• Thuộc tính
Tên đề tài Tuyên truyền phổ biến pháp luật ở tỉnh Phú Thọ - Thực trạng và giải pháp
Nội dung tóm tắt
Nội dung toàn văn

BỘ TƯ PHÁP

VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC PHÁP LÝ

--------o0o--------

 

 

 

BÁO CÁO ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ

TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở TỈNH PHÚ THỌ - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

 

 

 

CHỦ NHIỆM:

Cử nhân Luật học: Nguyễn Ngọc Hơn

Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Phú Thọ

 

PHÓ CHỦ NHIỆM:

Cử nhân Luật học: Phạm Minh Tiến

Phó Trưởng Phòng Văn bản pháp quy và TTPBGD pháp luật

 

THƯ KÝ:

  1. Cử nhân Luật học: Nguyễn Thị Thu Chung

Chuyên viên Phòng Văn bản pháp quy và TTPBGD pháp luật

  1. Cử nhân Luật học: Trần Thị Nhung

Chuyên viên Phòng Văn bản pháp quy và TTPBGD pháp luật

 

 

 

 

 

 

Việt Trì 2001

MỤC LỤC

 

Trang

LỜI MỞ ĐẦU

2

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

5

I. Bản chất, mục đích, chủ thể, đối tượng của giáo dục pháp luật.

5

II. Nội dung, hình thức, phương tiện, phương pháp giáo dục pháp luật.

9

III. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay.

12

 

 

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ.

18

I. Thực trạng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở Phú Thọ trong thời kỳ đổi mới.

18

II. Những giải pháp cơ bản tăng cường công tác tuyên truyền, phổ  biến, giáo dục pháp luật góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống ở Phú Thọ giai đoạn hiện nay.

36

 

 

KẾT LUẬN

53

CÁC BÁO CÁO MINH HỌA CHO ĐỀ TÀI

55

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

85

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nâng cao ý thức pháp luật, hình thành dần ý thức, thói quen “Sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật” trong cán bộ và nhân dân, đưa pháp luật vào các hoạt động quản lý nhà nước và đời sống xã hội.

Tuy nhiên, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật còn bị coi nhẹ, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của việc tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật, thực hiện đổi mới toàn diện về kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước Pháp quyền Việt Nam thực sự là của dân, do dân, vì dân. Mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, nhất là trong những năm gần đây, song trong thực tế những văn bản pháp luật đó ít đi vào cuộc sống, vì thế hiệu lực của pháp luật chưa cao. Nguyên nhân của thực trạng này có nhiều, trong đó có nguyên nhân là do coog tác phổ biến, giáo dục pháp luật làm chưa tốt; công tác giúp đỡ, tư vấn pháp luật cho cán bộ, nhân dân hầu như còn mới mẻ, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật còn nghèo nàn, thiếu chương trình cụ thể phù hợp cho từng loại đối tượng, nhất là các đối tượng làm công tác quản lý, công chức Nhà nước, thanh niên, học sinh và đồng bào vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo… Bên cạnh đó, các cấp, các ngành còn thiếu sự quan tâm đầu tư tương xứng cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật so với đầu tư cho xây dựng, ban hành văn bản pháp luật; còn ít những đề tài nghiên cứu lý luận và thực tiễn phổ biến giáo dục pháp luật để tìm ra những luận chứng khoa học cần thiết cho việc xây dựng những đề án, chương trình tổng thể, dài hạn về phổ biến, giáo dục pháp luật; thiếu một trung tâm chỉ đạo, điều hành thường xuyên, chặt chẽ và một cơ chế phối hợp tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật của cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo của các ban, ngành, đoàn thể, chính quyền các cấp đúng theo Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương lần thứ tám (khóa IV) năm 1980, các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, VI, VII, VIII, IX, Chỉ thị số 300 ngày 22-10-1997, Chỉ thị số 274 ngày 25-7-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính Phủ) và Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg, Quyết định 03/1998/QĐ-TTg ngày 7-1-1998 của Thủ tướng Chính phủ.

Từ vai trò và thực trạng của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật như đã nêu trên, đặt ra vấn đề phải tăng cường và đổi mới từng bước công tác hết sức quan trọng này ở tỉnh Phú Thọ, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, Báo cáo đề tài này đề cập tới vấn đề: “Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở tỉnh Phú Thọ - Thực trạng và giải pháp” nhằm được góp phần nhỏ vào nhiệm vụ quan trọng và bức xúc ở địa phương hiện tại và lâu dài, đảm bảo đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của công cuộc đổi mới làm cho nhân dân, cán bộ các cấp, các ngành ở tỉnh Phú Thọ thực sự “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.

Để phù hợp với mục đích trên, báo cáo đề tài được xây dựng theo các nội dung sau:

  • Một: phân tích những cơ sở lý luận của giáo dục pháp luật trong nhà nước cũng như yêu cầu khách quan phải tăng cường công tác này hiện nay.
  • Hai: phân tích, đánh giá thực trạng công tác giáo dục pháp luật hiện nay ở Phú Thọ.
  • Ba: đề xuất và phân tích các giải pháp, kiến nghị để khắc phục những tồn tại, hạn chế nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp luật ở địa phương Phú Thọ hiện nay.

Và báo cáo tham luận của một số huyện, các Sở, ban, ngành, đoàn thể và các đơn vị trong tỉnh về việc đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh nói chung và ở các địa phương, đơn vị nói riêng.

Báo cáo đề tài khoa học cấp cơ sở “Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở tỉnh Phú Thọ - Thực trạng và giải pháp” được nghiên cứu trên cơ sở thực tế công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở tỉnh Phú Thọ những năm qua, qua công tác kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm thực tiễn và trên cơ sở những vấn đề lý luận cơ bản về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Báo cáo đề tài này đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều Sở, ban, ngành, cấp ủy Đảng, chính quyền một số huyện, thành, thị trong tỉnh. Đặc biệt trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ chân thành, sự trao đổi thường xuyên của các đồng chí, đồng nghiệp của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, để có thể tránh được những bỡ ngỡ khi lần đầu thực hiện việc nghiên cứu một đề tài khoa học. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn tất cả những sự giúp đỡ quý báu đó.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

  1. BẢN CHẤT, MỤC ĐÍCH, CHỦ THỂ, ĐỐI TƯỢNG CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT.

Sự phát triển của lý luận Mác – Lê Nin về nhà nước và pháp luật, đặc biệt là trong những năm đổi mới đã đi tới khẳng định giáo dục pháp luật là một dạng giáo dục có tính độc lập tương đối trong hệ thống giáo dục nói chung. Điều này cho phép nghiên cứu giáo dục pháp luật trên các nội dung chủ yếu về bản chất, mục đích cũng như chủ thể, đối tượng của giáo dục pháp luật một cách khoa học và toàn diện.

  1. Bản chất của giáo dục pháp luật

Quan điểm chính thống, phổ biến hiện nay cho rằng: giáo dục pháp luật là sự tác động một cách có hệ thống, có mục đích và thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho họ một trình độ kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật.

Từ quan niệm trên, khoa học pháp lý tiếp cận giáo dục pháp luật theo hai phương diện rộng, hẹp khác nhau:

Theo nghĩa rộng: giáo dục được hiểu là quá trình ảnh hưởng của những điều kiện khách quan (chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, môi trường sống…) và của cả những nhân tố chủ quan (tác động tự giác, định hướng nhân tố của con người) lên đối tượng cần giáo dục.

Theo nghĩa hẹp: giáo dục pháp luật là quá trình tác động định hướng của nhân tố chủ quan lên đối tượng cần giáo dục.

Còn theo nghĩa rộng và cả theo nghĩa hẹp, giáo dục pháp luật đều có chung mục đích là hình thành ý thức pháp luật, tình cảm và lối sống theo pháp luật của đối tượng được giáo dục. Tuy nhiên, khoa học pháp lý trong nghiên cứu giáo dục theo nghĩa hẹp, bởi lẽ quá trình hình thành và phát triển của ý thức con người là kết quả ảnh hưởng, tác động thống nhất của các điều kiện khách quan và chủ quan nhưng nhân tố chủ quan bao giờ cũng là yếu tố tích cực, quyết định. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa phủ nhận vai trò của nhân tố khách quan trong giáo dục. Mác – Lê nin cho rằng trong quá trình giáo dục người lao động không được tách rời những điều kiện tồn tại của xã hội, như chế độ kinh tế, chính trị với những giai đoạn cụ thể của sự phát triển xã hội ấy. Sự thay đổi các điều kiện khách quan tất yếu sẽ tạo ra khả năng biến động trong đời sống tinh thần của con người và ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục. Như trên đã nêu, trong khi thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện khách quan, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê nin và các nhà giáo dục hết sức nhấn mạnh sự tác động cực kì quan trọng của nhân tố chủ quan trong việc bảo đảm cho hoạt động giáo dục mang tính định hướng, có tổ chức, có chủ định của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội. Các Mác viết “Con người vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Và do đó con người thay đổi vốn là sản phẩm hoàn cảnh và giáo dục”[1]. Nói cách khác ý thức cá nhân con người là sản phẩm của một quá trình phức tạp trong đó các điều kiện khách quan là nhân tố tác động cụ thể, tự phát, nhân tố chủ quan là nhân tố tác động bao giờ cũng là tự giác, có ý thức, có chủ định theo một hướng xác định.

Việc nghiên cứu giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp có ý nghĩa quan trọng nhằm phân biệt giáo dục pháp luật với sự hình thành ý thức pháp luật, theo đó giáo dục pháp luật chỉ là yếu tố trong quá trình hình thành ý thức ở cá nhân con người và có vai trò chủ đạo trong quá trình ấy. Đây là điều có giá trị to lớn cả về lý luận và cả về thực tiễn xây dựng ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, tình cảm và thói quen xử sự theo pháp luật chưa có điều kiện khách quan đầy đủ và thuận lợi thì việc cho phép phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan trong các hoạt động giáo dục pháp luật cụ thể.

Mặt khác, khi nghiên cứu giáo dục pháp luật với tính chất là một biện pháp của nhân tố chủ quan trong quản lý nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống cho thấy những đặc điểm chung của giáo dục pháp luật mà nó hàm chứa, ngoài ra còn thấy được những nét đặc thù riêng về mục đích, nội dung, về chủ thể, đối tượng, phương pháp và hình thức của nó. Xét về mục đích giáo dục pháp luật là nhằm tạo ra trí thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với yêu cầu của pháp luật; về nội dung đó là sự tác động định hướng nhằm truyền tải tri thức của nhân loại về nhà nước và pháp luật, trong đó những tri thức, hiểu biết về pháp luật thực định là bộ phận cực kì quan trọng. Chủ thể, khách thể, đối tượng và phương pháp giáo dục pháp luật cũng có những đặc thù riêng so với giáo dục nói chung.

Như vậy, có thể nêu bản chất của giáo dục pháp luật là hoạt động định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục, nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành với các hình thức, phương tiện, phương pháp đặc thù.

Bản chất trên cho thấy sẽ là sai lầm và phiến diện nếu cho rằng giáo dục pháp luật chỉ thuần túy là một bộ phận của giáo dục chính trị hay giáo dục đạo đức; càng sai lầm nếu như đồng nhất, coi giáo dục pháp luật là tuyên truyền, phổ biến hay giải thích pháp luật. Điều đó đã vô hình dung dẫn đến sự phủ nhận tính đặc thù của giáo dục pháp luật và nhất là phủ nhận sự tác động hoặc giá trị xã hội vốn có của pháp luật. Cũng từ bản chất trên cho phép kết luận giáo dục pháp luật là một giải pháp quan trọng để đưa pháp luật vào cuộc sống, gắn liền với hoạt động quản lý của nhà nước; tức là gắn liền với các quá trình, các giai đoạn của hoạt động quản lý. Do vậy giáo dục pháp luật được bắt đầu ngay từ khi tác động để khơi dậy và phát hiện ra sự quan tâm về lợi ích, nhu cầu của công dân và xã hội cần phải được điều chỉnh bằng pháp luật; kế tiếp theo, giáo dục pháp luật được thực hiện ngay trong quá trình xây dựng pháp luật, như cung cấp thông tin, phản ánh tập hợp các ý kiến đóng góp của các cơ quan lập pháp, cơ quan quản lý, giới luật gia, các địa phương và đối tượng thi hành. Giáo dục pháp luật trong quá trình thực hiện pháp luật không chỉ dừng lại ở mức độ thông tin, giáo dục phòng ngừa chung, mà nó còn có tác động đến ý thức, khả năng phát hiện đề xuất các đối tượng thi hành của nhân dân trong việc tham gia đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội.

Thực tế những năm đổi mới và thực hiện dân chủ hóa việc những văn bản pháp luật được thông tin, phổ biến rộng rãi để nhân dân tham gia như Hiến pháp 1992, các luật về Thuế, luật Đất đai, các luật Tổ chức bộ máy nhà nước, luật Lao động, luật Đầu tư, Bộ luật Dân sự v.v. đã thu hút được đại bộ phận nhân dân tham gia tìm hiểu, đóng góp nên chất lượng và tính khả thi cao, đồng thời tạo ra bước chuẩn bị quan trọng cho quá trình tổ chức thi hành sau khi văn bản có hiệu lực.

  1. Mục đích của giáo dục pháp luật:

Việc xác định mục đích của xã hội trong giáo dục pháp luật đóng vai trò hết sức quan trọng trong cả lý luận và thực tiễn giáo dục. Nếu xác định đúng mục đích sẽ làm cơ sở khoa học cho việc lựa chọn nội dung, hình thức, phương pháp thích hợp đem lại hiệu quả, chất lượng của việc giáo dục pháp luật.

Trong điều kiện ở nước ta hiện nay giáo dục pháp luật được xác định có những mục đích cơ bản sau:

- Nâng cao dân trí nói chung, trình độ văn hóa pháp lý nói riêng, hình thành làm sâu sắc và từng bước mở rộng tri thức pháp luật cho công dân. Thông qua việc giáo dục pháp luật mà cung cấp, trang bị cho người sự hiểu biết, tri thức cơ bản về pháp luật (bản chất vai trò về các hình thức thể hiện, giá trị xã hội của pháp luật) về các giá trị của văn hóa pháp lý trong đời sống con người và xã hội. Đây là mục đích nhận thức của giáo dục pháp luật.

- Giáo dục làm hình thành và nâng cao lòng tin vào pháp luật, từ đó đảm bảo cho pháp luật được thi hành triệt để trên cơ sở sự hiểu biết và có sự tôn trọng. Lòng tin mà giáo dục pháp luật đem lại cho con người là dựa trên cơ sở khoa học trên cơ sở tri thức pháp luật; tức là tạo ra sự tôn trognj, tin tưởng có căn cứ, trở thành giá trị của pháp luật và sự cần thiết của hành vi hợp pháp trong xã hội, đối với cuộc sống mới con người. Đó chính là mục đích cảm xúc.

- Giáo dục pháp luật nhằm hình thành động cơ và hành vi tích cực pháp luật. Pháp luật được ban hành nhằm điều chỉnh hành vi phù hợp yêu cầu quản lý xã hội. Nhưng mục đích điều chỉnh của pháp luật được thực hiện thông qua hành vi xử sự cụ thể của con người và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, trong đó việc xử sự tự giác của công dân theo yêu cầu pháp luật là vấn đề quan trọng nhất để đảm bảo cho pháp luật phát huy được hiệu lực. Việc cung cấp tri thức pháp luật, giáo dục lòng tin sâu sắc để từ đó tạo ra sự tự nguyện tuân thủ pháp luật là hết sức quan trọng nhằm hình thành thói quen và động cơ đúng cho các hành vi hợp pháp trong tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật. Ở nước ta hiện nay ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện sự nhận thức của công dân và thái độ của họ đối với các quy định của pháp luật. Cho nên, ý thức pháp luật càng được nâng cao thì tinh thần tôn trọng pháp luật, thái độ xử sự theo yêu cầu của pháp luật càng được bảo đảm.

Khi nghiên cứu giáo dục pháp luật điểm cần lưu ý là sự hình thành tri thức pháp luật, lòng tin pháp luật và động cơ, hành vi hợp pháp là một quá trình tự giác và logic. Giữa các mục đích thống nhất chặt chẽ với nhau, từ tri thức pháp luật đến tính tự giác, tính tích cực, đến thói quen xử sự theo pháp luật.

  1. Chủ thể, đối tượng của giáo dục pháp luật

Như đã nêu ở trên: giáo dục pháp luật về bản chất là sự tác động có mục đích và định hướng của chủ thể giáo dục lên đối tượng giáo dục. Do vậy, tất cả những cá nhân tổ chức đã tham gia góp phần vào thực hiện các mục tiêu giáo dục pháp luật đều được hiểu là chủ thể giáo dục pháp luật. Từ đây, chủ thể giáo dục pháp luật được phân ra làm 2 loại: chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp.

- Chủ thể chuyên nghiệp: là những người mà nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp, thường xuyên, thực hiện mục tiêu giáo dục pháp luật, như các báo cáo viên, tuyên truyền viên về pháp luật ở hệ thống các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội các cấp, các phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên của cơ quan thông tin đại chúng (báo, đài phát thanh truyền hình, tạp chí về chuyên mục pháp luật ở các nhà trường; cán bộ và chuyên gia nghiên cứu và chỉ đạo giáo dục pháp luật tại cơ quan Nhà nước, tổ chức nghề nghiệp pháp luật, các tổ chức xã hội. Đây chính là lực lượng nòng cốt của các chủ thể giáo dục pháp luật.

- Chủ thể không chuyên nghiệp: là những người làm ở nhiều lĩnh vực với mục tiêu khác nhau, nhưng trong đó có nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu giáo dục pháp luật như: đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp, cán bộ của các cơ quan hành pháp; cán bộ là thành viên của các tổ chức chính trị - xã hội, Đảng, đoàn thể, các luật gia, luật sư đang hành nghề dịch vụ, tư vấn pháp luật, cán bộ, nhân viên các ngành kinh tế, quản lý nhà nước, công dân.

- Đối tượng của giáo dục pháp luật là các cá nhân công dân, những nhóm cộng đồng xã hội cụ thể tiếp nhận tác động của các hoạt động giáo dục pháp luật, trong đó ý thức pháp luật thói quen, nếp sống ứng xử hợp pháp của công dân, của các nhóm cộng đồng toàn xã hội, thể hiện trình độ nhất định của nền văn hóa pháp lý là khách thể của giáo dục pháp luật.

Ở nước ta hiện nay các đối tượng giáo dục pháp luật cần được quan tâm là cán bộ, công chức nhà nước, chủ các doanh nghiệp, thanh thiếu niên, nhất là học sinh, sinh viên, các đối tượng thuộc diện được Nhà nước đặc biệt quan tâm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ như phụ nữ, trẻ em, đồng bào dân tộc ít người, đồng bào vùng sâu, vùng xa…

Điều cần lưu ý là chủ thể và đối tượng giáo dục pháp luật chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận và chỉ có tính chất tương đối. Các Mác nói rất đúng rằng “người đi giáo dục cần phải được giáo dục”. Nói cách khác không có người chỉ luôn ở chủ thể giáo dục và người chỉ luôn ở vị trí đối tượng giáo dục. Sự phát triển của hệ thống pháp luật, thực tiễn pháp lý luôn có xu hướng và buộc các chủ thể phải thường xuyên đóng vai trò của đối tượng giáo dục và cùng với mục đích đạt được của giáo dục pháp luật sẽ kéo theo sự vươn lên của đối tượng trở thành chủ thể giáo dục. Cả hai hiện tượng này đều là những chỉ số tốt đẹp lành mạnh của giáo dục pháp luật và quản lý xã hội.

  1. NỘI DUNG, HÌNH THỨC, PHƯƠNG TIỆN, PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
  1. Nội dung giáo dục pháp luật.

Nội dung giáo dục pháp luật rất rộng lớn, bao gồm các thông tin chung về pháp luật, cả kiến thức cơ bản về pháp luật và các qui phạm pháp luật và các thông tin về thực hiện pháp luật, tôn trọng, vi phạm pháp luật, điều tra, xử lý vi phạm pháp luật, về thời sự pháp lý, kết quả, thành tựu trong nghiên cứu khoa học pháp lý.

Điều cần lưu ý khi nghiên cứu nội dung giáo dục pháp luật là không phải tất cả các nội dung đều được truyền tải đến tất cả các đối tượng giáo dục, mà tùy thuộc vào mục đích giáo dục các đối tượng:

- Mục đích này được xác định cụ thể tùy theo những đặc trưng của đối tượng, nhu cầu pháp luật của họ mà được xác định ở những phạm vi nhất định những thông tin pháp luật phù hợp, với liều lượng khác nhau.

Dựa vào đối tượng giáo dục và mục đích giáo dục người ta chia nội dung giáo dục pháp luật thành các dạng chính sau đây:

- Nội dung tối thiểu của giáo dục pháp luật phổ cập, tức là nội dung giáo dục áp dụng cho tất cả các đối tượng giáo dục, gồm một số kiến thức cơ bản về pháp luật, về bộ máy Nhà nước, quyền nghĩa vụ cơ bản công dân; một số quy định về trình tự, thủ tục pháp lý khi thực hiện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp… Nội dung này nhằm mục đích giúp công dân có kiến thức và sự hiểu biết cơ bản, tối thiểu trong quan hệ công dân với Nhà nước, hiểu quyền và nghĩa vụ cơ bản, biết những nguyên tắc, thủ tục sử dụng pháp luật trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

- Nội dung giáo dục chuyên ngành, bao gồm hệ thống những khái niệm cơ bản, thuật ngữ pháp lý cơ bản của khoa học pháp lý theo lĩnh vực chuyên biệt; các quy định của pháp luật thực định liên quan đến tổ chức quản lý, thực hiện cho cả chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục trong từng lĩnh vực, ngành và nhằm mục đích giúp đối tượng có tri thức, hiểu biết cơ sở khoa học pháp lý; quyền nghĩa vụ, thủ tục tố tụng khi thực hiện, bảo vệ các quyền nghĩa vụ thuộc từng ngành, nghề chuyên biệt.

- Nội dung giáo dục chuyên nghề pháp luật đây là cấp độ cao nhất của giáo dục pháp luật, bởi sự hiểu biết và thái độ, tình cảm cũng như kĩ năng sử dụng pháp luật là chuẩn mực về ý thức và hành vi tuân thủ pháp luật của đối tượng giáo dục này. Vì thế nội dung của giáo dục pháp luật phải đáp ứng đòi hỏi, phải có sự hiểu biết cả lý luận nhà nước pháp luật và hệ thống pháp luật chuyên sâu, chuyên ngành trong nước và quốc tế có liên quan đến công việc đối tượng đảm nhận. Đối với đối tượng này kĩ năng mà họ hình thành được qua giáo dục pháp luật không chỉ thể hiện ở chỗ vận dụng đúng đắn các tinh thần của pháp luật vào hoạt động mà còn phải biết phát hiện, đề xuất những sai sót, chồng chéo, lạc hậu để bổ sung, nâng cao tính khả thi, hoàn thiện pháp luật.

- Nội dung cá biệt: những nội dung này không mang tính phổ biến, chỉ được tiến hành đối với một bộ phận đối tượng nhưng đôi khi không phải số ít. Theo cách hiểu thông thường nội dung này chỉ áp dụng cho các đối tượng có vi phạm pháp luật như trẻ em hư, người phạm pháp, diện tệ nạn xã hội. Việc hiểu như vậy là chưa đầy đủ và phiến diện. Ở đây, giáo dục cá biệt còn bao hàm cả việc tiến hành giáo dục có tính chất dành riêng cho một số đối tượng, theo số chuyên đề phù hợp với mục đích của giáo dục pháp luật đề ra. Đôi khi nội dung giáo dục này trở thành một bộ phận của giáo dục chuyên ngành, chuyên nghề như đã nêu trên.

  1. Hình thức giáo dục pháp luật.

Hình thức giáo dục pháp luật là các dạng hoạt động cụ thể để tổ chức quá trình giáo dục pháp luật, để thể hiện nội dung giáo dục pháp luật. Các hình thức giáo dục pháp luật cụ thể rất đa dạng, phong phú nhưng có thể khái quát thành 2 loại cơ bản.

- Một: các hình thức giáo dục pháp luật mang tính phổ biến. Đó là những hình thức giáo dục pháp luật được áp dụng rộng rãi trên thực tế của các ngành, địa phương, cho tất cả các đối tượng giáo dục, như phổ biến, nói chuyện tại các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, địa bàn dân cư, tổ chức tập huấn, nghiên cứu, hội thảo về pháp luật của các ngành, các cấp, đoàn thể, giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động truyền thông, phổ biến pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo, tạp chí, ấn phẩm văn hóa, nghệ thuật, trên đài phát thanh, truyền thanh, truyền hình); giáo dục pháp luật với kiến thức phổ thông cho giáo viên và học sinh trong các hệ thống trường Đảng, trường đại học, trung học chuyên nghiệp, trường dạy nghề, trường luật, trường phổ thông, trường Đào tạo bồi dưỡng cán bộ tìm hiểu pháp luật.

- Hai: hình thức giáo dục pháp luật đặc thù đây là những hình thức giáo dục gắn với “truyền tải nội dung có tính chuyên biệt ngành, nghề”, thể hiện trong định hướng giáo dục pháp luật qua hoạt động của các cơ quan nhà nước khi tiến hành quá trình lập pháp, hành pháp, tư pháp (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân) của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành, thông qua hoạt động của các tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp pháp luật (tổ hòa giải, dịch vụ tư vấn pháp luật); giáo dục pháp luật thông qua hoạt động điều tra, khảo sát nhằm xây dựng pháp luật, sửa đổi, bổ sung pháp luật, hoặc đánh giá nhận thức, mức độ phổ biến, tính khả thi của pháp luật.

Từ việc xác định và phân loại hình thức trên cho ta thấy hình thức giáo dục pháp luật rất đa dạng phong phú; mỗi đối tượng giáo dục, nội dung giáo dục đều có thể được tiến hành dưới những hình thức khác nhau. Do vậy, trong tiến hành giáo dục pháp luật cần phải xác định rõ định hướng, yêu cầu nội dung giáo dục pháp luật ngay trong khi xây dựng các chương trình công tác nghiệp vụ, chuyên môn để lựa chọn những hình thức truyền tải tối ưu, đạt hiệu quả cao; đồng thời phải biết khai thác sử dụng tổng hợp các biện pháp phát huy ưu thế và khắc phục những điểm hạn chế trong mỗi loại hình thức được sử dụng khi giáo dục pháp luật.

  1. Phương tiện giáo dục pháp luật.

Phương tiện giáo dục pháp luật là các công cụ, kênh truyền tải nội dung giáo dục pháp luật từ chủ thể đến đối tượng để đạt được mục tiêu giáo dục pháp luật. Trên thực tế các phương tiện truyền tải nội dung giáo dục pháp luật chủ yếu hiện nay là các phương tiện thông tin đại chúng (đài truyền hình chiếm đến 80%, đài phát thanh, báo chí, sách, ấn phẩm văn hóa); qua học tập chính trị và quản lý; qua thảo luận lấy ý kiến các dự án pháp luật; qua hệ thống các nhà trường; qua hoạt động thực tiễn của các cơ quan áp dụng pháp luật (Điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, quyết định), qua hoạt động của các tổ chức đoàn thể, các hoạt động dịch vụ tư vấn, qua tấm gương và kinh nghiệm của các cá nhân, tập thể trong xã hội và qua quá trình tự tìm hiểu của bản thân mỗi thành viên trong xã hội.

  1. Phương pháp giáo dục pháp luật

Phương pháp giáo dục pháp luật là cách thức, biện pháp tổ chức quá trình giáo dục pháp luật. Phương pháp giáo dục pháp luật cũng rất đa dạng, phong phú từ thực tiễn giáo dục pháp luật cho thấy các phương pháp giáo dục pháp luật có thể được phân ra làm 2 nhóm cơ bản:

- Các phương pháp áp dụng trong một hoạt động giáo dục pháp luật cụ thể như phương pháp giải thích, phương pháp thuyết phục, phương pháp thực hành trực quan, ngoại khóa, phương pháp kết luận và thực tiễn.

