BỘ TƯ PHÁP
VIỆN KHOA HỌC PHÁP LÝ
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP BỘ
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
HÀ NỘI - 2014
BỘ TƯ PHÁP
VIỆN KHOA HỌC PHÁP LÝ
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP BỘ
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
HÀ NỘI - 2014
Danh s¸ch nh÷ng ngêi thùc hiÖn
|
Họ và tên
|
Nơi công tác
|
Nội dung viết
|
1.
|
TS. NGUYỄN CÔNG BÌNH
|
Hiệu trưởng Trường Trung cấp Luật Tây Bắc
|
Chuyên đề 1
|
2.
|
ThS. NGUYỄN HUYỀN CƯỜNG
|
Thẩm phán Tòa kinh tế - TAND thành phố Hà Nội
|
Chuyên đề 11
|
3.
|
TS. NGUYỄN VĂN CƯỜNG
|
Viện khoa học xét xử - TANDTC
|
Chuyên đề 6
|
4.
|
LS. TRƯƠNG QUANG DŨNG
|
Công ty Luật Audier và cộng sự
|
Chuyên đề 4
|
5.
|
TS. NGUYỄN TRIỀU DƯƠNG
|
Trường Đại học Luật Hà Nội
|
Chuyên đề 2
|
6.
|
TS. LÊ THU HÀ
|
Văn phòng Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương
|
Chuyên đề 5
|
7.
|
TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ
|
Trường Đại học Luật Hà Nội
|
Chuyên đề 12, 13
|
8.
|
ThS. ĐẶNG THANH HOA
|
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
|
Chuyên đề 8
|
9.
|
ThS. PHÙNG THỊ HOÀN
|
Viện khoa học xét xử - TANDTC
|
Chuyên đề 6
|
10.
|
TS. BÙI THỊ HUYỀN
|
Trường Đại học Luật Hà Nội
|
Chuyên đề 10
|
11.
|
LS. TRẦN ĐỨC SƠN
|
Công ty Luật Gide Loyrette Nouel
|
Chuyên đề 9
|
12.
|
TS. TRẦN PHƯƠNG THẢO
|
Trường Đại học Luật Hà Nội
|
Chuyên đề 3
|
13.
|
TS. TRẦN ANH TUẤN
|
Trường Đại học Luật Hà Nội
|
Chuyên đề 4, 7, 8
|
14.
|
ThS. NGUYỄN SƠN TÙNG
|
Trường Đại học Luật Hà Nội
|
Báo cáo khảo sát
|
BẢNG VIẾT TẮT
BLTTDS
|
Bộ luật Tố tụng dân sự
|
TTDS
|
Tố tụng dân sự
|
MỤC LỤC
PHẦN THỨ NHẤT
BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
|
Trang
|
1. PHẦN MỞ ĐẦU
|
1
|
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
|
1
|
1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài
|
3
|
1.3. Đối tượng nghiên cứu và mục đích nghiên cứu
|
6
|
1.4. Phạm vi nghiên cứu
|
7
|
1.5. Nội dung nghiên cứu
|
7
|
1.5.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế
|
7
|
1.5.2. Thực trạng tố tụng dân sự và xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
|
8
|
1.5.3. Quan điểm và đề xuất mô hình về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
|
8
|
1.6. Phương pháp nghiên cứu
|
8
|
2. PHẦN NỘI DUNG
|
9
|
2.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế
|
9
|
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
|
9
|
2.1.2. Cơ sở lý luận của việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
|
22
|
2.1.3. Mô hình về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo pháp luật một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
|
34
|
2.2. Thực trạng tố tụng dân sự và xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
|
48
|
2.2.1. Các quy định có liên quan tới giản lược về thành phần và thủ tục tố tụng dân sự trong lịch sử
|
49
|
2.2.2. Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn
|
59
|
2.2.3. Thực trạng xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
|
74
|
2.3. Quan điểm và đề xuất mô hình về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
|
79
|
2.3.1. Quan điểm về xây dựng mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
|
79
|
2.3.2. Đề xuất về xây dựng mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
|
85
|
Mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
|
119
|
|
|
PHẦN THỨ HAI
CÁC CHUYÊN ĐỀ VÀ BÁO CÁO KHẢO SÁT ĐỀ TÀI
|
|
Trang
|
1.
|
Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
|
130
|
2.
|
Mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn với một số nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự
|
142
|
3.
|
Sự tương đồng và khác biệt giữa thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
|
161
|
4.
|
Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo pháp luật một số nước trên thế giới và việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
|
172
|
5.
|
Lược sử hình thành và phát triển các quy định liên quan đến thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
|
186
|
6.
|
Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn
|
195
|
7.
|
Thực trạng xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
|
219
|
8.
|
Yêu cầu của cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
|
231
|
9.
|
Về xác định phạm vi loại việc khi xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
|
244
|
10.
|
Về đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán khi xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
|
251
|
11.
|
Về bảo đảm hiệu quả của hoạt động tố tụng và quyền tiếp cận công lý của công dân khi xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
|
270
|
12.
|
Việc bảo đảm quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của đương sự khi xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
|
279
|
13.
|
Về cơ chế kết hợp hoà giải khi giải quyết vụ việc theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
|
294
|
14.
|
Báo cáo kết quả khảo sát
|
315
|
15.
|
Danh mục tài liệu tham khảo
|
352
|
PHẦN THỨ NHẤT
BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẤP BỘ
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) Việt Nam hiện hành chỉ quy định về thủ tục giải quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự mà không quy định về thủ tục giản đơn để giải quyết các tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng, các đương sự thừa nhận nghĩa vụ hoặc những tranh chấp có giá ngạch thấp... Trong khi đó, pháp luật TTDS của nhiều nước trên thế giới đều thiết lập bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường các thủ tục TTDS đặc biệt, trong đó có thủ tục rút gọn. Đây là thủ tục tố tụng được áp dụng để giải quyết các loại việc đáp ứng những điều kiện nhất định với một trình tự đơn giản, ngắn gọn. Thủ tục này là một trong những công cụ hữu hiệu của người dân cũng như Tòa án trong việc thực hiện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức một cách nhanh chóng, linh hoạt và hiệu quả.
Việc nghiên cứu cho thấy, xu hướng cải cách thủ tục tố tụng trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay là pháp luật TTDS của các nước đang ngày càng xích lại gần nhau hơn, loại bỏ dần những yếu tố không hợp lý và chấp nhận những ưu điểm của hệ thống pháp luật khác. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, các tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự, thương mại, lao động với nước ngoài phát sinh ngày một nhiều, đòi hỏi Việt Nam phải xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia tương thích với pháp luật của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước mà Việt Nam có ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp hoặc tham gia Điều ước quốc tế, trong đó có thủ tục tố tụng tư pháp. Xét dưới góc độ kinh tế học thì các doanh nghiệp nước ngoài khi xúc tiến đầu tư bao giờ cũng quan tâm tới tính hiệu quả và nhanh chóng, sự bảo đảm an toàn pháp lý của hệ thống tư pháp và thủ tục TTDS trong trường hợp giữa các đối tác có tranh chấp về quyền lợi. Do vậy, để tạo điều kiện khuyến khích, thu hút đầu tư nước ngoài thì việc nghiên cứu xây dựng thủ tục TTDS rút gọn là cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu về tính nhanh chóng, đơn giản và hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp.
Bên cạnh đó, thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự ở Việt Nam cho thấy đã xuất hiện nhiều vụ việc đơn giản, có chứng cứ rõ ràng, giá trị tranh chấp không lớn nhưng các Tòa án vẫn phải áp dụng thủ tục thông thường để giải quyết gây kéo dài thời gian và tổn phí cho cả Nhà nước và đương sự. Nhiều vụ việc tuy đơn giản nhưng người có nghĩa vụ vẫn lạm dụng quyền kháng cáo nhằm trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ của mình và trong nhiều trường hợp chi phí cho hoạt động tố tụng còn lớn hơn nhiều so với lợi ích cần được bảo vệ. Chẳng hạn, “ở các đô thị lớn như TP.HCM, trung bình một thẩm phán một tháng phải giải quyết từ 10 vụ việc trở lên. Trong số đó, có không ít trường hợp tranh chấp đơn giản, các bên đều thừa nhận và mong tòa giải quyết nhanh…, đương sự chỉ chờ một phán quyết của Tòa án để thực hiện việc thi hành án bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho họ. Nhưng tòa không thể đưa ra xét xử ngay vì một trong các nguyên nhân là thẩm phán sợ nếu không tiến hành đầy đủ các bước lấy lời khai, hòa giải… như luật định, dù không cần thiết thì cũng có thể bị hủy, sửa án ([1]). Nhận thức được những hữu ích của thủ tục rút gọn cũng như tổng kết thực tiễn của hoạt động tố tụng tư pháp tại Tòa án, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ quan điểm về việc xây dựng thủ tục rút gọn. Theo đó, cần phải “… Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”.
Để cụ thể hóa chủ trương về việc xây dựng thủ tục rút gọn của Bộ Chính trị như nêu trên, Nghị quyết số 428/NQ-UBTVQH13 ngày 29/12/2011 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII đã đưa Pháp lệnh Thủ tục rút gọn trong TTDS vào chương trình xây dựng Pháp lệnh và giao cho Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan trình dự thảo. Đây là căn cứ pháp lý cho việc xây dựng một mô hình tố tụng rút gọn trong TTDS ở Việt Nam.
Ngoài ra, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đã quy định “Vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết theo thủ tục giản đơn quy định trong pháp luật TTDS...” nhưng cho đến nay thủ tục này vẫn chưa được xây dựng trong pháp luật TTDS. Vấn đề đặt ra là “thủ tục giản đơn” trong Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 có đồng nghĩa với thủ tục TTDS rút gọn hay không. Đây cũng là vấn đề cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu để làm rõ bản chất và nội hàm của “thủ tục rút gọn” cần phải được xây dựng theo Nghị quyết 48 và 49 - NQ/TW 2005 của Bộ Chính trị.
Xét dưới góc độ Hiến pháp thì năm 2013, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua và ban hành Hiến pháp năm 2013, trong đó có những sửa đổi, bổ sung về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án trong tố tụng cho phù hợp với thủ tục tố tụng rút gọn. Theo đó, “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn… Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn (Điều 103). Do vậy, Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) và các văn bản hướng dẫn với tư cách là công cụ hữu hiệu bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức cần có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các nguyên tắc trong Hiến pháp năm 2013 nhằm làm cơ sở quy định về thủ tục rút gọn trong TTDS.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Vấn đề xây dựng thủ tục TTDS rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay - Thực trạng và giải pháp” nhằm làm rõ yêu cầu của việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn, cơ sở khoa học của việc xây dựng và đề xuất các giải pháp xây dựng mô hình thủ tục này ở Việt Nam là cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thủ tục TTDS rút gọn mới chỉ bước đầu được đề cập nghiên cứu tại một vài công trình về TTDS. Tuy nhiên, các công trình này không đi sâu nghiên cứu về thủ tục TTDS rút gọn hoặc có nghiên cứu về thủ tục TTDS rút gọn nhưng còn ở mức độ hạn chế, chưa luận giải toàn diện và sâu sắc về vấn đề nghiên cứu. Cụ thể là:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng BLTTDS ” do Toà án nhân dân tối cao thực hiện năm 1996 đã có những nghiên cứu bước đầu về thủ tục TTDS rút gọn như các loại việc phát sinh từ thực tiễn có thể giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn, nêu một số ý kiến khác nhau khi xây dựng thủ tục này ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về thủ tục tố tụng rút gọn trong công trình này mới dừng lại ở mức độ khái quát, gợi mở vấn đề chứ chưa phân tích sâu về cơ sở khoa học của việc xây dựng thủ tục này, toàn bộ kết quả nghiên cứu chỉ được thể hiện trong giới hạn 6 trang (từ trang 70 đến 74 và từ trang 302 - 303).
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư pháp”, Mã số: LH - 09 - 04/ĐHL - HN (Đại học Luật Hà Nội) do TS. Trần Anh Tuấn thực hiện năm 2010 đã đề cập đến thực trạng pháp luật TTDS Việt nam chưa đáp ứng được yêu cầu về tính linh hoạt, mềm dẻo và có hiệu quả trong việc bảo vệ quyền lợi của đương sự cũng như việc đa dạng hoá các loại hình thủ tục tố tụng cho phù hợp với tính chất của từng loại tranh chấp đồng thời đưa ra yêu cầu cần thiết phải xây dựng thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, đề tài chưa nêu ra được cụ thể phạm vi các loại việc áp dụng thủ tục TTDS rút gọn cũng như trình tự, thủ tục rút gọn được thực hiện như thế nào.
- Luận văn thạc sỹ Luật học về “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS Việt Nam” của tác giả Trần Anh Tuấn năm 2000 mới chỉ ra được mối liên hệ giữa các nguyên tắc của luật dân sự với việc xây dựng thủ tục rút gọn, nhu cầu của việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn nhưng chưa có điều kiện nghiên cứu chuyên sâu về yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập đối với việc xây dựng thủ tục này ở Việt Nam. Vấn đề phân hoá loại việc có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn và cơ chế tương ứng về thủ tục cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ khái quát chung, chưa có sự luận giải hợp lý về mối liên hệ giữa tính chất của loại việc và thủ tục tố tụng cần phải xây dựng, chưa làm rõ được tính hiệu quả của thủ tục tố tụng dưới góc độ kinh tế học, kiến nghị về cơ chế kháng án trong Luận văn cần phải được nhận thức lại dưới góc nhìn về bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân. Ngoài ra, một số loại việc được tác giả đề xuất trong Luận văn này từ năm 2000, nay đã được đưa vào thủ tục giải quyết việc dân sự trong BLTTDS năm 2004. Thực tiễn lập pháp này cũng đặt ra một vấn đề cần phải giải quyết về lý luận là thủ tục giải quyết việc dân sự có phải là thủ tục rút gọn hay không, cần phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ bản chất, đặc điểm của thủ tục TTDS rút gọn để có cơ sở xác định mô hình thủ tục rút gọn cần phải được xây dựng ở Việt Nam.
- Các bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí có nghiên cứu về những vấn đề riêng lẻ của thủ tục TTDS rút gọn như “Vấn đề thủ tục rút gọn trong TTDS ở nước ta” của tác giả Trần Đức Mai đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số5/1998; “Bàn về thủ tục rút gọn trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tư pháp nhằm góp phần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992” của tác giả Trần Huy Liệu đăng trên Tạp chí Luật học số 5/2001; “Về việc xác định phạm vi những vụ kiện được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn” của tác giả Trần Anh Tuấn đăng trên Tạp chí Luật học số 2/2002; “Thủ tục xét xử nhanh trong BLTTDS Pháp và yêu cầu xây dựng thủ tục rút gọn trong BLTTDS Việt Nam” của tác giả Trần Anh Tuấn đăng trên Tạp chí Dân chủ pháp luật số 2/2004; “Luật so sánh và thực tiễn xây dựng BLTTDS Việt Nam” của tác giả Trần Anh Tuấn đăng trên Tạp chí Luật học số 4/2007; “Hoàn thiện thủ tục rút gọn đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Đức Mai đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 15/2008. Các bài viết này đề cập đến các vấn đề khác nhau của thủ tục TTDS rút gọn như yêu cầu của việc xây dựng thủ tục rút gọn, phạm vi loại việc được áp dụng thủ tục TTDS rút gọn, mối liên hệ của việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn với một số nguyên tắc cơ bản của luật TTDS; hội đồng xét xử rút gọn... Tuy nhiên, những vấn đề có tính lí luận về thủ tục TTDS rút gọn hầu như không được đề cập đến, nhiều vấn đề có ý nghĩa về lí luận và thực tiễn chưa được nghiên cứu hoặc có đề cập đến nhưng chưa được lý giải một cách thỏa đáng và cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu sắc và toàn diện hơn.
Ở nước ngoài, vấn đề thủ tục TTDS rút gọn được tiếp tục nghiên cứu trong các sách như: Luật Nhật bản của cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản; Luật so sánh của giáo sư Michael Bogdan; Kỷ yếu của dự án VIE/95/017 Về pháp luật TTDS; một số tài liệu hội thảo về pháp luật TTDS do Nhà pháp luật Việt pháp tổ chức tại Hà Nội… Các tài liệu nguyên bản bằng tiếng nước ngoài được nghiên cứu là cuốn Japaness Law - Volume 2 (1997 -1998) của Japan International operation agency; Lexique des termes juridiques của Serge Guinchard, Gabriel Montagnier, édition Dalloz 2001; Procédure civile, Nxb DALLOZ, 2000 của cố giáo sư VINCENT (J.) và giáo sư GUINCHARD (S.); Procédure civile Droit interne et droit communautaire, Nxb Dalloz, 2006 của của tác giả Serge Guinchard, Frédérique Ferrand; Droit et pratique de procédure civile, D. 2007/2008, của tác giả Serge Guinchar; La pratique des procédures rapides, 2e éd. Litec 1998 của tác giả ESTOUP (P.); Droit judiciaire privé, Litec, 5e éd. 2006.v.v... Các tài liệu trên có đề cập tới những khía cạnh khác nhau của thủ tục TTDS rút gọn như một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục tố tụng đặc biệt tại Pháp và Cộng đồng Châu Âu, thực tiễn về thủ tục tố tụng đặc biệt tại Pháp, thủ tục ra lệnh thanh toán nợ, buộc làm một công việc theo pháp luật Pháp. Đây là những tài liệu tham khảo có giá trị được sử dụng để so sánh, tìm ra những điểm hợp lý, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam để có thể tiếp thu trong quá trình xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam.
1.3. Đối tượng nghiên cứu và mục đích nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là:
+ Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân và những yêu cầu đặt ra với việc cải cách thủ tục TTDS.
+ Các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam trong đó bao gồm các quy định hiện hành về thủ tục tố tụng thông thường và các quy định liên quan đến thủ tục rút gọn đã từng tồn tại trong các văn bản pháp luật từ trước tới nay.
+ Các quy định của pháp luật TTDS một số nước trên thế giới để tham khảo trong quá trình xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam.
+ Thực tiễn các hoạt động TTDS của Toà án nhằm làm rõ khả năng xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS ở Việt Nam.
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là:
+ Hiện thực hóa đường lối cải cách tư pháp của Đảng được nêu trong Nghị quyết 48 và 49 -NQ/TW 2005 của Bộ Chính trị về “Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”.
+ Xác định các yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn.
+ Làm rõ cơ sở lý luận của việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn theo định hướng cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế.
- Làm rõ cơ sở thực tiễn của việc xác định phạm vi loại việc có thể được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn tại Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp về xác định phạm vi loại việc và mô hình thủ tục TTDS rút gọn tại Việt Nam.
1.4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với mục tiêu và đối tượng nghiên cứu như đã trình bày ở trên, đề tài được triển khai nghiên cứu trên toàn bộ hệ thống pháp luật về thủ tục TTDS của Việt Nam cũng như thực tiễn hoạt động TTDS của Toà án. Ngoài ra, đề tài còn triển khai nghiên cứu các quy định của pháp luật TTDS của một số nước có quy định về thủ tục TTDS rút gọn như Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singgapor, Australia... nhằm so sánh và tham khảo.
1.5. Nội dung nghiên cứu
1.5.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế
- Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục TTDS rút gọn;
- Yêu cầu của cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc xây dựng thủ tục TTDS ở Việt Nam;
- Mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn với một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và TTDS;
- Mô hình về thủ tục TTDS rút gọn theo pháp luật một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
1.5.2. Thực trạng tố tụng dân sự và xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
- Thực trạng về các quy định có liên quan quan tới giản lược về thành phần và thủ tục TTDS trong lịch sử;
- Yêu cầu rút ngắn thời hạn, đơn giản hóa thành phần và thủ tục TTDS từ thực tiễn giải quyết án kiện;
- Thực tiễn về loại việc có thể giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn;
- Thực trạng xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam.
1.5.3. Quan điểm và đề xuất mô hình về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
- Quan điểm xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam;
- Đề xuất về xây dựng mô hình thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam.
1.6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đường lối, chủ trương chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về hoạt động tư pháp.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng để thực hiện đề tài là phương pháp mô tả, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, lịch sử, tư duy logic, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học, phỏng vấn chuyên sâu, khảo sát.v.v...
Các phương pháp trên được áp dụng linh hoạt tuỳ vào từng nội dung và những yêu cầu của đề tài. Đặc biệt phương pháp khảo sát thực tế, điều tra xã hội học được sử dụng đối với các cán bộ làm công tác xét xử, các luật sư, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự tại các Tòa án, Văn phòng luật sư... nhằm xác định yêu cầu và khả năng thực tế về loại việc và mô hình thủ tục TTDS rút gọn có thể được xây dựng ở Việt Nam.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
2.1.1.1. Khái niệm thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Việc nghiên cứu nhận diện bản chất của thủ tục TTDS rút gọn là tiền đề căn bản cho việc nhận thức để xây dựng thủ tục này nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Nghiên cứu lý luận ở Việt Nam về thủ tục TTDS rút gọn cho thấy đây là một vấn đề mới chưa được đề cập trong các Giáo trình luật TTDS của các cơ sở đào tạo luật và nghề luật hiện nay. Công trình về TTDS đầu tiên ở Việt Nam, do giáo sư Nguyễn Huy Đẩu thực hiện tuy không đưa ra một khái niệm cụ thể về loại hình thủ tục này nhưng đã có bàn tới thủ tục giản lược hay thủ tục không đới tranh. Theo đó, “Thủ tục giản lược (procédure sommaire) là một thủ tục ít nệ thức, đỡ tốn kém, và mau chóng hơn, được nhà lập pháp dự liệu như biệt lệ đối với thủ tục tố tụng thông thường”([2]).
Theo Giáo sư Nguyễn Huy Đẩu thì thủ tục giản lược được áp dụng đối với “...các việc kiện về đối nhân động sản có chứng khoán không bị tranh nại, các đơn kiện này không có chứng khoán nhưng dưới 90.000 quan, các tố quyền bất động sản hoa lợi đồng niên dưới 8.000 quan, các đơn thỉnh cầu tạm thời hoặc kiện về tiền thuê nhà, lúa ruộng”. Theo thủ tục giản lược “án phí được thanh toán ngay trong bản án chứ không phải theo một thủ tục riêng, nếu phải cho mở cuộc điều tra thì xét hỏi ngay trước Tòa, chớ không cần chỉ định Thẩm phán riêng để đôn đốc và sau hết, được miễn phải đưa ra thử điều giải trước khi đăng đường xét xử”([3]). Như vậy, thủ tục giản lược có thể áp dụng với những việc kiện có chứng cứ rõ ràng (có chứng khoán không bị tranh nại) hoặc không có chứng cứ rõ ràng nhưng giá trị tranh chấp nhỏ (kiện về đối nhân động sản dưới 90.000 quan hoặc kiện về bất động sản hoa lợi đồng niên dưới 8.000 quan, kiện về tiền thuê nhà, lúa ruộng).
Trong công trình nghiên cứu của mình Giáo sư Nguyễn Huy Đẩu cũng đã có đề cập tới cơ chế xét xử một lần, xét xử một Thẩm phán đối với các vụ kiện có giá ngạch thấp. Theo đó, tại Trung - Việt, theo Nghị định ngày 20/10/1947 của Hội đồng chấp chánh lâm thời Trung kỳ về sửa đổi giá ngạch cũ có quy định: Các Toà đệ nhị cấp xử chung thẩm các việc tương tranh động sản hoặc đối với người, việc thương sự; việc đòi tiền bồi hoàn hay bồi thường với giá ngạch trên 500 $ nhưng dưới 1500 $, về bất động sản theo giá ngạch đồng niên không quá 150 $ (Điều 19)([4]).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhiều quốc gia trên thế giới, ngoài thủ tục thông thường đều có quy định riêng về thủ tục giải quyết đối với các vụ kiện có giá ngạch thấp. Ở Pháp, trong thủ tục giải quyết các vụ kiện có giá ngạch thấp thì đương sự không được quyền kháng cáo phúc thẩm([5]). Tương tự, ở Đức, Tòa án tư pháp có thẩm quyền thấp nhất ở Đức là Tòa Amtsgericht (AG) hay còn gọi là Tòa án cơ sở có thẩm quyền sơ thẩm các vụ khiếu kiện nhỏ như tranh chấp giữa chủ nhà và người thuê nhà, vấn đề gia đình hoặc các vụ việc nhỏ khác. Tòa Amtsgericht (AG) có thẩm quyền xét xử các tranh chấp có giá ngạch đến 6.000 euro, các vụ án hôn nhân gia đình (không phụ thuộc vào giá ngạch). Việc giải quyết các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình tại AG thông thường do một Thẩm phán thực hiện. Cũng như tổ chức hệ thống tư pháp của nhiều nước Châu Âu khác, theo pháp luật Đức thì đương sự chỉ có thể yêu cầu phúc thẩm, nếu nội dung yêu cầu phúc thẩm có giá ngạch từ 6.000 euro trở lên hoặc AG cho phép phúc thẩm và ghi rõ trong bản án([6]).
Nghiên cứu các tài liệu lý luận về tố tụng của các nước theo hệ thống luật dân sự, mà điển hình là Pháp cho thấy cũng không có một khái niệm riêng về thủ tục TTDS rút gọn. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Pierre ESTOUP thì “các thủ tục ra lệnh là loại hình thủ tục đơn giản cho phép người có quyền có được lệnh buộc buộc người có nghĩa vụ phải thanh toán một khoản nợ hoặc thi hành một nghĩa vụ từ hợp đồng”([7]). Cố gắng tìm kiếm những luận giải về thuật ngữ “thủ tục TTDS rút gọn” cho thấy trong lịch sử tố tụng Pháp, thủ tục ra lệnh thanh toán nợ được thiết lập ở Pháp bằng Sắc luật ngày 25/8/1937, dưới tên gọi khác là “thủ tục đơn giản thu hồi những món nợ thương mại nhỏ”. Từ Sắc lệnh 72-790 ngày 28/8/1972 thủ tục này đã mở rộng áp dụng đối với cả lĩnh vực dân sự và thương mại mà không phụ thuộc vào giá trị của tranh chấp. Từ mô hình này Sắc lệnh 88-209 ngày 4/3/1988 đã đưa vào một thủ tục mới là thủ tục ra lệnh thực hiện công việc nhằm đơn giản hóa việc kiện của người tiêu dùng trong việc yêu cầu Tòa án buộc bên ký kết hợp đồng phải thi hành nghĩa vụ đã cam kết.
Theo các tố tụng gia của Pháp, thủ tục buộc làm một công việc là thủ tục cho phép đạt được một Án lệnh của Thẩm phán cấp thẩm nhằm buộc phải thực hiện nghĩa vụ như giao đồ vật, trả lại một tài sản, cung cấp một dịch vụ do tính chất của nghĩa vụ là rõ ràng. Đó là một thủ tục đơn giản cho phép đạt được lệnh buộc làm một công việc từ Thẩm phán Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp hoặc Thẩm phán hoà giải([8]). Thủ tục buộc thanh toán là thủ tục cực kỳ đơn giản cho phép đòi thanh toán những khoản nợ dân sự hoặc thương mại rõ ràng bằng cách yêu cầu Thẩm phán hoà giải, Thẩm phán Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp, Chánh án Toà thương mại cấp cho một lệnh buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán. Nếu bên có nghĩa vụ không phản kháng lệnh trả nợ, lệnh này sẽ có giá trị cưỡng chế thi hành([9]). Ở Đức, cũng thiết lập thủ tục ra lệnh thanh toán nợ. Theo đó, Tòa Amtsgericht (AG) hay còn gọi là Tòa án cơ sở có thẩm quyền ra lệnh thanh toán nợ theo thủ tục xét xử nhanh đối với yêu cầu thanh toán các khoản nợ đã rõ ràng([10]).
Như vậy, kết quả nghiên cứu trên cho thấy “thủ tục TTDS rút gọn” dường như là “thủ tục đơn giản”, bao gồm thủ tục ra lệnh thanh toán và ra lệnh buộc thực hiện công việc và thủ tục xét xử một lần đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ. Ở Việt Nam, thủ tục TTDS rút gọn là một vấn đề mới, còn đang trong quá trình bàn thảo và xây dựng. Nhận thức về thủ tục này về phương diện lý luận cũng còn có những ý kiến khác nhau. Trong công trình nghiên cứu cấp bộ “Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng BLTTDS” của Tòa án nhân dân tối cao năm 1995 cũng đã khẳng định “...đa số các nhà khoa học, các chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực xây dựng pháp luật về TTDS đều thống nhất quan điểm là cần xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS, tuy nhiên, thủ tục đó cần xây dựng theo phương thức nào, quy trình rút gọn thể hiện ở điểm mấu chốt nào ... thì lại có nhiều ý kiến khác nhau”([11]). Công trình nghiên cứu này cũng chưa đưa ra khái niệm về thủ tục TTDS rút gọn mà chỉ kiến nghị:
“Xây dựng thủ tục rút gọn để giải quyết các vụ kiện đơn giản, bị đơn không phản đối yêu cầu của nguyên đơn, các vụ kiện về hợp đồng hoặc nghĩa vụ về tài sản có giá ngạch thấp hoặc theo sự lựa chọn của đương sự với các định hướng cụ thể sau đây:
- Thủ tục rút gọn do một Thẩm phán giải quyết;
- Quyết định của Thẩm phán theo thủ tục rút gọn có hiệu lực pháp luật ngay”([12]).
Trong công trình nghiên cứu cách đây hơn mười năm, ThS. Trần Anh Tuấn cũng đã rút ra định nghĩa về thủ tục rút gọn như sau “Thủ tục rút gọn trong TTDS là một quy trình tố tụng được áp dụng để Tòa án giải quyết các loại vụ kiện dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng hay tranh chấp hợp đồng về tài sản có giá ngạch thấp..., theo đó trong một thời hạn ngắn Thẩm phán nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, độc lập một mình xét xử và ra quyết định có hiệu lực thi hành”([13]). Tuy nhiên, công trình nghiên cứu này đi theo hướng đối lập giữa thủ tục thông thường và thủ tục rút gọn mà chưa chú trọng đến việc phân hóa loại việc với những cơ chế kháng án tương ứng. Nhiều loại việc trước đó được tác giả đề xuất giải quyết theo thủ tục rút gọn nay đã được đưa vào thủ tục giải quyết việc dân sự trong BLTTDS năm 2004. Do vậy, khái niệm này hiện nay không còn phù hợp, cần phải được nghiên cứu bổ sung và chỉnh sửa.
“Sau khi BLTTDS ra đời, cũng đã có nhiều ý kiến cho rằng thủ tục giải quyết việc dân sự được quy định từ Điều 311 đến Điều 341 BLTTDS năm 2004 chính là thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, việc nghiên cứu pháp luật TTDS của nhiều nước trên thế giới cho thấy rằng đây chỉ là các thủ tục tố tụng đặc biệt chứ không phải là thủ tục rút gọn theo đúng nghĩa của nó”([14]). Nghị quyết số 49 - NQ/TW của Bộ chính trị ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã củng cố cho nhận định này và chỉ rõ cần phải tiếp tục “…Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định ”. TS. Nguyễn Công Bình cũng đã đưa ra lập luận để khẳng định thủ tục giải quyết việc dân sự không phải là thủ tục TTDS rút gọn. Bởi vì, thủ tục này chỉ được Tòa án áp dụng để giải quyết đối với những việc không có tranh chấp như các yêu cầu công nhận các quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động hoặc các yêu cầu công nhận, không công nhận một sự kiện pháp lý nào đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật giữa các đương sự mà không được áp dụng để giải quyết đối với những việc có tranh chấp. Thời gian, trình tự giải quyết vụ việc cũng tương tự như thủ tục tố tụng thông thường, nhiều quy định của thủ tục tố tụng thông thường vẫn được dẫn chiếu áp dụng cho thủ tục giải quyết việc dân sự([15]).
Về thuật ngữ, theo nghiên cứu của tác giả trên thì thủ tục rút gọn là cụm từ ghép của "thủ tục" và "rút gọn". Trong tiếng Việt, "thủ tục" được định nghĩa là “những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định, để tiến hành một công việc có tính chất chính thức”([16]). Thủ tục TTDS là một loại của thủ tục tố tụng mà việc áp dụng nhằm bảo đảm việc giải quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ án dân sự. Thuật ngữ "rút gọn" được định nghĩa là "làm cho có hình thức ngắn gọn, đơn giản hơn”([17]). Theo định nghĩa này thì rút gọn là làm cho các việc không có nhiều thành phần, không có nhiều mặt, trở thành không phức tạp hay rắc rối. Như vậy, theo nghĩa chung thì thủ tục rút gọn có thể được hiểu là những việc cụ thể mà Tòa án phải làm để tiến hành một công việc có tính chất chính thức theo một trật tự quy định ngắn gọn, đơn giản. Tác giả này cũng nhận định rằng một số bài viết được công bố trong thời gian qua tuy có đề cập đến khái niệm thủ tục TTDS rút gọn nhưng còn chung chung như "thủ tục tố tụng rút gọn là thủ tục giải quyết án nhanh chóng, giúp các cơ quan tố tụng giảm tải, tránh được án quá hạn…"([18]) hoặc phát triển khái niệm thiên về xác định loại việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn: "thủ tục rút gọn trong TTDS là thủ tục tố tụng để giải quyết đối với những tranh chấp nhỏ, đơn giản và có chứng cứ rõ ràng..([19]).
Tuy vậy, với góc tiếp cận này thì thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục giải quyết nhanh các vụ việc, được áp dụng đối với các tranh chấp nhỏ, đơn giản và có chứng cứ rõ ràng và với mục đích là giảm tải, tránh được án quá hạn. Tuy nhiên, hạn chế của hai định nghĩa này là mới chỉ ra được tính nhanh chóng và loại việc có thể giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn mà chưa bao quát được bản chất hay tính “rút gọn” của thủ tục này. Tính chất "rút gọn" của thủ tục TTDS rút gọn thể hiện ở chỗ, nếu như ở thủ tục TTDS thông thường, Tòa án phải tiến hành tất cả các khâu, các công việc để giải quyết vụ việc dân sự thì ở thủ tục TTDS rút gọn một số khâu, một số công việc có thể không phải thực hiện, thành phần giải quyết cũng đơn giản hóa và thời gian giải quyết được rút ngắn. Từ góc nghiên cứu này, cũng có ý kiến cho rằng: “Thủ tục TTDS rút gọn là một trong các thủ tục đặc biệt của TTDS được pháp luật quy định để áp dụng giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có nội dung đơn giản, rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp, với thủ tục, thành phần tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng được giản lược, thời hạn giải quyết ngắn”([20]).
Định nghĩa trên đã chỉ ra được đặc thù về loại việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn, sự giản lược về thành phần tiến hành tố tụng và sự rút ngắn về thời hạn giải quyết nhưng lại mặc định rằng thành phần tham gia tố tụng được giản lược là chưa thực sự phù hợp. Mặt khác, định nghĩa này chưa phản ánh được đặc thù về hiệu lực của phán quyết theo thủ tục rút gọn, đặc biệt là cơ chế kháng án nhằm chuyển đổi giữa thủ tục TTDS rút gọn và thủ tục tố tụng thông thường nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công lý và an toàn pháp lý của các đương sự trong TTDS.
Với những luận giải trên, kế thừa và phát triển toàn bộ kết quả nghiên cứu lý luận về thủ tục tố tụng thủ tục giản lược (Giáo sư Nguyễn Huy Đẩu); về thủ tục đơn giản hay thủ tục ra lệnh (Pierre ESTOUP); Kết luận trong công trình nghiên cứu cấp bộ của Viện Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao; Luận văn thạc sỹ về những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS (Ths. Trần Anh Tuấn) và kết quả nghiên cứu về khái niệm thủ tục TTDS rút gọn tại Chuyên đề 1 (TS. Nguyễn Công Bình), nhóm nghiên cứu đã đi tới nhận định: Thủ tục TTDS rút gọn là loại hình thủ tục tố tụng được giản lược, có tính đơn giản và nhanh chóng, được một Thẩm phán áp dụng để giải quyết các vụ kiện dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có giá ngạch thấp hoặc nội dung đơn giản, rõ ràng theo cơ chế xét xử một lần, cơ chế phúc thẩm với sự giản lược về thủ tục hoặc cơ chế kháng án chuyển hóa tố tụng. Từ nhận định này có thể rút ra khái niệm về thủ tục TTDS rút gọn như sau:
“Thủ tục TTDS rút gọn là loại hình thủ tục tố tụng được giản lược, do một Thẩm phán tiến hành giải quyết đối với các vụ kiện dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có nội dung đơn giản, rõ ràng hoặc có giá trị nhỏ theo một trình tự tố tụng đơn giản, nhanh chóng, phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật ngay hoặc có thể bị phản kháng để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thông thường hoặc thủ tục phúc thẩm được giản lược”.
2.1.1.2. Đặc điểm của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Từ việc nghiên cứu nhận diện về bản chất của thủ tục TTDS rút gọn, nhóm nghiên cứu đã đi sâu làm rõ đặc điểm của thủ tục này trên cơ sở đối chiếu với thủ tục giải quyết vụ án dân sự và việc dân sự. Kết quả nghiên cứu cho thấy được một số điểm tương đồng giữa hai loại hình thủ tục tố tụng được giản lược so với thủ tục giải quyết vụ án dân sự là thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục rút TTDS rút gọn như sau:
- Thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục TTDS rút gọn được áp dụng đối với một số vụ việc có tính đơn giản hơn so với những tranh chấp dân sự được giải quyết theo thủ tục giải quyết vụ án dân sự.
- Thủ tục rút gọn và thủ tục giải quyết việc dân sự đều tuân theo những trình tự nhất định được pháp luật TTDS quy định như thụ lý yêu cầu, chuẩn bị cho việc giải quyết yêu cầu và tổ chức phiên tòa hay phiên họp để giải quyết đơn yêu cầu. Những công việc này là không thể thiếu trong quy trình giải quyết các vụ việc dân sự nói chung.
- Trình tự tố tụng theo thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục TTDS rút gọn đều được giản lược hơn so với thủ tục giải quyết vụ án (Thủ tục tố tụng thông thường) như Tòa án không nhất thiết phải tổ chức phiên tòa do một Hội đồng gồm nhiều thành viên tiến hành, trong phiên tòa không nhất thiết phải thực hiện tuần tự các bước của thủ tục giải quyết vụ án, có thể lược bỏ các thủ tục không cần thiết([21]).
Đề tài cũng đi sâu nghiên cứu về các đặc điểm của thủ tục TTDS rút gọn, tạo tiền đề cho việc định hướng nhận diện mô hình thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam. Dựa trên kết quả nghiên cứu của các tác giả chuyên đề số 1, 2, 3 và 4, nhóm nghiên cứu đã rút ra những đặc điểm cơ bản của thủ tục TTDS rút gọn về loại việc, thành phần giải quyết, về thời hạn tố tụng và các thủ tục được giản lược so với thủ tục tố tụng thông thường. Cụ thể là thủ tục TTDS rút gọn được áp dụng đối với các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có nội dung đơn giản, rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp; việc giải quyết do một Thẩm phán tiến hành mà không cần có Hội đồng xét xử; với thời hạn giải quyết được rút ngắn và thủ tục được đơn giản hoá([22]).
- Loại việc được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn là những vụ kiện chứng cứ rõ ràng, nội dung tranh chấp đơn giản, người có nghĩa vụ đã thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ của mình, tài sản tranh chấp có giá trị không lớn
Đây là điểm khác biệt với các loại việc hiện được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự. Thủ tục TTDS rút gọn được áp dụng đối với những vụ kiện dân sự mặc dù có thể vẫn có sự tranh chấp quyền lợi giữa các đương sự với nhau nhưng nội dung sự việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng hay một bên đương sự đã thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ; tranh chấp có giá ngạch thấp. Còn các việc dân sự được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự là loại việc được các đương sự thỏa thuận hoặc một bên đương sự yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý nào đó. Đó là, các loại việc sau đây:
+ Các việc dân sự không có tranh chấp về quyền, lợi ích hợp pháp giữa các bên do các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về các tình tiết của sự việc cũng như những quyền, lợi ích giữa các bên và các bên cùng yêu cầu Tòa án công nhận để làm cơ sở cho thi hành án sau này. Cụ thể những việc dân sự này là yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con khi ly hôn.
+ Các việc dân sự mà bản chất là không có tranh chấp về quyền, lợi ích hợp pháp giữa các bên do tính chất đặc thù của loại việc và chỉ một bên đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết, bao gồm một bên đương sự yêu cầu xác định tình trạng của một cá nhân do sự vắng mặt của họ tại nơi cư trú hoặc yêu cầu xác định năng lực hành vi dân sự của một cá nhân; yêu cầu Tòa án tuyên bố chấm dứt một quan hệ pháp lý đang tồn tại như yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật, yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi, yêu cầu tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng([23]).
- Thủ tục TTDS rút gọn được tiến hành theo cơ chế một Thẩm phán phán quyết mà không phải thông qua Hội đồng xét xử
Nghiên cứu lý luận tố tụng của nhiều nước có quy định về thủ tục TTDS rút gọn và dựa vào tính chất đơn giản, rõ ràng của những vụ kiện dân sự được giải quyết bằng thủ tục rút gọn có thể nhận thấy những nước này đều vận dụng cơ chế một Thẩm phán phán quyết đối với những vụ việc có giá trị tranh chấp nhỏ, nội dung tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng. Cơ chế một Thẩm phán phán quyết mà không có sự tham gia của hội thẩm nhân dân này sẽ có tác dụng đẩy nhanh tiến trình giải quyết một số vụ việc dân sự, giảm bớt chi phí tố tụng, tiết kiệm cho ngân sách nhà nước cũng như đương sự, đồng thời nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán.
Nghiên cứu pháp luật Việt Nam hiện hành cho thấy, theo quy định tại Điều 52 BLTTDS sửa đổi thì việc sơ thẩm vụ án dân sự có tranh chấp do một Hội đồng gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân tiến hành. Việc sơ thẩm việc dân sự thông thường chỉ do một Thẩm phán tiến hành mà không có sự tham gia của hội thẩm nhân dân. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, đối với một số việc dân sự có mức độ phức tạp, khó khăn hơn thì việc giải quyết các yêu cầu đó cần phải có số thành viên tham gia giải quyết gồm ba Thẩm phán (Điều 52 BLTTDS sửa đổi, bổ sung). Đó là các yêu cầu về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động được quy định tại khoản 5 Điều 26, khoản 6 Điều 28, khoản 2 và 3 Điều 30, Điều 32 BLTTDS hoặc xét kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định giải quyết việc dân sự sẽ do một tập thể gồm ba Thẩm phán giải quyết. Ngoài ra, đối với yêu cầu hủy quyết định của trọng tài thương mại do trước đó việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại do một trọng tài viên hoặc Hội đồng trọng tài gồm ba trọng tài viên giải quyết nên khi giải quyết yêu cầu hủy quyết định của trọng tài thương mại cũng phải do một tập thể gồm ba Thẩm phán giải quyết.
- Thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục giải quyết về nội dung quyền và nghĩa vụ của đương sự nhưng được đơn giản hóa hơn so với thủ tục tố tụng thông thường
Như đã phân tích ở trên thì thủ tục rút gọn và thủ tục giải quyết việc dân sự có điểm tương đồng ở chỗ một số thủ tục có thể được giản lược hơn so với thủ tục tố tụng thông thường như thủ tục hòa giải, tranh luận, nghị án, tuyên án…([24]). Một số tác giả chuyên đề thậm chí còn cho rằng “Thủ tục rút gọn trong TTDS là một bộ phận của thủ tục TTDS thông thường, nó góp phần khắc phục những vướng mắc của thủ tục thông thường khi giải quyết những vụ việc đơn giản, có chứng cứ rõ ràng bởi sự ngắn gọn, nhanh chóng”([25]). Tuy nhiên, cần nhận thức rằng thủ tục TTDS rút gọn không phải là một bộ phận của thủ tục TTDS thông thường mà là một loại hình thủ tục tố tụng riêng biệt. Việc nghiên cứu cho thấy lý luận TTDS của nhiều nước có quy định về thủ tục TTDS rút gọn đều đi theo hướng thủ tục rút gọn được xây dựng trên cơ sở đơn giản hóa thủ tục tố tụng thông thường, có thể bỏ qua các bước không cần thiết, đương sự có thể đến Tòa án trực tiếp yêu cầu bằng lời nói và không cần phải làm đơn khởi kiện, trình tự phiên tòa không buộc phải tuân theo các quy định về thông báo phiên tòa, thẩm vấn và tranh luận như với các vụ án dân sự khác...v.v. Tuy nhiên, do sự khác nhau về tính chất loại việc được áp dụng nên quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa án vẫn có thể bị xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm nhằm đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử([26]). Trong khi đó, quyết định của Tòa án giải quyết vụ kiện theo thủ tục TTDS rút gọn sẽ có hiệu lực ngay hoặc vụ việc sẽ được chuyển sang giải quyết theo trình tự tố tụng thông thường nếu không thỏa mãn các tiêu chí về loại việc được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn.
- Thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục bảo vệ quyền lợi của đương sự một cách nhanh chóng với thời hạn tố tụng được rút ngắn
Như đã phân tích ở trên thì thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng trên cơ sở đơn giản hóa thủ tục tố tụng thông thường, lược bỏ các bước không cần thiết, quyết định của Tòa án giải quyết vụ việc theo thủ tục rút gọn sẽ có hiệu lực ngay hoặc được chuyển sang giải quyết theo trình tự tố tụng thông thường nếu không thỏa mãn các tiêu chí về loại việc được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn. Do thủ tục tố tụng được giản lược nên việc bảo vệ quyền lợi của đương sự sẽ nhanh chóng hơn so với thủ tục tố tụng thông thường, thời hạn giải quyết cũng được rút ngắn hơn. Trong thủ tục tố tụng thông thường, tranh chấp có tính quyết liệt nên thời gian giải quyết vụ án thường kéo dài hơn do Tòa án cần có thời gian để tiến hành xác minh, thu thập các chứng cứ, tài liệu để làm sáng tỏ sự việc, vụ án được giải quyết tuần tự qua cấp sơ thẩm, phúc thẩm nhằm bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử. Theo kết quả nghiên cứu của một số tác giả chuyên đề thì thời gian giải quyết vụ kiện dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn sẽ được rút ngắn do sự giản lược về thủ tục, giới hạn về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm và việc áp dụng cơ chế xét xử một lần([27]).
Như vậy, kết quả nghiên cứu lý luận đã làm sáng rõ được khái niệm, đặc điểm cơ bản của thủ tục TTDS rút gọn trong mối liên hệ với thủ tục thông thường và thủ tục giải quyết việc dân sự. Để làm rõ về giá trị của thủ tục TTDS rút gọn, việc nghiên cứu về ý nghĩa của thủ tục này là hết sức cần thiết.
2.1.1.3. Ý nghĩa của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
- Việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn là sự hiện thực hóa yêu cầu về cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới, nhưng pháp luật TTDS của chúng ta lại thiếu vắng các quy định về thủ tục tố tụng giản đơn áp dụng đối với các vụ kiện dân sự, thương mại đơn giản, rõ ràng. Do vậy, pháp luật TTDS của chúng ta cũng chưa thực sự đáp ứng được các yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt mà công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra. Nhận thức được thực tế này, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ cần phải “…Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”; “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục TTDS…”. Việc thiết lập thủ tục rút gọn trong TTDS là cấp thiết, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, đáp ứng yêu cầu về cải cách thủ tục tố tụng tư pháp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục ít tốn kém, góp phần giảm bớt các chi phí tố tụng, tạo điều kiện cho các Tòa án có thể tập trung thời gian và nguồn lực vào những vụ án khó khăn, phức tạp
Xét dưới góc độ kinh tế học, theo thủ tục TTDS rút gọn, trình tự tố tụng được giản lược và thời gian giải quyết được rút ngắn nên các đương sự sẽ không phải mất nhiều thời gian theo kiện, tránh được các tổn phí một cách không cần thiết. Tòa án cũng không phải tiến hành tất cả các thủ tục tố tụng như đối với thủ tục thông thường nên có thể tiết kiệm được thời gian, nhân lực và các chi phí phát sinh.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, các giao lưu dân sự, kinh tế, lao động ngày càng mở rộng dẫn tới số lượng các tranh chấp về dân sự, kinh tế, lao động phát sinh cũng ngày một gia tăng, đa dạng và phức tạp. Để khắc phục áp lực về công việc cho ngành Tòa án thì hai giải pháp cần phải xem xét, đó là tăng biên chế Thẩm phán cho ngành Tòa án và lược bỏ những khâu rườm rà, không cần thiết ngay trong chính các quy định về thủ tục. Nếu như chỉ tính tới giải pháp tăng số lượng Thẩm phán thì kinh phí của Nhà nước cho hoạt động xét xử của Tòa án sẽ ngày một gia tăng. Cho nên, song song với việc khắc phục tình trạng mất cân đối giữa số lượng công việc và biên chế Thẩm phán, cần phải tính đến phương án cải cách thủ tục tố tụng, đẩy nhanh tiến độ giải quyết tranh chấp để giải quyết tình trạng án tồn đọng. Việc nghiên cứu xây dựng một loại hình thủ tục đơn giản, nhanh chóng hơn để giải quyết những tranh chấp có nội dung đơn giản, chứng cứ đã rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp, tạo điều kiện cho ngành Tòa án có thể tập trung thời gian và nguồn lực con người vào những vụ án khó khăn, phức tạp hơn.
- Thủ tục TTDS rút gọn là phương tiện để đương sự có thể nhanh chóng bảo vệ có hiệu quả quyền lợi của mình, nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán
Theo thủ tục TTDS rút gọn, trình tự tố tụng được giản lược và thời gian giải quyết được rút ngắn nên các đương sự sẽ không phải mất nhiều thời gian theo kiện, mà có thể nhanh chóng đạt được quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án làm cơ sở buộc đối phương phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Với điểm đặc biệt về sự đơn giản hóa thủ tục tố tụng và hiệu lực của phán quyết sẽ hạn chế được hiện tượng lạm dụng quyền kháng án nhằm trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ. Ngoài ra, thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng sẽ là cơ sở pháp lý cần thiết để nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong việc giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật những loại tranh chấp có nội dung đơn giản, rõ ràng hoặc giá ngạch thấp.
2.1.2. Cơ sở lý luận của việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
2.1.2.1. Định hướng của Đảng về cải cách tư pháp với việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc cải cách thủ tục tố tụng tư pháp, đổi mới hoạt động của Tòa án là một trong những nội dung và yêu cầu cơ bản của công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta đề xướng. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã chỉ rõ: "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, đảm bảo mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật".
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động phát triển trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển thì các tranh chấp phát sinh từ chính các quan hệ này cũng cần phải được giải quyết một cách nhanh chóng, có hiệu quả và công bằng. Thực tế này đòi hỏi pháp luật TTDS cũng phải được hoàn thiện, đổi mới trên cơ sở cải cách các thủ tục tố tụng, tạo cơ chế mềm dẻo, linh hoạt, nhanh chóng và hiệu quả. Tại Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta đã chỉ rõ đường hướng cơ bản của việc đổi mới hoạt động tố tụng của Toà án cũng như việc hoàn thiện pháp luật TTDS: "Hoạt động tư pháp phải nhằm ... bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ...bỏ thủ tục xét xử sơ chung thẩm của Toà án nhân dân tối cao và Toà án quân sự Trung ương. Nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng".
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ ra những nhiệm vụ trọng tâm trong việc hoàn thiện thủ tục tố tụng tư pháp. Đó là cần phải “Hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người…Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”; “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục TTDS… Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Tòa án, Tòa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn. Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”([28]).
Như vậy, việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn là nhằm hiện thực hóa nhiệm vụ cải cách tư pháp, xây dựng một thủ tục tố tụng thực sự của dân, do dân và vì dân. Theo định hướng này, thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng phải đáp ứng yêu cầu về tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; đơn giản hóa thủ tục nhận và thụ lý đơn kiện, khuyến khích việc thương lượng, hoà giải và vai trò hỗ trợ của Tòa án trong việc công nhận thỏa thuận giữa các bên. Ngoài ra, có thể nhận thấy rằng, phần lớn các hoạt động TTDS của Toà án chính là hoạt động của Thẩm phán. Do vậy, cải cách tố tụng tư pháp có thể xuất phát từ chính sự đổi mới về thành phần tiến hành tố tụng, nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động. Cần phải mạnh dạn trao quyền cho một Thẩm phán có thể độc lập ra quyết định giải quyết tranh chấp nếu sự việc đã rõ ràng hoặc bị đơn đã thừa nhận nghĩa vụ của mình, không phản đối yêu cầu của nguyên đơn. Cải cách này một mặt vẫn đảm bảo được việc giải quyết của Toà án là đúng đắn, đồng thời có thể tiết kiệm được cho Nhà nước về nguồn lực con người, đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong việc giải quyết tranh chấp.
Theo đường lối đổi mới của Đảng về cải cách tư pháp hiện nay, thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án cấp huyện ngày càng được mở rộng nhằm giảm nhẹ gánh nặng xét xử phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao. Theo xu hướng này Toà án cấp huyện phải là cấp chủ yếu xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, trong đó có các việc kiện đơn giản, rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp. Do vậy, thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong việc giải quyết những vụ kiện đơn giản, rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp, kịp thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhân dân, khắc phục tình trạng kéo dài thời gian giải quyết vụ việc một cách không cần thiết.
2.1.2.2. Về mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
Khi nghiên cứu về mối tương quan giữa pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng, Mác kết luận rằng "Thủ tục tố tụng và pháp luật liên hệ mật thiết với nhau như hình thái của thực vật với thực vật, hình thái của động vật với thịt và máu của động vật. Thủ tục tố tụng cũng như các luật pháp đều cùng phải quán triệt một tinh thần bởi vì thủ tục tố tụng chỉ là hình thức tồn tại của luật, do đó cũng là biểu hiện của đời sống bên trong của luật". Các nhà nghiên cứu về tố tụng học của Châu Âu cũng khẳng định “Mối liên hệ giữa tố quyền và quyền lợi là không thể phủ nhận”([29]). Giữa pháp luật dân sự và pháp luật TTDS có một mối quan hệ gắn bó mật thiết hữu cơ như vậy cho nên việc nghiên cứu xây dựng một thủ tục TTDS rút gọn trong điều kiện hiện tại không thể tách rời các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.
Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự được quy định Điều 4 tới Điều 12 Bộ luật dân sự năm 2005 là tư tưởng chỉ đạo trong việc vận dụng để giải quyết các tranh chấp. Đó là các nguyên tắc sau đây: Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết thoả thuận (Điều 4); nguyên tắc bình đẳng (Điều 5); nguyên tắc thiện chí, trung thực (Điều 6); nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự (Điều 7); nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp (Điều 8); nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền quyền dân sự (Điều 9); Nguyên tắc tuân thủ pháp luật (Điều 11); Nguyên tắc hòa giải (Điều 12). Việc nghiên cứu cho thấy những nội dung cơ bản của nguyên tắc này vẫn được kế thừa trong Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi.
- Theo kết quả nghiên cứu thì các nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận; bình đẳng; thiện chí, trung thực; chịu trách nhiệm dân sự; hoà giải; tôn trọng, bảo vệ quyền quyền dân sự được quy định tại các Điều 4, Điều 5, Điều 6, Điều 7, 9 của Bộ luật dân sự là tiền đề quan trọng cho việc nghiên cứu xây dựng một thủ tục đơn giản hơn áp dụng giải quyết những tranh chấp đơn giản, rõ ràng hoặc một bên đương sự thừa nhận nghĩa vụ của mình:
Về phương diện lý luận, để thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng đáp ứng được yêu cầu về tính nhanh chóng, hiệu quả thì việc xây dựng thủ tục này phải căn cứ vào tính chất của từng loại tranh chấp. Do chứng cứ của vụ tranh chấp đã rõ ràng, người có nghĩa vụ đã thừa nhận nghĩa vụ của mình nên vấn đề giải quyết tranh chấp chỉ còn là việc buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Theo nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự, nếu người có nghĩa vụ không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình thì sẽ bị cưỡng chế thực hiện theo quy định của pháp luật. Trong những trường hợp này các tình tiết của vụ kiện đã được xác định thông qua các chứng cứ có độ tin cậy hoặc thông qua lời thừa nhận của bên có nghĩa vụ nên Tòa án có thể nhanh chóng ra phán quyết buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình. Phán quyết của Toà án là cơ sở pháp lý để người được thi hành án có thể yêu cầu cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết.
- Dưới góc độ kinh tế học cần phải tính đến hiệu quả xã hội của việc giải quyết các tranh chấp về tài sản có giá trị nhỏ. Theo nghiên cứu thì có thể coi quy định tại Điều 8 và Điều 12 Bộ luật dân sự về nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp và nguyên tắc hòa giải trong quan hệ dân sự là tư tưởng chỉ đạo để vận dụng giải quyết các tranh chấp về tài sản có giá trị nhỏ:
Theo các nguyên tắc trên thì việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết tương thân, tương ái và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Trong trường hợp có tranh chấp nhỏ thì trên cơ sở tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái và truyền thống hòa giải của dân tộc, Thẩm phán có thể giúp các bên thương lượng để giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa giải. Việc xây dựng một thủ tục giản lược hơn có thể giải quyết dứt điểm tranh chấp là giải pháp để phát huy truyền thống tốt đẹp của người Việt, khắc phục hiện tượng giá trị việc kiện tuy không lớn nhưng do mâu thuẫn cá nhân hoặc tâm lý cố chấp theo kiện đến cùng dẫn tới vụ kiện phải qua nhiều cấp xét xử, gây tổn phí cho đương sự và hệ thống tư pháp trong khi lợi ích cần bảo vệ là không lớn.
2.1.2.3. Về mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự
Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn hiện nay cần phải hướng tới bảo đảm các thủ tục phải thuận tiện cho người dân khi có yêu cầu khởi kiện; bảo đảm đa dạng hóa các phương thức và thủ tục giải quyết tranh chấp; bảo đảm tính linh hoạt, mềm dẻo về thủ tục và hiệu quả khi áp dụng trong thực tiễn([30]).
Như đã luận giải ở trên thì thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục giải quyết về quyền và nghĩa vụ của đương sự nhưng được đơn giản hóa hơn so với thủ tục tố tụng thông thường (đặc điểm thứ ba). Do vậy, về phương diện lý luận thì việc xây dựng các quy định về thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam về căn bản phải dựa trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của TTDS. Theo đó, thủ tục rút gọn được xây dựng vẫn phải tuân thủ các nguyên tắc về bảo đảm quyền tố tụng của đương sự như quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (Điều 4), quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5), bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự (Điều 9), bảo đảm quyền tranh luận trong TTDS (Điều 23 a), bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTDS (Điều 24); các nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh của đương sự (Điều 6), về trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (Điều 7). Ngoài ra, các nguyên tắc liên quan đến tính độc lập, khách quan và giám sát tố tụng của Tòa án cũng phải được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng như nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 12), Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia TTDS (Điều 16), Bảo đảm pháp chế trong TTDS (Điều 3), Giám đốc việc xét xử (Điều 18)...
Tuy nhiên, việc nghiên cứu cũng cho thấy rằng cơ chế một Thẩm phán ra phán quyết và sự giản lược về thủ tục tố tụng là hai đặc điểm cơ bản của thủ tục TTDS rút gọn. Do vậy, một số nguyên tắc của TTDS có thể sẽ không được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn hoặc việc áp dụng có thể chỉ được thực hiện ở một mức độ nhất định do yêu cầu giản lược về thành phần và thủ tục tố tụng đối với một số loại tranh chấp có tính đặc thù. Chẳng hạn, nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự (Điều 11), Toà án xét xử tập thể (Điều 14) có thể không được áp dụng với thủ tục TTDS rút gọn; nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án (Điều 10), nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử (Điều 17), nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS (Điều 21) có thể chỉ được thực hiện ở mức độ hạn chế đối với thủ tục TTDS rút gọn. Việc không áp dụng các nguyên tắc này đối với thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng đã được mở đường bởi những sửa đổi mới đây về nguyên tắc hoạt động của Tòa án tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013.
Có thể nhận thấy rằng Hiến pháp là đạo luật gốc của cả hệ thống pháp luật. Do vậy, những sửa đổi, bổ sung các quy định của Hiến pháp sẽ là cơ sở pháp lý của việc sửa đổi một số quy định của pháp luật TTDS. Hiến pháp năm 2013 đã có một số sửa đổi, bổ sung đối với các nguyên tắc về TTDS như nguyên tắc việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham gia; nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số; nguyên tắc tranh tụng; nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm...([31]). Do vậy, trong lần sửa đổi BLTTDS tới đây thì các quy định về một số nguyên tắc có liên quan tới sự giản lược về thành phần và thủ tục tiến hành tố tụng đã được sửa đổi bởi Hiến pháp năm 2013 cần phải được chỉnh sửa theo hướng xác định những ngoại lệ đối với các vụ kiện giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn.
- Nguyên tắc về sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát với việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn
Theo nghiên cứu thì việc không quy định về sự tham gia bắt buộc của Viện kiểm sát trong thủ tục TTDS rút gọn là nhằm đáp ứng yêu cầu giản lược về thủ tục và thành phần tiến hành tố tụng. Nhóm nghiên cứu chuyên đề cũng cùng có chung một nhận định về vấn đề này. Theo TS. Trần Phương Thảo thì do tính chất vụ việc quá đơn giản, chứng cứ rõ ràng, nghĩa vụ đã được bị đơn thừa nhận hay giá trị tranh chấp nhỏ nên quy định về sự tham gia của Viện kiểm sát tại phiên tòa không nên cứng nhắc. Sau khi Tòa án đã ra phán quyết thì Viện kiểm sát vẫn có thể kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án thông qua việc yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ vụ việc cho Viện kiểm sát([32]). TS. Nguyễn Triều Dương cho rằng cần phải sửa đổi nguyên tắc về sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát theo hướng coi sự không tham gia của Viện kiểm sát vào quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn như là một ngoại lệ của nguyên tắc này([33]).
- Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án và nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự với việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn
Trách nhiệm hòa giải của Tòa án là một nguyên tắc cơ bản và đặc trưng trong TTDS Việt Nam. Do những lợi ích của hòa giải nên nhà lập pháp đã đề cao vai trò của Tòa án trong việc hòa giải giữa các bên về tranh chấp, thậm chí coi đây là một thủ tụng tố tụng bắt buộc trước khi tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Trường hợp hòa giải thành thì quyết định của Tòa án công nhận kết quả hòa giải sẽ có hiệu lực pháp luật ngay và được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng việc hòa giải của Tòa án có tính bắt buộc hay có thể tùy nghi lại phụ thuộc vào tính chất đơn giản hay phức tạp của các loại việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Đối với những vụ án có giá trị nhỏ có tính đơn giản, rõ ràng thì không nên coi hòa giải tại Tòa án là có tính bắt buộc trước khi xét xử, còn những tranh chấp có giá trị nhỏ nhưng do những vướng mắc về tâm lý, tình cảm, mâu thuẫn cá nhân thì vẫn phải tiến hành hòa giải trước khi xét xử sơ thẩm. Ngoài ra, đối với những tranh chấp có chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự đã thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ hoặc việc áp dụng pháp luật là đơn giản thì sẽ hợp lý hơn nếu cho phép Thẩm phán có thể tùy nghi quyết định có cần thiết phải triệu tập các bên đương sự đến để hòa giải trước khi xét xử hay không.
Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là một nguyên tắc đặc trưng của TTDS. Theo nguyên tắc này đương sự có quyền tự quyết định về lựa chọn phương thức để giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, tự mình quyết định việc khởi kiện hay không khởi kiện trước Tòa án hoặc thỏa thuận với nhau về việc giải quyết quyền lợi đang tranh chấp. Từ trước tới nay, Giáo trình về TTDS của các cơ sở đào tạo luật và nghề luật ở Việt Nam dường như không đặt ra vấn đề mở rộng áp dụng nguyên tắc này theo hướng ghi nhận quyền lựa chọn thủ tục TTDS của đương sự. Hai công trình nghiên cứu gần đây về thủ tục TTDS tiếp cận theo hướng thừa nhận quyền của đương sự trong việc thỏa thuận lựa chọn thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp giữa họ với nhau. Tuy nhiên, quan điểm về giới hạn của sự mở rộng này cũng còn có điểm khác biệt nhất định. Viện nghiên cứu Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao cho rằng “cần quy định quyền của các bên đương sự được lựa chọn thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp giữa họ...và khi đã lựa chọn thủ tục rút gọn, các đương sự cũng phải tuân theo quy định của pháp luật về phán quyết của Tòa án theo thủ tục rút gọn đó. Đây là một vấn đề mang tính cải cách quan trọng trong thủ tục TTDS ở nước ta mà những nhà làm luật cần nghiên cứu khi xây dựng quy trình TTDS...”([34]). Trong công trình nghiên cứu của mình tác giả. Trần Anh Tuấn cũng cho rằng “nếu các bên đương sự hoàn toàn tự nguyện trong việc thỏa thuận lựa chọn thủ tục giản đơn hơn để giải quyết tranh chấp giữa họ với nhau thì pháp luật cũng nên tôn trọng quyền tự định đoạt này...”([35]). Tuy nhiên, công trình nghiên cứu thứ hai này lại đi theo hướng giới hạn quyền lựa chọn thủ tục này trong một khuôn khổ nhất định. Theo đó, “để tránh việc đương sự lạm dụng quyền thỏa thuận lựa chọn thủ tục rút gọn nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ, gây thiệt hại cho lợi ích của người thứ ba, đồng thời bảo đảm cho Tòa án có thể giải quyết chính xác, đúng pháp luật vụ kiện trong một thời hạn rút ngắn thì việc quy định như thế nào cũng là điều cần cân nhắc. Chỉ nên giới hạn quyền thỏa thuận lựa chọn thủ tục rút gọn của đương sự đối với những vụ kiện có nội dung đơn giản, Tòa án không mất nhiều thời gian để xác minh”([36]).
Từ những góc nhìn trên, nhóm nghiên cứu cho rằng chính các bên đương sự là chủ thể có lợi ích tranh chấp, nên quyền tự thỏa thuận về lựa chọn thủ tục TTDS rút gọn của họ cần được ghi nhận với điều kiện thỏa thuận này không gây tổn hại đến lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác. Ngoài ra, cần cân nhắc về loại việc được xác định có thể giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn, mức độ giản lược về thủ tục được xây dựng để từ đó quyết định về giới hạn quyền thỏa thuận lựa chọn thủ tục TTDS rút gọn cũng như tham khảo thêm kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này để tìm kiếm giải pháp hợp lý ở Việt Nam.
- Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể, xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia với việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn
Như đã phân tích ở trên, sự giản lược về thành phần tiến hành tố tụng là một trong những đặc điểm của thủ tục TTDS rút gọn. Do vậy, việc nghiên cứu về mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn với nguyên tắc Tòa án xét xử tập, xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia về phương diện lý luận là cần thiết.
Ở Việt Nam, Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia được coi là các nguyên tắc trong TTDS. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các nguyên tắc này không có biệt lệ. Cơ chế xét xử một Thẩm phán đã từng được ghi nhận tại Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946, Điều 12 LTCTAND năm 1960. Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận biệt lệ của nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia đối với những việc được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn([37]). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc giản lược thành phần tiến hành tố tụng đối với thủ tục TTDS rút gọn.
Về phương diện lý luận, việc khôi phục cơ chế một Thẩm phán giải quyết vụ án, trao cho Thẩm phán thẩm quyền độc lập trong việc giải quyết các vụ tranh chấp đơn giản, rõ ràng, không có tranh tụng hoặc các vụ tranh chấp có giá trị không lớn là một yêu cầu khách quan của cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Có thể nhận thấy rằng, việc xét xử được tiến hành bởi một Hội đồng xét xử, có Hội thẩm nhân dân tham gia có ưu điểm là hạn chế các áp lực tác động từ bên ngoài, mặt khác sự tham gia ý kiến giữa các thành viên của Hội đồng xét xử sẽ làm sáng tỏ các vấn đề của vụ án, giúp Tòa án đi tới một nhìn nhận đầy đủ và giải quyết đúng đắn các vụ việc. Tuy nhiên, hạn chế của việc xét xử bởi một Hội đồng xét xử lại là ở chỗ không nâng cao được tinh thần trách nhiệm của các thành viên bởi chính chế độ trách nhiệm tập thể.
Ngoài ra, xét dưới góc độ kinh tế học thì cơ chế xét xử này là một cơ chế tốn kém với những tổn phí phát sinh đối với hệ thống tư pháp do chi phí về nhân lực sẽ tăng gấp 3 lần so với cơ chế một Thẩm phán giải quyết tranh chấp. Đối với những vụ kiện thuộc loại phức tạp về chứng cứ và áp dụng pháp luật thì việc xét xử bằng một Hội đồng gồm nhiều thành viên là hết sức cần thiết. Ngược lại, đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận nghĩa vụ hoặc các tình tiết của vụ kiện đã được xác định, việc áp dụng pháp luật giải quyết cũng không khó khăn, phức tạp, vụ kiện có giá ngạch thấp nếu phải xét xử bằng một Hội đồng sẽ gây tốn kém cho Nhà nước một cách không cần thiết.
Cơ chế một Thẩm phán giải quyết tranh chấp có ưu điểm ở chỗ Thẩm phán có thể chủ động trong công việc của mình, gắn trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ kiện. Việc áp dụng cơ chế một Thẩm phán đối với một số loại việc nhất định sẽ tiết kiệm cho Nhà nước về nguồn lực con người và chi phí. Tuy nhiên, cơ chế một Thẩm phán cũng có những nhược điểm nhất định, đó là khuynh hướng lạm quyền, chủ quan. Do vậy, nếu quy định theo hướng một Thẩm phán phán quyết thì cần xác định rõ trách nhiệm cá nhân và phải xử lý nghiêm đối với những hành vi vi phạm của Thẩm phán. TS. Bùi Thị Huyền cũng có đồng quan điểm khi cho rằng “Có thể coi đây là một bước cải cách thực sự về hoạt động TTDS của Tòa án” và “Vấn đề quan trọng là chúng ta cần xây dựng một cơ chế quy định trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán cũng như kiểm soát hoạt động của Thẩm phán trong việc áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết sẽ khắc phục được sự lạm quyền của Thẩm phán”([38]).
Với những ưu điểm và nhược điểm trên của việc phán quyết bởi một Thẩm phán, chúng tôi cho rằng việc xây dựng một thủ tục TTDS rút gọn theo hướng trao thẩm quyền cho Thẩm phán độc lập trong việc giải quyết những loại việc đơn giản, không có tranh tụng, chứng cứ rõ ràng hoặc giá ngạch thấp mà không cần phải thành lập hội đồng xét xử, không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của Thẩm phán trong việc giải quyết là hoàn toàn có cơ sở.
- Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn
Như đã đề cập ở trên, sự giản lược về thủ tục tố tụng là một trong những đặc điểm cơ bản của thủ tục TTDS rút gọn. Do vậy, một số nguyên tắc của TTDS có thể sẽ không được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn hoặc việc áp dụng có thể chỉ được thực hiện ở một mức độ nhất định do yêu cầu giản lược về thủ tục tố tụng đối với một số loại tranh chấp có tính đặc thù. Theo đó, nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử có thể chỉ được thực hiện ở mức độ hạn chế đối với thủ tục TTDS rút gọn. Xét dưới góc độ kinh tế học, cơ chế xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm có ưu thế là đảm bảo việc giải quyết vụ kiện được nhanh chóng, tiết kiệm được tiền của và công sức cho cả Nhà nước và đương sự. Ngoài ra, việc hạn chế kháng cáo phúc thẩm đối với những tranh chấp đơn giản, rõ ràng còn khắc phục được hiện tượng đương sự lạm dụng quyền kháng cáo nhằm kéo dài vụ án, trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ của mình([39]). Tuy nhiên, nếu đi theo hướng này thì việc nghiên cứu các cơ chế hỗ trợ để bảo đảm an toàn pháp lý cho các đương sự là cần thiết.
Theo nghiên cứu của TS. Nguyễn Triều Dương thì tham khảo pháp luật TTDS của Trung Quốc cho thấy, đối với những vụ tranh chấp nhỏ, tình tiết vụ án đơn giản cũng đều thực hiện chung thẩm qua hai cấp xét xử, điều này không phát huy được vai trò của việc bảo đảm chất lượng vụ án mà ngược lại còn hạn chế là làm tăng chi phí hoạt động tố tụng, lãng phí nguồn lực tư pháp, làm giảm hiệu quả của tố tụng. Do vậy, đối với vụ tranh chấp nhỏ, tình tiết giản đơn mà quy định bắt buộc phải qua hai cấp xét xử là hoàn toàn không cần thiết mà nên áp dụng cơ chế chung thẩm ở một cấp xét xử([40]).
Như vậy, trên cơ sở kế thừa và phát triển các công trình nghiên cứu trước đó, nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài đã luận giải nhận diện về bản chất của thủ tục TTDS rút gọn; mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục này với đường lối cải cách tư pháp và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và TTDS. Kết quả nghiên cứu về kinh nghiệm xây dựng thủ tục TTDS rút gọn của một số nước trên thế giới cũng đã giúp nhóm nghiên cứu có những góc nhìn sâu sắc hơn để nhận diện và đề xuất mô hình thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam.
2.1.3. Mô hình về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo pháp luật một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Việc nghiên cứu đã được thực hiện đối với pháp luật một số nước có quy định về thủ tục TTDS rút gọn như Cộng hòa liên bang Đức, Cộng hoà Pháp - là hình mẫu tiêu biểu của các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, Liên bang Nga (một nước theo mô hình pháp luật xã hội chủ nghĩa và hiện nay đã có nhiều thay đổi), Australia và một số nước Châu á có điều kiện gần gũi và tương đồng với Việt Nam như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc, Singgapo...
2.1.3.1. Về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo pháp luật Đức và Pháp
Việc nghiên cứu pháp luật của các nước theo hệ thống luật dân sự cho thấy pháp luật TTDS Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha...về căn bản đều chịu ảnh hưởng của pháp luật La Mã và có những điểm tương đồng về có chế xét xử một Thẩm phán, thủ tục sơ chung thẩm, thủ tục ra lệnh. Do vậy, nhóm nghiên cứu định hướng phân tích điển hình của hệ thống này là thủ tục TTDS giản đơn theo pháp luật Đức và Pháp.
Pháp luật Đức, có quy định riêng về thủ tục giải quyết đối với các vụ kiện có giá ngạch thấp tại Tòa Amtsgericht (AG) hay còn gọi là Tòa án cơ sở. Theo đó, Tòa án này có thẩm quyền sơ thẩm các vụ khiếu kiện nhỏ như tranh chấp giữa chủ nhà và người thuê nhà, vấn đề gia đình hoặc các vụ việc nhỏ khác. Tòa Amtsgericht (AG) có thẩm quyền xét xử các tranh chấp có giá ngạch đến 6.000 euros, các vụ kiện hôn nhân gia đình (không phụ thuộc vào giá ngạch). Việc giải quyết các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình tại AG thông thường do một Thẩm phán thực hiện. Cũng như tổ chức hệ thống tư pháp của nhiều nước Châu Âu khác, theo pháp luật Đức thì đương sự chỉ có thể yêu cầu phúc thẩm, nếu nội dung yêu cầu phúc thẩm có giá ngạch từ 6.000 euros trở lên hoặc AG cho phép phúc thẩm và ghi rõ trong bản án([41]). Pháp luật Đức cũng thiết lập thủ tục ra lệnh thanh toán nợ. Theo đó, Tòa án cơ sở có thẩm quyền ra lệnh thanh toán nợ theo thủ tục xét xử nhanh đối với yêu cầu thanh toán các khoản nợ đã rõ ràng([42]).
Kết quả nghiên cứu cho thấy theo pháp luật Pháp, những tranh chấp có giá trị nhỏ sẽ được giải quyết theo một trình tự đơn giản, phán quyết của Thẩm phán có hiệu lực ngay mà không bị kháng cáo theo trình tự phúc thẩm. BLTTDS Pháp 1806 và những sửa đổi trong hệ thống pháp luật Pháp hiện nay vẫn đi theo xu hướng này. Trước đây, các vụ tranh chấp về tài sản có giá trị dưới 13.000 francs trước Tòa án thương mại và Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp sẽ không bị kháng cáo lên Toà phúc thẩm. Nghị định ngày 28/12/1998 sửa đổi theo hướng Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm những việc tranh chấp tài sản có giá trị dưới 25.000 francs. Sắc lệnh ngày 28/12/2005 quy định đối với những vụ kiện có giá trị dưới 4000 euros không bị kháng cáo phúc thẩm.
Theo Luật Tổ chức tư pháp năm 2012 thì có ít nhất là một Toà sơ thẩm thẩm quyền rộng (Tribunal de Grande Instance) trong quản hạt của Tòa phúc thẩm. Trên thực tế thì thường có một Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng ở mỗi tỉnh và một Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng trong quản hạt của Tòa phúc thẩm. Ở các tỉnh lớn, quan trọng có thể có nhiều Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng([43]). Toà sơ thẩm thẩm quyền rộng xét xử theo nguyên tắc tập thể với Hội đồng gồm chủ tọa và hai thẩm phán trừ trường hợp được xét xử một Thẩm phán. Đối với các lĩnh vực mà Toà án sơ thẩm thẩm quyền rộng có thẩm quyền chuyên biệt thì Toà án này có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm trong trường hợp giá trị yêu cầu từ 4000 euros trở xuống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Điều R 211-3 Luật Tổ chức tư pháp năm 2012).
Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp (Tribunal d’Instance) thay thế cho các toà hoà giải (Tribunal de paix) tồn tại trước năm 1958. Các toà này có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ dân sự nhỏ, có giá trị tranh chấp đến 10.000 euros, sơ thẩm đồng thời chung thẩm các vụ kiện có giá trị từ 4.000 euros trở xuống. Theo số liệu thống kê năm 2013 thì ở Pháp có khoảng 307 Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp([44]). Về thẩm quyền, Tòa sơ thẩm thẩm quyền hẹp có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với các vụ án về dân sự được pháp luật quy định căn cứ vào bản chất và giá trị của việc kiện. Việc xét xử ở Tòa sơ thẩm thẩm quyền hẹp do một Thẩm phán tiến hành. Theo quy định tại Điều R221-4 Luật Tổ chức tư pháp – phần pháp quy thì khi được giao xét xử về dân sự, Toà án sơ thẩm thẩm quyền hẹp có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm đối với các tố quyền đối nhân hoặc động sản mà giá trị của yêu cầu dưới hoặc bằng 4000 euros hoặc đối với một yêu cầu không xác định có nguồn gốc từ việc thi hành nghĩa vụ trả tiền có giá trị dưới hoặc bằng 4000 euros.
Tòa án cơ sở (La juridiction de proximité) có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với các vụ kiện về dân sự và vụ án hình sự, có ít nhất là 01 Tòa án cơ sở trong quản hạt của mỗi Tòa phúc thẩm. Theo quy định tại Điều R231-3 Luật Tổ chức tư pháp - phần pháp quy thì Toà án cơ sở có quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm các việc kiện được nêu tại khoản đầu tiên của Điều L.231-3 và có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với các yêu cầu nêu tại đoạn thứ hai của Điều L.231-3. Theo đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác thì Toà án cơ sở có thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm về dân sự đối với các tố quyền đối nhân hoặc động sản mà giá trị của yêu cầu dưới 4000 euros. Tòa này cũng có thẩm quyền sơ thẩm đối với một yêu cầu không xác định có nguồn gốc từ việc thi hành nghĩa vụ trả tiền có giá trị không vượt quá 4000 euros. Theo quy định tại Điều R231- 4 Luật Tổ chức tư pháp - phần pháp quy thì Toà án cơ sở có quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm các việc kiện liên quan đến việc hoàn trả lại khoản tiền cược bảo đảm do người thuê nhà nộp có giá trị đến 4000 euros.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, bên cạnh các quy định về vụ kiện có giá ngạch thấp BLTTDS Pháp cũng có những quy định về thủ tục đơn giản hơn so với thủ tục thông thường là thủ tục ra lệnh thanh toán nợ và thủ tục ra lệnh buộc thực hiện một công việc. Theo Điều 1405 BLTTDS Pháp thì Tòa án ra lệnh thanh toán nợ trong những trường hợp sau:
- Khoản nợ có nguồn gốc từ một hợp đồng hoặc từ một nghĩa vụ theo điều lệ và là một số tiền nhất định; nếu là do hợp đồng thì được xác định theo các điều khoản của hợp đồng, kể cả điều khoản phạt nếu có;
- Nợ do cam kết nhận hoặc rút hối phiếu (LC), ký nhận một kỳ phiếu, chuyển nhượng hoặc bảo lãnh các loại tín phiếu ấy hoặc nhận chuyển nhượng một khoản nợ theo quy định tại luật số 81-1 ngày 2/1/1981 khuyến khích tín dụng doanh nghiệp.
Thủ tục ra lệnh thanh toán nợ tuỳ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp, Toà thương mại hoặc Tòa án giản lược. Về thủ tục, nếu thấy đơn có căn cứ, Thẩm phán ra lệnh trả số tiền được yêu cầu (Điều 1409). Trong thời hạn một tháng kể từ ngày tống đạt quyết định của Tòa án, người mắc nợ có thể phản kháng lệnh trả nợ, đơn kháng án có hiệu lực yêu cầu Tòa án xem xét lại đơn yêu cầu thu hồi nợ của chủ nợ và giải quyết toàn bộ tranh chấp (Điều 1412, Điều 1416). Trong trường hợp này, bản án của Tòa án thay thế lệnh thanh toán nợ (Điều 1420). Trong trường hợp không có phản kháng trong thời hạn một tháng kể từ ngày tống đạt lệnh buộc trả nợ, chủ nợ có quyền yêu cầu ghi thể thức thi hành vào bản mệnh lệnh. Quyết định buộc thanh toán nợ có đầy đủ hiệu lực như một bản án xử có mặt cả hai bên, và không bị kháng cáo (Điều 1422).
Ngoài ra, BLTTDS Pháp cũng có quy định về thủ tục ra lệnh buộc làm một công việc. Theo đó, nếu giá trị của trái vụ không vượt quá phạm vi thẩm quyền của Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp, đương sự có thể làm đơn đề nghị Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp cho thanh toán bằng hiện vật trái vụ phát sinh từ hợp đồng giữa những người không phải là thương nhân (Điều 1425-1). Sau khi xem xét các tài liệu, nếu thấy đơn có căn cứ, Thẩm phán ra quyết định bắt buộc thực hiện trái vụ, quyết định này có hiệu lực thi hành ngay, không được phản kháng (Điều 1425-4). Tuy nhiên, trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ lệnh thi hành nghĩa vụ không được thực hiện. Tòa án sẽ xét xử theo yêu cầu của nguyên đơn, sau khi hoà giải không thành (Điều 1425-8).
Bên cạnh việc quy định về thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm của Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp, BLTTDS Pháp còn có quy định về thủ tục xét xử cấp thẩm. Khoản 2 Điều 809 BLTTDS Pháp quy định: Trong trường hợp trái vụ là rõ ràng không còn tranh cãi, Chánh án có thể quyết định cho chủ nợ được tạm ứng trước hoặc ra lệnh thi hành nghĩa vụ, ngay cả khi đó là nghĩa vụ phải làm một việc gì đó. Theo cơ chế xét xử cấp thẩm như vậy thì trên thực tế Thẩm phán đã ra quyết định cuối cùng để giải quyết tranh chấp mà không cần phải mở phiên toà xét xử nữa. Trong trường hợp này thủ tục xét xử cấp thẩm được coi là một thủ tục giản đơn, vì nguyên đơn chỉ có nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án biết những yêu cầu của mình ghi trong giấy tống đạt gọi bị đơn ra toà, các bên không bắt buộc phải có luật sư đại diện. Thẩm phán giải quyết vụ việc trong một thời hạn rất ngắn (trung bình là một tháng) sau khi gửi giấy tống đạt gọi bị đơn ra toà. Điều 514 BLTTDS quy định: Quyết định của Thẩm phán thụ lý hồ sơ cho phép thanh toán nợ là quyết định đương nhiên có hiệu lực thi hành tạm thời. Trên thực tế rất ít khi quyết định xử cấp thẩm bị kháng cáo lên Toà phúc thẩm và số quyết định của Thẩm phán xử cấp thẩm có hiệu lực pháp lý là không nhỏ. Theo thống kê năm 1998 trong số 242.153 quyết định xử cấp thẩm chỉ có 6,2% quyết định bị kháng cáo lên Toà phúc thẩm([45]).
Như vậy, các quy định về cơ chế xét xử một lần đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ, thủ tục ra lệnh đối với những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, không thực sự có tranh tụng theo pháp luật TTDS Pháp, Đức là những tư liệu có giá trị tham khảo để nhận diện và đề xuất mô hình về thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam. Thủ tục xét xử cấp thẩm theo Khoản 2 Điều 809 BLTTDS Pháp có những điểm tương đồng với quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc thực hiện trước một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cấp dưỡng, bồi thường, tạm ứng tiền lương, tiền công... quy định tại các Điều 104 đến Điều 106 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011. Tuy nhiên, đây chỉ là những quyết định có tính tạm thời, không phải là những quyết định giải quyết triệt để về nội dung của tranh chấp nên không phải là hình mẫu về thủ tục TTDS rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp mà nhóm nghiên cứu đang tìm kiếm. Việc mở rộng phạm vi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có tính tạm ứng theo tinh thần Khoản 13 Điều 102 và Điều 115 BLTTDS sửa đổi, bổ sung của Việt Nam đã có thể giải quyết được về căn bản vấn đề này.
2.1.3.2. Về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo pháp luật Liên bang Nga
Việc nghiên cứu so sánh cho thấy rằng pháp luật TTDS Liên bang Nga, không có sự phân chia rõ rệt hai loại hình thủ tục tố tụng ra lệnh là thủ tục ra lệnh thanh toán nợ và thủ tục ra lệnh buộc thực hiện một công việc như trong TTDS Pháp mà chỉ quy định một thủ tục chung là thủ tục ra lệnh. Một điểm khá bất ngờ là các nguyên tắc trong BLTTDS Liên bang Nga được sửa đổi năm 2003 rất đơn giản, không có quá nhiều nguyên tắc như trong BLTTDS Việt Nam và thậm chí không có nguyên tắc về sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Ngoài ra, nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể hay một Thẩm phán được quy định một cách khá mềm dẻo. Theo Điều 7 và Điều 14 BLTTDS Liên bang Nga về thành phần xét xử thì “Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự theo chế độ một Thẩm phán hoặc theo chế độ xét xử tập thể trong trường hợp luật liên bang quy định” và “Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự theo chế độ một Thẩm phán. Trong trường hợp luật liên bang quy định, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự với thành phần xét xử gồm 3 Thẩm phán chuyên nghiệp”. Điều 23 BLTTDS liên bang Nga quy định vụ việc về ban hành lệnh của Tòa án thuộc thẩm quyền của Thẩm phán hòa giải xét xử ở cấp sơ thẩm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy thủ tục ra lệnh cũng được áp dụng đối những vụ kiện đơn giản, có chứng cứ rõ ràng. Đây là điểm có giá trị tham khảo trong nghiên cứu so sánh, đối chiếu. Theo Điều 121 BLTTDS liên bang Nga thì lệnh của Tòa án - quyết định của Tòa án do một Thẩm phán ban hành dựa trên yêu cầu đòi nợ hoặc đòi lại tài sản khi có những căn cứ luật định. Theo đó, Tòa án ra lệnh đối với những trường hợp sau đây:
- Yêu cầu căn cứ vào giao dịch đã được công chứng;
- Yêu cầu căn cứ vào giao dịch được thực hiện dưới hình thức văn bản viết không cần công chứng, chứng thực;
- Yêu cầu căn cứ vào đơn bác lại kỳ phiếu về việc không trả tiền, không chấp nhận và chấp nhận không định ngày tháng;
- Yêu cầu đòi tiền cấp dưỡng cho trẻ chưa thành niên không liên quan đến việc xác định cha, mẹ hoặc không liên quan đến việc phải triệu tập thêm người khác;
- Yêu cầu công dân nộp khoản thuế bị thất thu hoặc nộp những khoản tiền bắt buộc khác;
- Yêu cầu đòi khoản tiền lương đã được chấm công nhưng chưa được trả cho người lao động;
- Yêu cầu của các cơ quan công an, cơ quan thuế vụ, cơ quan thừa phát lại đòi hoàn trả chi phí cho việc tìm kiếm bị đơn, người có nghĩa vụ và tài sản của người đó, hoặc chi phí cho việc tìm kiếm trẻ em bị người có nghĩa vụ đem đi mất, hoặc chi phí liên quan đến việc bảo quản tài sản của người có nghĩa vụ bị thu giữ và bảo quản tài sản của người có nghĩa vụ khi bị buộc chuyển đi nơi ở khác”.
Về thủ tục thì lệnh của Tòa án được ban hành trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mà không cần phải mở phiên toà xét xử và không phải triệu tập các bên để nghe lời giải thích của họ (Điều 126). Sau khi ra lệnh, Thẩm phán gửi bản sao lệnh của Tòa án cho người có nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ có quyền phản đối trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận bản sao. Nếu người có nghĩa vụ phản đối trong thời hạn luật định, Thẩm phán huỷ bỏ lệnh của Tòa án. Trong trường hợp hết thời hạn luật định mà không có phản đối, Tòa án chuyển cho người yêu cầu bản thứ hai lệnh của Tòa án để đưa ra thi hành. Lệnh này được xác nhận bằng dấu quốc huy của Tòa án. Theo đề nghị của người có yêu cầu, Tòa án có thể gửi lệnh đó cho Thừa phát lại để đưa ra thi hành (Các điều từ Điều 128 đến Điều 130 BLTTDS Liên bang Nga).
2.1.3.3. Về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo pháp luật một số quốc gia khác
- Thủ tục kiện đòi món nợ nhỏ theo pháp luật Australia:
Trong hệ thống tổ chức Tòa án của một số quốc gia có thành lập Tòa án địa phận có thẩm quyền giải quyết những khiếu kiện nhỏ. Chẳng hạn, Tòa án cấp thấp nhất trong hệ thống tổ chức Tòa án ở Australia là Tòa án địa phận được thành lập trên một hoặc một vài khu phố. Thẩm quyền của Tòa án này là xét xử những vụ án hình sự, những vụ kiện dân sự có giá ngạch thấp. Việc xét xử chỉ do một Thẩm phán tiến hành không có Bồi thẩm đoàn tham gia. Tòa án địa phận gồm có hai bộ phận là Toà chung và Toà đòi món nợ nhỏ. Những vụ kiện thuộc thẩm quyền xét xử của Toà chung thì do một Thẩm phán xét xử. Những vụ kiện thuộc thẩm quyền của Toà đòi món nợ nhỏ thì có thể do một Thẩm phán hoặc có thể do một chuyên gia xét xử([46]).
- Thủ tục TTDS đối với món nợ nhỏ và thủ tục ra lệnh thanh toán nợ theo pháp luật Nhật Bản:
Ở Nhật Bản, BLTTDS đầu tiên ra đời vào năm 1890 và được sửa đổi năm 1926. Cho đến nay, Bộ luật này đã có nhiều sự thay đổi theo chiều hướng bảo đảm việc xét xử một cách nhanh chóng các tranh chấp dân sự. Theo tác giả Ngô Cường thì Tòa án đơn giản ở Nhật Bản được thành lập dưới sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ với mục đích xét xử đơn giản và mất ít thời gian đối với các vụ kiện nhỏ. Lúc đầu có khoảng 557 Tòa án đơn giản, thời kỳ nhiều nhất là 575 Tòa án. Về sau do sự phát triển của mạng lưới giao thông cũng như sự tập trung dân cư ở các vùng đô thị, do đó, cách đây khoảng 25 năm (1989) nhiều Tòa án đã được sáp nhập lại còn 438 Tòa án([47]). Tuy nhiên, theo tài liệu hội thảo của tổ chức JICA năm 1999 thì ở Nhật Bản có 453 Tòa án giản lược tại các thành phố, thị trấn và làng mạc trong cả nước. Tổng số Thẩm phán của các Tòa án giản lược là khoảng 810. Tòa án giản lược có thẩm quyền xét xử các vụ án liên quan đến các yêu cầu không quá 900.000 Yên và các vụ án hình sự nhỏ thích hợp mà pháp luật đã quy định. Một vài thủ tục đặc biệt có thể được sử dụng để giải quyết nhanh gọn các vụ kiện dân sự hoặc hình sự ở Tòa án giản lược. Tòa án, trên cơ sở đơn đòi nợ của chủ nợ, sẽ đưa ra yêu cầu về việc thanh toán tiền đối với con nợ mà không cần thẩm vấn người đó. Tòa án giản lược tiến hành xét xử thông qua một Thẩm phán duy nhất([48]). Ngoài ra, theo quy định các Điều 26, và Điều 31 Luật Tổ chức Tòa án Nhật bản thì cơ chế xét xử một Thẩm phán còn được áp dụng cả ở Tòa án quận và Tòa án gia đình.
Theo công trình đăng tải trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 16 (8/2014) thì Tòa án đơn giản có thẩm quyền giải quyết những vụ kiện có giá trị tranh chấp không vượt quá 1.400.000 yên (tương đương 6 tháng lương của cán bộ mới đi làm). Tòa án giải quyết những vụ kiện này theo thủ tục rút gọn. Nếu bản án bị kháng cáo sẽ do Tòa án cấp cao giải quyết chứ không phải do Tòa án địa phương là Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đơn giản giải quyết (kháng cáo thượng thẩm chứ không phải là kháng cáo phúc thẩm). Đối với những vụ kiện nhỏ có giá trị tranh chấp dưới 600.000 yên được giải quyết theo thủ tục về vụ kiện có giá trị nhỏ. Đối với bản án “vụ kiện nhỏ” thì không được quyền khiếu nại lên Tòa án cấp trên, nếu có khiếu nại thì Tòa án đơn giản sẽ giải quyết lại. Tòa án đơn giản giải quyết trung bình khoảng hơn 20.000 vụ kiện này hàng năm([49]).
Bên cạnh thủ tục với vụ kiện nhỏ, pháp luật Nhật Bản cũng có quy định về thủ tục ra lệnh thanh toán. Theo đó, thư ký Tòa án đơn giản gửi văn bản nhắc nhở thanh toán cho con nợ khi nhận được yêu cầu của chủ nợ về thanh toán tiền và yêu cầu đó được thừa nhận là có căn cứ. Con nợ sau khi nhận được văn bản nhắc nhở thanh toán, nếu trong vòng 2 tuần không khiếu nại thì trong vòng 30 ngày sau đó chủ nợ có quyền yêu cầu Tòa án ra tuyên bố tạm thi hành và khi có yêu cầu này thì Tòa án phải ra tuyên bố tạm thi hành đối với văn bản nhắc nhở thanh toán. Nếu trong vòng 2 tuần con nợ không khiếu nại đối với tuyên bố tạm thi hành thì văn bản nhắc nhở thanh toán sẽ trở thành giấy xác nhận nợ và chủ nợ có thể căn cứ vào đó để yêu cầu cưỡng chế thi hành.Thủ tục này không hạn chế số tiền yêu cầu([50]).
- Thủ tục TTDS đơn giản theo pháp luật Trung Quốc:
Thủ tục rút gọn cũng được quy định tại Chương 13 BLTTDS nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ngày 9/4/1991. Theo các quy định của chương này thì trình tự đơn giản được áp dụng để giải quyết những vụ kiện dân sự đơn giản, sự việc rõ ràng, mối quan hệ về quyền lợi, nghĩa vụ đã rõ ràng, tranh chấp không gay gắt. Đối với những vụ đơn giản nguyên đơn có thể trực tiếp yêu cầu Tòa án giải quyết bằng miệng mà không cần phải làm đơn khởi kiện. Hai bên đương sự có thể cùng đến TAND cơ sở hoặc phân Toà do Tòa án cơ sở lập ra để yêu cầu giải quyết tranh chấp. Tòa án này có thể giải quyết ngay hoặc quyết định một ngày khác để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, Điều 146 của BLTTDS nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa cũng quy định giới hạn tối đa về thời hạn giải quyết: TAND áp dụng trình tự đơn giản xét xử vụ kiện, cần phải kết thúc vụ án trong vòng 3 tháng kể từ ngày cho lập án. Khi xét xử những vụ kiện đơn giản thì bất cứ lúc nào Tòa án cũng có thể cho gọi đương sự, nhân chứng đến. Những vụ kiện dân sự đơn giản này chỉ do một Thẩm phán xét xử và trình tự phiên toà không buộc phải tuân theo các quy định về thông báo phiên toà, thẩm vấn và tranh luận như đối với các vụ kiện dân sự khác.
