Trong việc phản ánh tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, thì lĩnh vực tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp như điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án là một trong những nội dung được báo chí quan tâm đặc biệt và phản ánh khá thường xuyên. Việc phản ánh của báo chí về hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng đã đạt được những kết quả nhất định, được dư luận đồng tình. Nhiều vụ việc nhờ có báo chí mà bị phát hiện và được xử lý thoả đáng. Sự phối, kết hợp theo chức năng của mình giữa báo chí và các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế, hành chính ngày càng được thực hiện ở mức độ cao hơn, chặt chẽ hơn và hiệu quả hơn.
Sự phối, kết hợp đó xuất phát từ những đòi hỏi khách quan mà báo chí cách mạng cũng như hoạt động tư pháp đặt ra. Đó là:,giải quyết các vụ án một cách khách quan, công minh, đúng pháp luật; bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy vậy, theo chức năng của mình, mỗi cơ quan lại có những phương thức khác nhau để thực hiện mục đích đó. Các cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào các quy định của pháp luật về tố tụng mà trực tiếp đấu tranh chống tội phạm, phát hiện và xử lý tội phạm và người phạm tội; giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, hành chính, kinh tế... và bảo đảm cho các quyết định của toà án được thi hành nghiêm túc. Việc giải quyết các vụ án đó phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về tố tụng và phải trải qua nhiều giai đoạn tố tụng để bảo đảm sự đúng đắn và chính xác của các quyết định của toà án. Còn các cơ quan báo chí thì coi hoạt động tố tụng là một đối tượng phản ánh của mình và tiếp cận đến đối tượng phản ánh đó bằng phương thức riêng của báo chí. Ngoài việc tôn trọng sự thật khách quan của vụ việc để phản ánh một cách trung thực, chính xác thì báo chí còn phải phản ánh một cách kịp thời, nhạy bén và có dự báo. Sự khác nhau đó đã diễn ra trên thực tế nhưng lại chưa được luật pháp về báo chí điều chỉnh cụ thể. Phản ánh của báo chí trong nhiều trường hợp chưa ăn khớp, chưa phản ánh đúng với diễn biến và kết quả hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố xét xử và thi hành án. Độ “vênh” ấy có nhiều nguyên nhân, chủ yếu là sự điều chỉnh của pháp luật đối với mối quan hệ giữa báo chí và các cơ quan tiến hành tố tụng chưa được quy định một cách đầy đủ, chặt chẽ; chưa xác định được điểm dừng và giới hạn của báo chí khi phản ánh một lĩnh vực phức tạp như lĩnh vực hoạt động tố tụng; đồng thời cũng chưa làm rõ ranh giới quyền tự do báo chí trong việc phản ánh hoạt động tố tụng; quyền tự do báo chí với việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của thẩm phán và hội thẩm; quyền tự do báo chí với việc bảo vệ và giữ gìn bí mật tư pháp... Do vậy, một yêu cầu đặt ra là phải sớm nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của pháp luật về báo chí, cũng như các quy định điều chỉnh mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan báo chí và các cơ quan tiến hành tố tụng.
Với yêu cầu đó, phạm vi nghiên cứu đặt ra cho đề tài là trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến mối quan hệ phối hợp giữa báo chí với các cơ quan tiến hành tố tụng, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định đó trong những năm gần đây; để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện một số quy định của luật báo chí và một số quy định của luật tố tụng về lĩnh vực này.
I. VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG VIỆC PHẢN ÁNH ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Chức năng, nhiệm vụ chung của báo chí
Báo chí có chức năng chung là thông tin thời sự. Cho đến nay, chưa có một phương tiện nào có thể thay thế khả năng thông tin nhanh nhạy và kịp thời, đồng thời lại có tính chất đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình. Thông tin đại chúng cần được hiểu qua những nội dung như sau :
- Đối tượng tác động, tức là đối tượng tiếp nhận thông tin là xã hội rộng rãi, bao gồm nhiều tầng lớp, thành phần xã hội.
- Nhu cầu thông tin và quyền được thông tin của nhân dân được thực hiện qua các phương tiện này.
- Thông tin báo chí nhằm góp phần hình thành đời sống tinh thần lành mạnh, qua đó tác động tích cực vào giải quyết các nhiệm vụ mà quá trình phát triển của xã hội đề ra.
- Có sự tham gia của đông đảo nhân dân vào hoạt động của các cơ quan báo chí
Thông tin đại chúng thể hiện tính chất phổ biến rộng rãi về đối tượng và nội dung tác động của thông tin. Ngoài những đặc điểm này, thông tin cũng cần thiết phải mang tính chất cập nhật, thời sự.
Như vậy, thông tin thời sự là chức năng đầu tiên của báo chí, trong đó “thông tin” là chức năng; “thời sự” là đối tượng tiếp cận, điểm xuất phát và là nội dung cơ bản của thông tin báo chí. Chính sự gắn bó hữu cơ này đã phân biệt giữa báo chí với các loại hình văn học và các tác phẩm nghệ thuật, các bản báo cáo kinh nghiệm, các bài giảng trên giảng đường...
Thông tin là chức năng đầu tiên, cũng là chức năng phổ biến của báo chí. Nên thuộc hệ thống chính trị - xã hội nào, báo chí cũng đều chứa đựng khả năng thông tin thời sự và từ đó có tác dụng đối với xã hội. Vấn đề đặt ra là tác dụng tốt hay xấu, tích cực hay tiêu cực, các trạng thái tác dụng đó chịu sự chi phối bởi tính mục đích của thông tin. Tính mục đích này gắn liền với tính giai cấp, tính dân tộc.
Trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển, tính chất xã hội hóa ngày càng cao, đòi hỏi thông tin phải đáp ứng kịp thời, chính xác. Thông tin trong thời đại khoa học kỹ thuật vừa bao hàm cả sự nhận biết về sự thật vừa xảy ra, vừa bao hàm cả sự nhận biết về khả năng sắp diễn ra. Như vậy, thông tin thời sự không thể không đề cập tới những dự báo, những phán đoán cần thiết được rút ra từ những sự kiện đã xảy ra. Dựa vào thành quả của khoa học kỹ thuật, dựa vào những thỏa ước có tính khả thi, thông tin ngày nay cho phép xuất hiện những dự báo chắc chắn sẽ xảy ra. Và chính những thông tin dự báo xác đáng này đã tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức, con người áp dụng những dự liệu hoặc những biện pháp ứng phó, xử lý thích hợp.
Như vậy, thông tin trên báo chí có khả năng cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết về sự vật và hiện tượng đang vận động, phát triển hoặc tiêu vong và những khả năng tất yếu vận động theo quy luật. Sự hiểu biết qua thông tin trên báo chí không chỉ dừng lại ở những hiện tượng bề mặt của cuộc sống mà còn có thể nhận biết từ quá trình diễn biến của sự vật trong bối cảnh lịch sử, xã hội đến hành động theo những định hướng được xác lập qua thông tin. Bởi vậy thông tin trên báo chí sẽ dẫn tới sự nhận thức về tự nhiên và xã hội của mỗi thành viên trong xã hội. Nói cách khác chức năng thông tin của báo chí tất yếu sẽ dẫn tới chức năng nhận thức và giáo dục.
Thực tế cho thấy, chừng nào báo chí đi đúng quy luật của sự phát triển, bám sát thực tiễn, phản ánh trung thực, khách quan đúng với bản chất của sự vật thì báo chí phát huy được tác dụng và hiệu quả mong muốn. Ngược lại, nếu báo chí không nắm được quy luật phát triển của xã hội, thông tin trái với bản chất của sự việc sẽ gây tác hại lớn về nhận thức, về giáo dục và hậu quả gây ra cho xã hội sẽ không thể lường hết được.
V.L Lênin đã cho rằng vai trò của tờ báo không chỉ đóng khung ở chỗ phổ biến tư tưởng giáo dục chính trị mà còn là tranh thủ những bạn đồng minh chính trị. Tờ báo không chỉ là người tuyên truyền tập thể và cổ động tập thể, mà còn là người tổ chức tập thể.
Trong quá trình giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo Đảng cộng sản, tờ báo là phương tiện để xây dựng lực lượng cách mạng và đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp vô sản, giành lại chính quyền về tay nhân dân.
Trong công cuộc xây dựng CNXH, báo chí là phương tiện tích cực để xây dựng một xã hội mới - báo chí không chỉ là tiếng nói của Đảng mà còn là diễn đàn của nhân dân.
Để hoàn thành tốt chức năng cơ bản của mình, báo chí nước ta đã được giao nhiệm vụ cụ thể trong Nghị quyết của Bộ chính trị năm 1958, trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.
Căn cứ vào nhiệm vụ, phương hướng của Đảng đã chỉ đạo chung đối với báo chí, có thể tóm tắt thành những nhiệm vụ cơ bản sau đây của báo chí:
Một là, báo chí có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới mọi người dân, đồng thời phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân với Đảng, với Nhà nước.
Hai là, báo chí có nhiệm vụ đi sát thực tế, thông tin kịp thời và phân tích sâu sắc những sự kiện mới, làm cho mọi người hiểu được thực chất của nội dung sự kiện đó.
