Nguyên lý “doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng do sản phẩm khuyết tật gây ra” đã được nghiên cứu và thừa nhận rộng rãi trong hệ thống pháp luật của hầu hết các nước. Nhiều học giả, nhà xây dựng chính sách, nhà lập pháp đã đầu tư công sức nghiên cứu, hình thành hệ thống lý thuyết phong phú về trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp; pháp luật hiện hành nhiều nước rất quan tâm đến xây dựng và hoàn thiện chế định pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng, trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp, đặc biệt là trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với sản phẩm bị khuyết tật.
Tại Việt Nam, hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo vệ người tiêu dùng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại của doanh nghiệp do sản phẩm khuyết tật gây ra nói riêng đã được xây dựng và hình thành. Mặc dù pháp luật quy định tương đối cụ thể về trách nhiệm của doanh nghiệp, quy định về đảm bảo chất lượng hàng hóa của doanh nghiệp…, nhưng trên thực tế cơ chế bảo vệ người tiêu dùng dường như vẫn chưa phát huy được hiệu quả tích cực. Thực tiễn áp dụng các quy định về xác định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng trong nhiều vụ việc vẫn chưa có căn cứ pháp lý thực sự vững chắc, việc bồi thường chưa thỏa đáng, chưa tương xứng với thiệt hại thực tế, hệ thống pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của doanh nghiệp cho người tiêu dùng do sản phẩm khuyết tật gây ra còn có những “lỗ hổng” nhất định và chưa phát huy hiệu quả đối với xã hội. Trong khi đó, thời gian qua mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến trách nhiệm sảm phẩm của doanh nghiệp, nhưng nhiều khía cạnh của vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm khuyết tật gây ra vẫn còn là đề tài bàn luận sôi nổi.
Trong bối cảnh pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng tiếp tục được hoàn thiện thì việc nghiên cứu vấn đề bồi thường thiệt hại của doanh nghiệp đối với sản phẩm khuyết tật có ý nghĩa góp phần cung cấp các cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại trong Bộ luật Dân sự.
Mục tiêu của Đề tài là nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi trách nhiệm bồi thường thiệt hại của doanh nghiệp do sản phẩm khuyết tật gây ra đối với người tiêu dùng ở Việt Nam.
Để đạt được mục tiêu này, đề tài nghiên cứu các nội dung chính sau đây:
I. CÁC LUẬN ĐIỂM CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI VÀ CÁC ĐÓNG GÓP VỀ KHOA HỌC, THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Luận điểm 1: Quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của pháp luật Việt Nam tiếp cận theo quan điểm của học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt, tuy nhiên vẫn còn nhiều điểm hạn chế.
1.1. Pháp luật về trách nhiệm sản phẩm dựa trên ba chuẩn pháp lý cơ bản là học thuyết về sự bất cẩn, học thuyết về sự vi phạm nghĩa vụ bảo đảm và học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt.
- Học thuyết về sự vi phạm nghĩa vụ bảo đảm: nền tảng cơ bản của học thuyết này là khi người sản xuất, cung ứng đưa sản phẩm ra thị trường cũng có nghĩa là đưa ra những bảo đảm nhất định về sản phẩm của mình đối với người tiêu dùng. Khi sản phẩm đó có khuyết tật và gây thiệt hại cho người tiêu dùng tức là người sản xuất, cung ứng đã vi phạm nghĩa vụ bảo đảm và vì vậy họ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng. Học thuyết về sự vi phạm nghĩa vụ đảm bảo thường đòi hỏi phải chứng minh được bản chất mối quan hệ giữa người bán, người cung ứng và người mua. Việc chứng minh mối liên hệ này không đơn giản. Hơn nữa, mức bồi thường được chấp nhận trong các vụ kiện bảo vệ người tiêu dùng thường thấp hơn mức bồi thường có được nếu khởi kiện trách nhiệm sản phẩm dựa trên những cơ sở khác.
- Học thuyết về sự bất cẩn: sự bất cẩn (tắc trách) là việc nhà sản xuất không quan tâm ở mức độ cần thiết, tức là mức độ mà một nhà sản xuất hay cung ứng bình thường cần có khi sản xuất hay cung ứng sản phẩm của mình ở trong điều kiện và hoàn cảnh tại thời điểm sản xuất. Để xác định việc nhà sản xuất, cung ứng có bất cẩn hay không, cần phải chứng minh được sự hiểu biết của bên gây thiệt hại về khả năng xảy ra thiệt hại. Điểm quan trọng khác khi xác định trách nhiệm do bất cẩn là sự tồn tại của nghĩa vụ quan tâm của người gây thiệt hại đối với người bị thiệt hại. Bên bị thiệt hại phải chứng minh được là giữa hai bên có một liên hệ về nghĩa vụ quan tâm. Hai người không có mối liên hệ nào với nhau thì không thể phát sinh nghĩa vụ. Mối liên hệ nghĩa vụ này phát sinh căn cứ vào các tình huống cụ thể. Để có cơ sở cho việc khởi kiện dựa trên sự bất cẩn từ phía người sản xuất, người bị hại phải chứng minh được: (1) Nghĩa vụ của người sản xuất; (2) Sự vi phạm nghĩa vụ đó; (3) Thiệt hại; (4) Mối liên hệ giữa vi phạm đó với thiệt hại. Có thể thấy rằng học thuyết về sự bất cẩn đặt gánh nặng chứng minh lên người tiêu dùng, đặc biệt là chứng minh lỗi của nhà sản xuất.
- Học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt: Học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt không quan tâm đến hành vi của các bên mà chỉ quan tâm đến chất lượng của sản phẩm gây ra thiệt hại. Người tiêu dùng không còn bị buộc phải chứng minh hành vi của nhà sản xuất khi thiết kế sản phẩm là không hợp lý mà chỉ cần chỉ ra rằng bản thân sản phẩm là có khuyết tật. Để yêu cầu trách nhiệm sản phẩm, người tiêu dùng phải chứng minh ba yếu tố cơ bản: (i) khuyết tật, (ii) thiệt hại và (iii) mối quan hệ nhân quả. Như vậy, theo nguyên tắc trách nhiệm nghiêm ngặt, nhà sản xuất, phân phối sẽ bị quy kết trách nhiệm bồi thường ngay cả khi nhà sản xuất, phân phối không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại miễn là sản phẩm do những người này cung ứng có khuyết tật. Chế độ trách nhiệm này cho phép người tiêu dùng bị tổn thương có thể đòi bồi thường mà không cần chứng minh yếu tố lỗi.
Việc lựa chọn học thuyết về sự bất cẩn hay học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt cũng là yếu tố cơ bản làm nên sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật về trách nhiệm sản phẩm trên thế giới. Qua nghiên cứu hệ thống pháp luật các nước trên thế giới, có thể thấy rằng, pháp luật của Hoa Kỳ, Châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, Philippin chịu ảnh hưởng khá mạnh mẽ của nguyên tắc trách nhiệm nghiêm ngặt. Pháp luật trách nhiệm sản phẩm của Canada được xây dựng trên hai học thuyết về sự bất cẩn và học thuyết vi phạm nghĩa vụ bảo đảm. Pháp luật trách nhiệm sản phẩm của Hàn Quốc được áp theo nguyên tắc lỗi bất cẩn.
