiến thức cốt lõi của mỗi chương là dấu hiệu pháp lý trong cấu thành tội phạm và nội dung của các dấu hiệu định khung hình phạt của từng tội danh. Bổ sung cần thiết cho khối kiến thức này là đặc điểm chung của cả nhóm tội trong chương cũng như của từng nhóm tội nhỏ trong chương; là khái quát lịch sử lập pháp của từng nhóm tội; là thực tiễn xét xử từng tội hoặc nhóm tội; là những hạn chế của các cấu thành tội phạm, của các khung hình phạt cũng như hướng hoàn thiện…

 Với yêu cầu như trên, mỗi chương của giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm có thể gồm hai phần chính. Đó là phần khái quát chung về nhóm tội trong chương và phần trình bày về từng tội danh cụ thể. Phần trình bày về từng tội danh gồm hai nội dung. Nội dung thứ nhất là các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm và nội dung thứ hai là các khung hình phạt cùng dấu hiệu định khung hình phạt. Khi trình bày nội dung thứ nhất cần tuân theo trật tự thống nhất là:

- Trình bày dấu hiệu chủ thể của tội phạm đối với tội phạm có chủ thể đặc biệt;

- Trình bày các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm, trong đó có dấu hiệu về đối tượng tác động của tội phạm;[21]

- Trình bày các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm;

- Trình bày các dấu hiệu cho phép xác định hành vi là tội phạm mà không còn là vi phạm (đối với những tội danh có ranh giới này).

Khi trình bày nội dung thứ hai nên nhóm và sắp xếp các dấu hiệu định khung hình phạt theo trật tự nhất định trước khi phân tích ý nghĩa và giải thích nội dung từng dấu hiệu một.

3.4. Xây dựng giáo trình chuẩn cho môn học Luật tố tụng hình sự

Chất lượng của giáo trình thể hiện năng lực chuyên môn, năng lực đào tạo và khả năng nghiên cứu khoa học... của cơ sở đào tạo. Trong bộ giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội nói riêng và các cơ sở đào tạo luật nói chung không thể không kể đến giáo trình Luật Tố tụng hình sự, nó đòi hỏi người viết giáo trình này không chỉ nắm vững kiến thức chuyên môn về luật tố tụng hình sự mà còn phải nắm vững kiến thức cơ bản của luật hình sự, Luật dân sự, luật tố tụng dân sự... cũng như các văn bản pháp luật khác liên quan, vì khi giải quyết vụ án hình sự, Cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ xác định tội danh và quyết định hình phạt đối với người phạm tội là đủ mà trong đại đa số các vụ án cơ quan tiến hành tố tụng còn phải giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự như vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, trả lại tài sản cho sở hữu chủ hoặc người quản lý hợp pháp...

Thực hiện chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001 - 2010, nhiều giải giải pháp mới đã được ngành giáo dục và đào tạo triển khai thực hiện tạo cơ sở vững chắc cho việc đẩy mạnh đổi mới giáo dục đại học. Quán triệt quan điểm được nêu trong nhiều nghị quyết của Đảng là: "sát với thực tế Việt Nam, phù hợp với xu thế thế giới" hay "cơ bản, hiện đại, Việt Nam", ngoài việc đẩy mạnh xây dựng chương trình khung thì việc biên soạn giáo trình theo hướng chuẩn mực, cơ bản, hiện đại, thiết thực và liên thông giữa các bậc đào tạo, tránh việc giảng dạy trùng lặp đóng vai trò quan trọng trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, tránh việc Đại học dạy nhiều môn của Cao đẳng với nội dung chương trình không khác nhau nhiều lắm, Cao học dạy lại nhiều môn của Đại học cùng với nội dung đó nhưng chỉ sâu hơn một chút[22].

Thực tế cho thấy, "giáo trình kém chất lượng là hại sinh viên", hại người học.

Việc biên soạn giáo trình luật tố tụng hình sự phải đáp ứng được các yêu cầu sau:

Một là, giáo trình Luật tố tụng hình sự cần được biên soạn trên cơ sở khoa học luật tố tụng hình sự, những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, những văn bản pháp luật khác liên quan đồng thời phải gắn với hoạt động thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự để đạt được mục tiêu sau đây: Trang bị cho sinh viên những lý luận cơ bản của luật tố tụng hình sự; sinh viên nắm vững các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành; trên cơ sở đó, sinh viên có khả năng tự nghiên cứu và biết đánh giá các vấn đề phát sinh; biết vận dụng kiến thức của mình trong quá trình học tập để xử lý các tình huống thực tế.

Hai là, yêu cầu của việc biên soạn giáo trình luật tố tụng hình sự phải đặt trong mối liên quan với nội dung giáo trình luật hình sự để không trùng lặp vấn đề vì, có một số nội dung vừa được quy định trong Bộ luật hình sự, vừa được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể bỏ qua vấn đề vì nó đã được viết trong giáo trình luật hình sự mà mỗi giáo trình nghiên cứu, phân tích ở các góc độ khác nhau. Đó là điều mà không ai có thể phủ nhận.

Ba là, sau khi sinh viên học xong luật hình sự mới có thể học được luật tố tụng hình sự. Do vây, khi viết về những vấn đề liên quan cần tránh tình trạng viết lấn sân mà phải xác định rằng khi học luật tố tụng hình sự thì những vấn đề đó sinh viên đã nắm vững nội dung. Nếu cần thì họ có thể xem lại các vấn đề đó trong giáo trình luật hình sự.

Bốn là, việc biên soạn giáo trình luật tố tụng hình sự phải căn cứ vào số tiết giảng được phân bổ. Căn cứ vào khả năng đáp ứng có thể của tài liệu tham khảo của nội dung vấn đề mà xác định giới hạn, phạm vi biên soạn của giáo trình. Hiện nay có những vấn đề rất nhiều công trình nghiên cứu hoặc sách chuyên khảo đề cập đến nhưng cũng có những vấn lại gần như là mới và ít người quan tâm đến nhưng dù sao thì vẫn phải dự vào mục tiêu đào tạo đại học để viết giáo trình.

Năm là, việc biên soạn giáo trình luật tố tụng hình sự phải căn cứ vào phương pháp đào tạo và phương pháp giảng dạy để khích lệ sinh viên tự tổ chức quá trình nhận thức, phát huy tính sáng tạo và lĩnh hội kiến thức đồng thời có khả năng phê phán.

Sáu là, việc biên soạn giáo trình phải được tiến hành liên tục, kiến thức phải mang tính kế thừa nhưng cũng cần phải quan tâm đến tính đổi mới. Có như vậy thì sinh viên mới có kiến thức tốt và đáp ứng được mục tiêu đào tạo.

Để có thể được nâng dần và trở thành sách giáo khoa thì giáo trình Luật tố tụng hình sự cần đáp ứng tiêu chí:

 Thứ nhất, nội dung biên soạn phải phù hợp với chương trình đào tạo, vừa mang tính khoa học vừa mang tính hiện đại;

Thứ hai, về lý luận nó phải có tính tư tưởng, tính thực tiễn Việt Nam trên cơ sở những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác liên quan;

Thứ ba, phải bảo đảm yêu cầu vừa sức sinh viên, có tính logic bộ môn tức là logic khoa học tương ứng và logíc nhận thức chung của sinh viên, đảm bảo cho họ lĩnh hội được nội dung với óc phê phán;

Thứ tư, ngôn ngữ dùng để viết trong giáo trình phải trong sáng dễ hiểu thống nhất tránh tình trạng làm cho sinh viên khi đọc có thể hiểu theo nhiều nghĩa với nội dung khác nhau hoặc hiểu sai nội dung. Muốn vậy, giáo trình nói chung phải được viết đúng ngữ pháp, đúng chính tả, giấy in, cỡ chữ, Font chữ... phải tuân theo những yêu cầu thẩm mỹ, đảm bảo cho sinh viên đọc dễ dàng, có hứng thú, lâu mệt mỏi, không hại mắt;

Thứ năm, sau mỗi chương, bài hay mỗi đơn vị học trình hoặc học phần nên có hệ thống câu hỏi, bài tập và tài liệu tham khảo nhằm chỉ dẫn để sinh viên tự nghiên cứu. Việc này có ưu điểm kích thích được tính tích cực, độc lập của người học.

 Việc biên soạn giáo trình đòi hỏi tâm huyết, trí tuệ của những người tham gia biên soạn. Giáo trình luật tố tụng hình sự thuộc giáo trình môn khoa học xã hội nên nếu không đầu tư, chắt lọc mà viết tràn lan dễ dẫn đến tình trạng biến thế hệ sinh viên thành những rôbốt, không biết chủ động, linh hoạt trong việc biến tri thức đã lĩnh hội trong quá trình học tập để giải quyết công việc.