Ba là, báo chí có nhiệm vụ phát hiện và phản ánh trung thực những điển hình tiên tiến; phát hiện những nhân tố mới và khẳng định được những yếu tố tích cực còn đang tiếp diễn. Việc làm này còn có ý nghĩa hạn chế được cái lạc hậu, cái chậm tiến;
Bốn là, báo chí phải dũng cảm đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật, giảm sút ý chí chiến đấu, các hiện tượng tham nhũng, bè phái, lợi dụng chức quyền, vi phạm quyền dân chủ của dân... Đây là nhiệm vụ vừa lâu dài, khó khăn nhưng rất cần thiết và cấp bách, nhất là trong bối cảnh hiện nay.
Năm là, báo chí có nhiệm vụ xây dựng xã hội lành mạnh, phát huy và bảo vệ truyền thống quý báu của dân tộc, đóng góp công sức phòng ngừa và đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
2. Báo chí trong công cuộc đổi mới
Trong công cuộc đổi mới chung của đất nước báo chí nước ta đã có những khởi sắc và đóng góp tích cực. Nội dung thông tin trên báo chí, phát thanh, truyền hình ngày càng đa dạng, phong phú và cập nhật. Nhiều sự kiện chính trị, kinh tế, pháp lý trong và ngoài nước đã được đông đảo quần chúng quan tâm. Việc đổi mới thông tin, cải tiến việc đưa tin, khắc phục lối mòn thông tin một chiều, phản ánh chân thực cuộc sống, giảm đáng kể những tin xã giao, lễ tân..., giành nhiều số lượng trang, bài cho việc phản ánh công cuộc xây dựng xã hội mới và đấu tranh chống tiêu cực đã làm cho báo chí ngày càng gần gũi với cuộc sống hàng ngày của người lao động, sức chiến đấu của báo chí ngày càng được nâng cao, được nhân dân hoan nghênh và tin cậy.
Thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, báo chí cũng đã góp phần đắc lực vào cuộc đấu tranh từng bước xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế mới. Báo chí cũng đã kịp thời phát hiện và phê phán những khuynh hướng và hành động lệch lạc trong quá trình đổi mới, phát hiện những hiện tượng tiêu cực trong quản lý kinh tế, phê phán những cán bộ thoái hóa, biến chất... nhiều vụ việc tiêu cực do báo chí đưa ra ánh sáng và kiên trì đấu tranh bằng công luận đã được xử lý công minh theo pháp luật. Qua đó, nhiều vụ việc tiêu cực đã được ngăn chặn do tác dụng giáo dục, răn đe của công luận. Sự đổi mới mạnh mẽ về nội dung và cách thức thông tin trên báo chí đã góp phần tạo nên bầu không khí dân chủ trong đời sống xã hội. Báo chí nhìn chung đã làm tốt chức năng “là diễn đàn của nhân dân”, thông qua báo chí mà nhân dân có thể đóng góp trực tiếp vào việc hình thành đường lối, chính sách, xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Nhờ đó mà mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân được tăng cường, sức mạnh của công luận được nhân lên. Có những sự kiện pháp lý rất quan trọng như việc chuẩn bị ban hành Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Bân sự năm 1995, thông qua báo chí mà nhân dân đã đóng góp hàng triệu ý kiến quý báu, có tính chất như là những cuộc trưng cầu dân ý.
Tuy vậy, bên cạnh những thành tích và cố gắng kể trên, báo chí cũng bộc lộ một số thiếu sót, nhược điểm như:
- Trong đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, báo chí đã có những bài đấu tranh phê phán sắc sảo. Do thể hiện rõ bản lĩnh của mình trong cuộc đấu tranh này nên về cơ bản, báo chí đã trở thành niềm tin, là chỗ dựa của nhân dân trong việc xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Song điều đáng chú ý là còn thiếu sự lựa chọn và đi đúng hướng. Đáng lẽ báo chí cần đi sâu điều tra, phát hiện những sự việc, hành động sai trái có tính tiêu biểu, tập trung vào những trọng điểm gây thiệt hại cho kinh tế và xã hội, bị nhân dân ca thán, chê trách từ đó rút ra những bài học để giáo dục, ngăn ngừa, thì một số tờ báo lại gặp việc gì nêu việc ấy, thiếu sự phân tích và ít đề xuất được ý kiến giải quyết.
- Đối với hoạt động tư pháp, còn một vài tờ báo, nhà báo chưa thực sự đề cao trách nhiệm khi đưa tin, bài về các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, tạo những ý kiến trái ngược nhau không đáng có. Từ những tài liệu được thu thập theo quy trình làm báo, các nhà báo đã thông qua báo chí nêu ra những lý lẽ của cá nhân mình phản bác, phủ nhận sự thật về vụ án và đơn phương bác bỏ kết luận của các cơ quan tố tụng một cách suy đoán. Các bài báo này đã gây sự hiểu lầm trong công luận về sự thật của vụ án và sự nghiêm minh của pháp luật.
Có những vụ án, báo chí đã tập trung định hướng dư luận phán xét trước khi toà án xét xử, gây nên sức ép tâm lý đối với Hội đồng xét xử, dẫn đến tình trạng toà án đã có sự lựa chiều để xử theo công luận.
Báo cáo của Ban chấp hành Hội nhà báo Việt Nam khoá V, trước Đại hội lần thứ VI Hội nhà báo Việt Nam tháng 3/1995 đã nhận định: “Trong những đấu tranh chống tiêu cực, có những vụ việc báo chí đưa ra còn thiếu chính xác hoặc chưa đúng với bản chất sự việc; có bài viết xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác. Báo chí cũng còn “cửa quyền”, chưa thực hiện đúng những quy định trong luật báo chí như đăng sai không đính chính, viết bài phê bình nhưng không cho đối tượng bị phê bình nói lại. Có vụ việc cấp thẩm quyền cao nhất đã kết luận, nhưng cơ quan báo chí vẫn tiếp tục đưa ý kiến phản bác, làm nhiễu dư luận xã hội...”, “...cơ chế cũng có tác động tiêu cực đến đạo đức nghề nghiệp và tư cách cá nhân một số nhà báo. Có người vì đồng tiền hoặc vì lợi ích nhỏ nhen đã đánh mất phẩm chất của mình, đi đến uốn cong ngòi bút, bóp méo sự thật, thậm chí làm nhiễu thông tin”. Đó cũng chính là những vấn đề cần phải khắc phục trong tình hình hiện nay, cũng như lâu dài để bảo đảm sự trung thực, khách quan của báo chí đối với hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH NGUYÊN TẮC TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA BÁO CHÍ VỚI CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
1. Một số nét về pháp luật điều chỉnh hoạt động báo chí
1.1 Pháp luật về báo chí ở một số nước
Pháp luật là những quy tắc, xử sự do Nhà nước đặt ra và được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế. Việc hình thành Luật Báo chí cũng như các điều khoản trong các đạo luật khác có quan hệ đến hoạt động của báo chí là do nhu cầu quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí nhằm phát huy các khả năng tích cực và hạn chế các khả năng tiêu cực của báo chí đối với xã hội.
Quan hệ giữa pháp luật và báo chí xuất hiện từ khi có báo chí hiện đại. Trước thế kỷ XVIII, Luật Báo chí chủ yếu vẫn dừng lại ở một số quy định có tính nguyên tắc trong các chiếu chỉ của nhà Vua. Ở nước Anh, năm 1625 Vua Saclơ I đã lập ra một phòng kiểm duyệt báo chí, lấy tên là Phòng Tinh Tú (Star chamber). Tất cả báo chí ở Vương quốc Anh đều phải tuân theo những quy định do Phòng này đưa ra. Ngoài nhiệm vụ theo dõi, ngăn chặn, cơ quan này được coi như một tòa án đặc biệt xét xử các vụ vi phạm về báo chí, không cho phép chống án và cũng không có Đoàn bồi thẩm khi xử án. Phòng Tinh Tú ở Anh là hình thức quản lý đầu tiên của Nhà nước đối với báo chí. Cho dù lúc này Nhà nước Anh đã có Luật đối với các lĩnh vực hoạt động khác, song đối với báo chí vẫn áp dụng hình thức quản lý theo Sắc lệnh. Đến thế kỳ XIX, các vụ án về báo chí ở Anh vẫn được xét xử dựa theo các đạo luật và văn kiện như: Hiến chương (1215), Luật Habeas Corpus act (1679), Luật Phỉ báng (1972) hoặc các đạo luật khác.
Ở Pháp từ năm 1728, đã có đạo dụ của nhà Vua bắt đánh và bỏ tù những người viết, in những bài báo phá hoại. Năm 1800, dưới thời NapoLeon đệ nhất có Sắc luật về báo chí. Luật Báo chí hoàn chỉnh của Pháp ra đời năm 1881. Luật Báo chí năm 1881 của Pháp đã được áp dụng có hạn chế ở 3 kỳ nước ta trước năm 1945.
Cùng với sự vận động của lịch sử xã hội, báo chí ngày càng phong phú, đa dạng, tác động và có ảnh hưởng ngày càng lớn vào sự phát triển của xã hội. Ngày nay, không một quốc gia nào không có báo chí và không một lực lượng chính trị lãnh đạo xã hội nào không hiểu vai trò to lớn của báo chí trong đời sống chính trị - xã hội. Với nhận thức ấy, các quốc gia dần dần hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về báo chí và luôn luôn sửa chữa, hoàn thiện, làm cho hệ thống pháp luật đó phù hợp với tình hình thực tế cũng như với mục tiêu chính trị của mình. Ở nhiều nước trên thế giới, Luật Báo chí được tách ra thành Luật cho báo in, Luật cho phát thanh và Luật cho truyền hình (Italia, Pháp...).
