Chương I
THỰC TRẠNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC TRIỂN KHAI
LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ NĂM 2008
I. SƠ LƯỢC VỀ TỔ CHỨC CÁN BỘ NGÀNH THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRƯỚC KHI BAN HÀNH LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1. Về tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý THADS
Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến khi có Pháp lệnh THADS năm 1989 là giai đoạn mà tổ chức hoạt động THADS chưa được dựa trên một văn bản pháp luật chính thức có hiệu lực pháp lý cao do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Công tác THADS đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Toà án. Giai đoạn từ 1945 đến 1950 ở miền Bắc, trên cơ sở Sắc lệnh ngày 10 tháng 10 năm 1945 về việc tạm thời giữ các luật lệ hiện hành của chế độ cũ với điều kiện những điều khoản trong các luật này “không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà”, hoạt động THADS chủ yếu vẫn do Thừa phát lại thực hiện. Thừa phát lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm và quản lý, hành nghề trên cơ sở quy định của pháp luật, được hưởng thù lao từ khách hàng theo biểu giá quy định. Tổ chức Thừa phát lại chủ yếu tồn tại, hoạt động ở các thành phố lớn, còn ở các vùng nông thôn việc thi hành án do chính quyền cơ sở đảm nhiệm mà chủ yếu là Ban Tư pháp xã. Giai đoạn 1950 - 1959, việc THADS do một Thẩm phán Toà án cấp huyện thực hiện dưới sự chỉ đạo của chánh án, còn ở miền Nam việc THADS vẫn do Thừa phát lại thực hiện cho đến năm 1975. Từ năm 1960-1980, việc thi hành án do nhân viên chấp hành án và sau đó là CHV đặt tại các toà án nhân dân địa phương thực hiện. Nhà nước không tổ chức cơ quan THADS riêng mà chỉ đặt CHV tại các toà án nhân dân địa phương để thực hiện chuyên trách việc THADS. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trách nhiệm của Uỷ ban hành chính xã, phường cùng các cơ quan có liên quan trong việc hỗ trợ thi hành án. Từ năm 1981 đến năm 1989 ở địa phương, tại các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Phòng thi hành án nằm trong cơ cấu bộ máy và biên chế của Toà án để giúp chánh án quản lý chỉ đạo công tác thi hành án, ở các Toà án cấp huyện có các CHV và cán bộ làm công tác thi hành án. Trong việc quản lý và chỉ đạo công tác thi hành án, chánh án Toà án nhân dân huyện, quận báo cáo kết quả công tác thi hành án với Sở Tư pháp và Toà án nhân dân tỉnh, thành phố báo cáo công tác THADS địa phương mình với Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao.
Có thể thấy rằng trong thời kỳ này tổ chức bộ máy cũng như nguyên tắc hoạt động của cơ quan thi hành án chưa được chú trọng. Cơ chế quản lý và tổ chức thi hành án chưa tạo được vị trí của CHV tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra. Tổ chức và hoạt động thi hành án là một giai đoạn khép kín trong Toà án và tuỳ thuộc vào sự chỉ đạo của chánh án Toà án nhân dân địa phương. Do đó, tình trạng án xét xử xong không được thi hành chiếm tỉ lệ ngày càng cao trong lượng án phải thi hành hàng năm.
Giai đoạn từ năm 1990 đến trước khi có Pháp lệnh THADS năm 1993, cơ quan THADS, CHV vẫn thuộc Toà án, do Chánh án Toà án trực tiếp chỉ đạo về nghiệp vụ và chịu trách nhiệm báo cáo cấp trên về kết quả của hoạt động thi hành án. Do Tòa án vừa là cơ quan xét xử duy nhất, vừa là cơ quan làm nhiệm vụ thi hành án, dễ dẫn đến việc chưa thực sự bảo đảm tính khách quan và quá tải trong hoạt động THADS. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003, việc Hiến pháp 1992 và các Luật về tổ chức bộ máy được ban hành đã đặt ra những nguyên tắc, nền tảng cho quá trình cải cách tư pháp, trong đó công tác THADS được đổi mới một cách cơ bản thông qua việc Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ. Từ đó, hệ thống các cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS được hình thành từ Trung ương đến địa phương trong phạm vi cả nước, hoạt động độc lập, tách khỏi Toà án nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để toà án tập trung thực hiện chức năng xét xử. Hệ thống cơ quan quản lý THADS đã được hình thành ở ba cấp gồm Cục quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp; Phòng quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng; Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; phòng tư pháp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Các cơ quan thi hành án cũng được hình thành ở hai cấp là Phòng thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội thi hành án thuộc Phòng Tư pháp. So với giai đoạn trước đó thì trong giai đoạn này công tác THADS đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt sau nhiều năm trì trệ. Theo kết quả thống kê chưa đầy đủ, từ năm 1995 đến năm 2003, số lượng vụ việc mà các cơ quan THADS thụ lý và giải quyết ngày càng tăng[1]. Tuy nhiên, sau 10 năm thi hành, Pháp lệnh THADS năm 1993 bộc lộ nhiều bất cập trước những đòi hỏi khách quan của quá trình đổi mới, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đặc biệt là những vướng mắc về cơ chế quản lý, mô hình tổ chức thi hành án chưa phù hợp và ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.
Giai đoạn từ năm 2004 đến trước khi có Luật THADS năm 2008. Theo quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004 thì mô hình tổ chức THADS gồm có cơ quan quản lý THADS và cơ quan THADS. Cơ quan quản lý THADS gồm Chính phủ thống nhất quản lý công tác THADS; các cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về THADS bao gồm: Bộ Tư pháp, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Để cụ thể hoá thẩm quyền quản lý nhà nước về công tác THADS, tổ chức các cơ quan THADS, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 quy định về cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và cán bộ, công chức làm công tác THADS. Theo đó, cơ quan quản lý nhà nước về công tác THADS bao gồm Cục THADS thuộc Bộ Tư pháp (cơ quan giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác THADS trong phạm vi cả nước), Sở Tư pháp (cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý nhà nước về công tác thi hành án trên địa bàn cấp tỉnh, thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn quản lý đối với cơ quan THADS ở địa phương theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); Phòng Tư pháp (cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quản lý về công tác THADS trên địa bàn cấp huyện). So với Pháp lệnh THADS năm 1993 thì Pháp lệnh THADS năm 2004 đã có bước tiến bộ rõ rệt trong việc phân cấp quản lý nhà nước về THADS, xác định rõ hơn về nội dung quản lý nhà nước về THADS của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Uỷ ban nhân dân cấp huyện, tạo cơ sở pháp lý để hệ thống các cơ quan này hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, qua thực tiễn thực hiện Pháp lệnh THADS năm 2004 cũng cho thấy có những hạn chế, vướng mắc trong chế định về các cơ quan quản lý THADS. Ở một số nơi, các cấp chính quyền do chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, vai trò của công tác thi hành án nên chưa làm tròn trách nhiệm chỉ đạo thực hiện việc tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc thi hành án ở địa phương. Việc giao cho cơ quan tư pháp giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện quản lý nhà nước về thi hành án ở địa phương cũng chưa hợp lý vì đây không phải là những cơ quan trực tiếp tổ chức việc thi hành án nên không nắm chắc được các vụ việc cụ thể, không thể tham mưu kịp thời, đầy đủ cho Uỷ ban nhân dân về những quy định cần thiết liên quan đến công tác thi hành án.
Cơ quan trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định của Toà án theo Pháp lệnh THADS năm 2004 bao gồm THADS cấp tỉnh và THADS cấp huyện. THADS cấp tỉnh có các phòng chuyên môn trực thuộc. Như vậy, so với Pháp lệnh THADS năm 1993 thì Pháp lệnh THADS năm 2004 đã tạo ra một bước tiến rõ rệt trong việc nâng cao vị trí, trách nhiệm của cơ quan THADS. Theo đó, vị thế của cơ quan THADS đựơc nâng cao một bước, độc lập hơn trong tác nghiệp của mình. Cơ quan THADS không còn là một phòng, đội thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp như trước đây mà có tư cách độc lập nhất định. Việc quy định thành lập các đơn vị trực thuộc trong cơ quan THADS cấp tỉnh cũng như quy định chức danh thẩm tra viên tại các cơ quan THADS đã góp phần hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan THADS. Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp thì hệ thống cơ quan THADS hiện nay vẫn còn những vướng mắc, chưa thực sự độc lập trong tổ chức và hoạt động, trong chừng mực nhất định còn lệ thuộc vào Sở Tư pháp nhất là trong khâu tổ chức cán bộ.
Về cơ chế quản lý THADS theo quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004 cho thấy pháp luật hiện hành đã xây dựng được cơ chế quản lý theo ngành kết hợp quản lý theo lãnh thổ, tạo ra cơ chế quản lý tương đối phù hợp được thể hiện trên các mặt sau:
Một là, cơ chế quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ đã tạo ra cơ chế tương đối thích hợp, giúp cho hoạt động THADS được thống nhất trong toàn quốc, hiệu quả được nâng cao, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Hai là, việc giao cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác THADS ở địa phương đã tạo điều kiện cho sự phối hợp giữa các ban ngành trong việc tổ chức thi hành án, đặc biệt là các vụ việc phức tạp, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Ba là, việc giao cho Bộ Tư pháp quản lý thống nhất về mặt tổ chức và nghiệp vụ thi hành án đã giúp cho việc hướng dẫn, chỉ đạo được thống nhất trong phạm vi cả nước, đồng thời việc quản lý đội ngũ CHV, cán bộ, công chức cơ quan THADS được chặt chẽ từ khâu tuyển dụng cán bộ, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chức danh CHV, thông qua đó đánh giá đúng năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ thi hành án, xây dựng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý cán bộ, thực hiện các chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với công chức thi hành án được chính xác, phát huy hiệu quả.
So với Pháp lệnh THADS năm 1993 thì Pháp lệnh THADS năm 2004 về cơ bản vẫn giữ nguyên mô hình tổ chức THADS nhưng quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện trong quản lý nhà nước về công tác THADS ở địa phương.
Tuy nhiên, cơ chế quản lý THADS theo quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004 cũng còn nhiều hạn chế và còn nhiều quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng cần tổ chức các cơ quan THADS theo hệ thống dọc, độc lập với uỷ ban nhân dân và cơ quan tư pháp địa phương;
Quan điểm thứ hai cho rằng cần phân cấp hẳn công tác thi hành án cho Uỷ ban nhân dân địa phương đảm nhiệm, Bộ Tư pháp chỉ làm chức năng quản lý nhà nước thuần tuý mà không trực tiếp chỉ đạo cụ thể đối với hoạt động này;
Quan điểm thứ ba thì đề nghị cơ bản giữ mô hình tổ chức thi hành án như hiện nay, vừa quản lý theo hệ thống dọc, vừa kết hợp phân cấp hợp lý cho địa phương.
Ngoài ra, việc quy định cơ chế tham gia của nhiều ngành, nhiều cơ quan, tổ chức trong công tác thi hành án như hiện nay đã làm cho công tác thi hành án ở trong tình trạng bị phân tán, nhiều đầu mối thiếu tập trung thống nhất cả về quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện. Sự phân tán, cắt khúc này ảnh hưởng không nhỏ đến các quan hệ giám sát, chỉ đạo, phối hợp, hỗ trợ, tham gia của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong công tác thi hành án, nhất là sự phối hợp giữa các cơ quan thi hành án và chính quyền địa phương. Đặc biệt do chưa có sự gắn kết giữa THADS và thi hành án hình sự nên công tác THADS gặp phải những vướng mắc khi mà trong nhiều trường hợp cùng một bản án có hai cơ quan chịu trách nhiệm ra quyết định và tổ chức thi hành (cơ quan thi hành án hình sự chịu trách nhiệm thi hành hình phạt tù, còn cơ quan THADS chịu trách nhiệm thi hành phần án phí, tiền phạt và phần dân sự trong các bản án hình sự). Sự chưa gắn kết đó cũng tạo không ít khó khăn cho cơ quan THADS trong việc xác minh điều kiện thi hành án của những bị can, bị cáo bị tạm giam, người bị kết án, khó khăn trong việc tống đạt các loại giấy tờ về thi hành án có liên quan đến quá trình thi hành phần nghĩa vụ dân sự.
Nhìn một cách tổng quát có thể nói công tác tổ chức bộ máy và quản lý thi hành án hiện nay đang có những khó khăn, vướng mắc, hạn chế nhất định như hoạt động thi hành án hiện đang do nhiều cơ quan chức năng khác nhau quản lý, tổ chức thực hiện; thiếu sự gắn kết, phối hợp chặt chẽ giữa THADS và thi hành án hình sự, nhất là những vụ án hình sự có bồi thường thiệt haị, tịch thu, phạt tiền. Đề cập đến mô hình tổ chức và quản lý thi hành án, trong bài phát biểu tại Hội nghị triển khai công tác năm 2009 của ngành tư pháp ngày 29-30/12/2008, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã nêu rõ: “Từ thể chế chính trị của chúng ta cho thấy “dọc” hoàn toàn cũng không được, chẳng hạn như các ngành công an, quân đội, ngân hàng là những ngành rất dọc nhưng nếu không có cấp uỷ, chính quyền địa phương hỗ trợ thì cũng không "ổn", ... Đối với tổ chức cơ quan THADS trên Trung ương có thể là Tổng cục song dưới đó là mô hình ra sao cho phù hợp, nhưng không thể tách rời sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương".
Việc nghiên cứu lịch sử mô hình tổ chức và quản lý THADS ở Việt Nam với những ưu điểm, hạn chế của từng mô hình thông qua hiệu quả công tác thi hành án được phản ánh ở tỉ lệ thi hành về việc, về tiền và mức độ hài lòng của dư luận quần chúng nhân dân đối với công tác THADS có ý nghĩa quan trọng để từ đó từng bước khắc phục hạn chế, kế thừa và phát triển những ưu điểm nhằm xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý THADS, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Về cán bộ, công chức THADS
Vào thời điểm tháng 6/1993, các Toà án địa phương đã tiến hành bàn giao công tác thi hành án sang các cơ quan thuộc Chính phủ với số lượng biên chế 1.126 người trong đó có 700 CHV và 426 cán bộ, phần lớn số cán bộ ở thời điểm bàn giao chưa bảo đảm đủ tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định, có nơi không có cán bộ thi hành án để bàn giao.
Đến hết năm 2002, qua tổng kết 10 năm công tác THADS cho thấy, cả nước đã có 61 Phòng thi hành án cấp tỉnh và 631 Đội thi hành án cấp huyện với tổng biên chế đã thực hiện là 4.357/5183 (trong tổng số 5.183 biên chế được Chính phủ giao có 682 biên chế mới được bổ sung đầu năm 2003). Đội ngũ cán bộ thi hành án hiện có 1.920 CHV, trong đó có 306 CHV cấp tỉnh, 1.614 chấp viên cấp huyện và 2.437 cán bộ nghiệp vụ. Đến năm 2008 (năm trước khi Luật THADS được ban hành), toàn ngành có 7.651 người (trong đó có 2.843 CHV).
Trong số đội ngũ cán bộ, công chức của các cơ quan THADS thì CHV giữ vai trò quan trọng trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan này. Theo quy định tại Pháp lệnh THADS năm 1993, sau đó là Pháp lệnh THADS năm 2004 và các văn bản hướng dẫn có liên quan thì CHV có hai ngạch: CHV cấp huyện và CHV cấp tỉnh; tiêu chuẩn bổ nhiệm CHV phải có trình độ Cử nhân luật.
Với việc quy định về đội ngũ CHV như trên đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, so với yêu cầu thì việc quy định CHV có hai ngạch đã ít nhiều ảnh hưởng đến việc phân công và bố trí công việc của cơ quan THADS, phù hợp với tính chất và mức độ khác nhau của công việc. Thực tế cho thấy, quá trình THADS có những vụ việc thi hành án đơn giản, rõ ràng, lượng tiền, tài sản phải thi hành có giá trị nhỏ, nhưng cũng có những vụ việc tương đối phức tạp, thậm chí một số vụ việc đặc biệt phức tạp... Trong khi đó, CHV chỉ có ở hai cấp đó là cấp tỉnh, cấp huyện dẫn đến khó khăn trong việc bố trí, phân công công tác. Chưa kể còn ảnh hưởng đến việc điều động, luân chuyển CHV.
Ngoài CHV là lực lượng chính của ngành THADS thì kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2010, các cơ quan quản lý và cơ quan THADS có Thẩm tra viên thi hành án. Tuy nhiên, kể từ khi có chức danh này thì việc bố trí công tác vẫn còn nhiều khó khăn do chưa xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Điều này ít nhiều ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS.
II. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA VỀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ KHI TRIỂN KHAI LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1. Những thuận lợi
1.1. Đường lối, thể chế về THADS ngày càng hoàn thiện và được quan tâm đúng mức
Xác định rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác THADS, trong những năm qua Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Ban ngành có liên quan tham mưu trình Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị ban hành nhiều chủ trương, chính sách về tư pháp (trong đó có công tác THADS), như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (2004) và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Về thể chế THADS: Từ năm 1993 đến nay Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tham mưu giúp Chính phủ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội ban hành 03 văn bản pháp lý quan trọng về công tác THADS như: Pháp lệnh THADS năm 1993; Pháp lệnh THADS năm 2004. Đặc biệt đã trình và Quốc hội đã ban hành Luật THADS. Đây là văn bản pháp lý quan trọng được ban hành nhằm hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục thi hành án, xác định rõ địa vị pháp lý của cơ quan thi hành án, quy định nguyên tắc về hệ thống tổ chức cơ quan THADS, phân định rõ cơ quan quản lý THADS và cơ quan THADS, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình đổi mới, phát triển và không ngừng nâng cao hiệu quả của hoạt động THADS ở nước ta. Bộ cũng đã phối hợp với các bộ ngành có liên quan trình Chính phủ ban hành gần 10 Nghị định về THADS. Đồng thời ban hành hoặc phối hợp với các ngành ban hành nhiều Thông tư, Thông tư liên tịch về THADS.
1.2. Công tác THADS giai đoạn 2004 đến 2009 tiếp tục có sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực
Mặc dù công tác THADS giai đoạn 1993 - 2003 đã thu được những kết quả nhất định, song công tác thi hành án đứng trước những khó khăn, thử thách rất lớn và còn nhiều tồn tại cần được giải quyết kịp thời. Hoạt động thi hành án chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ trật tự xã hội, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế xã hội đang có sự chuyển đổi mạnh. Kết quả hoạt động THADS nói riêng và công tác thi hành án nói chung giai đoạn này chưa thực sự đáp ứng được mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tình trạng án “tồn đọng” kéo dài, số lượng ngày càng tăng, chưa có biện pháp giải quyết hiệu quả (năm 2003, tổng số án tồn đọng chưa được giải quyết là 356.804 vụ việc). Trước tình hình đó, ngày 14/01/2004, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh THADS năm 2004 với nhiều đổi mới quan trọng về trình tự thủ tục, hoạt động THADS, trong đó có cả đổi mới về tổ chức, cán bộ các cơ quan THADS. Trên cơ sở của Pháp lệnh này, ngày 11 tháng 4 năm 2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50/2005/NĐ-CP. Theo quy định của Nghị định này, Hệ thống tổ chức THADS đã có những thay đổi căn bản về tên gọi và vị thế. Cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp được giao thêm nhiều nhiệm vụ quan trọng như tổ chức áp dụng thống nhất pháp luật về THADS trong toàn quốc, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo về thi hành án...; giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý theo ngành dọc đối với cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện. Bên cạnh đó, tính chất của các tranh chấp về dân sự, kinh tế cũng ngày càng phức tạp, số lượng tiền, tài sản phải thi hành án ngày càng lớn. Vì vậy, cùng với việc xác định rõ hơn vị trí, vai trò của các cơ quan THADS địa phương, Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2008 của Chính phủ, Quyết định số 32/2009/QĐ-TTg ngày 02 tháng 3 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp. Nhờ đó, từ năm 2004 đến năm 2009, công tác tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý tổ chức, hoạt động THADS của Cục THADS ngày càng đi vào chiều sâu, chất lượng được nâng lên rõ rệt. Về thể chế, đã tham mưu để Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình cấp có thẩm quyền ban hành Pháp lệnh THADS năm 2004, Nghị định 164/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2004 của Chính phủ về kê biên, đấu giá quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án; Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2004 về thủ tục, cưỡng chế và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS; Nghị định 50/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005 về cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và cán bộ, công chức làm công tác THADS và một số văn bản hướng dẫn thi hành khác. Đây là các văn bản quan trọng, bước đầu giải quyết được nhiều vấn đề có liên quan đến cải cách hành chính trong THADS. Công tác quản lý ngành tiếp tục được quan tâm chú trọng, góp phần đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng đối với công tác THADS ở nước ta.
Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp tiếp tục thực hiện nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện quản lý nhà nước về công tác THADS trên địa bàn. Giám đốc Sở Tư pháp thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn quản lý đối với cơ quan thi hành án ở địa phương theo ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Đối với cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện, từ chỗ là Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp, trở thành Hệ thống cơ quan tương đối độc lập. THADS cấp tỉnh là cơ quan chịu sự quản lý, chỉ đạo của Bộ Tư pháp về tổ chức, cán bộ, công chức, kinh phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về mặt nhà nước theo quy định của pháp luật. THADS cấp huyện trực thuộc và chịu sự quản lý, chỉ đạo của THADS cấp tỉnh về kinh phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp huyện về mặt nhà nước theo quy định của pháp luật. Đội ngũ cán bộ THADS tiếp tục được củng cố, kiện toàn cả về số lượng và chất lượng; cơ sở vật chất, trụ sở làm việc, kinh phí hoạt động của các cơ quan Thi hành án được tăng cường. Bộ Tư pháp đã xây dựng đề án tăng cường cơ sở vật chất, xây dựng trụ sở và kho vật chứng của cơ quan THADS trình Chính phủ phê duyệt. Nhờ đó, công tác THADS ngày càng có sự chuyển biến tích cực, kết quả thi hành án về việc và tiền năm sau cao hơn năm trước (theo số liệu thống kê của Tổng cục THADS thì, năm 2005: toàn ngành thi hành xong 177.991 việc, đạt 61,77 %; thu được gần 1.700 tỷ đồng, đạt 39,89 % (tăng hơn 505 tỷ đồng so với năm 2004) thì đến năm 2008, toàn ngành thi hành xong 334.448 việc, đạt 78,71%; tăng 32.075 việc so với năm 2007; thu được hơn 4.000 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 55,46% số có điều kiện thu; tăng so với năm 2007 gần 800 tỷ đồng...), nhiều vụ việc thi hành án phức tạp đã được giải quyết dứt điểm. Hoạt động THADS góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giữ vững trật tự an toàn xã hội; tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Kết quả nêu trên là quan trọng, nhưng so với đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới thì công tác THADS ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, trong đó phải kể đến một vấn đề rất lớn đó là chưa xác định rõ vị thế của các cơ quan thi hành án trong hệ thống các cơ quan hành chính, tư pháp ở địa phương; đội ngũ lãnh đạo của cơ quan thi hành án, cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động của cơ quan thi hành án chưa ngang tầm và chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp, các ngành, đoàn thể đã có sự quan tâm đúng mức về công tác THADS: Hoạt động THADS đã được coi là một trong các nhiệm vụ chính trị quan trọng, được cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương quan tâm. Vai trò chỉ đạo tổ chức thi hành án của các cấp chính quyền địa phương ngày càng được tăng cường, bước đầu hình thành cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan ở địa phương trong công tác thi hành án.
1.3. Luật THADS quy định nhiều điểm mới quan trọng về tổ chức, cán bộ THADS
1.3.1. Cơ chế quản lý về THADS đã được xác định rõ ràng
Một là, mô hình Cơ quan THADS kế thừa cơ bản những kết quả tích cực của mô hình hiện có, khắc phục được những bất cập hiện nay để thống nhất quản lý, chỉ đạo điều hành theo tinh thần một công việc chỉ giao cho một cơ quan chịu trách nhiệm chính, có sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và các cơ quan liên quan. Quy định tổ chức THADS theo hệ thống dọc (Tổng cục THADS thuộc Bộ Tư pháp, Cục THADS cấp tỉnh và Chi cục THADS cấp huyện) về cơ bản kế thừa hệ thống cơ quan THADS hiện hành, không làm xáo trộn về hệ thống tổ chức cơ quan THADS, không làm tăng biên chế và bộ máy, phù hợp với tính chất, đặc thù của hoạt động THADS, bảo đảm tính độc lập tương đối và chịu trách nhiệm trước pháp luật của cơ quan THADS và CHV, cơ chế quản lý theo ngành kết hợp quản lý theo lãnh thổ, sự phân cấp quản lý cũng như sự phối hợp quản lý đã tạo ra cơ chế tương đối thích hợp, giúp cho hoạt động THADS được thống nhất trong toàn quốc, đồng thời góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng địa phương.