1.2. Từ ảnh hưởng của các học thuyết này, mà pháp luật các nước cũng có những tương đồng và những điểm khác biệt nhau.
- Khái niệm sản phẩm trong pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng
Khái niệm sản phẩm theo quy định của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng không được định nghĩa rộng như khái niệm sản phẩm theo cách hiểu thông thường và có sự khác nhau giữa pháp luật các nước, điều đáng lưu ý là pháp luật nhiều nước thường quan niệm rằng khái niệm sản phẩm trong chế định trách nhiệm sản phẩm trước hết phải là hàng hóa hữu hình, không phải sản phẩm vô hình như dịch vụ; chế độ trách nhiệm sản phẩm mới chỉ được áp dụng cho động sản, bao gồm cả động sản gắn với bất động sản. Pháp luật các nước còn có sự khác nhau trong việc việc ghi nhận một số loại sản phẩm thuộc hoặc không thuộc đối tượng của chế định trách nhiệm sản phẩm (tài sản vô hình, bất động sản, tài sản hình thành trong tương lai, nông sản chưa qua chế biến, điện năng, khí ga, thông tin đính kèm sản phẩm, dịch vụ…)
- Khái niệm sản phẩm khuyết tật
Pháp luật các nước có những định nghĩa về sản phẩm khuyết tật, tuy nhiên hầu hết đều thừa nhận yếu tố "thiếu an toàn" là yếu tố quan trọng nhất trong việc xác định sản phẩm khuyết tật. Sản phẩm khuyết tật được chia thành 3 loại chính là khuyết tật do thiết kế; khuyết tật do sản xuất và khuyết tật do cảnh báo, hướng dẫn không đầy đủ.
- Trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp.
Trách nhiệm sản phẩm được thống nhất hiểu là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại, tức là một loại trách nhiệm dân sự theo đó người gây thiệt hại có trách nhiệm phải bù đắp theo những hình thức và mức độ phù hợp những thiệt hại đã gây ra cho người khác dựa trên căn cứ pháp luật hoặc dựa trên những thoả thuận theo hợp đồng. Trách nhiệm sản phẩm là một loại trách nhiệm pháp lý dân sự, cụ thể đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo đó người gây thiệt hại có trách nhiệm phải bù đắp theo những hình thức và mức độ phù hợp những thiệt hại đã gây ra cho người khác dựa trên căn cứ pháp luật hoặc dựa trên những thoả thuận theo hợp đồng.
- Các yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại của doanh nghiệp do sản phẩm khuyết tật gây ra.
Yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thường có bốn yếu tố: (1) Có hành vi vi phạm pháp luật; (2) Có lỗi cố ý hoặc vô ý; (3) Có thiệt hại xảy ra; (4) Có quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và thiệt hại. Tuy nhiên, trong lĩnh vực pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, điểm đặc thù của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm khuyết tật gây ra là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại không nhất thiết phải đảm bảo đủ các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung. Pháp luật các nước quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm khuyết tật gây ra như sau:
Thứ nhất, sản phẩm có khuyết tật: để xác định khuyết tật, có bảy yếu tố có thể được phân tích: 1) Tính hữu ích của sản phẩm; 2) Sự tồn tại của các sản phẩm đáp ứng cùng một nhu cầu nhưng an toàn hơn; 3) Khả năng xảy ra thiệt hại và mức độ nghiêm trọng của thiệt hại; 4) Mức độ rõ ràng của mối nguy hiểm; 5) Khả năng nhìn thấy nguy hiểm của công chúng; 6) Khả năng người sử dụng tránh được nguy hiểm bằng sự cẩn trọng, có tính đến cả tác dụng của các hướng dẫn và cảnh báo; 7) Khả năng loại trừ các mối nguy hiểm của sản phẩm bởi người sản xuất hoặc người bán mà không làm cho sản phẩm mất đi tác dụng hoặc làm tăng giá thành của sản phẩm một cách quá mức. Cần lưu ý rằng, trong một số trường hợp ngoại lệ, sản phẩm không bị coi là khuyết tật và sẽ là cơ sở để miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, có thiệt hại xảy ra: nhìn chung pháp luật chỉ thừa nhận và xem xét bồi thường đối với những thiệt hại: (i) Có tính chất thực tế hay chắc chắn; (ii) Thiệt hại có khả năng dự đoán trước và đáng lẽ có thể tránh được; (iii) Thiệt hại chưa được bù đắp hoặc khắc phục. Tuy nhiên, một số nước đã thừa nhận và áp dụng một số khoản thiệt hại có tính dự đoán như thiệt hai do "mất đi một cơ may” (Nhật Bản), hoặc bồi thường mang tính trừng phạt, thiệt hại vì mất cơ hội tận hưởng cuộc sống và nguy cơ bị bệnh trong tương lai (Hoa Kỳ).
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả: người bị thiệt hại cần chứng minh được sản phẩm có khuyết tật là nguyên nhân và kết quả là thiệt hại xảy ra cho người sử dụng hoặc người có liên quan, tức là chứng minh được sản phẩm có khuyết tật và khuyết tật đó đã gây ra thiệt hại.
Thứ tư, về nghĩa vụ chứng minh: ngày nay, hầu hết pháp luật các nước xây dựng chế định về trách nhiệm sản phẩm theo hướng người tiêu dùng không còn bị buộc phải chứng minh hành vi của nhà sản xuất khi thiết kế sản phẩm là không hợp lý mà chỉ cần chỉ ra rằng bản thân sản phẩm là có khuyết tật, có thiệt hại và có mối quan hệ nhân quả. Theo cách tiếp cận này, nghĩa vụ chứng minh của nguyên đơn được giảm xuống vì nguyên đơn không còn phải chứng minh nhà sản xuất có lỗi trong việc sản xuất ra sản phẩm có khuyết tật. Đặc biệt, pháp luật Philippin đã đạt được một bước tiến xa hơn khi Luật Người tiêu dùng quy định: nhà sản xuất phải chứng minh rằng sản phẩm họ đưa vào thị trường là không có khuyết tật. Trên thực tế, mặc dù nghĩa vụ chứng minh đã được giảm nhẹ cho người bị thiệt hại tuy nhiên, người bị thiệt hại vẫn gặp các khó khăn trong việc chứng minh khuyết tật của sản phẩm và nguyên nhân của thiệt hại.
Thứ năm, xác định mức bồi thường: về vấn đề này, pháp luật các nước có những quy định tương đồng và khác biệt nhau:
+ Pháp luật Hoa Kỳ: mức bồi thường trong các vụ việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do sản phẩm khuyết tật gây ra luôn là một nỗi ám ảnh cho các thương nhân.
+ Pháp luật châu Âu: giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hướng cho phép các nước thành viên quy định hạn mức trách nhiệm của nhà sản xuất đối với khuyết tật của sản phẩm gây ra thương tích cho cá nhân nhưng không được thấp hơn 70 triệu EUR. Đối với thiệt hại về tài sản thì không quy định hạn mức cao nhất, mà tùy thuộc vào giá trị tài sản bị thiệt hại để xác định số tiền phải bồi thường.
+ Pháp luật Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Philippin: không chấp nhận hình thức bồi thường có tính chất trừng phạt nhưng Luật không đưa ra bất cứ giới hạn nào về mức bồi thường.
