Do vai trò của bảo hiểm về mặt xã hội và về mặt phát triển kinh tế nên cuối những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến xây dựng hệ thống pháp luật về kinh tế bảo hiểm. Tuy nhiên, qua 15 năm thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm, các quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Bảo vệ người tiêu dùng đã bộc lộ những vấn đề cần giải quyết về chất lượng pháp luật, về bộ máy tổ chức thi hành pháp luật, về môi trường pháp lý bảo đảm điều kiện thi hành pháp luật… Thực trạng đó đã tác động đến lợi ích của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong đó, vấn đề chưa bảo vệ có hiệu quả được quyền lợi của người được bảo hiểm đã ảnh hưởng tới các mặt sau đây:
Thứ nhất, chưa phát huy được vai trò của kinh doanh bảo hiểm trong bảo đảm an sinh xã hội; chưa phát huy được vai trò của bảo hiểm trong thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Thứ hai, chưa tạo dựng được cơ sở pháp lý cần thiết để phòng ngừa rủi ro tài chính phát sinh trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm để thu hút tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức và cá nhân nước ngoài tham gia thị trường bảo hiểm ở Việt Nam, tạo đà cho thị trường kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam hội nhập sâu rộng vào thị trường bảo hiểm quốc tế. Thực tế đó đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong đó có việc nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về kinh doanh bảo hiểm và các bộ phận pháp luật khác có liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm.
- Ngành tư pháp được giao nhiệm vụ là cơ quan trực tiếp xây dựng Dự thảo Bộ Luật dân sự (sửa đổi), trong đó có các quy định về bảo hiểm. Nhiều vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, đến quyền lợi của người được bảo hiểm được quy định trong Bộ luật Dân sự nhưng thực tế thi hành đã phát sinh những vướng mắc, bất cập phải sửa đổi, bổ sung như: với vai trò là nền tảng của pháp luật tư, Bộ luật Dân sự cần có những quy định gì, giới hạn điều chỉnh đến đâu các quan hệ kinh doanh bảo hiểm so với Luật Kinh doanh bảo hiểm và các bộ phận pháp luật khác; vấn đề xác định hợp đồng bảo hiểm có phải là hợp đồng dân sự thông dụng không; vấn đề thể hiện các nguyên tắc của giao dịch dân sự trong quan hệ kinh doanh bảo hiểm.
Ngoài ra, ngành tư pháp với tư cách là cơ quan thực hiện nhiệm vụ do Chính phủ giao là quản lý nhà nước về xây dựng và theo dõi thi hành pháp luật. Do đó, việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn, các tư liệu phục vụ việc góp ý, thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật, gồm cả bốn lĩnh vực pháp luật trụ cột là pháp luật hình sự - hành chính, pháp luật dân sự - kinh tế - thương mại, pháp luật quốc tế và pháp luật tố tụng.
Đề tài nghiên cứu có diện tiếp cận các vấn đề rất rộng nhưng trọng tâm là nghiên cứu lý luận, thực tiễn và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm mục tiêu bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm. Do đó, các vấn đề không thuộc trọng tâm nghiên cứu của nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu như: lí luận pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, địa vị pháp lý của doanh nghiệp bảo hiểm, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của người mua bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm, pháp luật về giải quyết tranh chấp, các giải pháp mang tính tổ chức thi hành pháp luật… không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Với phạm vi nghiên cứu như vậy, đề tài nghiên cứu các nội dung chính sau đây:
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM VÀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HIỂM
Sau khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bảo hiểm và pháp luật bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm, nhóm nghiên cứu đã đúc kết một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong nhà nước pháp quyền, pháp luật phải đóng vai trò là phương tiện để người được bảo hiểm tự bảo vệ mình, là công cụ để nhà nước bảo vệ quyền lợi chính đáng của người được bảo hiểm, duy trì trật tự công bằng về lợi ích của các bên giao kết hợp đồng bảo hiểm. Để thực hiện được mục tiêu này, cần phải xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật liên quan đến quyền lợi của người được bảo hiểm đáp ứng chuẩn mực chung là: thống nhất, cụ thể, minh bạch.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh bảo hiểm làm phát sinh các mối quan hệ xã hội gắn với các tác nghiệp kỹ thuật kinh tế. Do đó, pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, trong đó có các quy phạm pháp luật liên quan đến việc trực tiếp bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm bị chi phối bởi yếu tố tác nghiệp kỹ thuật kinh tế. Chính vì lẽ đó mà pháp luật của các quốc gia trong điều kiện toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới điều chỉnh quan hệ phát sinh trong lĩnh vực bảo hiểm ngày càng có tính tương đồng, phản ánh yêu cầu hội nhập quốc tế. Bởi vậy, việc xây dựng pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nói chung và bộ phận pháp luật trực tiếp bảo vệ quyền lợi của người dược bảo hiểm cần tránh quan điểm tuyệt đối hóa tính giai cấp và bản chất chính trị của chế độ nhà nước.
Thứ ba, việc bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm một cách công bằng, hợp lý là tạo niềm tin của xã hội đối với dịch vụ bảo hiểm, góp phần thúc đẩy thị trường bảo hiểm , thông qua đó góp phần phát triển kinh tế xã hội bền vững, khai thông thêm nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Ngoài việc hệ thống hóa các tài liệu lý luận về kinh doanh bảo hiểm để tạo tiền đề cho việc nghiên cứu các vấn đề lý luận trọng tâm, nghiên cứu pháp luật của một số nước liên quan đến quyền lợi của người được bảo hiểm, các nội dung mang tính chất lý luận được nhóm nghiên cứu phân tích trong đề tài gồm có:
1. Khái niệm
Nhóm nghiên cứu đề tài đã làm rõ nội hàm khái niệm một số khái niệm cơ bản;
Kinh doanh bảo hiểm là sự bảo đảm bằng hợp đồng, theo đó, bên bảo hiểm chấp nhận chi trả bảo hiểm (bằng tiền hoặc bằng tài sản) cho người thụ hưởng hay người được bảo hiểm khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm trên cơ sở người tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm, thông qua việc thực hiện hợp đồng, bên bảo hiểm thu được lợi nhuận.
Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm, pháp luật của Việt Nam cũng như các nước phân chia kinh doanh bảo hiểm làm ba nhóm chính:
- Bảo hiểm tài sản: là loại hình bảo hiểm mà theo đó doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả tiền hoặc đền bù bằng tài sản cho giá trị tài sản của người được bảo hiểm khi có rủi ro xâm hại.
- Bảo hiểm con người: là loại hình bảo hiểm mà theo đó doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả tiền bảo hiểm khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm liên quan đến tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và tai nạn của người được bảo hiểm.
Bảo hiểm con người gồm có: bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm con người phi nhân thọ.
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: là loại hình bảo hiểm mà theo đó doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả tiền bảo hiểm cho người bị thiệt hại khi người mua bảo hiểm phát sinh nghĩa vụ dân sự phải đền bù cho người đó. Theo điều 8 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 của Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2010) bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một loại hình bảo hiểm bắt buộc.
Kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh dịch vụ tài chính. Do đó, người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là người có quyền lợi cần được pháp luật bảo hộ. Pháp luật của các nước về kinh doanh bảo hiểm không có định nghĩa riêng thế nào là quyền lợi của người được bảo hiểm. Tuy nhiên, quyền lợi của người được bảo hiểm có thể nhận diện qua suy đoán từ quyền lợi của người tiêu dùng hưởng dịch vụ của nhà kinh doanh.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền lợi của người được bảo hiểm
Nhóm nghiên cứu đề tài đã xác định rõ năm yếu tố ảnh hưởng đến quyền lợi của người được bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm. Đó là:
2.1. Đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, khi doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhận phí bảo hiểm do bên bảo hiểm đóng thì họ không chuyển giao tài sản hay một loại sản phẩm hữu hình mà người mua bảo hiểm chỉ nhận được cam kết từ phía doanh nghiệp bảo hiểm. Điều này đặt ra yêu cầu là người có quyền lợi được bảo hiểm phải hiểu biết pháp luật và hợp đồng bảo hiểm. Mặt khác, về phương diện lập pháp, nhà nước cần có các quy định cụ thể, minh bạch thì mới có cơ sở để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm.
2.2. Chính sách của nhà nước
Chính sách của nhà nước đối với việc phát triển thị trường kinh doanh bảo hiểm ảnh hưởng tới phạm vi cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho khách hàng của doanh nghiệp bảo hiểm và đương nhiên ảnh hưởng tới quyền lợi của người được bảo hiểm. Điều này thể hiện ở chỗ, khi quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm được mở rộng thì khả năng hưởng lợi của người được bảo hiểm cũng có thể tăng lên nếu như họ hiểu biết về bảo hiểm. Tuy nhiên, lợi ích của người được bảo hiểm cũng có thể đi theo chiều hướng bất lợi nếu họ không hiểu biết về bảo hiểm và các rủi ro có thể phát sinh do hợp đồng bảo hiểm được ký kết có nhiều lỗ hổng gây bất lợi cho người được bảo hiểm.
2.3. Luật pháp quốc tế và tập quán quốc tế
Trên cơ sở nội luật hóa, luật pháp quốc tế trở thành một nguồn quan trọng của pháp luật quốc gia. Ví dụ quy định trong Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) trong khuôn khổ tổ chức thương mại thế giới (WTO) có ý nghĩa ràng buộc với các nước thành viên.
Ngoài các quy định của pháp luật quốc tế, tập quán quốc tế về bảo hiểm cũng có ảnh hưởng lớn đến kinh doanh bảo hiểm, trong đó có vấn đề bảo hiểm quyền lợi của người được bảo hiểm, với tư cách là bên có lợi ích trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm. Tập quán quốc tế về bảo hiểm được quan niệm phổ biến là chuẩn mực chung, áp dụng rộng rãi trong đời sống quốc tế.
2.4. Xung đột pháp luật
Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia có nhiều bộ phận pháp luật, ở các mức độ khác nhau có tác động đến quan hệ bảo hiểm nói chung và quyền lợi của người được bảo hiểm nói riêng. Để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm, pháp luật của các nước đều giải quyết tình trạng áp dụng pháp luật mà có xung đột theo hướng: giải thích hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm.
2.5. Năng lực thi hành pháp luật
Năng lực thi hành pháp luật là khả năng về nhận thức, khả năng về điều kiện thi hành pháp luật. Trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, năng lực thi hành pháp luật để bảo vệ quyền lợi người được bảo hiểm thì nhận thức của người mua bảo hiểm đóng vai trò quan trọng bậc nhất. Bởi vì, dù ở bất kỳ môi trường pháp lý - chính trị nào thì người có quyền lợi phải nhận thức đúng, đủ quyền lợi của mình trong việc thiết lập quan hệ pháp luật và phản kháng khi quyền lợi bị xâm hại.
Tiếp đến, các điều kiện để bảo đảm quyền lợi của người được bảo hiểm gồm năng lực tài chính của người được bảo hiểm khi tham gia tố tụng và cơ chế quản lý của nhà nước là yếu tố không thể thiếu được trong cấu thành năng lực thi hành pháp luật để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm.