 Giáo trình Luật tố tụng hình sự luôn gắn liền với nội dung giảng dạy luật tố tụng hình sự mà nội dung dạy học tồn tại với tư cách là một nhân tố hữu cơ của quá trình dạy học luôn vận động và phát triển dưới ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế, xã hội, của cách mạng khoa học và công nghệ trong bối cảnh đổi mới sâu sắc, toàn diện, toàn bộ các lĩnh vực của đời sống. Vì vậy, giáo trình luật tố tụng hình sự cũng như các giáo trình khác luôn phải được biên soạn và đổi mới cho phù hợp.

3.5. Xây dựng giáo trình chuẩn cho môn học Luật dân sự

Mục tiêu giáo trình Luật dân sự cần đạt được

Luật dân sự là một môn học trong chương trình đào tạo luật, do đó không tách rời với mục tiêu đào tạo nói chung, vì vậy giáo trình Luật dân sự không tách rời các giáo trình khác của các môn cơ bản. Tuy nhiên, do sự độc lập tương đối của môn học giáo trình Luật dân sự phải đạt được những mục tiêu cơ bản sau đây

·   Trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về khoa học Luật dân sự trên cơ sở đó hiểu biết luật thực định và thực tiễn việc áp dụng pháp Luật dân sự, tạo cơ sở bước đầu để sinh viên sau khi ra trường có thể làm quen với việc áp dụng pháp Luật dân sự để giải quyết những công việc thực tế;

·   Tạo cơ sở ban đầu cho người học nhận xét về điều kiện, nguyên nhân hình thành các quy định của luật thực định;

·   Định hướng chuyên sâu cho sinh viên nghiên cứu chuyên ngành Luật dân sự sau này;

·   Giáo trình phải còn là cẩm nang cho những người mong muốn tìm hiểu pháp Luật dân sự có những khái quát chung về khoa học Luật dân sự trên cơ sở đó có thể tự mình tìm hiểu khoa học Luật dân sự.

Những yêu cầu của giáo trình Luật dân sự trong điều kiện hoàn cảnh hiện nay

* Yêu cầu về nội dung

Tiếp nhận có chọn lọc những quan điểm cơ bản về lý luận Luật dân sự của các nước trên thế giới và của truyền thống lập pháp dân sự của Việt Nam từ trước tới nay theo nguyên tắc truyền thống kết hợp với hiện đại nhằm bảo đảm cho người học tiếp nhận, làm quen với lịch sử lập pháp dân sự. Trên cơ sở đó, nhận thức Luật dân sự của chúng ta hiện nay kế thừa có chọn lọc và phát triển cho phù hợp với điều kiện hiện tại. Tuy nhiên, vẫn còn có những tồn tại trong lý luận và thực tiễn về Luật dân sự đã và sẽ còn trong hệ thống pháp luật của chúng ta và của nhiều nước trên thế giới. Trên cơ sở đó giáo trình chuẩn phải bảo đảm những yêu cầu sau đây: tính hệ thống, tính logic, tính khoa học, tính kế thừa, tính thực tiễn, tương đối ổn định. Không nên để giáo trình phụ thuộc vào các văn bản dưới luật (nghị định, thông tư...).

* Yêu cầu về hình thức

Hình thức tuy không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng của giáo trình, tuy nhiên cũng cần phải chú trọng do có ảnh hưởng đến cảm nhận ban đầu của người đọc. Do đó trình bày đẹp, ít lỗi kỹ thuật tạo cho người đọc thấy rằng người viết, biên tập, xuất bản... nghiêm túc khi thực hiện. Nếu giáo trình có nhiều lỗi kỹ thuật thì đó là khiếm khuyết không thể chấp nhận được.

Giáo trình viết dài hay ngắn phải nằm trong tổng thể đồng bộ của các giáo trình trong toàn trường. Độ dài ngắn của các giáo trình trong Trường Đại học Luật Hà Nội phải lấy một tiêu chí chung để xác định độ dài, ngắn cho tất cả các giáo trình.

Giáo trình Luật dân sự được kết cấu vừa phải và trong tổng thể, người chủ biên phải khống chế cho các tác giả viết không quá dài hay quá ngắn so với các phần khác. Chúng tôi cho rằng, thời lượng số tiết giảng cho học phần, chương, bài… là tiêu chí để xác định độ dài, ngắn của phần, chương đó. Do vậy, nếu Hội đồng khoa học của trường xác định tiêu chí cho các giáo trình thì rất dễ xác định cho các giáo trình nói chung, giáo trình Luật dân sự nói riêng. Trong điều kiện hiện nay giáo trình Luật dân sự nên có khoảng 500 đến 600 trang theo khuôn khổ giáo trình Luật dân sự hiện tại.

* Nội dung chính của giáo trình

Để bảo đảm những yêu cầu trên giáo trình Luật dân sự phải thể hiện nội dung chính sau đây:

Phần thứ nhất: Phần chung (tên gọi phần này có thể đặt theo các tên khác nhau: những quy định chung; phần chung; những khái niệm chung). Đây là phần được bố trí trong học phần 1 với thời lượng 15 tiết (không có trong chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học Luật Hà Nội bổ sung phần này). Tuy nhiên, xét về mặt lý luận, khoa học Luật dân sự phần này lại là phần quan trọng nhất, do vậy viết giáo trình trong phần này càng chi tiết càng tốt. Cần phải để cho người học có thể tự mình tìm hiểu Luật dân sự thông qua những khái niệm chung nhất được trình bày ở đây. Nhưng dù với tên gọi nào thì phần này cũng phải nêu được tất cả các vấn đề liên quan đến lĩnh vực dân sự.

Phần thứ hai: Tài sản và quyền sở hữu, thừa kế

Việc thiết kế chương trình cho học phần hai bao gồm các vấn đề: tài sản, quyền sở hữu và thừa kế vừa không mang tính lôgic vừa không mang tính hệ thống. Đây là hai loại quyền dân sự có đặc điểm hoàn toàn khác nhau. Tài sản và quyền sở hữu thuộc loại quyền tuyệt đối nhưng là vật quyền. Quyền thừa kế là loại quyền dân sự đặc biệt có cả yếu tố trái quyền. Phấn thừa kế phải được thiết kế thành một phần riêng biệt và nên để ở phần cuối cùng của chương trình. Điều này quy định trong Bộ Luật dân sự cũng không hợp lý do việc thừa kế liên quan đến tất cả các quyền tài sản và quyền nhân thân của một cá nhân.

Nếu theo chương trình được cấu trúc tại học phần hai thì giáo trình cũng nên xếp theo quy định đó. Do vậy, giáo trình phần này phải được cấu trúc thành ba chương: Tài sản, quyền sở hữu, thừa kế.

Phần thứ 3: Nghĩa vụ và hợp đồng

Trong Luật dân sự thì nghĩa vụ và hợp đồng là phần phức tạp nhất điều này được thể hiện trong thực tiễn cũng như pháp luật do liên quan đến việc dịch chuyển tài sản. Luật thương mại, Luật lao động, thương mại quốc tế cũng phát sinh trên cơ sở nghĩa vụ do đặc thù của các loại quan hệ thương mại, lao động, thương mại quốc tế. Ngoài ra các căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ cũng đa dạng, phức tạp mà pháp luật không thể dự liệu hết được các trường hợp riêng biệt. Nền kinh tế thị trường với đặc thù sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ để trao đổi theo quy luật thị trường cung - cầu ngày càng phức tạp do nhu cầu của con người, xã hội ngày càng tăng, những rủi ro cũng ngày càng lớn. Với bản chất của quan hệ nghĩa vụ là quan hệ trái quyền: người có quyền chỉ có thể thỏa mãn quyền của mình thông qua hành vi của người khác, phụ thuộc vào ý chí của người khác. Giáo trình phần này được kết cấu thành 3 chương là Lý luận chung về nghĩa vụ, Hợp đồng và Các hợp đồng cơ bản thông dụng

Phần thứ tư: Nghĩa vụ ngoài hợp đồng.

Mặc dầu chương V phần thứ tư Bộ Luật dân sự 1995 quy định với tên: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nhưng bản chất đây là một trong những căn cứ làn phát sinh nghĩa vụ, ngoài ra còn hai căn cứ làn phát sinh nghĩa vụ không được đề cập đến trong chương trình là một điều khiếm khuyết hiện nay. Chúng tôi cho rằng, giáo trình Luật dân sự phải bao gồm cả hai căn cứ đó với tên gọi nghĩa vụ ngoài hợp đồng. Với suy nghĩ đó phần thứ tư của giáo trình bao gồm 3 chương là: Nghĩa vụ phát sinh do gây thiệt hại, Nghĩa vụ phát sinh do chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, Thực hiện công việc không có ủy quyền.