Thứ sáu, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại: luật pháp các nước cũng có những quy định khác nhau về chủ thể phải chịu trách nhiệm trong những trường hợp khiếu nại về trách nhiệm sản phẩm. Có quốc gia quy định phạm vi chủ thể này khá rộng (các nhà sản xuất, phân phối, tiêu thụ … đều phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do những khuyết tật của sản phẩm gây ra cho người sử dụng). Pháp luật Hoa Kỳ còn quy định trung gian, công ty nước ngoài trực tiếp kinh doanh tại nước sở tại; pháp luật Châu Âu quy định nhà sản xuất bao gồm cả nông dân, những người trông hoa quả, rau củ;.. là những người có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Ngược lại có quốc gia quy định phạm vi tương đối hẹp như Nhật Bản quy định người sản xuất và người tương tự như người sản xuất là chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại; pháp luật Trung Quốc không có giải thích rõ ràng thế nào là "nhà sản xuất". Bên cạnh đó một số nước cũng có sự loại trừ, chẳng hạn có nước quy định chỉ thương nhân mới là chủ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại, ngoại trừ thương nhân buôn bán đồ cũ (Mỹ).
Thứ bảy, xác định chủ thể được bồi thường.
Quan niệm chung trong hướng dẫn của Liên hợp quốc, pháp luật châu Âu, Canada, Nhật Bản và pháp luật nhiều nước về bảo vệ người tiêu dùng cho thấy người tiêu dùng thường được hiểu là cá nhân, không phải là tổ chức. Tuy nhiên, khi đi sâu tìm hiểu có thể thấy, khái niệm người tiêu dùng trên thế giới không thực sự thống nhất, chẳng hạn người tiêu dùng có thể là người mua, người sử dụng (Đức), hoặc bao gồm cả người được chào hàng, người chịu thiệt hại, mất mát do sản phẩm không an toàn (Thái Lan). Một số quốc gia còn quy định người tiêu dùng bao gồm cả tổ chức (Ấn Độ, Đài Loan (Trung Quốc)).
Thứ tám, thời hiệu khởi kiện.
Pháp luật các nước cũng có những quy định khác nhau về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự nói chung và các vụ việc yêu cầu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm khuyết tật gây ra nói riêng. Pháp luật Hoa Kỳ quy định khoảng thời gian, thông thường là 3 năm kể từ ngày người bị thiệt hại, hoặc người đại diện biết được thiệt hại phát sinh do sản phẩm khuyết tật, hoặc 10 năm kể từ ngày sản phẩm được sản xuất hoặc lưu thông trên thị trường. Thời hiệu cho các vụ kiện liên quan đến trách nhiệm sản phẩm được qui định rất ngắn trong pháp luật các bang. Thời hiệu này là từ 1 đến 2 năm tuỳ theo bang. Pháp luật của cộng đồng châu Âu quy định người bị thiệt hại do khuyết tật của sản phẩm gây ra có quyền khởi kiện hoặc khiếu nại trong vòng 3 năm kể từ ngày phát sinh thiệt hại (thời hạn này được tính từ ngày nguyên đơn biết hoặc phải biết về thiệt hại và xác định được nhà sản xuất hay người chịu trách nhiệm sản phẩm). Pháp luật Nhật Bản quy định thời hiệu khởi kiện là 3 năm kể từ thời điểm biết được thiệt hại và xác định được người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng không quá 10 năm kể từ thời điểm nhà sản xuất đã bàn giao sản phẩm,....
1.3. Pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề bồi thường người tiêu dùng và trách nhiệm sản phẩm được thể hiện ở nhiều văn bản pháp luật, trong nhiều lĩnh vực khác nhau và chịu ảnh hưởng khá rõ nét của học thuyết trách nhiệm nghiêm ngặt.
Tại Việt Nam, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung và vấn đề bồi thường thiệt hại do sản phẩm khuyết tật gây ra nói riêng được điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Mỗi một ngành luật điều chỉnh vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm khuyết tật gây ra ở một khía cạnh khác nhau. Hệ thống pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng do sản phẩm khuyết tật gây ra có thể được phân loại theo cách sau:
- Căn cứ vào phương thức bảo vệ người tiêu dùng, các quy định liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng nêu trên có thể được chia thành:
+ Các quy định pháp luật ghi nhận các quyền của người tiêu dùng;
+ Các quy định pháp luật điều chỉnh các hành vi thương mại nhằm ngăn ngừa các hành vi xâm phạm lợi ích của người tiêu dùng
+ Các quy định về cơ chế khiếu nại, tố cáo, khởi kiện, xử lý vi phạm và khôi phục quyền lợi của người tiêu dùng trong các trường hợp vi phạm.
- Căn cứ vào phạm vi điều chỉnh của các quy định pháp luật, có thể phân chia hệ thống các quy định pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng thành:
+ Các quy định pháp luật chung có ghi nhận và bảo vệ quyền của người tiêu dùng;
+ Các quy định chuyên biệt về bảo vệ người tiêu dùng;
+ Các quy định về kiểm soát sự gia nhập thị trường và điều tiết hoạt động trên thị trường của tổ chức, cá nhân sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ. Các quy định này bao gồm các quy định chung và các quy định điều tiết chuyên ngành.
+ Các quy định về cơ chế khiếu nại, tố cáo, khởi kiện, xử lý vi phạm và khôi phục quyền lợi của người tiêu dùng trong các trường hợp vi phạm.
Quy định pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng nói chung và vấn đề trách nhiệm sản phẩm nói riêng được xây dựng dựa trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệp lập pháp của các nước trên thế giới và tiếp cận theo quan điểm của học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt. Trong đó:
- Khoản 3 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đã đưa ra tiêu chí quan trọng cho việc xác định hàng hóa có khuyết tật là tính thiếu an toàn cho người sử dụng và nêu ba trường hợp khuyết tật từ thiết kế, khuyết tật do sản xuất và khuyết tật do cảnh báo. Quy định này tương đồng với quy định pháp luật nhiều nước như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc… Cách phân loại hàng hóa khuyết tật của pháp luật Việt Nam cũng tiếp cận khá gần với quy định của pháp luật của Cộng đồng châu Âu.
- Điều 23 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đã chính thức quy định trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp bằng cách tiếp cận học thuyết trách nhiệm nghiêm ngặt, theo đó tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp hàng hóa có khuyết tật do mình cung cấp gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng, kể cả khi tổ chức, cá nhân đó không biết hoặc không có lỗi trong việc phát sinh khuyết tật và kể cả khi giữa tổ chức, cá nhân đó có mối quan hệ hợp đồng trực tiếp với người bị thiệt hại hay không. Khoản 1 Điều 42 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định “Người tiêu dùng có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, trừ việc chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ”. Đồng thời, khoản 2 Điều 42 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại”. Việc áp dụng chế độ trách nhiệm không cần yếu tố lỗi giúp mở rộng hơn phạm vi được bảo vệ của người tiêu dùng và giảm nhẹ gánh nặng chứng minh đối với người tiêu dùng.
1.4. Hệ thống pháp luật còn nhiều điểm hạn chế:
1.4.1. Khái niệm sản phẩm
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đã không đưa ra định nghĩa về sản phẩm thuộc phạm vi điều chỉnh của lĩnh vực pháp luật này. Do đó, khái niệm sản phẩm được quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007, khái niệm hàng hóa tại khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại có thể được viện dẫn để áp dụng. Tuy nhiên, điều có thể nhận thấy là phạm vi, khái niệm sản phẩm, hàng hóa được quy định trong các văn bản pháp luật này có một số vấn đề sau:
Thứ nhất, nội hàm khái niệm sản phẩm và hàng hóa được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 3 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 và khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 không tương đồng với nhau. Trong khi Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 tiếp cận khái niệm sản phẩm, hàng hóa tương đối rộng (bao gồm cả động sản, bất động sản (hữu hình) và sản phẩm dịch vụ đã hoàn thành) thì Luật Thương mại năm 2005 đã có sự “khoanh vùng” hàng hóa chỉ bao gồm động sản, nhưng lại mở ra cả sản phẩm đã hình thành và sản phẩm hoàn thành trong tương lai. Nếu pháp luật về trách nhiệm sản phẩm viện dẫn một trong hai văn bản pháp luật này để điều chỉnh sẽ dẫn đến phạm vi khách thể, hệ quả pháp lý là khác nhau.