- Thủ tục TTDS giản đơn và thủ tục ra lệnh thanh toán nợ theo pháp luật Đài Loan:
BLTTDS Đài Loan cũng có những quy định về thủ tục giản đơn tại Chương thứ ba của Bộ luật này. Theo Điều 427 BLTTDS Đài Loan thì thủ tục giản đơn được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
1. Nếu là tranh chấp về quyền tài sản thì giá ngạch của vụ kiện không quá 100.000 Yuan ( tương đương 4.000 USD ).
2. Trong những trường hợp sau đây, Tòa án áp dụng thủ tục giản đơn mà không phụ thuộc vào giá ngạch vụ án:
+ Tranh chấp về thời hạn thuê nhà và thời hạn vay mượn.
+ Tranh chấp giữa chủ và thợ trong hợp đồng thuê mướn dịch vụ mà thời hạn hợp đồng không quá 1 năm.
+ Tranh chấp giữa người du lịch và chủ khách sạn, nhà hàng về chi phí ăn uống, ở, tiền phương tiện, tiền trông giữ hành lý, tiền, tài sản khác v.v...
+ Tranh chấp về việc yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu.
+ Tranh chấp về việc xác định ranh giới bất động sản hoặc cắm mốc đất. + Tranh chấp nợ trong trường hợp có giấy vay nợ.
+ Tranh chấp về lãi suất tiền cho vay, tiền hoa hồng, cấp dưỡng ly hôn, trợ cấp hưu trí, các khoản tiền phải trả định kỳ.
Các bên đương sự cũng có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng thủ tục giản đơn để giải quyết tranh chấp giữa họ mà không thuộc một trong những loại tranh chấp nêu trên.
Về thủ tục giản đơn, BLTTDS Đài Loan quy định đương sự có quyền chủ động đến Tòa án để trình bày mà không cần phải theo trát đòi của Tòa án. Tòa án có quyền triệu tập nhân chứng, giám định viên thông qua bất kỳ cách nào thuận tiện nhất, chứ không nhất thiết phải qua đường tống đạt trát đòi. Việc xét xử chỉ do một Thẩm phán tiến hành qua một phiên toà nhanh, gọn. Nếu một bên đương sự vắng mặt ở phiên toà mà không có lý do chính đáng thì Tòa án chấp nhận yêu cầu của bên có mặt. Tòa án có thể tuyên án và ghi chép phần nội dung, nhận định và quyết định của Tòa án vào biên bản phiên toà mà không cần phải viết thành một bản án. Việc xét xử phúc thẩm vụ án sẽ do một Hội đồng gồm ba Thẩm phán Tòa án quận thực hiện. Đương sự không có quyền khiếu nại bản án phúc thẩm này nếu không có sự đồng ý của Tòa án đã xử sơ thẩm.
Giống như pháp luật TTDS Pháp, BLTTDS Đài Loan cũng có những quy định về thẩm quyền của Tòa án trong việc ra lệnh thanh toán nợ. Đương sự có thể làm đơn yêu cầu Tòa án buộc con nợ phải trả nợ trong đó nêu rõ khoản nợ, bằng chứng của việc kiện, các chứng từ... Tòa án, sau khi xem xét đơn yêu cầu nếu thấy có đầy đủ cơ sở chấp nhận thì ra lệnh buộc bên có nghĩa vụ phải trả tiền hoặc chuyển tiền cho chủ nợ mà không phải thông qua thủ tục tố tụng nào khác. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày bên có nghĩa vụ nhận được lệnh buộc trả tiền mà không phản đối thì lệnh đó có hiệu lực như một bản án có hiệu lực pháp luật. Ở Việt Nam, trong thực tiễn xét xử đã xuất hiện những trường hợp nguyên đơn kiện đòi nợ có đầy đủ chứng từ vay nợ, có chữ ký của người vay, nhưng Tòa án vẫn phải áp dụng thủ tục thông thường để giải quyết dẫn tới việc giải quyết vụ án bị kéo dài.
- Thủ tục TTDS đối với món nợ nhỏ theo pháp luật Thái Lan:
Thái Lan cũng thành lập những Tòa án liên huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án nhỏ hoặc những vụ kiện có giá ngạch thấp. Pháp luật TTDS Thái Lan hạn chế kháng cáo phúc thẩm đối với những vụ kiện có giá ngạch thấp hoặc những vụ kiện thuộc loại giản đơn. Chẳng hạn, pháp luật Thái Lan không cho phép kháng cáo phúc thẩm về vấn đề sự kiện của vụ án (ví dụ: nếu Tòa án cấp sơ thẩm bằng bản án đã quyết định rằng có việc vay nợ giữa A và B thì việc vay nợ giữa A và B được coi là vấn đề sự kiện của vụ án) nếu giá trị tranh chấp hoặc giá ngạch vụ kiện dưới 50.000 bạt nhưng đương sự có quyền kháng cáo về vấn đề áp dụng pháp luật, ví dụ về việc Tòa án đã áp dụng pháp luật sai khi xét xử vụ án hoặc không áp dụng đúng pháp luật cần thiết.v.v...
- Thủ tục kiện đòi món nợ nhỏ theo pháp luật Hàn Quốc:
Tương tự như pháp luật TTDS các nước đã nêu trên, Hàn Quốc cũng có những quy định đối với việc xét xử những vụ khiếu kiện nhỏ. Trình tự giải quyết những vụ khiếu kiện nhỏ này đơn giản và nhanh chóng hơn so với thủ tục tố tụng thông thường. Thủ tục giản đơn ở Hàn Quốc được áp dụng đối với những vụ kiện dân sự có giá ngạch dưới 5000.000 Won. Theo thủ tục này, nguyên đơn không nhất thiết phải làm đơn kiện (bằng văn bản) mà có thể đến Tòa án trực tiếp trình bày với cán bộ thụ lý vụ án. Cán bộ thụ lý vụ án có trách nhiệm ghi chép lại nội dung yêu cầu của nguyên đơn.
Điểm này khác với pháp luật TTDS hiện hành của Việt Nam. Theo đó, người khởi kiện phải làm đơn ghi rõ họ tên, địa chỉ của mình, của bị đơn, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nội dung sự việc; yêu cầu của mình và những tài liệu, lý lẽ chứng minh cho những yêu cầu đó. Đối với những vụ kiện được giải quyết theo trình tự giản đơn thì việc viết án cũng đơn giản hơn. Pháp luật TTDS Hàn Quốc quy định, phần quyết định của bản án thì Thẩm phán phải lập thành văn bản, còn những cơ sở, lập luận cho quyết định thì không yêu cầu Thẩm phán phải ghi trong bản án. Thông thường, một vụ kiện dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm được xét xử bởi một hội đồng xét xử, thì được kết thúc trong vòng 6 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án. Còn đối với vụ án do một Thẩm phán xét xử thì thời gian giải quyết xong vụ kiện khoảng hai tháng rưỡi. Theo thống kê, ở Hàn Quốc khoảng 65% số vụ án dân sự được giải quyết theo thủ tục giản đơn([51]).
- Thủ tục giải quyết những tranh chấp có giá trị nhỏ theo pháp luật Singgapo:
Ở Singgapo cũng có các Tòa án giải quyết khiếu kiện nhỏ với thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc mua bán hàng hoá là động sản, cung cấp dịch vụ, bồi thường thiệt hại đối với tài sản nhưng với điều kiện phải được sự thoả thuận của hai bên tranh chấp là đưa ra Toà khiếu kiện nhỏ giải quyết. Cụ thể là Tòa án giải quyết khiếu kiện nhỏ sẽ có thẩm quyền giải quyết đối với các trường hợp sau đây:
1. Các tranh chấp về mua bán hàng hoá có giá ngạch không quá 2.000 đô la Singgapo;
2. Các tranh chấp hợp đồng dịch vụ có giá ngạch không quá 5.000 đô la Singgapo;
3. Các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại về tài sản có giá ngạch từ 5.000đô la Singgapo đến 10.000 đô la Singgapo([52]).
Tóm lại, việc nghiên cứu so sánh về kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới về thủ tục giản đơn hay thủ tục ra lệnh đã cung cấp cho nhà nghiên cứu một góc nhìn sâu sắc hơn về lý luận trong việc nhận diện và đề xuất mô hình về thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam. Dựa trên kết quả nghiên cứu pháp luật TTDS một số nước trên thế giới, nhóm nghiên cứu đã rút ra bài học kinh nghiệm về phân hóa loại việc để thiết lập các thủ tục tố tụng tương ứng. Pháp luật TTDS Pháp, Đức, Nhật Bản, Đài Loan có quy định về thủ tục giản đơn đối với vụ kiện có giá trị nhỏ đồng thời cũng có quy định về thủ tục ra lệnh. Tuy nhiên, Pháp luật Pháp quy định theo hướng phân biệt hai loại thủ tục ra lệnh riêng biệt là thủ tục ra lệnh buộc thanh toán và thủ tục ra lệnh buộc làm một công việc. Trong khi đó, pháp luật TTDS Đài Loan, Nhật Bản chỉ quy định một thủ tục ra lệnh thanh toán nợ; pháp luật TTDS Nga lại đi theo hướng quy định một thủ tục ra lệnh chung áp dụng cho các trường hợp khác nhau.
Đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ, thành phần và thủ tục TTDS được giản lược hơn so với thủ tục tố tụng thông thường, việc giải quyết vụ án chỉ do một Thẩm phán tiến hành, với thời hạn ngắn hơn, phán quyết của Thẩm phán không bị kháng cáo phúc thẩm (Pháp, Đức, Nhật Bản....) hoặc nếu có kháng cáo phúc thẩm thì không được kháng cáo các vấn đề sự kiện của vụ kiện (Thái Lan). Theo thủ tục TTDS rút gọn, đương sự có thể trực tiếp thưa kiện tại Tòa án mà không nhất thiết phải làm đơn khởi kiện. Vụ kiện theo trình tự giản đơn sẽ được giải quyết bằng một phiên toà nhanh gọn hơn, khi tiến hành phiên toà, Thẩm phán có thể bỏ qua các bước không cần thiết. Thẩm phán chỉ tuyên quyết định của Tòa án về việc giải quyết vụ kiện, còn phần nội dung vụ kiện, nhận định của Tòa án được ghi ngay trong biên bản phiên toà (Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc..).
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy rằng quan niệm về vụ kiện có giá trị nhỏ và hiệu lực của phán quyết giải quyết vụ kiện có giá trị nhỏ theo pháp luật các nước cũng có những khác biệt nhất định. Chẳng hạn, theo pháp luật của Pháp, Đức và nhiều nước theo hệ thống luật dân sự thì đương sự không được quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm nếu như giá ngạch của vụ kiện thuộc thẩm quyền sơ chung thẩm của Tòa án. Theo pháp luật Nhật Bản, đối với những vụ kiện nhỏ có giá trị dưới 600.000 yên được Tòa án đơn giản giải quyết theo thủ tục về vụ kiện có giá trị nhỏ thì đương sự không được quyền khiếu nại lên Tòa án cấp trên, nếu có khiếu nại thì Tòa án đơn giản sẽ giải quyết lại([53]). Theo nghiên cứu của chúng tôi thì đây là điểm khá đặc biệt trong pháp luật Nhật Bản. Pháp luật một số nước như Thái Lan quy định nếu giá ngạch vụ án thấp hơn một khoản tiền nhất định thì không cho phép đương sự kháng cáo bản án sơ thẩm về vấn đề sự kiện của vụ án nhưng có quyền kháng cáo về vấn đề áp dụng pháp luật. Theo pháp luật Đài Loan đối với vụ kiện nhỏ đương sự được quyền kháng cáo phúc thẩm nhưng không có quyền khiếu nại bản án phúc thẩm này nếu không có sự đồng ý của Tòa án đã xử sơ thẩm.
Như vậy, kết quả nghiên cứu lý luận về thủ tục TTDS rút gọn cho thấy toàn cầu hóa kinh tế thế giới đòi hỏi pháp luật về tố tụng tư pháp dân sự của các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau hơn, loại bỏ dần những yếu tố không hợp lý và chấp nhận những ưu điểm của hệ thống pháp luật khác. Việt Nam là một đất nước đang phát triển, do vậy, việc hội nhập sâu rộng với đời sống kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan. Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi Việt Nam phải có những cải cách về thủ tục TTDS tương thích với pháp luật của cộng đồng quốc tế, theo hướng đơn giản hóa hơn về thủ tục, tạo cơ chế mềm dẻo và hiệu quả trong giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự, thương mại, lao động với đối tác nước ngoài nhằm thu hút đầu tư, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Kết quả nghiên cứu lý luận cũng đã làm sáng tỏ hơn về bản chất của thủ tục TTDS rút gọn, mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục này với một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và TTDS, bài học rút ra từ việc nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài. Kết quả nghiên cứu lý luận đã cho thấy định hướng về cải cách tư pháp dân sự ở Việt Nam mới chỉ vạch ra những đường hướng cơ bản là cần xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định. Điều cốt lõi cần phải thực hiện là kết nối các định hướng này với lý luận và kỹ thuật lập pháp về TTDS để xây dựng thủ tục rút gọn cho phù hợp. Nền tảng căn bản của cải cách là xử lý hài hòa mối liên hệ giữa tính chất đơn giản hay phức tạp của sự việc tranh chấp với trình tự, thủ tục TTDS và cơ chế kháng án cần được thiết lập để đáp ứng yêu cầu về tính hiệu quả, nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm được an toàn pháp lý cho các đương sự.
2.2. Thực trạng tố tụng dân sự và xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
Kết quả nghiên cứu lý luận về khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thủ tục TTDS rút gọn; cơ sở lý luận của việc xây dựng thủ tục này và bài học kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu so sánh về mô hình về thủ tục TTDS rút gọn theo pháp luật một số nước trên thế giới là tiền đề lý luận quan trọng để có thể nhận diện mô hình thủ tục TTDS rút gọn và phác thảo những định hướng ban đầu về mô hình thủ tục TTDS cần được xây dựng ở Việt Nam. Tuy nhiên, để có thể tiến sâu hơn trong bước đường nghiên cứu nhằm đưa ra những đề xuất cụ thể về mô hình thủ tục TTDS rút gọn thì cần phải dựa trên những cơ sở thực tiễn nhất định. Đó là nội dung các quy định có liên quan quan tới sự giản lược về thành phần và thủ tục tố tụng trong lịch sử; những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn tố tụng tại Tòa án; những việc đã làm được và chưa làm được trong tiến trình xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu này có thể giúp nhóm nghiên cứu có góc nhìn sâu sắc hơn về thực tiễn pháp luật, những yêu cầu của việc xây dựng thủ tục rút gọn từ thực tiễn tố tụng tại Tòa án cũng như những vướng mắc từ thực tiễn lập pháp cần được tiếp tục tháo gỡ, tạo cơ sở cho việc đề xuất những giải pháp về xây dựng thủ tục này ở Việt Nam.
2.2.1. Các quy định có liên quan tới giản lược về thành phần và thủ tục tố tụng dân sự trong lịch sử
Kết quả nghiên cứu cho thấy pháp luật TTDS Việt Nam chưa có một quy định chính thức về “thủ tục TTDS rút gọn”. Tuy nhiên, những quy định về giản lược thành phần xét xử, thủ tục tố tụng trong giải quyết các vụ kiện dân sự đã từng tồn tại và dường như mang tính không thường xuyên qua các giai đoạn phát triển khác nhau của pháp luật TTDS Việt Nam. Nếu so sánh đối chiếu với kết quả nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm quốc tế về thủ tục rút gọn thì có thể xem đây là tiền đề cho việc xây dựng thủ tục rút gọn ở Việt Nam.
2.2.1.1. Quy định về giản lược thành phần xét xử
Như đã luận giải ở trên, cơ chế xét xử một Thẩm phán và sự giản lược về thủ tục tố tụng là hai đặc điểm cơ bản của thủ tục TTDS rút gọn. Do vậy, một số nguyên tắc của TTDS như nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự, Toà án xét xử tập thể có thể không được áp dụng với thủ tục TTDS rút gọn.
Dưới góc nhìn lịch sử thì ở Việt Nam, Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia được coi là các nguyên tắc trong TTDS. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các nguyên tắc này không có biệt lệ. Cơ chế xét xử một Thẩm phán đã từng được ghi nhận tại Điều 10 Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946. Điều 10 Sắc lệnh này quy định đối với Tòa án sơ cấp "tại phiên toà, Thẩm phán xét xử một mình Lục sự giữ bút ký, lập biên bản án từ" và đối với Tòa án đệ nhị cấp Điều 17 Sắc lệnh cũng quy định "về dân sự và thương sự, Chánh án xử một mình nhưng khi xử các việc tiểu hình phải có thêm hai viên phụ thẩm nhân dân góp ý kiến". Ở Toà thượng thẩm, Điều 43 Sắc lệnh này quy định “Về các vấn đề liên can đến thủ tục tạm tha, đòi bồi thường, việc hộ và thương mại, ông Chánh án và hai hội thẩm quyết nghị lấy, phụ thẩm nhân dân không tham dự”.
Như vậy, theo Sắc lệnh số 13/SL thì việc xét xử ở các cấp Toà án có sự khác nhau về thành phần của Hội đồng, mà sự khác nhau đáng chú ý nhất chính là xuất phát từ sự phức tạp hoặc đơn giản của tranh chấp, ngoài ra giá trị tranh chấp của mỗi loại án kiện cũng là một điều kiện để xác định thành phần Hội đồng xét xử là một Thẩm phán, một mình Chánh án hay Hội đồng phải có thêm Hội thẩm.
Tại các Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992, 2002 đều quy định rằng Tòa án xét xử tập thể, xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia nhưng vẫn có ngoại lệ về việc xét xử bởi một Thẩm phán. Chẳng hạn, Điều 12 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 quy định "Tòa án nhân dân thực hành chế độ xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Khi sơ thẩm, Tòa án nhân dân gồm một Thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân; trường hợp xử những vụ án nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì Tòa án nhân dân có thể xử không có hội thẩm nhân dân".
Hiện nay, theo quy định tại Điều 52 BLTTDS năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết bằng một Thẩm phán cũng được nhà lập pháp ghi nhận tại Điều 55 BLTTDS đối với các việc dân sự không có tranh chấp.
Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã có những cải cách cơ bản về nguyên tắc Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, tạo cơ sở pháp lý cho cơ chế xét xử một Thẩm phán trong TTDS. Theo quy định tại Khoản 1 và khoản 4 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 thì “Việc xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” và “Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc giản lược thành phần tiến hành tố tụng đối với thủ tục TTDS rút gọn.
2.2.1.2. Quy định về sự giản lược về quy trình tố tụng và cơ chế kháng án
Như đã luận giải về phương diện lý luận, sự giản lược về thủ tục tố tụng là một trong những đặc điểm cơ bản của thủ tục TTDS rút gọn. Do vậy, nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử cần được xem là một biệt lệ hoặc hạn chế áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn. Xét theo lịch sử lập pháp Việt Nam thì mặc dù quy định việc xét xử của Tòa án phải qua hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm nhưng không phải là không có ngoại lệ. Cơ chế xét xử một lần, tức là xét xử sơ thẩm nhưng bản án của Tòa án có hiệu lực ngay đã từng tồn tại.
Theo "Bắc kỳ Pháp viện biên chế" công bố bằng Nghị định ngày 2/12/1921 được thi hành tại toàn cõi Bắc kỳ, thì Tòa án sơ cấp có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm và chung thẩm nếu giá ngạch không quá 30 đồng bạc (Điều 6); Tòa án tỉnh có quyền giải quyết sơ thẩm và chung thẩm nếu giá ngạch quá 30 đồng bạc và không tới 100 đồng bạc (Điều 13).
Tại miền Trung Việt Nam, theo Nghị định ngày 20/10/1947 của Hội đồng chấp chánh lâm thời Trung kỳ về sửa đổi giá ngạch cũ có quy định: Các Toà đệ nhị cấp xử chung thẩm các việc tương tranh động sản hoặc đối với người, việc thương sự; việc đòi tiền bồi hoàn hay bồi thường với giá ngạch trên 500 $ nhưng dưới 1500 $, về bất động sản theo giá ngạch đồng niên không quá 150 $ (Điều 19).
Ở miền Nam Việt Nam, theo Sắc lệnh ngày 27/12/1943 có quy định: Toà xử sơ thẩm và chung thẩm các tố quyền đối nhân và động sản đến mức 7.500 quan tức 750 $ hay 750 giạ lúa (mỗi giạ trọng lượng độ 20 ki lô), các tố quyền bất động sản lợi tức đồng niên 40 giạ lúa hay 300 quan hay 30 $ mỗi năm. Theo Điều 16 BLDS và thương sự ngày 20/1/1972 của chính quyền Sài Gòn, thì những vụ kiện về động sản có giá trị dưới 60.000đ (thời điểm 1972) được coi là có giá ngạch thấp([54]).
Ngay sau cách mạng Tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 cho giữa tạm thời các luật lệ hiện hành của chế độ cũ trong đó có pháp luật về TTDS. Trong thời gian từ năm 1946 đến năm 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký một loạt các Sắc lệnh về Nhà nước và pháp luật, trong đó có những Sắc lệnh quan trọng liên quan tới tổ chức tư pháp và thủ tục TTDS như: Sắc lệnh số 13/ SL ngày 24 /1/1946 về "Tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán"; Sắc lệnh 51/SL ngày 17/4/1946 "Ấn định thẩm quyền các Toà án và sự phân công giữa các nhân viên trong Toà án"; Sắc lệnh số: 112/SL ngày 28/6/1946 bổ khuyết Sắc lệnh 51; Sắc lệnh 185/ SL ngày 26/5/1948 "Ấn định thẩm quyền các Toà án sơ cấp và đệ nhị cấp"; Sắc lệnh số: 88/SL ngày 2 /8/1949 "Về quyền của Ban tư pháp xã"; Sắc lệnh số: 85/SL ngày 22/6/1950 "Về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng"… Trong thời gian từ 1945 – 1954, việc phân định thẩm quyền giữa Toà án các cấp được căn cứ theo giá ngạch của vụ kiện, thẩm quyền sơ chung thẩm đã được quy định khá chi tiết trong Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946.
Sắc lệnh số 13 "Về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán" ngày 24/1/1946 đã quy định thẩm quyền của Toà án xét xử các tranh chấp về dân sự, mà trước đó các tranh chấp loại này chỉ thuộc thẩm quyền giải quyết của Ban hoà giải của Uỷ ban Hành chính cấp tỉnh và Uỷ ban Hành chính cấp huyện. Theo Sắc lệnh này, Ban tư pháp xã vẫn được coi như một tổ chức trong hệ thống các cơ quan tiến hành TTDS. Theo Điều 3 Sắc lệnh thì Ban tư pháp xã có quyền:
1. Hoà giải tất cả các việc dân sự và thương sự;
2. Phạt các việc vi cảnh nhưng chỉ có quyền phạt tiền từ năm hào đến sáu đồng bạc;
3. Thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp trên.
Sắc lệnh số 51 ngày 17 /4 /1946 "Ấn định thẩm quyền các Toà án và sự phân công giữa các nhân viên trong ngành Toà án" có ghi nhận "hiệu lực tư chứng thư" của biên bản hoà giải thành do Ban tư pháp xã lập. Tiếp theo đó, Điều 7 Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 đã khẳng định thẩm quyền của Ban tư pháp xã về dân sự và thương sự. Theo đó, Ban tư pháp xã có quyền xử:
A. Chung thẩm:
1. Những vụ vi cảnh phạt bạc từ 5 đồng đến 30 đồng.
2. Những việc đòi bồi thường hoặc bồi hoàn từ 300 đồng trở xuống do người bị thiệt hại thỉnh cầu trong đơn kiện.
B. Sơ thẩm:
- Những việc đòi bồi thường hoặc bồi hoàn quá 300 đồng do người bị thiệt hại thỉnh cầu trong đơn kiện hay lúc xử.
Chức năng xét xử của Ban tư pháp xã (với tư cách là một cơ quan trong hệ thống các cơ quan tiến hành TTDS) đối với các án kiện dân sự được duy trì cho tới khi có Luật tổ chức Toà án nhân dân ngày 14 tháng 7 năm 1960.
Theo các Sắc lệnh số 51/SL "Ấn định thẩm quyền các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án" ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số 85/SL "Về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng" ngày 22/5/1950 thì cơ chế xét xử một lần được áp dụng đối với những vụ kiện mà đối tượng tranh chấp là những tài sản có giá trị nhỏ và được thực hiện ở các Tòa án sơ cấp và đệ nhị cấp. Tuy nhiên, sau này theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 thì việc xét xử hai cấp đã chính thức được ghi nhận thành một nguyên tắc do vậy cơ chế này không còn được áp dụng nữa([55]).
Sắc lệnh số 51/SL ngày 17 tháng 4 năm 1946 về "Ấn định thẩm quyền các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án" đã có quy định về cơ chế xét xử một lần, bản án có hiệu lực pháp luật ngay mà không có quyền chống án lên cấp phúc thẩm. Tiêu chí xác định những vụ chung thẩm thường dựa trên giá ngạch. Cụ thể là Tòa án sơ cấp xử chung thẩm những vụ dân sự và thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn định không quá 150 đồng; những việc kiện về các khoản lệ phí đã phát sinh ra trước Tòa án ấy không cứ giá ngạch nào (Điều thứ 6). Tòa án đệ nhị cấp có quyền xử chung thẩm những việc kiện về bất động sản mà giá ngạch theo thời giá, hôm khởi tố hay theo văn tự không quá 150 đồng, những việc kiện về động sản mà giá ngạch trên 450 đồng nhưng dưới 750 đồng (Điều thứ 11)([56]).
Theo các quy định về TTDS trong giai đoạn từ năm 1981 đến trước ngày ban hành PLTTGQCVADS năm 1989, thì việc xét xử vẫn được thực hiện theo hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm, đồng thời trong các văn bản pháp luật vẫn quy định về cơ chế xét xử một lần. Tuy nhiên, nếu so sánh với các quy định của thời kỳ trước năm 1960 thì cơ chế xét xử một lần trong thời kỳ này có sự thay đổi về bản chất của nó. Nếu trước năm 1960 cơ chế xét xử một lần chỉ áp dụng ở Tòa án sơ cấp (ở cấp quận, huyện...) và các Tòa án đệ nhị cấp (ở cấp tỉnh), thì theo Điều 21 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 và Điều 27 Luật sửa đổi bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1988, thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm (xét xử một lần) chỉ thuộc về Tòa án nhân dân tối cao([57]).
Một điểm đáng chú ý là theo quy định tại Điều 21 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 và Điều 27 Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1988 thì thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm của Tòa án nhân dân tối cao lần đầu tiên được chính thức quy định, nhưng áp dụng cho những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp. Đây cũng là thủ tục xử một lần, nhưng tính chất lại ngược lại so với quy định về thủ tục chung thẩm được quy định trong giai đoạn trước năm 1960. Nếu ở giai đoạn từ năm 1945-1960, thủ tục chung thẩm được áp dụng cho những việc hộ và thương sự có tính đơn giản, giá trị tranh chấp thấp thì việc sơ thẩm đồng thời chung thẩm được quy định trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 lại là vụ án đặc biệt phức tạp. Như vậy, cũng là thủ tục xử một lần, nhưng thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm này không thể được coi là một thủ tục rút gọn với ý nghĩa là thủ tục đơn giản, nhanh chóng về thời gian và bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân([58]).
So với các văn bản pháp luật về TTDS trong các thời kỳ trước đó, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29/11/1989 vẫn ghi nhận thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm của Tòa án nhân dân và tại Điều 23 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1993 và năm 1995 vẫn quy định: Toà dân sự Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ, quyền hạn sơ thẩm đồng thời là chung thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng... Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 không có quy định về thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm của Toà kinh tế và Toà lao động Tòa án nhân dân tối cao([59]).
Hiện nay theo Điều 17 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì việc xét xử theo hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm đã được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản như đã từng quy định trong các Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, 1981 nên cơ chế xét xử một lần không còn được áp dụng nữa. Ngoài ra, quy định tại khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 với nội dung “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” cũng tạo ra những vướng mắc nhất định đối với việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn hiện nay. Mặc dù, văn từ của Điều 103 Hiến pháp năm 2013 cho thấy chế độ xét xử phúc thẩm có thể không có tính bắt buộc đối với những loại việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng, áp dụng pháp luật đơn giản (không cần phải xét xử) nhưng đối với những tranh chấp có giá ngạch thấp thì dường như câu trả lời vẫn còn bỏ ngỏ.
Ngoài cơ chế xét xử một lần dựa trên giá ngạch của vụ kiện hay tính chất của tranh chấp, pháp luật Việt Nam đã từng có những quy định về thủ tục giải quyết nhanh đối với các khiếu nại về danh sách cử tri. Văn bản rất quan trọng trong thời kỳ này là Luật bầu cử đại biểu Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 11, ngày 31/12/1959([60]). Tại Điều 9 Luật này đã quy định: “Khi kiểm tra danh sách cử tri, nếu thấy có sai lầm hoặc thiếu sót thì trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày niêm yết, nhân dân có quyền khiếu nại hoặc báo cáo bằng miệng hoặc bằng giấy lên cơ quan lập danh sách. Cơ quan lập danh sách cử tri phải ghi vào một quyển sổ những khiếu nại hoặc báo cáo bằng miệng. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại hoặc báo cáo, cơ quan lập danh sách cử tri phải giải quyết xong. Nếu người khiếu nại hoặc báo cáo chưa đồng ý về cách giải quyết đó thì có quyền khiếu nại lên Tòa án nhân dân huyện, châu, thị xã hoặc thành phố. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Tòa án nhân dân phải giải quyết xong. Quyết định của Tòa án nhân dân là quyết định cuối cùng”.
Sau này, các quy định về thủ tục xét xử nhanh giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri nêu trên vẫn được kế thừa nguyên bản tại Điều 25 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1983([61]). Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1989([62]) cũng vẫn tiếp tục quy định tương tự, nhưng thời gian Tòa án giải quyết là năm ngày, thay vì ba ngày như trước đó. Cụ thể, Điều 24 Luật này quy định: Khi kiểm tra danh sách cử tri, nếu thấy có sai lầm hoặc thiếu sót thì trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày niêm yết, mọi người có quyền khiếu nại, báo cáo bằng giấy hoặc bằng miệng với cơ quan lập danh sách cử tri. Cơ quan lập danh sách cử tri phải ghi vào sổ những khiếu nại hoặc báo cáo đó. Trong thời hạn năm này, kể từ ngày nhận được khiếu nại hoặc báo cáo, cơ quan lập danh sách cử tri phải giải quyết xong và thông báo cho người khiếu nại hoặc người báo cáo biết kết quả giải quyết. Nếu người khiếu nại hoặc báo cáo không đồng ý với cách giải quyết đó thì có quyền khiếu nại lên Tòa án nhân dân cấp huyện. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Tòa án nhân dân phải giải quyết xong. Quyết định của Tòa án nhân dân là quyết định cuối cùng. Khoản 6, Điều 10 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 cũng quy định loại việc khiếu nại về danh sách cử tri thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân.
Điều 25 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1994 cũng quy định nội dung tương tự. Tuy nhiên, đến năm 1996, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được ban hành([63]), việc khiếu nại về danh sách cử tri được giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính, nên chính thức thì bắt đầu từ thời điểm này, thủ tục giải quyết vụ án dân sự không còn loại việc nào được quy định theo thủ tục rút gọn.
Khi nghiên cứu về vấn đề này TS. Lê Thu Hà nhận xét quy định này không chỉ thể hiện quyền dân chủ của người dân trong nhà nước dân chủ, cộng hòa mà ở góc độ thủ tục, đã ghi nhận một trình tự giải quyết nhanh hơn bình thường. Thứ nhất là nhanh về thời gian, thứ hai là nhanh do thủ tục xử chỉ có một lần. Khi khiếu nại danh sách cử tri đến Tòa án nhân dân cấp huyện thì quyết định của Tòa án là cuối cùng. Điều đặc biệt khác với các trình tự thông thường khác (thường qua hai cấp xét xử) xuất phát từ đặc thù của loại vụ việc này. Đó là việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại phải kịp thời phục vụ cho kỳ bầu cử. Nếu giải quyết theo thủ tục bình thường thì việc giải quyết khiếu nại sẽ mất đi ý nghĩa vì kỳ bầu cử đã qua. Đây có thể được ghi nhận như một trong những hình thức xét xử rút gọn trong TTDS([64]).
Bên cạnh việc nghiên cứu các quy định về cơ chế xét xử một lần dựa trên giá ngạch của vụ kiện hay tính chất của tranh chấp, sự giản lược tối đa về thủ tục và thời hạn đối với các khiếu nại về danh sách cử tri thì việc nghiên cứu các quy định về rút ngắn thời hạn TTDS dựa trên tính chất đơn giản của vụ tranh chấp cũng là tiền đề thực tiễn quan trọng cho việc xây dựng thủ tục rút gọn ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989([65]) chỉ quy định thủ tục chung để giải quyết vụ án mà không quy định các thủ tục đặc biệt, nhất là thủ tục mang tính rút gọn. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 47 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì thời hạn giải quyết vụ án là 4 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án; đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc việc điều tra gặp nhiều khó khăn thì có thể gia thêm thời hạn 2 tháng nữa. Mặc dù không có bất kỳ một quy định nào liên quan đến “thủ tục rút gọn”, nhưng với quy định về thời hạn giải quyết vụ án đã thể hiện được nhà lập pháp bước đầu có sự phân biệt giữa những loại án đơn giản và những loại án phức tạp hơn bằng việc quy định thời hạn tối đa cho việc giải quyết.
Theo TS. Lê Thu Hà, điều này cũng cho thấy một vấn đề hoàn toàn tự nhiên là cũng là vụ án dân sự nhưng có những vụ án đơn giản, nhưng cũng có những vụ án phức tạp có thể do giá trị của tranh chấp, có thể liên quan đến nhiều người hoặc có thể do có mâu thuẫn giữa các chứng cứ hoặc không thống nhất giữa các đương sự. Mặc dầu có thừa nhận sự khác biệt một cách tự nhiên này, nhưng pháp luật TTDS trong giai đoạn này vẫn không có bước tiến nào về thủ tục TTDS rút gọn. Các vụ kiện dân sự, dù tính chất và sự khác biệt về nội dung nhưng vẫn được giải quyết theo thủ tục tố tụng giống nhau, từ thời hạn giải quyết, HĐXX, thủ tục phiên tòa cũng như tất cả các quy định khác liên quan đến trình tự giải quyết([66]).
Từ năm 2004, tư duy lập pháp trong lĩnh vực TTDS đã có nhiều bước đột phá. Việc quy định thủ tục giải quyết việc dân sự khác thủ tục giải quyết vụ án dân sự trong BLTTDS cho thấy đã hình thành nhận thức quan điểm về thủ tục tố tụng mới, có những điểm khác nhất định so với thủ tục giải quyết vụ án thông thường. Tư duy về rút ngắn thời hạn giải quyết, giản lược về thủ tục tiến hành tố tụng đã được thể hiện trong sự khác biệt giữa các quy định về thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục giải quyết vụ án dân sự:
Theo quy định tại Điều 179 BLTTDS được sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì thời hạn chuẩn bị giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình là bốn tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì có thể gia thêm thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng; thời hạn chuẩn bị xét xử là hai tháng đối với những vụ án về kinh doanh, thương mại, lao động và trường hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì có thể gia thêm thời hạn một tháng chuẩn bị xét xử. Trong khi đó, đối với thủ tục giải quyết việc dân sự thì tùy từng loại việc mà có thời gian chuẩn bị giải quyết khác nhau, nhưng nhìn chung là ngắn hơn so với thời gian chuẩn bị giải quyết vụ án dân sự. Về phương diện thủ tục thì Tòa án không phải mở phiên tòa mà chỉ tiến hành phiên họp đơn giản để ra quyết định giải quyết vụ việc. Tuy nhiên, quyết định này của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, trừ trường hợp đó là các quyết định về công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự.
Về thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm đối với quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự được quy định ngắn hơn so với thời hạn này đối với bản án sơ thẩm giải quyết vụ án. Theo quy định tại Điều 317 BLTTDS thì đương sự có quyền kháng cáo quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định, nếu họ không có mặt tại phiên họp thì thời hạn đó tính từ ngày họ nhận được quyết định hoặc ngày quyết định đó được thông báo, niêm yết. VKS cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự trong thời hạn bảy ngày, VKS cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định. Trong khi đó, đối với bản án sơ thẩm thì theo quy định tại Điều 245 và Điều 252 BLTTDS thì thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án, đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết; thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp là mười lăm ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày kể từ ngày tuyên án.
2.2.2. Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn
2.2.2.1. Yêu cầu rút ngắn thời hạn, đơn giản hóa thành phần và thủ tục tố tụng dân sự từ thực tiễn giải quyết án kiện
Kết quả khảo sát được nhóm nghiên cứu tiến hành về nhu cầu cải cách thủ tục TTDS từ thực tiễn giải quyết án kiện cho thấy đa số các cán bộ làm công tác xét xử (56%) được hỏi đều cho rằng pháp luật Việt Nam về thủ tục TTDS chưa phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước; 38% có ý kiến ngược lại và có 6% ý kiến khác cho rằng pháp luật TTDS cơ bản là đáp ứng yêu cầu nhưng cần có một số sửa đổi để phù hợp hơn với thực tiễn. Có gần 50% số người được hỏi cho rằng pháp luật Việt Nam hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu về quyền tiếp cận công lý, quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS và có tới 71% cho rằng pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả của thủ tục khi áp dụng trên thực tế([67]).
Nghiên cứu thực tiễn tố tụng tại Tòa án cho thấy vấn đề nổi lên hiện nay là sự gia tăng của án kiện và áp lực về công việc của ngành Tòa án. Từ sau quá trình đổi mới nền kinh tế năm 1986, cùng với sự phát triển của kinh tế thì các tranh chấp về dân sự, thương mại diễn ra ngày càng nhiều, năm sau luôn cao hơn năm trước cả về số lượng lẫn tính chất mức độ phức tạp trong từng vụ việc. Theo kết quả thống kê của Ngành Tòa án từ năm 2005 đến nay thì các vụ án dân sự Tòa án nhân dân các cấp thụ lý từ tăng mạnh từ 223.228 vụ (năm 2005) lên 395.415 vụ (năm 2013) tăng 172.187 vụ tương ứng với 56,4%. Số các vụ án Tòa án nhân dân các cấp giải quyết cũng tăng từ 199.998 vụ lên 364.819 vụ, tăng 164.821 vụ tương ứng với 54,8%. Đồng thời, theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, thì số lượng các vụ án Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm thụ lý và giải quyết là rất lớn, thường chiếm trên 90% số lượng án giải quyết của toàn hệ thống Tòa án và số lượng án còn tồn đọng của Tòa án các cấp cũng còn nhiều([68]). Theo thống kê trong Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án thì số lượng vụ việc dân sự đã thụ lý còn tồn đọng năm 2005 là 20.694 vụ; năm 2006 là 18.065 vụ; năm 2007 là 17.311 vụ; năm 2008 là 17.568 vụ; năm 2009 là 19.816 vụ; năm 2010 là 21.369 vụ; năm 2011 là 26.959 vụ; năm 2012 là 25.091 vụ; năm 2013 là 27.609 vụ([69]).
Khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về xây dựng thủ tục rút gọn, nhóm nghiên cứu đã đi đến kết luận là để khắc phục áp lực về công việc cho ngành Tòa án thì hai giải pháp cần phải xem xét, đó là tăng biên chế Thẩm phán cho ngành Tòa án và cải cách thủ tục tố tụng, lược bỏ những khâu rườm rà, không cần thiết ngay trong chính các quy định về thủ tục nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết tranh chấp để giải quyết tình trạng án tồn đọng. Kết quả nghiên cứu lý luận này đã được củng cố thêm bởi chính nhận định của những người làm công tác thực tiễn. Theo Thẩm phán. Nguyễn Văn Cường và Ths. Phùng Thị Hoàn - Tòa án nhân dân tối cao thì sự thiếu một cơ chế mềm dẻo, giản lược về thủ tục tố tụng cũng là một nguyên nhân của tình trạng này, đặc biệt là đối với những vụ kiện đơn giản, có chứng cứ rõ ràng hoặc tính chất tranh chấp không gay gắt, giá trị tranh chấp nhỏ. Theo phản ánh của nhiều Thẩm phán Tòa án nhân dân tại các Hội thảo khoa học về thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự, cũng như tổng kết thi hành BLTTDS những năm qua, thì trong tổng số các vụ kiện mà toàn hệ thống Tòa án thụ lý, giải quyết nêu trên có không ít những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, nội dung tranh chấp đơn giản, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối yêu cầu của nguyên đơn, vụ kiện có giá ngạch thấp nhưng vẫn phải giải quyết theo trình tự thủ tục tố tụng thông thường gây mất thời gian, tiền bạc, công sức của cơ quan tố tụng và các đương sự. Hơn nữa, có rất nhiều các vụ kiện bị đơn cố tình không thực hiện nghĩa vụ, lạm dụng quyền kháng cáo để kéo dài thời gian giải quyết vụ án góp phần làm cho tình trạng án tồn đọng kéo dài và gây sức ép không nhỏ cho cán bộ nhất là các Thẩm phán đã giải quyết vụ kiện([70]).
Kết quả khảo sát được nhóm nghiên cứu tiến hành về tình trạng bị đơn lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ cũng cho thấy 74% các cán bộ làm công tác xét xử được hỏi cho biết là tại địa phương nơi họ công tác thường gặp những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản nhưng bị đơn vẫn lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ dẫn tới việc khiếu kiện kéo dài([71]). Điều này cho thấy những hạn chế, bất cập của pháp luật TTDS hiện hành đã dẫn tới những sự lạm dụng của một bên đương sự. Do vậy, việc nghiên cứu để sửa đổi pháp luật là rất cần thiết.
Việc khảo sát được nhóm nghiên cứu tiến hành đối với các cán bộ làm công tác xét xử được hỏi về thời hạn chuẩn bị xét xử lại cho thấy những kết quả khác nhau: Có 50% ý kiến được hỏi cho rằng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử trong BLTTDS áp dụng trong thực tiễn đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản là phù hợp, trong khi đó chỉ có 31% người được hỏi cho rằng quy định về thời hạn hiện hành không phù hợp vì quá dài, 8% lại cho rằng là không phù hợp vì quá ngắn; 9% người được hỏi không có ý kiến và 2% có ý kiến khác([72]). Nhóm nghiên cứu nhận thấy theo quy định tại Điều 179 BLTTDS, thời hạn trung bình giải quyết án kiện ở cấp sơ thẩm đối với án về dân sự, hôn nhân gia đình là từ 5 đến 6 tháng; án thương mại, lao động là từ 3 đến 4 tháng. Do thiếu vắng về một thủ tục đơn giản hơn nên đối với những vụ kiện đơn giản, có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối, giá ngạch thấp Thẩm phán vẫn phải áp dụng thủ tục thông thường gây lãng phí thời gian, chậm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, gây tốn kém cho Nhà nước và các bên đương sự. Chẳng hạn, “Ở các đô thị lớn như TP.HCM, trung bình một Thẩm phán một tháng phải giải quyết từ 10 vụ việc trở lên. Trong số đó, có không ít trường hợp tranh chấp đơn giản, các bên đều thừa nhận và mong Tòa giải quyết nhanh…, đương sự chỉ chờ một phán quyết của Tòa án để thực hiện việc thi hành án bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho họ. Nhưng Tòa không thể đưa ra xét xử ngay vì một trong các nguyên nhân là Thẩm phán sợ nếu không tiến hành đầy đủ các bước lấy lời khai, hòa giải… như luật định, dù không cần thiết thì cũng có thể bị hủy, sửa án ([73]). Đó là chưa tính đến việc một số trường hợp đương sự không thiện chí có thể lợi dụng quy định về thời hạn tố tụng này để kéo dài thời gian giải quyết, gây bất lợi và thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của đối phương.
Dưới góc nhìn của người làm công tác thực tiễn, Thẩm phán. Nguyễn Văn Cường, Ths. Phùng Thị Hoàn - Tòa án nhân dân tối cao nhận xét rằng trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường đòi hỏi các tranh chấp phải được giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả. Đặc biệt đối với những tranh chấp thương mại, tín dụng ngân hàng,… có hợp đồng công chứng hợp pháp, quyền, nghĩa vụ của các bên rõ ràng, thì cần được giải quyết nhanh chóng để đảm bảo tính thanh khoản và sinh lợi của đồng tiền. Việc giải quyết mọi tranh chấp đều phải tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, kéo dài nên đã có những tác động không tốt đến quá trình quay vòng đồng vốn, nhất là các tranh chấp liên quan đến tiền, vàng trong điều kiện giá cả thị trường luôn luôn biến động.
Bên cạnh những hạn chế trên, quy định của BLTTDS về cơ chế kháng án trong nhiều trường hợp là không phù hợp và dễ bị lạm dụng. Cơ chế kháng án hiện hành chỉ phù hợp đối với những vụ án tranh chấp có tính chất phức tạp, giá trị tài sản lớn, đòi hỏi Tòa án phải tiến hành rất nhiều các thủ tục tố tụng như xác minh, thu thập chứng cứ... và việc đánh giá các chứng cứ là có nhiều khó khăn, phức tạp có thể dẫn đến Tòa án có thể thiếu sót hoặc áp dụng pháp luật chưa chuẩn xác, hoặc nhiều trường hợp có thể xuất hiện tình tiết mới làm thay đổi căn bản nội dung vụ án. Đối với những vụ án có tính chất đơn giản, bị đơn thừa nhận yêu cầu của nguyên đơn hoặc không phản đối yêu cầu của nguyên đơn, Tòa án thường hiếm khi gặp sai lầm trong việc nhận định sự việc và áp dụng pháp luật. Quy định về quyền kháng cáo phúc thẩm đối với những việc trên có thể dẫn đến nhiều hạn chế đối với hiệu quả giải quyết tranh chấp. Nhiều trường hợp mặc dù quyền, nghĩa vụ đã rõ ràng nhưng để gây cản trở cho nguyên đơn, bị đơn lạm dụng quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét lại vụ việc sau khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử mặc dù có thể họ biết bản án đó, quyết định đó đúng với bản chất của sự việc và đúng với quy định của pháp luật. Việc kháng cáo của đương sự có thể chỉ nhằm mục đích để trì hoãn, trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ của mình và gây khó khăn, làm mất thời gian cho đương sự khác và cơ quan tiến hành tố tụng chứ không nhằm thay đổi nội dung bản án, quyết định của Tòa án([74]). Thạc sỹ Nguyễn Huyền Cường - một Thẩm phán đã có thâm niên trong giải quyết án kiện kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội cũng có cùng chung nhận định này([75]).
Việc khảo sát thực tiễn do nhóm nghiên cứu tiến hành cũng cho thấy trong thực tiễn đã xuất hiện nhiều vụ kiện chứng cứ rõ ràng có thể giải quyết theo thủ tục đơn giản. Chẳng hạn, vụ kiện yêu cầu thanh toán nợ phát sinh từ hợp đồng mua bán thuốc tại Tòa án Thành phố Nam Định giữa nguyên đơn là Công ty TNHH MEGACHEM Việt Nam và bị đơn là Công ty TNHH Hóa Dược ĐH, bị đơn đã có thư xác nhận công nợ nhưng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Ngoài ra, trong thực tiễn cũng phát sinh nhiều trường hợp vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, sau khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án buộc thực hiện nghĩa vụ thì bị đơn đã kháng cáo và sau đó lại rút đơn kháng cáo gây kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp và chậm thi hành nghĩa đã được xác định trong hợp đồng. Chẳng hạn, trong vụ kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam và bị đơn là Công ty TNHH Hoàng Minh, căn cứ vào các hợp đồng tín dụng do nguyên đơn xuất trình (Hợp đồng tín dụng số 01/2011/HĐTDTH/TNHH/HOMI ngày 18/3/2011 và Hợp đồng tín dụng số 01/2011/HĐTDHM/TNHH/HOMI ngày 22/4/2011) Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu đã ra bản án số 01/2014/KDTM – ST ngày 03/7/2014 xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam buộc Công ty TNHH Hoàng Minh phải trả cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam tổng số tiền là 17.433.467.919 đồng (Mười bảy tỷ bốn trăm ba mươi ba triệu bốn trăm sáu mươi bảy nghìn chín trăm mười chín đồng). Sau khi có bản án sơ thẩm, ngày 16/7/2014, bị đơn đã có kháng cáo bản án trên và gần 3 tháng sau tại phiên tòa phúc thẩm ngày 30/9/2014 bị đơn mới rút kháng cáo dẫn tới Tòa án cấp phúc thẩm đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Tương tự như trường hợp trên, thực tiễn xét xử cũng phát sinh nhiều trường hợp đương sự kháng cáo sau đó lại rút kháng cáo dẫn tới Tòa án cấp phúc thẩm phải ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Chẳng hạn, vụ kiện tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa nguyên đơn là Công ty TNHH nhựa đường Chevron Việt Nam và bị đơn là Công ty đường bộ 230 theo bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/26-6-2012 của Tòa án Gia Lâm và quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm của Tòa án Thành phố Hà Nội tháng 11/2012; Bản án sơ thẩm 06/2012 ngày 28/9/2012 của Tòa án Quận Cầu Giấy về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần sản xuất lưới thép rọ đá Việt Nam và bị đơn là Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và xuất nhập khẩu Cảnh Viên và quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vào tháng 1/2013 của Tòa án Thành phố Hà Nội; Bản án sơ thẩm ngày 30/1/2013 của Tòa án Quận Đông Anh về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần kỹ thuật và thiết bị y tế Sài Gòn và bị đơn là Công ty cổ phần thương mại và kỹ thuật Việt Nam và quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vào ngày 28/3/2013 của Tòa án Thành phố Hà Nội; Bản án sơ thẩm số 02 ngày 7/12/2012 của Tòa án Quận TH về tranh chấp hợp đồng dịch vụ giữa nguyên đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn dịch vụ bảo vệ 24 và bị đơn là Công ty cổ phần Bio P và quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vào 4/2013 của Tòa án Thành phố Hà Nội; Tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa NHTMCP Thương tín trụ sở tại Sóc Trăng và bị đơn là Đỗ Thị Th theo bản án sơ thẩm số 03 ngày 26/4/2013 của Tòa án Quận Đ và quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm ngày 20/8/2014 do bị đơn kháng cáo và sau đó rút kháng cáo; Tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa NHTMCP Thương tín trụ sở tại Sóc Trăng và bị đơn là Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị H theo bản án sơ thẩm số 11 ngày 9/5/2013 của Tòa án Chương Mỹ và quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vào tháng 9/2013 do bị đơn kháng cáo và sau đó rút kháng cáo; Tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa NHTMCP Á Châu tại Quận 3 Thành phố HCM và bị đơn là Công ty CPĐT HHJ theo bản án sơ thẩm số 05 ngày 14/4/2014 của Tòa án Quận Đống Đa và quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm của Tòa án Thành phố HN do bị đơn kháng cáo và sau đó rút kháng cáo.
2.2.2.2. Kết quả nghiên cứu từ thực tiễn về loại việc có thể giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn
Trên cơ sở tổng hợp kết quả khảo sát tại các cơ quan tư pháp và kết quả nghiên cứu thực tiễn từ các chuyên đề như Chuyên số 6, “Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn” do TS Nguyễn Văn Cường, Ths. Phùng Thị Hoàn - Viện khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao thực hiện; Chuyên đề số 9, “Về xác định phạm vi loại việc khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam” do Luật sư Trần Đức Sơn - Công ty Luật Mayer Brown JSM thực hiện; Chuyên đề số 11, “Về bảo đảm hiệu quả của hoạt động tố tụng và quyền tiếp cận công lý của công dân khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn” do Thẩm phán Nguyễn Huyền Cường thực hiện, nhóm nghiên cứu đã rút ra một số kết luận về loại việc phát sinh từ thực tiễn đòi hỏi phải được giải quyết theo thủ tục đơn giản hơn.
Kết quả nghiên cứu thực tiễn giải quyết án kiện và điều tra, khảo sát cho thấy thực tiễn tại Tòa án đã xuất hiện nhiều loại việc đáp ứng tiêu chí lý luận về loại việc theo thủ tục rút gọn. Nhóm nghiên cứu Chuyên đề 6 do TS Nguyễn Văn Cường, Ths. Phùng Thị Hoàn - Tòa án nhân dân tối cao đã đưa ra nhận định về 3 nhóm loại việc phát sinh từ thực tiễn đòi hỏi cần được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Đó là, (1) Những vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn đã thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ (2) Những vụ kiện có chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, các sự kiện đã được xác định, Tòa án không mất nhiều thời gian để xác minh và không cần thiết phải thu thập thêm chứng cứ và (3) Những vụ kiện có giá ngạch thấp. Kết quả nghiên cứu chính của nhóm này được thể hiện ở những điểm chính sau đây:
(1) Về những vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ, bị đơn đã thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ của mình :
Theo các tác giả của Chuyên đề 6 thì thực tiễn xét xử của Tòa án gặp nhiều loại đơn yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn về việc thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật. Bị đơn không phản đối, mà thừa nhận nghĩa vụ của mình nhưng lại không chịu thực hiện nghĩa vụ đó. Trong những trường hợp này, nguyên đơn cần có một phán quyết của Tòa án để buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ đương nhiên của họ. Nhóm nghiên cứu đã khái quát những tranh chấp từ thực tiễn thành 3 dạng chủ yếu là kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo một hợp đồng vay tài sản hoặc nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng hoặc một quan hệ nghĩa vụ nào đó.
- Loại vụ kiện nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng vay tài sản mà bị đơn không phản đối thường xuất hiện dưới các dạng cụ thể sau:
Trong các hợp đồng vay tài sản hoặc tín dụng giữa ngân hàng với các doanh nghiệp, hoặc với cá nhân vay tiêu dùng. Bên cho vay khởi kiện đòi số tiền cho vay đã quá thời hạn trả theo hợp đồng và xuất trình được văn bản hợp đồng có công chứng hợp pháp làm chứng cứ chứng minh. Bên vay tài sản thừa nhận nghĩa vụ của mình, không phản đối yêu cầu đòi nợ nhưng vì một lý do nào đó mà chưa thực hiện được nghĩa vụ này.
Hầu hết các hợp đồng vay của các doanh nghiệp hoặc cá nhân không phải vay tiêu dùng đều có tài sản thế chấp. Tuy nhiên, thủ tục tố tụng hiện hành được pháp luật quy định áp dụng giải quyết và xử lý tài sản thế chấp để thu hồi vốn là khá phức tạp và mất nhiều thời gian gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức tín dụng. Thực tế cũng xuất hiện những trường hợp cá nhân vay tiêu dùng có tài khoản lương làm tín chấp, do đó, thực tế chỉ cần lệnh yêu cầu thanh toán của Tòa án được ban hành làm căn cứ để các tổ chức tín dụng có thể thu hồi nợ từ tài khoản lương của người vay nợ theo định kỳ hoặc theo tháng. Việc áp dụng thủ tục tố tụng thông thường để giải quyết trong những trường hợp này là không phù hợp vì quá rườm rà, phức tạp.
- Loại vụ kiện nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ thanh toán phát sinh từ một hợp đồng nào đó:
Đây là trường hợp, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán phát sinh từ hợp đồng (các hợp đồng không phải là hợp đồng vay tài sản hoặc tín dụng). Bị đơn không phản đối việc kiện nhưng không thực hiện nghĩa vụ. Trong thực tiễn, loại việc kiện yêu cầu thanh toán này có thể phát sinh từ nhiều quan hệ hợp đồng sau đây:
+ Trong quan hệ hợp đồng vận chuyển tài sản, hàng hoá giữa các cá nhân hoặc giữa các công ty với nhau, bên vận chuyển khởi kiện yêu cầu bên thuê vận chuyển phải thanh toán tiền cước vận chuyển theo hợp đồng bằng văn bản giữa các bên. Bên thuê vận chuyển không phản đối về nghĩa vụ của mình nhưng do không thiện chí nên trì hoãn việc thanh toán.
+ Trong quan hệ mua bán tài sản, bên bán tài sản kiện yêu cầu bên mua phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng mua bán tài sản bằng văn bản mà hai bên đã cam kết. Bị đơn thừa nhận nghĩa vụ của mình nhưng xin hoãn việc thực hiện nghĩa vụ vì không có điều kiện thực hiện. Nguyên đơn không đồng ý mà yêu cầu Tòa án buộc bị đơn phải thực hiện ngay nghĩa vụ này.
+ Trong quan hệ mượn tài sản, người mượn tài sản, người giữ tài sản đã làm mất tài sản của người cho mượn, người gửi giữ. Hai bên đã thoả thuận với nhau bằng văn bản về việc xác định thiệt hại và số tiền bồi thường mà người mượn, người giữ tài sản phải thực hiện. Sau đó người có nghĩa vụ lại không thực hiện nghĩa vụ mà mình đã cam kết, do vậy bên bị thiệt hại khởi kiện yêu cầu họ phải thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp này, người có nghĩa vụ cũng không phản đối yêu cầu của nguyên đơn nhưng do chây ỳ nên không chịu thực hiện nghĩa vụ.
- Loại vụ kiện nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ thanh toán phát sinh từ các quan hệ nghĩa vụ khác:
Ngoài các trường hợp trên thì vụ kiện về nghĩa vụ thanh toán có thể phát sinh trong các trường hợp khác như cơ quan bảo hiểm xã hội muốn khởi kiện buộc các tổ chức nợ tiền bảo hiểm xã hội phải thực hiện nghĩa vụ nộp tiền bảo hiểm cho người lao động; hoặc trường hợp người lao động muốn yêu cầu người sử dụng lao động thanh toán lương cho họ; người đang trực tiếp nuôi con yêu cầu người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo thỏa thuận hoặc theo bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án.v.v...
(2) Những vụ kiện có chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, các sự kiện đã được xác định, Tòa án không mất nhiều thời gian để xác minh và không cần thiết phải thu thập thêm chứng cứ:
Nhóm nghiên cứu Chuyên đề 6 đã có kết luận rằng trong thực tiễn xét xử, ngoài những loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, không có tranh tụng như đã đề cập ở trên, cũng xuất hiện những vụ kiện mặc dù không có sự thừa nhận của bị đơn về nghĩa vụ phải thực hiện nhưng có chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, các sự kiện đã được xác định, Tòa án không mất nhiều thời gian để điều tra, xác minh, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn, phức tạp.
Nhóm nghiên cứu nhận xét rằng thực tiễn xét xử xuất hiện những trường hợp nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bên bán phải thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng mua bán nhà, chuyển quyền sử dụng đất,...mà theo văn bản hợp đồng viết tay hai bên đã cam kết về vấn đề này. Trường hợp này nếu bị đơn hoàn toàn không phản đối về các vấn đề khác của hợp đồng, nhưng không có trách nhiệm trong việc cùng với nguyên đơn tuân thủ các quy định về hình thức thì Tòa án có thể nhanh chóng ra quyết định buộc bị đơn phải cùng với nguyên đơn thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng trong một thời hạn nhất định.
Ngoài ra, trong thực tiễn cũng phát sinh những trường hợp nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ trả lại tài sản phát sinh từ một hợp đồng mà hai bên đã cam kết. Bị đơn thừa nhận những vấn đề về sự kiện của vụ án, nhưng lại cho rằng mình không có nghĩa vụ trả lại tài sản... Chẳng hạn, đã hết hạn của hợp đồng thuê nhà ở, thuê địa điểm kinh doanh theo hợp đồng bằng văn bản giữa các bên,... nhưng bên thuê vẫn không trả lại nhà thuê, mặc dù bên cho thuê đã thông báo trước việc lấy lại nhà và cho lưu cư theo quy định của pháp luật. Bên thuê thừa nhận hợp đồng thuê đã hết hạn, bên cho thuê đã thông báo trước việc lấy lại nhà và cho lưu cư nhưng họ không đồng ý trả lại nhà với lý do là không có chỗ ở nào khác hoặc chưa thuê được địa điểm kinh doanh mới. Trong những trường hợp này, nếu như nguyên đơn chỉ yêu cầu đòi lại tài sản, ngoài ra các bên không có tranh chấp về những vấn đề khác (như tăng hoặc giảm giá trị tài sản...), thì Tòa án có thể nhanh chóng ra bản án, buộc bên thuê tài sản phải trả lại tài sản cho bên cho thuê.
Đối với trường hợp chủ nhà kiện đòi nhà từ người thứ ba được người thuê nhà cho thuê lại nhưng không có sự đồng ý bằng văn bản của chủ nhà, thì đây cũng có thể coi là trường hợp không khó khăn, phức tạp trong việc áp dụng pháp luật giải quyết. Người thuê nhà thừa nhận việc cho thuê lại không có sự đồng ý của chủ nhà nhưng họ phản đối việc đòi nhà, cho rằng mình có quyền cho thuê lại vì thời hạn hợp đồng thuê với chủ nhà vẫn còn. Trong trường hợp này theo quy định của BLDS, thì việc cho thuê lại nhà như đã nêu ở trên rõ ràng là không hợp pháp. Do vậy, nếu như các bên không có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết về những vấn đề khác liên quan đến đòi nhà cho thuê (như tiền thuê, bồi thường thiệt hại,...) thì việc giải quyết vụ kiện, buộc người chiếm hữu bất hợp pháp, người thuê nhà phải trả lại nhà cũng không còn là điều khó khăn, phức tạp.
Ngoài những loại vụ kiện mà chúng tôi đã đề cập ở trên, trong thực tiễn xét xử cũng xuất hiện những vụ tranh chấp về quyền nhân thân (quyền của cá nhân đối với hình ảnh, quyền đối với bí mật đời tư,...). Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc người vi phạm phải chấm dứt hành vi vi phạm và công khai xin lỗi. Nội dung của sự việc đã rõ ràng, bị đơn thừa nhận các sự kiện nhưng lại cho rằng hành vi của mình là không vi phạm. Nhóm nghiên cứu cho rằng có thể coi đây là những vụ tranh chấp có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật giải quyết đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục tố tụng đơn giản hơn. Ngoài ra, tại cuộc hội thảo chuyên môn ngày 10/10/2014 của các giảng viên Khoa Pháp luật Dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội cũng có một số giảng viên đã có ý kiến đề xuất trường hợp những người thừa kế cùng làm đơn yêu cầu Tòa án xác nhận họ là người thừa kế của người chết có để lại tài sản tại ngân hàng đồng thời yêu cầu Tòa án buộc ngân hàng phải trả lại tài sản, giấy tờ hoặc cùng thỏa thuận về phân chia di sản và đề nghị Tòa án công nhận thì cũng có thể được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn([76]). Dưới góc độ nghiên cứu thì nếu những trường hợp này đương sự đã xuất trình đủ tài liệu như giấy đăng ký kết hôn, giấy khai sinh, sổ hộ khẩu gia đình để chứng minh mình có quyền thừa kế thì có thể cân nhắc để coi đây là những trường hợp vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, các sự kiện đã được xác định và việc áp dụng pháp luật không khó khăn, phức tạp để giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc theo thủ tục giải quyết việc dân sự.
Tổng hợp kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm nghiên cứu Chuyên đề 6 đã kế thừa một số kết quả của công trình nghiên cứu trước đây([77]) nhưng đã có sự loại bỏ một số loại việc mà hiện nay đã được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự như yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật và một số loại việc mà nếu giải quyết theo thủ tục rút gọn có thể sẽ không bảo đảm an toàn pháp lý cho người bị kiện như yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do ký kết với người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên. Nhóm nghiên cứu này cũng thay đổi tên gọi từ loại việc “tranh chấp có chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, việc áp dụng pháp luật mang tính hiển nhiên” thành những “tranh chấp có chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, các sự kiện đã được xác định, Tòa án không mất nhiều thời gian để xác minh và không cần thiết phải thu thập thêm chứng cứ”. Nhóm nghiên cứu Chuyên đề 6 nhận định đây là “...những trường hợp mọi tình tiết, sự kiện của vụ việc đều đã rõ, các bên có thể có tranh tụng nhưng nội dung vụ án không phức tạp, Tòa án hoàn toàn có thể dễ dàng đưa ra nhận định và phán quyết về vụ án một cách nhanh chóng và đúng pháp luật”([78]).
(3) Những vụ kiện có giá ngạch thấp:
Theo kết quả nghiên cứu thì pháp luật tố tụng của nhiều nước quy định những vụ kiện có giá ngạch thấp ở một mức độ nhất định (tuỳ theo tiêu chí mà quốc gia sử dụng như căn cứ theo mức lương tối thiểu hoặc thu nhập bình quân của sinh viên mới ra trường,...) đều bắt buộc giải quyết theo thủ tục rút gọn. Thực tiễn xét xử các vụ án dân sự ở nước ta cho thấy cũng xuất hiện nhiều vụ tranh chấp có giá ngạch thấp, nhiều trường hợp người khởi kiện đưa vụ việc ra Tòa án vì nhiều lý do khác nhau như do danh dự, uy tín, sự sỹ diện hoặc muốn gây cản trở cho công việc, sinh hoạt đời sống của người bị kiện. Những loại tranh chấp này nếu phải giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường sẽ kéo dài vụ kiện, phải qua xét xử sơ thẩm, phúc thẩm gây tốn kém cho đương sự và cho cả Nhà nước, trong khi đó lợi ích tranh chấp không lớn.
Nhóm nghiên cứu Chuyên đề 6 và công trình nghiên cứu trước đây của tác giả Trần Anh Tuấn đều cùng có chung nhận định về thực trạng thực tiễn xét xử xuất hiện những vụ kiện tuy giá trị nhỏ, dù có phải xử đi xử lại thì kết quả giải quyết cũng không thể thay đổi do không có chứng cứ chứng minh sự việc. Chẳng hạn, những vụ kiện nguyên đơn khởi kiện đòi món nợ nhỏ, nhưng hoàn toàn không có chứng cứ chứng minh (do tin tưởng nhau nên không có hợp đồng vay nợ bằng văn bản, không có người làm chứng, bị đơn phản bác cho rằng không vay nợ,...). Tòa án xét xử sơ thẩm đã xác minh nhưng không có chứng cứ về việc vay nợ, do vậy, đã ra bản án xử bác đơn. Nguyên đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét lại. Chắc chắn rằng trong trường hợp này hội đồng xét xử phúc thẩm cũng không thể xử theo niềm tin nội tâm để buộc bị đơn phải trả nợ khi mà không có chứng cứ chứng minh([79]).
Tại cuộc hội thảo chuyên môn ngày 10/10/2014 của các giảng viên Khoa Pháp luật Dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội cũng đã có ý kiến đề xuất cần cân nhắc thêm đối với trường hợp vụ kiện có giá trị nhỏ nhưng có thể hậu quả lớn với doanh nghiệp do doanh nghiệp sẽ phải thanh toán hay bồi thường cho một loạt khách hàng trong những vụ kiện tương tự([80]). Tiếp thu ý kiến này, nhóm nghiên cứu đã tra cứu và nhận thấy trong vụ kiện ông Phạm Văn Quang (ngụ Phường 11, quận Gò Vấp) kiện Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank-VCB) ra Tòa án Nhân dân Quận 1 (nơi VCB đặt trụ sở) yêu cầu trả lại số tiền rất nhỏ là 5.500 đồng phí ATM. Theo nội dung vụ kiện thì ngày 3/4/2013, ông Quang đến trụ ATM của VCB đặt ở Quang Trung (Gò Vấp) để rút 15 triệu đồng. Mọi lần ông chỉ cần giao dịch ba lần (mỗi lần được rút 5 triệu đồng), tốn phí 3.300 đồng (bao gồm 10% VAT). Tuy nhiên, thời điểm đó trụ ATM ở đây chỉ còn tiền mệnh giá 50.000 đồng nên ông buộc phải rút đến tám lần, mỗi lần 1.750.000 đồng nên mất 8.800 đồng tiền phí. So với mọi lần, ông đã mất thêm 5.500 đồng và vì cho rằng đây là hành vi lừa dối khách hàng để thu lợi thêm nên ông khởi kiện. Tuy nhiên, ngày 23/1/2014, xử sơ thẩm, TAND Quận 1, TP.HCM đã bác yêu cầu của ông Quang đòi trả lại 5.500 đồng phí ATM([81]). Ngoài ra, kết quả khảo sát thực tiễn do nhóm nghiên cứu tiến hành cũng cho thấy có nhiều vụ kiện có giá trị không lớn nhưng Tòa án vẫn phải áp dụng theo thủ tục thông thường giải quyết gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài. Chẳng hạn, trong vụ kiện đòi tiền công lao động, nguyên đơn là anh Phạm Văn Th (thợ xây) kiện đòi bị đơn là anh Bùi Văn N thanh toán số tiền công và vật liệu là 2.700.000 đồng. Toà án Huyện LS tỉnh HB thụ lý ngày 15 tháng 07 năm 2003 và ra bản án số 02/2003/DSST ngày 16 tháng 12 năm 2003 buộc anh Bùi Văn N thanh toán số tiền công và vật liệu là 2.258.000 đồng; vụ kiện giữa nguyên đơn là chị H và bị đơn là anh D về yêu cầu bồi thường thiệt hại 5.487.500 đồng về sức khỏe do anh D là người cùng xóm lao một tấm bắp gỗ từ trên dốc xuống va đập vào cổ chân chị H làm rạn xương cổ chân. Toà án Huyện LS tỉnh HB thụ lý ngày 4 tháng 12 năm 2006 và ra bản án số 02/2007/DSST ngày 30 tháng 03 năm 2007 buộc anh D phải bồi thường cho chị H số tiền là 2.787.000 đồng.v.v...Nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy vụ việc nêu trên có giá trị việc kiện là không lớn nhưng vẫn phải giải quyết theo thủ tục thông thường, thời gian giải quyết kéo dài, qua hai cấp xét xử gây tổn phí thời gian và chi phí tố tụng không cần thiết cho đương sự và Tòa án.
Như vậy, việc nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án cho thấy đã xuất hiện nhiều vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ hoặc việc áp dụng pháp luật để giải quyết là không khó khăn, phức tạp; những vụ kiện có giá ngạch thấp. Theo pháp luật hiện hành, nếu đương sự có kháng cáo đối với bản án sơ thẩm những loại việc trên thì Tòa án có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm với thời hạn tố tụng từ 2 đến 3 tháng kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý vụ án. Dù tính chất của vụ việc là đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tài sản tranh chấp có giá ngạch thấp thì việc xét xử phúc thẩm vẫn được tiến hành với một Hội đồng gồm 3 Thẩm phán và thậm chí vụ việc vẫn có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Thực trạng này đã làm bộc lộ những hạn chế của pháp luật TTDS hiện hành cần phải được khắc phục để đáp ứng tốt hơn yêu cầu về tính hiệu quả, kịp thời và ít tốn kém trong giải quyết tranh chấp.
2.2.3. Thực trạng xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
2.2.3.1. Tiến trình xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 được thông qua
Do sớm nhận thức được sự cần thiết và tầm quan trọng của việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn, đáp ứng đòi hỏi phát triển nền kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới, tại Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khoá VIII Đảng ta đã chỉ rõ: "Hoạt động tư pháp phải nhằm... bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân... bỏ thủ tục xét xử sơ chung thẩm của Toà án nhân dân tối cao và Toà án quân sự Trung ương. Nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng"([82]).
Như vậy, về phương diện chủ trương, chính sách cải cách tư pháp thì việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn để có thể giải quyết nhanh chóng các tranh chấp có tính đặc thù, bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của nhân dân, tiết kiệm cho Nhà nước về nguồn lực con người và chi phí là cấp thiết. Tuy nhiên, trên thực tiễn thì thủ tục TTDS rút gọn này phải được xây dựng cụ thể như thế nào, dựa trên cơ sở lý luận, thực tiễn nào thì lại là vấn đề gây nhiều tranh luận và có nhiều ý kiến khác nhau.
Nghiên cứu tiến trình xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam cho thấy, việc khởi thảo thủ tục này trong Dự thảo BLTTDS đã được bắt đầu từ những năm 1996, 1997. Thủ tục rút gọn đã được xây dựng tại Chương XV Dự thảo V BLTTDS gồm 7 điều luật (Điều 237 - Điều 243). Tuy còn có những điểm còn phải chỉnh sửa nhưng các quy định về thủ tục rút gọn này đã phần nào đáp ứng được những đòi hỏi mà thực tiễn giải quyết tranh chấp đặt ra và phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế về TTDS. Cho tới Dự thảo VIII BLTTDS phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn này đã bị thu hẹp bởi 3 điều luật (Điều 267 - Điều 269) tại Chương XV với tên gọi là “Thủ tục yêu cầu thanh toán nợ”. Có thể thấy rằng thủ tục yêu cầu thanh toán nợ trong Dự thảo VIII về cơ bản là sự mô phỏng các quy định về thủ tục ra lệnh trong BLTTDS Pháp năm 1807. Tuy nhiên, so sánh với các quy định trong BLTTDS Pháp thì phạm vi áp dụng thủ tục yêu cầu thanh toán nợ theo Dự thảo VIII BLTTDS Việt Nam đã bị thu hẹp. Bởi vì, theo Dự thảo VIII BLTTDS thủ tục này chỉ áp dụng trong các quan hệ hợp đồng vay tài sản mà không áp dụng cho việc thanh toán các nghĩa vụ tài sản khác như BLTTDS Pháp([83]).
Việc nghiên cứu cũng cho thấy cho tới Dự thảo X và XI thì thủ tục rút gọn đã hoàn toàn không còn tồn tại nữa. Trong khi đó, theo kết quả nghiên cứu so sánh mà nhóm nghiên cứu thực hiện thì pháp luật của nhiều nước trên thế giới bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường đều có xây dựng một thủ tục tố tụng rút gọn áp dụng đối với những tranh chấp đơn giản, rõ ràng hoặc giá ngạch thấp. Ngoài Cộng hoà Pháp, Đức là hai nước có thể coi là hình mẫu tiêu biểu của các nước theo hệ thống Châu Âu lục địa thì Australia và một số nước Châu á có điều kiện gần gũi và tương đồng với Việt Nam như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc, Singapo... đều có những quy định về thủ tục rút gọn này. Sau khi BLTTDS ra đời, nhiều ý kiến cho rằng thủ tục giải quyết việc dân sự được quy định từ Điều 311 đến Điều 341 BLTTDS năm 2004 chính là thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, việc nghiên cứu pháp luật TTDS của nhiều nước trên thế giới cho thấy rằng đây chỉ là các thủ tục tố tụng đặc biệt chứ không phải là thủ tục rút gọn theo đúng nghĩa của nó.
2.2.3.2. Tiến trình xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 được thông qua
Nghị quyết số 49 - NQ/TW của Bộ chính trị ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã củng cố cho nhận định trên và chỉ rõ cần phải tiếp tục: “…Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”. Thực hiện Nghị quyết nói trên, Ban soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS cũng đã xây dựng các quy định về thủ tục này.
Khi tổng hợp ý kiến các bộ, ngành về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS thì đa số các bộ, ngành đều nhất trí bổ sung thủ tục đơn giản trong TTDS với định hướng là cần xem xét, cân nhắc các tiêu chí, điều kiện, trình tự, thủ tục áp dụng thủ tục đơn giản([84]). Khoản 69 Điều 1 Dự thảo 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (2010) đã thiết lập Chương XV về thủ tục rút gọn Điều 281 b. Dự thảo này về cơ bản xác định hai loại việc có thể áp dụng thủ tục rút gọn, bao gồm loại việc có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối nghĩa vụ và loại việc mà đương sự thoả thuận lựa chọn thủ tục rút gọn để giải quyết.
- Các loại việc có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối nghĩa vụ :
Theo Điều 281b, Khoản 1, Dự thảo 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (2010), các loại việc này bao gồm:
+ Tranh chấp về hôn nhân và gia đình mà hai bên đương sự không tranh chấp với nhau về tài sản;
+ Tranh chấp về thời gian và số tiền cấp dưỡng;
+ Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;
+ Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng mượn tài sản, hợp đồng trao đổi tài sản mà các bên không tranh chấp về quyền sở hữu tài sản cho vay, cho thuê, cho mượn và không tranh chấp về quyền sở hữu tài sản đã trao đổi;
+ Tranh chấp hợp đồng vận chuyển hành khách;
+ Tranh chấp về bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng;
+ Các tranh chấp khác mà có sự thật rõ ràng, tình tiết đơn giản, nội dung tranh chấp rõ ràng, giá trị tranh chấp không quá mười triệu đồng.
- Những loại việc mà đương sự thoả thuận lựa chọn thủ tục rút gọn để giải quyết:
Theo Điều 281b, Khoản 2, Dự thảo 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (2010) “Các vụ kiện khác không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này có thể được giải quyết theo thủ tục đơn giản nếu các đương sự trong cùng vụ án có yêu cầu”([85]).
Trước đây, trong quá trình xây dựng BLTTDS năm 2004, các quy định ngoại lệ đối với nguyên tắc hai cấp xét xử theo hướng “Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử trừ những vụ việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn” đã được đưa ra thảo luận. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (Dự thảo 3)([86]) cũng theo xu hướng này. Tuy nhiên, do còn có nhiều ý kiến khác nhau nên một lần nữa các quy định về thủ tục rút gọn trong Dự thảo 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (2010) đã không được giữ lại trong BLTTDS sửa đổi 2011. Đây chính là lý do giải thích vì sao các quy định về thủ tục TTDS rút gọn lại không hiện hữu trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011.
2.2.3.3. Việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự được thông qua
Nhận thức được nhu cầu cấp thiết trong việc giải quyết các tranh chấp tiêu dùng bằng thủ tục TTDS rút gọn, Luật Bảo vệ người tiêu dùng số 59/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 17/11/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011 là văn bản luật đầu tiên chính thức ghi nhận việc giải quyết tranh chấp dân sự về bảo vệ người tiêu dùng (một trong những loại tranh chấp dân sự) bằng thủ tục TTDS rút gọn. Theo đó, khoản 2 Điều 41 Luật Bảo vệ người tiêu dùng ghi nhận:
“…Vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết theo thủ tục đơn giản quy định trong pháp luật về TTDS khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện;
b) Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
c) Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng”.
Có thể nhận thấy các quy định nêu trên của Luật Bảo vệ người tiêu dùng là quy định của pháp luật về nội dung và tranh chấp về tiêu dùng là một trong những tranh chấp thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án. Tuy nhiên, pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành vẫn chưa có các quy định về thủ tục TTDS rút gọn để áp dụng giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung và một số loại tranh chấp về tiêu dùng có nội dung đơn giản, rõ ràng, giá trị dưới 100 triệu.
Để cụ thể hóa chủ trương về việc xây dựng thủ tục rút gọn của Bộ Chính trị như nêu trên, Nghị quyết số 428/NQ-UBTVQH13 ngày 29/12/2011 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII đã đưa Pháp lệnh Thủ tục rút gọn trong TTDS vào chương trình chuẩn bị và giao cho TANDTC là cơ quan trình dự thảo. Đây là căn cứ pháp lý cho việc xây dựng một mô hình tố tụng rút gọn trong TTDS ở Việt Nam([87]). Căn cứ vào Nghị quyết số 70/2014/QH13 ngày 30/5/2014 của Quốc hội về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2014 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định số 89/QĐ-TANDTC ngày 16/7/2014 tổng kết thi hành BLTTDS làm cơ sở cho việc sửa đổi tổng thể BLTTDS trong thời gian tới. Việc tiếp tục nghiên cứu để xây dựng thủ tục TTDS rút gọn là một trong những nội dung trọng tâm của kế hoạch sửa đổi BLTTDS lần này.
Như vậy, kết quả nghiên cứu về thực trạng TTDS và xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam đã cho thấy mặc dù chưa có một quy định chính thức về “thủ tục TTDS rút gọn” nhưng những quy định về giản lược thành phần xét xử và giản lược về thủ tục TTDS và cơ chế kháng án đã từng tồn tại trong lịch sử pháp luật TTDS Việt Nam. Các quy định này đã được áp dụng và kiểm nghiệm trên thực tế trong một thời gian dài. Tuy nhiên, do những thay đổi quan niệm lập pháp trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 về cơ chế xét xử một Thẩm phán và trong BLTTDS năm 2004 về nguyên tắc hai cấp xét xử nên các cơ chế giản lược này không còn được áp dụng nữa.
Kết quả nghiên cứu và khảo sát thực tiễn giải quyết án kiện dân sự, kinh tế, lao động tại các Tòa án cũng đã cho thấy yêu cầu khách quan và cơ sở thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn ở Việt Nam. Việc nghiên cứu và tổng kết những thành tựu và khó khăn, vướng mắc trong việc xây dựng thủ tục rút gọn từ gần 20 năm nay ở Việt Nam, đã giúp cho việc xác định trọng tâm và đường hướng cơ bản của việc xây dựng thủ tục này được rõ nét hơn, nhất là trong bối cảnh sửa đổi các quy định có liên quan tới các nguyên tắc của TTDS trong Hiến pháp năm 2013 và việc ghi nhận cơ chế giải quyết tranh chấp bằng thủ tục rút gọn theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.
2.3. Quan điểm và đề xuất mô hình về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
2.3.1. Quan điểm về xây dựng mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
Tổng hợp các kết quả nghiên cứu lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật tại các Tòa án cho thấy trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cải cách tư pháp dân sự hiện nay việc xây dựng cơ chế giải quyết các tranh chấp dân sự đơn giản, nhanh chóng và hiệu quả hơn là một đòi hỏi khách quan, xuất phát từ chính thực tiễn của hoạt động tư pháp dân sự. Tuy nhiên, việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn này ở Việt Nam thì cần phải được tiến hành trên một nền tảng căn bản, đó là sự kết hợp giữa đường lối của Đảng về cải cách tư pháp dân sự, học lý về TTDS, thực tiễn tố tụng tại Tòa án và thành tựu lập pháp trên thế giới.
Kết quả nghiên cứu đường lối cải cách tư pháp dân sự ở Việt Nam cho thấy Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã chỉ ra định hướng cơ bản của việc cải cách tư pháp nước ta. Cụ thể là cần phải “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại toà làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp…” ([88]). Tiếp theo đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội… kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh của nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế…”([89]). Nghị quyết này cũng chỉ ra những nhiệm vụ trọng tâm trong việc hoàn thiện thủ tục tố tụng tư pháp. Đó là, cần phải “Hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người…Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”; “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục TTDS… Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Tòa án, Tòa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn. Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”([90]).
Có thể nhận thấy định hướng về cải cách tư pháp dân sự ở Việt Nam đã vạch ra những đường hướng cơ bản và yêu cầu đối với việc cải cách và hoàn thiện thủ tục TTDS cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Nhiệm vụ của nhà lập pháp và người nghiên cứu về TTDS là trên cơ sở các định hướng này xác định được những yêu cầu đặt ra và từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể đối với việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn cho phù hợp. Tổng hợp kết quả nghiên cứu cho thấy việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam trong bối cảnh cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau đây :
1° Thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng phải trên cơ sở kế thừa thành tựu lập pháp của dân tộc, tiếp thu thành tựu khoa học tố tụng trên thế giới phù hợp với truyền thống lập pháp, đặc điểm văn hoá, tâm lý dân tộc:
Có thể nhận thấy rằng định hướng cải cách tư pháp ở Việt Nam có nguồn gốc sâu xa từ những yêu cầu phát triển đất nước do công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra. Do vậy, việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn theo đường hướng về cải cách tư pháp dân sự, cần phải được tiến hành trên cơ sở nghiên cứu và đánh giá hết sức thận trọng về những ưu điểm, nhược điểm của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành trong mối liên hệ với truyền thống lập pháp, đặc điểm văn hoá, tâm lý dân tộc và thành tựu khoa học tố tụng trên thế giới. Trên cơ sở sự nghiên cứu, đánh giá này có thể kế thừa những quy định hợp lý đã từng tồn tại trong lịch sử lập pháp Việt Nam ; tham khảo và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài về thủ tục rút gọn trong TTDS, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và thực tiễn tư pháp của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế.
2° Thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng trên cơ sở đơn giản hoá thủ tục thông thường, đáp ứng yêu cầu về đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo và hiệu quả của thủ tục TTDS đồng thời phải bảo đảm hợp lý quyền tranh tụng, quyền bảo vệ của đương sự
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 đã chỉ rõ những định hướng cơ bản về cải cách thủ tục tố tụng tư pháp trong đó có thủ tục TTDS. Đó cũng chính là những yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Hai yêu cầu cốt lõi cần phải lĩnh hội là việc cải cách thủ tục TTDS phải bảo đảm “thuận tiện” cho dân; bảo đảm quyền tranh tụng của các đương sự trong TTDS. Theo tinh thần này đối với những loại việc đơn giản, rõ ràng, giá trị tranh chấp nhỏ thì cần phải rà soát các quy định hiện hành về thủ tục TTDS nhằm phát hiện những quy định về thủ tục còn rườm rà, không cần thiết có thể giản lược và các quy định về thủ tục thông thường cần được giữ lại khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn để bảo đảm quyền tranh tụng, quyền bảo vệ của đương sự. Cũng trên tinh thần này để thực hiện yêu cầu về “tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Tòa án, Tòa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn”, “Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định” theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị thì đòi hỏi các quy định về thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng phải được tiến hành theo hướng đơn giản hoá thủ tục, đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo của thủ tục TTDS và hiệu quả khi áp dụng trong thực tế.
3° Thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng phải đáp ứng yêu cầu về an toàn pháp lý cho các đương sự
Thực hiện yêu cầu về “Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định” theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp cũng đặt ra cho nhà lập pháp Việt Nam và người nghiên cứu về tố tụng một nhiệm vụ cụ thể là phải xác định hợp lý phạm vi những loại việc có thể giải quyết theo thủ tục này; xác định hợp lý vai trò và trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán, giải quyết được mối tương quan hợp lý giữa các phương thức kháng án và tính phức tạp hay đơn giản của vụ kiện, mối tương quan giữa việc bảo đảm các quyền tố tụng và tính hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp. Để tạo điều kiện cho người dân tiếp cận công lý, đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo của thủ tục TTDS và an toàn pháp lý cho đương sự thì nhà lập pháp cũng cần cân nhắc để thiết lập hợp lý cơ chế chuyển hoá giữa các loại hình thủ tục tố tụng cho phù hợp.
Trên thực tế thì Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp mới chỉ vạch ra định hướng căn bản là cần nghiên cứu “Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”. Còn xây dựng cơ chế xét xử này như thế nào cho phù hợp với thành tựu lập pháp của thế giới và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và học lý về TTDS thì lại là nhiệm vụ của nhà lập pháp và người nghiên cứu về TTDS. Xét về thực chất, việc nghiên cứu nhằm hướng tới xác định thủ tục TTDS rút gọn đối với một số loại việc thỏa mãn điều kiện nhất định và thuật ngữ “cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn” có thể được hiểu là một cơ chế mở với những thủ tục đơn giản và cơ chế kháng án tương ứng chứ không nhất thiết phải là một thủ tục với một cơ chế kháng án duy nhất.
4° Thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng phải đáp ứng yêu cầu về tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết tranh chấp
Để có thể đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp dân sự theo hướng “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải, trọng tài” theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đòi hỏi nhà lập pháp phải cân nhắc để đảm bảo sự hài hoà giữa việc khuyến khích hoà giải và quyền tiếp cận công lý để việc khuyến khích hoà giải, thương lượng không xâm phạm hay gây cản trở quyền tiếp cận công lý của công dân. Ngoài ra, các quy định thiếu mềm dẻo, linh hoạt về thủ tục hoà giải tại Tòa án cũng cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tinh thần “Tòa án hỗ trợ” trong việc công nhận kết quả hoà giải của các bên đương sự. Định hướng này là một góc nhìn quan trọng để thiết lập các quy định về hoà giải trong một số vụ việc có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn.
5° Thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng trên cơ sở của Hiến pháp, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và TTDS
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đã chỉ ra cần phải “Hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người…”. Thực hiện định hướng này đòi hỏi việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn phải trên cơ sở nền tảng của Hiến pháp, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và TTDS.
Theo kết quả nghiên cứu lý luận đã thực hiện thì Hiến pháp là đạo luật gốc của cả hệ thống pháp luật. Do vậy, những sửa đổi, bổ sung của Hiến pháp năm 2013 có liên quan tới một số nguyên tắc của TTDS như nguyên tắc việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham gia; nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số; nguyên tắc tranh tụng; nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm... cũng cần được cân nhắc khi tiến hành giản lược về thành phần và thủ tục tiến hành tố tụng đối với thủ tục TTDS rút gọn.
Kết quả nghiên cứu lý luận do nhóm nghiên cứu tiến hành cũng đã chỉ ra định hướng căn bản là việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn áp dụng giải quyết những tranh chấp đơn giản, rõ ràng hoặc một bên đương sự thừa nhận nghĩa vụ được tiến hành trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự như nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận; bình đẳng; thiện chí, trung thực; chịu trách nhiệm dân sự; hoà giải; tôn trọng, bảo vệ quyền quyền dân sự. Ngoài ra, nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp và nguyên tắc hòa giải trong quan hệ dân sự là tư tưởng chỉ đạo để vận dụng xây dựng các quy định về thủ tục đối với các tranh chấp về tài sản có giá trị nhỏ.
Dựa trên kết quả nghiên cứu lý luận thì thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục được đơn giản hóa hơn so với thủ tục tố tụng thông thường. Do vậy, một số các nguyên tắc cơ bản của TTDS về bảo đảm quyền tố tụng của đương sự; về nghĩa vụ chứng minh của đương sự, về trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; các nguyên tắc liên quan đến tính độc lập, khách quan và giám sát hoạt động tố tụng của Tòa án cũng cần phải được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng. Tuy nhiên, một số nguyên tắc của TTDS có thể sẽ không được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn hoặc việc áp dụng có thể chỉ được thực hiện ở một mức độ nhất định do yêu cầu giản lược về thành phần và thủ tục tố tụng đối với một số loại tranh chấp có tính đặc thù như nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự, Toà án xét xử tập thể; nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án, thực hiện chế độ hai cấp xét xử, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS.
Như vậy, việc xây dựng thủ tục TTDS rút trong bối cảnh cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có sự nghiên cứu và đánh giá hết sức thận trọng về những ưu điểm, nhược điểm của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành trong mối liên hệ với truyền thống lập pháp, đặc điểm văn hoá, tâm lý dân tộc và thành tựu khoa học tố tụng trên thế giới; bảo đảm thuận tiện cho dân; bảo đảm quyền tranh tụng, bảo vệ của các đương sự. Việc đơn giản hoá các thủ tục nhằm đáp ứng đòi hỏi về tính mềm dẻo, linh hoạt của thủ tục TTDS, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý phải tính đến những điều kiện kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo tính thích ứng và sự phù hợp của pháp luật TTDS với đời sống. Ngoài ra, việc xây dựng thủ tục này cũng phải đề cao được vai trò độc lập của Thẩm phán trong việc giải quyết tranh chấp, bảo đảm an toàn pháp lý cho đương sự, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật([91]).
2.3.2. Đề xuất về xây dựng mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
2.3.2.1. Đề xuất về thẩm quyền và nguyên tắc áp dụng pháp luật trong thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
- Về thẩm quyền giải quyết các loại việc theo thủ tục TTDS rút gọn
Như đã phân tích ở trên, các loại việc được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn là những vụ kiện đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ và vụ kiện có giá ngạch thấp. Tham khảo pháp luật của nhiều nước trên thế giới cho thấy để tạo điều kiện thuận tiện cho người dân tham gia tố tụng thì những loại việc này thường được giao cho các Tòa án cấp thấp nhất trong hệ thống tổ chức của Tòa án. Chẳng hạn, theo pháp luật Australia thì việc giải quyết các vụ kiện theo thủ tục TTDS rút gọn thuộc thẩm quyền của Tòa án địa phận được thành lập trên một hoặc một vài khu phố, ở Nhật Bản thì thủ tục đối với các vụ kiện nhỏ hoặc ra lệnh thanh toán thuộc thẩm quyền của Tòa án giản lược, ở Liên bang Nga thì thẩm quyền này được giao cho Thẩm phán hòa giải([92]). Ở Đức, Tòa án cơ sở có thẩm quyền sơ chung thẩm đối với những án kiện có giá trị dưới 6.000 euros([93]) và có thẩm quyền ra lệnh thanh toán nợ đối với yêu cầu thanh toán các khoản nợ đã rõ ràng([94]). Theo pháp luật Pháp thì thủ tục sơ chung thẩm đối với những án kiện có giá trị dưới 4.000 euros và thủ tục ra lệnh thanh toán nợ tuỳ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp, Toà thương mại hoặc Tòa án cơ sở. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu so sánh và thực hiện tinh thần cải cách thủ tục tư pháp dân sự “thuận tiện” cho dân thì cần phải sửa đổi các quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo hướng các loại việc được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn sẽ thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án cấp thấp nhất trong hệ thống Tòa án của Việt Nam (hiện nay là Tòa án cấp huyện). Đề xuất này phù hợp với xu hướng mở rộng thẩm quyền cho Tòa án cấp huyện, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc theo kiện, tránh những tổn phí về đi lại do việc theo kiện sơ thẩm tại Tòa án cấp tỉnh và phúc thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao.
- Về nguyên tắc áp dụng pháp luật trong thủ tục TTDS rút gọn:
Theo kết quả nghiên cứu lý luận thì thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng trên cơ sở giản lược thủ tục tố tụng thông thường, do vậy thủ tục rút gọn được xây dựng vẫn phải tuân thủ các nguyên tắc về bảo đảm quyền tố tụng của đương sự như quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (Điều 4 BLTTDS), quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5 BLTTDS), bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự (Điều 9 BLTTDS), bảo đảm quyền tranh luận trong TTDS (Điều 23 a BLTTDS), bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTDS (Điều 24 BLTTDS); các nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh của đương sự (Điều 6 BLTTDS), về trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (Điều 7 BLTTDS). Ngoài ra, các nguyên tắc liên quan đến tính độc lập, khách quan và giám sát hoạt động tố tụng của Tòa án cũng phải được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng như nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 12 BLTTDS), Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia TTDS (Điều 16 BLTTDS), Bảo đảm pháp chế trong TTDS (Điều 3 BLTTDS), Giám đốc việc xét xử (Điều 18 BLTTDS).v.v...Tuy nhiên, việc nghiên cứu cũng cho thấy rằng cơ chế xét xử một Thẩm phán và sự giản lược về thủ tục tố tụng là hai đặc điểm cơ bản của thủ tục TTDS rút gọn. Do vậy, một số nguyên tắc của TTDS có thể sẽ không được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn (như nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, nguyên tắc xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia) hoặc việc áp dụng có thể chỉ được thực hiện ở một mức độ nhất định (như nguyên tắc về sự tham gia TTDS của Viện kiểm sát, nguyên tắc về hòa giải) nhằm đáp ứng yêu cầu giản lược về thành phần và thủ tục tố tụng đối với một số loại tranh chấp có tính đặc thù. Ngoài ra, do thủ tục TTDS rút gọn là sự giản lược của thủ tục tố tụng thông thường nên về căn bản những quy định chung của thủ tục TTDS thông thường vẫn được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn như quy định về thay đổi người tiến hành tố tụng; về người đại diện, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, về thời hiệu; thủ tục cấp, tống đạt thông báo các văn bản tố tụng; áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời…trừ các quy định đặc thù được thiết lập riêng cho thủ tục TTDS rút gọn.
Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đề xuất theo hướng các quy định về thủ tục TTDS rút gọn cần được quy định thành một phần riêng trong BLTTDS và khi giải quyết các vụ việc theo thủ tục TTDS rút gọn thì về nguyên tắc phải ưu tiên áp dụng các quy định trong phần riêng trước. Bên cạnh đó, những quy định chung của BLTTDS cho mọi loại hình thủ tục như quy định về nguyên tắc cơ bản trong TTDS, về thay đổi người tiến hành tố tụng; về người đại diện, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, về thời hiệu; thủ tục cấp, tống đạt thông báo các văn bản tố tụng, thủ tục áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời... vẫn được áp dụng cho các vụ việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Đối với những vấn đề mà phần quy định về thủ tục TTDS rút gọn không quy định thì Toà án sẽ áp dụng các quy định khác của BLTTDS để giải quyết.
2.3.2.2. Đề xuất về mô hình loại việc được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Như đã đề cập ở trên, sự giản lược về thủ tục tố tụng là một trong những đặc điểm cơ bản của thủ tục TTDS rút gọn. Do vậy, để sự giản lược về thủ tục tố tụng này không làm tổn hại đến an toàn pháp lý và quyền lợi chính đáng của đương sự thì sự cẩn trọng trong việc xác định hợp lý phạm vi những loại việc có thể giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn là rất cần thiết. Tổng hợp kết quả nghiên cứu lý luận cũng như kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này có thể kết luận những loại việc được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn phải là những loại việc đáp ứng tiêu chí về sự đơn giản, rõ ràng về sự việc và áp dụng pháp luật. Ngoài ra, xét dưới góc độ kinh tế và hiệu quả của hoạt động tố tụng thì loại việc được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn có thể còn bao gồm cả những tranh chấp có giá trị không lớn. Từ kết quả nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới, nhóm nghiên cứu đã rút ra bài học về phân hóa loại việc để thiết lập các thủ tục tố tụng tương ứng.
- Loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ của mình:
Về lý luận, nhóm nghiên cứu cho rằng đối với những vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn đã thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ của mình thì Tòa án có thể nhanh chóng ra một phán quyết buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của mình mà không cần phải xét xử. Xét về bản chất thì đây là loại việc kiện không có tranh tụng cả về chứng cứ và về quyền, nghĩa vụ giữa các bên đương sự do nguyên đơn đã xuất trình được chứng cứ bằng văn bản chứng minh yêu cầu của mình; các tình tiết của vụ kiện đã được xác định rõ ràng thông qua chứng cứ bằng văn bản, đồng thời được củng cố thêm bởi thừa nhận hoặc không phản đối của bị đơn về nghĩa vụ của họ.
Kết quả nghiên cứu tại Tiểu mục “2.2.3. Thực trạng xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam” cho thấy theo Điều 237 Dự thảo V BLTTDS (1998) thì thủ tục rút gọn được áp dụng đối với những trường hợp tranh chấp về quan hệ nghĩa vụ đã rõ ràng, bị đơn không phản đối đối với yêu cầu của nguyên đơn; Sự việc giản đơn, nguyên đơn, bị đơn cùng đề nghị đồng ý giải quyết theo thủ tục rút gọn; Tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu; vụ kiện có giá trị thấp. Nhóm nghiên cứu cho rằng việc coi yêu cầu “Tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu” là một loại việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn là không bảo đảm an toàn pháp lý cho các đương sự do phải giải quyết hậu quả pháp lý từ việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Nếu đi theo hướng chỉ coi loại việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại việc kiện về quan hệ nghĩa vụ đã rõ ràng, bị đơn không phản đối yêu cầu của nguyên đơn; Sự việc giản đơn, nguyên đơn, bị đơn cùng đề nghị đồng ý giải quyết theo thủ tục rút gọn; Tranh chấp về tài sản không lớn thì đã hạn chế phạm vi áp dụng thủ tục này đối với những loại việc đơn giản, có chứng cứ rõ ràng và việc áp dụng pháp luật để giải quyết là không khó khăn, phức tạp. Ngoài ra, cách xác định phạm vi loại việc theo thủ tục TTDS rút gọn theo hướng chỉ áp dụng với các việc yêu cầu thanh toán trong các quan hệ hợp đồng vay tài sản mà không áp dụng cho việc thanh toán các nghĩa vụ tài sản khác như Dự thảo VIII BLTTDS là quá hạn hẹp so với pháp luật TTDS của các nước có quy định về thủ tục ra lệnh như Pháp, Đức, Nga([95]).
Cũng theo kết quả nghiên cứu tại Tiểu mục “2.2.3. Thực trạng xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam” thì Khoản 69 Điều 1 Dự thảo 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (2010) xác định loại việc có thể áp dụng thủ tục rút gọn, bao gồm loại việc đơn giản, giá trị tranh chấp không lớn và loại việc mà đương sự thoả thuận lựa chọn thủ tục rút gọn để giải quyết. Điều 41 Luật Bảo vệ người tiêu dùng ngày 17/11/2010 lại đi theo hướng quy định áp dụng thủ tục rút gọn đối với những vụ kiện có đủ các điều kiện như việc khởi kiện phải do cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện đối với tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa, dịch vụ; Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng; Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng.
Nhóm nghiên cứu cho rằng quy định về thủ tục TTDS rút gọn trong Dự thảo BLTTDS trước đây, Dự thảo 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS và Điều 41 Luật Bảo vệ người tiêu dùng ngày 17/11/2010 nói trên không có sự phân hóa rõ ràng hai loại việc cơ bản được giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại việc có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ; loại việc có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật là đơn giản và loại việc có giá trị nhỏ. Cách xác định phạm vi áp dụng theo hướng liệt kê và không phân hoá loại việc như trên sẽ dẫn tới khó khăn trong việc xác định các thủ tục tố tụng tương ứng có thể áp dụng. Theo nghiên cứu của chúng tôi, sẽ hợp lý hơn nếu phân hoá các loại việc có thể áp dụng thủ tục rút gọn thành 2 nhóm là những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phủ nhận nghĩa vụ của mình; loại việc có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật là đơn giản và những vụ kiện có giá trị nhỏ, với điều khoản về việc tôn trọng quyền thoả thuận lựa chọn thủ tục rút gọn của các bên đương sự.
Theo kết quả điều tra khảo sát do nhóm nghiên cứu thực hiện thì có tới 93% người được hỏi là cán bộ làm công tác xét xử đều cho rằng vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ được giải quyết theo thủ tục rút gọn và 78% người được hỏi là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng có cùng chung quan điểm này([96]). Theo kết quả nghiên cứu thực tiễn được tổng kết tại Tiểu mục “2.2.2. Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn” thì thực tiễn xét xử tại các Tòa án đã xuất hiện nhiều trường hợp vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ của mình. Xét về bản chất của nghĩa vụ phải thực hiện thì có 2 loại căn bản là nghĩa vụ thanh toán và nghĩa vụ thực hiện một công việc nào đó. Nghĩa vụ thanh toán có thể phát sinh từ việc kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo một hợp đồng vay tài sản hoặc nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng hoặc theo một quan hệ nghĩa vụ nào đó.
Như vậy, xét về bản chất thì các vụ kiện phát sinh ở trên là loại việc không có tranh tụng cả về chứng cứ, tài liệu và áp dụng pháp luật. Nhóm nghiên cứu đã kế thừa một số kết quả nghiên cứu trước đây trong công trình nghiên cứu của tác giả Trần Anh Tuấn nhưng đã có sự phát triển rộng hơn về phạm vi loại việc có thể áp dụng thủ tục rút gọn như việc kiện về vay nợ có tài khoản lương làm tín chấp, kiện về nghĩa vụ nộp tiền bảo hiểm xã hội cho người lao động; kiện yêu cầu thanh toán tiền lương; kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo thỏa thuận. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng đã loại bỏ ra khỏi phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn đối với việc kiện yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trả nợ do tính phức tạp của vụ kiện có nhiều quan hệ tranh chấp (quan hệ hợp đồng vay tài sản, quan hệ bảo lãnh), không bảo đảm an toàn pháp lý cho người bị kiện khi áp dụng thủ tục rút gọn([97]).
Từ những kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn trên nhóm nghiên cứu kiến nghị theo hướng nếu nhà lập pháp Việt Nam không đi theo giải pháp liệt kê loại việc như vẫn thường làm thì có thể tính tới phương án thiết lập một quy định chung theo hướng xác định loại việc được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ. Còn việc xác định những vụ việc cụ thể nào thỏa mãn các điều kiện trên sẽ do các Thẩm phán quyết định khi áp dụng trong thực tiễn. Nếu nhà lập pháp Việt Nam chọn giải pháp liệt kê loại việc thì cần xác định loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ có thể giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn, bao gồm:
- Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng vay tài sản bằng văn bản mà bị đơn không phản đối yêu cầu của nguyên đơn.
- Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền phát sinh từ hợp đồng bằng văn bản, bị đơn không phản đối nghĩa vụ của mình nhưng không thực hiện nghĩa vụ.
- Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện việc thanh toán phát sinh từ các quan hệ nghĩa vụ khác, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ của mình nhưng không thực hiện nghĩa vụ như cơ quan bảo hiểm xã hội khởi kiện buộc các tổ chức nợ tiền bảo hiểm xã hội phải thực hiện nghĩa vụ nộp tiền bảo hiểm cho người lao động; kiện đòi thanh toán lương tiền lương, tiền công; kiện yêu cầu người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.v.v...
- Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo hợp đồng mua hàng đã ký, bị đơn không phản đối yêu cầu của nguyên đơn nhưng không thực hiện nghĩa vụ.
- Các loại vụ kiện khác về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ.
Hướng nghiên cứu và đề xuất loại việc cuối cùng này là nhằm trao quyền chủ động, linh hoạt cho Thẩm phán trong việc lựa chọn và quyết định áp dụng loại hình thủ tục giải quyết tranh chấp phù hợp với loại việc phát sinh trong thực tiễn miễn là không trái với lý luận về tính đơn giản, rõ ràng của loại việc có thể giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn.
- Loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết là đơn giản
Theo kết quả nghiên cứu thực tiễn được tổng kết tại Tiểu mục “2.2.2. Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn” thì trong thực tiễn xét xử, ngoài những loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, không có tranh tụng cả về sự việc và pháp luật như đã đề cập ở trên, cũng xuất hiện những vụ kiện mặc dù không có sự thừa nhận hoặc không phản đối của bị đơn về nghĩa vụ phải thực hiện nhưng có chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, các sự kiện đã được xác định, việc áp dụng pháp luật để giải quyết là không khó khăn, phức tạp. Chẳng hạn, như trường hợp nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bên bán phải thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng mua bán nhà, chuyển quyền sử dụng đất...mà theo văn bản hợp đồng hai bên đã cam kết về vấn đề này; bị đơn hoàn toàn không phản đối về các vấn đề khác của hợp đồng, nhưng không thực hiện nghĩa vụ; Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ trả lại tài sản cho thuê, cho mượn theo hợp đồng mà hai bên đã cam kết, bị đơn thừa nhận những vấn đề về sự kiện của vụ án, nhưng lại nại ra các lý do không chính đáng để không trả lại tài sản theo cam kết; Nguyên đơn kiện yêu cầu Tòa án buộc người vi phạm quyền nhân thân phải chấm dứt hành vi vi phạm và công khai xin lỗi mặc dù nội dung của sự việc đã rõ ràng, bị đơn thừa nhận các sự kiện nhưng lại cho rằng hành vi của mình là không vi phạm. .v.v...([98]). Đối với đề xuất của một số giảng viên Khoa Pháp luật Dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội (10/10/2014) về việc giải quyết theo thủ tục rút gọn đối với trường hợp những người thừa kế cùng làm đơn yêu cầu Tòa án xác nhận họ là người thừa kế của người chết có để lại tài sản tại ngân hàng đồng thời yêu cầu Tòa án buộc ngân hàng phải trả lại tài sản, giấy tờ hoặc cùng thỏa thuận về phân chia di sản và đề nghị Tòa án công nhận([99]), nhóm nghiên cứu cho rằng dựa trên kết quả nghiên cứu lý luận về hai loại hình thủ tục là thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục TTDS rút gọn thì những trường hợp đương sự đã xuất trình đủ tài liệu như giấy đăng ký kết hôn, giấy khai sinh, sổ hộ khẩu gia đình để chứng minh mình có quyền thừa kế và yêu cầu Tòa án xác nhận họ là người thừa kế của người chết có để lại tài sản tại ngân hàng đồng thời yêu cầu Tòa án buộc ngân hàng phải trả lại tài sản, giấy tờ thì có thể coi đây là những trường hợp vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, các sự kiện đã được xác định và việc áp dụng pháp luật không khó khăn, phức tạp có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn. Còn đối với trường hợp các đương sự cùng thỏa thuận về phân chia di sản và đề nghị Tòa án công nhận thì xét về bản chất đây là loại việc dân sự không có tranh chấp cần được nghiên cứu để bổ sung vào những loại việc được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự.
Tổng hợp các kết quả nghiên cứu lý luận, thực tiễn đồng thời kế thừa và phát triển các công trình nghiên cứu trước đây, nhóm nghiên cứu đã loại bỏ một số loại việc trước đây đã từng được đề nghị giải quyết theo thủ tục rút gọn nhưng hiện nay đã được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự như yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật đồng thời loại bỏ một số loại việc mà nếu giải quyết theo thủ tục rút gọn có thể sẽ không bảo đảm an toàn pháp lý cho người bị kiện như yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do ký kết với người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên. Nhóm nghiên cứu đề tài cho rằng cần phải thận trọng trong lựa chọn loại việc để bảo đảm an toàn cho các đương sự, nếu sự kiện đã được xác định rõ ràng nhưng áp dụng pháp luật có nhiều khó khăn phức tạp thì cũng không nên coi là loại việc có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn([100]). Do vậy, cần phải chọn lọc theo hướng ngoài loại việc có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ của mình thì loại việc thứ hai có thể được giải quyết theo thủ tục rút gọn phải là loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết là đơn giản. Đây là những loại việc không có tranh tụng về chứng cứ, tài liệu mặc dù bên bị kiện vẫn có thể có tranh tụng về pháp luật nhưng việc áp dụng pháp luật để giải quyết là rõ ràng, đơn giản. Việc áp dụng pháp luật để giải quyết là rõ ràng, đơn giản được hiểu là đối với trường hợp nhất định thì Thẩm phán hoặc bất kỳ người nào đã được đào tạo căn bản về luật pháp cũng không thể có cách hiểu và áp dụng khác nhưng do đương sự thiếu hiểu biết về pháp luật hoặc không muốn thực hiện nghĩa vụ đã hiển nhiên nên vẫn nại lý do để không thực hiện nghĩa vụ của mình. Xét về thực chất thì các vụ kiện phát sinh từ thực tiễn nêu trên không phải là loại việc kiện yêu cầu thanh toán mà là việc kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật giải quyết là đơn giản. Kết quả nghiên cứu so sánh cho thấy theo TTDS của Nga và Pháp thì thủ tục ra lệnh hay thủ tục ra lệnh buộc thực hiện công việc sẽ là thủ tục tương ứng được áp dụng đối với loại việc kiện này. Tuy nhiên, nếu theo Điều 121 BLTTDS Nga thì thủ tục ra lệnh được áp dụng đối với yêu cầu đòi nợ hoặc đòi lại tài sản chứ không áp dụng đối với kiện yêu cầu thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng cũng như những vụ kiện về quyền nhân thân, kiện yêu cầu xác nhận quyền thừa kế và phân chia di sản. Mô hình về thủ tục ra lệnh buộc thực hiện công việc trong TTDS Pháp có thể tham khảo vận dụng cho Việt Nam nhưng sự bất hợp lý về cơ chế kháng án với hậu quả khởi kiện lại từ đầu theo thủ tục tố tụng thông thường cũng cần được cải sửa để bảo đảm tính hiệu quả của hoạt động tố tụng.
Trên cơ sở kết quả phân tích những hạn chế về sự không phân hóa loại việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn trong các quy định về loại việc có thể giải quyết thủ tục TTDS rút gọn của Dự thảo BLTTDS (1998), Dự thảo 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (2010) và Điều 41 Luật Bảo vệ người tiêu dùng (2010) và những kết quả nghiên cứu trên, nhóm nghiên cứu đề xuất nhà lập pháp Việt Nam có thể lựa chọn giải pháp thiết lập một quy định chung theo hướng xác định loại việc thứ hai được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết là đơn giản. Việc xác định những vụ việc cụ thể nào thỏa mãn các điều kiện trên sẽ được trao cho các Thẩm phán khi áp dụng trong thực tiễn.
Nếu nhà lập pháp Việt Nam chọn giải pháp liệt kê loại việc như vẫn thường làm thì cần xác định loại việc thứ hai có thể được giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết là đơn giản, bao gồm:
- Nguyên đơn kiện yêu cầu Tòa án buộc bên bán phải thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng, bị đơn hoàn toàn không phản đối về các vấn đề khác của hợp đồng nhưng không thực hiện nghĩa vụ;
- Nguyên đơn kiện yêu cầu bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ trả lại tài sản cho thuê, cho mượn theo hợp đồng mà hai bên đã cam kết, bị đơn thừa nhận những vấn đề về sự kiện của vụ án nhưng không thực hiện nghĩa vụ;
- Nguyên đơn kiện yêu cầu Tòa án buộc người vi phạm quyền nhân thân phải chấm dứt hành vi vi phạm và công khai xin lỗi, bị đơn thừa nhận các tình tiết, sự kiện của việc vi phạm nhưng không thực hiện nghĩa vụ;
- Các đồng thừa kế cùng làm đơn yêu cầu Tòa án xác nhận quyền thừa kế đồng thời yêu cầu Tòa án buộc ngân hàng phải trả lại tài sản, giấy tờ;
- Các loại vụ kiện khác về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có chứng cứ rõ ràng và việc áp dụng pháp luật để giải quyết là đơn giản.
Như vậy, ngoài các loại việc đã được định danh, nhóm nghiên cứu đã đề xuất Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn đối với các loại vụ kiện khác về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có chứng cứ rõ ràng và việc áp dụng pháp luật để giải quyết là đơn giản. Đề xuất này nhằm trao quyền chủ động, linh hoạt cho Thẩm phán trong việc lựa chọn và quyết định áp dụng loại hình thủ tục giải quyết tranh chấp phù hợp với loại việc phát sinh miễn là không trái với tính chất đơn giản, rõ ràng về sự việc và áp dụng pháp luật.
- Những tranh chấp có giá trị nhỏ:
Kết quả nghiên cứu lý luận cho thấy xét dưới góc độ kinh tế học và hiệu quả của hoạt động tố tụng thì thành phần và thủ tục giải quyết các tranh chấp có giá trị không lớn cần được giản lược so với thủ tục tố tụng thông thường. Kết quả nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế được tổng hợp tại Tiểu mục “2.1.3. Mô hình về thủ tục TTDS rút gọn theo pháp luật một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” cũng cho thấy bên cạnh thủ tục ra lệnh áp dụng đối với những vụ kiện đơn giản, có chứng cứ rõ ràng thì pháp luật TTDS của nhiều nước cũng quy định về thủ tục giản đơn đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ như Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc.v.v...Tuy nhiên, quan niệm về việc kiện có giá trị nhỏ theo pháp luật các nước cũng có những khác biệt nhất định. Chẳng hạn, theo pháp luật của Pháp là dưới 4.000 euros, Đức là dưới 6.000 euros; Nhật Bản là dưới 600.000 yên; Đài Loan là dưới 100.000 Yuan ( tương đương 4.000 USD ); Thái Lan là dưới 50.000 bạt; Hàn Quốc là dưới 5000.000 Won. Riêng đối với Singgapo thì lại quy định theo hướng kết hợp giữa loại tranh chấp và giá ngạch của việc kiện được giải quyết theo thủ tục giản đơn.
Xét trong lịch sử lập pháp Việt Nam thì cơ chế xét xử một lần đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ đã từng được quy định trong nhiều văn bản khác nhau như "Bắc kỳ Pháp viện biên chế" công bố bằng Nghị định ngày 2/12/1921 được thi hành tại toàn cõi Bắc kỳ; Nghị định ngày 20/10/1947 của Hội đồng chấp chánh lâm thời Trung kỳ về sửa đổi giá ngạch; Sắc lệnh ngày 27/12/1943 về thẩm quyền sơ thẩm và chung thẩm; Điều 16 BLDS và thương sự ngày 20/1/1972 của chính quyền Sài Gòn; Sắc lệnh số 13 "Về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán" ngày 24/1/1946; Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 "Ấn định thẩm quyền các Toà án và sự phân công giữa các nhân viên trong Toà án"; Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 "Về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng".v.v...Việc nghiên cứu cho thấy giá trị việc kiện nhỏ được giải quyết theo cơ chế xét xử một lần được quy định trong các văn bản này theo từng thời kỳ cũng rất khác nhau.
Việc nghiên cứu về thực tiễn tố tụng tại Tòa án cho thấy cũng xuất hiện nhiều vụ tranh chấp có giá trị nhỏ nếu phải giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường sẽ kéo dài thời gian giải quyết vụ kiện, phải qua xét xử sơ thẩm, phúc thẩm gây tốn kém cho đương sự và cho cả Nhà nước, trong khi đó lợi ích tranh chấp không lớn. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng cần cân nhắc thêm đối với trường hợp vụ kiện có giá trị nhỏ nhưng có thể hậu quả lớn với doanh nghiệp do doanh nghiệp nếu thua kiện sẽ phải thanh toán hay bồi thường cho một loạt khách hàng trong những vụ kiện tương tự([101]) hoặc những vụ kiện có giá trị nhỏ nhưng lại liên quan đến tranh chấp mốc giới về quyền sử dụng đất([102]).
Kết quả khảo sát do nhóm nghiên cứu tiến hành cho thấy 93% người được hỏi là cán bộ làm công tác xét xử cho rằng cần phải áp dụng thủ tục rút gọn đối với các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản và có 68% người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được hỏi có cùng quan điểm là thủ tục rút gọn có thể áp dụng với các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản([103]). Tổng hợp kết quả nghiên cứu khảo sát thực tiễn, tọa đàm, hội thảo cho thấy đa số các ý kiến đều nhất trí là vụ kiện có giá trị nhỏ cần được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, giá trị của việc kiện là bao nhiêu sẽ được coi là nhỏ cũng còn có những ý kiến khác nhau. Theo kết quả khảo sát mà nhóm nghiên cứu tiến hành thì 21% người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được hỏi cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại vụ kiện có giá trị tranh chấp chỉ phải tính án phí như vụ kiện không có giá ngạch (con số này là 23% đối với người được hỏi là cán bộ làm công tác xét xử); 12% người được hỏi là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho rằng giá trị tranh chấp dưới 40 triệu đồng (con số này là 19% đối với người được hỏi là cán bộ làm công tác xét xử); 54% cho rằng vụ kiện có giá trị nhỏ là loại vụ kiện mà giá trị tranh chấp cần bảo vệ nhỏ hơn các chi phí tố tụng phát sinh để giải quyết vụ kiện (con số này là 4% đối với người được hỏi là cán bộ làm công tác xét xử) và có 32% cho rằng tuỳ theo thành thị hay nông thôn, vùng sâu, vùng xa để xác định giá trị tranh chấp bao nhiêu được coi là nhỏ (con số này là 43% đối với người được hỏi là cán bộ làm công tác xét xử)([104]). Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng vụ kiện có giá trị nhỏ được giải quyết theo thủ tục rút gọn phải là vụ kiện có giá trị tranh chấp dưới 100.000.000 đồng.
Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu trên, để bảo đảm an toàn pháp lý cho các đương sự, nhóm nghiên cứu đề xuất loại vụ kiện có giá trị nhỏ được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn phải là những vụ kiện phát sinh từ hợp đồng về tài sản hoặc nghĩa vụ về tài sản. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cho rằng trong điều kiện hiện nay, việc ấn định một giá trị nhất định đối với loại vụ kiện được coi là có giá trị nhỏ cần được giải quyết theo thủ tục rút gọn trong BLTTDS là không còn phù hợp vì giá cả thị trường có sự biến động thường xuyên, trong khi đó BLTTDS có tính ổn định nên không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng sửa đổi. Do vậy, cần quy định trong BLTTDS một điều khoản theo hướng vụ kiện có giá trị nhỏ sẽ được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn, còn giá trị tranh chấp bao nhiêu được coi là nhỏ sẽ được hướng dẫn trong các văn bản dưới luật. Về cơ sở của việc hướng dẫn có thể cân nhắc dựa các tiêu chí như quy định về vụ kiện có giá trị nhỏ đã từng được ghi nhận trong lịch sử lập pháp Việt Nam, giá trị của loại vụ kiện chỉ phải tính án phí như vụ kiện không có giá ngạch, tính tương xứng giữa lợi ích cần bảo vệ và tổn phí trung bình phát sinh (đối với đương sự và Tòa án) trong việc giải quyết vụ kiện hoặc mức từ 100 triệu đồng trở xuống như đã từng quy định trong Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010.
- Các vụ kiện được đương sự thoả thuận lựa chọn áp dụng thủ tục rút gọn
Theo kết quả nghiên cứu lý luận tại Tiểu mục “2.1.2.3. Về mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS” thì Viện nghiên cứu Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao cho rằng “cần quy định quyền của các bên đương sự được lựa chọn thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp giữa họ... Đây là một vấn đề mang tính cải cách quan trọng trong thủ tục TTDS ở nước ta mà những nhà làm luật cần nghiên cứu khi xây dựng quy trình TTDS...”([105]). Tác giả Trần Anh Tuấn cũng tán đồng quan điểm này, tuy nhiên lại đi theo hướng giới hạn quyền lựa chọn thủ tục này trong một khuôn khổ nhất định. Theo đó, “Chỉ nên giới hạn quyền thỏa thuận lựa chọn thủ tục rút gọn của đương sự đối với những vụ kiện có nội dung đơn giản, Tòa án không mất nhiều thời gian để xác minh”([106]). Tinh thần này cũng đã được thể hiện tại Điều 281b, Khoản 2, Dự thảo 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (2010): “Các vụ kiện khác không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này có thể được giải quyết theo thủ tục đơn giản nếu các đương sự trong cùng vụ án có yêu cầu”.
Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này cho thấy pháp luật Đài Loan ghi nhận quyền của các bên đương sự trong việc yêu cầu Tòa án áp dụng thủ tục TTDS giản đơn để giải quyết tranh chấp giữa họ ngoài những loại việc đã được pháp luật quy định. Trong khi đó, theo pháp luật Singgapo thì các loại việc có giá trị nhỏ được giải quyết theo thủ tục rút gọn với điều kiện phải được sự thoả thuận của hai bên tranh chấp là đưa ra Toà khiếu kiện nhỏ giải quyết. Kết quả khảo sát thực tiễn do nhóm nghiên cứu thực hiện cho thấy 46% người được hỏi là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho rằng cần quy định đương sự có thể thỏa thuận lựa chọn thủ tục rút gọn([107]).
Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đề xuất ghi nhận quyền thỏa thuận lựa chọn thủ tục rút gọn của đương sự với điều kiện thỏa thuận này không gây tổn hại đến lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác. Ngoài ra, để bảo đảm an toàn pháp lý cho các đương sự thì chỉ nên ghi nhận quyền thỏa thuận lựa chọn áp dụng thủ tục rút gọn đối với những vụ kiện có nội dung đơn giản, Tòa án không phải mất nhiều thời gian để xác minh sự việc, đồng thời quy định theo hướng Tòa án có quyền quyết định việc áp dụng hay không áp dụng thủ tục rút gọn mặc dù các bên có yêu cầu. Nếu Tòa án thấy việc áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn không thể giải quyết đúng đắn vụ kiện thì Tòa án có quyền quyết định áp dụng thủ tục tố tụng thông thường để giải quyết([108]).
2.3.2.3. Đề xuất về thành phần tiến hành tố tụng theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Như đã luận giải về lý luận thì cơ chế một Thẩm phán giải quyết vụ án và sự giản lược về thủ tục tố tụng là hai đặc điểm cơ bản của thủ tục TTDS rút gọn. Dưới góc độ kinh tế học, do yêu cầu giản lược về thành phần tiến hành tố tụng đối với một số loại tranh chấp có tính đơn giản, rõ ràng, giá trị tranh chấp không lớn nên một số nguyên tắc của TTDS có thể sẽ không được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn (nguyên tắc về Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự và nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể) hoặc việc áp dụng có thể chỉ được thực hiện ở một mức độ nhất định (nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS).
- Đề xuất về cơ chế một Thẩm phán giải quyết theo thủ tục rút gọn:
Theo kết quả nghiên cứu thì ở Việt Nam, Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia được coi là các nguyên tắc trong TTDS. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các nguyên tắc này không có biệt lệ. Cơ chế một Thẩm phán giải quyết vụ án đã từng được ghi nhận tại Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946, Điều 12 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960. Đây là tiền đề pháp lý quan trọng cho việc giản lược thành phần tiến hành tố tụng đối với thủ tục TTDS rút gọn.
Ngoài ra, nghiên cứu thực tiễn tố tụng tại Tòa án cho thấy hiện nay Tòa án các cấp đang bị quá tải do tình trạng số lượng các vụ kiện dân sự được thụ lý ngày càng gia tăng, số lượng án tồn động chưa giải quyết còn quá nhiều, ngành Tòa án phải chịu áp lực lớn về công việc([109]). Do vậy, việc giao cho một Thẩm phán có quyền giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn là một trong các giải pháp để khắc phục tình trạng này. Kết quả khảo sát do nhóm nghiên cứu tiến hành cũng cho thấy có tới 70% người được hỏi là cán bộ làm công tác xét xử cho rằng nên xây dựng cơ chế vụ kiện đơn giản, rõ ràng hoặc có giá trị nhỏ chỉ do một Thẩm phán xét xử sơ thẩm, mà không cần có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân với một số lý do như tránh thủ tục mời hội thẩm nhân dân rườm rà, lãng phí thời gian, tiền bạc, hơn nữa chất lượng chuyên môn của hội thẩm nhân dân chưa đáp ứng được yêu cầu, trên thực tế chủ yếu nghiên cứu và giải quyết vụ việc là do chính Thẩm phán thực hiện; cơ chế một Thẩm phán bảo đảm sự chủ động của Thẩm phán, nhanh chóng, ít tốn kém, thuân lợi cho đương sự và phù hợp với xu hướng cải cách tư pháp hiện nay([110]). Ngoài ra, có tới 80% người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được hỏi cho rằng việc giải quyết các vụ kiện dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn không cần thiết phải được tiến hành bởi một hội đồng xét xử gồm nhiều thành viên nhằm đảm bảo tính độc lập của Thẩm phán và nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán trong việc giải quyết các vụ kiện đơn giản, tiết kiệm cho Nhà nước về nguồn lực và các chi phí tố tụng([111]).
Theo kết quả nghiên cứu lý luận thì việc xét xử được tiến hành bởi một Hội đồng xét xử, có Hội thẩm nhân dân tham gia có ưu điểm là hạn chế các áp lực tác động từ bên ngoài, mặt khác sự tham gia ý kiến giữa các thành viên của Hội đồng xét xử sẽ làm sáng tỏ các vấn đề của vụ án, giúp Tòa án đi tới một nhìn nhận đầy đủ và giải quyết đúng đắn các vụ việc. Tuy nhiên, hạn chế của cơ chế này lại là ở chỗ không nâng cao được tinh thần trách nhiệm của các thành viên bởi chính chế độ trách nhiệm tập thể. Ngoài ra, như đã phân tích thì xét dưới góc độ kinh tế học, cơ chế xét xử này là một cơ chế tốn kém với những tổn phí phát sinh đối với hệ thống tư pháp do chi phí về nhân lực sẽ tăng gấp 3 lần so với cơ chế giải quyết tranh chấp bằng một Thẩm phán. Trong khi đó, cơ chế một Thẩm phán có ưu điểm ở chỗ Thẩm phán có thể chủ động trong công việc của mình, gắn trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ kiện. Do yêu cầu giản lược về thành phần tiến hành tố tụng đáp ứng đòi hỏi về tính hiệu quả, giảm chi phí không cần thiết về nhân lực của hệ thống tư pháp đối với một số loại tranh chấp có tính đơn giản, rõ ràng, giá trị tranh chấp không lớn nên nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự (Điều 11 BLTTDS), Toà án xét xử tập thể (Điều 14 BLTTDS) sẽ không được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn.
Hiến pháp năm 2013 đã có một số sửa đổi, bổ sung đối với một số nguyên tắc về TTDS như nguyên tắc việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham gia; nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 4 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 thì “Việc xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” và “Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Như vậy, các quy định tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã mở đường cho việc giản lược thành phần tiến hành TTDS đối với trường hợp xét xử theo thủ tục TTDS rút gọn. Do vậy, để tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn, bảo đảm sự đồng bộ của hệ thống pháp luật thì các quy định tại Điều 11 và Điều 14 BLTTDS sửa đổi về nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự và nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể cần phải được sửa đổi theo hướng xác định những ngoại lệ đối với các vụ kiện giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn:
+ Điều 11 BLTTDS sửa đổi về nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự cần được sửa đổi như sau: “Việc xét xử các vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục TTDS rút gọn”.
+ Điều 14 BLTTDS sửa đổi về nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể cần được sửa đổi như sau: “Tòa án xét xử tập thể vụ án dân sự và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục TTDS rút gọn”.
+ Điều 52 và Điều 53 BLTTDS sửa đổi về thành phần xét xử cần được sửa đổi như sau:
Điều 52 BLTTDS sửa đổi sẽ được sửa đổi theo hướng “Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục TTDS rút gọn”. Ngoài ra, để mở đường cho đề xuất về cơ chế kháng án đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ trong trường hợp đề xuất về hiệu lực thi hành ngay của phán quyết theo thủ tục rút gọn đối với loại việc này không được chấp nhận thì cần phải sửa đổi Điều 53 BLTTDS sửa đổi về thành phần xét xử theo hướng “Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự gồm ba Thẩm phán, trừ trường hợp xét xử phúc thẩm đối với các vụ kiện có giá trị nhỏ theo thủ tục TTDS rút gọn”.
Trên cơ sở những đề xuất khôi phục cơ chế xét xử một Thẩm phán đối với những loại việc giải quyết theo thủ tục rút gọn như trên, nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy cần phải có những giải pháp hỗ trợ cho việc thực hiện cơ chế này. Nhóm nghiên cứu cho rằng vấn đề cốt lõi để nâng cao chất lượng xét xử của Thẩm phán khi giao cho Thẩm phán độc lập xét xử vụ việc dân sự, đó là bên cạnh cơ chế kiểm soát sự lạm quyền cần chú trọng tới trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức. Do vậy, cần phải làm tốt công tác thi tuyển để thực sự chọn lọc được người có năng lực làm nghề Thẩm phán. Ngoài ra, cần phải có các quy định để cụ thể hóa trách nhiệm của Thẩm phán nhằm ngăn ngừa sự lạm quyền và những hành vi trái pháp luật của họ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Việc công bố công khai các phán quyết của Tòa án cũng là một giải pháp buộc Thẩm phán phải cẩn trọng và cân nhắc kỹ lưỡng trong việc xét xử và ra phán quyết, khắc phục sự tùy tiện của Thẩm phán. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu cơ chế bổ nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ suốt đời, chế độ đãi ngộ tương xứng cũng là một trong những giải pháp để nâng cao vị thế và tinh thần trách nhiệm của Thẩm phán trong bối cảnh hiện nay([112]). Theo kết quả khảo sát do nhóm nghiên cứu tiến hành thì giải pháp này phù hợp với nguyện vọng của đa số cán bộ làm công tác xét xử, có tới 90% người được hỏi cho rằng việc xây dựng cơ chế Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm với nhiệm kỳ suốt đời và chỉ bị bãi nhiệm khi vi phạm pháp luật đã bị xử lý về hình sự là cần thiết([113]).
- Đề xuất về sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát:
Theo kết quả nghiên cứu lý luận đã được thực hiện thì do yêu cầu giản lược về thành phần tiến hành tố tụng đối với một số loại vụ kiện có tính đơn giản, rõ ràng, giá trị tranh chấp không lớn nên nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS (Điều 21 BLTTDS) chỉ được thực hiện ở mức độ hạn chế nhất định. Điều 21 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 hiện nay đi theo hướng tăng cường vai trò của Viện kiểm sát trong TTDS. Theo đó, Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Ngoài ra, Viện kiểm sát tham gia tất cả các phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự, tham gia tất cả các phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, như đã phân tích về phương diện lý luận thì việc không quy định về sự tham gia bắt buộc của Viện kiểm sát trong thủ tục TTDS rút gọn là nhằm đáp ứng yêu cầu giản lược về thủ tục và thành phần tiến hành tố tụng. Các nhóm nghiên cứu chuyên đề cũng cùng có chung một nhận định về vấn đề này. TS. Trần Phương Thảo cho rằng do tính chất vụ kiện đơn giản, chứng cứ rõ ràng, nghĩa vụ đã được bị đơn thừa nhận hay giá trị tranh chấp nhỏ nên quy định về sự tham gia của Viện kiểm sát tại phiên tòa không nên cứng nhắc. Sau khi Tòa án đã ra phán quyết thì Viện kiểm sát vẫn có thể kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án thông qua việc yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ vụ việc cho Viện kiểm sát([114]). TS. Nguyễn Văn Cường và Ths. Phùng Thị Hoàn – Tòa án nhân dân tối cao cũng có nhận định tương tự khi cho rằng thủ tục rút gọn cần đảm bảo rút ngắn về thời gian, đơn giản về thủ tục và không phức tạp về thành phần tiến hành tố tụng, do vậy, với những vụ kiện đơn giản, rõ ràng, giá trị nhỏ thì chỉ cần một Thẩm phán giải quyết, Viện kiểm sát vẫn có thể thực hiện chức năng kiểm sát thông qua hồ sơ vụ án do Tòa án chuyển đến và thực hiện quyền kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm nếu xét thấy cần thiết([115]).
Như vậy, căn cứ vào bản chất đơn giản, rõ ràng hay giá trị của việc kiện và tính hiệu quả của hoạt động tố tụng thì quy định về sự tham gia có tính bắt buộc của Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục rút gọn là không cần thiết. Do vậy, trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu kiến nghị sửa đổi quy định tại Khoản 2 Điều 21 BLTTDS sửa đổi năm 2011 như sau:
“2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên toà sơ thẩm đối với những vụ án do Toà án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục TTDS rút gọn”.
2.3.2.4. Đề xuất về thời hạn và mô hình trình tự, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
- Về thời hạn giải quyết vụ kiện theo thủ tục TTDS rút gọn:
Kết quả khảo sát được nhóm nghiên cứu tiến hành đối với các cán bộ làm công tác xét xử được hỏi về thời hạn chuẩn bị xét xử lại cho thấy nhận thức về vấn đề này cũng còn chưa thống nhất, hiệu quả của việc giải quyết án kiện chưa được coi trọng đúng mức, tâm lý để hết thời hạn tố tụng mới giải quyết mặc dù bản chất của việc kiện là đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối, giá ngạch thấp vẫn còn tồn tại. Nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy theo quy định tại Điều 179 BLTTDS, thời hạn trung bình giải quyết án kiện ở cấp sơ thẩm đối với án về dân sự, hôn nhân gia đình là từ 5 đến 6 tháng; án thương mại, lao động là từ 3 đến 4 tháng. Do thiếu vắng quy định về thủ tục đơn giản nên đối với những vụ kiện đơn giản, có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối, giá trị tranh chấp không lớn Thẩm phán vẫn phải áp dụng thủ tục thông thường để giải quyết gây lãng phí thời gian, chậm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, tổn phí không cần thiết cho Nhà nước và các bên đương sự. Nghiên cứu tham khảo pháp luật TTDS của các nước trên thế giới cho thấy hầu hết thời hạn giải quyết các vụ kiện dân sự theo thủ tục rút gọn đều ngắn hơn thời hạn giải quyết các vụ án theo thủ tục tố tụng thông thường. Ở Việt Nam, việc rút ngắn thời hạn giải quyết các vụ việc dân sự cũng đã được quy định đối với thủ tục giải quyết việc dân sự không có tranh chấp. Kết quả khảo sát do nhóm nghiên cứu thực hiện cho thấy đề xuất rút ngắn thời hạn giải quyết các loại việc theo thủ tục tố tụng rút gọn cũng nhận được sự tán thành của đa số các cán bộ làm công tác thực tiễn. Kết quả khảo sát cho thấy có 97% người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được hỏi cho rằng thời hạn giải quyết vụ kiện theo thủ tục TTDS rút gọn phải quy định ngắn hơn thời hạn giải quyết vụ kiện dân sự thông thường([116]).
Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng cần phải cân nhắc về “khoảng thời gian của thời hạn” được rút ngắn một cách hợp lý để vừa đảm bảo nhanh chóng, hiệu quả trong việc giải quyết việc kiện nhưng cũng vẫn phải đảm bảo cho Tòa án đủ thời gian để tiến hành các hoạt động cần thiết cho việc ra phán quyết đúng đắn và chính xác. Từ việc nghiên cứu thực tiễn giải quyết các án kiện, kế thừa kết quả của công trình nghiên cứu trước đây do chủ nhiệm đề tài thực hiện([117]), nhóm nghiên cứu cho rằng đối với những loại vụ kiện đòi thanh toán, thực hiện nghĩa vụ mà có chứng từ rõ ràng, bên bị kiện không phản đối thì trong vòng một tháng, Tòa án có thể tiến hành xác minh, thẩm định lại một cách chắc chắn giá trị chứng minh của các chứng cứ mà đương sự cung cấp cũng như các tình tiết khách quan của vụ kiện. Do vậy, nhóm nghiên cứu đề xuất quy định thời hạn chung cho việc chuẩn bị xét xử theo thủ tục TTDS rút gọn là không quá 30 ngày kể từ ngày Tòa án thụ lý vụ kiện là hợp lý.
- Về xác minh và thu thập chứng cứ theo thủ tục TTDS rút gọn:
Theo kết quả nghiên cứu lý luận thì thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng trên cơ sở giản lược một cách hợp lý thủ tục tố tụng thông thường cho phù hợp với tính chất đơn giản, rõ ràng của vụ kiện hoặc đáp ứng yêu cầu về tính hiệu quả của hoạt động tố tụng. Kết quả nghiên cứu so sánh về kinh nghiệm lập pháp của một số nước có quy định về thủ tục này cho thấy việc xác minh đối với các vụ kiện giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn đều được tiến hành theo trình tự đơn giản, nhanh chóng, hiệu quả nhưng vẫn bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Chẳng hạn, theo pháp luật TTDS của Liên Bang Nga thì khi yêu cầu Tòa án ra lệnh, người yêu cầu phải cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tòa án chỉ có trách nhiệm xem xét các chứng cứ, tài liệu mà người yêu cầu xuất trình có đủ căn cứ để ra lệnh hay không. Nếu người yêu cầu không xuất trình được chứng cứ, tài liệu làm cơ sở cho yêu cầu hoặc từ đơn yêu cầu và tài liệu xuất trình cho thấy có sự tranh chấp về quyền yêu cầu thì Tòa án từ chối nhận đơn giải quyết theo TTDS rút gọn (Khoản 1 Điều 125 BLTTDS Liên bang Nga). Pháp luật TTDS Đài Loan quy định việc Tòa án triệu tập người làm chứng, giám định viên thông qua bất cứ cách nào thuận tiện nhất chứ không phải qua trát đòi([118]), còn theo pháp luật TTDS Trung Quốc thì quy định đối với các vụ kiện đơn giản, sự việc rõ ràng, mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ đã rõ ràng, tranh chấp không gay gắt thì Tòa án có thể áp dụng cách thức đơn giản, lúc nào cũng có thể gọi đương sự, nhân chứng (Điều 144 BLTTDS Trung Hoa). Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, nhóm nghiên cứu đề xuất như sau :
+ Đối với vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ hoặc việc áp dụng pháp luật là đơn giản:
Xét về bản chất thì đây là những vụ kiện mà đương sự đã xuất trình cho Tòa án đầy đủ các chứng cứ, tài liệu. Do đó, Tòa án không cần phải thu thập thêm chứng cứ mà thực chất chỉ xem xét, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên, xác minh, đánh giá chứng cứ cũng như giải quyết vụ kiện một cách chính xác thì Tòa án vẫn phải sử dụng các phương pháp thu thập chứng cứ nếu xét thấy cần thiết như lấy lời khai của đương sự, người làm chứng, đối chất.v.v…Trường hợp các đương sự đưa ra yêu cầu Tòa án buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ đã rõ ràng nhưng lại không xuất trình được chứng cứ, tài liệu để chứng minh cho yêu cầu của mình hoặc khi tiến hành xác minh Tòa án phát hiện thấy vụ kiện có tranh tụng về chứng cứ hoặc phức tạp trong việc áp dụng pháp luật thì Tòa án không ra quyết định giải quyết vụ kiện theo thủ tục TTDS rút gọn mà tiến hành giải quyết vụ kiện theo thủ tục tố tụng thông thường. Nếu chứng cứ đầy đủ, rõ ràng thì Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ.
+ Đối với vụ kiện có giá trị nhỏ :
Đây là loại vụ kiện được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn để đáp ứng yêu cầu về tính hiệu quả của hoạt động tố tụng. Đối với những loại việc kiện này thì giữa các đương sự vẫn có thể có tranh tụng cả về sự việc và pháp luật, do vậy, việc chứng minh của các đương sự cũng như việc thu thập chứng cứ của Tòa án vẫn cần phải được tiến hành theo thủ tục TTDS thông thường([119]).
- Đề xuất về hòa giải của Tòa án theo thủ tục TTDS rút gọn:
Theo kết quả khảo sát do nhóm nghiên cứu tiến hành thì có tới 69% người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được hỏi cho rằng Tòa án bắt buộc tiến hành hòa giải đối với các vụ kiện dân sự được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn([120]). Tuy nhiên, về phương diện lý luận thì do yêu cầu giản lược về thủ tục tố tụng đối với một số loại tranh chấp có tính đơn giản, rõ ràng, giá trị tranh chấp không lớn nên trong những trường hợp nhất định nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án có thể chỉ được thực hiện ở mức độ hạn chế đối với thủ tục TTDS rút gọn.
Do những lợi ích của hòa giải nên nhà lập pháp Việt Nam đã đề cao vai trò của Tòa án trong việc hòa giải giữa các bên về tranh chấp, thậm chí coi đây là một thủ tục tố tụng bắt buộc trước khi tiến hành xét xử sơ thẩm vụ kiện dân sự. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cho rằng việc hòa giải của Tòa án có tính bắt buộc hay có thể tùy nghi lại phụ thuộc vào tính chất đơn giản hay phức tạp của các loại việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ có tính đơn giản, rõ ràng thì không nên coi hòa giải tại Tòa án là có tính bắt buộc trước khi xét xử, còn những tranh chấp có giá trị nhỏ nhưng các bên có những vướng mắc về tâm lý, tình cảm, mâu thuẫn cá nhân thì vẫn phải tiến hành hòa giải trước khi xét xử sơ thẩm. Đối với những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự đã thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ hoặc việc áp dụng pháp luật là đơn giản thì sẽ hợp lý hơn nếu cho phép Thẩm phán có thể ra ngay quyết định buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ mà không cần thiết phải triệu tập các bên đương sự đến để hòa giải trước khi ra quyết định buộc thực hiện nghĩa.
Với những lập luận trên, nhóm nghiên cứu kiến nghị sửa đổi Điều 10 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 theo hướng trao cho Thẩm phán quyền tùy nghi quyết định việc triệu tập các bên đương sự đến để hòa giải trước khi ra phán quyết theo thủ tục TTDS rút gọn. Từ kiến nghị về sửa đổi nguyên tắc về trách nhiệm hòa giải của Tòa án, nhóm nghiên cứu cho rằng Tòa án có tiến hành hòa giải đối với các vụ kiện dân sự được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn hay không nên căn cứ vào từng loại vụ kiện được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn để vừa đảm bảo tính nhanh chóng, linh hoạt, hiệu quả của thủ tục tố tụng nhưng vẫn bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự:
+ Đối với vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ; vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật đơn giản:
Nhóm nghiên cứu đề xuất để đảm bảo tính nhanh chóng, hiệu quả của thủ tục TTDS thì việc hòa giải đối với loại vụ kiện này được thực hiện theo hướng nếu yêu cầu của nguyên đơn không đủ căn cứ giải quyết theo thủ tục rút gọn thì Thẩm phán quyết định chuyển sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường và hòa giải được thực hiện như khi Tòa án giải quyết các vụ án dân sự thông thường. Nếu yêu cầu của nguyên đơn có đủ căn cứ thì Thẩm phán có thể ra quyết định buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ mà không cần phải hòa giải. Bị đơn có quyền phản đối lệnh này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định của Tòa án. Khi bị đơn phản đối quyết định của Tòa án thì Thẩm phán sẽ triệu tập đầy đủ các bên đương sự đến tham gia hòa giải. Việc hòa giải được thực hiện theo thủ tục TTDS thông thường.
+ Đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ:
Đây là những vụ án mà giữa các đương sự vẫn có thể có tranh chấp, mâu thuẫn với nhau, vì vậy nhóm nghiên cứu đề xuất tùy theo trường hợp Thẩm phán vẫn có thể triệu tập đương sự để tiến hành hòa giải giúp các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp. Trường hợp hòa giải không thành thì Thẩm phán ra quyết định mở phiên tòa xét xử để ra phán quyết đối với vụ kiện có giá trị nhỏ. Nhóm nghiên cứu cũng đề xuất đối với những trường hợp này nếu hòa giải thành thì Thẩm phán lập biên bản hòa giải thành, biên bản ghi đầy đủ những thỏa thuận của các bên đương sự, có đầy đủ chữ ký của đương sự, thư ký Tòa án và Thẩm phán đồng thời ra ngay quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay([121]). Giải pháp này đáp ứng tốt hơn yêu cầu về tính hiệu quả của hoạt động tố tụng do không phải chờ đợi sau 7 ngày mới có thể ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như trong thủ tục tố tụng thông thường.
- Về việc ra quyết định buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ đã rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết là đơn giản và cơ chế phản kháng:
Kết quả khảo sát thực tiễn cho thấy cho thấy 90% người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được hỏi cho rằng thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử vụ kiện dân sự theo thủ tục rút gọn không cần thiết phải đầy đủ các bước như phiên tòa giải quyết các vụ án theo thủ tục tố tụng thông thường mà có thể bỏ qua các bước không cần thiết([122]). Theo đề xuất của nhóm nghiên cứu thì ngoài loại vụ kiện có giá trị nhỏ thì thủ tục TTDS rút gọn còn được áp dụng đối với loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ, việc áp dụng pháp luật để giải quyết là đơn giản. Từ bài học về phân hóa loại việc để thiết lập các thủ tục tố tụng tương ứng rút ra từ việc nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm lập pháp nước ngoài nhóm nghiên cứu nhận thấy về bản chất thì loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ, việc áp dụng pháp luật đơn giản có bản chất là vụ kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự. Do vậy, có thể nghiên cứu, mô phỏng từ kinh nghiệm lập pháp nước ngoài để thiết lập các thủ tục tố tụng tương ứng.
Kết quả nghiên cứu so sánh cho thấy thủ tục ra lệnh được quy định trong pháp luật của nhiều nước như Pháp, Đức, Nga, Đài Loan.v.v…Trong thủ tục ra lệnh theo pháp luật Pháp thì Thẩm phán không cần mở phiên tòa, không cần triệu tập các đương sự. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của các đương sự, đảm bảo đưa ra thi hành lệnh đúng đắn và chính xác thì pháp luật cho phép người mắc nợ được phản kháng lệnh trả nợ trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày tống đạt quyết định của Tòa án (Điều 1412, 1416 BLTTDSP). Đơn kháng án có hiệu lực yêu cầu Tòa án xem xét lại đơn yêu cầu thu hồi của chủ nợ và giải quyết toàn bộ tranh chấp (Điều 1413 BLTTDSP). Với yêu cầu phản kháng này, Tòa án sẽ mở phiên tòa xét xử, tất cả các bên kể cả những người không kháng án đều được triệu tập đến tham gia phiên tòa. Nếu không bên nào có mặt thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định này làm vô hiệu quyết định buộc thanh toán nợ. Nếu các bên có mặt thì Tòa án xét xử và ra bản án. Bản án thay thế lệnh thanh toán nợ và có thể bị kháng cáo nếu số tiền yêu cầu vượt quá thẩm quyền sơ chung thẩm của Tòa án (Điều 1417 đến Điều 1421 BLTTDSP). Pháp luật TTDS của Liên Bang Nga cũng có những quy định tương tự về thủ tục ra lệnh của Tòa án đối với các yêu cầu đòi nợ hoặc đòi lại tài sản (Điều 126 BLTTDSN). Tuy nhiên, khác với pháp luật TTDS Pháp thì khi người có nghĩa vụ phản đối lệnh trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được bản sao thì các bên có quyền khởi kiện tranh chấp đó theo thủ tục chung (Điều 128, 129 BLTTDSN).
Tổng hợp kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn ở Việt Nam cũng như tham khảo kinh nghiệm quốc tế, nhóm nghiên cứu nhận định loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ, việc áp dụng pháp luật đơn giản là những loại việc không có tranh tụng về sự việc, cũng như chứng cứ, tài liệu nên nếu bị đơn thừa nhận hay không phản đối nghĩa vụ hoặc việc áp dụng pháp luật để giải quyết là đơn giản thì sau khi xem xét sự việc nếu có đủ căn cứ thì Thẩm phán có thể ra lệnh buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ mà không cần phải mở phiên tòa xét xử. Tuy nhiên, để bảo đảm an toàn pháp lý cho bị đơn, nhóm nghiên cứu cho rằng cần quy định bị đơn có quyền phản đối quyết định của Tòa án trong một thời hạn nhất định. Quyền phản đối này tạo điều kiện cho những “bị đơn trung thực” có cơ hội để bảo vệ quyền lợi của mình và nếu thực sự họ không có nghĩa vụ thì việc thực hiện quyền phản đối này đã làm cho vụ kiện không còn đáp ứng yêu cầu của loại việc theo thủ tục rút gọn nữa và vụ việc cần được tiếp tục giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường. Trong trường hợp này, Tòa án sẽ mở phiên tòa để các đương sự tranh tụng công khai, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo tuần tự các bước của thủ tục tố tụng thông thường. Phiên tòa xét xử cần triệu tập đầy đủ các bên đương sự đến tham gia tố tụng. Trong trường hợp các bên vắng mặt tại phiên tòa thì việc xét xử hay hoãn phiên tòa được thực hiện theo thủ tục tố tụng thông thường để đảm bảo quyền tham gia tố tụng của đương sự. Từ những luận giải trên, để đảm bảo tính hiệu quả và an toàn pháp lý của các đương sự, nhóm nghiên cứu đề xuất về thủ tục và cơ chế kháng án đối với loại việc kiện yêu cầu bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ rõ ràng, đơn giản như sau:
+ Nếu việc kiện của nguyên đơn không đáp ứng yêu cầu của loại việc theo thủ tục rút gọn thì Thẩm phán giải quyết vụ việc theo thủ tục tố tụng thông thường.
+ Nếu yêu cầu của nguyên đơn có đủ căn cứ thì Thẩm phán ra quyết định buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ mà không cần mở phiên tòa. Bị đơn có quyền phản đối quyết định của Tòa án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định. Nếu trong thời hạn này mà bị đơn không phản đối thì quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quyết định buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ có hiệu lực pháp luật chỉ có thể bị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm khi có căn cứ được pháp luật quy định.
+ Trường hợp bị đơn phản đối quyết định buộc thực hiện nghĩa vụ của Tòa án thì Thẩm phán sẽ quyết định mở phiên tòa xét xử theo thủ tục tố tụng thông thường. Phiên tòa xét xử cần triệu tập đầy đủ các bên đương sự đến tham gia tố tụng. Trong trường hợp các bên vắng mặt trong phiên tòa thì việc xét xử hay hoãn phiên tòa được thực hiện theo thủ tục tố tụng thông thường. Bản án sơ thẩm của Tòa án sẽ thay quyết định buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ. Việc xem xét lại bản án này theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo thủ tục tố tụng thông thường. Tuy nhiên, để hạn chế việc phản đối có tính lạm quyền nhằm nhằm trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ, nhóm nghiên cứu kiến nghị thiết lập quy định phạt tiền đối với người lạm quyền phản đối nhằm trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ khi có căn cứ khẳng định việc phản đối là vô căn cứ. Theo kết quả khảo sát thì đề xuất này được đa số các cán bộ làm công tác thực tiễn đồng tình và có tới 73% người được hỏi là cán bộ làm công tác xét xử cho rằng cần thiết phải xây dựng những quy định về phạt tiền đối với các trường hợp đương sự cố tình lạm dụng quyền phản đối để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ([123]). Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng cho rằng việc buộc bị đơn phải chịu những tổn phí tố tụng do việc phản đối có tính lạm quyền gây ra cũng là giải pháp hợp lý và cần thiết để chống lại sự lạm quyền của các tụng nhân không trung thực.
- Về phiên tòa đối với vụ kiện có giá trị nhỏ:
Kết quả nghiên cứu lý luận cho thấy xét dưới góc độ kinh tế học và hiệu quả của hoạt động tố tụng thì thủ tục giải quyết các vụ kiện có giá trị không lớn cần được giản lược so với thủ tục tố tụng thông thường. Kết quả nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế được tổng hợp tại Tiểu mục “2.1.3. Mô hình về thủ tục TTDS rút gọn theo pháp luật một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” cũng cho thấy pháp luật TTDS của nhiều nước đều có quy định về thủ tục giản đơn đối với những việc kiện có giá trị nhỏ như Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc.v.v...Thủ tục tố tụng đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ được quy định đơn giản hơn, không phải trải qua tuần tự các bước theo thủ tục thông thường, đương sự có thể trực tiếp thưa kiện tại Tòa án mà không nhất thiết phải làm đơn khởi kiện. Vụ kiện theo trình tự giản đơn sẽ được giải quyết bằng một phiên toà nhanh gọn hơn, khi tiến hành phiên toà, Thẩm phán có thể bỏ qua các bước không cần thiết. Thẩm phán chỉ tuyên quyết định của Tòa án về việc giải quyết vụ án, còn phần nội dung vụ án, nhận định của Tòa án được ghi ngay trong biên bản phiên toà (Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc..). Kết quả khảo sát thực tiễn cũng cho thấy cho thấy 90% người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được hỏi cho rằng thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử vụ kiện dân sự theo thủ tục rút gọn không cần thiết phải đầy đủ các bước như phiên tòa giải quyết các vụ án theo thủ tục tố tụng thông thường mà có thể bỏ qua các bước không cần thiết([124]).
Theo luận giải ở trên thì đối với loại việc kiện có giá trị nhỏ thì Thẩm phán có thể tùy nghi quyết định việc triệu tập các đương sự đến để hòa giải hay không. Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu cho rằng phiên tòa sơ thẩm đối với loại vụ kiện có giá trị nhỏ không bắt buộc phải tiến hành tuần tự các bước như thủ tục TTDS thông thường mà có thể bỏ qua các bước không cần thiết. Thực chất có thể xem đây như là một phiên đối chất để kiểm tra lại các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, trước khi Thẩm phán ra quyết định về vụ việc:
+ Thẩm phán công bố lời khai cũng như các chứng cứ, tài liệu mà các bên đưa ra và chỉ xét hỏi thêm những điểm còn chưa rõ ràng.
+ Trong phần tranh luận, nếu xét thấy cần thiết Thẩm phán sẽ cho các bên đương sự tranh luận về chứng cứ. Nếu các bên đương sự không có tranh luận về chứng cứ thì trong phần này Thẩm phán chỉ cần yêu cầu các bên đề xuất hướng giải quyết vụ kiện.
+ Sau khi các bên đương sự đã đề xuất ý kiến của mình thì Thẩm phán có thể công bố ngay quyết định của Tòa án về việc giải quyết vụ kiện.
Ngoài ra, đối với trường hợp các đương sự vắng mặt trong lần triệu tập thứ nhất thì Thẩm phán cần phải hoãn phiên tòa để đảm bảo quyền tham gia phiên tòa của các đương sự. Tuy nhiên, khi đương sự được Tòa án triệu tập lần thứ hai thì dù có hay không có lý do chính đáng thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử để tránh kéo dài thời gian giải quyết vụ kiện đối với vụ kiện có giá trị không lớn([125]).
- Đề xuất về hiệu lực của phán quyết đối với vụ kiện có giá trị nhỏ theo thủ tục TTDS rút gọn:
Theo nghiên cứu về phương diện lý luận thì sự giản lược về thủ tục tố tụng là một trong những đặc điểm cơ bản của thủ tục TTDS rút gọn. Do vậy, nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử cần được xem là một biệt lệ hoặc hạn chế áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn. Kết quả nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế được tổng hợp tại Tiểu mục “2.1.3. Mô hình về thủ tục TTDS rút gọn theo pháp luật một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” cũng cho thấy pháp luật của Pháp, Đức và nhiều nước theo hệ thống luật dân sự thì đương sự không được quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm nếu như giá ngạch của vụ kiện thuộc thẩm quyền sơ chung thẩm của Tòa án. Theo pháp luật Nhật Bản, đối với những vụ kiện nhỏ có giá trị dưới 600.000 yên được Tòa án đơn giản giải quyết theo thủ tục về vụ kiện có giá trị nhỏ thì đương sự không được quyền khiếu nại lên Tòa án cấp trên, nếu có khiếu nại thì Tòa án đơn giản sẽ giải quyết lại([126]). Pháp luật một số nước như Thái Lan quy định nếu giá ngạch vụ kiện thấp hơn một khoản tiền nhất định thì không cho phép đương sự kháng cáo bản án sơ thẩm về vấn đề sự kiện của vụ kiện nhưng có quyền kháng cáo về vấn đề áp dụng pháp luật. Theo pháp luật Đài Loan đối với vụ kiện nhỏ đương sự được quyền kháng cáo phúc thẩm nhưng không có quyền khiếu nại bản án phúc thẩm này nếu không có sự đồng ý của Tòa án đã xử sơ thẩm.
Theo kết quả khảo sát do nhóm nghiên cứu tiến hành thì có tới 51% cán bộ làm công tác xét xử và 60% người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được hỏi cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì phán quyết có hiệu lực pháp luật và đem ra thi hành ngay, đương sự không có quyền kháng cáo và Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị phúc thẩm([127]). Nghiên cứu lịch sử lập pháp Việt Nam cho thấy mặc dù quy định việc xét xử của Tòa án phải qua hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm nhưng không phải là không có ngoại lệ. Cơ chế xét xử một lần, tức là xét xử sơ thẩm nhưng bản án của Tòa án có hiệu lực ngay đã từng được quy định trong "Bắc kỳ Pháp viện biên chế" công bố bằng Nghị định ngày 2/12/1921; Nghị định ngày 20/10/1947 của Hội đồng chấp chánh lâm thời Trung kỳ về sửa đổi giá ngạch; Sắc lệnh ngày 27/12/1943 về thẩm quyền sơ thẩm và chung thẩm; Điều 16 BLDS và thương sự ngày 20/1/1972 của chính quyền Sài Gòn([128]).
Theo các Sắc lệnh số 51/SL "Ấn định thẩm quyền các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án" ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số 85/SL "Về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng" ngày 22/5/1950 thì cơ chế xét xử một lần được áp dụng đối với những vụ kiện mà đối tượng tranh chấp là những tài sản có giá trị nhỏ và được thực hiện ở các Tòa án sơ cấp và đệ nhị cấp. Tuy nhiên, sau này theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 thì việc xét xử hai cấp đã chính thức được ghi nhận thành một nguyên tắc do vậy cơ chế này không còn được áp dụng nữa. Theo các quy định về TTDS trong giai đoạn từ năm 1981 đến trước ngày ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, thì việc xét xử vẫn được thực hiện theo hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm, đồng thời thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm (xét xử một lần) chỉ thuộc về Tòa án nhân dân tối cao([129]). Ngoài cơ chế xét xử một lần dựa trên giá ngạch của vụ kiện hay tính chất của tranh chấp thì pháp luật Việt Nam đã từng có những quy định về thủ tục giải quyết nhanh đối với các khiếu nại về danh sách cử tri.
Như đã đề cập ở trên, sự giản lược về thủ tục tố tụng là một trong những đặc điểm cơ bản của thủ tục TTDS rút gọn. Do vậy, nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử có thể sẽ không được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn hoặc chỉ được thực hiện ở một mức độ nhất định do yêu cầu giản lược về thủ tục tố tụng đối với một số loại tranh chấp có tính đặc thù. Xét dưới góc độ kinh tế học, cơ chế xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm có ưu thế là đảm bảo việc giải quyết vụ kiện được nhanh chóng, tiết kiệm được tiền của và công sức cho cả Nhà nước và đương sự. Ngoài ra, việc hạn chế kháng cáo phúc thẩm đối với những tranh chấp có giá trị tranh chấp nhỏ khắc phục được hiện tượng đương sự lạm dụng quyền kháng cáo nhằm kéo dài vụ án, trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ của mình([130]). Tuy nhiên, nếu đi theo hướng này thì việc nghiên cứu các cơ chế hỗ trợ để bảo đảm an toàn pháp lý cho các đương sự là cần thiết. Theo TS. Nguyễn Triều Dương thì đối với vụ kiện tranh chấp nhỏ, tình tiết giản đơn mà quy định bắt buộc phải qua hai cấp xét xử là hoàn toàn không cần thiết mà nên áp dụng cơ chế chung thẩm ở một cấp xét xử([131]).
Hiện nay, theo Điều 17 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì việc xét xử theo hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm đã được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản như đã từng quy định trong các Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, 1981 nên cơ chế xét xử một lần không còn được áp dụng nữa. Ngoài ra, quy định tại khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 với nội dung “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” cũng tạo ra những vướng mắc nhất định đối với việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn hiện nay. Mặc dù, văn từ của Điều 103 Hiến pháp năm 2013 cho thấy quy định này hoàn toàn có thể không áp dụng đối với những loại việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ do bản chất của những loại việc này là không có tranh tụng nên Tòa án không cần phải “xét xử” mà vẫn có thể giải quyết được vụ việc. Tuy nhiên, đối với những tranh chấp có giá trị nhỏ thì dường như câu trả lời vẫn còn bỏ ngỏ. Xét dưới góc độ kinh tế học và hiệu quả của hoạt động tư pháp theo hình mẫu của nhiều nước Châu Âu thì cần phải giải thích quy định trên của Hiến pháp theo hướng cho phép áp dụng cơ chế xét xử một lần đối với các vụ kiện có giá trị nhỏ ở một mức độ nhất định. Từ định hướng này cần nghiên cứu sửa đổi quy định tại Điều 17 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử theo hướng “Bản án sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, trừ những vụ kiện có giá trị nhỏ thuộc thẩm quyền sơ chung thẩm của Tòa án theo thủ tục TTDS rút gọn”. Theo định hướng này thì phán quyết của Tòa án đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ sẽ có hiệu lực thi hành ngay. Ngoài ra, từ góc nhìn về kinh tế học và hiệu quả của hoạt động tư pháp, nhóm nghiên cứu cũng đề xuất theo hướng phán quyết của Tòa án đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ sẽ không được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Đề xuất này được rút ra từ kết quả nghiên cứu so sánh và tiền đề pháp luật về cơ chế xét xử một lần đã tồn tại trong lịch sử lập pháp Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu nhà lập pháp Việt Nam đi theo quan niệm quy định tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 về “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” là quy định có tính tuyệt đối đối với mọi vụ kiện dân sự thì cũng cần phải rút ngắn thời hạn kháng cáo phúc thẩm theo hướng đương sự chỉ có quyền kháng cáo phán quyết của Tòa án đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày Tòa án cấp sơ thẩm ra phán quyết. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng đề xuất nếu theo phương án này thì cần rút ngắn thời hạn, thành phần và thủ tục xét xử phúc thẩm đối với các vụ kiện có giá trị nhỏ. Theo đó, trong trường hợp có kháng cáo đối với bản án giải quyết vụ kiện có giá trị nhỏ theo thủ tục rút gọn thì chỉ cần một Thẩm phán của Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xét xử trong một thời hạn ngắn là 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án do Tòa án cấp sơ thẩm chuyển giao. Thủ tục phiên tòa phúc thẩm được giản lược như phiên tòa sơ thẩm đối với vụ kiện có giá trị nhỏ.
Như vậy, việc đổi mới thủ tục TTDS có liên quan tới thể chế, con người, do vậy, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật phải có sự thống nhất nhận thức về thủ tục rút gọn này trong lộ trình sửa đổi tổng thể BLTTDS. Việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn phải đáp ứng yêu cầu về bảo đảm hài hòa giữa truyền thống lập pháp, điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam và thành tựu khoa học tố tụng trên thế giới. Kết quả nghiên cứu Đề tài đã chỉ ra cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn cũng như đề xuất một mô hình về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn có thể được xây dựng ở Việt Nam. Hy vọng rằng kết quả nghiên cứu này sẽ là một tư liệu tham khảo hữu ích cho các nhà lập pháp trong việc sửa đổi BLTTDS trong thời gian tới.
.
MÔ HÌNH GIẢN LƯỢC VỀ LOẠI VIỆC THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
STT
|
BẢN CHẤT LOẠI VIỆC
|
MÔ TẢ LOẠI VIỆC
|
1
|
Loại việc có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ của mình
|
Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng vay tài sản bằng văn bản, bị đơn không phản đối yêu cầu của nguyên đơn
|
Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền phát sinh từ hợp đồng bằng văn bản, bị đơn không phản đối nghĩa vụ của mình nhưng không thực hiện nghĩa vụ
|
Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện việc thanh toán phát sinh từ các quan hệ nghĩa vụ khác, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ của mình nhưng không thực hiện nghĩa vụ
|
Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo hợp đồng mua hàng đã ký, bị đơn không phản đối yêu cầu của nguyên đơn nhưng không thực hiện nghĩa vụ
|
Các loại việc kiện khác về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ
|
2
|
Loại việc có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết là đơn giản
|
Nguyên đơn kiện yêu cầu Tòa án buộc bên bán phải thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng, bị đơn hoàn toàn không phản đối về các vấn đề khác của hợp đồng nhưng không thực hiện nghĩa vụ
|
Nguyên đơn kiện yêu cầu bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ trả lại tài sản cho thuê, cho mượn theo hợp đồng mà hai bên đã cam kết, bị đơn thừa nhận những vấn đề về sự kiện của vụ án nhưng không thực hiện nghĩa vụ
|
Nguyên đơn kiện yêu cầu Tòa án buộc người vi phạm quyền nhân thân phải chấm dứt hành vi vi phạm và công khai xin lỗi, bị đơn thừa nhận các tình tiết, sự kiện của việc vi phạm nhưng không thực hiện nghĩa vụ
|
Các đồng thừa kế cùng làm đơn yêu cầu Tòa án xác nhận quyền thừa kế đồng thời yêu cầu Tòa án buộc ngân hàng phải trả lại tài sản, giấy tờ
|
Các loại việc kiện khác về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có chứng cứ rõ ràng và việc áp dụng pháp luật để giải quyết là đơn giản
|
TT
|
BẢN CHẤT LOẠI VIỆC
|
MÔ TẢ LOẠI VIỆC
|
3
|
Các vụ kiện được đương sự thoả thuận lựa chọn áp dụng thủ tục rút gọn
|
- Thỏa thuận về lựa chọn thủ tục rút gọn không gây tổn hại đến lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác;
- Vụ kiện có nội dung đơn giản, Tòa án không phải mất nhiều thời gian để xác minh sự việc ;
- Tòa án có quyền quyết định việc áp dụng hay không áp dụng thủ tục rút gọn mặc dù các bên có yêu cầu.
|
4
|
Những tranh chấp có giá trị nhỏ
|
Tiêu chí xác định:
- Như quy định về vụ kiện có giá trị nhỏ đã từng được ghi nhận trong lịch sử lập pháp ;
- Giá trị của loại vụ kiện chỉ phải tính án phí như vụ kiện không có giá ngạch ;
- Tính tương xứng giữa lợi ích cần bảo vệ và tổn phí trung bình phát sinh (đối với đương sự và Tòa án) trong việc giải quyết vụ kiện ;
- Từ 100 triệu đồng trở xuống như đã từng quy định trong Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010.
|
MÔ HÌNH GIẢN LƯỢC VỀ TRÌNH TỰ TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN (Phương án 1)
Chủ thể tiến hành
|
Một Thẩm phán
▼
|
Hội đồng xét xử
▼
|
Hội đồng xét xử
▼
|
Hội đồng xét xử
▼
|
Thời hạn tố tụng
|
Tối đa là 30 ngày
|
Tối đa 15 ngày
|
Tối đa 15 ngày
|
|
|
Trình tự tố tụng
|
Xác minh
->
|
Hòa giải
->
|
Quyết định
->
|
Kháng án và hậu quả
->
|
Phiên tòa sơ thẩm
->
|
Thủ tục phúc thẩm
->
|
Thủ tục giám đốc, tái thẩm
->
|
Vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ
|
Thẩm phán chỉ xác minh khi cần thiết
|
Không
|
Quyết định buộc thực hiện nghĩa vụ
|
Không phản đối
=>
|
Quyết định buộc thực hiện nghĩa vụ có hiệu lực thi hành
|
Không
|
Không
|
Giám đốc thẩm, tái thẩm theo thủ tục thông thường
|
Vụ kiện có chứng cứ rõ ràng và việc áp dụng pháp luật đơn giản
|
Phản đối
=>
|
Quyết định giải quyết theo thủ tục thông thường
|
Phiên tòa sơ thẩm thông thường với cơ chế phạt tiền và chịu tổn phí tố tụng
|
Phúc thẩm theo thủ tục thông thường
|
Giám đốc thẩm, tái thẩm theo thủ tục thông thường
|
Vụ kiện do Đương sự thỏa thuận áp dụng TT rút gọn
|
Vụ kiện có giá trị nhỏ
|
Thẩm phán thu thập chứng cứ theo thủ tục tố tụng thông thường
|
Hòa giải thành
|
=>
|
Công nhận ngay thỏa thuận và chấm dứt tố tụng
|
|
Không
|
|
Hòa giải không thành
|
=>
|
Quyết định đưa vụ kiện ra xét xử sơ thẩm
|
=>
|
Phiên tòa sơ thẩm giản lược và quyết định có hiệu lực thi hành ngay
|
Không
|
Trình tự tố tụng
|
Xác minh
->
|
Hòa giải
->
|
Quyết định
->
|
Phiên tòa sơ thẩm
->
|
Thủ tục phúc thẩm
->
|
Thủ tục giám đốc, tái thẩm
->
|
Thời hạn tố tụng
|
Tối đa 30 ngày
|
Tối đa 15 ngày
|
|
|
Chủ thể tiến hành
|
▲
Một Thẩm phán
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
MÔ HÌNH GIẢN LƯỢC VỀ TRÌNH TỰ TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN (Phương án 2)
Chủ thể tiến hành
|
Một Thẩm phán
▼
|
Hội đồng xét xử
▼
|
Hội đồng xét xử
▼
|
Hội đồng xét xử
▼
|
Thời hạn tố tụng
|
Tối đa là 30 ngày
|
Tối đa 15 ngày
|
Tối đa 15 ngày
|
|
|
Trình tự tố tụng
|
Xác minh
->
|
Hòa giải
->
|
Quyết định
->
|
Kháng án và hậu quả
->
|
Phiên tòa sơ thẩm
->
|
Thủ tục phúc thẩm
->
|
Thủ tục giám đốc, tái thẩm
->
|
Vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ
|
Thẩm phán chỉ xác minh khi cần thiết
|
Không
|
Quyết định buộc thực hiện nghĩa vụ
|
Không phản đối
=>
|
Quyết định buộc thực hiện nghĩa vụ có hiệu lực thi hành
|
Không
|
Không
|
Giám đốc thẩm, tái thẩm theo thủ tục thông thường
|
Vụ kiện có chứng cứ rõ ràng và việc áp dụng pháp luật đơn giản
|
Phản đối
=>
|
Quyết định giải quyết theo thủ tục thông thường
|
Phiên tòa sơ thẩm thông thường với cơ chế phạt tiền và chịu tổn phí tố tụng
|
Phúc thẩm theo thủ tục thông thường
|
Giám đốc thẩm, tái thẩm theo thủ tục thông thường
|
Vụ kiện do Đương sự thỏa thuận áp dụng TT rút gọn
|
Vụ kiện có giá trị nhỏ
|
Thẩm phán thu thập chứng cứ theo thủ tục tố tụng thông thường
|
Hòa giải thành
|
=>
|
Công nhận ngay thỏa thuận và chấm dứt tố tụng
|
|
Không
|
|
Hòa giải không thành
|
=>
|
Quyết định đưa vụ kiện ra xét xử sơ thẩm
|
=>
|
Phiên tòa sơ thẩm giản lược với thời hạn kháng cáo rút ngắn trong thời hạn 7 ngày.
|
Phiên tòa phúc thẩm giản lược
|
Trình tự tố tụng
|
Xác minh
->
|
Hòa giải
->
|
Quyết định
->
|
Phiên tòa sơ thẩm
->
|
Thủ tục phúc thẩm
->
|
Thủ tục giám đốc, tái thẩm
->
|
Thời hạn tố tụng
|
Tối đa 30 ngày
|
Tối đa 15 ngày
|
Tối đa 15 ngày
|
|
Chủ thể tiến hành
|
▲
Một Thẩm phán
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
MÔ HÌNH DIỄN GIẢI CHI TIẾT
VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
-
NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
2. THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CÁC LOẠI VIỆC THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
3. PHẠM VI LOẠI VIỆC ĐƯỢC GIẢI QUYẾT THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
4. THÀNH PHẦN GIẢI QUYẾT VỤ KIỆN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
5. XÁC MINH, THU THẬP CHỨNG CỨ
-
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT ĐỐI VỚI VỤ KIỆN CÓ CHỨNG CỨ RÕ RÀNG, BỊ ĐƠN THỪA NHẬN, KHÔNG PHẢN ĐỐI NGHĨA VỤ HOẶC VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐƠN GIẢN
-
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT ĐỐI VỚI VỤ KIỆN CÓ GIÁ TRỊ NHỎ
- Phiên tòa đối với vụ kiện có giá trị nhỏ được thực hiện như sau:
-
HIỆU LỰC CỦA PHÁN QUYẾT ĐỐI VỚI VỤ KIỆN CÓ GIÁ TRỊ NHỎ THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
Chuyên đề 1
KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA
THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
TS. Nguyễn Công Bình
Trường Trung cấp Luật Tây Bắc
1. KHÁI NIỆM THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
Qua tham khảo pháp luật TTDS nhiều nước trên thế giới cho thấy, ngoài thủ tục chung đều có quy định về thủ tục giải quyết đối với các vụ kiện có giá ngạch thấp, thủ tục ra lệnh thanh toán và thủ tục buộc làm một công việc. Theo đó, trong thủ tục giải quyết các vụ kiện có giá ngạch thấp thì đương sự không được quyền kháng cáo phúc thẩm([132]). Thủ tục buộc làm một công việc là thủ tục cho phép đạt được một Án lệnh của Thẩm phán cấp thẩm nhằm buộc phải thực hiện nghĩa vụ như giao đồ vật, trả lại một tài sản, cung cấp một dịch vụ do tính chất của nghĩa vụ là rõ ràng. Đó là một thủ tục đơn giản cho phép đạt được lệnh buộc làm một công việc từ Thẩm phán Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp hoặc Thẩm phán hoà giải([133]). Thủ tục buộc thanh toán là thủ tục cực kỳ đơn giản cho phép đòi thanh toán những khoản nợ dân sự hoặc thương mại rõ ràng bằng cách yêu cầu Thẩm phán hoà giải, Thẩm phán Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp, Chánh án Toà thương mại cấp cho một lệnh buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán. Nếu bên có nghĩa vụ không phản kháng lệnh trả nợ, lệnh này sẽ có giá trị cưỡng chế thi hành([134]). Thủ tục giải quyết các vụ kiện trong trường hợp này thường được gọi là thủ tục rút gọn.
Ở Việt Nam, thủ tục rút gọn trong TTDS là một vấn đề mới, còn đang trong quá trình bàn thảo và xây dựng. Qua nghiên cứu BLTTDS cho thấy tuy Bộ luật này có quy định thủ tục giải quyết việc dân sự để giải quyết những việc không có tranh chấp, nội dung của thủ tục này được quy định đơn giản hơn thủ tục giải quyết các vụ án dân sự nhưng cũng chỉ là thủ tục thông thường không phải là một thủ tục rút gọn theo đúng nghĩa của nó. Bởi thủ tục này chỉ được Tòa án áp dụng để giải quyết đối với những việc không có tranh chấp như các yêu cầu công nhận các quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động hoặc các yêu cầu công nhận, không công nhận một sự kiện pháp lý nào đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật giữa các đương sự còn không được áp dụng để giải quyết đối với những việc có tranh chấp. Hơn nữa, chủ thể tham gia, các công việc được tiến hành, thời gian giải quyết vụ việc và trình tự giải quyết vụ việc được pháp luật quy định còn gần giống với thủ tục tố tụng thông thường, nhiều quy định còn dẫn chiếu áp dụng các quy định của thủ tục tố tụng thông thường.
Xét về thủ tục, việc xác minh, thu thập chứng cứ, việc vận dụng pháp luật để giải quyết các vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc giá ngạch thấp không mấy phức tạp và cũng không đòi hỏi phải mất nhiều thời gian. Đối với những loại việc này, Tòa án có thể bỏ qua các bước không cần thiết mà vẫn đảm bảo việc giải quyết vụ kiện là đúng đắn. Nếu như phải tuân theo đầy đủ các bước từ khai mạc phiên tòa, hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án như đối với các vụ kiện khác thì thực chất cũng chỉ là việc làm mang tính hình thức và quá câu nệ về thủ tục. Mặt khác, dưới góc độ ghi nhận và bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp, thì đối với những vụ kiện này mặc dù các tình tiết, sự kiện đã được xác định rất rõ ràng, việc giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng đắn nhưng đương sự vẫn có thể lạm dụng quyền kháng cáo nhằm mục đích trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Vì vậy, việc áp dụng thủ tục tố tụng thông thường để giải quyết cả những vụ kiện đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc giá ngạch thấp gây phức tạp thêm quá trình giải quyết vụ kiện, kéo dài thời gian giải quyết vụ việc, gây phí tổn cho Nhà nước và đương sự một cách không đáng có nên không phù hợp. Từ đó cho thấy, việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS để áp dụng giải quyết những vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc giá ngạch thấp không mấy phức tạp việc là rất cần thiết. Có chăng vấn đề cần phải bàn ở đây là xây dựng thủ tục này như thế nào, có thể bỏ những công việc nào ở thủ tục này so với thủ tục thông thường, thời gian tiến hành mỗi công việc ở thủ tục này được rút ngắn bao nhiêu và thủ tục này được áp dụng để giải quyết những loại vụ việc dân sự nào. Hiện nay, để nâng cao hiệu quả của công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết này đã chỉ rõ cần phải “…Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định.” Ngày 28-11-2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp mới. Trong đó, nguyên tắc việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm tham gia và nguyên tắc Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số đều có quy định ngoại lệ đối với trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn (Khoản 1 và Khoản 4 Điều 103). Vì vậy, việc nghiên cứu, xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS để áp dụng giải quyết các tranh chấp có nội dung đơn giản, rõ ràng hoặc giá ngạch thấp nhằm giải quyết một cách nhanh gọn, có hiệu quả các tranh chấp còn phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Thủ tục rút gọn là cụm từ ghép của "thủ tục" và "rút gọn". Trong tiếng Việt, "thủ tục" được định nghĩa là "những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định, để tiến hành một công việc có tính chất chính thức"([135]). Theo định nghĩa này thì thủ tục là thể thức trong thực hiện các loại việc mà bản chất của nó là việc tiến hành những công việc theo một trình tự nhất định do pháp luật quy định. Để thực hiện các việc có hiệu quả, tránh được những tiêu cực, lạm quyền của công chức Nhà nước trong thực thi công vụ thì ngoài việc quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các chủ hoạt động của các cơ quan Nhà nước nhất thiết phải được tiến hành theo những thủ tục nhất định. Vì vậy, pháp luật đã quy định nhiều thủ tục khác nhau trong hoạt động giải quyết các loại việc của các cơ quan Nhà nước như thủ tục hành chính, thủ tục hải quan, thủ tục tố tụng v.v...Trong đó, mỗi thủ tục đều có những yêu cầu về chủ thể, công việc, thời gian và trình tự tiến hành. Trong các thủ tục được pháp luật quy định, thì thủ tục tố tụng là một loại thủ tục được pháp luật quy định chặt chẽ nhất, bởi việc áp dụng chúng có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội. Thủ tục TTDS là một loại của thủ tục tố tụng mà việc áp dụng nhằm bảo đảm việc giải quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ án dân sự. Vì vậy, thủ tục TTDS cũng phải được pháp luật quy định chặt chẽ dù cho đó là thủ tục thông thường hay thủ tục rút gọn. Trong tiếng Việt, "rút gọn" được định nghĩa là "làm cho có hình thức ngắn gọn, đơn giản hơn”([136]). Theo định nghĩa này thì rút gọn là làm cho các việc không có nhiều thành phần, không có nhiều mặt, trở thành không phức tạp hay rắc rối. Để giải quyết nhanh chóng và có hiệu quả các công việc, thì việc rút gọn, đơn giản hóa các thủ tục trong các hoạt động của các cơ quan Nhà nước là cần thiết. Đặc biệt là trước yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay thì lại càng cấp thiết. Như vậy, theo nghĩa chung thì thủ tục rút gọn có thể được hiểu là những việc cụ thể phải làm để tiến hành một công việc có tính chất chính thức theo một trật tự quy định ngắn gọn, đơn giản.
Trong khoa học pháp lý, trình tự do pháp luật quy định cho việc giải quyết vụ việc dân sự được gọi là TTDS([137]). Theo đó, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự do pháp luật quy định được gọi là thủ tục TTDS. Trong thủ tục TTDS có thủ tục TTDS thông thường và thủ tục TTDS rút gọn. Tuy nhiên, trong pháp luật TTDS Việt Nam và các các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đã được công bố đến nay vẫn chưa đề cập cụ thể đến các khái niệm này. Trong một số công trình nghiên cứu khoa học pháp lý, các bài viết về TTDS đã được công bố trong thời gian qua tuy có đề cập đến khái niệm thủ tục TTDS rút gọn nhưng còn chung chung như "thủ tục tố tụng rút gọn là thủ tục giải quyết án nhanh chóng, giúp các cơ quan tố tụng giảm tải, tránh được án quá hạn…"([138]) hay "thủ tục rút gọn trong TTDS là thủ tục tố tụng để giải quyết đối với những tranh chấp nhỏ, đơn giản và có chứng cứ rõ ràng...([139]). Tuy vậy, việc đề cập này bước đầu đã cho thấy thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục giải quyết nhanh các vụ việc, với phạm vi giải quyết là tranh chấp nhỏ, đơn giản và có chứng cứ rõ ràng và với mục đích là giảm tải, tránh được án quá hạn. Hạn chế của việc đề cập này là mới chỉ đề cập đến tính "thủ tục" của thủ tục TTDS rút gọn mà chưa đề cập làm rõ được tính chất "rút gọn" của thủ tục TTDS rút gọn cho nên chưa làm rõ được bản chất của thủ tục TTDS rút gọn. Tính chất "rút gọn" của thủ tục TTDS rút gọn thể hiện ở chỗ, nếu như ở thủ tục TTDS thông thường, Tòa án phải tiến hành tất cả các khâu, các công việc để giải quyết vụ việc dân sự thì ở thủ tục TTDS rút gọn một số khâu, một số công việc có thể không phải thực hiện, thành phần giải quyết cũng đơn giản, giảm bớt và thời gian thực hiện các công việc cũng được có thể được rút ngắn. Mặt khác, thủ tục TTDS thông thường được áp dụng để giải quyết đa số các vụ việc dân sự còn thủ tục TTDS rút gọn chỉ áp dụng để giải quyết một số loại vụ việc là các vụ việc đơn giản, rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp, trong đó có cả các vụ việc có tranh chấp hoặc không có tranh chấp.
Từ những vấn đề nêu trên có thể kết luận: Thủ tục TTDS rút gọn là một trong các thủ tục đặc biệt của TTDS được pháp luật quy định để áp dụng giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có nội dung đơn giản, rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp, với thủ tục, thành phần tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng được giản lược, thời hạn giải quyết ngắn.
2. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
Thủ tục TTDS rút gọn là một loại của thủ tục TTDS nên cũng mang những đặc điểm chung của thủ tục TTDS như cũng bao gồm những công việc phải tiến hành, do những chủ thể nhất định tiến hành theo một trình tự do pháp luật quy định. Tuy vậy, như đã nêu thủ tục TTDS rút gọn là một đơn giản, được áp dụng giải quyết các vụ việc dân sự nên so với thủ tục TTDS thông thường thủ tục TTDS rút gọn có các đặc điểm khác biệt sau đây:
2.1. Thủ tục TTDS rút gọn là một trong các thủ tục đặc biệt của TTDS
Thủ tục TTDS thông thường là thủ tục được áp dụng để giải quyết đa số các vụ việc dân sự. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các vụ việc dân sự pháp luật quy định thành phần tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng, các công việc phải tiến hành đầy đủ, thời gian giải quyết tương đối dài đủ để giải quyết các vụ việc nói chung. Tuy vậy, khác với thủ tục TTDS thông thường là thủ tục được áp dụng để giải quyết một số các vụ việc dân sự có nội dung đơn giản, rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp, ở thủ tục TTDS rút gọn, các công việc được tiến hành, thành phần tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng được pháp luật quy định giản lược và thời hạn giải quyết vụ việc dân sự cũng được pháp luật quy định rút ngắn. Vì những lẽ này nên cũng có thể coi thủ tục TTDS rút gọn là một trong các thủ tục đặc biệt của TTDS: Đặc biệt về các vụ việc được áp dụng, đặc biệt về thành phần giải quyết và tham gia tố tụng và đặc biệt về các công việc và trình tự tiến hành.
2.2. Thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục TTDS đơn giản
Thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục được xây dựng trên cơ sở đơn giản hóa thủ tục TTDS nhằm giải quyết một số loại vụ việc cụ thể nhanh gọn, hiệu quả. Một số khâu, một số công việc, thành phần giải quyết vụ việc dân sự và tham gia tố tụng được pháp luật quy định giản lược nhằm bảo đảm việc giải quyết nhanh vụ việc bởi việc bỏ qua chúng vẫn có thể giải quyết đúng vụ việc dân sự. Vì vậy, thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục TTDS đơn giản. Sự đơn giản của thủ tục TTDS rút gọn thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, một số khâu, một số công việc trong giải quyết các vụ việc dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn có thể được pháp luật quy định đơn giản hóa hay lược bỏ như Tòa án không thu thập chứng cứ, không hòa giải, khi xét xử không qua thủ tục tranh luận, không xét xử phúc thẩm vụ việc dân sự nên đương sự không có quyền kháng cáo, VKS không có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm v.v...;
Thứ hai, thành phần giải quyết vụ việc dân sự và tham gia tố tụng trong giải quyết các vụ việc dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn có thể được pháp luật quy định giản lược như việc giải quyết vụ việc dân sự có thể do một Thẩm phán tiến hành, khi giải quyết vụ việc dân sự Tòa án chỉ triệu tập các đương sự đến tham gia tố tụng mà không phải triệu tập những người tham gia tố tụng khác đến tham gia tố tụng, trừ trường hợp việc tham gia tố tụng của họ cần thiết cho việc giải quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ việc dân sự;
Thứ ba, thời gian giải quyết vụ việc dân sự trong giải quyết các vụ việc dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn có thể được pháp luật quy định rút ngắn như thay vì quy định thời gian chuẩn bị xét xử 2 tháng hay 6 tháng như quy định của pháp luật hiện hành đối với thủ tục TTDS thông thường thì có thể quy định thời gian chuẩn bị xét xử một vụ việc dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn là 15 ngày.
2.3. Thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục TTDS được áp dụng giải quyết vụ việc dân sự đơn giản, rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp
Một trong những mục đích cơ bản của TTDS là phải bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và lợi ích của Nhà nước. Cho nên trong giải quyết các vụ việc dân sự ngoài việc phải đáp ứng yêu cầu việc giải quyết vụ việc dân sự phải nhanh chóng thì còn phải đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn và chính xác. Để bảo đảm được yêu cầu này thì không thể áp dụng thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục đơn giản để giải quyết đối với tất cả các vụ việc dân sự. Vì với các đối với các vụ việc phức tạp, không rõ ràng hoặc có giá ngạch lớn nếu các công việc của quá trình giải quyết, thành phần giải quyết và tham gia tố tụng được lược bớt và thời gian giải quyết vụ việc được rút ngắn thì Tòa án khó có thể giải quyết đúng đắn và chính xác vụ việc. Thông thường đối với những loại việc này đòi hỏi Tòa án phải tiến hành tất cả các công việc cần thiết để xác minh làm rõ các tình tiết của vụ việc, giải thích cho đương sự hiểu rõ pháp luật liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ thì mới có thể giải quyết đúng và dứt điểm vụ việc. Ngược lại, đối với những vụ việc dân sự đơn giản, rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp thì Tòa án không cần thiết phải tiến hành hoạt động xác minh thu thập chứng cứ vẫn có đủ chứng cứ, vẫn nhận thức rõ các tình tiết của vụ việc và giải quyết đúng vụ việc; đối với vụ việc có giá ngạch thấp thì việc giải quyết nếu có sai sót cũng không ảnh hưởng nhiều đến quyền lợi và nghĩa vụ của đương sự nên họ cũng có thể chấp nhận được. Vì vậy, pháp luật các nước đều quy định thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục TTDS được áp dụng giải quyết vụ việc dân sự đơn giản, rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp.
3. Ý NGHĨA CỦA THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục TTDS đơn giản. Việc áp dụng thủ tục TTDS rút gọn trong việc giải quyết vụ việc dân sự có ý nghĩa nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án; tiết kiệm thời gian, tiền của của Nhà nước và của đương sự, tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và nhằm đáp ứng yêu cầu về cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế.
3.1. Thủ tục TTDS rút gọn nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án
Trong số các vụ việc Tòa án phải thụ lý giải quyết thì các vụ việc dân sự chiếm đa số, khoảng hơn 60%. Hiện nay, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa các quan hệ kinh tế - xã hội ngày càng phát triển kéo theo các vụ việc Tòa án phải thụ lý giải quyết ngày một nhiều. Để giải quyết được các vụ việc một mặt cần phải tăng cường số lượng Thẩm phán và nâng cao năng lực xét xử của họ nhưng mặt khác cũng phải lược bỏ những khâu rườm rà, những việc làm không cần thiết ngay trong chính các quy định về thủ tục. Nếu tăng số lượng Thẩm phán thì chi phí của Nhà nước cho hoạt động xét xử của Tòa án sẽ lớn và cũng không thể tăng mãi theo tỷ lệ gia tăng các vụ việc Tòa án phải thụ lý giải quyết. Nếu nâng cao năng lực xét xử của Thẩm phán thì cũng chỉ giải quyết được một phần nhưng cũng không phải là việc làm nói là có thể thực hiện ngay được. Biện pháp tốt nhất là song song với việc tăng cường số lượng đội ngũ Thẩm phán thì cần phải đơn giản hóa thủ tục tố tụng để giảm bớt các công việc Tòa án phải tiến hành nhờ đó góp phần giải quyết án tồn đọng, sớm ổn định được các quan hệ xă hội làm cho xă hội phát triển. Vì vậy, thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục với các công việc giải quyết vụ việc được giản lược, thời gian giải quyết được rút ngắn mà vẫn bảo đảm việc giải quyết đúng đắn vụ việc nên việc áp dụng thủ tục này có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án. Việc giải quyết nhanh chóng các vụ việc dân sự góp phần giải quyết kịp thời những bất đồng nảy sinh trong xã hội, ngăn chặn, hạn chế những tác động tiêu cực của chúng trong xã hội và góp phần ổn định xã hội.
3.2. Thủ tục TTDS rút gọn tiết kiệm thời gian, tiền của của Nhà nước và của đương sự
TTDS là quá trình phức tạp, các hoạt động tố tụng do nhiều chủ thể tiến hành như Tòa án, VKS, các đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Trong đó, hoạt động tố tụng của Tòa án có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của các đương sự trong vụ việc. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, các giao lưu dân sự ngày càng mở rộng dẫn tới số lượng các tranh chấp về dân sự ngày một gia tăng làm cho ngành Tòa án phải chịu một áp lực lớn về số lượng công việc. Nếu thủ tục tố tụng rườm rà, các công việc phải tiến hành nhiều thì tất yếu dẫn đến việc giải quyết các tranh chấp bị kéo dài, phải qua nhiều lần xét xử gây lãng phí thời gian, phí tổn cho đương sự và Nhà nước. Để khắc phục tình trạng này, việc quy định thủ tục TTDS rút gọn, lược bỏ những khâu rườm rà, không cần thiết trong thủ tục TTDS sẽ có tác dụng không những tiết kiệm được cho Nhà nước về nguồn lực con người, chi phí kinh phí cho hoạt động của Tòa án mà còn tiết kiệm cả công sức, tiền của cho các đương sự.
3.3. Thủ tục TTDS rút gọn tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
Các thủ tục tố tụng được thiết lập, áp dụng giải quyết các vụ việc tại Tòa án ngoài việc bảo đảm việc giải quyết nhanh chóng, đúng đắn vụ việc thì còn nhằm tạo điều kiện cho các đương sự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước Tòa án. Vì vậy, các thủ tục được thiết lập phải phù hợp với tính chất của từng loại tranh chấp, đáp ứng yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt của thủ tục và phù hợp với điều kiện tham gia tố tụng của đương sự để người dân có thể dễ dàng tiếp cận với công lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Kết quả nghiên cứu và thực tiễn hoạt động tố tụng tại Tòa án cho thấy đối với các vụ việc dân sự phải xuất phát từ đặc trưng của chúng là các đương sự đều có quyền bình đẳng, tự quyết định quyền và lợi ích hợp pháp của họ, Toà án nhân danh Nhà nước thực hiện quyền lực xét xử để giải quyết mâu thuẫn, phân xử, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên theo quy định của pháp luật chứ không phải thực hiện quyền lực của Nhà nước để trừng phạt các đương sự. Tổ chức thủ tục giải quyết vụ việc đơn giản, phiên tòa đơn giản sẽ phù hợp hơn để các bên đương sự có điều kiện trao đổi, trình bày yêu cầu, nguyện vọng của mình, vừa giảm bớt sự nặng nề mà lại mang lại hiệu quả cao. Tình trạng các thủ tục được quy định cứng nhắc, không phù hợp với tính chất của từng loại tranh chấp, không có tính mềm dẻo và linh hoạt của thủ tục và không phù hợp với điều kiện tham gia tố tụng của đương sự thì người dân khó có thể dễ dàng tiếp cận với công lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, đối với một số loại vụ việc có tính chất đơn giản, rõ ràng hoặc giá trị tranh chấp nhỏ thì cần phải được giải quyết theo những thủ tục TTDS đơn giản - thủ tục TTDS rút gọn. Theo đó, thì thủ tục TTDS rút gọn là phương tiện hữu hiệu để đương sự có thể sử dụng để tiếp cận công lý bảo vệ có hiệu quả quyền lợi hợp pháp của mình trước Tòa án.
