Tổ chức tội phạm là một hình thức thực hiện tội phạm đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, với sự thống nhất và câu kết chặt chẽ, bền vững, có sự phân công với kỷ luật "hà khắc" đã và đang gây ra những khó khăn không nhỏ cho hoạt động đấu tranh phòng, chống hình thức thực hiện tội phạm này trên thế giới và cả ở Việt Nam.
Tại Việt Nam, thuật ngữ “tổ chức tội phạm” đã được sử dụng trong các công trình nghiên cứu khoa học cũng như trong thực tiễn đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm nói chung, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật quy định đến hình thức thực hiện tội phạm này. Đồng thời, về mặt lý luận hiện nay trong các công trình nghiên cứu khoa học còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề pháp lý tổ chức tội phạm, trong đó có quan niệm về khái niệm tổ chức tội phạm, chưa có một cách nhìn chung, thống nhất và có hệ thống về vấn đề các vấn đề pháp lý liên quan đến tổ chức tội phạm, qua đó chưa có được những giải pháp phòng ngừa một cách hiệu quả hình thức thực hiện tội phạm này.
Với những lý do trên, việc lựa chọn vấn đề “Tổ chức tội phạm ở Việt Nam- Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật hình sự” làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ là cần thiết.
Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau :
(i) Làm rõ các vấn đề lý luận về tổ chức tội phạm: Khái niệm, đặc điểm, tính chất và cơ cấu tổ chức hoạt động, cũng như ảnh hưởng, tác động tiêu cực của hình thức phạm tội này đối với môi trường chính trị xã hội nói chung, phân biệt giữa tổ chức tội phạm với phạm tội có tổ chức…
(ii) Nghiên cứu pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước trên thế giới về vấn đề tổ chức tội phạm, từ đó đưa ra những bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam;
(iii) Đánh giá toàn diện hệ thống pháp luật Việt Nam nhất là pháp luật hình sự (BLHS) và thực trạng đấu tranh chống các băng, nhóm tội phạm có dấu hiệu của tổ chức tội phạm; bước đầu đánh giá và dự báo xu hướng phát triển của tổ chức tội phạm ở nước ta trong thời gian tới;
(iv) Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tổ chức tội phạm và nâng cao hiệu quả phòng, chống tổ chức tội phạm.
Dưới đây là nội dung tóm tắt những kết quả nghiên cứu chính của đề tài:
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC TỘI PHẠM
I. Khái niệm, đặc điểm, cơ cấu và hoạt động của tổ chức tội phạm
1. Khái niệm, đặc điểm:
Qua phân tích, nhóm nghiên cứu bước đầu đưa ra khái niệm tổ chức tội phạm như sau: Tổ chức tội phạm là tổ chức của một nhóm người (từ ba người trở lên) có sự liên kết tương đối chặt chẽ, bền vững giữa các thành viên, tồn tại trong một thời gian để thực hiện một hay nhiều loại hành vi phạm pháp nghiêm trọng (thường cấu thành các tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng trong pháp luật hình sự của các nước).
Trên cơ sở nghiên cứu 5 dạng của tổ chức tội phạm, từ các dạng tổ chức truyền thống đến các dạng mới, mạng lưới tổ chức hiện đại trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, nhóm nghiên cứu cho rằng tổ chức tội phạm gồm 2 nhóm có cơ cấu, tổ chức cụ thể như sau:
Nhóm tội phạm có một số đặc điểm sau: (i) có số lượng thành viên lớn, có kỷ luật chặt chẽ; (ii) có cơ cấu tổ chức khá chặt chẽ; (iii) hoạt động mang tính liên tục; (iv) thực hiện nhiều hoạt động phạm tội; (v) sử dụng hình thức bạo lực; (vi) quyền lực và lợi nhuận có mối quan hệ chặt chẽ.
Nhóm hỗ trợ bảo vệ gồm: (i) Nhóm chuyên gia hỗ trợ; (ii) Những người ủng hộ xã hội
2. Hoạt động của tổ chức tội phạm: có thể là hoạt động hợp pháp hoặc bất hợp pháp, trong đó hoạt động hợp pháp chỉ mang tính chất vỏ bọc để tồn tại và thực hiện tội phạm, cụ thể bao gồm hoạt động cung cấp các dịch vụ bất hợp pháp; cung cấp hàng hoá bất hợp pháp; chuẩn bị những âm mưu phạm tội; xâm nhập vào kinh doanh hợp pháp; thực hiện hoạt động tống tiền; thực hiện hoạt động tham nhũng.
