NỘI DUNG TÓM TẮT
Cùng với quá trình hội nhập, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài liên tục phát triển đa dạng đòi hỏi phải được điều chỉnh bởi thể chế pháp luật phù hợp. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam, các quy định pháp luật về tư pháp quốc tế để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài chưa phát triển tương xứng, còn nhiều hạn chế, bất cập; chưa nhận được sự quan tâm đúng mức, quy định còn phân tán trong các văn bản quy phạm pháp luật có nhiều cấp độ khác nhau, chồng chéo, chưa rõ ràng và nhiều lỗ hổng.
Trước thực trạng này, Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 13/5/2014 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị, Quyết định 251/QĐ-TTg ngày 13/2/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch của Chính phủ tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, Quyết định số 1440/QĐ-TTg ngày 16/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành kế hoạch thực hiện quyền và nghĩa vụ thành viên hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế tư pháp quốc tế của Việt Nam đã giao cho Bộ Tư pháp “nghiên cứu về khả năng xây dựng Luật về tư pháp quốc tế” trong thời gian từ 2015 đến 2016 và chủ trì đề xuất đưa Luật tư pháp quốc tế vào Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh trong giai đoạn 2016 - 2020.
Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu khoa học về tư pháp quốc tế. Tuy nhiên, các nghiên cứu này thường chỉ đề cập đến một mảng nội dung của tư pháp quốc tế như quy phạm xung đột trong tố tụng, hợp đồng, hôn nhân gia đình hoặc tập trung vào giới thiệu, giảng dạy tư pháp quốc tế trong các cơ sở đào tạo luật mà chưa nghiên cứu tổng thể, toàn diện để đưa ra đề xuất xây dựng Luật tư pháp quốc tế Việt Nam. Năm 2004, để chuẩn bị cho việc xây dựng Bộ luật Dân sự năm 2005 Bộ Tư pháp đã nghiệm thu Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Pháp luật điều chỉnh quan hệ tư pháp có yếu tố nước ngoài - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện trước yêu cầu hội nhập quốc tế”. Đề tài này đã chứng minh sự tồn tại của tư pháp quốc tế với tư cách là một ngành luật độc lập và làm rõ nhiều vấn đề lý luận của ngành luật này. Tuy nhiên, từ năm 2004 đến nay, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO vào năm 2007, hệ thống pháp luật Việt Nam, thực trạng các quan hệ pháp luật và các điều ước quốc tế có liên quan trong lĩnh vực này đã có nhiều thay đổi. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu phát triển kết quả của Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ trước đây làm cơ sở khoa học cho việc xem xét khả năng xây dựng Luật riêng về tư pháp quốc tế là cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Mục tiêu tổng thể của đề tài nhằm nghiên cứu toàn diện về cơ sở lý luận, thực tiễn của Việt Nam và quốc tế về tư pháp quốc tế nói chung và xu hướng hoàn thiện pháp luật về tư pháp quốc tế để đề xuất khả năng xây dựng Luật tư pháp quốc tế của Việt Nam, với các mục tiêu cụ thể như:
1. Làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến xây dựng Luật tư pháp quốc tế
2. Đánh giá thực trạng quy định pháp luật về tư pháp quốc tế của Việt Nam và tình hình giải quyết các vụ việc liên quan đến quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
3. Nghiên cứu thực tiễn xây dựng Luật tư pháp quốc tế của một số quốc gia trên thế giới và một số điều ước quốc tế có nội dung liên quan đếnyếu tố nước ngoài tư pháp quốc tế
4. Đánh giá nhu cầu và khả năng xây dựng Luật tư pháp quốc tế của Việt Nam.
Dưới đây là tóm tắt những kết quả nghiên cứu chính của đề tài:
I. LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ TƯ PHÁP QUỐC TẾ
Tư pháp quốc tế là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo nghĩa rộng bao gồm cả dân sự, thương mại, hôn nhân và gia đình, lao động và tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài. Về cơ bản, tư pháp quốc tế sẽ giải quyết ba vấn đề chính: xung đột pháp luật, xung đột thẩm quyền, công nhận và cho thi hành các phán quyết của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
1. Lý luận về tư pháp quốc tế
1.1. Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế
Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Trong bối cảnh hội nhập, các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh trong mọi mặt của lĩnh vực luật tư (dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động…). Đặc điểm nổi bật nhất là các quan hệ này đồng thời có thể chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau có cách thức điều chỉnh khác nhau xuất phát từ nền tảng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội không giống nhau. Các quan hệ này khá phức tạp, đa dạng, biến động không ngừng cùng với quá trình toàn cầu hóa nên việc áp dụng cứng nhắc các quy định của pháp luật quốc gia có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các quan hệ này, làm cản trở quá trình hội nhập. Vì vậy, các quan hệ này được điều chỉnh bởi các quy phạm đặc thù của tư pháp quốc tế, tạo cơ hội để áp dụng các quy tắc phù hợp nhất cho quan hệ đó.
1.2. Phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế
Tư pháp quốc tế điều chỉnh ba vấn đề xung đột pháp luật (xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài), xung đột thẩm quyền (xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc có yếu tố nước ngoài), công nhận và cho thi hành phán quyết của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
Do 3 nội dung nêu trên của tư pháp quốc tế có liên quan mật thiết với nhau, đan xen nên lý tưởng nhất là toàn bộ ba nội dung của tư pháp quốc tế được điều chỉnh trong một chính thể thống nhất, tránh những nội dung trùng lặp không cần thiết, những mâu thuẫn có thể phát sinh và hơn hết tạo điều kiện để áp dụng hiệu quả các quy định về tư pháp quốc tế trên thực tế.
1.3. Phương pháp điều chỉnh của tư pháp quốc tế
Phương pháp điều chỉnh của tư pháp quốc tế gồm phương pháp: thực chất và xung đột. Phương pháp thực chất thể hiện ở các quy phạm thực chất điều chỉnh trực tiếp các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên. Phương pháp xung đột thể hiện ở các quy phạm xung đột điều chỉnh gián tiếp các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Hai phương pháp này bổ trợ cho nhau nhưng có thể thấy phương pháp điều chỉnh đặc thù của tư pháp quốc tế là điều chỉnh gián tiếp, chủ yếu là phương pháp xung đột nhằm giải quyết các xung đột pháp luật. Khi điều chỉnh chung với những quan hệ pháp luật dân sự khác trong cùng một đạo luật, dễ dẫn đến tình trạng nhầm lẫn trong phương pháp điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
2. Pháp điển hóa các quy định của tư pháp quốc tế
2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp điển hóa các quy định của tư pháp quốc tế
Pháp điển hóa các quy định của tư pháp quốc tế sẽ mang tính chất, đặc điểm và có những yếu tố tiền đề, điều kiện giống như pháp điển hóa các quy phạm trong những ngành luật khác.
Trên cơ sở những đặc điểm chung của pháp điển hóa, có thể thấy pháp điển hóa các quy phạm trong lĩnh vực tư pháp quốc tế là hoạt động pháp điển hóa ở quy mô ngành luật nhằm “rà soát, chọn lọc và kế thừa các nguyên tắc, quy phạm, văn bản pháp luật có giá trị đã có, đồng thời sửa đổi, bổ sung, phát triển và ban hành mới các nguyên tắc, quy phạm pháp luật mới cần phải có” điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài để hình thành một đạo luật riêng về tư pháp quốc tế. Như vậy, pháp điển hóa có thể thực hiện được khi các quy phạm về tư pháp quốc tế được quy định trong pháp luật thành văn và các nhà lập pháp quyết tâm thực hiện việc xây dựng một đạo luật để giải quyết những vấn đề của tư pháp quốc tế. Trong điều kiện bình thường không có sự thay đổi về mặt chính trị hay chưa từng có tiền lệ về một bộ luật trước đây, sự quyết tâm chính trị này có thể được thúc đẩy bởi những hạn chế của pháp luật hiện hành (mâu thuẫn, chồng chéo, nhiều khoảng trống, lạc hậu không theo kịp sự phát triển của các quan hệ xã hội và chuẩn mực chung của quốc tế) và tác động của giới học giả/ luật gia nhằm giải quyết những vướng mắc trong hoạt động thực tiễn.
2.2. Sự cần thiết phải pháp điển hóa các quy định của tư pháp quốc tế vào một đạo luật thống nhất
2.2.1. Hệ thống pháp luật dựa vào các quy định pháp luật thành văn
Đối với một hệ thống pháp luật thành văn, ghi nhận nguồn chủ yếu của pháp luật là các văn bản quy phạm pháp luật thì pháp điển hóa là giải pháp tối ưu để đạt sự thống nhất và đầy đủ của hệ thống pháp luật.
2.2.2. Lợi ích của pháp điển hóa
Pháp điển hóa sẽ giúp pháp luật trở nên dễ tiếp cận hơn, hiệu quả hơn và toàn diện hơn, đảm bảo tính minh bạch, thống nhất. Một đạo luật về tư pháp quốc tế sẽ tập trung các quy phạm, thuận lợi tra cứu áp dụng cũng như sửa đổi bổ sung, từ đó tạo tâm lý tin cậy cho các chủ thể và khả năng dự đoán trước được cho các quy định của pháp luật, tạo hành lang pháp lý an toàn cho giao dịch dân sự có yếu tố nước ngoài diễn ra phổ biến. Do đó, đây cũng là một giải pháp để tiết kiệm, chống lãng phí trong lĩnh vực pháp luật nói chung.
Những “làn sóng” pháp điển hóa các quy phạm của tư pháp quốc tế từ thế kỷ 19 đến nay trên khắp thế giới là minh chứng cho lợi ích mà sự thống nhất và rõ ràng trong quy định của tư pháp quốc tế có thể mang lại. Hiện nay thực tiễn xã hội đã có nhiều thay đổi, bối cảnh hội nhập và phát triển mạnh mẽ của các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đang tạo điều kiện đặc biệt thuận lợi cho sự hình thành của một đạo luật về tư pháp quốc tế.