Hai là, việc giao cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, quận huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về công tác THADS ở địa phương đã tạo điều kiện cho sự phối hợp của các ban ngành trong việc tổ chức thi hành án, đặc biệt là các vụ việc phức tạp, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Nhất là gần đây, Chính phủ đã quy định việc duy trì hoạt động của Ban chỉ đạo thi hành án (do Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện làm Trưởng ban chỉ đạo thi hành án). Đây thực sự là cầu nối trong việc phối hợp giữa cơ quan THADS với các ngành để tham mưu giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện chỉ đạo thi hành đối với các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Ba là, đối với các cơ quan THADS địa phương, với những quy định mới về tổ chức của cơ quan THADS bảo đảm cơ quan THADS cấp tỉnh là quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ, đồng thời quản lý về tổ chức của cơ quan THADS ở địa phương. Cục THADS tỉnh quản lý tổ chức và nghiệp vụ THADS trên địa bàn giúp cho việc quản lý đội ngũ CHV và cán bộ thi hành án được chặt chẽ hơn từ khâu tuyển dụng cán bộ, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức CHV. Thông qua kết quả hoạt động nghiệp vụ, giải quyết khiếu nại, tố cáo mà đánh giá được năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ. Trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng hợp lý, thực hiện chế độ đề bạt, khen thưởng, kỷ luật đối với công chức thi hành án được chính xác hơn.
1.3.2. Luật THADS đã quy định khá rõ ràng, cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý THADS cấp tỉnh, cấp huyện
Để tạo điều kiện cho quá trình triển khai thực hiện, trên cơ sở pháp điển hoá các quy định tại Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ về cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và cán bộ, công chức làm công tác THADS, Luật THADS đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan THADS. So với quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004 thì nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan THADS theo Luật THADS năm 2008 có một số điểm mới sau đây:
* Cục THADS cấp tỉnh có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Quản lý, chỉ đạo về THADS trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm: bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật trong hoạt động THADS; chỉ đạo hoạt động THADS đối với cơ quan THADS cấp huyện; hướng dẫn nghiệp vụ THADS cho CHV, công chức khác của cơ quan THADS trên địa bàn; kiểm tra công tác THADS đối với cơ quan THADS cấp huyện; tổng kết thực tiễn THADS; thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động THADS theo hướng dẫn của cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp.
- Trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định theo quy định tại Điều 35 của Luật THADS; lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ THADS; phối hợp với cơ quan Công an trong việc lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm chấp hành hình phạt tù và đặc xá cho người có nghĩa vụ THADS đang chấp hành hình phạt tù; giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS thuộc thẩm quyền theo quy định của Luật THADS.
- Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động của cơ quan THADS tại địa phương theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp.
- Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện trách nhiệm, quyền hạn theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 173 của Luật THADS; báo cáo công tác THADS trước Hội đồng nhân dân cùng cấp khi có yêu cầu.
* Chi cục THADS cấp huyện có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại Điều 35 của Luật THADS; giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS thuộc thẩm quyền theo quy định của Luật THADS.
- Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí và phương tiện hoạt động được giao theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan THADS cấp tỉnh.
- Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan THADS cấp tỉnh; lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ THADS.
- Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 174 của Luật THADS; báo cáo công tác THADS trước Hội đồng nhân dân khi có yêu cầu.
1.3.3. Nhiều quy định mới về CHV
Thứ nhất, quy định mới về ngạch CHV:
Theo quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004 thì CHV có hai ngạch được bổ nhiệm theo cấp hành chính (CHV cấp tỉnh, CHV cấp huyện) thực tiễn thời gian qua đã gặp những trở ngại, khó khăn cho việc sắp xếp, điều động, luân chuyển CHV giữa các cơ quan THADS. Hơn nữa, việc quy định CHV theo hai cấp với mức chênh lệch về bậc lương khởi điểm khá cao, trong khi lại chưa có cơ sở khoa học rõ ràng để phân loại năng lực, trình độ giữa CHV cấp tỉnh và CHV cấp huyện nên chưa động viên, khuyến khích được những người có tài năng và kinh nghiệm đã dẫn đến hạn chế trong hoạt động của CHV trong thời gian qua. Mặt khác, thực tế hoạt động THADS cho thấy các bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật khi được đưa ra thi hành thì tính chất, mức độ phức tạp cũng khác nhau: có những vụ việc đơn giản, nhưng cũng có nhiều vụ việc phức tạp, số tiền, tài sản phải thi hành rất lớn, việc thi hành liên quan đến nhiều địa phương, nhiều cấp, nhiều ngành, vụ việc có yếu tố nước ngoài v.v... Việc thi hành những vụ việc như vậy đòi hỏi phải có những CHV có năng lực chuyên môn và giàu kinh nghiệm. Trên cơ sở đó, những vụ việc thi hành án đơn giản, rõ ràng, lượng tiền, tài sản phải thi hành có giá trị nhỏ sẽ do CHV sơ cấp thực hiện, những vụ việc tương đối phức tạp do CHV trung cấp thực hiện, những vụ việc đặc biệt phức tạp sẽ do CHV cao cấp thực hiện...
Xuất phát từ những lý do trên, để khắc phục những bất cập trong cơ cấu CHV hiện nay, đảm bảo sự công bằng giữa công sức mà các CHV bỏ ra với tính chất, yêu cầu công việc của họ, Điều 17 của Luật THADS quy định: CHV có ba ngạch là CHV sơ cấp, CHV trung cấp và CHV cao cấp, dựa trên tiêu chuẩn về chuyên môn, trình độ, năng lực nghiệp vụ, thâm niên, kinh nghiệm công tác và không phụ thuộc vào cấp hành chính là hợp lý. Quy định các ngạch CHV như vậy cũng tương tự như cơ cấu ngạch công chức có tính đặc thù như Điều tra viên, Thanh tra viên...
Thứ hai, quy định mới về thi tuyển CHV:
Trong quá trình soạn thảo Luật THADS, nhiều ý kiến cho rằng, việc tuyển chọn để bổ nhiệm CHV đang được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành, thực tế đã bộc lộ những hạn chế, bất cập trong thủ tục và quy trình tuyển chọn. Trong khi đó hình thức thi tuyển khắc phục được những hạn chế này, cho phép lựa chọn được người có đủ tiêu chuẩn, năng lực để bổ nhiệm CHV, tạo khả năng thu hút cán bộ hoạt động ở những lĩnh vực khác, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp. Hơn nữa, CHV là một chức danh tư pháp gắn với việc thực hiện nghiệp vụ chuyên môn về thi hành án do pháp luật quy định. Việc bổ nhiệm không theo nhiệm kỳ sẽ tạo ra sự yên tâm để CHV làm tốt công tác thi hành án, khắc phục bất cập trong quy trình xem xét, bổ nhiệm lại và cũng không làm hạn chế đến việc xử lý kỷ luật CHV nếu có vi phạm hoặc miễn nhiệm nếu không đủ năng lực, điều kiện làm CHV. Xuất phát từ tình hình trên, Luật THADS đã quy định việc bổ nhiệm CHV thông qua thi tuyển và không có nhiệm kỳ là phù hợp với định hướng của Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị: “Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp. Tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn”.
Tuy nhiên, để phù hợp với điều kiện cụ thể về nguồn công chức làm công tác thi hành án tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa trong giai đoạn hiện nay, tại khoản 3 Nghị quyết thi hành Luật THADS năm 2008, giao Chính phủ quy định những cơ quan THADS cụ thể ở các địa bàn nêu trên được tuyển chọn người có trình độ cử nhân luật làm CHV không qua thi tuyển trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật THADS có hiệu lực thi hành.
Thứ ba, quy định CHV được sử dụng công cụ hỗ trợ khi thi hành công vụ:
Thực tiễn cho thấy, THADS là công việc khó khăn, phức tạp. Sự chống đối, tấn công của đương sự, nhất là người phải thi hành án đa dạng, với nhiều hình thức, tình huống bất ngờ, khó lường trước và diễn ra ở các giai đoạn của quá trình thi hành án. Thực tế đã có nhiều trường hợp không phải cưỡng chế, nhưng CHV, cán bộ thi hành án vẫn bị đương sự dùng hung khí tấn công gây thương tích khi xác minh, giải quyết việc thi hành án (như ở Kon Tum, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hà Nội, v.v..) CHV bị đương sự đánh bằng gậy, gạch đá gây thương tích khi đến nhà đương sự xác minh, vận động đương sự tự nguyện thi hành án. Mặt khác, việc "giữ gìn trật tự, ngăn chặn những hành vi cản trở, chống đối việc thi hành án" là nhiệm vụ được giao cho cơ quan Công an song sự tham gia của cơ quan này chỉ diễn ra trong trường hợp cưỡng chế thi hành án.
Xuất phát từ thực trạng trên, để bảo vệ tính mạng, sức khoẻ của CHV, cán bộ thi hành án, cũng như đảm bảo giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ tài sản Nhà nước, tài sản công dân, đồng thời phòng vệ, ngăn chặn những hành vi chống đối quyết liệt của người phải thi hành án, Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996 Chính phủ đã quy định trang bị công cụ hỗ trợ cho cơ quan THADS, cùng với quy định trang bị công cụ hỗ trợ cho nhiều cơ quan khác. Các công cụ hỗ trợ này đã thường xuyên được sử dụng, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ tính mạng, sức khoẻ của CHV, cán bộ thi hành án, cũng như đảm bảo giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ tài sản Nhà nước, tài sản công dân, đồng thời phòng vệ, ngăn chặn những hành vi chống đối quyết liệt của người phải thi hành án. Các cơ quan thi hành án sử dụng công cụ hỗ trợ chủ yếu là để tự vệ, không có trường hợp nào lạm dụng công cụ hỗ trợ để làm những việc trái pháp luật. Hơn nữa, ngoài cơ quan thi hành án, nhiều cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác mặc dù chưa có Luật hoặc Pháp lệnh nào quy định nhưng vẫn được phép trang bị, sử dụng công cụ hỗ trợ, như: Ban, Đội bảo vệ chuyên trách của một số cơ quan, tổ chức nhà nước; Ban bảo vệ dân phố hoặc tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh trật tự ở phường, xã; Trường, Trung tâm huấn luyện tập võ thuật và thể thao của nhà nước; tổ chức, cá nhân thi công xây dựng.
Tuy nhiên, Uỷ ban pháp luật Quốc hội khoá XI cho rằng, Pháp lệnh THADS không quy định CHV và cơ quan thi hành án được cấp và sử dụng công cụ hỗ trợ nên việc trang bị công cụ hỗ trợ cho CHV là trái quy định của pháp luật. Vì vậy, Luật THADS đã bổ sung quy định CHV "được sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy định của Chính phủ" là sự kế thừa pháp luật hiện hành, tạo điều kiện để CHV có công cụ tự vệ khi gặp sự chống đối, tấn công của đương sự, đồng thời khắc phục hạn chế của Pháp lệnh THADS năm 2004.
Thứ tư, bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của CHV:
Điều 14 Pháp lệnh THADS năm 2004 quy định CHV có bảy nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cho thấy, với những quy định này thì CHV chưa có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Vì vậy, trong quá trình soạn thảo Luật THADS, nhiều ý kiến cho rằng, CHV cần phải có quyền chủ động hoặc theo yêu cầu của đương sự áp dụng ngay các biện pháp bảo đảm thi hành án (phong toả tài khoản; tạm giữ tài sản; tạm dừng việc chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản) nhằm ngăn chặn việc tẩu tán tài sản, trốn tránh việc thi hành án mà không cần phải thông báo trước cho đương sự. Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng, ngoài thẩm quyền áp dụng ngay các biện pháp bảo đảm thi hành án, cần quy định CHV có quyền khám người, khám nơi cất giấu để thu giữ đồ vật, tài liệu, phương tiện của người phải thi hành án. Có như vậy mới khắc phục được tình trạng, nhiều trường hợp CHV biết người phải thi hành án có tài sản cất giấu ở một nơi nhất định nhưng không thể buộc họ giao tài sản để thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
Về vấn đề trên, qua quá trình thảo luận các ý kiến cho rằng, khoản 2 Điều 7 Pháp lệnh THADS năm 2004 đã quy định "trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì CHV có quyền áp dụng kịp thời các biện pháp cưỡng chế quy định tại Điều 37 của Pháp lệnh này". Tuy nhiên, pháp luật về THADS chưa có quy định cụ thể các biện pháp bảo đảm thi hành án nên việc thực hiện quyền của CHV theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Pháp lệnh THADS năm 2004 còn có nhiều hạn chế. Đây chính là một trong những nguyên nhân cơ bản làm hạn chế hiệu quả hoạt động THADS ở nước ta hiện nay. Còn việc bổ sung quy định CHV có thẩm quyền khám người, khám nơi cất giấu để thu giữ đồ vật, tài liệu, phương tiện của người phải thi hành án có thể sẽ thu được hiệu quả lớn cho quá trình thi hành án, song đây là vấn đề nhạy cảm, dễ sai phạm, có liên quan đến quyền cơ bản của công dân. Vì vậy, trước mắt Luật THADS chỉ bổ sung quy định các biện pháp bảo đảm thi hành án mà chưa quy định CHV có quyền khám người, khám nơi cất giấu để thu giữ đồ vật, tài liệu, phương tiện của người phải thi hành án. Tuy nhiên, để việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án được chặt chẽ, hạn chế việc lạm dụng, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, thì cần quy định rõ thủ tục, thời hạn và trách nhiệm của CHV khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án. Trên cơ sở đó, khoản 5 Điều 20 Luật THADS đã quy định bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của CHV đó là "Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án". Đồng thời đã quy định chặt chẽ hơn về thẩm quyền, thủ tục, thời hạn và trách nhiệm của CHV trong việc áp dụng từng biện pháp bảo đảm thi hành án.
Thứ năm, quy định những việc CHV không được làm:
Để phù hợp với tính chất, yêu cầu nhiệm vụ, đồng thời trên cơ sở Luật hoá các quy định tại Nghị định 50/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ, Điều 21 của Luật THADS năm 2008 quy định cụ thể những việc CHV không được làm. Theo quy định này thì CHV không được làm những việc sau đây:
1. Những việc mà pháp luật quy định công chức không được làm.
2. Tư vấn cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến việc thi hành án trái pháp luật.
3. Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ việc thi hành án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm thi hành án.
4. Sử dụng trái phép vật chứng, tiền, tài sản thi hành án.
5. Thực hiện việc thi hành án liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và những người sau đây:
a) Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi;
b) Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của CHV, của vợ hoặc chồng của CHV;
c) Cháu ruột mà CHV là ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì.
6. Sử dụng thẻ CHV, trang phục, phù hiệu thi hành án, công cụ hỗ trợ để làm những việc không thuộc nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
7. Sách nhiễu, gây phiền hà cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thi hành án.
8. Cố ý thi hành trái nội dung bản án, quyết định; trì hoãn hoặc kéo dài thời gian giải quyết việc thi hành án được giao không có căn cứ pháp luật.
2. Khó khăn, thách thức
2.1. Luật THADS chưa xác định rõ mô hình tổ chức cơ quan THADS
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của dự án Luật là cần phải xác định rõ cơ chế quản lý và mô hình tổ chức cơ quan THADS. Đây là vấn đề được đặt ra từ năm 1993 khi chuyển giao công tác THADS từ Toà án nhân dân sang Chính phủ và qua 15 năm thực hiện cho thấy thực tiễn cũng đã đủ điều kiện để xác định rõ mô hình tổ chức cơ quan THADS, vừa phúc đáp yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động THADS, vừa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Theo Báo cáo tổng kết thi hành Pháp lệnh THADS năm 2004 của Bộ Tư pháp, thì một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho công tác THADS còn nhiều hạn chế, bất cập là do sự thiếu tập trung, thống nhất trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành. Nhiều ý kiến thành viên Uỷ ban Tư pháp cũng nhất trí với nhận định trên và cho rằng cần nghiên cứu mô hình tổ chức cơ quan THADS theo hướng tập trung để thống nhất quản lý, chỉ đạo điều hành với nguyên tắc một công việc phải giao cho một cơ quan chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, các ý kiến này còn băn khoăn cho rằng, đây là vấn đề cần phải được nghiên cứu cân nhắc kỹ lưỡng với tinh thần là phải quán triệt quan điểm về tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án phù hợp với mục tiêu định hướng cải cách tư pháp: “xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý” của cơ quan THADS, CHV và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong THADS”[2].
Với vị trí, vai trò và tầm quan trọng như vậy, song do mô hình tổ chức cơ quan THADS liên quan chặt chẽ đến trách nhiệm quản lý nhà nước của Chính phủ, hơn nữa, để đảm bảo tính linh hoạt trong công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức, chỉ đạo công tác THADS nên mô hình tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý; tên gọi, cơ cấu, tổ chức cụ thể của cơ quan THADS không quy định trong Luật THADS mà do Chính phủ quy định.
Do Luật THADS chưa quy định cụ thể tên gọi, mô hình tổ chức của cơ quan THADS. Trong khi đó, đây là vấn đề rất quan trọng. Vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng, cần phải đổi tên Cục THADS thành Tổng Cục THADS nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý, chỉ đạo thống nhất trong cả nước hoạt động THADS vốn rất đa dạng, phức tạp hiện nay. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, hiện nay Cục THADS là Cục loại I (đơn vị tương đương Tổng cục) nên không nhất thiết phải đổi tên của cơ quan này.
2.2. Nhiều vấn đề lớn đặt ra liên quan đến CHV, cán bộ THADS khi thực hiện Luật THADS năm 2008
Luật THADS có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2009 đã quy định bổ sung nhiều nhiệm vụ quan trọng liên quan đến cán bộ, công chức THADS. Theo quy định tại Điều 17 của Luật THADS thì: CHV có ba ngạch là CHV sơ cấp, CHV trung cấp và CHV cao cấp. Căn cứ quy định này, vấn đề đặt ra là việc bổ nhiệm ngạch CHV cần phải thực hiện như thế nào, ví dụ việc chuyển đổi từ ngạch CHV cấp huyện, cấp tỉnh sang ngạch CHV sơ cấp, trung cấp, cao cấp; cơ cấu, số lượng, điều kiện để được bổ nhiệm vào các ngạch CHV; vấn đề thi tuyển CHV... Hay theo quy định tại khoản 2 Điều 22 của Luật THADS thì: Chính phủ quy định tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS và cơ quan thi hành án trong quân đội. Vấn đề đặt ra là những trường hợp Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện đã được bổ nhiệm có thời hạn theo quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004 và các văn bản có liên quan nay nếu chưa hết nhiệm kỳ hoặc mới được bổ nhiệm thì có cần phải bổ nhiệm lại theo quy định của luật mới hay không? trình tự thủ tục bổ nhiệm như thế nào... Có thể kể đến các vấn đề sau đây:
2.2.1. Thi tuyển vào ngạch CHV là một chế định mới ở Việt Nam
Trong thời gian qua, ở Việt Nam việc thi nâng công chức là một công việc diễn ra thường xuyên đối với các ngạch công chức. Tuy nhiên, việc thi tuyển vào ngạch CHV là một vấn đề mới, chưa có tiền lệ, kể cả đối với các chức danh tư pháp khác như Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán. Vì vậy, việc quy định rõ các điều kiện như tiêu chuẩn, vấn đề sơ tuyển, tuyển chọn và trình tự tổ chức thi tuyển có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến hiệu quả của công tác thi tuyển vào ngạch CHV.
Vấn đề thứ nhất, bổ nhiệm và thi tuyển CHV cần theo tiêu chí nào? Xác định điều kiện tham dự thi tuyển vào ngạch CHV cũng chưa thật rõ ràng, cụ thể.
Ngoài ra, một số vấn đề cũng cần phải nghiên cứu để xác định tiêu chuẩn và bổ nhiệm CHV trong một số trường hợp đặc biệt. Thực tiễn cho thấy, do yêu cầu công tác tổ chức cán bộ, một công chức lãnh đạo được điều động từ cơ quan khác sang bổ nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS... Những trường hợp này nếu quy định áp dụng đúng tiêu chuẩn bổ nhiệm CHV, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS nhưng các trường hợp đang công tác tại cơ quan THADS sẽ dẫn đến không khả thi. Ngược lại nếu không quy định rõ dẫn đến sự lợi dụng hoặc tuỳ tiện khi các trường hợp từ cơ quan khác sang cơ quan THADS thì dễ dàng, trong khi việc bổ nhiệm CHV ở cơ quan thi hành án lại đòi hỏi tiêu chuẩn chặt chẽ.
2.2.2. Chưa có quy định về kỷ luật cách chức CHV
Theo quy định hiện hành[3], thì trong một số trường hợp CHV có hành vi vi phạm kỷ luật có thể bị cách chức chức danh CHV. Luật THADS không quy định về cách chức CHV. Thực tế đó dẫn đến nếu không quy định về kỷ luật CHV sẽ không đáp ứng được yêu cầu quản lý, tính răn đe không cao. Ngược lại nếu quy định sẽ không bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật.
2.2.3. Thẩm tra viên thi hành án chưa có quy định rõ về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
Thẩm tra viên thi hành án không phải là một chức danh mới. Tuy nhiên, cho đến nay, ngoài các tiêu chuẩn do Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành thì chưa có văn bản nào quy định cụ thể về Thẩm tra viên. Điều này, ít nhiều đã ảnh hưởng đến vị trí, vai trò và trách nhiệm của thẩm tra viên trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao. Vì vậy, vấn đề đặt ra cần phải nghiên cứu và quy định như thế nào cho phù hợp nhằm xác định rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của đội ngũ Thẩm tra viên thi hành án.
2.2.4. Tiêu chuẩn Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS chưa được quy định
Luật THADS chỉ quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm CHV. Tuy nhiên, Luật này chưa quy định tiêu chuẩn bổ nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS. Trong khi đó, đây là chức danh lãnh đạo khá quan trọng được thể hiện trong Luật THADS, có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả hoạt động THADS. Hơn nữa so với trước đây thì CHV chỉ có hai ngạch - CHV cấp tỉnh, CHV cấp huyện. Vì vậy rất dễ khẳng định Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh phải là CHV cấp tỉnh; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS cấp huyện phải là CHV cấp huyện.
Do đó, một vấn đề khá cơ bản đó là phải nghiên cứu để xácđịnh rõ tiêu chuẩn Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện.
2.2.5. Chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, từ chức, cách chức Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS
Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, từ chức, cách chức Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS là những vấn đề khá quan trọng bảo đảm lựa chọn chính xác những người có đủ điều kiện bổ nhiệm vào các chức vụ nói trên, đồng thời cũng là những căn cứ để xử lý chính xác những người có vi phạm. Tuy nhiên, Luật THADS chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Vì vậy, vấn đề đặt ra đó là cần phải nghiên cứu để đưa ra những quy định đầy đủ, chính xác về trình tự thủ tục bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, từ chức, cách chức Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS.
2.2.6. Chưa có quy định cụ thể chuyển tiếp về tổ chức cán bộ THADS
Một trong những vấn đề quan trọng đó là cần phải bảo đảm tính liên tục giữa việc thực hiện các quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004 (sẽ hết hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2009) và Luật THADS, nhất là các vấn đề như tuyển chọn và bổ nhiệm CHV trong trường hợp không qua thi tuyển; Hội đồng tuyển chọn CHV; thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng tuyển chọn CHV cơ quan THADS địa phương; bổ nhiệm từ ngạch CHV huyện, CHV tỉnh, CHV quân khu sang ngạch CHV sơ cấp, CHV trung cấp và CHV cao cấp; điều kiện để bổ nhiệm từ ngạch CHV huyện, ngạch CHV tỉnh, ngạch CHV cấp quân khu sang ngạch CHV sơ cấp, CHV trung cấp và CHV cao cấp; bổ nhiệm lại Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS.
Ngoài ra, một số các quy định về trình tự, thủ tục có liên quan đến quản lý tổ chức cán bộ thi hành án như trước đây công tác tổ chức cán bộ các cơ quan THADS địa phương do Giám đốc Sở Tư pháp thực hiện theo uỷ quyền của của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, nay theo quy định mới ai sẽ triển khai thực hiện ?...
Tất cả những vấn đề trên cho thấy cần phải nghiên cứu để xác định rõ trách nhiệm, tránh tuỳ tiện hoặc buông lỏng quản lý làm ảnh hưởng đến tổ chức, hoạt động của cơ quan THADS.
2.2.7. Quy định về những trường hợp không qua thi tuyển mà tuyển chọn CHV
Để phù hợp với điều kiện cụ thể về nguồn công chức làm công tác thi hành án tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa trong giai đoạn hiện nay theo quy định tại điểm 3 Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật THADS thì cần quy định những cơ quan THADS cụ thể ở các địa bàn nêu trên được tuyển chọn người có trình độ cử nhân luật làm CHV không qua thi tuyển trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật THADS có hiệu lực thi hành.
Đây là chế độ đặc thù, áp dụng trong một giai đoạn nhất định. Trong khi đó nếu căn cứ theo quy định chung thì các đơn vị miền núi chiếm một tỷ lệ khá lớn. Do đó, vấn đề đặt ra cần phải xác định tiêu chí nào là phù hợp vừa bảo đảm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của quốc hội, vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chung của ngành là một vấn đề khá quan trọng.