Ngoài các đạo luật chuyên về báo chí, ở các nước, thông thường báo chí còn bị quản lý và chịu trách nhiệm về an ninh quốc gia, về tự do của công dân, về trách nhiệm đối với văn hóa, tiến bộ xã hội... và được quy định thành các điều khoản trong các đạo luật về từng lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể.
Do vai trò, tác động của báo chí đã vượt ra ngoài khuôn khổ từng quốc gia, ảnh hưởng không ít đến các quan hệ quốc tế nên ngay sau khi thành lập, Liên hiệp quốc đã có những cố gắng nhằm hình thành những văn bản có tính chất luật pháp quốc tế về báo chí. Tuy nhiên, cho đến nay, tất cả các cố gắng này đều chưa đạt kết quả. Các tổ chức báo chí quốc tế OIJ, FIJ, Liên đoàn các nhà xuất bản mới chỉ thỏa thuận được một điện thoại nhân đạo đặt tại Thụy Sỹ với mục đích cứu trợ những nhà báo bị nguy hiểm. Việc không thể thông qua được các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến báo chí, chủ yếu do sự không thống nhất về lợi ích giữa các nước phát triển và các nước chậm phát triển. Trên thực tế, sự bất bình đẳng về trật tự thông tin quốc tế đang có lợi cho các nước giàu, làm cho các nước này có khả năng dùng báo chí tác động vào môi trường quốc tế theo hướng có lợi. Các nước giàu không muốn từ bỏ đặc lợi này, trong khi đó các nước chậm phát triển đấu tranh chống lại sự đặc quyền thông tin hiện đang nằm trong tay của một số ít các nước giàu có.
Một vấn đề khác rất quan trọng của báo chí được luật pháp của hầu hết các nước quan tâm đó là quyền tự do báo chí. Tự do báo chí là một khẩu hiệu được đưa ra từ giữa thế kỷ XVII, trong cuộc đấu tranh của các lực lượng tiến bộ, dân chủ chống lại ách áp bức phong kiến, quý tộc. Ngày nay, tự do báo chí được tuyên bố, ghi nhận trong đạo luật cơ bản (Hiến pháp) và Luật Báo chí của hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới. Tự do báo chí trở thành một tiêu chuẩn quốc tế, một quyền cơ bản của con người, một trong những tiêu chí đánh giá nền dân chủ ở mỗi quốc gia. Điều 19 Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hiệp quốc ghi: “mọi người đều có quyền tự do tin tưởng và tự do ngôn luận. Quyền đó bao gồm quyền không phải lo sợ về những ý kiến của mình và quyền tìm kiếm, tiếp nhận, phổ biến những thông tin và những ý tưởng bằng bất kỳ một phương tiện thông tin nào, không xem xét đến các đường biên giới”.
Nói đến tự do báo chí, trong các văn bản Quốc tế cũng như luật pháp của các quốc gia đều thống nhất những nội dung sau: (i) Quyền tự do phát và nhận thông tin báo chí (quyền được cung cấp thông tin cho nhà báo; quyền phát biểu quan điểm, nguyện vọng của cá nhân trên các phương tiện thông tin; quyền được đọc các loại báo, tạp chí, nghe các đài, xem mọi chương trình truyền hình không phân biệt nguồn gốc; (ii) Quyền tự do nghề nghiệp của nhà báo, bao gồm quyền đi lại, giao tiếp với nguồn tin, hoạt động nghiệp vụ, công bố các tác phẩm báo chí, truyền phát các tác phẩm theo hệ thống thông tin liên lạc...
Tuy vậy, về nguyên tắc, quyền tự do báo chí bao giờ cũng có giới hạn. Giới hạn quyền tự do báo chí được hình thành trên cơ sở những giá trị đạo đức, trật tự, phúc lợi công cộng cũng như tính chất xã hội, lợi ích kinh tế và mục đích chính trị của từng quốc gia. Mục 29, Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 của Liên hiệp quốc ghi nhận: “Trong khi thực hiện các quyền tự do của mình, mọi người phải tuân thủ những hạn chế đã được pháp luật quy định với mục đích công nhận và tôn trọng các quyền tự do của người khác và để đáp ứng các nhu cầu về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung”.
Tuyên ngôn nhân quyền Pháp 1789, sau khi khẳng định tự do báo chí là một trong những quyền quý giá nhất của con người, cũng đã nói rõ: “khi lạm dụng quyền tự do đó sẽ phải chịu trách nhiệm theo luật pháp”.
Hiến pháp của nước Cộng hòa Ấn Độ quy định: “Nhà nước có quyền đưa ra Luật nhằm hạn chế tự do báo chí vì chủ quyền và sự thống nhất đất nước, an ninh của Nhà nước, quan hệ với nước ngoài” (Điều 29).
Khi nói đến tự do báo chí ở Mỹ, người ta thường nhắc đến Điều luật được bổ sung sau đây của Hiến pháp Mỹ: “không một ai, kể cả Tổng thống và Quốc hội có quyền đưa ra một đạo luật nhằm hạn chế quyền tự do báo chí”. Song thực tế hoạt động báo chí ở Mỹ bị ràng buộc chặt chẽ bởi Luật các đạo luật và Sắc lệnh về đủ mọi lĩnh vực an ninh, quốc phòng.
Năm 1917, Quốc hội Mỹ thông qua Luật về Tội do thám và một năm sau lại cho ra đời tiếp Luật về Tội bạo động. Theo các luật này, sẽ bị coi là tội phạm nếu ai đó viết “các phóng sự và tuyên bố không đúng nhằm cản trở hoạt động và thành công của các lực lượng vũ trang hay hỗ trợ cho đối phương”. Năm 1953, Bộ luật Hình sự của Mỹ được bổ sung một điều, cho phép truy tố việc đăng tải các tài liệu mà Chính phủ cho là bí mật. Tiếp đó, Tổng thống Mỹ ra Sắc lệnh coi mọi tài liệu in ra có hại cho nền quốc phòng đều coi là bí mật.
Pháp luật của các nước trên thế giới đều quy định rất chặt chẽ trách nhiệm của các công chức trong bộ máy nhà nước về việc phát ngôn hay đưa ra cho giới báo chí những nguồn tin. Với những tin tức quan trọng, liên quan đến an ninh, quân sự hay quan hệ quốc tế đều do những người có thẩm quyền đưa ra. Với lý do an ninh, ổn định xã hội, các nước đều đưa vào luật những quy định nhằm bảo vệ chế độ chính trị đương thời. Thông thường, những thông tin chống lại chế độ chính trị bao giờ cũng bị coi là phản động, chống lại đất nước nói chung và do đó bị khép tội nặng.
Ví dụ, ở Mỹ năm 1918, Quốc hội thông qua đạo luật cấm phổ biến bất kỳ loại ấn phẩm nào phê phán hình thức tổ chức và quản lý của nước Mỹ.
Ở các nước công nghiệp phát triển, quyền giữ bí mật nguồn tin của nhà báo được ghi vào luật pháp. Nhà báo được phép giữ bí mật nguồn cung cấp tài liệu cho mình viết tác phẩm. Song thực chất, quyền đó sẽ không còn giá trị khi bản thân thông tin đó bị quy vào một tội nào đó. Việc quy tội, nhiều khi lại phụ thuộc phần nhiều vào toà án. Trong vô vàn thứ luật lưu hành, người ta rất dễ ghép nhà báo vào một tội danh nào đó, đơn giản nhất là gây rối trong xã hội. Hơn nữa, trong một số trường hợp cụ thể, nhất là liên quan đến toà án, quyền bí mật nguồn tin không có hiệu lực.
Toà án cũng như chính khách ở các nước trên thế giới đều được các đạo luật bảo vệ trước các ngón đòn báo chí. Luật pháp bảo vệ thanh danh từng thành viên trong xã hội, đồng thời tạo ra một hàng rào an toàn cho các chính khách, các cơ quan tư pháp hành pháp và lập pháp. Những thông tin xúc phạm đến các cơ quan và cán bộ trong bộ máy nhà nước mà không có chứng lý đầy đủ đều bị khép vào tội vi phạm an ninh nhà nước.
Những gì liên quan trực tiếp đến toà án được các đạo luật quy định rất rõ ràng. Báo chí bắt buộc phải tôn trọng toà án, bị hạn chế trong việc công bố các tài liệu của toà án. Hầu hết các nước đều cấm báo chí bình luận công việc của toà án khi vụ án chưa kết thúc, cũng như việc chống án chưa có ý kiến kết luận của toà cấp trên. Những tài liệu này được coi là bí mật và có ảnh hưởng đến việc xử án. Nếu cơ quan báo chí nào công bố thì bị trừng phạt như tội làm lộ bí mật nhà nước. Trong trường hợp này các quyền bí mật nguồn tin không có hiệu lực. Ở một số nước trên thế giới pháp luật cấm không được truyền thanh hay truyền hình trực tiếp từ phòng xử án.
Nói chung các trường hợp phóng viên báo chí bị khép vào tội không tôn trọng toà án sẽ bị trừng phạt nặng, bị truy tố, phạt tù chứ không đơn giản là bị phạt tiền.