Ở châu Âu, một nghiên cứu do Ủy ban về các vấn đề pháp luật của Liên minh châu Âu (EU) công bố ngày 11/10/2012 cho biết hằng năm các công dân và doanh nghiệp EU bị thiệt hại khoảng 138 triệu euro do sự thiếu vắng, phức tạp, rải rác và chồng chéo của các quy phạm tư pháp quốc tế của EU bao gồm chi phí kinh doanh, chi phí hành chính, chi phí pháp lý, chi phí xã hội và chi phí kinh tế (rào cản thị trường) do không có luật tư pháp quốc tế.
Việc tạo ra một đạo luật riêng về tư pháp quốc tế sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh về chính sách và pháp luật trong hội nhập vì nó tạo điều kiện cho phát triển quan hệ giao lưu dân sự nói chung và quan hệ thương mại nói riêng.
2.2.3. Thách thức của pháp điển hóa các quy phạm tư pháp quốc tế có thể khắc phục, giải quyết được
Cũng có quan điểm chống lại pháp điển hóa vì cho rằng có nhiều thách thức phát sinh trong quá trình pháp điển hóa: quy định pháp luật không đủ mềm dẻo, việc giải thích không rõ ràng các quy định của bộ luật có thể làm gia tăng thêm sự không chắc chắn về mặt pháp lý, và sự không chắc chắc này còn được tạo ra bởi những lỗ hổng do nhà lập pháp không dự đoán trước được về những vấn đề phát sinh trong tương lai. Việc thường xuyên sửa đổi sẽ làm suy giảm sự ổn định của đạo luật. Pháp điển hóa cũng có nghĩa là có nhiều công việc phải làm và không tiết kiệm được về tài chính. Trong lĩnh vực tư pháp quốc tế, ngoài những hạn chế chung của pháp điển hóa, nhiều ý kiến cho rằng pháp điển hóa ở mức cao hình thành một luật riêng về tư pháp quốc tế nếu có phạm vi điều chỉnh rộng thì rất phức tạp và gây xáo trộn trong hệ thống pháp luật, nếu phạm vi hẹp thì không phát huy được ưu điểm của một sản phẩm pháp điển hóa hoàn chỉnh. Còn có lý do vì sự khác biệt về lý luận với phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế, chưa nghiên cứu và giải quyết thấu đáo các vấn đề tư pháp quốc tế và cách chọn hệ thuộc pháp luật để áp dụng. Ngoài ra, năng lực chuyên môn của cán bộ áp dụng và xây dựng pháp luật còn hạn chế cũng là một vấn đề. Vì vậy, muốn duy trì sự ổn định tương đối của hệ thống pháp luật quốc gia thì nên chọn giải pháp tham gia điều ước đa phương kết hợp với hoàn thiện pháp luật trong nước hơn là xây dựng một luật riêng về tư pháp quốc tế.
Những thách thức nêu trên của pháp điển hóa các quy phạm tư pháp quốc tế hoàn toàn có thể khắc phục được: bằng nhiều công cụ làm tăng độ mềm dẻo của các quy phạm khi đã được pháp điển hóa, xác định đúng vị trí của đạo luật về tư pháp quốc tế trong hệ thống pháp luật quốc gia và sử dụng kỹ thuật lập pháp phù hợp. Những vấn đề chưa thể dự liệu hết trong đạo luật về tư pháp quốc tế và các nguyên tắc trừu tượng có thể được giải quyết bằng việc trao quyền cho thẩm phán quyết định phù hợp với các nguyên tắc về công bằng và công lý. Cuối cùng, những khác biệt về lý luận hay các triết lý lập pháp và vấn đề về năng lực chuyên môn của cán bộ đều có thể được cải thiện thông qua quá trình xây dựng đạo luật về tư pháp quốc tế.
2.2.4. Các giải pháp khác để giải quyết những hạn chế của hệ thống pháp luật không khả thi hoặc không hiệu quả
Đối với lĩnh vực tư pháp quốc tế các quốc gia còn có thể có giải pháp tham gia điều ước quốc tế nhưng giải pháp này có thể gặp một số vướng mắc như sau: Ở quy mô quốc tế, số lượng các điều ước quốc tế về tư pháp quốc tế chưa nhiều. Bản thân các điều ước quốc tế này cũng chỉ có phạm vi rất hẹp, chưa cho phép giải quyết triệt để tất cả các vấn đề của tư pháp quốc tế. Ngay với vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh, các điều ước quốc tế thường không thể giải quyết trọn vẹn vì điều ước là kết quả sự nhượng bộ trong đàm phán thương lượng lâu dài giữa các quốc gia có hệ thống pháp luật và lợi ích khác nhau.
Có những trường hợp đặc biệt, các quốc gia sử dụng án lệ để giải quyết các vấn đề của tư pháp quốc tế. Không thể phủ nhận rằng ngay cả tại các quốc gia thành văn có luật riêng về tư pháp quốc tế, án lệ luôn có vai trò quan trọng trong giải thích các nguyên tắc có mức độ khái quát cao trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, quá trình hình thành án lệ đòi hỏi thời gian rất dài, một nền tảng văn hóa pháp lý thích hợp và trình độ cao của thẩm phán.
2.2.5. Việc pháp điển hóa quy định của tư pháp quốc tế phù hợp với xu hướng chung của thế giới
Mặc dù thống nhất về mặt lý luận rằng tư pháp quốc tế có phương pháp điều chỉnh khác biệt, vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về pháp điển hóa tư pháp quốc tế trong hệ thống pháp luật quốc gia: cần thiết pháp điển hóa ở mức cao quy định trong một đạo luật riêng, pháp điển hóa ở mức trung bình nhóm các quy định về tư pháp quốc tế trong một số đạo luật hoặc pháp điển hóa ở mức thấp hay không tiến hành pháp điển hóa, không quy định cụ thể trong văn bản quy phạm pháp luật mà điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài bằng án lệ. Đa phần các nước vẫn chọn giải pháp pháp điển hóa ở mức trung bình quy định trong nhiều đạo luật khác nhau. Tuy nhiên, việc hình thành một đạo luật về tư pháp quốc tế đang ngày càng được quan tâm hơn của cộng đồng quốc tế vì giá trị đích thực của nó là đem lại: sự đơn giản và thuận tiện đối với một vấn đề pháp lý vô cùng phức tạp. Việc các đạo luật riêng về tư pháp quốc tế xuất hiện thường xuyên trong những năm gần đây như tại Trung Quốc năm 2010, Đài Loan năm 2010, Ba Lan, Albania năm 2011, Séc năm 2012 và mới đây nhất là Dominica năm 2014 là một tín hiệu đáng mừng cho những quốc gia muốn xây dựng luật riêng về tư pháp quốc tế, cho thấy việc xây dựng đạo luật này đã trở thành một xu hướng trên thế giới. Kể cả các nước chỉ mới pháp điển hóa một phần các quy phạm tư pháp quốc tế cũng hướng đến những dự án dài hạn để thống nhất các quy phạm tư pháp quốc tế vào trong một đạo luật vào thời điểm thích hợp.
3. Vị trí của đạo luật về tư pháp quốc tế trong hệ thống pháp luật quốc gia
Trong hệ thống pháp luật quốc gia, đạo luật về tư pháp quốc tế có vai trò “cầu nối”, vị trí “ưu tiên” và chức năng “dẫn chiếu”.
Vai trò cầu nối và chức năng dẫn chiếu của đạo luật này thể hiện ở chỗ: Đạo luật này thường điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài một cách gián tiếp thông qua các quy phạm xung đột. Các quy phạm xung đột này sẽ dẫn chiếu đến những quy phạm pháp luật cụ thể điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên trong pháp luật quốc gia hoặc pháp luật của nước ngoài. Đối với đạo luật về tư pháp quốc tế điều chỉnh cả 3 nội dung chính của tư pháp quốc tế, việc công nhận và cho thi hành phán quyết của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cũng là một cách thức gián tiếp giải quyết những tranh chấp phát sinh từ các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Tính chất gián tiếp của các quy phạm trong lĩnh vực tư pháp quốc tế khiến cho việc gộp chung các quy định này với những quy định thông thường là bất hợp lý, có thể gây nên những nhầm lẫn ảnh hưởng đến việc áp dụng hiệu quả các quy phạm này trên thực tế. Hơn nữa, tính chất này còn tạo điều kiện cho sự hình thành của một đạo luật riêng tuy có ảnh hưởng nhưng ít đảo lộn các quy định khác của pháp luật quốc gia.
Về thứ bậc trong hệ thống pháp luật, đạo luật này giống như các đạo luật khác có vị trí dưới Hiến pháp. Tuy nhiên trong mối tương quan với các đạo luật do Quốc hội ban hành, đặc biệt là các đạo luật điều chỉnh các quan hệ dân sự bao gồm cả các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì:
- Đạo luật này sẽ có vị trí ưu tiên hơn so với các đạo luật gồm những quy định điều chỉnh trực tiếp về quyền và nghĩa vụ của các bên: khi một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài cần được giải quyết, đạo luật về tư pháp quốc tế sẽ là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên mà các luật gia cần phải xem xét, áp dụng.