Ngoài ra, tác động trực tiếp đến thi hành pháp luật để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm còn có các yếu tố khác như: môi trường cạnh tranh trong kinh doanh bảo hiểm; năng lực của cơ quan tài phán tranh chấp mà trụ cột là hệ thống tòa án. Nếu năng lực của tòa án không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn thì khả năng thi hành pháp luật chỉ có ý nghĩa khi chưa có tranh chấp.
3. Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm
Theo nhóm nghiên cứu, mô hình pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm cần có là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về tư cách pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết hợp đồng bảo hiểm, cơ chế kiểm soát đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhằm mục tiêu bảo đảm người mua bảo hiểm được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm hoặc quy định của pháp luật.
Pháp luật bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm cần điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội sau:
Thứ nhất, pháp luật cần điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội quy định tư cách chủ thể của doanh nghiệp bảo hiểm với tư cách là một bên giao kết hợp đồng bảo hiểm.
Thứ hai, pháp luật cần điều chỉnh nhóm quan hệ hợp đồng giữa doanh nghiệp bảo hiểm với người mua bảo hiểm.
Thứ ba, pháp luật cần điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội giữa cơ quan quản lí nhà nước, cơ quan có thẩm quyền giám sát với DNBH trong hoạt động giám sát nói chung và nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm nói riêng.
4. Tiêu chí đánh giá quyền lợi của người được bảo hiểm được bảo đảm
Nhóm nghiên cứu đã xác định được ba tiêu chí đánh giá quyền lợi của người được bảo hiểm được bảo đảm như sau:
Thứ nhất, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm người được bảo hiểm nhận được quyền lợi bảo hiểm phù hợp với quy định của pháp luật.
Thứ hai, người được bảo hiểm nhận được đầy đủ quyền lợi bảo hiểm trong thời hạn mà pháp luật quy định khi đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Thứ ba, quá trình tiến hành thủ tục yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường, người được bảo hiểm được tạo điều kiện thuận lợi từ các chủ thể có liên quan (doanh nghiệp bảo hiểm, các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc giám định bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường).
Đây là các tiêu chí đánh giá việc bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm nhưng đồng thời cũng là tiêu chí đánh giá chất lượng của pháp luật trong việc bảo đảm quyền lợi của người được bảo hiểm.
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TỪ GÓC ĐỘ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HIỂM
Nhóm nghiên cứu đã thực hiện việc nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm thực hiện theo ba nhánh nghiên cứu chính (pháp luật về bảo hiểm con người, pháp luật về bảo hiểm tài sản và pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm dân sự).
Bên cạnh những tiến bộ về xây dựng pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm, pháp luật bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm đã bộc lộ những hạn chế, bất cập cả về phương diện kỹ thuật lập pháp và cả về nội dung điều chỉnh, đó là sự thiếu đồng bộ và thiếu cụ thể. Đồng thời, với hiện trạng pháp luật, mặt bằng nhận thức về bảo hiểm của xã hội còn thấp, môi trường cạnh tranh chưa lành mạnh, cơ chế kiểm soát của Nhà nước, việc giải quyết tranh chấp hiệu quả chưa cao, nên quyền lợi bảo hiểm của người được bảo hiểm chưa được bảo đảm một cách thỏa đáng như nhiệm vụ điều chỉnh của pháp luật.
Các quy phạm pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm được ban hành chủ yếu ở các văn bản pháp luật có hiệu lực thấp, vừa tản mạn tạo nên tình trạng khó tiếp cận đối với người được bảo hiểm, khó áp dụng đối với doanh nghiệp bảo hiểm, cơ quan tài phán khó xác định chính xác văn bản pháp luật cần áp dụng trong xét xử tranh chấp.
Ngoài các bấp cập chung nêu trên, mỗi một nhánh pháp luật bảo hiểm có những bất cập riêng. Cụ thể:
1. Pháp luật về bảo hiểm con người.
Qua nghiên cứu các quy định pháp luật về bảo hiểm con người, nhóm nghiên cứu đã phát hiện những bất cập cần giải quyết sau đây:
1.1. Quy định về người tham gia bảo hiểm
Các quy định về người tham gia bảo hiểm chưa quy định rõ những quyền và nghĩa vụ của người được bảo hiểm và người thụ hưởng; khái niệm quyền lợi có thể được bảo hiểm không hợp lý với bản chất của bảo hiểm con người.
1.2. Quy định về nội dung của hợp đồng bảo hiểm con người
Khi đánh giá thực trạng quy định về nội dung của hợp đồng bảo hiểm con người, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng:
- Giữa Bộ luật Dân sự và Luật Kinh doanh bảo hiểm không thống nhất trong quy định trả tiền bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết đối với bảo hiểm con người.
- Luật Kinh doanh bảo hiểm không định nghĩa một số thuật ngữ rất phổ biến trong hợp đồng bảo hiểm trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ (ví dụ: giá trị hoàn lại, chi phí hợp lý, ngày tròn năm hợp đồng...), mặc dù những thuật ngữ này được sử dụng thường xuyên trong luật và các văn bản dưới luật, từ đó dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, dẫn đến việc hạn chế khả năng lựa chọn của khách hàng..
- Không những khái niệm điều khoản mẫu của hợp đồng bảo hiểm chưa được quy định, mà ngay cả vấn đề hợp đồng theo mẫu cũng không được quy định khác nhau giữa Bộ luật Dân sự, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Luật Kinh doanh bảo hiểm.