3. Mục đích hoạt động của các tổ chức tội phạm
Các tổ chức tội phạm được thành lập và hoạt động nhằm hướng tới các mục đích chủ yếu là kinh tế, lợi nhuận và các lợi ích vật chất (thông qua các hoạt động dịch vụ, buôn bán bất hợp pháp, như ma túy, vũ khí, buôn bán người, mại dâm, bảo kê sòng bạc, rửa tiền…), song cũng không loại trừ, trong nhiều trường hợp với quy mô và tính chất hoạt động khác nhau, các tổ chức này còn hướng tới các mục đích khác (như chính trị, tôn giáo, phân biệt chủng tộc…).
4. Phân biệt tổ chức tội phạm với phạm tội có tổ chức
Thứ nhất, việc truy cứu TNHS đối với tổ chức tội phạm là nhằm hướng tới việc trừng trị sự ra đời, tồn tại của một loại “tổ chức nguy hiểm” trong xã hội. Việc trừng trị trước hết là hướng tới các hành vi tạo lập nên tổ chức (hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức), sau đó mới là trừng trị các hành vi phạm tội cụ thể của tổ chức. Còn việc truy cứu TNHS trong trường hợp phạm tội có tổ chức là hướng tới các hành vi cố ý phạm tội cụ thể dưới hình thức đồng phạm ở mức độ cao (câu kết chặt chẽ).
Thứ hai, sự câu kết giữa các thành viên là đặc điểm chung giữa tổ chức tội phạm và phạm tội có tổ chức, tuy nhiên, mức độ câu kết giữa các thành viên trong tổ chức tội phạm khá đa dạng, có tính bền vững, tính quy mô, tôn chỉ mục đích hoạt động của tổ chức rõ ràng hơn, có tính chặt chẽ, kỷ luật cao hơn rất nhiều so với hình thức đồng phạm phạm tội có tổ chức.
Thứ ba, một tổ chức được thành lập ra nhằm thực hiện các hoạt động phi pháp và bị coi là tổ chức tội phạm và phải bị truy cứu TNHS khi các hoạt động phi pháp tương ứng với các tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng trong luật hình sự của các nước. Còn hình thức đồng phạm “phạm tội có tổ chức” là hình thức đồng phạm có ở bất cứ loại tội phạm cố ý nào. Bất cứ việc thực hiện các tội phạm cố ý nào nếu có dấu hiệu đồng phạm “phạm tội có tổ chức” thì đều bị coi là yếu tố tăng nặng TNHS (có thể là tình tiết định tội, tình tiết định khung, tình tiết tăng nặng TNHS).
II. Pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước trên thế giới về vấn đề tổ chức tội phạm và kinh nghiệm cho Việt Nam
1. Pháp luật quốc tế
Có thể khái quát các nội dung được thể hiện trong các công ước quốc tế về tổ chức tội phạm bao gồm 3 góc độ: (1) Nghĩa vụ quy định là tội phạm các hành vi liên quan đến sự xuất hiện và hoạt động của tổ chức tội phạm; (2) Đường lối xử lý đối với các tội phạm do tổ chức tội phạm thực hiện và (3) Các quy định khác hỗ trợ việc thực thi pháp luật có hiệu quả.
1.1. Nghĩa vụ quy định là tội phạm các hành vi liên quan đến sự xuất hiện và hoạt động của tổ chức tội phạm
Đây là nhóm quy định xác định những hành vi liên quan đến sự tồn tại và hoạt động của các tổ chức tội phạm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội cần bị xử lý về hình sự. Với cách quy định khác nhau, các công ước quốc tế chỉ rõ nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc tội phạm hóa các hành vi này. Việc xác định các hành vi liên quan đến sự tồn tại và hoạt động của các tổ chức tội phạm và yêu cầu các quốc gia thành viên ngăn chặn chúng bằng biện pháp lập pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để ngăn chặn sự xuất hiện, tồn tại và gây nguy hiểm cho xã hội của các tổ chức tội phạm. Biện pháp này có tính chất làm cho điều kiện xuất hiện, tồn tại của tổ chức tội phạm bị hạn chế hướng tới triệt tiêu trên phạm vi rộng khắp ở các nước trên thế giới.
1.2. Quy định về đường lối xử lý đối với các tội phạm do tổ chức tội phạm thực hiện
Các quy định về đường lối xử lý các tội phạm do tổ chức tội phạm thực hiện thể hiện rõ thái độ của quốc tế đối với việc thực hiện tội phạm của các tổ chức tội phạm. Đây cũng là cơ sở quan trọng để các quốc gia thành viên nội luật hóa các quy định này.