1.2. Pháp luật Việt Nam về báo chí từ 1945 đến nay
Ở Việt Nam, ngay sau khi giành được chính quyền, trong Tuyên cáo thành lập Chính phủ lâm thời do Hồ Chủ Tịch tuyên bố ngày 28/8/1945, Nội các lâm thời gồm 12 Bộ, trong đó có Bộ Thông tin - Tuyên truyền do ông Trần Huy Liệu làm Bộ trưởng để quản lý công tác báo chí, xuất bản của Nhà nước. Tiếp đó Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1946, đây là cơ sở đầu tiên cho việc xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật về báo chí của nhà nước ta cho tới ngày nay. Tuy vậy, do bối cảnh lịch sử, khi chúng ta phải tiến hành ngay cuộc kháng chiến chống thực dân pháp, nên chưa có điều kiên để xây dựng một hệ thống pháp luật về báo chí hoàn chỉnh như các chế định ghi trong Hiến pháp. Song, trên thực tế các quyền cơ bản về chính trị, nhất là quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng... đã được thực thi trong cuộc sống. Lịch sử đã ghi nhận nhiều tờ báo, bài báo, tác phẩm văn học ra đời trong giai đoạn này đã thực sự trở thành vũ khí sắc bén, động viên nhân dân đứng lên đánh đuổi quân thù, góp phần xuất sắc vào chiến thắng của dân tộc.
Khi hoà bình được lập lại trên miền Bắc, để khẳng định vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan báo chí, ngày 14/12/1956 Nhà nước đã ban hành Sắc lệnh số 282/SL quy định về chế độ báo chí. Sắc lệnh gồm 3 chương và 19 điều. Chương II của Sắc lệnh quy định về quyền lợi và hoạt động của báo chí gồm 9 điều (từ Điều 4 đến Điều 12 ). Theo đó, “Quyền tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí được đảm bảo”.
Tất cả các báo chí đều được hưởng quyền tự do ngôn luận. Không phải kiểm duyệt trước khi in. Trong trường hợp khẩn cấp, xét cần phải tạm thời đặt kiểm duyệt, Hội đồng chính phủ sẽ quyết định”.
Để báo chí hoạt động đúng tôn chỉ mục đích, phục vụ đúng đối tượng, Điều 9 Sắc lệnh cũng quy định một số ràng buộc đối với báo chí. Báo chí phải tuân theo quy định: (i) Không được tuyên truyền chống pháp luật của nhà nước. Không được cổ động nhân dân không thi hành hoặc chống lại những luật lệ và những đường lối chính sách của Nhà nước. Không được viết bài có tính chống lại chế độ dân chủ, chia rẽ nhân dân, chống lại chính quyền nhân dân, chia rẽ nhân dân và chính quyền, nhân dân và bộ đội. Không được gây ra những dư luận hoặc những hành động có hại cho an ninh trật tự xã hội.... (ii) Không được tiết lộ bí mật quốc gia như: những bí mật quốc phòng, những hội nghị cơ mật chưa có công bố chính thức của cơ quan có trách nhiệm, những vụ án đang điều tra chưa xét xử, những bản án mà toà án không cho phép công bố, những tài liệu, số liệu và những cơ sở kiến thức về kinh tế tài chính mà các cơ quan có thẩm quyền chưa công bố; (iii) Không được tuyền truyền dâm ô, truỵ lạc, đồi bại.
Về trách nhiệm của báo chí, Điều 10 quy định: “báo nào đăng bài vu khống, xúc phạm đến danh dự của một tổ chức hay một cá nhân, thì đương sự có quyền yêu cầu báo ấy cải chính hoặc đăng bài cải chính của đương sự; ngoài ra đương sự có quyền yêu cầu tòa án xét xử”.
Báo chí nào cố tình vi phạm Điều 9 và Điều 10 sẽ bị phạt cảnh cáo, tịch thu ấn phẩm, đình bản tạm thời, đình bản vĩnh viễn hoặc bị phạt tiền (từ năm vạn đồng đến một triệu đồng), bị truy tố trước tòa án. Người chịu trách nhiệm của cơ quan báo chí có thể bị phạt tù từ một tháng đến hai năm, hoặc cả hai hình phạt đó. Nếu đương sự phạm vào những luật lệ khác, tòa án sẽ chiếu theo những luật lệ ấy mà trừng phạt thêm.
Ngày 9/7/1957, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 297/TTg quy định chế độ và quyền lợi của những người làm công tác báo chí chuyên nghiệp. Theo đó khi sử dụng quyền tự do ngôn luận của mình, người làm công tác báo chí có quyền: (i) Viết tin, đưa tin mà không phải chịu sự kiểm duyệt trước của bất cứ một cơ quan chính quyền nào; (ii) Phản ánh ý kiến, nguyện vọng của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân góp ý kiến vào việc xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Chính phủ; (iii) Đưa ra dư luận những âm mưu, những hành động có phương hại đến lợi ích của nhân dân.
Đối với các phiên tòa xử công khai của tòa án, nhà báo được dành một chỗ ngồi riêng, được liên lạc trực tiếp với các thẩm phán để lấy tài liệu viết báo (Điều 6).
Cùng ngày 9/7/1957, Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 298/TTg quy định chi tiết thi hành Luật số 100/SL/ L002 ngày 20/05/1957 về chế độ báo chí.
Theo quy định tại Điều 23 của Nghị định này, nếu tòa soạn không đăng bài cải chính, đăng chậm, đăng không đúng thể thức quy định thì đương sự có quyền khiếu nại tòa án nơi xuất bản của tờ báo. Tòa án xét xử theo thủ tục xét xử nhanh (thủ tục cấp thẩm) trong hạn ba ngày. Nếu tòa án xét cần phải cải chính ngay, thì tòa soạn phải đăng bài cải chính trong số báo gần nhất, mặc dù có đơn chống án. Nếu có đơn chống án, thì tòa phúc thẩm phải xét xử xong trong hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn.
Sau khi Hiến pháp 1959 ra đời, một loạt các văn bản pháp luật về báo chí được ban hành như Nghị định số 207/CP ngày 01/12/1961 của Hội đồng Chính phủ quy định về phóng viên báo chí, nhiếp ảnh, điện ảnh nước ngoài hoạt động trên nước ta; Nghị định số 61/CP ngày 14/6/1962 quy định những vấn đề thuộc phạm vi bí mật của Nhà nước. Các văn bản này chủ yếu đưa ra những nguyên tắc chung cho tất cả các cơ quan, viên chức nhà nước có trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn bí mật của Nhà nước, trong đó có các cơ quan báo chí và nhà báo phải tuân thủ, thực hiện.
Pháp luật cũng quy định rõ các cơ quan báo chí phải có trụ sở và in ở một nhà in nhất định. Nếu tờ báo nào thay đổi trụ sở, nhà in, nhân viên ban biên tập, mở rộng phạm vi phát hành mà không thông báo cho cơ quan có trách nhiệm quản lý báo chí biết thì coi như phạm pháp.
Bước sang thời kỳ đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, nhiều biến đổi trong đời sống kinh tế, đời sống xã hội đã diễn ra. Để thích ứng và phù hợp với yêu cầu của xã hội, ngày 02/01/1990 Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã ký Lệnh số 29LCT/HĐNN8 công bố Luật Báo chí đã được Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/12/1989. Luật gồm 7 chương và 31 điều. Tiếp đó, ngày 20/4/1992 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số 133/HĐBT quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí.
Về nội dung, các quy định trong Luật Báo chí năm 1990 đã thể hiện được tinh thần đổi mới của Đảng. Điều 1 của Luật Báo chí đã ghi rõ: “Báo chí là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân”. “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình” (Điều 2). Luật Báo chí lần này vẫn không thừa nhận tư nhân có quyền ra báo chí, điều này hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam, trong khi Đảng chủ trương đổi mới, mở rộng dân chủ nhưng không cho phép bất kỳ cá nhân, tổ chức nào lợi dụng dân chủ để chống lại nhân dân, chống lại thành quả cách mạng mà nhân dân phải hy sinh bao xương máu mới dành được. Xuất phát từ quan điểm này, Điều 2 của Luật quy định rõ: “báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân”.
Để thực thi nhiệm vụ của mình, báo chí có quyền “phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội, đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác”(Điều 6). Đối với vụ án đang được điều tra hoặc chưa xét xử thì các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền không cung cấp thông tin cho báo chí, nhưng báo chí có quyền thông tin theo các nguồn tài liệu của mình và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin (Điều 7). Khi phát hiện hoặc nhận được khiếu nại, tố cáo của công dân về những việc có dấu hiệu phạm tội thì phải báo ngay cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát bằng văn bản, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm thụ lý và trả lời cho báo chí cách giải quyết (Điều 8). Báo chí “không được đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống nhằm xúc phạm danh dự của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của công dân” (Điều 10).
Điều cốt lõi của các điều luật này khẳng định chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của báo chí trong đấu tranh chống tiêu cực là phát hiện chính xác vụ việc tiêu cực, góp phần tìm ra nguyên nhân, nêu bài học kinh nghiệm; còn phía các cơ quan tố tụng có trách nhiệm tiếp nhận và xử lý vụ việc một cách nghiêm minh, kịp thời theo chức năng của mỗi cơ quan theo luật định.
Nếu cơ quan báo chí vi phạm pháp luật báo chí thì “người đứng đầu cơ quan báo chí tùy theo mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự” (Điều 28).