3.6. Xây dựng giáo trình chuẩn cho môn học Luật thương mại

Yêu cầu xây dựng giáo trình chuẩn Luật thương mại

Trong điều kiện liên tục có sự hình thành, phát triển của các quan hệ thương mại mà kéo theo đó là việc ban hành, sửa đổi, bổ sung của hàng loại văn bản pháp Luật thương mại quan trọng, việc xây dựng giáo trình chuẩn cho môn học Luật thương mại là không đơn giản. Sinh viên tiếp nhận thông tin, tích lũy kiến thức cho họ không giới hạn trong khuôn khổ nội dung cơ bản của giáo trình là mục tiêu của Giáo trình Luật thương mại. Nhằm thực hiện mục tiêu đó, việc xây dựng giáo trình chuẩn Luật thương mại phải đáp ứng tốt các yêu cầu sau đây:

* Đảm bảo tính khoa học

Đảm bảo tính khoa học là yêu cầu quan trọng hàng đầu của việc biên soạn giáo trình Luật thương mại. Trong điều kiện giới hạn về dung lượng thời gian, trang viết, các quy định pháp luật trong lĩnh vực thương mại lại thường xuyên được ban hành mới, được sửa đổi, bổ sung thì việc cung cấp các quy định của luật thực định là không hiệu quả và cũng không khả thi. Điều quan trọng là phải trang bị cho người học phương pháp tư duy để có thể vận dụng xử lý trong nhiều tình huống và tự mình nâng cao hiểu biết. Muốn thực hiện được điều này, giáo trình Luật thương mại phải đảm bảo tính khoa học, có nghĩa là phải thể hiện được những kiến thức khoa học có tính lý luận cơ bản, phổ biến, toàn diện, thông qua hệ thống các khái niệm, các đặc điểm có tính khái quát và tương đối ổn định, các nguyên tắc chung... Tính khoa học phải được đảm bảo trong toàn bộ kết cấu giáo trình cũng như từng chương, bài cụ thể.

Đảm bảo tính thực tiễn

Lý luận được khái quát từ thực tiễn và sau khi hình thành, các vấn đề lý luận có thể cho phép đánh giá, bình luận, giải quyết các vấn đề của thực tiễn. Sản phẩm của đào tạo cũng phải đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Tính thực tiễn thể hiện ở cả hai khía cạnh: thực tiễn pháp Luật thương mại và thực tiễn thi hành pháp Luật thương mại. Chính vì vậy, bên cạnh các vấn đề lý thuyết, giáo trình Luật thương mại phải phản ánh được những hiện tượng thực tế có tính điển hình và khái quát hóa thành quy luật. Điều này hữu ích trong việc rèn luyện khả năng tư duy và khả năng vận dụng kiến thức được đào tạo vào thực tiễn cho sinh viên.

Tính mở

Nhằm khuyến khích khả năng chủ động học hỏi, tự nghiên cứu mở rộng, nâng cao trình độ, không giới hạn trong những kiến thức cơ bản cần biết, giáo trình Luật thương mại phải đảm bảo tính gợi mở. Việc nêu một vấn đề, một câu hỏi hay giới thiệu, so sánh với thực tiễn quốc tế... là sự gợi mở cho sinh viên tìm tòi nghiên cứu, sáng tạo tư duy, biết bình luận, đánh giá pháp Luật thương mại hiện hành và tự tin, làm chủ kiến thức. Cho dù là giáo trình chuẩn, Giáo trình Luật thương mại sẽ được biên soạn nhiều lần nhằm đáp ứng yêu cầu và mục tiêu đào tạo ngày càng cao. Chính vì vậy, nội dung của giáo trình không thể là tuyệt đối, chưa phải là "cần và đủ", mà sẽ là cơ sở tạo ra hướng tiếp tục nghiên cứu, học hỏi cho sinh viên.

Tính liên thông

Giáo trình Luật thương mại là một trong nhiều giáo trình của cơ sở đào tạo luật ở bậc đại học và là một trong nhiều nguồn tài liệu cung cấp kiến thức về Luật thương mại cho sinh viên. Mỗi môn học có nội dung nghiên cứu riêng, mỗi loại tài liệu (giáo trình, sách tham khảo, chuyên khảo, tình huống và bài tập...) đều có vị trí, vai trò nhất định, song giữa chúng tồn tại sự liên quan về nội dung và đều có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Xét về nội dung, giáo trình Luật thương mại có những vấn đề "gần" với giáo trình Luật thương mại quốc tế, giáo trình Luật dân sự (phần về sở hữu, pháp nhân, hợp đồng...), có những mối quan tâm chung với nhiều tài liệu tham khảo về Luật thương mại. Trong bối cảnh đó, giáo trình Luật thương mại phải xác định rõ những nội dung cơ bản, phù hợp, cần thiết và có tính đến mối quan hệ tương hỗ, ảnh hưởng lẫn nhau giữa giáo trình Luật thương mại với các giáo trình khác và các loại tư liệu tham khảo khác. Tình trạng trùng lặp hay thiếu hụt không thể tồn tại trong giáo trình chuẩn của môn Luật thương mại và các môn học có liên quan khác.

Tính mới

Giáo trình Luật thương mại phải chứa đựng những thông tin, kiến thức mới của khoa học Luật thương mại. Thực tiễn với các mối quan hệ thương mại không ngừng biến đổi theo chiều hướng ngày càng đa dạng, phong phú, phức tạp, lại chịu tác động mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại, pháp Luật thương mại cũng phải có sự điều chỉnh phù hợp với thực tế đó. Có nhiệm vụ nghiên cứu về những hiện tượng thực tiễn này, Khoa học Luật thương mại cũng không thể đi theo lối mòn mà luôn trong trạng thái vận động. Với tính bao quát và tính hệ thống về cấu trúc nội dung, giáo trình Luật thương mại phải là tài liệu chứa đựng "tính mới" về khoa học, thể hiện thông qua toàn bộ cấu trúc của giáo trình, các quan điểm, luận cứ khoa học...

Quan hệ giữa giáo trình Luật thương mại với pháp luật thực định

Mặc dù giáo trình Luật thương mại không thể là sự sao chép một cách có hệ thống các quy định của pháp luật thực định, nhưng phần lớn sinh viên được đào tạo sẽ làm việc trong môi trường thực tiễn và thực tiễn đòi hỏi ở họ sự hiểu biết về các quy định hiện hành để xử lý tốt các vấn đề phát sinh trong hoạt động nghề nghiệp. Chính vì vậy, giáo trình Luật thương mại phải có sự gắn bó ở mức độ cần thiết với pháp Luật thương mại, phản ánh trung thực các quy định pháp luật nhưng cần nắm bắt được "hồn vía", "đạo lý" của các đạo luật để hạn chế việc phải chỉnh lý, sửa đổi giáo trình khi có văn bản mới thay thế văn bản cũ. Yêu cầu này càng trở nên cần thiết đối với giáo trình Luật thương mại khi trong hệ thống luật pháp hiện hành, pháp luật thực định về thương mại là lĩnh vực pháp luật có nhiều biến đổi nhất và sự biến đổi này mang tính thường xuyên, liên tục.

Đảm bảo mục tiêu, chương trình và phương pháp đào tạo

Tính chất, nội dung, hình thức của Giáo trình Luật thương mại phải đáp ứng được mục tiêu, chương trình và phương pháp đào tạo của nhà trường. Chương trình đào tạo đại học của Trường Đại học Luật Hà Nội (ban hành theo Quyết định 709/ĐT ngày 4.6.2003 của Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội) đã xác định mục tiêu: "Trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về pháp luật, thực tiễn pháp lý và những kiến thức về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có liên quan đến lĩnh vực pháp luật; bước đầu có định hướng chuyên sâu và rèn luyện kỹ năng thực hành để sinh viên tốt nghiệp ra trường có thể giải quyết được một số vấn đề thông thường trong lĩnh vực pháp luật". Ở mỗi góc độ khác nhau, giáo trình của tất cả các môn học sẽ góp phần vào việc thực hiện mục tiêu này. Với việc đảm bảo các yêu cầu về tính khoa học, tính thực tiễn, tính mới, tính mở, tính liên thông và quan hệ ở mức độ cần thiết với luật thực định, Giáo trình Luật thương mại sẽ góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu được đặt ra. Bên cạnh đó, việc bám sát chương trình đào tạo được duyệt cũng là cần thiết để đảm bảo tính thống nhất về nội dung chương trình ở phạm vi khoa, trường.