1.3. Các quy định khác hỗ trợ việc thực thi pháp luật có hiệu quả
Cùng với các quy định về tội phạm và đường lối xử lý tội phạm do tổ chức tội phạm thực hiện, các quy định khác có tính hỗ trợ việc thực thi pháp luật có hiệu quả cũng tác động trực tiếp đến việc phát hiện và xử lý tội phạm do các tổ chức tội phạm gây ra. Trong các công ước quốc tế hiện nay, nhóm quy định này xoay quanh các nội dung: (i) quy định về bảo vệ nhân chứng, chuyên gia, nạn nhân và người tố giác; (ii) quy định về tịch thu và tạm giữ và quy định về các biện pháp tăng cường hợp tác với các cơ quan điều tra và trấn áp tội phạm.
2. Pháp luật một số nước về tổ chức tội phạm và kinh nghiệm cho Việt Nam
Qua tham khảo kinh nghiệm của Luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức, có thể nghiên cứu để quy định một số vấn đề sau đây phù hợp với thực tiễn của Việt Nam:
Thứ nhất, quy định một điều riêng trong Bộ luật hình sự về tổ chức tội phạm. Có thể quy định khái niệm này như sau: “Tổ chức tội phạm là một tập hợp người có sự liên kết, phân công, phối hợp hoạt động với nhau do một hoặc một số cá nhân thành lập, điều khiển một cách có kế hoạch nhằm thực hiện một hoặc nhiều tội phạm”.
Thứ hai, quy định hành vi khách quan của tổ chức tội phạm bao gồm: (i) Thành lập; (ii) Tham gia tổ chức; (iii) Tuyển mộ thành viên hay người trợ giúp và (iv) Trợ giúp cho tổ chức
Thứ ba, tham khảo kinh nghiệm của các nước kết hợp với tổng kết thực tiễn để quy định giới hạn nhóm khách thể mà loại tổ chức tội phạm xâm hại đến hoặc quy định giới hạn các loại tội phạm mà tổ chức tội phạm thực hiện sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Chẳng hạn như thành lập tổ chức tội phạm để thực hiện các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia (lật đổ chính quyền nhân dân); vũ trang, khủng bố…
Thứ tư, bổ sung quy định người thành lập, tham gia tổ chức tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự với các loại hình phạt và mức phạt cụ thể, nhưng nhẹ nhất là phạt tù giam và nặng nhất là tử hình.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG CÁC BĂNG, NHÓM CÓ DẤU HIỆU TỔ CHỨC TỘI PHẠM Ở VIỆT NAM
I. Tình hình băng, nhóm tội phạm có dấu hiệu tổ chức tội phạm ở Việt Nam
Dựa trên các báo cáo về tình hình các loại tội phạm diễn ra thời gian gần đây tại Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra một số đặc điểm của băng, nhóm tội phạm có dấu hiệu tổ chức tội phạm ở Việt Nam, đó là:
Thứ nhất, về số lượng: sự hình thành các tổ chức, băng, nhóm tổ chức tội phạm có chiều hướng gia tăng, hoạt động có tính chất lưu động ở nhiều địa bàn khác nhau, gây nhiều loại án khác nhau.
Thứ hai, về hình thức tồn tại và tính chất của tổ chức tội phạm: Các băng nhóm tội phạm có dấu hiệu của tổ chức tội phạm thường được tổ chức dưới dạng là một tổ chức mang tính chất bí mật, khép kín, bất hợp pháp (có thể núp dưới danh nghĩa một tổ chức hợp pháp) được hình thành với mục đích là thực hiện các hoạt động phạm tội.
Thứ ba, về phương thức, thủ đoạn phạm tội
Những tên cầm đầu luôn tìm mọi cách tạo vỏ bọc kín để chỉ huy các thành viên hoạt động phạm tội. Các vỏ bọc này thường dưới các hình thức phụ trách nhà hàng, khách sạn, tổ đội lao động, các công ty tư nhân, nhà doanh nghiệp... Thậm chí cả hoạt động từ thiện để từng bước ra công khai, tạo uy tín và đi vào con đường làm giàu; móc nối với một số cán bộ, nhân viên nhà nước biến chất, bằng nhiều thủ đoạn với mục đích lôi kéo họ giúp đỡ, tạo điều kiện che chắn cho bọn chúng trong việc thực hiện và che giấu tội phạm hoặc để trốn tránh pháp luật khi cần thiết.