Thứ hai, khái niệm hiện hành về sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam có một số điểm tương đối khác biệt với pháp luật nhiều nước, bởi pháp luật các nước thường có sự “khoanh vùng” phạm vi khái niệm sản phẩm trong chế định trách nhiệm sản phẩm, theo đó sản phẩm trước hết phải là vật hữu hình không phải vật vô hình như dịch vụ; là sản phẩm đã hoàn thành chứ không phải là sản phẩm hình thành trong tương lai; sản phẩm, hàng hóa trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng thường được hiểu là động sản chứ không bao gồm bất động sản.
Thứ ba, pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của Việt Nam cũng chưa có câu trả lời rõ ràng cho những vấn đề còn nhiều tranh luận giữa các học giả trong nước và thế giới về phạm vi khái nhiệm sản phẩm thuộc đối tượng của chế định trách nhiệm sản phẩm.
1.4.2. Khái niệm sản phẩm khuyến tật
Do pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng nước ta chưa có sự xác định rõ ràng nội hàm khái niệm sản phẩm, hàng hóa nên việc xác định hàng hóa khuyết tật và trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp sẽ ít nhiều gặp khó khăn trong quá trình áp dụng vào thực tế. Bên cạnh đó, quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được đánh giá là còn chung chung, chưa cụ thể so với pháp luật một số nước (Nhật Bản, Hàn Quốc...).
1.4.3. Các trường hợp miễn trừ trách nhiệm
Tương đồng với pháp luật nhiều nước trên thế giới, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nước ta cũng có quy định về một số ngoại lệ mà doanh nghiệp không phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, pháp luật của nước ta vẫn còn có một số điểm hạn chế sau:
Thứ nhất, quy định tại Điều 24 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 còn chung chung, khó áp dụng trên thực tế, thể hiện ở các điểm sau:
- Thuật ngữ “trình độ khoa học kỹ thuật” đề cập trong điều luật này chưa cụ thể là trình độ khoa học kỹ thuật của quốc gia nơi sản phẩm được lưu thông hay “trình độ khoa học kỹ thuật” nói chung trên thế giới.
- Chưa có tiêu chí, quy trình cụ thể để chứng minh khuyết tật của sản phẩm là không thể chứng minh được tại thời điểm tổ chức, cá nhân kinh doanh cung cấp sản phẩm cho người tiêu dùng.
Thứ hai, quy định tại Điều 62 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 về việc người sản xuất, người nhập khẩu, người bán không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh do lỗi của người mua, người tiêu dùng (không phân biệt lỗi một phần hay lỗi hoàn toàn) là không phù hợp với quy định tại Điều 617 Bộ luật Dân sự năm 2005 bởi theo quy định của Bộ luật Dân sự, người tiêu dùng sẽ chỉ chịu thiệt hại nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người tiêu dùng.
Thứ ba, pháp luật của nước ta còn ghi nhận còn ít trường hợp miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của doanh nghiệp do sản phẩm khuyết tật gây ra đối với người tiêu dùng. Trong khi đó, trên thế giới hiện nay ngoài ghi nhận trường hợp miễn trừ này, pháp luật một số nước còn đưa ra thêm nhiều trường hợp miễn trừ trách nhiệm sản phẩm khác đối với doanh nghiệp (ví dụ: Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Malaysia, Điều 4 Luật Trách nhiệm sản phẩm của Nhật Bản năm 1994, khoản 1 Điều 4 Luật Trách nhiệm sản phẩm của Hàn Quốc năm 2000). Ở Việt Nam, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 chưa quy định mức miễn trừ nghĩa vụ bồi thường cho doanh nghiệp đối với người tiêu dùng bị thiệt hại về vật chất khi những thiệt hại đó là quá nhỏ nhằm bảo đảm ổn định cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, bảo đảm nguyên tắc cân bằng lợi ích (pháp luật Liên minh châu Âu quy định người tiêu dùng không được yêu cầu bồi thường thiệt hại với những khoản dưới 500 euro). Bên cạnh đó, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có quy định rõ ràng, dẫn đến một số trường hợp doanh nghiệp dù không có lỗi vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, như:
- Trường hợp cung cấp sản phẩm không vì mục đích kinh doanh, như viện trợ y tế thử nghiệm các loại thuốc ngăn chặn dịch bệnh.
- Trường hợp thương nhân không cung cấp sản phẩm ra thị trường, chẳng hạn hàng hoá đang trong quá trình thử nghiệm và chưa được đưa ra khai thác thương mại nhưng được những người không có thẩm quyền đưa ra thị trường.
- Trường hợp doanh nghiệp chỉ ra được lỗi của người thứ ba và lỗi đó là nguyên nhân gây ra toàn bộ hay một phần thiệt hại, thì phần miễn trừ (toàn bộ hay một phần) sẽ tương ứng với mức độ thiệt hại do lỗi của người thứ ba gây ra.
1.4.4. Nghĩa vụ chứng minh
Dù người bị thiệt hại do sản phẩm khuyết tật gây ra đã được giảm nhẹ nghĩa vụ chứng minh, nhưng vẫn có những ý kiến đánh giá cho rằng còn khó khăn đối với người tiêu dùng do việc chứng minh sản phẩm khuyết tật thường hết sức tốn kém vì cần phải nhờ đến vai trò của giám định…, chọn mẫu và thậm chí phải gửi các mẫu xét nghiệm ra nước ngoài. Bên cạnh đó, việc xác định mối quan hệ nhân quả cũng tương đối khó khăn trong những trường hợp sản phẩm được sử dụng một thời gian dài mới gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng. Qua tham khảo kinh nghiệm các nước cho thấy, pháp luật Philippin đã đặt trách nhiệm chứng minh lên nhà sản xuất, nhà sản xuất phải chứng minh rằng sản phẩm họ đưa vào thị trường là không có khuyết tật để được loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
1.4.5. Xác định mức bồi thường đối với người tiêu dùng
Qua nghiên cứu quy định về các loại thiệt hại được bồi thường và mức bồi thường cho thấy còn có một số điểm vướng mắc, bất cập cần được hoàn thiện (chẳng hạn khoản cấp dưỡng cho người thân của người bị thiệt hại trong trường hợp sau khi điều trị người bị thiệt hại mất hoàn toàn hoặc một phần khả năng lao động; mức bồi thường thiệt hại về tinh thần được đánh giá là quá thấp và quy định giới hạn mức trần là không hợp lý...).
1.4.6. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Pháp luật chưa có quy định về việc: (1) Phân định trách nhiệm của từng chủ thể trong các khâu từ sản xuất tới lưu thông một sản phẩm tới tay người tiêu dùng (chẳng hạn như trường hợp hàng hóa đã được chuyển giao qua nhiều nhà sản xuất); (2) Quyền của người bị thiệt hại trong việc yêu cầu bất cứ một chủ thể nào trong chuỗi sản xuất phân phối bồi thường thiệt hại và vấn đề liên đới bồi thường giữa các chủ thể này...