Phương pháp đào tạo chính của nhiều cơ sở đào tạo luật là kết hợp phương pháp thuyết trình và phương pháp sử dụng tình huống, kết hợp giảng lý thuyết và các giờ thảo luận. Các phương pháp này được tích cực sử dụng trong giảng dạy Luật thương mại nên việc biên soạn giáo trình cũng phải tính đến sự phù hợp với đặc thù đó. Giáo trình Luật thương mại chủ yếu cung cấp các nội dung thông khoa học, lý luận cơ bản nhưng phải hỗ trợ hữu ích trong khi áp dụng phương pháp tình huống và thảo luận.

Được xã hội chấp nhận

"Được xã hội chấp nhận" là thước đo giá trị đích thực của giáo trình chuẩn Luật thương mại cũng như các giáo trình khác. Mức độ đáp ứng yêu cầu này được đánh giá bằng các tiêu chí: Có đa số hay thiểu số sinh viên đã sử dụng giáo trình? Một hay nhiều cơ sở đào tạo sử dụng giáo trình để giảng dạy? Ngoài phạm vi trường đại học, các đối tượng khác (luật sư, thẩm phán, nhà kinh doanh...) có sử dụng được phần nào của giáo trình cho hoạt động nghề nghiệp của mình hay không? Lượng và chất của giáo trình có đáp ứng đòi hỏi của xã hội đối với sản phẩm được đào tạo hay không v.v...

Cấu trúc của giáo trình Luật thương mại chuẩn

Cấu trúc của một giáo trình chuẩn phải được chú trọng về cả cấu trúc hình thức và cấu trúc nội dung[23]. Trên cơ sở mục tiêu của giáo trình, phương pháp giảng dạy, học tập môn Luật thương mại, Giáo trình Luật thương mại nên có cấu trúc như sau:

Cấu trúc hình thức

Ngoài các thông tin thông thường như tên giáo trình, đối tượng sử dụng, tên tác giả, lời giới thiệu, mục lục..., phần nội dung chính của giáo trình Luật thương mại nên kết cấu thành ba phần chính với hệ mục tiêu rõ ràng, riêng biệt và theo thứ tự logíc: (i) các chủ thể kinh doanh (ii) quan hệ thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ (iii) phá sản và giải quyết tranh chấp. Trong mỗi phần sẽ chia thành các chương, bài. Trong mỗi chương, bài có sự phân chia thành mục, tiểu mục. Phù hợp với phương pháp đào tạo có kết hợp thuyết trình và thảo luận, giải quyết tình huống, trong mỗi chương của Giáo trình Luật thương mại nên biên soạn bổ sung các câu hỏi phục vụ cho các buổi thảo luận. Nội dung các câu hỏi này có thể liên quan đến các kiến thức cơ bản, giúp sinh viên giải quyết tốt các bài tập tình huống điển hình. Phần này cho phép hướng dẫn sinh viên học tập, nghiên cứu từng chương, bài và môn học một cách hiệu quả nhất.

Cấu trúc nội dung

Mục tiêu của đào tạo đại học là "giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành về một ngành nghề, có khả năng phát hiện giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo"[24]. Nội dung giáo dục đại học "phải có tính hiện đại và phát triển, đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa kiến thức khoa học cơ bản với kiến thức chuyên ngành (...); tương ứng với trình độ chung của khu vực và thế giới... phải đảm bảo cho sinh viên có những kiến thức khoa học cơ bản và chuyên ngành tương đối hoàn chỉnh, có phương pháp làm việc khoa học, có năng lực vận dụng lý thuyết vào công tác chuyên môn"[25]. Nhằm thực hiện các quy định này, giáo trình Luật thương mại cần tổ chức nội dung giáo trình theo ba bậc:

Khối kiến thức cốt lõi

Khối kiến thức cốt lõi trong giáo trình Luật thương mại bao gồm ba học phần bắt buộc: (i) Luật công ty và các chủ thể kinh doanh khác (ii) Pháp luật về thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ (iii) Luật phá sản và giải quyết tranh chấp. Đây là khối kiến thức tối thiểu, bắt buộc cho tất cả cho sinh viên theo học chương trình đào tạo đại học luật, nhằm đạt được mục tiêu cơ bản nhất của môn học.

Học phần 1: Luật công ty và các chủ thể kinh doanh khác

Mục tiêu của học phần này là nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về các loại chủ thể kinh doanh thuộc các hình thức sở hữu khác nhau trong nền kinh tế thị trường. Quyền tự do kinh doanh là quyền hiến định của các tổ chức cá nhân, nhưng để thực hiện nó, người có vốn đầu tư phải lựa chọn một hình thức pháp lý phù hợp để thực hiện các hoạt động kinh doanh. Các chủ thể kinh doanh được thành lập là tế bào của nền kinh tế, là thực thể pháp lý tham gia vào quan hệ kinh doanh, quan hệ pháp Luật thương mại, do đó, việc nắm bắt các kiến thức cơ bản, cần thiết về chúng là vô cùng quan trọng.

Học phần 2: Pháp luật về thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ

Không có nhiệm vụ làm rõ các vấn đề lý thuyết về hợp đồng[26], học phần "Pháp luật về thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ" có mục tiêu giúp sinh viên nghiên cứu cụ thể về các hợp đồng trong quan hệ thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ. Trên cơ sở Luật thương mại và thực tiễn hoạt động thương mại, giáo trình Luật thương mại chọn và đưa vào phân tích các nội dung chủ yếu như sau:

+ Pháp luật về thương mại hàng hóa (bao gồm: mua bán hàng hóa trong thương mại, mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa, nhượng quyền thương mại...)

+ Pháp luật về vận chuyển hàng hóa, dịch vụ logistic;

+ Pháp luật về dịch vụ giám định hàng hóa;

+ Pháp luật về dịch vụ trung gian thương mại;

+ Pháp luật về các dịch vụ xúc tiến thương mại.

Học phần 3: Luật phá sản và giải quyết tranh chấp

Phần này có nhiệm vụ cung cấp hai khối kiến thức cơ bản là pháp luật về phá sản và pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh. Phần pháp luật về phá sản, giáo trình Luật thương mại chỉ tập trung vào hai nội dung cốt lõi:

+ Những vấn đề chung về phá sản và pháp luật phá sản

+ Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản

Phần giải quyết tranh chấp thương mại, giáo trình Luật thương mại cung cấp cho sinh viên kiến thức cơ bản về giải quyết tranh chấp thương mại theo thủ tục trọng tài. Việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại theo thủ tục Tòa án đã được làm rõ trong giáo trình Luật tố tụng dân sự.

Khối kiến thức hữu ích

Khối kiến thức hữu ích trong giáo trình Luật thương mại có giá trị giúp sinh viên tìm hiểu mở rộng và sâu sắc hơn các vấn đề của Luật thương mại. Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền được kết cấu là một chương của giáo trình Luật thương mại với các nội dung chủ yếu:

-     Lý thuyết về cạnh tranh, độc quyền và pháp luật về cạnh tranh, kiểm soát độc quyền;

-     Các hành vi hạn chế cạnh tranh;

-     Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh;

-     Giải quyết vi phạm pháp luật cạnh tranh (thủ tục tố tụng cạnh tranh).

Khối kiến thức bổ trợ

Giáo trình Luật thương mại có thiết kế phần kiến thức bổ trợ, nhằm bổ sung thêm kiến thức cho sinh viên, với hai chương: Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại và pháp luật về sở hữu công nghiệp trong hoạt động thương mại.

Phần quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại cung cấp bổ sung một số kiến thức về việc Nhà nước sử dụng pháp luật là một công cụ quản lý hữu hiệu. Quản lý bằng giấy phép kinh doanh, quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý giá... là những nội dung chính được phân tích trong giáo trình Luật thương mại. Chương pháp luật về sở hữu công nghiệp trong hoạt động thương mại có mục tiêu giúp sinh viên tìm hiểu thêm về quan hệ thương mại liên quan đến sở hữu công nghiệp, không nghiên cứu quy định của pháp luật về sở hữu công nghiệp vì nội dung này đã được trình bày trong giáo trình Luật dân sự.