3.4. Thủ tục TTDS rút gọn vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế
Xu hướng phát triển pháp luật tố tụng trên thế giới hiện nay là đa dạng hoá và đơn giản hoá thủ tục tố tụng cho phù hợp với tính chất của từng loại vụ việc, đáp ứng yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt của thủ tục tố tụng. Kết quả nghiên cứu pháp luật TTDS của nhiều nước trên thế giới cho thấy pháp luật của nhiều nước đều có quy định các thủ tục tố tụng đơn giản hơn bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường để đáp ứng yêu cầu này. Ở Nhật Bản, thẩm quyền giải quyết các vụ việc theo thủ tục rút gọn ở Nhật Bản được giao cho Tòa án giản lược thực hiện. Tòa giản lược có thẩm quyền xét xử các vụ án dân sự có giá trị tranh chấp dưới 1.400.000 Yên (tương đương 300 triệu đồng Việt Nam) và các vụ án hình sự nhỏ, có mức hình phạt là phạt tiền hoặc các hình phạt không nghiêm trọng. Tại Tòa án giản lược, các vụ án đều do 1 Thẩm phán xét xử; tính chất đơn giản trong tố tụng giản lược được phản ánh trong các quy định của pháp luật tố tụng như thủ tục khởi kiện bằng miệng, thủ tục triệu tập được đơn giản hóa, biên bản xét xử đơn giản và bản án ngắn gọn hơn các bản án của Tòa án thông thường. Ở Cộng hòa Pháp, thẩm quyền giải quyết các vụ án đơn giản, những tranh chấp nhỏ được giao cho Tòa án sõ thẩm thẩm quyền hẹp. Tòa án sõ thẩm thẩm quyền hẹp xét xử vụ án bằng một Thẩm phán duy nhất và các bên tham gia tố tụng không nhất thiết phải có luật sư. Tại Tòa sõ thẩm thẩm quyền hẹp có thủ tục xét xử rút gọn để áp dụng giải quyết đối với các vụ án có giá trị tranh chấp không vượt quá 4.000 EUR (tương đương 115 triệu đồng Việt Nam). Theo thủ tục này, người tham gia giải quyết các vụ án không phải là Thẩm phán chuyên trách mà là các Thẩm phán được tuyển chọn từ những người có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực pháp luật, làm việc tại Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp. Ở Trung Quốc, TAND sơ cấp được áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết một số vụ án trong cả lĩnh vực hình sự và dân sự. Theo quy định tại Điều 141 của BLTTDS Trung Quốc, thì việc xác định vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào ba tiêu chí: (1) Tranh chấp giữa các đương sự có sự thật rõ ràng mà hai bên đương sự cơ bản nhất trí, chứng cứ đưa ra rõ ràng. Tòa án không cần phải tiến hành công việc thu thập chứng cứ mà vẫn có thể làm rõ được sự thật, đúng sai của vụ án; (2) Quan hệ pháp luật về tranh chấp giữa các bên đã rõ về việc bên nào được hưởng quyền lợi, bên nào phải gánh vác nghĩa vụ. Đồng thời quan hệ pháp luật về việc giải quyết tranh chấp đó cũng đã được quy định tương đối rõ ràng; (3) Tranh chấp mà hai bên không có bất đồng lớn về đúng sai, trách nhiệm của các bên trong vụ án và các khoản chi phí tố tụng. Điểm đặc biệt của thủ tục rút gọn trong TTDS của Trung Quốc là việc khởi kiện có thể thực hiện bằng miệng. Hai bên đương sự đồng thời đến Tòa án để đề nghị giải quyết tranh chấp. Tùy từng trường hợp, TAND có thể xét xử ngay hoặc có thể ấn định một ngày khác để xét xử. Tòa án có thể thông báo bằng miệng hoặc bằng văn bản cho đương sự về nội dung khởi kiện mà không cần phải tiến hành các thủ tục thông báo chính thức như đối với thủ tục thông thường. Tòa án có thể sử dụng phương thức đơn giản để truyền gọi đương sự, người làm chứng. Việc xét xử theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán tiến hành, không nhất thiết phải tuân thủ lần lượt các trình tự, thủ tục mà có thể linh hoạt. Thời hạn để Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn phải kết thúc trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày lập án.(1)
Ở xã hội Việt Nam, trước đây khi kinh tế chưa phát triển việc kiện tụng dân sự tại Tòa án không nhiều và chủ yếu là các việc kiện về dân sự, hôn nhân và gia đình thì các quy định về thủ tục TTDS trước kia là tương đối phù hợp. Ngày nay, trong điều kiện Nhà nước chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế, quan hệ kinh tế quốc tế thì các tranh chấp dân sự, thương mại cũng nảy sinh ngày một nhiều đòi hỏi các quy định về thủ tục TTDS phải được cải tiến nhằm đáp ứng được yêu cầu về tính nhanh chóng, hiệu quả trong việc giải quyết các loại tranh chấp này. Mặt khác, ngày nay Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới nhưng pháp luật TTDS của chúng ta lại thiếu vắng các quy định về thủ tục tố tụng giản đơn áp dụng đối với các vụ kiện dân sự, thương mại đơn giản, rõ ràng và giá ngạch thấp là chưa thực sự đáp ứng được các yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt của thủ tục TTDS mà công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra. Vì vậy, việc giải quyết các vụ việc dân sự phần nào bị hạn chế chưa đáp ứng được các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thức được vai trò quan trọng của thủ tục rút gọn, tại Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ cần phải “…Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”; “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục TTDS…”. Do đó, việc pháp luật TTDS Việt Nam quy định thủ tục rút gọn trong TTDS là cấp thiết, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, đáp ứng yêu cầu về cải cách thủ tục tố tụng tư pháp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chuyên đề 2
MỐI LIÊN HỆ GIỮA VIỆC XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN VỚI MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
CỦA TỐ TỤNG DÂN SỰ
TS. Nguyễn Triều Dương
Trường Đại học Luật Hà Nội
1. MỐI LIÊN HỆ GIỮA VIỆC XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN VỚI MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
Phạm vi chuyên đề này lần lượt giải quyết hai điểm mấu chốt quan trọng khi nghiên cứu xây dựng một số nguyên tắc của pháp luật TTDS Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự rút gọn ở Việt Nam là: xác định các cơ sở của việc hoàn thiện một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS Việt Nam nhằm xây dựng thủ tục rút gọn ở Việt Nam và mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn với việc hoàn thiện một số nguyên tắc hiện hành của pháp luật Việt Nam phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Trước hết, tác giả muốn phân tích về cơ sở của việc hoàn thiện một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS để xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt nam.
1.1. Cơ sở của việc hoàn thiện một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS Việt Nam nhằm xây dựng thủ tục TTDS rút gọn
Việc hoàn thiện pháp luật TTDS quy định về thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, trong đó có quy định về thủ tục TTDS rút gọn trước hết phải được xác định từ cơ sở của việc hoàn thiện một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật. Bởi vì, nguyên tắc cơ bản của pháp luật là nhưng tư tưởng pháp lý xuyên suốt, quyết định toàn bộ bản chất, nội dung của pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng thể hiện tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong toàn bộ các chế định, nội dung của pháp luật và áp dụng pháp luật TTDS([140]). Xác định cơ sở của việc hoàn thiện các nguyên tắc sẽ là cơ sở cốt lõi để hoàn thiện thủ tục TTDS nói chung và xây dựng thủ tục TTDS nói riêng.
1.1.1. Cơ sở lý luận
Nguyên tắc của luật TTDS là sự quán triệt và thể chế hóa các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp. Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt nam đến năm 2010, định hướng chiến lược đến năm 2020 đã chỉ rõ phải “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia, giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp...”([141]).
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã chỉ rõ quan điểm về việc xây dựng thủ tục rút gọn. Theo đó, cần phải “...Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định"([142]).
Với những quan điểm chỉ đạo trên đây đã định hướng việc cải cách tư pháp đến năm 2020 là cần phải hoàn thiện về thủ tục TTDS, trong đó phải xây dựng thủ tục TTDS rút gọn trong TTDS nhằm bảo đảm đơn giản hóa các thủ tục tố tụng và giải quyết nhanh chóng một số vụ việc.
Hiến pháp với tư cách là một đạo luật gốc của cả hệ thống pháp luật. Những quy định của Hiến pháp về hệ thống các cơ quan tư pháp và các nguyên tắc hoạt động của các cơ quan tư pháp được cụ thể hóa trong LTCTAND và LTCVKSND và BLTTDS. Do vậy, những sửa đổi, bổ sung các quy định của Hiến pháp sẽ là cơ sở pháp lý của việc sửa đổi một số quy định của pháp luật TTDS. Hiến pháp năm 2013 đã có một số sửa đổi, bổ sung theo đó các nguyên tắc về TTDS như: nguyên tắc việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham gia; nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc xét xử công khai; nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số; nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm; nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm...([143]). Tuy nhiên, với sửa đổi, bổ sung của Hiến pháp năm 2013 thì một số nguyên tắc đã được bổ sung quy định để phù hợp với thủ tục tố tụng rút gọn trong tố tụng. Đây là yêu cầu tất yếu của việc phải hoàn thiện các nguyên tắc của pháp luật TTDS để cụ thể hóa các nguyên tắc này trong Hiến pháp năm 2013 nhằm làm cơ sở quy định về thủ tục rút gọn trong TTDS.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn hiện nay cần phải hướng tới bảo đảm các thủ tục phải thuận tiện cho người dân khi người dân có yêu cầu khiếu nại hay khởi kiện; bảo đảm đa dạng hóa các phương thức giải quyết, các thủ tục giải quyết; bảo đảm tính linh hoạt, mềm dẻo về thủ tục và hiệu quả khi áp dụng trong thực tiễn([144]) làm cho quá trình giải quyết vụ việc dân sự không chỉ đúng đắn, khách quan mà còn phải kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể. Vì vậy, việc quy định về thủ tục TTDS rút gọn trong TTDS là cấp thiết, trong đó phải xác định hợp lý các vấn đề như: nguyên tắc để áp dụng thủ tục rút gọn; các loại việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn; vai trò, trách nhiệm của cá nhân thẩm phán...
1.2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự cho thấy không ít các vụ việc dân sự đơn giản, giá trị tài sản tranh chấp nhỏ, chứng cứ rõ ràng, bên có nghĩa vụ thừa nhận nghĩa vụ nhưng quá trình giải quyết các vụ việc này lại kéo dài không cần thiết do hiện nay pháp luật TTDS vẫn không có quy định về các nguyên tắc làm cơ sở áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết loại tranh chấp này. Vì vậy, khi xây dựng về thủ tục tố tụng rút gọn thì trước hết cần quy định các ngoại lệ cho một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS như: nguyên tắc việc xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia; nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số; nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử... để phù hợp với thủ tục TTDS rút gọn.
Tham khảo pháp luật nước ngoài cho thấy hầu hết các nước trên thế giới bên cạnh việc quy định về thủ tục tố tụng thông thường đều quy định về thủ tục tố tụng rút gọn để giải quyết đối với các tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bên có nghĩa vụ thừa nhận nghĩa vụ và những vụ án có giá trị tài sản tranh chấp thấp. Do vậy, việc nghiên xác định các vấn đề về nguyên tắc trên cơ sở tham khảo pháp luật nước ngoài là cơ sở quan trọng xây dựng thủ tục tố tụng này ở Việt Nam.
Có thể thấy thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục đặc biệt trong TTDS để giải quyết đối với các vụ tranh chấp đơn giản, giá ngạch thấp, chứng cứ rõ ràng, bên có nghĩa vụ thừa nhận nghĩa vụ hoặc vụ án có giá ngạch thấp nên cần phải xác định các ngoại lệ cho các nguyên tắc của TTDS để phù hợp với thủ tục rút gọn.
2. MỐI LIÊN HỆ GIỮA VIỆC XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN VÀ VIỆC HOÀN THIỆN MỘT SỐ NGUYÊN TẮC HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Xác định mối liên hệ này với việc hoàn thiện một số các nguyên tắc của pháp luật TTDS trong một thể thống nhất là yêu cầu tất yếu. Vì vậy, trên cơ sở các nguyên tắc chung theo quy định của pháp luật TTDS hiện hành, chúng ta cần phải xác định những ngoại lệ được áp dụng cho thủ tục TTDS rút gọn.
2.1. Với nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự và nguyên tắc hòa giải trong TTDS
Trách nhiệm hòa giải của Tòa án đã trở thành một nguyên tắc cơ bản và đặc trưng của pháp luật TTDS Việt Nam. Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền của Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án, có nêu Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ kiện về dân sự và thương sự, về động sản, về bất động sản, những việc kiện có quan hệ đến thân phận hay căn cước của người hoặc vấn đề tế tự (Điều 11). Điều 9 của Sắc lệnh số 51/SL cũng quy định: “Khi nhận được đơn kiện về dân sự hay thương sự, ông thẩm phán sơ cấp phải đòi hai bên đến để thử hoà giải. Biên bản hoà giải có hiệu lực từ chứng thư”. Sắc lệnh số 16 ngày 10/10/1945 quy định về tổ chức đoàn thể luật sư có nêu “Các luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả các Tòa án hàng tỉnh trở lên và trước các Tòa án quân sự. Điều 3 Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán quy định: “Ban tư pháp xã có quyền hoà giải tất cả các việc dân sự và thương sự, và nếu hoà giải thành sẽ lập biên bản hoà giải, có các uỷ viên và những người đương sự ký”. Sắc lệnh số 112/SL ngày 28/6/1946 bổ sung Sắc lệnh 51/SL ngày 17/4/ 1946 và sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 quy định về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán. Theo Sắc lệnh này thì các tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được ấn định cụ thể nhằm đảm bảo cho việc xét xử ở Tòa án cấp sơ thẩm. Điều 10 Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp quy định: “Biên bản hoà giải là một công chứng chứng thư, có thể đem chấp hành ngay. Tuy nhiên, cho đến lúc biên bản hoà giải được chấp hành xong, nếu Biện lý xét biên bản ấy phạm đến trật tự chung, thì có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền sửa đổi lại hoặc bác bỏ những điều mà hai bên đã thoả thuận. Hạn kháng cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày phòng biện lý nhận được biên bản hoà giải thành”. Quy định này cho thấy pháp luật TTDS của Việt Nam đã thừa nhận giải quyết nhanh một vụ tranh chấp thông qua thủ tục hòa giải và được thi hành ngay, tuy nhiên nếu chưa thi hành xong mà Biện lý thấy sự thỏa thuận này xâm phạm đến trật tự chung thì có quyền yêu cầu Tòa án sửa đổi hoặc bác bỏ những điều hai bên đã thỏa thuận. Điều này, cũng đã được ghi nhận trong pháp luật tố tụng ở thời kỳ Pháp thuộc, theo đó nếu các bên đã hòa giải ở Ủy ban hòa giải ở cấp xã và biên bản này được đưa đến Chánh án tòa điền địa, Chánh án cho triệu tập hai bên đến và nếu hai bên xác nhận sự thỏa thuận, Chánh án sẽ kiểm tra và xác nhận biên bản này thì biên bản này trở thành có hiệu lực chấp hành, nghĩa là có thể đem thi hành như một bản án, nếu sự thỏa thuận chỉ được một phần các thỉnh cầu của nguyên đơn thì biên bản hòa giải vẫn có hiệu lực chấp hành đối với phần các bên hòa giải được([145]). Đây là những quy định ban đầu mang tính nguyên tắc làm cơ sở để xác định mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục tố tụng rút gọn với nguyên tắc trách nhiệm hòa giải trong TTDS.
Tiếp đến theo thông tư số 60-TC ngày 31/12/1958 của Bộ Tư Pháp về sửa đổi thẩm quyền của TAND về thủ tục về ly hôn có quy định “Trong trường hợp hai vợ chồng xin thuận tình ly hôn không thỏa thuận với nhau về con cái và tài sản chung thì TAND huyện cứ công nhận việc thuận tình li hôn, còn về con cái và tài sản chung thì TAND huyện sẽ chuyển hồ sơ lên TAND tỉnh để giải quyết”. Đây cũng là quy định cho thấy pháp luật đã có những quy định hướng tới mục đích bảo đảm giải quyết nhanh các vụ việc dân sự khi chia một vụ việc thành hai vụ việc để giải quyết nhanh phần vụ việc công nhận thuận tình ly hôn.
Sau năm 1959 cho đến nay, pháp luật TTDS Việt Nam hiện không quy định về thủ tục rút gọn, do vậy cũng không có cơ sở để quy định về quyền tự quyết định của đương sự khi họ thỏa thuận với nhau về việc đưa vụ tranh chấp của mình giải quyết thông qua thủ tục tố tụng rút gọn. Mặc dù, về nguyên tắc xuất phát từ nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận trong pháp luật dân sự thì khi các bên đã thỏa thuận trước trong một hợp đồng về việc nếu có tranh chấp về hợp đồng này thì họ sẽ đưa ra giải quyết theo thủ tục tố tụng rút gọn hoặc sau khi tranh chấp xảy ra, các bên lại thỏa thuận đưa vụ tranh chấp của mình giải quyết theo thủ tục rút gọn.
Tham khảo pháp luật TTDS một số nước cho thấy ngoài các trường hợp mà pháp luật quy định có tính liệt kê được xét xử theo thủ tục rút gọn, pháp luật còn ghi nhận về trường hợp các bên thỏa thuận đưa vụ tranh chấp của họ để giải quyết theo thủ tục rút gọn. Theo quy định tại Điều 427 của BLTTDS Đài Loan thì thủ tục tố tụng giản đơn được áp dụng trong các trường hợp như: Tranh chấp về quyền tài sản nếu giá ngạch của vụ án không quá 100.000 Yuan; Trong trường hợp khác thì Tòa án áp dụng thủ tục giản đơn mà không phụ thuộc vào giá ngạch của vụ án như: tranh chấp về thời hạn thuê nhà và thời hạn vay mượn; tranh chấp giữa chủ và thợ trong hợp đồng thuê mướn dịch vụ mà thời hạn hợp đồng không quá một năm; tranh chấp giữa người du học và chủ khách sạn, nhà hang về chi phí ăn uống. ở, tiền phương tiện, tiền trông giữ hành lý, tiền, tài sản khác … Ngoài ra, các bên đương sự cũng có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng thủ tục giản đơn để giải quyết tranh chấp giữa họ mà không cần thuộc một trong những loại tranh chấp nêu trên([146]). Theo pháp luật tố tụng ở Singgapo, các Tòa án giải quyết khiếu kiện nhỏ với thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc mua bán hàng hóa là động sản, cung cấp dịch vụ, bồi thường thiệt hại đến tài sản nhưng với điều kiện là phải được sự thỏa thuận của hai bên tranh chấp là đưa ra Tòa khiếu kiện nhỏ giải quyết. Tòa án khiếu kiện nhỏ sẽ có thẩm quyền giải quyết đối với các trường hợp như: Tranh chấp về mua bán hàng hóa có giá ngạch không quá 2.000 đô la Singgapo; tranh chấp hợp đồng dịch vụ có giá ngạch không quá 5.000 đô la Singgapo; Vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại về tài sản có giá ngạch từ 5.000 đô la Singgapo đến 10.000 đô la Singgapo. Tuy nhiên, trái ngược lại, pháp luật TTDS của Trung Quốc lại trao quyền cho Thẩm phán quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, đương sự không có quyền lựa chọn và theo một số học giả Trung Quốc đã cho rằng quy định này là sự coi thường quyền tố tụng của đương sự nên họ cho rằng quy định của pháp luật TTDS của Trung Quốc là cứng nhắc nên họ cho rằng cần quy định về quyền lựa chọn của đương sự đối với thủ tục rút gọn. Nếu nguyên đơn lựa chọn và bị đơn không đồng ý mà phải đưa vụ án giải quyết ở thủ tục thông thường mà bị đơn bị thua kiện thì phải chịu tổn thất mà nguyên đơn phải bỏ ra, đây được coi là biện pháp trừng phạt đối với bị đơn lạm dụng quyền lựa chọn([147]).
Những tham khảo trên đây từ các quy định của pháp luật Việt Nam trước đây và pháp luật một số nước nêu trên cho thấy sự cần thiết hoàn thiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự và nguyên tắc hòa giải trên cơ sở bảo đảm quyền này của đương sự trong tố tụng đồng thời bảo đảm việc xây dựng thủ tục tố tụng rút gọn phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
2.2. Với nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS
Việc giải quyết theo thủ tục thông thường hay thủ tục rút gọn đều đòi hỏi các tình tiết, sự kiện của vụ việc đều phải được làm rõ nên việc cung cấp chứng cứ và chứng minh có vai trò đặc biệt quan trọng. Vậy vấn đề đặt ra là đối với thủ tục rút gọn thì vấn đề chứng minh và chứng cứ có sự khác biệt gì so với thủ tục thông thường không ?
Nếu xác định thủ tục rút gọn được áp dụng với các vụ việc tranh chấp có giá trị nhỏ và chứng cứ rõ ràng hoặc bên có nghĩa vụ thừa nhận nghĩa vụ thì chúng ta có thể thấy rằng khi giải quyết theo thủ tục rút gọn các vụ việc này, vấn đề cung cấp chứng cứ vẫn đặt ra nhưng việc chứng minh sẽ không đặt ra trong thủ tục này. Tham khảo về thủ tục rút gọn của Trung Quốc chúng ta có thể thấy, với những vụ án dân sự đơn giản thực sự rõ ràng là trường hợp hai bên đương sự trình bày thống nhất đối với sự thực tranh chấp, đồng thời có thể cung cấp chứng cứ đáng tin cậy không cần Tòa án điều tra vẫn có thể biết rõ sự thật, phân biệt rõ đúng, sai. Vì vậy, nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh cần có ngoại lệ cho những vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Có như vậy mới xác định được phạm vi những vụ án gì được giải quyết ở thủ tục rút gọn và trách nhiệm chứng minh ban đầu của đương sự để vụ án đó được giải quyết theo thủ tục rút gọn.
2.3. Với nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số
Để bảo đảm rằng các bản án, quyết định của Tòa án phải khách quan và đúng pháp luật, pháp luật đã ghi nhận, cụ thể hóa và bảo đảm sự tuân thủ pháp luật bằng việc ghi nhận nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Từ khi cách mạng tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm tới việc xây dựng các cơ quan tư pháp cũng như các quy định liên quan đến tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan này. Ngay sau cách mạng tháng Tám 1945, Sắc lệnh số 47 SL ngày 10/10/1945 đã được ban hành cho giữ tạm thời các luật lệ hiện hành của chế độ cũ, trong đó có pháp luật về TTDS, theo đó có quy định về việc xét xử bởi 1 thẩm phán.
Về cơ chế xét xử một Thẩm phán đã từng được quy định trong pháp luật TTDS Việt Nam, trước hết tại Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 tại Điều 10 Sắc lệnh này quy định đối với Tòa án sơ cấp "tại phiên toà, Thẩm phán xét xử một mình Lục sự giữ bút ký, lập biên bản án từ" và đối với Tòa án đệ nhị cấp Điều 17 Sắc lệnh cũng quy định "về dân sự và thương sự, Chánh án xử một mình nhưng khi xử các việc tiểu hình phải có thêm hai viên phụ thẩm nhân dân góp ý kiến". Ngoài ra, trên cơ sở quy định của các Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992, các Điều 12 LTCTAND năm 1960, Điều 7 LTCTAND 1981, Điều 6 LTCTAND năm 1992, Điều 6 LTCTAND năm 2002, Điều 14 BLTTDS năm 2004 đều có quy định về nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Theo nguyên tắc này thì việc xét xử phải được tiến hành bởi một HĐXX gồm nhiều thành viên. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013 ra đời thì đã ghi nhận nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đã số những quy định trừ việc giải quyết theo thủ tục rút gọn([148]).
Tại các LTCTAND năm 1960, 1981, 1992, 2002 đều quy định rằng Tòa án xét xử và quyết định theo đa số nhưng vẫn có ngoại lệ về việc xét xử bởi 1 thẩm phán. Chẳng hạn Điều 12 LTCTAND năm 1960 quy định "TAND thực hành chế độ xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Khi sơ thẩm, TAND gồm một Thẩm phán và hai HTND; trường hợp xử những vụ án nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì TAND có thể xử không có HTND".
Hiện nay, theo quy định tại Điều 52 BLTTDS năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì thành phần HĐXX sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai HTND. Trong trường hợp đặc biệt thì thành phần HĐXX sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba HTND. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết bằng một Thẩm phán cũng được nhà lập pháp ghi nhận tại Điều 55 BLTTDS nhưng đối với các việc dân sự không có tranh chấp.
Mặc dù, pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành không có quy định về việc xét xử một lần như trước kia, nhưng vẫn ghi nhận quyền hạn của Thẩm phán trong việc ra các quyết định giải quyết vụ án như quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, quyết định công nhận sự thoả thuận giữa các đương sự, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định giải quyết việc dân sự. Trên thực tế, Thẩm phán đã thực hiện thẩm quyền độc lập của mình, tự mình giải quyết các vấn đề phát sinh trong vụ án hoặc việc dân sự mà không cần lập một HĐXX.
Qua tham khảo pháp luật TTDS nước ngoài có thể thấy rằng pháp luật TTDS của rất nhiều nước trên thế giới có quy định về thủ tục TTDS rút gọn thì việc xét xử đều giao cho một Thẩm phán đảm nhiệm.
Ngoài ra, một thực tế là việc tham gia của Hội thẩm nhân dân đôi khi còn mang tính hình thức, bởi vì do những yếu kém và hạn chế về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nên Hội thẩm thường bị lệ thuộc và phụ thuộc bởi ý kiến của Thẩm phán nên việc ghi nhận việc xét xử bởi một thẩm phán nhưng có xác định rõ trách nhiệm của thẩm phán sẽ là một bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự không chỉ đúng đắn, nhanh chóng mà còn tiết kiện về nguồn lực con người.
Với những lý do trên có thể thấy rằng, hiện nay cần phải quy định về việc xét xử do một Thẩm phán tiến hành, trao cho Thẩm phán thẩm quyền độc lập trong việc giải quyết các vụ tranh chấp đơn giản, rõ ràng, không có tranh tụng hoặc các vụ tranh chấp có giá trị không lớn là một nhu cầu tất yếu. Nhất là trong công cuộc cải cách tư pháp và pháp luật tố tụng hiện nay việc mở rộng thẩm quyền độc lập của Thẩm phán trong việc quyết định giải quyết một số loại việc đơn giản, rõ ràng là có cơ sở khi mà thực tế, hiện nay đội ngũ cán bộ Tòa án của chúng ta đã được đào tạo, nâng cao một bước đáng kể về kiến thức pháp lý và chuyên môn nghiệp vụ. Vấn đề đặt ra là việc quy định một Thẩm phán độc lập giải quyết trong những trường hợp đó thì có đảm bảo được việc giải quyết vụ việc dân sự được khách quan và quyền lợi hợp pháp của đương sự hay không? Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta cần phải thấy rõ được những ưu điểm, hạn chế của việc xét xử với một hội đồng tập thể và việc xét xử bởi một thẩm phán.
- Ưu điển, hạn chế của cơ chế xét xử tập thể
Có thể nhận thấy rằng, việc xét xử được tiến hành bởi một HĐXX gồm nhiều thành viên có ưu điểm là hạn chế các áp lực tác động từ bên ngoài, mặt khác sự tham gia ý kiến giữa các thành viên của HĐXX sẽ làm sáng tỏ các vấn đề của vụ án, giúp Tòa án nhìn nhận đầy đủ và giải quyết đúng đắn các vụ việc. Tuy nhiên, hạn chế của việc xét xử bởi một hội đồng xét xử lại là ở chỗ không nâng cao được tinh thần trách nhiệm của các thành viên bởi chính chế độ trách nhiệm tập thể. Chúng tôi có thể thấy rằng, việc quy định nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số là nhằm mục đích đảm bảo việc xét xử khách quan và chính xác nhưng không phải bất cứ vụ án nào, dù đơn giản tới đâu cũng phải giải quyết bằng một HĐXX. Đối với những vụ kiện thuộc loại phức tạp về chứng cứ và áp dụng pháp luật thì việc xét xử bằng một Hội đồng gồm nhiều thành viên là hết sức cần thiết nhằm xác định sự thật khách quan, đảm bảo việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật để giải quyết. Ngược lại, đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận nghĩa vụ hoặc các tình tiết của vụ kiện đã được xác định, việc áp dụng pháp luật giải quyết cũng không khó khăn, phức tạp, vụ kiện có giá ngạch thấp nếu phải xét xử bằng một Hội đồng sẽ gây tốn kém cho Nhà nước một cách không cần thiết nên có thể giải quyết bởi một thẩm phán.
- Ưu điểm, nhược điểm của việc xét xử một Thẩm phán
Việc xét xử do Thẩm phán tiến hành có những ưu điểm nhất định. Trước hết, khi trao thẩm quyền độc lập cho Thẩm phán trong việc giải quyết tranh chấp thì sẽ giúp cho Thẩm phán có thể chủ động trong công việc của mình, nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong việc giải quyết. Đối với những loại việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng thẩm phán được thoát ly việc chứng minh và việc áp dụng pháp luật không khó khăn, phức tạp nên Thẩm phán được trao thẩm quyền độc lập giải quyết thì cũng không vì vậy mà Thẩm phán chủ quan, thiếu thận trọng khi giải quyết. Bởi vì, để bảo vệ uy tín, danh dự nghề nghiệp của mình buộc Thẩm phán phải giải quyết vụ kiện một cách thận trọng, khách quan và đúng pháp luật để không ai có thể dị nghị về sự phán đoán ngay thẳng hoặc đánh giá Thẩm phán non yếu về kiến thức pháp lý. Đối với vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, không phức tạp... mà Thẩm phán lại giải quyết sai thì uy tín và danh dự của vị Thẩm phán đó trước các đồng nghiệp và trước nhân dân sẽ như thế nào? Thanh danh và uy tín nghề nghiệp không còn thì làm sao vị Thẩm phán đó còn có đủ tư cách để có thể tiếp tục cương vị của mình khi xem xét tái nhiệm Thẩm phán trong nhiệm kỳ sau. Do đó, nếu có trao thẩm quyền cho Thẩm phán độc lập giải quyết những loại việc nêu trên thì Thẩm phán cũng không thể vì sự không vô tư, khách quan hoặc viện lý do trình độ mà xét xử không đúng pháp luật.
Mặt khác, việc quy định cơ chế xét xử một Thẩm phán đối với một số loại việc nhất định còn một thuận lợi nữa là tiết kiệm cho Nhà nước về nguồn lực con người và chi phí. Có thể khẳng định rằng, mỗi một Quốc gia đều tính đến yếu tố tiết kiệm trong hoạt động của bộ máy Nhà nước mình. Việc xét xử bởi một Thẩm phán sẽ là lý do để tiết kiệm về kinh phí khi mà đất nước chúng ta còn nghèo thì việc tiết kiệm lại càng trở nên cần thiết.
Ngược lại, việc xét xử với một thẩm phán cũng có những nhược điểm nhất định, với một số trường hợp Thẩm phán lợi dụng chức trách của mình, chủ quan, tùy tiện khi giải quyết sẽ dẫn đến việc xét xử bởi một Thẩm phán có thể không đúng đắn, khách quan. Do vậy, nếu quy định để một thẩm phán xét xử thì cần xác định rõ trách nhiệm cá nhân và phải xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm của cá nhân thẩm phán.
Với những ưu điểm và nhược điểm trên của việc xét xử bởi một Thẩm phán, chúng tôi cho rằng việc xây dựng một thủ tục TTDS rút gọn theo hướng trao thẩm quyền cho Thẩm phán độc lập trong việc giải quyết những loại việc đơn giản, không có tranh tụng, chứng cứ rõ ràng hoặc giá ngạch thấp mà không cần phải thành lập HĐXX, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của Thẩm phán trong việc giải quyết là hoàn toàn có cơ sở. Vì vậy, với nguyên tắc HTND tham gia xét xử vụ án theo quy định tại Điều 11 BLTTDS cần sửa đổi theo hướng “trừ các vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn” không có sự tham gia của HTND. Đây cũng là sự cụ thể hóa theo quy định tại khoản 4 Điều 103 của Hiến pháp Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2013.
2.4. Với nguyên tắc xét xử công khai
Một vấn đề đặt ra là đối với các vụ việc được giải quyết theo thủ tục thông thường thì về nguyên tắc phiên tòa phải được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp cần xét xử kín để giữ gìn bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ gìn bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự. Đây là một nguyên tắc đã được khẳng định và ghi nhận trong pháp luật TTDS của Việt Nam qua các thời kỳ. LTCTAND năm 1960 tại Điều 6 có quy định: “Việc xét xử của TAND đều công khai, trừ trường hợp đặc biệt mà TAND xét thấy cần xử kín để giữ gìn bí mật Nhà nước hoặc giữ gìn đạo đức xã hội”.
Như vậy, có thể thấy pháp luật TTDS Việt Nam chưa có quy định ngoại lệ cho trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. Vậy, đối với thủ tục TTDS rút gọn thì Tòa án có bắt buộc phải xét xử công khai hay không?
Xét về bản chất, việc xét xử theo thủ tục rút gọn phải tiến hành công khai. Tuy nhiên, trong một số việc được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn, nếu khi thẩm phán ra quyết định mà thực hiện công khai thì hiệu quả của việc ra quyết định giải quyết theo thủ tục rút gọn sẽ không có hiệu quả do đương sự là người có nghĩa vụ có thể bằng nhiều cách thức để trốn tránh nghĩa vụ về tài sản. Do vậy, đòi hỏi khi thẩm phán ra quyết định này phải bí mật khi ra quyết định và quyết định đó sẽ phải được thi hành ngay thì việc giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn mới có hiệu quả thiết thực.
Tham khảo pháp luật TTDS một số nước cho thấy, thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục có tính giản lược nên có những trường hợp Tòa án giải quyết theo thủ tục này không phải mở phiên tòa công khai. Khoản 2 Điều 809 BLTTDS Pháp quy định: Trong trường hợp trái vụ không còn tranh cãi, Chánh án có thể quyết định cho chủ nợ được tạm ứng trước hoặc ra lệnh thi hành nghĩa vụ, ngày cả khi đó là nghĩa vụ phải làm một công việc gì đó. Theo cơ chế xét xử cấp thẩm như vậy thì trên thực tế Thẩm phán ra quyết định cuối cùng giải quyết mà không phải mở phiên tòa xét xử. Ngoài ra, khoản 2 Điều 126 BLTTDS của Liên bang Nga về thủ tục cấp lệnh cũng quy định rõ: “Lệnh của Tòa án được ban hành không cần phải mở phiên tòa xét xử và không phải triệu tập các bên nghe lời giải thích của họ”. Đây cũng là một nội dung cần tham khảo để hoàn thiện nguyên tắc xét xử công khai khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam.
2.5. Với nguyên tắc hai cấp xét xử
Một vấn đề khác đặt ra, việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn áp dụng loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận nghĩa vụ có liên hệ gì với việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử ?
- Đối với loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận nghĩa vụ thì đây là loại việc đơn giản chỉ là nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ mà bị đơn đã thừa nhận. Vì vậy, nếu quy định bị đơn có quyền kháng cáo đối với bản án của Tòa án trong trường hợp này thì bị đơn sẽ lợi dụng pháp luật kháng cáo nhằm kéo dài vụ án, trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ của mình. Vô hình chung pháp luật đã tạo điều kiện cho người không có thiện chí trong việc thực hiện nghĩa vụ có thể trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ gây thiệt hại cho quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn.
Tham khảo pháp luật TTDS của Trung Quốc cho thấy, đối với những vụ án tranh chấp nhỏ, tình tiết vụ án đơn giản cũng đều thực hiện chung thẩm ở hai cấp xét xử, điều này không phát huy được vai trò của việc bảo đảm chất lượng vụ án mà ngược lại còn hạn chế là làm tăng chi phí hoạt động tố tụng, lãnh phí nguồn lực tư pháp, làm giảm hiệu quả tố tụng nên đối với vụ án tranh chấp nhỏ, tình tiết giản đơn mà áp dụng quy định mang tính bắt buộc phải qua hai cấp xét xử là hoàn toàn không cần thiết nên có học giả cho rằng đối với loại vụ án đó thì áp dụng trung thẩm ở một cấp xét xử([149]).
Chúng tôi cho rằng, để bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn vẫn cần thiết phải quy định phán quyết của Thẩm phán đối với những loại vụ kiện có những chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận nghĩa vụ, sẽ có hiệu lực pháp luật ngay. Tuy nhiên, việc nghiên cứu thiết lập một cơ chế chuyển hoá giữa thủ tục xét xử rút gọn và thủ tục thông thường cũng là một giải pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của các bị đơn “ngay tình” và “trung thực” chống lại sự lạm quyền của bên đi kiện. Cụ thể là cần quy định quyết định của Tòa án buộc thanh toán nợ không bị phản kháng trong một thời hạn nhất định sẽ có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, trong trường hợp người bị kiện phản đối quyết định của Tòa án buộc thanh toán nợ (kháng án) thì vụ kiện sẽ lập tức được đưa ra xét xử tại phiên toà sơ thẩm. Thế nhưng, làm thế nào để chống lại việc bị đơn lạm dụng quyền kháng án nhằm trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ ? Trong trường hợp này, việc quy định về phạt tiền đối với đương sự lạm dụng quyền kháng án và rút ngắn thời hạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm cũng là một giải pháp khả thi.
- Đối với loại vụ kiện có giá ngạch thấp, qua tham khảo pháp luật TTDS ở một số nước có quy định về thủ tục rút gọn có thể thấy rằng các nước này đều có quy định hạn chế quyền kháng cáo của đương sự đối với những vụ việc có giá ngạch thấp. Ở Việt Nam mặc dù quy định việc xét xử của Tòa án phải qua hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm nhưng không phải là không có ngoại lệ. Cơ chế xét xử một lần, tức là xét xử sơ thẩm nhưng bản án của Tòa án có hiệu lực ngay đã từng tồn tại. Theo các Sắc lệnh số 51/SL "ấn định thẩm quyền các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án" ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số 85/SL "Về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng" ngày 22/5/1980 thì cơ chế xét xử một lần được áp dụng đối với những vụ kiện mà đối tượng tranh chấp là những tài sản có giá trị nhỏ và được thực hiện ở các Tòa án sơ cấp và đệ nhị cấp. Tuy nhiên, sau này theo LTCTAND năm 1960, LTCTAND năm 1981 thì việc xét xử hai cấp đã chính thức được ghi nhận thành một nguyên tắc do vậy cơ chế này không còn được áp dụng nữa.
Theo các văn bản về TTDS trong giai đoạn từ năm 1981 đến trước ngày ban hành PLTTGQCVADS năm 1989, thì việc xét xử vẫn được thực hiện theo hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm, đồng thời trong các văn bản pháp luật vẫn quy định về cơ chế xét xử một lần. Tuy nhiên, nếu so sánh với các quy định của thời kỳ trước năm 1960 thì cơ chế xét xử một lần trong thời kỳ này có sự thay đổi về bản chất của nó. Nếu trước năm 1960 cơ chế xét xử một lần chỉ áp dụng ở Tòa án sơ cấp (ở cấp quận, huyện...) và các Tòa án đệ nhị cấp (ở cấp tỉnh), thì theo Điều 21 LTCTAND năm 1981 và Điều 27 Luật sửa đổi bổ sung LTCTAND năm 1988, thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm (xét xử một lần) chỉ thuộc về TANDTC.
So với các văn bản pháp luật về TTDS trong các thời kỳ trước đó, PLTTGQCVADS ngày 29/11/1989 vẫn ghi nhận thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm của TAND và tại Điều 23 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của LTCTAND năm 1993 và năm 1995 vẫn quy định: Toà dân sự TANDTC có nhiệm vụ, quyền hạn sơ thẩm đồng thời là chung thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng... PLTTGQCVAKT năm 1994 và PLTTGQCTCLĐ năm 1996 không có quy định về thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm của Toà kinh tế và Toà lao động TANDTC.
Hiện nay, theo Điều 11 LTCTAND năm 2002, Điều 17 BLTTDSSĐBS thì việc xét xử theo hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản như đã từng quy định trong các LTCTAND năm 1960, 1981. Thế nhưng, xét thực tiễn giải quyết các án kiện trong những năm qua cũng cho thấy những tranh chấp có giá ngạch thấp thường có nội dung đơn giản và tranh chấp cũng không gay gắt. Cơ chế xét xử một lần đã đề cập ở trên cũng có ưu thế là đảm bảo việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp, tránh kéo dài vụ kiện một cách không cần thiết, bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của các bên, tiết kiệm được tiền của và công sức cho cả Nhà nước và đương sự.
Tuy nhiên, chúng ta cần thấy rằng vụ án có giá ngạch thấp không hoàn toàn đồng nghĩa với những vụ án tính chất đơn giản (chứng cứ rõ ràng, bên có nghĩa vụ thừa nhận nghĩa vụ). Bởi vì, một số tiền là nhỏ hay lớn được xác định khác nhau đối với các đương sự khác nhau, điều đó có nghĩa là “số tiền nhỏ” có giới hạn khác nhau đối với những người khác nhau. Mặc dù vậy, thiết nghĩ mục đích của tố tụng là trước hết bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên (mà phần lớn là lợi ích vật chất) và lợi ích chung là trật tự pháp lý (sự tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết) nhưng để đạt được cả hai mục đích này mà quá trình giải quyết phải tiêu tốn quá nhiều sức lực, thời gian tiền của so với quyền lợi vật chất được bảo vệ cho đương sự là việc làm cần phải tính đến, nhất là khi các vụ án đang ngày càng gia tăng gây áp lực cho Tòa án. Vì vậy, trong TTDS của các nước đã tiếp nhận “nguyên tắc mang tính chi phí tương đối”, tức là căn cứ vào số tiền của vụ án để phân loại tranh chấp để áp dụng thủ tục rút gọn hay thủ tục thông thường để duy trì tính quan trọng và chi phí tố tụng cơ bản của vụ án. Căn cứ vào nguyên tắc này, quyền lợi tố tụng của đương sự chịu sự hạn chế nhất định([150]).
Như vậy, với việc tham khảo pháp luật nước ngoài vào điều kiện của Việt Nam hiện tại thì cần phải khôi phục lại các quy định về cơ chế xét xử một lần đối với những tranh chấp có giá ngạch thấp mà không nhất thiết phải trải qua hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm như đối với các vụ kiện khác.
2.6. Với nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS
Một vấn đề đặt ra là khi xét xử theo thủ tục rút gọn với một Thẩm phán giải quyết để ra quyết định và quyết định này có hiệu lực thi hành ngay thì có cần sự tham gia của VKS hay Viện công tố hay không? Vấn đề này cũng cần được làm rõ.
Trong mô hình tố tụng của các nước theo truyền thống pháp luật án lệ, hệ thống cơ quan công tố được tổ chức rất gọn nhẹ và chủ yếu tham gia vào lĩnh vực hình sự mà không tham gia vào lĩnh vực dân sự. Bởi ở các nước này tồn tại quan điểm, “càng ít có sự can thiệp của Nhà nước, càng ít có sự can thiệp của pháp luật thì xã hội càng vận hành có hiệu quả” ([151]). Tuy nhiên, với những nước theo truyền thống pháp luật dân sự, vai trò của Viện công tố hay VKS trong lĩnh vực dân sự được đề cao hơn,
Tham khảo quy định của pháp luật TTDS một số nước cho thấy, với những nước thừa nhận vai trò của VKS hay Viện công tố thì đối với thủ tục rút gọn không có sự tham gia của chủ thể này. Theo BLDS và BLTTDS của Cộng hòa Pháp thì Viện Công tố có nhiệm vụ, quyền hạn: Thực hiện quyền khởi kiện như một bên đương sự (chủ yếu liên quan đến các vấn đề như tuyên bố chết, mất tích, hủy việc kết hôn trái pháp luật, hạn chế quyền của cha mẹ đối với con….), thực hiện quyền yêu cầu áp dụng pháp luật và đại diện cho cơ quan Nhà nước. Khi thực hiện quyền khởi kiện như một bên đương sự. Viện công tố bắt buộc phải tham gia phiên tòa sơ thẩm dân sự và tham gia tranh luận.
Theo BLTTDS của Liên bang Nga, trong trường hợp VKS khởi kiện thì tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, kiểm sát viên phát biểu lập luận của mình về mọi vấn đề trong quá trình xét xử, phản đối yêu cầu và lập luận của những người tham gia tố tố tụng khác… (Điều 35 BLTTDS). Tuy nhiên, VKS chỉ có quyền khởi kiện đối với trường hợp yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền tự do và quyền lợi ích hợp pháp của công dân (trong trường hợp công dân đó không thể tự mình khởi kiện vì lý do sức khỏe, tuổi tác, không có năng lực hành vi dân sự hoặc vì những lý do chính đáng khác), lợi ích Liên bang Nga, chủ thể Liên bang Nga, các tổ chức tự quản địa phương (Điều 45). Bên cạnh đó, kiểm sát viên còn bắt buộc tham gia đối với một số phiên tòa giải quyết vụ việc theo thủ tục tố tụng đặc biệt như yêu cầu nhận nuôi con nuôi (Điều 273), công nhận công dân mất tích (Điều 278), hạn chế năng lực hành vi của công dân, thừa nhận người không có năng lực hành vi dân sự (Điều 283), tuyên bố người chưa có năng lực hành vi đầy đủ.
BLTTDS của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Điều 14 BLTTDS quy định VKS có quyền giám sát đối với các hoạt động xét xử dân sự. Tuy nhiên, việc giám sát các hoạt động xét xử dân sự của VKS được thực hiện thông qua hình thức kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa án (Điều 185 đến Điều 188 BLTTDS).
Như vậy, qua tham khảo pháp luật của một số nước cho thấy, với những nước đề cao vai trò VKS thì VKS chỉ bắt buộc tham gia đối với các vụ việc dân sự liên quan đến việc bảo vệ lợi ích công cộng, quyền lợi của người chưa thành niên, người hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, các vụ việc chỉ có một bên đương sự… Tuy nhiên, khi chúng ta xây dựng thủ tục rút gọn thì vấn đề đặt ra là để vừa giải quyết nhanh một vụ án mà vừa tạo ra cơ chế kiểm tra, giám sát nhằm bảo đảm tính đúng đắn của phán quyết giải quyết theo thủ tục rút gọn thì VKS có quyền phản đối để một vụ việc đã được giải quyết theo thủ tục rút gọn nhưng sau khi có quyết định thì VKS lại đề nghị xét xử theo thủ tục thông thường hay không ? Chúng tôi cho rằng không nên quy định việc tham gia của VKS vào thủ tục rút gọn là phù hợp với mục đích của việc giải quyết theo thủ tục này và tương đồng với pháp luật tố tụng một số nước có quy định về việc tham gia của VKS hay Viện công tố trong TTDS. Vì vậy Điều 21 BLTTDS cần quy định theo hướng VKS sẽ không tham gia quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn như là một ngoại lệ của nguyên tắc này. Tuy nhiên, cũng như thủ tục thông thường VKS có thể kháng nghị bản án, quyết định giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn để giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
KẾT LUẬN
Xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS là một yêu cầu cấp thiết, để xây dựng được thủ tục này thì trước hết cần phải sửa đổi, bổ sung một số nguyên tắc của pháp luật TTDS làm cơ sở để thực hiện thủ tục này.
Nghiên cứu pháp luật TTDS Việt Nam cho thấy thẩm quyền của Thẩm phán trong TTDS, nhất là việc ra quyết định công nhận sự thoả thuận giữa các bên đương sự, quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời và hiệu lực thi hành ngay của các quyết định này. Các quy định này đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn và cho đến nay vẫn được ghi nhận trong pháp luật. Tuy nhiên, đã từng có thời kỳ pháp luật quy định việc xét xử do một Thẩm phán tiến hành, với việc dân sự hoặc do một HĐXX tuỳ theo tính chất phức tạp hoặc đơn giản, quan trọng hay không quan trọng của từng loại vụ án và bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực ngay.
Đối chiếu với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng của Việt Nam hiện hành và tham khảo pháp luật TTDS một số nước đã ghi nhận về thủ tục rút gọn đã cho thấy để xây dựng thủ tục rút gọn thì đòi hỏi phải có sự sửa đổi đối với một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS như: trao quyền định đoạt cho đương sự về thỏa thuận chọn thủ tục rút gọn; xây dựng một thủ tục đơn giản hơn theo hướng một Thẩm phán có thể độc lập trong việc ra một phán quyết để giải quyết một vụ việc không có tranh tụng hoặc vụ việc đã rõ ràng, việc áp dụng pháp luật giải quyết mang tính hiển nhiên; phán quyết của Thẩm phán trong những trường hợp này sẽ có hiệu lực pháp luật ngay; và không áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử; không có sự tham gia của kiểm sát viên.
Chuyên đề 3
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ VÀ THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
TS. Trần Phương Thảo
Trường Đại học Luật Hà Nội
1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ÁP DỤNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN VÀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ ĐỂ GIẢI QUYẾT MỘT SỐ VỤ VIỆC DÂN SỰ PHÙ HỢP
Do các vụ việc dân sự phát sinh tại tòa án là khác nhau nên mỗi loại vụ việc dân sự đòi hỏi tòa án phải có một cách thức, thủ tục giải quyết khác nhau. Cũng vì thế, nhu cầu cần phải đa dạng hóa các biện pháp, các thủ tục giải quyết vụ việc dân sự để tòa án có thể chủ động áp dụng linh hoạt trong hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự là nhu cầu tất yếu.
Thông thường việc giải quyết các vụ việc dân sự tại TAND cần phải được thực hiện theo một quy trình tranh tụng rất chặt chẽ, vì thế thời hạn ấn định cho việc thực hiện quy trình đó phải tương đối dài và phải huy động tới nhiều người tiến hành TTDS mới có thể giải quyết đúng đắn nhất, chính xác nhất quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đương sự. Tuy nhiên, thực tế các vụ việc dân sự phát sinh tại tòa án còn cho thấy bên cạnh đa số các vụ án dân sự có các bên đương sự mâu thuẫn, tranh chấp với nhau còn có một số việc dân sự chỉ có một bên đương sự tìm đến tòa án để yêu cầu tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý nào đó có liên quan đến quyền, lợi ích của họ chứ họ không hề có mâu thuẫn, tranh chấp với ai. Vì không có mâu thuẫn, tranh chấp, vì không có các bên đương sự đối đầu với nhau nên tòa án phải áp dụng một thủ tục giải quyết khác với thủ tục giải quyết thông thường, có như vậy mới không phức tạp hóa một cách không cần thiết việc giải quyết việc dân sự. Thủ tục giải quyết việc dân sự này cần được quy định trong pháp luật TTDS như là một thủ tục đặc biệt.
Bên cạnh sự xuất hiện tương đối đặc biệt của việc dân sự, thực tiễn các vụ việc dân sự phát sinh tại tòa còn cho thấy có một loại vụ việc dân sự nữa, đó là những vụ việc dân sự mặc dù có thể vẫn có các bên đương sự tranh chấp với nhau nhưng nội dung vụ việc rất đơn giản, giá ngạch tranh chấp thấp, chứng cứ rõ ràng hay một bên đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ. Để giải quyết những vụ việc dân sự có tính rõ ràng này, đơn giản này, tòa án cũng cần phải áp dụng một cách thức giải quyết riêng cho phù hợp. Nếu vụ việc phức tạp đòi hỏi một thủ tục giải quyết phức tạp, chặt chẽ thì ngược lại, với những vụ việc dân sự có tính rõ ràng này chỉ cần tòa án áp dụng một cách thức giải quyết giản lược, đơn giản. Trong pháp luật TTDS của một số nước, các nhà lập pháp đặt tên cho thủ tục TTDS này là thủ tục tố tụng rút gọn.
Phân biệt thủ tục tố tụng rút gọn với thủ tục giải quyết việc dân sự trong TTDS là rất cần thiết. Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự tại tòa án cho thấy số lượng việc dân sự phát sinh ngày càng nhiều trong khi đó mô hình thủ tục giải quyết việc dân sự với mô hình giải quyết theo thủ tục rút gọn có những nét tương đồng rất gần nhau. Nhận biết được những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai thủ tục tố tụng này sẽ xác định được đúng thủ tục cần áp dụng để giải quyết vụ việc dân sự cho phù hợp, từ đó mới bảo vệ hiệu quả quyền, lợi ích của đương sự tại TAND.
2. ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG GIỮA THỦ TỤC RÚT GỌN VÀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ
Theo giải thích trong Từ điển tiếng Việt thì “thủ tục” được hiểu là “những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định để tiến hành một công việc có tính chất chính thức”([152]). Thủ tục rút gọn và thủ tục giải quyết việc dân sự là hai thủ tục trong số các thủ tục TTDS có thể được tòa án lựa chọn áp dụng để giải quyết những vụ việc dân sự phù hợp. Mặc dù trong BLTTDS Việt Nam hiện nay chưa có điều luật nào quy định về thủ tục rút gọn nhưng qua tham khảo các quy định về thủ tục rút gọn trong pháp luật TTDS của một số nước có thể thấy vì đều là thủ tục TTDS nên điểm tương đồng đầu tiên của thủ tục rút gọn và thủ tục giải quyết việc dân sự là cả hai thủ tục giải quyết vụ việc dân sự này đều bao gồm trình tự những việc cụ thể phải thực hiện theo một trật tự đã được pháp luật TTDS quy định. Cho dù thủ tục “rút gọn” có “làm cho hình thức ngắn gọn” đến đâu, làm cho cách thức giải quyết vụ việc dân sự có “đơn giản” đến đâu thì thủ tục rút gọn cũng vẫn bao gồm một số công việc nhất định phải làm và làm theo một trình tự đã được quy định. Ví dụ các công việc phải thực hiện khi giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn vẫn phải bắt đầu từ việc làm đơn yêu cầu, thụ lý đơn yêu cầu, chuẩn bị cho việc giải quyết yêu cầu và tổ chức phiên tòa hay phiên họp để giải quyết đơn yêu cầu. Những công việc này là không thể thiếu trong quy trình giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn. Chỉ một số công việc khác thường áp dụng trong thủ tục tố tụng thông thường như hòa giải cho các bên, hoạt động tranh tụng giữa các bên tại tòa án thì có thể giản lược bớt. Những hoạt động tố tụng giản lược này cũng xảy ra trong cách thức, thủ tục giải quyết việc dân sự. Đặc thù của việc dân sự là không có mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bên đương sự, không có tranh giành, đối kháng giữa các chủ thể với nhau về quyền và lợi ích nên thủ tục giải quyết việc dân sự chỉ cần được tiến hành đơn giản, ngắn gọn (tất nhiên không thể đơn giản, ngắn gọn đến mức chỉ có một công việc duy nhất phải làm khi giải quyết việc dân sự). Cũng giống như thủ tục rút gọn, thủ tục giải quyết việc dân sự cũng được tiến hành theo trình tự nhất định như làm đơn yêu cầu, thụ lý đơn yêu cầu, chuẩn bị xét đơn yêu cầu, mở phiên họp xét đơn yêu cầu, ra phán quyết giải quyết đơn yêu cầu…. Nhìn chung, trong TTDS, để đảm bảo việc giải quyết các vụ việc dân sự tại TAND được đúng đắn, khách quan thì cho dù thủ tục TTDS nào được tòa án áp dụng: thủ tục tố tụng thông thường hay thủ tục tố tụng đặc biệt, thủ tục rút gọn cần nhanh chóng, giản lược hay thủ tục giải quyết việc dân sự cần đơn giản, ngắn gọn thì các thủ tục này vẫn có điểm chung giống nhau là phải giải quyết vụ việc dân sự theo một trình tự các công việc cần thiết.
Điểm tương đồng thứ hai giữa thủ tục tố tụng rút gọn với thủ tục giải quyết việc dân sự là cả hai thủ tục này đều được nhìn nhận là hai thủ tục TTDS đặc biệt. Tất nhiên những dấu hiệu đặc biệt cụ thể của mỗi thủ tục là khác nhau nhưng nhìn chung cả thủ tục rút gọn và cả thủ tục giải quyết việc dân sự đều đặc biệt ở chỗ mặc dù các thủ tục này vẫn cần được tiến hành theo một quy trình với một số công việc nhất định nhưng không cần phải quá máy móc, quá nghiêm ngặt như thủ tục thông thường hay thời hạn để tiến hành các công việc nhất định đó đều không cần phải tương đối dài để xem xét thật kỹ lưỡng các vấn đề của vụ việc dân sự giống như thủ tục thông thường. Nhìn chung, thủ tục rút gọn và thủ tục giải quyết việc dân sự được áp dụng giải quyết các vụ việc dân sự có nội dung tương đối đơn giản, rõ ràng, đương sự không có tranh chấp gay gắt hoặc đương sự chỉ cần tòa công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý nên cách thức giải quyết của tòa án trong hai thủ tục này nhìn chung là nhanh gọn và giản lược. Vì đơn giản và giản lược hơn nên khi giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn hay thủ tục giải quyết việc dân sự, tòa án không nhất thiết phải tổ chức phiên tòa do một hội đồng tập thể gồm các thẩm phán tiến hành, trong phiên tòa không nhất thiết phải thực hiện một số thủ tục nghi lễ hay thủ tục tranh tụng giữa các bên đương sự…
3. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA THỦ TỤC RÚT GỌN VỚI THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ
Ngoài những nét tương đồng, hai thủ tục tố tụng đặc biệt là thủ tục rút gọn và thủ tục giải quyết việc dân sự có những điểm khác biệt tương đối rõ. Chúng ta có thể nhận diện được hai thủ tục này dựa vào vào một số tiêu chí cơ bản sau:
3.1. Dựa vào loại vụ việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn và loại vụ việc được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự
Tham khảo pháp luật TTDS của nhiều nước có quy định về thủ tục rút gọn, loại vụ việc được Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết là những vụ việc mà tranh chấp có giá trị thấp, chứng cứ rõ ràng, nội dung tranh chấp rất đơn giản hoặc người có nghĩa vụ trong vụ án thừa nhận nghĩa vụ của mình. Trong pháp luật TTDS của Pháp mà cụ thể là Nghị định ngày 28/12/1998 quy định về thẩm quyền thì Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp sẽ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ kiện có giá trị tranh chấp dưới 25.000 francs. Sắc lệnh ngày 28/12/2005 của Pháp còn quy định rõ những vụ kiện có giá trị nhỏ dưới 4000 euros thì không bị kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. Ngoài ra Điều 1405 BLTTDS Pháp còn quy định về lệnh thanh toán nợ - một thủ tục giản đơn trong một số trường hợp như khoản nợ có nguồn gốc từ một hợp đồng hoặc từ một nghĩa vụ theo điều lệ và là một số tiền nhất định, nợ do cam kết nhận hoặc rút hối phiếu, ký nhận một kỳ phiếu, chuyển nhượng hoặc bảo lãnh các loại tín phiếu hoặc nhận chuyển nhượng một khoản nợ…. Thủ tục ra lệnh thanh toán nợ cũng được quy định trong BLTTDS liên bang Nga tại Điều 121 áp dụng trong những trường hợp như yêu cầu căn cứ vào giao dịch đã được công chứng hay căn cứ vào giao dịch được thực hiện dưới hình thức văn bản viết không cần công chứng, chứng thực, yêu cầu căn cứ vào bác lại kỳ phiếu về việc không trả tiền, không chấp nhận và chấp nhận không định ngày tháng…. Theo pháp luật luật TTDS của Australia, trong hệ thống tổ chức của Tòa án có thành lập Tòa án địa phận có thẩm quyền giải quyết những khiếu kiện nhỏ. Ví dụ Tòa án cấp thấp nhất trong hệ thống Tòa án là Tòa án đia phận được thành lập trên một hoặc một vài khu phố. Thẩm quyền của Tòa án này là xét xử những vụ án hình sự, dân sự nhỏ, có giá ngạch thấp. Tòa án địa phận gồm bộ phận là tòa chung và tòa đòi món nợ nhỏ([153]). Trong pháp luật TTDS Nhật Bản có quy định về thẩm quyền của Tòa án giản lược. Tòa này có quyền xét xử những vụ án có yêu cầu không quá 900.000 Yên và chỉ do một thẩm phán duy nhất xét xử([154]). Trong BLTTDS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng giành hẳn chương 13 quy định về thủ tục rút gọn. Thủ tục này sẽ áp dụng để giải quyết những vụ án dân sự đơn giản, sự việc rõ ràng, tranh chấp không gay gắt. Trong BLTTDS Đài Loan tại Điều 427 cũng có quy định về thủ tục giản đơn áp dụng cho trường hợp tranh chấp về quyền tài sản mà giá ngạch của vụ kiện không quá 100.000 Yuan hoặc không cần phải dựa vào giá ngạch nếu vụ kiện đó là tranh chấp về thời hạn thuê nhà, thời hạn vay mượn, tranh chấp yêu cầu thanh toán nợ trong trường hợp có giấy vay nợ, tranh chấp về lãi xuất tiền vay, tranh chấp về yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu…. Tìm hiểu pháp luật TTDS của một vài nước Châu Á gần Việt Nam nhận thấy những nước này cũng có quy định về thủ tục rút gọn. Theo pháp luật TTDS Thái Lan, Tòa án liên huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án giản đơn, có giá ngạch thấp. Pháp luật TTDS Thái Lan không cho phép kháng cáo phúc thẩm về vấn đề sự kiện của vụ án nếu giá ngạch của vụ án dưới 50.000 bạt([155])…. Hàn quốc cũng là một quốc gia thừa nhận về thủ tục rút gọn áp dụng với những vụ kiện giản đơn, vụ kiện có giá trị tranh chấp dưới 5000.000 Won và có tới 65% số vụ án dân sự được giải quyết bằng thủ tục giản đơn([156]). Đối với Singgapo những khiếu kiện nhỏ ví dụ tranh chấp về mua bán hàng hóa có giá ngạch không quá 2.000 đô la, tranh chấp hợp đồng dịch vụ có giá ngạch không quá 5.000 đô la, tranh chấp về bồi thường thiệt hại về tài sản có giá ngạch từ 5.000 đến 10.000 đô la Singgapo sẽ là những vụ việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn([157]).
Như vậy, bản chất của thủ tục rút gọn là giải quyết nhanh vụ án nên thủ tục rút gọn được áp dụng để giải quyết các vụ án dân sự chứa đựng những sự kiện pháp lý rõ ràng, mâu thuẫn, tranh chấp có giá trị nhỏ, nội dung sự việc đơn giản, lời khai của các bên tương đối thống nhất, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu rất đầy đủ, rõ ràng … Nói một cách ngắn gọn, đặc thù của loại vụ án dân sự được áp dụng thủ tục rút gọn phải là những vụ án có tính rõ ràng. So với thủ tục giải quyết việc dân sự được quy định trong BLTTDS Việt Nam, thủ tục giải quyết việc dân sự chỉ được tòa án áp dụng để giải quyết việc dân sự không có mâu thuẫn, tranh chấp, tuyệt đối không áp dụng để giải quyết tranh chấp dân sự. Theo các điều 26, 28, 30, 32 BLTTDS sửa đổi cho thấy về cơ bản, các việc dân sự được áp dụng thủ tục giải quyết việc dân sự bao gồm hai loại việc sau đây:
- Thứ nhất: Các việc dân sự không có tranh chấp về quyền, lợi ích hợp pháp giữa các bên do các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về các tình tiết của sự việc cũng như những quyền, lợi ích giữa các bên và các bên cùng yêu cầu tòa án công nhận để làm cơ sở cho thi hành án sau này. Cụ thể những việc dân sự này là yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con khi ly hôn.
- Thứ hai: Các việc dân sự mà bản chất là không có tranh chấp về quyền, lợi ích hợp pháp giữa các bên do tính chất đặc thù của loại việc và chỉ một bên đương sự yêu cầu tòa án giải quyết, bao gồm:
+ Một bên đương sự yêu cầu xác định tình trạng của một cá nhân do sự vắng mặt của họ tại nơi cư trú (như thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó; tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết) hoặc yêu cầu xác định năng lực hành vi dân sự của một cá nhân (yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự...)
+ Một bên đương sự yêu cầu tòa án tuyên bố chấm dứt một quan hệ pháp lý đang tồn tại như yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật, yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi, yêu cầu tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng([158]).
Như vậy, dựa vào tính chất của mỗi loại vụ việc dân sự được tòa án giải quyết để tòa án có thể áp dụng cách thức giải quyết mỗi loại vụ việc dân sự cho phù hợp. Thủ tục rút gọn sẽ áp dụng giải quyết các vụ án dân sự có tính rõ ràng, thủ tục giải quyết việc dân sự sẽ được áp dụng giải quyết các việc dân sự, tức là giải quyết yêu cầu công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý nào đó.
3.2. Một số điểm khác nhau về thủ tục tố tụng
Mặc dù nhìn chung cả hai thủ tục là thủ tục rút gọn và thủ tục giải quyết việc dân sự đều có cách thức giải quyết đơn giản, nhanh gọn nhưng giữa chúng vẫn có một số điểm khác biệt cần lưu ý.
3.2.1. Về thành phần tiến hành tố tụng
Theo quy định tại Điều 55 BLTTDS Việt Nam, việc giải quyết việc dân sự thông thường chỉ do một thẩm phán tiến hành nên không có sự tham gia của HTND. Lý do thuyết phục nhất giải thích cho quy định này là vì việc dân sự không có mâu thuẫn, tranh chấp, không có các bên đương sự đối đầu, tranh giành với nhau nên việc giải quyết các yêu cầu về dân sự này tương đối dễ dàng, thuận lợi. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt, đối với một số việc dân sự có mức độ phức tạp, khó khăn hơn thì việc giải quyết các yêu cầu đó cần phải có số thành viên tham gia giải quyết đông hơn gồm ba thẩm phán. Đó là các yêu cầu về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động được quy định tại khoản 5 Điều 26, khoản 6 Điều 28, khoản 2 và 3 Điều 30, Điều 32 BLTTDS hoặc xét kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định giải quyết việc dân sự sẽ do một tập thể gồm ba thẩm phán giải quyết. Ngoài ra, đối với yêu cầu hủy quyết định của trọng tài thương mại do trước đó việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại do một trọng tài viên hoặc Hội đồng trọng tài gồm ba trọng tài viên giải quyết nên khi giải quyết yêu cầu hủy quyết định của trọng tài thương mại cũng phải do một tập thể gồm ba thẩm phán giải quyết.
Tham khảo pháp luật tố tụng của nhiều nước quy định về thủ tục rút gọn và dựa vào tính chất đơn giản, rõ ràng của của những vụ việc được giải quyết bằng thủ tục rút gọn có thể nhận thấy những nước này đều thống nhất quy định cơ chế xét xử một thẩm phán đối với những vụ việc có giá trị tranh chấp nhỏ, nội dung tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng. Cơ chế xét xử một thẩm phán, không có sự tham gia của HTND này sẽ có tác dụng đẩy nhanh tiến trình giải quyết một số vụ việc dân sự, giảm bớt chi phí tố tụng, tiết kiệm cho ngân sách nhà nước cũng như đương sự, đồng thời phát huy sự chủ động, tích cực trong công việc của thẩm phán, làm cho trách nhiệm cá nhân của thẩm phán được nâng cao hơn.
3.2.2. Về sự tham gia của Viện kiểm sát
Khoản 3 Điều 21 LTCVKSND năm 2002 có quy định “VKSND có trách nhiệm tham gia các phiên tòa xét xử vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, ở tất cả các giai đoạn tố tụng”. Khi BLTTDS được ban hành, nghĩa vụ chứng minh thuộc về các đương sự có yêu cầu, vai trò của Tòa án trong hoạt động thu thập chứng cứ đã có sự thay đổi nên vai trò của VKS trong TTDS cũng có sự thay đổi nhất định. Trong việc giải quyết các việc dân sự tại Tòa án, do thành phần giải quyết việc dân sự đa số là do một thẩm phán tiến hành nên để tránh khả năng lạm quyền của thẩm phán đòi hỏi phải có sự kiểm sát chặt chẽ của VKS. Vì vậy, khoản 2 Điều 313 BLTTDS đã quy định kiểm sát viên đại diện cho VKS sẽ tham gia các phiên họp giải quyết việc dân sự, nếu vắng mặt kiểm sát viên phiên họp giải quyết việc dân sự sẽ bị hoãn lại. Như vậy, sự tham gia của VKS trong thủ tục giải quyết việc dân sự là bắt buộc.
Còn đối với những vụ việc dân sự được áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết, sự tham gia của VKS tại phiên tòa có là bắt buộc hay không có thể cần được bàn luận, cân nhắc khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam nhưng có lẽ do tính chất vụ việc quá đơn giản, chứng cứ dùng để giải quyết vụ việc đã rõ ràng, nghĩa vụ đã được bị đơn thừa nhận hay giá trị tranh chấp nhỏ nên quy định về sự tham gia của VKS cũng không nên cứng nhắc. VKS vẫn có thể kiểm sát được việc giải quyết vụ việc dân sự được giải quyết theo thủ tục rút gọn bằng cách sau khi Tòa án thực hiện xong thủ tục giải quyết vụ việc, Tòa án chuyển hồ sơ sang cho VKS để VKS giám sát việc tuân theo pháp luật.
3.2.3. Về thủ tục ra phán quyết và cơ chế kháng án
Theo quy định của BLTTDS Việt Nam về thủ tục giải quyết việc dân sự, Tòa án không cần phải mở phiên tòa mà chỉ cần mở phiên họp để giải quyết việc dân sự. Phiên họp này được tiến hành theo trình tự tố tụng tương đối đơn giản, ngắn gọn và thường do một thẩm phán tiến hành nên không có thủ tục nghị án. Đối với thủ tục giải quyết việc dân sự, thủ tục tranh luận không cần phải tiến hành bởi trong việc dân sự thường chỉ có một bên đương sự đưa ra yêu cầu giải quyết việc dân sự, mặt khác tính chất của việc dân sự được yêu cầu giải quyết cũng thường tương đối đơn giản, không cần phải tranh luận gay gắt. Cá nhân thẩm phán sẽ dựa trên những thông tin, tình tiết, sự kiện mà người yêu cầu giải quyết việc dân sự cung cấp để ra phán quyết công nhận hay không công nhận sự kiện pháp lý mà người yêu cầu giải quyết việc dân sự đưa ra. Nhìn chung thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự đơn giản hơn, nhanh gọn hơn sơ với thủ tục tiến hành phiên tòa giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, đối với một số yêu cầu giải quyết việc dân sự thì thủ tục giải quyết một số việc dân sự đó lại có đặc thù riêng như thủ tục thông báo tìm kiếm người vắng mặt trên các phương tiện thông tin đại chúng, thủ tục giám định của cơ quan y tế về khả năng nhận thức của người bị yêu cầu tuyên bố là mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự… Kết quả của phiên họp giải quyết việc dân sự thường là Tòa án ra quyết định giải quyết việc dân sự. Quyết định này vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Có thể do cần đảm bảo chế độ xét xử hai cấp, có thể do không phải bất cứ yêu cầu giải quyết việc dân sự nào cũng đơn giản, dễ dàng giải quyết nên pháp luật TTDS Việt Nam vẫn quy định theo hướng thủ tục giải quyết việc dân sự không phải là thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm, khi cần thiết quyết định giải quyết việc dân sự vẫn có thể là đối tượng của cấp xét xử phúc thẩm nhằm bảo đảm tối đa quyền của đương sự được sử dụng hai cấp xét xử.
Đối với thủ tục rút gọn, tham khảo pháp luật TTDS của nhiều nước có quy định về thủ tục này nhận thấy thủ tục rút gọn được áp dụng để giải quyết các tranh chấp đơn giản, rõ ràng hoặc có giá nghạch thấp. Vì thế thủ tục giải quyết các tranh chấp này cũng rất đơn giản, ngắn gọn, ví dụ như theo BLTTDS của Nga, khi áp dụng thủ tục ra lệnh thanh toán nợ - một thủ tục theo mô hình rút gọn thì Tòa án giải quyết vụ việc mà không cần mở phiên tòa xét xử, không phải triệu tập các bên để nghe lời giải thích của họ (Điều 126). Trong BLTTDS của Cộng hòa nhân dân Trung hoa, tại Chương 13, mô hình thủ tục rút gọn được xây dựng trong luật TTDS với quy định đương sự có thể đến tòa trực tiếp yêu cầu bằng lời nói và không cần phải làm đơn khởi kiện, trình tự phiên tòa không buộc phải tuân theo các quy định về thông báo phiên tòa, thẩm vấn và tranh luận như với các vụ án dân sự khác, thẩm phán chỉ tuyên quyết định của Tòa án về kết quả giải quyết vụ án còn các nội dung khác như nội dung vụ án, nhận định… sẽ được ghi trong biên bản phiên tòa. Trong luật của nhiều nước có quy định về thủ tục rút gọn, thủ tục này sẽ do một thẩm phán tiến hành theo thời hạn tố tụng ngắn hơn thời hạn tố tụng thông thường, phán quyết giải quyết của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc nếu có bị kháng cáo, kháng nghị thì cũng không được kháng cáo, kháng nghị về vấn đề sự kiện của vụ án. Ví dụ pháp luật TTDS của Pháp năm 1806 và mặc dù được sửa đổi nhiều nhưng cho đến nay vẫn quy định phán quyết của Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp giải quyết những tranh chấp có giá trị dưới 4.000 euros không bị kháng cáo phúc thẩm. Trong BLTTDS Đài Loan, đương sự không có quyền khiếu nại bản án phúc thẩm nếu không có sự đồng ý của tòa sơ thẩm([159]). Trong pháp luật TTDS Thái Lan không cho phép kháng cáo phúc thẩm về vấn đề sự kiện của vụ án([160])…
Trong pháp luật TTDS Việt Nam cho đến nay chưa có quy định nào về thủ tục rút gọn hay thủ tục giản đơn. Có quan niệm cho rằng thủ tục giải quyết việc dân sự được quy định trong BLTTDS chính là thủ tục rút gọn nhưng từ những phân tích trên cho thấy hai thủ tục này mặc dù có nhiều nét tương đồng nhưng không phải là một. Trong quá trình dự thảo BLTTDS, Việt Nam đã từng có những điều luật quy định về thủ tục rút gọn nhưng rất tiếc lại chưa được thông qua khi Việt Nam ban hành BLTTDS. Nếu dự thảo về những quy định này tiếp tục được xây dựng thì những vụ việc như thế nào sẽ được áp dụng thủ tục rút gọn cần được tham khảo, nghiên cứu kỹ lưỡng. Các tiêu chí để xác định những vụ việc dân sự giản đơn, sự việc rõ ràng, tranh chấp không gay gắt cũng cần được quy định cụ thể cho phù hợp với tập quán, tâm lý và tính cách con người Việt Nam. Chúng ta không thể dập khuôn theo luật của các nước đã quy định về thủ tục rút gọn. Thủ tục rút gọn cần được quy định theo cách thức nhanh gọn, giản lược nhưng vẫn phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản của luật TTDS. Đặc biệt, phán quyết của Tòa án khi giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn có giá trị chung thẩm hay không để tránh tình trạng đương sự lạm quyền kháng cáo nhằm trì hoãn thi hành nghĩa vụ đã rõ ràng của mình là một vấn đề cần được cân nhắc rất cẩn trọng. Cho dù pháp luật TTDS Việt Nam có xây dựng các quy định về thủ tục rút gọn theo hướng nào chăng nữa thì một trong những yêu cầu cơ bản, quan trọng là các quy định này phải thể hiện được những nét khác biệt đặc thù so với thủ tục giải quyết việc dân sự, tránh sự nhầm tưởng đáng tiếc giữa hai thủ tục này.
Chuyên đề 4
THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆC XÂY DỰNG THỦ TỤC THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN Ở VIỆT NAM
TS. Trần Anh Tuấn([161])
LS. Trương Quang Dũng([162])
Trong phạm vi chuyên đề này, việc nghiên cứu sẽ tập trung vào một số nét cơ bản về thủ tục tố tụng rút gọn của pháp luật một số nước trên thế giới nhằm rút ra mô hình cho Việt Nam như pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức, Pháp, Liên bang Nga - là hình mẫu tiêu biểu của các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, Australia và một số nước Châu á có điều kiện gần gũi và tương đồng với Việt Nam như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc, Singgapo...
1. THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN THEO PHÁP LUẬT CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC VÀ CỘNG HÒA PHÁP
Việc nghiên cứu pháp luật của các nước theo hệ thống luật dân sự cho thấy pháp luật TTDS Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha...về căn bản đều chịu ảnh hưởng của pháp luật La Mã và có những điểm tương đồng về có chế xét xử một Thẩm phán, thủ tục sơ chung thẩm, thủ tục ra lệnh. Do vậy, nhóm nghiên cứu định hướng phân tích điển hình của hệ thống này là thủ tục TTDS giản đơn theo pháp luật Đức và Pháp.
Pháp luật Đức, có quy định riêng về thủ tục giải quyết đối với các vụ kiện có giá ngạch thấp tại Tòa Amtsgericht (AG) hay còn gọi là Tòa án cơ sở. Theo đó, Tòa án này có thẩm quyền sơ thẩm các vụ khiếu kiện nhỏ như tranh chấp giữa chủ nhà và người thuê nhà, vấn đề gia đình hoặc các vụ việc nhỏ khác. Tòa Amtsgericht (AG) có thẩm quyền xét xử các tranh chấp có giá ngạch đến 6.000 euros, các vụ kiện hôn nhân gia đình (không phụ thuộc vào giá ngạch). Việc giải quyết các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình tại AG thông thường do một Thẩm phán thực hiện. Cũng như tổ chức hệ thống tư pháp của nhiều nước Châu Âu khác, theo pháp luật Đức thì đương sự chỉ có thể yêu cầu phúc thẩm, nếu nội dung yêu cầu phúc thẩm có giá ngạch từ 6.000 euros trở lên hoặc AG cho phép phúc thẩm và ghi rõ trong bản án([163]). Pháp luật Đức cũng thiết lập thủ tục ra lệnh thanh toán nợ. Theo đó, Tòa án cơ sở có thẩm quyền ra lệnh thanh toán nợ theo thủ tục xét xử nhanh đối với yêu cầu thanh toán các khoản nợ đã rõ ràng([164]).
Kết quả nghiên cứu cho thấy theo pháp luật Pháp, những tranh chấp có giá trị nhỏ sẽ được giải quyết theo một trình tự đơn giản, phán quyết của Thẩm phán có hiệu lực ngay mà không bị kháng cáo theo trình tự phúc thẩm. BLTTDS Pháp 1806 và những sửa đổi trong hệ thống pháp luật Pháp hiện nay vẫn đi theo xu hướng này. Trước đây, các vụ tranh chấp về tài sản có giá trị dưới 13.000 francs trước Tòa án thương mại và Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp sẽ không bị kháng cáo lên Toà phúc thẩm. Nghị định ngày 28/12/1998 sửa đổi theo hướng Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm những việc tranh chấp tài sản có giá trị dưới 25.000 francs. Sắc lệnh ngày 28/12/2005 quy định đối với những vụ kiện có giá trị dưới 4000 euros không bị kháng cáo phúc thẩm.
Theo Luật Tổ chức tư pháp năm 2012 thì có ít nhất là một Toà sơ thẩm thẩm quyền rộng (Tribunal de Grande Instance) trong quản hạt của Tòa phúc thẩm. Trên thực tế thì thường có một Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng ở mỗi tỉnh và một Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng trong quản hạt của Tòa phúc thẩm. Ở các tỉnh lớn, quan trọng có thể có nhiều Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng([165]). Toà sơ thẩm thẩm quyền rộng xét xử theo nguyên tắc tập thể với Hội đồng gồm chủ tọa và hai thẩm phán trừ trường hợp được xét xử một Thẩm phán. Đối với các lĩnh vực mà Toà án sơ thẩm thẩm quyền rộng có thẩm quyền chuyên biệt thì Toà án này có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm trong trường hợp giá trị yêu cầu từ 4000 euros trở xuống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Điều R 211-3 Luật Tổ chức tư pháp năm 2012).
Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp (Tribunal d’Instance) thay thế cho các toà hoà giải (Tribunal de paix) tồn tại trước năm 1958. Các toà này có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ dân sự nhỏ, có giá trị tranh chấp đến 10.000 euros, sơ thẩm đồng thời chung thẩm các vụ kiện có giá trị từ 4.000 euros trở xuống. Theo số liệu thống kê năm 2013 thì ở Pháp có khoảng 307 Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp([166]). Về thẩm quyền, Tòa sơ thẩm thẩm quyền hẹp có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với các vụ án về dân sự được pháp luật quy định căn cứ vào bản chất và giá trị của việc kiện. Việc xét xử ở Tòa sơ thẩm thẩm quyền hẹp do một Thẩm phán tiến hành. Theo quy định tại Điều R221-4 Luật Tổ chức tư pháp – phần pháp quy thì khi được giao xét xử về dân sự, Toà án sơ thẩm thẩm quyền hẹp có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm đối với các tố quyền đối nhân hoặc động sản mà giá trị của yêu cầu dưới hoặc bằng 4000 euros hoặc đối với một yêu cầu không xác định có nguồn gốc từ việc thi hành nghĩa vụ trả tiền có giá trị dưới hoặc bằng 4000 euros.
Tòa án cơ sở (La juridiction de proximité) có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với các vụ kiện về dân sự và vụ án hình sự, có ít nhất là 01 Tòa án cơ sở trong quản hạt của mỗi Tòa phúc thẩm. Theo quy định tại Điều R231-3 Luật Tổ chức tư pháp - phần pháp quy thì Toà án cơ sở có quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm các việc kiện được nêu tại khoản đầu tiên của Điều L.231-3 và có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với các yêu cầu nêu tại đoạn thứ hai của Điều L.231-3. Theo đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác thì Toà án cơ sở có thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm về dân sự đối với các tố quyền đối nhân hoặc động sản mà giá trị của yêu cầu dưới 4000 euros. Tòa này cũng có thẩm quyền sơ thẩm đối với một yêu cầu không xác định có nguồn gốc từ việc thi hành nghĩa vụ trả tiền có giá trị không vượt quá 4000 euros. Theo quy định tại Điều R231- 4 Luật Tổ chức tư pháp - phần pháp quy thì Toà án cơ sở có quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm các việc kiện liên quan đến việc hoàn trả lại khoản tiền cược bảo đảm do người thuê nhà nộp có giá trị đến 4000 euros.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, bên cạnh các quy định về vụ kiện có giá ngạch thấp BLTTDS Pháp cũng có những quy định về thủ tục đơn giản hơn so với thủ tục thông thường là thủ tục ra lệnh thanh toán nợ và thủ tục ra lệnh buộc thực hiện một công việc. Theo Điều 1405 BLTTDS Pháp thì Tòa án ra lệnh thanh toán nợ trong những trường hợp sau:
- Khoản nợ có nguồn gốc từ một hợp đồng hoặc từ một nghĩa vụ theo điều lệ và là một số tiền nhất định; nếu là do hợp đồng thì được xác định theo các điều khoản của hợp đồng, kể cả điều khoản phạt nếu có;
- Nợ do cam kết nhận hoặc rút hối phiếu (LC), ký nhận một kỳ phiếu, chuyển nhượng hoặc bảo lãnh các loại tín phiếu ấy hoặc nhận chuyển nhượng một khoản nợ theo quy định tại luật số 81-1 ngày 2/1/1981 khuyến khích tín dụng doanh nghiệp.
Thủ tục ra lệnh thanh toán nợ tuỳ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp, Toà thương mại hoặc Tòa án giản lược. Về thủ tục, nếu thấy đơn có căn cứ, Thẩm phán ra lệnh trả số tiền được yêu cầu (Điều 1409). Trong thời hạn một tháng kể từ ngày tống đạt quyết định của Tòa án, người mắc nợ có thể phản kháng lệnh trả nợ, đơn kháng án có hiệu lực yêu cầu Tòa án xem xét lại đơn yêu cầu thu hồi nợ của chủ nợ và giải quyết toàn bộ tranh chấp (Điều 1412, Điều 1416). Trong trường hợp này, bản án của Tòa án thay thế lệnh thanh toán nợ (Điều 1420). Trong trường hợp không có phản kháng trong thời hạn một tháng kể từ ngày tống đạt lệnh buộc trả nợ, chủ nợ có quyền yêu cầu ghi thể thức thi hành vào bản mệnh lệnh. Quyết định buộc thanh toán nợ có đầy đủ hiệu lực như một bản án xử có mặt cả hai bên, và không bị kháng cáo (Điều 1422).
Ngoài ra, BLTTDS Pháp cũng có quy định về thủ tục ra lệnh buộc làm một công việc. Theo đó, nếu giá trị của trái vụ không vượt quá phạm vi thẩm quyền của Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp, đương sự có thể làm đơn đề nghị Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp cho thanh toán bằng hiện vật trái vụ phát sinh từ hợp đồng giữa những người không phải là thương nhân (Điều 1425-1). Sau khi xem xét các tài liệu, nếu thấy đơn có căn cứ, Thẩm phán ra quyết định bắt buộc thực hiện trái vụ, quyết định này có hiệu lực thi hành ngay, không được phản kháng (Điều 1425-4). Tuy nhiên, trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ lệnh thi hành nghĩa vụ không được thực hiện. Tòa án sẽ xét xử theo yêu cầu của nguyên đơn, sau khi hoà giải không thành (Điều 1425-8).
Bên cạnh việc quy định về thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm của Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp, BLTTDS Pháp còn có quy định về thủ tục xét xử cấp thẩm. Khoản 2 Điều 809 BLTTDS Pháp quy định: Trong trường hợp trái vụ là rõ ràng không còn tranh cãi, Chánh án có thể quyết định cho chủ nợ được tạm ứng trước hoặc ra lệnh thi hành nghĩa vụ, ngay cả khi đó là nghĩa vụ phải làm một việc gì đó. Theo cơ chế xét xử cấp thẩm như vậy thì trên thực tế Thẩm phán đã ra quyết định cuối cùng để giải quyết tranh chấp mà không cần phải mở phiên toà xét xử nữa. Trong trường hợp này thủ tục xét xử cấp thẩm được coi là một thủ tục giản đơn, vì nguyên đơn chỉ có nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án biết những yêu cầu của mình ghi trong giấy tống đạt gọi bị đơn ra toà, các bên không bắt buộc phải có luật sư đại diện. Thẩm phán giải quyết vụ việc trong một thời hạn rất ngắn (trung bình là một tháng) sau khi gửi giấy tống đạt gọi bị đơn ra toà. Điều 514 BLTTDS quy định: Quyết định của Thẩm phán thụ lý hồ sơ cho phép thanh toán nợ là quyết định đương nhiên có hiệu lực thi hành tạm thời. Trên thực tế rất ít khi quyết định xử cấp thẩm bị kháng cáo lên Toà phúc thẩm và số quyết định của Thẩm phán xử cấp thẩm có hiệu lực pháp lý là không nhỏ. Theo thống kê năm 1998 trong số 242.153 quyết định xử cấp thẩm chỉ có 6,2% quyết định bị kháng cáo lên Toà phúc thẩm([167]).
Như vậy, các quy định về cơ chế xét xử một lần đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ, thủ tục ra lệnh đối với những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, không thực sự có tranh tụng theo pháp luật TTDS Pháp, Đức là những tư liệu có giá trị tham khảo để nhận diện và đề xuất mô hình về thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam. Thủ tục xét xử cấp thẩm theo Khoản 2 Điều 809 BLTTDS Pháp có những điểm tương đồng với quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc thực hiện trước một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cấp dưỡng, bồi thường, tạm ứng tiền lương, tiền công... quy định tại các Điều 104 đến Điều 106 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011. Tuy nhiên, đây chỉ là những quyết định có tính tạm thời, không phải là những quyết định giải quyết triệt để về nội dung của tranh chấp nên không phải là hình mẫu về thủ tục TTDS rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp mà nhóm nghiên cứu đang tìm kiếm. Việc mở rộng phạm vi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có tính tạm ứng theo tinh thần Khoản 13 Điều 102 và Điều 115 BLTTDS sửa đổi, bổ sung của Việt Nam đã có thể giải quyết được về căn bản vấn đề này.
2. VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN THEO PHÁP LUẬT LIÊN BANG NGA
Việc nghiên cứu so sánh cho thấy rằng pháp luật TTDS Liên bang Nga, không có sự phân chia rõ rệt hai loại hình thủ tục tố tụng ra lệnh là thủ tục ra lệnh thanh toán nợ và thủ tục ra lệnh buộc thực hiện một công việc như trong TTDS Pháp mà chỉ quy định một thủ tục chung là thủ tục ra lệnh. Một điểm khá bất ngờ là các nguyên tắc trong BLTTDS Liên bang Nga được sửa đổi năm 2003 rất đơn giản, không có quá nhiều nguyên tắc như trong BLTTDS Việt Nam và thậm chí không có nguyên tắc về sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Ngoài ra, nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể hay một Thẩm phán được quy định một cách khá mềm dẻo. Theo Điều 7 và Điều 14 BLTTDS Liên bang Nga về thành phần xét xử thì “Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự theo chế độ một Thẩm phán hoặc theo chế độ xét xử tập thể trong trường hợp luật liên bang quy định” và “Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự theo chế độ một Thẩm phán. Trong trường hợp luật liên bang quy định, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự với thành phần xét xử gồm 3 Thẩm phán chuyên nghiệp”. Điều 23 BLTTDS liên bang Nga quy định vụ việc về ban hành lệnh của Tòa án thuộc thẩm quyền của Thẩm phán hòa giải xét xử ở cấp sơ thẩm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy thủ tục ra lệnh cũng được áp dụng đối những vụ kiện đơn giản, có chứng cứ rõ ràng. Đây là điểm có giá trị tham khảo trong nghiên cứu so sánh, đối chiếu. Theo Điều 121 BLTTDS liên bang Nga thì lệnh của Tòa án - quyết định của Tòa án do một Thẩm phán ban hành dựa trên yêu cầu đòi nợ hoặc đòi lại tài sản khi có những căn cứ luật định. Theo đó, Tòa án ra lệnh đối với những trường hợp sau đây:
- Yêu cầu căn cứ vào giao dịch đã được công chứng;
- Yêu cầu căn cứ vào giao dịch được thực hiện dưới hình thức văn bản viết không cần công chứng, chứng thực;
- Yêu cầu căn cứ vào đơn bác lại kỳ phiếu về việc không trả tiền, không chấp nhận và chấp nhận không định ngày tháng;
- Yêu cầu đòi tiền cấp dưỡng cho trẻ chưa thành niên không liên quan đến việc xác định cha, mẹ hoặc không liên quan đến việc phải triệu tập thêm người khác;
- Yêu cầu công dân nộp khoản thuế bị thất thu hoặc nộp những khoản tiền bắt buộc khác;
- Yêu cầu đòi khoản tiền lương đã được chấm công nhưng chưa được trả cho người lao động;
- Yêu cầu của các cơ quan công an, cơ quan thuế vụ, cơ quan thừa phát lại đòi hoàn trả chi phí cho việc tìm kiếm bị đơn, người có nghĩa vụ và tài sản của người đó, hoặc chi phí cho việc tìm kiếm trẻ em bị người có nghĩa vụ đem đi mất, hoặc chi phí liên quan đến việc bảo quản tài sản của người có nghĩa vụ bị thu giữ và bảo quản tài sản của người có nghĩa vụ khi bị buộc chuyển đi nơi ở khác”.
Về thủ tục thì lệnh của Tòa án được ban hành trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mà không cần phải mở phiên toà xét xử và không phải triệu tập các bên để nghe lời giải thích của họ (Điều 126). Sau khi ra lệnh, Thẩm phán gửi bản sao lệnh của Tòa án cho người có nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ có quyền phản đối trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận bản sao. Nếu người có nghĩa vụ phản đối trong thời hạn luật định, Thẩm phán huỷ bỏ lệnh của Tòa án. Trong trường hợp hết thời hạn luật định mà không có phản đối, Tòa án chuyển cho người yêu cầu bản thứ hai lệnh của Tòa án để đưa ra thi hành. Lệnh này được xác nhận bằng dấu quốc huy của Tòa án. Theo đề nghị của người có yêu cầu, Tòa án có thể gửi lệnh đó cho Thừa phát lại để đưa ra thi hành (Các điều từ 128 đến 130 BLTTDS Liên bang Nga).
3. THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC KHÁC
- Australia:
Trong hệ thống tổ chức Tòa án của một số quốc gia có thành lập Tòa án địa phận có thẩm quyền giải quyết những khiếu kiện nhỏ. Chẳng hạn Tòa án cấp thấp nhất trong hệ thống tổ chức Tòa án ở Australia là Tòa án địa phận được thành lập trên một hoặc một vài khu phố. Thẩm quyền của Tòa án này là xét xử những vụ án hình sự, những vụ kiện dân sự có giá ngạch thấp. Việc xét xử chỉ do một Thẩm phán tiến hành không có Bồi thẩm đoàn tham gia. Tòa án địa phận gồm có hai bộ phận là Toà chung và Toà đòi món nợ nhỏ. Những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà chung thì do một Thẩm phán xét xử. Những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà đòi món nợ nhỏ thì có thể do một Thẩm phán hoặc có thể do một chuyên gia xét xử([168]).
- Nhật Bản:
Ở Nhật Bản, BLTTDS đầu tiên ra đời vào năm 1890 và được sửa đổi năm 1926. Cho đến nay, Bộ luật này đã có nhiều sự thay đổi theo chiều hướng bảo đảm việc xét xử một cách nhanh chóng các tranh chấp dân sự. Theo tác giả Ngô Cường thì Tòa án đơn giản ở Nhật Bản được thành lập dưới sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ với mục đích xét xử đơn giản và mất ít thời gian đối với các vụ kiện nhỏ. Lúc đầu có khoảng 557 Tòa án đơn giản, thời kỳ nhiều nhất là 575 Tòa án. Về sau do sự phát triển của mạng lưới giao thông cũng như sự tập trung dân cư ở các vùng đô thị, do đó, cách đây khoảng 25 năm (1989) nhiều Tòa án đã được sáp nhập lại còn 438 Tòa án([169]). Tuy nhiên, theo tài liệu hội thảo của tổ chức JICA năm 1999 thì ở Nhật Bản có 453 Tòa án giản lược tại các thành phố, thị trấn và làng mạc trong cả nước. Tổng số Thẩm phán của các Tòa án giản lược là khoảng 810. Tòa án giản lược có thẩm quyền xét xử các vụ án liên quan đến các yêu cầu không quá 900.000 Yên và các vụ án hình sự nhỏ thích hợp mà pháp luật đã quy định. Một vài thủ tục đặc biệt có thể được sử dụng để giải quyết nhanh gọn các vụ kiện dân sự hoặc hình sự ở Tòa án giản lược. Tòa án, trên cơ sở đơn đòi nợ của chủ nợ, sẽ đưa ra yêu cầu về việc thanh toán tiền đối với con nợ mà không cần thẩm vấn người đó. Tòa án giản lược tiến hành xét xử thông qua một Thẩm phán duy nhất([170]). Ngoài ra, theo quy định các Điều 26, và Điều 31 Luật Tổ chức Tòa án Nhật bản thì cơ chế xét xử một Thẩm phán còn được áp dụng cả ở Tòa án quận và Tòa án gia đình.
Theo công trình đăng tải trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 16 (8/2014) thì Tòa án đơn giản có thẩm quyền giải quyết những vụ kiện có giá trị tranh chấp không vượt quá 1.400.000 yên (tương đương 6 tháng lương của cán bộ mới đi làm). Tòa án giải quyết những vụ kiện này theo thủ tục rút gọn. Nếu bản án bị kháng cáo sẽ do Tòa án cấp cao giải quyết chứ không phải do Tòa án địa phương là Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đơn giản giải quyết (kháng cáo thượng thẩm chứ không phải là kháng cáo phúc thẩm). Đối với những vụ kiện nhỏ có giá trị tranh chấp dưới 600.000 yên được giải quyết theo thủ tục về vụ kiện có giá trị nhỏ. Đối với bản án “vụ kiện nhỏ” thì không được quyền khiếu nại lên Tòa án cấp trên, nếu có khiếu nại thì Tòa án đơn giản sẽ giải quyết lại. Tòa án đơn giản giải quyết trung bình khoảng hơn 20.000 vụ kiện này hàng năm([171]).