- Việc ưu tiên áp dụng luật nào để bảo vệ người tham gia bảo hiểm nhiều nội dung giữa Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không thống nhất với nhau.
- Một trong những nội dung cung cấp thông tin mà Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng yêu cầu đối với người cung cấp hàng hóa, dịch vụ là vấn đề niêm yết giá, trong khi trách nhiệm này không được đặt ra trong Luật Kinh doanh bảo hiểm.
1.3. Bất cập trong quy định về Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm
Điều này thể hiện ở các nội dung sau:
- Tên gọi của Quỹ chưa bao hàm tất cả những chủ thể cần được “bảo vệ” trong quan hệ pháp luật bảo hiểm. Việc tên gọi của Quỹ nhấn mạnh đến bảo vệ người được bảo hiểm về cơ bản chỉ đúng đối với bảo hiểm tài sản, còn đối với lĩnh vực bảo hiểm con người thì không chính xác. Thông thường trong các hợp đồng bảo hiểm, người mua bảo hiểm và người thụ hưởng sẽ có những lợi ích liên quan đến hợp đồng bảo hiểm thậm chí còn nhiều hơn là người được bảo hiểm. Chính vì vậy, quyền lợi của người mua bảo hiểm và người thụ hưởng cũng cần được bảo vệ khi doanh nghiệp bảo hiểm bị phá sản hoặc mất khả năng thanh toán, chứ không riêng gì đối với người được bảo hiểm.
- Chức năng của Quỹ còn hạn chế, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Quỹ không tham gia hỗ trợ các doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán mà chỉ hỗ trợ khi những giải pháp khôi phục này không có hiệu quả.
- Tư cách pháp lý của Quỹ không rõ ràng, không có tư cách pháp nhân, được quản lý trực tiếp bởi Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, nên trong hoạt động phải sử dụng con dấu của Hiệp hội. Quy định như vậy là không phù hợp và thể hiện những bất cập cơ bản sau đây:
Một là, về chức năng, Hiệp hội Bảo hiểm phải có trách nhiệm bảo vệ trước tiên cho các doanh nghiệp bảo hiểm thành viên, chứ không phải người tham gia bảo hiểm.
Hai là, cơ chế quản lý Quỹ có nhiều bất cập. Trước tiên là về cơ cấu quản lý Quỹ gồm có Hội đồng quản lý, Ban Điều hành và Ban Kiểm soát Quỹ, với sự tham gia của đại diện Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, Chủ tịch và Tổng thư ký Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam và đại diện của các doanh nghiệp bảo hiểm. Cơ cấu này loại bỏ hoàn toàn chủ thể quan trọng nhất đối với sự tồn tại của Quỹ, đó chính là người tham gia bảo hiểm và do vậy sẽ không thể đảm bảo sự minh bạch và công bằng trong hoạt động của Quỹ.
- Chưa thực hiện đúng nguyên tắc minh bạch thông tin trong kinh doanh bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm chưa minh bạch trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm con người. Các điều khoản bảo hiểm con người khó hiểu, hoặc “mập mờ” có thể làm cho người mua bảo hiểm hiểu sai dẫn đến việc ra quyết định giao kết hợp đồng bảo hiểm con người hoặc làm hạn chế quyền của người mua bảo hiểm khi hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết. Thêm vào đó, ngày càng tăng các trường hợp trục lợi bảo hiểm (có sự thông đồng cố ý hoặc tiếp tay vô tình của các cơ sở y tế) dẫn đến ảnh hưởng đến quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm khác.
- Việc giám sát và xử lý vi phạm đối với hành vi xâm phạm quyền lợi người tham gia bảo hiểm còn hạn chế sau đây: (i) Việc phân định trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước hiện nay còn chưa rõ ràng giữa Bộ Công thương, Bộ Tài chính trong việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm. (ii) Quy trình phê chuẩn và giám sát quá trình phân phối và thực hiện sản phẩm bảo hiểm con người còn hình thức, chưa đảm bảo chất lượng. (iii) Chưa có những cơ chế giải quyết đối với các khiếu nại của người tham gia bảo hiểm (người mua bảo hiểm, người hưởng quyền lợi bảo hiểm).
2. Pháp luật về bảo hiểm tài sản:
Qua nghiên cứu các quy định pháp luật về bảo hiểm tài sản, nhóm nghiên cứu đã phát hiện những bất cập cần giải quyết về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm; giới hạn bồi thường; các quy định về bảo hiểm trùng; về giá trị tài sản bảo hiểm; thiếu đồng bộ trong các quy định về nghĩa vụ bồi thường kịp thời cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm; không quy định cụ thể các trường hợp không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm; Quy định về các trường hợp đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và chuyển nhượng, chuyển giao hợp đồng bảo hiểm thiếu cụ thể..
3. Pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm dân sự
3.1. Bảo hiểm trách nhiêm dân sự bắt buộc của chủ xe cơ giới
Sau khi phân tích các quy định pháp luật và thực tế thi hành pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, nhóm nghiên cứu nhận thấy một vấn đề bất cập cần giải quyêt đó là ý thức chấp hành pháp luật rất thấp của chủ phương tiện. Mặc dù chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, quyền lợi bảo hiểm không chỉ là lợi ích vật chất của người mua bảo hiểm (người được bảo hiểm) mà còn là lợi ích vật chất của người bị thiệt hại. Do đó, quyền lợi mà pháp luật cần bảo vệ không chỉ đối với người mua bảo hiểm mà gồm cả người bị thiệt hại. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều chủ phương tiện xe cơ giới không mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự, hoặc mua bảo hiểm nhưng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm chủ phương tiện xe cơ giới không man giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Tuy nhiên, các chế tài về xử lý vi phạm đối với chủ xe cơ giới chưa đủ nghiêm để thực hiện nghiêm chế độ này.