- Đạo luật này sẽ có những quy định về nguyên tắc có vị trí ưu tiên hơn so với các đạo luật cũng có những quy phạm xung đột trong lĩnh vực chuyên ngành; đồng thời vẫn cho phép pháp luật chuyên ngành phát triển các quy phạm xung đột và nguyên tắc đặc thù có giá trị ưu tiên hơn so với các quy phạm không mang tính nguyên tắc trong đạo luật này. Đạo luật về tư pháp quốc tế có thể không thay thế toàn bộ các đạo luật có liên quan chứa đựng các quy phạm xung đột. Nhiệm vụ quan trọng của đạo luật về tư pháp quốc tế là thống nhất các nguyên tắc căn bản và có tính ổn định trong tư pháp quốc tế và tạo điều kiện cho những quy định trong các đạo luật chuyên ngành phát triển theo định hướng chung. Vì vậy, thông thường các đạo luật về tư pháp quốc tế có quy định về nguyên tắc, thứ tự ưu tiên của đạo luật này và các đạo luật khác và các quy định chuyển tiếp được thiết kế để đảm bảo đạo luật này vận hành hiệu quả.
II. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ TƯ PHÁP QUỐC TẾ
1. Tư pháp quốc tế của một số nước
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự đa dạng về cách tiếp cận trong xây dựng khuôn khổ pháp luật về tư pháp quốc tế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật của một số quốc gia có và không có Luật tư pháp quốc tế sẽ giúp đánh giá một cách khách quan sự cần thiết, tính khả thi và hiệu quả của một đạo luật về tư pháp quốc tế.
Hiện nay, đã có khoảng 36 quốc gia/vùng lãnh thổ có đạo luật riêng về tư pháp quốc tế. Một số quốc gia có luật tư pháp quốc tế với phạm vi điều chỉnh hẹp, chỉ điều chỉnh vấn đề xung đột pháp luật như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Đức. Các lý do được viện dẫn để giải thích cho phạm vi hẹp của các đạo luật này là: thứ nhất, xây dựng một Bộ luật tư pháp quốc tế với phạm vi rộng đòi hỏi một công sức rất lớn trong pháp điển hóa; thứ hai, gây ra sự xáo trộn lớn đối với hệ thống pháp luật hiện hành; thứ ba, một số quốc gia vẫn quan niệm tư pháp quốc tế có phạm vi hẹp, tức chỉ điều chỉnh vấn đề xung đột luật. Tuy nhiên, trong các báo cáo giải trình, các ban soạn thảo luật tư pháp quốc tế của các quốc gia này cũng để ngỏ, thậm chí khuyến nghị xây dựng một bộ luật tư pháp quốc tế với phạm vi rộng hơn. Trong khi đó, một số quốc gia như Thụy sĩ, Bỉ, Bungary, Italia, Dominica lại lựa chọn mô hình Luật tư pháp quốc tế với phạm vi điều chỉnh rộng xuất phát từ ưu điểm của một đạo luật điều chỉnh toàn diện các vấn đề của tư pháp quốc tế: thống nhất (cả về cách tiếp cận, định hướng nội dung và kỹ thuật lập pháp, tránh chồng chéo, tản mạn), dễ tiếp cận, dễ sửa đổi, minh bạch và dự đoán trước được. Một số quốc gia vẫn chấp nhận tình trạng tư pháp quốc tế nằm rải rác trong các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nhưng cũng từng bước tập trung các quy phạm trong lĩnh vực này vào những đạo luật lớn như Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự.
Đề tài tập trung giới thiệu những ví dụ điển hình trong số các Luật tư pháp quốc tế của các quốc gia nêu trên và phân tích thêm về tư pháp quốc tế của Liên minh châu Âu. Bên cạnh đó Đề tài cũng phân tích mô hình của các nước không có luật riêng về tư pháp quốc tế như Pháp, Anh, Mỹ.
Qua đó, rút ra kết luận: có thể thấy xu hướng chung trong pháp luật của các nước thành văn và không thành văn, có luật riêng về tư pháp quốc tế hay không có luật riêng điều chỉnh lĩnh vực này như sau:
Thứ nhất, pháp điển hóa trong lĩnh vực pháp luật về tư pháp quốc tế trở thành một thực tế khách quan giống như toàn cầu hóa. Ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lĩnh vực tư pháp quốc tế là không nhỏ, số lượng các quan hệ luật tư có yếu tố nước ngoài gia tăng mạnh đòi hỏi một nền tảng pháp lý chắc chắn và có thể dự đoán trước được cho các chủ thể. Cho dù pháp điển hóa ở mức cao là hình thành nên đạo luật riêng về tư pháp quốc tế hay ở mức hạn chế hình thành nhóm những chế định về tư pháp quốc tế nằm rải rác trong các đạo luật khác nhau thì pháp điển hóa vẫn là một quá trình đang diễn ra ngày càng phổ biến. Những nước có truyền thống pháp luật án lệ như Anh, Mỹ cũng dần dần tập hợp các án lệ của họ và xây dựng nên những quy định thành văn hoặc những quy tắc rõ ràng hơn cho lĩnh vực tư pháp quốc tế.
Thứ hai, tư pháp quốc tế các nước phụ thuộc ngày càng nhiều vào các điều ước quốc tế trong lĩnh vực này: pháp luật quốc gia của các nước đang ghi nhận, nội luật hóa các quy định trong các điều ước quốc tế và những điều ước này thúc đẩy tư pháp quốc tế của các nước xích lại gần nhau hơn. Điều này lại tạo động lực cho quá trình pháp điển hóa tiến thêm một bước.
Thứ ba, vai trò của án lệ trong tư pháp quốc tế là không thể phủ nhận. Các nước có hệ thống pháp luật thành văn cũng sử dụng rộng rãi các án lệ để làm đầy những lỗ hổng trong quá trình pháp điển hóa các quy phạm trong lĩnh vực tư pháp quốc tế. Như vậy, việc xây dựng một đạo luật riêng về tư pháp quốc tế không thể tách rời việc xây dựng và áp dụng các án lệ trong lĩnh vực này.
Thứ tư, về xung đột pháp luật: có sự mở rộng đối với quyền được tự do thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng của các bên trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (không chỉ trong lĩnh vực hợp đồng mà cả các lĩnh vực khác như nghĩa vụ ngoài hợp đồng và thậm chí có quốc gia cho phép thỏa thuận pháp luật áp dụng đối với vật quyền trong một số trường hợp nhất định). Đối với xung đột thẩm quyền, đa phần các nước cho phép tòa án quyết định linh hoạt trên cơ sở hiệu quả của hoạt động tố tụng (ảnh hưởng của học thuyết forum non convenience). Về công nhận và cho thi hành phán quyết của cơ quan tài phán của nước ngoài, nguyên tắc công nhận “tự động” hay tạo điều kiện tốt nhất cho việc công nhận và cho thi hành đang trở thành xu thế nhằm hạn chế lãng phí do phải tiến hành lại các hoạt động tố tụng để giải quyết một vụ việc khi phán quyết của nước ngoài không được công nhận.
Thứ năm, vai trò của giới học thuật trong xây dựng và hình thành các quy phạm và các đạo luật về tư pháp quốc tế ở các nước là đặc biệt quan trọng. Họ tham gia ngay từ giai đoạn hình thành chính sách, xây dựng cơ sở nền tảng cho đạo luật, soạn thảo và hoàn thiện các quy định của tư pháp quốc tế. Để hình thành được một đạo luật về tư pháp quốc tế hoặc một tài liệu tập hợp các quy tắc về tư pháp quốc tế, rất cần sự đồng hành của giới học thuật trong quá trình lâu dài hàng thập kỷ. Ngoài ra, để hình thành đạo luật về tư pháp quốc tế cần có sự tham vấn rộng rãi với các nhóm đối tượng khác nhau: từ các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động thực tiễn đến đông đảo công chúng. Quá trình này có thể cần đến việc nhóm họp các ủy ban đặc biệt ở các cơ quan lập pháp để bàn về những nội dung của đạo luật.
Như vậy, có thể thấy các nước chọn những giải pháp khác nhau cho tư pháp quốc tế của nước mình: xây dựng một đạo luật về tư pháp quốc tế với phạm vi rộng, xây dựng một đạo luật về tư pháp quốc tế với phạm vi hẹp hoặc không xây dựng một đạo luật riêng về tư pháp quốc tế. Ngay cả tại các quốc gia hiện chưa có một đạo luật riêng về tư pháp quốc tế, trong bối cảnh các quy định trong lĩnh vực này đang được pháp điển hóa tại nhiều quốc gia khác nhau, vị trí, vai trò và sự cần thiết xây dựng một đạo luật như vậy đều được cả giới học giả và các nhà lập pháp thừa nhận. Kinh nghiệm của các nước cho thấy việc xây dựng một đạo luật về tư pháp quốc tế là một hướng đi cho tương lai, góp phần hiệu quả cho quá trình mở cửa và hội nhập.
2. Một số điều ước quốc tế liên quan đến tư pháp quốc tế
Việc nghiên cứu đánh giá một số điều ước quốc tế liên quan đến tư pháp quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập và chuẩn bị ký kết, gia nhập có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành một luật riêng về tư pháp quốc tế. Việc đánh giá, rà soát cụ thể sẽ giúp xác định những nội dung cần được nội luật hóa, thống nhất nguyên tắc xác định và áp dụng pháp luật, giúp pháp luật Việt Nam ngày càng tiến gần hơn với các chuẩn mực chung của thế giới. Nội dung này chỉ tập trung vào một số điều ước thông dụng, có sẵn thông tin từ những nguồn công khai và dễ truy cập.
Thứ nhất, Đề tài đã điểm qua nội dung của một số điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập trong đó có các hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, các hiệp định về nuôi con nuôi, các hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, các hiệp định thương mại, các hiệp định về lãnh sự, Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, các công ước về quyền sở hữu trí tuệ, như: Công ước Bern năm 1886 về bảo hộ quyền tác giả, Công ước Pa ri năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Hiệp định TRIPs về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ…Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao, Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự…Về cơ bản, các điều ước quốc tế chứa đựng cả các quy phạm thực chất lẫn quy phạm xung đột nhằm điều chỉnh các quan hệ dân sự quốc tế và đồng thời tạo cơ chế thuận lợi nhằm giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này …
Thứ hai, Đề tài đã phân tích một số điều ước quốc tế mà Việt Nam nghiên cứu khả năng tham gia: Một số Công ước La Hay về tư pháp quốc tế, Công ước Viên của Liên Hợp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG)- hiện nay Việt Nam đã nộp văn kiện gia nhập Công ước này, Công ước ICSID về giải quyết tranh chấp đầu tư.
III. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TƯ PHÁP QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng quy định pháp luật về tư pháp quốc tế của Việt Nam
1.1. Sơ lược về quá trình xây dựng và hoàn thiện tư pháp quốc tế của Việt Nam
Lịch sử của tư pháp quốc tế Việt Nam chưa có giai đoạn nào hình thành được một luật tư pháp quốc tế riêng biệt. Tuy nhiên, toàn bộ quá trình xây dựng và hoàn thiện tư pháp quốc tế Việt Nam đã thể hiện xu hướng pháp điển hóa một cách rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục pháp điển hóa ở cấp độ cao hơn, hình thành những cơ hội tốt để xây dựng một luật riêng về tư pháp quốc tế.
Tư pháp quốc tế Việt Nam đã phát triển qua ba thời kỳ: trước 1945; từ 1945 - 1986; từ 1986 đến nay.
Trước 1945 là thời kỳ một số quy phạm pháp luật tư pháp quốc tế đã manh nha xuất hiện, ở dạng rất sơ khai, chỉ được áp dụng trong một số trường hợp đơn lẻ, cá biệt, chịu sự ảnh hưởng của Pháp trong thời kỳ đô hộ.
Từ 1945 - 1986 các quy định về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài cũng rất đơn giản, hạn chế, chủ yếu là từ nguồn điều ước quốc tế, tập quán quốc tế. Các quy định chưa có tính hệ thống và chịu ảnh hưởng rất nhiều từ quan điểm của các nhà lập pháp của các nước xã hội chủ nghĩa.
Từ 1986 đến nay: tư pháp quốc tế Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ theo ba giai đoạn:
Giai đoạn 1986 đến 1995: các quy phạm về tư pháp quốc tế vẫn nằm rải rác, chưa có hệ thống nhưng đã bắt đầu xuất hiện trong những văn bản có giá trị pháp lý cao điều chỉnh các lĩnh vực chuyên ngành (Bộ luật, Luật), các điều ước quốc tế cũng mở rộng hướng đến các nước ngoài khối xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn 1995 – 2005: Đây được xem là một giai đoạn tư pháp quốc tế Việt Nam phát triển tương đối “nóng”, số lượng quy định về tư pháp quốc tế gia tăng nhanh chóng, được quy định trong hầu hết các văn bản pháp luật được ban hành, bao gồm cả các Bộ luật nền tảng của lĩnh vực luật tư Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản pháp luật chuyên ngành. Các điều ước quốc tế liên quan cũng được ký kết và gia nhập với số lượng lớn hơn trước.
Giai đoạn 2005 – nay: tư pháp quốc tế Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh cả về số lượng và nội dung các quy phạm pháp luật trên cơ sở những văn bản, đã được ban hành trước đó. Đặc biệt, trong giai đoạn này đã diễn ra những sự kiện quan trọng làm thay đổi đáng kể hệ thống pháp luật về tư pháp quốc tế của Việt Nam như sự ra đời của Bộ luật dân sự 2005 và việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO (năm 2007), trở thành thành viên của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế (năm 2013).
Mặc dù Việt Nam hiện nay chưa có một đạo luật chuyên biệt để pháp điển hóa các quy định về tư pháp quốc tế nhưng pháp luật Việt Nam đã bao quát được phần lớn các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo nghĩa rộng, trong phạm vi từng bộ luật, luật... đã có các điều khoản cụ thể điều chỉnh các quan hệ pháp luật thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế.
1.2. Những tồn tại, bất cập đối với các quy định pháp luật hiện hành về tư pháp quốc tế
Quá trình pháp điển hóa xuất phát từ việc tập hợp và đánh giá các quy định hiện hành về tư pháp quốc tế: thống nhất các quy phạm, lấp đầy các lỗ hổng, thêm vào các quy định mới có tính dự liệu. Vì thế, một trong những yếu tố để đi đến pháp điển hóa các quy định của tư pháp quốc tế cũng là bất cập trong pháp luật hiện hành. Báo cáo chỉ tập trung phân tích một số vấn đề bất cập nổi bật để làm rõ sự cần thiết xây dựng Luật tư pháp quốc tế hơn là nghiên cứu, đánh giá toàn bộ các quy định hiện hành của tư pháp quốc tế Việt Nam.
Có thể dễ dàng nhận thấy các quy định tư pháp quốc tế hiện hành đang phân tán trong rất nhiều các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Theo thống kê sơ bộ tổng cộng ở tầm Luật, Pháp lệnh có khoảng 30 văn bản có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực tư pháp quốc tế trong đó có khoảng 15 văn bản có chứa quy phạm pháp luật xung đột. Các quy phạm còn rải rác ở cả cấp Nghị định và Thông tư mà trong phạm vi Đề tài chưa thể tập hợp toàn bộ (có khoảng hơn 30 Nghị định có liên quan trong đó phần lớn có chứa đựng quy phạm xung đột).
Các quy định pháp luật trong nước hiện hành mang tính nền tảng để giải quyết xung đột pháp luật được thể hiện tại Phần 7 “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” của Bộ luật dân sự 2005, Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2006 quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Các văn bản này đã đưa ra các nguyên tắc chung, cơ bản trong việc xác định thế nào là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài; việc áp dụng pháp luật Việt Nam, pháp luật nước ngoài, điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, các nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng, các trường hợp loại trừ pháp luật nước ngoài…Ngoài ra, nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác cũng có các quy định liên quan tới tư pháp quốc tế.
Các quy định về xung đột thẩm quyền được quy định chủ yếu trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Mặc dù Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung trong năm 2011 nhưng nội dung xác định thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các vụ việc có yếu tố nước ngoài không có sự thay đổi. Các quy định này tập trung tại Chương XXXV Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài từ Điều 410 đến 413 bao gồm quy định về thẩm quyền chung, thẩm quyền riêng biệt, quy định về không thay đổi thẩm quyền và quy định về trả lại đơn, đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp đã có Tòa án nước ngoài giải quyết. Các quy định về xung đột thẩm quyền cũng phân tán trong các luật chuyên ngành trong đó có các quy định về: xác định thẩm quyền thuộc tòa án Việt Nam hoặc tòa án nước ngoài, xác định thẩm quyền của tòa án Việt Nam, thẩm quyền của tòa án hoặc trọng tài của Việt Nam hoặc nước ngoài.
Khác với hai nội dung còn lại của tư pháp quốc tế, các quy định về công nhận và cho thi hành phán quyết của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài phần lớn tập trung trong Phần thứ sáu của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Mặc dù được ghi nhận là một loại việc dân sự và rõ ràng thủ tục công nhận và cho thi hành có yếu tố nước ngoài nhưng sự liên kết giữa Phần thứ sáu với các Phần khác quy định về giải quyết vụ việc có yếu tố nước ngoài và giải quyết các loại việc dân sự không được thể hiện rõ trong văn bản. Quy trình, điều kiện để công nhận và cho thi hành còn nhiều bất cập.
Tình trạng phân tán của các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về tư pháp quốc tế dẫn đến tồn tại trong hệ thống pháp luật nhiều lỗ hổng, nhiều điểm chồng chéo, không tương thích khi điều chỉnh cùng về một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Bên cạnh đó, Báo cáo cũng đánh giá bước đầu về các quy định tư pháp quốc tế trong Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi 2015 để có thêm cơ sở cho đề xuất khả năng xây dựng Luật tư pháp quốc tế. Mặc dù các nhà lập pháp đã có rất nhiều cố gắng trong sửa đổi các quy phạm pháp luật hiện hành về tư pháp quốc tế đặc biệt là các quy định tập trung trong Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự nhưng những sửa đổi này vẫn hạn chế, chưa thể đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Nhìn chung, ưu điểm của các quy định pháp luật hiện hành là đã quy định tương đối đầy đủ cho việc giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Nhược điểm là các quy định này vẫn còn lỗ hổng, mâu thuẫn và bất hợp lý cần phải được nhanh chóng chỉnh sửa thống nhất. Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực, việc đặt các quy định về tư pháp quốc tế ở nhiều văn bản khác nhau sẽ tiếp tục duy trì tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, không thống nhất, tiếp tục để lọt những “khoảng trống” cần được khắc phục.
2. Tình hình giải quyết các vụ việc liên quan đến quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
Để đánh giá tình hình giải quyết các vụ việc liên quan đến quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam cần có những số liệu thống kê mang tính hệ thống về số lượng các vụ việc, những bất cập, vướng mắc và những vấn đề mới phát sinh trong quá trình giải quyết các vụ việc này. Tuy nhiên, việc tập hợp đánh giá tình hình giải quyết các vụ việc này gặp nhiều khó khăn do từ trước đến nay đây không phải là một chỉ tiêu trong dữ liệu thống kê của các ngành, đặc biệt là ngành Tòa án, cũng chưa có cuộc điều tra quy mô nào được tiến hành về nội dung này. Quá trình xây dựng dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi), Bộ Tư pháp cũng nhiều lần có công văn đề nghị các Bộ ngành tổng kết vướng mắc trong quá trình hoạt động thực tiễn nhưng hầu như không có kết quả. Trong phạm vi đề tài này, các thông tin mới là những “mảnh ghép” nhỏ thu thập được từ quá trình hoạt động của Vụ Pháp luật quốc tế.