Thứ tư, cấu kết với một số cán bộ, công chức biến chất trong bộ máy nhà nước để thực hiện hành vi phạm tội hoặc bao che chạy tội
Thứ năm, cấu kết với các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia
II. Thực trạng pháp luật và những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống các băng, nhóm tội phạm có dấu hiệu tổ chức tội phạm ở Việt Nam
1. Thực trạng pháp luật về phòng chống băng, nhóm tội phạm có dấu hiệu tổ chức tội phạm ở Việt Nam.
Bộ luật hình sự đã có quy định về hai loại tội phạm mang đặc điểm có tổ chức. Đó là loại tội có dấu hiệu có tổ chức là dấu hiệu định tội và loại tội phạm có dấu hiệu có tổ chức là dấu hiệu tăng nặng định khung hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hai loại tội phạm này có thể được coi là tội phạm có dấu hiệu của tổ chức tội phạm. Việc quan niệm tổ chức tội phạm như vậy là hoàn toàn dựa trên cơ sở quy định của BLHS hiện hành. Theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành của Việt Nam, việc mới tham gia vào nhóm tổ chức tội phạm mà chưa thực hiện tội phạm hoặc tiếp tay cho việc thực hiện tội phạm, trừ trường hợp tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79 BLHS), thì không cấu thành tội phạm. Pháp luật hình sự của Việt Nam cũng không có chế định dự mưu đồng phạm hay còn gọi là tụ đảng (conspiracy) mà chỉ quy định chế định đồng phạm (complicity). Điều 20 Bộ luật hình sự 1999 định nghĩa “đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cùng cố ý thực hiện một tội phạm.” Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm, trong đó người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm; người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm; người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm và người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Điều luật này còn quy định một hình thức đồng phạm ở mức độ cao là phạm tội có tổ chức, tức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
2. Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn công tác phòng, chống băng, nhóm tội phạm có dấu hiệu tổ chức tội phạm ở Việt Nam hiện nay
- Những khó khăn, vướng mắc về thể chế:
+ Bộ luật hình sự hiện hành chưa quy định về trách nhiệm hình sự đối với tổ chức tội phạm và hành vi tham gia tổ chức tội phạm
+ Pháp luật về bảo vệ nhân chứng chưa được đầy đủ
+ Bộ luật hình sự chưa quy định trách nhiệm hình sự pháp nhân
+ Pháp luật về chống rửa tiền còn nhiều kẽ hở cho tổ chức tội phạm
+ Bộ luật hình sự chưa quy định trách nhiệm pháp lý đối với hành vi làm giàu bất hợp pháp.
- Một số khó khăn, vướng mắc trong phát hiện, xử lý, điều tra: Qua thực tiễn điều tra, triệt phá một số tổ chức tội phạm ở nước ta trong những năm gần đây nổi lên một số khó khăn, vướng mắc sau:
+ Đấu tranh với tổ chức tội phạm mà chỉ sử dụng những biện pháp truyền thống sẽ không có hiệu quả.
+ Thực tiễn đấu tranh cho thấy nhiều băng, ổ nhóm tội phạm liên tỉnh, thành phố hoạt động có tổ chức thường đưa đối tượng từ tỉnh, thành phố này đến tỉnh, thành phố khác để thực hiện tội phạm, nhằm tránh sự điều tra, phát hiện của lực lượng chức năng. Cũng có trường hợp phạm tôi xuyên quốc gia, nhiều người trong tổ chức tội phạm không cư trú ở Việt Nam.
+ Với vỏ bọc hợp pháp là một công ty, doanh nghiệp, một tổ chức, những tên cầm đầu của tổ chức tội phạm thường mang bộ mặt là những giám đốc "chân chính", làm ăn phát đạt, có quan hệ với những người có cương vị, thế lực. Thậm chí, dưới vỏ bọc, bọn chúng còn tham gia tích cực vào các chính sách an sinh xã hội như tài trợ xây dựng nhà tình nghĩa, giúp đỡ cho người nghèo, xây dựng đường xá, công trình công cộng cho khu dân cư.
+ Các tổ chức tội phạm thường lợi dụng các kẽ hở của pháp luật để thực hiện tội phạm và chạy tội, chúng dễ dàng đạt được mục đích khi có sự hỗ trợ, dù là rất nhỏ của những người có quyền lực trong bộ máy công quyền.
+ Việc hợp tác với nước ngoài thường bị kéo dài do thông tin về tội phạm muốn trao đổi với nước ngoài phải báo cáo qua nhiều nấc dẫn đến chậm, không còn tính chiến đấu. Quan hệ với người nước ngoài vẫn theo những quy định cách đây hàng chục năm, chưa được đổi mới cho phù hợp thực tế hiện tại. Một số hiệp định của Chính phủ về hợp tác đấu tranh chống tội phạm không được phổ biến rộng cho những người trực tiếp làm công tác thực tế nên hầu như không đi vào cuộc sống. Bên cạnh đó, việc ký kết và thực hiện các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các quốc gia cũng có những mặt hạn chế.
