Trang chủ > Đề
tài >
Nguyên tắc: khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Tên đề tài
|
Nguyên tắc: khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
|
Nội dung tóm tắt
|
|
Nội dung toàn văn
|
CHƯƠNG I
CƠ SỞ CỦA NGUYÊN TẮC: “KHI XÉT XỬ, THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT”
-
TOÀ ÁN ĐỘC LẬP XÉT XỬ VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT
1.1. Vị trí, vai trò của Toà án
Lịch sử tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cho thấy phạm vi thực hiện quyền lực nhà nước được thể hiện ở ba loại quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Nội dung cơ bản của quyền tư pháp là hoạt động xét xử do Toà án thực hiện.
Tính tất yếu của việc thực hiện chức năng xét xử của Toà án đã được thể hiện ngay từ thời kỳ cổ Hy Lạp, La Mã với quan niệm rằng: ở đâu có pháp luật, thì ở đó phải có một hệ thống bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh. Sự bảo đảm đó chính là cơ quan trong bộ máy nhà nước có chức năng xét xử - Toà án. Tuy nhiên, ở mỗi kiểu Nhà nước với chế độ chính trị khác nhau, bộ máy Nhà nước được tổ chức khác nhau thì vị trí, vai trò của Toà án cũng có khác nhau.
Ở chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến, hình thức Nhà nước chủ yếu là quân chủ, hoạt động xét xử cũng như các hoạt động lập pháp và hành pháp đều tập trung vào giai cấp chủ nô và phong kiến mà đại diện là nhà Vua. Chính vì vậy, nhà Vua là người có quyền lực cao nhất trong việc trị vì đất nước, nhà Vua là người đưa ra các đạo luật và cũng là người có quyền xét xử cao nhất. Chính vì sự tập trung quyền lực vào nhà Vua như vậy nên có thể nói hoạt động xét xử và thiết chế Toà án ở giai đoạn này chưa được thể hiện rõ nét vị trí, vai trò độc lập của mình trong hoạt động của bộ máy nhà nước.
Vào thế kỷ 17 và 18, sự phát triển mạnh mẽ của giai cấp tư sản, đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại và xu hướng chính trị tiến bộ đã dẫn đến những quan điểm phải có cơ chế để hạn chế quyền lực vô hạn của nhà Vua và tiến đến xóa bỏ Nhà nước phong kiến đã lỗi thời. Các học giả tư sản đưa ra quan điểm về sự phân định các hoạt động ban hành pháp luật, hoạt động thực hiện các văn bản pháp luật và hoạt động xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và trên cơ sở đó chia quyền lực Nhà nước ra thành các loại quyền khác nhau. Tiêu biểu cho các học giả tư sản thời kỳ này là Montesquieu với tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp và những quyền này có sự độc lập và chế ước lẫn nhau. Tư tưỏng phân chia quyền lực của Montesquieu sau này đã được phát triển thành thuyết “Tam quyền phân lập” và áp dụng nhiều trong tổ chức quyền lực nhà nước ở các nhà nước tư sản.
Theo quan điểm của Montesquieu thì: Khi quyền lập pháp được sát nhập với quyền hành pháp và tập trung trong tay một người hay một tập đoàn, thì sẽ không có tự do được, bởi vì người ta có thể sợ rằng chính nhà vua hay nghị viện ấy sẽ làm những đạo luật độc đoán để thi hành một cách độc đoán; nếu quyền xét xử được nhập vào quyền hành pháp thì Thẩm phán sẽ trở thành những kẻ áp bức[1]. Montesquieu cũng nhấn mạnh rằng: “Mọi thứ sẽ bị biến mất cả nếu chính một người, hay chính một tập đoàn các thân hào hay các quý tộc hay bình dân hành sự cả ba quyền: quyền làm luật, quyền thi hành các quyết nghị chung và quyền xét xử các tội phạm hay các vụ tranh chấp giữa các tư nhân”[2]..
Theo quan điểm của Montesquieu thì để đảm bảo tính pháp quyền trong hoạt động của bộ máy nhà nước, Toà án phải được tổ chức độc lập, tham gia vào cơ chế đối trọng và chế ước, kiểm soát lẫn nhau trong mối quan hệ với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp và hành pháp. Nếu Toà án không được tổ chức độc lập thì sẽ trở thành nguy cơ cho quốc gia và quyền tự do của công dân. Một bộ máy Nhà nước, một cơ quan cầm quyền, vừa là kẻ thi hành luật, vừa cho mình là kẻ lập pháp. Họ có thể tàn phá quốc gia bằng những ý chí chung sai lầm của họ; họ còn nắm cả quyền xét xử nữa thì họ có thể đè nát mỗi công dân theo ý muốn của họ[3].