Chương II
PHƯƠNG HƯỚNG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
I. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM KIỆN TOÀN TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỂ THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1. Mục tiêu
Kiện toàn tổ chức, hoạt động ngành THADS bảo đảm số lượng, chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển ngành giai đoạn 2011-2020 nhằm bảo vệ tốt hơn quyền của người được thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân có liên quan theo bản án, quyết định của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của trọng tài thương mại, đồng thời thực hiện có hiệu quả Luật THADS.
2. Quan điểm
a) Kiện toàn tổ chức cán bộ phải phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay
Trong những năm qua, chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định PL dân sự và PL tố tụng về tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu. Cùng với những mặt hạn chế nêu trên, nhiệm vụ cải cách tư pháp đang đứng trước nhiều thách thức. Tình hình phạm tội diễn biến phức tạp, với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Các khiếu kiện hành chính; các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, các loại khiếu kiện và tranh chấp có yếu tố nước ngoài có chiều hướng tăng về số lượng và phức tạp, đa dạng hơn. Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ PL và pháp chế XHCN, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm[4].
Chưa kể, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử là những hoạt động vất vả, phức tạp và tốn kém, song những hoạt động đó có thể chỉ là con số không nếu như bản án, quyết định của Toà án chỉ tồn tại trên giấy mà không được thi hành trên thực tế. Chính vì vậy, hoạt động thi hành án nói chung và THADS nói riêng là hoạt động không thể thiếu nhằm biến kết quả hoạt động các cơ quan tố tụng trước đó trở thành hiện thực, thiết lập lại trật tự PL. Vì vậy, việc phát triển phải gắn với yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động THADS của đội ngũ CHV ở nước ta hiện nay.
b) Kiện toàn tổ chức, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
Đối với hoạt động THADS, việc bảo đảm quyền và các lợi ích dân sự được ghi nhận trong bản án, quyết định của Tòa án được xem là trách nhiệm của Nhà nước. Chính vì vậy, Điều 9 Luật THADS quy định: " 1. Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án. 2. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này”. Việc tổ chức hệ thống cơ quan THADS, đặt ra các quy định về trình tự thủ tục THADS... chính là thể hiện quyết tâm của Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền và lợi ích dân sự của các bên có liên quan được thể hiện trong nội dung bản án, quyết định của Toà án. Nhà nước pháp quyền XHCN không thể chấp nhận tình trạng bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực PL nhưng lại không được thi hành trên thực tế. Vì vậy, việc phát triển đội ngũ CHV nhằm bảo vệ tốt hơn quyền của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan là một trong những yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
c) Phù hợp với yêu cầu xã hội hoá một số hoạt động THADS
Xã hội hoá đối với các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm "Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức thực hiện một số dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng". Đối với lĩnh vực tư pháp nói chung và hoạt động THADS nói riêng, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thể hiện: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình … từng bước thực hiện việc xã hội hoá và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án”; "Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (thừa hành viên); trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”.
Thực hiện chủ trương trên, ngày 14/11/2008, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XII đã nhất trí thông qua Luật THADS, đồng thời Quốc hội cũng đã thông qua Nghị quyết số 24/2008/QH12 về việc thi hành Luật THADS. Tại Nghị quyết này đã quy định: "Để triển khai thực hiện chủ trương xã hội hoá một số công việc có liên quan đến THADS, giao Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành đến ngày 01 tháng 7 năm 2012. Chính phủ tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định". Ngày 24/7/2009, Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 01 tháng 7 năm 2009 đến ngày 01 tháng 7 năm 2012.
Trong bối cảnh đó, việc kiện toàn tổ chức, xác định hợp lý đội ngũ CHV, công chức THADS trong tương quan với việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại và chủ trương xã hội hoá một số hoạt động THADS là yêu cầu cần thiết hiện nay.
d) Đặt trong tổng thể phát triển đội ngũ cán bộ công chức nhà nước
Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định chủ trương “xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thật sự là công bộc của nhân dân. Thực hiện các giải pháp nhằm chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức. Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức”.
Một trong những mục tiêu mà Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 đề ra là, đến năm 2010, đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp và hiện đại. Thiết nghĩ, để hoàn thành mục tiêu này, ngay từ bây giờ, nội dung của các cụm từ "số lượng cán bộ, công chức và cơ cấu hợp lý" cần được định hình sớm và nhiều nội dung khác của Chương trình cũng cần được lượng hoá.
Nằm trong lộ trình cải cách chế độ công vụ, phát triển đội ngũ công chức của Nhà nước nói chung, việc dự kiến nhu cầu tăng cường số lượng đội ngũ CHV cũng phải trên cơ sở cân đối giữa việc tăng cường về số lượng CHV với việc bổ sung tăng biên chế cho khối cơ quan THADS nói riêng và tăng biên chế cho khối các cơ quan nhà nước nói chung; việc tăng số lượng CHV phải trên cơ sở thực hiện tinh giản biên chế đối với những đối tượng là CHV không còn đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định mới đồng thời tăng cường đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng CHV.
đ) Yêu cầu tạo chuyển biến cơ bản trong công tác THADS, khắc phục cơ bản tình trạng tồn đọng án kéo dài; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thi hành án, kỷ cương phép nước và tính nghiêm minh của pháp luật
Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg ngày 01/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác THADS đã xác định: Công tác THADS giữ vai trò quan trọng trong việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền khác, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa tạo được chuyển biến cơ bản về công tác THADS như số lượng việc THADS tồn đọng vẫn còn nhiều; đơn thư khiếu nại về THADS vượt cấp chưa giảm nhiều, không ít trường hợp giải quyết chưa kịp thời; sự phối hợp giữa cơ quan thi hành án với cơ quan hữu quan có lúc, có nơi chưa thường xuyên, thiếu hiệu quả; tổ chức bộ máy, địa vị pháp lý, biên chế cán bộ, cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động của cơ quan thi hành án, chế độ, chính sách đối với cán bộ THADS chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao. Vì vậy, việc kiện toàn tổ chức, xác định cơ cấu, số lượng, nâng cao năng lực hoạt động của đội ngũ CHV phải gắn với yêu cầu góp phần tạo chuyển biến cơ bản trong công tác THADS, khắc phục cơ bản tình trạng tồn đọng án kéo dài; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thi hành án, kỷ cương phép nước và tính nghiêm minh của pháp luật.
e) Yêu cầu bảo vệ tốt hơn quyền của người được thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước theo bản án, quyết định của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại.
Thi hành án là giai đoạn tiếp theo hoạt động xét xử của Toà án, là một giai đoạn quan trọng của quá trình tố tụng. Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là làm cho những phán quyết của các cơ quan tài phán từ chỗ chỉ là trên văn bản, giấy tờ trở thành hiện thực. Việc thi hành án có thể được thực hiện bởi sự tự nguyện, thoả thuận của các bên đương sự hoặc có thể bằng việc sử dụng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Tuy nhiên, dù là tự nguyện hay cưỡng chế thì hoạt động thi hành án cũng thường xuyên phải đụng chạm đến các quyền và lợi ích thiết thân của các bên từ quyền lợi về vật chất như phải chuyển giao tài sản vốn đang thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của mình cho người khác hoặc liên quan đến các quyền về tự do thân thể, dân chủ cho đến việc tước đoạt quyền sống của con người. Hơn nữa, hoạt động thi hành án không những tác động đến các chủ thể là cá nhân, tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp trong nước mà còn liên quan đến các tổ chức, cá nhân thậm chí là nhà nước nước ngoài thông qua việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của toà án nước ngoài, phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Do vậy, hoạt động thi hành án có thể tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm tới các quyền cơ bản của con người đã được pháp luật bảo vệ. Thực trạng này đòi hỏi yêu cầu bảo đảm quyền con người phải luôn luôn được đặt ra trong suốt quá trình thi hành án. Điều này càng trở nên đặc biệt quan trọng hơn trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn Đảng và Nhà nước ta đang ra sức xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mà một trong những đặc điểm, yêu cầu rất quan trọng của bất kỳ một kiểu nhà nước pháp quyền nào trên thế giới cũng như ở nhà nước pháp quyền Việt Nam đó là phải bảo đảm và thực thi một cách tốt nhất các quyền của con người trên cơ sở các quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật trong nước về nhân quyền.
Vì vậy, việc kiện toàn tổ chức, cán bộ THADS không thể tách rời yêu cầu bảo vệ tốt hơn quyền của người được thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước theo bản án, quyết định của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại.
f) Phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nước
Trong những năm gần đây, điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước đã có những bước phát triển vượt bậc. Đóng góp vào những thành tích phát triển kinh tế của đất nước là nhờ sự cố gắng của cả hệ thống chính trị, trong đó có đóng góp rất quan trọng của ngành tư pháp. Công tác THADS thông qua việc trực tiếp thi hành các bản án đã thu vào cho ngân sách nhà nước hàng năm hàng ngàn tỉ đồng, ví dụ, riêng trong năm 2009, thu hơn 15 ngàn 600 tỉ đồng. Tuy nhiên, việc trả lương cho đội ngũ CHV nói riêng, của toàn bộ đội ngũ công chức THADS nói riêng cũng như việc chi xây dựng trụ sở, trang thiết bị làm việc cho cơ quan THADS hàng năm cũng là gánh nặng lớn cho ngân sách nhà nước. Do đó, việc kiện toàn tổ chức, cán bộ ngành THADS phải tính đến khả năng chi trả của ngân sách nhà nước, bảo đảm hài hòa giữa mục đích ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội với với khả năng ngân sách nhà nước.
II. PHƯƠNG HƯỚNG KIỆN TOÀN TỔ CHỨC, CÁN BỘ NGÀNH THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỂ THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1. Kiện toàn mô hình tổ chức ngành THADS
Điều 13 Luật THADS quy định “Hệ thống tổ chức THADS bao gồm:
1. Cơ quan quản lý THADS:
a) Cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp;
b) Cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng.
2. Cơ quan THADS:
a) Cơ quan THADS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cơ quan THADS cấp tỉnh);
b) Cơ quan THADS huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cơ quan THADS cấp huyện);
c) Cơ quan thi hành án quân khu và tương đương (sau đây gọi chung là cơ quan thi hành án cấp quân khu).
Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý THADS; tên gọi, cơ cấu, tổ chức cụ thể của cơ quan THADS”.
Quá trình nghiên cứu của Đề án cho thấy, tổ chức Cơ quan THADS được quản lý theo hệ thống dọc. Quy định này vừa bảo đảm sự kế thừa những kết quả tích cực của mô hình hiện có, vừa khắc phục được những bất cập hiện nay để thống nhất quản lý, chỉ đạo điều hành theo tinh thần một công việc chỉ giao cho một cơ quan chịu trách nhiệm chính, có sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và các cơ quan liên quan. Quy định tổ chức THADS theo hệ thống dọc, về cơ bản kế thừa hệ thống Cơ quan THADS hiện hành, không làm xáo trộn về hệ thống tổ chức Cơ quan THADS, không làm tăng biên chế và bộ máy, phù hợp với tính chất, đặc thù của hoạt động THADS, bảo đảm tính độc lập tương đối và chịu trách nhiệm trước pháp luật của cơ quan THADS và CHV. Đồng thời, quy định cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện là cơ quan giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp trong việc tổ chức, chỉ đạo công tác THADS tại địa phương và báo cáo công tác THADS khi có yêu cầu. Quy định như vậy bảo đảm được vai trò của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện trong việc chỉ đạo công tác THADS.
Tuy nhiên, tên gọi, mô hình tổ chức của cơ quan THADS chưa thật rõ ràng. Vì vậy, yêu cầu đặt ra cần phải làm rõ các vấn đề chủ yếu sau đây:
Vấn đề thứ nhất, nâng Cục THADS thành Tổng Cục THADS:
Do Luật THADS chưa quy định cụ thể tên gọi, mô hình tổ chức của cơ quan THADS. Trong khi đó, đây là vấn đề rất quan trọng. Vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng, cần phải đổi tên Cục THADS thành Tổng Cục THADS nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý, chỉ đạo thống nhất trong cả nước hoạt động THADS vốn rất đa dạng, phức tạp hiện nay. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, hiện nay Cục THADS là Cục loại I (đơn vị tương đương Tổng cục) nên không nhất thiết phải đổi tên của cơ quan này.
Về vấn đề này qua nghiên cứu cho thấy, THADS là một công việc quan trọng, không chỉ liên quan đến tính nghiêm minh của pháp luật mà còn liên quan trực tiếp đến quyền công dân, quyền con người. Do đó, để tiếp tục thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về công tác thi hành án, hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục thi hành án, củng cố, kiện toàn cơ quan thi hành án, Quốc hội đã thông qua Luật THADS. Theo quy định của Luật này thì cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý toàn diện hệ thống tổ chức, hoạt động đối với các cơ quan THADS trong phạm vi cả nước, bao gồm: quản lý nghiệp vụ THADS (tổ chức áp dụng thống nhất pháp luật về THADS, thực hiện kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo công tác THADS đối với các cơ quan THADS trong phạm toàn quốc); giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS; quản lý theo ngành dọc đối với 685 cơ quan THADS cấp huyện, 63 cơ quan THADS cấp tỉnh (bao gồm: Quản lý tổ chức, biên chế, cán bộ, công chức của hệ thống cơ quan THADS; Quản lý, thực hiện phân bổ kinh phí, bảo đảm cơ sở vật chất - kỹ thuật, phương tiện hoạt động của các cơ quan THADS; Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho CHV, Thẩm tra viên, cán bộ, công chức của hệ thống cơ quan THADS...). Với vị trí, vai trò và trách nhiệm của cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp được Luật THADS quy định như vậy, nên trong quá trình soạn thảo và hoàn chỉnh Luật THADS để trình Quốc hội thông qua, ý kiến của Uỷ ban Tư pháp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và đa số ý kiến Đại biểu Quốc hội nhất trí đề nghị đổi tên Cục THADS thành Tổng Cục THADS thuộc Bộ Tư pháp nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả, nâng cao chất lượng quản lý và tổ chức hoạt động THADS, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước và thực thi nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo đối với công tác THADS. Đồng thời, cũng phù hợp với quy định của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng cục thuộc Bộ và về yêu cầu quản lý chuyên ngành đối với một lĩnh vực lớn, phức tạp, có tính chuyên sâu[5]. Tuy nhiên, việc quy định cơ cấu tổ chức cụ thể của cơ quan quản lý thi hành án và cơ quan THADS thuộc thẩm quyền của Chính phủ nên Luật THADS chưa quy định thay đổi tên Cục THADS thành Tổng Cục THADS mà giao cho Chính phủ quy định. Bên cạnh đó, tên của cơ quan quản lý THADS ở Trung ương có liên quan trực tiếp đến vị trí, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan THADS cấp tỉnh và cấp huyện. Trong khi đó, Luật THADS tuy chưa quy định tên của cơ quan THADS cấp tỉnh nhưng đã gián tiếp xác định đây là cơ quan tương đương cấp Cục, ở cấp huyện là tương đương Chi cục. Trong quan hệ phối hợp với cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng thì cơ quan này đã là Cục Thi hành án thì cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp là Tổng cục là phù hợp (vì đây là cơ quan quản lý nghiệp vụ, kể cả vấn đề liên quan đến bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho CHV cấp quân khu). Việc thay đổi tên cơ quan quản lý THADS cũng đã được Bộ Tư pháp có các văn bản báo cáo Thủ tướng và được Thủ tướng đồng ý về nguyên tắc (Thủ tướng đã uỷ quyền cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp báo cáo giải trình trước Quốc hội về Dự án Luật THADS, trong đó có báo cáo về dự kiến nâng Cục THADS thành Tổng Cục THADS). Tại hội nghị triển khai công tác tư pháp năm 2009, Thủ tướng Chính phủ cho rằng “Bộ cần chủ động tham mưu cho Chính phủ xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật THADS; tập trung kiện toàn hệ thống tổ chức của cơ quan THADS, ở Trung ương có thể là Tổng cục...”. Vì vậy, việc nâng Cục THADS thành Tổng Cục THADS là phù hợp.
Cùng với việc nâng Cục THADS thành Tổng cục THADS thì kiện toàn tổ chức các đơn vị bên trong của Tổng cục, bảo đảm để cơ quan này có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Về vấn đề này, qua nghiên cứu cho thấy:
Ngày 09/6/2008, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 295/QĐ-BTP về việc quy định cơ cấu tổ chức của Cục THADS, trong đó cơ cấu tổ chức của Cục gồm 06 phòng ban (Văn phòng; phòng Tổ chức cán bộ; phòng quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành bản án, quyết định dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình và phá sản; phòng quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định hình sự và hành chính; phòng giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng kế toán, tài vụ). Đến năm 2009, thực hiện Quyết định số 32/2009/QĐ-TTg ngày 02/3/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp, Cục THADS đã kiện toàn và thành lập mới các phòng chuyên môn thuộc Cục, theo đó, Cục THADS gồm 06 phòng, cụ thể như sau: Văn phòng; Phòng Tổ chức cán bộ; Phòng quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành bản án, quyết định dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình và phá sản; Phòng quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định hình sự và hành chính; Phòng giải quyết khiếu nại, tố cáo; Phòng Kế hoạch tài chính.
Với mô hình tổ chức nêu trên có thể là phù hợp khi cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp vẫn là Cục THADS. Tuy nhiên, việc nâng Cục THADS thành Tổng cục THADS cần phải đặt ra các vấn đề cơ bản sau đây:
+ Giữ nguyên hay thay đổi tổ chức, nhiệm vụ cơ quan giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp theo hướng quy định cơ quan này có Thanh tra riêng. Qua nghiên cứu cho thấy, nhiều ý kiến cho rằng, cần quy định cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp phải Thanh tra. Bởi vì, đây là yêu cầu bức thiết của quá trình quản lý hoạt động thi hành án. Việc thành lập tổ chức thanh tra thi hành án để thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra. Tuy nhiên, ý kiến khác cho rằng, cần giữ nguyên tổ chức cơ quan giúp Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS thực hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án mà không nên quy định Thanh tra THADS vì đối với hoạt động THADS đã có kiểm sát thi hành án nên dễ dẫn đến sự chồng chéo, thiếu thống nhất. Hơn nữa, quy định này không phù hợp với Luật Thanh tra.
Về vấn đề này qua nghiên cứu cho thấy, Thanh tra có vai trò quan trọng đối với yêu cầu quản lý THADS. Thanh tra Bộ đang thực hiện chức năng thanh tra toàn bộ hoạt động THADS dẫn đến không phát huy được vai trò quản lý của Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp, vừa quá tải cho Thanh tra Bộ và cũng không phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 167 Luật THADS: Cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác THADS. Trên thực tế trên, căn cứ quy định tại điểm c khoản 3 Điều 22 Nghị định 178/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007 của Chính phủ, một số đơn vị là Tổng cục, Cục mới được thành lập có quy định về tổ chức Thanh tra. Tuy nhiên, nếu quy định cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ tư pháp có Thanh tra sẽ không phù hợp với quy định của Luật Thanh tra. Vì vậy, Ban chủ nhiệm Đề án thấy rằng, trước mắt việc quy định Thanh tra thuộc cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp là chưa phù hợp.
+ Thành lập mới các đơn vị thuộc Tổng cục THADS
Có nhiều ý kiến cho rằng cần phải bổ sung các đơn vị mới cho cơ quan quản lý THADS nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Qua nghiên cứu cho thấy, nhiều Tổng cục, Cục quy định cơ cấu tổ chức có các đơn vị như Phòng hoặc Vụ hợp tác quốc tế, Viện nghiên cứu khoa học, Tạp chí, Báo, Trung tâm thông tin. Đây là những đơn vị có chức năng giúp Thủ trưởng cơ quan Cục hoặc Tổng cục thực hiện chức năng tham mưu, giúp Tổng cục trưởng, Cục trưởng thực hiện có hiệu quả quản lý chuyên ngành. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy, cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp là các đơn vị mới được kiện toàn theo quyết định số 32/2009/QĐ-TTg ngày 02 tháng 3 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ. Vì vậy, nếu cùng một lúc thành lập thêm 04 đến 05 đơn vị chuyên môn thuộc Tổng cục THADS là chưa phù hợp. Ngược lại, nếu giữ nguyên 06 đơn vị chuyên môn như quyết định số 32/2009/QĐ-TTg ngày 02 tháng 3 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ cũng không phù hợp. Nhất là trong điều kiện mới, yêu cầu về thông tin và lưu trữ đối với hồ sơ tài liệu liên quan đến THADS là rất cần thiết (nhất là các hồ sơ thi hành án, hồ sơ giải quyết khiếu nại về thi hành án...). Ngoài ra, hoạt động THADS là hoạt động có liên quan đến tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước nên mọi vấn đề đòi hỏi phải được nắm bắt, xử lý nhanh nhạy, kịp thời. Vì vậy, cần phải có bộ phận chuyên trách về vấn đề này. Xuất phát từ tình hình đó, cần phải xác định rõ lộ trình và bước đi trong việc kiện toàn, thành lập các tổ chức trực thuộc Tổng cục THADS, có thể chia làm hai giai đoạn chủ yếu sau:
Giai đoạn thứ nhất (từ năm 2009 - 2011):
Cơ bản giữ ổn định mô hình tổ chức đã được quy định tại Quyết định số 32/2009/QĐ-TTg, đồng thời chỉ thành lập thêm những đơn vị gắn với yêu cầu không thể thiếu của quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Trên tinh thần đó, giai đoạn này cần quy định thành lập và đổi tên của các đơn vị thuộc Tổng cục THADS như sau:
1. Văn phòng: Văn phòng Tổng cục là đơn vị thuộc Tổng cục, có chức năng tham mưu, giúp Tổng cục trưởng lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và quản lý các hoạt động của Tổng cục, ngành; xây dựng, tổng hợp, đôn đốc, theo dõi tình hình thực hiện chương trình công tác của Tổng cục, Ngành; tổ chức thực hiện công tác hành chính, văn thư, lưu trữ; quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật, tài sản, kinh phí hoạt động, bảo đảm phương tiện, điều kiện làm việc phục vụ chung cho hoạt động của Tổng cục và công tác quản trị nội Tổng cục.
Văn phòng có thể chia thành các Phòng (bộ phận):
a) Lãnh đạo cấp Vụ: Lãnh đạo văn phòng có Chánh văn phòng và không quá 03 Phó chánh văn phòng.
b) Các nhóm chuyên trách:
Nhóm 1: Xây dựng, trình Tổng cục trưởng kế hoạch công tác dài hạn, 5 năm và hàng năm của Tổng cục; tham gia xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, 5 năm và hàng năm của ngành Thi hành án; Chủ trì hoặc tham gia xây dựng các đề án, dự thảo văn bản trong các lĩnh vực thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng; tham gia góp ý các dự án, dự thảo văn bản do Tổng cục trưởng giao; Tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, văn bản thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng cục; Về xây dựng, tổng hợp, đôn đốc và theo dõi tình tình hình thực hiện chương trình công tác của Tổng cục, Ngành thi hành án, Văn phòng có nhiệm vụ:
- Xây dựng, trình Tổng cục trưởng quyết định chương trình công tác năm; chương trình công tác quý và tháng của Tổng cục, Ngành THADS; chương trình, kế hoạch làm việc của Lãnh đạo Tổng cục;
- Theo dõi, đôn đốc việc thực hiện chương trình công tác và việc xây dựng văn bản, đề án của Tổng cục; tổng hợp kết quả thực hiện chương trình công tác của Tổng cục, Ngành; kiến nghị các giải pháp bảo đảm thực hiện chương trình công tác của Tổng cục, Ngành;
- Trình Tổng cục trưởng quyết định việc điều chỉnh, thay đổi chương trình công tác của Tổng cục;
- Tổ chức thực hiện công tác báo cáo, sơ kết, tổng kết định kỳ và đột xuất về việc thực hiện nhiệm vụ của Tổng cục, Ngành theo quy định của pháp luật và của Tổng cục.
- Sơ kết, tổng kết; thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về các lĩnh vực công tác của Văn phòng theo quy định của pháp luật;
- Tham gia kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật và phân cấp của Tổng cục;
- Tham gia nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phổ biến giáo dục pháp luật theo quy định của pháp luật và phân cấp của Tổng cục;
Số lượng cần: 06 biên chế
Nhóm 2: giúp Tổng cục trưởng, các Phó Tổng cục trưởng điều hành và quản lý các hoạt động của Tổng cục:
- Tiếp nhận hồ sơ, tài liệu trình Tổng cục trưởng, các Phó Tổng cục trưởng (sau đây gọi là Lãnh đạo Tổng cục); kiểm tra và tham gia ý kiến về hồ sơ, tài liệu đó trước khi trình Lãnh đạo Tổng cục xem xét, giải quyết;
- Thông báo ý kiến kết luận, chỉ đạo của Lãnh đạo Tổng cục đến các vụ, đơn vị, cá nhân có liên quan và theo dõi, đôn đốc việc thực hiện ý kiến kết luận, chỉ đạo đó; theo dõi, điều phối lịch làm việc của Lãnh đạo Tổng cục;
- Thực hiện nhiệm vụ Người phát ngôn của Tổng cục theo quy định của pháp luật và của Tổng cục; điểm tin báo chí hàng ngày phục vụ công tác quản lý, điều hành của Lãnh đạo Tổng cục;
- Làm đầu mối tiếp nhận thông tin, duy trì quan hệ giữa Tổng cục với các cơ quan cấp trên, các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, cơ quan THADS địa phương và các cơ quan, tổ chức khác;
- Tổ chức các cuộc họp, làm việc với các đơn vị; chủ trì hoặc phối hợp với các đơn vị có liên quan chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu và các điều kiện để Lãnh đạo Tổng cục đi công tác hoặc tham dự các hội nghị, hội thảo.