3.7. Xây dựng giáo trình chuẩn cho môn học Luật lao động

Phương châm và các vấn đề có tính nguyên tắc

Việc soạn thảo giáo trình Luật lao động chuẩn phải được thực hiện theo phương châm căn bản sau:

Thứ nhất, về hình thức: giáo trình Luật lao động phải được kết cấu dưới hình thức là một tài liệu khoa học gốc, có giá trị tham khảo quan trọng nhất. Do đó, về hình thức cũng phải được thiết kế đúng tầm của nó. Các phần trình bày, nói cách khác là cơ cấu các phần, các chương, mục v.v... phải thể hiện được quan điểm này. Giáo trình không phải là sự tập hợp của các bài báo. Sự thể hiện các tư tưởng, ý đồ khoa học trong giáo trình Luật lao động hiện đại phải được "dàn" trên một hình thức thích hợp. Hệ thống các chương, mục, tiết v.v... phải được bố trí khoa học và phù hợp với nội dung khoa học được trình bày. Những cơ cấu phụ trợ khác cũng phải được tính đến và được thể hiện như: lời mở đầu (preface), phần dẫn các nguồn tài liệu tham khảo (references), hệ thống bảng biểu, sơ đồ (diagram), phụ lục (appendix), danh mục tên các vấn đề được nêu trong giáo trình (index). Trong đó các tài liệu lý luận, các văn bản pháp luật lao động, các sách và tài liệu pháp lý liên quan, niên đại các sự kiện chính, các sự kiện quan trọng của Luật lao động qua các thời kỳ khác nhau (chronology of major labour events) v.v... phải được đề cập nhằm bổ sung kiến thức và hệ thống tri thức lịch sử - xã hội gắn liền với sự phát triển của ngành Luật lao động cho độc giả.

Giáo trình Luật lao động không thể được trình bày một cách sơ sài. Trước đây đã từng tồn tại quan điểm cho rằng, trong giáo trình Luật lao động nói riêng, giáo trình nói chung, chỉ nên viết ra những vấn đề mang tính chủ đạo, cơ bản, có tính hệ thống theo kiểu "gạch đầu dòng" để sinh viên đọc một cách hệ thống. Còn lại các chi tiết sẽ được giáo viên lên lớp giảng giải kỹ lưỡng. Tuy nhiên hiện tại quan điểm đó không thể tiếp tục đứng vững bởi ngày nay việc dành nhiều thời gian cho thuyết trình là vô cùng khó khăn. Vì thế, giáo trình Luật lao động hiện đại phải thể hiện là sách tham khảo khoa học quan trọng nhất, chi tiết nhất, toàn diện nhất. Tức là khả năng bao quát của giáo trình là rộng nhất so với các loại tài liệu khác như sách tham khảo (reference book), bài viết khoa học v.v...

Thứ hai, về nội dung: Về mặt nguyên tắc, giáo trình Luật lao động phải thể hiện được các vấn đề sau:

Một là, đảm bảo tính toàn diện: giáo trình Luật lao động phải là một hệ thống tri thức về Luật lao động và các vấn đề liên quan. Đây không phải là vấn đề có tính ôm đồm mà là điều kiện cần của một giáo trình hiện đại. Tính hệ thống toàn diện làm cho giáo trình như một "cơ thể" hoàn chỉnh, như một "sa bàn" về một khoa học có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với các khoa học khác.

Hai là, đảm bảo tính cốt lõi: mặc dù phải đảm bảo tính toàn diện nhưng giáo trình Luật lao động không thể quá chi tiết, thể hiện cả những vấn đề nhỏ nhất của đời sống cũng như các tiểu tiết của pháp luật lao động. Mặt khác không thể thực hiện được điều đó bởi lẽ các nguyên tắc có thể có tính bền vững, còn các phương pháp và chế độ thì thường phải thay đổi theo thời gian, đặc biệt là đối với Luật lao động. Hy vọng về một giáo trình Luật lao động tỷ mỷ là điều khó khăn nếu không muốn nói là hoang đường.

Ba là, đảm bảo tính hàn lâm: là sự thể hiện cao nhất, quan trọng nhất của một khoa học, giáo trình Luật lao động phải thể hiện được điều này. Tính hàn lâm (academic) làm cho giáo trình Luật lao động là tiêu chuẩn về học thuật. Giáo trình Luật lao động phải là sách có tầm cao về lý luận khoa học chuyên ngành, là cơ sở giúp cho sinh viên tiếp cận với các phương pháp khoa học khi học tập và nghiên cứu nó. Như vậy, giáo trình Luật lao động khác hẳn với một sách hướng dẫn theo kiểu "dạy nghề". Nó phải là nơi cung cấp các tri thức luận căn bản và sâu sắc.

Bốn là, đảm bảo tính thực tiễn: ngày nay một giáo trình không thể xa rời thực tế mà phải càng ngày càng gần gũi với đời sống xã hội. Những lý luận cơ bản, trừu tượng phải làm "bà đỡ" cho các xử sự của con người. Khi nghiên cứu Luật lao động, các sinh viên phải hình dung được công việc của họ nếu được "tung vào" thị trường lao động, vào đời thực. Do đó, giáo trình Luật lao động phải phản ánh được những gì có tính thực tế, được chắt lọc từ thực tiễn, để rồi điển hình hóa thành các quy luật, khái niệm, phạm trù lý luận áp dụng cho hầu hết các trường hợp đã dự liệu đã hoặc sẽ xảy ra hoặc có thể áp dụng để giải quyết một vấn đề mới hoàn toàn theo phương pháp tương tự.

Năm là, đảm bảo tính định hướng: giáo trình Luật lao động phải chỉ ra phương pháp nghiên cứu để hiểu biết và phát triển các tri thức đó. Một ví dụ đơn giản là sau khi đọc xong giáo trình Luật lao động, độc giả sẽ xây dựng cho mình một hướng nghiên cứu mới đối với vấn đề tâm huyết, giả sử: "khảo cổ" mối quan hệ lao động hay định dạng quan hệ lao động ở một giai đoạn mới. Giáo trình Luật lao động phải "kích thích" được sinh viên và khơi dậy trong họ khả năng tìm tòi và dẫn dắt sinh viên đi xa từ những cái có được. Vì thế rất cần một phương pháp viết gây ấn tượng, thậm chí tạo xung đột tư tưởng.

Ngoài ra, giáo trình Luật lao động còn phải đảm bảo tính đại chúng, tính cập nhật (có khả năng cập nhật), tính chính trị, tính văn phạm v.v... của một tài liệu khoa học gốc phục vụ cho quá trình nghiên cứu khoa học và học tập của sinh viên.

2. Các vấn đề cơ bản cần thể hiện trong giáo trình Luật lao động

Những nội dung thiết yếu cần được thể hiện trong giáo trình Luật lao động bao gồm:

i)    Những vấn đề lý luận pháp lý về mối quan hệ lao động;

ii)   Những vấn đề lý luận pháp lý về sự bảo vệ lao động;

iii) Những vấn đề pháp lý liên quan khác tới quan hệ lao động và quá trình lao động đó (công đoàn, đại diện của giới sử dụng lao động, cơ chế ba bên, vai trò của nhà nước, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động, đình công, cơ chế giải quyết đình công).

Trong ba nhóm trên, hai nhóm đầu là quan trọng nhất. Chính nó tạo ra cho Luật lao động một sắc thái riêng biệt, trong đó, những vấn đề pháp lý về mối quan hệ lao động tập trung vào quan hệ lao động giữa các bên (người lao động với người sử dụng lao động), những vấn đề pháp lý về sự bảo vệ lao động tập trung vào trình bày một cách khoa học sự bảo vệ của pháp luật đối với người lao động.

Ba nhóm vấn đề lớn đó được thể hiện trong các chương của giáo trình Luật lao động. Các chương, về cơ bản phải quán xuyến được các vấn đề căn bản sau đây:

-    Pháp luật về việc làm và bảo vệ việc làm.

-    Pháp luật về học nghề.

-    Pháp luật về hợp đồng lao động (hình thức pháp lý của quan hệ lao động cá nhân.

-    Pháp luật về thoả ước lao động tập thể (hình thức pháp lý chủ yếu của quan hệ giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động).

-    Pháp luật về quản lý lao động trong các đơn vị sử dụng lao động.

-    Pháp luật về Công đoàn (tổ chức đại diện của người lao động) và hiệp hội của người sử dụng lao động.

-    Pháp luật về quản lý nhà nước về lao động.

-    Pháp luật về điều kiện lao động (thời giờ làm việc-thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội).

-    Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.

-    Pháp luật về đình công và giải quyết đình công.

3. Phương pháp viết giáo trình Luật lao động

Giáo trình Luật lao động cần được tiến hành viết trên cơ sở sử dụng các phương pháp chủ yếu sau đây:

- Phương pháp tiếp cận lịch sử: các kiến thức về Luật lao động qua các thời kỳ, các giai đoạn khác nhau từ khi hình thành cho đến ngày nay đều phải được nghiên cứu và hệ thống trong các nội dung thích ứng của giáo trình. Các dữ kiện lịch sử đó phải được phân tích và đánh giá trên bình diện lịch sử, nhằm làm nổi bật đặc điểm của sự hình thành và phát triển của Luật lao động.