3.2 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc của người kinh doanh vận tải hành khách, hàng hóa trên đường thủy nội địa
Vướng mắc pháp luật cần giải quyết dối với chế độ bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc của người kinh doanh vận tải hành khách, hàng hóa trên đường thủy nội đối với người thứ ba là các quy định để áp dụng vào thực tế có ở nhiều loại văn bản pháp luật: Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành. Các quy định nguyên tắc, điều khoản và biểu phí bảo hiểm còn nhiều bất cập. Thực tế này gây khó khăn đối với việc thực thi pháp luật trên thực tế.
3.3. Bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với người thứ ba ở mặt đất
Các quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên trong chế độ bảo hiểm này nhìn chung là phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, về mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người khai thác tàu bay còn nhiều bất cập và có nhiều ý kiến khác nhau.
3.4. Chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba áp dụng bắt buộc đối với tổ chức, cá nhân tiến hành công việc bức xạ
Công nghệ bức xạ ứng dụng là lĩnh vực mới mẻ đối với Việt Nam, mặt khác, hậu quả xấu từ công việc bức xạ phải trải qua thời gian dài mới có thể phát hiện nên từ khi Nhà nước ban hành chế độ này, thực tiễn thi hành chưa rõ hiệu quả của pháp luật, cần phải có thời gian theo dõi, đánh giá.
III. YÊU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HIỂM TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM
1. Yêu cầu và định hướng chung của việc hoàn thiện pháp luật về bảo quyền lợi của người được bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm.
Theo nhóm nghiên cứu, việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm cần đáp ứng các yêu cầu sau đây:
1.1. Cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển thị trường bảo hiểm: phát triển thị trường với cơ cấu đa dạng, các thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật và phù hợp với pháp luật, thông lệ quốc tế. Thực hiện lộ trình mở cửa thị trường bảo hiểm (một loại thị trường dịch vụ tài chính) phù hợp với các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích của người mua bảo hiểm là một trong những ưu tiên
1.2. Hiện thực hóa Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2011-2020/ Trong tổ chức thực hiện chiến lược, trước tiên phải xây dựng và hoàn thiện thể chế theo lộ trình hai giai đoạn:
- Giai đoạn 2012-2015, mục tiêu gồm: ban hành các quy định pháp luật tương thích với trình độ phát triển của thị trường bảo hiểm và chuẩn mực quốc tế về quản lí và giám sát bảo hiểm quốc tế; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của các văn bản pháp luật về bảo hiểm.
- Giai đoạn 2016-2020 mục tiêu chủ yếu của việc hoàn thiện pháp luật là:
- Sửa đổi toàn diện Luật Kinh doanh bảo hiểm theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh, bảo đảm sự liên kết đồng bộ thị trường bảo hiểm với các bộ phận khác của thị trường tài chính;
- Ban hành các quy định chặt chẽ về điều kiện vốn pháp định, các mức độ an toàn về khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm; về quản trị rủi ro của doanh nghiệp bảo hiểm; quy định chặt chẽ về công khai và minh bạch hóa thông tin của doanh nghiệp bảo hiểm, bao gồm tần suất công khai, các loại thông tin công khai và mức độ chi tiết hóa của thông tin được công khai.
1.3. Giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với người được bảo hiểm công khai, minh bạch đúng pháp luật Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế
1.4 Tái cấu trúc thị trường bảo hiểm
Tái cấu trúc thị trường là sắp xếp lại vai trò, vị trí của các chủ thể tham gia, vai trò của nhà nước đối với từng bộ phận của thị trường và bố trí lại chức năng, quan hệ của từng thị trường trong nền kinh tế. Việc tái cấu trúc thị trường bảo hiểm có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn đất nước ta hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế. Điều này xuất phát từ vai trò của hoạt động kinh doanh bảo hiểm không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn cả về mặt xã hội. Để hoàn thiện pháp luật về tái caasi trúc thị trường bảo hiểm cần thực hiện các hoạt động sau:
Thứ nhất, xây dựng các quy định để phân loại hệ thống doanh nghiệp bảo hiểm thành 4 nhóm. Nhóm 1 gồm doanh nghiệp bảo hiểm đảm bảo khả năng thanh toán, có lãi từ 2 năm liên tục trở lên; (ii) Nhóm 2 gồm các doanh nghiệp bảo hiểm đảm bảo khả năng thanh toán và hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc không có lãi trong hai năm liên tục; (iii) Nhóm 3 gồm các doanh nghiệp bảo hiểm có nguy cơ không đảm bảo khả năng thanh toán; (iv) Nhóm 4 gồm các doanh nghiệp bảo hiểm mất khả năng thanh toán bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt. Tương ứng với mỗi nhóm từ nhóm 2 đến nhóm 4 sẽ có các biện pháp tái cơ cấu phù hợp với quy định của pháp luật.
Thứ hai, trong giai đoạn từ năm 2012 đến 2014, các cơ quan có thẩm quyền sẽ thực hiện ban hành các quy định về những vấn đề sau: Quy trình kiểm soát và quản lý rủi ro; hệ thống đánh giá, giám sát theo tiêu chuẩn quốc tế; Hoàn thiện các quy định pháp lý để củng cố mô hình tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm; Các quy định xác lập tiêu chí đánh giá, phân loại doanh nghiệp bảo hiểm; Các quy định để giám sát hoạt động các doanh nghiệp bảo hiểm dựa trên 3 tiêu chí là mức độ an toàn tài chính, quản trị rủi ro và minh bạch thông tin.
