LBaiTrichTapChi: Vấn đề nhân chứng trong vụ án hình sự
Title:
Vấn đề nhân chứng trong vụ án hình sự
NoiLuuGiu:
Trung tâm Thông tin - Thư viện khoa học pháp lý, Viện Khoa học pháp lý
SoLanDoc:
430
SoLanDownload:
SoTapChi:
8
TacGia:
Phạm Văn Tỉnh
TenTapChi:
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
TrangThaiXuatBan:
1
TuKhoa:
TenBaiViet:
EnableView:
No
NoiDungToanVan:
<div>
<p style="text-align: center;">
<strong>VẤN ĐỀ NHÂN CHỨNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ</strong></p>
<p style="margin-left: 180pt; text-align: right;">
<strong>Phạm Văn Tỉnh<sup>*</sup></strong></p>
</div>
<p style="text-align: justify;">
Khái niệm<a href="#_ftn1" name="_ftnref1" style="background-color: rgb(255, 255, 255);" title="">*</a>"Nhân chứng" trong bài được sử dụng đồng nghĩa với khái niệm "Người làm chứng" được quy định tại Điều 43 Bộ luật Tố tụng Hình sự của nước CHXHCNVN và được hiểu là bất kỳ "người nào biết được những tình tiết có liên quan đến vụ án", chỉ trừ người bào chữa cho bị can, bị cáo và người do các nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết của vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn”<a href="#_ftn2" name="_ftnref2" style="background-color: rgb(255, 255, 255);" title="">[1]</a>.</p>
<div>
<p style="text-align: justify;">
Như vậy, ở đây có hai yếu tố hậu thuẫn quan trọng cho việc nghiên cứu tội phạm ẩn khách quan:</p>
<p style="text-align: justify;">
Thứ nhất là yếu tố phạm vi đối tượng. Theo quy định của Luật, chỉ trừ hai đối tượng như vừa nêu, còn lại, tất cả mọi người không phân biệt tuổi tác, mọi tầng lớp xã hội, từ Chủ tịch nước, các Đại biểu Quốc Hội, đại biểu Hội đồng nhân dân… cho đến mọi thường dân của 54 dân tộc sinh sống trên mọi miền đất nước, đều có thể là nhân chứng trong một vụ án hình sự. Các cơ quan Nhà nước có nhiệm vụ giải quyết vụ án hình sự cần phải thấy được rằng, đây chính là yếu tố "tai mắt", yếu tố nhân dân trong đấu tranh chống tội phạm. Vấn đề quan trọng chỉ còn là làm sao để yếu tố "tai mắt" này phát huy được tác dụng vốn có và rất to lớn của nó trong việc phát hiện kịp thời mọi hành vi phạm tội đã xảy ra, tức là không để cho tội phạm đã xảy ra lại rơi vào trạng thái ẩn.</p>
<p style="text-align: justify;">
Thứ hai là yếu tố nhận thức, tức là nội dung luật định "biết được" ở đây hàm chứa mọi khả năng nhận thức của con người về một sự kiện phạm tội đã xảy ra, bao gồm khả năng nhìn thấy, nghe thấy và ý thức được một hoặc nhiều tình tiết của hành vi phạm tội. Chính nội dung "biết được" này là một trong hai dạng phản ánh duy nhất đã được khái quát hóa về một sự kiện phạm tội - dạng vật chất và dạng ý thức. Sự kiện phạm tội được phản ánh ở dạng ý thức (nhận thức) này chỉ tồn tại ở những con người nhất định và cụ thể nào đó mà ở đây là Nhân chứng. Vì thế, điều có tính chất quyết định đối với trạng thái <em>ẩn</em> hay <em>hiện </em>của một sự kiện phạm tội (đương nhiên là đã xảy ra) chính là ý thức tự giác và tính tích cực của công dân trong việc khai báo với cơ quan có nhiệm vụ giải quyết vụ án hình sự. Nói cách khác, một sự kiện phạm tội đã xảy ra, nó có bị phát hiện hay tồn tại ở trạng thái ẩn, trong nhiều trường hợp, phụ thuộc vào nhân chứng.</p>
<p style="text-align: justify;">
Như vậy, cả hai yếu tố vừa nêu tựu trung lại là làm thế nào để mọi công dân tự giác và tích cực tố giác và khai báo về những hành vi phạm tội mà họ biết được, tức là họ đã nhìn thấy, nghe thấy và nhận thức được.</p>
<p style="text-align: justify;">
Yếu tố thứ ba hậu thuẫn cho khả năng có được nhân chứng trong một vụ án hình sự là bản thân sự kiện phạm tội với thuộc tính phản ánh của nó. Điều này muốn nói rằng, trong tất cả các hành vi phạm tội đã được quy định tại Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự (BLHS) hiện hành, thì đại đa số các hành vi đó khi xảy ra trong thực tế đều có thể có nhân chứng, tức là đều có thể có người nào đó "biết được những tình tiết liên quan đến vụ án". Trong số các hành vi phạm tội đó, trước hết phải kể đến những tội có tính bộc lộ cao, biểu hiện ra bên ngoài nhiều hơn, như các tội trộm cắp, cướp, giết người, cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công cộng, lừa đảo… và cả tội làm sai lệch hồ sơ vụ án<a href="#_ftn3" name="_ftnref3" title="">[2]</a>.</p>
<p style="text-align: justify;">
Như vậy, xem xét trên cơ sở tổng hợp cả ba yếu tố có liên quan đến Nhân chứng như vừa nêu trên, thì rõ ràng một sự kiện phạm tội xảy ra, khó có thể chìm vào trạng thái ẩn, tức là việc giải quyết vụ án hình sự từ khâu phát hiện, điều tra đến khâu xét xử tại phiên tòa có sự hậu thuẫn rất lớn từ phía nhân chứng. Thế nhưng, thực tế đấu tranh chống tội phạm lại cho thấy một thực trạng trái chiều, bất lợi cho việc phát hiện (đặc biệt là đối với khâu phát hiện), điều tra và xét xử tại phiên tòa.</p>
<p style="text-align: justify;">
Sở dĩ có thể khẳng định thực trạng bất lợi đặc biệt diễn ra đối với khâu phát hiện tội phạm là bởi vì xuất phát từ thuyết "tam đoạn luận", tức là ở khâu xét xử, yêu cầu về tính tự giác, tinh thần sẵn sàng hợp tác của nhân chứng không thể cao bằng yêu cầu này đặt ra đối với nhân chứng ở khâu phát hiện tội phạm. Bởi vì ở khâu này, nhân chứng đóng vai trò là người tố cáo, tố giác về hành vi phạm tội, tức là về cái mà cơ quan tiếp nhận (thường là cơ quan công an) còn chưa có thông tin. Còn ở khâu xét xử, nhân chứng đã được xác định rõ ràng, đã có giấy triệu tập của Tòa án. Vậy mà trong nhiều trường hợp, nhân chứng vẫn không có mặt tại phiên tòa theo giấy đã triệu tập. Sau đây là một số minh chứng:</p>
<p style="text-align: justify;">
- Tại Nghệ Tĩnh (nay là Nghệ An và Hà Tĩnh), vụ Bùi Văn Dũng can tội cố ý gây thương tích, bị truy tố theo khoản 3, Điều 109 BLHS 1985, các bị hại và nhân chứng đều vắng mặt;</p>
<p style="text-align: justify;">