- Các phương pháp tổ chức giáo dục pháp luật như các mô hình về giáo dục pháp luật; các phương pháp phối hợp trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai công tác giáo dục pháp luật ở từng cấp, từng ngành, từng địa phương nhằm thực hiện các chương trình, kế hoạch tuyên truyền, giáo dục pháp luật dài hạn, ngắn hạn, tổng thể hay theo chuyên đề, trong từng giai đoạn cụ thể.

III. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT LÀ YÊU CẦU CẤP BÁCH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY:

 Một xã hội văn minh không phải chỉ có sự văn minh về cơ sở vật chất mà còn phải văn minh về mặt xã hội; trong đó được thể hiện bằng sự văn minh về trình độ xây dựng pháp luật và ý thức tôn trọng pháp luật. Muốn có kỷ cương, trật tự xã hội thì chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ; mà pháp luật đó phải được đưa vào cuộc sống, trở thành tiêu chí, thước đo cho mọi hoạt động xã hội và do đó chỉ có thể thực hiện được nhờ có hoạt động phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nhằm làm cho mọi người hiểu, thực hiện đúng, đầy đủ các yêu cầu của pháp luật. Với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam – Nhà nước được tổ chức theo pháp luật và hoạt động theo pháp luật, mọi người sống và làm việc theo pháp luật thì hơn bao giờ hết tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải được đề cao. Chính vì vậy mà từ Hội nghị Trung ương 8 (khóa IV), đến các Đại hội Đảng lần thứ V đến nay Đảng ta đã luôn khẳng định giáo dục pháp luật là một nội dung quan trọng của sự nghiệp trồng người, là trách nhiệm của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân.

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu của hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống được bắt đầu bằng hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Việc thực hiện pháp luật dù bằng hình thức nào: tuân theo pháp luật, thi hành (chấp hành) pháp luật, sử dụng (vận dụng) pháp luật hay áp dụng pháp luật, trước hết đều phải là sự hiểu biết pháp luật. Khi không nhận thức đầy đủ vị trí quan trọng và không thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thì dù công tác xây dựng pháp luật (công tác lập pháp) có được làm tốt đến mấy cũng không đạt được hiệu quả thực thi pháp luật.

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn là một trong những mắt xích quan trọng có ý nghĩa đặc biệt của sự tăng trưởng pháp chế XHCN. Bởi vì, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi công dân và nhằm phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Với vị trí, vai trò quan trọng như vậy, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phải được xác định là một trong những công tác trọng tâm của hoạt động hành pháp và tư pháp. Chúng ta đã coi trọng việc xây dựng pháp luật thì cũng đã đến lúc phải đầu tư tương xứng cho việc tổ chức thực hiện pháp luật mà trước hết là phải làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Đó là trách nhiệm của mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân mà trước hết là các cơ quan hành pháp và tư pháp. Vì vậy mà trong thư gửi cán bộ, nhân viên ngành Tư pháp (20/12/1995) Tổng Bí thư Đỗ Mười đã chỉ rõ: “Có một hệ thống pháp luật đầy đủ là điều cần thiết. Song để bảo đảm xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam thực sự của dân, do dân và vì dân vấn đề bức thiết hiện nay là phải tạo ra những điều kiện, xây dựng một cơ chế hữu hiệu bảo đảm mọi quy định pháp luật đã ban hành đều được mọi người, mọi cơ quan, tổ chức tôn trọng. Đặc biệt là phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân để ai nấy đều hiểu rõ và chấp hành nghiêm chỉnh”. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò rất lớn đó là: góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả của quản lý Nhà nước, đồng thời góp phần nâng cao ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của công dân.

Để thấy rõ vai trò của tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần nghiên cứu ảnh hưởng của nó trong việc hình thành, nâng cao ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý, với việc sử dụng quyền con người, với việc dân chủ hóa và xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay ở nước ta.

  1. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với việc nâng cao ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý

Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm thịnh hành trong xã hội xã hội Chủ nghĩa, thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá về tính thích hợp trong hành vi xử sự của con người cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội. Ý thức pháp luật là một hình thức ý thức xã hội được phát sinh và hình thành cùng với ý thức chính trị do tồn tại xã hội quyết định. Ý thức pháp luật cũng thể hiện những nhu cầu về kinh tế, đạo đức và văn hóa của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, như những quan điểm, tư tưởng, quan niệm về những phương pháp và điều kiện để thỏa mãn các nhu cầu vật chất của công dân, về quan hệ hôn nhân và gia đình, về hình thức và phương pháp giáo dục thanh niên, thiếu niên…đồng thời còn bao gồm cả những yếu tố tâm lý xã hội như cảm giác, tình cảm, quan niệm, thể hiện những mối quan hệ cụ thể của con người đối với các quy phạm pháp luật, đối với quyền và nghĩa vụ, như cảm giác của nhân dân về tính chất nhân đạo của pháp luật và sự tôn trọng đối với pháp luật, cảm giác lo lắng và thái độ căm phẫn trước những hành vi vi phạm, mong muốn đấu tranh chống tội phạm bảo vệ nền pháp luật. Giáo dục pháp luật nhằm hình thành tình cảm và quan niệm đúng đắn sẽ có ý nghĩa to lớn trong việc làm cho nhân dân quan tâm đến pháp luật, xây dựng động cơ đúng đắn trong thực hiện pháp luật và tích cực đấu tranh chống vi phạm pháp luật.

Văn hóa pháp lý là một bộ phận trong nền văn hóa chung, nền văn minh của một nước, được đánh giá theo trình độ văn minh lập pháp và ý thức tôn trọng pháp luật. Văn hóa pháp lý trong một con người được thể hiện bởi kiến thức pháp lý và sự tự đánh giá xử sự phù hợp yêu cầu của pháp luật. Muốn vậy phải có tri thức pháp lý, sự tôn trọng pháp luật, tự giác xử sự đúng các yêu cầu pháp luật đòi hỏi. Cũng như các hình thức văn hóa khác, văn hóa pháp lý chịu sự tác động và tác động lên các quan hệ xã hội thông qua ba chức năng cơ bản thông tin, tâm lý và tổ chức. Do đó, để có văn hóa pháp lý tốt yêu cầu đặt ra là phải có sự giáo dục pháp luật có định hướng, tổ chức, hệ thống của Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội.

  1. Giáo dục pháp luật với việc sử dụng quyền con người, quyền công dân và xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm gần gũi, có điểm tương đồng nhưng không đồng nhất với nhau. Đã là công dân thì có quyền con người, nhưng không phải tất cả mọi người đều là công dân nên không phải ai cũng có quyền công dân.

Quyền con người là khái niệm phức tạp, đa nghĩa và có thể được xem xét phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau như chính trị, triết học, luật học J.LOCK nhà triết học Anh coi quyền con người là quyền sống, quyền tự do và tư hữu. Hiến pháp nước Pháp (1791) ghi: Quyền con người là quyền tự do, sở hữu, được an toàn và được chống lại áp bức. Tuyên ngôn nhân quyền Mỹ 1776 coi quyền con người là quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Về mặt pháp lý, quyền con người được quy định cụ thể, rất phong phú như: Tại 30 điều của Tuyên ngôn về quyền con người của Liên hợp quốc năm 1948, Công ước 1966 của Liên hiệp Quốc tiếp tục khẳng định lại và cụ thể hóa thêm những nguyên tắc đó thành các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa gồm 24 nhóm cơ bản.

Theo quan niệm chung của các nước đang phát triển, trong đó có nước ta thì quyền con người được gắn chặt chẽ với quyền độc lập dân tộc, quyền của dân tộc được phát triển không bị ngăn trở, quyền được sống trong hòa bình, trong môi trường trong lành không bị ô nhiễm.

Quyền công dân là hình thức cụ thể của quyền con người trong phạm vi không gian và điều kiện lịch sử cụ thể; còn quyền con người chính là bản chất của quyền công dân. Tại điều 50 của Hiến pháp 1992 nước ta quy định: Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Theo tinh thần đó, quyền công dân được chia thành các nhóm cơ bản, gồm:

- Các quyền về chính trị, như ứng cử, bầu cử, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội; bình đẳng nam nữ, tự do lập hội, tự do biểu tình, bãi công…

- Các quyền tự do cá nhân, như tự do đi lại và cư trú, quyền bất khả xâm phạm thân thể, tính mạng, nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm chỗ ở, thư tín, quyền khiếu nại, tố cáo…

- Các quyền kinh tế - xã hội, như quyền lao động, học tập, quyền sở hữu hợp pháp và thừa kế, quyền được tự do nghiên cứu, phát minh, sáng chế, quyền được bảo hộ hôn nhân gia đình; quyền được chăm lo sức khỏe, vui chơi giải trí…

Quyền và nghĩa vụ của công dân phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn lịch sử. Giáo dục pháp luật nâng cao văn hóa pháp lý không chỉ dừng lại ở việc xây dựng được hệ thống pháp luật khoa học, phù hợp thực tế mà nó còn tạo ra tính khả thi của pháp luật trong đời sống từ cả hai phía người vận dụng, sử dụng pháp luật để thực hiện quyền áp dụng pháp luật một cách công bằng, văn minh, đầy đủ trong khi công dân có tri thức để thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách trọn vẹn, đồng thời giám sát các cơ quan, viên chức nhà nước trong việc thực hiện các bảo đảm để quyền con người, quyền công dân được thực hiện trên thực tế.

Công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta với mục tiêu phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh đòi hỏi phải có một Nhà nước pháp quyền được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh với các đặc trưng: có trách nhiệm nghĩa vụ xây dựng Nhà nước; đồng thời Nhà nước phải quan tâm đến lợi ích thiết thực của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân, chú trọng xây dựng nền pháp luật kết hợp chặt chẽ với đạo đức, mang bản chất nhân đạo, nhân ái, vì con người; có bộ máy nhà nước thống nhất về quyền lực, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cũng như đội ngũ công chức được tiêu chuẩn hóa, có đủ phẩm chất, năng lực, thành thạo về nghiệp vụ quản lý hành chính, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ Nhà nước, phục vụ nhân dân. Những đặc trưng trên của nhà nước được hình thành có phần đóng góp to lớn của giáo dục pháp luật, là một trong những điều kiện tiên quyết để tiến hành các cuộc cải cách sâu rộng, xây dựng được Nhà nước xứng đáng là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, được tổ chức và hoạt động theo pháp luật.

  1. Giáo dục pháp luật với quá trình dân chủ hóa

Dân chủ là một thuộc tính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Với bản chất và đặc điểm riêng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa trở thành trung tâm trong hệ thống chính trị, tác động mạnh mẽ lên các bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị và chịu sự tác động trở lại của các bộ phận đó. Thiết lập và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa cần phải củng cố và hoàn thiện hệ thống chính trị xác định rõ cơ câu tổ chức, vị trì, vai trò, chức năng nhiệm vụ của mỗi bộ phận hợp thành trong hệ thống chính trị; xác định mối quan hệ qua lại của các bộ phận đó, xác định nguyên tắc, quy tắc phù hợp tạo điều kiện đồng bộ cho củng cố, phát triển hệ thống chính trị. Tất cả quá trình đó phải dựa vào cơ sở pháp lý vững chắc là pháp luật. Cốt lõi của xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là xây dựng chế độ trong đó công dân thực sự là người tham gia tích cực vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; những quyền lực này phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật, phải có hệ thống các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị hợp pháp – “Bảo vệ dân chủ, phải có pháp chế xã hội chủ nghĩa, tức là sự tuân thủ triệt để pháp luật của tất cả các cơ quan nhà nước, viên chức nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân. Do vậy, giáo dục pháp luật đóng vai trò hết sức quan trọng đối với tiến trình đổi mới và dân chủ hóa ở nước ta. Chính vì lẽ đó mà Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định “Thực hiện nền dân chủ XHCN là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị… Điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân.

Tóm lại: Xuất phát từ vai trò của giáo dục pháp luật đã nêu trên cho phép chúng ta khẳng định tăng cường công tác giáo dục pháp luật là yêu cầu tất yếu khách quan trong công cuộc đổi mới hiện nay để góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, tăng cường pháp chế XHCN, thực hiện “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ

  1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở PHÚ THỌ TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI.
  1. Đặc điểm cơ bản của tỉnh Phú Thọ

Phú Thọ là một tỉnh miền núi, có diện tích 346,02 km2, dân số 1.262.000 người, gồm 21 dân tộc khác nhau cùng sinh sống. Trên địa bàn tỉnh có 12 đơn vị hành chính cấp huyện (1 thành phố, 1 thị xã, 10 huyện, 270 xã) trong đó có 9 huyện là miền núi, gồm: Yên Lập, Thanh Sơn, Đoan Hùng, Hạ Hòa, Sông Thao, Tam Nông, Thanh Thủy, Thanh Ba và Phù Ninh, 1 thành phố (Việt Trì), 1 thị xã (Phú Thọ) và 1 huyện đồng bằng (Lâm Thao).

Về thuận lợi: sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, kế thừa và phát huy những thành tựu của tỉnh hợp nhất Vĩnh Phú, kinh tế-xã hội tỉnh Phú Thọ trong những năm qua có bước tăng trưởng khá, tạo ra thế lực mới đồng thời tích lũy được một số kinh nghiệm ban đầu trong việc phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn của tỉnh trung du miền núi. Nhân dân Phú Thọ giàu truyền thống cách mạng, đoàn kết, cần cù, thông minh, sáng tạo, có ý thức tự lực, tự cường; lực lượng lao động dồi dào, đội ngũ cán bộ có trình độ, có khả năng tiếp cận được nền công nghiệp hiện đại. Khi tách tỉnh, Phú Thọ có điều kiện để tập trung khai thác tiềm năng, thế mạnh của tỉnh trên các lĩnh vực kinh tế đồi rừng, khai thác và phát triển các khu công nghiệp tập trung về chế biến nông lâm sản, hóa chất, khai khoáng, sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác tiềm năng du lịch dịch vụ, năng lực sản xuất còn tiềm ẩn lớn trong nhân dân. Quá trình đầu tư phát triển của tỉnh Phú Thọ đã sớm hình thành cơ cấu kinh tế tương đối hợp lí theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó chính là điều kiện thuận lợi để Phú Thọ phát triển kinh tế xã hội một cách vững chắc.

Về khó khăn: Phú Thọ là tỉnh đất rộng, người đông, là tỉnh trung du miền núi (chiếm tới 50% số xã là miền núi). Kinh tế Phú Thọ nhìn chung chậm phát triển, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế chưa đáng kể, phần lớn tự túc tự cấp, chưa có sản xuất hàng hóa, xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng chậm phát triển. Dân trí nhìn chung thấp, tập quán sản xuất, canh tác còn lạc hậu, đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề trên một số lĩnh vực quan trọng còn ít. Các lợi thế, điều kiện để cạnh tranh thu hút vốn đầu tư với các tỉnh trong khu vực còn nhiều bất lợi, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế còn là thách thức lớn đối với tỉnh.[2]

Trong điều kiện như trên, là tỉnh nằm tiếp giáp vùng kinh tế năng động Hà Nội, có truyền thống khá ổn định về công tác tư pháp và công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật đã tạo ra những thuận lợi cơ bản cho Phú Thọ ngay sau khi chia tỉnh sớm ổn định các hoạt động kinh tế - xã hội; duy trì và phát huy hiệu quả kinh tế trong công tác giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, là một tỉnh mới tái lập, bộ máy quản lý còn chưa ổn định và có những thiếu hụt về cả số lượng và chất lượng, vốn lại là tỉnh nghèo, miền núi nên quá trình đầu tư cơ sở vật chất, tổ chức bộ máy cho hoạt động chỉ đạo và tác nghiệp giáo dục pháp luật còn nhiều khó khăn. Những nhân tố trên trong điều kiện địa bàn rộng, nhiều đồng bào thiểu số, trình độ dân trí còn thấp so với mặt bằng chung đòi hỏi phải có sự nỗ lực cao từ Đảng, chính quyền, các đoàn thể đến mọi công dân trong xã hội mới có thể đáp ứng được yêu cầu tăng cường công tác giáo dục pháp luật phục vụ có hiệu quả, tác động tích cực đến sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và của Phú Thọ nói riêng.

  1. Những kết quả, hạn chế trong công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật.
  1. Những kết quả đã đạt được:

Phải khẳng định từ năm 1985 đến nay kết quả đạt được trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật là rất lớn – UBND tỉnh hằng năm đã triển khai bằng nhiều chỉ thị, kế hoạch và hội nghị hành chính tỉnh. Các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các Nghị quyết của Tỉnh ủy, HĐND, các văn bản pháp quy của tỉnh đã được triển khai phổ biến, tổ chức học tập đến cán bộ đầu ngành cấp tỉnh, cán bộ chủ chốt cấp huyện và trong nhân dân thông qua các hội nghị, lớp tập huấn, hội thảo, các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh và nhiều hình thức sinh động khác; thông qua hoạt động chủ đạo của UBND tỉnh đối với các cấp, các ngành, sự phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong tỉnh.

Thực hiện, chủ trương đường lối đổi mới nền kinh tế đất nước của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ) luôn nhận thức đúng đắn và tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Công tác chính trị, tư tưởng luôn được đặc biệt quan tâm, trong đó công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước được đề cao. Ngày 2.8.1995, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ thị số 08 – CT/TU về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật tring thời gian tới. Đây là một chủ trương đúng đắn trong công tác lãnh đạo chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật – một công tác quan trọng, góp một phần rất lớn vào việc củng cố, hoàn thiện bộ máy Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, góp phần bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Sau khi Chỉ thị 08 – CT/TU được ban hành, UBND tỉnh đã chỉ đạo thực hiện Chỉ thị một cách nghiêm túc. Cùng với việc triển khai thực hiện nghị quyết 06/NQ ngày 11/7/1995 của HĐND tỉnh khóa VIII về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, ngày 24/11/1995 UBND tỉnh đã ban hành Quyết định 2277/QĐ–UB quy định trách nhiệm và quan hệ phối hợp giữa các cấp, các ngành trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Đây là một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa những nội dung mà Chỉ thị 08–CT/TU đề ra, xác định trách nhiệm của các cấp, các ngành, trong đó một số ngành có chức năng thông tin, tuyên truyền, giáo dục được giao trách nhiệm cụ thể trong việc tuyên truyền, phổ biến và phối hợp để tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Quyết định của UBND tỉnh đã góp phần hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý Nhà nước của tỉnh. Đặc biệt trong lĩnh vực tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tạo sự đồng bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh. Ngay sau khi có Chỉ thị 08–CT/TU của Ban thường vụ Tỉnh ủy hầu hết các Sở, ban, ngành, đoàn thể và các huyện, thành, thị đã triển khai nghiêm túc việc quán triệt các văn bản của tỉnh về TTPBGDPL ở các tổ chức Đảng, các cấp chính quyền.

Ngày 7/1/1998 Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 02/1998/CT-TTg và Quyết định 03/1998/ QĐ-TTg về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh càng được thực hiện tốt cả về chiều rộng và chiều sâu. Nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này trong xã hội được nâng lên một bước và có sự chỉ đạo thực hiện sát sao, có hiệu quả hơn. Hội đồng chỉ đạo công tác phổ biến giáo dục pháp luật của tỉnh, huyện được hình thành và đi vào hoạt động. Ở nhiều ngành, đoàn thể và nhiều xã, phường, thị trấn đã thành lập các Ban, Hội đồng chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật như Liên đoàn Lao động, Công an tỉnh. Các ngành Địa chính, Bưu điện, UBDSKHHGĐ, Tư pháp, Cục Thuế, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh… đã thành lập tổ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật làm nòng cốt trong việc thực hiện. Công tác phối kết hợp cùng nhau đẩy mạnh hiệu quả tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã hình thành giữa các ngành, đoàn thể. Vai trò của các cơ quan tuyên truyền, báo chí được đặc biệt chú ý. Các huyện, ngành đã có nhận thức đúng đắn, và đã đề ra biện pháp cụ thể trong phối kết hợp với cơ quan báo, đài địa phương tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương pháp luật có liên quan đến ngành, địa phương mình, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và giữ vững an ninh, trật tự - an toàn xã hội.

Thực hiện Quyết định 1067/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 10/6/1998 UBND tỉnh đã ban hành Quyết định 1200/1998/QĐ-UB về quản lý, xây dựng, khai thác, sử dụng tủ sách pháp luật. Một công cụ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật quan trọng chính thức được hình thành. Đến nay hệ thống tủ sách được thành lập ở các cấp, ngành, đoàn thể, cơ quan, đơn vị và đang được khai thác sử dụng có hiệu quả.

Sau 5 năm thực hiện Chỉ thị 08-CT/TU của Ban thường vụ Tỉnh ủy và các văn bản quy phạm pháp luật về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của Trung ương và của tỉnh, UBND tỉnh đã tổ chức hội nghị tổng kết 5 năm công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đồng thời triển khai thi hành Chỉ thị 15/CT-TU ngày 10/7/2000 của Ban thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong tình hình mới. Thông qua hội nghị này nhằm đánh giá công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong những năm qua, nhất là từ khi thực hiện Chỉ thị 08/CT-TU. Cụ thể là đánh giá sâu sắc vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, việc triển khai thực hiện của chính quyền các cấp, các sở, ban, ngành, đoàn thể, làm rõ mặt mạnh, mặt yếu, tồn tại, nguyên nhân, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật gắn với việc triển khai thực hiện Chỉ thị 15/CT-UT nói trên.

Phải nói rằng trong những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở tỉnh Phú Thọ đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các cấp ủy Đảng, lãnh đạo chính quyền, các đoàn thể nhân dân đã tăng cường đầu tư cho công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật như: xây dựng hệ thống tủ sách pháp luật, củng cố hệ thống phát thanh, truyền thanh, làm tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ cơ sở; đưa giáo dục pháp luật vào trường học, phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng và các cơ quan bảo vệ pháp luật, xây dựng và thực hiện các chuyên mục tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật gắn với kết quả hoạt động thanh tra, kiểm tra, xét xử, nên đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến cán bộ, Đảng viên và nhân dân. Có thể minh họa các kết quả đạt được trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật bằng một số nét chính sau đây:

- Đã triển khai sớm việc đưa giáo dục pháp luật vào trường học có kiểm tra tổng kết đánh giá kết quả. Đến nay công tác giảng dạy pháp luật trong trường học đã đi vào nề nếp, chất lượng học pháp luật nâng lên góp phần nâng chất lượng học tập của học sinh đây là điều đã được khẳng định.

Hàng năm việc bồi dưỡng tại tỉnh được tổ chức thường xuyên vào tháng 8 cho Hiệu trưởng, các giáo viên làm nòng cốt. Ở cấp huyện có từ 1000 đến 1200 giáo viên dạy pháp luật được bồi dưỡng. Việc thực hiện dạy nội khóa được thực hiện ở 100% số trường với số học sinh tham gia thường xuyên tới 65.000 em. Kết quả kiểm tra hàng năm cho thấy 30-40% đạt khá giỏi, 55-60% đạt trung bình, số kém chỉ còn 5-10%. Do học tập pháp luật để tác động tốt đến đạo đức học sinh giảm nhanh số học sinh đạo đức yếu kém từ 4-5% xuống còn 1-2%, có 80% số trường vận dụng tốt việc xây dựng qui chế nâng cao hiệu quả, chất lượng quản lý, dạy và học.

- Đã tổ chức học tập, phổ biến đóng góp ý kiến cho 50 văn bản pháp luật với gần 20 Luật, Bộ luật; sửa đổi, bổ sung trên 40 Pháp lệnh và hàng trăm văn bản pháp qui khác của Chính phủ, các Bộ ngành ở TW. Trong đó các văn bản pháp luật quan trọng như: Hiến pháp 1992, Luật bầu cử Quốc hội, Luật bầu cử HĐND, Luật tổ chức HĐND và UBND, Luật đất đai, Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất, Luật doanh nghiệp, các Luật về thuế, Bộ Luật lao động, Luật nghĩa vụ quân sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh hợp đồng dân sự, Pháp lệnh đê điều và nhiều Luật, Pháp lệnh quan trọng khác cùng nhiều văn bản pháp qui của Chính phủ về các lĩnh vực đất đai, nhà ở, sản xuất kinh doanh, an ninh trật tự v.v. đều đã được UBND tỉnh chỉ đạo triển khai phổ biến, tuyên truyền, học tập ở diện rộng trong cán bộ nhân dân; đặc biệt Luật dân sự triển khai từ xây dựng đến khi có hiệu lực thi hành trên 100% số xã, đơn vị tổ chức.

- UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành tổ chức học tập các chính sách pháp luật có liên quan trực tiếp đến chức năng quản lý, nhiệm vụ công tác ngành trong các lĩnh vực quản lý nhà nước như: Đất đai, xây dựng cơ bản, bảo vệ và phát triển rừng, bảo vệ đê điều, sản xuất kinh doanh, an ninh trật tự, chính sách xã hội… đã có tác dụng nâng cao vai trò các ngành trong quản lý Nhà nước. Chỉ đạo các ngành chức năng phối hợp với các tổ chức đoàn thể, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng luật như Luật Hình sự, tố tụng hình sự, Pháp lệnh thi hành án dân sự, Luật nghĩa vụ quân sự, đặc biệt là tổ chức triển khai lấy ý kiến nhân dân vào bộ Luật dân sự đã trở thành cuộc sinh hoạt chính trị - pháp lý sâu rộng có tác dụng giáo dục tốt trong nhân dân.