Như vậy, theo quan điểm của giai cấp tư sản và thực tế tổ chức thực hiện quyền lực trong các nhà nước tư sản thì Toà án là cơ quan bảo vệ pháp luật quan trọng nhất, đảm bảo công lý và khách quan trong việc giải quyết các tranh chấp trong đời sống xã hội. Đối tượng xét xử của Toà án không chỉ là hành vi của con người, của công dân mà còn cả hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy tính độc lập của Toà án trong Nhà nước tư sản còn phụ thuộc rất nhiều vào chính thể (Ví dụ: ở chính thể Cộng hòa đại nghị thì quyền lực tư pháp có vị thế yếu hơn. Bởi vì, ở chính thể cộng hoà đại nghị, nghị viện do cử tri bầu ra và đảng nào chiếm đa số ghế sẽ cử đại diện giữ chức Thủ tướng và thành lập chính phủ và vì vậy cơ quan hành pháp là cơ quan thực quyền hơn). Ngoài ra, khi so sánh bản chất giữa ba nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp và tư pháp) trong bộ máy Nhà nước tư sản chúng ta có thể thấy rằng: nhánh quyền lập pháp không những có quyền quy định cho mình khả năng kiểm soát tài chính, mà còn có quyền quy định ra các luật lệ chi phối sinh hoạt của công dân. Quyền hành pháp không chỉ có quyền ra các mệnh lệnh hành chính trực tiếp điều hành các quan hệ xã hội, mà còn được quyền chi phối tài sản lẫn sức mạnh của xã hội, quyền được sử dụng vũ lực để bảo đảm quyền lực Nhà nước. Ngược lại, quyền tư pháp không có quyền nắm giữ và sử dụng các cơ quan cưỡng chế, không nắm và kiểm soát tài chính, cũng không có quyền chi phối tài sản lẫn sức mạnh xã hội. Khi nghiên cứu về bản chất của quyền tư pháp, một học giả tư sản là A.Hamiton đã viết: “Có thể nói rằng ngành tư pháp vừa không có lực lượng, lại vừa không có ý chí mà chỉ có trí phán đoán mà thôi, và cần dựa vào trợ tá của ngành hành pháp mới có thể thi hành quyết định trí phán đoán của mình”[4]. Nhưng ở chính thể Cộng hòa tổng thống thì quyền tư pháp .có khả năng bền vững hơn, vì ở chính thể này sự phân định giữa quyền lập pháp và hành pháp rõ ràng hon; trong đó Nghị viện và Tổng thống (thể hiện sự độc lập của mình thông qua việc bầu cử trực tiếp của cử tri và đại cử tri đối với hai cơ quan này), đồng thời hai cơ quan này cũng có sự chi phối nhánh quyền lực thứ ba đó là quyền tư pháp, chính sự cùng chi phối của hai cơ quan tương đối độc lập, khiến cho quyền lực tư pháp không lệ thuộc vào cơ quan duy nhất nào, đảm bảo cho cơ quan tư pháp độc lập. Bên cạnh đó, đổi tượng và phạm vi hoạt động của quyền tư pháp cũng có sự thay đổi theo thời gian và sự phát triển của nền dân chủ tư sản. Lúc đầu đối tượng xét xử của Toà án chỉ là “dân đen” vì theo họ chỉ có thần dân mới vi phạm pháp luật của giai cấp tư sản, còn pháp luật là lợi ích là ý chí của công cụ của giai cấp tư sản. Ngược lại, những kẻ “áo dài, mũ cao” thì hoạt động của họ là những hoạt động mẫu mực không bao giờ có vi phạm pháp luật (đây là những lý do giải thích những quyền miễn trừ tư pháp của các quan lại cao cấp). Nhưng cùng với sự phát triển của nền dân chủ tư sản thì các quan chức cũng phải chịu trách nhiệm về nhũng hoạt động vi phạm pháp luật của mình và cũng là đối tượng xét xử của Toà án. Tương tự như vậy, trong nhà nước tư sản, ban đầu phạm vi xét xử của Toà án là các vi phạm pháp luật chiếu theo các đạo luật, nhưng thường về sau thì phạm vi xét xử của Toà án được mở rộng cả đối với các vi phạm Hiến pháp, về vấn đề này, ở Mỹ, David Cusman Coyle cho rằng trong buổi ban đầu của nền cộng hòa, Toà án không phải trực tiếp đương đầu với vấn đề phải làm gì khi chính quyền vi phạm Hiến pháp, Hiến pháp đã được chấp thuận như “luật pháp tối thượng của đất nước”. Tuy nhiên, vì những lợi ích của các tập đoàn và các động cơ khác nhau nên ngày càng có nhiều hoạt động vi phạm Hiến pháp và cần có nhu cầu phán quyết của Toà án, vì vậy Toà án Hiến pháp ra đòi bên cạnh các Toà án thường. Đồng thời, cùng với sự phát triển của xã hội ngày càng xuất hiện nhiều quan hệ kinh tế, thương mại, điền địa và những quan hệ xã hội khác mà Nhà nước cần can thiệp, do đó ngoài Toà án về tư pháp hình sự thì các Toà án với chức năng xét xử các tranh chấp dân sự, kinh tế, thương mại, hành chính đã ra đời. Chính vì vậy, có thể nói, trong nhà nước tư sản, Toà án không chỉ là một bộ phận của bộ máy Nhà nước để xét xử các hành vi là tội phạm, bảo vệ giai cấp thống trị mà nó còn là sự nối dài cánh tay Nhà nước để can thiệp vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại, hành chính....