- Tại Thanh Hóa, vụ Trần Văn Năm và đồng phạm can tội giết người, cướp tài sản công dân, án sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 101, khoản 1 Điều 151 BLHS 1985 có mức án tử hình đối với bị cáo cầm đầu vụ phạm tội. Song tất cả các nhân chứng đều vắng mặt;</p>
<p style="text-align: justify;">
- Tại Hải Phòng, vụ Trương Văn Trai can tội cướp tài sản của công dân, bị truy tố theo khoản 2, Điều 151 BLHS 1985, phiên tòa sơ thẩm vắng mặt tất cả người bị hại và nhân chứng;</p>
<p style="text-align: justify;">
- Tại Hà Nội, vụ Trần Mạnh Dũng can tội cướp tài sản của công dân, bị truy tố và xét xử theo khoản 2 Điều 151 BLHS 1985, bị cáo kêu oan, nhưng tất cả nhân chứng và người bị hại đều vắng mặt tại phiên toà. Vụ Trần Văn Tý, Trần Văn Dũng và Lại Thị Hợp. Thị Hợp can tội mua bán phụ nữ, bị xét xử theo điểm b, c khoản 2, Điều 115 BLHS 1985, các nhân chứng và người bị hại cũng đều vắng mặt tại phiên tòa<a href="#_ftn4" name="_ftnref4" title="">[3]</a>.</p>
<p style="text-align: justify;">
Tình trạng thiếu hợp tác ở giai đoạn xét xử của các nhân chứng và người bị hại như vậy rõ ràng gây khó khăn rất lớn cho việc làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án tại phiên tòa, làm cho việc xét xử (điều tra công khai) tại phiên toà bị khập khễnh, thiếu mất một chân, song vẫn còn có thể cứu vãn được, "nếu người làm chứng vắng mặt nhưng trước đó đã có lời khai ở cơ quan điều tra thì chủ tọa phiên toà công bố những lời khai đó"<a href="#_ftn5" name="_ftnref5" title="">[4]</a>. Còn trong những trường hợp "Nếu người làm chứng về những vấn đề quan trọng vắng mặt thì tuỳ trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử"<sup> <a href="#_ftn6" name="_ftnref6" title="">[5]</a></sup>.</p>
<p style="text-align: justify;">
Để khắc phục tình trạng này của người làm chứng, tức là tình trạng thiếu tự giác thực hiện nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng, Nhà nước ta, năm 1992 (ngày 22 tháng 12 năm 1992), đã phải bổ sung một biện pháp có tính chất cưỡng chế vào Điều 43 của Bộ luật Tố tụng Hình sự như sau:</p>
<p style="text-align: justify;">
"Người làm chứng đã được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án triệu tập, nhưng cố ý không đến mà không có lý do chính đáng, thì có thể bị dẫn giải"<a href="#_ftn7" name="_ftnref7" title="">[6]</a>.</p>
<p style="text-align: justify;">
Vậy mà tình trạng vắng mặt của tất cả 60 (sáu mươi) người làm chứng và người bị hại lại thấy tái diễn trong phiên tòa xét xử vụ án Phúc "bồ" được tiến hành từ ngày 14 đến ngày 20 tháng 3 năm 1997<a href="#_ftn8" name="_ftnref8" title="">[7]</a> tại Tòa án nhân dân TP. Hà Nội. Đó là vụ án Nguyễn Thị Phúc và 23 bị cáo khác bị xét xử về các tội cưỡng đoạt tài sản công dân, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản công dân, tội cố ý huỷ hoại tài sản của công dân, tội xâm phạm chỗ ở của công dân và tội bắt, giữ người trái pháp luật. Tòa án nhân dân TP. Hà Nội đã 3 lần gửi giấy mời các cơ quan hữu quan và 60 người làm chứng và người bị hại, song không có một ai có mặt tại phiên tòa, ngoài duy nhất có một vị đại diện của UBND phường Thành Công.</p>
<p style="text-align: justify;">
Tới nay, tức là đã có 11 năm biện pháp "Người làm chứng có thể bị dẫn giải" đi vào cuộc sống pháp lý của đất nước, tình trạng thiếu vắng người làm chứng và người bị hại tại các phiên toà vẫn diễn ra một cách nghiêm trọng. Ngày 28 tháng 4 năm 2003, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã phải hoãn phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án Trịnh Xuân Hoàng (tức Hoàng "lựu đạn") cùng đồng phạm can tội hiếp dâm, cướp tài sản, bắt giữ người trái pháp luật, cho vay lãi nặng và cưỡng đoạt tài sản vì không triệu tập được nhân chứng và người bị hại. Trong vụ án này, Tòa phải triệu tập trên 10 nhân chứng và người bị hại mà chỉ có một nhân chứng đến toà, còn lại vắng mặt không có lý do<a href="#_ftn9" name="_ftnref9" title="">[8]</a>.</p>
<p style="text-align: justify;">
Và xem xét ngay tại phiên toà đang diễn ra sôi động tại TP. Hồ Chí Minh từ ngày 25 tháng 2 năm 2003, một phiên toà được xem là "lớn nhất trong lịch sử tố tụng Việt Nam" và là phiên toà mẫu theo tinh thần Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp<a href="#_ftn10" name="_ftnref10" title="">[9]</a>, phiên toà hình sự sơ thẩm xét xử vụ án Trương Văn Cam (tức Năm Cam) và đồng phạm, sự thiếu vắng của những người làm chứng và người bị hại cũng không thấy được khắc phục bao nhiêu. Theo số liệu kiểm tra của Tòa án, thì những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bị hại, nhân chứng có mặt tại phiên toà rất ít so với triệu tập. Chỉ có 7/40 người bị hại, 6/30 nhân chứng và 92/234 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại toà, trong đó có một số ít vắng mặt có lý do<a href="#_ftn11" name="_ftnref11" title="">[10]</a>.</p>
<p style="text-align: justify;">
Như vậy, tất cả những minh chứng vừa hệ thống hóa ở trên đủ cho thấy rằng, ngay ở giai đoạn xét xử công khai tại phiên tòa mà sự hợp tác của nhân chứng và người bị hại còn ở mức độ hạn chế đến như vậy, thì ở giai đoạn ban đầu, giai đoạn phát hiện tội phạm, tức là giai đoạn đòi hỏi ở những người làm chứng, những người bị hại một tinh thần đấu tranh chống tội phạm cao hơn, chủ động hơn, dũng cảm hơn và tự giác hơn, hẳn là mức độ hợp tác còn hạn chế hơn nữa. Và chính mức độ hợp tác rất hạn chế này của nhân chứng và người bị hại (xem thêm TC Nhà nước và Pháp luật số 4/2000 tr.39) với các cơ quan tư pháp hình sự là một điều kiện tốt để cho những hành vi phạm tội đã được thực hiện, song lại dễ dàng chìm xuống, dễ dàng rơi vào trạng thái ẩn.</p>
<p style="text-align: justify;">
Bởi vậy, để khắc phục tình trạng này, cũng tức là để đấu tranh có hiệu quả hơn với tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm ẩn nói riêng, thiết nghĩ cần phải có những thay đổi, bổ sung nhất định đối với vấn đề (chế định) nhân chứng, cả về mặt pháp luật, cả về mặt nhận thức của những người tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự và đặc biệt là thái độ đối xử của các chủ thể quyền lực này đối với nhân chứng.</p>