- Chỉ đạo triển khai học tập trên 30 Nghị quyết của HĐND, hàng trăm Quyết định, Chỉ thị của UBND tỉnh đến cán bộ đầu ngành và cán bộ chủ chốt. Một số văn bản quan trọng đã được triển khai phổ biến học tập ở diện rộng trong nhân dân, như Nghị quyết số 05 của HĐND tỉnh về xử phạt vi phạm hành chính các hành vi vi phạm pháp luật đất đai; Quyết đingj 540 về xử phạt vi phạm hành chính các hành vi vi phạm pháp lệnh đê điều, các chính sách phát triển kinh tế, chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình…

Ở các ngành chức năng và tổ chức đoàn thể cấp tỉnh, xuất phát từ nhận thức về vai trò quản lý nhà nước ngày càng được tăng cường nên công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã có sự chuyển biến rõ rệt và đã đạt được những kết quả nhất định. Nhìn chung, các Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đều đã được triển khai học tập đến cán bộ, nhân viên trong ngành, đoàn thể mình trong đó các văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động ngành, đoàn thể đã được triển khai học tập đầy đủ. Một số ngành đoàn thể đã tổ chức được một số lớp ngắn hạn bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ pháp lý ngành, kiến thức pháp lý cơ bản cho cán bộ nhân viên trong ngành đoàn thể mình, như Công an tỉnh với 14 lớp học trên 1000 lượt cán bộ tư pháp cấp huyện, công chứng viên và chấp hành viên cho hơn 200 học viên, Thanh tra tỉnh với nhiều lớp bồi dưỡng cho công tác thanh tra viên; Hội phụ nữ với việc học tập Quyết định 164/HĐBT, Luật hôn nhân gia đình, đoàn thanh niên với Luật nghĩa vụ quân sự v.v. Việc tuyên truyền, phổ biến ở diện rộng trong nhân dân đã được một số ngành chức năng, tổ chức đoàn thể triển khai thực hiện tốt, như Báo, đài phát thanh và truyền hình tỉnh với nhiều chuyên mục thiết thực và bổ ích như An ninh đất Tổ, Pháp luật và đời sống, khuyến nông,… đã phát huy tác dụng tuyên truyền tốt; Sở thủy lợi với việc phổ biến pháp lệnh đê điều, quyết định 540 và quyết định 610 của UBND tỉnh; Công an tỉnh với việc tuyên truyền phổ biến pháp luật về giao thông; Sở văn hóa thông tin đã chỉ đạo kẻ vẽ nhiều Pano áp phích; Ủy ban dân số và kế hoạch hóa gia đình với chương trình truyền thông dân số; thanh niên, Phụ nữ với việc tổ chức các câu lạc bộ, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật…Bên cạnh đó quan hệ phối hợp giữa các ngành đoàn thể cấp tỉnh trong giáo dục pháp luật đã được thiết lập ở một số ngành đoàn thể bước đầu đã phát huy tác dụng tốt, như giữa Sở tư pháp và Sở giáo dục với việc kiến thức pháp lý cho giáo viên giữa Sở Tư pháp, Ngân hàng, Thuế với việc bồi dưỡng kiến thức pháp lý cho cán bộ, nhân viên ngân hàng thuế, giữa công an tỉnh, Tỉnh Đoàn thanh niên, Tỉnh đội, Sở giao thông vận tải, Sở giáo dục với cuộc thi tìm hiểu Luật lệ giao thông, Luật nghĩa vụ quân sự. Đặc biệt, một số ngành đoàn thể bước đầu đã hình thành đội ngũ báo cáo viên, cộng tác viên từ tỉnh đến cơ sở với lực lượng đông đảo như: Đài, Báo, văn hóa thông tin, thanh niên phụ nữ, dân số và kế hoạch hóa gia đình…

Trong những năm qua, nhiều Nghị quyết, kế hoạch, văn bản liên tịch giữa các ngành, đoàn thể ở cấp tỉnh và huyện được ký kết để TTPBGDPL đến đối tượng thực hiện. Hình thức này mang lại hiệu quả rất cao trong TTPBGDPL, học tập, nghiên cứu các nội dung pháp luật. Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật và với mỗi văn bản đều có giao cho một ban, ngành, đoàn thể chủ trì, triển khai hướng dẫn thực hiện, trong đó có nhiệm vụ phải tuyên truyền, phổ biến đến mọi đối tượng thực thi. Việc các ban, ngành, đoàn thể phối kết hợp để TTPBGDPL là một biện pháp cơ bản và có thể nói là rất hiệu quả, đưa pháp luật đến được với một số lượng lớn đối tượng thi hành. Những năm qua hoạt động phối hợp này trở nên phổ biến trên địa bàn tỉnh mà hạt nhân của phong trào này Báo Phú Thọ, Đài phát thanh truyền hình tỉnh, ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Công an tỉnh, Sở Giáo dục – Đào tạo, tỉnh đoàn thanh niên, Tỉnh hội phụ nữ và Sở Tư pháp. Tính đến thời điểm này, cơ quan Báo và Đài của Tỉnh, mỗi cơ quan có trên 20 chuyên mục chuyên ngành được đăng tải theo định kỳ trên Báo và Đài truyền hình tỉnh, Đài phát thanh của tỉnh còn có gần 10 chuyên mục chuyên ngành. Các chuyên mục này chủ yếu phản ánh tình hình thực thi và tuyên truyền, phổ biến các nội dung pháp luật thuộc ngành quản lý, được xây dựng trên cơ sở sự phối hợp thực hiện giữa Báo, Đài với cơ quan chuyên quản. Ngoài ra, Báo Phú Thọ và Đài phát thanh – truyền hình Phú Thọ hàng tháng đều có trang cấp huyện phản ánh tình hình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của từng địa phương trong tỉnh. Ở cấp huyện, cơ quan Tư pháp đã phối hợp với ngành Văn hóa – Thông tin mở các chương trình tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên Đài phát thanh của huyện. Hệ thống đài huyện và xã đã thực hiện có hiệu quả việc phát các băng cassette tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật do Sở Tư pháp ấn hành. Nhìn chung hình thức phối kết hợp này phát huy nhiều tác dụng tích cực, phản ánh rất rõ nét các mặt hoạt động thi hành pháp luật cũng như công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh. Nhiều tin, bài, phóng sự có tác dụng động viên, khuyến khích kịp thời các tổ chức, cá nhân chấp hành tốt pháp luật, cũng như thẳng thắn phản ánh, phê bình trước công luận những việc làm trái pháp luật đến đối tượng người đọc, người xem và người nghe, điển hình là các Đài phát thanh truyền thanh: Thành phố Việt Trì, Phù Ninh, Sông Thao…

Ngoài việc phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng, công tác phối kết hợp giữa các cơ quan ban, ngành, đoàn thể, giữa cấp tỉnh với cấp huyện, cấp huyện với cấp xã cũng được duy trì tốt trong thời gian qua, tuy nhiên kết quả đạt được trong hình thức này chưa đồng đều và mới chỉ được một số ngành, đoàn thể quan tâm chú trọng. Từ năm 1998, sau khi hệ thống Hội đồng chỉ đạo công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được hình thành, việc phối hợp giữa các ngành, đoàn thể được tăng cường hơn. Nhiều nội dung pháp luật đã được chuyển tải đến đúng đối tượng thực thi bằng những hình thức phong phú. Tiêu biểu trong công tác phối kết hợp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là ngành Tư pháp, Giáo dục – Đào tạo, Thuế, Địa chính, Tuyên giáo, Kiểm lâm, Thương mại, Công an, các đoàn thể: Phụ nữ, Thanh niên, Liên đoàn lao động…

Với biện pháp phối kết hợp cùng nhau đưa pháp luật vào cuộc sống, hơn 5 năm qua nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh chung và pháp luật chuyên ngành đã được triển khai tuyên truyền, phổ biến đến đông đảo các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh. Hàng trăm chuyên mục, hàng nghìn bài viết, phóng sự trên báo, đài tỉnh và chuyên san của các ngành, đoàn thể đã được đăng tải; giáo dục pháp luật được phát hành và kẻ vẽ, hàng trăm cuộc họp, hội nghị học tập pháp luật được triển khai, nhiều cuộc thi tìm hiểu pháp luật được tổ chức trên quy mô lớn, vừa và nhỏ mang lại hiệu quả thiết thực trong truyền thuyết, phổ biến, giáo dục pháp luật.

Cùng với việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, công tác triển khai, thi hành các văn bản pháp luật mới ban hành được quan tâm đúng mức. Những năm qua, các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật quan trọng như Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật lao động, Luật Khiếu nại tố cáo, Luật thương mại, Luật hôn nhân và gia đình, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Luật đất đai, Nghị quyết 09 của Chính phủ về chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, Qui chế thực hiện dân chủ ở cơ sở… UBND tỉnh đều có kế hoạch và tổ chức triển khai sâu rộng trên địa bàn tỉnh. Các cấp, các ngành đều tổ chức hội nghị triển khai học tập các nội dung cơ bản của văn bản pháp luật sau khi hội nghị của tỉnh được tổ chức và đến được với nhân dân ở cơ sở qua các cuộc họp khu dân cư, họp Chi bộ. Nhìn chung, nhân dân trên địa bàn tỉnh đều được học tập, tìm hiểu các nội dung văn bản pháp luật có nhiều liên quan đến đời sống hàng ngày.

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các ngành là một hình thức tuyên truyền, phổ biến đặc thù của các cơ quan Nhà nước. Trong 5 năm qua, công tác này được thực hiện hiệu quả. Về cơ bản các lĩnh vực pháp luật có liên quan đến người dân như khiếu nại tố cáo, đất đai, môi trường, bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em, hôn nhân và gia đình, thương mại, các luật thuế… đều được tuyên truyền, phổ biến đến nhân dân. Đại bộ phận nhân dân đã nắm bắt được nội dung pháp luật cơ bản góp phần thực thi đúng pháp luật trong đời sống.

Đối tượng thanh, thiếu niên được đặc biệt quan tâm trong các kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của tỉnh và các ngành, các cấp. Giáo dục pháp luật trong trường học đã trở thành nề nếp và công việc thường xuyên của ngành Giáo dục – Đào tạo. Đội ngũ giáo viên giảng dạy môn học chính trị và Giáo dục công dân hàng năm đều được học tập, bồi dưỡng kiến thức pháp luật. Mối quan hệ giữa ngành Giáo dục – Đào tạo với các ngành Công an, Tư pháp trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến giáo viên và học sinh đã mang lại những kết quả đáng khích lệ. Các chương trình ngoại khóa, chính khóa được quan tâm, nhiều cuộc thi với số lượng tham gia đông đảo của ngành Giáo dục – Đào tạo đã được tổ chức (thi tìm hiểu Luật lệ an toàn giao thông; phòng chống tội phạm và ma túy, tìm hiểu Bộ luật dân sự, tìm hiểu Bộ luật hình sự…). Phú Thọ là một tỉnh được đánh giá cao trong việc sớm đưa giáo dục pháp luật vào trường học và tổ chức thực hiện này một cách nghiêm túc, mang lại hiệu quả cao. Tiêu biểu cho công tác đưa giáo dục pháp luật vào trường học là huyện Sông Thao, thành phố Việt Trì.

Đối với đoàn viên, thanh niên, đây được xác định là đối tượng quan trọng trong thi hành các văn bản pháp luật và cũng là đối tượng rất quan trọng để TTPBGDPL, Kế hoạch liên tịch giữa Tỉnh đoàn thanh niên và Sở Tư pháp, giữa Tỉnh đoàn thanh niên với Công an tỉnh đã được xây dựng. Trên cơ sở đó, hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến đoàn viên, thanh niên được tiến hành thường xuyên; nhiều câu lạc bộ pháp luật, câu lạc bộ tiền hôn nhân, câu lạc bộ thanh niên phòng chống tệ nạn xã hội, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật trong thanh niên, các cuộc giao lưu Văn hóa – Pháp luật… đã được tổ chức thực hiện, đem đến cho đoàn viên, thanh, thiếu niên những hiểu biết cơ bản về pháp luật. Hệ thống báo cáo viên, tuyên truyền viên của các cấp bộ đoàn trong tỉnh được hình thành và đóng góp nhiều cho hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở. Những năm qua đối tượng thanh thiếu niên trong tỉnh được học tập hầu hết các văn bản pháp luật theo kế hoạch của tỉnh. Đặc biệt các vấn đề pháp luật về hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, nghĩa vụ quân sự, phòng chống HIV – AIDS, ma túy, trật tự an toàn giao thông… được tổ chức triển khai mạnh mẽ, đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở và trong hệ thống nhà trường.

Những năm qua, hoạt động in ấn tài liệu phục vụ cho công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được các cấp, các ngành quan tâm, chú trọng. Rất nhiều ngành, đoàn thể có ấn phẩm phát hành theo định kì tháng hoặc quý. Đây là tài liệu tuyên truyền, phổ biến rất quan trọng, trong đó thông tin, tuyên truyền liên quan đến luật pháp được đặc biệt quan tâm. Các tạp chí, thông tin, bản tin này được phát hành rộng rãi đến cơ sở, đóng góp cho hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước một kênh thông tin quan trọng, mang tính chuyên ngành. Bản tin Tư pháp, Thông tin tuyên truyền viên, Bản tin sinh hoạt Chi bộ, Phụ nữ, tài liệu sinh hoạt Chi đoàn, Văn hóa đất Tổ, thông tin Khoa học – Công nghệ  – Môi trường, thông tin DSKHHGD, Công đoàn, Ngân hàng,…là những ấn phẩm có hiệu quả TTPBGDPL cao. Ngoài ra, nhiều tờ gấp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐND, UBND, bảo vệ và phát triển rừng, Thương mại, phòng chống tệ nạn, xã hội…cùng với công tác in sao các văn bản pháp luật, phát hành tập văn bản pháp qui hàng tháng của HĐND, UBND tỉnh gửi các cấp, các ngành và gửi về cơ sở cũng là một hình thức biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật hiệu quả.

Thực hiện quyết định 1067/QĐ-TTg ngày 25/11/1998 của Thủ tướng Chỉnh phủ phê duyệt dự án xây dựng, hoàn thiện hệ thống tủ sách Pháp luật, trước đó ngày 10/6/1998, Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ đã ban hành Quyết định số 1200/1998/QĐ-UB về việc xây dựng quản lý, khai thác và sử dụng tủ sách pháp luật, hệ thống tủ sách pháp luật đã bắt đầu hình thành từ thời gian trước ở một số ngành, địa phương, nay chính thức được phát triển ở tất cả các cấp, ngành, đoàn thể và các cơ quan, đơn vị trong địa bàn tỉnh. Hệ thống tủ sách đã cơ bản được hình thành và đi vào khai thác sử dụng hiệu quả ở 60% đơn vị xã, phường thị trấn, cơ quan, đơn vị. Ở các ngành, UBND cấp huyện việc xây dựng, khai thác tủ sách pháp luật đạt chất lượng tương đối đồng đều. Số đầu sách mỗi tủ trung bình đạt xấp xỉ 100, cấp xã trung bình đạt từ 50 đến 70 đầu sách.

Điểm bưu điện văn hóa xã được xây dựng trong những năm gần đây đã đóng góp rất lớn cho việc tìm hiểu nghiên cứu các quy định của pháp luật, đây như một tủ sách pháp luật thứ hai sau tủ sách của UBND xã. Hiện tại, toàn tỉnh đã xây dựng được hơn 100 điểm bưu điện văn hóa xã, công việc này sẽ tiếp tục được thực hiện trong thời gian tới.

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp, mỗi hình thức, biện pháp đều có tác dụng, hiệu quả riêng. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật lưu động là một hình thức đang khẳng định hiệu quả tác dụng to lớn. Hơn 5 năm qua, hình thức này đã được thực hiện song chưa thường xuyên. Nhiều chương trình ngoại khóa của nhà trường; triển lãm ảnh, tài liệu liên quan đến tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông, phòng chống ma túy, HIV – AIDS; xét xử lưu động các vụ án điểm; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật lưu động, trợ giúp pháp lý lưu động đến đồng bào vùng sâu, vùng xa của tỉnh đã được triển khai và đem lại hiệu quả rõ rệt.

Hình thức thi tìm hiểu pháp luật trên sân khấu có tác dụng rất lớn đối với cả người thi và người cổ vũ: Cuộc thi giờ thứ 9, thi tìm hiểu pháp luật về Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, thi tìm hiểu pháp luật của nữ cán bộ, công chức ngành bưu điện, thi nữ công nhân lao động giỏi việc nước đảm việc nhà, các cuộc thi do các cấp hội phụ nữ và UBDSKHHGĐ tổ chức, thi tuyên truyền viên pháp luật, hòa giải viên pháp luật giỏi; Các cuộc giao lưu trong đoàn viên, thanh niên…đã lồng ghép nhiều nội dung pháp luật, mang lại hiệu quả lớn trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Các cuộc thi tìm hiểu pháp luật do tỉnh tổ chức cũng thu được kết quả cao. Hơn 5 năm qua trên địa bàn tỉnh đã tổ chức được nhiều cuộc thi với số lượng người tham gia đông đảo: thi tìm hiểu luật lệ an toàn giao thông với 250.000 bài dự thi, tìm hiểu Bộ luật dân sự với 163.000 bài dự thi (tỉnh Phú Thọ được xếp giải A cùng với bốn tỉnh, thành khác trong cả nước ở cuộc thi này), thi phòng chống tội phạm và ma túy với 103.000 bài dự thi, thi Tìm hiểu Bộ luật Hình sự 1999 với 301.000 bài dự thi (tỉnh Phú Thọ được xếp giải A cùng với Tổng Liên đoàn Lao động và thủ đô Hà Nội), cuộc thi tìm hiểu Luật phòng chống ma túy với hơn 250.000 bài dự thi… Nhiều huyện, ngành, đoàn thể cũng tổ chức được các cuộc thi tìm hiểu pháp luật trong đơn vị mình (Hạ Hòa, tìm hiểu pháp luật chung và tìm hiểu pháp luật về thuế trong học sinh trung học cơ sở và học sinh tiểu học ở Việt Trì, tìm hiểu pháp luật về chống tham nhũng của Hội cựu chiến binh huyện Thanh Ba, tìm hiểu các quy định pháp luật đối với lao động nữ của Công đoàn các Công ty Giấy Bãi Đằng, Su pe phốt phát và hóa chất Lâm Thao,…) đã khẳng định tác dụng của hình thức tổ chức thi tìm hiểu pháp luật trong đời sống xã hội.

Trong quá trình triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã có rất nhiều cố gắng trong quản lý, chỉ đạo, điều hành công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Nhiều hình thức, biện pháp phong phú, đa dạng đã được thực hiện như: Phối kết hợp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tổ chức học tập, tập huấn báo cáo viên, tuyên truyền, phổ biến qua báo, đài, tài liệu, tuyên truyền, xét xử lưu động, qua các đợt sơ tổng kết lấy ý kiến xây dựng dự thảo văn bản pháp luật, tổ chức các cuộc thi…

Một trong những thành công của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là do công tác chỉ đạo, điều hành đã được quan tâm đúng mức. Các hội nghị do UBND tỉnh và Thường trực HĐND tỉnh tổ chức điều hành hoặc ủy quyền cho một số ngành tổ chức điều hành đã triển khai học tập, phổ biến đến cán bộ chủ chốt, cán bộ đầu ngành, cán bộ pháp chế các cơ quan ở tỉnh, huyện. Việc quán triệt để tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến nhân dân đã có chương trình, kế hoạch cụ thể, xác định trọng tâm, trọng điểm phục vụ các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Đặc biệt việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật liên quan đến các kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp đã tập trung triển khai và đạt được hiệu quả tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cao.

Đối với các ban, ngành cấp tỉnh đã có sự chuyển biến lớn trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Vai trò quản lý Nhà nước của các ngành ngày càng được củng cố và tăng cường. Đã thường xuyên tổ chức cho cán bộ, công chức nghiên cứu, quán triệt sâu sắc các văn bản pháp luật, làm tốt công tác tham mưu và thực thi pháp luật. Ngoài chủ trương, đường lối của Đảng và các văn bản pháp luật điều chỉnh chung, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chuyên sâu đã được quan tâm. Các ngành đều có sự quan tâm, đầu tư kinh phí cho tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

Trong các tổ chức đoàn thể, mặc dù có những khó khăn về kinh phí, song tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cũng đã được đặt thành một nhiệm vụ thường xuyên. Điểm mạnh cơ bản là đã có sự phối kết hợp với chính quyền và cơ quan chức năng từ tỉnh đến cơ sở để chỉ đạo tốt các tổ chức đoàn thể ở địa phương, có đội ngũ thông tin tuyên truyền viên phát triển với số lượng lớn và tinh thần nhiệt tình với công tác đoàn thể, công tác tuyên truyền nói chung và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói riêng.

Ở cấp huyện việc chỉ đạo, điều hành triển khai tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã có những tiến bộ đáng kể. Vị trí, vai trò của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã được quan tâm đúng mức trong hoạt động quản lý Nhà nước của UBND các cấp. Tuy nhiên, việc đầu tư cho công tác này ở nhiều huyện còn chưa thỏa đáng. Các huyện cơ bản đã triển khai được chương trình, kế hoạch của tỉnh, song việc thực hiện vẫn chưa triệt để.

Ở cấp xã, phường, thị trấn và từng khu dân cư, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật hiện đang tập trung chủ yếu vào đội ngũ cán bộ Tư pháp xã, hòa giải viên, gần đây là lực lượng tuyên truyền viên của Ban Tuyên giáo, như vậy chủ yếu tập trung vào là thành viên của các tổ chức Đảng, UBMTTQ và các đoàn thể như Phụ nữ, thanh niên, nông dân, Cựu chiến binh, Hội người cao tuổi và cán bộ hưu trí. Điều đó cũng phần nào khẳng định công tác này đang dần được xã hội hóa trong đời sống hằng ngày. Nhìn chung công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp huyện cơ bản đã được triển khai theo chương trình, kế hoạch của tỉnh. Kết quả tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp huyện và xã thể hiện ở một số nét cơ bản sau:

- Đã triển khai nghiêm túc các kế hoạch và nội dung phổ biến, tuyên truyền theo sự chỉ đạo của UBND tỉnh và ngành chức năng, nhiều huyện đã xác định là một nội dung trong chương trình công tác của chính quyền như: Sông Thao, Việt Trì, Lâm Thao, Phù Ninh…trong đó Sông Thao là đơn vị làm tốt và thường xuyên công tác giáo dục pháp luật trong trường học. Ở mỗi huyện tính chung hằng năm có hàng trăm văn bản các loại đã được phổ biến học tập đến cán bộ đầu ngành và cán bộ chủ chốt cơ sở.

- Trong các đợt học tập tuyên truyền, cấp huyện, cấp xã đều thành lập Ban chỉ đạo việc triển khai thực hiện. Mỗi huyện hằng năm đã tổ chức được từ 3 đến 5 lớp tập huấn ở cấp huyện cho cán bộ đầu ngành, cán bộ chủ chốt cơ sở và nhiều lớp tập huấn chuyên ngành do các Ban, ngành, đoàn thể tổ chức hoặc phối hợp tổ chức.

- Việc tuyên truyền, phổ biến ở diện rộng đến nhân dân được tổ chức tốt ở cấp xã trong một số lĩnh vực như đất đai, đê điều, thuế bảo vệ rừng, nghĩa vụ quân sự, dân số kế hoạch hóa gia đình, đặc biệt trong lĩnh vực thực hiện quyền chính trị cơ bản của công dân như: Bầu cử, quyền khiếu nại, tố cáo.

Trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trung ương đóng trên địa bàn tỉnh, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhìn chung đã có sự quan tâm đúng mức. Các lĩnh vực pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của người lao động và của công dân đã được cấp ủy, chính quyền cơ quan, đơn vị quan tâm tổ chức học tập và triển khai thực hiện nghiêm túc. Vì vậy, tình trạng vi phạm pháp luật trong công nhân lao động chiếm tỷ lệ không đáng kể.\

Tóm lại, những năm qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở tỉnh Phú Thọ đã có những bước chuyển biến đáng kể, nhận thức về pháp luật của quần chúng nhân dân lao động trên địa bàn tỉnh đã được nâng lên một bước. Đại bộ phận nhân dân ta đã nắm bắt được chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Mặc dù những năm qua, theo đánh giá của các cơ quan điều tra, xét xử thì tình trạng phạm tội, vi phạm pháp luật có diễn biến phức tạp, song đánh giá tổng thể trong sự phát triển của nền kinh tế mở như hiện nay thì tình trạng phạm tội và vi phạm pháp luật ở tỉnh ta có chiều hướng giảm dần so với dự báo, mặc dù còn một vài điểm nóng vi phạm pháp luật, song nhìn chung tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vẫn được giữ vững. Điều đó phần nào cũng chứng minh tác dụng, hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong đời sống xã hội.

Những kết quả đó thể hiện sự quan tâm lãnh đạo và đã khẳng định chủ trương, đường lối đúng đắn của Tỉnh ủy, HĐND, sự chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh, cùng sự tham mưu tích cực của ngành Tư pháp đối với công tác TTPBGDPL. Tuy nhiên, những tồn tại hạn chế là không thể tránh khỏi.

b. Việc sử dụng hình thức và biện pháp chuyển tải

Từ thực tế công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật ở tỉnh trong thời gian vừa qua cho thấy những hình thức biện pháp chuyển tải được thực hiện có tác dụng tốt và đạt hiệu quả là:

Một: Thông qua Hội nghị các cấp, các ngành: đây là hình thức phù hợp với việc triển khai phổ biến, học tập trong phạm vi hẹp đến cán bộ chủ chốt, đầu ngành. Thông qua Hội nghị ngoài việc nắm bắt những nội dung cơ bản các văn bản pháp luật được học tập đối tượng còn nắm vững các chủ trương, biện pháp triển khai và kế hoạch tổ chức thực hiện.

Hai: Thông qua Hội thảo. Đây là hình thức thu hút được sự tham gia đóng góp có trí tuệ, nhiệt tình có tổng kết thực tiễn, lý luận, vừa có tác dụng phổ biến, tuyên truyền chuyên sâu, vừa lôi cuốn đông đảo lực lượng tham gia trên phạm vi diện rộng. Hình thức này được tổ chức có hiệu quả ở các tổ chức đoàn thể như thanh niên, phụ nữ… và trong một số lĩnh vực tổng kết thực hiện luật, nghiên cứu khoa học pháp lý như tổ chức lấy ý kiến tham gia xây dựng pháp luật của Nhà nước, tổng kết việc thi hành pháp luật.

Ba: Thông qua học tập, nghiên cứu bằng các lớp tập huấn, bồi dưỡng ngắn ngày. Đây là hình thức được tổ chức ở các cấp, các ngành tổ chức đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở và có chiều hướng tăng trong một vài năm gần đây có tác dụng trang bị, bổ sung những kiến thức pháp lý cần thiết nhằm tăng cường năng lực công tác của cán bộ tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước bằng pháp luật trong các cấp các ngành đã đáp ứng những đòi hỏi trong quản lý Nhà nước hiện nay ở tỉnh.

Bốn: Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng báo, đài, phát thanh truyền hình tỉnh, các hình thức tuyên truyền bề nổi của các ngành văn hóa thông tin, truyền tin dân số cấp tỉnh, tủ sách pháp luật, điểm bưu điện văn hóa xã, tập san các ngành, đoàn thể, hệ thống truyền thanh cấp huyện và loa, đài cấp xã đã đáp ứng cơ bản nhu cầu đòi hỏi về thông tin pháp lý trong nhân dân. Qua khảo sát ở một số huyện thị cho thấy đài truyền hình Phú Thọ, báo và các tập san, đài truyèn hình huyện, đặc biệt là việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật bằng băng casette thông qua hệ thống loa đài cấp xã đã có tác dụng thiết thực, được nhân dân chú ý, phát huy tốt hiệu quả phổ biến tuyên truyền nhanh, rộng trong nhân dân.

Năm: Thông qua hoạt động của các câu lạc bộ, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật. Đây là hình thức thu hút đông đảo lực lượng các giới đặc biệt là thanh thiếu niên, phụ nữ, có tác dụng tốt đối với việc tuyên truyền pháp luật ở lứa tuổi trẻ và cần phải được quan tâm hơn nữa. Tỉnh đoàn thanh niên, Tỉnh hội phụ nữ, Sở Tư pháp, Công an tỉnh đã phối hợp với chính quyền cấp huyện và cơ sở ngành giáo dục làm tốt công tác này. Đặc biệt là các cuộc thi tìm hiểu luật lệ giao thông đã thu hút sự tham gia của hầu hết học sinh phổ thông trong đoàn tỉnh, với hơn 250 ngàn người tham gia; cuộc thi tìm hiểu pháp luật dân sự đã thu hút trên 163 ngàn người tham gia, Luật nghĩa vụ quân sự 110 ngàn người tham gia… có tác dụng giáo dục cao trong nhân dân… Một hình thức TTPBGDPL mới là sân khấu hóa các cuộc thi cho chính những người làm công tác quản lý Nhà nước nói chung và pháp luật nói riêng như: cuộc thi: Chủ tịch UBND cấp xã, phường, thị trấn giỏi, Hòa giải viên giỏi, Giờ thứ 9, Nông dân với phong trào phòng, chống tội phạm, Nữ công nhân viên chức giỏi việc nước đảm việc nhà,… đã góp phần tích cực để đạt được kết quả cao trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

Sáu: Thông qua chương trình ngoại khóa trong các trường học đặc biệt là các trường phổ thông đã có tác dụng nâng cao sự hiểu biết pháp luật trong học sinh, giảm vi phạm một cách rõ rệt.

Bảy: Thông qua đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên cơ sở đã có tác dụng gắn việc phổ biến tuyên truyền với việc tự giác thực hiện các chính sách và pháp luật trong nhân dân được làm tốt ở các ngành truyền thông dân số.

Tám: Thông qua các cuộc vận động và hợp đồng cam kết tôn trọng pháp luật của gia đình, các tổ chức từ cơ sở, như xây dựng gia đình văn hóa mới, không đốt và tàng trữ pháo; gia đình, cơ quan, phố không có người nghiện hút v.v. đem lại hiệu quả tốt.

Chín: Thông qua công tác trợ giúp pháp lý, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật lưu động tới người nghèo và đối tượng chính sách, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa… đã góp phần tích cực trong việc xóa mù pháp luật cho nhân dân.