Nhóm 3: Về công tác hành chính, văn thư, lưu trữ:
- Tổ chức thực hiện công tác hành chính, văn thư, lưu trữ, thông tin liên lạc và bảo mật thông tin, tài liệu trong cơ quan Tổng cục theo quy định của pháp luật và của Tổng cục;
- Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác hành chính, văn thư, lưu trữ của các đơn vị thuộc Tổng cục và các cơ quan THADS địa phương.
Nhóm 4: Về công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế, lễ tân, quản trị:
- Thực hiện công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế, lễ tân trong cơ quan Tổng cục, phối hợp đón tiếp các đoàn khách quốc tế; tổ chức và phối hợp tổ chức các sự kiện, hội nghị, hội thảo cấp Tổng cục, Ngành THADS; sắp xếp, bố trí địa điểm họp cho các đơn vị thuộc Tổng cục;
- Quản lý tài sản, cơ sở vật chất; bảo đảm phương tiện đi lại và điều kiện làm việc của cơ quan Tổng cục; thực hiện công tác y tế, vệ sinh môi trường, bảo vệ, an ninh trật tự, an toàn, phòng chống cháy nổ, quốc phòng, dân quân tự vệ trong cơ quan Tổng cục.
Nhóm 5: Quản lý nguồn kinh phí nhà nước giao, nguồn kinh phí nước ngoài tài trợ, các nguồn kinh phí khác và thực hiện công tác kế toán - tài chính theo phân cấp của Tổng cục và quy định của pháp luật; Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong cơ quan Tổng cục và việc thực hiện Quy chế làm việc, Quy chế văn minh công sở và các Quy chế khác của Tổng cục theo quy định; Triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực công tác của Văn phòng; Chủ trì, phối hợp với các đơn vị thuộc Tổng cục và Công đoàn cơ quan Tổng cục chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ Tổng cục, công chức, viên chức trong cơ quan Tổng cục;
Nhóm 6: Thực hiện công tác thi đua, khen thưởng Ngành THADS và quản lý công chức, người lao động theo quy định của pháp luật và phân cấp của Tổng cục và của Bộ Tư pháp.
Nhóm 6: Đội xe, phục vụ
2. Vụ Tổ chức cán bộ: Vụ Tổ chức cán bộ là đơn vị thuộc Tổng cục THADS, có chức năng tham mưu, giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS thực hiện quản lý về tổ chức, cán bộ, công chức của Tổng cục THADS và Cục THADS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chi cục THADS huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thuộc thẩm quyền quản lý của Tổng cục theo theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Vụ Tổ chức cán bộ có thể chia thành các Phòng (bộ phận):
a) Lãnh đạo cấp Vụ: Vụ có Vụ trưởng và không quá 03 Phó vụ trưởng.
b) Các nhóm chuyên trách:
Nhóm 1: Thực hiện quản lý toàn diện công tác tổ chức cán bộ của Tổng cục theo phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn về quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức của Tổng cục THADS và các đơn vị trực thuộc theo phân cấp quản lý cán bộ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và theo quy định của pháp luật;
Giúp Lãnh đạo Tổng cục phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ Bộ Tư pháp trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn về tổ chức cán bộ, công chức của Tổng cục THADS
Tham mưu xây dựng hoặc phối hợp xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, đề án về tổ chức, cán bộ, công chức ngành THADS;
Thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, cải cách tư pháp theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp được cấp có thẩm quyền phê duyệt đối với lĩnh vực được giao.
Thực hiện công tác bảo vệ chính trị nội bộ của cơ quan Tổng cục và các quy định về bí mật nhà nước trong công tác tổ chức, cán bộ, công chức của ngành THADS theo quy định của pháp luật và của Bộ Tư pháp.
Nhóm 2: Về lĩnh vực công tác quản lý cán bộ công chức:
Thực hiện chuyên quản toàn diện các mặt về công tác cán bộ (bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, thực hiện chế độ, chính sách; giải quyết khiếu nại, tố cáo), hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các cơ quan THADS địa phương trong việc thực hiện các nội dung về quản lý tổ chức, cán bộ, công chức ngành THADS theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
Nhóm 3: Về lĩnh vực tổng hợp khác:
Các nhiệm vụ về lĩnh vực tổng hợp khác cụ thể như sau:
- Công tác kế hoạch: xây dựng kế hoạch công tác ngắn hạn và dài hạn của Vụ, theo dõi đôn đốc triển khai các chương trình kế hoạch….
- Công tác báo cáo: Chủ trì phối hợp với các đơn vị thuộc Tổng cục xây dựng báo cáo định kỳ, đột xuất về tình hình, kết quả hoạt động của Tổng cục trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Vụ. Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo về tình hình, kết quả hoạt động của Vụ theo quy chế làm việc của Tổng cục và yêu cầu đột xuất của Lãnh đạo Tổng cục.
- Công tác hành chính: tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, theo dõi quản lý tài sản mà Vụ được trang cấp, thực hiện công tác văn thư, lưu trữ tài liệu của Vụ,…..
- Thực hiện công tác đào tạo, về cán bộ, công chức của ngành THADS theo quy định của pháp luật, phân cấp của Bộ trưởng và phân công của Tổng Cục trưởng.
- Đề xuất việc chọn, cử cán bộ, công chức các cơ quan THADS đi học tập, công tác ở trong nước, nước ngoài theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Quyết định việc cho phép cán bộ của Tổng cục đi nước ngoài về việc riêng theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
3. Vụ Kế hoạch - Tài chính: Vụ Kế hoạch - Tài chính là đơn vị thuộc Tổng cục THADS, có chức năng tham mưu, giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS thực hiện quản lý nhà nước về công tác tài chính, kế toán; quản lý, sử dụng tài sản nhà nước và đầu tư xây dựng cơ bản của các đơn vị dự toán thuộc Tổng cục quản lý theo quy định của pháp luật.
Vụ Kế hoạch - Tài chính có thể chia thành các Phòng (bộ phận):
a) Lãnh đạo cấp Vụ: Vụ có Vụ trưởng và không quá 03 Phó vụ trưởng.
b) Các nhóm chuyên trách:
Nhóm 1: Về lĩnh vực quản lý tài chính, tài sản, kế toán:
Các nhiệm vụ về công tác quản lý tài chính,tài sản, kế toán cụ thể như sau:
- Giúp Tổng cục trưởng thực hiện quản lý vốn, kinh phí Nhà nước giao cho Tổng cục;
- Hướng dẫn các đơn vị dự toán trực thuộc xây dựng dự toán thu, chi ngân sách hàng năm; xem xét, kiểm tra, xử lý và tổng hợp dự toán thu, chi ngân sách hàng năm của các đơn vị dự toán trong toàn ngành gửi Bộ Tư pháp;
- Xây dựng tiêu chí điều hoà phí thi hành án và phương án phân bổ điều hoà phí thi hành án cho các đơn vị dự toán;
- Hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra các đơn vị dự toán chấp hành chế độ kế toán; Tổng hợp báo cáo kế toán nghiệp vụ thi hành án;
- Kiểm tra, xét duyệt quyết toán thu, chi ngân sách hàng năm; tổng hợp, lập quyết toán ngân sách toàn ngành theo quy định của pháp luật;
- Hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị dự toán triển khai thực hiện dự toán thu, chi ngân sách và tổng hợp tình hình thực hiện dự toán thu, chi ngân sách được giao; Kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước của các đơn vị dự toán theo quy định.
- Tổ chức quản lý, sử dụng tài sản theo chế độ, tiêu chuẩn, định mức; trình Tổng cục trưởng quyết định việc mua sắm, thu hồi, điều chuyển, thanh lý, bán tài sản nhà nước thuộc thẩm quyền của Tổng cục trưởng theo quy định;
- Xây dựng kế hoạch bảo trì trụ sở, kho tàng của các đơn vị dự toán trình Tổng cục trưởng phê duyệt theo chế độ quy định;
Để thực hiện các nhiệm vụ trên Vụ Kế hoạch-Tài chính cần 15 công chức. Trong đó:
+ Tổng hợp: Tổng hợp dự toán ngân sách; Tổng hợp quyết toán ngân sách; Tổng hợp tài sản; Tổng hợp phí thi hành án và tổng hợp báo cáo kế toán nghiệp vụ thi hành án;
+ Chuyên quản: làm nhiệm vụ chuyên quản quản lý tài chính, kế toán, tài sản của 63 Cục THADS, 694 Chi cục THADS và Văn phòng Tổng cục.
Nhóm 2: Về lĩnh vực quản lý đầu tư xây dựng cơ bản:
Các nhiệm vụ về lĩnh vực quản lý đầu tư xây dựng cơ bản cụ thể như sau:
- Giúp Tổng cục trưởng quản lý thống nhất công tác đầu tư phát triển của ngành theo quy định của pháp luật; hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về đầu tư phát triển;
- Hướng dẫn các đơn vị dự toán lập quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển ngắn hạn, dài hạn;
- Hướng dẫn, kiểm tra các chủ đầu tư hoặc các đơn vị trực thuộc về chấp hành các quy định của pháp luật trong quản lý đầu tư xây dựng; giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện đầu tư xây dựng các dự án thuộc quyền quản lý của Tổng cục;
- Chủ trì thẩm định các dự án đầu tư (dự án đầu tư xây dựng công trình, dự án đầu tư không có xây dựng), thẩm định kế hoạch đấu thầu, thẩm tra quyết toán các dự án hoàn thành;
- Xây dựng kế hoạch phân bổ, điều hoà, điều chỉnh vốn đầu tư thông báo vốn đầu tư cho các dự án theo quy định của pháp luật;
- Chủ trì phối hợp với các đơn vị, tổ chức liên quan kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng; kiểm tra việc thực hiện các dự án đầu tư của các đơn vị dự toán;
- Trình Tổng cục trưởng ký quyết định đình chỉ thi công, yêu cầu các đơn vị có liên quan đình chỉ cấp vốn đầu tư xây dựng đối với các dự án vi phạm các quy định về quản lý đầu tư xây dựng;
Nhóm 3: Về lĩnh vực tổng hợp khác:
Các nhiệm vụ về lĩnh vực tổng hợp khác cụ thể như sau:
- Công tác kế hoạch: xây dựng kế hoạch công tác ngắn hạn và dài hạn của Vụ, theo dõi đôn đốc triển khai các chương trình kế hoạch….
- Công tác báo cáo: Chủ trì phối hợp với các đơn vị thuộc Tổng cục xây dựng báo cáo định kỳ, đột xuất về tinh hình, kết quả hoạt động của Tổng cục trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Vụ.Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo về tình hình, kết quả hoạt động của Vụ theo quy chế làm việc của Tổng cục và yêu cầu đột xuất của Lãnh đạo Tổng cục.
- Công tác hành chính: tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, theo dõi quản lý tài sản mà Vụ được trang cấp, thực hiện công tác văn thư, lưu trữ tài liệu của Vụ,…..
4. Vụ Nghiệp vụ 1: Vụ Nghiệp vụ 1 là đơn vị thuộc Tổng cục THADS có chức năng tham mưu, giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS thực hiện việc quản lý, hướng dẫn, đôn đốc, chỉ đạo, kiểm tra nghiệp vụ thi hành bản án, quyết định dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, phá sản, trọng tài thương mại (sau đây gọi chung là THADS) theo quy định của pháp luật.
Vụ Nghiệp vụ 1 có thể chia thành các Phòng (bộ phận):
a) Lãnh đạo cấp Vụ: Vụ có Vụ trưởng và không quá 03 Phó vụ trưởng.
b) Các nhóm chuyên trách:
Nhóm 1: chuyên quản của 63 tỉnh, thành phố để thực hiện các nhiệm vụ cơ bản như sau:
- Bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật trong hoạt động THADS;
- Hướng dẫn nghiệp vụ về THADS đối với các cơ quan THADS địa phương theo quy định của pháp luật và của Bộ Tư pháp;
- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo việc tổ chức THADS đối với Cục THADS tỉnh và Chi cục THADS huyện theo quy định của pháp luật, của Bộ Tư pháp và của Tổng cục THADS.
Tham mưu để Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS chỉ đạo Cục trưởng Cục THADS tỉnh tổ chức thi hành đối với những vụ việc về THADS phức tạp, kéo dài, có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp.
Kiến nghị xử lý đối với những việc THADS có đủ điều kiện thi hành nhưng chậm thi hành hoặc không thi hành được phát hiện trong quá trình kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ THADS.
- Phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn về THADS theo quy định của pháp luật.
- Phối hợp với Cơ quan đại diện của Bộ Tư pháp tại phía Nam trong việc thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Nhóm 2: Về lĩnh vực tổng hợp khác:
Các nhiệm vụ về lĩnh vực tổng hợp khác cụ thể như sau:
- Công tác kế hoạch: xây dựng kế hoạch công tác ngắn hạn và dài hạn của Vụ, theo dõi đôn đốc triển khai các chương trình kế hoạch….
- Công tác báo cáo: Chủ trì phối hợp với các đơn vị thuộc Tổng cục xây dựng báo cáo định kỳ, đột xuất về tinh hình, kết quả hoạt động của Tổng cục trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Vụ. Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo về tình hình, kết quả hoạt động của Vụ theo quy chế làm việc của Tổng cục và yêu cầu đột xuất của Lãnh đạo Tổng cục.
- Công tác hành chính: tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, theo dõi quản lý tài sản mà Vụ được trang cấp, thực hiện công tác văn thư, lưu trữ tài liệu của Vụ,…..
5. Vụ Nghiệp vụ 2: Vụ Nghiệp vụ 2 đơn vị thuộc Tổng cục THADS, có chức năng tham mưu, giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra nghiệp vụ thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh (gọi chung là phần tài sản trong bản án quyết định hình sự, hành chính và vụ việc cạnh tranh) theo quy định của pháp luật.
Vụ Nghiệp vụ 2 có thể chia thành các Phòng (bộ phận):
a) Lãnh đạo cấp Vụ: Vụ có Vụ trưởng và không quá 03 Phó vụ trưởng.
b) Các nhóm chuyên trách:
Nhóm 1: chuyên quản của 63 tỉnh, thành phố để thực hiện các nhiệm vụ cơ bản như sau:
- Bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật trong hoạt động thi hành phần tài sản trong bản án quyết định hình sự, hành chính và vụ việc cạnh tranh;
- Hướng dẫn nghiệp vụ về thi hành phần tài sản trong bản án quyết định hình sự, hành chính và vụ việc cạnh tranh đối với các cơ quan THADS địa phương theo quy định của pháp luật và của Bộ Tư pháp;
- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo việc tổ chức thi hành phần tài sản trong bản án quyết định hình sự, hành chính và vụ việc cạnh tranh đối với Cục THADS tỉnh và Chi cục THADS huyện theo quy định của pháp luật, của Bộ Tư pháp và của Tổng cục THADS;
Tham mưu để Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS chỉ đạo Cục trưởng Cục THADS tỉnh tổ chức thi hành đối với những vụ việc thi hành phần tài sản trong bản án quyết định hình sự, hành chính và vụ việc cạnh tranh phức tạp, kéo dài, có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp;
Kiến nghị xử lý đối với những trường hợp thi hành phần tài sản trong bản án quyết định hình sự, hành chính và vụ việc cạnh tranh có đủ điều kiện thi hành nhưng chậm thi hành hoặc không thi hành mà được phát hiện trong quá trình kiểm tra, chỉ đạo nghiệp vụ về thi hành phần tài sản trong bản án quyết định hình sự, hành chính và vụ việc cạnh tranh.
- Phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn về thi hành phần tài sản trong bản án quyết định hình sự, hành chính và vụ việc cạnh tranh theo quy định của pháp luật.
- Phối hợp với Cơ quan đại diện của Bộ Tư pháp tại phía Nam trong việc thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Nhóm 2: Về lĩnh vực tổng hợp khác:
Các nhiệm vụ về lĩnh vực tổng hợp khác cụ thể như sau:
- Công tác kế hoạch: xây dựng kế hoạch công tác ngắn hạn và dài hạn của Vụ, theo dõi đôn đốc triển khai các chương trình kế hoạch….
- Công tác báo cáo: Chủ trì phối hợp với các đơn vị thuộc Tổng cục xây dựng báo cáo định kỳ, đột xuất về tinh hình, kết quả hoạt động của Tổng cục trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Vụ. Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo về tình hình, kết quả hoạt động của Vụ theo quy chế làm việc của Tổng cục và yêu cầu đột xuất của Lãnh đạo Tổng cục.
- Công tác hành chính: tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, theo dõi quản lý tài sản mà Vụ được trang cấp, thực hiện công tác văn thư, lưu trữ tài liệu của Vụ,…..
6. Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo: Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo là đơn vị thuộc Tổng cục THADS, có chức năng tham mưu, giúp Tổng Cục trưởng giải quyết khiếu nại tố cáo, thực hiện quản lý công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng thuộc thẩm quyền của Tổng cục THADS và theo quy định của pháp luật.
Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo có thể chia thành các Phòng (bộ phận):
a) Lãnh đạo cấp Vụ: Vụ có Vụ trưởng và không quá 03 Phó vụ trưởng.
b) Các nhóm chuyên trách:
Nhóm 1: chuyên quản của 63 tỉnh, thành phố để thực hiện các nhiệm vụ cơ bản như sau:
b) Thực hiện tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật và của Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS;
c) Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các cơ quan THADS địa phương theo quy định của pháp luật và của Bộ Tư pháp.
Tham mưu để Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS chỉ đạo Cục trưởng Cục THADS tỉnh tổ chức thi hành đối với những vụ việc đủ điều kiện thi hành nhưng chậm thi hành hoặc không thi hành mà qua quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo phát hiện ra.
d) Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành hoặc huỷ bỏ những quy định trái pháp luật được phát hiện qua công tác kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật; Kiến nghị xử lý đối với CHV, công chức cơ quan THADS theo quy định của pháp luật;
đ) Tổ chức thực hiện phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong THADS;
e) Phối hợp với Thanh tra Bộ Tư pháp giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp giải quyết khiếu nại, tố cáo những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
g) Phối hợp với Cơ quan đại diện của Bộ Tư pháp tại phía Nam trong việc thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Nhóm 2: Về lĩnh vực tổng hợp khác:
Các nhiệm vụ về lĩnh vực tổng hợp khác cụ thể như sau:
- Công tác kế hoạch: xây dựng kế hoạch công tác ngắn hạn và dài hạn của Vụ, theo dõi đôn đốc triển khai các chương trình kế hoạch….
- Công tác báo cáo: Chủ trì phối hợp với các đơn vị thuộc Tổng cục xây dựng báo cáo định kỳ, đột xuất về tinh hình, kết quả hoạt động của Tổng cục trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Vụ. Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo về tình hình, kết quả hoạt động của Vụ theo quy chế làm việc của Tổng cục và yêu cầu đột xuất của Lãnh đạo Tổng cục.
- Công tác hành chính: tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, theo dõi quản lý tài sản mà Vụ được trang cấp, thực hiện công tác văn thư, lưu trữ tài liệu của Vụ,…..
7. Trung tâm Dữ liệu, Thông tin và Thống kê THADS: Trung tâm Dữ liệu, Thông tin và Thống kê THADS (sau đây gọi là Trung tâm) là đơn vị thuộc Tổng cục THADS, có chức năng tham mưu, giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS quản lý Dữ liệu, Thông tin và Thống kê THADS, tổ chức thực hiện báo cáo thống kê về THADS và việc ứng dụng công nghệ thông tin trong toàn Ngành THADS theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Trung tâm Dữ liệu, Thông tin và Thống kê THADS có thể chia thành các Phòng (bộ phận):
a) Lãnh đạo cấp Vụ: Trung tâm có Giám đốc và không quá 03 Phó Giám đốc.
b) Các nhóm chuyên trách:
Nhóm 1: Xây dựng, quản lý, thông tin dữ liệu Ngành THADS:
- Xây dựng, hoặc phối hợp xây dựng, thẩm định các dự án, đề án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực xây dựng, quản lý dữ liệu công nghệ thông tin, cơ chế, chính sách quản lý dữ liệu,
- Hướng dẫn, đôn đốc các đơn vị thuộc Tổng cục và các cơ quan THADS triển khai thực hiện kế hoạch về xây dựng, quản lý và sử dụng có hiệu quả dữ liệu, thông tin; ứng dụng công nghệ thông tin, các chương trình, kế hoạch về ứng dụng công nghệ thông tin trong toàn Ngành THADS;
- Xây dựng, quản lý Dữ liệu, Thông tin trong Ngành THADS;
- Phối hợp với các đơn vị liên quan, trình Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS phân bổ các nguồn vốn, kinh phí sử dụng cho hoạt động quản lý dữ liệu, thông tin, ứng dụng công nghệ thông tin; phối hợp với các đơn vị liên quan lập kế hoạch và tổ chức thực hiện việc mua sắm các sản phẩm công nghệ thông tin phù hợp với chương trình, kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin đã được phê duyệt theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
- Hướng dẫn các cơ quan thi hành án địa phương trong việc xây dựng, thu thập, xử lý, trao đổi, cung cấp dữ liệu, thông tin, quản lý, sử dụng dữ liệu, thông tin, các phương tiện công nghệ thông tin phục vụ công tác THADS;
- Hướng dẫn, đôn đốc, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các quy định về xây dựng, quản lý dữ liệu, thông tin, việc ứng dụng công nghệ thông tin tại các cơ quan THADS;
- Đầu mối giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS chủ trì, phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ xây dựng và thực hiện các đề án, dự án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước và Chính phủ điện tử thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của Tổng cục;
- Phối hợp với Cơ quan đại diện của Bộ Tư pháp tại phía Nam trong việc thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Nhóm 2: Thống kê và báo cáo thống kê THADS
- Thống kê, báo cáo thống kê trong THADS và cơ chế, số liệu thống kê trong hệ thống THADS;
- Hướng dẫn, đôn đốc các đơn vị thuộc Tổng cục và các cơ quan THADS triển khai thực hiện thống trong toàn Ngành THADS;
- Xây dựng, quản lý công tác thống kê, báo cáo thống kê trong THADS;
Thực hiện chế độ báo cáo thống kê THADS theo định kỳ, đột xuất theo quy định và theo yêu cầu của Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS về chế độ báo cáo thống kê THADS.
- Hướng dẫn các cơ quan thi hành án địa phương trong việc xây dựng, thu thập, xử lý, trao đổi thông tin, thống kê, báo cáo thống kê THADS, các phương tiện công nghệ thông tin phục vụ công tác THADS;
- Hướng dẫn, đôn đốc, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các quy định về xây dựng, quản lý công tác thống kê, thực hiện chế độ báo cáo thống kê THADS;
- Tổ chức sơ kết, tổng kết và thực hiện chế độ báo cáo, thống kê định kỳ hoặc đột xuất về các lĩnh vực, nhiệm vụ thuộc phạm vi chức năng của đơn vị theo Quy chế của Tổng cục, Bộ Tư pháp và theo quy định của pháp luật.
Nhóm 3: Về lĩnh vực tổng hợp khác:
Các nhiệm vụ về lĩnh vực tổng hợp khác cụ thể như sau:
- Công tác kế hoạch: xây dựng kế hoạch công tác ngắn hạn và dài hạn của Trung tâm, theo dõi đôn đốc triển khai các chương trình kế hoạch….
- Công tác báo cáo: Chủ trì phối hợp với các đơn vị thuộc Tổng cục xây dựng báo cáo định kỳ, đột xuất về tinh hình, kết quả hoạt động của Tổng cục trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Trung tâm. Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo về tình hình, kết quả hoạt động của Trung tâm theo quy chế làm việc của Tổng cục và yêu cầu đột xuất của Lãnh đạo Tổng cục.
- Công tác hành chính: tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, theo dõi quản lý tài sản mà Trung tâm được trang cấp, thực hiện công tác văn thư, lưu trữ tài liệu của Trung tâm,…
Giai đoạn thứ hai (từ năm 2012 - 2015):
Giai đoạn hoàn thiện tổ chức bộ máy các đơn vị thuộc Tổng cục THADS nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo quy định của Luật THADS. Giai đoạn này có thể nghiên cứu để thành lập Thanh tra chuyên ngành thuộc Tổng cục, đồng thời có thể thành lập Tạp chí chuyên ngành về THADS.
Những vấn đề trên đã được Ban chủ nhiệm Đề án khuyến nghị và nhiều nội dung đã được nghiên cứu, tạo cơ sở cho việc xây dựng và ban hành Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ.