2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về tư pháp quốc tế tại các cơ quan hành chính nhà nước
Có nhiều vụ việc không có tranh chấp mà các bên thỏa thuận được với nhau thì không nhất thiết phải ra Tòa án, không cần phải sử dụng quy trình tố tụng phức tạp để giải quyết, vì vậy thẩm quyền được trao cho cơ quan hành chính nhà nước. Mặt khác, trong khi tiến hành các thủ tục hành chính để giải quyết một công việc cho người dân (có thể là công dân hoặc người nước ngoài) như ghi nhận thay đổi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì quyền này có thể xuất phát từ một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Như vậy, cơ quan hành chính nhà nước sẽ phải xác định người có quyền đó trên cơ sở xem xét quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài có liên quan.
Những thông tin ít ỏi là về thực trạng áp dụng pháp luật về tư pháp quốc tế tại các cơ quan hành chính nhà nước trong một số lĩnh vực như hôn nhân và gia đình, nuôi con nuôi, đăng ký kinh doanh, đầu tư... cho thấy: Các cơ quan có liên quan chưa quan tâm tổng kết các vướng mắc phát sinh từ thực tiễn đối với lĩnh vực pháp luật này để đề xuất ban hành văn bản hướng dẫn. Những vụ việc và vướng mắc khi phát sinh không được tập hợp thành hệ thống để có hướng xử lý thống nhất. Các quy định pháp luật còn rải rác dẫn đến cách tiếp cận và giải quyết tại các cơ quan hành chính nhà nước rất khác nhau với cùng một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Vì vậy, việc xây dựng một đạo luật về tư pháp quốc tế làm rõ các nguyên tắc để cơ quan hành chính nhà nước có thể áp dụng trong các vụ việc có yếu tố nước ngoài sẽ giải quyết được những bất cập nêu trên.
2.2. Thực tiễn xét xử các vụ việc có yếu tố nước ngoài tại Tòa án, trọng tài Việt Nam
2.2.1 Thực tiễn tại Tòa án
a) Về thẩm quyền
Theo con số thống kê của Tòa án nhân dân tối cao thì trong 5 năm trở lại đây (2010-2014) trung bình mỗi năm Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp tỉnh, trong đó chủ yếu là Tòa án nhân dân cấp tỉnh thụ lý, giải quyết từ 3500 đến 4000 vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài chủ yếu liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình (ly hôn, giao con cho nguyên đơn nuôi dưỡng, cấp dưỡng); phân chia di sản thừa kế là bất động sản; tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, hợp đồng mua bán bất động sản ở Việt Nam (quyền sử dụng đất; quyền sở hữu nhà ở gắn liền quyền sử dụng đất tại Việt Nam); tranh chấp về nợ lương, nợ tiền bảo hiểm xã hội; tranh chấp về chấm dứt hợp đồng lao động, sa thải người lao động cư trú tại Việt Nam... Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam phát sinh phù hợp với thông lệ quốc tế về quyền lựa chọn Tòa án của nguyên đơn trong các vụ việc liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình và nguyên tắc Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh mà đối tượng tranh chấp là bất động sản. Đề tài phân tích hai ví dụ điển hình để làm rõ vướng mắc trong xác định thẩm quyền của Tòa án Việt Nam theo quy định pháp luật hiện nay.
Ví dụ 1: Vướng mắc do không có quy định xác định rõ thứ tự ưu tiên giữa các luật chuyên ngành và Bộ luật tố tụng dân sự: Đương sự khởi kiện tại Tòa án Việt Nam để yêu cầu bồi thường thiệt hại về hàng hóa vận chuyển bằng đường biển trên cơ sở viện dẫn quy định tại Điều 100 Bộ luật hàng hải.
Ví dụ 2: Quy định pháp luật còn khoảng trống: Đương sự khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại do sự kiện gây thiệt hại xảy ra tại vùng biển đặc biệt của Việt Nam: vùng đặc quyền kinh tế
b) Về pháp luật áp dụng
Đối với các tranh chấp kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài, có một thực tế là đương sự ở Việt Nam thường chấp nhận điều kiện giải quyết tranh chấp theo phương thức trọng tài hoặc tòa án ở nước ngoài và luật áp dụng giải quyết tranh chấp cũng là pháp luật nước ngoài. Đây là một thực tế khá phổ biến từ trước đến nay ở Việt Nam, đặc biệt thường xảy ra trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, vận tải hàng hóa quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam.
Ngoài các trường hợp nêu trên, có thể vẫn có những vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài đáng lẽ Tòa án phải áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết nhưng Tòa án đã không thực hiện. Hầu như Tòa án Việt Nam chỉ áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp mà không viện dẫn lý do tại sao lại áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết các tranh chấp đó (tức là dựa trên quy phạm xung đột pháp luật nào để xác định luật áp dụng là luật Việt Nam). Hầu hết các bản án áp dụng pháp luật Việt Nam mà không dẫn chiếu áp dụng quy định của phần thứ 7 Bộ luật dân sự hoặc các văn bản có liên quan để xác định luật nội dung áp dụng giải quyết các tranh chấp. Như vậy, đối với hoạt động xét xử của Tòa án, cho đến nay các quy định về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài gần như chỉ tồn tại về mặt hình thức. Tòa án rất lúng túng trong việc tiếp cận xác định nội dung của pháp luật nước ngoài làm cơ sở giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.
2.2.2 Thực tiễn giải quyết tại Trọng tài
Thực tiễn áp dụng các quy định của tư pháp quốc tế tại trọng tài sẽ ít vướng mắc hơn bởi phương thức giải quyết tranh chấp này linh hoạt hơn. Trọng tài được các bên trao quyền nên tự do hơn thẩm phán khi đưa ra các quyết định về pháp luật áp dụng nếu các bên không có lựa chọn. Tuy nhiên, vướng mắc cũng xuất hiện khi trọng tài Việt Nam không có một cơ sở pháp lý vững chắc, một định hướng thống nhất khi đưa ra các quyết định của mình. Về khía cạnh này, việc sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành là cần thiết để củng cố cho phương thức giải quyết tranh chấp nhiều ưu điểm này.
2.3. Thực trạng công tác giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, phán quyết của trọng tài nước ngoài
2.3.1. Thực trạng công nhận và cho thi hành phán quyết của tòa án nước ngoài
Theo số liệu thống kê của Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan đầu mối tiếp nhận hồ sơ, số lượng hồ sơ đầu vào tăng lên hàng năm. Tuy nhiên, số lượng kết quả giải quyết cuối cùng về việc công nhận hay không công nhận bản án, quyết định của tòa án nước ngoài gửi cho Bộ Tư pháp rất hạn chế vì pháp luật hiện hành chỉ quy định việc gửi kết quả thông qua Bộ Tư pháp cho đương sự ở nước ngoài.
Công tác quản lý hồ sơ đơn xin đề nghị công nhận và cho thi hành tại Bộ Tư pháp vẫn được thực hiện thủ công, số liệu từ trước những năm 2013 thường tính gộp các hồ sơ đề nghị công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, trọng tài nước ngoài. Vì vậy các số liệu từ trước năm 2013 phụ thuộc vào nguồn thông tin tổng kết từ hoạt động của ngành Tòa án.
Kết quả giải quyết cho thấy đa phần yêu cầu không được công nhận, đặc biệt là bản án, quyết định của nước chưa ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam. Trong những trường hợp này, nếu muốn đòi quyền lợi đương sự phải nộp đơn đề nghị giải quyết lại tại Tòa án Việt Nam. Từ tình hình thực tiễn công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài trong thời gian qua có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Những vướng mắc, hạn chế thường gặp trong hoạt động công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài gồm:
Thứ nhất, số lượng bản án, quyết định được công nhận không cao. Nguyên nhân chủ yếu từ các quy định chưa rõ ràng và nhiều mâu thuẫn, kẽ hở trong Bộ luật tố tụng dân sự.
Thứ hai, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành chưa thật sự hiệu quả. Bên cạnh đó, việc ủy thác tư pháp để phục vụ cho việc giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành cũng gặp rất nhiều khó khăn do sự bất hợp tác của các nước nhận được yêu cầu ủy thác của Việt Nam. Nguyên nhân này cũng góp phần quan trọng làm cho quá trình giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành kéo dài hoặc có trường hợp phải tạm đình chỉ giải quyết.
2.3.2. Thực trạng giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài
Qua thống kê của Bộ Tư pháp, cơ quan được giao nhiệm vụ tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài, trong 6 năm từ ngày 01/7/2008 đến ngày 01/7/2014, Bộ Tư pháp đã tiếp nhận và chuyển cho Tòa án có thẩm quyền xem xét 73 yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài.Tình hình giải quyết các yêu cầu này như sau:
Thứ nhất, tỷ lệ không công nhận rất cao chiếm đến 46%. Nếu so với thực tiễn công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài của các nước thì tỷ lệ không công nhận này ở Việt Nam là cao một cách bất thường (tỉ lệ trung bình ở các nước là dưới 5% - thông tin từ Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam). Trên thực tiễn, một số Tòa án đã đi quá sâu vào phân tích nội dung vụ việc hoặc những vấn đề không liên quan đến việc giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài.
Thứ hai, việc giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành quyết của trọng tài nước ngoài trên thực tế còn chậm trễ so với quy định của pháp luật. Hệ quả là làm kéo dài thời gian giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài, gây lãng phí về tiền của và thời gian cho doanh nghiệp, ảnh hưởng không tốt về niềm tin của doanh nghiệp đối với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Thứ ba, Bộ Tư pháp mặc dù là cơ quan đầu mối tiếp nhận hồ sơ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng không có cơ chế theo dõi việc giải quyết yêu cầu. Hiện nay đa phần các yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài của nước đã là thành viên của Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Tuy nhiên, 20 năm thi hành Công ước tại Việt Nam, đến năm 2015, Bộ Tư pháp mới được chỉ định là cơ quan theo dõi thi hành Công ước làm đầu mối thực hiện các hoạt động hoàn thiện pháp luật trong nước có liên quan, đôn đốc thực thi cũng như hợp tác quốc tế trong khuôn khổ Công ước.
