NỘI DUNG TÓM TẮT
Việt Nam đã gia nhập hai Công ước quốc tế quan trọng về quyền con người của Liên hợp quốc là Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa từ rất sớm. Ngoài ra, Việt Nam còn gia nhập nhiều công ước quốc tế liên quan tới quyền con người khác như Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, 1979 (Công ước CEDAW), Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục - CAT, 1984 (Công ước chống tra tấn)... và ký kết nhiều hiệp định song phương và đa phương trong lĩnh vực này.
Mặc dù về cơ bản, pháp luật nước ta không mâu thuẫn với các tiêu chuẩn quốc tế về Quyền con người và việc quy định về quyền con người trên thực tế là phù hợp, thậm chí ở mức tiến bộ, so với thông lệ quốc tế; tuy nhiên, trong việc bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay vẫn còn một số vấn đề tồn tại nhất định, trong đó nổi bật nhất là do chúng ta chưa có một cơ chế bảo đảm Quyền con người thực sự hiệu quả. Ngoài ra, sự thiếu hụt các nguồn vật chất bảo đảm cho việc thực thi quyền con người cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của việc thực thi quyền con người ở Việt Nam.
Vì vậy, để thúc đẩy công tác Quyền con người trong thời gian tới, đáp ứng mục tiêu đổi mới của Đảng và Nhà nước, thỏa mãn nhu cầu và đòi hỏi ngày càng cao và đa dạng của người dân về quyền con người nhằm thực thi tốt hơn các cam kết quốc tế về quyền con người ở Việt Nam, cần có nhiều giải pháp đồng bộ và cấp bách.
Riêng đối với Bộ Tư pháp, trách nhiệm về công tác quyền con người có nhiều điểm đặc thù vì liên quan tới quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp thuộc phạm vi quản lý của Bộ.
Pháp luật nước ta đã quy định tương đối đầy đủ và rõ ràng về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp, trong đó có các công tác hành chính tư pháp thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định này trên thực tế vẫn còn một số bất cập và việc triển khai thực hiện Đề tài “Nghiên cứu xây dựng cơ chế bảo đảm thực thi cam kết quốc tế của Việt Nam về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp” nhằm giúp góp phần tìm kiếm giải pháp cho các bất cập là rất cần thiết.
Dưới đây là những tóm tắt kết quả nghiên cứu chính của Đề tài:
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG LĨNH VỰC HÀNH CHÍNH - TƯ PHÁP DO BỘ TƯ PHÁP QUẢN LÝ
1. Khái niệm
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều khái niệm, định nghĩa khác nhau về Quyền con người tương ứng với điều kiện kinh tế - chính trị và văn hóa xã hội của từng quốc gia và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, dù với bất kỳ định nghĩa nào thì Quyền con người cũng được coi như là chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ.
Tại Việt Nam, theo Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người - Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội được thông qua năm 2009 và được sử dụng làm tài liệu chính thức để giảng dạy cho sinh viên của khoa: “Quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”.[1]
Quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp do Bộ Tư pháp quản lý là những quyền của cá nhân sinh sống ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và công dân Việt Nam ở nước ngoài được: (i) pháp luật quy định về các quyền công dân, quyền con người và bảo hộ bằng pháp luật trong các lĩnh vực hộ tịch, nuôi con nuôi, quốc tịch, lý lịch tư pháp và chứng thực; (ii) yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các công việc chuyên ngành trong 5 lĩnh vực nói trên nhằm phục vụ các nhu cầu đối với cá nhân để đảm bảo quyền con người cho họ.
2. Quyền con người trong lĩnh vực hành chính - tư pháp do Bộ Tư pháp quản lý
- Quyền con người trong lĩnh vực hộ tịch do Bộ Tư pháp quản lý là quyền được đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn, giám hộ, nhận cha mẹ con, quyền được thay đổi cải chính hộ tịch, xác định dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch; quyền được xác nhận vào sổ hộ tịch các sự kiện nói trên; quyền được ghi vào sổ hộ tịch hoặc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo quyết định, bản án của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thay đổi quốc tịch, xác định cha mẹ con, xác định lại giới tính, nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi, ly hôn, hủy kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn, công nhận giám hộ, tuyên bố hoặc hủy tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự); quyền được ghi vào sổ hộ tịch các sự kiện: kết hôn, nhận cha mẹ con, khai sinh, ly hôn, hủy kết hôn, xác định cha mẹ con, nuôi con nuôi, thay đổi hộ tịch, khai tử của công dân Việt Nam mà những việc này đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài; quyền được xác nhận và ghi vào sổ hộ tịch các sự việc hộ tịch khác theo quy định của pháp luật.
- Quyền con người trong lĩnh vực quốc tịch là quyền được có quốc tịch, quyền được công nhận quốc tịch, quyền được thôi quốc tịch, quyền được lựa chọn quốc tịch, quyền được thay đổi quốc tịch, quyền được giữ quốc tịch, quyền không bị tước quốc tịch, quyền được nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng khi ở nước ngoài, quyền được trở lại quốc tịch, quyền được nhập quốc tịch, quyền được thôi quốc tịch.
- Quyền con người trong lĩnh vực nuôi con nuôi quyền của cha mẹ nhận nuôi (quyền được nhận con nuôi hay xác lập mối quan hệ cha mẹ con với người được nhận nuôi, quyền được hưởng các quyền và nghĩa vụ như giữa cha mẹ đẻ và con ruột, quyền được thay đổi họ tên của con nuôi, quyền được chấm dứt việc nuôi con nuôi khi con nuôi đã thành niên …); quyền của con nuôi (quyền được nhận làm con nuôi, quyền được xác lập mối quan hệ cha mẹ con, quyền không bị phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi, quyền được cha mẹ nuôi hỏi ý kiến về việc thay đổi họ tên của mình khi đủ từ 9 tuổi trở lên, quyền được xác định dân tộc theo dân tộc của cha mẹ nuôi trong trường hợp trẻ em bị bỏ rơi được nhận làm con nuôi, quyền được chấm dứt việc nuôi con nuôi khi con nuôi đã thành niên, quyền lấy lại họ, tên của mình như trước khi được cho làm con nuôi, quyền được nhận lại tài sản riêng khi chấm dứt việc nuôi con nuôi, quyền được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết khi có công sức đóng góp vào khối tài sản chung của gia đình, quyền được ưu tiên lựa chon gia đình Việt Nam khi được nhận làm con nuôi …); quyền của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi (quyền được yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi khi con nuôi đã thành niên…).
- Quyền con người trong lĩnh vực chứng thực là quyền được chứng thực, được cấp và sử dụng bản sao từ bản chính có giá trị pháp lý tương đương bản chính, chữ ký, con dấu đúng với bản chính…
- Quyền con người trong lĩnh vực lý lịch tư pháp là quyền yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp, quyền được cấp phiếu lý lịch tư pháp đúng thời hạn, quyền được đảm bảo tôn trọng bí mật đời tư cá nhân, quyền được tiếp nhận, cung cấp, xử lý thông tin lý lịch tư pháp của cá nhân đầy đủ, chính xác theo trình tự, thủ tục, quy định của pháp luật, quyền được cập nhật thông tin lý lịch tư pháp kịp thời khi có thay đổi...
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỰC THI CÁC CAM KẾT QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG LĨNH VỰC HÀNH CHÍNH TƯ PHÁP DO BỘ TƯ PHÁP QUẢN LÝ
1. Thực trạng thực thi các quy định pháp luật liên quan tới các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia trong các lĩnh vực tác động đến quyền con người trực tiếp: nuôi con nuôi, hộ tịch, quốc tịch
1.1. Lĩnh vực nuôi con nuôi
Đối với lĩnh vực nuôi con nuôi, mặc dù đến nay chúng ta đã cơ bản hoàn thiện thể chế trong nước và quốc tế (ban hành Luật Nuôi con nuôi và các văn bản hướng dẫn thi hành, ký kết các điều ước quốc tế song phương và tham gia Công ước Lahay ngày 29/5/1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế [2]), nhưng quá trình thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi, thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực này, cũng còn nhiều bất cập, khó khăn, thách thức.
Những khó khăn thách thức đó thể hiện rõ qua đánh giá việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi ở Việt Nam (nuôi con nuôi trong nước, nuôi con nuôi quốc tế) trong mối tương quan với việc thực thi cam kết quốc tế về quyền con người, quyền trẻ em.
Qua theo dõi việc thực hiện Luật nuôi con nuôi trong thời gian qua, xét trong mối tương quan với việc thực thi các cam kết quốc tế về quyền con người, quyền trẻ em, chúng tôi thấy nổi lên một số vấn đề như sau:
- Về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về nuôi con nuôi
Luật Nuôi con nuôi giao trách nhiệm cho Ủy ban nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã) trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về nuôi con nuôi tại địa phương, nhằm trang bị cho người dân những hiểu biết, kiến thức nhất định về lĩnh vực nuôi con nuôi, giúp họ có quyết định đúng đắn nhất đối với tương lai của trẻ em. Nhưng thực tế thời gian qua, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về nuôi con nuôi tại nhiều địa phương còn thực hiện chưa nghiêm, chưa có hiệu quả. Nguyên nhân của tình trạng này, trước hết là do nhận thức của đội ngũ cán bộ công chức thực hiện tuyên truyền, phổ biến pháp luật còn nhiều hạn chế. Vì vậy, để thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về nuôi con nuôi, trước hết cần phải nhận thức lại về hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về nuôi con nuôi, với những đặc điểm cơ bản như sau:
Một là, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về nuôi con nuôi là hoạt động cần thiết, có vai trò hết sức quan trọng và đem lại lợi ích thiết thực cho người dân, đặc biệt đối với những người liên quan như cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi và bản thân trẻ em được cho/nhận làm con nuôi.
Hai là, hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về nuôi con nuôi phải được tiến hành lồng ghép với việc tuyên truyền, phổ biến các lĩnh vực pháp luật khác liên quan đến bảo vệ trẻ em, là hoạt động phải tiến hành thường xuyên, do đội ngũ cán bộ công chức, cộng tác viên, tình nguyện viên tiến hành bằng nhiều hình thức, cách thức và mức độ khác nhau, phù hợp với từng nhóm đối tượng có nhu cầu.
Ba là, hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về nuôi con nuôi cần phải được duy trì ở cả ba giai đoạn trước, trong và sau khi nhận con nuôi, nhằm bảo đảm sự nhận thức liên tục, có tính kế thừa và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Bốn là, việc tuyền truyền và phổ biến pháp luật về nuôi con nuôi cần lồng ghép cả các nội dung của một số cam kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực này.