+ Khi phát triển ở mức độ nhất định, các tổ chức tội phạm sẽ gây ra nhiều loại tội ở nhiều lĩnh vực khác nhau, kể cả kinh tế, hình sự và ma túy, miễn là có được siêu lợi nhuận.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP
I. Kiến nghị hoàn thiện thể chế
1. Tội phạm hóa tổ chức tội phạm
Từ những phân tích về lí luận cũng như thực tiễn trên chúng tôi đề xuất cần thay đổi kết cấu, sửa đổi và bổ sung thêm nội dung của Điều 20 BLHS như sau:
- Về thay đổi kết cấu của điều luật, chúng ta cần đưa nội dung xác định dấu hiệu của người thực hiện cũng như của các loại người tham gia thực hiện tội phạm và mức độ trách nhiệm hình sự của họ lên vị trí đầu tiên của điều luật. Tiếp đó là quy định về hình thức phạm tội đồng phạm và về trường hợp đặc biệt của hình thức phạm tội này - phạm tội có tổ chức.
- Về sửa đổi và bổ sung nội dung của điều luật, chúng ta cần mô tả lại cho rõ hơn dấu hiệu của người thực hiện, của người tham gia thực hiện tội phạm; đồng thời cần bổ sung quy định về mức độ trách nhiệm hình sự của từng loại người và về tổ chức tội phạm cũng như trách nhiệm hình sự của người thành lập và tham gia tổ chức tội phạm. Về trách nhiệm hình sự của từng loại người tham gia thực hiện tội phạm cần khẳng định người giúp sức phạm tội được giảm nhẹ còn người tổ chức tội phạm phải bị tăng nặng trách nhiệm hình sự so với người thực hiện tội phạm. Về tổ chức tội phạm, cần xác định trách nhiệm hình sự của cá nhân về tổ chức tội phạm không làm thay đổi trách nhiệm đối với tội phạm cụ thể mà tổ chức tội phạm đã gây ra[1].
Theo hai hướng sửa đổi, bổ sung trên, chúng tôi thấy cần phải thay đổi cả tên của điều luật và đề xuất dự thảo Điều 20 như sau:
“Điều 20. Hình thức thực hiện và tham gia thực hiện tội phạm
1. Người thực hiện tội phạm là người trực tiếp thực hiện tội phạm hoặc thực hiện tội phạm qua người khác mà người này không phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với họ.
Trong trường hợp có nhiều người là người thực hiện, mỗi người thực hiện được gọi là người đồng thực hiện và chịu trách nhiệm hình sự với vai trò là người thực hiện tội phạm.
2. Người xúi giục phạm tội là người cố ý thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm cố ý bằng các thủ đoạn như kích động, cưỡng ép, dụ dỗ, mua chuộc.
Người xúi giục phạm tội chịu trách nhiệm hình sự như người thực hiện tội phạm.
3. Người giúp sức phạm tội là người cố ý tạo điều kiện cho người thực hiện tội phạm thực hiện hành vi phạm tội cố ý.
Người giúp sức phạm tội được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hơn người thực hiện tội phạm.
4. Người có hành vi xúi giục giúp sức chịu trách nhiệm hình sự như người xúi giục phạm tội. Người có hành vi giúp sức cho người giúp sức chịu trách nhiệm hình sự như người giúp sức phạm tội.
5. Người tổ chức phạm tội là người điều hành quá trình thực hiện tội phạm cố ý.
Người tổ chức phạm tội chịu trách nhiệm tăng nặng hơn người thực hiện tội phạm.
6. Trường hợp có từ hai người trở lên cố ý cùng phạm tội với vai trò là người thực hiện, người xúi giục, người giúp sức hoặc người tổ chức là trường hợp đồng phạm.
Nếu có sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm thì bị coi là phạm tội có tổ chức và những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm hình sự tăng nặng.
7. Trong trường hợp các hành vi tham gia thực hiện được quy định thành tội danh độc lập, người có hành vi tham gia thực hiện đó phải chịu trách nhiệm hình sự theo tội danh độc lập đã được quy định”.
Trên cơ sở quy định về mức độ chịu trách nhiệm hình sự của nhưng người tham gia thực hiện tội phạm đã được sửa đổi tại Điều 20 chúng ta cần phải sửa đổi điều luật quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm – Điều 53. Theo đó, chúng tôi đề xuất dự thảo Điều 53 như sau:
“Điều 53. Quyết định hình phạt cho người đồng thực hiện và người tham gia thực hiện tội phạm
1. Quyết định hình phạt cho những người đồng thực hiện và người xúi giục cũng giống như quyết định hình phạt cho người thực hiện tội phạm riêng lẻ nhưng có xem xét đến mức độ tham gia của từng người.