2.4. Một số tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài mà Nhà nước, Chính phủ, cơ quan nhà nước Việt Nam là một bên
Đầu tư, thương mại là lĩnh vực có nhiều thay đổi, biến chuyển sôi động và cũng là lĩnh vực dân sự có sự hội nhập nhanh và sâu rộng nhất. Do đó, tác động của tư pháp quốc tế trong lĩnh vực này được thể hiện tương đối rõ nét. Đề tài cung cấp một số vụ việc thực tế cho thấy rõ những thách thức, yêu cầu đối với việc xây dựng một đạo luật về tư pháp quốc tế và bất cập của pháp luật hiện hành dưới góc độ tranh chấp đầu tư mà Chính phủ là một bên.
Từ đó, Đề tài nhận định tranh chấp giữa nhà đầu tư và Chính phủ ngày càng nhiều và đa dạng, phức tạp, giá trị tranh chấp lớn, gây tốn kém về thời gian, tiền bạc, công sức của rất nhiều các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thực tiễn phần nào chứng tỏ đã có những lỗ hổng trong các quy định về tư pháp quốc tế cần phải sớm được quan tâm giải quyết như xác định tư cách pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đặc biệt là nhà nước, các nguyên tắc, tiêu chí xác định vai trò của Nhà nước/Chính phủ/cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi tham gia một quan hệ với đối tác nước ngoài để từ đó xác định rõ phạm vi thẩm quyền được phép cam kết và trách nhiệm thực hiện cam kết đó nguyên tắc lựa chọn luật áp dụng và cơ quan giải quyết tranh chấp trong các hợp đồng dự án đầu tư có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là các dự án đầu tư theo hình thức PPP, các nguyên tắc xác định thẩm quyền tài phán, quy định về trường hợp đặc biệt khi Chính phủ/Nhà nước hay cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam là bên yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài…
Hiện tại, mỗi khi có vụ tranh chấp xảy ra, các cơ quan có thẩm quyền phải xem xét hàng loạt vấn đề được quy định trong rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau; có vấn đề mâu thuẫn, chồng chéo trong các văn bản khác nhau nhưng cũng có vấn đề chưa được quy định và phải được giải thích theo điều ước quốc tế hoặc tập quán quốc tế. Một trong những biện pháp khắc phục đó là việc cần sớm xây dựng riêng một luật về tư pháp quốc tế để điều chỉnh tổng thể các vấn đề liên quan đến tư pháp quốc tế, khắc phục tình trạng rải rác, chồng chéo nhưng vẫn thiếu vắng quy định như hiện nay.
3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hệ thống pháp luật và thực thi các quy định về tư pháp quốc tế
Thứ nhất, về nhận thức, mặc dù đã tồn tại khá lâu nhưng tư pháp quốc tế còn là vấn đề mới đối với Việt Nam. So với thế giới, sự phát triển của tư pháp quốc tế Việt Nam còn khá chậm chạp. Từ khi các quy định nền tảng của xung đột pháp luật chính thức được pháp điển hóa trong Bộ luật dân sự năm 1995 đến nay, nhận thức về lĩnh vực pháp luật này còn chưa thống nhất trong cả giới nghiên cứu học thuật lẫn những người hoạt động thực tiễn. Việt Nam vẫn phải dựa vào những nghiên cứu và các công trình học thuật của quốc tế, chưa xây dựng được những luận thuyết riêng của mình trong lĩnh vực này. Với toàn xã hội, tư pháp quốc tế càng không phải là “vấn đề nóng” được quan tâm mặc dù tư pháp quốc tế có thể tác động đến bất cứ ai trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay. Đối với những người hoạt động thực tiễn, khi đề cập tới yếu tố “quốc tế”, các cơ quan, tổ chức dường như đều cho rằng đó là mảng công việc thuộc trách nhiệm của Bộ Ngoại giao nên họ không làm tròn trách nhiệm của mình, mặc dù trách nhiệm đó trong mối quan hệ tư pháp quốc tế đích thực thuộc về họ. Cho tới nay, chúng ta mới chỉ tập trung nhiều vào các yếu tố công pháp quốc tế, các thỏa thuận ở tầm quốc gia, các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài liên quan tới các doanh nghiệp và đặc biệt là người dân vẫn chưa được quan tâm thích đáng.
Ngược lại, khi các quy phạm của tư pháp quốc tế nằm rải rác và chỉ có một bộ phận nhỏ trong các đạo luật, vai trò của tư pháp quốc tế bị lấn át bởi các quy định điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong nước nên tư pháp quốc tế càng ít nhận được quan tâm, chú ý áp dụng, tổng kết nên chậm được hoàn thiện, điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển của các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài và chuẩn mực chung của thế giới.
Thứ hai, năng lực của người xây dựng và áp dụng pháp luật về tư pháp quốc tế còn thiếu và yếu. Đầu tư cho nguồn lực con người là đầu tư dài hạn, khó đạt được kết quả trong thời gian ngắn. tư pháp quốc tế là lĩnh vực mà đa phần những người xây dựng và áp dụng pháp luật đều chưa được trang bị kiến thức nền tảng. Không chỉ việc đào tạo bồi dưỡng mà cả việc sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, chuyên gia trong giới học thuật cũng còn nhiều bất cập.
Thứ ba, về công tác phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền, sự cắt khúc trong xây dựng, ban hành và áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật về tư pháp quốc tế là thực tế phổ biến. Vì vậy, các văn bản không chỉ riêng trong lĩnh vực tư pháp quốc tế thường xuyên ở tình trạng “vênh” về chính sách. Việc điều chỉnh để cùng lúc khoảng 30 văn bản ở tầm luật và nhiều văn bản ở cấp Nghị định, Thông tư thống nhất được với nhau cũng là một quá trình lâu dài và tốn kém hơn so với việc xây dựng một đạo luật riêng về tư pháp quốc tế.
IV. ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG LUẬT TƯ PHÁP QUỐC TẾ VIỆT NAM
1. Sự cần thiết xây dựng Luật tư pháp quốc tế Việt Nam
1.1. Lợi ích của việc xây dựng một đạo luật về tư pháp quốc tế tại Việt Nam
Thứ nhất, lợi ích chung của pháp điển hóa đã được khẳng định nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Có thể thấy rất rõ hiệu quả của việc pháp điển hóa ở mức cao, hình thành một đạo luật riêng tại Việt Nam qua quá trình hình thành Bộ luật dân sự năm 1995, thống nhất được nhiều nguyên tắc, định hướng của ngành luật dân sự rải rác trong nhiều văn bản khác nhau: Pháp lệnh về hợp đồng dân sự năm 1991, Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế năm 1989, Pháp lệnh về thừa kế năm 1990…
Tại Việt Nam, do tính thứ bậc của các văn bản quy phạm pháp luật, những lợi ích của pháp điển hóa sẽ được phát huy tối đa khi các quy định được thống nhất trong một đạo luật có giá trị pháp lý cao, việc thi hành, theo dõi thi hành sẽ được quan tâm hơn, cơ quan đầu mối về quản lý nhà nước được xác định rõ, nhờ đó đảm bảo việc thi hành trên thực tế đạt được hiệu quả cao hơn.
Nhiều vấn đề là nguyên nhân của những bất cập, vướng mắc trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay như năng lực chuyên môn của cán bộ cũng có thể được giải quyết chính trong quá trình pháp điển hóa. Thực trạng hệ thống pháp luật và việc áp dụng các quy phạm về tư pháp quốc tế cho thấy ba nguyên nhân cơ bản của những vướng mắc hiện nay là: nhận thức, trình độ và công tác phối hợp. Việc hình thành một đạo luật về tư pháp quốc tế sẽ có tác dụng to lớn trong việc nâng cao nhận thức của những người áp dụng pháp luật và toàn thể xã hội. Thông qua quá trình xây dựng, áp dụng luật này có thể dần dần cải thiện trình độ của cán bộ. Việc xây dựng một đạo luật riêng cũng tạo cơ hội để các bộ ngành liên quan “ngồi lại với nhau” cùng bàn luận đi đến thống nhất về chính sách và cách tiếp cận đối với các vấn đề của tư pháp quốc tế.
Mặc dù pháp điển hóa cũng có những hạn chế nhưng những hạn chế đó hoàn toàn có thể khắc phục được thông qua những kỹ thuật lập pháp phù hợp. Những kỹ thuật lập pháp như quy định cụ thể về điều khoản chuyển tiếp hoặc cho phép áp dụng các điều khoản ngoại lệ … cũng đang được áp dụng trong quá trình xây dựng các đạo luật khác nhau và hoàn toàn có thể thực hiện được tại Việt Nam. Việc định ra các nguyên tắc chung để hướng dẫn các thẩm phán tự quyết định tùy từng trường hợp cụ thể, cho phép áp dụng án lệ cũng đã được tạo tiền đề trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ và các quy định trong Bộ luật dân sự 2015 (Điều 5) và Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (Điều 45, 264, 266).