Từ những cố gắng, trong những năm qua công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật ở Phú Thọ đã có những chuyển biến tích cực sau:

- Nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp đã được nâng lên một bước về chất, đã có sự đổi mới tư duy về vị trí vai trò của pháp luật trong quản lý Nhà nước, quản lý xã hội nói chung và công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật nói riêng; Các cấp ủy Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền, các đoàn thể nhân dân tăng cường đầu tư cho công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật như: xây dựng tủ sách pháp luật, củng cố hệ thống phát thanh, truyền thanh, làm tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã được chú trọng thường xuyên hơn; các nội dung pháp luật đã được chuyển tải nhiều hơn đến nhân dân; hình thức và biện pháp tuyên truyền đa dạng hơn, phong phú hơn;

- Các quyền của công dân được đảm bảo thực hiện đầy đủ và dân chủ, trong đó các quyền về bầu cử, quyền tham gia vào các hoạt động nhà nước, quyền khiếu nại tố cáo, quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật được phát huy; các nghĩa vụ thuế, vi phạm pháp luật giảm đáng kể cả trong quản lý nhà nước và trong nhân dân;

- Công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn pháp lý được tăng cường và chú trọng, vai trò quản lý nhà nước trong các cấp các ngành đã được nâng lên một bước;

- Thông qua tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã được mở rộng sự đa dạng hóa các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh, các doanh nghiệp tư nhân, các hộ gia đình kinh doanh dưới vốn pháp định phát triển ngày một nhiều trên mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh;

- Ở một số lĩnh vực như đất đai, đê điều, giao thông, trật tự an toàn xã hội, môi trường… đã gắn với công tác tuyên truyền với việc tổ chức triển khai thực hiện, xử lý vi phạm;

- Một số nội dung cơ bản về các chính sách pháp luật của Nhà nước đã đến được với nhân dân và được nhân dân tự giác chấp hành tốt, như chính sách đất đai, nhà ở, chính sách kinh tế, chính sách xã hội.

Những chuyển biến tích cực trên do nhiều nguyên nhân, đáng chú ý là các nguyên nhân sau:

- Đã có sự quan tâm của cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp, trong đó sự quan tâm chỉ đạo của UBND tỉnh có ý nghĩa quyết định;

- Vai trò quản lý Nhà nước của các cấp các ngành được xác định rõ hơn, cụ thể hơn và đang chuyển sang quản lý Nhà nước bằng pháp luật;

- Đòi hỏi thực tế cuộc sống ngày càng đa dạng phong phú đã tác động trực tiếp đến quá trình tự tìm hiểu trong nhân dân;

- Qua thực tiễn chỉ đạo bước đầu đã tạo ra cơ chế phối hợp lựa chọn hình thức nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả và xác định trách nhiệm của mỗi ngành, đoàn thể, mỗi cấp chính quyền đối với những yêu cầu cấp thiết của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay.

c. Những hạn chế trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật:

Bên cạnh những chuyển biến tích cực, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở Phú Thọ còn có một số hạn chế là:

- Nội dung phổ biến, tuyên truyền còn phiến diện, nặng về phổ biến, tuyên truyền chính sách, chưa coi trọng phổ biến, giáo dục pháp luật; chú trọng đầu tư chỉ đạo tuyên truyền, phổ biến các văn bản của Trung ương, ít quan tâm đến văn bản của tỉnh; chưa gắn việc phổ biến tuyên truyền với việc tổ chức thực hiện và xử lý vi phạm thường xuyên, triệt để trên phạm vi rộng;

- Hình thức tuyên truyền còn đơn điệu, gò bò chưa phù hợp với thực tế sinh động.

Công tác tuyên truyền mới đạt được bề rộng, chưa đạt được bề sâu; nhiều văn bản pháp luật quan trọng chưa đến được với dân. Đối tượng tuyên truyền phổ biến chủ yếu mới dừng lại ở các cán bộ chủ chốt đầu ngành và cũng chỉ mới làm được từng đợt, chưa được thường xuyên liên tục.

- Phương tiện chuyển tải còn hạn chế bởi số lượng, chất lượng; Báo Phú Thọ, Báo pháp luật chưa đến được cơ sở; Các ấn phẩm khác, như chuyên san, sách pháp luật còn thiếu và chưa được đầu tư đúng mức;

- Việc đảm bảo cơ sở vật chất còn hạn chế đặc biệt là hạn chế trong việc cấp kinh phí trong công tác tuyên truyền ở trên diện rộng, ví dụ như việc trang bị, đầu tư cho tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn…

Những hạn chế trên là do các nguyên nhân chủ yếu sau:

Một là: nhận thức của chính quyền ở các cấp không đều ở các địa phương khác nhau, các ngành khác nhau. Ở đâu có sự quan tâm đúng mức thì ở đó làm tương đối tốt và ngược lại;

Hai là: vai trò tham mưu của các ngành cho UBND về công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật còn hạn chế, mới dừng lại ở việc xây dựng kế hoạch, Chỉ thị, việc phối hợp thực hiện còn yếu. Một số ngành thiếu quan tâm đến công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật của ngành; chưa có cán bộ làm công tác pháp chế giúp Thủ trưởng ngành. Đó là điều hạn chế lớn đến kết quả công tác;

Ba là: trình độ năng lực của cán bộ quản lý nhà nước còn hạn chế, lực lượng cán bộ hiểu biết pháp luật một cách nhuần nhuyễn cũng còn hạn chế, trong đó trình độ pháp lý của cán bộ chính quyền cơ sở còn thấp, do vậy đã không nắm vững được chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình để thực hiện đúng các quy định của Pháp luật, chưa đáp ứng được yêu cầu tham mưu cho cấp ủy, lãnh đạo ngành, cấp mình trong việc TTPBGDPL và thực thi pháp luật ở địa phương.

  1. Đánh giá chung về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở Phú Thọ thời gian qua:

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là một nội dung quan trọng trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng của Đảng và Nhà nước nhằm không ngừng nâng cao ý thức pháp luật và tăng cường Pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã khẳng định: “Điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, nâng cao trình độ dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân”.

Những năm qua, cùng với sự đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đã có những chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật; đã ban hành, sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp luật quan trọng, hệ thống pháp luật đã dần dần được hoàn thiện, đòi hỏi phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật làm cho pháp luật đi vào cuộc sống, thực hiện “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Trong nhiều năm gần đây, đáp ứng yêu cầu này Hội đồng Bộ trưởng, nay là Chính phủ đã ra nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Năm 1987, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã có Chỉ thị số 300 về tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật. Mới đây công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã được nhiều Nghị quyết, Quyết định, Chỉ thị của Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Tư pháp điều chỉnh, trong đó đặc biệt là việc ban hành Chỉ thị 02, Quyết định 03 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay và thành lập Hội đồng phối hợp công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật ở các cấp, các ngành.

Ở Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ), công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã được Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh quan tâm và chỉ đạo kịp thời. Tỉnh ủy đã có Chỉ thị 08 về tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật; nhiều Nghị quyết của HĐND tỉnh trong những năm qua đã đề cập đến công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và coi đó là những đợt sinh hoạt chính trị lớn trong toàn tỉnh. Đặc biệt, từ năm 1987 đến nay UBND tỉnh đã có 2 Chỉ thị chuyên về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Năm 1995 HĐND tỉnh ra Nghị quyết số 06 chuyên đề về tuyên truyền giáo dục pháp luật; tháng 11 – 1995 UBND tỉnh ban hành Quyết định số 2277 quy định trách nhiệm và quan hệ phối hợp của các cấp trong công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật. Ban thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ thị 08 và ngày 10/7/2000 Ban thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ thị 08 và ngày 10/7/2000 Ban thường vụ Tỉnh ủy tiếp tục ban hành Chỉ thị 15/CT – TU. Triển khai Chỉ thị 15/CT – TU và để phù hợp với tình hình thực tế, ngày 3/12/2001, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định 4323/2001/QĐ – UB thay thế Quyết định 2277/QĐ – UB. Những văn bản trên đã tạo ra căn cứ pháp lý quan trọng thúc đẩy làm chuyển biến cả về nhận thức và hành động trong các cơ quan Đảng, chính quyền, tổ chức đoàn thể và nhân dân đối với công tác giáo dục pháp luật trên địa phương.

Từ năm 1985, cũng với kết quả đã đạt được về kinh tế, chính trị, xã hội, công tác tuyên truyền, phố biến pháp luật ở Phú Thọ đã được đẩy mạnh một bước và được tổ chức thường xuyên hơn.

Các Luật, Pháp lệnh và các văn bản pháp quy của Chính phủ mới được ban hành đã được triển khai tuyên truyền sớm trong toàn tỉnh. UBND tỉnh đã xác định tuyên truyền, phổ biến pháp luật là một nội dung công tác trong chương trình công tác hàng năm của UBND tỉnh và đã đạt được một số kết quả là:

- Các chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ban hành ở những mức độ, phạm vi khác nhau đã được triển khai học tập đến cán bộ, nhân dân trong toàn tỉnh.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật ngày càng được chú trọng, nhận thức trong các cấp, các ngành về vị trí, vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước có sự chuyển biến rõ rệt. Nhận thức trong cán bộ, nhân dân về pháp luật có sự chuyển biến tích cực.

- Do làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nên dân chủ XHCN đã được phát huy trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị, kinh tế. Tình hình an ninh, chính trị - xã hội được giữ vững; phần lớn vi phạm pháp luật đã được phát hiện và xử lý. Nhân dân có nhu cầu đòi hỏi cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Ở nhiều lĩnh vực, địa phương các vi phạm pháp luật đã giảm đi rõ rệt.

II- NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN TĂNG CƯỜNG TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT GÓP PHẦN ĐƯA PHÁP LUẬT VÀO CUỘC SỐNG Ở PHÚ THỌ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.

Có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến vi phạm pháp luật. Bên cạnh những nguyên nhân khách quan, như khó khăn về đời sống kinh tế do kinh tế chưa phát triển, tư tưởng cũ để lại, nguyên nhân chủ quan gắn với hoạt động quản lý xã hội là cơ bản, gồm những nguyên nhân chủ yếu sau:

-Trong quản lý và hoạt động xã hội chưa thực sự tạo ra được chuyển biến mạnh sang quản lý nhà nước băng pháp luật, do đó trong các lĩnh vực hoạt động của các cơ quan, viên chức nhà nước chưa thực sự lấy pháp luật làm cơ sở, thước đo, chuẩn mực cho hành động;

-Pháp luật chưa thực sự đi vào cuộc sống xã hội do chưa phản ảnh sát yêu cầu thực tiễn, chưa phù hợp và phát huy yêu cầu thực tế.

Pháp luật tuy đã nhiều nhưng thiếu đồng bộ, chi tiết phục vụ cho vận dụng trong thực tiễn. Tinh thần và nội dung pháp luật chưa thực sự đến được với dân do tuyên truyền còn chưa rộng rãi, nghèo nàn về hình thức, chưa đạt được chiều sâu, diện rộng, nặng về hình thức, kém hiệu quả;

- Chưa có đảm bảo đồng bộ, cần thiết cho quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật. Trách nhiệm các cấp các ngành chưa rõ ràng, quan hệ phối hợp thiếu chặt chẽ. Đầu tư con người, kinh phí còn chưa tương xứng với mục tiêu và yêu cầu thực tế đặt ra. Vấn đề xử lý vi phạm, phòng ngừa chống vi phạm còn hạn chế, nhất là trong việc tạo ra tính phòng ngừa chung để nghiêm khắc trong đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội.

Từ việc xác định nguyên nhân cơ bản của tình trạng vi phạm pháp luật trên, để tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh đạt kết quả tốt cần triển khai chỉ đạo công tác giáo dục theo những định hướng cơ bản sau đây:

1. Lựa chọn và kịp thời phổ biến, giáo dục những thông tin pháp luật cần thiết cơ bản cho từng loại đối tượng, ngành nghề và địa bàn cụ thể.

Muốn vậy, với tư cách là đầu mối chính tổ chức thực hiện và phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật, Sở Tư pháp, các phòng Tư pháp, pháp chế ngành phải bám sát vào chương trình xây dựng văn bản pháp quy và kế hoạch tuyên truyền, giáo dục pháp luật của UBND tỉnh và UBND các huyện hàng năm để trên cơ sở đó mà lựa chọn và kịp thời cụ thể hoá thành các chương trình cụ thể hàng tháng, hàng quí chỉ đạo tổ chức việc phổ biến, cung cấp thông tin những nội dung pháp luật cần thiết, cơ bản cho các loại đối tượng và trong từng thời kỳ một cách linh hoạt, thiết thực, phù hợp.

2. Tổ chức nghiên cứu, phân tích về hiểu biết, nhu cầu và điều kiện tiếp thu, sử dụng pháp luật của từng loại đối tượng để xác định nội dung hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả theo các nhóm đối tượng sau:

- Với công chức và viên chức Nhà nước: Việc học tập, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cơ bản cho đối tượng này là yêu cầu bắt buộc phải làm thường xuyên và có hệ thống theo kế hoạch và chương trình theo sự chỉ đạo của Bộ Tư pháp do Sở Tư pháp chịu trách nhiệm về nội dung, báo cáo viên phối hợp với Liên đoàn lao động tỉnh, các Sở ngành chủ quản thực hiện; nhóm đối tượng này cần được từng bước tiếp cận kịp thời các văn bản pháp luật và hoạt động thực tiễn thi hành pháp luật trong hoạt động quản lý nhất là lĩnh vực hoạt động cơ bản về kinh tế - xã hội, pháp luật mới thuộc chuyên môn nghiệp vụ của mình theo đúng yêu cầu, nhiệm vụ về chức danh tiêu chuẩn của công chức do Nhà nước ban hành như: Nội dung cơ bản của Hiến pháp, các quan điểm cơ bản về Nhà nước pháp quyền; về cải cách hành chính, tư pháp, quyền nghĩa vụ cơ bản công dân; các luật thực định chuyên ngành theo lĩnh vực hoạt động chuyên môn từng loại công chức, pháp luật quốc tế về lĩnh vực chuyên môn và lĩnh vực quan hệ trực tiếp đến công việc.

Hình thức phổ biến, giáo dục chủ yếu cho đối tượng này là đưa pháp luật vào các chương trình đào tạo ở các trường như: Học viện hành chính Quốc gia, Trường hành chính, Trường chính trị các tỉnh, Trường đào tạo bồi dưỡng cán bộ, Trường học nghề, các trường lớp bồi dưỡng nghiệp vụ... hoặc mở các lớp luân huấn tại chức với sự giúp đỡ của ngành tư pháp. Ngoài ra, cần khai thác các hình thức khác như xây dựng các câu lạc bộ pháp luật, tủ sách pháp lý ở các đơn vị cơ sở.

- Đối với các chủ doanh nghiệp của các thành phần kinh tế:

Ngoài nội dung, trương trình học tập cơ bản chung cho các đối tượng, các chủ doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế phải học tập, bồi dưỡng có hệ thống về pháp luật liên quan đến lĩnh vực sản xuất kinh doanh, như các luật thuế, luật kinh tế, dân sự, lao động, pháp luật về sử dụng đất, về thống kê, kế toán, pháp luật về môi trường, về quản lý công nghệ khoa học, thông tin v.v. từ đó mà vận dụng pháp luật vào sản xuất kinh doanh. Đối tượng này thích ứng với hình thức sinh hoạt chuyên đề ở các câu lạc bộ pháp luật, bồi dưỡng chuyên đề về pháp luật, tổ chức nghiên cứu, hội thảo pháp luật, cung cấp tài liệu dưới dạng hỏi đáp những vấn đề thiết yếu. Xây dựng mô hình doanh nghiệp quản lý kinh tế xã hội giỏi, chấp hành nghiêm túc pháp luật.

- Đối với nhân dân các vùng địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa và dân tộc thiểu số ít người (Yên Lập, Thanh Sơn, Đoan Hùng, Sông Thao, Hạ Hoa...) nhằm phổ biến, giáo dục pháp luật để nâng cao dân trí pháp lý cho đối tượng này là yêu cầu và mục tiêu vừa có tính cấp bách vừa có tính lâu dài của Nhà nước ta. Cần phải chú trọng giáo dục, phổ biến nội dung cơ bản của Hiến pháp (nhất là các quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định tại chương V Hiến pháp 1992), các pháp luật về hôn nhân, đất đai, bảo vệ rừng và tài nguyên, pháp luật về hình sự, dân sự, lao động, các pháp luật về chống sản xuất sử dụng thuốc phiện, bài trừ mê tín dị đoan. Các tệ nạn xã hội: nghiện hút, cờ bạc, tảo hôn, du canh, du cư phá rừng. Hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, phù hợp hơn cả cho đối tượng này là tuyên truyền trực tiếp bằng miệng, qua hòa giải, đài, báo, sinh hoạt cộng đồng; khai thác ưu thế của hương ước, luật tục coi đó là nội lực truyền tải pháp luật. Phát huy những hương ước, luật tục giữ gìn được phong tục, tập quán của đồng bào, bảo tồn bản sắc dân tộc đi đôi với xây dựng hương ước, luật tục mới để tăng cường đoàn kết dân tộc, tìm sự bổ sung cho pháp luật thực định. Hương ước, luật tục không thể tồn tại ở trạng thái không có sự quản lý của nhà nước. Khắc phục những hạn chế của hương ước, luật tục phải có thời gian và di cùng với nó là việc tuyên truyền đưa pháp luật đến với nhân dân, "luật mới hoá luật tục".

- Đối với nhóm đối tượng học sinh, sinh viên:

Ở bất kỳ nước nào thì phổ biến, giáo dục pháp luật đối với mọi thanh niên luôn có ý nghĩa quan trọng và rất cần thiết. Nói một cách giản đơn là Chính phủ phải tạo ra cho thanh niên hiểu được những tri thức tối thiểu và cần thiết của pháp luật. Ở Việt Nam và tỉnh Phú Thọ hệ thống phổ biến pháp luật và thực hiện pháp luật đang còn nhiều mặt hạn chế. Do đó tổ chức tốt việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên càng có tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Thanh niên hiện nay "Phần lớn năng động phấn đấu vươn lên vượt qua thách đố, đua tranh có ý thức trách nhiệm với bản thân, lao vào học tập. Song một bộ phận sinh viên, thanh niên, học sinh có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì lý tưởng, hiểu biết pháp luật (theo điều tra xã hội học của chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX07 cho thấy: 77% thanh niên thi vào các trường lấy tiêu chuẩn nghề có thu nhập cao làm chuẩn hàng đầu, ở thành phố trong số được hỏi về tìm hiểu Hiến pháp 1992 có 40% số người chỉ xem qua, 10% tìm hiểu kỹ, qua điều tra của một cơ quan thanh niên còn cho thấy 64,8% số người ra nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản là do "a dua" theo phong trào"[3]. Tình hình trên là do công tác giáo dục bị xem nhẹ và phiến diện, chưa chú trọng về giáo dục xã hội trong đó có pháp luật. Do đó đối với nhóm đối tượng này cần đề ra yêu cầu bắt buộc phải học tập pháp luật theo chương trình giáo dục công dân do Bộ Tư pháp và Bộ Giáo dục đào tạo biên soạn; các pháp luật liên quan đến việc học tập văn hóa, học nghề, nghiên cứu khoa học kinh doanh, hôn nhân và gia đình và các văn bản gắn với mục tiêu đào tạo từng trường. Hình thức học tập, bồi dưỡng cần dược tiến hành theo từng bước, phù hợp với độ tuổi nghề nghiệp và giới tính. Chú ý hình thức đưa pháp luật vào nội dung sinh hoạt đoàn, đội hoặc tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật cho các thanh niên, học sinh, khuyến khích lực lượng này tham gia các hoạt động giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và cơ quan, địa phương, nhà trường để họ nắm được pháp luật, tìm hiểu pháp luật và vận dụng pháp luật vào cuộc sống hàng ngày của mình.

- Đối với các đối tượng đã phạm tội hoặc bị xử phạt hành chính, bị tập trung cải tạo.

Từ tình hình phạm tội trong những năm qua cho phép rút ra kết luận là phần đông các đối tượng phạm pháp đều có trình độ văn hóa thấp; nhiều trường hợp không được học hành nên không biết chữ, nhất là trẻ em nhiều khi do phải vật lộn với đời thường để kiếm sống nên không hiểu biết đầy đủ về phải, trái, về đạo đức lối sống, về thuần phong mỹ tục và pháp luật. Việc xét xử, xử lý chưa nghiêm chưa có tác dụng giáo dục, công tác quản lý giáo dục sau khi xử lý, thi hành xong bản án làm chưa tốt nên nhiều trường hợp tái phạm, điển hình là trong xử lý chống ma tuý. Số án ma tuý hàng năm ở nước ta thụ lý tăng 35% cả số vụ và bị can. Tính từ năm 1993 đến hết 30/6/1996 cả nước đã khởi tố 5.974 vụ và 8.513 bị can phạm tội ma tuý (trong đó phạm pháp điều 96a Bộ luật hình sự chiếm 2.922 vụ với 4.347 bị can). Sáu tháng đầu năm 1996 khởi tố tăng hơn cả năm 1993 là 13% cả số vụ và số bị can. Trong hai năm 1994, 1995 và 6 tháng đầu năm 1996 các cơ quan Công an, Kiểm sát, Toà án đã xác định 428 vụ án trọng điểm về ma tuý, trong đó phạm điều 96a là 240 vụ, toà án tuyên án tử hình 13 bị cáo.

Điều đáng quan tâm hiện nay là trong khi việc khởi tố chưa tương xứng tội phạm xảy ra nhưng quá trình tố tụng tiếp theo lại còn đạt tỷ lệ thấp. Thí dụ năm 1994 khởi tố 713 vụ và 1.088 bị can theo điều 96a Bộ luật Hình sự nhưng kết thúc điều tra chỉ đạt 76% số vụ và 73,7% số bị can đã khởi tố. Như vậy 24% số vụ và 26,3% số bị can được "giải thoát" có thể là án tìm cho năm sau"[4]. Qua kiểm tra các đối tượng có vi phạm pháp luật về hành chính, vi phạm các tệ nạn xã hội qua xử lý, giáo dục, cai nghiện thì có tới trên 70% tái phạm. Do vậy đối với những đối tượng này cần phải xác định việc giáo dục, học tập pháp luật là bắt buộc, và là tiêu chuẩn để đánh giá việc rèn luyện cải tạo của mỗi con người. Nội dung giáo dục pháp luật cần được lựa chọn để giáo dục là Hiến pháp, luật hình sự, Luật nghĩa vụ quân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật dân sự, đất đai, Luật phòng, chống ma tuý, Pháp lệnh về xử lý vi phạm hành chính… Những nội dung này được Sở Tư pháp cụ thể hóa trên cơ sở chương trình thống nhất do Bộ Tư pháp, Bộ Công an biên soạn và tổ chức phổ biến tại các trạm giam, các trung tâm lao động cải tạo tập trung, trung tâm bắt buộc cai nghiện, chữa bệnh, các lớp học tình thương, trường giáo dưỡng, các tổ chức dân cư v.v. chú ý giáo dục thông qua hình thức tự quản, vận động các đối tượng có quá trình rèn luyện, cải tạo tốt, tham gia tuyên truyền giáo dục cho những người cùng cảnh ngộ, kết hợp giáo dục pháp luật với tổ chức cho họ trực tiếp tham gia vào các hoạt động bảo vệ trật tự trị an trong nơi cư trú, học nghề hoặc làm việc.

3. Kết hợp chặt chẽ giữa thi hành pháp luật với phổ biến, giáo dục pháp luật.

Thực tế cho thấy, pháp luật kém hiệu lực và ít đi vào cuộc sống do nhiều nguyên nhân khác nhau (cả về chủ quan và khách quan), song có nguyên nhân là không có sự kết hợp giữa phổ biến giáo dục pháp luật với thi hành pháp luật. Xét trên mọi phương tiện thì giáo dục pháp luật được tiến hành trong tất cả các khâu quản lý nhà nước và hệ thống cơ quan nhà nước, từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp. Hơn nữa hiệu lực pháp luật còn phụ thuộc vào khâu tổ chức thi hành pháp luật. Do vậy, theo một khía cạnh nào đó về thực tiễn thì chính việc tổ chức thi hành tốt pháp luật cũng là một nội dung và biện pháp giáo dục pháp luật. Vì thế, trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật không chỉ là bổn phận của các cơ quan, viên chức nhà nước, các tổ chức xã hôi và mọi công dân mà còn là một khâu quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật hiện nay.

4. Tiến hành phổ biến, giáo dục pháp luật và tư vấn giúp đỡ pháp luật thường xuyên cho cán bộ và nhân dân.

Tư vấn pháp luật không chỉ là một hoạt động tư pháp có tính bổ trợ mà còn là một khâu dịch vụ xã hội quan trọng có tính giáo dục cao, khi quản lý nhà nước càng được tăng cường, pháp luật càng hoàn thiện thì nhu cầu tư vấn pháp luật càng rộng lớn. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, và do bản chất của chế độ XHCN vấn đề đặt ra là không thể thương mại hoá toàn bộ dịch vụ pháp luật. Vì vậy, bên cạnh việc xây dựng các trung tâm tư vấn, giúp đỡ pháp luật thu phí cho mọi công dân có nhu cầu và cho các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân người nước ngoài ở tỉnh và huyện thì điều cần thiết là phải xây dựng và củng cố hoạt động của các trung tâm tư vấn, dịch vụ pháp luật miễn phí cho cán bộ, nhân dân diện chính sách, có khó khăn về kinh tế. Các trung tâm này có thể được thành lập ở tỉnh, một số huyện có tính chất trung tâm của khu vực; với lực lượng nòng cốt là các luật gia, cán bộ ngành tư pháp. Ngoài ra cần phát huy vai trò tư vấn của các cơ quan, các tổ chức xã hội đối với thành viên của mình trong việc tìm hiểu, thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp theo qui dịnh của pháp luật.

5. Kiện toàn, tổ chức và qui hoạch đội ngũ luật sư tư vấn pháp luật, cán bộ làm công tác phổ biến giáo dục pháp luật từ trung ương đến địa phương.

Đây là định hướng có vai trò hết sức quan trọng, vì nó quyết định trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật vì thế cần xây dựng lực lượng này đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng, chú trọng các nguồn là các luật sư tư vấn pháp luật; cán bộ giáo dục pháp luật các sở, ngành, đội ngũ báo cáo viên, thông tin viên không chuyên luật của hệ thống tuyên giáo, đoàn thể; văn hóa tập thể, phóng viên, biên tập viên báo, đài, các cộng tác viên chuyên viết về pháp luật; lực lượng giáo viên dạy pháp luật trong các nhà trường, cán bộ làm nghiệp vụ ở các ngành kinh tế (thuế, địa chính, lâm nghiệp) các ngành nội chính .v.v. Đối với lực lượng này ngoài điều kiện con người có phẩm chất, đạo đức, có hiểu biết về pháp luật nói chung và pháp luật chuyên ngành cần phải có thêm các kỹ năng về viết, nói, tâm huyết với công việc được giao. Đi đôi với xây dựng tổ chức cần phải có sự tập trung ưu tiên chỉ đạo đối với lực lượng nòng cốt làm công tác giáo dục pháp luật thông qua ưu tiên và quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện làm việc, thường xuyên cung cấp những thông tin pháp luật trong và ngoài nước, nhất là những thông tin có tính thời sự pháp lý nhằm làm phong phú tri thức đề họ kịp thời đáp ứng những yêu cầu đặt ra.

6. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế thống nhất về lãnh đạo chỉ đạo công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong tỉnh.

Công tác giáo dục pháp luật là nội dung và nhiệm vụ quan trọng của tất cả các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể và của mọi công dân. Để đạt được hiệu quả cao đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước và xã hội cần phải có cơ chế thống nhất về lãnh đạo chỉ đạo trên cơ sở phân rõ trách nhiệm của mỗi hệ thống cơ quan thực thi nhiệm vụ cụ thể trong nhiệm vụ chung.

- Đối với các cấp ủy Đảng phải coi công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật "là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng"[5], là phương tiện thực hiện nền dân chủ, sự lãnh đạo của Đảng trong xã hội. Điều này đòi hỏi: 1, Đảng viên là công dân cần phải nắm pháp luật, thi hành pháp luật. Do đó nhiệm vụ trước tiên của các cấp ủy Đảng là phải giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho đảng viên. Mặt khác, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, được thực hiện thông qua các tổ chức đảng và từng đảng viên. Vì thế, mỗi đảng viên phải tham gia thực hiện tuyên truyền, giáo dục pháp luật theo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ quản và cả bằng sự gương mẫu trong hiểu biết và chấp hành tốt pháp luật của bản thân mình; 2, Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật phải trở thành nhiệm vụ thường xuyên của tất cả các cấp ủy Đảng, và nghiên cứu, phổ biến pháp luật phải là nội dung sinh hoạt của các tổ chức cơ sở Đảng.