2. Hình phạt cao nhất có thể quyết định cho người giúp sức là loại hình phạt nhẹ hơn một bậc so với hình phạt tử hình hoặc tù chung thân của người thực hiện. Nếu hình phạt của người thực hiện là tù có thời hạn, là cải tạo không giam giữ, là phạt tiền thì hình phạt cao nhất cho người giúp sức chỉ bằng ba phần tư mức của người thực hiện. Nếu hình phạt cho người thực hiện là cảnh cảo thì người giúp sức được miễn trách nhiệm hình sự.
3. Hình phạt nhẹ nhất có thể quyết định cho người tổ chức phải nặng hơn hình phạt của người thực hiện.
4. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người thực hiện hoặc tham gia thực hiện nào thì chỉ áp dụng đối với người đó”.
Cùng với việc sửa đổi, bổ sung nội dung của các Điều 20 và 53, chúng ta cần bổ sung các điều luật về tổ chức tội phạm. Trong đó có một điều luật kế tiếp Điều 20 và điều luật về tội danh cụ thể trong Phần các tội phạm của BLHS. Điều luật kế tiếp Điều 20 là điều luật mô tả dấu hiệu của tổ chức tội phạm và quy định nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của người thành lập và của người tham gia tổ chức tội phạm. Điều luật trong Phần các tội phạm sẽ mô tả hành vi phạm tội của tội thành lập hoặc tham gia tổ chức tội phạm và quy định các khung chế tài được áp dụng cho tội phạm này. Khi mô tả dấu hiệu của tổ chức tội phạm, chúng ta có thể tham khảo các văn bản pháp luật quốc tế cũng như các văn bản pháp luật của một số quốc gia. Theo đó, dấu hiệu về số lượng người, dấu hiệu về tính chất của sự liên kết và dấu hiệu về mục đích của sự liên kết đều tương đối rõ. Tuy nhiên, vấn đề cần quan tâm làm rõ là giới hạn các tội phạm mà tổ chức tội phạm định thực hiện. Về dấu hiệu này có quốc gia giới hạn là tội rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (BLHS Liên bang Nga), có quốc gia không giới hạn là loại tội gì (BLHS Cộng hòa liên bang Đức),… Trong khi đó thì quan niệm như thế nào là tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng cũng không có sự thống nhất giữa các quốc gia. Theo sự phân loại tội phạm của luật hình sự Việt Nam (Điều 8 khoản 2 và 3 BLHS) thì một tội danh có thể thuộc nhiều loại tội khác nhau. Do vậy, để thuận lợi cho áp dụng luật chúng ta cần giới hạn loại tội phạm thật rõ trong định nghĩa tổ chức tội phạm.. Từ đó, chúng tôi đề xuất dự thảo của hai điều luật đó như sau:
Điều 20a: Tổ chức tội phạm.
1. Tổ chức tội phạm là tập hợp gồm ba người trở lên có sự cấu kết, phối hợp chặt chẽ với nhau để thực hiện tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người thành lập, lãnh đạo tổ chức tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự về việc tổ chức, lãnh đạo tổ chức tội phạm quy định tại Điều 245a của Bộ luật này, đồng thời phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm mà họ cố ý cùng tham gia thực hiện.
3. Những người khác tham gia tổ chức phải chịu trách nhiệm hình sự về việc tham gia vào tổ chức tội phạm quy định tại Điều 245a của Bộ luật này, đồng thời phải chịu trách nhiệm hình sự về việc các tội phạm mà họ cố ý tham gia thực hiện.
4. Việc thành lập, lãnh đạo, tham gia tổ chức tội phạm nếu không phạm các tội quy định tại các điều luật trong Phần các tội phạm của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự về việc chuẩn bị phạm những tội mà tổ chức được lập ra để thực hiện.
5. Tội phạm do tổ chức tội phạm thực hiện phải bị xử phạt nghiêm khắc hơn theo những căn cứ và trong giới hạn do Bộ luật này quy định.
Tội phạm hóa hành vi thành lập tổ chức tội phạm vào Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự đối với các tổ chức tội phạm nhằm thực thực hiện tội phạm nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (bao gồm cả hành vi lãnh đạo tổ chức tội phạm hoặc sáp nhập vào nó những nhánh tội phạm, và thậm chí thành lập liên kết những người tổ chức, lãnh đạo hoặc đại diện của các nhóm có tổ chức nhằm lập kế hoạch và tạo điều kiện để thực hiện tội phạm nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng), quy định trách nhiệm hình sự đối với việc tham gia vào tổ chức tội phạm hoặc vào liên kết những người tổ chức, lãnh đạo hoặc các đại diện của các nhóm có tổ chức là cần thiết. Tuy nhiên, việc xác định chính xác khách thể xâm hại chính (chủ yếu) của tội này hay nói cách khác, việc quy định tội này ở nhóm tội nào, chương nào của Bộ luật hình sự cho hợp lý, phù hợp là rất khó khăn. Mặc dù vậy, theo chúng tôi có thể xếp tội này vào chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, theo đó cần bổ sung một điều luật mới trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự như sau:
Điều 245a: Tội thành lập, lãnh đạo hoặc tham gia tổ chức tội phạm
1. Người nào thành lập, lãnh đạo tổ chức tội phạm để thực hiện các tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
2. Người nào tham gia vào tổ chức tội phạm thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
3. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao mà có các hành vi thành lập, lãnh đạo, tham gia tổ chức tội phạm thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị tịch thu tài sản do phạm tội mà có, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 1 năm đến 5 năm.