- Về công tác kiểm tra, đánh giá điều kiện nuôi con nuôi của các bên liên quan
Theo pháp luật hiện hành, công tác kiểm tra/thẩm định, đánh giá điều kiện nuôi con nuôi của các bên chủ yếu do các cơ quan nhà nước thực hiện. Đối với vấn đề nuôi con nuôi trong nước thì Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành kiểm tra/thẩm định, đánh giá điều kiện nuôi con nuôi; đối với việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thì Cục Con nuôi, Bộ Tư pháp kiểm tra/thẩm định, đánh giá điều kiện của người nhận con nuôi (thường là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài), Sở Tư pháp tiến hành kiểm tra, đánh giá, xác nhận điều kiện của trẻ em được cho làm con nuôi. Trong các văn bản pháp luật hiện hành quy định khá chặt chẽ về trình tự, thủ tục, cách thức kiểm tra/thẩm định, đánh giá hồ sơ nuôi con nuôi. Tuy nhiên, những quy định đó thuần túy mới chỉ là các quy định nhằm giải quyết thủ tục hành chính trong việc đăng ký nuôi con nuôi do cơ quan nhà nước tiến hành mà người dân có trách nhiệm phải tuân theo; phần lớn các quy định vẫn được xây dựng theo hướng lợi cho công tác quản lý của cơ quan nhà nước, hơn là cho dân.
So sánh với pháp luật của nhiều nước, nhận thấy pháp luật hiện hành về nuôi con nuôi của nước ta còn thiếu cơ chế hữu hiệu để bảo đảm sự kiểm tra/thẩm định hay đánh giá điều kiện nuôi con nuôi một cách thực chất, đó là cơ chế xã hội hóa hoạt động kiểm tra, đánh giá điều kiện nuôi con nuôi. Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy vấn đề này có liên quan đến quan điểm về cải cách thủ tục hành chính ở các nước là có sự khác nhau. Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu, vấn đề cốt lõi của cải cách thủ tục hành chính ở nhiều nước không phải là ở các quy định tiện lợi/đơn giản hóa để tiến hành thủ tục hành chính, mà là ở sự chuyển đổi từ tư duy hành chính sang tư duy dân sự, tức là thay vì giao cho cơ quan công quyền, thì nên giao cho người dân làm để họ tự bảo đảm lẫn nhau. Đó cũng là quan điểm xây dựng xã hội dân sự theo hướng tự quản lý và giải quyết các vấn đề liên quan đến người dân, không cần sự có mặt của các cơ quan công quyền.
Xã hội hóa hoạt động kiểm tra/thẩm định hay đánh giá điều kiện của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi chính là giao việc kiểm tra, đánh giá ấy cho người dân để họ tự kiểm tra, đánh giá lẫn nhau thông qua vai trò trung tâm cực kỳ quan trọng của nhân viên xã hội, thay vì giao cho cán bộ, công chức nhà nước. Nhân viên xã hội phải nhiều lần trực tiếp liên hệ, gặp gỡ, giao tiếp, trao đổi, tìm hiểu các khía cạnh liên quan đến đời sống tâm lý, tình cảm, công ăn việc làm, thu nhập, ý thức pháp luật, khả năng kinh tế và mọi vấn đề khác của người nhận con nuôi. Nhân viên xã hội phải gặp gỡ cả những người hàng xóm láng giềng sống xung quanh với người nhận con nuôi; gặp gỡ những người đồng nghiệp cùng làm việc với người nhận con nuôi; gặp gỡ những người ruột thịt, thân thích, họ hàng khác của người nhận con nuôi. Tóm lại, nhân viên xã hội - với sự giúp đỡ, cung cấp thông tin và trợ giúp của nhân dân - hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về nhận xét, đánh giá của mình về điều kiện của người nhận con nuôi.
- Về việc cải tiến thủ tục giải quyết cho trẻ em làm con nuôi trong nước
Các quy định về nuôi con nuôi trong các văn kiện quốc tế nhìn chung đã được sàng lọc, đúc kết và áp dụng lâu dài trong các quốc gia có các nền văn hóa và trình độ phát triển khác nhau, vì vậy các quy định này mang tính tiến bộ, hài hòa và mang lại đảm bảo tốt nhất cho lợi ích phát triển của đối tượng trẻ em được nhận làm con nuôi. Do đó, trên cơ sở các cam kết này, Việt Nam cũng cần cân nhắc cải tiến thủ tục ngay cả đối với các trường hợp giải quyết cho trẻ em làm con nuôi trong nước.
Nói tóm lại, về cơ bản hệ thống pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi cơ bản hoàn thiện và phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên (đã được liệt kê cụ thể ở bên trên). Quá trình thực hiện các cam kết này nhằm đảm bảo tối đa quyền của trẻ em và người nhận nuôi con nuôi. Quá trình thực thi các cam kết quốc tế về quyền trẻ em cũng đã chỉ ra được bên cạnh những giá trị tích cực trong thực thi các cam kết này như: hệ thống pháp luật khá đầy đủ và toàn diện, nhận thức của cán bộ làm công tác nuôi con nuôi ngày càng được tăng cường và củng cố đặc biệt là ý thức về việc đảm bảo các điều kiện tốt nhất để trẻ em được sống trong gia đình gốc, được bảo vệ quyền lợi trong gia đình bố mẹ nuôi... thì vẫn còn những lỗ hổng pháp luật, những khe hở ảnh hưởng đến việc thực thi các cam kết quốc tế về quyền trẻ em như: việc tuyên truyền phổ biến pháp luật về quyền trẻ em và nuôi con nuôi tại Việt Nam; tính khách quan và nhu cầu xã hội hóa hoạt động kiểm tra hồ sơ, điều kiện nhận nuôi con nuôi của cha mẹ nuôi; vai trò của công chức tư pháp - hộ tịch trong việc tư vấn/tham vấn cho cha mẹ nuôi về hoạt động cho nhận con nuôi...
2.2. Lĩnh vực quốc tịch
Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân. Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề quốc tịch đối với một quốc gia, ngay sau khi tuyên bố độc lập, Nhà nước ta đã rất quan tâm tới việc ban hành pháp luật về quốc tịch Việt Nam. Ngày 20/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh đầu tiên số 53/SL quy định một số vấn đề cơ bản nhất về quốc tịch Việt Nam. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất về mặt Nhà nước, Quốc hội đã ban hành Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988, tiếp theo là Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 và gần đây nhất đã ban hành Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch năm 2014.
Luật Quốc tịch Việt Nam qua các giai đoạn (từ năm 1988 đến nay) là những bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về quốc tịch của Nhà nước ta theo hướng phù hợp với những vấn đề có liên quan trong các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, đã điều chỉnh tương đối toàn diện các quan hệ xã hội trong lĩnh vực quốc tịch.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn tham gia rất nhiều các cam kết quốc tế trong lĩnh vực quốc tịch.
Qua nghiên cứu, các tác giả cho thấy việc thực thi các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực quốc tịch được bảo đảm về cơ bản. Hệ thống pháp luật Việt Nam quy định rõ ràng và đầy đủ về vấn đề quốc tịch từ những quy định pháp luật của Luật Quốc tịch đến các văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể: quy định về quyền có quốc tịch (theo huyết thống, theo nơi sinh…); quyền được giữ quốc tịch; quyền được thay đổi quốc tịch; quyền được gia nhập quốc tịch...
1.3. Lĩnh vực hộ tịch
Đăng ký hộ tịch hay rút gọn là hộ tịch là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thường là các cơ quan hành pháp, cơ quan quản lý hành chính nhà nước) ghi và lưu lại các sự kiện hộ tịch quan trọng của công dân. Hộ tịch được hiểu là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết. Sự kiện quan trọng thường được ghi nhận bao gồm việc khai sinh, khai tử, kết hôn, ly hôn, hủy việc kết hôn, ly thân tư pháp, nhận nuôi con nuôi, hợp pháp hoá lãnh sự.... Ngoài ra, ở một số nước, việc nhập cư, di dân, và bất kỳ thay đổi nơi cư trú, chỗ ở có thể bị yêu cầu phải thông báo đến cơ quan nhà nước.
Đăng ký hộ tịch tại Việt Nam là việc công dân, người nước ngoài làm các thủ tục về đăng ký hộ tịch tại các cơ quan nhà nước ở Việt Nam. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại Việt Nam sẽ xác nhận các sự kiện: sinh, kết hôn, tử, nuôi con nuôi, giám hộ, nhận cha, mẹ, con, thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch, xác định lại giới tính, xác định lại dân tộc. Các cơ quan này cũng sẽ ghi vào sổ hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ, con, thay đổi quốc tịch, ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, chấm dứt nuôi con nuôi….
Việc đăng ký và quản lý hộ tịch được xác định là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của chính quyền các cấp, nhằm không chỉ theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình, xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, dân số, kế hoạch hóa gia đình (các mảng lĩnh vực về dân sự) mà thậm chí còn phục vụ cho mục đích về an ninh quốc phòng. Chính vì vậy, quy định bắt buộc những người buộc thực hiện đăng ký hộ tịch phải tự giác đăng ký các sự kiện hộ tịch theo quy định.
Đối với những Giấy tờ hộ tịch do nước ngoài cấp, khi sử dụng tại Việt Nam thì bắt buộc phải được hợp pháp hóa lãnh sự, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác; riêng đối với Giấy tờ hộ tịch do Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự của nước ngoài tại Việt Nam cấp cho công dân nước đó để sử dụng tại Việt Nam được miễn hợp pháp hóa lãnh sự trên cơ sở nguyên tắc có đi, có lại. Đối với những loại giấy tờ hộ tịch bằng tiếng nước ngoài phải được dịch ra tiếng Việt, bản dịch phải được công chứng.
2. Thực trạng thực thi các quy định pháp luật liên quan tới các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia trong các lĩnh vực hỗ trợ cho việc thực hiện quyền con người: chứng thực, lý lịch tư pháp
2.1. Lĩnh vực chứng thực
Trong các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết và tham gia, có những điều khoản cụ thể liên quan đến lĩnh vực hành chính tư pháp như quy định về quyền kết hôn, lập gia đình của nam và nữ đến tuổi kết hôn, quyền của mọi trẻ em đều phải được đăng ký khai sinh ngay sau khi ra đời và phải có tên gọi hay quy định về việc mọi trẻ em đều có quyền có quốc tịch... Đến nay, nhằm thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người, Việt Nam đã thực hiện nội luật hóa các điều ước quốc tế vào các văn bản pháp luật trong nước, như Hiến pháp 2013, Luật hôn nhân và gia đình 2014, Luật Quốc tịch Việt Nam sửa đổi năm 2014... Riêng về lĩnh vực chứng thực, sau khi rà soát các quy định trong các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết và tham gia thì không có điều khoản cụ thể nào quy định liên quan đến hoạt động chứng thực.