<p style="text-align: justify;">
<em>Trước hết</em>, nhìn lại toàn bộ những quy định hiện hành trong Bộ luật TTHS của Nhà nước ta về người làm chứng thì phải thấy một điều rằng, tuy đã thể chế được những quan điểm cơ bản và khoa học về người làm chứng, về lời khai của người làm chứng cũng như về các hình thức và cách thức linh hoạt để tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm và lấy lời khai của người làm chứng, song pháp luật hiện hành chỉ thiên về quy định các nghĩa vụ và trách nhiệm, kể cả trách nhiệm hình sự đối với người làm chứng, mà quên mất quyền và lợi ích của họ. Đây cần phải xem là nhược điểm lớn nhất của chế định về người làm chứng trong Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện hành.</p>
<p style="text-align: justify;">
Quan tâm đến lợi ích của người làm chứng và sử dụng biện pháp khuyến khích (đòn bẩy) vật chất mới là một trong những hướng cơ bản để giải quyết tình trạng thiếu hợp tác đang tồn tại lâu nay của người làm chứng, chứ không phải là dùng biện pháp cưỡng chế. Luật hình triều Lê đã triệt để khai thác khuynh hướng này. Cụ thể, ngay ở Phần chung, tại Điều 25 Luật hình triều Lê có quy định:</p>
<p style="text-align: justify;">
"… Tố cáo việc phạm cấm hoặc mưu giết người, trộm cắp, thì thưởng tiền từ 100 quan trở xuống; tiền ấy lấy ở kẻ phạm tội. Tố cáo việc giấu giếm ruộng, đất, bãi bồi thì được thưởng một phần mười những ruộng đất bãi bồi ấy, được cày cấy mà ăn một đời (nếu không có con thì cho vợ, cải giá thì không cho). Bắt được kẻ cướp, trộm cắp thì được thưởng tước một tư và tiền chừng một phần mười tang vật, lấy ở số tiền tang vật ra. Nếu có chiếu chỉ định thưởng thế nào thì theo chiếu chỉ"<a href="#_ftn12" name="_ftnref12" title="">[11]</a>.</p>
<p style="text-align: justify;">
Bên cạnh việc quy định có tính chất nguyên tắc chung như vậy, ở nhiều Điều luật quy định về từng tội danh cụ thể, lại có quy định riêng về trách nhiệm phát hiện tội phạm đối với các quan sở tại và mức thưởng cho người tố giác tội phạm.</p>
<p style="text-align: justify;">
Ví dụ, Điều 413 nói về tội (tạm gọi là) tuyên truyền mê tín, dị đoan có quy định:</p>
<p style="text-align: justify;">
"… Những người đầu mục và xã, phường quan ở nơi ấy, không lùng bắt đem trình quan trên, thì phải tội biếm hay đồ; quan huyện biết việc ấy mà cứ dung túng, thì xử biếm hay bãi chức; quan phủ không phát giác việc ấy ra, thì phải phạt. Người khác lùng bắt được kẻ phạm pháp, hay tố cáo ra, thì được thưởng tuỳ việc nặng nhẹ"<a href="#_ftn13" name="_ftnref13" title="">[12]</a>.</p>
<p style="text-align: justify;">
Quy định rõ trách nhiệm phát hiện tội phạm đối với người đứng đầu cơ quan, cũng như đối với từng cán bộ quản lý ở từng địa phương, trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời có khuyến khích ở các mức độ khác nhau đối với người tố giác tội phạm, rõ ràng đó là kinh nghiệm quý báu của cha ông trong việc đấu tranh chống vi phạm và tội phạm. Trong điều kiện hiện nay, kinh nghiệm quý báu này phù hợp và cần phải được thể chế hoá để áp dụng vào đời sống pháp lý của đất nước.</p>
<p style="text-align: justify;">
Điều này đồng nghĩa với yêu cầu bổ sung cho phong cách tư duy lập pháp hiện hành, một phong cách tuy rất coi trọng việc tố giác của công dân, xếp "tố giác của công dân" ở vị trí đầu tiên trong dãy những căn cứ khởi tố vụ án hình sự (Điều 83 Bộ luật Tố tụng Hình sự), song lại chỉ xem việc tố giác tội phạm cũng như việc cung cấp lời khai về những gì mình biết về các tình tiết của vụ án hình sự là bổn phận, là nghĩa vụ của công dân. Cho nên, đối với người tố giác tội phạm và người cung cấp những điều mình biết về các tình tiết của vụ án hình sự, tức là người làm chứng, Luật hiện hành còn nặng về quy định các nghĩa vụ của họ hơn là định ra cho họ các quyền, cả về vật chất lẫn tinh thần.</p>
<p style="text-align: justify;">
Xét trong guồng máy đấu tranh chống tội phạm nói chung và chống tội phạm ẩn nói riêng, thì người tố giác tội phạm là người đầu tiên, người khởi động guồng máy này. Vì thế pháp luật của Nhà nước ta cần chú trọng hơn, cần có những quy định chi tiết hơn đối với người tố giác tội phạm, cần có hình thức khuyến khích, động viên họ, như cha ông ta đã từng làm, và tạo ra những điều kiện tốt, những điều kiện thuận lợi cho việc tố giác tội phạm. Trong những năm qua, bằng Thông tư Liên ngành số 03/TTLN ngày 15.5.1992 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng, Bộ Lâm nghiệp và Tổng cục Hải quan hướng dẫn việc thi hành các quy định của Luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm, cũng như bằng Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 138/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 1998 phê duyệt chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, Nhà nước ta đã tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho việc tố giác tội phạm. Còn những hình thức khuyến khích, động viên người tố giác phạm tội vẫn chưa được quan tâm. Mặc dù vậy, "Bốn năm qua (1998-2002), hội viên (Hội Nông dân) và nông dân các tỉnh, thành cũng đã tham gia phát hiện được gần 50.000 đối tượng vi phạm pháp luật, hơn 5.400 vụ phạm pháp, cung cấp được 75.000 nguồn tin có giá trị cho cơ quan công an, chính quyền địa phương, giúp cơ quan chức năng bắt trên 12.000 đối tượng, trong đó 1.360 đối tượng truy nã, hơn 5.500 đối tượng trộm cắp, 568 đối tượng truyền đạo trái phép, bắt thu giữ 567 loại súng và vũ khí thô sơ, vận động được 2.520 đối tượng ra tự thú…"<a href="#_ftn14" name="_ftnref14" title="">[13]</a>.</p>
<p style="text-align: justify;">