Như vậy, lịch sử phát triển về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cho thấy rằng xét xử là một trong những phương thức thực hiện quyền lực nhà nước và Toà án chính là cơ quan thực hiện chức năng xét xử, một thiết chế đảm bảo công lý, sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong đời sống xã hội.
Ở nước ta, Toà án luôn giữ vai trò trung tâm trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Điều này thể hiện cả trong các nghị quyết của Đảng, lịch sử phát triển của pháp luật nước ta và trong thực tiễn hoạt động tư pháp.
Ngay sau khi giành được chính quyền, Nhà nước dân chủ nhân dân đã bắt tay vào việc kiện toàn bộ máy nhà nước và ban hành pháp luật để thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng, trong đó Toà án là một trong những cơ quan nhà nước được hình thành sớm nhất. Trước khi Quốc hội thông qua bản Hiến pháp đầu tiên ngày 09/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nhiều sắc lệnh như Sắc lệnh số 33c ngày 13/9/1945, Sắc lệnh số 13 ngày 21/1/1946, Sắc lệnh số 21 ngày 24/1/1946... thành lập hệ thống tổ chức Toà án ở nước ta. Trong giai đoạn đầu tiên này, cơ quan Toà án được đánh đồng với cơ quan tư pháp, cụ thể là tại Điều 63 Hiến pháp 1946 quy định: “Các cơ quan tư pháp của nước Việt nam dân chủ cộng hoà gồm có: a) Toà án nhân dân tối cao; b) Các Toà phúc thẩm; c) Các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp”. Trong quá trình củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước ta sau đó, mặc dù có rất nhiều cơ quan được bổ sung vào hệ thống cơ quan tư pháp nhưng Toà án vẫn là cơ quan chiếm vai trò trọng tâm, luôn được khẳng định là cơ quan xét xử của Nhà nước ta. Tiếp đó, Hiến pháp 1992 vẫn tiếp tục khẳng định:
“Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”[5].
Nhìn lại thực tiễn hoạt động tư pháp, chúng ta thấy rằng, xét xử luôn được coi là khâu trung tâm, là nơi biểu hiện tập trung nhất quyền tư pháp, thể hiện đầy đủ nhất bản chất của hoạt động tư pháp. Bằng các thủ tục tố tụng dân chủ, chặt chẽ do pháp luật quy định, thông qua xét xử, các Toà án xem xét, đánh giá công khai các tình tiết vụ án trên cơ sở kết quả điều tra ở các giai đoạn tố tụng trước đó để ra phán quyết mang tính quyền lực nhà nước. Mặc dù để có được phán quyết cuối cùng bằng bản án hay quyết định thì bao giờ Toà án cũng cần có sự phối hợp, trợ giúp của các cơ quan khác như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Giám định tư pháp, Công chứng... Tuy nhiên, với tư cách là cơ quan có quyền phán quyết cuối cùng, tất cả các kết quả của các cơ quan nói trên không phải là căn cứ bắt buộc Toà án phải tuần theo khi xét xử, Toà án có thể trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, yêu cầu giám định lại hoặc giám định bổ sung... Ngay trong lĩnh vực pháp luật tố tụng hình sự, xuất phát từ nguyên tắc suy đoán vô tội, chỉ Toà án mới có quyền phán quyết một người là có tội và cũng chỉ có Toà án mới có quyền quyết định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội.
Như vậy, Toà án là cơ quan thay mặt Nhà nước xử lý các vi phạm pháp luật nhằm duy trì nền công lý, bảo đảm cho pháp luật đã ban hành được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Toà án cũng là phương tiện hữu hiệu để tổ chức, công dân bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hơn ở đâu hết, hoạt động của Toà, án liên quan trực tiếp đến các quyền tự do, dân chủ của công dân, Toà án là biểu tượng của công lý, của việc tuân thủ pháp luật, của tính dân chủ trong Nhà nước pháp quyền.