Cùng với việc bổ sung tội phạm này, cũng cần quy định thêm tình tiết "phạm tội trong trường hợp được tiến hành bởi một tổ chức tội phạm" là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định ở Điều 48 Bộ luật hình sự. Đồng thời, tình tiết này được quy định là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt cao hơn khung hình phạt được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có tổ chức được quy định trong các cấu thành tội phạm cụ thể trong phần các tội phạm của BLHS.
2. Quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân
Theo pháp luật hiện hành, trách nhiệm của pháp nhân khi người có trách nhiệm quản lý hoặc kiểm soát pháp nhân đó thực hiện với tư cách đó một tội phạm mới chỉ được đặt ra ở mức độ trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm dân sự. Mặc dù Công ước quy định trách nhiệm được quy định cho pháp nhân phạm tội có thể là hành chính, hình sự hoặc dân sự nhưng gắn với yêu cầu được nêu tại khoản 3 của Điều luật thì chế tài được áp dụng phải nghiêm khắc, thích đáng và có tính răn đe. Bên cạnh đó, xuất phát từ thực tiễn vi phạm pháp luật của các pháp nhân ở nước ta trong những năm gần đây có thể dễ dàng nhận thấy tính nghiêm khắc, tính răn đe của chế tài hiện đang được quy định và áp dụng đối với pháp nhân phạm tội còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, luật hình sự Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện theo hướng bổ sung trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân phạm tội một cách phù hợp.
3. Hoàn thiện thể chế để bảo vệ tốt hơn đối với người làm chứng và nạn nhân trước các hành vi vi phạm của tổ chức tội phạm
(i) Đối với nhân chứng.
Để xử lý hiệu quả đối với các tổ chức tội phạm, việc hoàn thiện các quy định pháp luật và cơ chế bảo vệ người làm chứng có vai trò hết sức quan trọng. Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, trước sự đe dọa và sức ép từ phía các tổ chức tội phạm, nhiều người dù biết hoạt động phạm pháp nhưng không dám đứng ra tố cáo vì sợ bị trả thù. Như đã phân tích (Phần II), các quy định bảo vệ người làm chứng hiện nay đã bước đầu tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ nhân chứng nhưng vẫn mang tính chung chung, thiếu tính cụ thể nên rất khó đi vào thực tiễn. Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về các nội dung như người thân thích của nhân chứng gồm những ai, các biện pháp cụ thể để bảo vệ nhân chứng là gì, thực hiện như thế nào... Chẳng hạn, biện pháp cung cấp nhà tạm lánh an tàn trên cơ sở tự nguyện, khẩn cấp hoặc lâu dài nếu cần thiết, chuyển chỗ ở, chỗ là việc, cấp giấy tờ tùy thân mới... Việc hoàn thiện thể chế bảo vệ người làm chứng cũng đồng thời thể hiện nghĩa vụ thành viên của Việt Nam trong việc thực hiện các Công ước quốc tê mà Việt Nam gia nhập.
Do vậy, đã đến lúc cần thiết chúng ta phải xây dựng Luật bảo vệ nhân chức với những quy định rất cụ thể nhằm bảo vệ nhân chứng một cách an toàn nhất, tốt nhất.
(ii) Đối với các nạn nhân.
Nhà nước cần sớm nghiên cứu, ban hành Luật Bảo vệ nhân chứng và xây dựng các thiết chế phù hợp về mặt tổ chức cơ quan tư pháp nhằm bảo vệ quyền lợi, tính mạng, sức khỏe cho những người dân khi họ phối hợp, cộng tác, giúp đỡ các cơ quan pháp luật trong đấu tranh chống tội phạm, nhất là đối với các hoạt động của tổ chức tội phạm. Bên cạnh đó, cần có chính sách cụ thể về khen thưởng vật chất, tinh thần để khuyến khích họ, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiếp nhận tin về bí mật thông tin, có trách nhiệm bảo vệ người tố giác tội phạm. Để làm được việc này Nhà nước cần dành một khoản kinh phí nhất định cho việc bảo vệ nhân chứng, lực lượng công an cũng phải có những đơn vị chuyên trách bảo vệ nhân chứng để bảo vệ họ khi cần thiết. Có như vậy, dân mới tin, mới mạnh dạn hợp tác với công an trong cuộc đấu tranh đầy nguy hiểm này.