1.4.7. Chủ thể được bồi thường thiệt hại
Từ quy định của pháp luật nước ta về chủ thể người tiêu dùng có thể nêu một số vấn đề như cách tiếp cận của pháp luật nước ta chưa thực sự rõ ràng về vấn đề về chủ thể người tiêu dùng có thể là tổ chức hay không? Người tiêu dùng có nhất thiết phải là người sử dụng sản phẩm vì mục đích tiêu dùng hay không? Chủ thể yêu cầu bồi thường thiệt hại có thể là người thứ ba không trực tiếp sử dụng sản phẩm nhưng vẫn chịu tác hại từ khuyết tật của nó hay không?
2. Luận điểm 2: Thực tiễn bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung và thực thi pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm khuyết tật gây ra nói riêng không hiệu quả, bộc lộ nhiều yếu kém của hệ thống pháp luật và cơ chế thực thi
2.1. Thực trạng sản phẩm khuyết tật
Tại Việt Nam, theo sự phát triển của nền kinh tế thị trường, những năm gần đây các ngành chức năng liên tiếp phát hiện, bắt giữ nhiều vụ vận chuyển, sản xuất, thu hồi số lượng lớn các loại hàng hóa có khuyết tật, không đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng. Những hàng hóa có khuyết tật này có thể diễn ra đối với mọi loại hàng hóa, từ hàng tiêu dùng cho đến những hàng hóa có giá trị lớn như ô tô, điện thoại, xe máy... Nguy hại hơn, nó được bày bán tràn lan ở khắp mọi nơi, từ vùng nông thôn đến thành thị và có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ[1].
Tuy nhiên, do không có cơ quan nào thực hiện công tác thống kê, phân loại, vì vậy hiện nay không có số liệu tổng quan về tất cả các loại hàng hóa có khuyết tật trên thị trường, mà chỉ có các số liệu, vụ việc đơn lẻ về một số mặt hàng riêng biệt thể hiện trên website của các cơ quan quản lý và do các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin trong những năm qua (chiếm một phần nhỏ trong tổng số hàng hóa khuyết tật có trên khắp cả nước).
2.2. Thiệt hại do sản phẩm khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng
Theo số liệu chung về tình trạng người tiêu dùng bị thiệt hại, có đến 81,6% người tiêu dùng được hỏi cho rằng tình trạng doanh nghiệp xâm phạm đến quyền lợi người tiêu dùng là rất phổ biến, trong đó có 62% số người được hỏi trả lời đã từng bị thương nhân xâm phạm quyền lợi của mình[2].
- Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của người tiêu dùng
+ Nhóm sản phẩm thực phẩm và nhóm sản phẩm chữa bệnh chiếm tỷ lệ cao (hơn 80%) trong các loại hàng hóa có khuyết tật gây ảnh hưởng tới tính mạng, sức khỏe của người tiêu dùng. Các tác hại do ăn, uống gây nên không chỉ biểu hiện cấp tính như ngộ độc thức ăn, dị ứng hay sốc thuốc, ngộ độc thuốc mà còn gây ra các bệnh mạn tính do nhiễm và tích lũy trong thời gian dài các chất độc hại gây rối loạn chuyển hóa các chất trong cơ thể, trong đó có bệnh tim mạch và ung thư.
+ Các loại sản phẩm khuyết tật khác như ô tô, xe máy bị lỗi kỹ thuật, sản phẩm không có khuyến cáo hướng dẫn sử dụng gây ảnh hưởng tới người tiêu dùng chiếm tỷ lệ ít hơn (chỉ gần 20%)[3].
- Thiệt hại về tài sản và việc sử dụng hàng hóa của người tiêu dùng:
Thiệt hại về tài sản được biểu hiện cụ thể gồm những mất mát về tài sản, giảm sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, sửa chữa thay thế, những lợi ích trực tiếp gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Chỉ tính riêng tại Văn phòng tư vấn khiếu nại của VINASTAS ở Hà Nội trong 8 tháng đầu năm 2014, các tài sản bị thiệt hại theo phản ánh của người tiêu dùng đã lên tới hơn 5,4 tỷ đồng[4].
2.3. Thực trạng người tiêu dùng yêu cầu doanh nghiệp bồi thường thiệt hại
2.3.1. Người tiêu dùng phản ánh trực tiếp tới doanh nghiệp và khiếu nại tới các cơ quan có thẩm quyền.
- Theo thống kê của Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương, từ năm 2011 - 2013 trung bình mỗi năm có khoảng 60 vụ khiếu nại bằng văn bản gửi đến Cục. Trong 8 tháng đầu năm 2014, Cục đã tiếp nhận và xử lý tổng số 790 khiếu nại từ người tiêu dùng (cao gấp hơn 3 lần so với cả năm 2013 chỉ có 215 khiếu nại).
- Tại các Sở Công thương: từ năm 2011 - 2013 trung bình mỗi năm có khoảng 550 vụ việc khiếu nại đến các Sở Công thương địa phương. Tính đến giữa năm 2013[5], các Sở Công thương đã tiếp nhận khoảng 276 vụ việc khiếu nại của người tiêu dùng.
- Tại Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (VINASTAS), những năm gần đây trung bình mỗi năm Hội phải giải quyết trên 1.000 khiếu nại các loại, riêng trong năm 2013 Hội đã tiếp nhận trên 1.036 vụ việc liên quan đến xâm hại quyền lợi người tiêu dùng. Trong 6 tháng đầu năm 2014, số đơn tiếp nhận là 374 đơn.
Tại các doanh nghiệp đã thành lập các bộ phận tiếp nhận và giải quyết các ý kiến, phản ánh của người tiêu dùng (chủ yếu tại các doanh nghiệp lớn như: Sony, Samsung, Toyota, Dag…)[6] cũng tiếp nhận nhiều phản ánh từ người tiêu dùng trong quá trình mua, sử dụng sản phẩm. Đơn cử như tại Công ty Toyota Việt Nam chỉ tính riêng từ tháng 4 đến tháng 8/2013 có 36 người khiếu nại về việc xe Corolla vẫn chạy mặc dù đã đạp thắng[7].
2.3.2. Người tiêu dùng khởi kiện
Tại trọng tài: những năm gần đây không có vụ khởi kiện nào do người tiêu dùng yêu cầu giải quyết.
Tại tòa án: chiếm một số lượng ít, mỗi năm chỉ có từ 1-2 vụ (theo thống kê năm 2012 tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có 02 vụ, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có 02 vụ). Theo các thông tin tại tòa án và website của các tổ chức có chức năng bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (như tại VINASTAS, Hội Chống gian lận thương mại và hỗ trợ người tiêu dùng - AFCA....) các năm gần đây chưa có vụ việc nào do các tổ chức tham gia đại diện cho người tiêu dùng để khởi kiện.
So sánh với số lượng lớn hàng khuyết tật có trên thực tế và mức độ, số lượng người tiêu dùng bị thiệt hại thì số lượng người tiêu dùng yêu cầu bồi thường thiệt hại cho thấy người tiêu dùng chưa được đảm bảo quyền được bồi thường thiệt hại do sản phẩm khuyết tật gây ra. Thực trạng trên do các nguyên nhân sau đây:
Một là, do người tiêu dùng không biết về quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Hai là, do tâm lý chấp nhận rủi ro, ngại va chạm, sợ mất thời gian cho các thủ tục giải quyết khiếu kiện phức tạp đã ăn sâu vào thói quen ứng xử của người Việt Nam, hoặc do không tin tưởng vào cơ chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, vì vậy đa số người tiêu dùng lựa chọn việc im lặng và chỉ có một số ít người tiêu dùng thông qua báo chí và nhờ đến các Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Ba là, người tiêu dùng khó khăn về khả năng chứng minh, thời gian, điều kiện tài chính để có thể thuê các dịch vụ pháp lý, thuê luật sư theo đuổi vụ việc.