Tính đến thời điểm hiện tại, trong hầu hết các văn kiện quốc tế nói chung và văn kiện về quyền con người nói riêng đều ghi nhận việc ký kết văn kiện đó bằng việc phải có chứng thực của Chính phủ (chữ ký hoặc bản sao), hay các văn bản, hồ sơ được nhắc đến trong các văn kiện đó yêu cầu phải có chứng thực mà không hề quy định cụ thể những vấn đề về chứng thực liên quan đến cá nhân. Hầu hết những vấn đề cần chứng thực đều được ghi nhận và quy định ở tầm quốc gia, tổ chức. Trong khi ở Việt Nam, vấn đề chứng thực các văn bản, chữ ký, sao văn bản từ sổ gốc hầu như chỉ là “việc chứng thực” và chỉ được sử dụng để phục vụ cho mục đích của cá nhân: lao động, học tập.... mà chưa được sử dụng như một chứng cứ tại Tòa án. Việc sử dụng các giấy tờ chứng thực để làm chứng cứ tại Tòa án vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi ở Việt Nam. Ở các quốc gia khác trên thế giới, các văn bản, giấy tờ đã được chứng thực đều được sử dụng coi như chứng cứ tại Tòa cũng giống như phiếu Lý lịch tư pháp của cá nhân.
Sau khi hoạt động công chứng, chứng thực được phân định rạch ròi, công tác quản lý và thực hiện chứng thực ở nước ta đã có những bước tiến cơ bản và đã đạt được những thành quả nhất định. Mặc dù đến nay, Nhà nước ta chưa có một đạo luật riêng về chứng thực nhưng do đây là một lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân nên đã có một số lượng lớn các quy định pháp luật về chứng thực nằm trong các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau và các văn bản quy phạm có quy định về thủ tục chứng thực hay nói cách khác là các văn bản có liên quan đến chứng thực
Tuy nhiên, thực tiễn thực thi các quy định của pháp luật về chứng thực cho thấy công tác chứng thực đã phát sinh một số mặt hạn chế, bất cập, điều này được thể hiện ở một số điểm cơ bản sau đây:
- Tính không tương thích về cấp độ giữa văn bản pháp luật về chứng thực với các văn bản pháp luật khác có liên quan đến lĩnh vực chứng thực.
- Hoạt động chứng thực chưa thực sự khẳng định được vị trí của mình trong đời sống xã hội
2.2. Lĩnh vực lý lịch tư pháp
Hiện tại, trong các văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên, chưa có văn kiện nào quy định cụ thể về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực tư pháp như: án tích, xóa án tích, phiếu lý lịch tư pháp... mà chỉ quy định về việc phải cung cấp các thông tin về lý lịch tư pháp cho Tòa án, cơ quan nước sở tại khi cần thiết. Do vậy, đề tài xác định việc thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực này của Việt Nam là việc đảm bảo sự chính xác các thông tin thu thập được về cá nhân của cơ quan có thẩm quyền trong quá trình xác minh lý lịch tư pháp để không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân đó. Trong các Điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam là thành viên có 2 Điều ước quốc tế có nhắc đến việc yêu cầu phải cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp: Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Hungari
Việc thực thi các quy định pháp luật để thực hiện các cam kết quốc tế về Quyền con người trong lĩnh vực lý lịch tư pháp được thể hiện cụ thể như sau:
- Quy định về phạm vi quản lý lý lịch tư pháp
Phạm vi quản lý lý lịch tư pháp là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng quyết định toàn bộ nội dung, quy mô, cơ chế quản lý lý lịch tư pháp của mỗi quốc gia. Xét về mặt lịch sử thì phạm vi và nội dung của lý lịch tư pháp lúc đầu chỉ là những vấn đề mang tính chất thuần túy hình sự (tức là những án hình). Về sau này, do sự phát triển và mở rộng hoạt động trong lĩnh vực tư pháp nên phạm vi quản lý lý lịch tư pháp cũng được mở rộng ra các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, thương mại, hành chính… Việc mở rộng hay thu hẹp phạm vi này tùy thuộc vào ý chí của mỗi quốc gia và xuất phát từ những hoàn cảnh lịch sử, xã hội và cách làm của mỗi nước.
Việc xác định phạm vi quản lý lý lịch tư pháp như quy định của Luật Lý lịch tư pháp là xuất phát từ thực tiễn yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp và mục đích quản lý của lĩnh vực này, đồng thời có tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Thực tiễn việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp thời gian qua cho thấy, khi cơ quan, tổ chức trong nước hoặc nước ngoài có nhu cầu cần biết lý lịch tư pháp của một người để xem xét việc xuất cảnh, nhập cảnh, cho nhập, thôi, trở lại quốc tịch, nuôi con nuôi; cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, kiểm toán, y dược tư nhân; tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, du học... thì điều mà cơ quan, tổ chức yêu cầu là án tích và tình trạng thi hành án của người đó. Việc cung cấp chính xác thông tin về lý lịch tư pháp sẽ giúp cho việc đảm bảo tốt nhất quyền con người trong lĩnh vực này.
- Quy định liên quan đến vấn đề xóa án tích
Có thể nói, hầu hết pháp luật hình sự của các nước đều có chế định xoá án tích. Theo quy định của pháp luật hình sự nhiều nước, thì chỉ cần người bị kết án có đủ điều kiện do Bộ luật hình sự quy định là đương nhiên được xóa án tích hoặc yêu cầu Tòa án quyết định xóa án tích. Vì vậy, ở những nước có hệ thống lý lịch tư pháp phát triển (như Cộng hòa Pháp, Vương quốc Thụy Điển, Tây Ban Nha…), cơ quan quản lý lý lịch tư pháp có nhiệm vụ cập nhật, xử lý thông tin lý lịch tư pháp trong trường hợp người bị kết án đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích hoặc được Tòa án quyết định xóa án tích. Bởi vì cơ quan này có nhiệm vụ theo dõi toàn bộ quá trình từ lúc cá nhân bị kết án đến khi cá nhân đó đã chấp hành xong bản án.
Tại Việt Nam, ngoài quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành về vấn đề xóa án tích, Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng có quy định liên quan đến việc xóa án tích đương nhiên. Điều 33 Luật Lý lịch tư pháp quy định cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có nhiệm vụ cập nhật, xử lý thông tin lý lịch tư pháp trong trường hợp người bị kết án được xóa án tích.
- Quy định liên quan đến vấn đề tiếp cận thông tin lý lịch tư pháp
Theo quy định của pháp luật các nước, lý lịch tư pháp gồm những thông tin rất quan trọng về cá nhân nên việc quy định chủ thể có quyền tiếp cận thông tin về lý lịch tư pháp là rất cần thiết nhằm bảo đảm bí mật đời tư của cá nhân cũng như đáp ứng được các mục đích của quản lý lý lịch tư pháp.
Để bảo đảm quyền của cá nhân, theo quy định của pháp luật một số nước, mỗi năm công dân có quyền yêu cầu cơ quan quản lý lý lịch tư pháp cho biết cơ quan này đang lưu trữ những thông tin gì về mình, trong trường hợp họ phát hiện có sai sót thì có quyền yêu cầu sửa đổi, hoặc có thể khiếu nại..
- Quy định liên quan đến vấn đề xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về lý lịch tư pháp
Theo quy định của pháp luật một số nước, trường hợp cá nhân phát hiện những thông tin được lưu trữ sai thực tế, cá nhân có quyền khiếu nại với cơ quan quản lý lý lịch tư pháp hoặc kiện ra Toà án yêu cầu cơ quan quản lý lý lịch tư pháp phải sửa đổi lại thông tin liên quan đến mình.
Pháp luật về lý lịch tư pháp của Việt Nam cũng có quy định việc xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về lý lịch tư pháp. Theo đó, người có thẩm quyền trong quản lý lý lịch tư pháp vi phạm quy định của Luật Lý lịch tư pháp thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Bên cạnh quy định về việc xử lý vi phạm của người có thẩm quyền, thì bất kỳ người nào vi phạm quy định của Luật Lý lịch tư pháp, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Ngoài quy định về xử lý vi phạm, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân về các hành vi vi phạm trong quản lý, cấp và sử dụng Phiếu lý lịch tư pháp được quy định cụ thể trong Luật Lý lịch tư pháp.
Các quy định về khiếu nại, tố cáo được quy định trong Luật Lý lịch tư pháp, quy định tại Chương V (các điều từ Điều 51 đến Điều 54) quy định về xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về lý lịch tư pháp.
Lý lịch tư pháp là vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền nhân thân của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Do đó, quyền khiếu nại, tố cáo của các chủ thể này về các hành vi vi phạm trong quản lý, cấp và sử dụng Phiếu lý lịch tư pháp được quy định cụ thể trong Luật Lý lịch tư pháp nhưng hậu quả pháp lý của sự vi phạm này phải xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của chính cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
II. CÁC CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC THI CÁC CAM KẾT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG LĨNH VỰC HÀNH CHÍNH - TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng giám sát và theo dõi thực hiện các cam kết quốc tế về Quyền con người trong lĩnh vực hành chính - tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Đối với các cam kết quốc tế về quyền con người, trong đó có các điều ước quốc tế ghi nhận quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp như Công ước về quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Công ước về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về chống phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979…, luôn tồn tại cơ chế giám sát và theo dõi thực hiện điều ước quốc tế ở cả hai cấp độ: cơ chế giám sát quốc tế và cơ chế giám sát quốc gia.
1.1. Cơ chế giám sát quốc tế
Cơ chế giám sát quốc tế bao gồm hệ thống các thiết chế chuyên trách, các nguyên tắc và quy phạm hướng tới việc xác lập nghĩa vụ đối với các quốc gia thành viên nhằm bảo đảm việc thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người. Cùng với sự tồn tại của các thiết chế quốc tế, các điều ước quốc tế về quyền con người còn xác lập nguyên tắc thực hiện điều ước quốc tế và duy trì một thủ tục pháp lý rất quan trọng là xây dựng và bảo vệ báo cáo quốc gia tình hình thực hiện điều ước quốc tế trong lãnh thổ quốc gia. Chu kỳ báo cáo được các điều ước quốc tế triển khai định kỳ nhằm khuyến khích các quốc gia áp dụng các biện pháp cần thiết để thực hiện nghĩa vụ thành viên điều ước và cải thiện tình hình Quyền con người trong lãnh thổ quốc gia.
Đối với các điều ước quốc tế về quyền con người, sự hiện diện của cơ chế giám sát quốc tế có tác động tích cực đến việc thực hiện điều ước quốc tế ở từng quốc gia. Cơ chế giám sát quốc tế được hình thành như là một sự bảo đảm để các quy định điều ước quốc tế được các thành viên tuân thủ và thực hiện đầy đủ. Hiện nay, cơ chế giám sát quốc tế việc thực hiện nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế về quyền con người bao gồm cơ chế giám sát của Liên hợp quốc và cơ chế giám sát khu vực.
a) Cơ chế giám sát của Liên hợp quốc
Trong khuôn khổ hoạt động của Liên hợp quốc, các cơ chế giám sát việc thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người bao gồm hai cơ chế là cơ chế được thiết lập trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và cơ chế được thiết lập trên cơ sở các công ước quốc tế về quyền con người.