Vấn đề thứ hai, quy định mô hình tổ chức, tên gọi các cơ quan THADS địa phương:
Liên quan đến tên gọi của cơ quan THADS, qua nghiên cứu, tìm hiểu cho thấy đây là vấn đề khá quan trọng nhưng có nhiều loại ý kiến khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng, cần đổi tên cơ quan THADS địa phương là Cục THADS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Chi Cục THADS huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Có như vậy mới đảm bảo tính đồng bộ và xác định rõ vị trí vai trò của cơ quan THADS địa phương, tránh để tình trạng thiếu rõ ràng như hiện nay. Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị chỉ đổi tên cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp còn giữ nguyên tên của cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện như hiện nay (THADS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và THADS huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) để bảo đảm ổn định, tránh tốn kém, lãng phí, đồng thời cũng phù hợp với tên của cơ quan thi hành án cấp quân khu.
Về vấn đề này qua nghiên cứu cho thấy, tên của cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện có liên quan chặt chẽ đến việc xác định vị trí, vai trò của cơ quan THADS và việc khắc phục những bất cập trong mô hình tổ chức, tên gọi của cơ quan THADS từ hơn 15 năm qua. Hơn nữa, việc thay đổi tên của cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện cũng là để bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống đó là: Tổng cục, Cục và Chi cục. Việc thay đổi này không làm phình thêm tổ chức bộ máy của cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện, nên việc thay đổi tên của cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện là phù hợp. Kể cả các cơ quan thi hành án trong quân đội cũng cần phải đổi tên lại cho phù hợp.
Cùng với việc kiện toàn, đổi tên đối với cơ quan THADS cấp tỉnh, cần nghiên cứu để củng cố, kiện toàn các đơn vị chuyên môn thuộc Cục THADS cấp tỉnh. Tuy nhiên, để bảo đảm không phình tổ chức, biên chế, qua nghiên cứu cho thấy, trước mắt cần giữ nguyên cơ bản cơ cấu các Phòng chuyên môn thuộc Cục THADS tỉnh theo tinh thần Thông tư liên tịch số 01/2007/TTLT-BTP-BNV thì THADS cấp tỉnh (nay là Cục THADS cấp tỉnh), trong đó các đơn vị chủ yếu chỉ có 03 Phòng chuyên môn, một số đơn vị lớn có thể có 04, nhưng tối đa không quá 05 Phòng chuyên môn, cụ thể: Ở cấp tỉnh mỗi Cục THADS tỉnh có thể thành lập từ 3 đến 5 phòng gồm:
- Văn phòng
- Phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án,
- Phòng Kiểm tre, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
- Phòng Tổ chức cán bộ
- Phòng Kế hoạch - Tài chính .
Việc quy định cơ cấu nêu trên cần phải được thực hiện theo các tiêu chí nhất định. Qua nghiên cứu, Ban chủ nhiệm đề án nhận thấy có thể định hướng theo các tiêu chí cơ bản như sau:
a) Đối với đơn vị đô thị loại đặc biệt như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đề nghị quy định số lượng 05 Phòng chuyên môn.
b) Đối với những đơn vị lớn như: có số lượng đơn vị hành chính cấp huyện từ 14 đơn vị trở lên hoặc những đơn vị tuy không đủ 14 đơn vị hành chính nhưng hàng năm có số lượng án toàn tỉnh phải thi hành từ 13.000 việc trở lên đề nghị quy định 04 Phòng chuyên môn.
c) Đối với những đơn vị còn lại quy định mỗi đơn vị có 03 Phòng chuyên môn.
Từ việc định hướng nêu trên, xác định giai đoạn 2 (từ năm 2012 – 2015) sẽ nghiên cứu để hoàn thiện và thành lập thêm các Phòng chuyên môn.
Những vấn đề trên đã được Ban chủ nhiệm Đề án khuyến nghị và nhiều nội dung đã được nghiên cứu, tạo cơ sở cho việc xây dựng và ban hành Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ và các văn bản khác có liên quan.
Vấn đề thứ ba, quy định Ban chỉ đạo THADS:
Luật THADS không quy định Ban chỉ đạo THADS. Tuy nhiên, Ban chủ nhiệm đề án thấy rằng, Ban chỉ đạo thi hành án (do Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện làm Trưởng ban chỉ đạo thi hành án) được thành lập từ năm 2001 theo Chỉ thị số 20/2001/CT-TTg ngày 11 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác THADS. Thực tiễn qua 10 năm thực hiện cho thấy, Ban chỉ đạo THADS ở các địa phương về cơ bản đã phát huy được hiệu quả, là cầu nối trong việc phối hợp giữa cơ quan THADS với các ngành để tham mưu giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện chỉ đạo thi hành đối với các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Bên cạnh đó, theo quy định của Luật THADS thì hệ thống các cơ quan THADS được tổ chức theo ngành dọc, nhưng đây là hoạt động đòi hỏi phải có sự quan tâm chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương, sự phối kết hợp chặt chẽ, hiệu quả của các cấp, các ngành có liên quan ở địa phương, nhất là đối với những vụ việc thi hành án phức tạp, cần phải cưỡng chế. Theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 173 và Điều 174 của Luật THADS thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có nhiệm vụ, quyền hạn: Chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong THADS trên địa bàn; Chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện. Tuy nhiên, Luật THADS lại chưa quy định cơ chế, phương thức phù hợp để tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định nêu trên. Trong bài phát biểu chỉ đạo công tác tư pháp của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị triển khai công tác tư pháp năm 2009 cũng đã nhấn mạnh: “Bộ cần chủ động tham mưu cho Chính phủ xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật THADS; tập trung kiện toàn hệ thống tổ chức của cơ quan THADS, ở Trung ương có thể là tổng cục, còn ở cấp tỉnh, cấp huyện cần tổ chức theo mô hình phù hợp, đảm bảo cơ chế vận hành hiệu quả, thông suốt, gắn chặt với sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương”. Việc thành lập Ban chỉ đạo THADS ở cấp tỉnh và cấp huyện do Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch làm Trưởng ban vừa thể hiện sự trao quyền, vừa gắn với sức mạnh của chính quyền địa phương, bảo đảm góp phần nâng cao hiệu quả công tác THADS.
2. Về kiện toàn đội ngũ cán bộ ngành THADS
Luật THADS đã quy định bổ sung nhiều nhiệm vụ quan trọng liên quan đến cán bộ, công chức THADS. Ví dụ, theo quy định tại Điều 17 của Luật THADS thì: CHV có ba ngạch là CHV sơ cấp, CHV trung cấp và CHV cao cấp. Căn cứ quy định này, vấn đề đặt ra là việc bổ nhiệm ngạch CHV cần phải thực hiện như thế nào, ví dụ việc chuyển đổi từ ngạch CHV cấp huyện, cấp tỉnh sang ngạch CHV sơ cấp, trung cấp, cao cấp; cơ cấu, số lượng, điều kiện để được bổ nhiệm vào các ngạch CHV; vấn đề thi tuyển CHV... Hay theo quy định tại khoản 2 Điều 22 của Luật THADS thì: Chính phủ quy định tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS và cơ quan thi hành án trong quân đội. Vấn đề đặt ra là những trường hợp Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện đã được bổ nhiệm có thời hạn theo quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004 và các văn bản có liên quan nay nếu chưa hết nhiệm kỳ hoặc mới được bổ nhiệm thì có cần phải bổ nhiệm lại theo quy định của luật mới hay không? trình tự thủ tục bổ nhiệm như thế nào... Trong phạm vi này, Ban chủ nhiệm Đề án xin đề cập đến mấy vấn đề dự kiến cần phải quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật THADS, cụ thể như sau:
Thứ nhất, thi tuyển vào ngạch CHV: Thi tuyển vào ngạch CHV là một vấn đề mới, chưa có tiền lệ, kể cả đối vói các chức danh tư pháp khác như Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán. Vì vậy, việc quy định rõ các điều kiện như tiêu chuẩn, vấn đề sơ tuyển, tuyển chọn và trình tự tổ chức thi tuyển có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến hiệu quả của công tác thi tuyển vào ngạch CHV. Xuất phát từ yêu cầu đó, qua nghiên cứu cho thấy, cần phải nghiên cứu, quy định rõ các vấn đề sau đây:
- Cần xác định rõ việc bổ nhiệm vào ngạch CHV sơ cấp, CHV trung cấp và CHV cao cấp (sau đây gọi chung là CHV) phải qua kỳ thi tuyển, trừ các trường hợp được xét tuyển theo quy đinh.
- Bộ Tư pháp tổ chức thi tuyển vào ngạch CHV các cơ quan THADS địa phương; Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức thi tuyển vào ngạch CHV Thi hành án cấp quân khu. Nội dung và hình thức thi tuyển vào ngạch CHV thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Đồng thời cần quy định rõ Tiêu chuẩn ngạch CHV sơ cấp, ngạch CHV trung cấp và ngạch CHV cao cấp để tạo điều kiện cho quá trình thực hiện.
Thứ hai, xác định tiêu chuẩn và bổ nhiệm CHV trong một số trường hợp đặc biệt: Luật THADS đã quy định tiêu chuẩn bổ nhiệm CHV. Tuy nhiên, Luật này chưa quy định những trường hợp cần phải có tiêu chuẩn riêng, phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu linh hoạt, uyển chuyển trong công tác cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý. Vì vậy, cần phải xác định rõ tiêu chuẩn trong các trường hợp cụ thể sau đây: i, trường hợp điều động cán bộ, công chức từ cơ quan khác sang cơ quan thi hành án để bổ nhiệm Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án, nếu có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định tại khoản 7 Điều 18 Luật THADS thì có thể được bổ nhiệm làm CHV trung cấp hoặc cao cấp mà không phải qua thi tuyển; ii) Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của cơ quan thi hành án, người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật THADS tuy chưa làm CHV sơ cấp hoặc đã làm CHV sơ cấp trong thời gian chưa đủ 05 năm nhưng có thời gian làm công tác pháp luật từ 10 năm trở lên, có năng lực thi hành những vụ việc thuộc thẩm quyền của cơ quan THADS có thể được thi tuyển CHV trung cấp; iii) Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của cơ quan thi hành án, người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật THADS, tuy chưa làm CHV trung cấp nhưng có thời gian làm công tác pháp luật từ 15 năm trở lên, có năng lực thi hành những vụ việc thuộc thẩm quyền của cơ quan THADS tỉnh có thể được thi tuyển CHV cao cấp.
Thứ ba, về kỷ luật cách chức chức danh CHV: Theo quy định hiện hành[6], thì trong một số trường hợp CHV có hành vi vi phạm kỷ luật có thể bị cách chức chức danh CHV. Luật THADS không quy định về cách chức CHV.
Liên quan đến vấn đề này, trong quá trình xây dựng Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật THADS, nhiều ý kiến cho rằng, CHV là chức danh tư pháp đặc thù, được pháp luật quy định rất nhiều nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng nên cần phải có quy định CHV có thể bị kỷ luật cách chức chức danh CHV (tương tự như Kiểm sát viên và Thẩm phán). Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng không cần quy định về kỷ luật cách chức chức danh CHV mà thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành như đối với cán bộ công chức khác. CHV vi phạm thì áp dụng hình thức kỷ luật như đối với công chức khác. Trường hợp nếu xét thấy người đó không còn đủ điều kiện để tiếp tục làm CHV sẽ miễn nhiệm.
Về vấn đề này qua nghiên cứu cho thấy, CHV là chức danh tư pháp đặc thù, được pháp luật quy định rất nhiều nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng (tương tự như Kiểm sát viên và Thẩm phán), nên trong những năm qua, tương tự như Thẩm phán, Kiểm sát viên, CHV có thể bị kỷ luật cách chức chức danh CHV. Việc quy định như vậy là phù hợp, thể hiện tính răn đe cao và trên thực tế đã phát huy hiệu quả. Do đó, nếu chỉ quy định kỷ luật CHV cũng như các ngạch công chức khác là không phù hợp. Nhất là, tới đây thực hiện Luật cán bộ, công chức (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2010) sẽ càng khó thực hiện vì theo quy định của Luật này thì hình thức kỷ luật "Giáng chức chỉ áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý bị hạ xuống chức vụ thấp hơn"; còn hình thức kỷ luật cách chức chỉ áp dụng đối với trường hợp "cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý không được tiếp tục giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý khi chưa hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời hạn bổ nhiệm"[7]. Như vậy, cả hai hình thức kỷ luật này đều không thể áp dụng được đối với CHV. Trong khi đó, theo tinh thần Luật THADS thì CHV sẽ được bổ nhiệm suốt đời nên nếu không quy định hình thức kỷ luật cách chức chức danh CHV sẽ ít nhiều làm giảm tính răn đe. Vì vậy, việc quy định các trường hợp CHV có thể bị kỷ luật cách chức chức danh CHV là phù hợp.
Thứ tư, quy định cụ thể về Thẩm tra viên thi hành án: Thẩm tra viên thi hành án không phải là một chức danh mới. Tuy nhiên, cho đến nay, ngoài các tiêu chuẩn do Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành thì chưa có văn bản nào quy định cụ thể về thẩm tra viên. Điều này, ít nhiều đã ảnh hưởng đến vị trí, vai trò và trách nhiệm của thẩm tra viên trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao. Vì vậy, qua nghiên cứu cho thấy cần phải làm rõ một số vấn đề sau đây:
+ Thẩm tra viên thi hành án là công chức, có nhiệm vụ giúp Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và cơ quan thi hành án trong quân đội thực hiện nhiệm vụ thẩm tra thi hành án và các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật và được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm theo ngạch Thẩm tra viên thi hành án, Thẩm tra viên chính thi hành án và Thẩm tra viên cao cấp thi hành án.
+ Về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm tra viên thi hành án:
- Thực hiện việc thẩm tra những vụ việc thi hành án đã được thi hành và đang thi hành, thẩm tra xác minh các vụ việc có đơn thư khiếu nại theo sự chỉ đạo của thủ trưởng cơ quan quản lý THADS và cơ quan THADS. Trong trường hợp kiểm tra, nếu phát hiện có sai sót phải tham mưu cho cấp có thẩm quyền tạm dừng việc thực hiện quyết định sai sót đó để khắc phục, sửa chữa và chịu trách nhiệm về những kiến nghị của mình.
- Lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, hoặc phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để xác minh, kiểm tra và đề xuất biện pháp giải quyết nhiệm vụ được phân công.
- Tham mưu cho Thủ trưởng cơ quan trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện Kiểm sát nhân dân theo thẩm quyền.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do thủ trưởng cơ quan giao.
+ Xác định rõ trách nhiệm của Thẩm tra viên thi hành án
- Thẩm tra viên thi hành án phải gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật, không ngừng phấn đấu, rèn luyện, giữ vững tiêu chuẩn Thẩm tra viên thi hành án.
- Khi tiến hành thẩm tra, kiểm tra, Thẩm tra viên thi hành án phải tuân thủ các quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về thực hiện nhiệm vụ được giao, đồng thời chịu trách nhiệm trước Thủ trưởng cơ quan về việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Thẩm tra viên thi hành án không được làm những việc sau đây:
+ Những việc mà pháp luật về cán bộ, công chức và các quy định khác của pháp luật có liên quan quy định không được làm;
+ Thông đồng với đối tượng thẩm tra và những người có liên quan trong việc thẩm tra, kiểm tra;
+ Tiến hành thẩm tra, kiểm tra khi không có quyết định phân công của người có thẩm quyền;
+ Can thiệp trái pháp luật vào việc thẩm tra, kiểm tra hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình để tác động đến người có trách nhiệm khi người đó thực hiện nhiệm vụ thẩm tra, kiểm tra vì vụ lợi;
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn thẩm tra, kiểm tra để thực hiện hành vi trái pháp luật; sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng kiểm tra, thẩm tra; bao che cho đối tượng thẩm tra, kiểm tra và những người có liên quan;
+ Cung cấp thông tin, tài liệu thẩm tra, kiểm tra cho những người không có trách nhiệm;
+ Tiết lộ thông tin, tài liệu thẩm tra, kiểm tra cho những người không có trách nhiệm khi chưa có kết luận.
- Thẩm tra viên thi hành án không được tham gia thẩm tra, kiểm tra trong trường hợp có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của những người sau đây:
+ Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi;
+ Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của Thẩm tra viên thi hành án, của vợ hoặc chồng của Thẩm tra viên thi hành án;
+ Cháu ruột mà Thẩm tra viên thi hành án là ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì.
Thứ năm, quy định rõ tiêu chuẩn Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS: Để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện, việc quy định rõ tiêu chuẩn của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS là rất cần thiết. Qua nghiên cứu cho thấy, việc quy định tiêu chuẩn của các chức danh này cần phải bảo đảm các tiêu chí cơ bản đó là: Tiêu chí về CHV và năng lực, kinh nghiêm công tác. Xuất phát từ yêu cầu đó, qua nghiên cứu và trên cơ sở kế thừa các quy định trước đây của Pháp lệnh THADS năm 2004, Ban chủ nhiệm Đề án thấy rằng việc xác định tiêu chuẩn Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện cần phải bảo đảm các tiêu chuẩn tối thiểu sau:
+ Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS cấp huyện:
- Trước hết phải là CHV sơ cấp trở lên. Bởi vì, ở cấp huyện có thể có CHV Trung cấp và CHV sơ cấp. Tuy nhiên, nếu quy định cứng Thủ trưởng cơ quan THADS cấp huyện phải là CHV Trungcấp dẫn đến khó khăn cho quá trình thực hiện, nhất là những đơn vị thuộc miền núi vùng sâu, vùng xa, hoặc do yêu cầu điều động công chức từ cơ quan khác sang cơ quan THADS để bổ nhiệm giữ chức vụ Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS.
- Có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong sạch, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm trong công tác;
- Có kinh nghiệm thực tiễn về THADS;
- Có năng lực điều hành và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của Cơ quan THADS cấp huyện.
+ Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh:
- Là CHV trung cấp trở lên hoặc Chi cục trưởng Chi Cục THADS;
- Có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong sạch, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm trong công tác;
- Có kinh nghiệm thực tiễn về THADS;
- Có năng lực điều hành và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của Cục THADS tỉnh.
+ Đối với tiêu chuẩn Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu do có những đặc thù riêng của quân đội nên Ban chủ nhiệm Đề án thấy rằng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cần phải có quy định riêng.
Thứ sáu: quy định cụ thể trình tự thủ tục bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, từ chức, cách chức Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS
Trên cơ sở kế thừa các quy định tại Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ và các Thông tư hướng dẫn có liên quan, Ban chủ nhiệm Đề án thấy rằng cần phải có quy định chi tiết về trình tự thủ tục bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, từ chức, cách chức Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS, có thể kể đến các vấn đề sau:
+ Việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS địa phương thực hiện theo quy định của Luật THADS, các quy định của pháp luật hiện hành về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo. Ngoài ra cần làm rõ các vấn đề:
+ Xác định rõ trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS Bộ Tư pháp trong việc tham mưu đề xuất nhân sự và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền về quản lý cán bộ cấp tỉnh thực hiện quy trình, hoàn tất hồ sơ nhân sự trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cho từ chức, cách chức Thủ trưởng Cơ quan THADS cấp tỉnh. Ngoài ra cũng cần xác định rõ trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh trong việc đề xuất nhân sự và phối hợp với cơ quan chuyên môn có thẩm quyền về quản lý cán bộ cấp tỉnh thực hiện quy trình, hoàn tất hồ sơ đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cho từ chức, cách chức Phó Cục trưởng Cục THADS tỉnh.
Tương tự như vậy cũng cần quy định rõ thủ tục bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cho từ chức, cách chức Chi cục trưởng, Phó chi cục trưởng Chi Cục THADS cấp huyện nhằm tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện.
Thứ bảy, quy định rõ các nội dung cần chuyển tiếp: Để bảo đảm tính liên tục giữa việc thực hiện các quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004 (sẽ hết hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2009) và Luật THADS, qua nghiên cứu cho thấy nếu không có các quy định mang tính đặc thù nhằm bảo đảm sự chuyển tiếp (về tuyển chọn và bổ nhiệm CHV trong trường hợp không qua thi tuyển; Hội đồng tuyển chọn CHV; thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng tuyển chọn CHV cơ quan THADS địa phương; bổ nhiệm từ ngạch CHV huyện, CHV tỉnh, CHV quân khu sang ngạch CHV sơ cấp, CHV trung cấp và CHV cao cấp; điều kiện để bổ nhiệm từ ngạch CHV huyện, ngạch CHV tỉnh, ngạch CHV cấp quân khu sang ngạch CHV sơ cấp, CHV trung cấp và CHV cao cấp; bổ nhiệm lại Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS) sẽ gặp rất nhiều khó khăn cho quá trình thực hiện. Liên quan đến vấn đề này, qua nghiên cứu, Ban chủ nhiệm Đề án nhận thấy cần phải có những vấn đề cần có quy định riêng, áp dụng cho quá trình chuyển tiếp từ Pháp lệnh THADS năm 2004 sang việc thực hiện các quy định của Luật THADS, có thể đề cập đến một số vấn đề chủ yếu sau:
+ Cần phải xác định rõ việc tuyển chọn và bổ nhiệm CHV trong trường hợp không qua thi tuyển: Để phù hợp với điều kiện cụ thể về nguồn công chức làm công tác thi hành án tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa trong giai đoạn hiện nay theo quy định tại điểm 3 Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật THADS thì cân quy định những cơ quan THADS cụ thể ở các địa bàn nêu trên được tuyển chọn người có trình độ cử nhân luật làm CHV không qua thi tuyển trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật THADS có hiệu lực thi hành. Theo đó, Chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm CHV không qua thi tuyển được áp dụng đối với cơ quan THADS có đủ các điều kiện sau đây:
- Cơ quan THADS các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có hệ số phụ cấp khu vực từ 0,3 trở lên và các đơn vị thuộc vùng sâu, vùng xa;
- Người được tuyển chọn để bổ nhiệm CHV có đơn cam kết tình nguyện công tác tại cơ quan THADS nêu trên từ 03 năm trở lên;
- Thời gian áp dụng kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2009 đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2014.
Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm CHV đối với các trường hợp quy định tại Điều này do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn CHV.
Trên cơ sở các tiêu trí nêu trên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình Thủ tướng Chính phủ quyết định danh sách các cơ quan THADS được tuyển chọn và bổ nhiệm CHV trong trường hợp không qua thi tuyển
Hội đồng tuyển chọn CHV và nhiệm vụ của Hội đồng tuyển chọn CHV có thể thực hiện như các quy định hiện hành về tuyển chọn và bổ nhiệm CHV.
+ Quy định rõ việc bổ nhiệm từ ngạch CHV huyện, CHV tỉnh, CHV quân khu sang ngạch CHV sơ cấp, CHV trung cấp và CHV cao cấp. Đây là vấn đề tác động lớn đến đội ngũ CHV hiện nay. Vì vậy, cần quy định cụ thể các vấn đề sau:
- Trước hết thực hiện tốt việc rà soát, đánh giá đội ngũ CHV hiện có của cơ quan THADS làm cơ sở để xem xét, bổ nhiệm từ ngạch CHV huyện, CHV tỉnh sang ngạch CHV sơ cấp, CHV trung cấp và CHV cao cấp.
- Cần xác định rõ nguyên tắc đó là các trường hợp đã được bổ nhiệm vào ngạch CHV huyện, CHV tỉnh, CHV quân khu theo quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004, phải được xem xét để bổ nhiệm vào ngạch CHV sơ cấp, CHV trung cấp hoặc CHV cao cấp theo quy định của Luật THADS. Trong trường hợp vì lý do khách quan mà sau ngày Nghị định này có hiệu lực, các cơ quan chức năng vẫn chưa xem xét để bổ nhiệm lại thì CHV tiếp tục làm nhiệm vụ cũ cho đến khi có quyết định mới của cơ quan có thẩm quyền nhưng cần xác định rõ thời gian chấm dứt (có thể là ngày 30 tháng 6 năm 2010). Sau ngày này, các trường hợp không được xem xét để bổ nhiệm vào ngạch CHV theo quy định của Luật THADS thì phải chuyển sang làm nhiệm vụ khác, trừ trường hợp đặc biệt do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định.
+ Quy định cụ thể điều kiện để bổ nhiệm từ ngạch CHV huyện, ngạch CHV tỉnh, ngạch CHV cấp quân khu sang ngạch CHV sơ cấp, CHV trung cấp và CHV cao cấp
CHV sơ cấp, CHV trung cấp và CHV cao cấp là các chức danh mới trong hệ thống các cơ quan thi hành án, nên việc thực hiện bổ nhiệm vào ngạch CHV nêu trên cần thực hiện theo hai giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1, chuyển đổi theo hướng:
- Các trường hợp đã được bổ nhiệm CHV huyện nếu đáp ứng đủ điều kiện để làm CHV sơ cấp thì được xem xét để bổ nhiệm vào ngạch CHV sơ cấp.
- Các trường hợp đã được bổ nhiệm CHV tỉnh nếu đáp ứng đủ điều kiện để làm CHV trung cấp thì được xem xét để bổ nhiệm vào ngạch CHV trung cấp.