Hệ thống pháp luật về tư pháp quốc tế Việt Nam đang rơi vào tình trạng phân tán và không có định hướng, ít được áp dụng trên thực tế. Pháp điển hóa các quy định vào trong một đạo luật sẽ cải thiện tình trạng này một cách hiệu quả hơn so với những giải pháp khác. Nếu chỉ sửa đổi về nội dung và giữ nguyên tình trạng phân tán trong quy định pháp luật như hiện nay thì hệ thống các quy định về tư pháp quốc tế vẫn phát triển theo hướng tự phát. Tình trạng “vừa thừa vừa thiếu” mâu thuẫn, chồng chéo vẫn tiếp tục tồn tại. Nếu dựa vào điều ước quốc tế trong lĩnh vực này, Việt Nam sẽ phải chờ đợi trong một khoảng thời gian không xác định vì điều ước là sự nhượng bộ giữa các quốc gia và chừng nào các quốc gia còn chưa thống nhất được về toàn bộ các vấn đề liên quan của tư pháp quốc tế thì tham vọng về một hoặc một số điều ước giúp điều chỉnh được toàn bộ các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài còn rất “xa vời”. Trình độ của thẩm phán cũng là rào cản không nhỏ trong việc viện dẫn và áp dụng các điều ước quốc tế trực tiếp trong giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Một giải pháp khác là sử dụng án lệ để điều chỉnh toàn diện các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Mặc dù Việt Nam đã bắt đầu áp dụng án lệ nhưng giải pháp này đòi hỏi thời gian dài, nền tảng văn hóa pháp lý phù hợp và trình độ cao của thẩm phán.
Thứ hai, đạo luật về tư pháp quốc tế đáp ứng yêu cầu của cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền của Việt Nam. Đạo luật về tư pháp quốc tế là một đạo luật chuyên sâu, đáp ứng tính minh bạch, thống nhất, thể hiện sự chủ động dự báo và xử lý linh hoạt các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đúng theo định hướng của Đảng và nhà nước. Trong một thể chế pháp luật toàn diện, tạo điều kiện cho sự phát triển hài hòa và bền vững của các quan hệ xã hội, không thể thiếu hành lang pháp lý an toàn cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đang phát sinh ngày càng nhiều hơn trong đời sống hàng ngày.
Thứ ba, đạo luật về tư pháp quốc tế đáp ứng đòi hỏi của quá trình mở cửa và hội nhập của Việt Nam
Mở cửa và hội nhập khiến cho các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng phát triển với tốc độ cao, phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức. Các tranh chấp từ những quan hệ này là mặt trái không thể tránh được mà việc áp dụng pháp luật Việt Nam trong mọi trường hợp không thể đảm bảo được lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Đồng thời khi các vụ việc phát sinh từ các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được giải quyết ở nước ngoài thì đòi hỏi về công nhận và cho thi hành ở Việt Nam các phán quyết cũng tăng lên.
Mở cửa, hội nhập đòi hỏi chúng ta phải tuân theo những “luật chơi” chung, tham gia vào các điều ước quốc tế, mở rộng hoạt động hợp tác giao lưu với các quốc gia, tổ chức quốc tế. Ảnh hưởng của việc hình thành các cơ chế liên quốc gia, siêu quốc gia: hình thành các cộng đồng chung đòi hỏi một hệ thống pháp luật chung tạo nền tảng cho hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong cộng đồng chung đó. Việc tham gia các tổ chức quốc tế, điều ước quốc tế cũng khiến pháp luật quốc gia hoặc bị thay thế hoàn toàn hoặc phải chỉnh sửa để đảm bảo tương thích với các nội dung trong những điều ước quốc tế này. Việt Nam cùng các quốc gia Đông Nam Á đã vượt qua mốc thời gian cuối năm 2015, hoàn thành mục tiêu xây dựng cộng đồng ASEAN với một thị trường nội khối tự do theo kiểu mẫu của Liên minh châu Âu. Những bước tiến theo kinh nghiệm của những người đi trước- các nước thành viên Liên minh châu Âu là việc nên làm. Tuy nhiên, do trình độ phát triển của các nước trong khu vực rất khác nhau nên việc hình thành các văn bản chung của cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á ít tính khả thi trong giai đoạn hiện nay. Việt Nam có thể nắm bắt cơ hội này trở thành nước “tiên phong” về tư pháp quốc tế trong khu vực.
Đồng thời, việc xây dựng một luật riêng về tư pháp quốc tế với mục tiêu hài hòa hóa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, tạo cơ hội tiếp cận và áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam, tạo môi trường pháp lý an toàn và thuận lợi cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài bao gồm cả quan hệ kinh doanh, thương mại, đầu tư, lao động… sẽ có ý nghĩa quan trọng trong thúc đẩy việc thực hiện hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
1.2. Hội tụ các điều kiện để pháp điển hóa quy định của tư pháp quốc tế
Hệ thống pháp luật Việt Nam là hệ thống được xây dựng dựa trên các quy định của pháp luật thành văn. Từ khi giành độc lập, nhà nước vẫn duy trì, phát huy việc điều chỉnh xã hội bằng pháp luật. Như vậy, trong ba điều kiện để đi đến pháp điển hóa (sự quan tâm đặc biệt đến pháp luật thành văn, ổn định về chính trị và ủng hộ pháp điển hóa), Việt Nam chỉ còn chưa chắc chắn về điều kiện cuối cùng là sự ủng hộ việc pháp điển hóa các quy phạm tư pháp quốc tế của các nhà lập pháp.
Tại Việt Nam cũng có sẵn 2/5 yếu tố thúc đẩy quá trình pháp điển hóa các quy phạm của tư pháp quốc tế: (1) Pháp luật hiện hành ở trong trạng thái chồng chéo hoặc khó xác định chắc chắn (2) Pháp luật hiện hành về cơ bản đã bị lạc hậu. Như vậy, trong điều kiện hiện nay, với sự tham gia tích cực của các học giả, những người hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực này, việc hình thành một đạo luật về tư pháp quốc tế đang có nhiều yếu tố hỗ trợ tích cực.
Sự ra đời của các đạo luật về tư pháp quốc tế trên thế giới đều gắn với những thay đổi quan trọng trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp điển hóa, sửa đổi Bộ luật dân sự và các đạo luật có liên quan. Trong giai đoạn hiện nay, các Bộ luật như Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự và các Luật về kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân gia đình đang đồng loạt được sửa đổi, bổ sung ban hành mới. Trong hoàn cảnh đã có nhiều yếu tố khả quan cho sự ra đời của đạo luật về tư pháp quốc tế như vậy, đã đến thời điểm để xem xét việc xây dựng đạo luật này và vạch ra những bước đi thích hợp trong thời gian tới.
2. Thuận lợi, khó khăn trong xây dựng Luật tư pháp quốc tế của Việt Nam
Việc xây dựng đạo luật về tư pháp quốc tế sẽ có nhiều thuận lợi nhờ điều kiện để tiếp cận thông tin, học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài tại Việt Nam tốt hơn nhiều so với trước đây. Các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phát triển mạnh mẽ cũng là “mảnh đất màu mỡ” để phát triển các quy định pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này. Từ khi Việt Nam tham gia Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế, nhận thức về lĩnh vực này của người dân và những người áp dụng pháp luật dù còn hạn chế nhưng cũng có bước chuyển biến theo hướng tích cực hơn.
Tuy nhiên, việc xây dựng một đạo luật về tư pháp quốc tế của Việt Nam cần nhiều thời gian nghiên cứu trong khi nhận thức, quan điểm về hoàn thiện pháp luật về tư pháp quốc tế còn hạn chế, chưa hoàn toàn thống nhất; thể chế hiện hành còn tản mạn, nhiều khoảng trống và thuộc thẩm quyền của nhiều Bộ ngành khác nhau, nguồn lực về con người và tài chính còn hạn hẹp. Mặt khác, Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự tập trung các quy định của tư pháp quốc tế vừa mới được sửa đổi, bổ sung. Mặc dù các văn bản này vẫn còn những khiếm khuyết, nhưng cần có thời gian kiểm nghiệm thực tiễn để tìm ra những giải pháp tốt hơn hiện nay để đưa vào đạo luật về tư pháp quốc tế. Những khó khăn này cần được tháo gỡ từng bước và công việc xây dựng một đạo luật về tư pháp quốc tế nên được tiến hành theo lộ trình phù hợp.
Khi ban hành Luật tư pháp quốc tế sẽ có tác động không nhỏ đến các quy định hiện hành của pháp luật trong nước. Theo ước tính ít nhất khoảng 30 luật sẽ chịu sự ảnh hưởng của đạo luật về tư pháp quốc tế. Tuy nhiên đây không phải là vấn đề không thể khắc phục được. Các quy phạm tư pháp quốc tế có tính chất rất khác biệt, không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài mà chỉ dẫn đến hệ thống pháp luật sẽ được áp dụng. Do đó, với kỹ thuật lập pháp phù hợp việc xây dựng một đạo luật riêng về tư pháp quốc tế là khả thi.
3. Những định hướng lớn trong xây dựng Luật tư pháp quốc tế Việt Nam
3.1. Quan điểm chỉ đạo, yêu cầu xây dựng Luật tư pháp quốc tế Việt Nam
Việc xây dựng Luật tư pháp quốc tế của Việt Nam phải đảm bảo:
- Quán triệt và thể chế hoá chính sách, tư tưởng chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết Đại hội biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết 22-NQ/TW về hội nhập. Việc xây dựng Luật cần đóng góp vào những nỗ lực của Quốc hội và Chính phủ trong tạo dựng môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi với tính ổn định pháp lý cao cho các bên, thu hút đầu tư nước ngoài; thúc đẩy giao lưu dân sự, lao động, thương mại, đầu tư, du lịch… có yếu tố nước ngoài, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.
- Tạo khuôn khổ pháp lý về tư pháp quốc tế đồng bộ, thống nhất, hiệu quả, hiệu lực, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia vào các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài và giải quyết các yêu cầu, tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này; tôn trọng nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên trong quan hệ tư. Đảm bảo hài hòa nguyên tắc giao dịch dân sự của luật tư và yêu cầu bảo lưu trật tự công, đảm bảo những quyền con người cơ bản trong bối cảnh giao lưu dân sự quốc tế.
- Các quy định của Luật phải kế thừa, pháp điển hóa các quy định đã được thực thi tốt trong thực tiễn của hệ thống pháp luật hiện hành; bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, phải xử lý cơ bản các vấn đề mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tư pháp quốc tế cũng như bổ sung quy định về các vấn đề mới phát sinh từ các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài; những vấn đề đã có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn thì phải quy định chi tiết ngay trong nội dung của Luật; rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, có tính khả thi.