Bên cạnh thủ tục với vụ kiện nhỏ, pháp luật Nhật Bản cũng có quy định về thủ tục ra lệnh thanh toán. Theo đó, thư ký Tòa án đơn giản gửi văn bản nhắc nhở thanh toán cho con nợ khi nhận được yêu cầu của chủ nợ về thanh toán tiền và yêu cầu đó được thừa nhận là có căn cứ. Con nợ sau khi nhận được văn bản nhắc nhở thanh toán, nếu trong vòng 2 tuần không khiếu nại thì trong vòng 30 ngày sau đó chủ nợ có quyền yêu cầu Tòa án ra tuyên bố tạm thi hành và khi có yêu cầu này thì Tòa án phải ra tuyên bố tạm thi hành đối với văn bản nhắc nhở thanh toán. Nếu trong vòng 2 tuần con nợ không khiếu nại đối với tuyên bố tạm thi hành thì văn bản nhắc nhở thanh toán sẽ trở thành giấy xác nhận nợ và chủ nợ có thể căn cứ vào đó để yêu cầu cưỡng chế thi hành.Thủ tục này không hạn chế số tiền yêu cầu([172]).
- Trung Quốc
Thủ tục rút gọn cũng được quy định tại Chương 13 BLTTDS nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ngày 9/4/1991. Theo các quy định của chương này thì trình tự đơn giản được áp dụng để giải quyết những vụ án dân sự đơn giản, sự việc rõ ràng, mối quan hệ về quyền lợi, nghĩa vụ đã rõ ràng, tranh chấp không gay gắt. Đối với những vụ đơn giản nguyên đơn có thể trực tiếp yêu cầu Tòa án giải quyết bằng miệng mà không cần phải làm đơn khởi kiện. Hai bên đương sự có thể cùng đến TAND cơ sở hoặc phân Toà do Tòa án cơ sở lập ra để yêu cầu giải quyết tranh chấp. Tòa án này có thể giải quyết ngay hoặc quyết định một ngày khác để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, Điều 146 của BLTTDS nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa cũng quy định giới hạn tối đa về thời hạn giải quyết: TAND áp dụng trình tự đơn giản xét xử vụ án, cần phải kết thúc vụ án trong vòng 3 tháng kể từ ngày cho lập án. Khi xét xử những vụ án đơn giản thì bất cứ lúc nào Tòa án cũng có thể cho gọi đương sự, nhân chứng đến. Những vụ án dân sự đơn giản này chỉ do một Thẩm phán xét xử và trình tự phiên toà không buộc phải tuân theo các quy định về thông báo phiên toà, thẩm vấn và tranh luận như đối với các vụ án dân sự khác.
- BLTTDS Đài Loan cũng có những quy định về thủ tục giản đơn tại chương thứ ba của Bộ luật này. Theo Điều 427 BLTTDS Đài Loan thì thủ tục giản đơn được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
1. Nếu là tranh chấp về quyền tài sản thì giá ngạch của vụ kiện không quá 100.000 Yuan ( tương đương 4.000 USD ).
2. Trong những trường hợp sau đây, Tòa án áp dụng thủ tục giản đơn mà không phụ thuộc vào giá ngạch vụ án:
- Tranh chấp về thời hạn thuê nhà và thời hạn vay mượn.
- Tranh chấp giữa chủ và thợ trong hợp đồng thuê mướn dịch vụ mà thời hạn hợp đồng không quá 1 năm.
- Tranh chấp giữa người du lịch và chủ khách sạn, nhà hàng về chi phí ăn uống, ở, tiền phương tiện, tiền trông giữ hành lý, tiền, tài sản khác v.v...
- Tranh chấp về việc yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu.
- Tranh chấp về việc xác định ranh giới bất động sản hoặc cắm mốc đất . - Tranh chấp nợ trong trường hợp có giấy vay nợ.
- Tranh chấp về lãi suất tiền cho vay, tiền hoa hồng, cấp dưỡng ly hôn, trợ cấp hưu trí, các khoản tiền phải trả định kỳ.
Các bên đương sự cũng có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng thủ tục giản đơn để giải quyết tranh chấp giữa họ mà không thuộc một trong những loại tranh chấp nêu trên.
Về thủ tục giản đơn, BLTTDS Đài Loan quy định đương sự có quyền chủ động đến Tòa án để trình bày mà không cần phải theo trát đòi của Tòa án. Tòa án có quyền triệu tập nhân chứng, giám định viên thông qua bất kỳ cách nào thuận tiện nhất, chứ không nhất thiết phải qua đường tống đạt trát đòi. Việc xét xử chỉ do một Thẩm phán tiến hành qua một phiên toà nhanh, gọn. Nếu một bên đương sự vắng mặt ở phiên toà mà không có lý do chính đáng thì Tòa án chấp nhận yêu cầu của bên có mặt. Tòa án có thể tuyên án và ghi chép phần nội dung, nhận định và quyết định của Tòa án vào biên bản phiên toà mà không cần phải viết thành một bản án. Việc xét xử phúc thẩm vụ án sẽ do một Hội đồng gồm ba Thẩm phán Tòa án quận thực hiện. Đương sự không có quyền khiếu nại bản án phúc thẩm này nếu không có sự đồng ý của Tòa án đã xử sơ thẩm.
Giống như pháp luật TTDS Pháp, BLTTDS Đài Loan cũng có những quy định về thẩm quyền của Tòa án trong việc ra lệnh thanh toán nợ. Đương sự có thể làm đơn yêu cầu Tòa án buộc con nợ phải trả nợ trong đó nêu rõ khoản nợ, bằng chứng của việc kiện, các chứng từ... Tòa án, sau khi xem xét đơn yêu cầu nếu thấy có đầy đủ cơ sở chấp nhận thì ra lệnh buộc bên có nghĩa vụ phải trả tiền hoặc chuyển tiền cho chủ nợ mà không phải thông qua thủ tục tố tụng nào khác. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày bên có nghĩa vụ nhận được lệnh buộc trả tiền mà không phản đối thì lệnh đó có hiệu lực như một bản án có hiệu lực pháp luật. Ở Việt Nam, trong thực tiễn xét xử đã xuất hiện những trường hợp nguyên đơn kiện đòi nợ có đầy đủ chứng từ vay nợ, có chữ ký của người vay, nhưng Tòa án vẫn phải áp dụng thủ tục thông thường để giải quyết dẫn tới việc giải quyết vụ án bị kéo dài.
- Thái Lan cũng thành lập những Tòa án liên huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án nhỏ hoặc những vụ án có giá ngạch thấp. Pháp luật TTDS Thái Lan hạn chế kháng cáo phúc thẩm đối với những vụ án có giá ngạch thấp hoặc những vụ án thuộc loại giản đơn. Chẳng hạn pháp luật Thái Lan không cho phép kháng cáo phúc thẩm về vấn đề sự kiện của vụ án (ví dụ: nếu Tòa án cấp sơ thẩm bằng bản án đã quyết định rằng có việc vay nợ giữa A và B thì việc vay nợ giữa A và B được coi là vấn đề sự kiện của vụ án) nếu giá trị tranh chấp hoặc giá ngạch vụ án dưới 50.000 bạt nhưng đương sự có quyền kháng cáo về vấn đề áp dụng pháp luật, ví dụ về việc Tòa án đã áp dụng pháp luật sai khi xét xử vụ án hoặc không áp dụng đúng pháp luật cần thiết ...
- Tương tự như pháp luật TTDS các nước đã nêu trên, Hàn Quốc cũng có những quy định đối với việc xét xử những vụ khiếu kiện nhỏ. Trình tự giải quyết những vụ khiếu kiện nhỏ này đơn giản và nhanh chóng hơn so với thủ tục tố tụng thông thường. Thủ tục giản đơn ở Hàn Quốc được áp dụng đối với những vụ án dân sự có giá ngạch dưới 5000.000 Won. Theo thủ tục này, nguyên đơn không nhất thiết phải làm đơn kiện (bằng văn bản) mà có thể đến Tòa án trực tiếp trình bày với cán bộ thụ lý vụ án. Cán bộ thụ lý vụ án có trách nhiệm ghi chép lại nội dung yêu cầu của nguyên đơn. Điểm này khác với pháp luật TTDS hiện hành của ta. Khoản 3 Điều 34 PLTTGQCVADS của Việt Nam ngày 29/11/1989 quy định: Người khởi kiện phải làm đơn ghi rõ họ tên, địa chỉ của mình, của bị đơn, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nội dung sự việc; yêu cầu của mình và những tài liệu, lý lẽ chứng minh cho những yêu cầu đó. Đối với những vụ án được giải quyết theo trình tự giản đơn thì việc viết án cũng đơn giản hơn. Pháp luật TTDS Hàn Quốc quy định, phần quyết định của bản án thì Thẩm phán phải lập thành văn bản, còn những cơ sở, lập luận cho quyết định thì không yêu cầu Thẩm phán phải ghi trong bản án. Thông thường, một vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm được xét xử bởi một HĐXX, thì được kết thúc trong vòng 6 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án. Còn đối với vụ án do một Thẩm phán xét xử thì thời gian giải quyết xong vụ kiện khoảng hai tháng rưỡi. Theo thống kê, ở Hàn Quốc khoảng 65% số vụ án dân sự được giải quyết theo thủ tục giản đơn (2).
- Singgapo cũng có các Tòa án giải quyết khiếu kiện nhỏ với thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc mua bán hàng hoá là động sản, cung cấp dịch vụ, bồi thường thiệt hại đối với tài sản nhưng với điều kiện phải được sự thoả thuận của hai bên tranh chấp là đưa ra Toà khiếu kiện nhỏ giải quyết. Cụ thể là Tòa án giải quyết khiếu kiện nhỏ sẽ có thẩm quyền giải quyết đối với các trường hợp sau đây:
1. Các tranh chấp về mua bán hàng hoá có giá ngạch không quá 2.000 đô la Singgapo;
2. Các tranh chấp hợp đồng dịch vụ có giá ngạch không quá 5.000 đô la Singgapo;
3. Các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại về tài sản có giá ngạch từ 5.000đô la Singgapo đến 10.000 đô la Singgapo.
Như vậy, việc nghiên cứu so sánh về kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới về thủ tục giản đơn hay thủ tục ra lệnh đã cung cấp cho nhà nghiên cứu một góc nhìn sâu sắc hơn về lý luận trong việc nhận diện và đề xuất mô hình về thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu pháp luật TTDS một số nước trên thế giới, có thể rút ra bài học kinh nghiệm về phân hóa loại việc để thiết lập các thủ tục tố tụng tương ứng. Pháp luật TTDS Pháp, Đức, Nhật Bản, Đài Loan có quy định về thủ tục giản đơn đối với vụ kiện có giá trị nhỏ đồng thời cũng có quy định về thủ tục ra lệnh. Tuy nhiên, Pháp luật Pháp quy định theo hướng phân biệt hai loại thủ tục ra lệnh riêng biệt là thủ tục ra lệnh buộc thanh toán và thủ tục ra lệnh buộc làm một công việc. Trong khi đó, pháp luật TTDS Đài Loan, Nhật Bản chỉ quy định một thủ tục ra lệnh thanh toán nợ; pháp luật TTDS Nga lại đi theo hướng quy định một thủ tục ra lệnh chung áp dụng cho các trường hợp khác nhau.
Đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ, thành phần và thủ tục TTDS được giản lược hơn so với thủ tục tố tụng thông thường, việc giải quyết vụ án chỉ do một Thẩm phán tiến hành, với thời hạn ngắn hơn, phán quyết của Thẩm phán không bị kháng cáo phúc thẩm (Pháp, Đức, Nhật Bản....) hoặc nếu có kháng cáo phúc thẩm thì không được kháng cáo các vấn đề sự kiện của vụ kiện (Thái Lan). Theo thủ tục TTDS rút gọn, đương sự có thể trực tiếp thưa kiện tại Tòa án mà không nhất thiết phải làm đơn khởi kiện. Vụ kiện theo trình tự giản đơn sẽ được giải quyết bằng một phiên toà nhanh gọn hơn, khi tiến hành phiên toà, Thẩm phán có thể bỏ qua các bước không cần thiết. Thẩm phán chỉ tuyên quyết định của Tòa án về việc giải quyết vụ kiện, còn phần nội dung vụ kiện, nhận định của Tòa án được ghi ngay trong biên bản phiên toà (Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc..).
Tuy nhiên, việc nghiên cứu so sánh cho thấy quan niệm về vụ kiện có giá trị nhỏ và hiệu lực của phán quyết giải quyết vụ kiện có giá trị nhỏ theo pháp luật các nước cũng có những khác biệt nhất định. Chẳng hạn, theo pháp luật của Pháp, Đức và nhiều nước theo hệ thống luật dân sự thì đương sự không được quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm nếu như giá ngạch của vụ kiện thuộc thẩm quyền sơ chung thẩm của Tòa án. Theo pháp luật Nhật Bản, đối với những vụ kiện nhỏ có giá trị dưới 600.000 yên được Tòa án đơn giản giải quyết theo thủ tục về vụ kiện có giá trị nhỏ thì đương sự không được quyền khiếu nại lên Tòa án cấp trên, nếu có khiếu nại thì Tòa án đơn giản sẽ giải quyết lại([173]). Đây là điểm khá đặc biệt trong pháp luật Nhật Bản. Pháp luật một số nước như Thái Lan quy định nếu giá ngạch vụ án thấp hơn một khoản tiền nhất định thì không cho phép đương sự kháng cáo bản án sơ thẩm về vấn đề sự kiện của vụ án nhưng có quyền kháng cáo về vấn đề áp dụng pháp luật. Theo pháp luật Đài Loan đối với vụ kiện nhỏ đương sự được quyền kháng cáo phúc thẩm nhưng không có quyền khiếu nại bản án phúc thẩm này nếu không có sự đồng ý của Tòa án đã xử sơ thẩm.
Chuyên đề 5
LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH
LIÊN QUAN ĐẾN THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
TS. Lê Thu Hà
Văn phòng Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương
Điều đầu tiên phải khẳng định là “thủ tục rút gọn” chưa bao giờ được quy định chính thức trong TTDS. Tuy nhiên, quy định về thủ tục đơn giản, nhanh chóng hơn so với thủ tục tố tụng thông thường đã từng được quy định trong trình tự giải quyết vụ án dân sự và mang tính không thường xuyên qua các giai đoạn phát triển khác nhau của thủ tục TTDS.
1. GIAI ĐOẠN 1945 - 1960
Lịch sử tổ chức Tòa án Việt Nam bắt đầu từ Sắc lệnh số 13/SL ngày 24 tháng giêng năm 1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán, quy định về tổ chức Tòa án và thẩm phán. Sắc lệnh số 13/SL không quy định nhiều về thủ tục tố tụng, nhưng những quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án đã cho thấy những quy định đầu tiên về thủ tục xét xử rút gọn.
Trước hết là thành phần xét xử: ở Tòa án sơ cấp, khi xét xử việc hộ và việc hình, “thẩm phán xét xử một mình, lục sự giữ bút ký, lập biên bản án từ” (Điều 10). Ở Tòa án đệ nhị cấp, khi xét xử về dân sự và thương sự, Chánh án xử một mình; trong khi đó xử việc tiểu hình, phải có thêm hai viên phụ thẩm nhân dân góp ý kiến (Điều thứ 17), xử việc đại hình có năm vị cùng ngồi xử và có quyền quyết nghị (Điều thứ 28). Dù không quy định trực tiếp, nhưng với quy định về thành phần xét xử các việc hộ khác với việc hình (tiểu hình và đại hình) cho thấy có một thủ tục đơn giản, gọn nhẹ hơn trong tố tụng.
Về thủ tục: Đầu tiên là Ban tư pháp xã có quyền “phạt các việc vi cảnh, nhưng chỉ có quyền phạt tiền từ năm hào đến sáu đồng bạc” (Điều thứ 3). Đây phải chăng chính là thẩm quyền của Tòa giản lược, chủ yếu xét xử theo thủ tục tối giản (một loại thủ tục rút gọn) mà một số nước trên thế giới (như Cộng hòa Pháp) đang thực hiện và Việt Nam cũng đang nghiên cứu. Mặc dù là những tình tiết rõ ràng (vi cảnh), hình phạt áp dụng là phạt tiền, giá trị không lớn (có quy định mức phạt cho loại hành vi vi phạm này), xét xử trực tiếp khi có hành vi vi phạm mà không cần phải qua thủ tục điều tra, truy tố, nhưng “nếu người phạm tội không chịu nộp phạt, thì Ban tư pháp lập biên bản đệ lên Tòa án sơ cấp xét xử”. Như vậy thì điều đáng chú ý đối với những việc xử theo thủ tục đơn giản của Ban tư pháp xã không chỉ về đối tượng, xét xử, hình phạt áp dụng mà còn có thể bị xét xử lại Tòa án sơ cấp nếu người phải tội không tự nguyện thi hành quyết định phạt tiền.
Đối với những việc dân sự và thương sự, những việc tiểu hình do Tòa án sơ cấp và Tòa án đệ nhị cấp xử, mặc dù Sắc lệnh 13/SL không quy định cụ thể, nhưng bằng việc quy định khi tòa đại hình xử sơ thẩm (Tòa án đệ nhị cấp), ông biện lý, bị can và nguyên đơn có quyền chống án lên tòa thượng thẩm (Điều thứ 34), có thể hiểu những việc dân sự và thương sự, việc tiểu hình do Tòa án sơ cấp và Tòa đệ nhị cấp xử không có thủ tục chống án. Bản án xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm. Đây cũng là một hình thức xử rút gọn về trình tự, thủ tục.
Đến Sắc lệnh số 51/SL ngày 17 tháng 4 năm 1946 về việc ấn định thẩm quyền các Tòa án và phân công giữa các nhân viên trong Tòa án, những quy định về thủ tục tố tụng đã tương đối đầy đủ và rõ ràng, trong đó có thủ tục xử chung thẩm (một lần). Những vụ án chung thẩm có bản án có hiệu lực pháp luật ngay mà không có quyền chống án lên cấp phúc thẩm. Tiêu chí xác định những vụ chung thẩm thường dựa trên giá ngạch. Cụ thể, Tòa án sơ cấp xử chung thẩm những vụ dân sự và thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn định không quá 150 đ; những việc kiện về các khoản lệ phí đã phát sinh ra trước Tòa án ấy không cứ giá ngạch nào (Điều thứ 6). Tòa án đệ nhị cấp có quyền xử chung thẩm những việc kiện về bất động sản mà giá ngạch theo thời giá, hôm khởi tố hay theo văn tự không quá 150 đ, những việc kiện về động sản mà giá ngạch trên 450 đ nhưng dưới 750 đ (Điều thứ 11).
Ngoài quy định cụ thể về những vụ dân sự và thương sự được xử theo thủ tục chung thẩm dựa trên giá ngạch, Sắc lệnh số 51/SL không quy định về thành phần xét xử. Như vậy, vẫn áp dụng những quy định về thành phần xét xử, trong đó có thủ tục xử bằng một thẩm phán như quy định tại Sắc lệnh số 13/SL.
Với những quy định này, thủ tục xử rút gọn đã được hình thành ngay trong giai đoạn đầu tiên tổ chức các Tòa án. Hình thức xét xử rút gọn thể hiện qua quy định:
- Việc xử chung thẩm (án tuyên có hiệu lực ngay, đương sự không có quyền kháng cáo đề nghị phúc thẩm).
- Thành phần xét xử có một thẩm phán.
- Ban tư pháp xã có quyền xử đối với những vụ vi cảnh.
Đối tượng xử theo thủ tục rút gọn có thể:
- Dựa trên giá ngạch của vụ án.
- Xác định theo thẩm quyền của Tòa án (tòa sơ cấp).
- Tính chất của vụ việc (đối với các vụ hình sự là tiểu hình hay đại hình)
Một văn bản cũng rất quan trọng trong thời kỳ này là Sắc lệnh số 85/SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng. Tuy nhiên, Sắc lệnh 85/SL không có thay đổi quy định về thủ tục rút gọn như trong sắc lệnh 51/SL trước đó.
Cũng liên quan đến thủ tục giải quyết nhanh, trong thời kỳ này có một văn bản rất quan trọng. Đó là Luật bầu cử đại biểu Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa([174]). Tại Điều 9 Luật đã quy định: Khi kiểm tra danh sách cử tri, nếu thấy có sai lầm hoặc thiếu sót thì trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày niêm yết, nhân dân có quyền khiếu nại hoặc báo cáo bằng miệng hoặc bằng giấy lên cơ quan lập danh sách. Cơ quan lập danh sách cử tri phải ghi vào một quyển sổ những khiếu nại hoặc báo cáo bằng miệng. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại hoặc báo cáo, cơ quan lập danh sách cử tri phải giải quyết xong. Nếu người khiếu nại hoặc báo cáo chưa đồng ý về cách giải quyết đó thì có quyền khiếu nại lên TAND huyện, châu, thị xã hoặc thành phố. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, TAND phải giải quyết xong. Quyết định của TAND là quyết định cuối cùng. Quy định này không chỉ thể hiện quyền dân chủ của người dân trong nhà nước dân chủ, cộng hòa mà ở góc độ thủ tục, đã ghi nhận một trình tự giải quyết nhanh hơn bình thường. Thứ nhất là nhanh về thời gian, thứ hai là nhanh do thủ tục xử chỉ có một lần. Khi khiếu nại danh sách cử tri đến TAND cấp huyện thì quyết định của Tòa án là cuối cùng. Điều đặc biệt khác với các trình tự thông thường khác (thường qua hai cấp xét xử) xuất phát từ đặc thù của loại vụ việc này. Đó là việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại phải kịp thời phục vụ cho kỳ bầu cử. Nếu giải quyết theo thủ tục bình thường thì việc giải quyết khiếu nại sẽ mất đi ý nghĩa vì kỳ bầu cử đã qua. Đây có thể được ghi nhận như một trong những hình thức xét xử rút gọn trong TTDS.
2. GIAI ĐOẠN 1960 - 2004
LTCTAND năm 1960([175]) đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của các TAND không chỉ về tổ chức mà còn về hoạt động và thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, với những quy định của LTCTAND thì một số thủ tục tố tụng đơn giản hơn so với thủ tục thông thường không còn nữa. Ví dụ về thành phần HĐXX, nếu giai đoạn trước 1960 có việc xét xử dân sự và thương sự bởi một thẩm phán thì theo quy định tại Điều 11 LTCTAND năm 1960 “Khi sơ thẩm, TAND có HTND tham gia”. Một điểm khác nữa liên quan đến vai trò của HTND là ngang quyền với thẩm phán khi xét xử, trong khi trước đây có việc (tiểu hình), hội thẩm chỉ có ý kiến mà không có quyền biểu quyết.
Về thủ tục cũng không còn thủ tục chung thẩm với ý nghĩa là xử một lần. Tất cả các vụ án đều có thể bị xét xử qua hai cấp. Điều 9 LTCTAND năm 1960 quy định “TAND thực hành chế độ hai cấp xét xử”.
LTCTAND năm 1981 về cơ bản cũng có những quy định liên quan đến hoạt động tố tụng giống như quy định trong LTCTAND năm 1960, trong đó có những nguyên tắc cơ bản như xét xử hai cấp, có HTND tham gia. Một điểm đáng chú ý là thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm của TANDTC lần đầu tiên được chính thức quy định, nhưng áp dụng cho những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp. Đây cũng là thủ tục xử một lần, nhưng tính chất lại ngược lại so với quy định về thủ tục chung thẩm được quy định trong giai đoạn trước năm 1960. Nếu ở giai đoạn từ năm 1945-1960, thủ tục chung thẩm được áp dụng cho những việc hộ và thương sự có tính đơn giản, giá trị tranh chấp thấp thì việc sơ thẩm đồng thời chung thẩm được quy định trong LTCTAND năm 1981 lại là vụ án đặc biệt phức tạp. Như vậy cũng là thủ tục xử một lần, nhưng thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm không thể được coi là một thủ tục rút gọn với ý nghĩa là thủ tục đơn giản, nhanh chóng về thời gian và trình tự.
Một văn bản pháp luật khác rất quan trọng trong giai đoạn này là PLTTGQCVADS năm 1989([176]). Đây là văn bản pháp luật đầu tiên pháp điển hóa các quy định về thủ tục giải quyết vụ án dân sự, từ quy định về thẩm quyền, thành phần HĐXX, người tham gia tố tụng, thủ tục khởi kiện và thụ lý, thủ tục chuẩn bị xét xử, thủ tục xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy vậy, PLTTGQCVADS quy định thủ tục chung để giải quyết vụ án mà không quy định các thủ tục đặc biệt, nhất là thủ tục mang tính rút gọn. Về thời gian giải quyết vụ án, Điều 47 PLTTGQCVADS quy định là 4 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án; đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc việc điều tra gặp nhiều khó khăn thì có thể gia thêm thời hạn 2 tháng nữa. Mặc dù không có bất kỳ một quy định nào liên quan đến “thủ tục rút gọn”, nhưng với quy định về thời hạn giải quyết vụ án, thủ tục TTDS cũng bước đầu phân biệt có những loại án đơn giản và những loại án phức tạp hơn bằng việc quy định thời gian giải quyết. Đây cũng chỉ là quy định về thời hạn giải quyết tối đa một cách rất chung chung.
Điều này cũng cho thấy một vấn đề hoàn toàn tự nhiên là cũng là vụ án dân sự nhưng có những vụ án đơn giản, nhưng cũng có những vụ án phức tạp có thể do giá trị của tranh chấp, có thể liên quan đến nhiều người hoặc có thể do có mâu thuẫn giữa các chứng cứ hoặc không thống nhất giữa các đương sự. Mặc dầu có thừa nhận sự khác biệt một cách tự nhiên này, nhưng Luật TTDS trong giai đoạn này vẫn không có bước tiến nào về thủ tục rút gọn. Các vụ án dân sự, dù tính chất và sự khác biệt về nội dung nhưng vẫn được giải quyết theo thủ tục tố tụng giống nhau, từ thời hạn giải quyết, HĐXX, thủ tục phiên tòa cũng như tất cả các quy định khác liên quan đến trình tự giải quyết.
Dù LTCTAND và PLTTGQCVADS không quy định thủ tục xét xử rút gọn, nhưng một ngoại lệ đáng kể, được coi là một hình thức xét xử rút gọn vẫn được tiếp tục tồn tại trong thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Đó là việc giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri. Điều 25 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1983([177]) vẫn quy định tương tự như Luật bầu cử đại biểu quốc hội năm 1959, cụ thể: Khi kiểm tra danh sách cử tri, nếu thấy có sai lầm hoặc thiếu sót thì trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày niêm yết, mọi người có quyền khiếu nại, báo cáo bằng miệng hoặc bằng giấy với cơ quan lập danh sách cử tri. Cơ quan lập danh sách cử tri phải ghi vào sổ những khiếu nại hoặc báo cáo đó. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại hoặc báo cáo, cơ quan lập danh sách cử tri phải giải quyết xong và thông báo cho người khiếu nại hoặc người báo cáo biết kết quả giải quyết. Nếu người khiếu nại hoặc người báo cáo không đồng ý về cách giải quyết đó thì có quyền khiếu nại lên TAND cấp huyện. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, TAND phải giải quyết xong. Quyết định của TAND là quyết định cuối cùng.
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1989([178]) cũng vẫn tiếp tục quy định tương tự, nhưng thời gian Tòa án giải quyết là năm ngày, thay vì ba ngày như trước đó. Cụ thể, Điều 24 quy định: Khi kiểm tra danh sách cử tri, nếu thấy có sai lầm hoặc thiếu sót thì trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày niêm yết, mọi người có quyền khiếu nại, báo cáo bằng giấy hoặc bằng miệng với cơ quan lập danh sách cử tri. Cơ quan lập danh sách cử tri phải ghi vào sổ những khiếu nại hoặc báo cáo đó. Trong thời hạn năm này, kể từ ngày nhận được khiếu nại hoặc báo cáo, cơ quan lập danh sách cử tri phải giải quyết xong và thông báo cho người khiếu nại hoặc người báo cáo biết kết quả giải quyết. Nếu người khiếu nại hoặc báo cáo không đồng ý với cách giải quyết đó thì có quyền khiếu nại lên TAND cấp huyện. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, TAND phải giải quyết xong. Quyết định của TAND là quyết định cuối cùng. Khoản 6, Điều 10 PLTTGQCVADS năm 1989 cũng quy định loại việc khiếu nại về danh sách cử tri thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND.
Điều 25 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1994 cũng quy định nội dung tương tự. Tuy nhiên, đến năm 1996, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được ban hành([179]), việc khiếu nại về danh sách cử tri được giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính, nên chính thức thì bắt đầu từ thời điểm này, thủ tục giải quyết vụ án dân sự không còn loại việc nào được quy định theo thủ tục rút gọn.
3. TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY
BLTTDS năm 2004, có hiệu lực từ 1/1/2005 không chỉ là bộ luật đầu tiên về thủ tục TTDS mà còn lần đầu tiên quy định về thủ tục giải quyết việc dân sự khác với thủ tục giải quyết vụ án dân sự. Theo Điều 1 BLTTDS thì vụ án dân sự là những loại tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động, trong khi đó thì việc dân sự không có tranh chấp mà chỉ là yêu cầu giải quyết quyền và lợi ích trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động. Vì không có tranh chấp nên thủ tục giải quyết cũng được tiến hành đơn giản, nhanh hơn. Chính vì bản chất tự nhiên này nên khi xây dựng BLTTDS, cơ quan soản thảo cũng đã tính đến thủ tục xét xử rút gọn cho những loại việc không có tranh chấp, nhưng do còn nhiều ý kiến, nhất là sự băn khoăn cho rằng thủ tục tố tụng nói chung, trong đó có thủ tục TTDS vẫn phải tuân thủ những nguyên tắc quan trọng đã được quy định trong Hiến pháp như nguyên tắc xét xử hai cấp, nguyên tắc xét xử HTND tham gia. Vì vậy, thủ tục xử rút gọn tiếp tục chưa xuất hiện chính thức trong BLTTDS.
Tuy vậy, bằng việc quy định thủ tục giải quyết việc dân sự khác thủ tục giải quyết việc dân sự trong BLTTDS cho thấy đã hình thành nhận thức quan điểm về thủ tục tố tụng mới, có những điểm khác nhất định so với thủ tục giải quyết vụ án thông thường. Có thể chỉ ra những điểm khác nhau giữa thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục giải quyết vụ án dân sự, từ đó có thể thấy những dấu hiệu bước đầu của thủ tục xét xử rút gọn:
Nội dung quy định
|
Thủ tục giải quyết
việc dân sự
|
Thủ tục giải quyết
vụ án dân sự
|
Thời hạn chuẩn bị giải quyết
|
Tùy từng loại việc mà có thời gian chuẩn bị giải quyết khác nhau, nhưng nhìn chung là ngắn hơn so với thời gian chuẩn bị giải quyết vụ án dân sự
|
Điều 179: bốn tháng kể từ ngày thụ lý đối với những vụ án được quy định tại Điều 25, Điều 27 BLTTDS, đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì có thể gia thêm thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng; hai tháng đối với những vụ án được quy định tại Điều 29, Điều 31 BLTTDS, đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì có thể gia thêm thời hạn một tháng chuẩn bị xét xử.
|
Thành phần tham gia giải quyết
|
Điều 55: Thành phần giải quyết việc dân sự là những yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại khoản 5 Điều 26, khoản 6 Điều 28, khoản 2 và khoản 3 Điều 30, Điều 32 của BLTTDS hoặc việc xét kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định giải quyết việc dân sự do một tập thể gồm ba Thẩm phán giải quyết.
Những yêu cầu khác về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động do một Thẩm phán giải quyết.
|
Điều 52: thành phần HĐXX sơ thẩm vụ án dân sự gồm một thẩm phán và hai HTND. Trong trường hợp đặc biệt thì có thể gồm hai thẩm phán và ba HTND.
|
Thời hạn kháng cáo
|
Khoản 1 Điều 317: thời hạn kháng cáo là bảy ngày
|
Khoản 1 Điều 245: Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày
|
Thời hạn kháng nghị
|
Khoản 2 Điều 317: VKS cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự trong thời hạn bảy ngày, VKS cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị trong thời hạn mười lăm ngày
|
Khoản 1 Điều 252: Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp là mười lăm ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày.
|
Dù không có nhiều điểm khác biệt, nhưng về cơ bản thủ tục giải quyết việc dân sự được tiến hành nhanh và đơn giản hơn so với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, từ thời hạn chuẩn bị giải quyết; thành phần tham gia xét xử; thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Tuy nhiên, với lịch sử giải quyết các vụ án dân sự cũng như thực tế TTDS, đã đến lúc nhà làm luật không nên chần chừ với thủ tục rút gọn và cần phải chính thức hóa trong các văn bản tố tụng.
Chuyên đề 6
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ
VÀ YÊU CẦU VỀ XÂY DỰNG THỦ TỤC RÚT GỌN
TS. Nguyễn Văn Cường
ThS. Phùng Thị Hoàn
Viện khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao
Việc xây dựng mô hình về thủ tục rút gọn trong thủ tục tố tụng là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm trong bối cảnh cải cách tư pháp đang diễn ra mạnh mẽ. Nghị quyết số 49 - NQ/TW của Bộ chính trị ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ cần phải tiếp tục: “ …Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”. Trong khi Bộ luật tố tụng hình sự đã xây dựng được một mô hình tương đối cơ bản về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, thì những quy định về thủ tục rút gọn chưa được quy định trong BLTTDS năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011. Nhằm góp phần làm sáng tỏ một phần căn bản yêu cầu của việc xây dựng mô hình về thủ tục rút gọn trong TTDS, trong phạm vi chuyên đề này sẽ trình bày về một số khía cạnh của thực tiễn giải quyết vụ việc dân sự và nhu cầu của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS, đồng thời, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS ở Việt Nam.
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Thủ tục xét xử rút gọn là thủ tục tố tụng được hình thành trên cơ sở sự đơn giản hóa thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự thông thường. Trong mối quan hệ giữa xét xử theo thủ tục TTDS thông thường và xét xử theo thủ tục rút gọn thì thủ tục xét xử thông thường là cơ sở của thủ tục xét xử rút gọn và thủ tục xét xử rút gọn là sự rút gọn một số thời gian, thủ tục nào đó hoặc thành phần giải quyết so với thủ tục xét xử thông thường. Theo đó, trong thủ tục xét xử rút gọn, nhiều quy định thủ tục tố tụng thông thường trong một số trường hợp sẽ được lược bớt đi hoặc một số thủ tục sẽ được rút ngắn thời gian thực hiện so với thủ tục thông thường. Chẳng hạn, pháp luật một số quốc gia còn cho phép các nguyên đơn được khởi kiện bằng miệng hoặc khởi kiện qua mạng thông tin điện tử, trong khi đó quy định này khó có thể áp dụng cho việc khởi kiện theo thủ tục xét xử thông thường. Cá biệt, có quốc gia quy định thủ tục xét xử rút gọn là một thủ tục riêng biệt, đặc thù nằm ngoài thủ tục xét xử theo trình tự sơ thẩm thông thường. Cụ thể là, thủ tục xét xử rút gọn không phải là thủ tục xét xử phụ thuộc vào thủ tục xét xử thông thường, cũng không phải là một bộ phận của thủ tục xét xử thông thường, mà là một loại trình tự thủ tục tố tụng độc lập tương đối so với thủ tục xét xử thông thường. Tính độc lập của thủ tục xét xử rút gọn thể hiện ở quy định trong trường hợp các bên đương sự không nhất trí với phán quyết của Tòa án theo thủ tục xét xử rút gọn thì có thể khởi kiện ra Tòa án theo thủ tục xét xử thông thường như vụ án đó chưa từng được xét xử.
Tuy nhiên, bản thân thủ tục xét xử rút gọn cũng không phải là thủ tục xét xử sơ thẩm hoàn chỉnh. Trong trường hợp pháp luật chưa có quy định một số nội dung của thủ tục xét xử rút gọn thì khi xét xử theo thủ tục xét xử rút gọn, Tòa án vẫn có thể áp dụng những quy định có liên quan của thủ tục xét xử thông thường để giải quyết vụ án, và trong một số trường hợp nhất định, việc giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn sẽ phải chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường, nếu như vụ án đó không còn đáp ứng được các điều kiện để xét xử theo thủ tục rút gọn.
2. CƠ SỞ CỦA VIỆC XÂY DỰNG THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1. Cơ sở lý luận
Thủ tục rút gọn không phải là vấn đề mới trong khoa học pháp lý trên thế giới. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trong giải quyết các vụ việc dân sự cho thấy, thủ tục tố tụng rút gọn là một trong những công cụ hữu ích của người dân cũng như Tòa án trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức một cách nhanh gọn, hiệu quả. Pháp luật nhiều nước ở các hệ thống pháp luật khác nhau đều có quy định về thủ tục xét xử rút gọn trong TTDS như: Mỹ, Ấn độ, Canada, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản,…
Thủ tục rút gọn trong TTDS là một bộ phận của thủ tục TTDS thông thường, nó góp phần khắc phục những vướng mắc của thủ tục thông thường khi giải quyết những vụ việc đơn giản, có chứng cứ rõ ràng bởi sự ngắn gọn, nhanh chóng. Sớm nhìn nhận được những hữu ích của thủ tục rút gọn, Bộ Chính trị đã sớm khẳng định chủ trương về nhu cầu cần có thủ tục rút gọn giải quyết các vụ án dân sự trong những trường hợp nhất định. Cụ thể, tại tiểu mục 2.1 Mục 2 Phần II của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 có định hướng:“… Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”.
Đồng thời, nhìn lại lịch sử pháp luật về TTDS ở Việt Nam, theo quy định của pháp luật trong thời kỳ của các chế độ cũ, thủ tục rút gọn đã sớm được áp dụng để giải quyết một số loại tranh chấp, cụ thể:
Theo "Bắc kỳ Pháp viện biên chế" công bố bằng Nghị định ngày 2/12/1921 được thi hành tại toàn cõi Bắc kỳ, thì Tòa án sơ cấp có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm và chung thẩm nếu giá ngạch không quá 30 đồng bạc (Điều 6); Tòa án tỉnh có quyền giải quyết sơ thẩm và chung thẩm nếu giá ngạch quá 30 đồng bạc và không tới 100 đồng bạc (Điều 13).
Tại miền Trung Việt Nam, theo Nghị định ngày 20/10/1947 của Hội đồng chấp chánh lâm thời Trung kỳ về sửa đổi giá ngạch cũ có quy định: Các Toà đệ nhị cấp xử chung thẩm các việc tương tranh động sản hoặc đối với người, việc thương sự; việc đòi tiền bồi hoàn hay bồi thường với giá ngạch trên 500 $ nhưng dưới 1500 $, về bất động sản theo giá ngạch đồng niên không quá 150 $ (Điều 19).
Ở miền Nam Việt Nam, theo Sắc lệnh ngày 27/12/1943 có quy định: Toà xử sơ thẩm và chung thẩm các tố quyền đối nhân và động sản đến mức 7.500 quan tức 750$ hay 750 giạ lúa (mỗi giạ trọng lượng độ 20 ki lô), các tố quyền bất động sản lợi tức đồng niên 40 giạ lúa hay 300 quan hay 30$ mỗi năm. Theo Điều 16 Bộ luật dân sự và thương sự ngày 20/1/1972 của chính quyền Sài Gòn, thì những vụ kiện về động sản có giá trị dưới 60.000đ (thời điểm 1972) được coi là có giá ngạch thấp([180]).
Theo quy định tại Điều 12 LTCTAND năm 1960, thì “TAND thực hành chế độ xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Khi sơ thẩm, TAND gồm một Thẩm phán và hai HTND; trường hợp xử những vụ án nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì TAND có thể xử không có HTND”.
Tuy nhiên, kể từ LTCTAND năm 1981, 1992, 2002 đều quy định rằng Tòa án xét xử và quyết định theo đa số và không có quy định về việc xét xử các trường hợp vụ án nhỏ, đơn giản.
Đồng thời, trong lịch sử lập pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quy định về TTDS (PLTTGQCVADS, PLTTGQCTCLĐ, PLTTGQCVKT, BLTTDS) không có quy định về thủ tục rút gọn mà chỉ có những quy định về thủ tục giải quyết vụ án và việc dân sự thông thường. Đây là một trong những lỗ hổng lớn của pháp luật TTDS ở Việt Nam gây hạn chế hiệu quả giải quyết vụ việc dân sự của hệ thống Tòa án Việt Nam.
2.2. Cơ sở pháp lý
Để cụ thể hóa chủ trương về việc xây dựng thủ tục rút gọn của Bộ Chính trị như nêu trên, Nghị quyết số 428/NQ-UBTVQH13 ngày 29/12/2011 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII đã đưa Pháp lệnh Thủ tục rút gọn trong TTDS vào chương trình chuẩn bị và giao cho TANDTC là cơ quan trình dự thảo. Đây là căn cứ pháp lý chính xác nhất cho việc xây dựng một mô hình tố tụng rút gọn trong TTDS ở Việt Nam.
Đồng thời, nhận định rõ về nhu cầu cấp thiết trong việc giải quyết các tranh chấp tiêu dùng bằng thủ tục rút gọn, Luật Bảo vệ người tiêu dùng số 59/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 17/11/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011 là văn bản luật đầu tiên chính thức ghi nhận việc giải quyết tranh chấp dân sự về bảo vệ người tiêu dùng (một trong những loại tranh chấp dân sự) bằng thủ tục rút gọn. Theo đó, khoản 2 Điều 41 Luật này ghi nhận:
“…Vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết theo thủ tục đơn giản quy định trong pháp luật về TTDS khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện;
b) Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
c) Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng”.
Tuy nhiên, các quy định nêu trên của Luật Bảo vệ người tiêu dùng là quy định của pháp luật về nội dung. Tranh chấp về tiêu dùng là một trong những tranh chấp thuộc lĩnh vực dân sự. Do đó, thủ tục giải quyết tranh chấp về tiêu dùng phải được quy định trong pháp luật TTDS.
Như vậy, tính đến nay, Việt Nam vẫn thiếu quy định của pháp luật tố tụng theo trình tự rút gọn để đảm bảo giải quyết tranh chấp dân sự và một số loại việc đơn giản, rõ ràng, trong đó có tranh chấp về tiêu dùng.
2.3. Cơ sở thực tiễn - Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự tại TAND
Từ sau quá trình đổi mới nền kinh tế năm 1986, cùng với sự phát triển của kinh tế thì các tranh chấp về dân sự, thương mại diễn ra ngày càng nhiều, năm sau luôn cao hơn năm trước cả về số lượng lẫn tính chất mức độ phức tạp trong từng vụ việc. Theo kết quả thống kê của Ngành Tòa án từ năm 2005 đến nay thì các vụ án dân sự TAND các cấp thụ lý từ tăng mạnh từ 223.228 vụ (năm 2005) lên 395.415 vụ (năm 2013) tăng 172.187 vụ tương ứng với 56,4%. Số các vụ án TAND các cấp giải quyết cũng tăng từ 199.998 vụ lên 364.819 vụ, tăng 164.821 vụ tương ứng với 54,8%. Đồng thời, theo thống kê của TANDTC, thì số lượng các vụ án TAND cấp sơ thẩm thụ lý và giải quyết là rất lớn, thường chiếm trên 90% số lượng án giải quyết của toàn hệ thống Tòa án và số lượng án còn tồn đọng của Tòa án các cấp cũng còn nhiều.
Theo phản ánh của nhiều Thẩm phán TAND tại các Hội thảo khoa học về thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự, cũng như tổng kết thi hành BLTTDS những năm qua, thì trong tổng số các vụ án mà toàn hệ thống Tòa án thụ lý, giải quyết nêu trên có không ít những vụ án có chứng cứ rõ ràng, nội dung tranh chấp đơn giản, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối yêu cầu của nguyên đơn, vụ án có giá ngạch thấp nhưng vẫn phải giải quyết theo trình tự thủ tục tố tụng thông thường gây mất thời gian, tiền bạc, công sức của cơ quan tố tụng và các đương sự. Hơn nữa, có rất nhiều các vụ án bị đơn cố tình không thực hiện nghĩa vụ, lạm dụng quyền kháng cáo để kéo dài thời gian giải quyết vụ án góp phần làm cho tình trạng án tồn đọng kéo dài và gây sức ép không nhỏ cho cán bộ nhất là các Thẩm phán đã giải quyết vụ án.
Trong khi tranh chấp dân sự ngày càng gia tăng và phức tạp, nguồn nhân lực của hệ thống Tòa án chưa đủ đáp ứng việc giải quyết dẫn đến tình trạng án tồn đọng nhiều, hệ thống Tòa án đã phải chịu một áp lực không nhỏ từ công việc. Một trong những nguyên nhân của hệ quả này là sự thiếu vắng của thủ tục rút gọn để giải quyết những vụ án đơn giản, có chứng cứ rõ ràng hoặc tính chất tranh chấp không gay gắt, giá trị tranh chấp nhỏ.
Theo quy định của BLTTDS, thủ tục tố tụng thông thường hiện nay được Tòa án áp dụng để giải quyết tất cả các tranh chấp dân sự kéo dài từ 04 tháng đến 06 tháng. Tại TAND, chỉ có một thủ tục TTDS chung và duy nhất cho việc giải quyết tất cả các loại tranh chấp dân sự theo quy định của BLTTDS. Như vậy, những vụ án đơn giản, có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối, giá ngạch thấp nhưng vẫn được giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường gây lãng phí thời gian, chậm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, gây tốn kém cho Nhà nước và các bên đương sự. Trong một số trường hợp, các đương sự không thiện chí có thể lợi dụng thời hạn tố tụng này để kéo dài thời gian giải quyết, gây bất lợi và thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của đối phương. Đồng thời, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường đòi hỏi các tranh chấp phải được giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả. Đặc biệt đối với những tranh chấp thương mại, tín dụng ngân hàng,… có hợp đồng công chứng hợp pháp, quyền, nghĩa vụ của các bên rõ ràng, thì cần được giải quyết nhanh chóng để đảm bảo tính thanh khoản và sinh lợi của đồng tiền. Việc giải quyết mọi tranh chấp đều phải tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, kéo dài nên đã có những tác động không tốt đến quá trình quay vòng đồng vốn, nhất là các tranh chấp liên quan đến tiền, vàng trong điều kiện giá cả thị trường luôn luôn biến động.
Mặt khác, theo quy định của BLTTDS, các bản án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật có thể bị kháng cáo hoặc kháng nghị, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có thể bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Đây là quy định phù hợp đối với những vụ án tranh chấp có tính chất phức tạp, giá trị tài sản lớn, đòi hỏi Tòa án phải tiến hành rất nhiều các thủ tục tố tụng như xác minh, thu thập chứng cứ,... và việc đánh giá các chứng cứ là có nhiều khó khăn, phức tạp dẫn đến Tòa án có thể thiếu sót hoặc áp dụng pháp luật chưa chuẩn xác, hoặc nhiều trường hợp có thể xuất hiện tình tiết mới làm thay đổi căn bản nội dung vụ án. Tuy nhiên, đối với những vụ án có tính chất đơn giản, bị đơn thừa nhận yêu cầu của nguyên đơn hoặc không phản đối yêu cầu của nguyên đơn, giá trị tranh chấp thấp, Tòa án thường hiếm khi gặp sai lầm trong việc nhận định vụ việc và áp dụng pháp luật, nếu sau khi xét xử sơ thẩm, đương sự, người đại diện của đương sự vẫn có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm, thì có thể dẫn đến nhiều hạn chế đối với hiệu quả giải quyết tranh chấp. Đơn cử nhiều trường hợp mặc dù quyền, nghĩa vụ đã rõ ràng nhưng để gây cản trở cho nguyên đơn, bị đơn lạm dụng quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét lại vụ việc sau khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử mặc dù có thể họ biết bản án đó, quyết định đó đúng với bản chất của vụ việc và đúng với quy định của pháp luật. Việc kháng cáo của đương sự thực chất chỉ nhằm mục đích để trì hoãn, trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ của mình và gây khó khăn, làm mất thời gian cho đương sự khác và cơ quan tiến hành tố tụng chứ không nhằm thay đổi nội dung bản án, quyết định của Tòa án.
Qua nghiên cứu cho thấy, do số lượng án ngày một gia tăng và phức tạp, trong khi đó nhiều địa phương còn thiếu Thẩm phán xét xử cho nên dẫn tới tình trạng tồn đọng án. Trước một thực tế như vậy thì việc tìm ra giải pháp để thoát ra khỏi tình trạng này là cần thiết. Thiết nghĩ, song song với việc khắc phục tình trạng mất cân đối giữa số lượng công việc và Thẩm phán, chúng ta cũng phải tính đến phương án làm sao có thể giải quyết tốt các vụ việc phát sinh tại Tòa án mà tiết kiệm được cho Nhà nước về nguồn lực con người và chi phí. Việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS sẽ là một bước chuyển biến mang tính cải cách quan trọng trong quá trình đổi mới thủ tục TTDS ở nước ta. Đồng thời, đó cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm đẩy nhanh tiến trình cải cách tư pháp, mà trọng tâm là Tòa án. Chúng tôi cho rằng, trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay việc nghiên cứu xây dựng một thủ tục TTDS đơn giản hơn, nhanh chóng hơn để giải quyết dứt điểm và đúng pháp luật những loại tranh chấp đơn giản, rõ ràng, có giá ngạch thấp, tạo điều kiện cho Tòa án có thể tập trung thời gian và nguồn lực con người vào những vụ án khó khăn, phức tạp hơn cũng là một trong những giải pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng gia tăng và tồn đọng án.
Việc áp dụng thủ tục tố tụng thông thường để giải quyết những tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng, có giá ngạch thấp,... rõ ràng là không phù hợp, một mặt vừa kéo dài vụ kiện, mặt khác do không khí các phiên toà nặng nề làm căng thẳng thêm mối quan hệ giữa các bên, làm cho vụ việc từ đơn giản cũng trở thành phức tạp và phải qua nhiều cấp xét xử, gây lãng phí nhiều về thời gian cũng như phí tổn cho Nhà nước và cho cả các đương sự. Đây chính là điểm bất hợp lý của pháp luật TTDS hiện hành mà chúng ta cần phải nghiên cứu khắc phục.
Qua nghiên cứu thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, hôn nhân và gia đình, lao động tại TAND, chúng tôi thấy xuất hiện nhiều loại vụ việc với những tiêu chí sau đây có thể áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết:
(1) Những vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng
Thực tiễn xét xử của Tòa án gặp nhiều loại đơn yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn về việc thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật. Bị đơn không phản đối, mà thừa nhận nghĩa vụ của mình nhưng lại không chịu thực hiện nghĩa vụ đó. Trong những trường hợp này, nguyên đơn cần có một phán quyết của Tòa án để buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ đương nhiên của họ.
Loại vụ kiện yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mà không có sự phản đối của bị đơn thường xuất hiện dưới dạng nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo một hợp đồng vay tài sản hoặc yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ thanh toán phát sinh từ một hợp đồng nào đó.
Trong thực tiễn, loại vụ kiện nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng vay tài sản mà bị đơn không phản đối thường xuất hiện dưới các dạng cụ thể sau:
Trường hợp thứ nhất: Trong các hợp đồng vay tài sản hoặc tín dụng giữa ngân hàng với các doanh nghiệp, hoặc với cá nhân vay tiêu dùng. Bên cho vay khởi kiện đòi số tiền cho vay đã quá thời hạn trả theo hợp đồng và xuất trình được văn bản hợp đồng có công chứng hợp pháp làm chứng cứ chứng minh. Bên vay tài sản thừa nhận nghĩa vụ của mình, không phản đối yêu cầu đòi nợ nhưng vì một lý do nào đó mà chưa thực hiện được nghĩa vụ này. Hầu hết các hợp đồng vay của các doanh nghiệp hoặc cá nhân không phải vay tiêu dùng đều có tài sản thế chấp. Tuy nhiên, thủ tục tố tụng giải quyết và xử lý tài sản thế chấp này để thu hồi vốn rất phức tạp và mất nhiều thời gian gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức tín dụng. Hoặc những trường hợp cá nhân vay tiêu dùng thường có tài khoản lương làm tín chấp, do đó, thực tế chỉ cần lệnh yêu cầu thanh toán của Tòa án được ban hành làm căn cứ để các tổ chức tín dụng có thể thu hồi nợ từ tài khoản lương của người vay nợ theo định kỳ hoặc theo tháng. Nên thủ tục tố tụng thông thường nếu được áp dụng cho những trường hợp này là không cần thiết vì quá rườm rà, phức tạp.
Trường hợp thứ hai: Người bảo lãnh trong hợp đồng vay tài sản đã thừa nhận nghĩa vụ của mình nhưng không chịu thực hiện nghĩa vụ, viện lý do chưa có điều kiện thanh toán.
Trường hợp thứ ba: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán phát sinh từ hợp đồng. Bị đơn không phản đối việc kiện nhưng không thực hiện nghĩa vụ. Ví dụ như:
Trường hợp trong quan hệ hợp đồng vận chuyển tài sản, hàng hoá giữa các cá nhân hoặc giữa các công ty với nhau, bên vận chuyển khởi kiện yêu cầu bên thuê vận chuyển phải thanh toán tiền cước vận chuyển theo hợp đồng bằng văn bản giữa các bên. Bên thuê vận chuyển không phản đối về nghĩa vụ của mình nhưng do không thiện chí nên trì hoãn việc thanh toán.
Trường hợp trong quan hệ mua bán tài sản, bên bán tài sản kiện yêu cầu bên mua phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng mua bán tài sản bằng văn bản mà hai bên đã cam kết. Bị đơn thừa nhận nghĩa vụ của mình nhưng xin hoãn việc thực hiện nghĩa vụ vì không có điều kiện thực hiện. Nguyên đơn không đồng ý mà yêu cầu Tòa án buộc bị đơn phải thực hiện ngay nghĩa vụ này.
Trường hợp trong quan hệ mượn tài sản, người mượn tài sản, người giữ tài sản đã làm mất tài sản của người cho mượn, người gửi giữ. Hai bên đã thoả thuận với nhau bằng văn bản về việc xác định thiệt hại và số tiền bồi thường mà người mượn, người giữ tài sản phải thực hiện. Sau đó người có nghĩa vụ lại không thực hiện nghĩa vụ mà mình đã cam kết, do vậy bên bị thiệt hại khởi kiện yêu cầu họ phải thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp này, người có nghĩa vụ cũng không phản đối yêu cầu của nguyên đơn nhưng do chây ỳ nên không chịu thực hiện nghĩa vụ.
Trường hợp cơ quan bảo hiểm xã hội muốn khởi kiện cuộc các tổ chức nợ tiền bảo hiểm xã hội phải thực hiện nghĩa vụ nộp tiền bảo hiểm cho người lao động; hoặc trường hợp người lao động muốn yêu cầu người sử dụng lao động thanh toán lương cho họ; trường hợp người đang trực tiếp nuôn con yêu cầu người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo thỏa thuận hoặc theo bản án/quyết định đã có hiệu lực của Tòa án,...
Chúng tôi cho rằng, đối với những loại vụ kiện xuất hiện trong thực tiễn như đã đề cập ở trên, Tòa án có thể nhanh chóng ra một phán quyết buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của mình mà không cần phải xét xử. Bản chất của loại vụ kiện này là quan hệ tranh chấp về nghĩa vụ đã rõ ràng, không có tranh tụng giữa các bên, nguyên đơn chỉ cần có một phán quyết chính thức của Tòa án để làm cơ sở pháp lý thúc đẩy bị đơn phải thi hành nghĩa vụ của mình hoặc yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành khi cần thiết. Trong những trường hợp này, Tòa án ra một phán quyết buộc bị đơn phải thực hiện một nghĩa vụ mang tính đương nhiên dựa trên cơ sở nghĩa vụ đó đã được xác định theo hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật và chính bản thân bị đơn đã thừa nhận nghĩa vụ này.
(2) Những tranh chấp có chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, các sự kiện đã được xác định, Tòa án không mất nhiều thời gian để xác minh và không cần thiết phải thu thập thêm chứng cứ
Trong thực tiễn xét xử, ngoài những loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, không có tranh tụng như đã đề cập ở trên, cũng xuất hiện những vụ kiện mặc dù không có sự thừa nhận của bị đơn về nghĩa vụ phải thực hiện nhưng có chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, các sự kiện đã được xác định, Tòa án không mất nhiều thời gian để điều tra, xác minh, việc áp dụng pháp luật để giải quyết là mang tính hiển nhiên, không khó khăn, phức tạp.
Chẳng hạn, đối với các giao dịch dân sự được ký kết với người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà theo quy định của pháp luật thì giao dịch đó phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện thì sẽ bị coi là vô hiệu. Trong những trường hợp này nếu như các bên không có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết về hậu quả pháp lý phát sinh từ giao dịch, thì Tòa án có thể nhanh chóng ra một bản án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự.
Thực tiễn xét xử cũng xuất hiện những trường hợp nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bên bán phải thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng mua bán nhà, chuyển quyền sử dụng đất,..., mà theo văn bản hợp đồng viết tay hai bên đã cam kết về vấn đề này. Việc mua bán hoàn toàn tự nguyện, các bên không có tranh chấp về các vấn đề khác nhưng do không có thiện chí hoặc mâu thuẫn nên bên bán đã bỏ mặc bên mua trong việc làm thủ tục. Trường hợp này nếu bị đơn hoàn toàn không phản đối về các vấn đề khác của hợp đồng, nhưng không có trách nhiệm trong việc cùng với nguyên đơn tuân thủ các quy định về hình thức, thì Tòa án có thể nhanh chóng ra quyết định buộc bị đơn phải cùng với nguyên đơn thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng trong một thời hạn nhất định.
Ngoài ra, trong thực tiễn cũng thường gặp nhiều loại đơn khởi kiện, trong đó nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ trả lại tài sản phát sinh từ một hợp đồng mà hai bên đã cam kết. Bị đơn thừa nhận những vấn đề về sự kiện của vụ án, nhưng lại cho rằng mình không có nghĩa vụ trả lại tài sản,... Chẳng hạn, đã hết hạn của hợp đồng thuê nhà ở, thuê địa điểm kinh doanh theo hợp đồng bằng văn bản giữa các bên,..., nhưng bên thuê vẫn không trả lại nhà thuê, mặc dù bên cho thuê đã thông báo trước việc lấy lại nhà và cho lưu cư theo quy định của pháp luật. Bên thuê thừa nhận hợp đồng thuê đã hết hạn, bên cho thuê đã thông báo trước việc lấy lại nhà và cho lưu cư nhưng họ không đồng ý trả lại nhà với lý do là nếu phải trả nhà thì không có chỗ ở nào khác hoặc chưa thuê được địa điểm kinh doanh mới. Trong những trường hợp này, nếu như nguyên đơn chỉ yêu cầu đòi lại tài sản, ngoài ra các bên không có tranh chấp về những vấn đề khác (như tăng hoặc giảm giá trị tài sản...), thì Tòa án có thể nhanh chóng ra bản án, buộc bên thuê tài sản phải trả lại tài sản cho bên cho thuê.
Đối với trường hợp chủ nhà kiện đòi nhà từ người thứ ba được người thuê nhà cho thuê lại nhưng không có sự đồng ý bằng văn bản của chủ nhà, thì đây cũng có thể coi là trường hợp không khó khăn, phức tạp trong việc áp dụng pháp luật giải quyết. Người thuê nhà thừa nhận việc cho thuê lại không có sự đồng ý của chủ nhà nhưng họ phản đối việc đòi nhà, cho rằng mình có quyền cho thuê lại vì thời hạn hợp đồng thuê với chủ nhà vẫn còn. Trong trường hợp này theo quy định của BLDS, thì việc cho thuê lại nhà như đã nêu ở trên rõ ràng là không hợp pháp. Do vậy, nếu như các bên không có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết về những vấn đề khác liên quan đến đòi nhà cho thuê (như tiền thuê, bồi thường thiệt hại,...) thì việc giải quyết vụ án, buộc người chiếm hữu bất hợp pháp, người thuê nhà phải trả lại nhà cũng không còn là điều khó khăn, phức tạp.
Ngoài những loại vụ kiện mà chúng tôi đã đề cập ở trên, trong thực tiễn xét xử cũng xuất hiện những vụ tranh chấp về quyền nhân thân (quyền của cá nhân đối với hình ảnh, quyền đối với bí mật đời tư,...). Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc người vi phạm phải chấm dứt hành vi vi phạm và công khai xin lỗi. Nội dung của sự việc đã rõ ràng, bị đơn thừa nhận các sự kiện nhưng lại cho rằng hành vi của mình là không vi phạm. Theo chúng tôi, có thể coi đây là những vụ tranh chấp có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật giải quyết mang tính hiển nhiên. Chẳng hạn nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn phải công khai xin lỗi và chấm dứt hành vi vi phạm trong việc sử dụng hình ảnh của cá nhân để quảng cáo mà không có sự đồng ý của cá nhân đó hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Bị đơn thừa nhận họ có sử dụng hình ảnh của nguyên đơn, không xin phép nhưng họ cho rằng việc sử dụng hình ảnh của nguyên đơn chỉ làm tôn vinh thêm vẻ đẹp của nguyên đơn chứ không có nguy hại gì, do vậy không thể coi hành vi của họ là vi phạm pháp luật. Trong những trường hợp này, theo quy định của BLDS, thì việc sử dụng hình ảnh không có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc thân nhân của người đó (nếu người có hình ảnh đã chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự,...) là đương nhiên vi phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh. Trong trường hợp này, Tòa án cũng không khó khăn gì trong việc ra một bản án buộc bên vi phạm phải công khai xin lỗi và chấm dứt hành vi vi phạm của mình.
Có thể nói, những trường hợp như phân tích trên đây đều là những trường hợp mọi tình tiết, sự kiện của vụ việc đều đã rõ, các bên có thể có tranh tụng nhưng nội dung vụ án không phức tạp, Tòa án hoàn toàn có thể dễ dàng đưa ra nhận định và phán quyết về vụ án một cách nhanh chóng và đúng pháp luật. Do đó, việc áp dụng quy trình tố tụng thông thường đối với những vụ án này là sự gây lãng phí về thời gian, tiền của, nhân lực nhưng lại dẫn đến hệ quả không kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị xâm phạm.
(3) Những vụ kiện có giá ngạch thấp
Theo quy định của pháp luật tố tụng một số nước thì những vụ kiện có giá ngạch thấp ở một mức độ nhất định (tuỳ theo tiêu chí mà quốc gia sử dụng như căn cứ theo mức lương tối thiểu hoặc thu nhập bình quân của sinh viên mới ra trường,...) đều bắt buộc giải quyết theo thủ tục rút gọn. Thực tiễn xét xử các vụ án dân sự ở nước ta cho thấy cũng xuất hiện nhiều vụ tranh chấp có giá ngạch thấp, người khởi kiện đưa vụ việc ra Tòa án vì nhiều lý do khác nhau như do danh dự, uy tín, sự sỹ diện hoặc muốn gây cản trở cho công việc, sinh hoạt đời sống của người bị kiện. Những loại tranh chấp này nếu phải giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường sẽ kéo dài vụ kiện, phải qua xét xử sơ thẩm, phúc thẩm gây tốn kém cho đương sự và cho cả Nhà nước, trong khi đó lợi ích tranh chấp không lớn và không phải là mục đích chính của đương sự.
Thực tiễn xét xử cũng xuất hiện những vụ kiện nguyên đơn khởi kiện đòi món nợ nhỏ, nhưng không có chứng cứ chứng minh (do tin tưởng nhau nên không có hợp đồng vay nợ bằng văn bản, không có người làm chứng, bị đơn phản bác cho rằng không vay nợ,...). Tòa án xét xử sơ thẩm đã xác minh nhưng không có chứng cứ về việc vay nợ do vậy đã ra bản án xử bác đơn. Nguyên đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét lại. Chắc chắn rằng trong trường hợp này HĐXX phúc thẩm cũng không thể xử theo niềm tin nội tâm để buộc bị đơn phải trả nợ khi mà không có chứng cứ chứng minh.
Lẽ dĩ nhiên trong những trường hợp nêu trên, nếu đương sự có kháng cáo thì Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm phải xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm thông thường là 2 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, và có thể gia hạn thêm đối với những vụ án phức tạp nhưng không được quá 1 tháng. Phiên tòa phúc thẩm được tổ chức với HĐXX gồm 3 Thẩm phán nhằm đảm bảo khả năng xem xét, giải quyết vụ án đúng pháp luật. Tuy nhiên, BLTTDS vẫn mở ra khả năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự một cách tối đa bằng thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Thậm chí kể từ khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS có hiệu lực thi hành (kể từ ngày 01/01/2012), thì quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC cũng có thể được xem xét bằng thủ tục đặc biệt trong những trường hợp đặc biệt. Xét về mặt lý thuyết, thì việc đặt ra nhiều cơ chế về thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự như trên đây nhằm đảm bảo tạo cơ hội để Tòa án khắc phục sai lầm, bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và nhà nước. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng khi giải quyết những vụ việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp, thì cần tính đến lợi ích của các bên trong mối quan hệ với hiệu quả giải quyết tranh chấp của hệ thống pháp luật TTDS, lợi ích của Quốc gia, sự ổn định của các quan hệ xã hội, vì truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam mà có một cách nhìn nhận mới về cải cách thủ tục TTDS theo chiều hướng giải quyết dứt điểm các tranh chấp có giá ngạch thấp.
Từ những phân tích, lập luận trên có thể rút ra một số kết luận sau đây:
Thứ nhất, thực tiễn giải quyết các vụ án kiện dân sự, kinh tế, hôn nhân và gia đình, lao động luôn có không ít những vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, không có tranh tụng hoặc việc áp dụng pháp luật giải quyết mang tính hiển nhiên, những vụ tranh chấp có giá ngạch thấp. Đối với những loại vụ việc này, các tình tiết, sự kiện đã được xác định rõ ràng, Tòa án cũng không phải mất nhiều thời gian để xác minh, thu thập thêm chứng cứ, và việc áp dụng quy định pháp luật nào để giải quyết là điều hiển nhiên, không có mâu thuẫn, tranh cãi, do vậy việc áp dụng thủ tục tố tụng thông thường để giải quyết là không phù hợp.
Thứ hai, trong điều kiện hiện nay, sau khi BLDS được ban hành và có hiệu lực pháp luật thì các quan hệ dân sự đã được đặt trong một môi trường pháp lý tương đối đầy đủ và hoàn thiện. Có pháp luật dân sự hoàn thiện thì việc Tòa án áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp cũng đỡ khó khăn hơn, việc dẫn chiếu tới pháp luật để xác định có sự vi phạm quyền, nghĩa vụ của các chủ thể hay không cũng dễ dàng hơn. Nhất là đối với các loại việc nêu trên khi mà sự việc đơn giản, các tình tiết, sự kiện đã được xác định thông qua lời thừa nhận của các đương sự, các chứng cứ rõ ràng không thể phản bác thì việc áp dụng các quy định của BLDS để giải quyết cũng không gặp nhiều là khó khăn, phức tạp nữa. Trong những trường hợp này nếu phải áp dụng thủ tục tố tụng thông thường để giải quyết sẽ dẫn tới kéo dài vụ kiện, gây lãng phí thời gian và phí tổn cho đương sự và Nhà nước.
Thứ ba, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang trên đà phát triển, đời sống kinh tế xã hội ngày một thay đổi theo chiều hướng phong phú và phức tạp, thì các tranh chấp dân sự cũng phát sinh ngày càng nhiều và mức độ phức tạp ngày càng cao. Trong khi đó hệ thống Tòa án chưa được đảm bảo nguồn lực cũng như cơ sở vật chất đầy đủ nên phải chịu áp lực công việc rất lớn. Do vậy, thực tiễn xét xử đòi hỏi chúng ta phải cải cách thủ tục TTDS, xây dựng một thủ tục giản đơn hơn để có thể giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật những loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, không có tranh tụng, việc áp dụng pháp luật giải quyết mang tính hiển nhiên hoặc giá ngạch thấp. Nếu như xây dựng được một thủ tục tố tụng rút gọn áp dụng giải quyết đối với những loại vụ kiện này thì có thể nhanh chóng bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của đương sự, tạo điều kiện cho Tòa án tập trung thời gian và nguồn lực con người vào những vụ khó khăn, phức tạp hơn. Qua đó, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống Tòa án nhiều hơn nữa.
3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG MÔ HÌNH THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Ở VIỆT NAM - NHỮNG ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CƠ BẢN
3.1. Một số yêu cầu của việc xây dựng mô hình thủ tục rút gọn trong TTDS
Việc xây dựng mô hình thủ tục rút gọn trong TTDS ở Việt Nam cần đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm về cải cách tư pháp đã được xác định trong các Nghị quyết, văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, cụ thể như sau:
(i) Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định. Tiếp tục hoàn thiện thủ tục TTDS,… Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Tòa án, Tòa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn,…;
(ii) Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp.
Thứ hai, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp; tính thống nhất của Pháp lệnh Thủ tục rút gọn trong TTDS với hệ thống pháp luật tố tụng;
Thứ ba, bảo đảm tính đồng bộ, khả thi của Pháp lệnh Thủ tục rút gọn trong TTDS. Bảo đảm trình tự và thủ tục TTDS rút gọn dân chủ, công khai, rút gọn, công bằng, thuận lợi cho người tham gia TTDS thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động TTDS;
Thứ tư, bảo đảm tính kế thừa và phát triển các quy định của pháp luật tố tụng của Việt Nam. Nghiên cứu, tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài về thủ tục rút gọn trong TTDS, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đời sống xã hội của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế;
Thứ năm, xây dựng thủ tục rút gọn phải bảo đảm trình tự và thủ tục tố tụng rút ngắn về thời gian và thủ tục, thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; bảo đảm minh bạch hóa thủ tục tố tụng, không xâm phạm quyền, lợi ích của người thứ ba; đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động TTDS; bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật; bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục rút gọn bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức;
Thứ sáu, bảo đảm cụ thể hoá và không có sự xung đột giữa các quy định của Pháp lệnh Thủ tục rút gọn trong TTDS với các quy định của các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
3.2. Một số nội dung cơ bản khi xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS ở Việt nam
3.2.1. Về việc bảo đảm chế độ hai cấp xét xử
Theo quy định của Hiến pháp Việt Nam năm 2013, tại khoản 6 Điều 103, thì chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm. Với quy định này của Hiến pháp, có thể hiểu rằng, việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án phải bảo đảm hai cấp xét xử, bảo đảm quyền kháng cáo của đương sự, quyền kháng nghị của VKS. Tuy nhiên, bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm theo thủ tục rút gọn có nên bị kháng cáo, kháng nghị không, hiện là vấn đề còn có quan điểm khác nhau như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thủ tục rút gọn trong TTDS là một bộ phận của thủ tục tố tụng, do đó phải tuân theo tất cả những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp, BLTTDS. Theo đó, cần xây dựng các quy định đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử đối với thủ tục rút gọn.
Quan điểm thứ hai cho rằng, thủ tục rút gọn trong TTDS là một bộ phận của thủ tục TTDS, tuy nhiên nó cần có những đặc thù riêng. Giải quyết vụ việc dân sự thông thường phải bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử. Nhưng khi áp dụng thủ tục rút gọn, để bảo đảm tính nhanh gọn và đặc thù của nó, thì chỉ nên áp dụng xét xử sơ thẩm rút gọn. Nếu vụ việc bị kháng cáo, kháng nghị sau khi có bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm, thì vụ việc cần được chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường, vì lúc này vụ việc đã rơi vào tình trạng phức tạp, không còn đáp ứng được tiêu chí tình tiết đơn giản nữa.
Chúng tôi, đồng tình với quan điểm thứ hai nêu trên. Một trong những ý nghĩa của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS là nhằm bảo đảm cơ chế giải quyết đối với những vụ việc dân sự đơn giản, chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, giá trị tranh chấp thấp,… được giải quyết nhanh gọn; nhằm giảm tình trạng tồn đọng án và nâng cao hiệu quả công việc của hệ thống Tòa án. Đồng thời, đối với những vụ án rõ ràng, việc áp dụng pháp luật là hiển nhiên, không phức tạp, thì khả năng Tòa án mắc sai lầm là hiếm gặp, do đó, việc quy định cho phép kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ tục rút gọn và giải quyết phúc thẩm rút gọn vô tình sẽ trở thành yếu tố để các bên lợi dụng kéo dài thời gian giải quyết vụ án, gây ảnh hưởng quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Đồng thời, đối với những vụ án có giá trị tranh chấp thấp thì cần phải cân bằng với lợi ích xã hội, hiệu quả chung của hệ thống tố tụng và sự ổn định các quan hệ xã hội.
Do vậy, để đảm bảo các quy định về tố tụng rút gọn không vi hiến mà vẫn đảm bảo đặc thù của thủ tục rút gọn, thì cần xây dựng quy định cho phép kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ tục rút gọn, nhưng đặt trong những điều kiện khắt khe, chặt chẽ. Không áp dụng cơ chế thụ lý vụ án giải quyết theo thủ tục phúc thẩm đương nhiên mà xây dựng cơ chế sàng lọc đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị. Khi bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ tục rút gọn bị kháng cáo, kháng nghị thì cần được sàng lọc căn cứ, nếu có căn cứ hợp pháp, thì mới chuyển sang thụ lý giải quyết theo thủ tục phúc thẩm thông thường.
3.2.2. Về thành phần giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn
Bản chất của thủ tục rút gọn trong TTDS là sự rút gọn về thời gian, thủ tục và cả thành phần tham gia giải quyết vụ việc dân sự. Trong TTDS thông thường, thành phần tham gia phiên tòa để giải quyết vụ việc dân sự bao gồm HĐXX (Thẩm phán và HTND), Thư ký Tòa án, đại diện VKSND,…. Khi giải quyết vụ việc theo thủ tục rút gọn thì sự tham gia của HTND là không cần thiết và Hiến pháp năm 2013 cũng đã có quy định bảo đảm cho cơ chế này. Cụ thể: Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 1 Điều 103 “Việc xét xử sơ thẩm của TAND có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”.
Tuy nhiên, Kiểm sát viên VKSND có cần tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn không đang là vấn đề có nhiều tranh cãi.
Có quan điểm cho rằng, Kiểm sát viên cần tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết, xét xử vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn nhằm đảm bảo thực hiện kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự đúng pháp luật, hạn chế sai lầm cho Tòa án.
Chúng tôi cho rằng, khi giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn thì Kiểm sát viên không cần phải tham gia phiên tòa, phiên họp. Kiểm sát viên kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn thông qua hồ sơ giải quyết vụ việc. Bởi, theo xu thế phát triển chung của TTDS trên thế giới, cần bảo đảm xu hướng “việc dân sự cốt ở đôi bên”. VKS có vai trò, quyền hạn kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự, nhưng kiểm sát như thế nào thì cần phù hợp với từng lĩnh vực tố tụng. Trong TTDS, nhất là đối với vụ việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì VKS không cần thiết phải tham gia phiên toà, phiên họp. Thủ tục rút gọn cần đảm bảo rút ngắn về thời gian, đơn giản về thủ tục và không phức tạp về thành phần tiến hành tố tụng. Với vụ việc đơn giản, một Thẩm phán hoàn toàn có thể đảm bảo vụ việc được giải quyết đúng đắn, VKS vẫn có thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thông qua hồ sơ vụ án do Tòa án chuyển đến và thực hiện quyền kháng nghị quyết định/bản án sơ thẩm nếu có căn cứ hợp pháp. Hơn nữa, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đối với vụ việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn chỉ cần một Thẩm phán tiến hành giải quyết vụ án.
3.2.3. Về thủ tục hoà giải
Hoà giải trong TTDS là thủ tục bắt buộc trong quá trình chuẩn bị xét xử những vụ án dân sự nói chung và vụ việc hôn nhân gia đình nói riêng (trừ những vụ án không được hoà giải). Vụ việc dân sự được giải quyết theo thủ tục rút gọn cũng cần bảo đảm thủ tục hoà giải trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo tố tụng rút gọn, vì đây là nguyên tắc cơ bản của TTDS. Hoà giải sẽ tạo điều kiện cho vụ việc còn được giải quyết nhanh hơn nếu các bên có thể hoà giải thành.
3.2.4. Về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
Theo tinh thần của TTDS, các đương sự có quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, đương sự hoàn toàn có quyền lựa chọn áp dụng thủ tục rút gọn. Quy định về thủ tục rút gọn cần được xây dựng theo hướng xác định các tiêu chí đối với vụ việc đơn giản, rõ ràng, giá ngạch thấp có thể áp dụng thủ tục rút gọn. Đương sự có quyền tự định đoạt trong việc lựa chọn thủ tục xét xử rút gọn để giải quyết tranh chấp của mình, ngay cả đối với trường hợp những vụ việc không thuộc phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn nhưng người khởi kiện có nguyện vọng và người bị kiện không phản đối việc áp dụng thủ tục rút gọn thì có thể được Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn. Trường hợp, khi xem xét thụ lý vụ việc dân sự, nếu nhận thấy vụ việc thuộc trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết, nhưng đương sự không biết, thì Tòa án có thể giải thích cho đương sự, và việc giải quyết theo thủ tục rút gọn hay thủ tục thông thường thuộc quyền lựa chọn của đương sự. Tuy nhiên, riêng trường hợp vụ tranh chấp có giá ngạch thấp theo mức quy định nào đó, thì bắt buộc phải áp dụng theo thủ tục rút gọn để đảm bảo giải quyết nhanh gọn vụ việc, tránh trường hợp đương sự cố tình kéo dài việc giải quyết vụ việc để gây bất lợi cho đối phương trong khi giá trị được bảo vệ thì không cao.
3.2.5. Về vấn đề chứng cứ
Trong TTDS nói chung và đặc biệt là khi giải quyết vụ việc theo thủ tục rút gọn, thì cần đề cao trách nhiệm cung cấp chứng cứ của đương sự. Nên quy định rõ khi nộp đơn yêu cầu/đơn khởi kiện giải quyết vụ việc theo thủ tục rút gọn, thì đương sự phải gửi kèm theo đầy đủ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ, hợp pháp. Tòa án chỉ thụ lý vụ việc khi xác định đã có đầy đủ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của đương sự. Tòa án không có trách nhiệm phải thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục rút gọn. Việc gia hạn bổ sung tài liệu chỉ được chấp nhận trong trường hợp có lý do chính đáng.
3.2.6. Về xây dựng cơ chế chuyển đổi thủ tục tố tụng
Cần xây dựng quy định về cơ chế chuyển đổi từ thủ tục tố tụng rút gọn sang thủ tục tố tụng thông thường. Theo đó, có thể chuyển vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn sang xét xử theo thủ tục thông thường đối với một số trường hợp nhất định như đối với trường hợp Tòa án xét thấy cần phải thu thập chứng cứ mà thời gian giải quyết sẽ kéo dài. Ví dụ: vụ án phải tiến hành giám định, định giá tài sản; vụ án phải tiến hành thực hiện uỷ thác tư pháp; xuất hiện yếu tố nước ngoài; vụ án phải triệu tập nhiều nhân chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,...; trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ tục rút gọn bị kháng cáo, kháng nghị; xuất hiện yếu tố nước ngoài trong vụ việc;…
3.2.7. Xây dựng quy định về mức án phí thấp, miễn tạm ứng án phí, giảm tiền án phí trong một số trường hợp khởi kiện và xét xử theo thủ tục rút gọn
Một trong những ưu điểm của thủ tục rút gọn trong TTDS là giảm chi phí cho đương sự trong đó có tiền án phí, lệ phí. Kinh nghiệm các nước trên thế giới có áp dụng thủ tục rút gọn trong TTDS đều quy định mức án phí, lệ phí Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn thấp hơn so với án phí, lệ phí Tòa án thông thường. Việc quy định mức án phí thấp, xem xét miễn, giảm án phí đối với những vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn là một trong những giải pháp để khuyến khích người dân lựa chọn phương thức này để giải quyết tranh chấp.
3.2.8. Xây dựng cơ chế hối thúc trả nợ như một thủ tục riêng biệt áp dụng đối với trường hợp vay nợ có chứng cứ rõ ràng, các bên đều thừa nhận. Việc hối thúc do đương sự yêu cầu Tòa án thực hiện.Trong trường hợp bên bị yêu cầu không thực hiện việc trả nợ thì chuyển sang thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng không nên xây dựng cơ chế này, vì thủ tục này vẫn được người dân sử dụng khi đòi nợ thông thường.
3.2.9. Về việc xây dựng quy định về thủ tục rút gọn trong TTDS trong một Pháp lệnh riêng biệt hay thành một phần của Bộ luật TTDS
Thủ tục rút gọn trong TTDS là một bộ phận hay một ngoại lệ của BLTTDS. Bởi khi chưa có quy định riêng về thủ tục rút gọn (như Pháp lệnh), thì các quy định của BLTTDS được áp dụng để giải quyết chung cho tất cả các loại vụ việc bao gồm những vụ việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng. Tuy nhiên, qua thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự, cho thấy nhiều loại vụ việc dân sự không nhất thiết phải áp dụng tất cả các thủ tục tố tụng quy định trong BLTTDS mà đảm bảo giải quyết nhanh hơn và hiệu quả hơn. Do đó, một văn bản dưới luật quy định về ngoại lệ này sẽ không đảm bảo hiệu lực pháp lý của nó.
Đồng thời, kinh nghiệm lập pháp về thủ tục rút gọn trong TTDS của nhiều nước trên thế giới đều quy định thủ tục rút gọn là một thủ tục đặc thù được quy định trong Bộ luật hoặc Luật TTDS. Việc đề xuất xây dựng Dự án Pháp lệnh chỉ đặt ra khi chưa có điều kiện để sửa đổi toàn diện BLTTDS. Hiện nay, Quốc hội đã quyết định sửa đổi toàn diện BLTTDS thì việc xây dựng thủ tục xét xử rút gọn nên được quy định ngay trong BLTTDS để vừa đảm bảo tính đặc thù của thủ tục rút gọn đồng thời vẫn đảm bảo được sự thống nhất của pháp luật TTDS là phù hợp (tương tự như thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng hình sự). Mặt khác, việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS đang đặt ra vấn đề cần phải sửa đổi bổ sung một số quy định của các luật, pháp lệnh như: Luật Thi hành án dân sự, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.... do đó, việc quy định thủ tục rút gọn trong BLTTDS sẽ đảm bảo tính khả thi của việc sửa đổi các luật, pháp lệnh nêu trên, đồng thời đảm bảo hiệu lực thi hành của thủ tục rút gọn khi được quy định trong một văn bản luật có hiệu lực pháp lý cao hơn Pháp lệnh.
Kết luận:
Thủ tục rút gọn là bước chuyển biến mới trong việc cải cách thủ tục TTDS. Có thể thấy rằng trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay việc đổi mới thủ tục TTDS theo hướng đơn giản hoá về thủ tục đối với một số loại tranh chấp là xuất phát từ chính những đòi hỏi của thực tiễn giải quyết các loại tranh chấp trong đời sống xã hội. Bản thân những quy định không còn phù hợp của pháp luật TTDS hiện hành khi áp dụng trong thực tiễn là nguyên nhân kéo dài vụ kiện, gây tổn phí cho cả Nhà nước và đương sự một cách không cần thiết .
Pháp luật TTDS hiện hành chỉ quy định một thủ tục chung để giải quyết mọi loại tranh chấp mà không có những quy định về thủ tục rút gọn để áp dụng đối với những loại vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc giá ngạch thấp. Trên thực tế các loại vụ kiện này vẫn được tiến hành giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường dẫn tới làm chậm tiến trình giải quyết tranh chấp mà lẽ ra nó có thể kết thúc một cách nhanh chóng hơn. Nhiều vụ kiện mặc dù các tình tiết, sự kiện đã được xác định rất rõ ràng, việc giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng đắn nhưng đương sự vẫn lạm dụng quyền kháng cáo nhằm mục đích trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ của mình.
Thực tiễn xét xử cho thấy việc vận dụng các quy định hiện hành về thủ tục phiên toà sơ thẩm để giải quyết những loại việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng, không có tranh tụng là không phù hợp. Xét về thực tế, đối với những loại việc này Tòa án có thể bỏ qua các bước không cần thiết mà vẫn đảm bảo việc giải quyết vụ kiện là đúng đắn. Nếu như phải tuân theo đầy đủ các bước khai mạc, thẩm vấn, tranh luận, nghị án và tuyên án như đối với các vụ kiện khác thì thực chất đó cũng chỉ là việc làm mang tính hình thức và quá câu nệ về thủ tục.
Như vậy, thực tiễn giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế, hôn nhân và gia đình, lao động đã chỉ ra rằng những loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, không có tranh tụng, việc áp dụng pháp luật giải quyết mang tính hiển nhiên thì giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường là không phù hợp, gây kéo dài vụ kiện, tổn phí cho đương sự và Nhà nước một cách không cần thiết. Hơn nữa trong điều kiện hiện nay cơ chế thị trường đòi hỏi việc giải quyết tranh chấp phải nhanh gọn, có hiệu quả. Nếu kéo dài vụ kiện một cách không đáng có sẽ gây tâm lý căng thẳng giữa các đương sự, gây mất niềm tin của nhân dân vào cơ quan công lý. Tham khảo pháp luật TTDS nhiều nước trên thế giới cho thấy ngoài thủ tục chung đều có quy định thủ tục TTDS rút gọn để giải quyết các tranh chấp có nội dung đơn giản, rõ ràng hoặc giá ngạch thấp và hiệu quả của việc áp dụng thủ tục này cũng đã được chứng minh trong thực tiễn.
Ở Việt Nam, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay nếu xây dựng một thủ tục rút gọn trên cơ sở rút ngắn thời hạn giải quyết, đơn giản hoá các trình tự tố tụng không cần thiết nhằm giải quyết một cách nhanh gọn, có hiệu quả các tranh chấp, tiết kiệm thời gian, chi phí là hợp với ý nguyện của nhân dân và cũng là một trong những biện pháp khuyến khích, thu hút đầu tư nước ngoài. Bởi lẽ nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào một Quốc gia nào đó bao giờ cũng rất quan tâm tới luật pháp của nước đó có thuận lợi, linh hoạt và hiệu quả hay không.
Từ những phân tích, lập luận trên, chúng tôi cho rằng chúng ta có đấy đủ căn cứ lý luận cũng như thực tiễn của đời sống xã hội đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một thủ tục TTDS rút gọn để giải quyết nhanh chóng, chính xác các vụ kiện bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tiết kiệm cho đương sự và Nhà nước. Việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn là một bước chuyển biến mới, mang tính cải cách quan trọng trong việc đổi mới thủ tục TTDS ở nước ta.
Chuyên đề 7
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ
RÚT GỌN Ở VIỆT NAM
TS. Trần Anh Tuấn
Trường Đại học Luật Hà Nội
1. VỀ XÁC ĐỊNH PHÁP VI LOẠI VIỆC ĐƯỢC GIẢI QUYẾT THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
Mục tiêu của việc xây dựng thủ tục tố tụng rút gọn là tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết nhanh chóng một số loại tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động có tính chất đặc thù. Để bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên đương sự thì việc xác định hợp lý phạm vi những loại việc có thể giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn là rất cần thiết. Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng trong BLTTDS cho thấy việc xác định phạm vi những loại việc có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn cũng còn có nhiều ý kiến khác nhau.
Về phương diện lý luận thì những loại vụ kiện được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn phải là những loại việc có nội dung đơn giản, rõ ràng, Tòa án không phải mất nhiều thời gian để xác minh, việc áp dụng pháp luật giải quyết là không khó khăn, phức tạp. Kết quả nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và thực tiễn xét xử cho thấy có 3 loại việc có thể áp dụng thủ tục rút gọn. Đó là những việc kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phủ nhận nghĩa vụ của mình; những vụ tranh chấp có giá trị nhỏ và những vụ việc mà đương sự thoả thuận lựa chọn thủ tục rút gọn để giải quyết.
- Đối với những tranh chấp có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ
Vụ kiện có chứng cứ rõ ràng phải được hiểu là những vụ kiện mà nguyên đơn xuất trình được chứng cứ bằng văn bản để chứng minh cho yêu cầu của mình. Đối với các chứng cứ được thể hiện dưới hình thức viết thì là loại chứng cứ có độ tin cậy cao. Nếu như bị đơn và tất cả những người có liên quan khác trong vụ kiện không có sự phản đối về sự giả mạo của bằng chứng này thì Tòa án có thể khẳng định được tính xác thực và độ tin cậy của các thông tin trong văn bản đó.
Như vậy các tình tiết, sự kiện của vụ việc đã được xác định rõ ràng bởi các chứng cứ bằng văn bản đồng thời được củng cố thêm bằng lời thừa nhận của bị đơn về nghĩa vụ của họ. Thực chất đây là những việc không có tranh tụng cả về chứng cứ và nghĩa vụ phải thực hiện. Do vậy, Tòa án không phải mất nhiều thời gian để xác minh mà vẫn có thể giải quyết đúng vụ kiện. Việc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ của mình là đã rõ ràng không còn tranh cãi. Tuy nhiên, nguyên đơn muốn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ của mình thì cần phải có một phán quyết có hiệu lực của Tòa án.
Qua khảo sát thực tiễn xét xử thì các loại việc có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối nghĩa vụ có thể được giải quyết theo thủ tục rút gọn là các loại việc sau đây:
- Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng vay tài sản bằng văn bản mà bị đơn không phản đối yêu cầu của nguyên đơn.
- Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền phát sinh từ hợp đồng bằng văn bản, bị đơn không phản đối nghĩa vụ của mình nhưng không thực hiện nghĩa vụ.
- Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ của mình nhưng không thực hiện nghĩa vụ.
- Về những vụ tranh chấp có giá ngạch thấp
Qua nghiên cứu thực tiễn giải quyết các án kiện có thể thấy rằng đối với những tranh chấp có giá trị nhỏ thì thường sự việc cũng đơn giản, tình tiết rõ ràng, sau khi được Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết thì ít khi đương sự kháng cáo lên Tòa án cấp trên. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cá biệt do các bên có tư tưởng theo kiện đến cùng để bảo vệ uy tín, danh dự... nên có những vụ chỉ tranh chấp một cây xoan, một bụi tre mà khiếu nại lên đến TANDTC([181]). Ngoài ra, trong một số vụ thì do tâm lý ăn thua đương sự vẫn kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét theo thủ tục phúc thẩm mặc dù giá trị vụ kiện là không lớn.
Thiết nghĩ, đối với những tranh chấp về tài sản có giá ngạch thấp nhưng lại liên quan đến việc xác định mốc giới về đất đai thì không nên áp dụng thủ tục rút gọn. Bởi vì, xác định tài sản đó thuộc sở hữu của ai sẽ kéo theo việc xác định quyền sử dụng đất của các bên vì vậy tranh chấp thường gay gắt và cũng không thể coi đây là trường hợp tranh chấp tài sản có giá ngạch thấp theo đúng nghĩa của nó. Chúng tôi cho rằng đối với các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng về tài sản hoặc nghĩa vụ về tài sản có giá ngạch thấp mà không liên quan đến quyền sử dụng đất thì có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn.
Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là giá trị việc kiện là bao nhiêu thì được coi là có giá ngạch thấp. Vấn đề này cũng gây nhiều tranh luận, nhất là trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam chưa ổn định, giá cả thường xuyên biến động. Do không có cơ sở để xác định được vấn đề này cho nên đề xuất về thủ tục rút gọn áp dụng đối với những loại việc có giá ngạch thấp rơi vào bế tắc. Do vậy, việc nghiên cứu kỹ lưỡng kinh nghiệm lập pháp các nước và lịch sử lập pháp Việt Nam về vấn đề này là rất cần thiết.
- Về các việc mà đương sự thoả thuận lựa chọn thủ tục rút gọn
Về phương diện lý luận thì trong các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động bản thân các đương sự là chủ thể có lợi ích cho nên họ có quyền tự định đoạt, tự mình quyết định về việc lựa chọn phương thức nào thuận lợi nhất để bảo vệ lợi ích của mình. Do vậy, ngoài các loại việc được pháp luật quy định giải quyết theo thủ tục rút gọn như đã đề cập ở trên thì cũng nên tham khảo kinh nghiệm lập pháp các nước để xây dựng quy định về quyền của đương sự trong việc thoả thuận lựa chọn thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp. Vấn đề này trước đây cũng đã được quan tâm nghiên cứu ([182]) nhưng cũng cần phải cân nhắc hết sức thận trọng để việc ghi nhận quyền của đương sự này không gây tổn hại đến đương sự khác và cần có những cơ chế hợp lý để bảo đảm an toàn cho các đương sự.
2. VỀ CƠ CHẾ XÉT XỬ MỘT THẨM PHÁN VÀ VƯỚNG MẮC ĐẶT RA
Việc nghiên cứu pháp luật tố tụng nước ngoài cho thấy rằng pháp luật TTDS của nhiều nước trên thế giới bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường đều có xây dựng một thủ tục tố tụng giản đơn hoặc thủ tục ra lệnh áp dụng đối với những tranh chấp đơn giản, rõ ràng hoặc giá ngạch thấp. Tuy nhiên, việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS Việt Nam đã không thành công. Căn nguyên của vấn đề, một mặt là do một số quy định của Hiến pháp 1992 có liên quan còn chưa được sửa đổi, mặt khác do là một thủ tục mới đang được nghiên cứu xây dựng nên về nhận thức cũng còn có nhiều ý kiến khác nhau.
Theo thông lệ quốc tế thì thủ tục rút gọn do một Thẩm phán giải quyết tranh chấp, trong khi đó việc xét xử có HTND tham gia, Tòa án xét xử tập thể là những nguyên tắc hiến định (Điều 129 và Điều 131 Hiến pháp năm 1992). Do Hiến pháp không có những quy định ngoại lệ về các nguyên tắc trên nên việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS cũng có nhiều ý kiến phản bác với quan niệm quy định của Hiến pháp là bất di bất dịch. Tuy nhiên, để tránh trở ngại này một số nhà nghiên cứu đi theo hướng xác định những loại việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn là những loại việc không cần phải “xét xử” do vậy không bị ràng buộc bởi các nguyên tắc trên hoặc dựa trên những ngoại lệ đã tồn tại trong lịch sử lập pháp Việt Nam.
Nghiên cứu tiến trình xây dựng thủ tục rút gọn trong BLTTDS cho thấy, việc khởi thảo thủ tục này trong Dự thảo BLTTDS có lẽ được bắt đầu từ những năm 1996, 1997. Thủ tục rút gọn đã được xây dựng tại chương XV Dự thảoV BLTTDS gồm 7 điều luật (Điều 234 - Điều 243). Tuy còn có những điểm còn phải chỉnh sửa nhưng các quy định về thủ tục rút gọn này đã phần nào đáp ứng được những đòi hỏi mà thực tiễn giải quyết tranh chấp đặt ra và phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế về TTDS. Cho tới Dự thảo VIII BLTTDS phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn này đã bị thu hẹp bởi 3 điều luật (Điều 267 - Điều 269) tại chương XV với tên gọi là “Thủ tục yêu cầu thanh toán nợ”. Có thể thấy rằng thủ tục yêu cầu thanh toán nợ trong Dự thảo VIII về cơ bản là sự mô phỏng các quy định về thủ tục ra lệnh trong BLTTDS Pháp năm 1807. Tuy nhiên, so sánh với các quy định trong BLTTDS Pháp thì phạm vi áp dụng thủ tục yêu cầu thanh toán nợ theo Dự thảo VIII BLTTDS Việt Nam đã bị thu hẹp. Bởi vì theo Dự thảo VIII BLTTDS thủ tục này chỉ áp dụng trong các quan hệ hợp đồng vay tài sản mà không áp dụng cho việc thanh toán các nghĩa vụ tài sản khác như BLTTDS Pháp.
Song tiếc rằng, cho tới Dự thảo X và XI thì thủ tục rút gọn đã hoàn toàn không còn tồn tại nữa. Trong khi đó nhìn ra các nước thì pháp luật của nhiều nước trên thế giới bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường đều có xây dựng một thủ tục tố tụng rút gọn áp dụng đối với những tranh chấp đơn giản, rõ ràng hoặc giá ngạch thấp. Ngoài Cộng hoà Pháp - một nước có thể coi là hình mẫu tiêu biểu của các nước theo hệ thống Châu Âu lục địa thì Australia và một số nước Châu á có điều kiện gần gũi và tương đồng với Việt Nam như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc, Singapo... đều có những quy định về thủ tục rút gọn này. Sau khi BLTTDS ra đời, nhiều ý kiến cho rằng thủ tục giải quyết việc dân sự được quy định từ Điều 311 đến Điều 341 BLTTDS năm 2004 chính là thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, việc nghiên cứu pháp luật TTDS của nhiều nước trên thế giới cho thấy rằng đây chỉ là các thủ tục tố tụng đặc biệt chứ không phải là thủ tục rút gọn theo đúng nghĩa của nó.