- Đối với các trường hợp trước đây đã là CHV cấp tỉnh nhưng do yêu cầu về tổ chức cán bộ đã được điều động và bổ nhiệm làm CHV huyện nay nếu đáp ứng đủ điều kiện để làm CHV trung cấp thì được xem xét để bổ nhiệm vào ngạch CHV trung cấp.
- Đối với những người đang ở ngạch CHV cấp huyện có đủ điều kiện, tiêu chuẩn để bổ nhiệm CHV trung cấp thì có thể xem xét bổ nhiệm vào ngạch CHV trung cấp khi có đủ các điều kiện sau đây: i) Là Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng cơ quan THADS huyện; ii) Đạt hệ số lương nhất định (có thể định hướng tối thiểu từ 4,32 trở lên gần tương đương với bậc 1 của CHV trung cấp); iii) Đơn vị có nhu cầu bố trí làm CHV trung cấp; iv) Đối với những người không thuộc điểm a khoản này nhưng đã ở bậc lương cuối cùng của ngạch CHV cấp huyện.
- Đối với những người đang ở ngạch CHV cấp tỉnh có đủ điều kiện, tiêu chuẩn để bổ nhiệm CHV cao cấp thì có thể xem xét bổ nhiệm vào ngạch CHV cao cấp khi có đủ các điều kiện sau đây: i) Là Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng cơ quan THADS tỉnh; ii) Đạt hệ số lương nhất định (có thể là từ 6,10 trở lên, tương đương với bậc 1 ngạch CHV cao cấp); iii) Đơn vị có nhu cầu bố trí làm CHV cao cấp.
- Đối với việc bổ nhiệm CHV cấp quân khu sang CHV sơ cấp, CHV trung cấp và CHV cao cấp thực hiện theo quy định của Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng.
Giai đoạn 2, tổ chức thi tuyển vào ngạch CHV theo quy định chung
+ Quy định cụ thể việc bổ nhiệm lại Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS: Việc kiện toàn nhân sự Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS theo tinh thần Luật THADS có ý nghĩa quan trọng tới việc bảo đảm sự kế thừa, phát triển nhưng vẫn giữ được tính ổn định, liên tục và không làm xáo trộn lớn về tổ chức cán bộ của các cơ quan THADS. Khi triển khai quy định này, qua nghiên cứu cho thấy có một số thuận lợi, khó khăn, đó là:
Về thuận lợi: i, Thực hiện Pháp lệnh THADS năm 2004 và các văn bản hướng dẫn có liên quan, hệ thống tổ chức các cơ quan THADS đã được kiện toàn một bước. Hơn nữa, trong những năm qua, Bộ Tư pháp đã quan tâm chỉ đạo các địa phương thực hiện việc rà soát toàn bộ đội ngũ CHV, trong đó có cả đội ngũ Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án. Việc tổng rà soát này có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định bổ nhiệm lại hoặc không bổ nhiệm lại không chỉ đối với đội ngũ CHV mà ngay cả đối với Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án. Nhờ đó mà hầu hết các trường hợp được bổ nhiệm lại đều đáp ứng tiêu chuẩn và có đủ năng lực để hoàn thành nhiệm vụ được giao; ii) Kể từ năm 2005 đến nay, hệ thống các cơ quan THADS đã được tổ chức lại theo hướng tương đối độc lập so với các cơ quan tư pháp địa phương. Điều đó đã giúp cho Thủ trưởng, Phó thủ trưởng có điều kiện để chủ động hơn trong việc phối hợp với các ngành các tổ chức có liên quan trong THADS; iii) Các nhiệm vụ, quyền hạn có liên quan đến hoạt động THADS về cơ bản vẫn giữ nguyên như hiện nay hoặc nếu có thay đổi cũng theo hướng thuận lợi và rõ ràng hơn cho quá trình thực hiện. Trong khi đó, hầu hết Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS hiện nay đều là những người có nhiều kinh nghiệm trong công tác THADS; iv) Luật THADS đã xác định rõ vai trò trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức có liên quan trong THADS nên sẽ có nhiều thuận lợi cho Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án khi cần phối hợp với các cơ quan này.
Về khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi như đã nêu trên thì cũng còn một số khó khăn có thể gặp phải khi thực hiện Luật THADS, có thể kể đến một số vấn đề sau đây: vị thế cơ quan THADS đã được nâng lên một bước và có nhiều nhiệm vụ rất mới đối với cơ quan THADS đó là thay thế vai trò của Giám đốc Sở Tư pháp trong việc giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý Nhà nước về công tác THADS tại địa phương; giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp và cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp thực hiện quản lý một số mặt công tác tổ chức cán bộ của các cơ quan THADS tại địa phương; báo cáo công tác THADS trước Hội đồng nhân dân cùng cấp khi có yêu cầu... Với những công việc này sẽ đặt ra rất nhiều vấn đề như: i) Vai trò của người thủ trưởng, Phó thủ trưởng có được nâng lên đủ tầm với việc được giao thêm nhiệm vụ, nhất là những nhiệm vụ mới, quan trọng đòi hỏi phải có năng lực quản lý của người thủ trưởng đơn vị; tổ chức quản lý cơ quan THADS theo quy định mới đòi hỏi phải có sự kiểm tra giám sát chặt chẽ giữa cơ quan trung ương với địa phương, giữa cấp tỉnh với cập huyện. Trong khi đó, có không ít đồng chí Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS hiện nay vẫn chưa có nhiều kinh nghiệm trong quản lý mà nặng về các hoạt động chuyên môn...; ii) Qua theo dõi cho thấy, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng ở một số nơi vẫn còn một số trường hợp chưa hoàn toàn đáp ứng được vai trò, nhiệm vụ của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án. Chưa kể khi phải thực hiện theo tinh thần của Luật THADS; iii) Các phòng chức năng là cơ quan tham mưu giúp Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh quản lý và tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao nhưng hiện nay chỉ mới được kiện toàn một bước.
Thứ tám, phân cấp hợp lý việc quản lý công chức, công chức lãnh đạo ngành THADS. Trong những năm qua, việc quản lý cán bộ, công chức ngành THADS chủ yếu được Bộ trưởng Bộ Tư pháp uỷ quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp theo Quyết định số 1148/2005/QĐ-BTP ngày 18 tháng 5 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Với việc phân cấp, uỷ quyền đó bước đầu đã góp phần thực hiện có hiệu quả công tác quản lý cán bộ, công chức trong toàn ngành. Tuy nhiên, trong bối cảnh của tình hình mới khi cần phải tổ chức lại cơ quan THADS thì cần phải nghiên cứu để phân cấp hợp lý về quản lý công chức giữ Bộ trưởng Bộ Tư pháp với Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS và với Cục trưởng Cục THADS cấp tỉnh. Từ tình hình đó, qua nghiên cứu kinh nghiệm phân cấp quản lý tổ chức cán bộ của một số ngành như Thuế, Hải Quan, Ban chủ nhiệm thấy rằng cần phải tiến hành phân cấp hợp lý theo nguyên tắc: i) Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, sự lãnh đạo của cấp ủy đảng cơ sở, đồng thời phát huy đầy đủ trách nhiệm của tập thể lãnh đạo cơ quan, trước hết là người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong quản lý công chức, công chức lãnh đạo thuộc phạm vi được phân cấp; ii) Bảo đảm công khai, minh bạch và thực hiện phòng, chống tham nhũng trong công tác quản lý công chức theo đúng quy định của Đảng, Nhà nước và sự quản lý thống nhất của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Tăng cường sự phối hợp của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Thành uỷ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; Ban Thường vụ Huyện uỷ, Thị uỷ, Quận uỷ, Thành uỷ và Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, điều động, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách khác đối với cấp trưởng, cấp phó của cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện; iii) Phân cấp quản lý gắn với chế độ trách nhiệm, đồng thời tăng cường thanh tra, kiểm tra của cấp trên đối với trách nhiệm của người đứng đầu của cơ quan, đơn vị được phân cấp quản lý công chức, công chức lãnh đạo.
Trên cơ sở những nguyên tắc này và những quy định mới của pháp luật về cán bộ, công chức; Luật THADS và Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ, ngày 11 tháng 10 năm 2010, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 17/2010/TT-BTP quy định phân cấp quản lý công chức, công chức lãnh đạo cơ quan quản lý THADS và cơ quan THADS. Theo Thông tư này thì nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong quản lý công chức, công chức lãnh đạo ngành THADS; thẩm quyền của Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS và thẩm quyền của Cục trưởng Cục THADS được quy định cụ thể như sau:
i) Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý toàn diện đội ngũ công chức, công chức lãnh đạo ngành THADS theo quy định của Luật THADS, Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ, các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và trực tiếp thực hiện các nội dung sau đây:
- Quyết định nội dung thi tuyển, xét tuyển công chức, công chức lãnh đạo ngành THADS theo quy định của pháp luật; quản lý chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành THADS;
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ và các cơ quan có liên quan xây dựng chế độ, chính sách đối với công chức, công chức lãnh đạo ngành THADS trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức thuộc ngành THADS; phối hợp với Bộ Nội vụ tổ chức thi nâng ngạch theo quy định của pháp luật đối với các ngạch công chức thuộc ngành THADS; tổ chức thi tuyển và phối hợp tổ chức thi tuyển các ngạch CHV theo quy định của pháp luật;
- Quyết định phê duyệt kế hoạch, chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức, công chức lãnh đạo dài hạn, hàng năm của ngành THADS;
- Quy định cơ cấu công chức, công chức lãnh đạo của Tổng cục THADS, Cục THADS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Cục THADS), Chi cục THADS huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Chi cục THADS);
- Giao chỉ tiêu biên chế đối với: Tổng cục THADS; Tổng biên chế của Cục THADS và Chi cục THADS toàn quốc;
- Thực hiện các nội dung quản lý công chức, công chức lãnh đạo quy định tại Điều 1 của Thông tư số 17/2010/TT-BTP đối với các chức vụ lãnh đạo, chức danh công chức ngành THADS sau đây: Tổng Cục trưởng, Phó Tổng cục trưởng, Vụ trưởng và tương đương, Phó Vụ trưởng và tương đương, ngạch Thẩm tra viên chính, Chuyên viên chính và ngạch công chức tương đương khác thuộc Tổng cục THADS; Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục THADS; ngạch CHV cao cấp, Thẩm tra viên cao cấp thi hành án và ngạch công chức tương đương khác của ngành THADS.
- Quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức CHV sơ cấp, CHV trung cấp; Quyết định bổ nhiệm, nâng ngạch, chuyển ngạch Thẩm tra viên chính thi hành án, Chuyên viên chính và các ngạch công chức tương đương khác theo quy định của pháp luật; Quyết định điều động, luân chuyển công chức, công chức lãnh đạo của Tổng cục sang các đơn vị khác thuộc Bộ và ngược lại;
- Quyết định chọn, cử công chức, công chức lãnh đạo ngành THADS đi học tập, công tác ở nước ngoài; quyết định cho Tổng Cục trưởng, Phó Tổng cục trưởng, Vụ trưởng và tương đương thuộc Tổng cục THADS, Cục trưởng Cục THADS đi nước ngoài về việc riêng theo quy định của pháp luật và Quy chế đối ngoại của Bộ Tư pháp;
- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp quy định tại Thông tư này cho Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS, Cục trưởng Cục THADS. Trong trường hợp cần thiết yêu cầu tạm dừng việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp để xử lý theo quy định. Huỷ bỏ hoặc yêu cầu thu hồi quyết định của Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS về quản lý công chức, công chức lãnh đạo có nội dung không phù hợp với quy định của pháp luật và yêu cầu quản lý công chức, công chức lãnh đạo của ngành.
- Thực hiện các nội dung quản lý, sử dụng công chức khác theo quy định của pháp luật.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp uỷ quyền cho Thứ trưởng được phân công phụ trách công tác THADS thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn về quản lý công chức, công chức lãnh đạo ngành THADS quy định tại Điều này theo Quy chế làm việc của Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp và Quy chế làm việc của Bộ Tư pháp. Thứ trưởng chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng và trước pháp luật về việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
ii) Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS thực hiện quản lý công chức, công chức lãnh đạo ngành THADS theo quy định của Luật THADS, Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ, các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, công chức lãnh đạo và được Bộ trưởng phân cấp thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Giao chỉ tiêu biên chế theo cơ cấu tổ chức, cán bộ được Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt đối với: Vụ và các tổ chức tương đương thuộc Tổng cục THADS; Cục THADS trên toàn quốc; Tổng biên chế của Chi cục THADS từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên toàn quốc.
- Thực hiện các nội dung quản lý công chức, công chức lãnh đạo quy định tại Điều 1 của Thông tư số 17/2010/TT-BTP đối với công chức, công chức lãnh đạo thuộc Tổng cục THADS, trừ những nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ trưởng quy định tại Điều 3 của Thông tư này;
- Quyết định phê duyệt quy hoạch, điều động, luân chuyển, biệt phái, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cho từ chức, cho thôi giữ chức vụ, cách chức đối với Kế toán trưởng, Trưởng phòng và tương đương thuộc Cục THADS và Chi Cục trưởng Chi cục THADS;
- Phê duyệt một số nội dung quản lý sau đây: Kết quả thi tuyển công chức, công chức lãnh đạo của Cục và Chi cục THADS toàn quốc; Tiếp nhận công chức, công chức lãnh đạo từ cơ quan khác về công tác tại Tổng cục, Cục và Chi cục THADS toàn quốc hoặc cho công chức, công chức lãnh đạo của Tổng cục, Cục và Chi cục THADS toàn quốc chuyển công tác, trừ các trường hợp thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Cho CHV sơ cấp, CHV trung cấp; Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính thi hành án chuyển công tác ra khỏi Cục và Chi cục THADS toàn quốc, trừ trường hợp liên quan đến chức vụ lãnh đạo thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
- Bổ nhiệm vào ngạch, chuyển ngạch đối với Thẩm tra viên thi hành án thuộc Cục và Chi cục THADS toàn quốc.
- Quyết định cho công chức, công chức lãnh đạo thuộc Tổng cục trừ trường hợp thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ trưởng quy định tại Điều 3 của Thông tư số 17/2010/TT-BTP, Phó Cục trưởng, Kế toán trưởng Cục THADS, CHV trung cấp, Thẩm tra viên chính và tương đương trở lên đi nước ngoài về việc riêng.
- Quyết định cho công chức, công chức lãnh đạo thuộc Tổng cục, Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục THADS đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước theo kế hoạch đã được phê duyệt.
- Quyết định điều động, luân chuyển, biệt phái công chức Cục THADS, Chi cục THADS từ tỉnh, thành phố này sang tỉnh, thành phố khác và về Tổng cục THADS, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
- Kiểm tra hoặc phối hợp với Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ Bộ Tư pháp kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp quy định tại Thông tư này đối với Cục trưởng Cục THADS. Trong trường hợp cần thiết báo cáo Bộ trưởng Bộ Tư pháp tạm dừng việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp để xử lý theo quy định. Huỷ bỏ hoặc yêu cầu thu hồi quyết định của Cục trưởng Cục THADS về quản lý công chức, công chức lãnh đạo có nội dung không phù hợp với quy định của pháp luật và yêu cầu quản lý công chức, công chức lãnh đạo của ngành.
- Phối hợp với Thanh tra bộ, tiến hành thanh tra việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp quy định tại Thông tư này đối với Cục trưởng Cục THADS;
- Thực hiện các nội dung quản lý, sử dụng công chức, công chức lãnh đạo và người lao động khác theo quy định của pháp luật.
Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS có thể uỷ quyền cho Phó Tổng cục trưởng thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn về công tác cán bộ quy định tại Điều này theo quy chế làm việc của Tổng cục THADS. Phó Tổng cục trưởng chịu trách nhiệm trước Tổng Cục trưởng và trước pháp luật trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
iii) Cục trưởng Cục THADS thực hiện quản lý công chức, công chức lãnh đạo ngành THADS ở địa phương theo quy định của Luật THADS, Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ, các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, công chức lãnh đạo và được Bộ trưởng phân cấp thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Giao chỉ tiêu biên chế đối với: Các phòng chuyên môn thuộc Cục THADS; Chi cục THADS trực thuộc.
- Thực hiện các nội dung quản lý công chức, công chức lãnh đạo quy định tại Điều 1 của Thông tư số 17/2010/TT-BTP đối với công chức, công chức lãnh đạo (kể cả các chức danh lãnh đạo, chức danh tư pháp) thuộc Cục THADS, Chi cục THADS trực thuộc quy định tại Điều 1 của Thông tư này, trừ những nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ trưởng hoặc Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS quy định tại Điều 3 và Điều 4 của Thông tư này.
- Quyết định cho công chức, công chức lãnh đạo Cục THADS, Chi cục THADS trực thuộc đi nước ngoài về việc riêng, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ trưởng hoặc Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS quy định tại Điều 3, Điều 4 của Thông tư số 17/2010/TT-BTP.
- Quyết định cho công chức, công chức lãnh đạo của Cục THADS, Chi cục THADS trực thuộc đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước theo kế hoạch đã được phê duyệt trừ trường hợp thuộc thẩm quyền quyết định của Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS quy định tại Điều 4 của Thông tư số 17/2010/TT-BTP.
- Thực hiện các nội dung quản lý, sử dụng công chức, công chức lãnh đạo và người lao động khác theo quy định của pháp luật.
Cục trưởng Cục THADS có thể uỷ quyền cho Phó Cục trưởng thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn về công tác cán bộ quy định tại Điều này theo Quy chế làm việc của Cục THADS. Phó Cục trưởng chịu trách nhiệm trước Cục trưởng và trước pháp luật trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Thứ chín, cần quy định cụ thể chức danh tiêu chuẩn, mã số đối với ngạch CHV và Thư ký thi hành án: Để xác định rõ hơn chức trách, nhiệm vụ, năng lực, trình độ của các ngạch CHV, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Nội vụ quy định về tiêu chuẩn ngạch CHV, ngày 28/10/2010, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ký ban hành Thông tư số 10/2010/TT-BNV quy định mã số, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chấp hành viên và thư ký thi hành án dân sự, theo đó:
Đối với CHV cao cấp: CHV cao cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ THADS, trực tiếp thi hành những vụ việc THADS đặc biệt phức tạp, có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều địa phương hoặc có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền của Cục THADS tỉnh và Phòng Thi hành án cấp quân khu.
Về nhiệm vụ: CHV cao cấp cần xác định nhiệm vụ: a) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 20 của Luật THADS và các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật; b) Chủ trì nghiên cứu, đề xuất chương trình công tác, những vấn đề về tổ chức và hoạt động THADS, biện pháp chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác THADS; c) Hướng dẫn, đôn đốc các đơn vị THADS thuộc phạm vi địa phương mình quản lý thực hiện THADS và pháp luật về THADS; tiếp công dân theo quy định; d) Xây dựng kế hoạch THADS và tổ chức thực hiện các quyết định của Thủ trưởng cơ quan về THADS; đ) Hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án đối với CHV sơ cấp, CHV trung cấp; e) Tổng hợp tình hình, viết báo cáo về công tác thi hành án được phân công; g) Giúp Thủ trưởng cơ quan thi hành án nắm tình hình công tác thi hành án và việc chấp hành pháp luật trong công tác thi hành án trên địa bàn; h) Nghiên cứu, kiến nghị sửa đổi bổ sung các văn bản về thi hành án, đề xuất ý kiến đóng góp về hoàn thiện hệ thống pháp Luật THADS.
Đối với ngạch CHV trung cấp: CHV trung cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ THADS, trực tiếp tổ chức thi hành các vụ việc THADS phức tạp, số tiền, tài sản phải thi hành lớn; việc thi hành án liên quan đến nhiều địa phương thuộc thẩm quyền thi hành của Chi cục THADS huyện, Cục THADS tỉnh và Phòng Thi hành án cấp quân khu.
Về nhiệm vụ, cần xác định CHV trung cấp có nhiệm vụ: a) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 20 của Luật THADS và các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật; b) Xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện quyết định THADS; đề xuất biện pháp, chỉ đạo việc thi hành án quyết định THADS thuộc thẩm quyền; thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân theo quy định; c) Báo cáo kết quả công tác THADS, kiến nghị, đề xuất biện pháp tổ chức THADS trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao; d) Xây dựng văn bản chỉ đạo công tác THADS, biên soạn tài liệu và hướng dẫn, phổ biến nghiệp vụ công tác THADS cho CHV sơ cấp và công chức làm công tác THADS trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao; đ) Giúp Thủ trưởng cơ quan thi hành án nắm tình hình công tác thi hành án và việc chấp hành pháp luật trong công tác thi hành án thuộc thẩm quyền theo sự phân công; e) Hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án đối với CHV sơ cấp; g) Tham gia nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm và thực tiễn THADS; h) Nghiên cứu, kiến nghị, sửa đổi bổ sung các văn bản về thi hành án, đề xuất ý kiến đóng góp về hoàn thiện hệ thống pháp luật thi hành án.
Đối với ngạch CHV sơ cấp: CHV sơ cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ THADS, có trách nhiệm trực tiếp tổ chức thi hành án đối với những vụ việc đơn giản, lượng tiền, tài sản phải thi hành án có giá trị nhỏ thuộc thẩm quyền thi hành của cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện và Phòng Thi hành án cấp quân khu.
Về nhiệm vụ, CHV sơ cấp có nhiệm vụ: a) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 20 của Luật THADS và các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật; b) Xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện quyết định THADS; thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân theo quy định; c) Báo cáo kết quả THADS, kiến nghị các biện pháp giải quyết; d) Tham gia nghiên cứu xây dựng văn bản về công tác THADS thuộc lĩnh vực được giao; đ) Nghiên cứu, đề xuất những vấn đề về tổ chức THADS thuộc thẩm quyền.
Đối với Thư ký thi hành án: Thư ký thi hành án là công chức chuyên môn nghiệp vụ thi hành án dân sự, có trách nhiệm giúp chấp hành viên trung cấp, chấp hành viên cao cấp thực hiện các trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, hoặc giúp thẩm tra viên chính, thẩm tra viên cao cấp thực hiện nhiệm vụ thẩm tra những vụ việc đã và đang thi hành án, thẩm tra, xác minh các vụ việc có đơn thư khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật.
Thư ký thi hành án có các nhiệm vụ sau đây:
- Giúp chấp hành viên chuẩn bị hồ sơ, thủ tục, tổ chức thi hành các vụ việc phức tạp, đặc biệt phức tạp, số tiền, tài sản phải thi hành lớn; việc thi hành án liên quan đến nhiều địa phương thuộc thẩm quyền thi hành của Chi cục Thi hành án dân sự huyện, Cục Thi hành án dân sự tỉnh và Phòng Thi hành án cấp quân khu hoặc giúp thẩm tra viên chính, thẩm tra viên cao cấp thực hiện nhiệm vụ thẩm tra những vụ việc đã và đang thi hành án, thực hiện thẩm tra, xác minh các vụ việc có đơn thư khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật;
- Ghi chép biên bản xác minh thi hành án; biên bản giải quyết thi hành án; biên bản tống đạt; biên bản xử lý vật chứng, tài sản đã kê biên, tạm giữ; biên bản kê biên tài sản; biên bản họp, biên bản định giá tài sản; biên bản kiểm tra hiện trạng tài sản; biên bản hủy tang vật; biên bản cưỡng chế; biên bản giao nhà đất; biên bản trả tài sản và các biên bản nghiệp vụ khác;
- Giúp chấp hành viên, thẩm tra viên tống đạt giấy tờ thi hành án;
- Thực hiện một số nội dung xác minh, xây dựng hồ sơ thi hành án dân sự theo sự phân công của chấp hành viên, thẩm tra viên;
- Phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để giúp chấp hành viên thực hiện công tác tổ chức thi hành án; giúp thẩm tra viên thực hiện thẩm tra thi hành án dân sự đối với các vụ việc được phân công theo quy định của pháp luật;
- Thực hiện nhiệm vụ khác do thủ trưởng cơ quan thi hành án giao.
Đối với Thư ký trung cấp thi hành án: Thư ký trung cấp thi hành án là công chức chuyên môn nghiệp vụ thi hành án dân sự, có trách nhiệm giúp chấp hành viên sơ cấp thực hiện các trình tự, thủ tục trong công tác thi hành án dân sự hoặc giúp thẩm tra viên thực hiện nhiệm vụ thẩm tra những vụ việc đã và đang thi hành án, thẩm tra, xác minh các vụ việc có đơn thư khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật.