- Hội đồng nhân dân các cấp:

HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thực hiện quyền tự quản và giám sát thi hành pháp luật. HĐND có quyền quyết định "Biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp, Luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên trong cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và đối với công dân ở địa phương"[6]. Để thực hiện được trách nhiệm trên trong các nghị quyết thông qua các chính sách, chương trình cụ thể hoá pháp luật, các kế hoạch tài chính… của HĐND cần xác định rõ sự phân công trách nhiệm chính về phổ biến, giáo dục pháp luật và xác định rõ quan hệ phối hợp giữa các cơ quan để phổ biến, giáo dục pháp luật thống nhất là giữa Tòa án nhân dân tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, UBND tỉnh nhằm chỉ đạo công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và tăng cường sự giám sát của HĐND đối với việc thực hiện các Nghị quyết đó. Cùng với việc ban hành các Nghị quyết, HĐND cần thông qua các kế hoạch ngân sách cần thiết, tương xứng giữa việc xây dựng các văn bản pháp luật với việc phổ biến giáo dục pháp luật; tăng cường kiểm tra việc thi hành pháp luật nói chung và trách nhiệm của từng ngành, từng cấp trong việc thực hiện trách nhiệm được phân công chỉ đạo và tổ chức triển khai công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong ngành, địa phương đơn vị nói riêng.

- Ủy ban nhân dân các cấp:

Theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND các cấp thì UBND có trách nhiệm "Tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiểm tra việc chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và Nghị Quyết của HĐND cùng cấp trong cơ quan Nhà nước; tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân ở địa phương"[7].

Với tính chất là cơ quan quản lý hành chính ở địa phương, là người tổ chức thi hành pháp luật, UBND các cấp phải trực tiếp tổ chức và quản lý công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Vì vậy, UBND phải có sự chỉ đạo thường xuyên kịp thời công tác này bằng các chương trình, kế hoạch, chỉ thị về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong từng thời kỳ. Kế hoạch tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải là một bộ phận quan trọng trong các kế hoạch kinh tế - xã hội. Trong các văn bản về chỉ đạo thực hiện phải cụ thể và cụ thể hóa trách nhiệm cho từng cơ quan, yêu cầu tiến độ thực hiện, đồng thời cân đối và bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc triển khai (kính phí, cơ chế tổ chức, điều hành); tổ chức thường xuyên quá trình thực hiện bằng các hoạt động kiểm tra, đánh giá, uốn nắn, chỉ đạo sơ kết tổng kết rút kinh nghiệm; mặt khác, tăng cường quan hệ phối hợp, giải quyết và tháo gỡ những tồn tại, vướng mặc giữa các ngành, đoàn thể hữu quan, báo cáo đề xuất HĐND; Chính phủ các vấn đề về phối hợp với các ban HĐND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, về phát huy và bảo đảm hoạt động của Hội đồng phối hợp công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

- Ngành tư pháp:

Là cơ quan chuyên môn giúp Chính phủ và UBND các cấp quản lý thống nhất công tác tư pháp trong cả nước và trong từng địa phương. "Sở Tư pháp có nhiệm vụ là cơ quan thường trực của hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật dài hạn và ngắn hạn ở địa phương, phối hợp với Sở giáo dục đào tạo và các cơ quan tổ chức có liên quan hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giảng dạy pháp luật trong các các trường học"[8]. Phòng tư pháp các huyện, thành, thị xã có nhiệm vụ "tổ chức việc phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân; phối hợp với phòng giáo dục và các cơ quan, tổ chức hữu quan tổ chức thực hiện chương trình giảng dạy pháp luật trong nhà trường"[9]. Ban tư pháp xã, phường, thị trấn có nhiệm vụ "Thực hiện việc phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân"[10].

Với trách nhiệm là đầu mối và trung tâm tổ chức phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật, trên cơ sở trách nhiệm thẩm quyền được giao và theo kế hoạch chỉ đạo thống nhất của Chính phủ, Bộ tư pháp, Sở Tư pháp giúp UBND tỉnh lập các kế hoạch này và chương trình tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong địa phương dài hạn và hàng năm, theo đợt hoặc chuyên đề, xác định trọng tâm, trọng điểm để chỉ đạo trong từng thời kỳ; trực tiếp chỉ đạo và tổ chức thực hiện các kế hoạch do nhiều ngành, đoàn thể cùng được giao; chịu trách nhiệm theo dõi, tổng hợp và đôn đốc chung, xây dựng và thực hiện các kế hoạch do Bộ Tư pháp, UBND tỉnh giao; phối hợp xây dựng và xác lập chế độ thông tin, định kỳ báo cáo công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của các ngành, đoàn thể, các cấp chính quyền để trình UBND quyết định, đề xuất các biện pháp chỉ đạo; trực tiếp tổ chức và duy trì xuất bản các nội san tư pháp, mở rộng và phát triển các chuyên mục pháp luật trên Đài Phát thanh và Truyền hình, Báo Phú Thọ; làm nòng cốt trong các ban chỉ đạo tổ chức lấy ý kiến đóng góp các dự thảo pháp luật, khảo sát tình hình thi hành pháp luật, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật trên địa phương.

Với nhiệm vụ như nêu trên, việc tăng cường kiện toàn cả về tổ chức, năng lực chỉ đạo, cơ chế hoạt động, cơ sở vật chất cho ngành tư pháp là vấn đề bức xúc đang đặt ra hiện nay.

- Các ngành và đoàn thể:

Các ngành và đoàn thể tham gia giáo dục pháp luật trên cơ sở phối hợp thường xuyên, chặt chẽ, thống nhất giữa các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo chung về công tác tư tưởng, thông tin, phổ biến giáo dục pháp luật của Đảng (Ban tuyên giáo), Văn phòng HĐND, Văn phòng UBND, Sở Văn hóa Thông tin và Thể thao, Mặt trận Tổ quốc tỉnh, các cơ quan nội chính, Sở Giáo dục Đào tạo hàng năm hoặc theo từng thời kỳ, phối hợp kiểm tra, đánh giá, đúc rút kinh nghiệm và bài học thực tiễn về phổ biến giáo dục pháp luật trong từng thời kỳ.

7. Quan tâm và đầu tư đúng mức việc nghiên cứu khoa học về phổ biến giáo dục pháp luật.

Công tác giáo dục pháp luật là nội dung hết sức quan trọng trong giáo dục văn hóa, giáo dục nhân cách, ý thức trách nhiệm công dân. Tuy nhiên do những năm trước đây chưa được quan tâm đúng mức nên chưa có các công trình khoa học nghiên cứu đầy đủ, toàn diện cả về lý luận và thực tiễn của công tác này. Do vậy, việc đầu tư nghiên cứu tạo ra các luận cứ khoa học từ thực tiễn để chỉ đạo và thực hiện lâu dài là hết sức cần thiết. Từ thực tiễn giáo dục ở tỉnh Phú Thọ trong những năm qua cho phép rút ra những yêu cầu đối với việc nghiên cứu khoa học giáo dục pháp luật trên những vấn đề sau:

- Nghiên cứu về thực trạng và nhu cầu hiểu biết, sử dụng pháp luật của từng loại đối tượng (chú trọng vào các đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật ở trên);

- Nghiên cứu phạm vi và hiệu quả tác động, phương thức và điều kiện tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật (từng hình thức cụ thể, trong đó chú trọng hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng thông qua các chuyên mục hoặc trong chuyên đề pháp luật giáo dục pháp luật trong các nhà trường, chọn lựa các loại hình đặc thù của từng khu vực, từng địa bàn dân cư;

- Nghiên cứu xác định các mô hình tổ chức, chỉ đạo và phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng và phát triển lực lượng làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để đảm bảo chất lượng hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật;

- Nghiên cứu cơ chế, biện pháp tập hợp, thu hút và huy động được lực lượng cán bộ nghiên cứu, cán bộ nghiệp vụ ở các ngành pháp luật giáo dục đào tạo, các Ban Đảng, các Đoàn thể, ngành văn hóa thông tin để nghiên cứu các đề tài lý luận và thực tiễn về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật;

- Vấn đề nữa là nghiên cứu các biện pháp nhằm đánh giá, xác định kết quả và ảnh hưởng của các biện pháp, nội dung giáo dục pháp luật đối với đời sống kinh tế - xã hội trong tỉnh.

8. Xây dựng các chương trình tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và tổ chức thực hiện:

Giải pháp này thể hiện tập trung ở việc xây dựng các chương trình giáo dục pháp luật và tổ chức thực hiện các chương trình đó đòi hỏi ở Phú Thọ cho thấy cần phải xây dựng các chương trình sau:

+ Chương trình phổ biến, giáo dục sâu rộng, thường xuyên Hiến pháp mới và hệ thống pháp luật đã và đang hoàn chỉnh trên cơ sở Hiến pháp, trong đó chú trọng vào ba nội dung chính: 1, Chế độ kinh tế và hệ thống pháp luật về đổi mới kinh tế; 2, Chế độ chính trị và hệ thống pháp luật về cải cách hệ thống chính trị, tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước; 3, Quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và các bảo đảm pháp lý, tải trọng đến các quyền kinh tế, dân sự, văn hóa, quyền tự do dân chủ.

+ Chương trình tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chống phạm pháp, phạm tội, đặc biệt là chống tham nhũng, buôn lậu và tệ lãng phí.

Chương trình này cần làm rõ ý nghĩa và cơ sở pháp lý của các biện pháp cơ bản của Chính phủ để đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu và tệ lãng phí, bài trừ được các nguyên nhân đó, tạo được nhận thức và niềm tin đúng đắn, dư luận đồng tình và hành động ủng hộ, thống nhất của cán bộ, nhân dân.

+ Chương trình phổ biến, giới thiệu rộng rãi về vai trò, tổ chức và hoạt động của các cơ quan và tổ chức tư pháp. Chương trình này cần chú trọng đến tổ chức và hoạt động của luật sư, công chứng, tư vấn dịch vụ pháp lý; từ đó tạo nên ý thức và thói quen sử dụng đúng đắn pháp luật cũng như các hoạt động tư vấn dịch vụ pháp lý trong sản xuất, kinh doanh và trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người.

+ Chương trình tiếp tục đưa pháp luật vào các hệ thống giáo dục - đào tạo của các trường, lớp với mục tiêu, yêu cầu cụ thể. Yêu cầu của chương trình là bảo đảm thống nhất mục tiêu, yêu cầu, chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng pháp luật tại các trường luật, không chuyên luật và bồi dưỡng theo sự hướng dẫn và chỉ đạo thống nhất của Bộ Tư pháp. Việc giáo dục pháp luật trong các nhà trường không chuyên luật được chia làm hai mức độ - giáo dục pháp luật phổ thông những yêu cầu tối thiểu cơ bản về hiểu biết pháp luật đối với mọi công dân ở từng trình độ đào tạo và giáo dục pháp luật chuyên ngành gắn với mục tiêu đào tạo nghề ở từng khối ngành. Đối với khối trường Đại học, Trung học Chuyên nghiệp cần nghiên cứu xây dựng chương trình và biên soạn tài liệu cho môn học "nhập môn" pháp luật ở giai đoạn giáo dục đại cương trong các trường trung học chuyên nghiệp. Nhà nước trang bị những kiến thức cơ bản chủ yếu về lý luận Nhà nước và pháp luật, hệ thống pháp luật Việt Nam, một số ngành luật quan trọng như Hiến pháp, Hành chính, Hình sự, Dân sự.

Đối với khối trường đảng, trường hành chính cần hoàn chỉnh các chương trình, sửa đổi, bổ sung và đa dạng hóa nội dung theo từng đối tượng; phần nội dung tập trung chủ yếu của chương trình là lý luận nhà nước và pháp luật; Xây dựng nội dung, chế độ bồi dưỡng, tập huấn về pháp luật một cách thường xuyên, linh hoạt và phù hợp điều kiện công tác của các đối tượng học, bảo đảm các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng pháp luật theo chức danh tiêu chuẩn công chức quản lý nghiệp vụ.

Đối với khối trường đoàn thể, trường bồi dưỡng cán bộ của các ngành: Căn rà soát nội dung, rà soát tài liệu pháp luật, nhất là pháp luật chuyên ngành, xây dựng đội ngũ giáo viên chuyên trách và kiểm nghiệm tương đối ổn định để đảm bảo chất lượng giảng dạy, từng bước chuyên môn hóa đội ngũ giáo viên để phổ cập trình độ đại học luật.

Cùng với các chương trình trên cần nghiên cứu xây dựng chương trình, tài liệu giáo dục pháp luật phổ cập cho tất cả các đối tượng học không chính qui ở khối các trường này, kể cả các phóng viên, biên tập viên, các báo, đài và lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên về pháp luật. Đối với các trường phổ thông (đối tượng cơ bản và lâu dài) cần rà soát lại toàn bộ công tác giáo dục pháp luật, tiến hành tổng kết 15 năm đưa giáo dục pháp luật vào nhà trường từ đó có kinh nghiệm thực tiễn để tiến hành đổi mới theo hướng: tăng thời lượng pháp luật vào chương trình, cụ thể hóa phù hợp với độ tuổi của lớp học, cấp học; tiến hành bồi dưỡng, chuyên môn hóa đội ngũ giáo viên giảng dạy, tiến tới chuyên trách phổ cập trình độ trung cấp luật. Tăng cường chương trình ngoại khoá, thực tiễn, gắn việc học với xây dựng nội qui, qui chế và tổ chức chương trình hành động pháp luật; tiến hành các cuộc thi học giỏi, dạy giỏi môn giáo dục công dân, pháp luật.

Để thực hiện được các chương trình giáo dục pháp luật như đã nêu trên cần tiến hành các giải pháp chủ yếu trong quá trình chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện, bao gồm:

- Hoàn thiện và ổn định cơ sở pháp lý của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

Đây là điều kiện và là giải pháp rất quan trọng của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn hiện nay. Vấn đề có ý nghĩa đầu tiên là phải có văn bản qui định nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương (kể cả các cơ quan có thẩm quyền chung và cơ quan có thẩm quyền riêng cũng như các tổ chức nghề nghiệp, các đoàn thể xã hội) trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

Các văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương đối với lĩnh vực này hiện nay vẫn chưa hoàn toàn đầy đủ, chưa có cơ chế xác định rõ trách nhiệm cho từng Bộ, ngành, nhất là đối với các việc cần sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể (như phát huy tác dụng của điểm bưu điện văn hóa xã, tủ sách pháp luật). Từ trước đến nay, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng đưa vào nội dung của nhiều Nghị quyết của Trung ương Đảng, văn bản pháp quy của Chính phủ… làm cơ sở để các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương thực hiện. Song để thực hiện một cách nghiêm túc, thông suốt, phân định trách nhiệm cụ thể, chỉ rõ cơ chế phối hợp trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của các cấp, các ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương cần có văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương về vấn đề này.

Đối với địa bàn tỉnh Phú Thọ, trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành những năm qua, Ban thường vụ Tỉnh uỷ đã có Chỉ thị 08/CT-TU, HĐND tỉnh có Nghị quyết 06/NQ, UBND tỉnh đã có Quyết định 2277/QĐ-UB chuyên về tăng cường chỉ đạo công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn. Sau hơn 5 năm thực hiện các văn bản trên đã thể hiện tính khả thi và tác dụng tích cực. Nay tỉnh đã tách, Phú Thọ cần có văn bản mới chính thức hóa và ghi nhận những nội dung tốt đã được thể nghiệm của ba văn bản trên, đồng thời bổ sung thêm những nội dung mới cho phù hợp đặc điểm địa lý, dân cư riêng của địa phương và Chỉ thị, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Ban thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ thị 15/CT-TU, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định 4323/QĐ-UB. Những văn bản này nhằm đề ra các nguyên tắc xác định cơ chế, nội dung, biện pháp phối hợp và trách nhiệm các bên trong thực hiện các chương trình tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh.

Trên cơ sở các văn bản của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh cần xúc tiến việc ký kết các Nghị quyết liên tịch giữa UBND, các ngành chức năng với các tổ chức xã hội, trước hết là với Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên CS HCM, Hội LH Phụ nữ, Hội nông dân, Hội Cựu chiến binh. Đồng thời các cấp, các ngành, đoàn thể cần cụ thể hóa nhiệm vụ của ngành, cấp mình để thực hiện nghiêm túc, triệt để các văn bản nêu trên. Có thể thực hiện thông qua các hình thức như xây dựng kế hoạch, chương trình hành động hoặc ký kết các Nghị quyết, văn bản liên tịch…

- Tăng cường và đổi mới sự chỉ đạo của UBND trong công tác thực hiện và phổ biến, giáo dục pháp luật. Điều này đòi hỏi: 1, hàng năm UBND tỉnh cần có kế hoạch tuyên truyền, giáo dục pháp luật; UBND cấp huyện, xã có chương trình tuyên truyền, giáo dục pháp luật để chỉ đạo thực hiện. Trong từng thời kỳ, UBND các cấp phải chỉ đạo thường xuyên, kịp thời việc cụ thể hóa các kế hoạch, chương trình cụ thể phù hợp với yêu cầu đặt ra. Trong các văn bản này UBND phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan, cũng như yêu cầu tiến độ thưc hiện, đồng thời bảo đảm các điều kiện để triển khai phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả như kinh phí hoạt động, tổ chức thực hiện, kiểm tra hướng dẫn; 2, hàng tháng, quí UBND kiểm tra, yêu cầu các thành viên của UBND báo cáo về việc thực hiện các công việc được giao chỉ đạo giải quyết các vấn đề vướng mắc, tồn tại giữa các ngành, đoàn thể hữu quan trong tổ chức, thực hiện phổ biến giáo dục pháp luật; 3, báo cáo đề xuất với HĐND về những vấn đề phối hợp giữa UBND với các ban của Hội đồng, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân trong phổ biến, giáo dục pháp luật và thực hiện pháp luật. UBND tỉnh chỉ đạo các Sở, ngành phải có lãnh đạo phụ trách và chuyên viên trực tiếp làm công tác phổ biến giáo dục pháp luật; Đặc biệt đối với các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng, văn hóa thông tin, giáo dục và đào tạo, cơ quan nội chính; 5, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các cấp, các ngành trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Xác định trách nhiệm cá nhân của Thủ trưởng ngành, Chủ tịch UBND các cấp trong việc chỉ đạo tổ chức và triển khai thực hiện. Ở lĩnh vực nào, ngành nào, địa phương nào không làm tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật dẫn đến vi phạm hoặc mất ổn định trong quản lý Nhà nước thì Thủ trưởng ngành, Chủ tịch UBND nơi đó phải chịu trách nhiệm cá nhân trước UBND tỉnh.

- Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các ngành, đoàn thể trong phổ biến, giáo dục pháp luật nó đòi hỏi: 1, Đặc biệt chú trọng các nhóm quan hệ phối hợp giữa các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo chung về công tác tư tưởng văn hóa thông tin, giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, giữa ngành giáo dục đào tạo, các cơ sở đào tạo với các cơ quan bảo vệ pháp luật; 2, Phải đảm bảo cơ chế phối hợp chặt chẽ nhưng linh hoạt, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng chỉ đạo phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật của tỉnh. Hội đồng có trách nhiệm chỉ đạo công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong toàn tỉnh, xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu hàng năm. Ở cấp huyện cũng cần kiện toàn Hội đồng chỉ đạo và ban hành Quy chế phối hợp như ở cấp tỉnh để công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được nâng cao một bước, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, góp phần lập lại kỷ cương xã hội, đẩy mạnh sản xuất phát triển; 3, căn cứ vào qui chế chung và kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên các ngành cần triển khai thành các chương trình hành động, tham gia ký kết song phương trực tiếp với các tổ chức xã hội để triển khai thực hiện. Sở Tư pháp, các phòng Tư pháp phải thực hiện tốt vai trò tham mưu cho UBND, vai trò thường trực của Hội đồng trong việc xây dựng kế hoạch, xác định nội dung, chỉ đạo sự phối hợp giữa các ngành chức năng và các tổ chức, đoàn thể trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở tỉnh.

- Nâng cao và mở rộng khả năng, hiệu quả của các phương tiện truyền tải nội dung pháp luật đến tất cả các đối tượng dân cư. Tập trung xây dựng các hệ thống thông tin, sách, báo, tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật và tư vấn pháp luật rộng khắp, kể cả các cơ quan đảng, nhà nước , đoàn thể, các cơ sở sản xuất kinh doanh trường học để phục vụ nhu cầu tìm hiểu, sử dụng pháp luật của cán bộ, nhân dân; nâng cao chất lượng báo, nội san của các ngành Tư pháp, Thanh tra, Tuyên giáo; xây dựng các chuyên mục pháp luật đa dạng, phong phú hấp dẫn, cung cấp các tài liệu pháp luật, dịch vụ tư vấn pháp lý rộng rãi đến cơ sở. Trong điều kiện cụ thể của Phú Thọ cần tăng cường đầu tư chỉ đạo đáp ứng yêu cầu sau đây: 1, Xây dựng nhiều chuyên mục trên đài, báo với nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật thường kỳ; 2 Đầu tư trang bị đủ các báo đến cơ sở chú trọng báo Phú Thọ và Báo pháp luật. Cần quan tâm đến các huyện, xã vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng tôn giáo. 3, Các Thư viện tỉnh, huyện cần có thêm tài liệu, sách pháp lý, mở thêm phòng đọc sách. Có kế hoạch chọn lựa đầu sách pháp lý cơ bản dùng ngân sách mua sắm trang bị lập tủ sách pháp luật cho tất cả các đơn vị xã phường, cơ quan hành chính, sự nghiệp, hệ thống nhà trường, chỉ đạo các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp dành kinh phí cho xây dựng tủ sách, tài liệu pháp luật; 4, Đầu tư phát hành các chuyên san pháp luật, trang bị công báo TW, công báo tỉnh đến cơ sở kể cả các doanh nghiệp lớn của Nhà nước, các cấp, các ngành phải tổ chức phổ biến, tuyên truyền ngay những văn bản mới có trong các công báo và tài liệu sao gửi: 5, Tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý, dịch vụ tư vấn pháp luật. Các ngành, đoàn thể cần có sự phối hợp với Sở Tư pháp, Hội luật gia, Đoàn luật sư tỉnh mở rộng hoạt động đáp ứng yêu cầu của quản lý Nhà nước và đòi hỏi của nhân dân; 6, Tiếp tục duy trì, củng cố và phát huy hệ thống phát thanh, truyền thanh cơ sở để chuyển tải các thông tin, đặc biệt là truyền tải thông tin pháp luật và băng cassette tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đồng thời phát huy tác dụng của điểm bưu điện văn hóa xã trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

- Củng cố, phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ tỉnh đến cơ sở về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Đến nay đòi hỏi phải sớm tiêu chuẩn hóa các chức danh công chức làm công tác chỉ đạo thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật ở từng cấp, từng ngành theo hướng đảm bảo các yêu cầu hiểu biết về chuyên môn pháp lý, nghiệp vụ báo chí, giáo dục, khả năng nghiên cứu tham mưu và kỹ năng tổ chức phối hợp công việc.

Với các cơ quan Tư pháp: cần có tổ chức và biên chế đủ để thực hiện nhiệm vụ theo Nghị định số 38/CP; đưa chuyên đề giáo dục pháp luật vào giảng dạy tại các trường Đại học luật và tại chức pháp lý ở địa phương như một nội dung bồi dưỡng nghiệp vụ nghề nghiệp.

Với các báo, đài: Cần có đủ phóng viên, biên tập viên và cộng tác viên viết các chuyên mục về pháp luật hoặc chuyên về pháp luật. Số phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên của các báo đài viết về pháp luật bắt buộc phải được cho tập bồi dưỡng kịp thời, có hệ thống về pháp luật theo hình thức học tập chung hay chuyên ngành.

Với pháp chế ngành: Ổn định biên chế, tổ chức, do pháp chế ngành, có cán bộ chuyên trách làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công nhân viên thuộc ngành đó.

Với cơ quan bảo vệ pháp luật: Ngoài thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp luật và đấu tranh phòng chống tội phạm, việc ổn định tổ chức và có cán bộ chuyên trách làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là yêu cầu thực tế và cần thiết - nhất là ở các cơ quan như: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Công an, Hải quan, Thanh tra.

Xây dựng và củng cố màng lưới tuyên truyền viên ở các ngành và cơ sở, phát huy vai trò hệ thống cộng tác viên hiện có, lồng ghép và khai thác phát huy khả năng của đội ngũ cộng tác viên, cán bộ làm công tác truyền thông của các chương trình kinh tế - xã hội như: Dân số - kế hoạch hóa gia đình, khuyến nông v.v. vào tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật.

- Gắn việc giáo dục pháp luật với tổ chức thực tiễn thi hành pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân là một vấn đề cấp bách, một yêu cầu của sự nghiệp tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền, đồng thời là một trong những nhiệm vụ để thực hiện chiến lược con người mà Đảng ta đã đề ra. "Một trong những hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật quan trọng có hiệu quả là thông qua hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, xét xử, xử lý vi phạm việc giáo dục, tuyên truyền được thực hiện thông qua giải quyết một sự việc có thật trong cuộc sống làm cho mọi người hiểu biết các qui định của pháp luật, phân tích nguyên nhân, hành vi và hậu quả pháp lý của việc vi phạm pháp luật"[11].

Thực tế những năm qua cho thấy với kế hoạch giáo dục pháp luật được chỉ đạo thực hiện sát thực tiễn đến cơ sở, có cam kết trách nhiệm của chính quyền cơ sở, tổ dân phố, cơ quan, hộ gia đình đã góp phần tích cực vào việc thi hành pháp luật, nhất là thực hiện: Chỉ thị 406 về cấm đốt pháo, Nghị định 36/CP về trật tự an toàn giao thông đường bộ, Nghị dịnh 87/CP, Chỉ thị 814/TTg về bài trừ tệ nạn xã hội, quản lý văn hóa: Do vậy, cùng với việc xây dựng các mô hình điểm về thực hiện pháp luật, cần đẩy mạnh vận động ký các hợp đồng cam kết giữa chính quyền với hộ gia đình, tổ dân phố đại diện cơ quan, đơn vị trên địa bàn trong việc thực hiện pháp luật. Mặt khác, cần chỉ đạo tốt quá trình xử lý vi phạm pháp luật thông qua hoạt động xét xử, xử phạt hành chính, kiểm điểm trước dân cũng là những biện pháp đảm bảo công bằng, nghiêm minh và tạo ra niềm tin, chuyển biến về nhận thức, hành động đối với dân cư nên có tính giáo dục cao.

- Đảm bảo kinh phí riêng biệt, cần thiết cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt là kinh phí cho tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn. Theo đó UBND tỉnh giành khoản kinh phí thường xuyên cho công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Phần kinh phí này cần được ghi riêng trong nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước để phân bổ cho các cấp, các ngành, đoàn thể phụ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ để sử dụng vào hoạt động in ấn tài liệu, tổ chức học tập, bồi dưỡng, duy trì đội ngũ công tác viên, đầu tư cho việc nâng cao, mua sắm trang bị tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác giáo dục pháp luật. Cơ sở của kế hoạch kinh phí là các chương trình kế hoạch đã được UBND xây dựng, chỉ đạo thực hiện hàng năm trong địa phương.

- Cần xây dựng chiến lược pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống một cách đồng bộ, hoàn chỉnh.

Nói đến hệ thống pháp luật là nói đến cả ba phạm vi thể hiện của nó đó là các qui định pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật, ý thức pháp luật. Đây là ba mặt không tách rời nhau của pháp luật, trong đó mỗi mặt đều có yêu cầu riêng, nhưng phải bổ sung cho nhau, không thể chỉ coi nhẹ hoặc chỉ quan tâm riêng một mặt nào.

Để pháp luật đi vào cuộc sống cần phải kiên trì tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho mọi thành viên trong xã hội, nâng cao hiểu biết về pháp luật không chỉ cho cán bộ, viên chức thuộc bộ máy nhà nước, các cơ quan bảo vệ pháp luật, mà trước hết là cho các tầng lớp nhân dân, trau dồi thái độ và tình cảm đúng đắn của họ đối với pháp luật về việc làm theo pháp luật, tuân thủ pháp luật trở thành hành vi và lối sống của con người trong xã hội ta. Thực tiễn cho thấy chỉ khi đông đảo các tầng lớp nhân dân có hiểu biết đầy đủ về pháp luật, về thực tiễn của các cơ quan pháp luật thì việc chấp hành pháp luật mới đầy đủ, việc đấu tranh chống các vi phạm và tội phạm mới mang lại hiệu quả.