Nghị quyết số 49 - NQ/TW của Bộ chính trị ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã củng cố cho nhận định này và chỉ rõ cần phải tiếp tục: “…Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”. Thực hiện Nghị quyết nói trên, Ban soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS cũng đã xây dựng các quy định về thủ tục này (Dự thảo 1 và 2). Khi tổng hợp ý kiến các bộ, ngành về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS thì đa số các bộ, ngành đều nhất trí bổ sung thủ tục đơn giản trong TTDS với định hướng là cần xem xét, cân nhắc các tiêu chí, điều kiện, trình tự, thủ tục áp dụng thủ tục đơn giản([183]). Tuy nhiên, một lần nữa thì các quy định về thủ tục rút gọn trong Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS lại tiếp tục bị gác lại. Đây chính là lý do vì sao các quy định về thủ tục rút gọn lại không hiện hữu trong bản Dự án chính thức đệ trình lên Quốc Hội trong kỳ họp lần này.
Dưới góc nhìn lịch sử lập pháp thì ở Việt Nam, cơ chế xét xử một Thẩm phán đã từng được quy định tại Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946. Theo Điều 10 Sắc lệnh này thì đối với Tòa án sơ cấp "tại phiên toà, Thẩm phán xét xử một mình Lục sự giữ bút ký, lập biên bản án từ" và đối với Tòa án đệ nhị cấp Điều 17 Sắc lệnh cũng quy định "về dân sự và thương sự, Chánh án xử một mình nhưng khi xử các việc tiểu hình phải có thêm hai viên phụ thẩm nhân dân góp ý kiến".
Trên cơ sở quy định của các Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992, các Điều 12 LTCTAND năm 1960, Điều 7 LTCTAND năm 1981, Điều 6 LTCTAND năm 1992 đều có quy định về nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Theo nguyên tắc này thì việc xét xử phải được tiến hành bởi một HĐXX gồm nhiều thành viên.
Sau này theo quy định tại các PLTTGQCVAKT và PLTTGQCTCLĐ thì thành phần HĐXX sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và một HTND. Theo quy định tại PLTTGQCVADS ngày 29/11/1989 thì thành phần HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai HTND.
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi thì một trong những nguyên nhân dẫn tới các quy định về thủ tục rút gọn không được thiết lập trong BLTTDS năm 2004 là thủ tục này tuân theo cơ chế một Thẩm phán, trong khi đó theo luật pháp hiện hành (Điều 131 Hiến pháp 1992) thì cơ chế xét xử tập thể vẫn chiếm ưu thế. Theo góc nhìn về tính hợp hiến của văn bản thì các quy định của BLTTDS không thể trái với Hiến pháp.
Xét về thực tế lập pháp thì BLTTDS hiện nay mặc dù quy định Tòa án xét xử tập thể là một nguyên tắc căn bản (Điều 14 BLTTDS) nhưng các quy định về thành phần cụ thể của HĐXX, thành phần Hội đồng giải quyết việc dân sự (từ Điều 52 tới Điều 55 BLTTDS) vẫn thừa nhận quyền của một Thẩm phán trong việc độc lập giải quyết một số yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Ngoài ra, thẩm quyền độc lập giải quyết tranh chấp theo cơ chế một Thẩm phán vẫn được ghi nhận trước khi vụ tranh chấp được đưa ra phiên toà tập thể.
Chúng tôi cho rằng trong điều kiện hiện nay cần phải khôi phục lại các quy định về cơ chế xét xử một Thẩm phán, trao cho Thẩm phán thẩm quyền độc lập trong việc giải quyết các vụ tranh chấp đơn giản, rõ ràng, không có tranh tụng. Qua tham khảo pháp luật TTDS nước ngoài có thể thấy rằng pháp luật TTDS của các nước trên thế giới có quy định về thủ tục TTDS rút gọn thì việc xét xử đều giao cho một Thẩm phán đảm nhiệm.
Ở Việt Nam mặc dù tại các LTCTAND năm 1960, 1981, 1992 đều quy định rằng Tòa án xét xử và quyết định theo đa số nhưng không phải là không có ngoại lệ. Chẳng hạn Điều 12 LTCTAND năm 1960 quy định "TAND thực hành chế độ xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Khi sơ thẩm, TAND gồm một Thẩm phán và hai HTND; trường hợp xử những vụ án nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì TAND có thể xử không có HTND".
Xét ở một góc độ khác, tuy pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành không có quy định về cơ chế xét xử một lần như trước kia, nhưng vẫn ghi nhận quyền hạn của Thẩm phán trong việc ra các quyết định giải quyết vụ án như quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, quyết định công nhận sự thoả thuận giữa các đương sự, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và hiệu lực của các quyết định này. Trên thực tế Thẩm phán đã thực hiện thẩm quyền độc lập của mình, tự mình giải quyết các vấn đề phát sinh trong vụ án mà không cần lập một HĐXX.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ Tòa án của chúng ta đã được đào tạo, nâng cao một bước đáng kể về kiến thức pháp lý và chuyên môn nghiệp vụ. Trong các năm qua, các cơ sở đào tạo luật như trường Đại học Luật Hà Nội, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Tư pháp, trường Cán bộ Tòa án liên tiếp mở các lớp luân huấn, tập trung đào tạo, bồi dưỡng cho số Thẩm phán còn thiếu tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và mở các lớp đào tạo Thẩm phán cho số cán bộ Tòa án đã có bằng cử nhân luật.
Trong tương lai, số cán bộ được đào tạo cơ bản tại các cơ sở đào tạo nói trên sẽ thực sự là đội ngũ kế cận đủ khả năng về chuyên môn, nghiệp vụ để thực thi nhiệm vụ của mình. Do vậy, trong công cuộc cải cách tư pháp và pháp luật tố tụng hiện nay nếu có mở rộng thẩm quyền độc lập của Thẩm phán trong việc quyết định giải quyết một số loại việc đơn giản, rõ ràng thì cũng không phải là không có cơ sở. Vấn đề là ở chỗ chúng ta phải tính toán, cân nhắc xem việc quy định một Thẩm phán độc lập giải quyết trong những trường hợp đó thì có đảm bảo được công lý và quyền lợi hợp pháp của đương sự hay không.
Theo chúng tôi, việc xét xử được tiến hành bởi một HĐXX gồm nhiều thành viên có thuận lợi là hạn chế các áp lực tác động từ bên ngoài, mặt khác sự cọ xát ý kiến giữa các thành viên của HĐXX sẽ làm sáng tỏ các vấn đề của vụ án, giúp Tòa án đi tới một giải pháp đúng đắn cho việc giải quyết. Tuy nhiên, điểm yếu của cơ chế này lại là ở chỗ không nâng cao được tinh thần trách nhiệm của các thành viên bởi chính chế độ trách nhiệm tập thể.
Việc quy định nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số là nhằm mục đích đảm bảo việc xét xử khách quan và chính xác nhưng không phải bất cứ vụ án nào, dù đơn giản tới đâu cũng phải giải quyết bằng một HĐXX. Đối với những vụ kiện thuộc loại phức tạp về chứng cứ và áp dụng pháp luật thì việc xét xử bằng một Hội đồng gồm nhiều thành viên là hết sức cần thiết nhằm xác định sự thật khách quan, đảm bảo việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật để giải quyết.
Đối với những loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận nghĩa vụ hoặc các tình tiết của vụ kiện đã được xác định, việc áp dụng pháp luật giải quyết cũng không khó khăn, phức tạp, vụ kiện có giá ngạch thấp nếu phải xét xử bằng một Hội đồng sẽ gây tốn kém cho Nhà nước một cách không cần thiết. Việc xây dựng cơ chế xét xử một Thẩm phán đối với một số loại việc nhất định sẽ tiết kiệm được cho Nhà nước về nguồn lực con người và chi phí.
Xét ở một khía cạnh khác thì việc xét xử do Thẩm phán tiến hành cũng có những ưu điểm nhất định. Nếu trao thẩm quyền độc lập cho Thẩm phán trong việc giải quyết tranh chấp thì sẽ giúp cho Thẩm phán có thể chủ động trong công việc của mình, nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong việc ra phán quyết. Đối với những loại việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật không khó khăn, phức tạp nếu được trao thẩm quyền độc lập giải quyết thì cũng không vì vậy mà Thẩm phán chủ quan, thiếu thận trọng và lơ là khi giải quyết.
Xét về thực tế thì để bảo vệ uy tín, danh dự nghề nghiệp của mình buộc Thẩm phán phải giải quyết vụ kiện một cách thận trọng, khách quan và đúng pháp luật để không ai có thể dị nghị về sự phán đoán ngay thẳng hoặc đánh giá Thẩm phán non yếu về kiến thức pháp lý. Do đó, nếu có trao thẩm quyền cho Thẩm phán độc lập giải quyết những loại việc nêu trên thì Thẩm phán cũng không thể vì sự không vô tư, khách quan hoặc viện lý do trình độ mà xét xử không đúng pháp luật.
Với những lập luận trên, chúng tôi cho rằng việc xây dựng một thủ tục TTDS rút gọn theo hướng trao thẩm quyền cho Thẩm phán độc lập trong việc giải quyết những loại việc đơn giản, không có tranh tụng, chứng cứ rõ ràng hoặc giá ngạch thấp mà không cần phải thành lập HĐXX là hoàn toàn có cơ sở. Tuy nhiên, một vấn đề nữa đặt ra mà chúng ta cần phải giải quyết là nếu xây dựng thủ tục TTDS rút gọn theo hướng một Thẩm phán độc lập giải quyết thì có đủ cơ sở để quy định về hiệu lực thi hành ngay đối với phán quyết của Thẩm phán hay không, vấn đề nguyên tắc xét xử hai cấp trong những trường hợp này cần được xử lý như thế nào cho phù hợp cũng là điều cần phải cân nhắc.
3. VỀ CƠ CHẾ KHÁNG ÁN VÀ HIỆU LỰC CỦA BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH
Một trong những vướng mắc căn bản là nguyên nhân dẫn tới các quy định về thủ tục rút gọn trong Dự thảo BLTTDS không được chấp nhận là vấn đề nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Nội dung dưới đây sẽ đi vào phân tích, lý giải vấn đề này dưới góc nhìn lý luận và lịch sử lập pháp để có thể cung cấp thêm tư liệu, làm sáng tỏ hơn mối liên hệ giữa nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử với việc xây dựng thủ tục rút gọn ở Việt Nam.
Về phương diện lý luận thì việc quy định nguyên tắc xét xử hai cấp trong pháp luật TTDS là xuất phát từ quan niệm Thẩm phán cũng là con người nên rất có thể có sự nhầm lẫn, sai sót khi xét xử các vụ việc vì vậy cần phải có phương tiện sửa chữa, cần phải để cho một Tòa án cấp cao hơn xem xét lại nội dung vụ việc một lần nữa cho thấu đáo hơn. Suy cho cùng mục đích của việc đặt ra nguyên tắc này là nhằm tạo điều kiện cho Tòa án có thể xem xét sự việc một cách kỹ lưỡng, tránh những sai sót, đảm bảo cho việc giải quyết vụ kiện của Tòa án là đúng đắn, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự.
Tuy nhiên, theo góc nhìn của chúng tôi thì không nhất thiết mọi vụ kiện đều phải xử qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Bởi vì, đối với những vụ kiện mà việc giải quyết là khó khăn, phức tạp thì áp dụng nguyên tắc xét xử hai cấp là rất cần thiết nhưng có những vụ việc áp dụng nguyên tắc này sẽ kéo dài thời gian giải quyết, gây tổn phí cho Nhà nước và đương sự một cách không đáng có. Đó chính là những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ hoặc không phản đối nghĩa vụ, những vụ có giá ngạch thấp.
- Trước hết đối với loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận nghĩa vụ thì xét về bản chất đây là loại việc không có tranh tụng cả về chứng cứ và về quyền, nghĩa vụ giữa các bên đương sự. Nghĩa vụ phải thực hiện của bị đơn là đã rõ ràng, không còn tranh cãi và nguyên đơn cần có một bản án của Tòa án làm cơ sở để yêu cầu bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc yêu cầu cơ quan thi hành án buộc bị đơn phải chấp hành nghĩa vụ khi cần thiết. Nếu quy định bị đơn có quyền kháng cáo đối với bản án của Tòa án trong trường hợp này thì bị đơn sẽ lợi dụng pháp luật kháng cáo nhằm kéo dài vụ án, trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ của mình. Vô hình chung pháp luật đã tạo điều kiện cho người không có thiện chí trong việc thực hiện nghĩa vụ có thể trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ gây thiệt hại cho quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn.
Từ những lập luận trên, cho thấy để bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn vẫn cần thiết phải quy định phán quyết của Thẩm phán đối với những loại vụ kiện có những chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật giải quyết mang tính hiển nhiên sẽ có hiệu lực pháp luật ngay. Mặc dù bản án của Tòa án trong trường hợp này đã có hiệu lực pháp luật nhưng không phải bị đơn không còn cơ hội để yêu cầu Tòa án xem xét lại vụ việc một lần nữa. Nếu bị đơn cho rằng Tòa án giải quyết không đúng thì vẫn có thể làm đơn khiếu nại và nếu khiếu nại là có cơ sở thì những người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc sẽ tiến hành kháng nghị để xem xét lại vụ án theo trình tự giám đốc thẩm.
Qua tham khảo pháp luật TTDS ở một số nước có quy định về thủ tục rút gọn có thể thấy rằng các nước này đều có quy định hạn chế quyền kháng cáo của đương sự đối với những vụ việc có giá ngạch thấp. Ở Việt Nam mặc dù quy định việc xét xử của Tòa án phải qua hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm nhưng không phải là không có ngoại lệ. Cơ chế xét xử một lần tức là xét xử sơ thẩm nhưng bản án của Tòa án có hiệu lực ngay đã từng tồn tại. Theo các Sắc lệnh số 51/SL "ấn định thẩm quyền các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án" ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số 85/SL "Về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng" ngày 22/5/1980 thì cơ chế xét xử một lần được áp dụng đối với những vụ kiện mà đối tượng tranh chấp là những tài sản có giá trị nhỏ và được thực hiện ở các Tòa án sơ cấp và đệ nhị cấp. Rất tiếc rằng sau này theo LTCTAND năm 1960, LTCTAND năm 1981 thì việc xét xử hai cấp đã chính thức được ghi nhận thành một nguyên tắc do vậy cơ chế này không còn được áp dụng nữa.
Hiện nay theo LTCTAND năm 1992, mặc dù có quy định về việc xét xử theo hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm nhưng không còn ghi nhận thành một nguyên tắc cơ bản như đã từng quy định trong các LTCTAND năm 1960, 1981 nữa. Thực tiễn giải quyết các án kiện trong những năm qua cũng cho thấy những tranh chấp có giá ngạch thấp thường có nội dung đơn giản và tranh chấp cũng không gay gắt. Vì vậy, để giải quyết tình trạng gia tăng, tồn đọng án trong điều kiện hiện nay chúng ta cũng có thể tính tới việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp nhỏ nhặt tạo điều kiện cho Tòa án có thể tập trung thời gian và nguồn lực con người vào những vụ kiện khó khăn, phức tạp hơn.
Cơ chế xét xử một lần mà đã đề cập ở trên cũng có ưu thế là đảm bảo việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp, tránh kéo dài vụ kiện một cách không cần thiết, bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của các bên, tiết kiệm được cho cả Nhà nước và đương sự. Do vậy, chúng tôi cho rằng cần phải khôi phục lại các quy định về cơ chế xét xử một lần đối với những tranh chấp có giá ngạch thấp mà không nhất thiết phải trải qua hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm như đối với các vụ kiện khác.
Trong quá trình xây dựng BLTTDS năm 2004, chúng ta đã thiết kế được các quy định ngoại lệ về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử theo hướng Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử trừ những vụ việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (Dự thảo số 2 năm 2010) cũng theo xu hướng này. Rất tiếc rằng, các quy định này đã không được chấp nhận do nhận thức còn khác nhau và hậu quả là cho tới nay thì dường như các quy định về thủ tục rút gọn vẫn còn là vấn đề của tương lai xa trong nhiều năm nữa.
Chuyên đề 8
YÊU CẦU CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP, HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN Ở VIỆT NAM
TS. Trần Anh Tuấn([184]) ThS. Đặng Thanh Hoa([185])
Pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành không quy định về thủ tục giản đơn để giải quyết các tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng, các đương sự thừa nhận nghĩa vụ hoặc những tranh chấp có giá ngạch thấp... và như vậy, việc giải quyết những loại tranh chấp nêu trên vẫn áp dụng thủ tục tố tụng thông thường, dẫn tới thời gian giải quyết vụ kiện kéo dài, gây tổn phí cho Nhà nước và đương sự một cách không cần thiết. Công cuộc cải cách tư pháp dân sự hiện nay đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được một cơ chế giải quyết các tranh chấp dân sự đơn giản, nhanh chóng hơn và hiệu quả hơn.
1. CẢI CÁCH TƯ PHÁP, HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG THỦ TỤC RÚT GỌN
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát và tổng kết thực tiễn của hoạt động tố tụng tư pháp tại Tòa án, Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã chỉ ra định hướng cơ bản của việc cải cách tư pháp nước ta. Cụ thể là cần phải “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại toà làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp;…” ([186]).
Tiếp theo đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội… kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh của nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế…”([187]). Nghị quyết này cũng chỉ ra những nhiệm vụ trọng tâm trong việc hoàn thiện thủ tục tố tụng tư pháp. Đó là cần phải “Hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người…Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”; “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục TTDS… Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Tòa án, Tòa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn. Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”([188]), “Nghiên cứu chế định thừa phát lại (thừa hành viên); trước mắt, có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương”([189]).
Như vậy, định hướng về cải cách tư pháp nói chung và tư pháp dân sự nói riêng ở Việt Nam đến năm 2020 đã vạch ra những đường hướng cơ bản và yêu cầu đối với việc cải cách và hoàn thiện thủ tục TTDS cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Nhiệm vụ của nhà lập pháp và người nghiên cứu về TTDS là trên cơ sở các định hướng này xác định được những yêu cầu đặt ra và từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể đối với việc hoàn thiện pháp luật TTDS cho phù hợp.Việc nghiên cứu cho thấy chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và chiến lược về cải cách tư pháp của Việt Nam đến năm 2020 đã đặt ra những yêu cầu sau đây đối với việc hoàn thiện pháp luật TTDS:
- Có thể nhận thấy rằng định hướng cải cách tư pháp này có nguồn gốc sâu xa từ những yêu cầu phát triển đất nước do công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra. Khi thực hiện đường hướng về cải cách thủ tục TTDS nói trên, chúng ta cũng cần phải có sự nghiên cứu và đánh giá hết sức thận trọng về những ưu điểm, nhược điểm của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành trong mối liên hệ với truyền thống lập pháp, đặc điểm văn hoá, tâm lý dân tộc và thành tựu khoa học tố tụng trên thế giới. Trên cơ sở sự nghiên cứu này có thể rút ra những giải pháp cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật TTDS, đáp ứng những yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước ta.
- Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 đã chỉ rõ những định hướng cơ bản về cải cách thủ tục tố tụng tư pháp trong đó có thủ tục TTDS. Đó cũng chính là những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Hai yêu cầu cốt lõi cần phải lĩnh hội là việc cải cách thủ tục TTDS phải bảo đảm “thuận tiện” cho dân; bảo đảm quyền tranh tụng của các đương sự trong TTDS. Theo tinh thần này chúng ta cần rà soát các quy định hiện hành về thủ tục TTDS nhằm phát hiện những quy định về thủ tục chưa đáp ứng được hai tiêu chí này, trên cơ sở đó tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi và hoàn thiện cho phù hợp.
- Định hướng cải cách tư pháp dân sự theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đặt ra những yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật TTDS. Cụ thể là để “tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý”, “Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định” đòi hỏi các quy định về thủ tục TTDS phải được đổi mới theo hướng đơn giản hoá thủ tục, đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo của thủ tục TTDS và hiệu quả khi áp dụng trong thực tế.
Thực hiện yêu cầu về “Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định” cũng đặt ra cho nhà lập pháp Việt Nam yêu cầu cụ thể là phải xác định hợp lý phạm vi những loại việc có thể giải quyết theo thủ tục này; xác định hợp lý vai trò và trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán, giải quyết được mối tương quan hợp lý giữa các phương thức kháng án và tính phức tạp hay đơn giản của vụ kiện, mối tương quan giữa việc bảo đảm các quyền tố tụng và tính hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp. Để tạo điều kiện cho người dân tiếp cận công lý, đơn giản hoá thủ tục, đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo của thủ tục TTDS thì nhà lập pháp cũng cần cân nhắc để thiết lập hợp lý cơ chế chuyển hoá giữa các loại hình thủ tục tố tụng.
- Để có thể đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp dân sự theo hướng “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải, trọng tài” đòi hỏi nhà lập pháp phải cân nhắc để đảm bảo sự hài hoà giữa việc khuyến khích hoà giải và quyền tiếp cận công lý để việc khuyến khích hoà giải, thương lượng không xâm phạm hay gây cản trở quyền tiếp cận công lý của công dân. Ngoài ra, các quy định thiếu mềm dẻo, linh hoạt về thủ tục hoà giải tại Tòa án cũng cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tinh thần “Tòa án hỗ trợ” trong việc công nhận kết quả hoà giải của các bên đương sự. Định hướng này là một góc nhìn quan trọng để thiết lập các quy định về hoà giải trong một số vụ việc có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn.
- Có thể nhận thức rằng chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và đường lối về cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng chỉ vạch ra một số đường hướng cơ bản của việc cải cách và hoàn thiện pháp luật TTDS nước nhà. Do vậy, bên cạnh việc tìm kiếm giải pháp để thực thi các định hướng hoàn thiện cụ thể đã được vạch ra thì nhà lập pháp và người nghiên cứu về TTDS còn phải nắm cho được tinh thần của cải cách để vận dụng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Có thể nhận thấy rằng định hướng “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ” hay “Hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người…” cũng đòi hỏi nhà lập pháp phải nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện các quy định về thủ tục còn chưa rõ ràng hay mập mờ, thiếu sót dẫn tới cách hiểu và áp dụng không thống nhất trên thực tế. Ngoài ra, để “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục TTDS”, tạo cơ sở cho việc thực hiện nhiệm vụ mà công cuộc cải cách tư pháp đặt ra thì những vấn đề hợp lý về thủ tục TTDS chưa được pháp luật quy định cũng cần được nghiên cứu bổ sung cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam và xu hướng hội nhập quốc tế.
Như vậy, công cuộc cải cách tư pháp dân sự trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải có sự nghiên cứu và đánh giá hết sức thận trọng về những ưu điểm, nhược điểm của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành trong mối liên hệ với truyền thống lập pháp, đặc điểm văn hoá, tâm lý dân tộc và thành tựu khoa học tố tụng trên thế giới. Cải cách thủ tục TTDS phải bảo đảm “thuận tiện” cho dân; bảo đảm quyền tranh tụng của các đương sự trong TTDS. Việc đơn giản hoá các thủ tục nhằm đáp ứng đòi hỏi về tính mềm dẻo, linh hoạt của thủ tục TTDS điều kiện hiện nay phải tính đến những điều kiện kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo tính thích ứng và sự phù hợp của pháp luật TTDS với đời sống; đảm bảo sự hài hoà giữa việc khuyến khích hoà giải và quyền tiếp cận công lý; thiết lập cơ sở pháp lý cho việc khuyến khích giải quyết tranh chấp thông qua hoà giải giữa các bên đương sự.
2. ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN THEO YÊU CẦU CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP, HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
- Hoàn thiện pháp luật TTDS trong mối liên hệ với truyền thống lập pháp, đặc điểm văn hoá, tâm lý dân tộc và thành tựu khoa học tố tụng trên thế giới
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, BLTTDS là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, pháp nhân nước ngoài có quan hệ thương mại với Việt Nam. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các tranh chấp tại Tòa án đã cho thấy một số quy định về thủ tục tố tụng được mô phỏng từ pháp luật nước ngoài khi áp dụng tại Việt Nam lại không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của xã hội Việt Nam.
Trên thế giới hiện tồn tại nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, trong đó hai hệ thống pháp luật được xem là chủ yếu đó là hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (continental law) và hệ thống pháp luật án lệ (common law). Tương ứng với hai hệ thống pháp luật trên là hai loại hình thủ tục tố tụng chủ yếu là thủ tục tố tụng xét hỏi và thủ tục tố tụng tranh tụng. Có thể nhận xét rằng, hai loại hình tố tụng này đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Tuy nhiên, để khắc phục những hạn chế của mỗi loại hình tố tụng, xu hướng cải cách thủ tục tố tụng trên thế giới hiện nay là pháp luật TTDS của các nước đang ngày càng xích lại gần nhau hơn, loại bỏ dần những yếu tố không hợp lý và chấp nhận những ưu điểm của hệ thống pháp luật khác. Do vậy, cần nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của các nước về thủ tục rút gọn để vận dụng có chọn lọc vào điều kiện của Việt Nam.
- Về việc xây dựng các quy định về thủ tục TTDS rút gọn nhằm đáp ứng yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả theo định hướng cải cách tư pháp và hội nhập
Trước đây, khi Việt Nam còn là một xã hội thuần nông, việc kiện tụng dân sự tại Tòa án không nhiều và chủ yếu là các việc kiện về dân sự, hôn nhân và gia đình thì các quy định về thủ tục TTDS trước kia là tương đối phù hợp với nhịp sống của người Việt. Thế nhưng, nay do giao lưu kinh tế quốc tế, các tranh chấp dân sự, thương mại cũng nảy sinh ngày một nhiều đòi hỏi các quy định về thủ tục TTDS phải được cải tiến nhằm đáp ứng được yêu cầu về tính nhanh chóng, hiệu quả trong việc giải quyết các loại tranh chấp này.
Việc nghiên cứu pháp luật tố tụng nước ngoài cho thấy rằng pháp luật TTDS của nhiều nước trên thế giới bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường đều có xây dựng một thủ tục tố tụng giản đơn hoặc thủ tục ra lệnh áp dụng đối với những tranh chấp đơn giản, rõ ràng hoặc giá ngạch thấp. Thế nhưng, việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS Việt Nam đã gặp không ít gian nan. Việc khởi thảo thủ tục này trong dự thảo có lẽ được bắt đầu từ những năm 1996, 1997. Rất tiếc rằng, cho tới Dự thảo X và XI thì thủ tục rút gọn đã hoàn toàn không còn tồn tại nữa. Sau khi BLTTDS ra đời, nhiều ý kiến cho rằng thủ tục giải quyết việc dân sự được quy định từ Điều 311 đến Điều 341 BLTTDS năm 2004 chính là thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, việc nghiên cứu pháp luật TTDS của nhiều nước trên thế giới cho thấy rằng đây chỉ là các thủ tục tố tụng đặc biệt chứ không phải là thủ tục rút gọn theo đúng nghĩa của nó. Nghị quyết số 49 - NQ/TW của Bộ chính trị ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã củng cố cho nhận định này và chỉ rõ cần phải tiếp tục: “…Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”.
Vấn đề gây nhiều tranh luận khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam là ngoài việc đơn giản hoá về thủ tục, rút ngắn về thời hạn thì giải quyết vấn đề nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số, nguyên tắc xét xử có HTND tham gia và nguyên tắc xét xử hai cấp như thế nào.
Thiết nghĩ, trong điều kiện hiện nay cần phải khôi phục lại các quy định về cơ chế xét xử một Thẩm phán, trao cho Thẩm phán thẩm quyền độc lập trong việc giải quyết các vụ tranh chấp đơn giản, rõ ràng, không có tranh tụng hoặc các vụ tranh chấp có giá trị không lớn. Qua tham khảo pháp luật TTDS nước ngoài có thể thấy rằng pháp luật TTDS của các nước trên thế giới có quy định về thủ tục TTDS rút gọn thì việc xét xử đều giao cho một Thẩm phán đảm nhiệm. Ở Việt Nam, mặc dù tại các LTCTAND năm 1960, 1981, 1992, 2002 đều quy định rằng Tòa án xét xử và quyết định theo đa số nhưng không phải là không có ngoại lệ([190]). Tuy nhiên, nếu xây dựng thủ tục TTDS rút gọn theo hướng một Thẩm phán độc lập giải quyết thì có đủ cơ sở để quy định về hiệu lực thi hành ngay đối với phán quyết của Thẩm phán hay không? Xét về học lý thì mấu chốt của vấn đề là ở chỗ phải giải quyết được mối tương quan giữa các phương thức kháng án và tính phức tạp hay đơn giản của vụ kiện cũng như mối tương quan giữa việc bảo đảm các quyền tố tụng và tính hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp.
Trong TTDS Pháp, kháng án phúc thẩm là một hình thức kháng án theo thông luật (thông thường) và là hình thức kháng án nhằm cải sửa hoặc huỷ bỏ, theo đó bên tự cho là bị thương tổn bởi một phán quyết, đưa vụ kiện và phán quyết ra trước các Thẩm phán ở một cấp cao hơn([191]). Về phương diện lịch sử, ở Pháp kháng án phúc thẩm phát sinh từ việc khẳng định quyền lực của nhà Vua đối với công lý lãnh chúa và sau này đã được duy trì trong lĩnh vực dân sự dưới thời Đại cách mạng Pháp, dưới thể thức kháng án chu luân (appel circulaire) theo danh nghĩa của nguyên tắc bình đẳng([192]). Theo thể thức này, không có sự kháng cáo từ Toà dưới lên Toà trên, mà chỉ có sự xê dịch hàng ngang giữa các Tòa án bình đẳng([193]). Các quy định về phương thức kháng cáo này đã được kế thừa và phát triển trong BLTTDS Pháp năm 1807 và có lẽ được du nhập vào Việt Nam dưới thời Pháp thuộc trong lĩnh vực TTDS bằng Nghị định ngày 16/3/1910. Về phương diện lý luận, việc quy định nguyên tắc xét xử hai cấp trong pháp luật TTDS là xuất phát từ quan niệm Thẩm phán cũng là con người nên rất có thể có sự nhầm lẫn, sai sót khi xét xử các vụ việc vì vậy cần phải có phương tiện sửa chữa, cần phải để cho một Tòa án cấp cao hơn xem xét lại nội dung vụ việc một lần nữa cho thấu đáo hơn. Suy cho cùng mục đích của việc đặt ra nguyên tắc này là nhằm tạo điều kiện cho Tòa án có thể xem xét sự việc một cách kỹ lưỡng, tránh những sai sót, đảm bảo cho việc giải quyết vụ kiện của Tòa án là đúng đắn, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự. Song không nhất thiết mọi vụ kiện đều phải xử qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm.
Đối với loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận nghĩa vụ thì xét về bản chất đây là loại việc không có tranh tụng cả về chứng cứ và về quyền, nghĩa vụ giữa các bên đương sự. Nếu quy định bị đơn có quyền kháng cáo đối với bản án của Tòa án trong trường hợp này thì bị đơn sẽ có thể lợi dụng pháp luật kháng cáo nhằm kéo dài vụ án, trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ của mình. Thiết nghĩ, để bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn vẫn cần thiết phải quy định phán quyết của Thẩm phán đối với những loại vụ kiện có những chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận nghĩa vụ, sẽ có hiệu lực pháp luật ngay. Tuy nhiên, việc nghiên cứu thiết lập một cơ chế chuyển hoá giữa thủ tục xét xử rút gọn và thủ tục thông thường cũng là một giải pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của các bị đơn “ngay tình” và “trung thực” chống lại sự lạm quyền của bên đi kiện. Cụ thể là cần quy định quyết định của Tòa án buộc thanh toán nợ không bị phản kháng trong một thời hạn nhất định sẽ có hiệu lực thi hành. Ngược lại, trong trường hợp người bị kiện phản đối quyết định của Tòa án buộc thanh toán nợ (kháng án) thì vụ kiện sẽ lập tức được đưa ra xét xử tại phiên toà sơ thẩm. Thế nhưng, làm thế nào để chống lại việc bị đơn lạm dụng quyền kháng án nhằm trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ? Thiết nghĩ, việc xây dựng các quy định về phạt tiền đối với đương sự lạm dụng quyền kháng án và rút ngắn thời hạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm cũng là một giải pháp có tính khả thi để hoá giải việc lạm dụng quyền kháng cáo của các tụng nhân thiếu trung thực([194]).
Qua tham khảo pháp luật TTDS ở một số nước có quy định về thủ tục rút gọn có thể thấy rằng các nước này đều có quy định hạn chế quyền kháng cáo phúc thẩm hoặc kháng cáo phá án của đương sự đối với những vụ việc có giá ngạch thấp. Trước thách thức về sự gia tăng các vụ kiện liên biên giới giữa các quốc gia trong Liên minh Châu Âu, các nhà nghiên cứu về tố tụng học của Liên minh này đã nghiên cứu xây dựng các quy định về thủ tục tố tụng giản đơn áp dụng đối với những vụ kiện có giá ngạch thấp([195]). Theo đó, Liên minh Châu Âu không áp đặt các quốc gia phải ghi nhận quyền kháng cáo của đương sự đối với vụ kiện có giá ngạch thấp, vấn đề có cho phép đương sự kháng cáo hay không đối với những vụ kiện này là do nội luật của các quốc gia quy định. Cách nhìn khoáng đạt của Liên minh Châu Âu về nguyên tắc hai cấp xét xử đối với những vụ kiện liên biên giới có giá ngạch thấp cũng cho thấy rằng việc các quốc gia không ghi nhận quyền kháng cáo phúc thẩm của đương sự với vụ kiện có giá ngạch thấp cũng không vi phạm quyền con người và các quyền cơ bản của công dân.
Xét ở Việt Nam, mặc dù quy định việc xét xử của Tòa án phải qua hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm nhưng không phải là không có ngoại lệ. Cơ chế xét xử một lần tức là xét xử sơ thẩm nhưng bản án của Tòa án có hiệu lực ngay đối với các việc kiện có giá trị nhỏ đã từng tồn tại([196]). Để phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái của người Việt, tránh việc kiện tụng tuy rất nhỏ nhặt nhưng vẫn phải qua nhiều lần xét xử thì việc khôi phục lại các quy định về cơ chế xét xử một lần đối với những tranh chấp có giá ngạch thấp là rất cần thiết. Xét theo tư duy kinh tế tư pháp của phương Tây thì cơ chế xét xử này đáp ứng được yêu cầu về tính hiệu quả của thủ tục tố tụng trong việc giải quyết tranh chấp. Dưới góc nhìn nhân bản của phương Đông, có thể xem quy định về cơ chế xét xử một lần đối với việc kiện có giá trị nhỏ là một quy định có giá trị nhân văn trong việc định hướng văn hoá tư pháp ở Việt Nam.
- Đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán
Thực tiễn xét xử của Tòa án hiện nay cho thấy, phần lớn các hoạt động TTDS của Tòa án chính là hoạt động của Thẩm phán. Từ khâu thụ lý, điều tra, hoà giải cho tới việc ra các quyết định nhằm giải quyết vụ án đều do Thẩm phán tiến hành. Có thể nói rằng, Thẩm phán giữ một vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, kinh tế, lao động, cho nên việc cải cách tư pháp dân sự đòi hỏi phải đổi mới chính hoạt động của Thẩm phán trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động.
Trong thực tiễn hoạt động TTDS của Tòa án hiện nay xuất hiện nhiều vụ kiện có nội dung đơn giản, rõ ràng nhưng theo pháp luật TTDS hiện hành thì việc xét xử sơ thẩm vẫn phải do một HĐXX gồm nhiều thành viên tiến hành. Thiết nghĩ, trong công cuộc cải cách tư pháp, đổi mới hoạt động TTDS của Tòa án hiện nay, chúng ta nên mạnh dạn trao quyền cho Thẩm phán ra quyết định giải quyết tranh chấp nếu sự việc đã rõ ràng hoặc bị đơn đã thừa nhận nghĩa vụ của mình, không phản đối yêu cầu của nguyên đơn. Cải cách này một mặt vẫn đảm bảo được việc giải quyết của Tòa án là đúng đắn, đồng thời có thể tiết kiệm được cho Nhà nước về nguồn lực con người, đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán đối với phán quyết của chính bản thân Thẩm phán.
- Tình trạng gia tăng, tồn đọng án và giải pháp khắc phục
Xét thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động tại Tòa án của Việt Nam cho thấy cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thì số lượng các vụ tranh chấp phát sinh mà Tòa án phải thụ lý giải quyết cũng ngày một gia tăng, ngành Tòa án phải chịu một áp lực lớn về công việc. Do số lượng án ngày một gia tăng và phức tạp, trong khi đó nhiều địa phương còn thiếu Thẩm phán xét xử cho nên dẫn tới tình trạng tồn đọng án. Trước một thực tế như vậy thì việc tìm ra giải pháp để thoát ra khỏi tình trạng này.
Cho nên song song với việc khắc phục tình trạng mất cân đối giữa số lượng công việc và Thẩm phán, chúng ta cũng phải tính đến phương án làm sao có thể giải quyết tốt các vụ việc phát sinh tại Tòa án mà lại tiết kiệm được cho Nhà nước về nguồn lực con người và chi phí. Theo chúng tôi, trong công cuộc cải cách hiện nay việc nghiên cứu xây dựng một thủ tục TTDS đơn giản hơn, nhanh chóng hơn để giải quyết dứt điểm và đúng pháp luật những loại tranh chấp đơn giản, rõ ràng, có giá ngạch thấp, tạo điều kiện cho Tòa án có thể tập trung thời gian và nguồn lực con người vào những vụ án khó khăn, phức tạp hơn cũng là một trong những giải pháp để khắc phục tình trạng gia tăng và tồn đọng án.
- Sự thiếu mềm dẻo, linh hoạt của pháp luật TTDS cần phải có sự đổi mới cho phù hợp
Song phải chăng chỉ vì tình trạng số lượng án ngày một gia tăng, tồn đọng mà chúng ta phải xây dựng một thủ tục TTDS rút gọn? Điều này không hoàn toàn là như vậy, bởi vì việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn, một mặt cũng là nhằm tạo điều kiện cho Tòa án có thể tập trung thời gian và nguồn lực con người vào những vụ án khó khăn, phức tạp, giải quyết tình trạng án tồn đọng, mặt khác một vấn đề bức xúc trong thực tiễn của hoạt động tố tụng hiện nay cần phải khắc phục là tình trạng việc giải quyết các tranh chấp bị kéo dài, phải qua nhiều lần xét xử gây lãng phí thời gian, phí tổn cho đương sự và Nhà nước một cách không cần thiết. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do các quy định của pháp luật TTDS chưa thực sự có được sự mềm dẻo, linh hoạt cho phù hợp với tính chất của từng loại tranh chấp phát sinh đã tạo ra một lực cản làm cho tiến trình giải quyết các vụ kiện bị kéo dài mà lẽ ra nó có thể và cần phải kết thúc một cách nhanh chóng hơn.
- Những vụ kiện nảy sinh từ thực tiễn đòi hỏi phải có một thủ tục mềm dẻo hơn
Xét trong số những vụ việc mà Tòa án thụ lý giải quyết hàng năm có không ít những vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối yêu cầu của nguyên đơn hoặc các tranh chấp hợp đồng tài sản có giá ngạch thấp… trên thực tế vẫn phải giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường, do đó một mặt vụ kiện vừa bị kéo dài, không bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của đương sự, mặt khác phải qua nhiều cấp xét xử gây mất thời gian, tổn phí cho đương sự và Nhà nước một cách không cần thiết. Đây chính là điểm bất hợp lý của pháp luật TTDS hiện hành mà chúng ta cần phải nghiên cứu khắc phục.
- Sự lạm dụng quyền kháng cáo
Pháp luật TTDS hiện hành chỉ quy định một thủ tục chung để giải quyết mọi loại tranh chấp mà không có những quy định về thủ tục rút gọn để áp dụng đối với những loại vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc giá ngạch thấp. Trên thực tế, các loại vụ kiện này vẫn được tiến hành giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường dẫn tới làm chậm tiến trình giải quyết tranh chấp mà lẽ ra nó có thể kết thúc một cách nhanh chóng hơn. Nhiều vụ kiện mặc dù các tình tiết, sự kiện đã được xác định rất rõ ràng, việc giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng đắn nhưng đương sự vẫn lạm dụng quyền kháng cáo nhằm mục đích trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ của mình.
- Tâm lý để hết thời hạn mới xét xử
Hiện nay, thời hạn điều tra, xác minh để giải quyết các tranh chấp dân sự là 4 tháng, đối với tranh chấp thương mại, lao động là 2 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án và thời hạn Tòa án phải mở phiên toà là 1 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc áp dụng các quy định về thời hạn này để giải quyết đối với một số loại việc nêu trên là không phù hợp. Thực tiễn xét xử cho thấy, đối với những loại vụ kiện có tính chất đơn giản, rõ ràng, không khó khăn, phức tạp trong việc áp dụng pháp luật lẽ ra Tòa án có thể kết thúc việc giải quyết trong một thời hạn ngắn hơn nhưng do pháp luật chỉ quy định một thời hạn chung cho tất cả các vụ kiện cho nên nhiều Thẩm phán thường có tâm lý lo sợ bị đánh giá là thiếu cẩn trọng, cẩu thả nên “không tội gì phải xử ngay” mà vẫn để hết thời hạn luật định mới xét xử. Vô hình chung thời gian giải quyết vụ kiện đã bị kéo dài, trong khi đó xét về tính chất thì các vụ kiện này thuộc loại đơn giản và hoàn toàn có thể giải quyết một cách nhanh chóng.
- Thủ tục chỉ là phương tiện để bảo vệ quyền lợi, có thể linh hoạt, không nên quá câu nệ vào thủ tục
Thực tiễn xét xử cho thấy việc vận dụng các quy định hiện hành về thủ tục phiên toà sơ thẩm để giải quyết những loại việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng, không có tranh tụng là không phù hợp. Xét về thực tế, đối với những loại việc này Tòa án có thể bỏ qua các bước không cần thiết mà vẫn đảm bảo việc giải quyết vụ kiện là đúng đắn. Nếu như phải tuân theo đầy đủ các bước khai mạc, thẩm vấn, tranh luận, nghị án và tuyên án như đối với các vụ kiện khác thì thực chất đó cũng chỉ là việc làm mang tính hình thức và quá câu nệ về thủ tục.
Từ những lập luận trên, có thể nhận thấy rằng yêu cầu hội nhập quốc tế, cải cách tư pháp đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một thủ tục TTDS rút gọn để giải quyết nhanh chóng, chính xác các vụ kiện bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tiết kiệm cho đương sự và Nhà nước. Việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn là một bước chuyển biến mới, mang tính cải cách quan trọng trong việc đổi mới thủ tục TTDS ở nước ta theo định hướng cải cách tư pháp.
Chuyên đề 9
XÁC ĐINH PHẠM VI LOẠI VIỆC KHI XÂY DỰNG
THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN Ở VIỆT NAM
Luật sư Trần Đức Sơn
Công ty Luật Gide Loyrette Nouel
Trong quá trình xây dựng BLTTDS năm 2004, các quy định ngoại lệ đối với nguyên tắc hai cấp xét xử theo hướng “Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử trừ những vụ việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn” đã được đưa ra thảo luận. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (Dự thảo 3)([197]) cũng theo xu hướng này. Tuy nhiên, các quy định trong Dự thảo 3 này đã không được chấp nhận do còn có những quan điểm khác nhau và cho tới nay, các quy định về thủ tục rút gọn vẫn chưa được xây dựng trong pháp luật Việt Nam([198]).
Hiện nay, TANDTC đang xúc tiến xây dựng Dự thảo Pháp lệnh Thủ tục rút gọn trong TTDS với mục tiêu tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết nhanh chóng một số loại tranh chấp có tính chất đặc thù trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân, gia đình, thương mại, lao động. Để thiết lập các thủ tục rút gọn phù hợp, việc xác định hợp lý phạm vi những loại việc có thể giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn là rất cần thiết để bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên đương sự.
1. Những loại việc có thể giải quyết theo thủ tục đơn giản như đã được đề xuất trong Dự thảo 3 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS
Dự thảo 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS về cơ bản xác định hai loại việc có thể áp dụng thủ tục rút gọn, bao gồm:
- Các loại việc có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối nghĩa vụ
Theo Điều 281b, Khoản 1, Dự thảo 3, các loại việc này bao gồm:
+ Tranh chấp về hôn nhân và gia đình mà hai bên đương sự không tranh chấp với nhau về tài sản;
+ Tranh chấp về thời gian và số tiền cấp dưỡng;
+ Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;
+ Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng mượn tài sản, hợp đồng trao đổi tài sản mà các bên không tranh chấp về quyền sở hữu tài sản cho vay, cho thuê, cho mượn và không tranh chấp về quyền sở hữu tài sản đã trao đổi;
+ Tranh chấp hợp đồng vận chuyển hành khách;
+ Tranh chấp về bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng;
+ Các tranh chấp khác mà có sự thật rõ ràng, tình tiết đơn giản, nội dung tranh chấp rõ ràng, giá trị tranh chấp không quá mười triệu đồng.
- Những vụ việc mà đương sự thoả thuận lựa chọn thủ tục rút gọn để giải quyết
Theo Điều 281b, Khoản 2, Dự thảo 3 “Các vụ kiện khác không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này có thể được giải quyết theo thủ tục đơn giản nếu các đương sự trong cùng vụ án có yêu cầu.”
2. Đề xuất những loại việc có thể áp dụng thủ tục rút gọn
Về phương diện lý luận, những loại vụ kiện được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn phải là những loại việc có nội dung đơn giản, rõ ràng, Tòa án không phải mất nhiều thời gian để xác minh, việc áp dụng pháp luật giải quyết là không khó khăn, phức tạp.
Về cơ bản, Điều 281b, Khoản 1, Dự thảo 3 đã nêu ra những loại việc tiêu biểu nhất có thể áp dụng thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, Dự thảo 3 không phân hoá rõ ràng hai loại việc cơ bản được giải quyết theo thủ tục rút gọn là (1) loại việc có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối nghĩa vụ và (2) loại việc có giá ngạch thấp. Nội dung quy định tại Điều 281b, Dự thảo 3 sử dụng kết hợp, trộn lẫn giữa tiêu chí vụ việc có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối nghĩa vụ và tiêu chí vụ việc có giá ngạch thấp, trong khi về bản chất, đây là hai tiêu chí độc lập. Các quy định có tính liệt kê như trên có thể được điều chỉnh theo hướng phân hoá rõ ràng hai loại việc cơ bản được giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại việc có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối nghĩa vụ và loại việc có giá ngạch thấp.
Trên cơ sở đó, các loại việc có thể áp dụng thủ tục rút gọn có thể được phân thành 3 nhóm như sau: (1) những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phủ nhận nghĩa vụ của mình, (2) những vụ kiện có giá trị nhỏ và (3) những vụ kiện được các đương sự thoả thuận lựa chọn thủ tục rút gọn để giải quyết.
2.1. Những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ
Vụ kiện có chứng cứ rõ ràng được hiểu là những vụ kiện mà nguyên đơn xuất trình được chứng cứ chắc chắn (chẳng hạn chứng cứ bằng văn bản) để chứng minh cho yêu cầu của mình. Đối với những vụ kiện này, nếu bị đơn và tất cả những người có liên quan khác trong vụ kiện không phủ nhận chứng cứ do nguyên đơn đưa ra thì Tòa án có thể khẳng định tính xác thực và độ tin cậy của các chứng cứ đó.
Qua khảo sát thực tiễn xét xử, các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối nghĩa vụ thường rơi vào các trường hợp sau đây:
- Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng vay tài sản bằng văn bản mà bị đơn không phản đối yêu cầu của nguyên đơn.
- Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền phát sinh từ hợp đồng bằng văn bản, bị đơn không phản đối nghĩa vụ của mình nhưng không thực hiện nghĩa vụ.
- Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ của mình nhưng không thực hiện nghĩa vụ.
- Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo hợp đồng mua hàng đã ký, bị đơn không phản đối yêu cầu của nguyên đơn nhưng không thực hiện nghĩa vụ.
Đối với loại vụ kiện này, các tình tiết, sự kiện của vụ việc đã được xác định rõ ràng bởi các chứng cứ vững chắc đồng thời được củng cố thêm bằng sự thừa nhận của bị đơn về nghĩa vụ của mình nên trong các vụ kiện này thường không có tranh tụng cả về chứng cứ và về quyền, nghĩa vụ của các đương sự. Do vậy, Tòa án không phải mất thời gian để xác minh mà vẫn có thể xác định đúng sự việc. Nghĩa vụ phải thực hiện của bị đơn là rõ ràng, không còn tranh cãi và nguyên đơn cần có một bản án của Tòa án làm cơ sở để yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ hoặc yêu cầu cơ quan thi hành án buộc bị đơn phải chấp hành nghĩa vụ.
Đối với loại vụ việc này, không nhất thiết phải áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm) vì áp dụng nguyên tắc này sẽ làm kéo dài thời gian giải quyết, gây tổn phí cho Nhà nước và đương sự một cách không đáng có. Nếu quy định quyền kháng cáo đối với bản án của Tòa án trong trường hợp này thì bị đơn có thể lợi dụng quyền kháng cáo nhằm kéo dài thời gian giải quyết vụ kiện và trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ của mình, trong khi vụ việc đã rõ ràng. Do vậy, cần có nghiên cứu mô hình thủ tục rút gọn cho loại vụ kiện này trên cơ sở đảm bảo hài hòa giữa yêu cầu bảo đảm quyền kháng cáo và chống lại việc lạm quyền của kháng cáo của bên có nghĩa vụ nhằm trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ của mình.
2.2. Những vụ kiện có giá ngạch thấp
Thực tiễn giải quyết các vụ kiện dân sự cho thấy trong các tranh chấp có giá trị nhỏ, sự việc thường đơn giản, tình tiết rõ ràng; sau khi được Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết, đương sự thường ít kháng cáo lên cấp phúc thẩm([199]). Do vậy, có thể nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn đối với loại tranh chấp này([200]) theo hướng sau đây:
Thứ nhất, đối với những vụ kiện có giá ngạch thấp nếu có đủ chứng cứ chứng minh thì Tòa án chấp nhận yêu cầu; ngược lại nếu không có đủ chứng cứ chứng minh thì Tòa án bác đơn. Trường hợp này nên giải quyết dứt điểm ở cấp sơ thẩm vì nếu có kháng cáo phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm cũng không thể xử khác được.
Thứ hai, pháp luật cần quy định một giải pháp dứt khoát đối với những vụ kiện có giá ngạch thấp, theo đó đương sự phải có đủ chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền lợi của mình; về phía Tòa án, khi đã tiến hành các biện pháp cần thiết vẫn không thể chứng minh được gì thêm thì cũng nên dừng lại ở việc ra phán quyết theo chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết dứt điểm vụ kiện.
Thứ ba, trong các vụ kiện có giá ngạch thấp, sự việc đã rõ ràng, việc giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng đắn nhưng nhiều khi do có mâu thuẫn, bất hòa nên đương sự vẫn tiếp tục kháng cáo yêu cầu xem xét lại dẫn tới kéo dài vụ kiện, phải qua nhiều cấp xét xử, trong khi đó lợi ích cần được bảo vệ là không lớn.
Thứ tư, tham khảo pháp luật TTDS ở một số nước có quy định về thủ tục rút gọn có thể thấy rằng các nước này đều có quy định hạn chế quyền kháng cáo của đương sự trong các vụ kiện có giá ngạch thấp. Ở Việt Nam mặc dù pháp luật quy định nguyên tắc hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm) nhưng không nên tuyệt đối hóa nguyên tắc này và vẫn cần phải quy định các trường hợp ngoại lệ. Trước đây, pháp luật cũng đã từng quy định những trường hợp ngoại lệ này. Theo Sắc lệnh số 51/SL "ấn định thẩm quyền các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án" ngày 17/4/1946 và Sắc lệnh số 85/SL "Về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng" ngày 22/5/1980, cơ chế xét xử một lần (bản án của tòa sơ thẩm có hiệu lực ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị) được áp dụng đối với những vụ kiện mà đối tượng tranh chấp là những tài sản có giá trị nhỏ và được thực hiện ở các Tòa án sơ cấp và đệ nhị cấp. Sau này, với việc ghi nhận nguyên tắc hai cấp xét xử trong LTCTAND năm 1960 và LTCTAND năm 1981, cơ chế xét xử một lần nêu trên không còn được áp dụng nữa.
Hiện nay theo LTCTAND năm 1992, mặc dù có quy định về việc xét xử theo hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm nhưng không còn ghi nhận thành một nguyên tắc cơ bản như đã từng quy định trong các LTCTAND năm 1960 và năm 1981 nữa. Thực tiễn TTDS trong những năm qua cho thấy những vụ kiện có giá ngạch thấp thường có nội dung đơn giản và tranh chấp cũng không gay gắt. Vì vậy, để giải quyết tình trạng gia tăng, tồn đọng án trong điều kiện hiện nay, có thể tính tới khả năng xây dựng thủ tục rút gọn áp dụng đối với các vụ kiện có giá ngạch thấp nhằm tạo điều kiện giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các vụ kiện này và qua đó Tòa án có thể tập trung thời gian và nguồn lực vào những vụ kiện khó khăn, phức tạp hơn.
Cơ chế xét xử một lần đề cập ở trên đã thể hiện ưu điểm đảm bảo việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm tranh chấp, tránh kéo dài thời gian một cách không cần thiết, bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của các bên, tiết kiệm thời gian và nguồn lực cho cả Nhà nước và đương sự. Do vậy, thiết nghĩ cần nghiên cứu khôi phục lại các quy định về cơ chế xét xử một lần đã từng tồn tại trước đây, trên cơ sở sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện hiện nay.
Vấn đề cơ bản đặt ra là xây dựng các tiêu chí xác định “vụ kiện có giá ngạch thấp”. Đây là vấn đề này đang gây nhiều tranh luận, nhất là trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam chưa ổn định, giá cả thường xuyên biến động. Trước đây, do không thống nhất được về các tiêu chí này nên đề xuất về thủ tục rút gọn áp dụng đối với những loại việc có giá ngạch thấp rơi vào bế tắc.
Qua tham khảo pháp luật các nước có quy định về thủ tục TTDS rút gọn cho thấy tùy thuộc vào điều kiện kinh tế mỗi nước, thu nhập của người dân cũng như quan niệm của nhà lập pháp mà quy định về vụ kiện có giá ngạch thấp ở mỗi nước cũng khác nhau.
Ở Việt Nam trước đây đã từng có quy định tiêu chí vụ kiện có giá ngạch thấp dựa trên một khoản tiền ấn định cụ thể. Theo “Bắc kì Pháp viện biên chế” được công bố bằng Nghị định ngày 2/12/1921 được thi hành tại toàn cõi Bắc kì thì Tòa án cấp sơ thẩm có thẩm quyền sơ thẩm và chung thẩm nếu giá ngạch không quá 30 đồng bạc (Điều 6); Tòa án tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm và chung thẩm nếu giá ngạch quá 30 đồng bạc và chưa tới 100 đồng bạc (Điều 13). Tuy nhiên, trong điều kiện hiện này, việc quy định một tiêu chí cố định như trên trong văn bản luật là không còn phù hợp vì giá cả thị trường có sự biến động thường xuyên, trong khi đó không phải lúc nào cũng có thể sửa đổi luật. Do vậy, cần nghiên cứu xây dựng các tiêu chí chung mang tính nền tảng làm cơ sở cho việc xác định vụ kiện có giá ngạch thấp được giải quyết theo thủ tục rút gọn để đưa vào luật. Trên cơ sở, những trường hợp cụ thể có thể được quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành.
2.3. Các vụ kiện được đương sự thoả thuận lựa chọn áp dụng thủ tục rút gọn
Về phương diện lý luận, trong các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động, bản thân các đương sự là chủ thể có lợi ích cho nên họ có quyền tự định đoạt, tự mình quyết định về việc lựa chọn phương thức nào thuận lợi nhất để bảo vệ lợi ích của mình. Do vậy, ngoài các loại việc được pháp luật quy định giải quyết theo thủ tục rút gọn như đã đề cập ở trên, cũng nên nghiên cứu xây dựng cơ chế cho phép các đương được thoả thuận lựa chọn thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp([201]). Việc xây dựng cơ chế đó phải dựa trên cơ sở cân nhắc thận trọng để việc ghi nhận quyền của đương sự này không gây tổn hại đến đương sự khác và cần có những cơ chế hợp lý để bảo đảm an toàn cho các đương sự.
Thiết nghĩ, chỉ nên quy định đương sự có quyền thỏa thuận lựa chọn thủ tục TTDS rút gọn đối với những vụ kiện có nội dung đơn giản, Tòa án không phải mất nhiều thời gian để xác minh sự việc. Ngoài ra, tuy quy định đương sự có quyền thỏa thuận lựa chọn thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp giữa họ nhưng quyền quyết định có áp dụng hay không thì nên quy định thuộc về Tòa án, vì Tòa án có trách nhiệm giải quyết vụ án, nếu Tòa án thấy việc áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn không thể giải quyết đúng đắn vụ kiện thì Tòa án có quyền áp dụng thủ tục tố tụng thông thường để giải quyết.
Chuyên đề 10
VỀ ĐỀ CAO TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN CỦA THẨM PHÁN
KHI XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
TS. Bùi Thị Huyền
Trường Đại học Luật Hà Nội
1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ĐỀ CAO TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN CỦA THẨM PHÁN KHI XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
Việc đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn hay việc giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn cần thiết giao cho một Thẩm phán giải quyết được dựa trên các cơ sở khoa học sau:
1.1. Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong tổ chức bộ máy Nhà nước, trong hoạt động TTDS và đường lối cải cách tư pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam về đề cao trách nhiệm cá nhân cuả Thẩm phán trong xây dựng thủ tục tố tụng rút gọn.
Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước CHXHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Trong đó, quyền lực Nhà nước Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp([202]). TAND là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp([203]). Như vậy, với chức năng của mình, TAND có vị trí độc lập và là bộ phận quan trọng, không thể thiếu trong bộ máy Nhà nước. Nhiệm vụ của Tòa án là thực hiện việc xét xử, giải quyết các vụ việc phát sinh từ các quan hệ pháp luật hình sự, hôn nhân gia đình, dân sự, lao động, kinh doanh thương mại, hành chính. Trong phạm vi chức năng của mình, TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân([204]).
Trong tổ chức bộ máy của TAND, Thẩm phán là trung tâm, là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử các vụ án và giải quyết các việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án. Để thực hiện nhiệm vụ đó, pháp luật xác định và trao cho Thẩm phán vai trò quan trọng trong việc xét xử các loại vụ việc. Khi xét xử các vụ việc, bắt buộc phải có sự tham gia của Thẩm phán và Thẩm phán có vị trí, vai trò không thể thay thế. Hoạt động xét xử của Thẩm phán có vị trí vô cùng quan trọng - nhân danh Nhà nước thực hiện quyền tư pháp, cho nên ngay từ những ngày đầu thành lập nước, trong tờ trình gửi Chủ tịch nước về việc ban hành Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về Tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán, ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh đã chỉ rõ: “Thà không có Thẩm phán còn hơn có người mà vô tài, vô hạnh. Khi lập một hạng người có quyền xét xử và làm tội người khác, bản bộ thấy rõ trách nhiệm đối với nội trị và cả đối với ngoại giao nữa. Bản bộ không quên rằng, người ngoại quốc, khi tới một nước, trước khi hoạt động về kinh tế hay làm một việc gì, vẫn tự hỏi luật lệ và Thẩm phán ở nước ấy có đủ minh bạch và công bằng để đảm bảo cho họ không?...Tòa án và Thẩm phán là động cơ của nền tư pháp”([205]).
Khi xét xử các vụ việc khác nhau, Thẩm phán tuân thủ các thủ tục tố tụng tương ứng với loại việc đó, phụ thuộc vào phạm vi xét xử và giới hạn xét xử của từng loại quan hệ tố tụng mà pháp luật quy định. Trong thủ tục tố tụng hình sự, Thẩm phán tuân thủ các quy định tố tụng của Bộ luật tố tụng hình sự, theo đó Thẩm phán tiến hành xét xử trên cơ sở hồ sơ do Cơ quan điều tra, VKS kết luận và truy tố. Trong thủ tục TTDS, vai trò của Thẩm phán được thể hiện rõ nét hơn, Thẩm phán trực tiếp thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, hòa giải, chuẩn bị hồ sơ vụ án và trực tiếp xét xử. Tuy nhiên, ngay cả ở một loại hình tố tụng, thì vị trí, vai trò của Thẩm phán ở những nước theo truyền thống tố tụng khác nhau cũng sẽ khác nhau. Trên thế giới hiện tồn tại nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, trong đó hai hệ thống pháp luật là chủ yếu, hệ thống pháp luật án lệ (common law) và hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (continental law). Tương ứng với hai hệ thống pháp luật trên là hai loại hình thủ tục tố tụng, thủ tục tố tụng tranh tụng và thủ tục tố tụng xét hỏi. Hình thức tố tụng xét hỏi đề cao vị trí, vai trò của người tiến hành tố tụng, đặc biệt là Thẩm phán. Hình thức tố tụng tranh tụng, đề cao vai trò chứng minh của các đương sự, Thẩm phán chỉ căn cứ vào việc cung cấp chứng cứ do các bên cung cấp để xác định sự thật khách quan của vụ việc. Ngoài ra, một số nước trên thế giới còn áp dụng hình thức tố tụng “pha trộn” – hỗn hợp giữa tố tụng xét hỏi và tố tụng tranh tụng, theo đó, việc chứng minh đúng sai do cả người tiến hành tố tụng và đương sự cùng thực hiện. Song, dù ở hình thức tố tụng nào thì vai trò quan trọng của Thẩm phán vẫn luôn được đề cao, Thẩm phán tham gia vào các hoạt động tố tụng mà sản phẩm cuối cùng là bản án, quyết định của Tòa án. Ở Việt Nam, về cơ bản, BLTTDS được xây dựng trên cơ sở thủ tục xét hỏi nhưng có kết hợp các yếu tố của thủ tục tố tụng tranh tụng. Theo đó các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, bên cạnh đó Tòa án vẫn xác minh, thu thập chứng cứ trong một số trường hợp do pháp luật quy định. Do đó, Thẩm phán có vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động xét xử, giải quyết các vụ việc dân sự, điều này được thể hiện trong các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán. Theo đó, Thẩm phán là người có quyền ban hành hầu hết các quyết định tố tụng kể từ khi được phân công giải quyết vụ việc dân sự cho đến khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử; tại phiên tòa Thẩm phán là chủ tọa phiên tòa. Như vậy, Thẩm phán có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự.
Nhận thức được vị trí quan trọng của Thẩm phán, nên trong tiến trình cải cách tư pháp, Đảng cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến việc đề cao vị trí và vai trò của Thẩm phán. Nghị quyết của Đảng qua các thời kỳ đã chỉ rõ, vấn đề cải cách tư pháp, hoàn thiện pháp luật là những vấn đề cấp bách trong điều kiện kinh tế xã hội có nhiều biến đổi, quá trình hội nhập với khu vực và thế giới đang ngày một sâu rộng. Vấn đề cải cách tư pháp đã được cụ thể hóa tại các Nghị quyết của Bộ chính trị, trong đó có Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. Một trong những nội dung trọng tâm của Nghị quyết số 49-NQ/TW là: “xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng” nhằm bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử. Vì vậy, trong việc “nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục rút gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng[206] thì việc quy định cho Thẩm phán có quyền độc lập giải quyết các vụ việc theo thủ tục rút gọn là cần thiết. Điều đó thực sự góp phần giải quyết tổng thể những yêu cầu về đổi mới trong tổ chức, hoạt động TTDS của Tòa án; thực hiện những bước đi cơ bản trong cải cách tổ chức, hoạt động TTDS của Tòa án trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Cơ sở pháp lý
Lịch sử các quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan đến thủ tục tố tụng rút gọn, cho thấy cơ chế xét xử một Thẩm phán đã từng được quy định tại Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về Tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán. Theo Điều 10 Sắc lệnh này thì đối với Tòa án sơ cấp "tại phiên toà, Thẩm phán xét xử một mình Lục sự giữ bút ký, lập biên bản án từ " và đối với Tòa án đệ nhị cấp, Điều 17 Sắc lệnh cũng quy định "về dân sự và thương sự, Chánh án xử một mình nhưng khi xử các việc tiểu hình phải có thêm hai viên phụ thẩm nhân dân góp ý kiến". Với SL 51 ngày 17/4/1946 về “ấn định thẩm quyền của Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án”, Thẩm phán Toà sơ cấp có quyền: “ Chung thẩm những việc dân sự, thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn định không quá 150đ và các khoản lệ phí. Sơ thẩm những việc dân sự hay thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn định trên 150đ nhưng dưới 450đ” (Điều 6). Ở toà đệ nhị cấp, nhiệm vụ, quyền hạn của ông Chánh án cũng được xác định rõ: “Ông có thể ủy thác cho các ông Thẩm phán một phần những vụ kiện mà ông đã thụ lý. Tuy thế, các Thẩm phán và Dự thẩm được tự do định đoạt trong các việc xét xử thuộc phạm vi của mình…” (Điều 17). Theo những qui định này, mọi hoạt động của Tòa án đệ nhị cấp đều do Chánh án điều khiển và kiểm soát, nhưng khi Chánh án đã giao cho Thẩm phán giải quyết một vụ án nào đó, thì Thẩm phán có đầy đủ quyền hạn như ông Chánh án trong phạm vi giải quyết vụ án đó.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Quốc hội ban hành LTCTAND ngày 14/7/1960. Theo quy định của Hiến pháp và Điều 9 LTCTAND năm 1960 thì: “TAND thực hành hai cấp xét xử”, thủ tục xét xử chung thẩm trong TTDS đã bị loại bỏ. Tuy nhiên, Điều 12 LTCTAND năm 1960 lại quy định: “Khi sơ thẩm, TAND gồm một thẩm phán và hai HTND; trường hợp xử những vụ án nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì TAND có thể xử không có HTND”. Như vậy, những loại việc đơn giản vẫn được giải quyết bằng cơ chế xét xử sơ thẩm bằng một Thẩm phán. Rất tiếc rằng sau này theo LTCTAND năm 1981, LTCTAND năm 2002 cơ chế xét xử một Thẩm phán không còn được áp dụng nữa.
Hiện nay mặc dù cơ chế này không còn được quy định cụ thể trong pháp luật TTDS, song chúng ta không thể phủ nhận vai trò của Thẩm phán trong việc ra các quyết định giải quyết các vụ việc dân sự như Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các bên đương sự, trước khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán có quyền ra quyết định tạm đình chỉ, đỉnh chỉ giải quyết vụ án dân sự hoặc quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, đa số các việc dân sự đều do một Thẩm phán giải quyết, trừ việc giải quyết yêu cầu hủy quyết định của trọng tài thương mại hoặc giải quyết yêu cầu công nhận hoặc không công nhận tại Việt Nam các bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài hoặc trọng tài nước ngoài. Như vậy, theo quy định của pháp luật TTDS hiện hành, khi được phân công giải quyết một vụ việc dân sự cụ thể, Thẩm phán đã thực hiện thẩm quyền độc lập của mình, tự mình giải quyết các vấn đề phát sinh trong vụ án mà không cần lập một HĐXX. Mặt khác, hiện nay, cơ chế một Thẩm phán xét xử trong BLTTDS cũng đã quy định một Thẩm phán giải quyết việc dân sự.
Trong công cuộc cải cách thủ tục tố tụng, tồn tại hai quan điểm trái ngược nhau về thành phần tiến hành tố tụng. Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc xét xử phải theo nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể (gồm một HĐXX có ba người là một Thẩm phán và hai HTND) và quyết định theo đa số. Đây là một trong những nguyên tắc xét xử được quy định tại Điều 131 Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi bổ sung năm 2001. Những người theo quan điểm này cho rằng đây là nguyên tắc cơ bản không thể có ngoại lệ. Dù có lược bớt thủ tục thế nào đi nữa thì khi xét xử vẫn phải đảm bảo nguyên tắc xét xử dân chủ, công bằng, phán quyết theo đa số để tránh tình trạng lạm quyền của Thẩm phán. Ngược lại, những người theo quan điểm thứ hai cho rằng, việc xét xử theo thủ tục rút gọn chỉ cần một Thẩm phán giải quyết. Đối với những vụ việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ, giá trị tranh chấp thấp... thì chỉ cần một Thẩm phán giải quyết, không cần thêm hai HTND. Quy định như vậy vừa đơn giản thủ tục tố tụng, giảm bớt chi phí tố tụng mà vẫn đạt được mục đích của tố tụng, vừa đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trước pháp luật đối với những phán quyết của mình. Quan điểm này đã được thể hiện trong Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2013: “Việc xét xử sơ thẩm của TAND có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn… TAND xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn([207]).
Có thể thấy xu hướng xây dựng thủ tục tố tụng cho phù hợp với tính chất của vụ việc tranh chấp là xu hướng tất yếu nhằm giảm thiểu chi phí tố tụng mà vẫn đảm bảo tính hiệu quả của TTDS, bởi suy cho cùng, pháp luật tố tụng là phương tiện bảo vệ pháp luật nội dung, khôi phục lại trật tự đúng của quan hệ pháp luật nội dung có tranh chấp hoặc yêu cầu giải quyết. Xét thấy những vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, giá trị tranh chấp thấp, việc áp dụng pháp luật để giải quyết là không mấy khó khăn, phức tạp. Nếu giao cho một Thẩm phán độc lập xét xử thì vẫn đảm bảo tính chính xác và đúng pháp luật. Vấn đề quan trọng là chúng ta cần xây dựng một cơ chế quy định trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán cũng như kiểm soát hoạt động của Thẩm phán trong việc áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết sẽ khắc phục được sự lạm quyền của Thẩm phán. Do đó, có đủ căn cứ để mở rộng cơ chế một Thẩm phán xét xử đối với vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn. Có thể coi đây là một bước cải cách thực sự về hoạt động TTDS của Tòa án. Việc quy định một Thẩm phán độc lập giải quyết vụ việc theo thủ tục rút gọn vừa tạo điều kiện cho Thẩm phán có thể chủ động trong công việc của mình, nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong việc ra phán quyết đồng thời tiết kiệm cho Nhà nước cả về nguồn lực con người và chi phí.
Với những cơ sở pháp lý nêu trên, đặc biệt với sự sửa đổi, bổ sung của Điều 103 Hiến pháp năm 2013, hoàn toàn có cơ sở vững chắc cho quy định việc xét xử theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán giải quyết mà không cần thành lập HĐXX.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Trong những năm qua, số lượng các tranh chấp, yêu cầu dân sự phát sinh tại Tòa án ngày càng nhiều dẫn đến ngành Tòa án chịu một áp lực lớn về khối lượng công việc, tỷ lệ án tồn đọng vẫn cao.
Bảng số liệu tình hình giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án các cấp qua các năm 2005 đến năm 2013
Năm
|
Số vụ việc dân sự đã thụ lý
|
Số vụ việc dân sự đã giải quyết
|
Số vụ việc tồn đọng
|
Số vụ
|
Tỷ lệ %
|
2005
|
152.819
|
132.125
|
20.694
|
13,6
|
2006
|
164.888
|
146.823
|
18.065
|
11
|
2007
|
188.992
|
171.681
|
17.311
|
9,2
|
2008
|
192.336
|
174.768
|
17.568
|
9,2
|
2009
|
214.174
|
194.358
|
19.816
|
9,3
|
2010
|
215.741
|
194.372
|
21.369
|
9,9
|
2011
|
326.268
|
299.309
|
26.959
|
8,3
|
2012
|
271.306
|
246.215
|
25.091
|
9,2
|
2013
|
301.912
|
274.303
|
27.609
|
9,14
|
Nguồn: Báo cáo tổng kết ngành TAND năm 2005 - 2013
Chú ý: Tỷ lệ này được tính dựa trên số vụ việc dân sự tồn đọng đã thụ lý chia cho tổng số vụ việc dân sự TAND đã thụ lý.
Qua bảng số liệu trên, có thể thấy qua mỗi năm, số lượng các vụ việc dân sự mà Tòa án thụ lý ngày càng có xu hướng gia tăng mạnh. Như vậy, số vụ việc mà Tòa án phải giải quyết luôn luôn có xu hướng tăng qua các năm. Ngoài lượng án tồn của năm trước còn phát sinh một số lượng không nhỏ những vụ án mới nên hàng năm luôn có án tồn đọng với số lượng lớn, Tòa án các cấp đã bị quá tải. Chúng tôi, cho rằng việc tồn đọng án có nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân sau:
- Số lượng các Thẩm phán còn thiếu so với chỉ tiêu biên chế được giao. Cho đến hết năm 2013, mặc dù đã tích cực thực hiện chỉ tiêu biên chế được Ủy ban thường vụ Quốc hội phân bổ, song các Tòa án mới tuyển dụng được 50% biên chế được giao([208]). Do đó, dẫn đến tình trạng quá tải về số vụ cần giải quyết đối với một Thẩm phán.
- Các quy định của thủ tục TTDS chưa mềm dẻo, linh hoạt để phù hợp với tính chất từng loại tranh chấp khiến cho vụ án bị kéo dài qua các cấp xét xử, không chỉ gây tốn kém cho đương sự và Nhà nước mà thực tế còn khiến cho các vụ án còn kéo dài qua các năm. Trong khi các tranh chấp loại này việc giải quyết là đơn giản, việc xác minh, thu thập chứng cứ không tốn nhiều thời gian.
Có thể thấy, một trong các giải pháp giải quyết vấn đề tồn đọng án là tăng số lượng Thẩm phán còn thiếu so với chỉ tiêu biên chế được giao. Bên cạnh đó, việc cải cách về thủ tục, tạo điều kiện cho các Thẩm phán có thể chủ động, độc lập trong công việc của mình là việc làm cần thiết. Do đó, việc giao cho một Thẩm phán có quyền giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn rõ ràng sẽ là một rong các giải pháp để khắc phục hiệu quả tình trạng gia tăng và tồn đọng án.
Hiện nay, cơ chế một Thẩm phán xét xử trong BLTTDS cũng đã quy định một Thẩm phán giải quyết việc dân sự. Thực tiễn năm năm thực hiện BLTTDS cũng chưa phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tiêu cực trong cơ chế một Thẩm phán giải quyết việc dân sự. Đây chính là cơ sở thực tiễn quan trọng để tiếp tục đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán đối với các loại việc áp dụng theo thủ tục rút gọn.
1.4. Hiệu quả tham gia tố tụng của hội thẩm nhân dân
Theo Điều 52 BLTTDS, thành phần HĐXX sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai HTND. Trong trường hợp đặc biệt thì HĐXX sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba HTND. Trong thành phần HĐXX, Thẩm phán là chủ tọa phiên tòa, là người điều khiển thủ tục phiên tòa. Về vai trò của HTND trong thành phần HĐXX sơ thẩm, Điều 11 BLTTDS quy định: "Khi xét xử, HTND ngang quyền với Thẩm phán". Như vậy, khác với vai trò của Bồi thẩm đoàn ở những nước theo truyền thống án lệ, HTND của nước ta có vai trò ngang bằng với Thẩm phán trong việc xem xét các tình tiết của vụ án dân sự, các căn cứ pháp lý áp dụng cho việc xét xử vụ án và thảo luận với các thành viên khác của HĐXX để ra bản án, quyết định dân sự. Hoạt động xét xử của HTND có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm tính dân chủ của hoạt động xét xử, mặt khác là cơ chế kiểm soát đối với việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán. Song điều đó chỉ đạt được khi HTND có đủ năng lực và điều kiện tham gia tố tụng.
Hiện nay, nhìn về tổng thể, khi xem xét trên các phương diện điều kiện về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm xét xử, thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án và trách nhiệm đối với kết quả giải quyết vụ án thì đa số các Thẩm phán vượt trội hơn so với HTND. Thực tế, đã có nhiều HTND phát huy tốt vai trò của mình, thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ do luật định, góp phần quan trọng vào thành tích của ngành Tòa án. Tuy vậy, thực trạng hoạt động của HTND phần nào vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ xét xử. HTND thường không có các ý kiến độc lập khi nghị án. Nguyên nhân của thực tế này, trước hết là do thời gian HTND đầu tư để nghiên cứu hồ sơ vụ án chưa đủ. Theo Điều 195 BLTTDS, trong quyết định đưa vụ án ra xét xử phải nêu rõ tên của những người tiến hành tố tụng, trong đó có HTND và Điều 42 BLTTDS quy định HTND có quyền và nghĩa vụ tham gia vào việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, nắm bắt nội dung vụ án cũng như những tài liệu, chứng cứ để đảm bảo cho việc tham gia phiên tòa của mình một cách tốt nhất. Song, thực tiễn xét xử cho thấy, việc tham gia của HTND là rất muộn, thường chỉ trước ngày mở phiên tòa một hoặc hai ngày, thậm chí vài tiếng. Kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.04.06 về "Cải cách cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" cũng cho thấy, hiệu quả hoạt động xét xử của HTND thấp còn bởi các lý do như: HTND kiêm nhiệm, thiếu kiến thức pháp lý; sự chênh lệch về trình độ giữa Thẩm phán và HTND; HTND phụ thuộc nhiều vào Thẩm phán và cơ quan hành chính; do thực chất bản án đã được nghị án từ trước; chế độ đãi ngộ chưa tốt nên không nâng cao được tinh thần trách nhiệm của HTND([209]). Thực tế đó dẫn đến nhiều trường hợp HTND không nghiên cứu kỹ hồ sơ, không nắm chắc nội dung vụ án, vì thế HTND không thể độc lập với Thẩm phán khi nghị án, nhiều trường hợp việc tham gia của HTND chỉ mang tính hình thức, các nguyên tắc của TTDS bị vi phạm… HTND là người chiếm đa số trong thành phần HĐXX sơ thẩm nên có trường hợp "cho dù Thẩm phán có giỏi chuyên môn đến mấy thì khi nghị án vẫn là thiểu số, trong khi hai HTND có thể yếu về trình độ nhưng lại có ý kiến khác với Thẩm phán lại chiếm đa số, vì vậy, đã có nhiều bản án bị hủy do xét xử không đúng vì lý do này"([210]). Do đó, cơ cấu thành phần HĐXX sơ thẩm như hiện nay phần nào ảnh hưởng đến chất lượng xét xử sơ thẩm dân sự. Để nâng cao chất lượng bản án, quyết định sơ thẩm, cần thiết phải nâng cao chất lượng xét xử, đặc biệt là chất lượng nghị án. Theo chúng tôi, cơ cấu thành phần HĐXX sơ thẩm vụ án dân sự hiện nay mới chỉ chú ý đến tính hình thức trong hoạt động xét xử mà chưa chú ý đến chất lượng xét xử. Với cơ cấu và quyền hạn của HTND trong thành phần HĐXX sơ thẩm như hiện nay sẽ dẫn đến nhiều khả năng chất lượng xét xử và chất lượng nghị án không được bảo đảm.
Có thể thấy, không chỉ những nước theo truyền thống pháp luật dân sự mà cả những nước theo truyền thống pháp luật án lệ, sự tham gia của HTND vào hoạt động xét xử các vụ việc dân sự theo xu hướng ngày càng hạn chế, thậm chí, ở nhiều nước HTND không tham gia vào thành phần HĐXX sơ thẩm vụ việc dân sự. Xu hướng thay đổi đó là hợp lý, bởi xét về trình độ chuyên môn và kỹ năng xét xử, đa phần các Thẩm phán vượt trội hơn so với HTND. Mặt khác, dưới góc độ tâm lý học, "đối với HTND, kết quả của vụ án không có ý nghĩa như đối với Thẩm phán nên Thẩm phán chuyên tâm và có trách nhiệm đối với việc giải quyết vụ án hơn"([211]) . Bên cạnh đó, đối với nhựng vụ việc dân sự áp dụng thủ tục rút gọn là những vụ việc đơn giản, giá ngạch thấp, chứng cứ rõ ràng và với các cơ chế nâng cao năng lực và ràng buộc trách nhiệm đối với Thẩm phán, chúng tôi cho rằng, đối với những vụ án áp dụng thủ tục rút gọn thì không cần thiết có sự tham gia của HTND. Việc bỏ HTND trong thành phần giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn không có nghĩa tính dân chủ của hoạt động tố tụng bị giảm bớt mà nhằm giảm dần những quy định mang tính hình thức, đảm bảo cho hoạt động xét xử được thực chất và chính xác hơn. Hơn nữa, "không chỉ có HTND mới là người đại diện cho nhân dân, bảo vệ quyền lợi cho nhân dân, mà Thẩm phán cũng có vai trò, nhiệm vụ này"([212]). Ngoài ra, việc giám sát của nhân dân có thể được thực hiện thông qua các hình thức khác như tăng cường tổ chức các phiên tòa lưu động, công khai bản án.
Theo chúng tôi, việc xét xử được tiến hành bởi một HĐXX, trong đó có HTND có thuận lợi là hạn chế các áp lực tác động từ bên ngoài, mặt khác sự cọ xát ý kiến giữa các thành viên của HĐXX sẽ làm sáng tỏ các vấn đề của vụ án, giúp Tòa án giải quyết vụ việc dân chủ, khách quan, bảo đảm sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử. Tuy nhiên, đối với các vụ án các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận nghĩa vụ hoặc các tình tiết của vụ kiện đã được xác định, việc áp dụng pháp luật giải quyết cũng không khó khăn, phức tạp, vụ kiện có giá ngạch thấp nếu phải xét xử bằng một Hội đồng sẽ gây tốn kém cho Nhà nước một cách không cần thiết. Do đó, cần xây dựng cơ chế một Thẩm phán giải quyết đối với các vụ việc áp dụng thủ tục rút gọn.
1.5. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong việc xây dựng mô hình rút gọn
Nghiên cứu pháp luật TTDS một số nước cho thấy, nhiều nước có quy định về việc một Thẩm phán giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn([213]) .
- Thủ tục rút gọn trong pháp luật TTDS Cộng hòa Pháp
Theo pháp luật TTDS của Cộng hòa Pháp, bên cạnh thủ tục thông thường, còn có thủ tục xét xử nhanh áp dụng đối với những tranh chấp mang tính đặc thù riêng. Theo cơ chế xét xử cấp thẩm thì trên thực tế Thẩm phán đã ra quyết định cuối cùng để giải quyết tranh chấp mà không cần phải mở phiên toà xét xử. Trong trường hợp này thủ tục xét xử cấp thẩm được coi là một thủ tục giản đơn, Thẩm phán giải quyết vụ việc trong một thời hạn rất ngắn (trung bình là một tháng) sau khi gửi giấy tống đạt gọi bị đơn ra toà. Điều 514 BLTTDS Pháp quy định: Quyết định của Thẩm phán thụ lý hồ sơ cho phép thanh toán nợ là quyết định đương nhiên có hiệu lực thi hành tạm thời. Bên cạnh các quy định về vụ kiện có giá ngạch thấp, về thủ tục cấp thẩm BLTTDS Pháp cũng có những quy định về thủ tục đơn giản hơn so với thủ tục thông thường là thủ tục ra lệnh thanh toán nợ và thủ tục ra lệnh buộc thực hiện một công việc. Theo Điều 1409 và Điều 1425-4 BLTTDS Pháp thì Thẩm phán có quyền ra quyết định về giải quyết các loại việc này.
- Thủ tục ra lệnh thanh toán nợ theo pháp luật TTDS Nga
Trong pháp luật TTDS Nga, không có sự phân chia rõ rệt hai loại hình thủ tục tố tụng ra lệnh là thủ tục ra lệnh thanh toán nợ và thủ tục ra lệnh buộc thực hiện một công việc như trong TTDS Pháp mà chỉ quy định một thủ tục chung là thủ tục ra lệnh. Theo Điều 121BLTTDS Nga thì lệnh của Tòa án - quyết định của Tòa án do một Thẩm phán ban hành dựa trên yêu cầu đòi nợ hoặc đòi lại tài sản khi có những căn cứ theo quy định tại Điều 121 BLTTDS([214]). Lệnh của Tòa án được ban hành trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mà không cần phải mở phiên toà xét xử và không phải triệu tập các bên để nghe lời giải thích của họ (Điều 126). Sau khi ra lệnh, Thẩm phán gửi bản sao lệnh của Tòa án cho người có nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ có quyền phản đối trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận bản sao. Nếu người có nghĩa vụ phản đối trong thời hạn luật định, Thẩm phán huỷ bỏ lệnh của Tòa án.
- Thủ tục giản đơn trong pháp luật TTDS Nhật Bản
Ở Nhật Bản, BLTTDS đầu tiên ra đời vào năm 1890 và được sửa đổi năm 1926. Cho đến nay, Bộ luật này đã có nhiều sự thay đổi theo chiều hướng bảo đảm việc xét xử một cách nhanh chóng các tranh chấp dân sự. Hiện nay, Nhật Bản có 453 Tòa án giản lược tại các thành phố, thị trấn và làng mạc trong cả nước. Tổng số Thẩm phán của các Tòa án giản lược là khoảng 810. Tòa án giản lược có thẩm quyền xét xử các vụ án liên quan đến các yêu cầu không quá 900.000 Yên và các vụ án hình sự nhỏ thích hợp mà pháp luật đã quy định. Tòa án giản lược tiến hành xét xử thông qua một Thẩm phán duy nhất ([215]). Ngoài ra, theo quy định các Điều 26, và Điều 31 Luật tổ chức Tòa án Nhật bản thì cơ chế xét xử một Thẩm phán còn được áp dụng cả ở Tòa án quận và Tòa án gia đình.
- Thủ tục rút gọn trong pháp luật TTDS Trung Hoa
Thủ tục rút gọn cũng được quy định tại chương 13 BLTTDS nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ngày 9/4/1991. Theo các quy định của chương này thì trình tự đơn giản được áp dụng để giải quyết những vụ án dân sự đơn giản, sự việc rõ ràng, mối quan hệ về quyền lợi, nghĩa vụ đã rõ ràng, tranh chấp không gay gắt. Những vụ án dân sự đơn giản này chỉ do một Thẩm phán xét xử và trình tự phiên toà không buộc phải tuân theo các quy định về thông báo phiên toà, thẩm vấn và tranh luận như đối với các vụ án dân sự khác.
- Thủ tục giản đơn theo pháp luật TTDS Đài Loan
BLTTDS Đài Loan cũng có những quy định về thủ tục giản đơn được áp dụng trong các trường hợp được quy định tại Điều 427. Việc xét xử theo thủ tục này chỉ do một Thẩm phán tiến hành qua một phiên toà nhanh, gọn ([216]).
Bên cạnh đó, thủ tục giải quyết những vụ kiện có giá trị nhỏ theo pháp luật TTDS Hàn Quốc, Singgapo cũng đều do một Thẩm phán giải quyết ([217]). Các phiên tòa dân sự ở Anh cũng chỉ do một Thẩm phán tiến hành, không có sự tham gia của bồi thẩm đoàn, trừ những vụ viện gian lận và phỉ báng (fraud and defamaition cases) ([218]).
Qua tham khảo pháp luật TTDS một số nước trên thế giới chúng ta có thể thấy rằng, đối với những loại việc áp dụng thủ tục rút gọn chỉ do một Thẩm phán tiến hành, với thời hạn ngắn hơn thủ tục tố tụng thông thường, phán quyết của Thẩm phán không bị kháng cáo phúc thẩm hoặc nếu có kháng cáo phúc thẩm thì không được kháng cáo các vấn đề sự kiện của vụ án. Việc xét xử một Thẩm phán đối với những việc đơn giản, rõ ràng, giá ngạch thấp sẽ tạo điều kiện cho Thẩm phán có thể chủ động trong việc giải quyết vụ kiện nhanh chóng, hạn chế chi phí tố tụng, nâng cao vai trò và trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong việc ra phán quyết.
2. CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM CHO VIỆC ĐỀ CAO TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN CỦA THẨM PHÁN KHI XÂY DỰNG THỦ TỤC RÚT GỌN
Một vấn đề đặt ra là nếu đổi mới hoạt động TTDS theo hướng xây dựng thủ tục TTDS rút gọn trao thẩm quyền độc lập cho một Thẩm phán giải quyết tranh chấp thì cần xây dựng các cơ chế bảo đảm cho Thẩm phán có thể độc lập thực hiện quyền hạn này, hạn chế khả năng lạm quyền có thể xảy ra.
2.1. Hoàn thiện quy định liên quan đến xác định vị trí, vai trò và năng lực của Thẩm phán
Xác định đúng vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hệ thống cơ quan Nhà nước nói chung và Tòa án nói riêng là cần thiết. Trước hết, cần phải xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Việc xây dựng hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử là cơ sở quan trọng để Thẩm phán có thể độc lập khi xét xử. Bên cạnh đó, trên thực tế việc giải quyết vụ án và các phán quyết của Thẩm phán nhiều lúc, nhiều nơi chưa thực sự độc lập, ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, niềm tin của người tham gia tố tụng bị giảm sút, từ đó ảnh hưởng đến “vị thế” của Thẩm phán. Sự can thiệp của các cơ quan, tổ chức cá nhân trong chừng mực nhất định làm ảnh hưởng đến tính độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán
Ngoài ra, vấn đề cốt lõi để nâng cao chất lượng xét xử của Thẩm phán, giao cho Thẩm phán độc lập xét xử vụ việc dân sự đó là trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, của Thẩm phán, xây dựng các cơ chế hạn chế khả năng lạm quyền của Thẩm phán. Sẽ là thiệt hại lớn nếu trao quyền cho Thẩm phán mà Thẩm phán đó chưa đủ năng lực và đạo đức. Năng lực của Thẩm phán hiện nay chưa ổn nên dẫn đến cơ chế báo cáo án và những tiêu cực xảy ra. Hàng năm, ngành Tòa án tiến hành thống kê chất lượng xét xử, còn nhiều vụ án bị sửa, hủy do lỗi chủ quan của Thẩm phán nói riêng và của HĐXX nói chung còn nhiều. Một số Thẩm phán bị xử lý về hành chính, bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì hành vi nhận hối lộ để làm sai lệch hồ sơ vụ án. Vì vậy, ngoài việc hoàn thiện thủ tục tố tụng để giải quyết các vụ án dân sự, thì cần quy định cụ thể, chặt chẽ hơn việc tuyển chọn, bổ nhiệm, cũng như quy định quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán. Hiện nay, Dự thảo LTCTAND sửa đổi đã dự liệu cơ chế thi tuyển, song theo đề xuất này thì phạm vi nhưng người được dự tuyển vẫn chỉ là các cán bộ công tác trong ngành Tòa án, điều đó vẫn chỉ là “so bó đũa chọn cột cờ”. Theo chúng tôi, để nghề Thẩm phán trở thành đỉnh cao trong số các nghề luật cũng như thu hút được những người “vừa hồng vừa chuyên” đòi hỏi cần mở rộng đối tượng thi tuyển không chỉ là các cán bộ Tòa án mà còn cả các cán bộ VKS, Thi hành án dân sự, Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý, giảng viên các trường đại học đào tạo Luật và các cán bộ tư pháp khác khi họ đáp ứng các điều kiện cần như Công dân Việt Nam, có bằng cử nhân luật, đủ sức khỏe hoàn thành nhiệm vụ được giao... Tuy nhiên, cần quy định cụ thể về thành phần Hội đồng thi tuyển, cách thức thi tuyển, cơ chế giám sát thi tuyển chặt chẽ.
2.2. Hoàn thiện quy định về trách nhiệm của Thẩm phán khi tiến hành tố tụng và cơ chế giám sát hoạt động xét xử của Thẩm phán
Một trong những yêu cầu của vấn đề cải cách tư pháp là nâng cao chất lượng xét xử và đề cao trách nhiệm của người tiến hành tố tụng, trong đó có Thẩm phán. Quyền hạn và trách nhiệm là hai phạm trù không thể tách rời. Khi tăng cường sự độc lập cho Thẩm phán, mở rộng quyền hạn của họ trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, thì càng cần phải đề cao trách nhiệm của họ. Đó là một hệ quả tất yếu nhằm ngăn ngừa sự lạm quyền và những hành vi trái pháp luật của họ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Để phòng ngừa khả năng lạm quyền của Thẩm phán thì cần có cơ chế kiểm soát quyền lực của Thẩm phán. Trước hết cần quy định rõ trách nhiệm của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Đó là cơ sở để Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình trong hoạt động TTDS. Trách nhiệm của Thẩm phán trong việc giải quyết các vụ việc dân sự bao gồm hai loại: Trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm trong TTDS. Song hiện nay, pháp luật TTDS chưa quy định trách nhiệm trong TTDS của Thẩm phán nên cần thiết phải bổ sung các quy định về trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS như: Trách nhiệm giải quyết vụ việc theo sự phân công của Chánh án, không được từ chối việc giải quyết vụ việc được phân công, nếu không có căn cứ từ chối theo quy định của pháp luật TTDS; Trách nhiệm từ chối việc giải quyết vụ việc được phân công, khi có các căn cứ theo quy định của pháp luật TTDS; Trách nhiệm bảo đảm việc giải quyết vụ việc được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật;Trách nhiệm giải quyết vụ việc đúng thời hạn theo quy định của pháp luật TTDS và trách nhiệm hòa giải giữa các bên đương sự. Đó sẽ là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm của Thẩm phán đối với việc quá hạn xét xử, án bị hủy bị sửa.
Mặt khác, một trong cơ chế hữu hiệu để kiểm soát chất lượng xét xử của Thẩm phán cũng như buộc Thẩm phán phải rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của mình đó là phải công khai các phán quyết của Tòa án. "Việc công bố công khai các phán quyết của Tòa án làm cho công tác xét xử của Tòa án trở nên minh bạch hơn không chỉ riêng đối với các bên đương sự của vụ việc mà còn đối với cả công chúng khác. Điều này giúp cho người dân củng cố thêm niềm tin vào cơ quan xét xử và tính pháp chế"([219]). Bên cạnh đó, việc công bố công khai các phán quyết của Tòa án còn là một áp lực khiến Thẩm phán xét xử và viết bản án tốt hơn, sẽ tránh hoặc giảm bớt được sự tùy tiện của Thẩm phán và của Tòa án, bởi lẽ, bằng cách công khai các phán quyết của Tòa án, người dân có khả năng tiếp cận với công tác xét xử và giám sát được hoạt động xét xử. Tuy nhiên, việc công bố các bản án, phán quyết của Tòa án ở Việt Nam đòi hỏi phải có sự cam kết mạnh mẽ từ phía Nhà nước và đặc biệt là ngành Tòa án. Đó chính là vấn đề về nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán ([220]).
Sẽ là không công bằng đối với Thẩm phán khi đòi hỏi ở họ quá nhiều nhưng chế độ đãi ngộ đối với họ lại không tương xứng. Nhà nước cần nghiên cứu bổ nhiệm vô thời hạn đối với Thẩm phán, cần coi Thẩm phán là một nghề, tạo điều kiện cho Thẩm phán độc lập xét xử, yên tâm làm việc, học tập nâng cao trình độ, đồng thời quy định cơ chế kiểm tra định kỳ về chất lượng xét xử để miễn nhiệm những Thẩm phán không còn đủ tiêu chuẩn. Đồng thời, Nhà nước cần có những điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ và bảo vệ đối với Thẩm phán. Chế độ lương của Thẩm phán hiện nay là quá thấp chưa tương xứng với giá trị lao động của họ nên đã ảnh hưởng đến việc thu hút người tài cũng như bảo đảm tính độc lập, khách quan của Thẩm phán khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Mặt khác, để tạo điều kiện thuận lợi cho Thẩm phán giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn, khách quan, tự tin độc lập xét xử cần phải bảo đảm tốt hơn nữa tính thống nhất, phù hợp, đồng bộ của các văn bản pháp luật nói chung và pháp luật TTDS nói riêng, tránh tình trạng cùng một văn bản nhưng có các cách hiểu, áp dụng khác nhau.
Kết luận: Với những lập luận trên, chúng tôi cho rằng việc đổi mới thủ tục TTDS theo hướng trao thẩm quyền cho Thẩm phán độc lập trong việc giải quyết những loại việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc giá ngạch thấp mà không cần phải thành lập HĐXX là hoàn toàn có cơ sở. Điều đó, sẽ giúp cho Thẩm phán có thể chủ động trong công việc của mình, nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong việc ra phán quyết, mặt khác sẽ tiết kiệm cho Nhà nước về nguồn lực con người và chi phí. Song điều quan trọng là cần xây dựng các cơ chế để Thẩm phán có thể độc lập giải quyết các vụ việc theo thủ tục rút gọn và ràng buộc trách nhiệm của Thẩm phán.