Rõ ràng, bằng sự quan tâm thiết thực của Nhà nước, sự hợp tác của người dân trong đấu tranh chống tội phạm đã được khuấy động và sẽ tiếp tục tăng lên, nếu được Nhà nước cho hưởng thêm những mức độ khuyến khích và động viên bằng vật chất hoặc tinh thần có phân định cụ thể và phù hợp. Sở dĩ ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh đến sự phân định cụ thể và phù hợp là vì xem đó là một thao tác rất cần thiết hiện nay của hoạt động lập pháp tố tụng hình sự và đó cũng là một hình thức khuyến khích đầu tiên về mặt tinh thần đối với người tố giác và người báo tin về tội phạm.</p>
<p style="text-align: justify;">
Bộ luật TTHS hiện hành của Nhà nước ta và các văn bản có liên quan mới chỉ chú trọng đến "tố giác của công dân" và "tin báo về tội phạm", tức là mặt thông tin, chứ chưa có quy định nào về bản thân người công dân làm cái việc tố giác và báo tin đó. Điều 83 và Điều 86 Bộ luật TTHS chỉ nói tới "tố giác và tin báo về tội phạm", còn Thông tư Liên ngành số 03/TTLN ngày 15.5.1992 (đã nói tới ở trên), ngoài việc rất lớn đã làm được là tạo những điều kiện thuận lợi hơn, cụ thể hơn cho việc tố giác và báo tin về tội phạm, cũng chỉ dừng lại ở mức độ hướng dẫn:</p>
<p style="text-align: justify;">
-"Các cơ quan tiếp nhận, giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm có trách nhiệm trả lời cho cơ quan, tổ chức hoặc người cung cấp tin.</p>
<p style="text-align: justify;">
Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, người cung cấp tin yêu cầu giữ bí mật thì phải giữ bí mật cho họ" <a href="#_ftn15" name="_ftnref15" title="">[14]</a>.</p>
<p style="text-align: justify;">
-Và "các cơ quan, đơn vị tiếp nhận và giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm có trách nhiệm thông báo cho công dân, cơ quan hay tổ chức đã báo tin biết: Kết quả giải quyết hay đã chuyển tin đến cơ quan, đơn vị nào giải quyết"<sup> <a href="#_ftn16" name="_ftnref16" title="">[15]</a> </sup>.</p>
<p style="text-align: justify;">
Như vậy, người tố giác, người báo tin về tội phạm là những người đầu tiên có vai trò quan trọng giúp cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự phát hiện được hành vi phạm tội đã xảy ra, tức là góp phần đầu tiên để cho tội phạm không rơi vào trạng thái ẩn mà tiếp tục gây hại cho xã hội, thì lại chưa được các nhà làm luật quan tâm đúng mức. Họ cần phải có một vị trí trong Bộ luật TTHS, một địa vị pháp lý riêng, tức là họ phải có tên riêng (người tố giác tội phạm, người báo tin ban đầu về tội phạm) và phải có nghĩa vụ và quyền nhất định. Làm được như vậy, vừa để loại bỏ tình trạng vô nhân xưng đối với người tố giác tội phạm, người báo tin ban đầu về tội phạm trong Bộ luật TTHS hiện hành, vừa thể hiện thái độ tôn trọng của Nhà nước đối với họ và cũng là để tăng thêm trách nhiệm, tăng thêm độ tin cậy đối với nguồn tin ban đầu mà họ cung cấp.</p>
<p style="text-align: justify;">
Xét về mặt lý thuyết và học thuật, người tố giác tội phạm, người báo tin ban đầu về tội phạm là những phạm trù chung, có phạm vi chủ thể rất rộng lớn và bao quát trong nội hàm của nó. Vì thế rất cần sự phân định của Luật.</p>
<p style="text-align: justify;">
Trong thực tế, nhiều trường hợp, người tố giác tội phạm, người báo tin ban đầu về tội phạm đồng thời lại là người làm chứng, người bị hại, hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, tức là người mà theo Bộ luật TTHS hiện hành là người tham gia tố tụng. Trong số những người này, thì nhân chứng cần phải được quan tâm đặc biệt, quan tâm hơn nữa. Bởi vì họ không tham gia vào vụ án, không có quyền lợi liên quan đến vụ án mà họ lại biết được về vụ án, những tình tiết có liên quan đến vụ án. Vì thế, lời khai của nhân chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng. Và có những trường hợp, lời khai của nhân chứng có giá trị quyết định đối với tính chất của vụ án, ví dụ như vụ án "Cầu Chương Dương" xảy ra vào đêm 29.1.1993 chẳng hạn. Trong vụ án nổi tiếng này, chính nhờ lời khai của hai nhân chứng, anh Phạm Kim Lâm và anh Ngô Văn Kiên, những người xứng đáng được báo giới lúc đó ca ngợi là "các nhân chứng giàu lòng nhân hậu và dũng cảm", mà cơ quan điều tra mới có cơ sở đánh giá đúng hành vi phạm tội giết người, cướp của (chứ không phải các tội danh khác như hướng điều tra ban đầu) của nguyên Cảnh sát giao thông Nguyễn Tùng Dương <a href="#_ftn17" name="_ftnref17" title="">[16]</a>.</p>
<p style="text-align: justify;">
Chính vì vị trí và vai trò đặc biệt của người làm chứng như vậy mà pháp luật không thể chỉ quy định nghĩa vụ đối với họ mà cần phải có những hình thức khuyến khích vật chất và tinh thần đối với người làm chứng nói chung và đối với những trường hợp có đóng góp tích cực và xuất sắc trong đấu tranh chống tội phạm nói riêng, bù đắp cho các chi phí phát sinh do việc thực hiện các nghĩa vụ công dân của người làm chứng. Ở CHLB Đức có hẳn một đạo luật riêng gọi là "Luật đền bù cho người làm chứng và người giám định". Và Điều 71 Bộ luật TTHS của CHLB Đức quy định dẫn chiếu rằng: "Người làm chứng được đền bù theo Luật đền bù cho người làm chứng và người giám định"<a href="#_ftn18" name="_ftnref18" title="">[17]</a>.</p>
<p style="text-align: justify;">
Xét về mặt chứng minh hành vi phạm tội (lý luận chứng cứ), thì lời khai của người làm chứng và bản giám định tư pháp của giám định viên đều là những nguồn chứng cứ quan trọng và giá trị chứng minh của hai nguồn này là so sánh được (vergleichbar). Vì thế mà thù lao và chi phí cho người làm chứng và người giám định được các nhà làm luật Đức xếp vào một đạo luật để điều chỉnh.</p>
<p style="text-align: justify;">
Ở nước ta, quyền lợi của người làm chứng cũng đã bắt đầu được Nhà nước quan tâm và xếp đối tượng này vào cùng với các đối tượng khác là Hội thẩm nhân dân, Luật sư (chỉ định), Phiên dịch và Giám định viên vào chung một Thông tư liên ngành để hướng dẫn chế độ phụ cấp phiên toà<a href="#_ftn19" name="_ftnref19" title="">[18]</a>. Trong số các đối tượng vừa nêu, nhân chứng được xếp riêng vào một hạng, hạng có chế độ thấp hơn tất cả các đối tượng khác, cụ thể, "nhân chứng được thanh toán tiền tàu xe và bồi dưỡng 20.000đ/ngày ở các Tòa án nhân dân tối cao, TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện" và các Tòa án quân sự<a href="#_ftn20" name="_ftnref20" title="">[19]</a>.</p>