- Cơ chế được thiết lập trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc
Cơ cấu tổ chức của Liên hợp quốc gồm sáu cơ quan chính. Trừ Hội đồng Quản thác trên thực tế đã chấm dứt hoạt động, các cơ quan khác của Liên hợp quốc như Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng Kinh tế Xã hội, Tòa án Công lý quốc tế và Ban Thư ký đều có những chức năng trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến việc giám sát thực hiện nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế về quyền con người của các quốc gia. Đặc biệt Hội đồng Quyền con người, cơ quan trực thuộc Đại hội đồng, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giám sát thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người.
Ngoài các cơ quan nêu trên, Liên hợp quốc cũng có những cơ chế giám sát việc thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người theo mô hình và phương thức của các tổ chức chuyên môn thuộc hệ thống Liên hợp quốc. Mỗi tổ chức giám sát việc thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người từ góc độ chức năng và lĩnh vực chuyên môn của mình. Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc, Tổ chức Y tế Thế giới và thậm chí cả Ngân hàng Thế giới cũng xét đến những vi phạm Quyền con người khi quyết định tài trợ cho các quốc gia.
- Cơ chế được thiết lập trên cơ sở các công ước quốc tế về quyền con người
Trong khuôn khổ Liên hợp quốc đã có nhiều công ước quốc tế về quyền con người được ký kết. Ngoài việc xác định nghĩa vụ cho quốc gia trong việc bảo vệ và phát triển quyền con người, một số công ước còn thành lập các ủy ban (thường được gọi là Ủy ban công ước) để giúp cộng đồng quốc tế thực hiện sự giám sát cần thiết đối với việc thực hiện nghĩa vụ thành viên của mỗi quốc gia. Hiện nay, đã có 10 ủy ban được thành lập trên cơ sở các công ước quốc tế về quyền con người như Ủy ban về quyền dân sự, chính trị; Ủy ban về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Ủy ban về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ; Ủy ban về quyền của trẻ em; Ủy ban về quyền của người khuyết tật...[3] Các ủy ban công ước thực hiện chức năng theo quy định của các điều ước quốc tế đã thành lập nên chúng, trong đó có chức năng giám sát các quốc gia trong việc tuân thủ nghĩa vụ thành viên theo điều ước.
b) Cơ chế giám sát khu vực
Ở châu Âu, châu Phi và châu Mỹ, các ủy ban giám sát Quyền con người và tòa án Quyền con người đã được thành lập dựa trên các điều ước quốc tế về quyền con người khu vực như Công ước châu Âu về bảo vệ quyền con người và tự do cơ bản năm 1950, Công ước châu Mỹ về quyền con người năm 1969, Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền dân tộc năm 1981… Các thiết chế này có trách nhiệm giám sát, báo cáo về tình hình thực hiện điều ước quốc tế của quốc gia thành viên; tiếp nhận các kiến nghị của quốc gia, cá nhân khi có hành vi vi phạm quyền con người.
Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương mặc dù chưa có một điều ước quốc tế về quyền con người chung cho khu vực nhưng ở một phạm vi hẹp hơn các quốc gia Đông Nam Á, trên cơ sở Hiến chương ASEAN, đã thành lập Ủy ban ASEAN về quyền con người năm 2009. Tuy nhiên, khác với các cơ chế của khu vực khác, chức năng chủ yếu của Ủy ban ASEAN về quyền con người chỉ mang tính chất hỗ trợ, thúc đẩy các quốc gia thành viên ASEAN tham gia và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thành viên các điều ước quốc tế về quyền con người. Ủy ban ASEAN về quyền con người không có chức năng xem xét, đánh giá tình hình thực hiện nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế về quyền con người của các quốc gia cũng như không tiếp nhận các khiếu kiện của cá nhân, tổ chức.
Trong hệ thống các cơ chế được thành lập theo quy định của các điều ước quốc tế về quyền con người khu vực, công tác giám sát cuối cùng đối với việc tuân thủ quyết định hoặc báo cáo của tòa án hoặc ủy ban Quyền con người đều thuộc trách nhiệm của cơ quan liên chính phủ bao gồm đại diện các quốc gia thành viên thuộc khu vực đó. Những quyền được bảo vệ và các cơ chế giám sát được thành lập đều được lý giải trên cơ sở phản ánh những đặc điểm của khu vực. Sự hình thành và phát triển của các cơ chế này góp phần quan trọng trong việc thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế về quyền con người của các quốc gia.
1.2. Cơ chế giám sát quốc gia
Thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người được xác định là nghĩa vụ bắt buộc đối với quốc gia thành viên điều ước quốc tế. Do đó, cùng với sự vận hành của cơ chế giám sát quốc tế, quốc gia thành viên sẽ xây dựng cơ chế giám sát quốc gia để theo dõi việc thực hiện điều ước quốc tế trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Về tổng thể, cơ chế giám sát quốc gia bao gồm các điều kiện về thể chế nhà nước và các đảm bảo pháp lý, thực tiễn để giám sát thực hiện điều ước quốc tế. Cụ thể, quốc gia sẽ tự tiến hành giám sát quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, kiện toàn bộ máy nhà nước, triển khai các biện pháp tổ chức thực hiện… nhằm đảm bảo và thúc đẩy quyền con người theo yêu cầu của các điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên. Tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm trong việc đề ra kế hoạch cụ thể và các biện pháp giám sát khả thi việc thực hiện cam kết quốc tế về quyền con người của quốc gia. Trong một số trường hợp, quốc gia thành viên còn thành lập cơ quan chuyên trách hoạt động với tính chất là cơ quan đầu mối, đồng thời là cơ quan chủ trì trong việc theo dõi tình hình thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người trong lãnh thổ quốc gia.
Hiện nay, theo Nguyên tắc Pari[4], Liên hợp quốc khuyến khích các quốc gia thành viên thành lập cơ quan giám sát Quyền con người quốc gia nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong lãnh thổ quốc gia. Cơ quan này có một số thẩm quyền quan trọng như đệ trình các khuyến nghị, đề xuất và báo cáo về các vấn đề liên quan đến việc thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người lên các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia; đảm bảo sự hài hòa của pháp luật quốc gia với các chuẩn mực quốc tế; nhận và xem xét đơn khiếu nại của cá nhân về các vụ vi phạm Quyền con người; thúc đẩy nâng cao nhận thức của công chúng về quyền con người; hợp tác với các cơ chế giám sát Quyền con người quốc tế [5].
Theo khuyến nghị của Nguyên tắc Pari, nhiều quốc gia đã vận dụng để xây dựng mô hình cơ quan giám sát Quyền con người quốc gia. Hiện nay có khoảng 119 quốc gia đã xây dựng cơ quan giám sát Quyền con người quốc gia theo các mô hình chính như Thanh tra Quốc hội, Ủy ban Quyền con người quốc gia, Cơ quan Quyền con người chuyên trách, Viện Quyền con người hay Trung tâm Quyền con người quốc gia[6]. Các quy định về việc thành lập cơ quan giám sát Quyền con người quốc gia theo Nguyên tắc Pari hoàn toàn không mang tính bắt buộc mà chỉ có giá trị khuyến nghị.
Có thể nói, cơ chế giám sát quốc gia thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người được hình thành dựa trên những đặc thù của mỗi quốc gia về thể chế chính trị, hệ thống pháp luật, cấu trúc bộ máy nhà nước… và các nghĩa vụ cụ thể mà điều ước quốc tế về quyền con người xác lập đối với quốc gia. Trong mọi trường hợp, việc hình thành và duy trì cơ chế này có ý nghĩa tạo nền tảng pháp lý và thực tiễn cho việc thực hiện có hiệu quả điều ước quốc tế.
Như vậy, trong cơ chế giám sát thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người luôn có sự kết hợp đồng thời của hai cơ chế: cơ chế giám sát quốc tế và cơ chế giám sát quốc gia. Trong đó, cơ chế giám sát quốc gia thực hiện điều ước quốc tế có vai trò đặc biệt quan trọng bởi trước hết cá nhân luôn tồn tại trong mối quan hệ pháp lý với một quốc gia nhất định, quyền và nghĩa vụ của họ cũng được xác lập và bảo vệ bởi chính quốc gia đó. Tuy nhiên, trong bối cảnh mà phần lớn những vi phạm Quyền con người thường do quốc gia gây ra ảnh hưởng đến lợi ích của chính những cá nhân thuộc quyền tài phán của quốc gia thì những bảo đảm trên bình diện quốc tế là rất cần thiết. Sự tồn tại song song của hai cơ chế giám sát, cơ chế quốc gia và cơ chế quốc tế, có tác dụng bổ sung, hỗ trợ nhau và cùng hướng tới mục tiêu đảm bảo quốc gia thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế về quyền con người.
2. Nguồn lực thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính - tư pháp ở Việt Nam
2.1. Sự cần thiết của việc giám sát và theo dõi thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp ở Việt Nam
- Giám sát và theo dõi thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp đáp ứng yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế của Việt Nam
- Giám sát và theo dõi thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp nhằm bảo đảm sự tôn trọng, bảo vệ và thực hiện các quyền cơ bản của con người ở Việt Nam
2.2. Các cơ quan chịu trách nhiệm giám sát và theo dõi việc thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp ở Việt Nam
2.2.1. Các cơ quan giám sát
a) Các cơ quan trong bộ máy nhà nước
- Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
Cùng với hoạt động lập hiến và lập pháp, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật nói chung cũng như liên quan đến quyền con người, quyền công dân nói riêng. Giám sát hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, trong đó có các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp cũng là một nội dung thuộc chương trình giám sát của Quốc hội. Trách nhiệm giám sát các hoạt động này thuộc về Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu và đại biểu Quốc hội. Các Hội đồng và Ủy ban của Quốc hội giám sát hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Đoàn đại biểu và đại biểu Quốc hội giám sát hoạt động thực hiện điều ước quốc tế tại địa phương. Vai trò giám sát của Quốc hội đối với quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện điều ước quốc tế nói chung, điều ước quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp nói riêng, còn được thể hiện qua hoạt động thẩm tra điều ước quốc tế.
Ngoài vai trò giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, ở cấp địa phương, Hội đồng Nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng Nhân dân là một khâu trong quá trình giám sát thực hiện nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế về quyền con người của Việt Nam, đặc biệt liên quan đến nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực hiện các quyền con người trên phạm vi địa phương mình.
- Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp
Chính phủ và Ủy ban Nhân dân các cấp là hệ thống cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước, là hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước của nước CHXHCN Việt Nam. Trong chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Chính phủ và Ủy ban Nhân dân các cấp đã triển khai nhiều hoạt động nhằm giám sát thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người tại Việt Nam.