Thư ký trung cấp thi hành án có các nhiệm vụ sau đây:
- Tham mưu, giúp chấp hành viên chuẩn bị hồ sơ, thủ tục, tổ chức thi hành các vụ việc thi hành án đơn giản, lượng tiền, tài sản phải thi hành án có giá trị nhỏ thuộc thẩm quyền thi hành của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện và Phòng Thi hành án cấp quân khu hoặc giúp thẩm tra viên thực hiện nhiệm vụ thẩm tra những vụ việc đã và đang thi hành án, các vụ việc có đơn thư khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật;
- Ghi chép biên bản xác minh thi hành án; biên bản giải quyết thi hành án; biên bản tống đạt; biên bản xử lý vật chứng, tài sản đã kê biên, tạm giữ; biên bản kê biên tài sản; biên bản họp, biên bản định giá tài sản; biên bản kiểm tra hiện trạng tài sản; biên bản hủy tang vật; biên bản cưỡng chế; biên bản giao nhà đất; biên bản trả tài sản và các biên bản nghiệp vụ khác;
- Giúp chấp hành viên, thẩm tra viên tống đạt giấy tờ thi hành án;
- Thực hiện một số nội dung xác minh, xây dựng hồ sơ thi hành án dân sự theo sự phân công của chấp hành viên, thẩm tra viên;
- Phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để giúp chấp hành viên thực hiện công tác tổ chức thi hành án dân sự; giúp thẩm tra viên thực hiện thẩm tra thi hành án đối với các vụ việc được phân công theo quy định của pháp luật;
- Thực hiện nhiệm vụ khác do thủ trưởng cơ quan thi hành án giao.
Chương III
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
I. HOÀN THIỆN THỂ CHẾ TỔ CHỨC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Thể chế về THADS nói chung và thể chế tổ chức THADS là một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu để triển khai thực hiện có hiệu quả Luật THADS. Vì vậy, qua nghiên cứu, Ban chủ nhiệm Đề án thấy rằng cần phải xác định đúng, đủ các văn bản quy định về tổ chức, cán bộ THADS, có thể kể đến các văn bản chủ yếu sau đây:
1. Giai đoạn 2009 - 2011:
1.1. Khẩn trương xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật THADS
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ triển khai Luật THADS, qua nghiên cứ cho thấy, Nghị định này cần phải giải quyết được các vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cần xác định rõ tên gọi, mô hình Hệ thống tổ chức THADS (kể cả hệ thống tổ chức thi hành án trong quân đội và ngoài quân đội); quy định về trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân và các tổ chức có liên quan trong THADS, trong đó quy định chi tiết về Ban chỉ đạo THADS cấp tỉnh và cấp huyện.
Ngoài ra, liên quan đến việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý THADS; tên gọi, cơ cấu, tổ chức cụ thể của cơ quan THADS, quá trình nghiên cứu cho thấy, nhiều ý kiến cho rằng Nghị định này cần quy định chi tiết những vấn đề trên nhằm bảo đảm tính đồng bộ và thuận lợi cho quá trình thực hiện. Hơn nữa, quy định như vậy mới phù hợp với quy định tại Điều 8 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Tuy nhiên, ý kiến khác cho rằng, Nghị định này chỉ quy định nguyên tắc về Hệ thống tổ chức THADS còn việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục THADS thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ; việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng và Phòng Thi hành án cấp quân khu thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (quy định tại Nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ).
Liên quan đến vấn đề trên, qua nghiên cứu Ban chủ nhiệm Đề án thấy rằng Nghị định này cần quy định chi tiết nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý THADS; tên gọi, cơ cấu, tổ chức cụ thể của cơ quan THADS. Quy định như vậy mới phù hợp với khoản 3 Điều 13 Luật THADS giao Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý THADS; tên gọi, cơ cấu, tổ chức cụ thể của cơ quan THADS. Bảo đảm tính đồng bộ và thuận lợi cho quá trình thực hiện, đồng thời phù hợp với quy định tại Điều 8 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008: "Văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định cụ thể để khi văn bản đó có hiệu lực thì thi hành được ngay; trường hợp trong văn bản có điều, khoản mà nội dung liên quan đến quy trình, quy chuẩn kỹ thuật, những vấn đề chưa có tính ổn định cao thì ngay tại điều, khoản đó có thể giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định chi tiết. Cơ quan được giao ban hành văn bản quy định chi tiết không được ủy quyền tiếp". Hơn nữa, qua nghiên cứu cho thấy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nghị định này là phải xác định rõ mô hình tổ chức; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS. Điều này xuất phát từ tính chất, đặc điểm của hoạt động THADS, quá trình thực thi nhiệm vụ THADS phải tuân thủ trình tự, thủ tục chặt chẽ. Do vậy, không chỉ trong Nghị định này mà tại các Điều 14, 15, 142, 167, 168 của Luật THADS cũng đã có quy định khá cụ thể về một số nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng. Hơn nữa, việc Nghị định này quy định chi tiết nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý THADS; tên gọi, cơ cấu, tổ chức cụ thể của cơ quan THADS cũng phù hợp với đặc thù về tổ chức của các cơ quan tư pháp như: Cơ quan kiểm sát có Luật tổ chức Viện kiểm sát, cơ quan Toà án có Luật tổ chức Toà án, các cơ quan điều tra có Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự; đồng thời cũng tương tự như mô hình tổ chức Thanh tra.
Thứ hai, cần quy định cụ thể về CHV, Thẩm tra viên, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS, cụ thể như sau:
+ Để bảo đảm thuận lợi cho quá trình thực hiện (nhất là đối với một vấn đề mới như thi tuyển CHV), Nghị định này cần quy định chi tiết nhưng vấn đề liên quan đến điều kiện tham dự thi tuyển CHV; sơ tuyển và cử người tham dự thi tuyển CHV; thành lập Hội đồng thi tuyển CHV; nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng thi tuyển CHV, việc điều động, luận chuyển, biệt phái CHV. Việc quy định như vậy nhằm khắc phục tình trạng sau khi Nghị định được ban hành lại cần phải ban hành các Thông tư liên tịch của Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ về các vấn đề nêu trên mới có thể triển khai thực hiện.
+ Cần quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm tra viên thi hành án; trách nhiệm của Thẩm tra viên thi hành án; bổ nhiệm, nâng ngạch, chuyển ngạch, điều động, luân chuyển, biệt phái Thẩm tra viên thi hành án. Khắc phục tình trạng chưa rõ về cơ sở pháp lý, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của đội ngũ Thẩm tra viên thi hành án.
+ Cần quy định rõ những vấn đề đặc thù liên quan đến tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, từ chức, cách chức Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án như: Tiêu chuẩn Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án; thủ tục bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, từ chức, cách chức Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan THADS. Quy định này nhằm khắc phục những bất cập trong việc triển khai thực hiện các quy định về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh nói trên theo quy định tại Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ.
+ Cần quy định cụ thể về: Thẻ CHV, Thẩm tra viên thi hành án; đối tượng và loại công cụ hỗ trợ được trang bị, sử dụng trong THADS; lập kế hoạch và trang bị công cụ hỗ trợ thi hành án; quản lý công cụ hỗ trợ thi hành án; lương và phụ cấp của CHV, công chức làm công tác thi hành án; đối tượng được cấp phù hiệu, cấp hiệu THADS; trang phục của CHV, công chức làm công tác thi hành án...
+ Cần có quy định chi tiết về điều khoản chuyển tiếp để quy định về vấn đề tuyển chọn và bổ nhiệm CHV trong trường hợp không qua thi tuyển; Hội đồng tuyển chọn CHV; thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng tuyển chọn CHV cơ quan THADS địa phương; bổ nhiệm từ ngạch CHV huyện, CHV tỉnh, CHV quân khu sang ngạch CHV sơ cấp, CHV trung cấp và CHV cao cấp; điều kiện để bổ nhiệm từ ngạch CHV huyện, ngạch CHV tỉnh, ngạch CHV cấp quân khu sang ngạch CHV sơ cấp, CHV trung cấp và CHV cao cấp; bổ nhiệm lại Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS.
Nhìn chung những vấn đề nêu trên đã được Ban chủ nhiệm khuyến nghị và đã được thể hiện trong Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ. Cụ thể, Điều 2 Nghị định số 74/2009/NĐ-CP quy định: Hệ thống tổ chức THADS (trừ hệ thống tổ chức thi hành án trong quân đội) được tổ chức và quản lý tập trung, thống nhất, gồm có:
1. Ở Trung ương: Tổng cục THADS là cơ quan quản lý THADS trực thuộc Bộ Tư pháp;
2. Ở cấp tỉnh: Cục THADS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Cục THADS tỉnh) là cơ quan THADS trực thuộc Tổng cục THADS;
3. Ở cấp huyện: Chi cục THADS huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Chi cục THADS huyện) là cơ quan THADS huyện trực thuộc Cục THADS tỉnh.
Cục THADS tỉnh và Chi cục THADS huyện sau đây gọi chung là cơ quan THADS địa phương.
Tổng cục THADS, cơ quan THADS địa phương có tư cách pháp nhân, con dấu hình Quốc huy, trụ sở và tài khoản riêng.
Nghị định cũng xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng cục THADS, theo đó Tổng cục THADS là cơ quan trực thuộc Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác THADS trong phạm vi cả nước; thực hiện quản lý chuyên ngành về THADS theo quy định của pháp luật. Theo quy định của Luật THADS và Nghị định số 74/2009/NĐ-CP thì Tổng cục THADS có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định: dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị quyết, nghị định của Chính phủ về THADS; chiến lược, chương trình quốc gia, đề án, dự án, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, năm năm, hàng năm, dự thảo quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, dự thảo báo cáo Quốc hội, báo cáo Chính phủ về THADS.
- Trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định hoặc ban hành: thông tư, quyết định, chỉ thị về THADS; thành lập, giải thể cơ quan THADS địa phương; bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cho từ chức, cách chức Phó Tổng cục trưởng Tổng cục THADS, Vụ trưởng và tương đương, Phó Vụ trưởng và tương đương thuộc Tổng cục THADS, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan THADS địa phương; bổ nhiệm, miễn nhiệm CHV, Thẩm tra viên thi hành án; quy định về quy trình, thủ tục, tiêu chuẩn, định mức, biểu mẫu, giấy tờ về THADS; quy định về thống kê THADS.
- Tổ chức thực hiện văn bản pháp luật, chiến lược, chương trình quốc gia, quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án về THADS sau khi được phê duyệt, ban hành; ban hành theo thẩm quyền các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về THADS, văn bản cá biệt, văn bản quy phạm nội bộ theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức kiểm tra: việc thực hiện trình tự, thủ tục và áp dụng pháp luật trong hoạt động THADS; chế độ thống kê và báo cáo về THADS; Việc thu, chi tiền, giao, nhận tài sản trong THADS; việc thu nộp các khoản phí, lệ phí và chi phí tổ chức cưỡng chế thi hành án; các hoạt động khác liên quan đến công tác THADS theo quy định của pháp luật.
- Giải quyết khiếu nại về thi hành án thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật về THADS; theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực THADS; thực hiện phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hệ thống cơ quan THADS theo quy định của pháp luật và theo phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
- Thực hiện kế hoạch, chương trình, đề án, dự án hợp tác quốc tế về THADS theo quy định của pháp luật và phân công của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; đánh giá kết quả về hợp tác quốc tế trong công tác THADS; tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức và cá nhân thực hiện nghiêm bản án và quyết định dân sự của Toà án có hiệu lực pháp luật; phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện thanh tra về THADS và xử lý hành vi không chấp hành án theo quy định của pháp luật; giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quản lý nhà nước về THADS trong quân đội.
- Nghiên cứu, quản lý, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ thông tin và hiện đại hoá cơ sở vật chất, kỹ thuật trong hoạt động của các cơ quan THADS.; thống kê và xây dựng cơ sở dữ liệu về THADS.
- Quản lý tổ chức, biên chế, cán bộ, công chức của các cơ quan THADS theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể các phòng chuyên môn thuộc Cục THADS tỉnh; quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cho từ chức, cách chức Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng chuyên môn thuộc Cục THADS tỉnh; bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cho từ chức, cách chức đối với một số chức vụ và bổ nhiệm, nâng ngạch, chuyển ngạch đối với một số chức danh quy định tại điểm b, điểm c khoản 2 Điều 4 Nghị định số 74/2009/NĐ-CP theo phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
- Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho CHV, Thẩm tra viên, cán bộ, công chức của các cơ quan THADS địa phương theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
- Quản lý, thực hiện phân bổ kinh phí, bảo đảm cơ sở vật chất - kỹ thuật, phương tiện hoạt động của các cơ quan THADS địa phương theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; quản lý khoản thu phí do cơ quan THADS địa phương nộp cho Tổng cục THADS để thực hiện việc điều hoà phí thi hành án và sử dụng theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, cải cách tư pháp theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Bộ trưởng Bộ Tư pháp giao.
Với vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên, Tổng cục THADS có cơ cấu tổ chức gồm 07 đơn vị sau đây:
a) Văn phòng;
b) Vụ Quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành bản án, quyết định dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, phá sản, trọng tài thương mại (gọi tắt là Vụ Nghiệp vụ 1);
c) Vụ Quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành phần dân sự, tiền, tài sản, vật chứng trong bản án, quyết định hình sự, hành chính và quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản (gọi tắt là Vụ Nghiệp vụ 2);
d) Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo;
đ) Vụ Tổ chức cán bộ;
e) Vụ Kế hoạch - Tài chính;
g) Trung tâm Dữ liệu, Thông tin và Thống kê THADS.
Về lâu dài, cũng cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Tổng cục THADS theo định hướng mà đề án đã đề cập đến ở phần trên.
1.2. Xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục các cơ quan THADS tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo được tuyển chọn người có trình độ cử nhân luật làm CHV không qua thi tuyển
Để thực hiện được định hướng đã đề cập ở phần trên, Ban chủ nhiệm đề án cho rằng Quyết định này cần phải xác định cho được Danh mục các cơ quan THADS tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo được tuyển chọn người có trình độ cử nhân luật làm CHV không qua thi tuyển theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội về việc thi hành Luật THADS từ 01 tháng 7 năm 2009 đến 01 tháng 7 năm 2014. Đồng thời bảo đảm tính linh hoạt, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của từng giai đoạn thì cần phải có định hướng xác định, định kỳ hằng năm tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ để công bố Danh mục sửa đổi hoặc bổ sung các cơ quan THADS tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo được tuyển chọn người có trình độ cử nhân luật làm CHV không qua thi tuyển.
Nhìn chung những khuyến nghị trên đã được các cơ quan chức năng nghiên cứu để xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành. Đến nay Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định nêu trên.
1.3. Xây dựng Tiêu chuẩn ngạch CHV sơ cấp, CHV trung cấp, CHV cao cấp, Thư ký THADS
Do tính chất và tầm quan trọng của văn bản này nên cần phải nghiên cứu để ban hành sớm Thông tư này, chậm nhất là trong năm 2010.
Nhìn chung những khuyến nghị trên đã được các cơ quan chức năng nghiên cứu để xây dựng và trình Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành. Kết quả, ngày 28/10/2010, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ký ban hành Thông tư số 10/2010/TT-BNV quy định mã số, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chấp hành viên và thư ký thi hành án dân sự
1.4. Xây dựng Thông tư của Bộ Tư pháp về phân cấp quản lý cán bộ, tài chính trong Hệ thống THADS
Do tính chất và tầm quan trọng của văn bản này nên cần phải nghiên cứu để ban hành sớm Thông tư này, chậm nhất là trong năm 2010.
Nhìn chung, những khuyến nghị trên đã được các cơ quan chức năng nghiên cứu để xây dựng và trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành. Kết quả ngày 11 tháng 10 năm 2010, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 17/2010/TT-BTP quy định phân cấp quản lý công chức, công chức lãnh đạo cơ quan quản lý THADS và cơ quan THADS.
1.5. Xây dựng Thông tư liên tịch giữa Bộ Tư pháp với Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn hoạt động của Ban Chỉ đạo THADS
Như đã đề cập ở phần trên của báo cáo, Ban chủ nhiệm Đề án thấy rằng cần phải quy định về Ban chỉ đạo THADS. Tuy nhiên, để khắc phục những bất cập về tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo THADS theo quy định của Pháp lệnh THADS như báo cáo công tác thi hành án dân sự qua khâu trung gian, còn chồng chéo về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm không rõ ràng, do đó cần quy định Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn hoạt động của Ban chỉ đạo THADS.
Vấn đề này hiện nay đang được các cơ quan chức năng nghiên cứu, để sớm ban hành trong thời gian tới.
2. Giai đoạn 2011- 2015
Ngoài những vấn đề trên, về lâu dài, Ban chủ nhiệm đề án thấy rằng cần tiếp tục hoàn thiện một số nội dung sau:
2.1. Trọng tâm của năm 2011:
a) Tham mưu để Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ phù hợp với các văn bản về cán bộ, công chức;
b) Tham mưu để Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 233/2005/QĐ-TTg ngày 26 tháng 9 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về trách nhiệm theo nghề đối với CHV và Công chứng viên;
c) Xây dựng chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo đặc thù đối với cơ quan THADS thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trình cấp có thẩm quyền quyêt định;
c) Xây dựng đề án cơ cấu, vị trí công tác ngành THADS từ nay đến năm 2015.
d) Triền khai thực hiện quản lý về thi hành án hành chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2011.
2.2. Định hướng nhiệm vụ trọng tâm công tác tổ chức từ 2012 đến 2015
a) Tiếp tục thực hiện xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật THADS và Nghị quyết của Quốc hội về công tác tổ chức cán bộ. Rà soát các văn bản pháp luật liên quan có liên quan đến công tác tổ chức cán bộ của ngành.
Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức cơ quan THADS phù hợp với việc đổi mới tổ chức ngành Toà án và Kiểm sát theo Nghị quyết của Bộ Chính trị.
b) Tổng kết đánh giá 5 năm thực hiện Luật THADS.
c) Tổng kết đánh giá kết quả thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh.
d) Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về THADS trong nhân dân; đẩy mạnh công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án cho đội ngũ CHV và cán bộ làm công tác THADS trong toàn hệ thống.
II. GIẢI PHÁP VỀ KIỆN TOÀN ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC, CÔNG CHỨC LÃNH ĐẠO CỦA HỆ THỐNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU, NHIỆM VỤ ĐƯỢC GIAO
Song song với việc kiện toàn tổ chức nêu trên thì cần sớm kiện toàn đội ngũ công chức, công chức lãnh đạo của hệ thống THADS, có thể ưu tiên tập trung những vấn đề sau:
1. Giai đoạn 2009 - 2010
1.1. Kiện toàn các đơn vị chuyên môn thuộc Cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp theo quy định của Luật THADS và Nghị định số 74/2009/NĐ-CP
1.2. Kiện toàn tổ chức cơ quan THADS địa phương theo quy định của Luật THADS và Nghị định số 74/2009/NĐ-CP.
1.3. Kiện toàn, thành lập các tổ chức đảng, đoàn thể của các cơ quan THADS theo quy định của Đảng và các đoàn thể.
1.4. Kiện toàn đội ngũ cán bộ của Tổng cục THADS:
+ Hoàn tất các quy trình, thủ tục trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm Tổng cục trưởng, Phó Tổng cục trưởng, lãnh đạo các đơn vị chuyên môn thuộc Tổng cục THADS đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật THADS và của Nghị định số 74/2009/NĐ-CP.
+ Thực hiện các quy trình, thủ tục để bổ nhiệm bổ sung cán bộ lãnh đạo Tổng cục và lãnh đạo các đơn vị chuyên môn thuộc Tổng cục THADS.
+ Sắp xếp, bổ sung biên chế, cán bộ của Tổng cục THADS.
1.5. Kiện toàn đội ngũ cán bộ của các cơ quan THADS địa phương
+ Phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan ở địa phương hoàn tất thủ tục trình Ban thường vụ Tỉnh ủy, Ban thường vụ Huyện ủy cho ý kiến về quy hoạch cán bộ lãnh đạo của cơ quan THADS giai đoạn 2009 - 2010.
+ Sắp xếp, bố trí cấp trưởng của Cục THADS tỉnh trước ngày 01 tháng 11 năm 2009 (ngày Nghị định số 74/2009/NĐ-CP có hiệu lực thi hành). Trong đó, hoàn chỉnh báo cáo rà soát đội ngũ cán bộ cấp Trưởng của cơ quan THADS cấp tỉnh.
+ Trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm cấp Trưởng của Cục THADS tỉnh đối với những trường hợp đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật THADS và của Nghị định số 74/2009/NĐ-CP sau khi rà soát, đánh giá.
+ Bổ nhiệm CHV theo ngạch mới, trong đó thực hiện tốt việc rà soát, đánh giá đội ngũ CHV hiện có của cơ quan THADS để đề nghị bổ nhiệm từ ngạch CHV cấp huyện, CHV cấp tỉnh sang ngạch CHV sơ cấp, CHV trung cấp và CHV cao cấp.
+ Thực hiện quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, điều động, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách đối với cán bộ lãnh đạo, CHV, Thẩm tra viên của cơ quan THADS.
Những giải pháp nêu trên đã được Ban chủ nhiệm khuyến nghị đến các cơ quan chức năng có liên quan để xem xét, quyết định, qua nghiên cứu cho thấy, đến nay một số giải pháp mà Đề án khuyến nghị đã được chấp nhận và đưa vào áp dụng có hiệu quả. Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, các nội dung cần thiết để thực hiện các quy định của Luật THADS và Nghị định số 74/2009/NĐ-CP về cơ bản đã được hoàn tất. Năm 2010, công tác tổ chức, cán bộ tiếp tục được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành THADS. Toàn Ngành được giao 9.188 biên chế (giao mới 810); số biên chế mới bổ sung được ưu tiên phân bổ cho các đơn vị có số lượng án phải thi hành nhiều, đang quá tải công việc; đơn vị thành lập mới... Cả nước hiện có 3.135 CHV (trong đó cấp tỉnh 438 người, cấp huyện 2.696 người); 301 Thẩm tra viên, 09 Thẩm tra viên chính. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Tổng cục THADS thuộc Bộ Tư pháp, các Cục và Chi cục THADS đã được kiện toàn một bước quan trọng. Đã kiện toàn xong lãnh đạo của Tổng cục THADS và 63/63 Cục THADS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó 57/63 đơn vị có Cục trưởng, 02 đơn vị cấp phó được giao quyền Cục trưởng, 04 đơn vị cấp Phó được giao phụ trách; tổng số Phó cục trưởng đã được bổ nhiệm là 94 người. Đối với cấp huyện, hiện có 637/694 đơn vị đã bổ nhiệm Chi cục trưởng và giao Quyền Chi cục trưởng; 57 đơn vị cấp Phó được giao phụ trách. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang chỉ đạo các cơ quan THADS địa phương khẩn trương tuyển dụng, tiếp nhận, bổ sung cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Nhìn chung, công tác tổ chức, nhân sự lãnh đạo của các cơ quan THADS đã cơ bản được kiện toàn theo quy định của Luật THADS và Nghị định số 74/2009/NĐ-CP của Chính phủ. Việc bổ nhiệm lãnh đạo cấp Cục và Chi cục THADS đã được tiến hành tương đối khẩn trương, có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp với Ban Thường vụ, Ủy ban nhân dân ở cấp tỉnh và cấp huyện.
2. Giai đoạn 2011 - 2015
Phát huy những kết quả và việc triển khai các giải pháp nêu trên, Ban chủ nhiệm đề án thấy rằng, trong giai đoạn tới cần phải tiếp tục thực hiện có hiệu quả những vấn đề sau:
2.1. Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Thông tư số 17/2010/TT-BTP trên thực tế. Thực hiện có hiệu quả quy hoạch cán bộ, tập trung kiện toàn tổ chức, bổ nhiệm bổ sung lãnh đạo đơn vị chuyên môn thuộc Tổng cục THADS, lãnh đạo Cục và các Chi cục THADS bảo đảm để các đơn vị này có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Kiện toàn, tổ chức, bổ sung cán bộ cho Phòng Tổ chức cán bộ thuộc Cục THADS cấp tỉnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Tiếp tục hoàn chỉnh các thủ tục đề nghị bổ nhiệm CHV theo ngạch mới. Chuẩn bị nhân sự để cử tham dự tuyển ngạch CHV sơ cấp, trung cấp, cao cấp theo quy định. Rà soát, thực hiện quy trình, đề nghị bổ nhiệm Thẩm tra viên của Tổng cục, Cục và các Chi cục theo hướng xác định rõ vị trí, số lượng. Chuẩn bị các điều kiện để tiến tới chuyển đổi và bổ nhiệm ngạch Thư ký THADS năm 2011.