<p style="text-align: justify;">
Hai năm trước đó, tức là ngay sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTHS năm 1992 có hiệu lực (2.1.1993), cũng có một Thông tư liên ngành, trong đó quyền lợi của người làm chứng được nhắc tới, song chỉ trong trường hợp bị dẫn giải. Và trong trường hợp đó, "cơ quan ra lệnh dẫn giải người làm chứng có trách nhiệm thanh toán tiền tàu xe, ăn ở (nếu có) cho người làm chứng và bảo đảm các quyền lợi hợp pháp khác của họ"<a href="#_ftn21" name="_ftnref21" title="">[20]</a>.</p>
<p style="text-align: justify;">
Như vậy, có thể nói rằng, lợi ích của người làm chứng đã được Nhà nước ta chú ý tới, song còn chưa thoả đáng, mức độ thấp và quá hạn chế phạm vi áp dụng, mới chỉ chú ý đến trường hợp làm chứng tại phiên toà.</p>
<p style="text-align: justify;">
Bởi vậy, xét trên tất cả các bình diện như đã phân tích, để bảo đảm cho sự hợp tác của người dân trong đấu tranh chống tội phạm một cách tích cực và ổn định lâu bền, Bộ luật TTHS của Nhà nước ta cần có quy định bổ sung và kèm văn bản hướng dẫn chi tiết về chế độ khuyến khích vật chất và tinh thần (thù lao và chi phí) đối với người tố giác tội phạm, người làm chứng và cả người báo tin ban đầu về tội phạm. Đây là giải pháp khả thi trong điều kiện hiện nay của đất nước ta và cũng là góp phần hiện thực hoá Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02.01.2002 của Bộ Chính trị . Đó là giải pháp thứ nhất.</p>
<p style="text-align: justify;">
<em>Giải pháp thứ hai</em>: Xét về mặt tâm lý, cũng giống như người bị hại (đã được đề cập ở bài trước, trên TC Nhà nước và Pháp luật số 4/2000, tr.39-45.), tâm lý sợ trả thù ở những người làm chứng là một thực tế đã và đang tồn tại trong xã hội ta hiện nay. Nói cách khác, một trong những lý do nhân chứng và người bị hại không có mặt tại toà và ở mức độ trầm trọng hơn nữa là không tố giác tội phạm, chính là lý do sợ bị trả thù hay tình trạng "người ngay sợ kẻ gian". Sự đe dọa của bọn tội phạm đối với người tố giác là hoàn toàn hiện hữu.</p>
<p style="text-align: justify;">
Năm 1995, sau khi báo Thanh niên đăng tải một loạt bài điều tra vạch trần tội ác của Năm Cam và đồng phạm, Tòa soạn báo này đã bị đe doạ khủng bố. Tổng cục Cảnh sát nhân dân đã phải cử cán bộ, chiến sĩ công an đến bảo vệ Tòa soạn báo Thanh niên<a href="#_ftn22" name="_ftnref22" title="">[21]</a>. Rõ ràng, tình trạng người bị hại và nhân chứng sợ bị trả thù là một thực tế và tình trạng này không phải chỉ có ở nước ta mà đó là tình trạng chung trên thế giới, tuy rằng mức độ trầm trọng có khác nhau. Ví dụ, ở Nga, theo số liệu thống kê của cảnh sát thì năm 2001 có 10 triệu người đứng ra làm chứng trước tòa, trong đó 1/4 số nhân chứng này đã rút lại lời khai của mình vì sợ bị trả thù<a href="#_ftn23" name="_ftnref23" title="">[22]</a>. Như vậy, từ việc xem xét thực tế của tình hình tội phạm và đấu tranh chống tội phạm cho phép khẳng định rằng, về cơ bản và lâu bền, tình trạng sợ bị trả thù chỉ có thể giải quyết được bằng sự áp đảo của phía "người ngay" mà trong đó, trước hết phải là của lực lượng được giao nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh chống tội phạm (giải quyết vụ án hình sự) như Công an, kiểm sát, Tòa án… ở bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào, nếu có sự buông lỏng trong đấu tranh chống tội phạm, là ở đó và tức thì phía "kẻ gian" sẽ trỗi dậy, lấn áp và tình trạng sợ bị trả thù lại hiện hữu. Có thể nói, tình trạng sợ bị trả thù và thiếu hợp tác của nhân chứng (cũng như của người bị hại) là một chỉ báo về tội phạm ẩn và nó đồng nghĩa với sự gia tăng, sự lộng hành của tội phạm nói chung và của tội phạm có tổ chức nói riêng mà những kẻ thực hiện những tội phạm đó hoặc là sử dụng bạo lực (những tội phạm bạo lực) hoặc là sử dụng đến chức vụ và quyền hạn và đặc biệt nghiêm trọng là có sự kết hợp cả hai.</p>
<p style="text-align: justify;">
Vì thế, mục tiêu thu hút sự hợp tác tích cực của người dân vào thực hiện nghĩa vụ tố giác tội phạm và trình báo những điều mà họ biết được về các tình tiết có liên quan đến vụ án hình sự, phải là mục tiêu trước mắt và lâu dài của công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm ở nước ta.</p>
<p style="text-align: justify;">
Để đạt được mục tiêu quan trọng đó, một mặt, Nhà nước ta phải duy trì và thường xuyên củng cố phương thức có thể gọi là truyền thống và trải nghiệm của Việt Nam, tức là công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm phải được đặt dưới sự lãnh đạo liên tục, nhất quán và kiên định của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở của pháp luật. Đây là yếu tố quyết định để tạo dựng, củng cố và duy trì niềm tin vào công lý không phải chỉ của nhân dân, của nhân chứng và của những người bị hại mà còn của cả những người trong cuộc, tức là những chủ thể tiến hành tố tụng hình sự. Ở đây, trong mối liên hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng, kết quả của cuộc đấu tranh chống tội phạm và niềm tin vào công lý, tuy có chứa đựng thuộc tính của quan hệ biện chứng, song sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ vai trò quyết định. Điều này thể hiện rất rõ nét, nếu so sánh tình hình tội phạm ở nước ta với tình hình tội phạm ở các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Nếu sử dụng cơ số tội phạm để so sánh, tức là số tội phạm xảy ra (thống kê được) trong một năm tính trên 100.000 người dân, thì ở nước ta vào năm 1986 là 167; 1988 là 165; 1990 là 133 và năm 1991 là 148<a href="#_ftn24" name="_ftnref24" title="">[23]</a>. Trong khi đó, cơ số này ở nhiều nước khác thuộc hệ thống XHCN trước đây cũng lớn hơn nhiều lần, ví dụ ở Liên Xô năm 1924, cơ số này là 750, năm 1929 là 980; ở Tiệp Khắc năm 1970 là 760, năm 1975 là 720 và năm 1979 là 620; ở CHDC Đức vào năm 1950 là 1.251, năm 1960 là 806 và năm 1969 là 620 <a href="#_ftn25" name="_ftnref25" title="">[24]</a>. Còn những cơ số này ở các nước tư bản thì phải xem là những con số kinh hoàng: ví dụ ở Mỹ vào năm 1970 là 2.740, năm 1988 là 5.664; ở Pháp vào năm 1980 là 4.890, năm 1985 là 6.714 và năm 1988 là 5.619; ở Úc vào năm 1990 là 6.168 <a href="#_ftn26" name="_ftnref26" title="">[25]</a>.</p>