2.3. Thực trạng giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng
2.3.1. Phương thức thương lượng:
Theo điều tra của Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam năm 2012 về ý kiến của người tiêu dùng, những khách hàng nhận được sự tiếp thu nghiêm túc của doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 21%, còn 30% không nhận được phản ứng gì, 45% tỏ thái độ khó chịu, thậm chí còn nhận được phản ứng khiếm nhã (4%); có đến 82% người tiêu dùng bị thiệt hại không được bồi thường.
2.3.2. Phương thức hòa giải
Theo thông tin từ Cục Quản lý cạnh tranh có khoảng 80% trong tổng số khiếu nại giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp được giải quyết bằng phương thức hòa giải[8].
2.3.3. Phương thức giải quyết tại tòa án
Phương thức khởi kiện yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng tại tòa án chưa đảm bảo được quyền lợi của người tiêu dùng. Thực trạng này do những nguyên nhân như sau:
- Người tiêu dùng không lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp tại tòa án, phần đông người dân hiểu và nắm luật rất hạn chế nên không biết bắt đầu kiện từ đâu, thủ tục thế nào, cộng thêm quan niệm sai lầm "vô phúc đáo tụng đình", lo sợ mất thời gian[9], tiền bạc mà không có kết quả hoặc có thắng kiện thì khoản chi phí mà người tiêu dùng phải bỏ ra trong quá trình theo kiện có thể lớn hơn khoản bồi thường mà người tiêu dùng nhận được. Vì vậy phần lớn người tiêu dùng xem đây là “biện pháp cuối cùng” để bảo vệ quyền lợi của mình.
- Những người tiêu dùng quyết tâm khởi kiện cũng gặp phải rất nhiều khó khăn ngay từ khâu ban đầu - Nộp đơn khởi kiện. Để được tòa án thụ lý thì phần đông người tiêu dùng phải mất nhiều thời gian, công sức, chi phí đi lại, có trường hợp vụ án không được thụ lý. Khó khăn này khiến người tiêu dùng phải rút đơn kiện.
- Mặc dù pháp luật về tố tụng dân sự đã có quy định người tiêu dùng khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình không phải nộp tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí, được xem xét thủ tục đơn giản[10], nhưng đến thời điểm đề tài được thực hiện, chưa có để từ chối quyền được miễn tạm ứng án phí, khiến người tiêu dùng phải rút đơn khởi kiện, vụ án không được thụ lý.
- Do pháp luật tố tụng Việt Nam chưa có quy định cụ thể về hình thức khởi kiện tập thể và giải quyết theo trình tự thủ tục rút gọn
2.4. Khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại của người tiêu dùng
- Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại: Quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 02 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm[11] còn có nhiều tranh cãi và được đánh giá là quá ngắn, không đảm bảo quyền của người tiêu dùng.
- Về việc xác định khuyết tật của sản phẩm: đối với khuyết tật cụ thể (như trong sản phẩm có hoá chất gây độc hại, cấu tạo của sản phẩm có góc nhọn có thể gây thương tích cho người dùng v.v.) thì người tiêu dùng có thể xác định được dễ dàng. Tuy nhiên đối với khuyết tật suy đoán đòi hỏi phải có sự đo đạc, giám định và đối chiếu với quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, đây là điều tương đối khó khăn, tốn kém đối với người tiêu dùng.
- Về việc xác định chủ thể bồi thường thiệt hại: người tiêu dùng gặp phải khó khăn trong việc tìm đến doanh nghiệp để yêu cầu bồi thường thiệt hại (khó khăn này có thể do khoảng cách xa, thái độ không hợp tác của doanh nghiệp...) phổ biến nhất là khi người tiêu dùng mua hàng trên mạng hay mua khi đi du lịch.
- Về việc cung cấp chứng cứ:
Theo quy định của một số cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, như tại các Sở công thương, thông thường khi người tiêu dùng phát hiện và nghi ngờ sản phẩm chưa bảo đảm an toàn. Điều kiện bắt buộc là phải mang theo mẫu còn nguyên đai, nguyên kiện, chưa được bóc ra. Sau đó Thanh tra mời doanh nghiệp sản xuất lên để đối chiếu, xác nhận sản phẩm. Đối với các khiếu nại, thông thường Thanh tra Sở sẽ tiến hành hoà giải. Việc hoà giải không thành thì mẫu nghi ngờ sẽ được mang đi kiểm định[12]. Tuy nhiên, đa số người tiêu dùng chỉ biết sản phẩm có khuyết tật khi đã bóc và dùng sản phẩm, như vậy đương nhiên sản phẩm không thể đảm bảo là còn “nguyên đai, nguyên kiện”. Trong những trường hợp này người tiêu dùng khó có thể yêu cầu doanh nghiệp bồi thường thiệt hại.
Ngoài ra, các khó khăn trong việc cung cấp chứng cứ một phần cũng do lỗi của chính người tiêu dùng do thói quen khi mua hàng hóa không quan tâm đến hóa đơn, chứng từ liên quan, hoặc nếu có thì người tiêu dùng cũng chỉ coi tờ hóa đơn là tờ giấy liệt kê hàng hóa, giá cả và thường bỏ đi trước khi sử dụng hàng hóa... Ngược lại, không ít doanh nghiệp không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ hóa đơn chứng từ cho người mua hàng. Vì vậy, người tiêu dùng không đưa ra được chứng cứ thuyết phục khi yêu cầu doanh nghiệp bồi thường thiệt hại.
-
Những điểm tồn tại trong việc thực hiện chức năng bảo vệ người tiêu dùng của các cơ quan, tổ chức
- Công tác thống kê chưa được các cơ quan có chức năng bảo vệ người tiêu dùng thực hiện thường xuyên và kịp thời:
- Việc giao chức năng quản lý nhà nước cho các đơn vị chuyên môn tại các địa phương không có sự thống nhất;
- Khi có vụ việc xảy ra các cơ quan quản lý nhà nước chưa nhanh chóng vào cuộc ,có sự đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan, ban ngành có thẩm quyền;
- Các hoạt động đại diện cho người tiêu dùng để khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại thực hiện chưa hiệu quả
3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi nhằm đảm bảo quyền được bồi thường thiệt hại của người tiêu dùng
3.1. Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của người tiêu dùng do sản phẩm khuyết tật gây ra.
3.1.1. Sửa đổi bổ sung một số quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần bổ sung các nội dung sau đây:
- Quy định về khái niệm sản phẩm hàng hóa, theo đó cần xác định rõ một số sản phẩm đặc biệt (như bất động sản, động sản và bất động sản hình thành trong tương lai, tài sản vô hình, điện năng, khí ga, nông sản chưa qua chế biến, thông tin đính kèm sản phẩm...) có thuộc phạm vi điều chỉnh của chế định trách nhiệm sản phẩm hay không?