2.2. Tổ chức thi tuyển vào ngạch CHV năm 2011.
Đây là vấn đề mới ở Việt Nam, vì vậy cần nghiên cứu kinh nghiệm thi tuyển của các nước để tổ chức có hiệu quả việc thi tuyển CHV. Ban chủ nhiệm thấy rằng có thể nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước sau đây:
a) Kinh nghiệm của Hàn Quốc: Hiến pháp Cộng hòa Hàn Quốc quy định rằng tiêu chuẩn các Thẩm phán sẽ do luật định (Điều 105 (3) Hiến pháp). Theo đó, khoản 2 Điều 42 Đạo luật Tổ chức Tòa án ghi rõ là tiêu chuẩn áp dụng cho các Thẩm phán là người đã đậu kỳ thi Tư pháp Quốc gia và đã hoàn tất chương trình đào tạo hai năm tại Viện nghiên cứu và Đào tạo tư pháp hoặc những người đã đạt tiêu chuẩn làm luật sư. Các Luật sư tư hoặc các công tố viên cũng có thể được bổ nhiệm làm Thẩm phán nếu đạt tiêu chuẩn làm thẩm phán. Sau khi kết thúc đào tạo, một người được đề cử làm thẩm phán tập sự trong hai năm. Sau thời gian này người đó sẽ được bổ nhiệm làm thẩm phán. Nói cách khác hầu hết các thẩm phán ở Hàn Quốc thường được bổ nhiệm trong số các thẩm phán tập sự. Hệ thống này bị than phiền là tạo ra các thẩm phán quá trẻ - đa số đều ở tuổi hai mươi hoặc ba mươi và do đó chưa có nhiều kinh nghiệm. Để đáp lại, ngày 26/3/2010, Tòa án nhân dân tối cao đã tuyên bố một cuộc cải cách theo đó bắt đầu từ năm 2023, các thẩm phán phải được bổ nhiệm trong số các luật gia đã có ít nhất 10 năm kinh nghiệm.
b) Kinh nghiệm của Trung Quốc: Sau năm 1979, một loạt các yếu tố góp phần vào cái được mọi người thống nhất xem là chất lượng thấp nói chung của các thẩm phán đã được bổ nhiệm đó là thiếu các cử nhân đáp ứng trình độ, yêu cầu, điều kiện làm việc nghèo nàn, thiếu thốn của thẩm phán và lương thấp (Zhang, 2003). Luật về thẩm phán, được ban hành lần đầu tiên vào năm 1995, đã được sửa đổi năm 2001 nhằm nâng cao yêu cầu về chuyên môn và nghiệp vụ đối với thẩm phán. Điều 9 của Luật sửa đổi quy định người được đề nghị bổ nhiệm vào địa vị thẩm phán phải là công dân Trung Quốc, đủ 23 tuổi, tán thành hiến pháp, có phẩm chất chính trị và chuyên môn tốt, có đạo đức và sức khỏe tốt và đã làm việc trong thời gian ít nhất 2 năm đối với trường hợp là người có bằng đại học về các chuyên ngành luật hoặc người có bằng đại học không phải ngành luật nhưng có hiểu biết chuyên môn về luật; trong thời gian một năm đối với trường hợp người có bằng cử nhân luật học hoặc có bằng thạc sỹ, tiến sỹ luật học. Cán bộ tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu chuyên môn này phải trải qua khóa đào tạo chuyên môn. Công tác đào tạo thẩm phán, cả ở bậc cơ bản và bồi dưỡng nâng cao thường xuyên cho thẩm phán, do Trường thẩm phán quốc gia – một cơ quan trực thuộc TANDTC đảm trách. Thẩm phán có thẻ bị cách chức nếu người đó không còn là công dân Trung Quốc, được luân chuyển khỏi hệ thống tòa án, không có nhu cầu tiếp tục duy trì vị trí của mình sau khi có sự thay đổi chức vụ, bị coi là không đủ năng lực thông qua quy trình đánh giá, không hoàn thành nhiệm vụ do thiếu sức khỏe, nghỉ hưu, từ chức hoặc bị buộc thôi việc hoặc không còn phù hợp để tiếp tục giữ chức vụ do vi phạm kỷ luật hoặc vi phạm pháp luật (Điều 35).
Luật Thẩm phán quy định các thẩm phán được xếp theo 12 bậc (Điều 18). Chánh án TANDTC là bậc 1 và là bậc thẩm phán duy nhất giữ bậc đó. Các thẩm phán khác được phân loại thành Thẩm phán Thượng hạng, Thẩm phán cao cấp và Thẩm phán (Điều 18) và giữ các bậc từ 2 đến 4 (Quy định tạm thời về các bậc thẩm phán, 1997). Ví dụ TANDTC có một Thẩm phán thượng hạng cấp nhất và 11 Thẩm phán Thượng hạng cấp hai (TANDTC, 2010). Chánh án của mỗi Tòa án do Thường trực HĐND cùng cấp bổ nhiệm và cách chức theo đề nghị của Chánh án Tòa án tương ứng; các trợ lý thẩm phán do Chánh án tòa án trực tiếp bổ nhiệm và cách chức (Luật Thẩm phán, Điều 11). Do vậy, trong thực tế, Chánh án có thẩm quyền đáng kể trong việc bổ nhiệm các thẩm phán của Tòa án. Các Thẩm phán bổ nhiệm lần đầu và trợ lý thẩm phán được lựa chọn thông qua sự kết hợp giữa sát hạch công khai và “sự đánh giá chặt chẽ” trong số những người có đủ điều kiện tốt nhất cho chức vụ đó và phải có cả năng lực lẫn sự chính trực về chính trị.
Từ năm 2002 ứng viên mới cho chức vụ Thẩm phán phải tham dự kỳ thi tư pháp quốc gia, một kỳ thi nghiêm ngặt với tỷ lệ trượt cao (Peerenboom, 2009a). Điều 2 của văn bản hướng dẫn các biện pháp tổ chức kỳ thi tư pháp quốc gia năm 2008 (do TANDTC, VKSNDTC và BTP liên tịch ban hành) yêu cầu tất cả những người đảm nhận chức vụ thẩm phán hoặc kiểm sát viên lần đầu và những người muốn hành nghề với tư cách là luật sư và công chứng viên phải thi đỗ kỳ thi đó.
Về tổ chức thi hành án: Các nguyên tắc tổ chức tòa án yêu cầu thiết lập trong phạm vi Tòa án ba loại hình phân lập: phân lập việc thụ lý vụ án và xét xử; phân lập hoạt động xét xử và giám sát; phân lập hoạt động xét xử với thi hành án. Đơn vị thi hành án do vậy được thành lập như một đơn vị riêng tại Tòa án nhân dân tối cao và tòa án tất cả các cấp. Thẩm phán phụ trách phòng thi hành án chịu trách nhiệm về công việc của phòng thi hành án và trong hệ thống thứ bậc nội bộ của Tòa án được xếp dưới Chánh án Tòa án. Một nội dung trong kế hoạch cải cách 5 năm lần thứ nhất được Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào tháng 10/1999 là yêu cầu tất cả các cấp phải tách riêng các bộ phận thụ lý án, xét xử và thi hành án. Đồng thời, các Tòa án cũng được yêu cầu phải bảo đảm đủ nhân viên và phân công các cán bộ có trình độ cho bộ phận thi hành án. Trình độ của các Thẩm phán thuộc các bộ phận khác. Cuộc cải cách này nhằm mục đích nâng cao vai trò, hiệu quả và chuyên môn hóa bộ phận thi hành án. Các tòa án cấp trên phải thành lập một bộ phận chịu trách nhiệm giám sát quản lý thi hành án của tòa án cấp dưới. Khác với hệ thống cũ trong đó giao cho một cá nhân chịu trách nhiệm toàn bộ đối với việc thi hành một bản án nhất định nào đó, hiện nay, trong bộ phận thi hành án có sự phân tách trách nhiệm đối với từng khía cạnh khác nhau của công tác thi hành án. Ưu tiên hiện nay vẫn là giải quyết vấn đề thi hành án. Tuy nhiên, mỗi Tòa án phải đóng vai trò tích cực trong việc tham gia và điều phối liên lạc giữa các bộ phận thi hành án và các cơ quan nhà nước khác.
c) Kinh nghiệm của Inđonexia: Đa số các thẩm phán Indonesia được tuyển dụng ngay sau khi tốt nghiệp trường luật. (Tuy nhiên, các Thẩm phán không chuyên cũng có thể được bổ nhiệm vào một số Tòa án Indonesia, bao gồm cả Tòa án tối cao). Sau khi nộp đơn xin vào một vị trí trong Tòa án và thi đỗ một loạt các bài kiểm tra đầu vào, trắc nghiệm tâm lý, phỏng vấn, các ứng viên trúng cử sẽ được lựa chọn. Sau một thời gian thử việc, ứng viên trải qua một khóa bồi dưỡng tư pháp khoảng vài tháng, và nếu thành công, họ sẽ được bổ nhiệm vào một vị trí trong Tòa án.
d) Kinh nghiệm của Nhật Bản: Muốn trở thành Luật sư, Thẩm phán hoặc công tố viên, ứng viên phải đỗ kỳ thi tư pháp quốc gia, sau đó qua khóa huấn luyện tại viện nghiên cứu và đào tạo pháp luật. Học viên đào tạo tại Viện nghiên cứu và đào tạo nếu muốn trở thành thẩm phán thì phải có đơn gửi Tòa án tối cao trước khi kết thúc khóa đào tạo tại Viện. Hiến pháp quy định “Thẩm phán tòa án cấp dưới do Nội các bổ nhiệm từ danh sách các ứng cử viên mà Tòa án tối cao đề xuất” (Điều 80 (1). Trên thực tế, Nội các chưa bao giờ từ chối bổ nhiệm bất kỳ ai trong danh sách mà Tòa án tối cao đề xuất; còn Hội nghị Thẩm phán Tòa án tối cao thì chỉ thông qua danh sách theo đề nghị của Ban Thư ký. Những người được nhận vào làm việc tại Tòa án đầu tiên được cử làm trợ thẩm hay Thẩm phán bổ trợ trong thời gian 10 năm đầu. Sau 10 năm, hầu như tất cả Thẩm phán đủ tiêu chuẩn. Tương tự như bổ nhiệm Thẩm phán bổ trợ, quyết định đề bạt, bổ nhiệm Thẩm phán đủ tiêu chuẩn cũng do Nội các ban hành trên cơ sở danh sách ứng cử viên mà Tòa án tối cao đề xuất; tuy nhiên, quyền lực bổ nhiệm thực thụ ở đây thuộc về Ban Thư ký tổng hợp của Tòa án tối cao. Nhiệm kỳ thẩm phán đầy đủ tiêu chuẩn là 10 năm, nên những ai muốn tiếp tục theo nghề thì cử 10 năm một lần phải có đơn đề nghị bổ nhiệm lại.
Tòa thi hành án, đơn giản là một tên gọi khác của Tòa án quận/huyện khi tòa này thực hiện thủ tục thi hành án. Ở các Tòa án huyện/quận lớn thường có một bộ phận chuyên trách gồm các thẩm phán chuyên về các vấn đề thi hành, tuy nhiên, mỗi vụ việc cụ thể thì do một Thẩm phán duy nhất đảm nhiệm. CHV là cán bộ Tòa án, người thực hiện các thủ tục thi hành, và tống đạt giấy tờ của tòa án. Sau khi CHV trở thành một bộ phận của hệ thống tư pháp theo quy định của Luật năm 1966, họ được chuyển vào làm việc tại văn phòng mới ngay trong mỗi Tòa án có liên quan; cùng với việc sát hạch, họ phải qua kỳ thi phỏng vấn để trở thành CHV. Những người đang làm thư ký Tòa án mà trở thành CHV thì không phải qua phỏng vấn; nhiều người trở thành CHV khi gần đến tuổi về hưu. Ứng trở viên để trở thành CHV phải là người có ngạch từ bậc 7 trở lên trong hệ thống công vụ và tuổi đời ít nhất là 40.
Nhìn chung, qua nghiên cứu vấn đề đào tạo, thi tuyển, bổ nhiệm các chức danh tư pháp ở các nước trên cho thấy một số nội dung quan trọng có thể xem xét vận dụng vào thực tiễn bổ nhiệm CHV ở Việt Nam như:
Một là, phần lớn các nước trên đều rất quan tâm đến chất lượng, trình độ đào tạo của những người sẽ được bổ nhiệm giữ các chức danh tư pháp như Thẩm phán, Thẩm phán thi hành án, CHV ... cụ thể họ phải qua những khóa đào tạo cơ bản, đào tạo nghề và phải trúng tuyển các kỳ thi đó.
Hai là, những người được bổ nhiệm giữ các chức danh tư pháp về cơ bản phải có kinh nghiệm, thâm niên công tác lâu năm trong nghề, đặc biệt là tuyển chọn những người trưởng thành từ nghề Luật sư.
Ba là, có những nước thì hệ thống tổ chức thi hành án độc lập với tòa án, tức là có ngạch CHV độc lập với thẩm phám, có những nước thì hệ thống tổ chức thi hành án thuộc cơ cấu của Tòa án và thường thì có chức danh Thẩm phán theo dõi thi hành án. Do đó, kinh nghiệm thi tuyển bổ nhiệm CHV ở Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm thi tuyển và bổ nhiệm Thẩm phán ở các nước.
Bốn là, phần lớn các nước đều có quy định các ứng viên muốn được bổ nhiệm Thẩm phán, CHV thì phải tham gia và trúng tuyển kỳ thi Tư pháp Quốc gia. Đây là kỳ thi được tổ chức rất chặt chẽ và khắt khe và số lượng người trúng tuyển kỳ thi này thường chiếm tỉ lệ rất thấp (ví dụ ở Nhật Bản).
2.3. Thực hiện tốt công tác quản lý chỉ đạo ngành, tăng cường sự phối hợp với các cấp các ngành trong quản lý, chỉ đạo thi hành án, thực hiện tốt nguyên tắc quản lý ngành với quản lý theo lãnh thổ, tranh thủ tối đa sự lãnh đạo chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân. Giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp với cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ ở cấp tỉnh trong công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, điều động, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật và chính sách đối với Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan THADS tỉnh.
Kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho các cơ quan THADS địa phương. Chấn chỉnh kỷ cương, lề lối làm việc, bảo đảm thông suốt từ Trung ương xuống địa phương. Tăng cường kiểm tra, phối hợp thanh tra công THADS, đặc biệt trong việc phân loại án có điều kiện thi hành, án chưa có điều kiện thi hành, việc chấp hành pháp luật, đạo đức nghề nghiệp của CHV và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong công tác THADS. Kiên quyết xử lý nghiêm những trường hợp CHV, cán bộ thi hành án nhũng nhiễu, gây phiền hà, đồng thời khen thưởng, động viên kịp thời đối với những đồng chí có thành tích trong thi hành án.
2.4. Chú trọng xây dựng lề lối làm việc, bảo đảm tính chuyên nghiệp, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo điều hành hoạt động THADS trên địa bàn tỉnh. Chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật, bảo đảm hoạt động thông suốt, thống nhất trong địa bàn tỉnh. Phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm những trường hợp thiếu trách nhiệm, nhũng nhiễu, gây phiền hà trong THADS.
2.5. Đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng dân vận, giáo dục cho CHV, cán bộ công chức các cơ quan THADS, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Trong đó, đặt trọng tâm ở việc tiếp tục phối hợp với Học viện Tư pháp và các đơn vị có liên quan để thực hiện tốt việc đào tạo nguồn CHV năm 2011; phối hợp với các đơn vị chức năng của các Bộ, ngành để đào tạo Lý luận Chính trị, hành chính cho cán bộ thuộc diện quy hoạch.
Giai đoạn 2012 – 2015 cần tổ chức thực hiện tố một số vấn đề sau đây:
a) Tổ chức triển khai có hiệu quả Đề án quy hoạch phát triển nguồn nhân lực cán bộ ngành Tư pháp nói chung và ngành THADS nói riêng giai đoạn 2011 – 2015 định hướng năm 2020;
b) Tiếp tục kiện toàn đội ngũ cán lãnh đạo các cơ quan quản lý THADS và cơ quan THADS.
b) Tiếp tục xây dựng và củng cố kiện toàn bộ máy Tổng cục, Cục và các Chi cục THADS theo hướng hiệu lực, hiệu quả.
c) Thường xuyên rà soát đáng giá thực trạng đội ngũ cán bộ THADS trên cơ sở đó để điều chỉnh sắp xếp, sử dụng cán bộ một cách hợp lý. Chuẩn bị nhân sự bổ sung cho đội ngũ lãnh đảo trong các cơ quan THADS, phát hiện cán bộ có đủ nhân tài bố trí giữ những trọng trách quan trọng.
d) Tăng cường đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ và rèn luyện kỹ năng nghề cho công chức cơ quan THADS.
đ) Tiếp tục nghiên cứu, tham mưu, sửa đổi, bổ sung chế độ chính sách hợp lý cho công chức làm công tác THADS, khuyến khích khen thưởng công chức khi có thành tích trong công tác, đổi mới chính sách tiền lương nhà ở, cho công chức trong ngành. Xây dựng chính sách thu hút cán bộ về công tác tại những vùng sâu, xa, khó khăn, biên giới, hải đảo.
g) Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác thi hành án trong toàn ngành.
KẾT LUẬN
Luật THADS năm 2008, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2009 tạo cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện các yêu cầu cải cách tư pháp nói chung, cải cách tư pháp trong lĩnh vực THADS nói riêng đã được quy định tại Nghị quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW qua đó bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh các bản án, quyết định của Toà án trên thực tế, từng bước nâng cao hiệu quả công tác THADS, đáp ứng yêu cầu công cuộc xây dựng nhà Nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù Luật THADS năm 2008 đã có những quy phạm chung nhất xác định một cách tương đối rõ ràng về hệ thống tổ chức THADS và tạo cơ sở pháp lý để từng bước kiện toàn nâng cao chất lượng của đội ngũ CHV, công chức THADS đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, tuy nhiên để đưa các quy định của Luật vào thực tiễn cuộc sống, nhiều quy định của Luật cần có văn bản dưới luật như Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành. Với một số lượng văn bản dưới luật đồ sộ (03 Nghị định, 7 Thông tư, 02 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ) phải hoàn chỉnh trình cấp có thẩm quyền thông qua trong thời gian rất gấp (từ đầu năm 2009 đến trước ngày 01/7/2009), trong khi đó, có rất nhiều quy định mới của Luật thể hiện tinh thần của cải cách tư pháp lần đầu tiên được quy định trong luật và triển khai thực hiện như: thực hiện theo ngạch CHV mới gồm ngạch CHV sơ cấp, CHV trung cấp, CHV cao cấp; thi tuyển để bổ nhiệm CHV; v.v... Do đó, việc thực hiện Đề án khoa học: "Kiện toàn mô hình tổ chức và đội ngũ cán bộ thi hành án để thực hiện có hiệu quả Luật THADS năm 2008" để luận giải, chứng minh, phân tích dưới góc độ khoa học những vấn đề mới cả về mặt lý luận và thực tiễn về mô hình tổ chức và đội ngũ công chức THADS để việc triển khai có hiệu quả Luật THADS và Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật này là hết sức cần thiết và cấp bách đang được đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Sau quá trình triển khai thực hiện, cho đến nay, nhiều kết quả nghiên cứu của Đề án đã được sử dụng và phát huy hiệu quả của nó trong thực tiễn. Cụ thể, về thể chế nhiều kiến nghị của Đề án đã góp phần thúc đẩy tiến độ xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật THADS đồng thời nâng cao chất lượng của văn bản được ban hành. Các văn bản về tổ chức cán bộ thi hành án được ban hành kịp thời và có chất lượng này bao gồm Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS về cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và công chức làm công tác THADS; Quyết định số 1777/QĐ-TTg ngày 04 tháng 11 năm 20009 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành Danh sách các cơ quan THADS tại các đại bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo được tuyển chọn người có trình độ cử nhân luật làm CHV không qua thi tuyển; Thông tư liên tịch số 04/2009/TTLT-BNV-BTC ngày 24 tháng 12 năm 2009 của Liên bộ giữa Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ, công chức đã được xếp lương theo các ngạch hoặc chức danh chuyên ngành tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, THADS và kiểm lâm; Thông tư số 17/2010/TT-BTP ngày 11 tháng 10 năm 2010 của Bộ Tư pháp quy định phân cấp quản lý công chức, công chức lãnh đạo cơ quan quản lý THADS và cơ quan THADS; Thông tư số 10/2010/TT-BNV ngày 28 tháng 10 năm 2010 của Bộ Nội vụ quy định mã số, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức CHV và thư ký THADS, v.v... Tuy nhiên, vẫn còn một số kiến nghị đã được Ban chủ nhiệm Đề án nghiên cứu nhưng chưa được chuyển hóa thành các quy định của pháp luật, ví dụ kiến nghị thành lập thêm một số đơn vị thuộc Tổng cục, Cục THADS tỉnh, bổ sung thêm một số quyền năng cho CHV, Thủ trưởng cơ quan THADS; nâng cao hiệu quả cơ chế phối kết hợp trong THADS; v.v... Hy vọng rằng những kiến nghị đã được nghiên cứu trong Đề án sẽ được ứng dụng để tiếp tục chỉnh sửa hoàn thiện thể chế THADS trong thời gian tới.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của Đề án đã góp phần giúp sớm kiện về tổ chức bộ máy và cán bộ ngành THADS theo quy định mới của Luật THADS. Trên cơ sở Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hệ thống tổ chức ngành THADS từ trung ương xuống địa phương đã được thành lập (Tổng cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp, Cục THADS trực thuộc Tổng cục THADS và Chi cục THADS trực thuộc Cục THADS tỉnh) đồng thời Lãnh đạo Tổng cục, các Cục THAQDS tỉnh đã được kiện toàn, cụ thể Tổng cục đã bổ nhiệm được 1 Tổng cục trưởng và 3 Phó tổng cục trưởng, 63/63 Cục THADS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã bổ nhiệm được Cục trưởng hoặc Phó cục trưởng giao Quyền, giao Phụ trách, trong đó 57/63 đơn vị có Cục trưởng, 02 đơn vị cấp phó được giao quyền Cục trưởng, 04 đơn vị cấp Phó được giao phụ trách; tổng số Phó cục trưởng đã được bổ nhiệm là 94 người. Đối với cấp huyện, hiện có 637/694 đơn vị đã bổ nhiệm Chi cục trưởng và giao Quyền Chi cục trưởng; 57 đơn vị cấp Phó được giao phụ trách. Hiện nay, việc rà soát để bổ nhiệm vào các ngạch CHV sơ cấp, trung cấp, cao cấp đang tiếp tục được triển khai thực hiện theo quy định mới của Luật THADS.
[1] Xem Báo cáo tổng kết 10 năm công tác thi hành án dân sự (1993-2002) của Bộ Tư pháp.
[2] Uỷ ban tư pháp Quốc hội: Báo cáo thẩm tra sô 1052 /UBTP12 ngày 17 tháng 4 năm 2008.
[3] Theo quy định tại Điều 25 (Căn cứ để cách chức Chấp hành viên) Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005 thì:
1. Chấp hành viên đương nhiên bị cách chức chức danh Chấp hành viên khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Bị buộc thôi việc;
b) Bị kết án bằng một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật tuyên người đó có tội.
2. Chấp hành viên có thể bị cách chức chức danh Chấp hành viên khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Vi phạm quy định của pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án mà chưa đến mức bị buộc thôi việc hoặc truy cứu trách nhiệm về hình sự nhưng xét thấy cần phải áp dụng hình thức kỷ luật cách chức Chấp hành viên;
b) Vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 19 của Nghị định này;
c) Bị kỷ luật bằng hình thức cách chức chức vụ quản lý đang đảm nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức nhưng xét thấy không còn đủ điều kiện, tiêu chuẩn làm Chấp hành viên và cần phải cách chức chức danh Chấp hành viên;
d) Vi phạm nghiêm trọng về đạo đức nghề nghiệp của Chấp hành viên;
đ) Có hành vi vi phạm pháp luật khác.
[4] Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội
[5] Điều 20 Nghị định 178/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007 của Chính phủ quy định:
1. Tổng cục và tương đương (sau đây gọi chung là Tổng cục) được thành lập để tham mưu giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước chuyên sâu, ổn định và thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực lớn, phức tạp không phân cấp hoặc phân cấp hạn chế cho địa phương thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
2. Đối tượng quản lý của Tổng cục là những tổ chức và cá nhân hoạt động liên quan đến chuyên ngành, lĩnh vực,chịu sự điều chỉnh của pháp luật về chuyên ngành, lĩnh vực đó.
…
5. Tổng cục được thành lập theo yêu cầu chức năng, nhiệm vụ, trên nguyên tắc có đối tượng quản lý chuyên ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ và thực hiện theo quy định của pháp luật.
[6] Theo quy định tại Điều 25 (Căn cứ để cách chức Chấp hành viên) Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005 thì:
1. Chấp hành viờn đương nhiên bị cách chức chức danh Chấp hành viên khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Bị buộc thôi việc;
b) Bị kết án bằng một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật tuyên người đó có tội.
2. Chấp hành viên có thể bị cách chức chức danh Chấp hành viên khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Vi phạm quy định của pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án mà chưa đến mức bị buộc thôi việc hoặc truy cứu trách nhiệm về hình sự nhưng xét thấy cần phải áp dụng hình thức kỷ luật cách chức Chấp hành viên;
b) Vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 19 của Nghị định này;
c) Bị kỷ luật bằng hình thức cách chức chức vụ quản lý đang đảm nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức nhưng xét thấy không còn đủ điều kiện, tiêu chuẩn làm Chấp hành viên và cần phải cách chức chức danh Chấp hành viên;
d) Vi phạm nghiêm trọng về đạo đức nghề nghiệp của Chấp hành viên;
đ) Có hành vi vi phạm pháp luật khác.
[7] Quy định tại khoản 8 và khoản 9 Điều 7 Luật cán bộ, công chức.