2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hướng tới xây dựng một cơ chế bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm một cách toàn diện, thống nhất
Nhóm nghiên cứu đã đề xuất được hệ giải pháp hoàn thiện pháp luật theo hai nhóm: giải pháp chung và giải pháp cụ thể.
2.1. Giải pháp chung - Giải quyết mối quan hệ điều chỉnh giữa Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật Dân sự
Bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm một cách toàn diện dưới góc độ cơ chế toàn diện và thống nhất được hiểu là các quy định của pháp luật có liên quan đến quyền lợi của người được bảo hiểm phải đóng vai trò là hàng rào pháp lý ngăn ngừa, trực tiếp tác động bằng quy phạm pháp luật thông qua các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên, với bộ máy thực thi pháp luật có hiệu quả.
Trong mối quan hệ quyền lợi giữa người được bảo hiểm với bên bảo hiểm thì Bộ luật Dân sự đóng vai trò là nền tảng, Luật Kinh doanh bảo hiểm đóng vai trò của luật chuyên ngành. Ngoài ra, xét về lý thuyết thì Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Doanh nghiệp, Bộ luật Tố tụng dân sự… cũng có tác dụng đối với việc bảo vệ quyền lợi được bảo hiểm. Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm đóng vai trò là luật chuyên ngành trong việc bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm. Do đó, trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất, minh bạch trong Luật Kinh doanh bảo hiểm, phải được xây dụng trong mối tương quan thống nhất với các bộ phận pháp luật khác có liên quan, trước hết là bảo đảm tính thống nhất với Bộ luật Dân sự. Bảo đảm tính thống nhất này là tiền đề để xây dựng một cơ chế bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm một cách toàn diện và thống nhất.
2.2. Giải pháp cụ thể - sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật: kết quả nghiên cứu đề tài, tập thể nghiên cứu đã đề xuất 14 nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm, cụ thể:
2.2.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm con người nhằm bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm
Thứ nhất, cần quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người được bảo hiểm và người thụ hưởng trong Luật Kinh doanh bảo hiểm đối với bảo hiểm con người, đặc biệt là đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vì hiện nay chưa được ghi nhận. Trong đó:
- Quy định rõ về quyền cơ bản của người được bảo hiểm bao gồm: (i) Quyền được từ chối là người được bảo hiểm trong một thời gian nhất định kể từ khi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đã được giao kết (nếu người được bảo hiểm không đồng thời là bên mua bảo hiểm); (ii) Quyền đồng ý hoặc không đồng ý với sự chỉ định người thụ hưởng của bên mua bảo hiểm; (iii) Quyền được ưu tiên nhận tiền bảo hiểm so với người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.
- Quy định rõ về quyền và nghĩa vụ cơ bản của người thụ hưởng bao gồm: (i) Quyền được thông báo về việc mình là người thụ hưởng theo hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hoặc không còn là người thụ hưởng; (ii) Quyền từ chối trở thành người thụ hưởng theo hợp đồng bảo hiểm nhân thọ; (iii) Nghĩa vụ thông báo về sự kiện bảo hiểm (trong trường hợp bên mua bảo hiểm không thể thông báo) và nghĩa vụ hợp tác với doanh nghiệp bảo hiểm trong việc xác minh sự kiện bảo hiểm.
Thứ hai, cần quy định riêng về quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm con người vì bản chất của quyền lợi bảo hiểm trong bảo hiểm con người với bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự là khác nhau. Do đó, quyền lợi có thể được bảo hiểm nên quy định như sau:
- Đối với hợp đồng bảo hiểm tài sản, quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản đối với đối tượng bảo hiểm.
- Đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, quyền lợi có thể được bảo hiểm là trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại trong các giao dịch dân sự theo hợp đồng và ngoài hợp đồng.
- Đối với hợp đồng bảo hiểm con người, quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng và các quyền lợi khác đối với người được bảo hiểm, nếu được doanh nghiệp bảo hiểm chấp thuận, hoặc pháp luật có quy định. Đồng thời, cần bổ sung thêm những chủ thể có thể là bên mua bảo hiểm, như: bên cho vay mua bảo hiểm cho bên vay; doanh nghiệp, tổ chức mua bảo hiểm cho người lao động.
Thứ ba, cần bỏ quy định của Bộ luật Dân sự về hợp đồng bảo hiểm, bởi vì, không thể xem hợp đồng bảo hiểm là một loại hợp đồng dân sự thông dụng, mà cần được điều chỉnh bởi Luật Kinh doanh bảo hiểm với tính chất là một loại hợp đồng đặc thù cần được điều chỉnh trong luật chuyên ngành.
Thứ tư, cần bổ sung các thuật ngữ liên quan đến hợp đồng bảo hiểm con người nhằm đảm bảo cách hiểu thống nhất, như thuật ngữ về: chi phí hợp lý, giá trị hoàn lại và vay từ giá trị hoàn lại.
Thứ năm, giải quyết các bất cập trong các quy định về Quỹ bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm về tên gọi; mở rộng chức năng của Quỹ bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế; khắc phục quy định về tư cách pháp lý không rõ ràng của Quỹ
Thứ sáu, hoàn thiện các quy định về khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm
- Cần nhất quán về cách đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm. theo mô hình của Liên minh châu Âu, đặc biệt từ thời điểm 01/01/2014 khi các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu bắt đầu thực hiện quy định mới về khả năng thanh toán (gọi là Solvency II) để thay thế cho các quy định cũ trước đây (Solvency I).