Tiếp theo Luật Báo chí và Nghị định số 133/HĐBT, ngày 5/11/1990, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị quyết số 384/HĐBT về tăng cường quản lý công tác báo chí, xuất bản; ngày 20/11/1990 Bộ Văn hoá - Thông tin, Thể thao và Du lịch ra Thông tư số 1312b/TT-VP hướng dẫn thi hành Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng. Ngoài các văn bản pháp luật trực tiếp về báo chí, thời kỳ này Đảng và Nhà nước còn ban hành một số văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động báo chí như Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước (1992); Chỉ thị số 08 ngày 31/3/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác báo chí, xuất bản.
Tóm lại, pháp luật về báo chí trong giai đoạn này đã được xây dựng hoàn chỉnh hơn. Lần đầu tiên từ ngày giành độc lập, Nhà nước đã ban hành một văn bản pháp luật hoàn chỉnh dưới dạng Luật Báo chí. Quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan báo chí và nhà báo được mở rộng hơn. Báo chí được quyền in ở bất kỳ nhà in nào, được mở rộng phạm vi phát hành mà không cần xin phép. Đồng thời, Luật không cấm việc đăng tải các vụ án như các văn bản pháp luật thời kỳ trước.
2. Quan hệ giữa báo chí với các cơ quan tiến hành tố tụng
Với chức năng xã hội của báo chí đã phân tích ở phần trên, có thể thấy mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, đoàn thể xã hội đều là đối tượng phản ánh của báo chí. Trong số các cơ quan nhà nước, thì các cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính là đối tượng phản ánh có tính chất khá ưu tiên của báo chí. Nguyễn nhân là do hoạt động tố tụng có mục tiêu bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội và lợi ích chính đáng của công dân. Mỗi một hành vi tố tụng đều gắn liền với những lợi ích về tinh thần, về vật chất của mỗi tổ chức, cơ quan hay cá nhân công dân. Xuất phát từ đặc thù của hoạt động tố tụng, báo chí phản ánh hoạt động tố tụng cũng có phương thức đặc thù, không giống như phản ánh các hiện tượng khác của xã hội.
a) Báo chí phản ánh hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng thông qua những sự kiện và vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn thi hành pháp luật. Phương thức này có đặc thù là gắn với thông tin thời sự, gắn với người thật, việc thật.
b) Từ những sự kiện biểu dương hoặc phê phán các biểu hiện và thái độ đối với pháp luật, báo chí có khả năng tạo cho công luận có những thông tin mới, ngoài tác dụng về nhận thức, có thể có cả tác dụng về tổ chức. Bằng việc thông tin toàn diện kết hợp với tuyên truyền điển hình, giới thiệu nhân tố mới trong việc chấp hành pháp luật, báo chí có thể định hướng cho bạn đọc suy nghĩ đúng về hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng.
c) Bên cạnh đó, báo chí kết hợp giữa các dòng thông tin. Sự kết hợp thông tin đa chiều này về thực chất là thực hiện quyền thông tin và quyền được thông tin của công dân về những vấn đề liên quan đến việc thực thi pháp luật của công dân cũng như của các cơ quan tiến hành tố tụng.
d) Ngoài ra, việc phản ánh các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng có sự kết hợp tính tập trung với tính liên tục. Việc tập trung thể hiện ở chủ đề, đề tài và hình thức thể hiện. Tính liên tục thể hiện ở chỗ báo chí phản ánh hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng nối tiếp nhiều số báo, nhiều chương trình phát thanh, truyền hình. Việc tập trung kết hợp với liên tục sẽ làm nổi bật vấn đề định nêu làm cho người đọc dễ thấy, từng bước thâm nhập vào họ để tạo cho họ những suy nghĩ đúng đắn.
2.1. Báo chí phản ánh việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng
Trong việc thực hiện cải cách bộ máy nhà nước trong đó có cải cách tư pháp mà Nghị quyết của Đảng đã đề ra thì tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng đã từng bước được kiện toàn theo hướng nâng cao hiệu lực và hiệu quả để góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới. Báo chí đã luôn luôn bám sát và phản ánh kịp thời những vấn đề về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, đánh giá những kết quả hoạt động của các cơ quan này trong nhiều năm. Trên cơ sở đó đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm tiếp tục đẩy mạnh việc kiện toàn, đổi mới tổ chức của các cơ quan nói trên. Về lĩnh vực này, báo chí đã thu được những kết quả rất đáng ghi nhận: phổ biến và giới thiệu rộng rãi các văn bản pháp luật như Bộ luật Tố tụng hình sự, các pháp lệnh về giải quyết các vụ án dân sự, lao động, kinh tế và các vụ án hành chính hay Pháp lệnh Tổ chức luật sư, Nghị định giám định tư pháp..., Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, Pháp lệnh Thi hành án dân sự cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành. Thông qua việc giới thiệu, phổ biến những quy định của pháp luật về tố tụng, cán bộ và nhân dân có điều kiện tìm hiểu thêm về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và những quy định về quyền và nghĩa vụ tố tụng của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Báo chí cũng đã phản ánh kịp thời những thay đổi về tổ chức của các cơ quan tiến hành tố tụng. Nhiều tin, bài trong những năm qua đã thường xuyên và liên tục giới thiệu quá trình bàn giao và tăng cường công tác thi hành án dân sự (1993) theo Chỉ thị số 266/TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có việc bàn giao toàn diện về công tác thi hành án dân sự từ toà án sang cơ quan của Chính phủ, kiện toàn tổ chức và bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ chấp hành viên; những kết quả bước đầu quan trọng của công tác thi hành án dân sự sau khi bàn giao. Báo chí cũng đưa tin bài về tập huấn nghiệp vụ cho điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm, thư ký toà án,....
Một hình thức khác trong mối quan hệ này là việc báo chí biểu dương gương người tốt, việc tốt hoặc các nhân tố mới. Chẳng hạn như khi biết một cán bộ nào đó của cơ quan điều tra, liêm khiết, không nhận hối lộ, hoặc không chịu sức ép của một người nào đó muốn làm sai lệch hồ sơ vụ án thì báo chí sẽ đưa tin biểu dương kịp thời.
Bên cạnh đó, báo chí cũng rất coi trọng việc phê phán hoặc nêu ra những vấn đề bất cập trong những hoạt động xây dựng lực lượng và nghiệp vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, kể cả những tiêu cực của cả cán bộ, nhân viên các cơ quan này.
2.2. Báo chí đưa tin, bài phản ánh về những hiện tượng tiêu cực, những vi phạm pháp luật và tội phạm
Ở dạng này, mối quan hệ giữa báo chí và các cơ quan tiến hành tố tụng có thể phân ra ở nhiều góc độ:
Thứ nhất, báo chí tự phát hiện. Theo Điều 83, điểm 3 Bộ luật Tố tụng hình sự thì tin tức đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng là một trong những căn cứ để các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố vụ án hình sự. Những loại bài, tin phản ánh này do các cơ quan báo chí tự phát hiện, điều tra, thu thập chứng cứ, tài liệu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về độ chính xác của những thông tin đưa ra. Mặt khác, Điều 8 và Điều 9 Luật Báo chí cũng quy định: cơ quan báo chí phát hiện hoặc nhận được khiếu nại, tố cáo của công dân về những việc có dấu hiệu phạm tội thì phải báo ngay cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát bằng văn bản; cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm thụ lý và trả lời cho cơ quan báo chí cách giải quyết (Điều 8).
Từ những bài, tin đăng trên báo chí và những thông tin bằng văn bản do báo chí phát hiện về tội phạm chuyển đến, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể khởi tố vụ án hình sự.
Trong trường hợp không khởi tố vụ án hình sự, theo quy định của pháp luật, các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc những người có trách nhiệm phải trả lời cho các cơ quan báo chí về những vấn đề mà báo đã nêu ra. Tuy nhiên, trong thực tế, mối quan hệ này ít được các cơ quan tiến hành tố tụng chú ý, mà phần lớn là không có ý kiến trả lời. Có thể nói đây là thiếu sót của các cơ quan tiến hành tố tụng mà pháp luật chưa có những quy định cụ thể ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan này.
Trong trường hợp khởi tố vụ án hình sự, mối quan hệ giữa báo chí và các cơ quan tiến hành tố tụng diễn theo một trong hai hướng:
Hướng thứ nhất, kết luận của các cơ quan tiến hành tố tụng phù hợp hoặc cơ bản phù hợp với những thông tin của báo chí nêu ra.
Hướng thứ hai, kết luận của các cơ quan tiến hành tố tụng không như các thông tin trên báo chí. Xu hướng này lại có thể diễn ra hoặc là cơ quan báo chí thừa nhận kết luận hoặc là không thừa nhận kết luận của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trường hợp không thừa nhận, báo chí lại tiếp tục nêu vấn đề trên báo và thậm chí chỉ trích cơ quan ra kết luận, có khi gay gắt.