Chuyên đề 11
VỀ BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG VÀ
QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA CÔNG DÂN KHI XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
Thẩm phán Nguyễn Huyền Cường
TAND thành phố Hà Nội
Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế - xã hội dẫn tới các tranh chấp phát sinh cũng ngày một nhiều và do vậy số vụ việc mà Tòa án phải thụ lý giải quyết cũng ngày một nhiều hơn, ngành Tòa án phải chịu một áp lực lớn về công việc. Thực tiễn giải quyết các án kiện cho thấy trong số những vụ việc mà Tòa án phải giải quyết hàng năm có không ít những vụ có nội dung đơn giản, rõ ràng, giá ngạch thấp.
Đối với những loại việc này nếu phải áp dụng thủ tục tố tụng thông thường để giải quyết thì thời gian giải quyết kéo dài, phải qua nhiều cấp xét xử gây tổn phí cho Nhà nước và đương sự. Cho nên việc xây dựng một thủ tục tố tụng đơn giản hơn để có thể giải quyết nhanh chóng những tranh chấp có nội dung đơn giản, rõ ràng tạo thuận lợi cho người có quyền lợi bị tranh chấp, xâm phạm có thể nhanh chóng bảo vệ quyền lợi của mình, bảo đảm hiệu quả của hoạt động tố tụng là cần thiết.
Trong lịch sử TTDS Việt Nam cũng có thời kỳ pháp luật TTDS của chúng ta quy định đối với những tranh chấp nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì không nhất thiết phải tiến hành xét xử theo thủ tục tố tụng thông thường. Việc nghiên cứu, tham khảo pháp luật TTDS một số nước cho thấy bên cạnh thủ tục tố tụng chung để giải quyết các tranh chấp, pháp luật TTDS những nước này đều quy định một thủ tục tố tụng rút gọn để giải quyết những tranh chấp có nội dung đơn giản, rõ ràng, giá ngạch thấp.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế hiện nay thì việc xây dựng một thủ tục TTDS rút gọn càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Nhận thức được sự cần thiết và tầm quan trọng của việc xây dựng một thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam, Đảng ta đã chỉ rõ phải "nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng". Trong điều kiện hiện nay việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn là thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp, xây dựng một Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân.
Để đảm bảo cho việc giải quyết nhanh chóng và có hiệu quả các tranh chấp thì cần phải căn cứ vào nội dung, tính chất của từng loại tranh chấp mà định ra một thủ tục áp dụng giải quyết cho phù hợp. Những tranh chấp mà các bên đương sự không có sự thống nhất về các tình tiết, sự kiện, có mâu thuẫn về chứng cứ, việc áp dụng pháp luật giải quyết là khó khăn thì đòi hỏi phải được tiến hành theo một trình tự nghiêm ngặt cả về thành phần HĐXX, thời hạn giải quyết và các bước tiến hành. Đối với những tranh chấp có nội dung đơn giản, rõ ràng thì cần phải được giải quyết theo một thủ tục đơn giản hơn.
Trong điều kiện hiện nay, các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động đã được đặt trong một môi trường pháp lý tương đối hoàn thiện do vậy trong nhiều trường hợp việc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp cũng dễ dàng hơn. Xét về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ Tòa án cũng không ngừng được bồi dưỡng và nâng cao. Do vậy, đối với những loại việc có nội dung đơn giản, rõ ràng thì việc áp dụng một thủ tục đơn giản hơn thủ tục tố tụng thông thường cả về thành phần HĐXX, các bước về thủ tục và rút ngắn thời hạn giải quyết vẫn có thể đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của đương sự đồng thời tiết kiệm được cho Nhà nước về nguồn lực con người và chi phí.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 179 BLTTDS sửa đổi thì thời hạn chuẩn bị xét xử các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án; đối với các tranh chấp về kinh doanh, thương mại, lao động thì thời hạn này là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Trong trường hợp đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng đối với vụ án về dân sự, hôn nhân và gia đình và một tháng đối với vụ án về kinh doanh, thương mại, lao động. Theo quy định tại Khoản 3 Điều này thì trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng.
Về thủ tục, theo quy định tại Điều 172 BLTTDS thì trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý Chánh án phân công một thẩm phán giải quyết vụ án. Điều 174 BLTTDS quy định: Trong 3 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan của vụ án.
- Điều 175 BLTTDS quy định quyền và nghĩa vụ của người được thông báo: trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo người được thông báo phải nộp cho Toà án văn bản bản ghi ý kiến và các tài liệu chứng cứ kèm theo. Nếu có lý do chính đáng thì thời hạn này là 30 ngày.
Về vấn đề tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho các đương sự: Trong trường hợp các đương sự, người thân của đương sự không hợp tác và có thái độ chống đối thì sẽ phải làm các thủ tục để tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng của tòa án. Theo quy định tại khoản 3 Điều 154 Bộ luật TTDS thì thời gian niêm yết là 15 ngày kể từ ngày niêm yết. Cũng theo quy định thì Tòa án chỉ tiến hành giải quyết vụ án sau khi đã tiến hành tống đạt hợp lệ cho đương sự 2 lần. Các quy định này không phù hợp với những vụ kiện có nội dung đơn giản, rõ ràng, bị đơn không phản đối nghĩa vụ hoặc các vụ kiện có giá trị nhỏ.
Mặt khác, một vấn đề đặt ra là đối với mỗi văn bản tố tụng đều phải tống đạt cho đương sự theo phương thức và thời gian như trên mới được coi là hợp lệ (lưu ý là tất cả những công việc trên được làm ngay lập tức, chưa tính đến việc sau khi chuyển qua bưu điện, chính quyền địa phương, đương sự ở vùng xa… không có kết quả thì Tòa án mới tiến hành các thủ tục như đã nêu trên). Bên cạnh đó nhiều vụ án có rất nhiều đương sự, có nhiều người không hợp tác thì thời gian để thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng đương nhiên sẽ kéo dài hơn nhiều. Ngoài ra, vấn đề chứng minh, thu thập chứng cứ đối với tranh chấp khó khăn, phức tạp thì Tòa án cần phải có nhiều thời gian, nhất là trong những vụ việc phải định giá tài sản, chờ trả lời từ các cơ quan chức năng nơi đang quản lý, lưu giữ chứng cứ.
Các quy định về thời hạn, thủ tục thông báo thụ lý, tống đạt và thể hiện ý kiến của bên bị kiện cũng như vấn đề chứng minh, thu thập chứng cứ là phù hợp với những vụ việc có tranh chấp, bất đồng giữa các bên đương sự. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy đối với những loại việc nội dung đơn giản, rõ ràng thì Tòa án không phải mất nhiều thời gian để xác minh do vậy có thể rút ngắn thời hạn chuẩn bị cho việc xét xử và đơn giản hoá các bước về thủ tục không cần thiết.
Từ thực tiễn giải quyết các án kiện cho thấy đối với những loại việc kiện đòi thanh toán, thực hiện nghĩa vụ mà có chứng từ rõ ràng, bên bị kiện không phản đối thì trong vòng một tháng, Tòa án có thể tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ, thẩm định lại một cách chắc chắn giá trị chứng minh của các chứng cứ mà đương sự cung cấp cũng như các tình tiết khách quan của vụ kiện. Do vậy, quy định thời hạn chung cho việc chuẩn bị xét xử theo thủ tục rút gọn là không quá 30 ngày kể từ ngày Tòa án thụ lý vụ kiện là hợp lý.
Xét về thực tế sau khi thụ lý vụ kiện, từ những tài liệu, chứng cứ ban đầu mà nguyên đơn cung cấp trong khoảng 2 tuần Thẩm phán có thể xác định được việc kiện có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn hay không. Do vậy, nên quy định trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thụ lý vụ kiện nếu xét thấy có đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn thì Thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
Để tránh sự tuỳ tiện trong việc áp dụng thủ tục rút gọn cũng cần quy định một cơ chế để kiểm soát việc ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của Thẩm phán. Theo chúng tôi nên quy định sau khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, Thẩm phán phải chuyển giao bản sao quyết định này cho VKS cùng cấp và cho các đương sự. Sau khi nhận được quyết định các đương sự có quyền khiếu nại, VKS có quyền kiến nghị đối với quyết định này và Chánh án của Tòa án sơ thẩm đã thụ lý vụ kiện sẽ xem xét giải quyết trong thời hạn 5 ngày hoặc 10 ngày. Nếu khiếu nại, kiến nghị có cơ sở thì Chánh án sẽ ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của Thẩm phán và vụ kiện sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường. Nếu khiếu nại, kiến nghị không có cơ sở và quyết định áp dụng thủ tục rút gọn không bị hủy bỏ thì hết thời hạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán ra quyết định đưa vụ kiện ra xét xử theo thủ tục rút gọn.
Do vậy, đối với những loại việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn nên quy định thời hạn chuẩn bị cho việc mở phiên toà là trong vòng 30 ngày kể từ ngày Tòa án có quyết định đưa vụ kiện ra xét xử. Quy định thời hạn 30 ngày để chuẩn bị cho việc mở phiên toà là hợp lý vừa đảm bảo cho VKS có thể thực hiện được chức năng kiểm sát xét xử của mình đồng thời trong thời hạn đó Thẩm phán vẫn có thể tiếp tục củng cố hồ sơ, chuẩn bị cho việc giải quyết vụ kiện.
- Về việc xác minh, lập hồ sơ vụ kiện theo thủ tục rút gọn
Có thể thấy rằng những loại việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn là những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, tình tiết đơn giản. Đối với những loại vụ kiện này, thông thường các sự kiện của vụ tranh chấp đã được xác định rõ ràng thông qua các chứng cứ ban đầu mà nguyên đơn cung cấp và lời thừa nhận của bị đơn về các tình tiết của vụ kiện. Tòa án cũng không phải mất nhiều thời gian trong việc xác minh, nên cần quy định đối với những vụ kiện được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn thì Thẩm phán không cần tiến hành tất cả các biện pháp xác minh như đối với thủ tục thông thường.
- Về phiên toà xét xử vụ kiện theo thủ tục rút gọn
Theo quy định của pháp luật TTDS hiện hành, phiên toà sơ thẩm phải được tiến hành theo tuần tự các bước khai mạc, thẩm vấn, tranh luận, nghị án và tuyên án. Theo chúng tôi đối với những vụ kiện được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì không nhất thiết phải trải qua đầy đủ các bước như vậy.
Mục đích của xét xử là xác định sự thật khách quan, áp dụng đúng pháp luật để giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự. Nếu sự thật khách quan đã được xác định rõ ràng thì vấn đề chỉ là Thẩm phán áp dụng pháp luật để giải quyết mà thôi. Đối với những việc có chứng cứ rõ ràng, các tình tiết của vụ kiện đã được xác định, vụ việc không có tranh tụng thì không nhất thiết trường hợp nào phiên toà cũng phải trải qua các tuần tự các bước thẩm vấn, tranh luận, nghị án và tuyên án.
Nếu như nhất nhất phải tiến hành theo đầy đủ các bước về phiên toà như hiện nay thì trong nhiều trường hợp đó chỉ là việc làm mang tính hình thức. Chẳng hạn với những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ thì trong phần tranh luận các bên đương sự cũng không có gì để tranh luận với nhau. Thực ra tại phiên toà, Thẩm phán chỉ cần hỏi lại xem bị đơn có thay đổi quan điểm của mình không, nguyện vọng của các đương sự như thế nào, để một lần nữa có cơ sở chắc chắn cho việc quyết định.
Theo pháp luật TTDS hiện hành các vụ kiện được giải quyết theo thủ tục TTDS thông thường thì sau khi xét hỏi và tranh luận, các thành viên của HĐXX phải tiến hành thảo luận và nghị án. Việc giải quyết vụ kiện theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán độc lập tiến hành do vậy việc nghị án cũng không đặt ra.
Thiết nghĩ, đối với những vụ kiện mà các tình tiết khách quan đã được làm sáng tỏ, vụ kiện không có tranh tụng, vấn đề chỉ là ở chỗ Thẩm phán sẽ áp dụng pháp luật để giải quyết như thế nào mà thôi thì không nhất thiết phải trải qua đầy đủ các bước thẩm vấn, tranh luận, nghị án và tuyên án mà có thể giản lược những bước không cần thiết. Thực chất có thể xem đây như là một phiên đối chất để kiểm tra lại các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, trước khi Thẩm phán ra quyết định về vụ việc:
- Thẩm phán công bố lời khai cũng như các chứng cứ, tài liệu mà các bên đưa ra và chỉ xét hỏi thêm những điểm còn chưa rõ ràng.
- Trong phần tranh luận, nếu xét thấy cần thiết Thẩm phán sẽ cho các bên đương sự tranh luận về chứng cứ. Nếu các bên đương sự không có tranh luận về chứng cứ thì trong phần này Thẩm phán chỉ cần yêu cầu các bên đề xuất hướng giải quyết vụ kiện.
- Sau khi các bên đương sự đã đề xuất ý kiến của mình thì tuỳ theo từng vụ kiện, Thẩm phán có thể công bố ngay quyết định của Tòa án về việc giải quyết vụ kiện hoặc tuyên bố tạm ngừng phiên toà để xem xét, quyết định và công bố sau khi có kết quả chính thức.
Đối với loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ, nếu các đương sự đã được triệu tập mà không có mặt thì Thẩm phán vẫn có thể căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ để ra quyết định buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, quyết định này phải được tống đạt cho các đương sự, đặc biệt là bị đơn để họ biết và thể hiện quan điểm của mình về việc họ đồng ý hay phản đối quyết định giải quyết của Tòa án.
- Về nội dung phán quyết theo thủ tục rút gọn:
Thứ nhất, đối với loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ:
+ Đối với loại vụ kiện này trong phần trình bày sự việc chỉ cần ghi tóm tắt nội dung yêu cầu của nguyên đơn và nội dung mà bị đơn thừa nhận cũng như nguyện vọng của các bên.
+ Phần nhận định chỉ ghi những nét chính sau đây:
Các sự kiện mà nguyên đơn đưa ra là có thật hay không.
Đánh giá lời thừa nhận của bị đơn có tự nguyện hay không.
+ Sau cùng là phần quyết định của Tòa án.
Thứ hai, đối với loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật giải quyết mang tính hiển nhiên, vụ kiện có giá ngạch thấp:
Trong những trường hợp này ý kiến của các bên đương sự về việc giải quyết vụ kiện là không có sự thống nhất cho nên bản án của Tòa án phải đảm bảo chính xác và có sức thuyết phục đối với các bên đương sự. Do vậy bản án phải ghi đầy đủ, chi tiết tất cả các phần mở đầu, nội dung vụ kiện, nhận định, quyết định của Tòa án. Đặc biệt trong phần nhận định vẫn phải nêu được đánh giá của Tòa án cùng các chứng cứ, tài liệu để chứng minh, các căn cứ của việc quyết định.
- Về hiệu lực pháp luật của bản án theo thủ tục rút gọn:
Xét trong lịch sử lập pháp Việt Nam, đã có các quy định về cơ chế xét xử một lần, bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật ngay. Xét từ thực tế các loại việc được đề xuất giải quyết theo thủ tục rút gọn đều là những việc đơn giản, rõ ràng, việc áp dụng pháp luật giải quyết không khó khăn, phức tạp do vậy có cơ sở để tin cậy về tính chính xác, đúng pháp luật của bản án là kết quả của việc giải quyết vụ kiện theo thủ tục rút gọn. Nếu quy định đương sự có quyền kháng cáo đối với bản án của Tòa án khi vụ kiện được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì trong nhiều trường hợp đương sự sẽ lạm dụng quyền kháng cáo để kéo dài vụ kiện nhằm trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ. Trong những trường hợp này quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn không được bảo vệ kịp thời, gây tổn phí cho Nhà nước cả về nguồn lực con người và chi phí.
Để bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn vẫn cần thiết phải quy định phán quyết của Thẩm phán đối với những loại vụ kiện có những chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận nghĩa vụ, sẽ có hiệu lực pháp luật ngay. Có nghĩa là đối với những vụ kiện nói trên sau khi nhận đơn và xem xét tài liệu, chứng cứ thì Tòa án ra quyết định buộc bên bị đơn phải thi hành nghĩa vụ. Nếu bị đơn không phản đối trong một thời hạn nhất định thì quyết định này có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, việc nghiên cứu thiết lập một cơ chế chuyển hoá giữa thủ tục xét xử rút gọn và thủ tục thông thường cũng là một giải pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của các bị đơn “ngay tình” và “trung thực” chống lại sự lạm quyền của bên đi kiện.
Đối với loại vụ kiện có giá ngạch thấp thì để phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái của người Việt, tránh việc kiện tụng tuy rất nhỏ nhặt nhưng vẫn phải qua nhiều lần xét xử thì việc khôi phục lại các quy định về cơ chế xét xử một lần đối với những tranh chấp có giá ngạch thấp là rất cần thiết.
- Vấn đề thiết lập cơ chế chuyển hóa giữa thủ tục TTDS rút gọn sang thủ tục TTDS thông thường :
Vấn đề xây dựng cơ chế chuyển hoá từ thủ tục rút gọn sang thủ tục thông thường chỉ áp dụng đối với loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ. Trong quá trình giải quyết các vụ án nói trên, Tòa án có thể phát hiện vụ việc không có tính chất đơn giản, rõ ràng nữa hoặc bị đơn phản đối quyết định của Tòa án về việc giải quyết vụ việc theo thủ tục rút gọn của Tòa án. Thiết nghĩ, trong trường hợp này, chúng ta cần phải quy định việc chuyển hóa vụ án được xét xử theo thủ tục TTDS rút gọn sang thủ tục xét xử thông thường nhằm đảm bảo quyền của đương sự được xét xử bằng một HĐXX, quyền được kháng cáo đối với bản án của Tòa án. Việc thiết lập một cơ chế chuyển hóa giữa thủ tục xét xử rút gọn và thủ tục thông thường cũng là một giải pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của các bị đơn, chống lại sự lạm quyền của bên đi kiện.
Theo chúng tôi, cần quy định quyết định của Tòa án theo thủ tục rút gọn nếu không bị phản kháng trong một thời hạn nhất định sẽ có hiệu lực thi hành. Ngược lại, trong trường hợp người bị kiện phản đối quyết định này của Tòa án, thì vụ kiện sẽ lập tức được đưa ra xét xử theo thủ tục thông thường với một HĐXX. Thế nhưng, làm thế nào để chống lại việc bị đơn lạm dụng quyền kháng án nhằm trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ? Thiết nghĩ, việc xây dựng các quy định về hình phạt tiền đối với đương sự lạm dụng quyền kháng án và rút ngắn thời hạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm cũng là một giải pháp có tính khả thi để hóa giải việc lạm dụng quyền kháng án của các đương sự thiếu trung thực.
Dự thảo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS hiện nay (Dự thảo số 2) quy định “Bản án, quyết định của Tòa án giải quyết vụ kiện theo thủ tục đơn giản là chung thẩm và có hiệu lực thi hành ngay, đương sự không có quyền kháng cáo, VKS không có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm”. Cơ chể chuyển hoá giữa thủ tục TTDS rút gọn và thủ tục tố tụng thông thường như đã phân tích ở trên cũng đã được đề cập trong Dự thảo Luật này. Theo đó, khi một trong các bên đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục thông thường hoặc khi vụ án không còn có đủ các điều kiện quy định thì vụ án phải được chuyển sang giải quyết theo thủ tục xét xử thông thường.
Chuyên đề 12
VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN BẢO VỆ, QUYỀN TRANH TỤNG
CỦA ĐƯƠNG SỰ KHI XÂY DỰNG THỦ TỤC
TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
TS. Nguyễn Thị Thu Hà
Trường Đại học Luật Hà Nội
Theo quy định của BLTTDS năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2011 thì pháp luật TTDS Việt Nam mới chỉ quy định thủ tục giải quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự. Tuy nhiên, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành trung ương Đảng Khóa VIII, Nghị quyết số 08 - NQ/TƯ ngày 02/01/1002 của Bộ chính trị đã chỉ rõ: “Nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục rút gọn đối với những vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng…”. Vậy thế nào là thủ tục rút gọn? Về vấn đề này, một số nhà nghiên cứu cho rằng “thủ tục giải quyết việc dân sự được quy định từ Điều 311 đến Điều 341 BLTTDS năm 2004 chính là thủ tục rút gọn” ([221]). Qua nghiên cứu cho thấy thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục TTDS rút gọn là hai thủ tục khác nhau. Bởi lẽ, thứ nhất, nếu thủ tục giải quyết việc dân sự trong BLTTDS là thủ tục TTDS rút gọn thì tại sao sau khi BLTTDS ra đời Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02/06/2006 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 vẫn tiếp tục khẳng định: “…xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có một số điều kiện nhất định”. Thứ hai, qua tham khảo pháp luật TTDS một số nước trên thế giới như Pháp, Mỹ, Nga, Trung quốc, Nhật Bản… cho thấy thủ tục giải quyết việc dân sự chỉ là một thủ tục TTDS đặc biệt chứ không phải là thủ tục TTDS rút gọn.
Có thể thấy, ở Việt nam thủ tục TTDS rút gọn chưa được quy định nhưng thực tiễn xét xử trong những năm qua đã chứng minh có rất nhiều các vụ việc đơn giản nhưng Tòa án vẫn phải tiến hành giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường. Chẳng hạn, “ở các đô thị lớn như TP.HCM, trung bình một thẩm phán một tháng phải giải quyết từ 10 vụ việc trở lên. Trong số đó, có không ít trường hợp tranh chấp đơn giản, các bên đều thừa nhận và mong tòa giải quyết nhanh…, đương sự chỉ chờ một phán quyết của Tòa án để thực hiện việc thi hành án bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho họ. Nhưng tòa không thể đưa ra xét xử ngay vì một trong các nguyên nhân là thẩm phán sợ nếu không tiến hành đầy đủ các bước lấy lời khai, hòa giải… như luật định, dù không cần thiết thì cũng có thể bị hủy, sửa án ([222]). Vì vậy, để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, có thể làm bạn với mọi quốc gia trong cộng đồng thế giới cũng như tạo điều kiện khuyến khích đầu tư thì việc nghiên cứu xây dựng thủ tục TTDS rút gọn là cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu tính nhanh chóng, linh hoạt, đơn giản và đem lại hiệu quả kinh tế cao của thủ tục TTDS đồng thời là một giải pháp quan trọng góp phần làm giảm tình trạng gia tăng, tồn đọng án cũng như làm giảm áp lực công việc cho các thẩm phán.
Tuy nhiên, nếu chúng ta xây dựng thủ tục TTDS rút gọn tức là xây dựng một thủ tục tố tụng đơn giản hơn so với thủ tục tố tụng thông thường về thời hạn, thành phần HĐXX và trình tự các bước Tòa án tiến hành giải quyết thì vẫn phải bảo đảm giải quyết vụ án chính xác và đúng pháp luật, bảo đảm quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của các đương sự. Trong phạm vi chuyên đề này, tôi xin đề cập đến một số vấn đề sau:
1. VỀ VẤN ĐỀ CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
Đối với các vụ án dân sự được giải quyết theo thủ tục thông thường thì chứng cứ là vấn đề mấu chốt, quan trọng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án bởi vì nếu không có chứng cứ thì các bên đương sự không thể thực hiện quyền tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, việc cung cấp, xác minh, thu thập chứng cứ trong vụ án dân sự cần phải được tiến hành theo một trình tự thủ tục chặt chẽ. Tuy nhiên, đối với các vụ án được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn thì việc cung cấp, thu thập chứng cứ được thực hiện như thế nào?
Về vấn đề này pháp luật TTDS của Liên Bang Nga quy định khi yêu cầu Tòa án ra lệnh thì người yêu cầu phải cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tòa án chỉ có trách nhiệm xem xét các chứng cứ, tài liệu mà người yêu cầu xuất trình có đủ căn cứ để ra lệnh hay không?Nếu người yêu cầu không xuất trình được chứng cứ, tài liệu làm cơ sở cho yêu cầu hoặc từ đơn yêu cầu và tài liệu xuất trình cho thấy có sự tranh chấp về quyền yêu cầu thì Tòa án từ chối nhận đơn giải quyết theo TTDS rút gọn (Khoản 1 Điều 125 BLTTDS Liên bang Nga). Nếu Tòa án kiểm tra, xem xét các chứng cứ, tài liệu mà người yêu cầu xuất trình thấy có đủ cơ sở thì Tòa án ra lệnh mà không cần phải mở phiên tòa, không phải triệu tập các đương sự để nghe giải thích của họ.
Theo pháp luật TTDS Đài Loan hay pháp luật TTDS Trung Quốc đều cho rằng bên cạnh nghĩa vụ chứng minh của đương sự thì Tòa án vẫn có thể áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ cần thiết để giải quyết vụ án chính xác. Tuy nhiên, việc thực hiện các biện pháp thu thập này theo một thể thức đơn giản hơn thủ tục tố tụng thông thường. Chẳng hạn, pháp luật TTDS Đài Loan quy định việc Tòa án triệu tập người làm chứng, giám định viên thông qua bất cứ cách nào thuận tiện nhất chứ không phải qua trát đòi, tuy nhiên nếu không đến Tòa theo sự triệu tập thì Tòa án ra trát đòi ([223]). Còn pháp luật TTDS Trung Quốc thì quy định đối với các vụ án đơn giản, sự việc rõ ràng, mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ đã rõ ràng, tranh chấp không gay gắt thì Tòa án có thể áp dụng cách thức đơn giản, lúc nào cũng có thể gọi đương sự, nhân chứng (Điều 144 BLTTDS Trung Hoa).
Như vậy, có thể thấy việc chứng minh đối với các vụ kiện giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn ở các nước mặc dù không hoàn toàn giống nhau nhưng đều tiến hành theo trình tự đơn giản, nhanh chóng, hiệu quả nhưng vẫn bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Qua nghiên cứu pháp luật TTDS nước ngoài và thực tiễn xét xử của Việt Nam, có thể thấy việc chứng minh đối với các vụ án giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn vẫn cần phải được thực hiện. Cụ thể:
- Đối với vụ án chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ thì đây là những vụ việc mà các bên đương sự đã xuất trình cho Tòa án đầy đủ các chứng cứ, tài liệu. Do đó, Tòa án không cần phải thu thập thêm chứng cứ mà chỉ cần xem xét, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên, để kiểm tra, xác minh và đánh giá chứng cứ cũng như giải quyết vụ án một cách chính xác thì Tòa án vẫn phải sử dụng các phương pháp thu thập chứng cứ cần thiết như lấy lời khai của đương sự, người làm chứng, đối chất, xem xét, thẩm định tại chỗ…
Như vậy, khi các đương sự đưa ra yêu cầu Tòa án buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ đã rõ ràng nhưng lại không xuất trình được chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình thì Tòa án sẽ không thụ lý và các đương sự có quyền khởi kiện theo thủ tục TTDS thông thường hoặc từ đơn yêu cầu hay chứng cứ xuất trình phát hiện thấy có sự tranh chấp về quyền yêu cầu, chứng cứ thì Tòa án không chấp nhận giải quyết vụ án theo thủ tục TTDS rút gọn mà chuyển sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường. Nếu chứng cứ đầy đủ, hợp pháp thì Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ.
- Đối với vụ án có sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp hoặc vụ án có giá trị nhỏ thì đây là những vụ án các đương sự chưa có sự thống nhất ý chí về chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ nên các bên cần phải chứng minh, tranh luận. Do đó, việc chứng minh của các đương sự cũng như việc thu thập chứng cứ của Tòa án vẫn cần phải được tiến hành theo thủ tục TTDS thông thường.
2. VỀ PHIÊN TÒA XÉT XỬ VÀ VIỆC TRIỆU TẬP CÁC ĐƯƠNG SỰ ĐẾN THAM GIA PHIÊN TÒA XÉT XỬ THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
Về nguyên tắc, để các đương sự có thể bảo vệ được tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như Tòa án ra được một bản án, quyết định đúng đắn và chính xác thì Tòa án phải mở một phiên tòa, phiên họp công khai với sự có mặt của tất cả những người tham gia tố tụng. Tại phiên tòa, phiên họp các đương sự, những người tham gia tố tụng khác được thực hiện quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của mình một cách trực tiếp và bằng lời nói. Các đương sự đều phải được trực tiếp trình bày các yêu cầu, đưa ra các chứng cứ, căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, đối với các vụ án được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn thì có cần thiết phải mở phiên tòa để các đương sự tranh tụng công khai hay không? Nếu cần thiết phải mở phiên tòa để đảm bảo bản án, quyết định căn cứ vào kết quả tranh tụng công khai của những người tham gia tố tụng và các chứng cứ được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa thì các bước trong phiên tòa có cần thiết được tiến hành tuần tự và đầy đủ như phiên tòa giải quyết vụ án thông thường không? Nếu phải mở phiên tòa mà các đương sự vắng mặt trong phiên tòa thì hoãn phiên tòa hay vẫn xét xử có phải tuân theo thủ tục tố tụng thông thường không?
Về vấn đề này, các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý cũng đưa ra các ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, khi giải quyết án dân sự theo thủ tục rút gọn, tòa ban hành lệnh (hay quyết định) mà không cần phải mở phiên tòa và cũng không cần triệu tập các bên đương sự. Ý kiến khác lại cho rằng, tình hình ở nước ta khác nên vẫn cần phải mở phiên tòa để nghe các bên đương sự trình bày, giải thích hay đối chiếu xem có mâu thuẫn hay sự giả mạo về giấy tờ hay không. Phiên xử này vẫn phải tiến hành các bước như thủ tục thông thường([224]).
Ý kiến thứ nhất sẽ đáp ứng được tính nhanh chóng, linh hoạt, đơn giản và đem lại hiệu quả kinh tế cao của thủ tục TTDS nhưng chỉ thích hợp đối với các vụ án chứng cứ đã rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (như đương sự xuất trình các chứng cứ bằng văn bản mà bị đơn cũng thừa nhận các chứng cứ này). Đối với các vụ án khác như vụ kiện có giá ngạch thấp, vụ kiện có tình tiết đơn giản, chứng cứ chứng minh rõ ràng, việc áp dụng pháp luật không khó khăn và phức tạp thì đây là vụ án mà các bên không có sự thống nhất ý chí về chứng cứ, cách giải quyết vụ án nên việc không mở phiên tòa sẽ không bảo đảm quyền bảo vệ của các đương sự.
Ý kiến thứ hai thì việc mở phiên tòa và thực hiện đầy đủ các bước trong phiên tòa như thủ tục TTDS thông thường sẽ đáp ứng được việc bảo đảm quyền tranh tụng của các đương sự nhưng trong những vụ án tình tiết đơn giản, chứng cứ chứng minh rõ ràng, thẩm phán chỉ cần thẩm định lại sự việc để áp dụng pháp luật giải quyết vụ án thì phiên tòa tiến hành đầy đủ các bước là không cần thiết, không đáp ứng được tính nhanh chóng, linh hoạt và đơn giản của thủ tục TTDS rút gọn.
Tham khảo pháp luật TTDS của các nước trên thế giới cho thấy các nước quy định không hoàn toàn giống nhau về vấn đề này. Chẳng hạn theo pháp luật TTDS Cộng hòa Pháp thì thủ tục ra lệnh (ra lệnh thanh toán và lệnh buộc làm một công việc) được áp dụng đối với các vụ án có chứng cứ rõ ràng được quy định tại Điều 1405 và Điều 1425 - 1 BLTTDSP. Theo đó, theo yêu cầu của chủ nợ, nếu không có đủ chứng cứ thẩm phán sẽ bác đơn. Chủ nợ không được kháng cáo quyết định này nhưng có quyền khởi kiện theo thủ tục thông thường. Nếu thẩm phán chỉ chấp nhận một phần thì chủ nợ cũng không được kháng cáo nhưng có quyền không tống đạt lệnh của tòa cho con nợ và có quyền khởi kiện theo thủ tục thông thường. Nếu có đủ chứng cứ thì thẩm phán sẽ ra lệnh trả số tiền được yêu cầu (Điều 1409 BLTTDSP). Như vậy, lệnh thanh toán được đưa ra không cần mở phiên tòa, không cần triệu tập các đương sự. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của các đương sự, đảm bảo đưa ra thi hành lệnh đúng đắn và chính xác thì pháp luật TTDS Pháp cho phép người mắc nợ được phản kháng lệnh trả nợ trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày tống đạt quyết định của Tòa án (Điều 1412, 1416 BLTTDSP). Đơn kháng án có hiệu lực yêu cầu Tòa án xem xét lại đơn yêu cầu thu hồi của chủ nợ và giải quyết tòan bộ tranh chấp (Điều 1413 BLTTDSP). Với yêu cầu phản kháng này Tòa án sẽ mở phiên tòa xét xử, tất cả các bên kể cả những người không kháng án đều được triệu tập đến tham gia phiên tòa. Nếu không bên nào có mặt thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định này làm vô hiệu quyết định buộc thanh toán nợ. Nếu các bên có mặt thì Tòa án xét xử và ra bản án. Bản án thay thế lệnh thanh toán nợ và có thể bị kháng cáo nếu số tiền yêu cầu vượt quá thẩn quyền sơ chung thẩm của Tòa án (Điều 1417 đến Điều 1421 BLTTDSP). Trong trường hợp con nợ không phản kháng trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày tống đạt lệnh bắt trả nợ thì lệnh có hiệu lực thi hành và không bị kháng cáo (Điều 1423 BLTTDSP).
Đối với lệnh buộc thực hiện một công việc thì theo Điều 1425 - 4 BLTTDSP thì nếu thấy đơn có căn cứ, thẩm phán ra quyết định bắt buộc thực hiện trái vụ, quyết định này có hiệu lực thi hành ngay, không được phản kháng. Trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ lệnh thi hành nghĩa vụ không được thực hiện, Tòa án sẽ xét xử theo yêu cầu của nguyên đơn sau khi hòa giải không thành (Điều 1425 - 8 BLTTDSP). Nếu thẩm phán bác đơn, nguyên đơn không được phản kháng nhưng có quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng thông thường (Điều 1429 - 9 BLTTDSP).
Pháp luật TTDS của Liên Bang Nga quy định việc xét xử theo thủ tục rút gọn chính là thủ tục ra lệnh của Tòa án đối với các yêu cầu đòi nợ hoặc đòi lại tài sản khi có những căn cứ nhất định (Điều 122 BLTTDS Liên Bang Nga) (BLTTDSN). Thẩm phán được phân công giải quyết khi thấy vụ án có đủ điều kiện mà pháp luật quy định thì ra lệnh thi hành trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu. Lệnh của Tòa án được ban hành không cần phải mở phiên tòa xét xử và không phải triệu tập các bên để nghe lời giải thích của họ (Điều 126 BLTTDSN). Tuy nhiên, khác với pháp luật TTDS Pháp thì khi người có nghĩa vụ phản đối lệnh trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được bản sao thì các bên có quyền khởi kiện tranh chấp đó theo thủ tục chung (Điều 128, 129 BLTTDSN). Bởi vì lúc này tranh chấp là có thật, cần được giải quyết theo thủ tục chặt chẽ, cần chứng minh, cần tranh luận, nghĩa là cần thực hiện theo thủ tục TTDS chung.
Theo pháp luật TTDS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì thủ tục TTDS rút gọn được áp dụng đối với những vụ án dân sự đơn giản, sự việc rõ ràng, mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ đã rõ ràng, tranh chấp không gay gắt (Điều 142 BLTTDS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa) (BLTTDSTH). Khi xét xử các vụ án này theo thủ tục TTDS rút gọn thì vẫn mở phiên tòa nhưng không bắt buộc phải thông báo trước cho đương sự ngày mở phiên tòa, phiên tòa cũng không bắt buộc phải thực hiện đầy đủ và tuần tự các bước như thủ tục xét xử thông thường mà có thể linh hoạt (Điều 145 BLTTDSTH).
Giống như pháp luật TTDS của Pháp, Nga thì pháp luật TTDS Đài Loan cũng quy định trong trường hợp đương sự yêu cầu Tòa án buộc con nợ thanh toán nợ thì với những chứng cứ, tài liệu đương sự xuất trình, Tòa án xét thấy đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu, Tòa án ra lệnh buộc bên có nghĩa vụ trả tiền hoặc chuyển tiền cho chủ nợ mà không phải thông qua thủ tục tố tụng nào khác. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày bên có nghĩa vụ nhận được lệnh buộc trả tiền mà không phản đối thì lệnh đó có hiệu lực như một bản án có hiệu lực pháp luật([225]). Còn đối với tranh chấp được quy định tại Điều 427 BLTTDS Đài Loan (BLTTDSĐL) thì việc xét xử do một thẩm phán tiến hành qua một phiên tòa nhanh gọn. Nếu một bên đương sự vắng mặt ở phiên tòa mà không có lý do chính đáng thì Tòa án chấp nhận yêu cầu của bên có mặt. Tòa án có thể tuyên án và ghi chép phần nội dung, nhận định và quyết định của Tòa án vào biên bản phiên tòa mà không cần viết thành một bản án([226]).
Như vậy, có thể thấy việc mở hay không mở phiên tòa xét xử giải quyết vụ kiện theo thủ tục TTDS rút gọn ở các nước mặc dù không hoàn toàn giống nhau nhưng đều đảm bảo yếu tố nhanh gọn, linh hoạt, hiệu quả nhưng vẫn bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Qua nghiên cứu pháp luật TTDS nước ngoài và thực tiễn xét xử của Việt Nam, có thể thấy việc mở hay không mở phiên tòa nên căn cứ vào tính chất của từng loại vụ án được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn. Cụ thể:
- Đối với vụ án chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ. Đây là những vụ án mà nghĩa vụ phải thực hiện của bị đơn là rõ ràng, không còn gì phải tranh tụng nhưng do bị đơn cố tình không thực hiện nghĩa vụ nên nguyên đơn đã yêu cầu Tòa án buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Do đó, đối với vụ án này sau khi thẩm phán được phân công xem xét thấy rằng chứng cứ đầy đủ cũng như sự thừa nhận của bị đơn là xuất phát từ ý chí tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội, thẩm phán ra lệnh buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ mà không cần phải mở phiên tòa xét xử. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của bị đơn thì lệnh buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ phải có thời hạn nhất định để cho bị đơn phản đối. Khi bị đơn phản đối lệnh của Tòa án có nghĩa là các bên đã không có sự thống nhất ý chí về việc thực hiện nghĩa vụ của bị đơn. Trong trường hợp này, nguyên đơn không cần thiết phải khởi kiện lại vụ án để yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục TTDS thông thường bởi như vậy chỉ làm kéo dài thêm thời gian giải quyết vụ án. Vì vậy, để Tòa án có thể ra phán quyết công bằng, chính xác, đúng pháp luật đồng thời tiết kiệm được thời gian, chi phí tố tụng thì khi bị đơn phản đối lệnh buộc thực hiện nghĩa vụ, Tòa án sẽ mở phiên tòa để các đương sự tranh tụng công khai, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Phiên tòa xét xử cần triệu tập đầy đủ các bên đương sự đến tham gia tố tụng. Trong trường hợp các bên vắng mặt trong phiên tòa thì việc xét xử hay hoãn phiên tòa được thực hiện theo thủ tục tố tụng thông thường để đảm bảo quyền tham gia phiên tòa. Phiên tòa cũng được tiến hành theo các bước như thủ tục tố tụng thông thường.
Vì vậy, đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ thì để vừa đảm bảo tính nhanh chóng, hiệu quả vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự thì việc xét xử vụ án này được thực hiện như sau:
+ Nếu yêu cầu của nguyên đơn không đủ căn cứ thì thẩm phán trả lại đơn yêu cầu. Nguyên đơn khởi kiện vụ án theo thủ tục tố tụng thông thường.
+ Nếu yêu cầu của nguyên đơn có đủ căn cứ thì thẩm phán ra lệnh bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ mà không cần mở phiên tòa. Lệnh này bị đơn có quyền phản đối trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được lệnh của Tòa án. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu phản đối của bị đơn thì thẩm phán sẽ quyết định mở phiên tòa xét xử. Phiên tòa xét xử cần triệu tập đầy đủ các bên đương sự đến tham gia tố tụng. Trong trường hợp các bên vắng mặt trong phiên tòa thì việc xét xử hay hoãn phiên tòa được thực hiện theo thủ tục tố tụng thông thường. Bản án của Tòa án sẽ thay thế lệnh buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ.
+ Trong trường hợp trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được lệnh của Tòa án mà bị đơn không phản đối thì lệnh của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
- Đối với vụ án có sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp hoặc vụ án có giá trị nhỏ thì đây là những vụ án mà bị đơn không thừa nhận nghĩa vụ và cho rằng bị đơn không có nghĩa vụ đối với nguyên đơn hoặc hành vi của bị đơn không phải là hành vi vi phạm pháp luật hoặc vụ án có giá trị nhỏ thì các đương sự chưa có sự thống nhất ý chí về chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ nên các bên cần được trình bày công khai yêu cầu, chứng cứ, tài liệu và lý lẽ, lập luận của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án. Vì vậy, Tòa án cần phải mở phiên tòa xét xử để các đương sự được tranh tụng công khai, cần triệu tập đầy đủ các đương sự tham gia phiên tòa. Tuy nhiên, đây là các vụ án mà các tình tiết, sự kiện của vụ án đã được xác định rõ ràng. Chứng cứ trong vụ án đó đã đầy đủ, rõ ràng để chứng minh cho yêu cầu, phản đối yêu cầu của các đương sự là có căn cứ và hợp pháp. Với tình tiết rõ ràng và chứng cứ đầy đủ như vậy thì việc áp dụng pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng để giải quyết là điều dễ dàng. Còn đối với các vụ án có giá trị nhỏ thì thông thường đều là vụ án đơn giản, sự việc đã rõ ràng. Trong những vụ án này, sự thật của vụ án đã được làm sáng tỏ, thẩm phán chỉ áp dụng pháp luật để giải quyết mà thôi nên phiên tòa không nhất phải trải qua tuần tự các bước như thủ tục thông thường.
Vì vậy, tùy vào từng vụ án cụ thể mà phiên tòa xét xử vụ án theo thủ tục TTDS rút gọn không bắt buộc phải tiến hành tuần tự các bước của thủ tục TTDS thông thường mà có thể bỏ qua các bước không cần thiết.
Ngoài ra, đối với vụ án có sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp hoặc vụ án có giá trị nhỏ thì khi các đương sự vắng mặt trong lần triệu tập thứ nhất thì Tòa án cần phải hoãn phiên tòa để đảm bảo quyền tham gia phiên tòa của các đương sự. Dù rằng là những vụ án rõ ràng hoặc có giá trị thấp nhưng đây vẫn là các trường hợp các đương sự có tranh chấp với nhau, chưa có sự thống nhất ý chí nên các đương sự vẫn cần được tranh tụng công khai, được trực tiếp trình bày các yêu cầu, đưa ra các chứng cứ, căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, nếu các đương sự vắng mặt trong lần triệu tập thứ nhất mà Tòa án vẫn xét xử thì vô hình chung Tòa án đã tước đi quyền tranh tụng, quyền bảo vệ quyền lợi của các đương sự. Tuy nhiên, khi đương sự được Tòa án triệu tập lần thứ hai thì dù có hay không có lý do chính đáng thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Bởi vì, như đã phân tích đây là những vụ án đơn giản, sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết là rất dễ dàng nên để tránh sự lạm quyền của các đương sự cũng như đảm bảo việc giải quyết nhanh chóng thì Tòa án cần phải mở phiên tòa xét xử hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án tùy thuộc vào từng trường hợp đương sự vắng mặt đó là ai.
3. VỀ QUYỀN KHÁNG CÁO PHÚC THẨM ĐỐI VỚI BẢN ÁN CỦA TÒA ÁN GIẢI QUYẾT VỤ ÁN THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
Tòa án khi tiến hành xét xử đều căn cứ vào quy định của pháp luật để ra phán quyết nhưng suy cho cùng thì bản án, quyết định đều do thẩm phán quyết định nên vẫn có thể có thiếu sót, sai lầm. Vì vậy cần phải có biện pháp để sửa chữa, cần phải để cho một Tòa án cấp cao hơn với những thẩm phán có nhiều kinh nghiệm hơn xem xét lại nội dung vụ án một lần nữa. Có thể thấy việc để cho các đương sự được kháng cáo bản án sơ thẩm là để tránh những sai sót có thể có trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, bảo đảm các bản án, quyết định trước khi đưa ra thi hành là các bản án, quyết định chính xác và đúng pháp luật, qua đó bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, đối với bản án, quyết định giải quyết vụ án theo thủ tục TTDS rút gọn thì các đương sự có quyền kháng cáo hay không còn có nhiều ý kiến khác nhau.
Quan điểm thứ nhất: các vụ án đơn giản, giá trị tranh chấp nhỏ, chứng cứ rõ ràng thì phán quyết của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị xét xử lại ở Tòa án cấp phúc thẩm([227]).
Quan điểm thứ hai: nếu bản án có hiệu lực pháp luật ngay thì có nghĩa chỉ có một cấp xét xử, không phù hợp quy định hiện hành. Chưa kể, việc xét xử của cấp sơ thẩm hiện vẫn còn rất nhiều hạn chế, vẫn cần duy trì nguyên tắc hai cấp xét xử([228]).
Tham khảo vấn đề này ở các nước trên thế giới đều thấy có quy định về những bản án, quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn không bị kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm hoặc bị hạn chế quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. Chẳng hạn, ở Mỹ những vụ án có giá ngạch thấp được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn thì đương sự không có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm ([229]). Hoặc theo quy định tại Điều 160, 161 BLTTDSTH thì bản án sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự đơn giản, sự việc rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận nghĩa vụ có hiệu lực pháp luật ngay, đương sự không có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.
Như vậy, những bản án, quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án theo thủ tục TTDS rút gọn sau khi tuyên có hiệu lực pháp luật ngay và không bị kháng cáo phúc thẩm đã được quy định trong pháp luật TTDS và được áp dụng tương đối phổ biến, rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, vấn đề này được quy định trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Hiện nay, khi chúng ta khôi phục lại thủ tục TTDS rút gọn thì việc các đương sự có được kháng cáo bản án sơ thẩm hay không phải đặt trong mối quan hệ giữa bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự với tính hợp lí về thời hạn tố tụng và hiệu quả của công tác xét xử. Để giải quyết vấn đề đó, chúng ta cần căn cứ vào tính chất của vụ án để xác định những bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.
- Vụ án có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ thì như đã phân tích đây là nghĩa vụ đương nhiên của bị đơn, bị đơn đã thừa nhận nghĩa vụ của mình nhưng bị đơn không chịu thực hiện nghĩa vụ nên nguyên đơn cần một lệnh của Tòa án để buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ đương nhiên này. Tuy nhiên, để đương sự thực hiện quyền tự định đoạt, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như hạn chế sự lạm quyền của thẩm phán thì bị đơn có quyền phản đối lệnh của Tòa án trong thời hạn nhất định và Tòa án sẽ mở phiên tòa xét xử để cho các đương sự được tranh tụng công khai. Bản án của Tòa án trong trường hợp này sẽ thay thế lệnh của Tòa án và có hiệu lực pháp luật như bản án giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường tức là đương sự có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. Dĩ nhiên, người kháng cáo phải có trách nhiệm đối với kháng cáo của mình. Người kháng cáo chỉ kháng cáo khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình không được Tòa án cấp sơ thẩm bảo vệ. Còn trong trường hợp đương sự kháng cáo nhằm mục đích trì hoãn việc thi hành án gây thiệt hại đến quyền lợi của các đương sự khác hoặc kháng cáo “cầu may” thì người kháng cáo phải chịu trách nhiệm đối với hành vi lạm quyền kháng cáo của mình. Bởi vì “lạm quyền kháng cáo có thể gây trở ngại cho việc thực hiện công lí, thậm chí nó có thể làm tê liệt hoạt động của hệ thống cơ quan tài phán nếu Tòa án cứ phải xét xử những vụ việc không đâu vào đâu cả”([230]). Việc quy định người kháng cáo phải chịu trách nhiệm đối với hành vi lạm quyền kháng cáo của mình phải hợp lí, phải có cơ sở để khẳng định người kháng cáo đã cố tình kháng cáo gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như gây thiệt hại cho các đương sự khác chứ không các quy định này lại trở thành rào cản cho việc kháng cáo của các đương sự. Đúng như Thẩm phán Tòa sơ thẩm Thẩm quyền rộng Paris, Bà Marie - Laure Dallery đã nói: “cần phải tìm ra cho được điểm cân đối giữa việc trừng phạt những người lạm quyền kháng cáo và đảm bảo quyền tiếp cận công lí của công dân... Do đó, để trừng phạt một người, ta cần phải chứng minh được rằng người đó đã lạm quyền kháng cáo”([231]). Vì vậy, cần bổ sung quy định phạt tiền đối với người lạm quyền kháng cáo nhằm trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ khi có căn cứ người kháng cáo cố tình kháng cáo không có căn cứ.
- Vụ án có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật không có khó khăn và phức tạp thì như đã phân tích ở trên đây là trường hợp mặc dù không có sự thừa nhận của bị đơn về nghĩa vụ phải thực hiện nhưng có chứng cứ rõ ràng, các sự kiện đã được xác định, Tòa án chỉ việc căn cứ vào các quy định của pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng để giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, nếu đương sự có kháng cáo thì với những chứng cứ đã rõ ràng như vậy thì việc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm cũng không có gì thay đổi. Do đó, để tiết kiệm, thời gian và chi phí tố tụng cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật ngay, các đương sự không có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, nếu các đương sự cho rằng phán quyết của Tòa án là không chính xác thì có thể khiếu nại đến những người có thẩm quyền để những người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
- Vụ án có giá ngạch thấp thì đây là những vụ rất nhỏ nhặt, lợi ích bảo vệ không lớn và thường là do mâu thuẫn cá nhân, tư thù… mà đương sự nhiều khi cố tình khởi kiện ra Tòa án hoặc cố tính kháng cáo để thể hiện là mình theo kiện đến cùng hoặc gây khó khăn cho đương sự phía bên kia. Do đó, so sánh giữa “một bên là những lợi ích không lớn cần phải bảo vệ và một bên là những hao tổn về thời gian, sức lực, những chi phí tốn kém của Nhà nước và của các đương sự nếu việc giải quyết vụ kiện phải trải qua nhiều cấp xét xử”([232]) thì việc các đương sự không được kháng cáo bản án sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm sẽ mang lại hiệu quả của công tác xét xử. Hơn nữa, các vụ án dân sự tại Tòa án ngày càng gia tăng về số lượng và trở nên phức tạp thì thẩm phán cần tập trung thời gian, trí lực cho việc giải quyết các vụ án dân sự phức tạp hơn là đi giải quyết những vụ án nhỏ nhặt. Do đó, đối với vụ án có giá ngạch thấp thì không nên để cho các đương sự có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.
Vì vậy, đối với vụ án chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ thì khi Tòa án ra lệnh buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ thì bị đơn có quyền phản đối lệnh của Tòa án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được lệnh. Nếu bị đơn không phản đối thì lệnh có hiệu lực pháp luật. Nếu bị đơn phản đối lệnh của Tòa án thì Tòa án sẽ mở phiên tòa để ra bản án. Bản án này có hiệu lực như bản án sơ thẩm được giải quyết theo thủ tục TTDS thông thường tức là các đương sự có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, đương sự phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kháng cáo của mình. Trong trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm mà có căn cứ người kháng cáo cố tình kháng cáo không có căn cứ thì có thể bị phạt tiền, và có thể phải bồi thường thiệt hại nếu có yêu cầu.
Đối với vụ án có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật không có khó khăn và phức tạp hoặc vụ án có giá ngạch thấp thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật ngay, đương sự không được kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.
Chuyên đề 13
VỀ CƠ CHẾ KẾT HỢP HÒA GIẢI KHI GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
TS. Nguyễn Thị Thu Hà
Trường Đại học Luật Hà Nội
Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02/06/2006 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “…xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có một số điều kiện nhất định”. Định hướng này của Đảng đã được hiện thực hóa trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong lĩnh vực TTDS thì thủ tục rút gọn chưa được quy định. Do đó, việc nghiên cứu để xây dựng thủ tục TTDS là một đòi hỏi cấp thiết trong giai đoạn hiện nay đặc biệt khi Hiến pháp sửa đổi 2013 quy định rõ các nguyên tắc khi Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn (Khoản 1, 4 Điều 103 Hiến pháp sửa đổi 2013). Để có thể xây dựng được thủ tục TTDS rút gọn đòi hỏi cần giải quyết những vấn đề cơ bản như phạm vi những vụ án được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn; thời hạn, thành phần HĐXX, các bước tiến hành giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn. Tuy nhiên, trong phạm vi chuyên đề này tác giả chỉ đề cập đến vấn đề hòa giải có được thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn hay không?
1. KHÁI QUÁT VỀ CƠ CHẾ HÒA GIẢI KHI GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC RÚT GỌN Ở MỘT SỐ NƯỚC
Với mục đích đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cuộc sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự một cách nhanh nhất với thời gian ngắn nhất và thủ tục đơn giản nhất mà pháp luật TTDS của Cộng hòa Pháp quy định thủ tục rút gọn là thủ tục ra lệnh (ra lệnh thanh toán và lệnh buộc làm một công việc) được áp dụng đối với các vụ án có chứng cứ rõ ràng được quy định tại Điều 1405 và Điều 1425 - 1 BLTTDS Cộng hòa Pháp (BLTTDSP). Theo đó, theo yêu cầu của chủ nợ, nếu có đủ chứng cứ thì thẩm phán sẽ ra lệnh trả số tiền được yêu cầu (Điều 1409 BLTTDSP). Như vậy, lệnh thanh toán được đưa ra không cần triệu tập các đương sự để tiến hành hòa giải, không cần mở phiên tòa.
Đối với lệnh buộc thực hiện một công việc thì theo Điều 1425 - 4 BLTTDSP thì nếu thấy đơn có căn cứ, thẩm phán ra quyết định bắt buộc thực hiện trái vụ, quyết định này có hiệu lực thi hành ngay, không được phản kháng. Trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ lệnh thi hành nghĩa vụ không được thực hiện, Tòa án sẽ xét xử theo yêu cầu của nguyên đơn sau khi hòa giải không thành (Điều 1425 - 8 BLTTDSP).
Ngoài ra, đối với các vụ kiện có giá trị nhỏ, nếu các bên không tự hòa giải được với nhau thì thẩm phán phải tổ chức hòa giải trước khi chuyển sang xét xử về mặt nội dung([233]). Như vậy, đối với vụ kiện có giá ngạch thấp thì hòa giải là thủ tục bắt buộc trước khi đưa ra xét xử.
Pháp luật TTDS Liên Bang Nga cũng quy định việc xét xử theo thủ tục rút gọn chính là thủ tục ra lệnh của Tòa án đối với các yêu cầu đòi nợ hoặc đòi lại tài sản khi có những căn cứ nhất định (Điều 122 BLTTDS Liên Bang Nga) (BLTTDSN). Thẩm phán được phân công giải quyết khi thấy vụ án có đủ điều kiện mà pháp luật quy định thì ra lệnh thi hành trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu. Lệnh của Tòa án được ban hành không cần phải mở phiên tòa xét xử và không phải triệu tập các bên để nghe lời giải thích của họ (Điều 126 BLTTDSN). Điều này cũng có nghĩa Lệnh của Tòa án được ban hành không qua cần qua thủ tục hòa giải. Tuy nhiên, Lệnh chỉ có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành khi bên có nghĩa vụ chấp nhận. Còn khi bên có nghĩa vụ phản đối (thời hạn phản đối là 10 ngày kể từ ngày nhận được bản sao Lệnh) thì có nghĩa tranh chấp là có thật, cần được giải quyết theo thủ tục chặt chẽ, cần chứng minh, cần giải thích, cần hòa giải, tranh luận tức là theo thủ tục chung.
Theo pháp luật TTDS Nhật Bản thì thủ tục rút gọn là thủ tục yêu cầu thanh toán. Yêu cầu thanh toán được áp dụng đối với yêu cầu thanh toán tiền hoặc vật thay thế hoặc một số lượng nhất định những chứng khoán có thể chuyển nhượng. Yêu cầu thanh toán chỉ được áp dụng đối với các trường hợp có thể tống đạt trực tiếp mà không phải sử dụng đến việc niêm yết công khai (Điều 382 BLTTDS Nhật Bản). Tòa án ra lệnh thanh toán mà không cần thẩm vấn người có nghĩa vụ đồng thời ấn định thời hạn 2 tuần kể từ ngày người có nghĩa vụ được tống đạt yêu cầu để người có nghĩa vụ phản đối lệnh buộc thanh toán. Điều này có nghĩa việc ra lệnh này không cần tiến hành hòa giải mà chỉ là để các bên giải quyết tranh chấp thông qua con đường tự nguyện thừa nhận nghĩa vụ. Nếu trong thời hạn này bên có nghĩa vụ không phản đối thì Tòa án có thể ra lệnh trả nợ cùng với việc tuyên bố thi hành tạm thời. Nếu bên có nghĩa vụ không đồng ý với lệnh của Tòa án thì có thể phản đối lệnh của Tòa án và khi phản đối được Tòa án thụ lý thì vụ việc được chuyển sang thủ tục pháp lý thông thường.
Ngoài ra, pháp luật TTDS Nhật Bản còn quy định các vụ kiện nhỏ dưới 900.000 Yên được giải quyết theo thủ tục rút gọn ở Tòa Giản lược (Khoản 1 Điều 33 Luật Tổ chức Tòa án). Đây là các tranh chấp nhỏ liên quan đến cuộc sống hàng ngày của nhân dân nên hòa giải thường được ưu tiên áp dụng để giải quyết các vụ kiện này([234]).
Như vậy, có thể thấy điểm chung của pháp luật TTDS của một số nước là đối với thủ tục ra lệnh của Tòa án thì vì bị đơn đã tự nguyện thừa nhận nghĩa vụ do các chứng cứ đã rõ ràng thì Tòa án không phải tiến hành hòa giải. Còn đối với các vụ kiện có giá trị nhỏ thì để đáp ứng tính nhanh chóng, hiệu quả của thủ tục TTDS thì trước khi đưa ra xét xử về mặt nội dung Tòa án cũng giúp đỡ các đương sự hòa giải với nhau. Đây là những quy định có tính hợp lý, có giá trị cho chúng ta tham khảo trong quá trình nghiên cứu, xem xét hòa giải có nên áp dụng đối với các vụ án dân sự được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn hay không?
2. QUY ĐỊNH VỀ HÒA GIẢI ĐỐI VỚI VỤ ÁN DÂN SỰ ĐƯỢC GIẢI QUYẾT THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Ở Việt Nam, dưới thời Pháp thuộc, thủ tục đơn giản đã từng được áp dụng để giải quyết các vụ kiện nhỏ. Theo đó, các vụ kiện có giá ngạch thấp được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm([235]), các đương sự không được kháng cáo phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm (Khoản 3 Điều 6, Điều 7, Điều 13 Bắc kỳ pháp viện biên chế năm 1921). Tuy nhiên, đối với các vụ kiện này thì trước khi ra phán quyết về việc giải quyết vụ kiện, các thẩm phán phải tiến hành hòa giải. Điều 43 Bắc kỳ pháp viện biên chế quy định: “Phàm các việc kiện về quyền chung thẩm tòa sơ cấp theo như Điều 6 và Điều 7 và phàm các đơn khởi kiện tuy là thuộc thẩm quyền của tòa đệ nhị cấp, nhưng mà chưa từng do quan thẩm phán sơ cấp chiểu theo Điều 6 mà thử làm giải hòa thì quan chánh án tòa đệ nhị cấp, sau khi nhận được phải giao về cho quan thẩm phán sơ cấp”. Như vậy, các vụ kiện có giá ngạch thấp dù thuộc thẩm quyền của Tòa sơ cấp hay Tòa đệ nhị cấp đều phải hòa giải. Nếu hòa giải thành thì lập biên bản, biên bản này có giá trị pháp lý như công chứng thư của hai bên. Nếu hòa giải không thành thì lập biên bản về hòa giải không thành để làm căn cứ đưa vụ kiện ra xét xử (nếu vụ kiện thuộc thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm của tòa sơ cấp) hoặc chuyển lên tòa đệ nhị cấp để xét xử (Khoản 2 Điều 6 Bắc kỳ pháp viện biên chế).
Sau cách mạng tháng tám 1945, trong những văn bản đầu tiên của Nhà nước ta về TTDS như Sắc lệnh số 51/SL "ấn định thẩm quyền các TA và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án" ngày 17/4/1946 thì thủ tục đơn giản một lần nữa được áp dụng đối với những vụ kiện mà đối tượng tranh chấp là những tài sản có giá trị nhỏ([236]) và được thực hiện ở các Tòa án sơ cấp và Tòa án đệ nhị cấp (Điều 6, Điều 11 Sắc lệnh số 51/SL). Đối với các vụ kiện này trước khi đưa vụ án ra xét xử, thẩm phán sơ cấp phải tiến hành hòa giải. Biên bản hòa giải thành có hiệu lực công chứng thư (Điều 9, Điều 12 Sắc lệnh số 51/SL). Nếu hòa giải không thành thì thẩm phán đưa vụ án ra xét xử và bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật ngay.
Đến năm 1960 khi LTCTAND được ban hành thì việc xét xử hai cấp đã chính thức được ghi nhận thành một nguyên tắc do vậy cơ chế xét xử một lần (chung thẩm) không còn được áp dụng nữa, các đương sự có quyền kháng cáo đối với tất cả các bản án, quyết định sơ thẩm mà không có một sự hạn chế nào. Tuy nhiên, cơ chế xét xử sơ thẩm bằng một thẩm phán vẫn được áp dụng đối với loại việc nhỏ, đơn giản và không quan trọng (Điều 12 LTCTAND). Hơn nữa, đối với các vụ kiện này Tòa án bắt buộc phải tiến hành hòa giải trước khi đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Thẩm quyền, thủ tục, phạm vi hòa giải và hiệu lực của quyết định công nhận hòa giải thành được thực hiện theo Thông tư số 25-TATC ngày 30/11/1974 của TANDTC. Theo đó, TAND cấp huyện hay cấp tỉnh đều tiến hành hòa giải các vụ án dân sự trừ một số trường hợp pháp luật quy định không được hòa giải. Các đương sự có quyền ủy nhiệm cho người đại diện hợp pháp tham gia hòa giải trừ vụ án ly hôn. Tòa án triệu tập các đương sự đến tham gia hòa giải, nếu có người vắng mặt thì hoãn hòa giải để triệu tập lần hai đồng thời trong giấy triệu tập lại ghi rõ hậu quả pháp lý của việc vắng mặt lần hai. Khi Tòa án tiến hành hòa giải mà các đương sự hòa giải không thành thì thẩm phán lập biên bản hòa giải không thành rồi tiếp tục điều tra, lập hồ sơ để đưa vụ án ra xét xử. Nếu hòa giải thành thì thẩm phán lập biên bản hòa giải thành. Biên bản này chỉ có tác dụng xác nhận một sự việc chứ chưa có giá trị chấp hành. Tòa án ra quyết định công nhận hòa giải thành. Quyết định này có hiệu lực như bản án sơ thẩm hoặc bản án phúc thẩm.
Ở Miền Nam, BLDS thương sự tố tụng năm 1972 cũng quy định về thủ tục giản đơn được áp dụng đối với những vụ kiện có giá ngạch thấp. Theo đó, Tòa án hòa giải có quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm đối với những vụ kiện về động sản nếu giá ngạch của vụ kiện không quá 10.000 đồng; những vụ kiện về việc đòi lệ phí đã nộp hoặc trả các lệ phí sẽ phải nộp tại Tòa án (Điều 1 BLDS thương sự tố tụng). Tòa sơ thẩm có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ kiện về động sản mà yêu cầu tự 30.000 đồng đến 60.000 đồng dẫu cho có yêu cầu phản tố hay khấu trừ miễn là các thỉnh cầu sau không quá 60.000 đồng; vụ kiện mà yêu cầu phản tố đòi bồi thường thiệt hại quá 60.000 đồng thì yêu cầu chính bằng hay dưới giá ngạch này và nếu số tiền bồi thường không quá 60.000 đồng (Điều 16).
Đối với vụ kiện thuộc thẩm quyền của Tòa án hòa giải thì không bắt buộc phải qua giai đoạn hòa giải sơ khởi. Tuy nhiên, ngay phiên xét xử vụ kiện lần đầu, thẩm phán khuyến cáo các đương sự nên điều đình và thử hòa giải (Điều 41). Đối với vụ kiện thuộc thẩm quyền của tòa sơ thẩm thì chánh án tòa sơ thẩm sẽ thử hòa giải. Khi tiến hành hòa giải đương sự có thể ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia hòa giải. Nếu đương sự vắng mặt trong phiên hòa giải thì coi như không hòa giải được. Nếu các đương sự hòa giải thành thì thẩm phán lập biên bản, biên bản hòa giải thành có hiệu lực pháp luật, không một phương sách kháng án nào được chấp nhận (Điều 45, 46, 47). Nếu hòa giải không thành thì thẩm phán không lập biên bản mà ghi vào hồ sơ và định ngày mở phiên tòa xét xử (Điều 48).
Sau khi giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước năm 1975, Nhà nước ta xây dựng bản Hiến pháp mới năm 1980. Trên cơ sở Hiến pháp mới thì PLTTGQCVADS năm 1989 đã khôi phục lại thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm, nó thuộc thẩm quyền của TANDTC, được áp dụng đối với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp. Như vậy, so với trước đây, tính chất của vụ án được xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm đã hoàn toàn khác. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền con người và vì một xã hội công bằng, dân chủ những vụ án đặc biệt nghiêm trọng hoặc có tính chất phức tạp càng cần phải được xem xét một cách thận trọng và kỹ lưỡng trước khi đưa ra thi hành. Mặt khác, cho đến trước khi ban hành BLTTDS năm 2004 trong thực tiễn xét xử của Tòa án thì chưa có một vụ án dân sự nào được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Do đó, trong LTCTAND năm 2002 và BLTTDS năm 2004 đã bỏ thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm và thủ tục đơn giản cũng không còn tồn tại trong pháp luật hiện hành.
Có thể thấy, mặc dù pháp luật TTDS hiện hành không còn quy định về thủ tục giản đơn nhưng qua nghiên cứu pháp luật TTDS Việt nam trong từng thời kỳ đều thấy thủ tục TTDS rút gọn đã từng được áp dụng đối với các vụ án đơn giản, giá ngạch thấp đồng thời đối với vụ án này trước khi đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm Tòa án đều tiến hành hòa giải để giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau. Đây là quy định pháp luật hợp lý phù hợp với thực tiễn Việt Nam nên cần được khôi phục nhằm giải quyết vụ kiện một cách nhanh chóng, hiệu quả, tiết kiệm chi phí tố tụng.
3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ CƠ CHẾ KẾT HỢP HÒA GIẢI KHI GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành xây dựng Dự thảo Pháp lệnh Thủ tục rút gọn trong TTDS với mục tiêu tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết nhanh chóng một số loại tranh chấp có tính chất đặc thù trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân, gia đình, thương mại, lao động thì việc có hòa giải các vụ án dân sự được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn hay không còn có các ý kiến khác nhau.
Theo Luật sư Trần Công Ly Tao (Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP.HCM) cho rằng nên bỏ hẳn khâu hòa giải. Bởi lẽ một khi tình tiết, chứng cứ đã rõ, đã được các bên thừa nhận, không phản đối và không cần xác minh thì tòa hòa giải cũng bằng thừa.
Ý kiến khác lại cho rằng, khâu hòa giải là thủ tục bắt buộc cần thiết đối với án dân sự, không thể bỏ. Bởi lẽ nếu đương sự có thể thỏa thuận với nhau khi hòa giải thì có thể giải quyết còn nhanh hơn. Hơn nữa, việc tổ chức phiên hòa giải cũng không tốn quá nhiều thời gian, thẩm phán hoàn toàn có thể sắp xếp được để giải quyết cho phù hợp([237]).
Ý kiến thứ nhất rất phù hợp đối với các vụ án chứng cứ đã rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ bởi với những chứng cứ mà nguyên đơn xuất trình thì bị đơn đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn nên không cần phải hòa giải. Tuy nhiên, đối với các vụ án khác như vụ kiện có giá ngạch thấp, vụ kiện có tình tiết đơn giản, chứng cứ chứng minh rõ ràng, việc áp dụng pháp luật không khó khăn và phức tạp thì đây là vụ án mà các bên đang có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ thì việc bỏ qua thủ tục hòa giải để mở phiên tòa luôn lại làm cho quá trình tố tụng bị kéo dài, không đáp ứng được tính nhanh chóng và hiệu quả của thủ tục TTDS rút gọn.
Ý kiến thứ hai thích hợp với các tranh chấp đơn giản nhưng các bên chưa thống nhất được ý kiến về chứng cứ, về quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự thì việc hòa giải sẽ giúp các bên giải quyết tranh chấp mà không cần phải mở phiên tòa, tiết kiệm được thời gian, công sức và tiền của Nhà nước và các đương sư. Tuy nhiên, trong những vụ án chứng cứ đã rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (như đương sự xuất trình các chứng cứ bằng văn bản mà bị đơn cũng thừa nhận các chứng cứ này) thì hòa giải là không cần thiết, không đáp ứng được tính nhanh chóng, linh hoạt và đơn giản của thủ tục TTDS rút gọn.
Như vậy, có thể thấy việc Tòa án có tiến hành hòa giải đối với các vụ án dân sự được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn hay không nên căn cứ vào từng loại vụ án được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn để vừa đảm bảo tính nhanh chóng, linh hoạt, hiệu quả của thủ tục tố tụng nhưng vẫn bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Cụ thể:
- Đối với vụ án chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận hoặc các khoản phải thanh toán phát sinh từ các loại hợp đồng khác…): đây là trường hợp với những chứng cứ rõ ràng mà nguyên đơn xuất trình thì bị đơn đã tự nguyện thừa nhận nghĩa vụ của mình đối với nguyên đơn. Trong trường hợp này, nghĩa vụ của bị đơn là rõ ràng và nguyên đơn cần có một quyết định của Tòa án làm cơ sở để buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ. Hay nói cách khác, với sự thừa nhận của bị đơn thì giữa các đương sự đã không còn sự mâu thuẫn về chứng cứ cũng như về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự. Do đó, đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ thì thẩm phán không cần triệu tập các đương sự để tiến hành hòa giải mà thẩm phán chỉ cần xem xét thấy rằng chứng cứ đầy đủ cũng như sự thừa nhận của bị đơn là xuất phát từ ý chí tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội, thẩm phán ra lệnh buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của bị đơn thì lệnh buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ phải có thời hạn nhất định để cho bị đơn phản đối. Khi bị đơn phản đối lệnh của Tòa án có nghĩa là các đương sự đã có tranh chấp, mâu thuẫn về chứng cứ cũng như về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự. Đối với các tranh chấp, mâu thuẫn này cần phải được hòa giải, tranh luận, chứng minh để làm rõ về các tình tiết, sự kiện trong vụ án dân sự cũng như để các đương sự xác định những vấn đề đã thống nhất và những vấn đề chưa thống nhất tức là tranh chấp này cần được giải quyết theo trình tự, thủ tục tố tụng thông thường. Tuy nhiên, nguyên đơn không cần thiết phải khởi kiện lại vụ án để yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục TTDS thông thường bởi như vậy chỉ làm kéo dài thêm thời gian giải quyết vụ án. Do đó, để tiết kiệm thời gian, chi phí tố tụng, khi bị đơn phản đối lệnh buộc thực hiện nghĩa vụ thì vụ kiện được chuyển sang giải quyết theo thủ tục TTDS thông thường. Hay nói cách khác, vụ án lúc này cần được tiến hành hòa giải trước khi đưa vụ án ra xét xử. Nguyên tắc, phạm vi, trình tự, thủ tục hòa giải được thực hiện theo thủ tục chung.
Vì vậy, đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ thì để đảm bảo tính nhanh chóng, hiệu quả của thủ tục TTDS thì việc hòa giải vụ án này được thực hiện như sau:
+ Nếu yêu cầu của nguyên đơn không đủ căn cứ thì thẩm phán trả lại đơn yêu cầu. Nguyên đơn khởi kiện vụ án theo thủ tục tố tụng thông thường và hòa giải được thực hiện như khi Tòa án giải quyết các vụ án dân sự thông thường.
+ Nếu yêu cầu của nguyên đơn có đủ căn cứ thì thẩm phán ra lệnh bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ mà không cần phải hòa giải. Lệnh này bị đơn có quyền phản đối trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được lệnh của Tòa án. Khi bị đơn phản đối Lệnh của Tòa án thì thẩm phán sẽ triệu tập đầy đủ các bên đương sự đến tham gia hòa giải. Việc hòa giải được thực hiện theo thủ tục TTDS thông thường.
- Đối với vụ án có sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp hoặc vụ án có giá trị nhỏ thì đây là những vụ án mà giữa các đương sự có tranh chấp, mâu thuẫn với nhau về chứng cứ cũng như về quyền và nghĩa vụ. Vì vậy, Tòa án cần tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án trừ những trường hợp pháp luật quy định không được hòa giải hoặc không hòa giải được. Thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực ngay tại thời điểm các đương sự thỏa thuận bởi vì “bản chất các thỏa thuận của đương sự về việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án là giao dich dân sự thông thường thì bản thân thỏa thuận đó có hiệu lực ngay tại thời điểm các bên thỏa thuận (được ghi nhận băng biên bản hòa giải thành) và có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên, việc Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận đó vừa có tính công chứng, vừa có tính cưỡng chế thi hành, nếu sau đó các bên không tự nguyện thi hành”(1). Do đó, trong trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thẩm phán lập biên bản hòa giải không thành và đưa vụ án ra xét xử. Trong trường hợp các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án thì thẩm phán lập biên bản hòa giải thành, biên bản ghi đầy đủ những thỏa thuận của các bên đương sự, có đầy đủ chữ ký của đương sự, thư ký Tòa án và Thẩm phán đồng thời ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay.
PHIẾU KHẢO SÁT 1
Đề tài: “Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay – Thực trạng và giải pháp”
Hiện nay, tôi đang nghiên cứu đề tài “Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay - Thực trạng và giải pháp” với mong mỏi có thể phát hiện những bất cập của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành và đề xuất những giải pháp để hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Tôi nhận thức rằng, những vấn đề thực tiễn ở các Toà án có một ý nghĩa hết sức quan trọng, là nền tảng cho việc nghiên cứu cải cách, những đề xuất mà tôi đưa ra chỉ có giá trị thực tiễn nếu được xây dựng trên cơ sở những ý kiến đóng góp của các đồng chí. Do vậy, rất mong các đồng chí vui lòng cho biết quan điểm của mình về một số vấn đề trong bảng Câu hỏi tham khảo ý kiến sau đây:
Câu hỏi tham khảo ý kiến của các cán bộ làm công tác xét xử
- Họ và tên: (nếu có thể): .................................................................
- Cơ quan công tác:............................................................................
- Điện thoại liên hệ (nếu có thể): ......................................................
(Các đồng chí có thể đánh dấu ´ trong ô c mà các đ/c cho là hợp lý)
1. Pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục tố tụng dân sự đã đáp ứng được hay chưa đáp ứng được yêu cầu về tính phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước?
a) Đã đáp ứng được c
b) Chưa đáp ứng được c
c) Ý kiến khác c
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
2. Pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục tố tụng dân sự đã đáp ứng được hay chưa đáp ứng được yêu cầu về quyền tiếp cận công lý, quyền tranh tụng của đương sự trong tố tụng dân sự?
a) Đã đáp ứng được c
b) Chưa đáp ứng được c
c) Ý kiến khác c
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
3. Pháp luật hiện hành về thủ tục tố tụng dân sự đã đáp ứng được hay chưa đáp ứng được yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả của thủ tục khi áp dụng trên thực tế?
a) Đã đáp ứng được c
b) Chưa đáp ứng được c
c) Ý kiến khác c
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
4. Đồng chí có cho rằng việc nghiên cứu cải cách tư pháp theo hướng xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo mô hình tiên tiến của các nước Châu Âu lục địa và các nước theo truyền thống án lệ như Anh - Mỹ là cần thiết hay không?
a) Cần thiết c
b) Không cần thiết c
5. Theo đồng chí, việc xây dựng một thủ tục rút gọn áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền điện thoại hoặc các khoản phải thanh toán phát sinh từ các loại hợp đồng khác...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản là:
a) Cần thiết c
b) Không cần thiết c
c) Ý kiến khác
6. Theo đồng chí, thủ tục rút gọn được xây dựng ngoài áp dụng đối với các vụ kiện nêu trên còn có thể áp dụng với các loại vụ kiện khác hay không ?
a) Không thể áp dụng với các loại vụ kiện khác c
b) Có thể áp dụng với các loại vụ kiện khác c
c) Ý kiến khác
.........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
7. Theo đồng chí, các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại vụ kiện có giá trị tranh chấp nào trong số các trường hợp sau đây:
a) Chỉ phải tính án phí như vụ kiện không có giá ngạch c
b) Áp dụng với các loại vụ kiện có giá trị tranh chấp dưới 40 triệu đồng c
c) Áp dụng với các loại vụ kiện có giá trị tranh chấp cần bảo vệ nhỏ hơn các chi phí tố tụng phát sinh để giải quyết vụ kiện. c
d) Tuỳ theo thành thị hay nông thôn, vùng sâu, vùng xa để xác định giá trị tranh chấp bao nhiêu được coi là nhỏ. c
e) Ý kiến khác c
.........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
8. Theo Điều 179 BLTTDS, thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình là 4 tháng kể từ ngày thụ lý; đối với các tranh chấp về kinh doanh, thương mại, lao động là 2 tháng. Theo đồng chí, thời hạn trên khi áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ rang, bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...), sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản là:
a) Phù hợp c
b) Không phù hợp c vì quá dài c vì quá ngắn c
c) Ý kiến khác c
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
9. Theo đồng chí nếu quy định các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định về hiệu lực của phán quyết của Toà sơ thẩm đối với loại việc này như thế nào?
a) Đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm c
b) Phán quyết có hiệu lực pháp luật và đem ra thi hành ngay c
c) Ý kiến khác c
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
10. Theo đồng chí, nếu quy định các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền từ hợp đồng bằng văn bản...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định về hiệu lực của phán quyết của Toà sơ thẩm đối với loại việc này như thế nào?
a) Đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm c
b) Phán quyết có hiệu lực pháp luật và đem ra thi hành ngay c
c) Thẩm phán ra lệnh buộc thanh toán nghĩa vụ, thực hiện nghĩa vụ nếu đương sự phản đối phán quyết thì vụ kiện sẽ được đưa ra xét xử bằng một Hội đồng xét xử theo thủ tục thông thường. c
11. Đồng chí cho biết quan điểm của mình về việc xây dựng những quy định về phạt tiền đối với các trường hợp đương sự cố tình lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ?
a) Là cần thiết c
b) Là không cần thiết c
c) Ý kiến khác c
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
12. Đồng chí cho biết tại địa phương nơi các đồng chí công tác có thường gặp những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản nhưng bị đơn vẫn lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ dẫn tới việc khiếu kiện kéo dài hay không?
a) Đã xuất hiện những tình huống trên c
b) Chưa bao giờ gặp những tình huống trên c
13. Theo đồng chí, có nên xây dựng cơ chế vụ kiện đơn giản, rõ ràng hoặc có giá trị nhỏ chỉ do một Thẩm phán xét xử sơ thẩm, những loại vụ kiện phức tạp khác sẽ do một Hội đồng gồm 3 Thẩm phán giải quyết mà không cần có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân hay không?
a) Nên quy định c Vì lý do:
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….
b) Không nên quy định c Vì lý do:
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
14. Đồng chí có đồng ý với ý kiến nên bỏ chế định Hội thẩm nhân dân không?
a) Đồng ý c
b) Không đồng ý c
15. Theo đồng chí, có nên xây dựng cơ chế Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm với nhiệm kỳ suốt đời và chỉ bị bãi nhiệm khi vi phạm pháp luật đã bị xử lý về hình sự hay không?
a) Nên quy định c
b) Không nên quy định c Vì lý do:
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các đồng chí !
PHIẾU KHẢO SÁT 2
Đề tài: “Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay – Thực trạng và giải pháp”
Hiện nay, chúng tôi đang nghiên cứu đề tài “Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay – Thực trạng và giải pháp” với mong mỏi có thể phát hiện những bất cập của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành và đề xuất những giải pháp để hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Tôi nhận thức rằng, những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn có một ý nghĩa hết sức quan trọng, là nền tảng cho việc nghiên cứu cải cách. Những đề xuất mà chúng tôi đưa ra chỉ có giá trị thực tiễn nếu được xây dựng trên cơ sở những ý kiến đóng góp của các đồng chí. Do vậy, rất mong các đồng chí vui lòng cho biết quan điểm của mình về một số vấn đề trong bảng câu hỏi tham khảo ý kiến sau đây :
Câu hỏi tham khảo ý kiến của luật sư, giảng viên tại các học viện, các trường đại học giảng dạy về luật… tham gia với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
- Họ và tên: (nếu có thể): .........................................................................
- Cơ quan công tác: ……………………………………………………...
- Điện thoại liên hệ (nếu có thể): ………………………………………..
(Các đồng chí có thể đánh dấu ´ trong ô c mà các đ/c cho là hợp lý)
1. Theo anh/chị có cần thiết phải xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam không ?
1. Không cần thiết c
|
2. Cần thiết c
|
* Nếu anh/chị cho là không cần thiết xin cho biết tại sao?
1.1.1. Thủ tục giải quyết việc dân sự chính là thủ tục rút gọn c
1.1.2. Ý kiến khác
* Nếu anh/chị cho là cần thiết xin cho biết tại sao? (có thể lựa chọn nhiều phương án )
1.2.1. Tính đơn giản hay phức tạp của các vụ việc dân sự là khác nhau nên cần thiết phải quy định các thủ tục khác nhau để giải quyết c
1.2.2.Nhanh chóng, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự c
1.2.3. Giải quyết vụ kiện một cách nhanh chóng, giảm bớt các chi phí tố tụng c
1.2.4. Ý kiến khác
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….
|
2. Theo các anh/chị phạm vi những loại vụ việc dân sự có thể được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn bao gồm (có thể lựa chọn nhiều phương án):
2.1. Các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận hoặc các khoản phải thanh toán phát sinh từ các loại hợp đồng khác...) c
2.2. Sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp c
2.3. Các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản c
2.4. Vụ việc dân sự mà các đương sự lựa chọn giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn c
2.5. Vụ việc dân sự khác…
…………………………………………………………………………….…………………………………………………………………………………
3. Theo các anh chị, các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại vụ kiện nào sau đây:
3.1. Vụ kiện có án phí như vụ kiện không có giá ngạch c
3.2. Các vụ kiện có giá trị tranh chấp dưới 40 triệu đồng c
3.3. Vụ kiện có giá trị tranh chấp cần bảo vệ nhỏ hơn các chi phí tố tụng phát sinh để giải quyết vụ kiện c
3.4. Tuỳ theo thành thị hay nông thôn, vùng sâu, vùng xa để xác định giá trị tranh chấp bao nhiêu được coi là nhỏ. c
3.5. Ý kiến khác
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….
4. Thực tiễn tố tụng tại Toà án đã xuất hiện các vụ việc dân sự được liệt kê tại câu 2 chưa?
3.1. Đã xuất hiện c 3.2. Chưa xuất hiện c
5. Theo các anh/chị, việc giải quyết các vụ kiện dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn có cần thiết phải được tiến hành bởi một hội đồng xét xử gồm nhiều thành viên hay không?
5.1. Không cần thiết c 5.2. Cần thiết c
* Nếu các anh chị lựa chọn phương án không cần thiết xin cho biết tại sao?(có thể lựa chọn nhiều phương án )
5.1.1. Đảm bảo tính độc lập của thẩm phán và nâng cao trách nhiệm của thẩm phán trong việc giải quyết các vụ kiện đơn giảnc
5.1.2. Tiết kiệm cho Nhà nước về nguồn lực và các chi phí tố tụng c
5.1.3. Ý kiến khác
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
* Nếu các anh chị lựa chọn phương án cần thiết xin cho biết tại sao?(có thể lựa chọn nhiều phương án )
5.2.1. Đảm bảo nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số c
5.2.2. Hạn chế sự lạm quyền của thẩm phán, đảm bảo việc giải quyết vụ kiện khách quan và chính xác c
5.2.3. Ý kiến khác
6. Theo các anh/chị thời hạn giải quyết vụ kiện dân sự theo thủ tục rút gọn cần được quy định như thế nào?:
6.1. Bằng với thời hạn giải quyết vụ án dân sự c
6.2. Ngắn hơn c
6.3. Ý kiến khác
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
7. Theo các anh/chị đối với các vụ kiện dân sự được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn thì Tòa án có bắt buộc phải tiến hành hòa giải không trước khi xét xử không?
7.1. Không hòa giải c 7.2. Có hòa giải c
* Nếu các anh chị lựa chọn phương án không hòa giải xin cho biết tại sao?
7.1.1. Việc hoà giải sẽ gây kéo dài thời gian giải quyết vụ việc c
7.1.2. Ý kiến khác
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
* Nếu các anh chị lựa chọn phương án có hòa giải xin cho biết tại sao?(có thể lựa chọn nhiều phương án)
7.2.1. Giải quyết vụ kiện nhanh chóng, không cần phải mở phiên tòa c
7.2.2. Giảm bớt các chi phí tố tụng c
7.2.3. Thi hành án dễ dàng c
7.2.4. Ý kiến khác
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
8. Phiên tòa xét xử vụ kiện dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn bao gồm các bước sau:
8.1. Bắt đầu phiên tòa, hỏi, tranh luận, nghị án, tuyên án c
8.2. Tùy vào từng vụ kiện mà bỏ qua các bước không cần thiết c
8.3. Ý kiến khác
……………………………………………………………………………
9. Theo anh/chị nếu quy định các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định về hiệu lực của phán quyết của Toà sơ thẩm đối với loại việc này như thế nào?
9.1.Đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm c
9.2. Phán quyết có hiệu lực pháp luật và đem ra thi hành ngay c
9.3. Ý kiến khác
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
10. Theo anh/chị, nếu quy định các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền từ hợp đồng bằng văn bản...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định về hiệu lực của phán quyết của Toà sơ thẩm đối với loại việc này như thế nào?
10.1. Đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm c
10.2. Phán quyết có hiệu lực pháp luật và đem ra thi hành ngay c
10.3. Thẩm phán ra lệnh buộc thanh toán nghĩa vụ, thực hiện nghĩa vụ nếu đương sự phản đối phán quyết thì vụ kiện sẽ được đưa ra xét xử bằng một Hội đồng xét xử theo thủ tục thông thường. c
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các đồng chí !
BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐỀ TÀI
“Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay - Thực trạng và giải pháp”
Nhóm nghiên cứu nhận thức rằng những vấn đề thực tiễn ở các Toà án có một ý nghĩa hết sức quan trọng, là nền tảng cho việc nghiên cứu cải cách. Do vậy, để có thể xây dựng thủ tục TTDS rút gọn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước thì việc điều tra xã hội học cần được tiến hành một cách toàn diện đối với những người thực hành nghề luật. Do vậy, bên cạnh việc tham khảo ý kiến của những cán bộ làm công tác xét xử, nhóm nghiên cứu còn tiến hành khảo sát tham khảo ý kiến của luật sư, giảng viên tại các học viện, các trường đại học giảng dạy về luật… tham gia với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Các ý kiến thu thập được từ khảo sát thực tiễn là tiền đề quan trọng để so sánh, đối chiếu với các kết quả thu được từ các bài viết chuyên đề của các tác giả khác. Việc tổng hợp kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn sẽ giúp nhóm nghiên cứu có được góc nhìn toàn diện và sâu sắc hơn, tạo tiền đề cho việc đề xuất những giải pháp về mô hình loại việc và thủ tục tố tụng dân sự rút gọn có thể được xây dựng ở Việt Nam.
Trên cơ sở tổng hợp kết quả khảo sát thực tiễn được thực hiện đối với từng vấn đề nhỏ, nhóm nghiên cứu đưa ra bình luận, đánh giá đối với mỗi vấn đề cụ thể trong mối liên hệ với mục tiêu lớn là thực hiện sứ mệnh của đề tài. Dưới đây là kết quả khảo sát và bình luận, đánh giá của nhóm nghiên cứu:
Vấn đề 1. Sự phù hợp của pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục tố tụng dân sự với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước
- Theo kết quả của phiếu điều tra về việc pháp luật TTDS đã đáp ứng được yêu cầu về tính phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước hay chưa, đa số các cán bộ làm công tác xét xử (56/100) được hỏi đều cho rằng pháp luật Việt nam về thủ tục TTDS chưa đáp ứng được yêu cầu về tính phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước.
- Có 38/100 ý kiến cho rằng pháp luật đã đáp ứng được yêu cầu về tính phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước.
- Có 6 ý kiến khác về vấn đề này trong đó các ý kiến này cho rằng pháp luật TTDS đã cơ bản đáp ứng được, tuy nhiên cần có một số sửa đổi để phù hợp hơn với thực tiễn.
- Kết luận: Các nhận xét trên cũng đã đặt ra cho chúng tôi một nhiệm vụ, đó là nghiên cứu và tìm kiếm các quy định của BLTTDS chưa thực sự phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Trên cơ sở đó đưa ra được những giải pháp để khắc phục nhược điểm này.
Vấn đề 2. Tính thích ứng của pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục TTDS đối với yêu cầu về quyền tiếp cận công lý, quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS
- Theo kết quả khảo sát thì có 50/100 cán bộ làm công tác xét xử cho rằng pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục TTDS đã đáp ứng được yêu cầu về quyền tiếp cận công lý, quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS.
- Có 49/100 ý kiến cho rằng pháp luật hiện hành về thủ tục TTDS chưa đáp ứng được yêu cầu về quyền tiếp cận công lý, quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS.
- Có một ý kiến cho rằng: “Một số quy định còn chưa rõ ràng dẫn đến các đương sự chưa thể hiện và thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình”.
- Kết luận: Các ý kiến nhận xét trên cho thấy sự cần thiết phải tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật TTDS hiện hành để đáp ứng được yêu cầu về đảm bảo quyền tiếp cận công lý, quyền tranh tụng của công dân. Do đó, cần phải chỉ ra được các quy định của pháp luật TTDS chưa đáp ứng được yêu cầu về quyền tiếp cận công lý của công, quyền tranh tụng của các đương sự. Từ đó, trên nền tảng lý luận của TTDS cũng như tham khảo các quy định của pháp luật TTDS nước ngoài mà nhóm nghiên cứu đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật TTDS để đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân, quyền tranh tụng của các đương sự.
Vấn đề 3. Tính thích ứng của pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục TTDS đối với yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả của thủ tục khi áp dụng trên thực tế
- Đa số các cán bộ làm công tác xét xử (71/100) cho rằng pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục TTDS chưa đáp ứng được yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả của thủ tục khi áp dụng trên thực tế.
- Số còn lại (27/100) cho rằng pháp luật hiện hành về thủ tục TTDS đã đáp ứng được yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả của thủ tục.
- Có 2 ý kiến của cán bộ làm công tác xét xử cho rằng pháp luật TTDS đã phần nào đáp ứng được yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả của thủ tục nhưng chưa đầy đủ.
Từ việc khảo sát ý kiến của các cán bộ làm công tác xét xử về tính phù hợp của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành với điều kiện kinh tế - xã hội, tính đáp ứng yêu cầu về quyền tiếp cận công lý, quyền tranh tụng của đương sự, tính mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả của thủ tục khi áp dụng trên thực tế, nhóm nghiên cứu cũng đã tiến hành khảo sát ý kiến của những người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự về nhu cầu xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam. Kết quả khảo sát này đã cho thấy việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là một nhu cầu khách quan được phản ánh không những từ ý kiến của các cán bộ làm công tác xét xử mà còn từ ý kiến đề xuất của những người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự:
- Theo kết quả khảo sát thì đa số ý kiến (98/100) người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi cho rằng cần thiết phải xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam. Lý do của sự cần thiết này là do tính đơn giản hay phức tạp của các vụ việc dân sự là khác nhau nên cần thiết phải quy định các thủ tục khác nhau để giải quyết hoặc việc quy định thủ tục rút gọn sẽ nhanh chóng, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự hoặc để giải quyết vụ kiện một cách nhanh chóng, giảm bớt các chi phí tố tụng. Cụ thể có 52/98 người (chiếm 53,1%) cho rằng việc quy định thủ tục TTDS rút gọn xuất phát từ tính đơn giản hay phức tạp của các vụ việc dân sự là khác nhau. Có 84/98 người (chiếm 85,7%) cho rằng việc quy định thủ tục rút gọn sẽ nhanh chóng, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Có 73/98 người (chiếm 74,5%) được hỏi cho rằng quy định thủ tục TTDS rút gọn để giải quyết vụ kiện một cách nhanh chóng, giảm bớt các chi phí tố tụng.
- Chỉ có 2/100 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi cho rằng không cần thiết xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam. Theo đó, 01 ý kiến cho rằng thủ tục giải quyết việc dân sự chính là thủ tục rút gọn. Ý kiến khác cho rằng vấn đề không phải ở chỗ cần rút ngắn thủ tục hay không. Trên thực tế, chẳng bao giờ Tòa án tuân thủ nghiêm túc thời hạn tố tụng, chỉ cần Tòa án nghiêm túc thuân thủ thời hạn thì đã là may mắn cho đương sự.
- Kết luận: Như vậy, đa số các ý kiến cán bộ làm công tác xét xử đều cho rằng pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục TTDS chưa đáp ứng được yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả của thủ tục. Điều này đòi hỏi nhóm nghiên cứu cần thiết phải tìm ra những quy định của pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả của thủ tục TTDS, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn để hoàn thiện pháp luật TTDS. Nhóm nghiên cứu cũng rất đồng tình với quan điểm của đa số người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự là cần thiết phải xây dựng thủ tục TTDS rút gọn. Tuy nhiên, điều này đặt ra cho nhóm nghiên cứu là phải phân biệt sự khác nhau giữa thủ tục TTDS rút gọn và thủ tục giải quyết việc dân sự đồng thời xây dựng được mô hình về thủ tục TTDS rút gọn như phạm vi các loại việc được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn; thời hạn và trình tự thủ tục giải quyết theo thủ tục TTDS; thành phần giải quyết và các nguyên tắc áp dụng để giải quyết vụ án theo thủ tục TTDS rút gọn.
Vấn đề 4. Tính cần thiết của việc cải cách tư pháp theo hướng xây dựng thủ tục TTDS rút gọn theo mô hình tiên tiến của các nước Châu Âu lục địa và các nước theo truyền thống án lệ như Anh - Mỹ
- Theo kết quả khảo sát thì đa số các ý kiến của cán bộ làm công tác xét xử (80/100) được hỏi đều cho rằng việc nghiên cứu cải cách tư pháp theo hướng xây dựng thủ tục TTDS rút gọn theo mô hình tiên tiến của các nước Châu Âu lục địa và các nước theo truyền thống án lệ như Anh - Mỹ là cần thiết.
- Có 19/100 ý kiến cho rằng việc nghiên cứu cải cách tư pháp theo hướng xây dựng thủ tục TTDS rút gọn theo mô hình tiên tiến của các nước Châu Âu lục địa và các nước theo truyền thống án lệ như Anh - Mỹ là không cần thiết.
- Có 01 người không trả lời.
- Kết luận: Như vậy, đa số các ý kiến của cán bộ làm công tác xét xử đều cho rằng chúng ta cần thiết xây dựng thủ tục TTDS rút gọn theo mô hình tiên tiến của các nước Châu Âu lục địa và các nước theo truyền thống án lệ như Anh - Mỹ. Tuy nhiên, để tránh những định kiến cho rằng pháp luật của chúng ta là pháp luật của những nước đang phát triển, trình độ lập pháp chưa cao cho nên chúng ta sao chép pháp luật nước ngoài và nội luật hóa thì nhiệm vụ của người nghiên cứu là phải tiếp thu có chọn lọc pháp luật nước ngoài cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra mô hình thủ tục TTDS rút gọn có cơ sở khoa học và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Vấn đề 5. Sự cần thiết của việc xây dựng một thủ tục rút gọn áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản
- Đa số ý kiến của cán bộ làm công tác xét xử được hỏi (93/100) đều cho rằng việc xây dựng một thủ tục rút gọn áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền điện thoại hoặc các khoản phải thanh toán phát sinh từ các loại hợp đồng khác...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản là cần thiết.
- Một số ít ý kiến của cán bộ làm công tác xét xử (5/100) cho rằng việc xây dựng một thủ tục rút gọn là không cần thiết.
- Có 2 người không trả lời.
Từ kết quả khảo sát ý kiến của các cán bộ làm công tác xét về sự cần thiết của việc xây dựng một thủ tục rút gọn áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản, nhóm nghiên cứu cũng đã tiến hành thẩm định lại vấn đề này thông qua việc khảo sát ý kiến của những người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự về việc xuất hiện các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ; vụ kiện rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản trong thực tiễn tố tụng tại Tòa án :
- Theo kết quả khảo sát thì đa số các ý kiến được hỏi (90/100) cho rằng thực tiễn tố tụng tại Tòa án đã xuất hiện các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ; vụ kiện rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản.