- Quy định về khái niệm sản phẩm khuyết tật: trong đó cần xác định rõ các yếu tố xác định một sản phẩm là “sản phẩm khuyết tật”. Đó là:
+ Tính an toàn của sản phẩm”
+ Khả năng tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn cho người tiêu dùng có thể nhìn thấy trước một cách hợp lý của sản phẩm;
+ Chỉ dẫn, hướng dẫn, cảnh báo được đưa ra;
+ Thời điểm sản phẩm được đưa vào lưu thông;
+ Cách thức cung cấp dịch vụ
+ Hậu quả của khả năng gây hại có thể dự đoán một cách hợp lý
+ Các khâu, quá trình có thể phát sinh khuyết tật của sản phẩm
- Các trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra: trong đó cần xác định rõ doanh nghiệp được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra, nếu chứng minh được khuyết tật của hàng hoá không thể phát hiện được với “trình độ khoa học, kỹ thuật trên thế giới” tại thời điểm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá cung cấp cho người tiêu dùng.
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần quy định một cách chi tiết các tiêu chí để chứng minh khuyết tật của sản phẩm không thể tìm ra được tại thời điểm tổ chức, cá nhân kinh doanh cung cấp sản phẩm cho người tiêu dùng. Các tiêu chí này có thể xét đến một số yếu tố như: (1) Xem xét quy trình sản xuất sản phẩm (có tuân thủ nghiêm ngặt theo tiêu chuẩn quốc tế hay không?); (2) Xem xét thời gian sản phẩm được đưa ra lưu thông trên thị trường; (3) Xem xét sản phẩm cùng loại được đưa ra lưu thông cùng thời gian, đáp ứng đầy đủ giá trị sử dụng nhưng không tồn tại khuyết tật như sản phẩm đã gây ra thiệt hại…
Luật cần bổ sung thêm trường hợp miễn trừ; trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
+ Trường hợp cung cấp sản phẩm không vì mục đích kinh doanh: chẳng hạn như viện trợ y tế thử nghiệm các loại thuốc ngăn chặn dịch bệnh;
+ Trường hợp thương nhân không cung cấp sản phẩm ra thị trường: chẳng hạn hàng hoá đang trong quá trình thử nghiệm và chưa được đưa ra khai thác thương mại nhưng được những người không có thẩm quyền đưa ra thị trường;
+ Trường hợp doanh nghiệp chỉ ra được lỗi của người thứ ba và lỗi đó là nguyên nhân gây ra toàn bộ hay một phần thiệt hại, trong trường hợp này, phần miễn trừ (toàn bộ hay một phần) sẽ tương ứng với mức độ thiệt hại do lỗi của người thứ ba gây ra;
+ Miễn trừ với những vụ yêu cầu bồi thường thiệt hại với giá trị nhỏ;
+ Nhà sản xuất không đưa sản phẩm vào lưu thông ;
+ Sản phẩm đã được sử dụng với tư cách là nguyên vật liệu hoặc phụ tùng, linh kiện để sản xuất một sản phẩm khác và khuyết tật này xảy ra vì tuân thủ với các chỉ dẫn sản xuất của nhà sản xuất sản phẩm mới.
- Về nghĩa vụ chứng minh: cần giảm bớt nghĩa vụ chứng minh của người tiêu dùng. Có thể tham khảo kinh nghiệm pháp luật Singapore theo đó, nhà sản xuất phải chứng minh rằng sản phẩm họ đưa vào thị trường là không có khuyết tật mới được loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
- Cần xác định cụ thể chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:
Một là, phân định trách nhiệm của từng chủ thể trong các khâu từ sản xuất tới lưu thông một sản phẩm tới tay người tiêu dùng (chẳng hạn như trường hợp hàng hóa đã được chuyển giao qua nhiều nhà sản xuất);
Hai là, quyền của người bị thiệt hại trong việc yêu cầu bất cứ một chủ thể nào trong chuỗi sản xuất phân phối bồi thường thiệt hại và vấn đề liên đới bồi thường giữa các chủ thể này.
- Về chủ thể được bồi thường thiệt hại: cần xác định rõ người tiêu dùng được bồi thường có thể là tổ chức hay không? Người được yêu cầu bồi thường thiệt hại do sản phẩm khuyết tật gây ra có thể là người thứ ba không phải là người mua, người sử sụng sản phẩm- người không trực tiếp sử dụng sản phẩm nhưng vẫn chịu tác hại từ khuyết tật của sản phẩm. Cần có xác định rõ thế nào là “mục đích tiêu dùng”.
3.1.2. Sửa đổi, bổ sung Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007
Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá là một cơ sở để xác định sản phẩm khuyết tật được quy định tại Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, do vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng không cần thiết giữ lại quy định về trách nhiệm sản phẩm trong Luật về Chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Ngoài ra, cần xem lại khái niệm sản phẩm trong Luật này theo hướng phù hợp với thông lệ chung. Các quy định về bồi thường thiệt hại sẽ được áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, trong trường hợp sản phẩm gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì áp dụng quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
3.1.3. Sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật Dân sự
- Để bảo đảm tốt nhất quyền lợi của người tiêu dùng, Bộ luật Dân sự nên sửa quy định về thời hiệu thành các quy định về thời hạn hưởng quyền và thời hạn miễn trừ thực hiện nghĩa vụ, Bộ luật Dân sự cần quy định về thời hiệu theo nguyên tắc: cá nhân, pháp nhân phải yêu cầu tòa án, trọng tài giải quyết vụ, việc dân sự trong thời hạn luật định, hết thời hạn đó mà cá nhân, pháp nhân mới có yêu cầu thì thay vì từ chối giải quyết yêu cầu của cá nhân, pháp nhân như quy định hiện hành, tòa án hoặc trọng tài vẫn thụ lý, giải quyết và tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ dân sự. Người được hưởng quyền dân sự có quyền từ chối việc hưởng quyền, người được miễn trừ nghĩa vụ dân sự có quyền từ chối việc miễn trừ nghĩa vụ, trừ trường hợp việc từ chối đó có mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ hoặc vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội.
- Nên bỏ quy định miễn trừ trách nhiệm đối với trường hợp vật mua thông qua đấu giá và mua tại cửa hàng đồ cũ, bổ sung trường hợp miễn trừ nếu khuyết tật là rõ ràng và cho phép người mua nhận biết được trước khi nhận vật. Trong trường hợp quan hệ mua bán là giữa người cung cấp hàng chuyên nghiệp với người tiêu dùng, người mua có thể lựa chọn áp dụng quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hoặc áp dụng quy định tại Điều 444 Bộ luật Dân sự.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về các loại thiệt hại được bồi thường và mức bồi thường. Trong đó, đối với thiệt hại về vật chất, cần xem xét lại nguyên tắc bồi thường các thiệt hại thực tế và trực tiếp vì trên thực tế nguyên tắc bồi thường này không bù đắp được thiệt thòi cho người bị thiệt hại. Cân nhắc bổ sung các thiệt hại thực tế sau:
Một là, về các khoản bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn hoặc một phần sức lao động sau khi điều trị:
+ Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ nuôi dưỡng trong trường hợp sau khi điều trị người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động.
+ Một phần khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ nuôi dưỡng trong trường hợp sau khi điều trị người bị thiệt hại mất một phần khả năng lao động dẫn đến thu nhập thực tế bị giảm sút hoặc không thể tìm kiếm được công việc có thu nhập.