Theo Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001, liên quan đến công tác điều ước quốc tế nói chung, điều ước quốc tế về quyền con người nói riêng, Chính phủ có nhiệm vụ “Thống nhất quản lý công tác đối ngoại; đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước CHXHCN Việt Nam…; đàm phán, ký, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc gia nhập...” (khoản 8 điều 8). Trong lĩnh vực hành chính tư pháp, nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ được xác định là “Thống nhất quản lý công tác hành chính tư pháp, các hoạt động về luật sư, giám định tư pháp, công chứng và bổ trợ tư pháp; tổ chức và quản lý công tác thi hành án, quốc tịch, hộ khẩu, hộ tịch” (khoản 4 điều 18).
Các cơ quan của Chính phủ và Ủy ban Nhân dân các cấp (các bộ, cơ quan ngang bộ, các sở…) có trách nhiệm thực hiện vai trò quản lý nhà nước các hoạt động bảo vệ và thúc đẩy các quyền và tự do cơ bản của con người theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phù hợp với lợi ích chung của dân tộc, của cộng đồng và những điều kiện đặc thù của đất nước.
Là cơ quan của Chính phủ, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm chính trong lĩnh vực hành chính tư pháp. Nhiệm vụ giám sát và theo dõi các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp được xác định là một trong những nhiệm vụ của các cơ quan thuộc Bộ Tư pháp như Vụ Pháp luật quốc tế, Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Cục Con nuôi[7]. Việc giám sát và theo dõi sẽ xem giúp Bộ Tư pháp thực hiện tốt nhiệm vụ “trình Chính phủ việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế và chủ trương hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ”. Qua công tác giám sát và theo dõi, Bộ Tư pháp sẽ nắm được số lượng các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia, hiểu được nội dung cũng như sự tương thích giữa quy định của điều ước quốc tế với các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam… qua đó đề xuất Chính phủ tiếp tục đàm phán, ký kết điều ước quốc tế mới; đề xuất Chính phủ xây dựng, sửa đổi bổ sung văn bản pháp luật hiện hành cho phù hợp với nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp mà Việt Nam đã tham gia.
Chính phủ cũng đã thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về Quyền con người do một Phó Thủ tướng là trưởng ban có trách nhiệm chủ trì, chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn, phối hợp các bộ, ban, ngành trung ương và địa phương thực hiện công tác bảo vệ và đấu tranh về Quyền con người. Văn phòng thường trực Ban Chỉ đạo quốc gia về Quyền con người và Ban Chỉ đạo Quyền con người địa phương có bộ máy lãnh đạo chuyên trách, có cơ chế phối hợp với các cơ quan liên quan ở Trung ương và địa phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong lĩnh vực bảo vệ và đấu tranh về Quyền con người.
- Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân
Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân đóng vai trò nhất định trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân cũng như giám sát thực hiện nghĩa vụ thành viên các điều ước quốc tế về quyền con người của Việt Nam.
Với chức năng xét xử của Tòa án Nhân dân, chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát tư pháp của Viện Kiểm sát Nhân dân, các cơ quan này tiến hành hoạt động điều tra, truy tố xét xử những hành vi vi phạm quyền con người, trong đó có quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật
b) Các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và tổ chức xã hội
Vai trò của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội - những tổ chức đại diện cho quyền lợi của những nhóm cá nhân cùng lợi ích, cùng cảnh ngộ - cũng được phát huy trong việc giám sát thực hiện nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế về quyền con người. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên như Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Luật gia Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ… là những lực lượng rất đông đảo tham gia vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của công dân, chăm lo, bảo vệ, tổ chức thực hiện và phát triển quyền con người ở Việt Nam. Các tổ chức này còn tham gia tích cực vào quá trình xây dựng và bảo vệ báo cáo của Việt Nam về tình hình thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người. Phần lớn ý kiến đóng góp của các tổ chức đã được các cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo nghiêm túc xem xét và đưa vào nội dung báo cáo. Có thể nói đây cũng là một kênh thông tin rất quan trọng để đánh giá mức độ thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người của Việt Nam.
Như vậy, quá trình giám sát và theo dõi việc thực hiện cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp ở Việt Nam có nhiều cơ quan, tổ chức tham gia, bao gồm các cơ quan trong bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và tổ chức xã hội; trong đó, nổi bật lên vai trò giám sát chung của Quốc hội, vai trò giám sát gắn với chức năng quản lý nhà nước của Chính phủ, cụ thể là của Bộ Tư pháp và các bộ ngành liên quan như Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội…
2.2.2. Nội dung, biện pháp giám sát và theo dõi việc thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp ở Việt Nam
Trên phương diện pháp lý quốc tế, khi là thành viên của một điều ước quốc tế về quyền con người, quốc gia có nghĩa vụ phải hiện thực hóa các quyền và tự do cơ bản của con người trên lãnh thổ quốc gia mình. Để đảm bảo cho quá trình hiện thực hóa này, các điều ước quốc tế về quyền con người đã xác định các nghĩa vụ rất cụ thể cho các quốc gia. Các nghĩa vụ này bao gồm: (i) Nghĩa vụ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia; (ii) Nghĩa vụ tổ chức thực hiện pháp luật để đảm bảo sự tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền con người trong lãnh thổ quốc gia; (iii) Nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ báo cáo quốc gia về tình hình thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người; (iv) Một số nghĩa vụ mang tính khuyến nghị khác… Được quy định trong điều ước quốc tế về quyền con người nên các nghĩa vụ nêu trên là nghĩa vụ pháp lý quốc tế của quốc gia thành viên điều ước quốc tế. Giám sát và theo dõi việc thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người, bao gồm cả điều ước quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp, chính là giám sát và theo dõi việc thực hiện những nghĩa vụ này.
Theo đó, các cơ quan này thực hiện nhiệm vụ giám sát theo dõi những công việc như sau:
- Giám sát và theo dõi quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo yêu cầu của các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp.
- Giám sát quá trình tổ chức thực hiện pháp luật để đảm bảo sự tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp.
- Giám sát quá trình xây dựng và bảo vệ báo cáo quốc gia tình hình thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp.
3. Cơ chế phối hợp trong thực hiện các báo cáo về việc thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp
3.1. Quy trình trong việc thực hiện nghĩa vụ báo cáo theo các điều ước quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp
3.1.1. Khái quát về nghĩa vụ báo cáo trong các điều ước quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp
Các công ước quốc tế về quyền con người yêu cầu các quốc gia thành viên làm báo cáo về quá trình thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của Công ước nhằm bảo đảm các quy định thoả thuận trong các Công ước được các quốc gia thành viên tuân thủ và thực hiện ngày một đầy đủ.
Để công tác thực hiện báo cáo quốc gia liên quan đến các công ước quốc tế về quyền con người có ý nghĩa, việc làm báo cáo được coi là một bộ phận của quá trình nâng cao sự tôn trọng và bảo đảm các quyền con người của mỗi quốc gia. Việc làm báo cáo là dịp để khẳng định quyết tâm của chính phủ quốc gia thành viên đối với việc thúc đẩy và tôn trọng các quyền con người của công dân nước mình, đồng thời đây cũng là cơ hội thuận lợi để đánh giá tình hình thực tế và đề ra các biện pháp cải thiện tình hình, khắc phục các mặt tồn tại để chứng tỏ với cộng động quốc tế là quốc gia mình nghiêm túc thực hiện các công ước quốc tế mà mình đã ký kết, phê chuẩn hay gia nhập. Do các quốc gia đều quan tâm xây dựng hình ảnh quốc tế thuận lợi cho quốc gia mình, các quốc gia thường cố gắng thực hiện tốt nghĩa vụ làm báo cáo quốc gia thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người. Nghĩa vụ làm báo cáo quốc gia thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người cũng được cộng đồng quốc tế nhìn nhận như một công cụ thúc đẩy các quốc gia thực hiện các nghĩa vụ mình cam kết khi tham gia công ước cùng với các biện pháp khác như xem xét kháng thư, khiếu nại, cử đoàn điều tra tìm hiểu tình hình, gây sức ép dư luận, ngoại giao, thông qua nghị quyết khuyến cáo hoặc cưỡng chế...
Soạn thảo, bảo vệ và thực hiện báo cáo quốc gia thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người là một nghĩa vụ bắt buộc đối với các quốc gia thành viên công ước. Việc thực hiện nghĩa vụ báo cáo về các quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp cũng nằm trong bối cảnh chung này. Theo đó, một trong những công ước quan trọng về quyền con người cần phải kể đến là Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Trong Công ước này, hầu hết các quyền cơ bản của con người liên quan đến lĩnh vực hành chính tư pháp đã được các quốc gia thành viên cam kết, cụ thể như quyền có quốc tịch, quyền hôn nhân và gia đình... Các công ước quan trọng khác về quyền con người của Liên hợp quốc như: Công ước chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ, Công ước về quyền trẻ em... cũng có nhiều quy định liên quan đến quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp.
Đặc biệt, ngày 15/3/2006 LHQ đã thông qua Nghị quyết số 60/251 về cơ chế kiểm định định kỳ (Universal Periodic Review- UPR), theo đó thiết lập Hội đồng Quyền con người và quy định cơ chế xem xét báo cáo Quyền con người của các thành viên LHQ bốn năm một lần. Theo cơ chế này, các nước có nghĩa vụ nộp báo cáo quốc gia về tình hình Quyền con người của nước mình, trong đó chú trọng đến các biện pháp nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền con người cũng như thực hiện các cam kết quốc tế có liên quan. Hội đồng Quyền con người sẽ họp xem xét các báo cáo quốc gia này và các nước có thể đưa ra những bình luận, những khuyến nghị để các nước thành viên hoàn thiện cơ chế, thể chế của mình.
Khác với các cơ chế đa phương, hợp tác song phương trong lĩnh vực hành chính tư pháp với việc Việt Nam ký kết với các nước như các hiệp định về nuôi con nuôi, các hiệp định về tương trợ tư pháp...không có quy định về nghĩa vụ báo cáo. Thay vào đó, các hiệp định song phương thường có quy trình kiểm điểm quá trình thực hiện. Thông thường, các hiệp định song phương quy định hàng năm hoặc hai năm một lần hai bên ký kết[8] tiến hành các cuộc họp nhằm đánh giá, kiểm điểm tình hình thực hiện điều ước đã ký kết. Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung phân tích về quy trình, quy chế phối hợp thực hiện các Báo cáo quốc gia liên quan đến các công ước quốc tế, Báo cáo Cơ chế điểm định định kỳ UPR.