9. Tăng cường việc kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm trong thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật:

Kiểm tra là một trong những biện pháp đảm bảo thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Thông qua công tác kiểm tra để nắm tình hình, đánh giá việc thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan, đơn vị cấp dưới; đồng thời rút kinh nghiệm về sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của cơ quan Tư pháp và chính quyền các cấp.

Việc kiểm tra được tiến hành trực tiếp ở cơ sở và thông qua báo cáo từ cơ sở, có thể thực hiện thường xuyên hoặc đột xuất, kiểm tra toàn diện hoặc kiểm tra từng khâu, từng hoạt động và từng công việc cụ thể. Việc kiểm tra trực tiếp phải tiến hành chặt chẽ và có kế hoạch, chương trình cụ thể.

Để đạt được kết quả kiểm tra, thông qua báo cáo cần phải xây dựng và xác lập chế độ thông tin, báo cáo định kỳ về công tác tuyền truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của các cấp, các ngành, đoàn thể và cơ quan Tư pháp cấp dưới; đồng thời làm tốt công tác theo dõi, tổng hợp tình hình, đảm bảo tính hệ thống và khoa học.

Qua kiểm tra phải có đánh giá, nhận xét đầy đủ, khách quan. Khi phát hiện tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phải đôn đốc thực hiện, đồng thời tự mình hoặc kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh kế hoạch, nội dung, phương pháp và tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, kinh phí… cho việc tổ chức thực hiện.

Qua kiểm tra còn giúp cho việc rút kinh nghiệm chỉ đạo chung và là căn cứ cho công tác thi đua khen thưởng hàng năm, đột xuất đối với tập thể, các nhân có thành tích cao trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

Như vậy, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống là một hệ thống các hoạt động liên quan đến các phạm vi khác nhau của đời sống xã hội và hoạt động của Nhà nước, đồng thời đó còn là yêu cầu về sự kết hợp đúng đắn các giải pháp được đặt ở mức độ khác nhau, giữa các khâu khác nhau của pháp luật, từ khi bắt đầu xây dựng cho đến khi phát huy tác dụng, hiệu quả trong thực tế.

Với nhận thức như vậy, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống nhất thiết phải được xem là một hệ thống giải pháp hoàn chỉnh gồm nhiều mặt, khâu, nhiều tầng nấc, trong đó tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những biện pháp cơ bản đặt trong chiến lược phát triển của nhà nước.

 

 

 

 

KẾT LUẬN

Một trong những quan điểm của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được xác nhận trong Báo cáo Chính trị Đại hội lần thứ VIII của Đảng là "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt nam quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức XHCN".

Điểm lại lịch sử, cứ qua mỗi bước phát triển quan trọng của đất nước, Nhà nước ta đều có Hiến pháp và một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh và đầy đủ hơn. Hiến pháp và pháp luật ghi nhận chế độ XHCN, chế độ Nhà nước, các nguyên tắc của nền dân chủ XHCN, cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của bộ máy Nhà nước, quyền và nghĩa vụ của công dân. Những công cụ pháp luật đó đã cho phép Nhà nước ta tiến hành hoạt động quản lý, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nhân dân, đấu tranh phòng chống các vi phạm, tội phạm trong khuôn khổ và trên cơ sở pháp luật.

Đảng và Nhà nước ta không chỉ chú ý đến ban hành Hiến pháp và pháp luật mà còn đòi hỏi sự nghiêm chỉnh thi hành pháp luật, tuân thủ pháp luật, có biện pháp tăng cường ý thức tôn trọng pháp luật và kỷ cương. Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu xây dựng pháp luật và củng cố pháp chế, thực tiễn cho thấy tình hình vi phạm các yêu cầu pháp chế vẫn còn nhiều. Có nơi, có lúc kỷ cương xã hội và trật tự pháp luật, quyền lợi chính đáng và hợp pháp, tính mạng và tài sản của nhân dân bị xâm phạm; các mặt xã hội còn nhiều điều nhức nhối, nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa ngăn chặn được; tiêu cực trong bộ máy nhà nước, đảng, đoàn thể, nhất là trên lĩnh vực nhà đất, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, thuế, xuất nhập khẩu và cả trong cơ quan thi hành pháp luật còn nghiêm trọng kéo dài…

Nâng cao ý thức pháp luật trong cán bộ, công chức và nhân dân, góp phần giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, tăng cường pháp chế XHCN, quản lý xã hội bằng pháp luật, thực hiện phương châm "Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật" là một yêu cầu vô cùng quan trọng và bức xúc trong giai đoạn hiện nay. Để đạt được kết quả đó, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần được quan tâm đầu tư đúng mức, phù hợp với hoàn cảnh thực tế ở địa phương. Cần huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự tham gia của toàn xã hội đối với công tác này. Chính vì vậy, tăng cường pháp luật và pháp chế XHCN trong giai đoạn hiện nay luôn là đòi hỏi khách quan của đời sống xã hội, của việc lãnh đạo và quản lý, nhất là trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời với nó là việc đòi hỏi Nhà nước phải có một chiến lược hữu hiệu để đưa pháp luật vào cuộc sống và tổ chức thi hành pháp luật. Với sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, đoàn thể, tin tưởng rằng trong thời gian tới Báo cáo đề tài này sẽ được áp dụng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ đạt được những kết quả cao, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XV đề ra…

Xin chân thành cảm ơn Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, các huyện, ngành, đoàn thể đã tạo điều kiện giúp đỡ chúng tôi nghiên cứu và hoàn thành đề tài này…

 

 

 

 

 

 

 

CÁC BÁO CÁO PHỤ KÈM THEO BÁO CÁO ĐỀ TÀI

  1. Một số nhiệm vụ, biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác TTPBGDPL trong thời gian tới.
  • UBND thành phố Việt Trì
  1. Những giải pháp cơ bản để thực hiện tốt công tác TTPBGDPL về rừng
  • Chi cục Kiểm lâm Phú Thọ
  1. Công tác tuyên giáo trong việc thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền phổ biến GDPL trên địa bàn tỉnh.
  • Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ
  1. Một số giải pháp – kiến nghị đối với công tác GDPL trong trường học
  • Sở Giáo Dục – Đào tạo Phú Thọ
  1. Vai trò trách nhiệm của nhà trường trong việc GDPL cho học sinh
  • Trường THCS Gia Cẩm – Việt Trì
  1. Trách nhiệm của cơ quan thông tin đại chúng đối với công tác TTPBGDPL
  • Đài PTTH Việt Trì
  1. Công an tỉnh Phú Thọ với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
  • Công an tỉnh Phú Thọ
  1. Mặt trận Tổ quốc với công tác TTPBGDPL – Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động TTPBGDPL.
  • Ủy ban MTTQ tỉnh Phú Thọ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

MỘT SỐ NHIỆM VỤ, BIỆN PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TTPBGDPC TRONG THỜI GIAN TỚI

-------------------------------------

Quán triệt Chỉ thị số 08/CT-TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật. Thành ủy, UBND thành phố đã quán triệt sâu sắc, xác định được trách nhiệm vị trí, tầm quan trọng của công tác này với phương châm: Pháp luật phải đi vào cuộc sống, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phải có tính xã hội hóa cao, đa dạng, phong phú thiết thực về biện pháp và hình thức tuyên truyền. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân từ cơ sở đến thành phố đã tích cực thực hiện tốt trách nhiệm của mình để đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước đến với đông đảo cán bộ đảng viên quần chúng nhân dân, từng bước nâng cao trình độ nhận thức, hiểu biết, ý thức tôn trọng pháp luật đối với mọi người dân.

Trên cơ sở đó UBND thành phố đã triển khai khẩn trương, nghiêm túc bằng những nhiệm vụ cụ thể:

- Hàng năm UBND thành phố xây dựng kế hoạch tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật triển khai trên địa bàn Thành phố đảm bảo tính đồng bộ, thường xuyên liên tục với nhiều hình thức phong phú, thiết thực như:

- Thành lập Hội đồng chỉ đạo công tác phổ biến giáo dục pháp luật thành phố, bổ sung và kiện toàn kịp thời, đủ thành phần đảm bảo số lượng chất lượng hoạt động gồm có 22 thành viên, xây dựng quy chế hoạt động phân công nhiệm vụ và duy trì chế độ sinh hoạt đánh giá kết quả thực hiện đảm bảo hiệu quả công tác chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ công tác tuyên truyền pháp luật.

- Chỉ đạo cơ sở đơn vị xã, phường, xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, thực hiện việc sơ kết 6 tháng, tổng kết năm công tác tuyên truyền Pháp luật.

- Chú trọng củng cố kiện toàn, bồi dưỡng đội ngũ tuyên truyền viên cộng tác viên tuyên truyền Pháp luật.

- Phối hợp các cơ quan, ngành, đoàn thể tổ chức hội nghị tập huấn các bộ luật, UBND thành phố cùng với các ngành đầu tư cho mỗi hội nghị từ 300.000 đến 400.000 đồng, tổ chức hàng trăm lượt ngoại khoá cho học sinh các trường. Tập huấn cho toàn bộ giáo viên các trường trong dịp hè.

- Chỉ đạo xây dựng tủ sách pháp luật từ Thành phố đến cơ sở.

UBND thành phố đã đầu tư hàng chục triệu đồng xây dựng tủ sách pháp luật với trên 300 đầu sách, UBND các xã, phường đã đầu tư 12 triệu đồng xây dựng tủ sách bình quân trên 700.000 đồng cho 1 tủ sách. Cho đến nay 100% cơ sở xã, phường đã có tủ sách pháp luật.

- Đầu tư cơ sở vật chất và nâng cấp hệ thống truyền thanh, nhà văn hóa cơ sở thực hiện tuyên truyền pháp luật, các xã, phường đã đầu tư trên 20 triệu đồng cho việc củng cố nâng cấp hệ thống truyền thanh cơ sở cho đến nay 100% xã, phường đã có hệ thống đài truyền thanh.

- Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, xây dựng băng tuyên truyền pháp luật của Thành phố. UBND thành phố đã đầu tư 30 triệu đồng cho các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, trên 5 triệu đồng làm băng tuyên truyền pháp luật.

Kết quả cụ thể: Những năm qua UBND thành phố đã triển khai thường xuyên tuyên truyền phổ biến kịp thời hệ thống pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật từ TW đến địa phương cho mọi tầng lớp nhân dân. Nội dung tuyên truyền pháp luật chủ yếu như: Hiến pháp 1992, luật tổ chức HĐND và UBND các cấp, luật dân sự, luật đất đai, luật thuế giá trị gia tăng, luật lao động, luật khiếu nại tố cáo, luật giáo dục, luật hình sự 1999, luật hôn nhân gia đình v.v… và các Nghị định pháp lệnh như: Nghị định 36, 39, 40/CP, 87, 88/CP, quyết định 406/TTg, các pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, pháp lệnh công chức, các Nghị định đăng ký sử dụng đất và sở hữu nhà ở đô thị, quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở v.v… Đồng thời tuyên truyền kịp thời các văn bản mới của Chính phủ, các bộ ngành UBND tỉnh, thành phố ban hành.

Ủy ban nhân dân thành phố đã tập trung chỉ đạo có hiệu quả các hình thức, biện pháp tuyên truyền pháp luật như: Xây dựng tủ sách Pháp luật.

- Thông qua các hội nghị triển khai, quán triệt các lớp tập huấn, các buổi nói chuyện chuyên đề hội thảo, lễ hội, hàng năm tổ chức trên 200 hội nghị thu hút hàng chục ngàn lượt người tham dự.

- Tổ chức biên soạn đề cương tuyên truyền, in sao trên chục nghìn bản tài liệu phục vụ tuyên truyền.

- Tổ chức các việc tham gia đóng góp bổ sung vào dự thảo các bộ luật 12 kỳ với trên 300 ý kiến đóng góp có giá trị.

- Thông qua hệ thống phát thanh, truyền thanh từ thành phố đến cơ sở xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp, thực hiện tuyên truyền ngày 2 buổi với thời lượng từ 15 đến 20 phút/ buổi để tuyên truyền pháp luật.

- Tổ chức viết tin bài xây dựng băng tuyên truyền pháp luật của thành phố, băng tuyên truyền, bản tin của Sở Tư pháp phát hành trên hệ thống Đài truyền thanh đạt hiệu quả cao hàng năm có trên 300 bản tin bài phục vụ tuyên truyền.

- Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật đạt kết quả cao như thi tìm hiểu bộ luật dân sự, bộ luật hình sự 1999, chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, tổ chức cuộc thi hoà giải viên giỏi từ cơ sở đến thành phố, tỉnh. Mỗi cuộc thi đã thu hút từ 45.000 đến 50.000 người tham dự, tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật trong trường học thu hút 12.000 học sinh trung học cơ sở dự thi.

- Các phòng Tổ chức xã hội, Thanh tra, Tư pháp, Hội Cựu chiến binh thành phố tổ chức các lớp tập huấn hình sự, luật khiếu nại tố cáo, tập huấn nghiệp vụ cho trên 1000 cán bộ từ thành phố đến cơ sở.

+ Hội phụ nữ thành phố phối hợp tuyên truyền pháp luật thông qua các hình thức sinh hoạt câu lạc bộ phụ nữ với trên 107 câu lạc bộ, thu hút 13.500 hội viên.

Phòng Giáo dục – Đào tạo, đoàn Thanh niên thành phố, Uỷ ban bảo vệ chăm sóc trẻ em thành phố phối hợp với Công an, các trường học trên địa bàn thành phố triển khai kế hoạch liên tịch phòng chống ma túy. Tổ chức giao lưu tuyên truyền phòng chống tội phạm, thành lập đội thanh niên tình nguyện thực hiện luật giao thông. Tổ chức tập huấn luật giao thông, luật nghĩa vụ quân sự, luật bầu cử HĐND v.v. cho trên 5.000 cán bộ đoàn viên tham gia.

Tổ chức 37 buổi toạ đàm, 116 lớp tuyên truyền NQ 09 chương trình phòng chống tội phạm thu hút 11.500 đoàn viên thanh niên.

Phòng Tư pháp, Công an thành phố cùng các ngành trong khối nội chính xây dựng đề án tuyên truyền bộ Luật Dân sự, hình sự, các Nghị định 36/CP, 87/CP, chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, luật an toàn giao thông, tác hại ma tuý cho 13.750 học sinh các trường, duy trì hoạt động 1.720 tổ tự quản đã góp phần thực hiện tốt cuộc vận động toàn dân tham gia chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, chương trình hoạt động chống ma tuý.

Năm 2000 phạm pháp hình sự trên địa bàn thành phố giảm cơ bản về số vụ và tính chất tội phạm. Năm 1999 giảm 32 vụ, năm 200 số vụ phạm pháp hình sự giảm 24,4% so với năm 1999. Số vụ vi phạm hành chính, giao thông giảm. Năm 2000 đơn khiếu nại giảm 25% so với năm 1999, công tác quản lý Nhà nước về trật tự xã hội được tăng cường trên tất cả các lĩnh vực dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của

Ban thường vụ Thành ủy. UBND thành phố đã tổ chức tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 08 của Ban thường vụ Tỉnh ủy và tổng kết 2 năm 1999 - 2000 về công tác tuyên truyền pháp luật. Đồng thời đề ra phương hướng nhiệm vụ tuyên truyền cho những năm tới.

* Đánh giá chung:

Từ những kết quả trên có thể khẳng định những năm qua công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật của thành phố đã có những chuyển biến tích cực các chủ trương chính sách của Đảng, hệ thống pháp luật của Nhà nước đối với cán bộ đảng viên và nhân dân thành phố được kịp thời, rộng rãi hơn trình độ hiểu biết, ý thức tôn trọng pháp luật của nhân dân. Từng bước được nâng lên đã góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội, giữ vững sự ổn định, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thành phố.

* Một số khuyết điểm tồn tại:

- Những kết quả đạt được là cơ bản song công tác tuyên truyền pháp luật của Thành phố còn chưa đảm bảo sự đồng đều rộng khắp.

- Sự hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật của 1 bộ phận nhân dân chưa nghiêm.

- Điều kiện vật chất đảm bảo cho công tác tuyên truyền pháp luật còn hạn chế.

* Nguyên nhân:

- Kế hoạch tuyên truyền pháp luật chưa được kiên trì chỉ đạo, chưa kịp thời tổng kết rút kinh nghiệm tốt trong công tác tuyên truyền pháp luật.

- Sự lãnh đạo chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền ở một số đơn vị chưa sâu, chưa đầy đủ và thường xuyên.

* Quá trình tổ chức chỉ đạo và thực hiện công tác TTPBGDPL trên địa bàn Thành phố có rút ra những kinh nghiệm là:

- Việc giáo dục tuyên truyền pháp luật phải có kế hoạch cụ thể và kiên trì tổ chức thực hiện, tạo điều kiện vật chất đảm bảo cho công tác tuyên truyền pháp luật.

- Phải xác định được trọng điểm, trọng tâm, đối tượng cần tập trung giáo dục tuyên truyền từ đó có phương pháp tổ chức thực hiện đạt hiệu quả.

- Phải có sự phối hợp đồng bộ của tất cả các cấp các ngành, mTTQ và các đoàn thể trên cơ sở đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, chính quyền.

Nhiệm vụ, biện pháp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong những năm tới.

Ủy ban nhân dân thành phố tiếp tục triển khai thực hiện chỉ thị 08, chỉ thị số 02/CT-TTg, quyết định 03/TTg của Thủ tướng Chính phủ, chỉ thị 15/CT-TTg của ban Thường vụ Tỉnh uỷ về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác tuyên truyền pháp luật.

- Thực hiện tuyên truyền phổ biến kịp thời, thường xuyên rộng rãi các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến mọi người dân

- Phối hợp đồng bộ các cấp các ngành, các đoàn thể, thực hiện xã hội hóa cao công tác tuyên truyền pháp luật.

* Biện pháp:

- Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đổi mới nội dung hình thức tuyên truyền đạt hiệu quả cao.

- Củng cố kiện toàn đảm bảo sự hoạt động liên tục của các thành viên Hội đồng chỉ đạo công PBGDPL Thành phố.

- Tăng cường sự phối kết hợp đồng bộ, thường xuyên chặt chẽ của các cơ quan ban ngành, đoàn thể, đơn vị doanh nghiệp.

- Xây dựng củng cố trang bị tủ sách pháp luật từ cơ sở đến thành phố đảm bảo phục vụ tuyên truyền pháp luật.

- Củng cố kiện toàn đội ngũ báo cáo viên tuyện truyền, tăng cường hoạt động của Hội luật gia thành phố.

- Tạo điều kiện vật chất kinh phí đảm bảo cho công tác tuyên truyền pháp luật.

                                                                                         UBND THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ THỰC HIỆN TỐT CÔNG TÁC

TTPBGDPL VỀ RỪNG

                                         ---------------------------------------

Tuyên truyền vận động nhân dân bảo vệ và xây dựng vốn rừng là 1 trong 3 nhiệm vụ của lực lượng Kiểm lâm. Đây là giải pháp quan trọng nhằm làm chuyển đổi nhận thức của các thành viên trong cộng đồng và đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là các chủ rừng, các hộ gia đình nơi có rừng.

Nhận thức sâu sắc nhiệm vụ này, trong những năm qua lực lượng Kiểm lâm Phú Thọ đã đẩy mạnh công tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về rừng, bảo vệ môi trường sinh thái trên diện rộng và cả chiều sâu. Cụ thể đã đạt được những kết quả như

1. Kết quả tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về rừng

Để làm tốt công tác này Chi cục Kiểm lâm đã có sự phối kết hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền, các ngành chức năng và các ban, ngành, đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Liên đoàn lao động… Xây dựng kế hoạch liên tịch về quản lý bảo vệ và phát triển rừng, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về rừng. Đặc biệt là từ khi có Nghị quyết 07/NQ-TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về "tổ chức quản lý bảo vệ và phát triển rừng 1997 - 2000" công tác này càng được đẩy mạnh, phát triển có định hướng, trọng tâm, trọng điểm.

Đồng thời lực lượng Kiểm lâm còn phối hợp với Đài phát thanh và Truyền hình Phú Thọ, Báo Phú Thọ ký kết cam kết về tuyên truyền cho công tác bảo vệ và phát triển rừng. Nội dung tuyên truyền còn được đăng tải trên Báo, Đài trung ương, các tạp chí thông tin, bản tin trong và ngoài ngành.

Ngoài việc phối hợp để tuyên truyền sâu rộng thì lực lượng chuyên ngành đã xây dựng được đội ngũ làm công tác tuyên truyền từ tỉnh đến huyện. Phối hợp với các cấp chính quyền, các ngành, các tổ chức đoàn thể để mở lớp tuyên truyền, biên soạn in ấn tài liệu, tờ bướm để phát tới các hộ nông dân về những nội dung cơ bản thực hiện pháp luật về rừng.

Trong công tác tuyên truyền, các ban của Đảng đã góp phần quan trọng trong việc chuyển tải nội dung, tinh thần của các nghị quyết về bảo vệ và phát triển rừng đến các chi, Đảng bộ cơ sở và quần chúng nhân dân. Đặc biệt trên tờ thông tin sinh hoạt chi bộ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã có nhiều kỳ đưa các nội dung sâu sắc, thiết thực về công tác bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh, góp phần đưa các nghị quyết vào thực tiễn.

Nhằm đa dạng hóa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về rừng; Chi cục Kiểm lâm còn cho xây dựng nhiều biển cấm, áp phích tại các khu vực trọng điểm để tuyên truyền về bảo vệ và phát triển rừng. Phối hợp với ngành Văn hoá tổ chức tuyên truyền lưu động bằng loa đài… Công tác tuyên truyền còn được gắn liền với các cuộc phát động thi đua "giữ mãi màu xanh trên quê hương đất Tổ" và phong trào "Xanh, sạch, đẹp" tổ chức tham quan học tập các mô hình quản lý bảo vệ và phát triển rừng trong và ngoài tỉnh.

- Đối tượng tuyên truyền: Là đến mọi người dân trong toàn xã hội, song tập trung đầu tư tuyên truyền, mở lớp tập huấn cho các cán bộ chủ chốt, các đoàn thể, tổ chức xã hội, cán bộ chính quyền cơ sở, các hộ nông dân, các chủ rừng, để từ đây cũng là hạt nhân mở rộng tuyên truyền đến mọi người dân. Trong công tác tuyên truyền cũng đã tập trung chủ yếu vào các xã vùng sâu, vùng xa, các thôn bản người Mông, Dao như thôn Ngả 2, Mỹ á - Thu Cúc; Sinh Tàn của Thượng Cửu, Chen Chự - Yên Sơn - Thanh Sơn; khu 6 khe Trung Sơn - Yên Lập… Trong đó có sự tham gia của già làng trưởng bản.

- Nội dung tuyên truyền phong phú, song được tập trung trọng tâm là: Luật bảo vệ và phát triển rừng, các văn bản dưới luật về quản lý sử dụng đất rừng, bảo vệ động vật rừng, về phòng cháy chữa cháy rừng, phòng trừ sâu bệnh hại rừng, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng. Truyền đạt những chủ trương, chính sách của trung ương, của tỉnh về công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng. Từ đó để mọi người dân hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ về bảo vệ rừng, để họ yên tâm đầu tư và phát triển nghề rừng lâu dài.

Thông qua việc tuyên truyền đã tổ chức ký cam kết bảo vệ rừng tộng rãi giữa lực lượng Kiểm lâm với các tổ chức xã hội cùng chính quyền địa phương cơ sở với các hộ nông dân. Đồng thời triển khai xây dựng qui ước bảo vệ rừng thôn bản. Thông qua tuyên truyền Chi cục Kiểm lâm đã chỉ đạo xuống tới cấp xã trong việc tổ chức quản lý bảo vệ và phát triển rừng ở địa phương, từ đó làm tốt nhiệm vụ quản lý Nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp theo quyết định 245 của Thủ tướng Chính phủ.

Trong những năm qua đã mở được 80 lớp tập huấn pháp luật về rừng với 7.100 người tham gia. Trong đó có gần 4.500 chủ hộ nông dân được tham gia tập huấn. Chi cục Kiểm lâm đã phối hợp với Sở Tư pháp soạn thảo nội dung và in ấn 11.000 tờ bướm để phát tới hộ gia đình nông dân. Để đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên phương tiện thông tin đại chúng, lực lượng Kiểm lâm đã phối hợp với Đài PTTH của tỉnh và trung ương tiến hành xây dựng 10 phim phóng sự và nhiều chuyên đề về bảo vệ và phát triển rừng, duy trì chuyên mục "Rừng với cuộc sống" phát đều đặn hàng tháng trên Đài PTTH, Báo, tạp chí (ở trung ương và tỉnh). Xây dựng và tu sửa 30 áp phích kiên cố và nhiều biển bảng cấm trong các khu rừng trọng điểm.

Để kịp thời động viên, khuyến khích công tác tuyên truyền, hàng năm Chi cục Kiểm lâm đều có đánh giá rút kinh nghiệm, khen thưởng kịp thời các tập thể cá nhân có nhiều thành tích trong công tác tuyên truyền. Hàng năm trong hạn mức kinh phí của mình

Chi cục Kiểm lâm đã trích ra bình quân từ 70-80 triệu đồng/năm để chi cho công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về rừng:

Tóm lại: Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về rừng bằng nhiều hình thức, truyền đạt đến nhiều đối tượng, đặc biệt chú ý đến đồng bào vùng sâu, vùng xa. Đã tạo ra được sự chuyển biến tích cực đối với các ngành, các cấp và đặc biệt là cấp ủy chính quyền địa phương cấp xã trong việc quản lý bảo vệ và phát triển rừng.

Từ kết quả của công tác tuyên truyền đã góp phần làm giảm các vụ vi phạm trong lĩnh vực QL-BVR. Nếu chỉ tính riêng năm 1998 và 1999 thì năm 1999 số vụ vi phạm giảm 50% so với năm

1998. Các vụ cháy rừng giảm rõ rệt năm 2000 chỉ có 1 vụ cháy với diện tích nhỏ thiệt hại không đáng kể. Diện tích rừng được tăng lên đáng kể, độ che phủ của rừng từ 21,5% (1996) lên 32,8% (1999) và 36% (2000).

2. Những giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt Chỉ thị 15/CT-TU ngày 10/7/2000 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ:

Nhằm thực hiện tốt Chỉ thị số 15/CT-TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới; Căn cứ chức năng nhiệm vụ của ngành, Chi cục Kiểm lâm đề ra những giải pháp nhằm thực hiện tốt chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh ủy như sau:

- Tiếp tục quán triệt NQ 07-TU về các quan điểm mục tiêu và những giải pháp đến các cấp ủy Đảng chính quyền để mỗi huyện, mỗi xã đề ra được mục tiêu, giải pháp sát với địa phương mình.

- Tiếp tục phối hợp với các ban, ngành đoàn thể, xây dựng thực hiện các kế hoạch liên tịch về quản lý bảo vệ

Đặc biệt năm 2001, Kiểm lâm tỉnh phối hợp với Thường trực Huyện ủy các huyện trọng điểm (Thanh Sơn, Yên Lập, Hạ Hoà...) xây dựng kế hoạch phối hợp, mở các lớp tuyên truyền, tập huấn pháp luật về rừng cho các đồng chí trong BCH Chi ủy các xã trọng điểm về công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng.

- Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng như Báo, Đài PTTH tỉnh và trung ương thường xuyên tuyên truyền phản ánh các hoạt động của ngành.

- Đẩy mạnh xã hội hóa công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng. Đồng thời với việc tăng cường tuyên truyền pháp luật về rừng cần chú ý phổ cập kỹ thuật lâm nghiệp đến các hộ nông dân vùng sâu, vùng xa, góp phần cải thiện nâng cao đời sống cho nông dân, từ đó giảm sức ép vào rừng.

3. Những kiến nghị và đề xuất:

- Hàng năm cần đầu tư thoả đáng cho công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về rừng cả về con người và kinh phí.

- Có kế hoạch thường xuyên tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ làm công tác tuyên truyền.

- Cần tăng cường hơn nữa việc tổ chức kiểm tra công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở.

- Mở rộng nhiều các loại hình tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Tuyên truyền có chiều sâu, có nội dung thiết thực và hình thức phù hợp với đối tượng tuyên truyền.

- Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân và chính quyền các cấp, đặc biệt là chính quyền cấp xã. Có sự phối kết hợp chặt chẽ với các ngành hữu quan trong việc tuyên truyền.