Thứ hai, báo chí viết, đưa tin về những vụ việc vi phạm pháp luật do các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, xử lý và cung cấp thông tin. Theo Luật Báo chí, những vụ án đang được điều tra, hoặc chưa xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền cung cấp thông tin hoặc không cung cấp thông tin cho báo chí. Trong trường hợp không được cung cấp thông tin thì báo chí tự tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ. Trường hợp được cung cấp thì mối quan hệ giữa báo chí và cơ quan tiến hành tố tụng sẽ xảy ra hai khả năng:
Khả năng thứ nhất, quan điểm của báo chí phù hợp với quan điểm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Ở đây sẽ không có mâu thuẫn và do có quan điểm ủng hộ của báo chí thì sẽ nhận được sự đồng tình của dư luận xã hội. Trường hợp này tạo được sức mạnh xã hội trấn áp tội phạm và có tác dụng tích cực trong việc giáo dục, phòng ngừa tội phạm. Thời gian qua, số vụ loại này luôn chiếm đa số.
Khả năng thứ hai, quan điểm của một số báo chí phù hợp với quan điểm của các cơ quan tiến hành tố tụng, còn một số báo chí khác lại không đồng tình. Trong trường hợp này không chỉ xảy ra sự tranh luận giữa báo chí với các cơ quan tiến hành tố tụng, mà đôi khi còn có sự cọ sát quan điểm ngay trong các cơ quan báo chí với nhau, có khi ở trong ngay một toà soạn báo.
Cuộc sống luôn vận động và phát triển nên trong đời sống xã hội và trong đời sống báo chí tồn tại những ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau về một hiện tượng, một sự kiện, hay một lĩnh vực nào đó là lẽ thường tình. Chính sự khác biệt này đã giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng thận trọng, cân nhắc kỹ hơn trong quá trình điều tra, nghiên cứu khi đưa ra các quyết định xử lý, hạn chế những oan sai, bỏ lọt tội phạm hoặc xử lý oan người vô tội. Có thể nói, nhiều báo đã không bị sa đà vào những vụ khiếu kiện tràn lan không có điểm dừng mà đã biết lựa chọn ra những vụ việc có tính chất điển hình mà thông qua việc giải quyết của các cơ quan chức năng có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm cho nhiều ngành, nhiều cấp và cho cả người dân. Tuy nhiên, thời gian qua sự phản ánh những sai phạm thường tập trung vào các loại việc: bắt, giam, giữ; các vụ việc tham nhũng, buôn lậu... và nếu xem xét kỹ “sự cọ sát” trên các báo sẽ thấy: cùng một sự việc, một số báo này nói khác báo kia, ngay cùng một tờ báo nói về một sự việc, thì số báo sau lại nói khác hoàn toàn số báo trước ...
Nguyên nhân của hiện tượng trên có nhiều và rất đa dạng, trong đó có hạn chế hiểu biết pháp luật của những người trực tiếp viết bài. Cùng một sự kiện nhưng có liên quan tới nhiều quan hệ xã hội nên nó bị điều chỉnh bởi nhiều ngành luật khác nhau. Cuộc sống, nhất là đời sống kinh tế lại luôn biến động, cái cũ chưa mất đi, cái mới lại chưa phát triển nên pháp luật cũng luôn biến động, thay đổi. Điều này đã gây nhiều khó khăn, trở ngại cho các nhà báo và các toà soạn báo trong việc xác định, xử lý các hiện tượng, sự việc xảy ra cái gì là phù hợp hoặc không phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Chính sự bất cập này đã tạo kẽ hở trong việc thu thập và công bố thông tin. Nhiều trường hợp người viết báo quá tin vào tài liệu được các cơ quan tiến hành tố tụng cung cấp mà không kiểm tra, xác minh tính chân thực của thông tin, nên khi thông tin được đăng tải đã gây ra nhiều phức tạp. Cá biệt do quan điểm xử lý một vụ án cụ thể nào đó chưa được thống nhất giữa những cơ quan tiến hành tố tụng, còn tồn tại nhữg ý kiến khác nhau, nên cơ quan tiến hành tố tụng nào cũng muốn thông tin cho báo chí để qua báo chí tranh thủ dư luận xã hội ủng hộ quan điểm xử lý của cơ quan mình. Cũng có trường hợp để bảo vệ lợi ích cục bộ của ngành, địa phương mình mà có cơ quan tiến hành tố tụng đã cung cấp thông tin cho báo chí một cách thiên lệch, hoặc do người viết, cơ quan báo chí thiếu khách quan trong việc đưa tin nên xã hội phải tiếp nhận những sản phẩm kém chất lượng. Nhiều trường hợp do nhận thức khác nhau nên thể hiện khác nhau ở các báo chí. Đây là sự khác biệt đương nhiên làm cho thông tin đa dạng, là những tiền đề gợi mở cho các cơ quan tiến hành tố tụng xác định hướng điều tra và giải quyết vụ án một cách nhanh, chắc chắn và hiệu quả.
3. Một số vấn đề có tính nguyên tắc trong mối quan hệ giữa báo chí với các cơ quan tiến hành tố tụng
Trong lĩnh vực hoạt động tố tụng, mối quan hệ giữa báo chí với các cơ quan tiến hành tố tụng cần bảo đảm những vấn đề có tính nguyên tắc sau đây:
3.1. Báo chí cần tôn trọng sự thật khi phản ánh về việc thực hiện pháp luật
Nói và viết đúng sự thật là thuộc tính thông tin của báo chí cách mạng. Trong công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, việc viết tin, bài phê bình lại càng phải đảm bảo đúng sự thật. Bởi lẽ, theo Điều 83 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì tin tức do báo chí cung cấp là một trong những căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Bằng hoạt động thu thập và phản ánh tin tức của mình, báo chí có thể phát hiện dấu hiệu của tội phạm. Đến lượt mình, cơ quan điều tra căn cứ vào các tin tức do báo chí đưa ra để xem xét và quyết định việc khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.
Mặc dù, tin tức do báo chí cung cấp cũng chỉ là một trong các nguồn tin do các cơ quan tiến hành tố tụng nhận được. Song tin tức trên báo chí là tin công khai, thường là có địa chỉ và đã được sơ bộ thẩm tra nên xác suất tin cậy nhiều hơn. Đặc biệt các tin tức này rất được các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là cơ quan điều tra quan tâm xử lý.
Nguyên tắc tôn trọng sự thật đòi hỏi bản thân từng nhà báo, toà soạn phải có thái độ khách quan, phải bình tĩnh để tránh sai sót và sơ hở trong thu thập tài liệu chứng cứ và đưa tin. Những chi tiết và số liệu đưa ra trong bài phê bình công khai phải dựa trên những chứng cứ có thể kiểm chứng được; hạn chế tối đa sử dụng chi tiết và con số mà đằng sau nó chứa đựng những vấn đề xã hội phức tạp. Nguyên tắc tôn trọng sự thật có nghĩa là: không được lấy cái phiến diện làm cái toàn diện, lấy hình thức làm bản chất, lấy cái thứ yếu làm cái chủ yếu và càng không thể lấy cái ngẫu nhiên làm cái tất nhiên để phản ánh về quá trình giải quyết các vụ án. Thực tế cuộc sống cho thấy không thể loại trừ những yếu tố thiếu chính xác trong một bài báo phê bình, nhưng sự việc làm cốt lõi cho nội dung một bài phê bình thì đòi hỏi phải chính xác, có thật. Vi phạm điều này có nghĩa là rơi vào phạm vi vu cáo, vi phạm pháp luật. Thông thường “phê” phải đi với “bình”. Lời bình sắc sảo là cần thiết và phụ thuộc rất nhiều vào tài năng của người viết báo. Nhưng sắc sảo phải đi đôi với nhân hậu, có lý có tình; phải có gợi ý về cách tháo gỡ, lối thoát hoặc sửa chữa. Tuyệt đối tránh khuynh hướng cay cú, thổi phồng sự việc, muốn sử dụng báo chí để dẫn dắt các cơ quan tiến hành tố tụng đi theo quan điểm của mình.
Nguyên tắc tôn trọng sự thật đòi hỏi phải đưa tin đúng. Đưa tin sai, không đúng với bản chất của sự việc là có hại; nhưng không phản ánh những gì cần phản ánh thì gây ra thiệt hại cũng không nhỏ. Chính vì vậy, nhà báo trước hết phải trung thực với chính mình trước khi có thể xác định tính trung thực của thông tin mà mình lựa chọn và công bố.
Lợi thế nghề nghiệp của nhà báo, của báo chí có thể đem lại những ích lợi cho xã hội nhưng lợi thế nghề nghiệp đó cũng có thể đem lại hậu quả không tốt khi đưa ra những thông tin không chuẩn xác, sai lệch, những thông tin không cần đưa, không có giá trị, đưa thông tin không đúng lúc, không đúng đối tượng mặc dù chỉ là do sơ xuất, thiếu cân nhắc. Chính những điều đó dẫn đến hiệu quả xã hội của báo chí thấp và không nhận được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân.
3.2. Báo chí cần tuân thủ các quy định của luật báo chí và luật tố tụng
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên tắc quan trọng trong hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung và của cơ quan báo chí và các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng.
Trong chế độ ta, tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân, phục vụ nhân dân. Nhà nước do dân tổ chức ra để quản lý xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Để quản lý xã hội, Nhà nước làm ra luật pháp và đặt mình hoạt động trong khuôn khổ luật pháp, tôn trọng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân. Báo chí và các cơ quan tiến hành tố tụng không phải chỉ nhằm thực thi chức năng, nhiệm vụ được giao mà còn phải bảo đảm cho pháp luật của Nhà nước được mọi người tuân thủ một cách nghiêm chỉnh. Như vậy, các cơ quan báo chí và các cơ quan tiến hành tố tụng tuy khác nhau về chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động nhưng lại có cùng một mục đích chung trong lĩnh vực bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật. Cả hai loại cơ quan, cũng như cán bộ nhân viên của các cơ quan đó đều có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật như bất cứ một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào khác.