- Phương pháp thống kê: các số liệu, tài liệu về lao động, việc làm, thất nghiệp, số lượng các vụ tranh chấp lao động, số lượng các cuộc đình công đã xảy ra, các vụ án lao động được thụ lý giải quyết, các cuộc đình công được giải quyết thông qua con đường xã hội hoặc con đường tài phán v.v... cần được phản ánh dưới những cách thức phù hợp trong giáo trình Luật lao động.

- Phương pháp phân loại: các quan điểm lý luận, các sự kiện, quá trình, hiện tượng cần được phân loại một cách khoa học

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: các sự kiện, quá trình, quy định cần được mổ xẻ, phân tích, đánh giá một cách nghiêm túc, có tính phê phán để khái quát hoá thành hệ thống lý luận, tức là rút ra những kết luận khoa học để phục vụ cho quá trình nghiên cứu và ứng dụng vào việc xử lý các vấn đề của thực tiễn

- Phương pháp so sánh: giáo trình Luật lao động cần thể hiện được sự so sánh giữa các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới để sinh viên có thể tham khảo khi nghiên cứu giáo trình. Những nội dung căn bản nhất của pháp luật lao động của các nước trong khu vực và một số quốc gia trên thế giới cần được đưa vào các phần thích hợp của giáo trình để vừa tăng tính hấp dẫn, vừa tăng khả năng tiếp cận và mở rộng kiến thức phục vụ cho việc phát triển khả năng giải quyết công việc trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hợp tác quốc tế về lao động.

 

Phần thứ tư

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP

 

a.   Cần có một chương trình tổng thể về giáo trình đào tạo đại học luật trong đó, xác định những giáo trình cụ thể, với mục đích yêu cầu cụ thể

Để có được bộ giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật, các cơ sở đào tạo đại học luật cần phải xây dựng được một chương tình tổng thể về giáo trình. Chương trình tổng thể này phải đáp ứng được những yêu cầu cơ bản theo quy định về chương trình khung. Bên cạnh đó, chương trình tổng thể về bộ giáo trình phải phản ánh được thế mạnh và đặc thù của từng cơ sở đào tạo cũng như yêu cầu thực tiễn của sản phẩm đào tạo. Trên cơ sở chương trình tổng thể xây dựng bộ giáo trình, các nhóm biên soạn giáo trình xây dựng những nội dung trong giáo trình của từng môn học để đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống giáo trình.

b.   Xác định rõ phạm vi về nội dung phù hợp với bậc đào tạo đại học luật, xây dựng đề cương thống nhất trong toàn bộ bộ giáo trình để tránh sự trùng lặp về kiến thức

Bộ giáo trình đào tạo đại học luật cần được xây dựng một cách đồng bộ. Mỗi giáo trình khi xây dựng phải được đặt trong mối quan hệ với các giáo trình khác trong cùng một chương trình đào tạo, cùng một cơ sở đào tạo để đảm bảo khối kiến thức được trình bày trong các giáo trình không trùng lặp. Sở dĩ như vậy vì các môn khoa học pháp lý có mối quan hệ mật thiết với nhau gắn liền với hệ thống pháp luật thực định. Một nội dung của một vấn đề pháp luật có thể liên quan đến nhiều môn học khác nhau, vì thế vấn đề khoa học về nó có thể được trình bày trong các giáo trình của các môn học đó. Để tránh tình trạng trùng lặp, các nhóm biên soạn giáo trình cần có sự trao đổi thống nhất để giới những vấn đề cần trình bày trong giáo trình của mình.

Hơn nữa, việc trao đổi thống nhất giữa các nhóm biên soạn giáo trình còn là cơ sở để đảm bảo tính thống nhất của các quan điểm khoa học trong một bộ giáo trình được sử dụng trong một cơ sở đào tạo. Các quan điểm khoa học về các vấn đề có thể khác nhau, nhưng khi đặt một vấn đề khoa học nào đó trong một bộ giáo trình thống nhất thì cần phải đảm bảo tính thống nhất và chính thống về các quan điểm khoa học. Việc thống nhất về các quan điểm mang tính chính thống trong một bộ giáo trình đảm bảo được sự thống nhất trong việc giảng dạy, đánh giá kết quả nghiên cứu và học tập của sinh viên một cách thống nhất.

c.  Xác định rõ mục đích của giáo trình đào tạo đại học với mục đích của đào tạo đại học

Mục tiêu của giáo trình đào tạo đại học luật là nhằm cung cấp cho sính viên những kiến thức cơ bản về nội dung của ngành luật, về nội dung của pháp luật Việt Nam hiện hành để trên cơ sở đó sinh viên có thể áp dụng các quy định của pháp luật trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể thực tiễn và có thể đánh giá nhất định về thực tiễn lập pháp và thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam.

Việc xác định rõ mục đích của mỗi giáo trình có ý nghĩa rất lớn đối với việc đảm bảo nội dung cần thiết của giáo trình đào tạo đại học luật. Với mỗi bậc học khác nhau, nội dung vấn đề cần được trình bày ở những mức độ khác nhau, vì vậy, xác định mục đích đào tạo sẽ là cơ sở để các nhà biên soạn giáo trình xác định mức độ kiến thức cần thiết được trình bày trong giáo trình đào tạo, tránh được tình trạng kiến thức trong giáo trình đào tạo quá sơ sài (chỉ phù hợp với cấp đào tạo thấp hơn như trung cấp hoặc cao đẳng) hoặc quá chuyên sâu (chỉ phù hợp với chương trình đào tạo sau đại học).

d.  Xác định một cách cụ thể về tỉ lệ giữa các khối kiến thức trong mỗi giáo trình

Về cấu trúc nội dung, giáo trình luật hình sự đòi hỏi phải được tổ chức theo ba khối kiến thức - Khối kiến thức cốt lõi (cần biết), khối kiến thức hữu ích (nên biết) và khối kiến thức bổ trợ (có thể biết). Vấn đề đặt ra là cần xác định đúng nội dung của từng khối kiến thức và liên kết các khối kiến thức đó trong từng tiểu mục, mục, chương và trong cả giáo trình. Sự liên kết các khối kiến thức có tính tuyệt đối trong cả giáo trình nhưng chỉ có tính tương đối trong từng chương, từng mục và từng tiểu mục. Trong cả giáo trình đòi hỏi phải có đủ cả ba khối kiến thức nhưng trong chương, mục, tiểu mục cụ thể có thể chỉ có một hoặc hai khối kiến thức.

Khối kiến thức cốt lõi của môn khoa học pháp lý chuyên ngành là những kiến thức tối thiểu về ngành luật mà mỗi sinh viên phải lĩnh hội được. Nó bao gồm những lý luận cơ bản về ngành luật theo quan điểm chính thống mà trên cơ sở đó sinh viên có thể hiểu và áp dụng được các quy định của pháp luật hiện hành. Ở đây cần chú ý, những vấn đề lý luận thuộc khối kiến thức cốt lõi phải được giới hạn ở mức độ chuyên sâu vừa đủ ở mức cần thiết để sinh viên có thể hiểu và áp dụng được pháp luật mà không thể là kiến thức chuyên sâu thuộc chương trình đào tạo sau đại học.

Khối kiến thức hữu ích của môn học có thể là những kiến thức có tính giới thiệu, so sánh các quan điểm khoa học hoặc đánh giá pháp luật hiện hành cũng như đề cập các vấn đề thực tiễn phức tạp mà việc giải quyết đòi hỏi phải có sự hiểu biết sâu hơn kiến thức cốt lõi.

Khối kiến thức bổ trợ của các môn khoa học pháp lý chuyên ngành có thể là những kiến thức về lịch sử phát triển của lĩnh vực pháp luật cụ thể, kiến thức về so sánh với pháp luật của các nước, …

Trong ba khối kiến thức, khối kiến thức cốt lõi là khối kiến thức dễ xác định thống nhất vì là khối kiến thức có tính tương đối cố định. Trong khi đó thì hai khối kiến thức còn lại có tính "mở", việc xác định giới hạn của những khối kiến thức này rất dễ khác nhau giữa các tác giả hoặc nhóm tác giả. Nếu không chú ý có thể dẫn đến tình trạng hai khối kiến thức này được xây dựng "quá rộng", "quá sâu" lấn sang kiến thức của chương trình đào tạo sau đại học hoặc bị bỏ qua, không được xây dựng một cách đầy đủ, cẩn thận. Theo chúng tôi, khối kiến thức cốt lõi là khối kiến thức giữ vai trò chính, các khối kiến thức khác chỉ giữ vai trò bổ sung, phục vụ khối kiến thức cốt lõi. Khối kiến thức hữu ích và khối kiến thức bổ trợ chỉ là sự mở thêm khối kiến thức cốt lõi theo "chiều sâu" và "chiều rộng". Điều này đòi hỏi phải có sự cân nhắc hết sức thận trọng khi xác định mức độ mở. Chúng ta nên dừng việc mở này ở mức cần thiết và các điều kiện khác cho phép. Việc trình bày khối kiến thức hữu ích và khối kiến thức bổ trợ nên thiên theo hướng giới thiệu, gợi mở. Hai khối kiến thức này nên được xem như sự mở đầu của khối kiến thức chuyên ngành trong chương trình đào tạo sau đại học.