- Cần tuyên truyền sâu rộng đến mọi người dân, mọi chủ trương chính sách pháp luật mới được ban hành phải được chuyển tải nhanh kịp thời để sớm đưa vào cuộc sống.

Trên đây là tóm tắt những kết quả trong công tác tuyên truyền vận động nhân dân bảo vệ và phát triển rừng của Chi cục Kiểm lâm Phú Thọ. Trong những năm tới nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết của BCH Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ 15 đưa độ che phủ rừng lên 45% vào năm 2005. Lực lượng Kiểm lâm Phú Thọ quyết tâm đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về rừng. Đồng thời lực lượng Kiểm lâm Phú Thọ rất mong nhận được sự giúp đỡ, đồng tình ủng hộ của các cấp chính quyền, các ban ngành đoàn thể, của nhân dân nhằm giúp cho lực lượng Kiểm lâm Phú Thọ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

CHI CỤC KIỂM LÂM TỈNH PHÚ THỌ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO TRONG VIỆC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ TUYÊN TRUYỀN PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ

------------------------------

Ban Tuyên giáo các cấp là cơ quan tham mưu của các cấp ủy Đảng về công tác tư tưởng và tuyên truyền giáo dục, vì vậy công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành. Nhận thức rõ vai trò nhiệm vụ của ngành, đặc biệt sau khi có Chỉ thị 08/CT-TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, thì công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật càng được quan tâm nhiều hơn. Trong những năm qua, công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật trong toàn ngành đã được triển khai thường xuyên với những biện pháp thiết thực nhằm giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu và nắm vững các nội dung pháp luật và những chủ trương chính sách mới của Đảng và Nhà nước mới ban hành.

Cụ thể là: Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ đã chuyển tải đến các chi bộ và qua đó đến đảng viên hàng trăm văn bản thể hiện chủ trương, chính sách và biện pháp thực hiện của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân tỉnh cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Phương pháp tuyên truyền thường được sử dụng là: bồi dưỡng và hướng dẫn cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên trong toàn tỉnh, trực tiếp tuyên truyền giải thích chính sách, pháp luật cho nhân dân; tranh thủ các hội nghị của tỉnh, của ngành để lồng nội dung cần phổ biến đến thành viên hội nghị; đặc biệt thông qua các ấn phẩm do Ban xuất bản đã đưa nhiều Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước làm tài liệu để phổ biến đến cán bộ đảng viên và nhân dân. 5 năm qua công tác Tuyên giáo trong toàn tỉnh tập trung vào một số nhiệm vụ chính là:

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền miệng: Những năm qua, Ban đã tổ chức 13 cuộc bồi dưỡng cho đội ngũ báo cáo viên trong toàn tỉnh về các nội dung liên quan đến pháp luật như: vấn đề giao đất nông nghiệp cho hộ nông dân sản xuất lâu dài, về phát triển kinh tế trang trại, về chính sách Dân số - kế hoạch hóa gia đình…

Đồng thời hướng dẫn các ngành trong khối tuyên truyền triển khai thực hiện các cuộc thi tìm hiểu về Luật dân sự, Luật Hình sự, Luật Đất đai… Ngoài ra, hàng tháng cán bộ của Ban về cơ sở phổ biến tình hình thời sự kết hợp với truyền đạt những chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước.

Ban Tuyên giáo được Tỉnh uỷ giao nhiệm vụ tổ chức đội ngũ tuyển truyền viên của Đảng, đến nay toàn tỉnh có trên 2000 tuyên truyền viên ở cơ sở. Hàng tháng Ban cung cấp bản tin tuyên truyền viên, trong đó có những nội dung tuyên truyền và giải đáp về pháp luật, làm cơ sở cho đội ngũ tuyên truyền viên trong toàn tỉnh tuyên truyền phổ biến và giải thích, giải đáp cho nhân dân ở từng khu dân cư. Đây là một hình thức tổ chức tuyên truyền, phổ biến; giáo dục pháp luật trực tiếp có hiệu quả cao.

- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các ấn phẩm.

Bản tin sinh hoạt chi bộ của Ban tuyên giáo xuất bản mỗi tháng 5.500 cuốn, phát đến các chi bộ làm tài liệu sinh hoạt chi bộ Đảng hàng tháng. Từ năm 1996 đến nay, liên tục đăng tải các Chỉ thị, Nghị quyết, Nghị định , Thông tư của Đảng, Nhà nước và giới thiệu những vấn đề cơ bản của các bộ luật mới ra đời trong thời gian này. Ngoài các văn bản chính sách mới của Nhà nước và của Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ, thông tin sinh hoạt chi bộ còn giới thiệu kịp thời các văn bản pháp luật như luật Dân sự, luật Bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, luật Khiếu nại - tố cáo, luật Hình sự và các văn bản dưới luật như pháp lệnh, quy chế v.v. Nhờ có ấn phẩm này, nên các nội dung pháp luật mới chỉ trong thời gian ngắn đã đến với hầu hết đảng viên trong tỉnh.

Từ những năm 1999 đến nay, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ đã tham mưu và được Tỉnh uỷ đồng ý cho phát hành ấn phẩm "Thông tin tuyên truyền viên" khổ 13 x 19, 36 trang, hàng tháng in 3.200 đến 3.500 cuốn để phát cho các tuyên truyền viên ở cơ sở làm tài liệu tuyên truyền miệng ở khu dân cư. Nội dung của Bản tin tuyên truyền viên thường xuyên đăng tải những thông tin về thời sự, đồng thời phối hợp với Sở Tư pháp thường xuyên đưa những nội dung giải đáp về pháp luật, như luật Đất đai, luật Hôn nhân và gia đình, luật Khiếu nại - Tố cáo, luật bầu cử Quốc hội, luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và những điểm mới trong bộ luật Hình sự năm 1999…

Qua việc kiểm tra sử dụng 2 ấn phẩm trên đây ở các chi bộ và khu dân cư, ý kiến chung của các đồng chí đảng viên và nhân dân khẳng định tác dụng tích cực của 2 bản tin, cung cấp thông tin kịp thời, thiết thực, giúp nâng cao trình độ nhận thức của cán bộ, đảng viên, nhân dân trong tỉnh về pháp luật và các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước.

- Cung cấp những phương tiện giúp cho công tác tuyên truyền có hiệu quả:

Từ năm 1998, nhận thức rõ vai trò của đội ngũ cán bộ Tuyên giáo xã, phường, thị trấn, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ đã tham mưu với Thường trực Tỉnh uỷ trang bị cho các đồng chí phụ trách Tuyên giáo xã 1 đài để theo dõi thông tin từ Đài tiếng nói Việt Nam và Đài phát thanh tỉnh đồng thời trang bị cho mỗi Ban Tuyên giáo huyện, thành, thị các phương tiện nghe nhìn gồm 1 ti vi, 1 đài casset, 1 máy ảnh để giúp cho công tác tuyên truyền được thuận lợi, đồng thời nắm bắt kịp thời những thông tin ở cơ sở được nhanh nhạy và đầy đủ.

Với chức năng tham mưu của cấp uỷ, sau khi quán triệt Chỉ thị 08 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phú, Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ đã triển khai thành kế hoạch cụ thể và từng bước đưa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật vào nề nếp. Nhờ đó đã góp phần nâng cao thêm nhận thức về chủ trương, chính sách, pháp luật cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Điều đó được khẳng định qua đánh giá của các cơ quan thi hành pháp luật: Tình trạng vi phạm pháp luật của công dân năm sau giảm hơn so với năm trước.

Đối với cấp uỷ, chính quyền các cấp sau khi có Chỉ thị 08/CT-TU, nhận thức về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã được nâng lên một bước, do quán triệt được mục đích ý nghĩa và những nhiệm vụ cụ thể của công tác này. Nhiều cấp ủy và chính quyền cơ sở đã triển khai kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến các khu dân cư. Đặc biệt từ sau khi có Quyết định của Chính phủ thành lập các tủ sách pháp luật ở cơ sở, đã giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân có điều kiện khai thác các văn bản pháp luật, cũng như những chủ trương chính sách mới của Đảng và Nhà nước. Nhiều cơ sở có Đài truyền thanh đã tổ chức tốt việc tuyên truyền, phổ biến các pháp luật mới ban hành của Nhà nước tới nhân dân. Do đó nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh về pháp luật đã được nâng lên một bước. Bên cạnh đó, Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ cùng với Sở Tư pháp soạn thảo những bài hỏi đáp về pháp luật đăng trên Bản tin tuyên truyền viên, giúp cho lực lượng tuyên truyền viên cơ sở giải thích, giải đáp những vấn đề vướng mắc về pháp luật cho nhân đân.

Tuy vậy, công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho đến nay vẫn còn có những mặt hạn chế. Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật đã được tổ chức triển khai theo từng đợt, nhưng chưa được thường xuyên, chưa sâu rộng, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa nhiều người dân chưa am hiểu về pháp luật - nên đã có những hành động vi phạm pháp luật mà không biết. Đặc biệt việc giáo dục về ý thức chấp hành pháp luật chưa được các cấp, các ngành quan tâm đúng mức, do đó còn những luật người dân đã biết nhưng cố tình vi phạm như - Luật Giao thông - gây ra nhiều tai nạn đáng tiếc. Tủ sách pháp luật ở cơ sở được xây dựng là cần thiết, song hiệu quả sử dụng chưa cao, nhiều cơ sở không có người phụ trách hoặc để nơi không thuận tiện cho nhân dân đọc, tìm hiểu.

Với những hạn chế trên làm cho công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật của tỉnh trong thời gian qua chưa đạt hiệu quả cao.

Trong thời gian tới công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cần được tổ chức tốt hơn nữa, nhất là việc phối hợp giữa các ngành, các cấp để giáo dục cho người dân nâng cao ý thức

 

chấp hành pháp luật, mọi người sống và làm việc theo pháp luật trở thành nề nếp.

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH UỶ PHÚ THỌ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

MỘT SỐ GIẢI PHÁP - KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG TRƯỜNG HỌC

---------------------------------

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà trường hiện nay, nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện và giúp hoàn thiện nhân cách cho thế hệ trẻ, để khi các em rời ghế nhà trường sẽ trở thành người công dân tốt không chỉ có các kiến thức văn hoá cơ bản mà còn biết "Sống và làm việc theo Hiến pháp - Pháp luật". Xuất phát từ nhận thức đó, ngành Giáo dục và Đào tạo Phú Thọ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban cán sự Đảng ngành hết sức coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho đối tượng học sinh, sinh viên trong các nhà trường thuộc địa bàn tỉnh. Cán bộ, giáo viên nhân viên của ngành đều quán triệt sâu sắc tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng. "Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật, huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động thiết lập trật tự kỷ cương và hoạt động thường xuyên, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong các cơ quan Nhà nước và trong xã hội".

Với nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật như vậy nên việc triển khai thực hiện công tác này trong những năm qua rất kịp thời, nghiêm túc và đã thu được những kết quả rất đáng khích lệ.

Quán triệt tinh thần chỉ đạo của chỉ thị 08/CP-TU ngày 2/8/1995 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban cán sự Đảng ngành và lãnh đạo Sở Giáo dục - Đào tạo Phú Thọ đã có kế hoạch cụ thể, kịp thời triển khai việc học tập và thực hiện chỉ thị này tới cán bộ, giáo viên, nhân viên, các đơn vị giáo dục, các nhà trường trong toàn tỉnh. Sở đã thành lập Ban chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật của ngành do đồng chí phó Giám đốc Sở làm Trưởng ban, các thành viên khác do các đồng chí trưởng, phó các phòng, ban Sở đảm nhận. Sở đã có công văn hướng dẫn các Phòng Giáo dục - Đào tạo huyện, thành, thị, các trường THPT, THCN - DN, CĐSP và các đơn vị giáo dục, đào tạo trực thuộc Sở thành lập các ban chỉ đạo ở cấp mình để triển khai thực hiện có kết quả chỉ thị 08/CP-TU.

- Sở đã triển khai đầy đủ, kịp thời các văn bản chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước tới các đơn vị giáo dục. Chỉ đạo các phòng GD-ĐT, các trường phổ thông các cấp, các đơn vị giáo dục thành lập tổ tuyên truyền pháp luật, thành viên chủ yếu là giáo viên dạy bộ môn giáo dục công dân, các giáo viên chủ nhiệm, các cán bộ Đoàn. Họ được bỗi dưỡng kiến thức pháp luật, dược cấp phát tài liệu. Đây là lực lượng làm nòng cốt cho công tác tuyên truyền phổ biến và giáo dục pháp luật ở các đơn vị cơ sở.

Từ 1995 trở lại đây, chương trình bộ môn giáo dục công dân ở các trường phổ thông ở bậc THCS, THPT… các nội dung giáo dục pháp luật được đưa vào giảng dạy chính khóa như: Luật Hình sự, luật Hôn nhân và gia đình, an toàn giao thông, phòng chống các tai, tệ nạn xã hội… Ngoài ra việc tổ chức ngoại khóa chuyên đề cũng được các nhà trường quan tâm tiến hành với sự phối hợp của các ngành: Công an, Tư pháp, Tòa án, giao thông vận tải…

Trong năm học 1995 - 1996 Sở Giáo dục - Đào tạo phối hợp với Công an tỉnh, Sở Tư pháp, Sở Giao thông vận tải tập huấn cho hơn 100 báo cáo viên về luật ATGT. Đã tổ chức tốt cuộc thi tìm hiểu về ATGT, đã có 160.998 học sinh THCS và THPT tham gia.

Nhiều bài dự thi của học sinh có chất lượng tốt, được giải thưởng của Sở và các phòng Giáo dục - Đào tạo, điều này thể hiện ý thức pháp luật của học sinh các trường phổ thông trong tỉnh có chuyển biến rõ rệt.

Năm 1998 Sở Giáo dục - Đào tạo đã phối hợp với Sở GTVT tổ chức triển lãm ATGT ở nhà triển lãm tỉnh. Đồng thời kết hợp với Sở GTVT tổ chức tập huấn kiến thức giảng dạy tài liệu ATGT cho 78 giáo viên THCS và THPT. Sở đã có công văn yêu cầu các đơn vị thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 318/TTg ngày 01/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ và công văn số 07/UBATGTQG ngày 15/01/1998 của Ủy ban an toàn giao thông Quốc gia, công văn số 1930/THPT của Bộ Giáo dục - Đào tạo ngày 16/3/1998 về việc dưa nội dung giáo dục ATGT vào chương trình chính khóa bộ môn GDCD ở bậc THPT. Năm 1998 Sở GD-ĐT phối hợp với Sở Tư pháp tập huấn cho 95 giáo viên THPT và THCS nhằm phục vụ cho công tác tuyên truyền, phổ biến và giảng dạy pháp luật từ 1998 đến 2002. Phối hợp với Sở Tư pháp và Xí nghiệp đường sắt Hà - Lào tổ chức cuộc thi "Em yêu đường sắt quê em" Nhằm giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành luật ATGT, ý thức bảo vệ tài sản quốc gia của học sinh đặc biệt ở những địa phương có đường sắt chạy qua.

Trong năm 1999 ngành Giáo dục - Đào tạo Phú Thọ đã chỉ đạo tốt các đơn vị học tập, nghiên cứu Luật giáo dục, phối hợp với Sở Tư pháp, Cục thuế tỉnh tổ chức tập huấn về Luật thuế cho 52 giáo viên bộ môn GDCD. Các trường THPT, THCS đã tiến hành tổ chức tốt việc tuyên truyền, phổ biến và quán triệt luật Thuế thông qua ngoại khoá. Sở đã chỉ đạo phòng GD-ĐT Việt Trì tổ cuộc thi "tìm hiểu về Luật thuế" nhằm tuyên truyền và phổ biến luật thuế trong các trường THCS trong phạm vi thành phố. Cuộc thi đã có 17/17 trường THCS thuộc thành phố Việt Trì, với 10.899 học sinh tham gia. Kết quả đã có 232 học sinh đạt giải các loại.

Trong năm 1999 Sở Giáo dục - Đào tạo tiếp tục chỉ đạo các cơ sở giáo dục, ngoài việc đưa nội dung giáo dục pháp luật vào chương trình chính khóa còn tiến hành việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các hình ngoại khóa, báo tường… với những nội dung như: phòng chống ma tuý, mại dâm, HIV - AIDS và phòng chống các tai, tệ nạn xã hội xâm nhập vào nhà trường.

- Trong năm 2000, phối hợp với Sở Tư pháp, Sở Giáo dục - Đào tạo đã hướng dẫn các đơn vị thực hiện nghiêm túc tháng ATGT, đồng thời đã tổ chức tốt cuộc thi tìm hiểu Bộ luật Hình sự.

Cuộc thi đã thu hút đông đảo học sinh các trường THCS, THPT, THCN - DN, CĐSP toàn tỉnh tham gia. Nhiều đơn vị trường học đã động viên 100% học sinh tham gia và có nhiều học sinh đạt giải vòng chung kết của tỉnh, tiêu biểu như THPT chuyên Hùng Vương. Thông qua cuộc thi ý thức và sự hiểu biết về pháp luật của cán bộ, giáo viên và học sinh đã được nâng lên. Chính điều đó đã làm cho những biểu hiện vi phạm về đạo đức vào pháp luật, các tai tệ nạn của học sinh trong các nhà trường được đẩy lùi.

- Xuất phát từ yêu cầu của công tác TTPBGDPL trong thời gian tới, đồng thời nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác này, Sở Giáo dục - Đào tạo đề xuất một số giải pháp và kiến nghị sau:

1. Những giải pháp:

- Sở Giáo dục - Đào tạo sẽ tiếp tục tăng cường chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật một cách thường xuyên, đồng bộ, coi đây là một biện pháp quan trọng trong công tác giáo dục đạo đức học sinh.

- Kết hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng như: Sở Công an, Sở Tư pháp, Tòa án tỉnh, Sở GTVT, các đoàn thể quần chúng: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ… trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

- Tăng cường bồi dưỡng, tập huấn thường xuyên cho đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật ở các đơn vị cơ sở để làm nòng cốt.

- Tổ chức các hội nghị rút kinh nghiệm về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong toàn ngành, để kịp thời uốn nắn, khắc phục những yếu kém, tuyên dương, khen thưởng những cá nhân và tập thể điển hình.

- Đầu tư thêm kinh phí, mua tài liệu tham khảo và các văn bản pháp luật cấp cho các đơn vị cơ sở để phục vụ cho công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật có hiệu quả.

2. Một số kiến nghị:

- Các cơ quan chức năng (Công an, Tư pháp, Toà án, Sở GTVT) cần phối hợp một cách thường xuyên với ngành giáo dục để giúp đỡ về kinh nghiệm, kiến thức pháp luật, tài liệu học tập, có như vậy công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật mới có thể đạt hiểu quả tốt.

- Ban chỉ đạo TTPBGDPL của tỉnh gần tham mưu với UBND tỉnh để cấp thêm kinh phí thoả đáng cho công tác giáo dục pháp luật của ngành giáo dục, để giúp các đơn vị trong công tác đào tạo, bồi dưỡng các tuyên truyền viên và xây dựng một tủ sách pháp luật theo Quyết định 1067/1998/TTg của Thủ tướng Chính phú.

Trên đây là một số biện pháp và kết quả chính trong công tác giáo dục pháp luật của ngành Giáo dục - Đào tạo Phú Thọ. Chúng tôi mong nhận được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên và kịp thời của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, sự phối hợp có hiệu quả của các cơ quan chức năng trong tỉnh để ngành Giáo dục - Đào tạo có thể làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đồng thời tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 15/CT-TU ngày 10/7/2000 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác TTPBGDPL trong tình hình mới.

                                                                           SỞ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO PHÚ THỌ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

VAI TRÒ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ TRƯỜNG TRONG VIỆC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH

---------------------------------

Mục tiêu giáo dục đào tạo con người phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc, và CNXH. Đồng thời phải hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực nhận thức, năng lực hành vi của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đáp ứng mục tiêu đó, giáo dục pháp luật cho học sinh là một việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng không thể thiếu được trong mỗi nhà trường.

Nhà trường có vai trò hết sức quan trọng trong việc phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho học sinh, trước hết là cung cấp những kiến thức cơ bản về pháp luật cho học sinh, giúp học sinh từng bước hình thành những phẩm chất của người công dân Việt Nam trong tương lai. Bằng các giờ học giáo dục công dân, những tri thức cơ bản về pháp luật được các thầy cô truyền thụ cho các em. Các hoạt động ngoại khóa phù hợp với tâm lý lứa tuổi, những tri thức đó được vận dụng, được ôn luyện giúp cho học sinh có những khái niệm, hiểu biết ổn định, bền vững trong bản thân mình.

Giáo dục pháp luật không chỉ những thông qua giáo dục công dân mà còn có thể thực hiện thông qua, lồng ghép qua các loại hình giờ học, môn học khác như Văn, Lịch sử, Địa lý, Sinh học… thông qua những kiến thức phổ thông cơ bản về các bộ môn khoa học nói trên người thầy có thể liên hệ với thực tế đời sống xã hội hiện tại để góp phần giáo dục pháp luật cho các em.

Với lực lượng giáo viên và học sinh đông đảo, chúng tôi xác định nhà trường có vai trò hết sức quan trọng và điều kiện hết sức thuận lợi trong việc tổ chức các buổi nói chuyện thời sự, các đợt thông tin tuyên truyền, các hoạt động ngoại khóa nhằm phổ biến tuyên truyền và giáo dục pháp luật tốt nhất cho học sinh. Đồng thời có thể coi mỗi học sinh đều là những tuyên truyền viên nhỏ tuổi để thực hiện công tác thông tin tuyên truyền pháp luật trong nhân dân.

- Để đạt được mục tiêu giáo dục, để có chất lượng giáo dục toàn diện, nhà trường phải có trách nhiệm giáo dục pháp luật cho học sinh, tuyên truyền phổ biến pháp luật cho học sinh và thông qua học sinh đến các phụ huynh, các tầng lớp nhân dân phối hợp chặt chẽ các lực lượng xã hội khác như Đoàn thanh niên, đội thiếu niên, các cơ quan pháp luật… trong việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật cho học sinh.

Với nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vấn đề phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật như vậy trong nhiều năm qua nhà trường THCS Gia Cẩm thành phố Việt Trì đã làm được nhiều việc tốt, có hiệu quả nhằm phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho học sinh và góp phần làm tốt công tác này ở địa phương.

Nhà trường đã thực hiện tốt chương trình giáo dục nội khoá, bao gồm giảng dạy có chất lượng bộ môn giáo dục công dân, đồng thời thực hiện việc lồng ghép thông qua các bộ môn văn hóa khác để tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật, vấn đề giáo dục pháp luật được đặt ra đồng thời với giáo dục đạo đức lối sống, hình thành nhân cách cho học sinh.

- Thông qua các giờ chào cờ, giờ sinh hoạt lớp và các hoạt động tập thể của Đoàn, đội nhà trường đã phối hợp với các đoàn thể thực hiện tuyên truyền phổ biến pháp luật cho hơn 10.000 lượt học sinh của trường.

- Nhà trường đã tổ chức cho học sinh toàn trường làm được 11.000 bài thi với các nội dung như: An toàn giao thông, Tìm hiểu Bộ luật dân sự; Tìm hiểu Bộ luật Hình sự 1999, tìm hiểu về luật Thuế, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Luật giáo dục.

- Nhà trường đã xây dựng được một đội tuyên truyền viên măng non gồm 30 em và hoạt động đạt được nhiều hiệu quả, đội đã không những làm tốt công tác "thông tin tuyên truyền" là hạt nhân gương mẫu trong cuộc thi mà còn có nhiều tiết mục tham gia các cuộc thi cấp tỉnh và cấp quốc gia ví dụ như: Tiểu phẩm "Rác thải" đạt giải nhất cuộc thi tuyên truyền măng non tỉnh Phú Thọ năm 1996. Tiểu phẩm "Vòng xoáy" giải nhất cuộc thi tuyên truyền măng non toàn quốc năm 2000.

- Nhà trường đã tổ chức nhiều hoạt động với những hình thức phong phú sinh động nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh như thi tài hùng biện với nội dung "Người công dân với thế kỷ 21" thi hái hóa dân chủ về tìm hiểu luật chăm sóc, bảo vệ trẻ em, thi vẽ tranh biếm họa đả kích về ma túy, dàn dựng những vở tiểu phẩm, kịch ngắn với nội dung tuyên truyền pháp luật trong các hội diễn liên hoan văn nghệ đã thu hút được hàng nghìn lượt học sinh hăng hái tham gia.

Đã giáo dục cho học sinh có ý thức chấp hành pháp luật Nhà nước ngay từ những việc rất cụ thể như: Bảo vệ của công, giữ gìn và xây dựng môi trường xanh, sạch đẹp, an toàn giao thông, làm vệ sinh duy tu, bảo dưỡng đường sắt trong chương trình "Em yêu đường sắt quê em".

Với những nhận thức sâu sắc và việc làm hết sức cụ thể và hiệu quả đó, trong những năm qua trường THCS Gia Cẩm không có học sinh vi phạm pháp luật, số học sinh cá biệt, học sinh chậm tiến đã được giáo dục có kết quả. Hầu hết các em đã trưởng thành có đạo đức tốt khi tốt nghiệp PTCS. Hàng năm bình quân 97% học sinh đạt hạnh kiểm khá và tốt, không có học sinh bị xếp hạnh kiểm yếu, không có học sinh bỏ học. 99% học sinh được lên lớp thẳng và tốt nghiệp THCS. 5 năm liền trường đạt danh hiệu tiên tiến xuất sấc cấp tỉnh, 2 năm liền được tặng danh hiệu lá cờ đầu của tỉnh, đã được Chính phủ tặng bằng khen và Nhà nước tặng Huân chương lao động hạng 3.

Những việc làm và kết quả trên đây của trường Gia Cẩm mới chỉ là bước đầu trong những năm tới, nhà trường sẽ tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa hoạt động của đội tuyên truyền măng non, tiếp tục đổi mới hơn nữa hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhà trường sao cho phong phú, sinh động, phù hợp và hiệu quả cao hơn nữa.

                                                                       TRƯỜNG THCS GIA CẨM - VIỆT TRÌ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ QUAN THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

-----------------------------------------

- Báo chữ, báo hình, báo nói… là phương tiện thông tin đại chúng, là công cụ tuyên truyền của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân.

Để lý giải về trách nhiệm của cơ quan thông tin đại chúng ở nước ta đối với công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật chúng tôi nhận thấy tờ trong hệ thống chính trị, sự lãnh đạo của Đảng CSVN - Đảng đề ra cương lĩnh, chính trị, xác định nhiệm vụ chiến lược và sách lược đúng đắn và khoa học.

Để quần chúng triệu người như một hợp sức hướng tới đích mà cương lĩnh của Đảng đã vạch ra thì công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước là rất cần thiết, rất quan trọng.

Cùng với những ưu thế của các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan chuyên môn đã thông tin được những điển hình tốt, những kinh nghiệm phong phú trong phong trào quần chúng đến với Đảng, Nhà nước, cũng như chuyển tải những chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với người dân. Ý Đảng hợp với lòng dân là nguyên nhân sản sinh ra sức mạnh tổng hợp là một đặc điểm của cách mạng nước ta.

Nói về nhu cầu thông tin pháp luật với mọi tầng lớp nhân dân: Điều khẳng định là con người không chỉ là những thành viên đơn lẻ mà từ sự tồn tại của cuộc sống đã hình thành các mối quan hệ giữa con người với vật chất… con người với con người, con người với xã hội loài người. Con người trong xã hội loài người tồn tại, vận động càng phát triển thì pháp luật càng đầy đủ, càng hoàn thiện hơn. Pháp luật để bảo vệ con người, bảo vệ chế độ chính trị của xã hội của mỗi quốc gia. Tuy nhiên trong công dân có sự cách biệt về tri thức, khác nhau về môi trường sống… Vì vậy để mọi công dân hiểu biết luật pháp và làm theo, sống trong khuôn khổ luật pháp là một quá trình mà công tác tuyên truyền, giáo dục là biện pháp để rút ngắn quá trình ấy; điều đó vừa có ý nghĩa lý luận vừa là thực tiễn.