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật đòi hỏi trước hết phải bảo đảm địa vị tối cao của luật, nghĩa là từ việc xây dựng pháp luật đến việc thực thi pháp luật luôn luôn phải xuất phát từ luật, trên cơ sở luật để thi hành luật. Nói cách khác cơ quan báo chí cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện chức năng của mình trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định, thực hiện thẩm quyền trên cơ sở pháp luật và phù hợp với pháp luật. Nguyên tắc này bác bỏ xu hướng bản vị, cục bộ, vin vào đặc điểm của ngành, của lĩnh vực mình để tùy tiện không chấp hành luật hay chấp hành sai pháp luật.
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật đòi hỏi phải đề cao trách nhiệm cá nhân trong lĩnh vực thực hiện pháp luật. Trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, ngành nào, lĩnh vực nào cũng có pháp luật để quản lý ngành ấy, lĩnh vực ấy. Tùy theo chức năng từng ngành, từng đơn vị mà tiến hành tổ chức để pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh. Trách nhiệm này trước hết thuộc về thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Họ nhất thiết phải nắm vững những luật lệ của Nhà nước để vận dụng vào công tác quản lý theo phạm vi trách nhiệm của mình. Đồng thời phải gương mẫu trong việc chấp hành và thực thi pháp luật ở lĩnh vực mình phụ trách cũng như trong cuộc sống thường ngày.
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật còn cần phải phê phán, khắc phục những quan niệm sai cho rằng để đạt được kết quả trong việc thực hiện nhiệm vụ cụ thể của một ngành hay cơ quan nào đó, đôi khi cũng phải “vượt rào” hay tìm chỗ hở của pháp luật để “lách”, vượt qua... Đây là một quan niệm sai lầm, từ một sự vi phạm pháp luật chỉ có thể sinh ra các vi phạm pháp luật khác. Đã vi phạm pháp luật thì chắc chắn không thể có khả năng giành thắng lợi trong bất cứ lĩnh vực công tác nào.
Cuối cùng nguyên tắc này cũng đòi hỏi phải kiên quyết áp dụng các biện pháp cưỡng chế để xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với bất kỳ cá nhân, tổ chức nào có hành vi phạm pháp. Không để một việc vi phạm pháp luật, một tội phạm nào không bị phát hiện và có biện pháp xử lý thích đáng, theo đúng đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
3.3. Bảo đảm quyền tự do báo chí và trách nhiệm của nhà báo
Trong điều kiện ở Việt Nam, Hiến pháp, Luật Báo chí cùng nhiều văn bản pháp quy khác đã thể chế hoá quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Các nhà báo tự do hành nghề trong khuôn khổ mà pháp luật đã quy định. Mọi công dân đều có quyền phát biểu ý kiến trên công luận về mọi vấn đề, miễn là có tính chất xây dựng và phù hợp với lợi ích chung của đất nước.
Khi nói về tự do báo chí, cần phải khẳng định rằng tự do cho ai và tự do của ai. Rõ ràng quyền tự do báo chí không đồng nghĩa với “tự do vô hạn” hòng gây rối, phá hoại ổn định chính trị - xã hội, cản trở công cuộc đổi mới, kích động nhân dân, đưa ra những luận điểm đồi truỵ, mê hoặc nhân dân.
Báo chí nói chung và báo nói riêng được tự do thực hiện quyền thông tin của mình, đồng thời tôn trọng và bảo đảm quyền thông tin của người khác. Tự do phải gắn liền với kỷ luật, kỷ cương. Dân chủ phải đi đôi với pháp luật. Tự do báo chí gắn với đạo đức và trách nhiệm trước cộng đồng. Chính vì vậy, báo chí một mặt cần phản ánh một cách khách quan, trung thực với tinh thần xây dựng cao về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, để góp phần cùng các cơ quan tiến hành tố tụng làm sáng tỏ vụ án, mặt khác cũng cần kiên quyết đấu tranh với những cá nhân và tổ chức lợi dụng quyền tự do báo chí để đả phá, kích động dư luận, gây mặc cảm đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng - một dạng hoạt động cực kỳ khó khăn và phức tạp trong hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung.
3.4. Báo chí cần khách quan trong việc phản ánh các sự kiện, các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng
Việc phản ánh của báo chí đối với hoạt động tố tụng là một biểu hiện của nguyên tắc công khai trong hoạt động của toà án với tính cách là một cơ quan tư pháp có vị trí trung tâm. Nhưng việc phản ánh đó lại thông qua lăng kính chủ quan của các nhà báo.
Diễn biến của quá trình tố tụng đối với một vụ án đòi hỏi ở chừng mực nhất định phải được thông tin trên báo chí. Các nhà báo, các nguồn cung cấp thông tin không thể giữ mãi tình trạng găm tin, tưởng chừng như là có lợi nhưng thực ra lại rất phản tác dụng vì dễ gây ra những dư luận lệch lạc trong quần chúng đối với hoạt động tư pháp.
Những sự kiện khách quan được thông tin riêng hay được thông tin trong mối liên hệ tổng quát tự nó sẽ đem đến cho người tiếp nhận thông tin những khả năng tự lý giải và từ đó họ sẽ cảm thấy thích thú, chủ động và tự giác nhận thức thông tin theo một định hướng đúng đắn và khách quan. Vì vậy cần hết sức tránh cái khiên cưỡng và cái cường điệu trong lập luận dù có vẻ là sắc bén. Cuộc sống nói chung và đời sống pháp luật nói riêng là một chuỗi sự kiện khách quan đan xen, nối tiếp nhau, từ đơn giản đến phức tạp, từ thô sơ đến hoàn thiện từ cục bộ đến toàn bộ. Vì vậy, khi thông tin về các sự kiện của đời sống pháp luật, nhất là trong lĩnh vực giải quyết các vụ án thì yêu cầu khách quan được đặt ra không kém với yêu cầu khách quan của việc điều tra, truy tố và xét xử.
Tính khách quan của sự phản ánh phụ thuộc rất lớn vào người cầm bút. Bởi vì hiện thực cuộc sống được báo chí phản ánh như thế nào, chân thật đến đâu, với mục đích gì, có nhiều hay ít lượng thông tin, có đáp ứng được yêu cầu của bạn đọc không và tính chiến đấu của báo chí ở mức độ nào, tất cả phụ thuộc vào ý thức chủ quan của nhà báo, của người viết thông qua khả năng nhận thức hiện thực khách quan cũng như sự nhạy bén chính trị, kinh nghiệm và trình độ nghề nghiệp của họ. Vì vậy, hiện thực được phản ánh trên báo chí mang dấu ấn đậm nét của nhà báo.
Về vấn đề khách quan và trung thực của báo chí V.I.Lê Nin đã dạy: cần phải quan tâm một cách có hệ thống đến việc thành lập một nền báo chí trung thực...và “thuộc tính quan trọng của công tác báo chí là sự trung thực...”, đó cũng là phương châm, là nguyên tắc hoạt động của báo chí khi phản ánh về đề tài pháp luật. Về vấn đề này có những ý kiến cho rằng nhà báo khi phản ánh về các vụ án nên đứng ở vị trí thứ ba tức là đứng ở vị trí quan sát để rồi phản ánh trung thực và công tâm sự việc đang được theo dõi mà không làm thay việc của tòa án.
Khi nhà báo đứng ở vị trí thứ ba, nếu muốn phát biểu chính kiến của mình thì cũng chỉ dừng ở mức đưa ra giả định là có vi phạm pháp luật; đồng thời cũng có thể nêu kiến nghị để các cơ quan có thẩm quyền làm rõ vấn đề....
Tuy nhiên, nếu không có người đứng ở vị trí thứ hai (người tố cáo, khiếu nại, người cung cấp các thông tin) là những người trung thực thì nhà báo khó lòng mà đứng ở vị trí khách quan được.
3.5. Báo chí không làm thay các cơ quan tiến hành tố tụng
Nhiệm vụ của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án là phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh các hành vi phạm tội và người phạm tội; giải quyết đúng đắn các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, lao động và kinh tế; thông qua đó mà giáo dục ý thức pháp luật cho mọi công dân. Đó là những nhiệm vụ trực tiếp và chủ yếu của các cơ quan nói trên và những nhiệm vụ này được pháp luật quy định rất chặt chẽ.
Còn báo chí khi phản ánh hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng thì chỉ dừng lại ở mức độ phản ánh, có thể đưa ra những lời nhận xét, bình luận nhưng không thể thay các cơ quan tiến hành tố tụng để phán quyết về vụ án. Điều này có hai lý do :
(i) Phán quyết các vụ án không phải là nhiệm vụ của báo chí.
2. Cơ quan báo chí nhìn tổng thể không có khả năng và phương tiện để giải quyết một vụ án cụ thể dù cho các cơ quan này có thu thập, đưa ra một số chứng cứ, thậm chí cả những chứng cứ có tính chất quyết định đối với vụ án.