Việc xác định rõ các khối kiến thức nói trên không chỉ là cơ sở cho việc biên soạn giáo trình, cơ sở thống nhất cho việc chuẩn bị giáo án và thuyết trình cũng như thảo luận mà còn là cơ sở thống nhất cho việc ra đề thi, kiểm tra, xây dựng thang điểm của đáp án. Việc xác định này cũng là cơ sở cho việc xây dựng chương trình đào tạo cao học và tiến sĩ.

e.   Xác định các giáo trình trên cơ sở chương trình khung đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành

Giáo trình phải gắn với chương trình đào tạo, vì vậy khi biên soạn giáo trình đào tạo nói chung và đào tạo đại học luật nói riêng, những người biên soạn không thể không căn cứ và chương trình khung đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Việc biên soạn giáo trình gắn với chương trình khung có những ý nghĩa cơ bản sau đây:

Thứ nhất, xét ở phương diện xây dựng bộ giáo trình chuẩn đào tạo đại học luật, chương trình khung giúp cho các cơ sở đào tạo đại học luật có thể xác định được số lượng các giáo trình tối thiểu cần được biên soạn trong chương trình đào tạo của ngành luật. Bởi vì, chương trình khung là chương trình bắt buộc cho tất cả các cơ sở giáo dục đại học có đào tạo trình độ đại học[27]. Thêm vào đó, ngoài những giáo trình cần thiết trên cơ sở chương trình khung, các cơ sở đào tạo cũng có thể xây dựng các giáo trình cho các môn học cũng như các nội dung có liên quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng năng lực hoạt động của sinh viên sau khi tốt nghiệp.

Ngoài ra, chương trình khung còn giúp cho các nhà biên soạn giáo trình tránh sự trùng lặp về kiến thức giữa các giáo trình của các môn học khác nhau. Các môn khoa học pháp lý trong chương trình đào tạo có mỗi quan hệ mật thiết với nhau, vì vậy các nhóm biên soạn giáo trình khi biên soạn giáo trình của môn học dựa trên cơ sở chương trình khung sẽ xác định được nội dung cần được trình bày trong giáo trình của mình, tránh được sự trùng lặp về nội dung giữa các giáo trình của các môn học gần nhau. Tất nhiên, để đảm bảo được điều này, đòi hỏi các nhóm biên soạn giáo trình phải có sự trao đổi về các vấn đề có liên quan. Điều này vừa đảm bảo tính thống nhất của các quan điểm khoa học, vừa đảm bảo mối liên hệ về nội dung giữa các giáo trình và môn học khác nhau, đồng thời cũng tránh được những trùng lặp về nội dung, đảm bảo sự thống nhất trong toàn bộ nội dung của bộ giáo trình.

Thứ hai, xét ở khía cạnh của từng giáo trình cụ thể, chương trình khung đào tạo đại học là cơ sở để xác định nội dung tối thiểu của mỗi giáo trình khi biên soạn. Chương trình khung đã xác định lượng kiến thức cốt lõi của mỗi môn học, vì thế, từ chương trình khung, các nhà biên soạn giáo trình có thể xác định những nội cung cần phải có trong giáo trình mà mình biên soạn.

Hơn nữa, cũng trên cơ sở chương trình khung, những người biên soạn giáo trình cũng có thể định lượng một cách cơ bản số trang của giáo trình. Theo đó, tuỳ thuộc vào thời lượng của mỗi học phần hoặc môn học, các nhà biên soạn giáo trình cần thống nhất về định lượng số trang của mỗi giáo trình trên cơ sở số trang giáo trình theo giờ. Việc định lượng số trang này có ý nghĩa rất lớn là đảm bảo được mức độ chuyên sâu cần thiết của vấn đề được trình bày trong giáo trình, sự cân đối về nội dung giữa các giáo trình. Đồng thời việc giới hạn định lượng số trang cho mỗi giáo trình cũng giúp cho những người biên soạn giáo trình cân nhắc về nội dung cần thiết được trình bày trong giáo trình.

f.   Xác định tỉ lệ hợp lý giữa kiến thức khoa học pháp lý và pháp luật thực định

Giáo trình cần xác định một tỉ lệ hợp lý giữa khối kiến thức khoa học pháp lý và khối kiến thức luật thực định ở mức độ hợp lý. Giáo trình đào tạo đại học luật có những đặc thù nhất định như đã phân tích ở trên là không thể tách rời với luật thực định. Tuy nhiên, bản thân giáo trình là một công trình hàm chứa tính khoa học trong đó, vì thế cuốn giáo trình không thể là một cuốn sách giải thích pháp luật thông thường. Nội dung của giáo trình phải chứa đựng những kiến thức khoa học pháp lý. Hai yếu tố này phải có sự gắn kết với nhau. Vì vậy, đối với các nhà biên soạn giáo trình, nhất là các giáo trình của các môn khoa học pháp lý chuyên ngành đòi hỏi phải giải quyết được mối tương quan giữa pháp luật thực định và kiến thức khoa học trong nội dung của một giáo trình. Nếu không giải quyết một cách hợp lý mối quan hệ giữa pháp luật thực định và kiến thức khoa học pháp lý trong một giáo trình thì sẽ có thể dẫn đến tình trạng hoặc giáo trình thiếu tính thời sự và thiếu thực tiễn mà chỉ là những kiến thức lý luận thuần tuý; hoặc giáo trình chỉ là cuốn sách giải thích pháp luật mang tính chất phổ thông và nó sẽ luôn phải bổ sung, sửa chữa khi pháp luật thực định thay đổi và như thế sẽ không đảm bảo được tính ổn định của giáo trình.

Điểm đáng chú ý khi giải quyết mối quan hệ này là tỉ lệ này trong giáo trình của mỗi môn luật cũng không đồng đều. Trong một chương, một mục của giáo trình, tỉ lệ này cũng không nhất thiết phải có sự đồng đều. Điều này tuỳ thuộc vào đặc điểm về nội dung của từng môn luật, từng chương, từng phần. Vì thế, việc xác định tỉ lệ giữa khoa học pháp lý và nội dung pháp luật thực định đòi hỏi các nhà biên soạn giáo trình phải có sự cân nhắc, thảo luận một các kỹ lưỡng thì mới có thể có một cuốn giáo trình.

Xét ở khía cạnh bộ giáo trình đào tạo đại học luật, tỉ lệ giữa luật thực định và kiến khoa học pháp lý cũng cần phải được giải quyết một cách hợp lý. Trong các môn khoa học pháp lý, có những môn học có tính chất lý luận cao, vì thế đối với giáo trình của những môn đó, không thể đòi hỏi nhiều nội dung của pháp luật thực định mà nội dung của nó phải là kiến thức khoa học pháp lý, chẳng hạn như lý luận về nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, có những môn gắn liền với pháp luật thực định, vì thể tỉ lệ giữa luật thực định và kiến thức khoa học pháp lý sẽ khác với các môn khoa học pháp lý có tính chất lý luận thuần tuý lý luận, chẳng hạn giáo trình của các môn khoa học pháp lý chuyên ngành.

g.  Xây dựng một cơ chế khoa học trong việc thẩm định giáo trình

Để đảm bảo chất lượng của giáo trình, các cơ sở đào tạo cần phải xây dựng một cơ chế nghiêm ngặt trong việc thẩm định giáo trình. Đây là một việc làm rất có ý nghĩa, nó không chỉ đảm bảo tính pháp lý của giáo trình mà nó còn đảm bảo uy tín cũng như đảm bảo chính thống về mặt khoa học của giáo trình.

Cơ chế thẩm định giáo trình phải giải quyết được một số vấn để cơ bản sau:

Thứ nhất, trình tự, thủ tục thẩm định giáo trình. Trong trình tự, và thủ tục cần xác định rõ các bước cũng như thành phần tham gia vào quá trình thẩm định giáo trình.