3.1.2. Quy trình phối hợp thực hiện Báo cáo quốc gia
Hội đồng Quyền con người và Văn phòng cao uỷ Quyền con người Liên hợp quốc có tài liệu hướng dẫn cụ thể cho các quốc gia thành viên về trình tự, yêu cầu và phương pháp soạn thảo báo cáo cho từng công ước. Tuy nhiên, mỗi nước dựa trên yêu cầu và hoàn cảnh cụ thể của mình, có những cách thức, trình tự soạn thảo báo cáo quốc gia riêng, nhưng nhìn chung đều phải tiến hành các bước cơ bản giống nhau, trong đó có việc cử cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp, thu thập thông tin, tổ chức hội nghị hội thảo, xây dựng dự thảo báo cáo, nhất trí nội dung báo cáo, trình duyệt báo cáo và tổ chức bảo vệ báo cáo trước các Uỷ ban theo dõi thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người. Quy trình đối với các Báo cáo quốc gia gồm các bước cụ thể như sau:
- Xác định Cơ quan chủ trì việc soạn thảo báo cáo
- Phân công và phối hợp giữa các bộ/ngành trong việc thực hiện các phần của Báo cáo
- Thu thập thông tin, tài liệu
- Soạn thảo báo cáo và phê duyệt nội dung báo cáo
-Bảo vệ báo cáo quốc gia trước Uỷ ban theo dõi thực hiện công ước quốc tế về quyền con người
- Phổ biến nội dung báo cáo và đánh giá, khuyến nghị của các Uỷ ban theo dõi thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người và thực hiện các khuyến nghị đã chấp nhận
3.2. Những mặt đã làm được và những tồn tại trong cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong soạn thảo báo cáo quốc gia của Việt Nam trong thời gian qua
3.2.1. Những mặt đã làm được
Kể từ khi Việt Nam tham gia Công ước về Xoá bỏ Phân biệt Đối xử với Phụ nữ tháng 2/1982, chúng ta đã lần lượt tham gia các Công ước khác về quyền con người trong đó có 5 Công ước có yêu cầu làm báo cáo quốc gia về việc thực hiện các nghĩa vụ trong Công ước là : công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị; công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá; công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc; công ước quốc tế về xoá bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ và công ước quốc tế về quyền trẻ em. Chúng ta đã thực hiện tương đối tốt nghĩa vụ làm báo cáo đối với các Công ước này. Đặc biệt, chúng ta làm rất tốt nghĩa vụ soạn thảo và bảo vệ báo cáo quốc gia đối với các công ước quốc tế về xoá bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ và công ước quốc tế về quyền Trẻ em. Về thời gian, việc trình nộp và bảo vệ báo cáo thực hiện công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị bị muộn một số năm theo quy định.
Trong điều kiện kinh tế nước ta những năm qua còn nhiều khó khăn, đặc biệt là những năm 1980, việc chúng ta bảo đảm thực hiện tương đối đầy đủ và bảo đảm thời gian nghĩa vụ soạn thảo và bảo vệ các báo cáo quốc gia thực hiện 5 công ước quốc tế chính về quyền con người là một cố gắng to lớn của Chính phủ và nhân dân ta. Thành tích này được các Uỷ ban theo dõi thực hiện Công ước và cộng đồng quốc tế công nhận và đánh giá cao.
Việc trình nộp và bảo vệ tương đối đều đặn các báo cáo này đã góp phần duy trì quan hệ đối thoại thân thiện giữa nước ta với các Uỷ ban theo dõi thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người và góp phần vô hiệu hoá các luận điệu tuyên truyền vu cáo của các thế lực thù địch về tình hình thực hiện các quyền con người ở Việt Nam, góp phần nâng cao hình ảnh quốc tế của đất nước ta tại các diễn đàn quốc tế.
Việc soạn thảo và bảo vệ báo cáo quốc gia của Nhà nước ta trong những năm qua đạt được những thành tựu quan trọng là nhờ có sự chỉ đạo chặt chẽ của Chính phủ và sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ/ngành tham gia quá trình này. Khi được phân công tham gia vào quá trình soạn thảo báo cáo quốc gia thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người, các bộ/ngành đã khẩn trương bố trí cán bộ có trình độ và kinh nghiệm tham gia Ban soạn thảo báo cáo. Việc này đã hình thành một quy trình phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu thập thông tin, tài liệu để cơ quan chủ trì soạn thảo xây dựng dự thảo báo cáo có nội dung toàn diện và sát với thực tế của đất nước.
Nội dung của các công ước quốc tế về quyền con người liên quan đến nhiều lĩnh vực của cuộc sống, do đó sự phối hợp và tham gia tích cực của các bộ/ngành trong quá trình xây dựng báo cáo quốc gia có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với chất lượng và nội dung của báo cáo. Ngay cả với các công ước quốc tế về quyền của phụ nữ hay trẻ em là những công ước có nội dung hẹp hơn các Công ước khác như công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị... nhưng nếu chỉ để các cơ quan liên quan trực tiếp như Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp... thực hiện không thôi thì cũng không thể bảo đảm nội dung toàn diện và chính xác của các báo cáo thực hiện các công ước quốc tế này.
Sau khi bảo vệ xong báo cáo, chúng ta đã có nhiều cố gắng để phổ biến nội dung các báo cáo quốc gia cũng như đánh giá và khuyến nghị của Uỷ ban theo dõi thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người. Việc in ấn các báo cáo, tổ chức hội nghị, hội thảo và họp báo trao đổi và phổ biến nội dung các báo cáo quốc gia được các cơ quan của ta quan tâm thực hiện khá tốt, đặc biệt là các báo cáo liên quan đến thực hiện các công ước quốc tế mà ta có nhiều thành tích nổi bật như công ước quốc tế về quyền Trẻ em, công ước quốc tế về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ...
Báo cáo Quốc gia UPR của Việt Nam trình bày vào tháng 5/2009 tại Hội đồng Quyền con người đã được các nước đánh giá cao về sự chuẩn bị công phu và cách tiếp cận xây dựng. Sau khi Hội đồng Quyền con người Liên hợp quốc thông qua Báo cáo của Việt Nam (tháng 9/2009), theo đó Việt Nam đã chấp nhận 93/123 khuyến nghị (chiếm gần 80%).[9]
3.2.2. Những tồn tại, thách thức
Nhìn chung, trong thời gian qua và nhất là những năm gần đây, nhờ thành tựu của công cuộc đối mới đất nước, thế và lực của nước ta được tăng cường, chúng ta có điều kiện về nhân lực và tài lực tốt hơn, chúng ta đã có rất nhiều tiến bộ trong việc thực hiện nghĩa vụ soạn thảo và báo cáo quốc gia thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người mà ta đã phê chuẩn và gia nhập. Trong vòng 5 năm trở lại đây, trung bình mỗi năm chúng ta đã trình nộp và bảo vệ một đến hai báo cáo. Việc này đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu và xây dựng quy trình thống nhất, đơn giản, hiệu quả để thực hiện nhiệm vụ ngày càng nặng nề này.
Qua nghiên cứu về quá trình thực hiện nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ báo cáo quốc gia thực hiện công ước quốc tế về quyền con người trong thời gian qua, có thể nhận thấy chúng ta cần sớm có biện pháp khắc phục một số tồn tại trong công tác này, cụ thể:
- Thứ nhất, chưa có một cơ quan, tổ chức chuyên trách trong việc làm Báo cáo quốc gia về tình hình thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người.
- Thứ hai, sự phối hợp giữa các Bộ, ngành trong việc chuẩn bị báo cáo chưa được chặt chẽ và hiệu quả.
- Thứ ba, việc thu lượm thông tin còn khó khăn và nội dung một số báo cáo còn thiếu dữ liệu có tính thuyết phục cao.
- Thứ tư, Nhà nước chưa dành kinh phí hỗ trợ thích đáng cho việc chuẩn bị báo cáo.
4. Rà soát, xử lý vi phạm
Xuyên suốt hệ thống văn bản pháp luật về quyền con người nói chung và quyền con người trong lĩnh vực Hành chính tư pháp do Bộ Tư pháp quản lý nói riêng, việc nỗ lực không ngừng để người dân được tiếp cận, thay đổi nhận thức và thụ hưởng đầy đủ các quyền và tự do cơ bản của mình là chủ trương, chính sách, hành động tích cực mà Đảng và Nhà nước ta luôn đề ra và coi trọng. Đặc biệt là công tác hợp tác quốc tế về quyền con người luôn được thúc đẩy hợp tác quốc trên cơ sở bình đẳng tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau. Theo rà soát của Ban chủ nhiệm, đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã soạn thảo và đệ trình 16 báo cáo quốc gia lên các ủy ban công ước về Quyền con người, được đánh giá cao về chất lượng. Việt Nam tích cực thực hiện các cam kết quốc tế khác về quyền con người, nổi bật là Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Hội đồng Quyền con người[10].Việt Nam cũng rất nghiệm túc trong việc tiếp thu, thực hiện những khuyến nghị của Hội đồng Quyền con người Liên hợp quốc đối với báo cáo UPR thường kỳ. Đối với báo cáo UPR 2014 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Kế hoạch tổng thể về việc thực hiện 182 khuyến nghị, và giao Bộ Ngoại giao là cơ quan đầu mối triển khai thực hiện.
Chính vì coi trọng giá trị của việc hợp tác quốc tế về Quyền con người, tích cực, nỗ lực thực hiện cam kết nên Việt Nam đã ít nhiều đạt được những thành quả trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện bất cứ điều ước quốc tế nào cũng sẽ gặp phải những khó khăn, thách thức nhất định nên công tác rà soát nhằm xử lý những vi phạm xuất hiện trong quá trình thực thi các cam kết về quyền con người là việc làm thiết thực, hiệu quả nhằm nâng cao tầm quan trọng và bảo vệ những giá trị, thành quả văn minh về quyền con người mà chúng ta đã gây dựng, vun đắp.
4.1. Đối với việc thực hiện các cam kết quốc tế về quốc tịch
Việc thực thi các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực quốc tịch được bảo đảm về cơ bản. Cụ thể: hệ thống pháp luật Việt Nam quy định rõ ràng và đầy đủ về vấn đề quốc tịch từ những quy định pháp luật của Luật Quốc tịch đến các văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể: quy định về quyền có quốc tịch (theo huyết thống, theo nơi sinh…); quyền được giữ quốc tịch; quyền được thay đổi quốc tịch; quyền được gia nhập quốc tịch...
Về trình tự thủ tục đối với việc thực hiện các quyền liên quan tới quốc tịch, Luật quốc tịch cũng đã có quy định khá rõ ràng và đầy đủ. Đối chiếu với các cam kết quốc tế của Việt Nam, nhìn chung các quy định này là phù hợp.