<p style="text-align: justify;">
Như vậy, về mặt số lượng, hàng năm tội phạm xảy ra ở nước ta so với nhiều nước trên thế giới thật không đáng kể. Còn xét về tính chất và mức độ nguy hiểm của tình hình tội phạm, tức là mức độ tác động của tình hình tội phạm đến đời sống chính trị, kinh tế-xã hội, an ninh và trật tự, an toàn xã hội, thì "năm 2002, Việt Nam được quốc tế công nhận là nước có môi trường xã hội an toàn nhất"<a href="#_ftn27" name="_ftnref27" title="">[26]</a>. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh trong nhiều năm gần đây đều được xếp vào loại thành phố có chất lượng sống cao trong số 40 thành phố chính ở châu Á mà một trong những tiêu chuẩn để xếp loại (năm 2000 có 27 tiêu chuẩn) là cơ số tội phạm (ở đây tính số tội phạm trên mười ngàn dân)<a href="#_ftn28" name="_ftnref28" title="">[27]</a>.</p>
<p style="text-align: justify;">
Rõ ràng, dù thực tế của tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay cũng như thực tế đấu tranh phòng và chống tội phạm còn có nhiều vấn đề bức xúc, cần được nghiên cứu giải quyết, song sự đánh giá của cộng đồng quốc tế và báo chí nước ngoài đối với môi trường sống, môi trường xã hội của nước ta như vậy, không thể không xem đó là một thành tựu mà thiếu sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao và nhất quán, liên tục của Đảng cầm quyền thì không thể có được.</p>
<p style="text-align: justify;">
Do vậy, yếu tố quyết định này - sự lãnh đạo liên tục, nhất quán và kiên định của Đảng cầm quyền trên cơ sở của pháp luật - phải được tiếp tục duy trì và tăng cường trong cuộc chiến tiếp theo với tội phạm ở nước ta. Chỉ có như vậy, niềm tin vào công lý trong nhân dân mới có chỗ đứng và điểm tựa vững chắc trong mọi hoạt động đấu tranh chống tội phạm và tình trạng sợ bị trả thù mới được giải quyết về cơ bản và lâu bền. Còn trước mắt, cuộc đấu tranh chống tội phạm ẩn cần đến những biện pháp tác động trực tiếp vào tâm lý sợ bị trả thù.</p>
<p style="text-align: justify;">
Xuất phát từ tâm lý chung của con người và xem xét kinh nghiệm của một số nước khác<a href="#_ftn29" name="_ftnref29" title="">[28]</a>, chúng tôi thấy các biện pháp này cần có hai mức độ:</p>
<p style="text-align: justify;">
Thứ nhất là liệu pháp trực tiếp, tức là bổ sung vào Bộ luật TTHS những quy định về các biện pháp nhằm đảm bảo an toàn tính mạng và sức khỏe cho người tố giác tội phạm cũng như bảo vệ nhân chứng. Trong những trường hợp có yêu cầu từ phía người tố giác hoặc nhân chứng, thì cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp bảo đảm an toàn cho họ đến khi mối đe dọa có liên quan đến nguồn tin mà họ cung cấp thực sự không còn. Cho đến nay, trong thực tế đã có những trường hợp cơ quan công an phải triển khai biện pháp bảo vệ an toàn cho người tố giác tội phạm và nhân chứng. Song, trước những biến động của tình hình tội phạm hiện nay, vấn đề này cần phải được quy định trong Bộ luật TTHS để người dân an tâm và các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở pháp lý cho công việc của mình và đồng thời đó cũng là trách nhiệm (nhiệm vụ) của các cơ quan tiến hành tố tụng.</p>
<p style="text-align: justify;">
Thứ hai là những biện pháp loại trừ rủi ro cho người tố giác tội phạm và nhân chứng bằng cách quy định nhiều hình thức báo tin, tố giác và nhiều hình thức khác nhau đối với việc cung cấp lời khai cũng như việc lấy lời khai nhân chứng. Yêu cầu này được đặt ra là hoàn toàn phù hợp với tâm lý người báo tin, tố giác cũng như người làm chứng và phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay, khi mà các phương tiện thông tin, liên lạc, đặc biệt là điện thoại (cố định và di động) đã trở thành phổ biến và quen thuộc trên khắp các vùng, miền của đất nước. Các hình thức như "hộp thư tố giác tội phạm", "đường dây nóng", điện thoại 113… đã và đang tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc báo tin, tố giác tội phạm, đảm bảo an toàn, bí mật cho người thực hiện việc báo tin hay tố giác. Đồng thời những hình thức này cũng tạo ra những khả năng mới để gắn kết người dân với cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh chống tội phạm. Điều quan trọng ở đây và hiện nay là, các phòng trực ban, các cơ sở tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm phải đảm bảo cho được các yếu tố cơ bản như:</p>
<p style="text-align: justify;">
- Thuận tiện về địa điểm;</p>
<p style="text-align: justify;">
- Đầy đủ các phương tiện cần thiết để tiếp nhận tố giác và tin báo về tội phạm dưới mọi hình thức ghi âm, ghi hình và ghi ảnh (để sử dụng trong những trường hợp cần thiết và được phép);</p>
<p style="text-align: justify;">
- Liên tục có cán bộ trực ban 24/24 giờ.</p>
<p style="text-align: justify;">
Những yếu tố này phải được kiện toàn và duy trì liên tục trên phạm vi toàn quốc, từ cấp phường, xã trở lên. Có như vậy mới có thể cải thiện được tình hình hợp tác trong đấu tranh chống tội phạm từ phía người dân với tư cách là người tố giác và người báo tin ban đầu về tội phạm.</p>
<p style="text-align: justify;">
Còn đối với sự hợp tác của người dân với tư cách là nhân chứng, việc sử dụng các phương tiện ghi âm, ghi hình hoặc ảnh, cũng phải được tăng cường trong điều kiện hiện nay. Bởi vì, với các phương tiện này, pháp luật có thể cho phép thay thế việc bắt buộc nhân chứng có mặt tại phiên toà trong những trường hợp đặc biệt như rủi ro hoặc đó là những nhân chứng đặc biệt.</p>