Vì vậy, báo chí chỉ có thể dừng lại ở mức độ phản ánh, bình luận, lý giải vấn đề, đặt ra những giả thiết và câu hỏi để cho bạn đọc cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét và cũng không ngoài mục đích là tìm ra sự thật trong vụ án chứ không thể thay cơ quan điều tra hay Viện kiểm sát mà truy tố bị can, thay tòa án mà xét xử bị cáo, phán quyết về ly hôn, chia tài sản, thừa kế...
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Trên cơ sở phân tích, đánh giá việc áp dụng các quy định của pháp luật về tố tụng hiện hành, có thể đưa ra một số kiến nghị sau:
Hoạt động tố tụng là một hoạt động đặc thù của bộ máy tư pháp, đồng thời đây cũng là hoạt động phức tạp về nội dung và tính chất bởi thủ tục tố tụng đối với mỗi loại vụ việc lại khác nhau: tố tụng hình sự khác tố tụng dân sự và các thủ tục tố tụng hành chính, kinh tế, lao động. Mỗi thủ tục tố tụng lại gồm nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó có thể nói tố tụng hình sự là phức tạp nhất. Xuất phát từ đặc thù đó cần quy định một cách hợp lý nhất mức độ, phạm vi, thời điểm phản ánh của báo chí về hoạt động này.
Đề tài không đồng tình với ý kiến cho rằng sự phản ánh của báo chí đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng là rất khó do bản thân hoạt động tư pháp là hoạt động phức tạp nhiều giai đoạn, vì vậy không thể quy định một giới hạn mà pháp luật dành cho báo chí để phản ánh. Tức là không nên pháp luật hóa vấn đề này: “Việc đăng tải những tin tức về một phiên tòa hình sự sắp diễn ra có ý nghĩa xã hội rất to lớn và đó chính là một phương tiện thực sự thu hút sự chú ý của công dân đối với quá trình tố tụng tại phiên tòa. Nội dung và tính chất của các bài đăng tại đó có thể rất khác nhau, việc pháp luật hóa chúng là không nên”. Lý do không đồng tình ở đây chính là ở chỗ quyền tự do báo chí chứ không thể là tự do không có giới hạn, sự tự do đó, hay nói cách khác là một hành lang phản ánh cần phải được pháp luật điều chỉnh để bảo đảm tính khách quan, tính chính xác và đề cao trách nhiệm của cơ quan báo chí cũng như người cầm bút. Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án không phải là vùng cấm, nhưng cũng không có nghĩa là một vùng được phép phản ánh một cách tự do tuyệt đối. Hơn nữa, hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như hoạt động của báo chí trong việc phản ánh hoạt động của các cơ quan này cũng đều chung một mục đích là giải quyết công minh và đúng pháp luật các vụ án hình sự, dân sự, lao động, kinh tế, hành chính nhằm góp phần giữ gìn pháp chế và trật tự pháp luật XHCN... chính do mục đích chung đó mà cần thiết phải có một cơ chế pháp luật dù là đơn giản để điều chỉnh sự phối hợp giữa hai loại cơ quan này, làm cho hoạt động của chúng đều đạt được hiệu quả cao nhất tùy theo chức năng và nhiệm vụ của mỗi cơ quan.
Trước hết, các văn bản pháp luật về báo chí, cũng như về tố tụng cần quy định phạm vi, mức độ và loại vấn đề mà báo chí có thể thông tin đối với hoạt động tố tụng, cụ thể là:
1. Phạm vi thông tin. Tất cả những vụ án, trừ những vụ liên quan đến giữ gìn bí mật Nhà nước, hoặc có liên quan đặc biệt đến việc giữ gìn luân thường đạo lý, hay thuần phong mỹ tục của dân tộc thì báo chí đều có quyền phản ánh và đưa ra những nhận xét, bình luận của mình.
2. Mức độ phản ánh. Đối với vụ án hình sự ở giai đoạn khởi tố và điều tra, báo chí có thể đưa ra những tin tức mà căn cứ vào đó, cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự; đồng thời có thể đưa tin về việc khởi tố đối với vụ án. Sau khi kết thúc giai đoạn điều tra, báo chí có thể đưa tin có tính chất thông báo kết quả điều tra nhưng không kết tội bị cáo. Việc bị can có tội hay không có tội (theo điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự) là thuộc thẩm quyền của tòa án. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, cơ quan báo chí có thể cung cấp thêm thông tin, chứng cứ cho cơ quan điều tra bằng nhiều cách và các cơ quan này sẽ thu thập chứng cứ theo trình tự mà pháp luật quy định.
Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự cần có quy định rõ là đối với các phiên tòa xét xử công khai của tòa án, nhà báo được dự, được liên hệ với tòa án để lấy tài liệu viết báo, được mang máy ghi âm, máy ghi hình (viđeo) nếu tòa án đồng ý. Việc phản ánh phiên tòa sau khi tòa tuyên án là quyền của nhà báo. Nhà báo có quyền nhận xét, đánh giá và nêu ý kiến của mình về các quyết định trong bản án. Như vậy, phạm vi, mức độ phản ánh của báo chí sau phiên tòa hình sự sơ thẩm được mở rộng hơn.
Đối với vụ án hành chính, kinh tế... về nguyên tắc báo chí có thể phản ánh kết quả xét xử từ giai đoạn sơ thẩm, ngoại trừ những vấn đề liên quan đến bí mật Nhà nước hoặc cần giữ gìn bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ vì các thủ tục tố tụng trên đây thường tuân theo nguyên tắc tự định đoạt của các đương sự (đã được quy định trong các pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động), nên nếu để báo chí phản ánh ý kiến, nguyện vọng của các đương sự sẽ dẫn đến những cuộc tranh cãi không có thời điểm kết thúc trên mặt báo, gây khó khăn cho cơ quan xét xử. Và cũng giống như khi phản ánh kết quả xét xử các vụ án hình sự, báo chí có thể phân tích, đánh giá, nêu vấn đề từ khía cạnh pháp lý và có những kiến nghị phù hợp, mà không phán quyết thay cho tòa án.
Đối với kết quả của các phiên tòa phúc thẩm và giám đốc thẩm về hình sự cũng như dân sự, nhà báo có quyền phản ánh đầy đủ những quyết định của tòa án cấp phúc thẩm và giám đốc thẩm. Nếu vụ án bị đưa ra xử đi xử lại nhiều lần, nhiều cấp thì báo chí nên phản ánh một cách đầy đủ từ đầu diễn biến của sự việc để người đọc có một thông tin nhất quán và hệ thống về vụ án.
Nếu chấp nhận những quan niệm có tính nguyên tắc trên đây thì vấn đề đặt ra là phải sửa đổi, bổ sung các quy định của các văn bản pháp luật về báo chí cũng như về tố tụng theo tinh thần tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan báo chí cũng như các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án phối hợp đúng mức và có hiệu quả với nhau trong việc báo chí phản ánh hoạt động của các cơ quan này. Cụ thể là sửa đổi, bổ sung các điều 6,7,8,9,10 và 28 của Luật Báo chí. Việc sửa đổi này phải đặt trong việc sửa đổi các quy định khác về báo chí nói chung. Trong đó, đặc biệt lưu ý các quy định về trách nhiệm của nhà báo khi phản ánh hoạt động tố tụng và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng cung cấp tin tức về hoạt động tố tụng cho báo chí.
Riêng về Điều 28 Luật Báo chí - xử lý vi phạm, cần lưu ý đến đoạn 2 khoản 1: “cơ quan báo chí, công dân thông tin gây thiệt hại cho tổ chức, công dân khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự”. Trong Nghị định số 133-HĐBT hướng dẫn thi hành Luật Báo chí chỉ mới đề cập đến trường hợp thiệt hại về vật chất mà chưa đề cập đến thiệt hại về tinh thần và trình tự bồi thường như thế nào. Như vậy, Luật Báo chí cần quy định rõ trong trường hợp báo chí gây thiệt hại về tinh thần cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thì phải bồi thường thiệt hại về tinh thần theo các Điều 27, 613, 614 và 615 của Bộ luật Dân sự.
Trên tinh thần đó, cũng cần quy định trong các Bộ luật Tố tụng hình sự (hiện hành), Bộ luật tố tụng dân sự (đang được soạn thảo) về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc cung cấp thông tin cho báo chí và trách nhiệm của cơ quan báo chí, nhà báo khi đưa tin về việc tiến hành tố tụng để tạo ra sự thống nhất giữa Luật Báo chí với pháp luật tố tụng về vấn đề này. Các văn bản hướng dẫn thi hành các đạo luật nói trên cũng sẽ tuân thủ tinh thần đó.
Tóm lại, đã đến lúc các cơ quan có thẩm quyền cần tổng rà soát lại những quy định của pháp luật về báo chí cũng như về tố tụng để hoàn thiện một cách cơ bản các quy định điều chỉnh mối quan hệ phối hợp đúng đắn và có hiệu quả giữa các cơ quan báo chí và các cơ quan tiến hành tố tụng, nhằm góp phần giải quyết các vụ án theo đúng pháp luật và công minh. Làm cho nhân dân ngày càng tin tưởng vào các cơ quan pháp luật cũng như vào báo chí. Vì không thể để tình trạng chỉ tin tưởng ở cơ quan pháp luật mà mất lòng tin ở cơ quan báo chí và ngược lại. Chỉ có như vậy thì các cơ quan pháp luật mới là chỗ dựa của nhân dân và các cơ quan báo chí mới thực sự là diễn đàn của nhân dân./.