Hai là, Bộ luật Dân sự cần bổ sung chi phí khám chữa bệnh đối với trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại nặng nề dẫn đến việc người bị thiệt hại bị ảnh hưởng sức khỏe;
Ba là, qua nghiên cứu quy định của pháp luật, đối chiếu với phong tục tập quán và nghi lễ mai táng ở nước ta, nhóm nghiên cứu cho rằng nên cân nhắc bổ sung thêm một số khoản chi phí liên quan đến việc mai táng gồm: chi phí bảo quản xác, vệ sinh xác trước khi chon cất; chi phí cho việc thuê khâm liệm; chi phí cho những người đào huyệt; tiền mua đất để chôn người chết.
Bốn là, cần bổ sung quy định về việc không đặt ra trách nhiệm cấp dưỡng trong trường hợp người phải bồi thường thiệt hại bị tuyên án chung thân, tử hình và không còn tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Đối với thiệt hại tinh thần: cần tăng mức trần về bồi thường tổn thất về tinh thần trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín, sức khỏe bị xâm phạm.
3.1.4. Sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011
(i) Xây dựng quy định về thủ tục tố tụng đơn giản (thủ tục rút gọn)
Qua nghiên cứu một số tài liệu liên quan đến xây dựng thủ tục rút gọn[13], nhóm nghiên cứu đồng ý đề xuất mô hình xây dựng thủ tục rút gọn áp dụng với những vụ việc như sau:
- Loại việc có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ của mình
- Loại việc có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết là đơn giản;
- Loại việc có tranh chấp giá trị nhỏ
- Các vụ việc được đương sự thỏa thuận lựa chọn áp dụng thủ tục rút gọn.
Việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn để giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền lợi người tiêu dùng nói chung, giải quyết việc bồi thường thiệt hại của doanh nghiệp do sản phẩm khuyết tật gây ra đối với người tiêu dùng nhanh chóng, kịp thời, đơn giản (một thẩm phán giải quyết, thời gian và các bước giản lược, phán quyết có thể có giá trị thi hành ngay).
(ii) Quy định cụ thể cơ chế kiện tập thể
Bộ luật Tố tụng dân sư cần có quy định đảm bảo cơ chế khởi kiện tập thể (quyền khởi kiện của các tổ chức xã hội, trình tự, thủ tục để các tổ chức xã hội đại diện cho thành viên, cộng đồng tham gia giải quyết các vụ việc dân sự).
3.1.5. Sửa đổi Pháp lệnh Án phí, lệ phí tòa án
Khi sửa đổi Pháp lệnh Án phí, lệ phí tòa án cần quy định rõ cơ chế giảm hoặc miễn án phí cho nguyên đơn là người tiêu dùng. Tuy nhiên, cũng phải xét đến tính hai mặt của quy định này và có cơ chế kiểm soát phù hợp vì có thể xảy ra trường hợp người tiêu dùng lợi dụng quy định không phải nộp tạm ứng án phí, đưa các thương nhân vào vòng kiện tụng nhằm dọa dẫm, cản trở hoạt động kinh doanh của họ một cách thiếu căn cứ.
3.1.6. Ban hành văn bản điều chỉnh tổ chức và hoạt động hòa giải
Từ việc nghiên cứu sơ thảo dự thảo Nghị định về hòa giải thương mại mà Bộ Tư pháp đang xây dưng, nhóm nghiên cứu cho rằng, dự thảo này cần được bổ sung các nội dung sau:
(i) Về giá trị pháp lý của điều khoản lựa chọn biện pháp hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp
Điều khoản lựa chọn biện pháp hòa giải để giải quyết tranh chấp được hiểu là thỏa thuận giữa các bên trong giao dịch, hợp đồng về việc đưa vụ tranh chấp sẽ hoặc đã phát sinh ra giải quyết bằng phương thức hòa giải. Cũng tương tự như điều khoản trọng tài, điều khoản hòa giải có thể được quy định thành một điều khoản ngay trong hợp đồng giữa các bên hoặc được các bên thoả thuận trong một hợp đồng riêng. Điều khoản này có thể được soạn thảo trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.
Dự thảo Nghị định hòa giải thương mại cần được xây dựng theo hướng công nhận giá trị điều khoản hòa giải, theo đó trong trường hợp các bên có thỏa thuận lựa chọn hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp thì các bên phải hòa giải trước, trong trường hợp hòa giải không thành mới đưa vụ việc đến cơ quan trọng tài, tòa án.
(ii) Về giá trị thi hành của biên bản hòa giải thành
Nhóm nghiên cứu cho rằng, để phương thức hòa giải phát triển, cần công nhận hiệu lực pháp lý của biên bản hòa giải thành, theo đó Dự thảo Nghị định về Hòa giải thương mại và Bộ luật Tố tụng dân sự cần có những quy định theo hướng các bên có thể yêu cầu tòa án công nhận thỏa thuận hòa giải theo thủ tục giải quyết các việc dân sự - một thủ tục đơn giản, ít tốn kém về thời gian và phù hợp với các sự kiện, việc dân sự đã rõ ràng; về lâu dài có thể hoàn thiện Bộ luật Tố tụng dân sư theo hướng coi đây là một thủ tục mang tính ghi nhận tại Tòa án chứ không phải là một quy trình tố tụng tại Tòa. Bên cạnh đó, cần bổ sung thêm các quy định cho phép cơ quan có thẩm quyền hủy thỏa thuận hòa giải do nhầm lẫn, lừa dối.
3.2. Giải pháp nhằm tăng cường năng lực của các cơ quan, tổ chức có chức năng bảo vệ người tiêu dùng
Để tăng cường năng lực của các cơ quan, tổ chức có chức năng bảo vệ người tiêu dùng, nhóm nghiên cứu cho rằng các cơ qaun nhà nước có thẩm quyền cần thực hiện các giải pháp sau đây:
- Nâng cao năng lực của Bộ Công thương;
- Giải pháp nhằm tăng cường năng lực của Ủy ban nhân dân các cấp;
- Giải pháp tăng cường năng lực của các bộ, ngành liên quan;
- Giải pháp nhằm tăng cường năng lực của Hội Bảo vệ người tiêu dùng;
- Giải pháp nhằm tăng cường năng lực của hệ thống tòa án
[1] http://www.vca.gov.vn/ Cục quản lý cạnh tranh - Bộ công thương
[2] Theo khảo sát của nhóm nghiên cứu đề tài “Tăng cường năng lực các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam” tháng 1/2014. Cơ quan chủ trì: Viện Khoa học pháp lý. Chủ nhiệm: TS Nguyễn Thị Vân Anh. Trang 64.
[3] Theo thông tin từ Bộ Y tế tháng 6/2014.
[5] Theo tổng hợp của Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương trên cơ sở báo của Sở Công thương
[6] Theo thống kê của Bộ Công thương năm 2013.
[7] Theo thông tin từ http://viendongdaily.com/
[8] Thông tin trong Bản tham luận của Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương trong hội thảo “Nhìn lại hai năm thực thi Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 11/7/2013.
[9] Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, tính từ khi nộp đơn, hoàn thiện hồ sơ khởi kiện cho đến lúc được Tòa án ra bản án/quyết định người khởi kiện phải chờ đợi thời gian dài từ 6 tháng- 1 năm, hoặc lâu hơn đối với những vụ việc phức tạp.
[10]Theo Điều 41 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.
[11] Xem Điều 607 Bộ luật Dân sự năm 2005; tiểu mục 6 Mục I Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
[12] Theo thông tin tại Sở công thương tỉnh Thái Nguyên http://congthuongthainguyen.gov.vn/
[13] Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý, Đề tài khoa học cấp Bộ: “Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay - thực trạng và giải pháp”, 2014. tr. 88-118.