Vì vậy sự thể hiện trách nhiệm của cơ quan thông tin đại chúng trong nhiệm vụ tuyên truyền thể hiện ở những nội dung chính như sau:

- Truyền tải đầy đủ, chính xác, kịp thời trên thông tin đại chúng.

- Xác định được liều lượng thông tin cần thiết về sự lặp đi lặp lại để mọi người hiểu được nội dung cơ bản; từ đó có vốn kiến thức để hiểu sâu và vận dụng vào cuộc sống.

Khi chuyển tải các thông tin về pháp luật cần có nghiệp vụ chuyên môn cao, nghệ thuật cao để người nghe cảm tình, dễ tiếp thu và cần có nhiều sáng tạo, nhiều thể loại để lọt tai người nghe, dễ nhớ, dễ hiểu.

- Tuyên truyền về pháp luật không chỉ dừng lại ở khâu truyền văn bản mà phải có được nhiều thông tin từ cơ sở, khen các cá nhân và tập thể tốt, chê những hiện tượng chưa tốt, nhưng khen chê đều đúng và khéo léo.

- Cán bộ, phóng viên, biên tập viên phải học hỏi nghiêm túc để nắm vững luật pháp, phải có trí, có tâm để nhận biết người nghe cần thông tin gì và xác định liều lượng thích hợp về thông tin tuyên truyền đến người nghe. Mặt khác cán bộ, phóng viên phải là những người gương mẫu trong cuộc sống và chấp hành tốt mọi luật lệ.

                                                      ĐÀI PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH VIỆT TRÌ

 

 

CÔNG AN TỈNH PHÚ THỌ VỚI CÔNG TÁC ĐẤU TRANH

PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM

--------------------------

Quán triệt sâu sắc các yêu cầu của công tác TTPBGDPL, Đảng ủy, ban Giám đốc Công an tỉnh đã xác định đây là một trong những nhiệm vụ công tác quan trọng cần được tiến hành thường xuyên, liên tục để nâng cao trình độ pháp luật cho CBCS, từ đó tuân thủ nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật trong công tác của lực lượng Công an tỉnh. Đồng thời quan tâm củng cố lực lượng làm công tác này và mở rộng các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nội bộ Công an tỉnh cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương và Trung ương.

Ban Giám đốc Công an tỉnh đã chỉ đạo phối hợp với MTTQ, các ban, ngành, đoàn thể của tỉnh như: Tỉnh đoàn thanh niên, Sở Giáo dục - Đào tạo, Sở Văn hoa thông tin, Hội phụ nữ, Y tế, Hội cựu chiến binh, v.v. thực hiện các kế hoạch liên ngành trong đó có nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

Hàng năm, Công an tỉnh đều xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, lãnh đạo Công an tỉnh chỉ đạo các phòng nghiệp vụ, Công an các huyện, thành, thị đưa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật vào nội dung, chương trình công tác của đơn vị, địa phương mình tập trung tuyên truyền sâu rộng những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trên lĩnh vực ANTT, những chính sách có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân. Mặt khác, thông qua phong trào quần chúng bảo vệ ANTT để tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân về công tác đấu tranh phòng ngừa các loại tội phạm, giữ vững ANTT.

Là lực lượng trực tiếp thực hiện pháp luật, do đó khi có những văn bản pháp luật mới trên lĩnh vực ANTT, lãnh đạo Công an tỉnh đã chỉ đạo tổ chức tập huấn cho lãnh đạo các phòng nghiệp vụ, Công an các huyện, thành, thị và lực lượng trực tiếp thực hiện ở cơ sở để nắm vững những quy phạm pháp luật mới, từ đó tổ chức vận dụng đồng bộ, thống nhất trong thực tế.

Qua các đợt tập huấn tập trung về bộ luật Dân sự (6/1996); NĐ 87/CP; NĐ 36/CP (7/1996); NĐ 49/CP (3/1997); Bộ luật Hình sự (sửa đổi 7/1998); Chỉ thị 11 của Bộ trưởng Bộ Công an về công tác bắt, giam, giữ, thi hành án phạt tù (2/1999); Bộ luật hình sự năm 1999 (6/2000)… đã có trên 1.500 lượt CBCS được tuyên truyền phổ biến, quán triệt về những qui phạm pháp luật mới trên lĩnh vực ANTT.

Bên cạnh đó, Công an tỉnh đã gửi các văn bản pháp luật mới được ban hành đến các đơn vị, địa phương để phổ biến, quán triệt đến từng CBCS trong lực lượng Công an.

Ngoài ra, trong những năm qua, đã có hàng trăm CBCS Công an tỉnh được học tập nâng cao bằng cấp, trình độ về pháp luật, trong đó có 4 thạc sỹ luật, 5 đ/c đang theo học cao học luật.

Bên cạnh việc chỉ đạo tổ chức các đợt tập huấn và giáo dục pháp luật cho CBCS, Công an tỉnh Phú Thọ đã quan tâm chỉ đạo tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật.

Tháng 9/1997 thực hiện chủ trương "tháng an toàn giao thông" và NĐ 36, 39, 40/CP Phòng CSGT Công an tỉnh phối hợp với phòng GD-ĐT thành phố Việt Trì tổ chức cuộc thi tìm hiểu về. Luật lệ ATGT cho học sinh các trường trên địa bàn thành phố, kết quả đã có trên 10.000 lượt học sinh tham gia với nhiều bài đạt chất lượng cao.

Tháng 2/1999 Hội đồng phối hợp PBGD pháp luật của Công an tỉnh phối hợp với phòng CSGT tổ chức cuộc thi tìm hiểu luật lệ ATGT và cấp giấy phép lái xe mô tô cho đối tượng là CBCS Công an tỉnh đã có trên 200 lượt CBCS tham gia.

Cùng thời gian trên Hội đồng phối hợp PBGD pháp luật Công an tỉnh phối hợp với thường trực Ban chỉ đạo PCMT - PCTP của tỉnh đề xuất UBND tỉnh tổ chức cuộc thi tìm hiểu về chương trình QGPCTP; chương trình hành động PCMT trên địa bàn tỉnh. Đã có trên 100.000 lượt người tham dự và gửi bài thi về bộ phận thường trực Ban tổ chức cuộc thi.

Tháng 6/2000 Công an tỉnh thực hiện kế hoạch của UBND tỉnh và Bộ Công an, Công an tỉnh Phú Thọ đã tổ chức cuộc thi tìm hiểu Bộ luật Hình sự 1999 cho CBCS, đã có 86,9% CBCS tham gia đạt chất lượng tốt, nhiều bài đã đạt giải ở tỉnh và Bộ Công an.

Công an tỉnh đã phối hợp với Hội nông dân tổ chức cuộc thi nông dân với chương trình quốc gia phòng chống tội phạm được tổ chức từ cơ sở đã đạt được kết quả tốt, tạo khí thế mới, nâng cao nhận thức, ý thức cảnh giác trong quần chúng với chương trình quốc gia phòng chống tội phạm.

Ngoài ra để nâng cao trình độ hiểu biết và vận dụng pháp luật cho CBCS Công an tỉnh đã tổ chức các cuộc thi CSGT giỏi, CSKT giỏi, CSTTXH giỏi… theo chỉ đạo của Bộ Công an đạt kết quả tốt.

Về công tác xây dựng tủ sách pháp luật.

Công an tỉnh đã đầu tư xây dựng tủ sách pháp luật của Công an tỉnh, hàng năm đã chi kinh phí từ 3 - 6 triệu đồng để mua các loại sách pháp luật, sách chuyên khảo, nghiệp vụ để bổ sung cho tủ sách và cấp phát cho các đơn vị, địa phương phục vụ công tác. Đến nay, Công an tỉnh đã xây dựng được tủ sách với trên 200 đầu sách = trên 500 cuốn sách pháp luật, nghiệp vụ. Các phòng ban, Công an các huyện thành thị đều có tủ sách pháp luật đủ để tra cứu bước đầu đã thiết thực phục vụ yêu cầu công tác, chiến đấu và nghiên cứu, tham khảo của CBCS.

Cùng với các nội dung công tác trên đây, Công an tỉnh Phú Thọ đã quan tâm đẩy mạnh các hoạt động nghiệp vụ tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Công an tỉnh phối hợp với Đài phát thanh - Truyền hình tỉnh phát chuyên mục "An ninh Phú Thọ" trên sóng truyền hình 2 kỳ/tháng. Đã phát trên 100 kỳ với hơn 700 tin; trên 100 phóng sự về đề tài ANTT trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra, đã đăng trên 800 tin, bài trên báo địa phương và TW, làm 05 phim truyền hình về đề tài ANTT phát trên sóng tuyền hình. Những tin bài đã đăng tập trung phản ánh công tác giữ gìn ANCT, TTAT XH của lực lượng Công an tỉnh nhà, tuyên truyền giáo dục nhân dân nâng cao cảnh giác, phổ biến chính sách pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực ANTT. Các đơn vị trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đã trực tiếp tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân chấp hành pháp luật, vì vậy đã góp phần giữ vững ANCT, TTATXH trên địa bàn của tỉnh.

Thực hiện Quyết định số 03/1998/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ và kế hoạch số 536 - BNV (V19) ngày 4/6/1998 của Bộ Công an về việc triển khai công tác GDPB pháp luật trong lực lượng Công an giai đoạn 1998 - 2002. Công an tỉnh đã xây dựng kế hoạch triển khai trong lực lượng Công an Phú Thọ, Giám đốc Công an tỉnh ra quyết định thành lập Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL của Công an tỉnh do 1 đ/c phó Giám đốc làm chủ tịch và 13 đ/c Trưởng phó các phòng, ban làm thành viên.

Sau khi thành lập, Hội đồng đã tập trung chỉ đạo các phòng, ban, Công an các HTT xây dựng kế hoạch PBGDPL sát với nhiệm vụ, chức năng của mình, chủ động đề ra những yêu cầu, nội dung của công tác PBGDPL ở cơ sở. Đến nay 100% các phòng, ban, CA các HTT đã có kế hoạch PBGDPL của đơn vị, địa phương mình.

Nhờ vậy, công tác PBGDPL đã tập trung đi vào chiều sâu, phục vụ kịp thời những nhiệm vụ công tác trọng tâm của Công an tỉnh, công tác phối kết hợp giữa các đơn vị chức năng đồng bộ, thiết thực, hiệu quả hơn.

Phải khẳng định rằng, từ sau khi có chỉ thị 08 - chỉ thị 08/CT của Tỉnh uỷ, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong lực lượng Công an đã tăng cường, từng bước đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong công tác, chiến đấu và xây dựng lực lượng của Công an tỉnh nhà. Cùng với các biện pháp công tác nghiệp vụ khác, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã góp phần nâng cao tỷ lệ điều tra khám phá án.

Năm 1997: Trọng án: 85,55%; án thường: 81,6%

Năm 1998: Trọng án: 97%; án thường: 80%

Năm 1999: Trọng án: 100%; án thường: 80%

Năm 2000: Trọng án: 100%; án thường: 71%

Và làm giảm tỷ lệ phạm pháp hình sự:

Năm 1999: Giảm 1,1% so với năm 1998

Năm 2000: Giảm 36% so với năm 1999

Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền PBGD pháp luật đã góp phần nâng cao trình độ pháp luật cho CBCS trong lực lượng Công an Phú Thọ, ý thức chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật trong các lĩnh vực công tác Công an, đồng thời góp phần làm giảm tỷ lệ CBCS vi phạm phải xử lý kỷ luật từ sau năm 1997 đến nay xuống dưới 1% (năm 1997: 1,2%).

Những kết quả đạt được trên đây đã góp phần vào thành tích chung của lực lượng công an Phú Thọ 7 năm liền được tặng cờ thi đua xuất sắc trong phong trào thi đua vì an ninh Tổ quốc của chính phủ và Bộ Công an.

Bên cạnh những thành tích và kết quả trên đây, việc thực hện công tác TTPBGDPL trên địa bàn tỉnh còn một số tồn tại và hạn chế sau:

- Hoạt động Hội đồng PBGDPL tỉnh chủ yếu theo con đường hành chính, công văn. Việc kiểm tra, hướng dẫn của các thành viên hội đồng tỉnh với công tác PBGDPL của các ban, ngành chưa được nhiêu. Do đó đã phần nào hạn chế hiệu quả công tác phối hợp giữa các ban, ngành của tỉnh trong công tác này.

- Kinh phí dành riêng cho công tác PBGDPL của tỉnh cấp cho các sở, ban, ngành chưa có mà đến nay chủ yếu do các sở, ban ngành trích từ các nguồn khác. Do đó chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của công tác PBGDPL ở mỗi đơn vị, địa phương. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả công tác PBGDPL.

Để tiếp tục thực hiện tốt công tác tuyên truyền PBGDPL nhất là triển khai thực hiện có hiệu quả chỉ thị 15/CT - TU của BTV Tỉnh uỷ, chúng tôi xin có một số kiến nghị đề xuất như sau:

- Các ngành ở tỉnh và các HTT cần có kế hoạch tổ chức thực hiện chỉ thị 15/CT - TU ngày 10/7/2000 của Ban thường vụ tỉnh uỷ về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác tuyên truyền PBGD pháp luật trong tình hình mới. Trong đó nêu rõ những nội dung cần tập trung tuyên truyền phổ biến cho cán bộ Đảng viên và quần chúng nhân dân trong năm 2001 và những năm tiếp theo. Gắn công tác tuyên truyền PBGD pháp luật với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, địa phương mình.

- Tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn của các thành viên Hội đồng PBGDPL tỉnh với các ngành và các HTT về công tác tuyên truyền PBGD pháp luật. UBND tỉnh giành một phần kinh phí hỗ trợ cho công tác tuyên truyền PBGD pháp luật của các ngành và các HTT để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác tuyên truyền PBGD pháp luật.

                                                                                          CÔNG AN TỈNH PHÚ THỌ

 

 

 

 

MẶT TRẬN TỔ QUỐC VỚI CÔNG TÁC TTPBGDPL MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TTPBGDPL

----------------------------------

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân…, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Mặt trận Tổ quốc còn có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân; tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức Nhà nước…

Xuất phát từ vị trí, vai trò của mình, trong những năm qua Uỷ ban MTTQ tỉnh Phú Thọ đã duy trì, làm tốt công tác phối hợp với các thành viên của Mặt trận để triển khai kế hoạch TTPBGDPL trong tất cả các thành viên và 12 huyện, thành, thị. Nội dung của kế hoạch chủ yếu tập trung vào việc phổ biến, tuyên truyền với tất cả các tầng lớp nhân dân trong toàn tỉnh đặc biệt là đối với các đối tượng là học sinh, thanh niên các Luật đã được Quốc hội ban hành như Bộ luật Hình sự, luật Giáo dục, luật MTTQ, luận Hôn nhân và gia đình, các luật thuế và các Pháp lệnh như: Pháp lệnh cán bộ, công chức, Pháp lệnh chống tham nhũng, Pháp lệnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí... Sau khi triển khai kế hoạch PBGDPL, Uỷ ban MTTQ tỉnh đã tiến hành kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch ở tất cả các tổ chức thành viên của MTTQ và 12 huyện, thành thị.

Thực hiện Nghị quyết của Thường trực Uỷ ban MTTQ tỉnh, hàng năm Uỷ ban MTTQ tỉnh đã tập trung xây dựng kế hoạch cụ thể về công tác tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật và hướng dẫn MTTQ các huyện phối hợp với Phòng Tư pháp, Thanh tra, Văn hoá triển khai thực hiện bằng rất nhiều hình thức phong phú như lồng ghép vào các kỳ họp, tổ chức học tập và tuyên truyền rộng khắp trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng, mở các lớp tập huấn cho các cán bộ chủ chốt, hoạt động của các ban công tác Mặt trận, Ban thanh tra nhân dân ở cơ sở. Uỷ ban MTTQ tỉnh Phú Thọ hàng năm đều có sự phối hợp với Trường chính trị tỉnh tổ chức mỗi năm một lần mở lớp tập huấn cho các cán bộ làm công tác Mặt trận, mỗi lớp tập huấn cho từ 50 đến 70 người về Luật Mặt trận, Pháp lệnh thanh tra, Pháp lệnh Người cao tuổi. Đến nay 270/270 các Chủ tịch Mặt trận cấp xã đã được bồi dưỡng qua lớp tập huấn.

- Ở một số huyện, thành, thị Uỷ ban MTTQ huyện được sự chỉ đạo, hướng dẫn của MTTQ tỉnh đã phối hợp với UBND huyện tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác ở Ban công tác Mặt trận xã, phường thị trấn như Thanh Thuỷ, Lâm Thao, Phù Ninh, Đoan Hùng…

Một số huyện như Thanh Sơn, Thanh Ba, Việt Trì, MTTQ đã phối hợp với Ban Tư pháp tổ chức được một số đợt học tập tìm hiểu Bộ luật Hình sự, luật Giáo dục cho cán bộ và học sinh trong huyện, các Bí thư và Chủ tịch xã. Riêng huyện Thanh Sơn trong năm 1998 đã mở một lớp tập huấn tại UBND huyện cho các báo cáo viên, tuyên truyền viên của MTTQ xã và lãnh đạo các doanh nghiệp đóng trên địa bàn, mở hai lớp ngoại khóa về tuyên truyền pháp luật cho gần 3.000 học sinh và 200 giáo viên ở Trung tâm giáo dục thường xuyên huyện và Trường phổ thông trung học Minh Đài. Phối hợp với Phòng Giáo dục đào tạo và Công ty Chè Phú Sơ tuyên truyền cho gần 100 thầy cô giáo và 80 cán bộ, công nhân Công ty tìm hiểu Luật giáo dục và Luật doanh nghiệp… Ngoài ra Uỷ ban MTTQ các cấp còn phối hợp với các đoàn thể lồng ghép các chương trình phổ biến giáo dục pháp luật trong các kỳ họp thường kỳ.

Đặc biệt, trong các cuộc bầu cử đại biểu HĐND tỉnh, đại biểu quốc hội, MTTQ tỉnh đã làm tốt công tác phối hợp cùng các ngành chức năng tiến hành tuyên truyền Luật bầu cử đại biểu, Hội đồng nhân dân và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội. MTTQ tỉnh đã góp nhiều thành tích trong việc xây dựng tủ sách pháp luật đến nay 270/270 xã phường, thị trấn đã có tủ sách pháp luật và duy trì tốt việc hỏi và đáp pháp luật cũng như giải quyết các khiếu nại của công dân.

Hướng dẫn MTTQ cấp dưới giám sát và tuyên truyền việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đảm bảo cho nhân dân được quyền bình đẳng trước pháp luật thông qua hoạt động của các Ban TTND.

Uỷ ban MTTQ tỉnh đã thành lập được hai hội đồng tư vấn dân chủ pháp luật và khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội trực thuộc Uỷ ban MTTQ tỉnh, nhằm tư vấn cho Uỷ ban MTTQ và đông đảo tầng lớp nhân dân trong toàn tỉnh.

Đối với các tổ chức thành viên trong những năm qua công tác tuyên truyền và phổ biến, giáo dục pháp luật của các thành viên tiến triển tương đối đồng đều. Với sự phối hợp chặt chẽ giữa Uỷ ban MTTQ và các thành viên trên cơ sở qui chế phối hợp giữa MTTQ với từng thành viên đã được ký kết.

Nhìn chung các thành viên đều xây dựng được kế hoạch tuyên truyền cho riêng và dùng nhiều hình thức phong phú để tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật. Chủ yếu là tuyên truyền lồng ghép vào nội dung các cuộc họp như; giao ban, các đợt tập huấn chuyên ngành cho các cộng tác viên, tuyên truyền viên hoặc ban hành các tờ gấp thông qua các văn bản hướng dẫn việc thực hiện pháp luật… cụ thể:

- Hội Cựu chiến binh tỉnh đã phối hợp với Uỷ ban MTTQ huyện Thanh Ba, Hội cựu chiến binh huyện mở cuộc thi tìm hiểu Pháp lệnh chống tham nhũng trong hội viên và kết thúc vào ngày 3/2/1999 đã đem lại kết quả tốt đẹp.

- Hội chữ thập đỏ đã kết hợp lồng ghép tốt việc tuyên truyền giáo dục pháp luật trong các buổi giao ban và trong các hội nghị nhân điểm… ở khu dân cư đã mở được 8 đợt tập huấn trong năm 1999 có nội dung tuyên truyền pháp luật cho 400 người.

- Hội Nông dân tỉnh trong năm 2000 đã tiến hành mở cuộc thi tìm hiểu nhà nông đua tài trên phạm vi toàn tỉnh và thu hút được sự chú ý của rất nhiều người trong tỉnh. Thông qua các cuộc thi này, Hội đã tổ chức tuyên truyền các điều luật, pháp lệnh về thuế, hôn nhân gia đình, đất đai, dân sự… cho đối tượng là nông dân trong tỉnh.

Ngoài ra, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Tỉnh hội… cũng bằng nhiều hình thức, nhiều phong trào và mở nhiều đợt tập huấn cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, tuyên truyền rộng khắp đến các đối tượng là thanh niên, học sinh trong việc thực hiện nếp sống văn minh phòng chống tai tệ nạn xã hội. Cùng với MTTQ các cấp thực hiện tốt đề án 01 về việc giáo dục và cảm hóa người phạm tội và kêu gọi được 48 đối tượng trong toàn tỉnh giảm được 33%. Từ đó tình hình an ninh trật tự trị an trên địa bàn tỉnh được ổn định.

Nhìn chung công tác tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả, song bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại như: việc tuyên truyền giáo dục pháp luật chưa được tiến hành đồng bộ và liên tục, có một số nơi công tác này chưa phát triển đi sâu vào các đối tượng nhất là học sinh, sinh viên và các khu dân cư ở vùng sâu, vùng xa.

- Tài liệu để nghiên cứu học tập còn thiếu có nơi không đến được các đối tượng cần tuyên truyền, chưa phát huy được tính tự giác của người dân. Công tác nhân điểm chưa được tập trung thực hiện.

Để công tác TTPBGDPL trên địa bàn tỉnh ngày càng đi vào nề nếp, có chất lượng, hiệu quả, Uỷ ban MTTQ tỉnh đề nghị:

1. Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật tỉnh cần có kế hoạch cụ thể và các hướng dẫn về việc giáo dục, tuyên truyền pháp luật giúp Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật cấp dưới những định hướng về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nhằm làm tốt nhiệm vụ của mình.

2. UBND tỉnh cần có biện pháp uốn nắn, chấn chỉnh tạo cơ sở cho các đơn vị làm tốt việc tích ngân sách cho công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật theo các văn bản của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp.

3. Cung cấp đầy đủ các tài liệu liên quan nhất là các pháp lệnh, luật giúp hội đồng tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cấp dưới có đủ tài liệu để nghiên cứu thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền của mình.

                                                                                UỶ BAN MTTQ TỈNH PHÚ THỌ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN:

1- Các Mác - Ph.Ăng ghen, tuyển tập, tập 3.

II. CÁC VĂN KIỆN ĐẢNG:

  1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn Quốc lần thứ IV, V, VI, VIII, IX của Đảng cộng sản Việt Nam.
  2. Văn kiện Đại hội đại biểu giữa nhiệm kỳ (khoá VII).
  3. Các văn kiện Hội nghị lần thứ 4, lần thứ 8 của BCH TW khóa VII.
  4. Nghị quyết TW 2 khóa VIII về Khoa học công nghệ - Giáo dục đào tạo.
  5. Các Nghị quyết Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Vĩnh Phú V, VI, VII.
  6. Nghị quyết Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Phú Thọ lần thứ XV.
  7. Nghị quyết của Ban chấp hành lâm thời tỉnh Đảng bộ Phú Thọ về nhiệm vụ chính trị năm 1997.
  8. Chỉ thị 08/CT-TU của BTV Tỉnh ủy Vĩnh Phú (1995) về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
  9. Chỉ thị 15/CT-TU ngày 10/7/2000 của Ban thường vụ Tỉnh ủy Phú Thọ về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong tình hình mới.

III. CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT:

  1. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992.
  2. Chỉ tị số 315/CT ngày 7/12/1982 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật.
  3. Chỉ thị số 300/CT ngày 22-10-1987 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về công tác trước mắt nhằm tăng cường công tác quản lý Nhà nước bằng pháp luật.
  4. Chỉ thị số 15 của UBND Vĩnh Phú (1987) về đưa giáo dục pháp luật vào trường học.
  5. Nghị quyết 06/NQ-HĐND của HĐND tỉnh Vĩnh phú (1994) về công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở địa phương.
  6. Quyết định số 2277/QĐ-UB của UBND tỉnh Vĩnh Phú (1995) qui định trách nhiệm và quan hệ phối hợp của các cấp, các ngành trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật.
  7. Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 8-1-1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
  8. Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày 7-1-1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác phổ biến giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng chỉ đạo phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
  9. Các báo cáo tổng kết công tác của Bộ Tư pháp hàng năm.
  10. Các báo cáo tổng kết công tác của Sở Tư pháp Vĩnh Phú.
  11. Các báo cáo tổng kết thực hiện Chỉ thị 46, các Nghị định 87,88, Chỉ thị 814, Nghị quyết 05, Nghị quyết 06, Nghị định 36/CP của UBND tỉnh Vĩnh Phú về cấm đốt pháo, lập lại trật tự an toàn giao thông.
  12. Các báo cáo của BCĐ của cuộc thi tìm hiểu Luật nghĩa vụ quân sự, tìm hiểu Luật giao thông, tìm hiểu Bộ luật dân sự tỉnh Vĩnh Phú.
  13. Các văn bản pháp luật về Tư pháp - tập L. II, III, IV, V. (1993, 1994, 1995, 1996).
  14. Quyết định số 4323/2001/QĐ-UB ngày 3/12/2001 của UBND tỉnh Phú Thọ ban hành bản quy định về trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa các cấp, các ngành trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

IV. CÁC TÀI LIỆU KHÁC

  1. Triết học Mác-Lê Nin chương trình cao cấp - Khoa triết học Học viện Chính trị Quốc gia tập I, II, III.
  2. Văn hóa xã hội chủ nghĩa, Khoa văn hóa XHCN, Học viện Chính trị Quốc gia.
  3. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, Viện khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp, năm 1993.
  4. Giáo trình về Nhà nước và pháp luật, Trường đại học Luật Hà Nội
  5. Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, khoa Luật trường Đại học tổng hợp Hà Nội 1993.
  6. Giáo trình Nhà nước và pháp luật - Học viện Chính trị Quốc gia, tập I, II.
  7. Bàn về giáo dục pháp luật - PTS Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai - NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội 1995.
  8. Chuyên đề tuyên truyền giáo dục pháp luật, Thông tin khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp 1995.
  9. Tài liệu hội thảo giáo dục pháp luật nhà trường – Bộ Tư pháp và Bộ Giáo dục năm 1995.
  10. Các bài viết trên báo nhân dân, Báo pháp luật, Tạp chí cộng sản, Tạp chí luật học, Thông tin pháp lý, Tạp chí pháp luật dân chủ, Bản tin tư pháp.
  11. Số liệu và báo cáo kết quả khảo sát thi hành Luật hôn nhân và gia đình, Phát lệnh xử phạt vi phạm hành chính.
  12. Pháp luật và quản lý IIADIU – RIA-GIN – NXB pháp lý 1994.
  13. Phòng ngừa vi phạm pháp luật ở tập thể sản xuất NG.COBETS – NXB pháp lý 1995.


[1] C.Mae-Ph.Ăng ghen tuyển tập. tiếng Nga, NXB Mal Xeơva 1992, tập 3, tr 20

[2] Nghị quyết về nhiệm vụ chính trị năm 1997 của Tỉnh ủy Phú Thọ ngày 12/2/1997.

[3] Bài viết của Giáo sư Phạm Minh Hạo trên Báo Nhân dân số ra ngày 9/2/1997

[4] Trích bài viết của Bùi Toản trên Báo Nhân dân số ra ngày 9/2/1997

[5] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V. NXB Sự thật, Hà Nội 1982

[6] Khoản I điều 17 Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 21/6/1994

[7] Khoản 2 điều 43 Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 21/6/1994

[8] Nghị định số 38/CP ngày 4/6/1993 và Thông tư số 12/TTLB ngày 26/7/1993

[9]

[11] Trích bài viết của Nguyễn Đình Huề trên Báo Pháp luật số ra ngày 1/3/1996

 

File đính kèm ...