Thứ hai, hội đồng thẩm định, phải là những chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực chuyên ngành. Hội đồng thẩm định cần có những người thuộc giới học thuật và những người làm công tác thực tiễn pháp luật.

h.   Xây dựng những tiêu chuẩn cụ thể về nội dung và hình thức của giáo trình đào tạo đại học luật

Để đảm bảo tính thống nhất trong việc đào tạo cũng như giảng dạy và phục vụ tốt việc nghiên cứu và học tập của người học, ngoài những vấn đề mang tính chất học thuật về nội dung, cũng nhưng kết cấu khoa học của các chương và các mục trong một giáo trình, các giáo trình đào tạo đại học luật cần phải đảm bảo được những yêu cầu về hình thức:

Thứ nhất, trong mỗi chương cần có phần câu hỏi. Tính chất câu hỏi có sự khác nhau tuỳ thuộc vào nội dung của từng chương. Các câu hỏi có thể tập trung vào các vấn đề mang tính chất tranh luận về các quan điểm khoa học để làm rõ những vấn đề về mặt lý luận hoặc các câu hỏi có thể dưới dạng các bài tập ứng dụng liên quan đến việc áp dụng pháp luật thực định.

Thứ hai, phần tài liệu tham khảo cũng là một phần nên đưa vào nội dung của giáo trình. Phần này rất có ích đối với người đọc khi muốn mở rộng kiến thức của mình về một vấn đề nào đó. Ở đây, cần lưu ý là ngoài những tài liệu được trích dẫn và sử dụng để viết giáo trình thì các tài liệu tham khảo còn bao gồm cả những tài liệu có liên quan đến vấn đề. Vì thế, các tài liệu tham khảo có thể xếp theo các chương của giáo trình hoặc là được trình bày ở phần cuối của giáo trình cho toàn bộ giáo trình.

i.   Giải quyết một cách hợp lý mối quan hệ giữa giáo trình với sách chuyên khảo và sách tham khảo

Với quan niệm là nội dung của giáo trình bao gồm các kiến thức cơ bản, toàn diện, phổ biến và tương đối ổn định của một môn học, do đó, khi biên soạn giáo trình, nhóm biên soạn cần phải xác định một cách cụ thể những nội dung nào và mức độ chuyên sâu của những nội dung đócần được trình bày trong giáo trình. Những nội dung khác hoặc mức độ chuyên sâu hơn cần nên được trình bày trong các tài liệu tham khảo hoặc các sách chuyên khảo. Nói cách khác, nhóm biên soạn giáo trình cần xác định và giải quyết một cách hợp lý mối quan hệ giữa giáo trình với tài liệu tham khảo và sách chuyên khảo. Việc xác định một cách hợp lý mối quan hệ này có ý nghĩa rất lớn đối với việc đảm bảo nội dung kiến thức pháp lý cơ bản cần được trình bày trong giáo trình phù hợp với mục đích và chương trình đào tạo đại học.

j.  Giải pháp về tổ chức biên soạn

Để đảm bảo cho việc biên soạn giáo trình được thống nhất theo đúng yêu cầu đặt ra đòi hỏi hướng hoàn thiện giáo trình cần được thảo luận một cách đầy đủ và cặn kẽ giữa các tác giả cùng với sự tham gia của đông đảo chuyên gia trong các lĩnh vực. Trên cơ sở thảo luận như vậy cần xây dựng được đề cương chi tiết của giáo trình. Trong đó phải thể hiện được kết cấu của cả giáo trình cũng như kết cấu của từng chương chi tiết đến tiểu mục với các yêu cầu cụ thể về nội dung thể hiện. Quá trình xây dựng đề cương chi tiết được thực hiện trên cơ sở cá nhân được phân công chuẩn bị dự thảo theo định hướng chung và tập thể tác giả cùng đóng góp ý kiến cho dự thảo. Chỉ sau khi đề cương chi tiết đã được thông qua các tác giả mới triển khai biên soạn nội dung. Trong quá trình biên soạn nếu thấy cần điều chỉnh đề cương thì các tác giả nêu vấn đề để tập thể tác giả cùng xem xét. Sau khi nội dung giáo trình đã được biên soạn xong chủ biên làm nhiệm vụ biên tập nội dung để đảm bảo tính thống nhất của giáo trình và sau đó sẽ được biên tập kỹ thuật.

 



[1]. Ở đây chỉ xin nêu những đặc trưng chung của giáo trình để so sánh với các sách và tài liệu khác.

[2]. Xem: Văn tân, Từ điển Tiếng Việt, NXB KHXH, Hà Nội, 1994, tr.351.

[3]. GS.Vũ Ngọc Khánh, Từ điển Văn hoá giáo dục Việt Nam, NXB Thông tin, Hà Nội 2003, tr.133.

[4]. American Heritage Dictionary. Third Edition. Houghton Miffin Company. Page 1857.

[5]. Xem Studying law in Australia 2005. CALD 2004. IưSN 1038-975X.

[6]. Law 2004. Postgraduate Handbook. Faculty of Law, University of Melbourne.

[7]. http://www.law.harvard.edu/academics/registrar/catalog/

[8]. Xem. http://law.nus.edu.sg/current/course/compulsory.htm

[9]. http://www.law.harvard.edu/academics/registrar/catalog/

[10]. Khảo sát này được Nhóm nghiên cứu đề tài giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội thực hiện năm 1999. Đối tượng khảo sát là sinh viên và cựu sinh viên các hệ đào tạo khác nhau của Trường. Các kết quả được tổng hợp từ 163 phiếu nhận lại được. Ngoài khảo sát này, hiện nay chưa có cơ sở đào luật nào tạo tiến hành khảo sát toàn diện như vậy về giáo trình. Thời gian khảo sát tuy đã cách cách đây khá lâu song số liệu của chúng vẫn có giá trị vì nhiều giáo trình tái bản với sự sửa đổi nhỏ.

[11]. Giáo trình Luật so sánh của Trường Đại học Luật Hà Nội được xuất bản lần đầu tiên vào tháng 4/2008.

[12]. Điều 35, Luật Giáo dục.

[13]. Theo chương trình giảng dạy hiện nay phần chung gồm hai học phần và phần các tội phạm là một học phần.

[14]. Ngoài phần câu hỏi và tài liệu thạm khảo ở cuối mỗi chương có thể có thêm phần liệt kê các thuật ngữ cơ bản thuộc nội dung của chương giáo trình. Đó là những thuật ngữ mà việc nắm được nội dung của những thuật ngữ này trong từng chương sẽ giúp hiểu được nội dung cơ bản của từng chương giáo trình.

[15]. Hiện nay, có giáo trình luật hình sự Việt Nam trình bày cả phần lịch sử luật hình sự Việt Nam thời phong kiến. Chúng tôi cho rằng không nên quá mở rộng như vậy.

[16]. Trong một số giáo trình luật hình sự Việt Nam, vấn đề này được gọi là các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Cách gọi này chưa thể hiện được rõ và trực tiếp bản chất của vấn đề này.

[17]. Trong các giáo trình luật hình sự Việt Nam hiện nay, nhóm vấn đề này có tên gọi là các giai đoạn thực hiện tội phạm. Tên gọi như vậy chưa thật phù hợp với nội dung chính được đặt ra của nhóm vấn đề này. Đó là trách nhiệm hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt ở các tội phạm cố ý.

[18]. Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không được ghép vào nhóm vấn đề này vì đây là một loại trường hợp miễn trách nhiệm hình sự nên xếp vào nhóm vấn đề: Miễn, giảm trách nhiệm hình sự.

[19]. Nhóm vấn đề này có cả nội dung đối với người chưa thành niên phạm tội.

[20]. Nhóm vấn đề này có cả nội dung đối với người chưa thành niên phạm tội.

[21]. Khách thể của tội phạm đều được phản ánh gián tiếp trong CTTP qua đối tượng tác động của tội phạm hoặc qua mục đích phạm tội. Do vậy, khi trình bày dấu hiệu pháp lý của CTTP từng tội danh không nên có mục khách thể của tội phạm như thực tế hiện nay ở trong một số chương của giáo trình. Thay vào đó là nội dung trình bày đối tượng tác động của tội phạm hoặc mục đích phạm tội.

[22]. Kim Thoa: "Đổi mới giáo dục đại học: Bắt đầu từ đâu để đến đâu?" Báo Hà Nội mới số ra ngày 1.4.2004.

[23]. Xem: phần bài viết PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Khoa Sư phạm, Đại học Quốc gia HN.

[24]. Điều 35 Luật Giáo dục.

[25]. Điều 36 Luật Giáo dục.

[26]. Phần này thuộc nhiệm vụ của Giáo trình Luật dân sự.

[27]. Chương trình khung giáo dục đại học ngành luật, Ban hành kèm theo Quyết định số 29/2005/QĐ-BGD&ĐT ngày 16 tháng 9 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.

 

File đính kèm downloadTải về downloadTải về downloadTải về