- Cần nghiên cứu sửa đổi mức giảm trừ giá trị hạch toán một số tài sản khi xác định biên khả năng thanh toán để phù hợp với bổi cảnh nền kinh tế hiện nay.
Thứ bảy, hoàn thiện một số quy định về hoạt động giám sát.
- Cần quy định cụ thể thủ tục, trách nhiệm của từng cơ quan trong việc giám sát đối với điều khoản bảo hiểm nhân thọ khi tiến hành thủ tục phê chuẩn, đặc biệt là thẩm quyền của Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm. Điều khoản bảo hiểm cần phải được cơ quan có thẩm quyền đánh giá kỹ lưỡng trước khi phê chuẩn (đối với bảo hiểm con người) hoặc hậu kiểm (đối với các sản phẩm bảo hiểm khác). Pháp luật cần quy định rõ nguyên tắc: nếu cơ quan có thẩm quyền cho rằng những quy định như vậy là không đảm bảo quyền lợi của người được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm phải sửa đổi nội dung điều khoản hoặc phải giải thích công khai, thống nhất với cơ quan Nhà nước cũng như với người được bảo hiểm.
- Cần quy định rõ hơn nữa vai trò của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam đối với hoạt động giám sát. Theo đó, cần bổ sung quy định về địa vị pháp lý của tổ chức này trong Luật Kinh doanh bảo hiểm, đồng thời ghi nhận Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam có quyền và trách nhiệm thống nhất hóa những thuật ngữ trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nói chung và bảo hiểm con người nói riêng để việc áp dụng được thống nhất.
- Cần có những hướng dẫn cụ thể về phương thức phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm. Về lâu dài, cần chuyển đổi từ mô hình giám sát theo lĩnh vực sang mô hình giám sát hợp nhất nhằm đảm bảo khả năng đánh giá toàn diện, đặc biệt là đối với các tập đoàn ngân hàng - chứng khoán – bảo hiểm.
- Cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng dành cho đại lý bảo hiểm, tăng cường hiệu quả tuyên tuyền và phổ biến, giáo dục về pháp luật bảo hiểm.
2.2.2 Hoàn thiện pháp luật về kinh doanh bảo hiểm hướng tới một cơ chế bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm một cách toàn diện và thống nhất trong bảo hiểm tài sản
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung các quy định về giá trị tài sản trong hợp đồng bảo hiểm tài sản.
Thứ hai, pháp luật cần quy định rút ngắn thời gian thực hiện nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm, có chế tài trong trường hợp thanh toán tiền bảo hiểm chậm trễ cho người được bảo hiểm
Thứ ba, pháp luật cần quy định cụ thể về giám định tổn thất và về giới hạn bồi thường
- Về xác định người giám định, nhóm nghiên cứu kiến nghị: “Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm hoặc người được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền thực hiện việc giám định tổn thất để xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất. Doanh nghiệp bảo hiểm không được ủy quyền cho người mua bảo hiểm, người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm giám định tổn thất”.
- Về căn cứ xác định, phương pháp xác định, cơ quan có trách nhiệm xác định giá trị thị trường của tài sản bảo hiểm tại thời điểm và nơi xảy ra tổn thất: nhóm nghiên cứu cho rằng cần công thức hóa căn cứ xác định giá thị trường của tài sản bảo hiểm tại thời điểm và nơi xảy ra sự kiện bảo hiểm trong đó có các yếu tố phải làm là:
- Giá phổ biến trên thị trường: tính theo trị giá bình quân cao nhất và thấp nhất của tài sản cùng loại.
- Khấu hao tài sản: áp dụng theo tỷ lệ khấu hao tài sản áp dụng đối với tài sản nhà nước.
Như vậy, công thức để tính giá thị trường của tài sản bảo hiểm sẽ là:
Giá trị của tài sản được đền bù
|
=
|
Giá phổ biến – Tiền khấu hao tài sản – Giá trị còn lại cả tài sản
|
Thứ tư, quy định cụ thể về chuyển nhượng, chuyển giao hợp đồng bảo hiểm. Trong đó, Luật Kinh doanh bảo hiểm với nhiệm vụ điều chỉnh của luật chuyên ngành cần cụ thể hóa các quy định sau:
- Xác định rõ hình thức của hợp đồng chuyển nhượng, chuyển giao hợp đồng bảo hiểm.
- Cần có quy định cụ thể về chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm có nguy cơ mất khả năng thanh toán nhằm bảo toàn quyền lợi của người có tài sản bảo hiểm.
- Cần có quy định dẫn chiếu áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự đối với trường hợp tài sản đã được mua bảo hiểm chuyển giao cho chủ sở hữu khác.
2.2.3 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhằm bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Thứ nhất, cụ thể hóa quy định của pháp luật để ngăn chặn hành vi lừa dối bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm.
Thứ hai, sửa đổi bổ sung các quy định đối với hành vi trục lợi bảo hiểm. Pháp luật cần quy định, Bộ Tài chính có thẩm quyền rộng hơn trong việc giám sát tài chính và hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm, hoàn thiện các chế tài xử phạt nghiêm khắc, phải bảo đảm để các hành vi trục lợi bảo hiểm bị lên án về mặt đạo đức, trừng trị nghiêm khắc về mặt pháp luật… Đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát việc lập hồ sơ bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc lợi dụng những lỗ hổng trong phương thức quản lý, điều hành của doanh nghiệp bảo hiểm để trục lợi.