Trước mắt, để bảo vệ nhân chứng và người thân của họ cần ban hành văn bản hướng dẫn quy định một cách cụ thể phạm vi những người được bảo vệ (nhân chứng và người thân thích của nhân chứng là những ai?); các biện pháp bảo vệ cụ thể (chuyển chỗ ở, bí mật thông tin, cấp giấy tờ tùy thân mới…); thời gian, cách thức bảo vệ; hỗ trợ đối với trường hợp bị thiệt hại do nguyên nhân từ việc thực hiện làm chững chống lại tội phạm..
4. Hoàn thiện các quy định liên quan đến hành vi rửa tiền và làm giàu bất hợp pháp phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Đối với hành vi rửa tiền:
i) Nghiên cứu ghép 2 điều luật 250 và 251 của Bô luật hình sự thành một điều quy định tội danh chung là rửa tiền;
ii) Nghiên cứu bổ sung những hành vi quy định tại khoản 1(b)(i) Điều 6 Công ước TOC, bao gồm những hành vi giành được, sở hữu hoặc sử dụng tiền, tài sản mà biết rằng tiền tài sản đó do phạm tội mà có;
iii) Nghiên cứu thay đổi cụm từ “biết rõ” bằng cụm từ “biết rằng” cho phù hợp với Điều 6 của Công ước TOC.
Đối với hành vi làm giàu bất chính:
Tô chức tội phạm có quan hệ chặt chẽ với tham nhũng thông qua việc công chức trong bộ máy nhà nước thực hiện nhằm cách bao che, bảo kê cho hoạt động của các tổ chức tội phạm. Trong khi hành vi nhận hối lộ hay hành vi của công chức lợi dụng ảnh hưởng đối với công chức khác để trục lợi không dễ phát hiện và xử lý thì việc ngăn chặn các hành vi hỗ trợ cho các tổ chức tội phạm hoạt động nhằm thu lợi bất hợp pháp có thể được xử lý bằng cách quy định về hành vi làm giàu bất hợp pháp. Việc nghiên cứu quy định hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp cũng là nhằm từng bước thực hiện Điều 20 Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
II. Kiến nghị các giải pháp tăng cường năng lực tổ chức thi hành pháp luật
Một là, cần huy động sức mạnh của hệ thống chính trị trong phòng, chống tội phạm. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng các cấp trong công tác phòng, chống tội phạm. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên về ý thức trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tội phạm. Trước hết là trách nhiệm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu cơ quan, tổ chức theo yêu cầu của Bộ Chính trị được nêu trong Chỉ thị số 48/CT-TW, ngày 22-10-2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Hai là, nâng cao năng lực phòng, chống tổ chức tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật và các lực lượng chuyên trách.
Ba là, các đơn vị công an cần kết hợp chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền cơ sở, tổ dân phố để sớm phát hiện tất cả các băng, ổ nhóm tội phạm hiện đang hoạt động hoặc mới hình thành, nắm được tên cầm đầu các băng, nhóm này, số đối tượng tham gia, tính chất và địa bàn hoạt động của chúng.
Bốn là, đấu tranh chống tổ chức tội phạm, đặc biệt là tổ chức tội phạm xuyên quốc gia đòi hỏi phải có lực lượng có tính chuyên môn cao, những cán bộ giỏi về nghiệp vụ, hiểu biết sâu cả về luật pháp của Việt Nam và quốc tế, có trình độ ngoại ngữ và giàu kinh nghiệm hợp tác quốc tế đấu tranh chống tội phạm, tâm huyết và nghiêm túc trong công việc. Vì vậy, cần nghiên cứu thành lập lực lượng chuyên trách chống tổ chức tội phạm và tội phạm xuyên quốc gia với quy mô tổ chức đủ mạnh cả về lượng và chất ở Bộ Công an và công an các tỉnh, các thành phố trọng điểm. Lực lượng này, bên cạnh trình độ nghiệp vụ và luật pháp tinh thông, cần được trang bị những phương tiện nghiệp vụ hiện đại, được huấn luyện kỹ năng sử dụng có hiệu quả các phương tiện này.
Năm là, cần tăng cường hơn mối quan hệ hợp tác quốc tế đấu tranh chống tội phạm.
[1] GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, Hoàn thiện các quy định về tội phạm thuộc phần chung BLHS Việt Nam đáp ứng yêu cầu Hội nhập và phát triển, Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập và phát triển bền vững (sách chuyên khảo), Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, trang 265