- Đảm bảo phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tiếp thu và thể hiện những tư tưởng, xu hướng mới của thế giới trong lĩnh vực tư pháp quốc tế, đảm bảo Luật tư pháp quốc tế thực sự là “cầu nối” cho hội nhập toàn diện của Việt Nam vào đời sống dân sự quốc tế.
Cần hiểu đúng tính chất của Luật tư pháp quốc tế vừa đáp ứng nhu cầu thực tiễn vừa để “đón đầu”, mở đường cho hội nhập ở mức độ cao hơn so với hiện nay. Vì vậy, cần sớm chuẩn bị các điều kiện cần thiết, nghiên cứu, hình thành từng bước các chế định cơ bản của đạo luật này để có thể hình thành một đạo luật đầy đủ trong tương lai không xa.
3.2. Phạm vi của Luật
Luật tư pháp quốc tế Việt Nam nên được xây dựng với phạm vi rộng điều chỉnh cả ba vấn đề lớn của tư pháp quốc tế: xung đột pháp luật, xung đột thẩm quyền, công nhận và cho thi hành phán quyết của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài bởi vì luật tư pháp quốc tế theo phạm vi hẹp sẽ tiếp tục để lại những hạn chế trong hệ thống pháp luật và khó khăn trong áp dụng pháp luật trên thực tế. Việc xây dựng một đạo luật về tư pháp quốc tế với phạm vi điều chỉnh rộng sẽ giúp các quy định về tư pháp quốc tế Việt Nam dễ tiếp cận, rõ ràng và thống nhất về cả cấu trúc, định hướng chính sách và kỹ thuật lập pháp; tránh chồng chéo, mâu thuẫn, rời rạc giữa các nội dung về thẩm quyền và các nội dung về pháp luật áp dụng, công nhận và cho thi hành phán quyết của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài; giảm bớt độ phức tạp. Pháp luật tư pháp quốc tế hiện hành đang ở trong trạng thái tản mạn, rải rác do nhiều đạo luật điều chỉnh, vì vậy nếu chỉ ban hành đạo luật tư pháp quốc tế theo nghĩa hẹp điều chỉnh lĩnh vực xung đột pháp luật thì hiệu quả của quá trình pháp điển hóa không cao. Vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng một đạo luật tư pháp quốc tế có phạm vi điều chỉnh rộng ngay từ đầu sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian và công sức.
3.3. Cách thức tổ chức thực hiện
Để xây dựng được một đạo luật về tư pháp quốc tế, trước hết, cần có định hướng, quyết định về chủ trương của các cơ quan liên quan. Tại các nước có Luật về tư pháp quốc tế, cơ quan chủ trì xây dựng thường là Bộ Tư pháp. Tại Việt Nam, Bộ Tư pháp là cơ quan chủ trì xây dựng nhiều đạo luật có nội dung về tư pháp quốc tế như Bộ luật dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Trọng tài thương mại, Luật Hộ tịch… Bộ Tư pháp cũng là cơ quan đầu mối quốc gia trong khuôn khổ Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế, có điều kiện thuận lợi và luôn chủ động, tích cực nghiên cứu, thúc đẩy phát triển tư pháp quốc tế tại Việt Nam. Như vậy, việc xây dựng đạo luật này tại Việt Nam cũng nên được giao cho Bộ Tư pháp chủ trì nghiên cứu, xây dựng. Quá trình này cần sự ủng hộ của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và sự chủ động tích cực của Bộ Tư pháp, cần có sự quyết tâm, kiên trì chuẩn bị và đầu tư nghiên cứu, thu hút sự tham gia ngay từ đầu của nhiều nhóm chủ thể có liên quan từ các học giả đến luật sư, chuyên gia và các nhà làm luật. Quá trình chuẩn bị từng bước có ý nghĩa quan trọng để nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận và thuận lợi cho quá trình thực thi đạo luật sau này.
Giai đoạn từ nay đến năm 2020, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cần thực hiện một số hoạt động sau đây:
- Bộ Tư pháp cần có kế hoạch theo sát quá trình thi hành và tổng kết thi hành Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, quá trình sửa đổi, bổ sung các đạo luật có liên quan và ban hành các đạo luật mới trong lĩnh vực tư pháp quốc tế để từng bước tiến hành rà soát, tổ chức nghiên cứu theo nhóm các vấn đề của tư pháp quốc tế, thành lập nhóm chuyên gia đánh giá và xây dựng chính sách cũng như dự thảo văn bản, tham khảo ý kiến của nhiều nhóm đối tượng khác nhau, thu thập thông tin về kinh nghiệm xây dựng đạo luật tư pháp quốc tế của nước ngoài và thông tin về các điều ước quốc tế có liên quan. Các hoạt động chuẩn bị cần được kết hợp với tuyên truyền phổ biến nâng cao nhận thức của nhân dân, huy động sự ủng hộ của Bộ, ngành liên quan với đạo luật này.
- Tòa án cần thống kê, tổng hợp số liệu các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài và thông tin về những vướng mắc phát sinh, quan tâm đến việc hình thành án lệ trong lĩnh vực tư pháp quốc tế, phối hợp với Bộ Tư pháp trong nghiên cứu và xây dựng đạo luật này.
- Các Bộ, ngành có liên quan cần quan tâm, tổng kết các vụ việc thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế trong lĩnh vực do Bộ, ngành mình quản lý, phối hợp với Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao trong nghiên cứu và xây dựng đạo luật này.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu của Đề tài đã tập trung phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn để xây dựng Luật tư pháp quốc tế của Việt Nam.
Tư pháp quốc tế chủ yếu điều chỉnh 3 vấn đề về xung đột pháp luật, xung đột thẩm quyền, công nhận và cho thi hành phán quyết của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài. Mặc dù có nhiều cách sắp xếp khác nhau các quy định của tư pháp quốc tế trong hệ thống pháp luật quốc gia nhưng do tính chất đặc thù của các quy phạm tư pháp quốc tế mà việc xây dựng một đạo luật riêng về tư pháp quốc tế đang dần trở thành một xu thế.
Một đạo luật về tư pháp quốc tế là thành quả “đáng tự hào” của quá trình pháp điển hóa về nội dung với các quy phạm trong lĩnh vực tư pháp quốc tế điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Quá trình này là cần thiết để giải quyết những khiếm khuyết của hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này, thúc đẩy các quan hệ giao lưu dân sự với nước ngoài.
Kinh nghiệm của các nước chứng minh pháp điển hóa các quy định của tư pháp quốc tế đã trở thành một thực tế khách quan ở nhiều quốc gia thuộc nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, trình độ phát triển khác nhau. Mức độ phát triển ngày càng phong phú, đa dạng của các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đòi hỏi một công cụ điều chỉnh hiệu quả các quan hệ đó. Công cụ này cần phải dễ tiếp cận, dễ sử dụng với tất cả các bên có liên quan là chủ thể trong quan hệ hay người áp dụng pháp luật khi xảy ra tranh chấp giữa các chủ thể đó. Công cụ đó chính là một đạo luật về tư pháp quốc tế. Đạo luật này sẽ chỉ ra những định hướng, nguyên tắc lớn và điều chỉnh gần như toàn bộ những vấn đề của tư pháp quốc tế nhưng cần có sự mềm dẻo nhất định, không cản trở sự phát triển của các quy định chuyên ngành và tạo điều kiện cho thẩm phán phát huy vai trò của mình trong giải quyết các vụ việc cụ thể.
Quá trình hình thành và phát triển của tư pháp quốc tế Việt Nam đã thể hiện xu hướng pháp điển hóa rõ ràng, tạo dựng nên một hệ thống quy định ngày càng đầy đủ và hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, do chưa có một đạo luật thống nhất về tư pháp quốc tế, các quy phạm còn rải rác, mâu thuẫn, chồng chéo và nhiều lỗ hổng. Một hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, không toàn diện, ít khả thi sẽ không tạo môi trường thuận lợi cho giao lưu thương mại và dân sự trong bối cảnh Việt Nam đang muốn mở rộng cánh cửa với thế giới.
Bằng việc phân tích những ví dụ điển hình, Đề tài đã cho thấy thực trạng pháp luật và việc áp dụng pháp luật về tư pháp quốc tế hiện nay. Những khiếm khuyết của pháp luật về tư pháp quốc tế đang gây những vướng mắc khó khăn cho việc áp dụng, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của các bên liên quan trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Những khiếm khuyết này không thể giải quyết triệt để được nếu chỉ thông qua việc sửa đổi, bổ sung từng văn bản quy phạm pháp luật riêng lẻ mà cần một hành động mang tính chiến lược và pháp điển hóa ở tầm cao hơn.
Pháp điển hóa các quy định của tư pháp quốc tế trong một đạo luật là hướng đi phù hợp với bối cảnh của Việt Nam. Những điều kiện để xây dựng luật này đã có sẵn. Trên nền tảng là nhiều quy phạm trong lĩnh vực tư pháp quốc tế đang ở trong nhiều đạo luật khác nhau, chúng ta có thể bồi đắp và phát triển thành một đạo luật hoàn chỉnh bao gồm cả 3 vấn đề lớn của tư pháp quốc tế.
Như vậy, Luật tư pháp quốc tế cần được quan tâm đầu tư để xây dựng trong thời gian tới để đảm bảo yêu cầu hội nhập cũng như thực thi các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên, giải quyết toàn diện những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn hiện nay. Việc xây dựng đạo luật về tư pháp quốc tế với phạm vi rộng cần được tiến hành theo lộ trình từng bước, có sự chuẩn bị kỹ càng, quyết tâm chính trị cao độ và đầu tư dài hạn, tập trung về nguồn lực.