Thứ ba, hoàn thiện một số quy định pháp luật theo hướng phòng ngừa
Trong Quy tắc bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, Bộ Tài chính cần bổ sung thêm những điểm loại trừ, nhất là những hành vi vi phạm pháp luật (có độ cồn quá mức quy định, phóng nhanh chạy quá tốc độ quy định, vượt ẩu, vượt đèn đỏ, đi vào đường cấm, đua xe, đánh võng, đi không đúng làn đường quy định, thiếu thiết bị an toàn như: còi, đèn, phanh…) để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người được hưởng bảo hiểm.
Đối với các trường hợp đặc biệt như: trường hợp bồi thường nhân đạo, bồi thường thiện chí, các trường hợp giải quyết bồi thường theo sự thỏa thuận giữa chủ xe và nạn nhân theo Bộ luật Dân sự, Bộ Tài chính cần có hướng dẫn cự thể, chi tiết hơn.
Là bên phải đền bù vật chất nên pháp luật cần mở rộng quyền và trách nhiệm cho doanh nghiệp bảo hiểm chủ động giám định xác định tổn thất và giải quyết bồi thường hơn nữa. Đồng thời, Bộ Tài chính và Bộ Công an cần có hướng dẫn về phân định lỗi, làm cơ sở cho việc hòa giải và thương lượng với nạn nhân, quy trình xử lý khi tai nạn xảy ra… Các trường hợp trục lợi bảo hiểm bị phát hiện, cần kiên quyết xử lý.
- Để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba cần tăng mức phạt khi không mua bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới.
- Cần có quy định cụ thể đối với vấn đề bảo hiểm sau tai nạn như thế nào để không xảy ra tình trạng doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm một cách tùy tiện.
- Cần phải sửa đổi quy định “ Chia đều cho các hợp đồng bảo hiểm” bằng cách tính tỉ lệ đền bù là: mức đền bù của từng hợp đồng bảo hiểm tính theo tỉ lệ phần trăm giữa tổng số phí bảo hiểm và tổng mức đền bù.
- Quy định doanh nghiệp bảo hiểm làm đầu mối trong việc trả tiền bảo hiểm và thực hiện việc hoàn trả từ doanh nghiệp bảo hiểm khác là doanh nghiệp bảo hiểm có tỉ lệ thu phí bảo hiểm cao nhất, nếu các doanh nghiệp bảo hiểm có cùng mức thu phí bảo hiểm thì doanh nghiệp nào ký hợp đồng sớm nhất là doanh nghiệp bảo hiểm chịu trách nhiệm làm đầu mối.
- Cần có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục,thời hạn thực hiện chi trả và hoàn trả tiền bảo hiểm giữa các doanh nghiệp bảo hiểm.
Cần có văn bản quy phạm pháp luật quy định về áp dụng hệ thống Bonus – Malus (BMS - Bonus – Malus System – hệ thống thang bậc tăng giảm mức phí trên cơ sở mức độ lái xe an toàn của chủ xe) phù hợp với điều kiện Việt Nam. Đồng thời, cần có quy định cụ thể về xây dựng và chia sẻ cơ sở dữ liệu về tai nạn giao thông đường bộ thông qua sự phối hợp của Cục Giao thông đường bộ, Cảnh sát giao thông đường bộ, Ủy ban An toàn giao thông, Tổng cục thống kê, các doanh nghiệp bảo hiểm. Tổ chức thực hiện giám sát việc thực hiện bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày càng chặt chẽ, hiệu quả hơn; pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của chủ xe cơ giới phải rõ ràng.
Thứ tư, quy định mở rộng các loại sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc
Thứ năm, hoàn thiện các quy định liên quan đến “Điều khoản mẫu” hay “Hợp đồng mẫu” để thực hiện có hiệu quả chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
IV. KẾT LUẬN
Toàn bộ kết quả nghiên cứu đề tài thể hiện ở 5 luận điểm chính sau đây:
1. Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính kỹ thuật kinh tế cao. Do đó, quá trình xây dựng, hoàn thiện cần phải tiếp thu có chọn lọc pháp luật của các nước có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng với Việt Nam và phải bảo đảm phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế, tập quán quốc tế.
2. Bộ phận pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam có nguồn quy phạm ở nhiều nguồn văn bản quy phạm pháp luật, qua thực tế thi hành đã bộc lộ những nhược điểm chủ yếu là: a) Bộ luật Dân sự 2005 chưa đóng được vai trò nền tảng; b) Không phân định một cách khoa học chức năng điều chỉnh của các văn bản pháp luật liên quan đến quyền lợi của người được bảo hiểm; c) Nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực thấp, gây khó khăn trong việc thi hành.
3. Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm phải được tiến hành đồng thời đối với nhiều văn bản pháp luật, trong đó có Bộ luật Dân sự, vừa bảo đảm nâng cao chất lượng về nội dung điều chỉnh vừa bảo đảm hiệu lực pháp lý cao của văn bản pháp luật.
4. Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm phải được tiến hành trên cơ sở khảo sát thực tiễn để xác định rõ sự bất cập có nguyên nhân từ chất lượng pháp luật hay từ việc tổ chức thực hiện, hay do hiệu quả kém của cơ chế quản lý nhà nước về bảo hiểm, hay do động cơ của các bên giao kết hợp đồng bảo hiểm. Trong đó, đặc biệt chú ý tới việc thiết kế các quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu cụ thể, minh bạch.
5. Để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm, phát triển thị trường bảo hiểm ổn định, Luật Kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam cần phải được hoàn thiện theo hướng chú trọng các biện pháp phòng ngừa bằng các quy định về kiểm soát đầu tư, kiểm soát tài chính, kiểm soát đặc biệt, về giám sát bảo hiểm… như quy định của nhiều nước mà điển hình là Thái Lan và Trung Quốc.