4.2. Đối với việc thực hiện các cam kết quốc tế về nuôi con nuôi
Về cơ bản hệ thống pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi hoàn thiện và phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Quá trình thực hiện các cam kết này nhằm đảm bảo tối đa quyền của trẻ em và người nhận nuôi con nuôi. Quá trình thực thi các cam kết quốc tế về quyền trẻ em cũng đã chỉ ra được bên cạnh những giá trị tích cực trong thực thi các cam kết này như: hệ thống pháp luật khá đầy đủ và toàn diện, nhận thức của cán bộ làm công tác nuôi con nuôi ngày càng được tăng cường và củng cố đặc biệt là ý thức về việc đảm bảo các điều kiện tốt nhất để trẻ em được sống trong gia đình gốc, được bảo vệ quyền lợi trong gia đình bố mẹ nuôi... thì vẫn còn những lỗ hổng pháp luật, những khe hở ảnh hưởng đến việc thực thi các cam kết quốc tế về quyền trẻ em như: việc tuyên truyền phổ biến pháp luật về quyền trẻ em và nuôi con nuôi tại Việt Nam; tính khách quan và nhu cầu xã hội hóa hoạt động kiểm tra hồ sơ, điều kiện nhận nuôi con nuôi của cha mẹ nuôi; vai trò của công chức tư pháp - hộ tịch trong việc tư vấn/tham vấn cho cha mẹ nuôi về hoạt động cho nhận con nuôi...
4.3. Đối với việc thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến lĩnh vực hộ tịch
Có thể nói, lĩnh vực hộ tịch là lĩnh vực có số lượng cam kết quốc tế mà Việt Nam ký kết nhiều hơn cả so với nuôi con nuôi và quốc tịch bởi những vấn đề về hộ tịch là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của bất cứ người dân nào sinh sống và làm việc trên lãnh thổ đất nước Việt Nam. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, đặc biệt là từ sau khi có sự ra đời của Luật Hộ tịch 2014 thì việc thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hộ tịch được coi trọng hơn, nội luật hóa và thực hiện tốt hơn, thể hiện rõ tinh thần và nỗ lực hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, để tiếp tục triển khai tốt hơn nữa các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực thiết yếu này thì Việt Nam cần nỗ lực và tích cực hơn nữa trong tham gia đàm phán ký kết các hiệp định song phương với các quốc gia khác để hỗ trợ mọi người dân của chúng ta thực hiện tốt nhất quyền con người của họ trong lĩnh vực này.
4.4. Đối với việc thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến lĩnh vực chứng thực và lý lịch tư pháp
Hai lĩnh vực chứng thực và lý lịch tư pháp là hai lĩnh vực không được nhắc đến nhiều trong các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam tham gia vì thế mà không đề cập đến việc rà soát, xử lý vi phạm về thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người trong hai lĩnh vực này.
IV. KIẾN NGHỊ
Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của việc thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế về Quyền con người mà nước ta đã tham gia, đồng thời góp phần vào các nỗ lực chung nhằm nâng cao uy tín và hình ảnh của đất nước trên trường quốc tế, Chính phủ ta cần có chính sách, biện pháp khắc phục các điểm tồn tại để chúng ta có thể thực hiện tốt nghĩa vụ này trong những năm tới. Qua nghiên cứu, đánh giá các mặt được và chưa được trong công tác này trong thời gian qua, sơ bộ có thể thấy chúng ta cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau nhằm thực hiện tốt hơn các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên nói chung và trong lĩnh vực hành chính và tư pháp nói riêng. Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình giám sát và theo dõi thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại một số điểm hạn chế cần có giải pháp khắc phục kịp thời nhằm bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế, qua đó không ngừng bảo vệ và thúc đẩy hơn nữa các quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp.
1. Kiến nghị về giám sát và theo dõi việc thực thi các cam kết quốc tế về Quyền con người
1.1. Về cơ quan chịu trách nhiệm giám sát và theo dõi
Như phần trên đã phân tích, tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước, tùy thuộc vào chức năng nhiệm vụ được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật, đều tham gia vào quá trình giám sát, theo dõi thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người, trong đó có các điều ước quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính, tư pháp. Về cơ bản tổ chức và hoạt động của những cơ quan này đáp ứng được yêu cầu của việc giám sát, theo dõi thực hiện nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế. Tuy nhiên, hoạt động của các cơ quan này còn bộc lộ một số bất cập. Để khắc phục những hạn chế nêu trên, phù hợp với xu thế chung của thế giới, thực hiện khuyến nghị theo nguyên tắc Pari, hướng tới việc hoàn thiện cơ chế thực hiện và giám sát thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người, trong đó có quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp, qua đó bảo đảm và thúc đẩy hơn nữa quyền con người, quyền công dân, Việt Nam cũng cần nghiên cứu khả năng thành lập cơ quan Quyền con người quốc gia. Một trong những mô hình mà Việt Nam nên xem xét đó là Thanh tra Quốc hội. Mô hình này khá phù hợp với cấu trúc bộ máy nhà nước cũng như những điều kiện đặc thù về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của Việt Nam.
Việc thành lập cơ quan Quyền con người quốc gia của Việt Nam là rất cần thiết nhưng cũng cần phải có bước đi và lộ trình thích hợp. Trước khi cơ quan này được thành lập, giải pháp trước mắt hiện nay của Việt Nam là sắp xếp tổ chức lại Ban Chỉ đạo quốc gia về Quyền con người của Chính phủ, Văn phòng thường trực và Ban chỉ đạo về Quyền con người của các địa phương nhằm giúp các cơ quan này đủ sức chủ trì, chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn các bộ, ban, ngành Trung ương và địa phương thực hiện cam kết quốc tế về quyền con người.
Bên cạnh giải pháp nghiên cứu thành lập cơ quan Quyền con người quốc gia, Việt Nam cũng cần chấn chỉnh tổ chức, bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống các cơ quan trong bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, đảm bảo sự điều hành tập trung thống nhất, có hiệu quả từ chính quyền trung ương đến địa phương. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan; tăng cường sự phối kết hợp giữa các bộ, ngành, giữa cơ quan trung ương và chính quyền địa phương trong việc giám sát và theo dõi thực hiện nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp mà Việt Nam tham gia. Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước vừa có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, giác ngộ về chính trị, có tinh thần trách nhiệm cao, có đạo đức, tôn trọng quyền con người, quyền công dân.
1.2. Về nội dung và biện pháp giám sát, theo dõi
Nội dung và biện pháp giám sát, theo dõi việc thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp có một số hạn chế như: Hoạt động giám sát, theo dõi việc thực hiện cam kết quốc tế về quyền con người nói chung, quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp nói riêng chưa được tiến hành một cách thường xuyên; nhận thức về nghĩa vụ thực hiện và giám sát thực hiện cam kết quốc tế về quyền con người của cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức nhà nước còn chưa cao;... Để khắc phục những hạn chế trên, trong thời gian tới cần quan tâm đến một số giải pháp sau:
- Triển khai công tác đánh giá, tổng kết việc giám sát, theo dõi thực hiện cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp của Việt Nam.
- Tăng cường giám sát, theo dõi hoạt động thực hiện cam kết quốc tế về quyền con người, trong đó cần kết hợp chặt chẽ bốn hình thức giám sát, theo dõi: giám sát, theo dõi của tổ chức Đảng; giám sát, theo dõi của Nhà nước; giám sát, theo dõi của các tổ chức xã hội và giám sát, theo dõi của nhân dân; đồng thời nâng cao chất lượng giám sát của Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp. Tuy nhiên cũng cần lưu tâm tới việc hạn chế sự chồng chéo và tăng cường hiệu quả giám sát, theo dõi thực hiện cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp
- Ngoài công tác dịch chính thức cam kết quốc tế, trong thời gian tới, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình… cần sử dụng đồng bộ và linh hoạt các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giải thích và giáo dục pháp luật về quyền con người cũng như nội dung các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
- Quan tâm tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học quốc gia và quốc tế, dành cho nhiều đối tượng khác nhau nhằm nâng cao nhận thức chung của toàn xã hội trong việc bảo vệ, thúc đẩy quyền cơ bản của con người; đồng thời thông qua các hội nghị hội thảo, Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm của các quốc gia trong việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát, theo dõi thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người tại các quốc gia đó.
- Bên cạnh nghiên cứu, tìm hiểu nội dung các cam kết quốc tế về quyền con người, cần quan tâm hơn nữa tới việc nghiên cứu nội dung các khuyến nghị, bình luận của các thiết chế Quyền con người quốc tế đối với một số vấn đề pháp lý cũng như thực tiễn triển khai thực hiện nghĩa vụ thành viên.
Trong giai đoạn hiện nay, việc hoàn thiện cơ chế giám sát, theo dõi thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp tại Việt Nam là yêu cầu không dễ dàng để có thể thực hiện một sớm một chiều. Mặc dù vậy, chúng ta phải luôn xác định rằng hoàn thiện cơ chế giám sát, theo dõi thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp, trước mắt là đáp ứng yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thành viên cam kết quốc tế về quyền con người của Việt Nam, lâu dài đây là một hoạt động quan trọng để bảo đảm và thúc đẩy quyền cơ bản của con người hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Theo đó, đề ra hệ những kiến nghị nhằm thực thi các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp do Bộ Tư pháp quản lý.
2. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Trên cơ sở đã có văn kiện pháp lý cơ bản của đất nước là Hiến pháp 2013, trong đó khẳng định các quyền con người ở Việt Nam, chúng ta đã có cơ sở vững chắc để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp. Quá trình này cần được thực hiện ở một số mặt cơ bản như sau:
- Cần tiếp tục nghiên cứu việc gia nhập các công ước quốc tế cũng như ký kết các thỏa thuận quốc tế khác về quyền con người trong lĩnh vực tư pháp. Hiện nay nhìn chung chúng ta đã gia nhập các công ước về quyền, nhưng các cơ chế thực hiện quyền đôi khi vẫn còn bỏ ngỏ.
- Cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật Việt Nam trên cơ sở các cam kết quốc tế đã ký kết, gia nhập hoặc sẽ ký kết, gia nhập trong tương lai gần. Cụ thể là chúng ta nên cân nhắc việc sớm ban hành Luật chứng thực, hoàn thiện các quy định trong Luật Quốc tịch, Luật nuôi con nuôi, Luật lý lịch tư pháp; đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Luật hộ tịch.
- Việc hoàn thiện pháp luật không chỉ hướng tới việc quy định các quyền mà còn cần bổ sung quy định cụ thể, chi tiết hơn về các cơ chế thực hiện quyền theo hướng đơn giản, thuận tiện cho người có quyền, đảm bảo tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, tránh trường hợp trình tự thủ tục lại chính là rào cản lớn nhất đối với việc thực hiện các quyền.
- Cần đẩy mạnh viêc tuyên truyền, phổ biến các nghĩa vụ của Việt Nam trong các cam kết quốc tế, đặc biệt các nghĩa vụ liên quan tới lĩnh vực hành chính tư pháp.