<p style="text-align: justify;">
Nghĩa "đặc biệt" ở đây chúng tôi muốn lưu ý đến hai góc độ:</p>
<p style="text-align: justify;">
Một là nhân chứng duy nhất trong vụ án, đang bị đe dọa đặc biệt và vì vậy phải được bảo vệ đặc biệt;</p>
<p style="text-align: justify;">
Hai là những nhân chứng có địa vị cao trong xã hội. Bởi vì, như đã nói, ở nước ta, theo quy định tại Điều 43 Bộ luật TTHS hiện hành, tất cả mọi người, ai cũng có thể trở thành nhân chứng trong vụ án hình sự, chỉ trừ hai trường hợp (đã nêu). Điều đó có nghĩa rằng, những người có địa vị cao trong xã hội, ví dụ như các Đại biểu Quốc hội, các vị lãnh đạo cấp Bộ, cấp tỉnh hay các vị chức sắc trong các tôn giáo… cũng có thể biết được tình tiết của vụ án, tức là cũng có thể trở thành nhân chứng trong một vụ án hình sự. Nếu thực tế diễn ra như vậy (và đã diễn ra), thì pháp luật cần phải xem họ là những nhân chứng đặc biệt và cần quy định cách "đối nhân xử thế" đặc biệt đối với họ. Đây rõ ràng là một khía cạnh của vấn đề nhân chứng mà Luật TTHS cần phải điều chỉnh bổ sung.</p>
<p style="text-align: justify;">
<em>Giải pháp thứ ba</em> trong vấn đề nhân chứng của vụ án hình sự mà chúng tôi muốn nói tới trong mối liên hệ với nhu cầu đấu tranh chống tội phạm ẩn là bảo đảm sự tôn trọng nhân chứng trong mọi trường hợp.</p>
<p style="text-align: justify;">
Tôn trọng nhân chứng trong mọi trường hợp phải là yêu cầu bắt buộc đối với các chủ thể tiến hành tố tụng. Kể cả trong trường hợp bị dẫn giải, nhân chứng vẫn phải được đối xử như một công dân có công trong việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án hình sự. Chính vì thế, trong Thông tư Liên ngành số 01/TTLN ngày 20.3.1993, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) và Bộ Tư pháp đã yêu cầu: "Cơ quan Công an có trách nhiệm dẫn giải người làm chứng đến đúng thời gian, địa điểm ghi trong quyết định dẫn giải và không được đối xử thô bạo với người làm chứng (như khóa tay hay có lời nói, việc làm khác xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự… của người làm chứng".).</p>
<p style="text-align: justify;">
Ứng xử được như vậy sẽ có tác dụng thu hút sự hợp tác của người dân nói chung và của nhân chứng nói riêng. Còn làm ngược lại thì vừa vi phạm pháp luật, vừa làm cho người dân ngại tiếp xúc với cơ quan pháp luật. Kết quả của một số lần điều tra xã hội học, yếu tố ngại tiếp xúc với cơ quan công quyền luôn luôn xuất hiện với một tỉ lệ đáng kể<a href="#_ftn30" name="_ftnref30" title="">[29]</a>. Một trong những lý do dẫn đến tình trạng đó phải nói đến thái độ ứng xử của phía chủ thể tiến hành tố tụng. Ngay cả những nhân chứng có ý thức công dân vượt trội, đã được dư luận và báo giới ca ngợi là "các nhân chứng giàu lòng nhân hậu và dũng cảm" trong vụ án "Cầu Chương Dương" như đã nhắc tới, cũng phải than phiền rằng: "tôi cảm thấy bị xúc phạm khi có lần cán bộ điều tra đập bàn, xưng hô mày - tao rồi hỏi: Ông Lát (bố của nạn nhân) đưa mày đi khách sạn mấy lần?" Nếu thế còn ai muốn làm nhân chứng nữa!<a href="#_ftn31" name="_ftnref31" title="">[30]</a></p>
<p style="text-align: justify;">
Tóm lại, để khắc phục tình trạng thiếu tôn trọng nhân chứng và đồng thời cũng là để tăng cường sự hợp tác của nhân chứng trong việc phát hiện và làm sáng tỏ vụ án hình sự, thì ngoài việc phải quy định thêm trong Bộ luật TTHS rằng "Người làm chứng phải được tôn trọng về nhân phẩm và danh dự trong mọi trường hợp", pháp luật cần trao thêm cho người làm chứng một quyền nữa là quyền viết phiếu nhận xét thái độ làm việc của chủ thể tiến hành tố tụng. Và phiếu nhận xét này được gửi cho thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng qua đường văn thư, có phiếu xác nhận việc gửi này.</p>
<p style="text-align: justify;">
Tóm lại, hoàn chỉnh những quy định của Bộ luật TTHS về <strong>người làm</strong> <strong>chứng</strong>, cũng như về <strong>người tố</strong> <strong>giác</strong>, <strong>ngưòi báo tin ban đầu về tội phạm</strong> theo các giải pháp như đã trình bầy là hướng cơ bản thu hút sự hợp tác tích cực của người dân vào việc giải quyết vụ án hình sự. Đồng thời, chính đó cũng là một hướng cơ bản để giải quyết vấn đề tội phạm ẩn khách quan.</p>
</div>
<p style="text-align: justify;">
</p>
<p style="text-align: justify;">
</p>
<p style="text-align: justify;">
</p>
<p style="text-align: justify;">
</p>
<p style="text-align: justify;">
</p>
<div>
<p style="text-align: justify;">
</p>
<hr align="left" size="1" width="33%" />
<div id="ftn1">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref1" name="_ftn1" title="">*</a> Thạc sỹ Luật học, Viện NC Nhà nước và Pháp luật</p>
</div>
<div id="ftn2">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref2" name="_ftn2" title="">[1]</a> Theo quy định tại Điều 43 BLTTHS nước CHXHCN Việt Nam , Nxb. Chính trị Quốc gia, H.1993, tr.31-32</p>
</div>
<div id="ftn3">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref3" name="_ftn3" title="">[2]</a> Các bị cáo Bùi Anh Việt, Lê Thị Kim Anh, Dương Ngọc Hiệp, Hồ Thanh Tùng (trong vụ án Năm Cam và đồng phạm được xét xử sơ thẩm trong thời gian từ tháng 2 đến tháng 6 năm 2003 tại TP. Hồ Chí Minh) đều là nhân chứng đối với tội làm sai lệch hồ sơ vụ án mà bị cáo Đặng Hải Tương, nguyên là Điều tra viên của Phòng CSĐT Công an TP. Hồ Chí Minh, bị truy tố - Xem báo Thanh niên ngày 8.5.2003, tr.3</p>
</div>
<div id="ftn4">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref4" name="_ftn4" title="">[3]</a> Theo Nguyễn Tiến Đạm, Lời khai của người làm chứng - Nguồn Chứng cứ quan trọng, TC Dân chủ và pháp luật số 7/1992, tr.23</p>
</div>
<div id="ftn5">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref5" name="_ftn5" title="">[4]</a> Xem Điều 167 BLTTHS của nước CHXHCN Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1993, tr.102</p>