- Rất ít ý kiến được hỏi (2/100) cho rằng thực tiễn tố tụng tại Tòa án không xuất hiện các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ; vụ kiện rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản.
- Có 8/100 người được hỏi không có ý kiến trả lời.
Ngoài ra, kết quả khảo sát ý kiến của những người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự do nhóm nghiên cứu tiến hành về phạm vi các loại vụ việc có thể được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn cũng cho thấy có tới 78/100 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi cho rằng thủ tục TTDS rút gọn áp dụng với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền điện thoại hoặc các khoản phải thanh toán phát sinh từ các loại hợp đồng khác... Có 84/100 người cho rằng thủ tục TTDS rút gọn áp dụng với các vụ kiện rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp. Có 68/100 người cho rằng thủ tục TTDS rút gọn áp dụng với các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản. Có 46/100 người cho rằng thủ tục TTDS rút gọn áp dụng với vụ việc dân sự mà các đương sự lựa chọn thủ tục TTDS rút gọn.
- Kết luận: Kết quả khảo sát ý kiến của cán bộ làm công tác xét xử và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự cho thấy cho thấy thực tiễn đã nảy sinh những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản. Đa số các ý kiến được hỏi đều cho rằng phạm vi các vụ kiện có thể được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn bao gồm: vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền điện thoại hoặc các khoản phải thanh toán phát sinh từ các loại hợp đồng khác; vụ kiện rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản; vụ việc dân sự mà các đương sự lựa chọn thủ tục TTDS rút gọn. Điều này đặt ra cho nhóm nghiên cứu cần phải xác định chính xác phạm vi các loại việc được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn để vừa bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự vừa đảm bảo tính linh hoạt, nhanh chóng của thủ tục TTDS. Một vấn đề đặt ra là thủ tục rút gọn được xây dựng ngoài áp dụng đối với các vụ kiện nêu trên còn có thể áp dụng với các loại vụ kiện khác hay không. Vấn đề này sẽ được xử lý thông qua kết quả điều tra tại câu hỏi số 6 dưới đây đối các cán bộ làm công tác xét xử:
Vấn đề 6. Việc mở rộng phạm vi vụ án áp dụng thủ tục TTDS rút gọn
- Đa số các ý kiến của cán bộ làm công tác xét xử được hỏi (63/100) cho rằng thủ tục rút gọn ngoài áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ, các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản còn có thể áp dụng đối với các loại vụ kiện khác.
- Có 32/100 ý kiến của cán bộ làm công tác xét xử cho rằng thủ tục rút gọn chỉ áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ, các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản mà không áp dụng đối với các loại vụ kiện khác.
- Có 3 người không trả lời câu hỏi và 2 người được hỏi có ý kiến khác.
- Kết luận: Những ý kiến nhận xét trên có giá trị tham khảo cho nhóm nghiên cứu và các nhà lập pháp trong việc cân nhắc mở rộng hay thu hẹp phạm vi những loại việc có thể được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra với nhóm nghiên cứu là cần phải xác định như thế nào là các vụ kiện có giá trị nhỏ. Vấn đề này sẽ được xử lý thông qua kết quả khảo sát tại câu hỏi số dưới đây.
Vấn đề 7. Xác định giá trị nhỏ, đơn giản của các vụ kiện có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn
- Có 23/100 cán bộ làm công tác xét xử và 21/100 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại vụ kiện có giá trị tranh chấp chỉ phải tính án phí như vụ kiện không có giá ngạch.
- Có 19/100 cán bộ làm công tác xét xử và 12/100 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại vụ kiện có giá trị tranh chấp dưới 40 triệu đồng.
- Có 4/100 cán bộ làm công tác xét xử được hỏi cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại vụ kiện có giá trị tranh chấp cần bảo vệ nhỏ hơn các chi phí tố tụng phát sinh để giải quyết vụ kiện. Trong khi đó, có tới 54/100 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại vụ kiện có giá trị tranh chấp cần bảo vệ nhỏ hơn các chi phí tố tụng phát sinh để giải quyết vụ kiện.
- Có 43/100 cán bộ làm công tác xét xử và 32/100 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là tuỳ theo thành thị hay nông thôn, vùng sâu, vùng xa để xác định giá trị tranh chấp bao nhiêu được coi là nhỏ.
- Có 6 cán bộ làm công tác xét xử có ý kiến khác và 5 người không trả lời câu hỏi. Trong đó, có ý kiến cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ là các vụ án có chứng cứ rõ ràng, gía trị tranh chấp dưới 100.000.000 đồng. Ý kiến khác lại cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ áp dụng với các loại vụ việc có giá trị tranh chấp dưới 50.000.000 đồng.
- Kết luận: Kết quả khảo sát cho thấy ý kiến của cán bộ làm công tác xét xử và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự về xác định giá trị được coi là nhỏ của loại việc có thể được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự là tương đối đồng nhất. Tuy nhiên, riêng đối với ý kiến về các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại vụ kiện có giá trị tranh chấp cần bảo vệ nhỏ hơn các chi phí tố tụng phát sinh để giải quyết vụ kiện thì quan điểm của các cán bộ làm công tác xét xử và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự là khá cách biệt. Những ý kiến nhận xét trên có giá trị tham khảo cho nhà lập pháp trong việc cân nhắc để xác định giá trị cụ thể của những vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn.
Vấn đề 8. Thời hạn sơ thẩm và thủ tục hòa giải, tiến hành phiên tòa đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản
- Thời hạn sơ thẩm đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản:
+ Có 50/100 cán bộ làm công tác xét xử được hỏi cho rằng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử trong BLTTDS khi áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản là phù hợp.
+ Có 31/100 cán bộ làm công tác xét xử được hỏi cho rằng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử trong BLTTDS khi áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản là không phù hợp vì quá dài.
+ Có 8/100 cán bộ làm công tác xét xử được hỏi cho rằng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử trong BLTTDS khi áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản là không phù hợp vì quá ngắn.
+ Có 9 người không trả lời và có 2 người có ý kiến khác.
Thẩm định lại vấn đề này thông qua việc khảo sát về thời hạn giải quyết vụ kiện dân sự theo thủ tục rút gọn đối với người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự cho thấy kết quả như sau :
+ Đa số người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi (97/100) cho rằng thời hạn giải quyết vụ kiện dân sự theo thủ tục rút gọn ngắn hơn thời hạn giải quyết vụ kiện dân sự thông thường.
+ Có 3 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự không trả lời.
+ Kết luận: Những ý kiến nhận xét trên của cán bộ làm công tác xét xử cho thấy có khá nhiều cán bộ chưa thực sự chú trọng tới việc rút ngắn thời hạn tố tụng để bảo vệ có hiệu quả quyền lợi của đương sự, trong khi đó gần như tuyệt đại đa số người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi cho rằng thời hạn giải quyết vụ kiện dân sự theo thủ tục rút gọn cần được rút ngắn hơn so với thời hạn giải quyết vụ kiện dân sự thông thường. Tuy nhiên, những ý kiến này cũng có giá trị tham khảo cho nhà lập pháp trong việc xác định thời hạn hợp lý cho việc giải quyết các vụ kiện theo thủ tục TTDS rút gọn nhằm đảm bảo hài hòa giữa yêu cầu về tính nhanh chóng, linh hoạt, mềm dẻo của thủ tục TTDS và an toàn pháp lý cho các đương sự.
- Về việc Tòa án tiến hành hòa giải đối với các vụ kiện dân sự được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn :
+ Theo kết quả khảo sát thì đa số người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi (69/100) cho rằng Tòa án bắt buộc tiến hành hòa giải đối với các vụ kiện dân sự được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn.
+ Có 29/100 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi cho rằng Tòa án không bắt buộc tiến hành hòa giải đối với các vụ kiện dân sự được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn.
+ Có 2 người không trả lời.
+ Kết luận: Theo kết quả khảo sát thì đối với các vụ kiện được giải quyết theo thủ tục rút gọn vẫn cần thiết phải tiến hành hòa giải. Chúng tôi đồng ý với đa số ý kiến này bởi việc hòa giải thành sẽ giải quyết vụ kiện nhanh chóng, giảm bớt các chi phí tố tụng cũng như thi hành án thuận lợi.
- Về thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử vụ kiện dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn :
+ Theo kết quả khảo sát thì đa số người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi (90/100) cho rằng thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử vụ kiện dân sự theo thủ tục rút gọn thì tùy vào từng vụ kiện mà bỏ qua các bước không cần thiết.
+ Số ít ý kiến còn lại (4/100) cho rằng thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử vụ kiện dân sự theo thủ tục rút gọn gồm bắt đầu phiên tòa, hỏi, tranh luận, nghị án, tuyên án.
+ Có 6 người không trả lời.
+ Kết luận: theo kết quả khảo sát thì phiên tòa xét xử vụ kiện theo thủ tục rút gọn không cần thiết phải đầy đủ các bước như phiên tòa giải quyết các vụ kiện theo thủ tục tố tụng thông thường mà có thể bỏ qua các bước không cần thiết. Kết quả này đáp ứng tính linh hoạt, mềm dẻo và nhanh chóng của thủ tục TTDS rút gọn.
Vấn đề 9. Về hiệu lực của phán quyết của Toà sơ thẩm đối với các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn
- Đa số các cán bộ làm công tác xét xử (60/100) và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự (51/100) được hỏi cho rằng nếu quy định các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định phán quyết có hiệu lực pháp luật và đem ra thi hành ngay, đương sự không có quyền kháng cáo và VKS không có quyền kháng nghị phúc thẩm.
- Có 39/100 cán bộ làm công tác xét xử và 45/100 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự cho rằng nếu quy định các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định đương sự có quyền kháng cáo, VKS có quyền kháng nghị phúc thẩm.
- Có 2 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự không trả lời và 2/100 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự có ý kiến khác theo đó họ cho rằng phán quyết có hiệu lực ngay nhưng cần có cơ chế để bảo vệ quyền lợi của các đương sự.
- Kết luận: Như vậy, đa số các ý kiến của cán bộ làm công tác xét xử và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi đều cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản thì nên quy định phán quyết có hiệu lực pháp luật và đem ra thi hành ngay, đương sự không có quyền kháng cáo và VKS không có quyền kháng nghị phúc thẩm. Ý kiến này cũng là cơ sở cho việc cân nhắc giữa vấn đề bảo đảm quyền kháng cáo của đương sự, tính hợp lý của thời hạn tố tụng và hiệu quả kinh tế của hoạt động tư pháp.
Vấn đề 10. Về hiệu lực của phán quyết của Toà sơ thẩm đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền từ hợp đồng bằng văn bản...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp được giải quyết theo thủ tục rút gọn
- Có 34/100 cán bộ làm công tác xét xử và 24/100 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi cho rằng nếu quy định các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền từ hợp đồng bằng văn bản...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định đương sự có quyền kháng cáo, VKS có quyền kháng nghị phúc thẩm.
- Có 47/100 cán bộ làm công tác xét xử và 53/100 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi cho rằng nếu quy định các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền từ hợp đồng bằng văn bản...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định phán quyết có hiệu lực pháp luật và đem ra thi hành ngay.
- Có 19/100 cán bộ làm công tác xét xử và 16/100 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự cho rằng nếu quy định các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền từ hợp đồng bằng văn bản...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định Thẩm phán ra lệnh buộc thanh toán nghĩa vụ, thực hiện nghĩa vụ nếu đương sự phản đối phán quyết thì vụ kiện sẽ được đưa ra xét xử bằng một Hội đồng xét xử theo thủ tục thông thường.
- Có 7 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự không trả lời.
- Kết luận: Như vậy, có gần 50 % cán bộ làm công tác xét xử và 53 % người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi đều cho rằng nếu quy định các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền từ hợp đồng bằng văn bản...) được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định phán quyết có hiệu lực pháp luật và đem ra thi hành ngay. Những ý kiến này cũng là cơ sở cho việc cân nhắc giữa vấn đề bảo đảm quyền kháng cáo của đương sự, tính hợp lý của thời hạn tố tụng. Xét kết quả khảo sát thì chỉ có 19/100 ý kiến của cán bộ làm công tác xét xử và 16/100 ý kiến của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự tán đồng quan điểm cho rằng Thẩm phán tạm thời ra lệnh buộc thanh toán nghĩa vụ, nếu đương sự phản đối phán quyết thì vụ kiện sẽ được đưa ra xét xử bằng một HĐXX theo thủ tục thông thường. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự cũng như tránh việc kéo dài vụ kiện thì nhóm nghiên cứu cho rằng cần quy định thủ tục chuyển hóa từ thủ tục rút gọn sang thủ tục tố tụng thông thường.
Vấn đề 11. Về việc xây dựng những quy định về phạt tiền đối với các trường hợp đương sự cố tình lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ
- Đa số các cán bộ làm công tác xét xử được hỏi (73/100) cho rằng cần thiết phải xây dựng những quy định về phạt tiền đối với các trường hợp đương sự cố tình lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ.
- Có 23/100 cán bộ làm công tác xét xử cho rằng không cần thiết phải xây dựng những quy định về phạt tiền đối với các trường hợp đương sự cố tình lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ.
- Có 4 ý kiến khác cho rằng cần phải xác định, làm rõ và chứng minh “cố tình lạm dụng” để tránh kiểu gượng ép để quy là “cố tình lạm dụng”. Ngoài ra, có những trường hợp đương sự cố tình lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ và việc áp dụng hình thức phạt tiền trên thực tế không tiến hành được. Có ý kiến cho rằng vấn đề này rất khó xác định. Việc các đương sự trì hoãn luôn có lí do chính đáng nên nếu xác định để có cơ sở xây dựng về quy định phạt tiền với đương sự có hành vi trên là không có căn cứ.
- Kết luận: Như vậy, đa số ý kiến của các cán bộ làm công tác xét xử được hỏi đều cho rằng nên xây dựng những quy định về phạt tiền đối với các trường hợp đương sự cố tình lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ. Những ý kiến này cũng có giá trị tham khảo trong việc tìm kiếm giải pháp để hoá giải sụ lạm quyền kháng cáo của đương sự. Tuy nhiên, nhiệm vụ của nhóm nghiên cứu cũng cần phải xác định như thế nào để xác định là “cố tình lạm dụng quyền kháng cáo” để nếu quy định này có thể được thực hiện trên thực tế.
Vấn đề 12. Tình trạng bị đơn lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ đối với những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản
- Đa số ý kiến của các cán bộ làm công tác xét xử được hỏi (74/100) cho biết là tại địa phương nơi họ công tác thường gặp những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản nhưng bị đơn vẫn lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ dẫn tới việc khiếu kiện kéo dài.
- Có 22/100 cán bộ làm công tác xét xử cho biết là tại địa phương nơi họ công tác không thường gặp những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản mà bị đơn lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ.
- Có 4 người không có ý kiến gì.
- Kết luận: Như vậy, kết quả khảo sát cho thấy thực tiễn đã nảy sinh những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản nhưng bị đơn vẫn lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ dẫn tới việc khiếu kiện kéo dài. Điều này cho thấy pháp luật TTDS hiện hành vẫn chưa thực sự hợp lý, dẫn tới những sự lạm dụng của một bên đương sự. Do vậy, việc nghiên cứu để sửa đổi pháp luật là rất cần thiết.
Vấn đề 13. Về cơ chế xét xử một Thẩm phán hay HĐXX đối với các vụ kiện đơn giản, rõ ràng hoặc có giá trị nhỏ
- Đa số ý kiến của các cán bộ làm công tác xét xử được hỏi (70/100) cho rằng nên xây dựng cơ chế vụ kiện đơn giản, rõ ràng hoặc có giá trị nhỏ chỉ do một Thẩm phán xét xử sơ thẩm, những loại vụ kiện phức tạp khác sẽ do một Hội đồng gồm 3 Thẩm phán giải quyết mà không cần có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân, trong đó có nêu một số lý do như sau:
+ Tránh thủ tục mời HTND rườm rà, lãng phí thời gian, tiền bạc, hơn nữa chất lượng của HTND đôi khi không phải ai cũng có trình độ pháp luật nhất định.
+ Trên thực tế việc nghiên cứu do thẩm phán được phân công trực tiếp, giải quyết vụ án, trực tiếp giải quyết.
+ HTND chưa đáp ứng được trình độ chuyên môn
+ Việc giải quyết như vậy sẽ nhanh chóng, thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán. Thẩm phán có thể chủ động giải quyết ngay vụ việc. Trường hợp vụ việc phức tạp nếu HĐXX là 3 thẩm phán thì thực tế sẽ giúp cho việc giải quyết đúng pháp luật hơn. HTND trên thực tế không phải ai cũng là người nghiên cứu, hiểu sâu về pháp luật.
+ Những vụ kiện có những nội dung chứng cứ rõ ràng, quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên đã rõ ràng thì một thẩm phán giải quyết ngay bảo đảm nhanh chóng, ít tốn kém và thuân lợi cho đương sự.
+ Cần cải cách thủ tục tư pháp theo hướng gọn nhẹ, đơn giản nên quy định như vậy là hợp lí.
- Có 23/100 cán bộ làm công tác xét xử được hỏi cho rằng không nên xây dựng cơ chế vụ kiện đơn giản, rõ ràng hoặc có giá trị nhỏ chỉ do một Thẩm phán xét xử sơ thẩm, những loại vụ kiện phức tạp khác sẽ do một Hội đồng gồm 3 Thẩm phán giải quyết mà không cần có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Trong đó có nếu một số lý do sau:
+ HTND khi được tập huấn tốt, hoặc những người làm trong ngành pháp luật ra làm HTND thì chất lượng cũng tốt và khách quan khi xét xử.
+ Có nhiều thẩm phán giải quyết một vụ án thì sẽ có nhiều quan điểm đặt ra, không thống nhất, dẫn đến vụ án kéo dài. HTND là đại diện cho các cơ quan đoàn thể nên cần thiết phải có HTND tham gia xét xử.
+ Địa phương chưa phải đơn vị nào cũng đủ 3 thẩm phán.
+ Đảm bảo tính dân chủ.
+ HTND tham gia để đảm bảo được tính khách quan
- Có 7 người không trả lời.
Thẩm định lại vấn đề này thông qua việc khảo sát về thành phần giải quyết vụ kiện dân sự theo thủ tục rút gọn đối với người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự cũng cho thấy một kết quả khá đồng nhất:
- Đa số người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi (80/100) cho rằng việc giải quyết các vụ kiện dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn không cần thiết phải được tiến hành bởi một hội đồng xét xử gồm nhiều thành viên. Lý do để người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho rằng không cần thiết là để đảm bảo tính độc lập của thẩm phán và nâng cao trách nhiệm của thẩm phán trong việc giải quyết các vụ kiện đơn giản hoặc để tiết kiệm cho Nhà nước về nguồn lực và các chi phí tố tụng. Cụ thể, có 71/80 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự (chiếm 88,8%) cho rằng thành phần giải quyết các vụ kiện dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn không cần thiết phải là một hội đồng xét xử gồm nhiều thành viên để đảm bảo tính độc lập của thẩm phán và nâng cao trách nhiệm của thẩm phán trong việc giải quyết các vụ kiện đơn giản. Có 58/80 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự cho rằng (chiếm 72,5%) thành phần giải quyết các vụ kiện dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn không cần thiết phải là một hội đồng xét xử gồm nhiều thành viên để tiết kiệm cho Nhà nước về nguồn lực và các chi phí tố tụng. Có 2 ý kiến khác (chiếm 2,5%) cho rằng đã là thủ tục rút gọn thì nên tiến hành nhanh chóng, đơn giải để tiết kiệm chi phí cho Nhà nước và chi phí ngoài tố tụng cho đương sự.
- Có 18/100 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp của đương sự được hỏi cho rằng việc giải quyết các vụ kiện dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn cần thiết phải được tiến hành bởi một hội đồng xét xử gồm nhiều thành viên. Trong đó, có 8/18 người cho rằng việc giải quyết các vụ kiện dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn cần thiết phải được tiến hành bởi một hội đồng xét xử gồm nhiều thành viên để đảm bảo nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Có 12/18 người cho rằng việc giải quyết các vụ kiện dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn cần thiết phải được tiến hành bởi một hội đồng xét xử gồm nhiều thành viên để hạn chế sự lạm quyền của thẩm phán, đảm bảo việc giải quyết vụ kiện khách quan và chính xác.
- 2 người không có trả lời.
- Kết luận: Như vậy, kết quả khảo sát là cơ sở quan trọng để nhóm nghiên cứu đề xuất về việc khôi phục cơ chế xét xử một Thẩm phán đối với những vụ kiện đơn giản, rõ ràng hoặc có giá trị nhỏ. Giải pháp này đáp ứng được yêu cầu về tính mềm dẻo, tạo điều kiện cho Thẩm phán có thể chủ động khi giải quyết công việc. Đồng thời là một giải pháp tiết kiệm cho đất nước về nguồn lực con người và chi phí.
Vấn đề 14. Về chế định Hội thẩm nhân dân
- Đa số cán bộ làm công tác xét xử cho rằng (65/100) cần bỏ chế định HTND.
- Có 34/100 ý kiến cho rằng không nên bỏ chế định HTND.
- Kết luận: Như vậy, kết quả khảo sát cho thấy Hội thẩm nhân dân chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra và sự tham gia của họ trên thực tế đôi khi chỉ mang tính hình thức.
Vấn đề 15. Về vấn đề xây dựng cơ chế Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm với nhiệm kỳ suốt đời và chỉ bị bãi nhiệm khi vi phạm pháp luật đã bị xử lý về hình sự
- Đa số cán bộ làm công tác xét xử được hỏi (90/100) cho rằng việc xây dựng cơ chế Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm với nhiệm kỳ suốt đời và chỉ bị bãi nhiệm khi vi phạm pháp luật đã bị xử lý về hình sự là cần thiết.
- Số ít ý kiến còn lại (10/100) cho rằng việc xây dựng cơ chế Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm với nhiệm kỳ suốt đời và chỉ bị bãi nhiệm khi vi phạm pháp luật đã bị xử lý về hình sự là không cần thiết.
Kết luận: Kết quả khảo sát này của chúng tôi là muốn thấy được nguyện vọng đích thực của người làm công tác xét xử, trên cơ sở đó có thể đề xuất cho việc thiết lập quy định về việc bổ nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ suốt đời ở Việt Nam. Xét về thực tế, nếu xây dựng thủ tục TTDS rút gọn do một Thẩm phán xét xử thì bên cạnh các bảo đảm về tiêu chí vụ việc, quyền kháng án của đương sự mà chúng tôi trình bày trong đề tài thì cũng rất cần có sự hỗ trợ về cơ chế, tạo điều kiện cho Thẩm phán có thể thực sự tự chịu trách nhiệm và độc lập trong quyết định của mình. Điều này có lẽ sẽ là một quyết định khó khăn đối với nhà lập pháp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
DỮ LIỆU KHẢO SÁT ĐỐI VỚI CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC XÉT XỬ
Vấn đề 1. Sự phù hợp của pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục tố tụng dân sự với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước :
- Theo kết quả của phiếu điều tra về việc pháp luật TTDS đã đáp ứng được yêu cầu về tính phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước hay chưa, đa số các thẩm phán, thư ký, kiểm sát viên (56/100) được hỏi đều cho rằng pháp luật Việt nam về thủ tục TTDS chưa đáp ứng được yêu cầu về tính phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước.
- Có 38/100 ý kiến cho rằng pháp luật đã đáp ứng được yêu cầu về tính phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước.
- Có 6 ý kiến khác về vấn đề này trong đó các ý kiến này cho rằng pháp luật TTDS đã cơ bản đáp ứng được, tuy nhiên cần có một số sửa đổi để phù hợp hơn với thực tiễn.
Vấn đề 2. Tính thích ứng của pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục TTDS đối với yêu cầu về quyền tiếp cận công lý, quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS :
- Theo kết quả khảo sát thì có 50/100 ý kiến cho rằng pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục TTDS đã đáp ứng được yêu cầu về quyền tiếp cận công lý, quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS.
- Có 49/100 ý kiến cho rằng pháp luật hiện hành về thủ tục TTDS chưa đáp ứng được yêu cầu về quyền tiếp cận công lý, quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS.
- Có một ý kiến cho rằng: “Một số quy định còn chưa rõ ràng dẫn đến các đương sự chưa thể hiện và thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình”.
Vấn đề 3. Tính thích ứng của pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục TTDS đối với yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả của thủ tục khi áp dụng trên thực tế :
- Đa số các ý kiến (71/100) cho rằng pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục TTDS chưa đáp ứng được yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả của thủ tục khi áp dụng trên thực tế.
- Số còn lại (27/100) cho rằng pháp luật hiện hành về thủ tục TTDS đã đáp ứng được yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả của thủ tục.
- Có 2 ý kiến cho rằng pháp luật TTDS đã phần nào đáp ứng được yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả của thủ tục nhưng chưa đầy đủ.
Vấn đề 4. Tính cần thiết của việc cải cách tư pháp theo hướng xây dựng thủ tục TTDS rút gọn theo mô hình tiên tiến của các nước Châu Âu lục địa và các nước theo truyền thống án lệ như Anh - Mỹ :
- Theo kết quả khảo sát thì đa số các ý kiến (80/100) được hỏi đều cho rằng việc nghiên cứu cải cách tư pháp theo hướng xây dựng thủ tục TTDS rút gọn theo mô hình tiên tiến của các nước Châu Âu lục địa và các nước theo truyền thống án lệ như Anh - Mỹ là cần thiết.
- Có 19/100 ý kiến cho rằng việc nghiên cứu cải cách tư pháp theo hướng xây dựng thủ tục TTDS rút gọn theo mô hình tiên tiến của các nước Châu Âu lục địa và các nước theo truyền thống án lệ như Anh - Mỹ là không cần thiết.
- Có 1 người không trả lời.
Vấn đề 5. Sự cần thiết của việc xây dựng một thủ tục rút gọn áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản
- Đa số ý kiến được hỏi (93/100) đều cho rằng việc xây dựng một thủ tục rút gọn áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền điện thoại hoặc các khoản phải thanh toán phát sinh từ các loại hợp đồng khác...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản là cần thiết.
- Một số ít ý kiến (5/100) cho rằng việc xây dựng một thủ tục rút gọn là không cần thiết.
- Có 2 người không trả lời.
Vấn đề 6. Việc mở rộng phạm vi vụ án áp dụng thủ tục TTDS rút gọn
- Đa số các ý kiến được hỏi (63/100) cho rằng thủ tục rút gọn ngoài áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ, các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản còn có thể áp dụng đối với các loại vụ kiện khác.
- Có 32/100 ý kiến cho rằng thủ tục rút gọn chỉ áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ, các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản mà không áp dụng đối với các loại vụ kiện khác.
- Có 3 người không trả lời câu hỏi và 2 người được hỏi có ý kiến khác.
Vấn đề 7. Xác định giá trị nhỏ, đơn giản của các vụ kiện có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn
- Có 23/100 người được hỏi cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại vụ kiện có giá trị tranh chấp chỉ phải tính án phí như vụ kiện không có giá ngạch.
- Có 19/100 người được hỏi cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại vụ kiện có giá trị tranh chấp dưới 40 triệu đồng.
- Có 4/100 người được hỏi cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại vụ kiện có giá trị tranh chấp cần bảo vệ nhỏ hơn các chi phí tố tụng phát sinh để giải quyết vụ kiện.
- Có 43/100 người được hỏi cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là tuỳ theo thành thị hay nông thôn, vùng sâu, vùng xa để xác định giá trị tranh chấp bao nhiêu được coi là nhỏ.
- Có 6 người có ý kiến khác và 5 người không trả lời câu hỏi. Trong đó, có ý kiến cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ là các vụ án có chứng cứ rõ ràng, gía trị tranh chấp dưới 100.000.000 đồng. Ý kiến khác lại cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ áp dụng với các loại vụ việc có giá trị tranh chấp dưới 50.000.000 đồng.
Vấn đề 8. Thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản :
- Có 50/100 ý kiến được hỏi cho rằng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử trong BLTTDS khi áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản là phù hợp.
- Có 31/100 người được hỏi cho rằng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử trong BLTTDS khi áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản là không phù hợp vì quá dài.
- Có 8/100 người được hỏi cho rằng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử trong BLTTDS khi áp dụng đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản là không phù hợp vì quá ngắn.
- Có 9 người không trả lời và có 2 người có ý kiến khác.
Vấn đề 9. Về hiệu lực của phán quyết của Toà sơ thẩm đối với các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn
- Đa số các ý kiến (60/100) được hỏi cho rằng nếu quy định các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định phán quyết có hiệu lực pháp luật và đem ra thi hành ngay, đương sự không có quyền kháng cáo và VKS không có quyền kháng nghị phúc thẩm.
- Số còn lại (39/100) cho rằng nếu quy định các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định đương sự có quyền kháng cáo, VKS có quyền kháng nghị phúc thẩm.
Vấn đề 10. Về hiệu lực của phán quyết của Toà sơ thẩm đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền từ hợp đồng bằng văn bản...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp được giải quyết theo thủ tục rút gọn
- Có 34/100 ý kiến được hỏi cho rằng nếu quy định các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền từ hợp đồng bằng văn bản...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định đương sự có quyền kháng cáo, VKS có quyền kháng nghị phúc thẩm.
- Có 47/100 ý kiến được hỏi cho rằng nếu quy định các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền từ hợp đồng bằng văn bản...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định phán quyết có hiệu lực pháp luật và đem ra thi hành ngay.
- Có 19/100 ý kiến cho rằng nếu quy định các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền từ hợp đồng bằng văn bản...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định Thẩm phán ra lệnh buộc thanh toán nghĩa vụ, thực hiện nghĩa vụ nếu đương sự phản đối phán quyết thì vụ kiện sẽ được đưa ra xét xử bằng một Hội đồng xét xử theo thủ tục thông thường.
Vấn đề 11. Về việc xây dựng những quy định về phạt tiền đối với các trường hợp đương sự cố tình lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ
- Đa số các ý kiến được hỏi (73/100) cho rằng cần thiết phải xây dựng những quy định về phạt tiền đối với các trường hợp đương sự cố tình lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ.
- Có 23/100 ý kiến cho rằng không cần thiết phải xây dựng những quy định về phạt tiền đối với các trường hợp đương sự cố tình lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ.
- Có 4 ý kiến khác cho rằng cần phải xác định, làm rõ và chứng minh “cố tình lạm dụng” để tránh kiểu gượng ép để quy là “cố tình lạm dụng”. Ngoài ra, có những trường hợp đương sự cố tình lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ và việc áp dụng hình thức phạt tiền trên thực tế không tiến hành được. Có ý kiến cho rằng vấn đề này rất khó xác định. Việc các đương sự trì hoãn luôn có lí do chính đáng nên nếu xác định để có cơ sở xây dựng về quy định phạt tiền với đương sự có hành vi trên là không có căn cứ.
Vấn đề 12. Tình trạng bị đơn lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ đối với những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản
- Đa số các ý kiến được hỏi (74/100) cho biết là tại địa phương nơi họ công tác thường gặp những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản nhưng bị đơn vẫn lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ dẫn tới việc khiếu kiện kéo dài.
- Có 22/100 ý kiến cho biết là tại địa phương nơi họ công tác không thường gặp những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản mà bị đơn lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ.
- Có 4 người không có ý kiến gì.
Vấn đề 13. Về cơ chế xét xử một Thẩm phán hay Hội đồng xét xử đối với các vụ kiện đơn giản, rõ ràng hoặc có giá trị nhỏ
- Đa số các ý kiến được hỏi (70/100) cho rằng nên xây dựng cơ chế vụ kiện đơn giản, rõ ràng hoặc có giá trị nhỏ chỉ do một Thẩm phán xét xử sơ thẩm, những loại vụ kiện phức tạp khác sẽ do một Hội đồng gồm 3 Thẩm phán giải quyết mà không cần có sự tham gia của HTND, trong đó có nêu một số lý do như sau:
+ Tránh thủ tục mời HTND rườm rà, lãng phí thời gian, tiền bạc, hơn nữa chất lượng của HTND đôi khi không phải ai cũng có trình độ pháp luật nhất định.
+ Trên thực tế việc nghiên cứu do thẩm phán được phân công trực tiếp, giải quyết vụ án, trực tiếp giải quyết.
+ HTND chưa đáp ứng được trình độ chuyên môn
+ Việc giải quyết như vậy sẽ nhanh chóng, thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán. Thẩm phán có thể chủ động giải quyết ngay vụ việc. Trường hợp vụ việc phức tạp nếu HĐXX là 3 thẩm phán thì thực tế sẽ giúp cho việc giải quyết đúng pháp luật hơn. HTND trên thực tế không phải ai cũng là người nghiên cứu, hiểu sâu về pháp luật.
+ Những vụ kiện có những nội dung chứng cứ rõ ràng, quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên đã rõ ràng thì một thẩm phán giải quyết ngay bảo đảm nhanh chóng, ít tốn kém và thuân lợi cho đương sự.
+ Cần cải cách thủ tục tư pháp theo hướng gọn nhẹ, đơn giản nên quy định như vậy là hợp lí.
- Có 23/100 người được hỏi cho rằng không nên xây dựng cơ chế vụ kiện đơn giản, rõ ràng hoặc có giá trị nhỏ chỉ do một Thẩm phán xét xử sơ thẩm, những loại vụ kiện phức tạp khác sẽ do một Hội đồng gồm 3 Thẩm phán giải quyết mà không cần có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Trong đó có nếu một số lý do sau:
+ HTND khi được tập huấn tốt, hoặc những người làm trong ngành pháp luật ra làm HTND thì chất lượng cũng tốt và khách quan khi xét xử.
+ Có nhiều thẩm phán giải quyết một vụ án thì sẽ có nhiều quan điểm đặt ra, không thống nhất, dẫn đến vụ án kéo dài. HTND là đại diện cho các cơ quan đoàn thể nên cần thiết phải có HTND tham gia xét xử.
+ Địa phương chưa phải đơn vị nào cũng đủ 3 thẩm phán.
+ Đảm bảo tính dân chủ.
+ HTND tham gia để đảm bảo được tính khách quan
- Có 7 người không trả lời.
Vấn đề 14. Về chế định Hội thẩm nhân dân :
- Đa số ý kiến cho rằng (65/100) cần bỏ chế định HTND.
- Có 34/100 ý kiến cho rằng không nên bỏ chế định HTND.
Vấn đề 15. Về vấn đề xây dựng cơ chế Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm với nhiệm kỳ suốt đời và chỉ bị bãi nhiệm khi vi phạm pháp luật đã bị xử lý về hình sự :
- Đa số ý kiến được hỏi (90/100) cho rằng việc xây dựng cơ chế Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm với nhiệm kỳ suốt đời và chỉ bị bãi nhiệm khi vi phạm pháp luật đã bị xử lý về hình sự là cần thiết.
- Số ít ý kiến còn lại (10/100) cho rằng việc xây dựng cơ chế Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm với nhiệm kỳ suốt đời và chỉ bị bãi nhiệm khi vi phạm pháp luật đã bị xử lý về hình sự là không cần thiết.
Frequencies
Frequency Table
CAU1
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Da dap ung duoc
|
38
|
38.0
|
38.0
|
38.0
|
Chua dap ung duoc
|
56
|
56.0
|
56.0
|
94.0
|
Y kien khac
|
6
|
6.0
|
6.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
CAU2
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Da dap ung duoc
|
50
|
50.0
|
50.0
|
50.0
|
Chua dap ung duoc
|
49
|
49.0
|
49.0
|
99.0
|
Y kien khac
|
1
|
1.0
|
1.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
CAU4
|
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
|
Valid
|
|
1
|
1.0
|
1.0
|
1.0
|
|
Can thiet
|
80
|
80.0
|
80.0
|
81.0
|
|
Khong can thiet
|
19
|
19.0
|
19.0
|
100.0
|
|
CAU3
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Da dap ung duoc
|
27
|
27.0
|
27.0
|
27.0
|
Chua dap ung duoc
|
71
|
71.0
|
71.0
|
98.0
|
Y kien khac
|
2
|
2.0
|
2.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
CAU5
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
|
2
|
2.0
|
2.0
|
2.0
|
Can thiet
|
93
|
93.0
|
93.0
|
95.0
|
Khong can thiet
|
5
|
5.0
|
5.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
CAU6
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
|
3
|
3.0
|
3.0
|
3.0
|
Khong the ap dung voi cac loai vu kien khac
|
32
|
32.0
|
32.0
|
35.0
|
Co the ap dung voi cac loai vu kien khac
|
63
|
63.0
|
63.0
|
98.0
|
Y kien khac
|
2
|
2.0
|
2.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
CAU7
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
|
5
|
5.0
|
5.0
|
5.0
|
Chi phai tinh an phi nhu vu kien khong co gia ngach
|
23
|
23.0
|
23.0
|
28.0
|
Ap dung voi cac loai vu kien co gia tri tranh chap duoi 40 trieu dong
|
19
|
19.0
|
19.0
|
47.0
|
Ap dung voi cac loai vu kien co gia tri tranh chap can bao ve nho hon cac chi phi to tung phat sinh de giai quyet vu kien
|
4
|
4.0
|
4.0
|
51.0
|
Tuy theo thanh thi hay nong thon, vung sau, vung xa de xac dinh gia tri tranh chap bao nhieu duoc coi la nho
|
43
|
43.0
|
43.0
|
94.0
|
Y kien khac
|
6
|
6.0
|
6.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
CAU8
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
|
9
|
9.0
|
9.0
|
9.0
|
Phu hop
|
50
|
50.0
|
50.0
|
59.0
|
Khong phu hop vi qua dai
|
31
|
31.0
|
31.0
|
90.0
|
Khong phu hop vi qua ngan
|
8
|
8.0
|
8.0
|
98.0
|
Y kien khac
|
2
|
2.0
|
2.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
CAU9
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
|
1
|
1.0
|
1.0
|
1.0
|
Duong su co quyen khang cao, Vien kiem sat co quyen khang nghi phuc tham
|
39
|
39.0
|
39.0
|
40.0
|
Phan quyet co hieu luc phap luat va dem ra thi hanh ngay
|
60
|
60.0
|
60.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
CAU10
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Duong su co quyen khang cao, Vien kiem sat co quyen khang nghi phuc tham
|
34
|
34.0
|
34.0
|
34.0
|
Phan quyet co hieu luc phap luat va dem ra thi hanh ngay
|
47
|
47.0
|
47.0
|
81.0
|
Tham phan ra lenh buoc thanh toan nghia vu, thuc hien nghia vu neu duong su phan doi phan quyet thi vu kien se duoc dua ra xet xu bang mot Hoi dong xet xu theo thu tuc thong thuong
|
19
|
19.0
|
19.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
CAU12
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
|
4
|
4.0
|
4.0
|
4.0
|
Da xuat hien nhung tinh huong tren
|
74
|
74.0
|
74.0
|
78.0
|
Chua bao gio gap nhung tinh huong tren
|
22
|
22.0
|
22.0
|
100.0
|
CAU11
|
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
|
Valid
|
La can thiet
|
73
|
73.0
|
73.0
|
73.0
|
|
La khong can thiet
|
23
|
23.0
|
23.0
|
96.0
|
|
Y kien khac
|
4
|
4.0
|
4.0
|
100.0
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
|
CAU15
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Nen quy dinh
|
90
|
90.0
|
90.0
|
90.0
|
Khong nen quy dinh
|
10
|
10.0
|
10.0
|
100.0
|
CAU14
|
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
|
Valid
|
|
1
|
1.0
|
1.0
|
1.0
|
|
Dong y
|
65
|
65.0
|
65.0
|
66.0
|
|
Khong dong y
|
34
|
34.0
|
34.0
|
100.0
|
|
CAU13
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
|
7
|
7.0
|
7.0
|
7.0
|
Nen quy dinh
|
70
|
70.0
|
70.0
|
77.0
|
Khong nen quy dinh
|
23
|
23.0
|
23.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
DỮ LIỆU KHẢO SÁT
ĐỐI VỚI NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA ĐƯƠNG SỰ
1. Về việc có cần thiết phải xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam
- Theo kết quả khảo sát thì đa số ý kiến (98/100) được hỏi cho rằng cần thiết phải xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam. Lý do của sự cần thiết này là do tính đơn giản hay phức tạp của các vụ việc dân sự là khác nhau nên cần thiết phải quy định các thủ tục khác nhau để giải quyết hoặc việc quy định thủ tục rút gọn sẽ nhanh chóng, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự hoặc để giải quyết vụ kiện một cách nhanh chóng, giảm bớt các chi phí tố tụng. Cụ thể có 52/98 người (chiếm 53,1%) cho rằng việc quy định thủ tục TTDS rút gọn xuất phát từ tính đơn giản hay phức tạp của các vụ việc dân sự là khác nhau. Có 84/98 người (chiếm 85,7%) cho rằng việc quy định thủ tục rút gọn sẽ nhanh chóng, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Có 73/98 người (chiếm 74,5%) được hỏi cho rằng quy định thủ tục TTDS rút gọn để giải quyết vụ kiện một cách nhanh chóng, giảm bớt các chi phí tố tụng.
- Chỉ có 2/100 ý kiến được hỏi cho rằng không cần thiết xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam. Theo đó, 01 ý kiến cho rằng thủ tục giải quyết việc dân sự chính là thủ tục rút gọn. Ý kiến khác cho rằng vấn đề không phải ở chỗ cần rút ngắn thủ tục hay không. Trên thực tế, chẳng bao giờ Tòa án tuân thủ nghiêm túc thời hạn tố tụng, chỉ cần Tòa án nghiêm túc thuân thủ thời hạn thì đã là may mắn cho đương sự.
2. Về phạm vi các loại vụ việc có thể được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn
- Theo kết quả khảo sát thì có 78/100 người cho rằng thủ tục TTDS rút gọn áp dụng với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền điện thoại hoặc các khoản phải thanh toán phát sinh từ các loại hợp đồng khác... Có 84/100 người cho rằng thủ tục TTDS rút gọn áp dụng với các vụ kiện rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp. Có 68/100 người cho rằng thủ tục TTDS rút gọn áp dụng với các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản. Có 46/100 người cho rằng thủ tục TTDS rút gọn áp dụng với vụ việc dân sự mà các đương sự lựa chọn thủ tục TTDS rút gọn.
3. Về việc xác định giá trị nhỏ, đơn giản của các vụ kiện có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn
- Có 21/100 người được hỏi cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại vụ kiện có giá trị tranh chấp chỉ phải tính án phí như vụ kiện không có giá ngạch.
- Có 12/100 người được hỏi cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại vụ kiện có giá trị tranh chấp dưới 40 triệu đồng.
- Có 54/100 người được hỏi cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là loại vụ kiện có giá trị tranh chấp cần bảo vệ nhỏ hơn các chi phí tố tụng phát sinh để giải quyết vụ kiện.
- Có 32/100 người được hỏi cho rằng các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn là tuỳ theo thành thị hay nông thôn, vùng sâu, vùng xa để xác định giá trị tranh chấp bao nhiêu được coi là nhỏ.
- Có 10/100 ý kiến khác cho rằng thủ tục TTDS rút gọn còn được áp dụng đối với các vụ kiện khác như
4. Về việc xuất hiện các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ; vụ kiện rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản trong thực tiễn tố tụng tại Tòa án
- Theo kết quả khảo sát thì đa số các ý kiến được hỏi (90/100) cho rằng thực tiễn tố tụng tại Tòa án đã xuất hiện các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ; vụ kiện rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản.
- Rất ít ý kiến được hỏi (2/100) cho rằng thực tiễn tố tụng tại Tòa án không xuất hiện các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ; vụ kiện rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp; vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản.
- Có 8/100 người được hỏi không có ý kiến trả lời.
5. Về thành phần giải quyết các vụ kiện dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
- Đa số ý kiến được hỏi (80/100) cho rằng việc giải quyết các vụ kiện dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn không cần thiết phải được tiến hành bởi một hội đồng xét xử gồm nhiều thành viên. Lý do để người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho rằng không cần thiết là để đảm bảo tính độc lập của thẩm phán và nâng cao trách nhiệm của thẩm phán trong việc giải quyết các vụ kiện đơn giản hoặc để tiết kiệm cho Nhà nước về nguồn lực và các chi phí tố tụng. Cụ thể, có 71/80 người (chiếm 88,8%) cho rằng thành phần giải quyết các vụ kiện dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn không cần thiết phải là một hội đồng xét xử gồm nhiều thành viên để đảm bảo tính độc lập của thẩm phán và nâng cao trách nhiệm của thẩm phán trong việc giải quyết các vụ kiện đơn giản. Có 58/80 người cho rằng (chiếm 72,5%) thành phần giải quyết các vụ kiện dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn không cần thiết phải là một hội đồng xét xử gồm nhiều thành viên để tiết kiệm cho Nhà nước về nguồn lực và các chi phí tố tụng. Có 2 ý kiến khác (chiếm 2,5%) cho rằng đã là thủ tục rút gọn thì nên tiến hành nhanh chóng, đơn giải để tiết kiệm chi phí cho Nhà nước và chi phí ngoài tố tụng cho đương sự.
- Có 18/100 ý kiến được hỏi cho rằng việc giải quyết các vụ kiện dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn cần thiết phải được tiến hành bởi một hội đồng xét xử gồm nhiều thành viên. Trong đó, có 8/18 người cho rằng việc giải quyết các vụ kiện dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn cần thiết phải được tiến hành bởi một hội đồng xét xử gồm nhiều thành viên để đảm bảo nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Có 12/18 người cho rằng việc giải quyết các vụ kiện dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn cần thiết phải được tiến hành bởi một hội đồng xét xử gồm nhiều thành viên để hạn chế sự lạm quyền của thẩm phán, đảm bảo việc giải quyết vụ kiện khách quan và chính xác.
- Có 2 người không trả lời.
6. Về thời hạn giải quyết vụ kiện dân sự theo thủ tục rút gọn
- Đa số ý kiến được hỏi (97/100) cho rằng thời hạn giải quyết vụ kiện dân sự theo thủ tục rút gọn ngắn hơn thời hạn giải quyết vụ án dân sự thông thường.
- Có 3 người không trả lời.
7. Về việc Tòa án tiến hành hòa giải đối với các vụ kiện dân sự được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
- Theo kết quả khảo sát thì đa số ý kiến được hỏi (69/100) cho rằng Tòa án bắt buộc tiến hành hòa giải đối với các vụ kiện dân sự được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn.
- Có 29/100 người được hỏi cho rằng Tòa án không bắt buộc tiến hành hòa giải đối với các vụ kiện dân sự được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn.
- Có 2 người không trả lời.
8. Thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử vụ kiện dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
- Theo kết quả khảo sát thì đa số ý kiến được hỏi (90/100) cho rằng thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử vụ kiện dân sự theo thủ tục rút gọn thì tùy vào từng vụ kiện mà bỏ qua các bước không cần thiết.
- Số ít ý kiến còn lại (4/100) cho rằng thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử vụ kiện dân sự theo thủ tục rút gọn gồm bắt đầu phiên tòa, hỏi, tranh luận, nghị án, tuyên án.
- Có 6 người không trả lời.
9. Về hiệu lực của phán quyết của Toà sơ thẩm đối với các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
- Có 45/100 ý kiến được hỏi cho rằng nếu quy định các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định đương sự có quyền kháng cáo, VKS có quyền kháng nghị phúc thẩm.
- Có 51/100 ý kiến được hỏi cho rằng nếu quy định các vụ kiện có giá trị nhỏ, đơn giản được giải quyết theo thủ tục rút gọn được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định phán quyết có hiệu lực pháp luật và đem ra thi hành ngay.
- Có 2 người không trả lời và 2/100 người có ý kiến khác theo đó họ cho rằng phán quyết có hiệu lực ngay nhưng cần có cơ chế để bảo vệ quyền lợi của các đương sự.
10. Về hiệu lực của phán quyết của Toà sơ thẩm đối với các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ; sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp được giải quyết theo thủ tục rút gọn:
- Có 24/100 ý kiến được hỏi cho rằng nếu quy định các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền từ hợp đồng bằng văn bản...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định đương sự có quyền kháng cáo, VKS có quyền kháng nghị phúc thẩm.
- Có 53/100 ý kiến được hỏi cho rằng nếu quy định các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền từ hợp đồng bằng văn bản...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định phán quyết có hiệu lực pháp luật và đem ra thi hành ngay.
- Có 16/100 ý kiến cho rằng nếu quy định các vụ kiện có chứng cứ rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận, thanh toán tiền từ hợp đồng bằng văn bản...); sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì nên quy định Thẩm phán ra lệnh buộc thanh toán nghĩa vụ, thực hiện nghĩa vụ nếu đương sự phản đối phán quyết thì vụ kiện sẽ được đưa ra xét xử bằng một Hội đồng xét xử theo thủ tục thông thường.
- Có 7 người không trả lời.
Frequency Table
Câu 1
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Khong can thiet
|
2
|
2.0
|
2.0
|
2.0
|
Can thiet
|
98
|
98.0
|
98.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
Câu 1.2
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
|
Valid
|
Cau 1.2.1
|
52
|
53.1
|
53.1
|
|
Cau 1.2.2
|
84
|
85.7
|
85.7
|
|
Cau 1.2.3
|
73
|
74.5
|
74.5
|
|
Cau 1.2.4
|
0
|
0
|
0
|
|
Câu 1.1
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
|
Valid
|
Cau 1.1.1
|
0
|
0
|
0
|
|
Cau 1.1.2
|
2
|
100.0
|
100.0
|
|
Total
|
98
|
100
|
100
|
|
Total
|
2
|
100.0
|
100.0
|
|
Câu 2.5
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Câu 2.4
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Khong chon
|
54
|
54.0
|
54.0
|
54.0
|
Chon
|
46
|
46.0
|
46.0
|
100.0
|
Câu 2.3
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Khong chon
|
32
|
32.0
|
32.0
|
32.0
|
Chon
|
68
|
68.0
|
68.0
|
100.0
|
Câu 2.2
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Khong chon
|
16
|
16.0
|
16.0
|
16.0
|
Chon
|
84
|
84.0
|
84.0
|
100.0
|
Câu 2.1
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Khong chon
|
22
|
22.0
|
22.0
|
22.0
|
Chon
|
78
|
78.0
|
78.0
|
100.0
|
Valid
|
Khong chon
|
100
|
100.0
|
100.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
Câu 5
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Khong chon
|
2
|
2.0
|
2.0
|
2.0
|
Khong can thiet
|
80
|
80.0
|
80.0
|
82.0
|
Can thiet
|
18
|
18.0
|
18.0
|
100.0
|
Cau 4
|
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
|
Valid
|
Khong chon
|
8
|
8.0
|
8.0
|
8.0
|
|
Da xuat hiẹn
|
90
|
90.0
|
90.0
|
98.0
|
|
Chua xuat hien
|
2
|
2.0
|
2.0
|
100.0
|
|
Câu 3.4
|
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
|
Valid
|
Khong chon
|
68
|
68.0
|
68.0
|
68.0
|
|
Chon
|
32
|
32.0
|
32.0
|
100.0
|
|
Câu 3.3
|
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
|
Valid
|
Khong chon
|
46
|
46.0
|
46.0
|
46.0
|
|
Chon
|
54
|
54.0
|
54.0
|
100.0
|
|
Câu 3.2
|
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
|
Valid
|
Khong chon
|
88
|
88.0
|
88.0
|
88.0
|
|
Chon
|
12
|
12.0
|
12.0
|
100.0
|
|
Câu 3.1
|
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
|
Valid
|
Khong chon
|
79
|
79.0
|
79.0
|
79.0
|
|
Chon
|
21
|
21.0
|
21.0
|
100.0
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
|
Câu 6.2
|
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
|
Valid
|
Khong chon
|
3
|
3.0
|
3.0
|
3.0
|
|
Chon
|
97
|
97.0
|
97.0
|
100.0
|
|
Câu 6.1
|
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
|
Câu 5.2
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
|
Valid
|
Cau 5.2.1
|
8
|
44.4
|
44.4
|
|
Cau 5.2.2
|
12
|
66.7
|
66.7
|
|
Cau 5.2.3
|
0
|
0
|
0
|
|
Câu 5.1
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
|
Valid
|
Cau 5.1.1
|
71
|
88.8
|
88.8
|
|
Cau 5.1.2
|
58
|
72.5
|
72.5
|
|
Cau 5.1.3
|
2
|
2.5
|
2.644.4
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Valid
|
Khong chon
|
100
|
100.0
|
100.0
|
100.0
|
|
Total
|
18
|
100.0
|
100.0
|
|
Total
|
80
|
100.0
|
100.0
|
|
Câu 8.2
|
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
|
Valid
|
Khong chon
|
10
|
10.0
|
10.0
|
10.0
|
|
Chon
|
90
|
90.0
|
90.0
|
100.0
|
|
Câu 8.1
|
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
|
Valid
|
Khong chon
|
96
|
96.0
|
96.0
|
96.0
|
|
Chon
|
4
|
4.0
|
4.0
|
100.0
|
|
Câu 7
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Khong chon
|
2
|
2.0
|
2.0
|
2.0
|
Khong hoa giai
|
29
|
29.0
|
29.0
|
31.0
|
Co hoa giai
|
69
|
69.0
|
69.0
|
100.0
|
Câu 6.3
|
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
Valid
|
Khong chon
|
100
|
100.0
|
100.0
|
100.0
|
|
Câu 9.1
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Khong chon
|
55
|
55.0
|
55.0
|
55.0
|
Chon
|
45
|
45.0
|
45.0
|
100.0
|
Câu 8.3
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
Valid
|
Khong chon
|
100
|
100.0
|
100.0
|
100.0
|
Câu 9.2
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Khong chon
|
49
|
49.0
|
49.0
|
49.0
|
Chon
|
51
|
51.0
|
51.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
Câu 9.3
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Khong chon
|
98
|
98.0
|
98.0
|
98.0
|
Chon
|
2
|
2.0
|
2.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
Câu 10.1
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Khong chon
|
76
|
76.0
|
76.0
|
76.0
|
Chon
|
24
|
24.0
|
24.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
Câu 10.2
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Khong chon
|
47
|
47.0
|
47.0
|
47.0
|
Chon
|
53
|
53.0
|
53.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
Câu 10.3
|
|
|
Frequency
|
Percent
|
Valid Percent
|
Cumulative Percent
|
Valid
|
Khong chon
|
84
|
84.0
|
84.0
|
84.0
|
Chon
|
16
|
16.0
|
16.0
|
100.0
|
Total
|
100
|
100.0
|
100.0
|
|
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
-
Bộ luật Dân sự Việt Nam (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Bộ luật Dân sự Việt Nam (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Bộ Dân sự và Thương sự tố tụng Việt Nam cộng hoà (1972), Nxb Thần Chung, Sài Gòn.
-
Bộ luật Tố tụng dân sự của Liên bang Nga (2005), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
-
Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (2002), Bản dịch tiếng Việt, Hà Nội.
-
Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hoà Pháp (1998), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
-
Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản (2002), Bản dịch tiếng Việt, Hà Nội.
-
Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam (2004), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
-
Ngô Cường (2014), “Mô hình Tòa án đơn giản ở Nhật Bản”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 16, kỳ II tháng 8/2014.
-
Đảng cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII - Hà Nội.
-
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08 - NQ/TƯ ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
-
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
-
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49 - NQ/TƯ ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
-
Lưu Tiến Dũng (2005), "Công bố phán quyết của Tòa án, cảm nghĩ của một luật sư", Tạp chí Tòa án nhân dân.
-
Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, Nxb Khai Trí, Sài gòn.
-
Hiến pháp sửa đổi năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Hoàng Phê (chủ biên) (2004), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học.
-
Khoa Pháp luật Dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội (2014) “Xu hướng đơn giản hóa thủ tục tố tụng trên thế giới và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, ngày 10/10/2014, Hội thảo cấp Khoa.
-
Luật bảo vệ người tiêu dùng năm 2010, Nxb Lao động, Hà Nội.
-
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959.
-
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1983.
-
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1989.
-
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1994.
-
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960
-
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981
-
Luật tổ chức Tòa án nhân dân (1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Luật tổ chức Tòa án nhân dân (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960.
-
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Uông Chu Lưu (chủ nhiệm đề tài) (2006), Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Chương trình Khoa học xã hội cấp Nhà nước (2001-2005), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu Đề tài KX.04.06, Hà Nội.
-
Michael BOGDAN (1994), “Luật So sánh”, Kluwer Norstedts juridik Tano (Người dịch: PGS. TS. Lê Hồng Hạnh và Ths. Dương Thị Hiền).
-
Nhà pháp luật Việt - Pháp (1998), Hội thảo pháp luật tố tụng dân sự, ngày 7, 8/09/1998, Hà Nội.
-
Nhà pháp luật Việt - Pháp (1998), Thủ tục xét xử cấp thẩm và việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án, Tài liệu hội thảo về pháp luật TTDS.
-
Nhà pháp luật Việt - Pháp (2000), Kỷ yếu Hội thảo pháp luật TTDS, ngày 9,10 và 1/10/2000, Hà Nội.
-
Nhà pháp luật Việt - Pháp (2001), Nội dung trao đổi về một số điểm của Bộ luật TTDS, ngày 27/06/2001, Hà Nội.
-
Trần Đình Nhã (chủ nhiệm đề tài) (2005), Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các thủ tục tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Chương trình Khoa học xã hội cấp Nhà nước (2001-2005), Đề tài cấp Nhà nước KX.04.06, Đề tài nhánh 03, Hà Nội.
-
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (1989), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Bibliotheque Lê Văn Phúc (1922), Bộ Bắc kỳ pháp viện biên chế và Bộ luật dân sự, thương sự tố tụng Bắc kỳ 1921, Hà Nội - hnp. Tonkinoise.
-
Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 "Ấn định thẩm quyền các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án" (1946), Việt Nam dân quốc công báo.
-
Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 "Về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng" (1950), Việt Nam dân quốc công báo, (6).
-
TANDTC (2010), Bản tổng hợp ý kiến Bộ, ngành về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự ngày 1/9/2010, Hà Nội.
-
TANDTC (2005), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ năm 2006 của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
-
TANDTC (2006), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2006 và phương hướng nhiệm vụ năm 2007 của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
-
TANDTC (2007), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2007 và phương hướng nhiệm vụ năm 2008 của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
-
TANDTC (2008), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2008 và phương hướng nhiệm vụ năm 2009 của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
-
TANDTC (2009), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010 của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
-
TANDTC (2010), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ năm 2011 của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
-
TANDTC (2011), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012 của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
-
TANDTC (2012), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2012 và phương hướng nhiệm vụ năm 2013 của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
-
TANDTC (2013), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2013 và phương hướng nhiệm vụ năm 2014 của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
-
TANDTC (1995), Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
-
TANDTC (2010), Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTDS, Hà Nội.
-
TANDTC (2000), Về pháp luật tố tụng dân sự, Kỷ yếu Dự án VIE/95/017 Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam, Hà Nội.
-
Lê Tài Triển (1974), Nhiệm vụ của Chánh thẩm tòa hộ, Nxb. Khai Trí, Sai gòn.
-
Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Những khía cạnh tâm lý trong hoạt động xét xử, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội.
-
Trần Anh Tuấn (2000), “Những vấn đề lí luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ, Hà Nội.
-
Trần Anh Tuấn (2004), “Thủ tục xét xử nhanh trong Bộ luật TTDS Pháp và yêu cầu xây dựng thủ tục rút gọn trong Bộ luật TTDS Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ pháp luật, (2).
-
Trần Anh Tuấn (2009), “Pháp luật TTDS Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế”, trong cuốn “Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển bền vững”, Nxb CAND, Hà Nội.
-
Trần Anh Tuấn (Chủ nhiệm đề tài) (2010), Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Mã số: LH - 09 - 04/ĐHL - HN, Hà Nội.
-
Đặng Thị Hồng Tuyến (2013), “Thủ tục TTDS của Anh - Một vài kinh nghiệm cho TTDS Việt Nam”, Thủ tục TTDS một số nước trên thế giới, Hội thảo khoa học của Trường Đại học Luật hà Nội, tháng 10/2013.
-
Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2004), Một số vấn đề về Luật tố tụng dân sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (3), Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội.
-
Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2001), Những quan điểm cơ bản về Bộ luật TTDS Việt Nam, Báo cáo tổng quan đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
-
Japan International operation agency (1998), Japaness Law - Volume 2 (1997 -1998).
TÀI LIỆU TIẾNG PHÁP
-
Pierre ESTOUP (1990), La pratique des procédures rapides, Édition Litec.
-
Serge Guinchard (2001), Gabriel Montagnier, Lexique des termes juridiques, édition Dalloz.
-
Serge Guinchard, Frédérique Ferrand (2006), Procédure civile Droit interne et droit communautaire, édition Dalloz.
-
Serge guinchard, Gabriel Montagnier, André Varinard, Thiery Debard(2013), Institutions juridictionnelles, Dalloz.
TRANG WEB
-
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP, Án dân sự: Có nên xử rút gọn?
-
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP, Thủ tục rút gọn: Chỉ xử trong vòng một tháng?
-
http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx, Hải Lộc, “Tìm hiểu hệ thống Tòa án và công tác đào tạo các chức danh tư pháp của Cộng hòa Liên bang Đức”.
-
http://luatminhkhue.vn/hinh-su/an-rut-gon.
-
http://dantri.com.vn/kinh-doanh/bac-yeu-cau-doi-vietcombank-tra-lai-5500-dong-phi-atm-831786.htm
([2]). GS. Nguyễn Huy Đẩu (1962), “Luật dân sự tố tụng Việt Nam ”, xuất bản tại Sài Gòn, tr. 503.
([3]). GS. Nguyễn Huy Đẩu (1962) “Luật dân sự tố tụng Việt Nam ”, xuất bản tại Sài Gòn, tr. 503, 504.
([4]). GS. Nguyễn Huy Đẩu (1962), Tlđd, tr. 255, 256.
([5]). Serge Guinchard, Gabriel Montagnier (2001), Lexique des termes juridiques, édition Dalloz , tr. 325.
([6]). Michael BOGDAN (1994), “Luật So sánh”, Kluwer Norstedts juridik Tano, tr. 149 (Người dịch: PGS. TS. Lê Hồng Hạnh và Ths. Dương Thị Hiền) ; Hải Lộc, “Tìm hiểu hệ thống Tòa án và công tác đào tạo các chức danh tư pháp của Cộng hòa Liên bang Đức” từ địa chỉ trang Web: http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx.
([7]). Pierre ESTOUP (1990), La pratique des procédures rapides, Nxb Litec, tr. 279.
([8]). Serge Guinchard, Gabriel Montagnier (2001), Lexique des termes juridiques, édition Dalloz, tr. 306.
([9]). Serge Guinchard, Gabriel Montagnier (2001), Lexique des termes juridiques, édition Dalloz, tr. 307.
([10]).Michael BOGDAN, Tlđd, tr. 149 ; Hải Lộc, Tlđd từ địa chỉ trang Web: http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx.
([11]). Viện Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao (1995), “Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng BLTTDS”, Đề tài cấp bộ, tr. 70.
([12]). Viện Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao, Tlđd, tr. 82.
([13]). Trần Anh Tuấn (2000), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS Việt Nam”, Luận văn cao học, tr. 85.
([14]). Trần Anh Tuấn (2009), “Pháp luật TTDS Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế”, trong cuốn “Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển bền vững”, Nxb CAND, tr. 441.
([15]). TS. Nguyễn Công Bình, Chuyên đề 1, “Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục TTDS rút gọn”, tr. 131.
([16]). Hoàng Phê (chủ biên) (2004), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, tr. 960.
([17]). Hoàng Phê (chủ biên) (2004), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, tr. 960.
([18]). http://luatminhkhue.vn/hinh-su/an-rut-gon.
([19]). TS. Nguyễn Công Bình, Chuyên đề 1, “Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục TTDS rút gọn”, tr. 133.
([20]). TS. Nguyễn Công Bình, Chuyên đề 1, “Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn”, tr. 134.
([21]). TS. Trần Phương Thảo, Chuyên đề 3 “Sự tương đồng và khác biệt giữa thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục TTDS rút gọn ”, tr. 164.
([22]). TS. Nguyễn Công Bình, Chuyên đề 1, “Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn”, tr. 134; TS. Nguyễn Triều Dương, Chuyên đề 2, “Mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn với một số nguyên tắc cơ bản của TTDS”, tr. 144, 145; TS. Trần Phương Thảo, Chuyên đề 3, tr. 164; TS Trần Anh Tuấn và Luật sư Trương Quang Dũng - Công ty Luật Audier và cộng sự, Chuyên đề 4, “Thủ tục TTDS rút gọn theo pháp luật một số nước trên thế giới và việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam”, tr. 172 - 185.
([23]). Trần Anh Tuấn (2009), “Cơ sở xác định các việc dân sự và thủ tục áp dụng”, trong Đề tài Khoa học cấp trường về “Việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự tại Tòa án nhân dân”, Hà Nội, tr. 55. Trong Luận văn cao học “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS Việt Nam”, (2000) tại Trường ĐH Luật Hà Nội, tác giả đã đi theo hướng kiến nghị những loại việc trên sẽ được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn. Tuy nhiên, hiện nay các loại việc này đã được giải quyết theo một loại hình thủ tục tố tụng đơn giản hơn là thủ tục giải quyết việc dân sự.
([24]). TS. Trần Phương Thảo, Chuyên đề 3, “Sự tương đồng và khác biệt giữa thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục tố tụng dân sự rút gọn”, tr. 164.
([25]). TS Nguyễn Văn Cường, Ths. Phùng Thị Hoàn , Chuyên đề 6, “Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn”, tr. 197.
([26]). TS. Trần Anh Tuấn và Luật sư Trương Quang Dũng - Công ty Luật Audier và cộng sự, Chuyên đề 4, “Thủ tục TTDS rút gọn theo pháp luật một số nước trên thế giới và việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam”, tr. 175, 176; TS. Trần Phương Thảo, Chuyên đề 3, “Sự tương đồng và khác biệt giữa thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục tố tụng dân sự rút gọn”, tr. 170.
([27]). TS. Nguyễn Công Bình, Chuyên đề 1, “Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục TTDS rút gọn”, tr. 136; TS. Nguyễn Văn Cường, Chuyên đề 6, “Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn”, tr. 195, 196; TS. Trần Phương Thảo, Chuyên đề 3, “Sự tương đồng và khác biệt giữa thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục tố tụng dân sự rút gọn” tr. 167, 168; TS. Trần Anh Tuấn, Chuyên đề 7, “Thực trạng xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam”, tr. 226, 230; TS. Trần Anh Tuấn và Ths. Đặng Thanh Hoa, Chuyên đề 8, “Yêu cầu của cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế, quốc tế đối với việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam”, tr. 242,243.
([28]). Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49 - NQ/TƯ ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội, tr. 3, 4.
([29]). Mác – Ănghen (1995), tập 1, tr. 158; Serge Guinchard et Frédérique Ferrand (2006), "Procédure civile", Dalloz, 20 édition, tr. 129.
([30]). TS. Trần Anh Tuấn (2010), “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư pháp”; Đề tài khoa học cấp trường, Hà Nội, tr. 6.
([31]). TS. Nguyễn Triều Dương, Chuyên đề 2, “Mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn với một số nguyên tắc cơ bản của TTDS”, tr. 144, 145; Xem Điều 103 Hiến pháp năm 2013.
([32]). TS. Trần Phương Thảo, Chuyên đề 3, “Sự tương đồng và khác biệt giữa thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục tố tụng dân sự rút gọn”tr. 168, 169.
([33]). TS. Nguyễn Triều Dương, Chuyên đề 2, “Mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn với một số nguyên tắc cơ bản của TTDS”, tr. 159, 160.
([34]). Viện Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao (1995), “Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng BLTTDS”, Đề tài cấp bộ, tr. 72.
([35]). Trần Anh Tuấn (2000), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS Việt Nam”, Luận văn cao học, tr. 41.
([36]). Trần Anh Tuấn (2000), Tlđd, tr. 73.
([37]). Điều 103 Hiến pháp năm 2013.
([38]). TS. Bùi Thị Huyền, Chuyên đề 10, “Về đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn”, tr. 256, 257.
([39]). Trần Anh Tuấn (2009), “Pháp luật TTDS Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế”, trong cuốn “Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển bền vững”, Nxb CAND, tr. 445.
([40]).TS. Nguyễn Triều Dương, Chuyên đề 2, “Mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn với một số nguyên tắc cơ bản của TTDS”, tr. 159; Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2004), Một số vấn đề về Luật TTDS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội, tr.17, 18.
([41]). Michael BOGDAN (1994), “Luật So sánh”, Kluwer Norstedts juridik Tano, tr. 149 (Người dịch: PGS. TS. Lê Hồng Hạnh và Ths. Dương Thị Hiền) ; Hải Lộc, “Tìm hiểu hệ thống Tòa án và công tác đào tạo các chức danh tư pháp của Cộng hòa Liên bang Đức” từ địa chỉ trang Web: http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx.
([42]). Michael BOGDAN (1994), Tlđd, tr. 149; Hải Lộc, Tlđd từ địa chỉ trang Web: http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx.
([43]). Serge guinchard, Gabriel Montagnier, André Varinard, Thiery Debard, Institutions juridictionnelles, Dalloz 2013, tr. 450.
([44]). Serge guinchard, Gabriel Montagnier, André Varinard, Thiery Debard, sđd, tr. 445.
([45]). Nhà pháp luật Việt - Pháp (1998), “Thủ tục xét xử cấp thẩm và việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án”, Tài liệu hội thảo về Pháp luật TTDS, tr. 41.
([46]). Hệ thống tổ chức Toà án ở Úc - Tài liệu chuyên đề của Bộ tư pháp, 1996, tr. 98.
([47]). Ngô Cường (2014), “Mô hình Tòa án đơn giản ở Nhật Bản”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 16, kỳ II tháng 8/2014, tr. 43.
([48]). Hệ thống pháp luật Nhật Bản - Tài liệu hội thảo của tổ chức JICA Nhật Bản, 1999, tr. 241.
([49]). Ngô Cường (2014), “Mô hình Tòa án đơn giản ở Nhật Bản”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 16, kỳ II tháng 8/2014, tr. 43.
([50]). Ngô Cường (2014), Tlđd, tr. 44.
([51]). Lưu Tiến Dũng (1995), “Một số nét cơ bản pháp luật TTDS nước ngoài”, trong công trình “Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng BLTTDS”, Đề tài cấp bộ, tr. 161, 164, 165.
([52]). Lưu Tiến Dũng (1995), Tlđd, tr. 165.
([53]). Ngô Cường (2014), “Mô hình Tòa án đơn giản ở Nhật Bản”, Tạp chí Tòa án nhân dân, kỳ II tháng 8/2016 (số 16), tr. 43.
([54]). Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, Nxb Khai Trí, Sài gòn, tr 255, 256.
([55]). Trần Anh Tuấn (2000), Tlđd, tr. 61, 62.
([56]). TS. Lê Thu Hà, Chuyên đề 5, “Lược sử hình thành và phát triển các quy định liên quan đến thủ tục TTDS rút gọn”, tr. 187.
([57]). Trần Anh Tuấn (2000), Tlđd, tr. 15.
([58]). TS. Lê Thu Hà, Chuyên đề 5, “Lược sử hình thành và phát triển các quy định liên quan đến thủ tục TTDS rút gọn”, tr. 190.
([59]). Trần Anh Tuấn (2000), Tlđd, tr. 16, 17.
([60]). Luật này được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa thứ nhất, kỳ họp thứ 11, thông qua trong phiên họp ngày 31/12/1959.
([61]). Luật này được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, kỳ họp thứ 6 thông quan ngày 26/12/1983.
([62]). Luật số 20-LCT/HĐNN8 ngày 30/6/1989, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 30/6/1989
([63]). Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính do Ủy ban Thường vụ quốc hội ban hành ngày 21/5/1996, có hiệu lực từ 1/7/1996.
([64]). TS. Lê Thu Hà, Chuyên đề 5, “Lược sử hình thành và phát triển các quy định liên quan đến thủ tục TTDS rút gọn”, tr. 189.
([65]). Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự được Hội đồng nhà nước thông qua ngày 29/11/1989, có hiệu lực từ 1/1/1990.
([66]). TS. Lê Thu Hà, Chuyên đề 5, “Lược sử hình thành và phát triển các quy định liên quan đến thủ tục TTDS rút gọn”, tr. 190, 191.
([67]). Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát, tr. 315 - 316.
([68]). Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2005 đến 2013.
([69]). Xem Bảng số liệu tình hình giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án các cấp qua các năm 2005 đến năm 2013, TS. Bùi Thị Huyền, Chuyên đề 10, “Về đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn”, tr. 258.
([70]). TS Nguyễn Văn Cường, Ths. Phùng Thị Hoàn – Viện khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao, Chuyên đề 6, “Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn”, tr. 199 - 200.
([71]). Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát, tr. 328.
([72]). Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát, tr. 323.
([74]). TS Nguyễn Văn Cường, Ths. Phùng Thị Hoàn – Viện khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao, Chuyên đề 6, “Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn”, tr. 201.
([75]). Thẩm phán Nguyễn Huyền Cường, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, Chuyên đề 11, “Về bảo đảm hiệu quả của hoạt động tố tụng và quyền tiếp cận công lý của công dân khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn”, tr. 276, 277.
([76]). TS. Nguyễn Minh Tuấn, TS. Phạm Văn Tuyết và TS. Trần Anh Tuấn, Hội thảo “Xu hướng đơn giản hóa thủ tục tố tụng trên thế giới và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, ngày 10/10/2014, Khoa Pháp luật Dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội.
([77]). Xem thêm Ths. Trần Anh Tuấn (2000), Tlđd, tr. 67.
([78]). TS Nguyễn Văn Cường, Ths. Phùng Thị Hoàn - Viện khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao, Chuyên đề 6, “Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn”, tr. 205, 207.
([79]). Trần Anh Tuấn (2000), Tlđd, tr. 48 - 50.
([80]). Ths. Vũ Phương Đông, Hội thảo “Xu hướng đơn giản hóa thủ tục tố tụng trên thế giới và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, ngày 10/10/2014, Khoa Pháp luật Dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội.
([82]). Đảng cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII - Hà Nội, tr. 57.
([83]). Trần Anh Tuấn, Chuyên đề 7, “Thực trạng xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam”, tr. 222, 223.
([84]). TANDTC (2010), Bản tổng hợp ý kiến Bộ, ngành về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS ngày 1/9/2010, Hà Nội, tr. 195.
([85]). Luật sư Trần Đức Sơn - Công ty Luật Mayer Brown JSM, Chuyên đề 9, “Về xác định phạm vi loại việc khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam”, tr. 245.
([86]). Ngày 29 tháng 3 năm 2011, Quốc hội đã thông qua Luật số 65/2011/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS. Các quy định về thủ tục rút gọn như được đề xuất trong Dự thảo 3 đã không được đưa vào Luật số 65/2011/QH12.
([87]). TS Nguyễn Văn Cường, Ths. Phùng Thị Hoàn - Viện khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao, Chuyên đề 6, “Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn”, tr. 198.
([88]). Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội, tr. 5.
([89]). Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49 - NQ/TƯ ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội, tr. 2.
([90]). Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Tlđd, tr. 3, 4.
([91]). TS. Trần Anh Tuấn (ĐH Luật HN) và Ths. Đặng Thanh Hoa (ĐH Luật Thành phố HCM), Chuyên đề 8, “Yêu cầu của cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam”, tr. 235; TS Nguyễn Văn Cường, Ths. Phùng Thị Hoàn - Viện khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao, Chuyên đề 6, “Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn”, tr. 210, 211.
([92]). TS. Trần Anh Tuấn và LS. Trương Quang Dũng, Chuyên đề 4 “Thủ tục TTDS rút gọn theo pháp luật một số nước trên thế giới và việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam”, tr. 178, 179.
([93]). Michael BOGDAN, “Luật So sánh”, Kluwer Norstedts juridik Tano, tr. 149 (Người dịch: PGS. TS. Lê Hồng Hạnh và Ths. Dương Thị Hiền) ; Hải Lộc, “Tìm hiểu hệ thống Tòa án và công tác đào tạo các chức danh tư pháp của Cộng hòa Liên bang Đức” từ địa chỉ trang Web: http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx.
([94]). Michael BOGDAN, Tlđd, tr. 149; Hải Lộc, Tlđd từ địa chỉ trang Web: http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx.
([95]). Trần Anh Tuấn, Chuyên đề 7, “Thực trạng xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam”, tr. 223.
([96]). Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát, tr. 319, 320.
([97]). Trần Anh Tuấn (2000), Tlđd, tr. 44 - 47.
([98]). TS Nguyễn Văn Cường, Ths. Phùng Thị Hoàn - Viện khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao, Chuyên đề 6, “Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn”, tr. 206, 207.
([99]). TS. Nguyễn Minh Tuấn, TS. Phạm Văn Tuyết và TS. Trần Anh Tuấn, Hội thảo “Xu hướng đơn giản hóa thủ tục tố tụng trên thế giới và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, ngày 10/10/2014, Khoa Pháp luật Dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội.
([100]). Xem thêm Ths. Trần Anh Tuấn (2000), Tlđd, tr. 67.
([101]). Hội thảo “Xu hướng đơn giản hóa thủ tục tố tụng trên thế giới và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, ngày 10/10/2014, Khoa Pháp luật Dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội.
([102]). Viện Khoa học xét xử TANDTC (1996), “Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng BLTTDS”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội, tr. 72.
([103]). Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát, tr. 319, 320.
([104]).Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát, tr. 321, 322.
([105]). Viện Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao (1995), “Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng BLTTDS”, Đề tài cấp bộ, tr. 72.
([106]). Trần Anh Tuấn (2000), Tlđd, tr. 73.
([107]).Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát, tr. 320.
([108]). LS. Trần Đức Sơn, Chuyên đề 9, “Xác định phạm vi loại việc khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam”, tr. 250.
([109]). TANDTC, Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân năm 2005 - 2013
([110]).Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát, tr. 328, 329.
([111]).Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát, tr. 330.
([112]). TS. Bùi Thị Huyền, Chuyên đề 10, “Về đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán khi xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn”, tr. 267, 268.
([113]).Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát, tr. 331.
([114]). TS. Trần Phương Thảo, Chuyên đề 3, “Sự tương đồng và khác biệt giữa thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục tố tụng dân sự rút gọn”, tr. 168, 169.
([115]). TS Nguyễn Văn Cường, Ths. Phùng Thị Hoàn - Viện khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao, Chuyên đề 6, “Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn”, tr. 213, 214.
([116]). Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát, tr. 323.
([117]). Trần Anh Tuấn (2000), Tlđd, tr. 74 - 75.
([118]). TANDTC (2000), Về pháp luật TTDS, Kỷ yếu Dự án VIE/95/017 Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam, Hà Nội, tr. 136.
([119]). TS. Nguyễn Thị Thu Hà, Chuyên đề 12, Việc bảo đảm quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của đương sự khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn, tr. 282.
([120]). Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát, tr. 324.
([121]). TS. Nguyễn Thị Thu Hà, Chuyên đề 13, “Việc bảo đảm quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của đương sự khi xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn”, tr. 303.
([122]). Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát, tr. 324.
([123]). Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát, tr. 327.
([124]).Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát, tr. 324.
([125]). TS. Nguyễn Thị Thu Hà, Chuyên đề 12, “Việc bảo đảm quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của đương sự khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ”, tr. 288, 289.
([126]). Ngô Cường, “Mô hình Tòa án đơn giản ở Nhật Bản”, Tạp chí Tòa án nhân dân, kỳ II tháng 8/2016 (số 16), tr. 43.
([127]).Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát, tr. 325.
([128]). Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, Nxb Khai Trí, Sài gòn, tr 255, 256.
([129]). Trần Anh Tuấn (2000), “Tlđd, tr. 15.
([130]). Trần Anh Tuấn (2009), “Pháp luật TTDS Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế”, trong cuốn “Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển bền vững”, Nxb CAND, tr. 445.
([131]). TS. Nguyễn Triều Dương, Chuyên đề 2, “Mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn với một số nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự”, tr. 158; Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2004), Một số vấn đề về Luật TTDS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (3), Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội, tr.17, 18.
([132]). Serge Guinchard, Gabriel Montagnier, Lexique des termes juridiques, édition Dalloz 2001, tr. 325.
([133]). Serge Guinchard, Gabriel Montagnier, Lexique des termes juridiques, édition Dalloz 2001, tr. 306.
([134]). Serge Guinchard, Gabriel Montagnier, Lexique des termes juridiques, édition Dalloz 2001, tr. 307.
([135]). Hoàng Phê (chủ biên) (2004), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, tr. 960.
([136]). Hoàng Phê (chủ biên) (2004), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, tr. 960.
([137]). Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, tr. 10.
([138]). http://luatminhkhue.vn/hinh-su/an-rut-gon.
([139]). Trần Anh Tuấn, “Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế”, Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển bền vững”, Nxb CAND, tr. 440, 445, 446.
(1). http://toaan.gov.vn/
([140]). Đinh Trung Tụng (2004), "Những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật TTDS", Đặc san chuyên đề Bộ luật TTDS, Hà Nội, tr. 237.
([141]). Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội, tr.5.
([142]). Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49 - NQ/TƯ ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội, tr.10.
([143]). Điều 103 Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2013.
([144]).Trần Anh Tuấn (Chủ nhiệm đề tài) (2010), Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Mã số: LH - 09 - 04/ĐHL - HN, Hà Nội, tr.6.
([145]). Lê Tài Triển (1974), Nhiệm vụ của Chánh thẩm tòa hộ, Nxb. Khai Trí, Sai gòn, tr. 71, 72.
([146]). Lưu Tiến Dũng (2000), “Nội dung cơ bản của BLTTDS Đài Loan”, Về Pháp luật TTDS, Kỷ yếu của Dự án VIE/95/017, Hà Nội, tr. 135, 136.
([147]).Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2004), Một số vấn đề về Luật TTDS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (3), Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội, tr.68, 69.
([148]). Khoản 4 Điều 103 Hiến pháp năm 2013
([149]).Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2004), Một số vấn đề về Luật TTDS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (3), Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội, tr.17, 18.
([150]).Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2004), Một số vấn đề về Luật TTDS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (3), Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội, tr.72, 73.
([151]). Nhà pháp luật Việt - Pháp (2000), Kỷ yếu Hội thảo pháp luật TTDS, ngày 9,10 và 1/10/2000, Hà Nội, tr. 52.
([152]). Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng, tr. 960.
([153]). Hệ thống tổ chức tòa án ở Úc - Tài liệu chuyên đề của Bộ Tư pháp, 1996, tr. 98
([154]). Hệ thống pháp luật Nhật Bản - Tài liệu hội thảo của tổ chức JICA Nhật Bản, 1999, tr. 421.
([155]). Lưu Tiến Dũng (1995), “Một số nét cơ bản của pháp luật TTDS nước ngoài”, Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng BLTTDS, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Viện Khoa học xét xử - TANDTC, tr. 162.
([156]). Lưu Tiến Dũng, sđd, tr. 165.
([157]). Lưu Tiến Dũng, sđd, tr.165.
([158]). Bùi Thị Huyền (Chủ nhiệm đề tài) (2008), Việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự tại TAND, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Hà Nội, tr. 55.
([159]). Lưu Tiến Dũng (1992), “Nội dung cơ bản của Bộ luật TTDS Đài Loan”, Văn bản pháp luật cơ bản của Đài Loan - Tập 2, Tài liệu xuất bản bằng tiếng Anh.
([160]). Lưu Tiến Dũng (1995), “Một số nét cơ bản pháp luật TTDS nước ngoài”, Một số vấn đề về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc xây dựng BLTTDS, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Viện khoa học xét xử - TANDTC, tr. 162.
([161]). Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội.
([162]). Luật sư Công ty Luật Audier và cộng sự.
([163]). Michael BOGDAN (1994), “Luật So sánh”, Kluwer Norstedts juridik Tano, tr. 149 (Người dịch: PGS. TS. Lê Hồng Hạnh và Ths. Dương Thị Hiền) ; Hải Lộc, “Tìm hiểu hệ thống Tòa án và công tác đào tạo các chức danh tư pháp của Cộng hòa Liên bang Đức” từ địa chỉ trang Web: http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx.
([164]). Michael BOGDAN (1994), Tlđd, tr. 149; Hải Lộc, Tlđd từ địa chỉ trang Web: http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx.
([165]). Serge guinchard, Gabriel Montagnier, André Varinard, Thiery Debard (2013), Institutions juridictionnelles, Dalloz, tr. 450.
([166]). Serge guinchard, Gabriel Montagnier, André Varinard, Thiery Debard, sđd, tr. 445.
([167]). Nhà pháp luật Việt - Pháp (1998), “Thủ tục xét xử cấp thẩm và việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án”, Tài liệu hội thảo về Pháp luật TTDS, tr. 41.
([168]). Hệ thống tổ chức Toà án ở Úc - Tài liệu chuyên đề của Bộ tư pháp, 1996, tr. 98.
([169]). Ngô Cường (2014), “Mô hình Tòa án đơn giản ở Nhật Bản”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 16, kỳ II tháng 8/2014, tr. 43.
([170]). Hệ thống pháp luật Nhật Bản - Tài liệu hội thảo của tổ chức JICA Nhật Bản, 1999, tr. 241.
([171]). Ngô Cường (2014), “Mô hình Tòa án đơn giản ở Nhật Bản”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 16, kỳ II tháng 8/2014, tr. 43.
([172]). Ngô Cường (2014), Tlđd, tr. 44.
([173]). Ngô Cường (2014), “Mô hình Tòa án đơn giản ở Nhật Bản”, Tạp chí Tòa án nhân dân, kỳ II tháng 8/2016 (số 16), tr. 43.
([174]). Luật này được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa thứ nhất, kỳ họp thứ 11, thông qua trong phiên họp ngày 31/12/1959.
([175]). LTCTAND đã được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá thứ II, kỳ họp thứ nhất, thông qua ngày 14 tháng 7 năm 1960.
([176]). Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự được Hội đồng nhà nước thông qua ngày 29/11/1989, có hiệu lực từ 1/1/1990.
([177]). Luật này được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, kỳ họp thứ 6 thông quan ngày 26/12/1983.
([178]). Luật số 20-LCT/HĐNN8 ngày 30/6/1989, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 30/6/1989
([179]). Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính do Ủy ban Thường vụ quốc hội ban hành ngày 21/5/1996, có hiệu lực từ 1/7/1996.
([180]). Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, Nxb Khai Trí, Sài gòn, tr 255, 256.
([181]). TANDTC (1996), Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật TTDS, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội, tr. 71.
([182]). TANDTC (1996), Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật TTDS, Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội, tr. 72.
([183]). TANDTC (2010), Bản tổng hợp ý kiến Bộ, ngành về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTDS ngày 1/9/2010, Hà Nội, tr. 195.
([184]). Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội.
([185]). Giảng viên Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
([186]). Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội, tr. 5.
([187]). Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49 - NQ/TƯ ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội, tr. 2.
([188]). Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Tlđd, tr. 3, 4.
([189]). Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Tlđd , tr. 10.
([190]). Chẳng hạn Điều 12 LTCTAND năm 1960 quy định “Toà án nhân dân thực hành chế độ xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Khi sơ thẩm, Toà án nhân dân gồm một Thẩm phán và hai HTND; trường hợp xử những vụ án nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì Toà án nhân dân có thể xử không có HTND”.
([191]). Serge Guinchard, Frédérique Ferrand (2006), Procédure civile Droit interne et droit communautaire, édition Dalloz, page. 1166.
([192]). Serge Guinchard, Frédérique Ferrand, sách đã dẫn, tr. 1166.
([193]). Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, Nxb Khai Trí, Sài gòn, tr. 114.
([194]). Giải pháp này cũng xuất phát từ ý tưởng về kiểm soát và định hướng hành vi của các tụng nhân theo “con đường chính” bằng pháp luật tố tụng theo triết lý của Phật giáo và Nho giáo.
([195]). Serge Guinchard, Frédérique Ferrand, sđd, tr. 871.
([196]). Theo các Sắc lệnh số 51/SL "Ấn định thẩm quyền các Toà án và sự phân công giữa các nhân viên trong Toà án" ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số 85/SL "Về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng" ngày 22/5/1980 thì cơ chế xét xử một lần được áp dụng đối với những vụ kiện mà đối tượng tranh chấp là những tài sản có giá trị nhỏ và được thực hiện ở các Toà án sơ cấp và đệ nhị cấp.
([197]). Ngày 29 tháng 3 năm 2011, Quốc hội đã thông qua Luật số 65/2011/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS. Các quy định về thủ tục rút gọn như được đề xuất trong Dự thảo 3 đã không được đưa vào Luật số 65/2011/QH12.
([198]). Ở Việt Nam, thủ tục TTDS rút gọn từng được quy định từ năm 1946. Tuy nhiên, thời đó hình thức tố tụng rút gọn này hạn chế ở chỗ chỉ có một hình thức duy nhất là xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm và chỉ được áp dụng đối với tranh chấp dân sự có giá ngạch thấp. Thủ tục TTDS rút gọn trước đây nằm rải rác trong một số văn bản như: Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 (về tổ chức Tòa án và quy định các ngạch thẩm phán) có quy định chánh án xử một mình; Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 (về thẩm quyền Tòa ánTòa án sơ cấp về dân sự, thương mại) và Điều 12 LTCTAND năm 1960 có quy định có thể xét xử một thẩm phán, không có HTND trong vụ án nhỏ, giản đơn, không quan trọng; Nghị định số 32 ngày 6/4/1952 của Bộ Tư pháp, Thông tư số 4013 ngày 9/5/1959 của Bộ Tư pháp và Thông tư liên bộ thẩm phán - TANDTC số 93 ngày 11/11/1959 có quy định Tòa ánTòa án huyện có quyền chung thẩm trong một số lĩnh vực.
([199]). Mặc dù, trong một số trường hợp cá biệt do các bên có tư tưởng theo kiện đến cùng để bảo vệ uy tín, danh dự hoặc do tâm lý ăn thua đương sự vẫn kháng cáo để yêu cầu Toà án cấp trên xem xét theo thủ tục phúc thẩm mặc dù giá trị vụ kiện là không lớn. Ví dụ có vụ tranh chấp một cây xoan, một bụi tre mà khiếu nại lên đến TANDTC (TANDTC (1996), Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật TTDS, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội, tr. 71).
([200]). Tuy nhiên, đối với những tranh chấp về tài sản có giá ngạch thấp nhưng lại liên quan đến việc xác định mốc giới về đất đai thì không nên áp dụng thủ tục rút gọn. Bởi vì, xác định tài sản đó thuộc sở hữu của ai sẽ kéo theo việc xác định quyền sử dụng đất của các bên vì vậy tranh chấp thường gay gắt và cũng không thể coi đây là trường hợp tranh chấp tài sản có giá ngạch thấp theo đúng nghĩa của nó. Trái lại, đối với các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng về tài sản hoặc nghĩa vụ về tài sản có giá ngạch thấp mà không liên quan đến quyền sử dụng đất thì có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn.
([201]). Vấn đề này trước đây đã từng được quan tâm nghiên cứu (xem TANDTC (1996), Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật TTDS, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội, tr. 72) và đã được thể hiện tại Điều 281b, Khoản 2, Dự thảo 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS.
([202]). Điều 2 Hiến pháp năm 2013.
([203]). Điều 102 Hiến pháp năm 2013.
([204]). Điều 102 Hiến pháp năm 2013.
([205]). Công báo của Việt Nam dân quốc ngày 16/02/1946.
([206]). Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08 - NQ/TƯ ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
([207]). Điều 103 Hiến pháp năm 2013.
([208]). TANDTC (2014), Báo cáo Tóm tắt Tổng kết công tác năm 2013 và nhiệm vụ trọng tâm công tác Tòa ánTòa án năm 2014 ngày 09/01/2014, tr. 1,2.
([209]). Uông Chu Lưu (chủ nhiệm đề tài) (2006), Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa ánTòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Chương trình Khoa học xã hội cấp Nhà nước (2001-2005), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu Đề tài KX.04.06, Hà Nội, tr .152.
([210]). Trần Đình Nhã (chủ nhiệm đề tài) (2005), Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các thủ tục tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Chương trình Khoa học xã hội cấp Nhà nước (2001-2005), Đề tài cấp Nhà nước KX.04.06, Đề tài nhánh 03, Hà Nội, tr. 42.
([211]). Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Những khía cạnh tâm lý trong hoạt động xét xử, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội, tr. 46.
([212]). Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2001), Những quan điểm cơ bản về Bộ luật TTDS Việt Nam, Báo cáo tổng quan đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội, tr. 166.
([213]). Trần Anh Tuấn, “Thủ tục xét xử nhanh trong Bộ luật TTDS Pháp và yêu cầu xây dựng thủ tục rút gọn trong Bộ luật TTDS Việt Nam”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 02/2004, tr. 24 - 27 & 52.
([214]) Bộ luật Tố tụng dân sự của Liên bang Nga (2005), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
([215]). Hệ thống pháp luật Nhật Bản - Tài liệu hội thảo của tổ chức JICA Nhật Bản, 1999, tr. 241.
([216]). Lưu Tiến Dũng, “Một số nét cơ bản pháp luật TTDS nước ngoài”, Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật TTDS, Đề tài cấp bộ số 95-98-046/ĐT của TANDTC, tr. 164.
([217]). Lưu Tiến Dũng, sđd, tr. 165.
([218]). Đặng Thị Hồng Tuyến (2013), “Thủ tục TTDS của Anh - Một vài kinh nghiệm cho TTDS Việt Nam”, Thủ tục TTDS một số nước trên thế giới, Hội thảo khoa học của Trường Đại học Luật hà Nội, tháng 10/2013, tr. 37.
([219]). Lưu Tiến Dũng (2005), "Công bố phán quyết của Tòa ánTòa án, cảm nghĩ của một luật sư", Tạp chí TAND số 12, tr. 18, 19.
([220]). Bùi Thị Huyền (2008), Phiên tòa sơ thẩm dân sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, tr. 184, 185.
([221]). Trần Anh Tuấn (Chủ nhiệm đề tài) (2010), Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Mã số: LH - 09 - 04/ĐHL - HN, Hà Nội, tr. 65.
([223]). TANDTC (2000), Về pháp luật TTDS, Kỷ yếu Dự án VIE/95/017 Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam, Hà Nội, tr. 136.
([225]). Trần Anh Tuấn (2000), “Những vấn đề lí luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ, tr. 24.
([226]).TANDTC (2000), Về pháp luật TTDS, Kỷ yếu Dự án VIE/95/017 Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam, Hà Nội, tr. 136.
([227]). TANDTC (2010), Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTDS, Hà Nội, tr. 113.
([229]).TANDTC (2000), Về pháp luật TTDS, Kỷ yếu Dự án VIE/95/017 - Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam, Hà Nội, tr. 27.
([230]). Nhà pháp luật Việt - Pháp (2001), Nội dung trao đổi về một số điểm của Bộ luật TTDS, ngày 27/06/2001, Hà Nội, tr. 11.
([231]). Nhà pháp luật Việt - Pháp (2001), Nội dung trao đổi về một số điểm của Bộ luật TTDS, ngày 27/06/2001, Hà Nội, tr. 11.
([232]). Trần Anh Tuấn (2004), “Thủ tục xét xử nhanh trong Bộ luật TTDS Pháp và yêu cầu xây dựng thủ tục rút gọn trong Bộ luật TTDS Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ pháp luật, (2), tr. 26.
([233]). Nhà Pháp Luật Việt - Pháp (2001), Nội dung trao đổi về một số điểm của Bộ luật TTDS, Hội thảo ngày 27/6/2001, Hà Nội, tr. 3.
([234]). Japan International operation agency (1998), Japaness Law - Volume 2 (1997 -1998), page. 81.
([235]). Tòa sơ cấp có thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm đối với các việc kiện dân sự, thương sự mà giá ngạch không quá 30 đồng bạc (khoản 3 Điều 6); các việc kiện về các khoản lệ phí đã phát sinh (Điều 7). Tòa ánTòa án tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm các việc kiện dân sự, thương sự mà giá ngạch quá 30 đồng bạc và không tới 100 đồng bạc; các việc kiện về bất động sản trị giá không quá 30 đồng bạc (Điều 13 Bắc kỳ pháp viện biên chế)
([236]). Tòa ánTòa án sơ cấp có quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm những việc kiện dân sự, thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn định không quá 150 đồng. Những việc kiện về các khoản lệ phí đã phát sinh ra trước toà án ấy không cứ giá ngạch nào. Tòa ánTòa án đệ nhị cấp có quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ kiện về bất động sản mà giá ngạch theo thời giá, hôm khởi tố hay theo văn tự không quá 150 đồng; Những việc kiện về động sản mà giá ngạch trên 450 đồng nhưng dưới 750 đồng.
(1) TANDTC (1996), Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật TTDS, Hà Nội, tr. 49.