- Việt Nam cần phát huy hơn nữa tinh thần chủ động, tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn về quyền con người nói chung; tăng cường phối hợp, tham vấn nhằm bảo đảm sự hiệu quả trong việc thực thi công ước và các khuyến nghị rà soát định kỳ phổ quát, quan tâm hơn về tiến độ, chất lượng báo cáo quốc gia, xem xét tính khả thi và cần thiết của việc xây dựng một ngân hàng dữ liệu, tổng hợp và cập nhật tình hình các quyền con người; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng lực lượng cán bộ công tác trong lĩnh vực quyền con người cần được chú trọng, trong đó có việc tìm kiếm, hỗ trợ ứng cử viên Việt Nam có đủ điều kiện tham gia các ủy ban công ước.
Về cơ chế bảo đảm thực thi quyền con người cần:
-
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đặc biệt là pháp luật về quốc tịch, hộ tịch, chứng thực, nuôi con nuôi, lý lịch tư pháp.
-
Thiết lập cơ chế quốc gia bảo vệ quyền con người.
-
Cải cách các thủ tục liên quan hộ tịch, nuôi con nuôi, lý lịch tư pháp.
-
Tăng cường giám sát, thay đổi nhận thức cán bộ làm công tác tư pháp - hộ tịch tại địa phương.
-
Tăng cường công tác lãnh đạo cán bộ.
-
Nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ công chức liên quan.
-
Tăng cường năng lực cho cán bộ không nhất thiết phải tăng cường biên chế mà có thể sử dụng cán bộ hợp đồng đối với lĩnh vực lý lịch tư pháp trong giai đoạn đầu, đối với số cán bộ làm việc sẵn có cần phải tăng cường năng lực để giải quyết công việc.
3. Kiến nghị đối với từng lĩnh vực Hành chính tư pháp cụ thể do Bộ Tư pháp quản lý
3.1. Đối với cơ chế liên quan tới quyền con người về quốc tịch
- Thực hiện thống kê tốt hơn đối với các trường hợp nhập, từ bỏ, thay đổi quốc tịch để có các theo dõi và báo cáo cần thiết.
- Kiểm soát tốt hơn đối với các biến động về quốc tịch ở khu vực biên giới, vấn đề quốc tịch của những người di cư tự do, của những người nhập quốc tịch Việt Nam.
- Đơn giản hóa thủ tục về quốc tịch đối với những người gốc Việt Nam sống ở nước ngoài. Cân nhắc việc quy định các quyền và nghĩa vụ tương ứng đối với nhóm đối tượng này.
3.2. Đối với cơ chế liên quan tới quyền con người về hộ tịch
Cần có một cách nhìn nhận và thực hiện thống nhất để đảm bảo quá trình quản lý hộ tịch được thực hiện nhanh chóng, thống nhất và hiệu quả. Trong số các lĩnh vực hành chính tư pháp, vấn đề hộ tịch, cũng như lý lịch tư pháp, không hoàn toàn thuộc thẩm quyền của Bộ Tư pháp hay các cơ quan tư pháp địa phương. Do đó, vấn đề sẽ cần giải pháp tổng thể và đồng bộ hơn so với trường hợp quốc tịch, nuôi con nuôi và chứng thực. Cụ thể là, cần có sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp, Bộ Công an và các cơ quan chính quyền địa phương trong việc triển khai thực hiện quản lý hộ tịch theo cơ chế mới để giảm gánh nặng hành chính này.
3.3. Đối với cơ chế liên quan tới quyền con người về nuôi con nuôi
- Thực hiện một số hoạt động xã hội hóa công tác nuôi con nuôi, chẳng hạn đối với việc phổ biến pháp luật trong lĩnh vực này, trong kiểm tra hay thẩm định, đánh giá điều kiện tiếp nhận con nuôi.
- Cần cân nhắc việc xã hội hóa, chuẩn hóa và từng bước chuyên ghiệp hóa các hoạt động giới thiệu trung gian, môi giới đối với cho và nhận con nuôi, đảm bảo các hoạt động này được thực hiện vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
- Hoàn thiện chế độ báo cáo định kỳ đối với tình trạng của trẻ em được nhận làm con nuôi, dù đó là trong nước hay ngoài nước. Đây cũng là yêu cầu chung của Công ước La Hay đối với vấn đề nuôi con nuôi.
- Xây dựng nội dung chuẩn hóa của phần báo cáo về vấn đề nuôi con nuôi, vấn đề quyền trẻ em trong báo cáo UPR quốc gia.
3.4. Đối với cơ chế liên quan tới quyền con người về chứng thực
Cần có quy định bổ sung trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan về việc đối tượng nộp hồ sơ, giấy tờ phải tự chịu trách nhiệm về tính xác thực của nội dung các văn bản, giấy tờ mà mình xuất trình.
3.5. Đối với cơ chế liên quan tới quyền con người về lý lịch tư pháp
- Cần phát triển hoạt động lý lịch tư pháp theo hướng là công cụ bổ trợ cho giai đoạn tố tụng, đặc biệt là với công tác xét xử. Phiếu lý lịch tư pháp cần được xác định là căn cứ quan trọng, không thể thiếu để Toà án xem xét nhân thân của bị cáo, là nguồn thông tin chính thức để Tòa án xem xét các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ đối với bị cáo trong quá trình giải quyết các vụ án cụ thể.
- Cần cân nhắc và xem xét về nội dung của Phiếu lý lịch tư pháp số 2 và đối tượng được quyền tiếp cận loại Phiếu lý lịch tư pháp này. Quy định hiện nay của Luật Lý lịch tư pháp về việc ghi cả những án tích đã được xóa vào Phiếu lý lịch tư pháp số 2 sẽ tạo bất lợi cho cá nhân, ngay cả trong quá trình truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Khi Kiểm sát viên và Thẩm phán xét xử vụ án biết được cả những án tích đã được xóa của bị can, bị cáo thì có thể sẽ thiếu khách quan trong giải quyết vụ án. Đồng thời, cũng cần có quy định nhằm hạn chế các cơ quan, tổ chức lợi dụng quy định yêu cầu cá nhân phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 khi bổ túc hồ sơ nhập cảnh hoặc du lịch, định cư ở nước ngoài, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của cá nhân.
- Về vấn đề ghi nhận người bị kết án đủ điều kiện được đương nhiên xóa án tích cần nghiên cứu, sửa đổi quy định này theo hướng, sau khi cá nhân chấp hành xong bản án và đã có đủ điều kiện về mặt thời gian để đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự, cơ quan quản lý lý lịch tư pháp có nhiệm vụ thông báo cho Toà án xét xử sơ thẩm vụ án thông tin về việc người bị kết án đã có đủ điều kiện về mặt thời gian để đương nhiên được xóa án tích. Trên cơ sở ý kiến nhất trí của Tòa án, cơ quan quản lý lý lịch tư pháp sẽ ghi nhận việc người bị kết án đã đủ điều kiện được đương nhiên xoá án tích vào Lý lịch tư pháp của người đó. Đồng thời, khi có yêu cầu, cơ quan quản lý lý lịch tư pháp sẽ cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho người đó, trong đó sẽ ghi là “không có án tích”.
3.6. Về lý lịch tư pháp của người chưa thành niên
Mặc dù chính sách, pháp luật với người chưa thành niên đang từng bước được hoàn thiện, nhưng phải nói rằng, hệ thống tư pháp đối với người chưa thành niên vẫn còn nhiều bất cập trong việc bảo đảm các quyền trẻ em, thiếu các quy định cụ thể liên quan đến trình tự, thủ tục tố tụng đặc biệt dành cho các vụ việc liên quan tới người chưa thành niên cũng như vấn đề tái hòa nhập cộng đồng của người chưa thành niên phạm tội. Hiện nay, pháp luật về lý lịch tư pháp của Việt Nam cũng chưa có quy định riêng về lý lịch tư pháp của người chưa thành niên mà vẫn được quản lý chung như các đối tượng khác. Vì vậy, vấn đề này cần được xem xét, bổ sung trong quá trình nghiên cứu, sửa đổi Luật Lý lịch tư pháp.
3.7. Đối với cơ chế phối hợp xây dựng báo cáo UPR
Hiện nay, việc xây dựng Báo cáo UPR là một nghĩa vụ quốc gia quan trọng trong lĩnh vực quyền con người. Để làm tốt hơn nghĩa vụ này, cơ chế tổ chức thực hiện cũng cần phải được hoàn thiện, cụ thể:
- Xác định và thống nhất quy trình soạn thảo và bảo vệ báo cáo.
- Phân công cụ thể cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp thực hiện soạn thảo và bảo vệ báo cáo.
- Quán triệt mục đích và ý nghĩa của công tác soạn thảo và bảo vệ các báo cáo quốc gia thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người.
- Nghiên cứu khả năng xây dựng các Trung tâm Ngân hàng dữ liệu về pháp luật và thực tiễn thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người.
[1] Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 38.
[2] Việt Nam phê chuẩn Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế ngày 18 tháng 7 năm 2011.
[3]Nguồn http://treaties.un.org/Pages/Treaties.aspx?id=4&subid=A&lang=en(United Nations Treaty Collection – Chapter IV: Human Rights)
[4]Nguyên tắc Pari được đưa ra tại Hội thảo quốc tế tổ chức tại Pari từ ngày 7- 9/10/1991 sau đó được Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc thông qua theo Nghị quyết 1992/54 và Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua theo Nghị quyết 48/134 ngày 4/3/1994.
[5] Nguồn: http://www2.ohchr.org/english/law/parisprinciples.htm (Principles relating to the Status of National Institutions - The Paris Principles)
[6] Nguồn: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2010), Quyền con người: Tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.72.
[7]Theo các quyết định: Quyết định 3139/QĐ-BTP ngày 20/11/2014 quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Cục con nuôi, Quyết định 204/QĐ-BTP ngày 22/01/2014 quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, cơ cấu tổ chức củaVụ Pháp luật quốc tế và Quyết định 1491/QĐ-BTP ngày 18/6/2013của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quốc tịch, hộ tịch, chứng thực, Quyết định số 97/QĐ-BTP ngày 26/01/2011 quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia
[8] Các điều ước song phương thường có cơ quan đầu mối để thực hiện, ví dụ: các hiệp định song phương về nuôi con nuôi, hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự là Bộ Tư pháp; các hiệp định phòng chống tội phạm là Bộ Công an.
[9] Th.s Mai Phan Dũng, Phó Vụ trưởng Vụ Các Tổ chức quốc tế - Hợp tác quốc tế trên lĩnh vực đảm bảo và thúc đẩy quyền con người.
[10]Việt Nam lần đầu tiên thực hiện Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát vào tháng 5-2009, chấp nhận 96/123 khuyến nghị. Tại phiên Rà soát định kỳ phổ quát lần thứ hai vào tháng 02-2014, Việt Nam chấp nhận 182/227 khuyến nghị. Việt Nam có thái độ tích cực, nghiêm túc trong việc chuẩn bị báo cáo, tham gia đối thoại, và tỷ lệ chấp nhận các khuyến nghị như vậy là ở mức cao