</div>
<div id="ftn6">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref6" name="_ftn6" title="">[5]</a> Xem Điều 167 BLTTHS của nước CHXHCN Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1993, tr.102</p>
</div>
<div id="ftn7">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref7" name="_ftn7" title="">[6]</a> Đd, khoản 4 Điều 43 Bộ luật TTHS</p>
</div>
<div id="ftn8">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref8" name="_ftn8" title="">[7]</a> Tin của Hà Cầm Phong, TC Toà án nhân dân số 3/1997, tr. 19,</p>
</div>
<div id="ftn9">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref9" name="_ftn9" title="">[8]</a> Theo báo Pháp luật, cơ quan của Bộ Tư pháp, số 102, ngày 29/4/.2003, tr.1</p>
</div>
<div id="ftn10">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref10" name="_ftn10" title="">[9]</a> Theo báo Pháp luật, cơ quan của Bộ Tư pháp, số 97, ngày 23/4/2003, tr.11</p>
</div>
<div id="ftn11">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref11" name="_ftn11" title="">[10]</a> Theo báo Thanh niên số 58 ngày 27/3/2002, tr.3</p>
</div>
<div id="ftn12">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref12" name="_ftn12" title="">[11]</a> Quốc triều hình Luật (Luật hình triều Lê), Nxb. Pháp lý, H.1991, tr.43-44</p>
</div>
<div id="ftn13">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref13" name="_ftn13" title="">[12]</a> Quốc triều Hình luật, tr.154</p>
</div>
<div id="ftn14">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref14" name="_ftn14" title="">[13]</a> Xem báo Pháp luật, cơ quan của Bộ tư pháp số 14 ngày 16.1.2003, tr.3</p>
</div>
<div id="ftn15">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref15" name="_ftn15" title="">[14]</a> Xem Bộ luật Tố tụng Hình sự và các văn bản có liên quan, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2001, tr.215 và 219</p>
</div>
<div id="ftn16">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref16" name="_ftn16" title="">[15]</a> Xem Bộ luật Tố tụng Hình sự và các văn bản có liên quan, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2001, tr.215 và 219</p>
</div>
<div id="ftn17">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref17" name="_ftn17" title="">[16]</a> Xem báo Đại đoàn kết số 38 từ ngày 18 đến 24/9/1993, tr.6</p>
</div>
<div id="ftn18">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref18" name="_ftn18" title="">[17]</a> Bộ luật TTHS Đức, xuất bản lần thứ 32 năm 2001, Nxb "Sổ tay Đức", tr.9</p>
</div>
<div id="ftn19">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref19" name="_ftn19" title="">[18]</a> Thông tư liên ngành số 614/TTLN ngày 21.7.1995 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính và TANDTC hướng dẫn chế độ phụ cấp phiên toà</p>
</div>
<div id="ftn20">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref20" name="_ftn20" title="">[19]</a> Thông tư liên ngành số 614/TTLN ngày 21.7.1995 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính và TANDTC hướng dẫn chế độ phụ cấp phiên toà</p>
</div>
<div id="ftn21">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref21" name="_ftn21" title="">[20]</a> Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 20.3.1993 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS.</p>
</div>
<div id="ftn22">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref22" name="_ftn22" title="">[21]</a> Xem báo Thanh niên ngày 30.3.2003 và ngày 10.5.2003, tr.3</p>
</div>
<div id="ftn23">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref23" name="_ftn23" title="">[22]</a> Lê Linh, Để các vụ án hình sự không bị "chìm xuống", báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh ngày 19.12.2002, tr.13</p>
</div>
<div id="ftn24">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref24" name="_ftn24" title="">[23]</a> Nguyễn Xuân Yêm, Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb. CAND, H.2001, tr.320</p>
</div>
<div id="ftn25">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref25" name="_ftn25" title="">[24]</a> Lunhev W. W., Tình hình tội phạm ở Liên Xô - Những khuynh hướng cơ bản và tính quy luật, TC Nhà nước và Pháp luật số 8/1991, tr.90-97( tiếng Nga)</p>
</div>
<div id="ftn26">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref26" name="_ftn26" title="">[25]</a> Lunhev W. W. đd</p>
</div>
<div id="ftn27">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref27" name="_ftn27" title="">[26]</a> Xem TC. Cộng sản số 1+2 năm 2003, tr.51</p>
</div>
<div id="ftn28">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref28" name="_ftn28" title="">[27]</a> Xem báo Thanh niên số 1 ngày 1.1.2001, tr.5</p>
</div>
<div id="ftn29">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref29" name="_ftn29" title="">[28]</a> Xem Luật bảo vệ nhân chứng ngày 14.11.1997 (có hiệu lực từ 1.12.1998) của CHLB Đức; chương 6 quyển 1 Bộ luật TTHS của CHLB Đức; Báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh ngày 19.12.2002</p>
</div>
<div id="ftn30">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref30" name="_ftn30" title="">[29]</a> Xem Trần Hữu Tráng, Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam, TC Luật học số 3/2000, tr.53; Báo cáo nghiệm thu đề tài: Luận cứ khoa học đổi mới các chính sách xã hội nhằm đảm bảo an ninh xã hội và khắc phục các tệ nạn xã hội, Bộ Nội vụ, H.1994</p>
</div>
<div id="ftn31">
<p style="text-align: justify;">
<a href="#_ftnref31" name="_ftn31" title="">[30]</a> Báo Đại đoàn kết số 38 từ 18-24/9/1993, tr.6</p>
</div>
</div>
<p>
</p>
NoiDungTomTat:
NamXuatBan:
TLChuyenNganh:
TLKhaiThacToanVan:
No
Nam:
2,003
LAuthor:
Nguyễn Thị Thu Hương
TLSoLuong:
1
Approval Status:
Approved
Attachments:
018Vandenhanchung.doc
Created at 7/14/2015 5:15 AM by tlplsv/thuhuongnguyen
Last modified at 7/14/2015 5:15 AM by tlplsv/thuhuongnguyen
Go back to list
Home(Tài liệu)