1.2. Khải niệm, ý nghĩa và các bảo đảm thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Toà án
Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản khoa học xã hội năm 1994 thì độc lập là “tự mình tồn tại hoạt động, không nương tựa hoặc phụ thuộc vào ai và cái gì khác”, còn xét xử là “xem xét và xử các vụ án”. Như vậy, độc lập xét xử có nghĩa là khi xét xử các vụ án, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải tự mình quyết định các vấn đề, kể cả ra bản án một cách độc lập dựa trên những chứng cứ khách quan, ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm của chính mình mà không bị sự chi phối, tác động, sức ép của bất cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào khác.
Nghiên cứu về vị trí, vai trò của Toà án cho thấy rằng sự độc lập trong hoạt động xét xử là điều kiện không thể thiếu để đảm bảo tốt nhất các quyền cơ bản của con người trong xã hội dân chủ. Sự độc lập trong hoạt động xét xử của Toà án được thể hiện ở việc đề cao vai trò độc lập của Thẩm phán, là điều kiện đảm bảo tính khách quan và công bằng của những phán quyết, tránh cho Thẩm phán bị ảnh hưởng, chi phối bởi những sức ép, áp lực từ các quan chức nhà nước, các Thẩm phán cấp trên; đồng thời sự độc lập này cũng đòi hỏi sự nỗ lực và ý thức trách nhiệm của Thẩm phán trước xã hội với tư cách là vai trò là những người đại diện cho công lý.
Kế thừa những giá trị tiến bộ của các học thuyết, tư tưởng về sự độc lập xét xử của Toà án trong lịch sử, Hiến pháp nước ta quy định “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án.
Theo nội dung nguyên tắc này, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải dựa trên cơ sở pháp luật, căn cứ vào các tình tiết cụ thể của vụ án; mọi cơ quan nhà nước hay tổ chức, cá nhân đều không có quyền can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử của Toà án. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thể hiện sự thống nhất biện chứng trong hoạt động xét xử. .
Thứ nhất, nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thể hiện độc lập với các yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong.
Độc lập với yếu tố bên ngoài đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải độc lập với những cơ quan, người tiến hành tố tụng (kiểm sát viên, điều tra viên, người bào chữa và các cơ quan, tổ chức khác); độc lập và không lệ thuộc vào ý kiến tác động của những người có chức vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước khác, của các phương tiện thông tin đại chúng hoặc những người thân thích tuy không có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà họ quan tâm đến việc xét xử vụ án. Ở góc độ này, hoạt động xét xử đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải tự mình xem xét đánh giá các tình tiết của vụ án, các chứng cứ đã được thẩm tra công khai tại phiên toà để đưa ra các phán quyết đúng pháp luật. Nếu xem xét nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ở phương diện thực hiện chức năng xét xử của Toà án với ý nghĩa là giai đoạn trung tâm của quá trình tố tụng thì toàn bộ các hoạt động trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố đối với các vụ án hình sự; thụ lý, lập hồ sơ đối với các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình; hành chính, kinh tế; lao động chỉ là cơ sở để Toà án quyết định có đua vụ án ra xét xử hay không và khi xét xử thì các tài liệu, chứng cứ đó là cơ sở để Hội đồng xét xử tiến hành thẩm tra công khai trước phiên toà và ra phán quyết cuối cùng. Vì vậy, sự độc lập của hội đồng xét xử (sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm) là điều kiện đảm bảo tính khách quan, công bằng của các bản án, quyết định liên quan trực tiếp đến tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và các quyền, nghĩa vụ khác của công dân. Sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trước hết phải độc lập với ý kiến, quan điểm của cơ quan điều tra thể hiện trong hồ sơ và bản kết luận điều tra; độc lập với quan điểm và ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thể hiện trong bản cáo trạng, trong luận tội và việc buộc tội hoặc bản kết luận của kiểm sát viên tại phiên toà. Tại phiên toà, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cũng không bị ràng buộc bởi các ý kiến của những người tham gia tố tụng khác như bị cáo, bị hại, nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng, người phiên dịch, giám định viên, người bào chữa, mặc dù là pháp luật quy định cho họ có những quyền và nghĩa vụ nhất định trong việc làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải căn cứ vào kết quả tranh luận và những chứng cứ tại phiên toà và đối chiếu với các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án.
Ngoài ra, trong hệ thống Toà án nhân dân, mối quan hệ cơ bản nhất giữa Toà án nhân dân các cấp là quan hệ tố tụng. Do đó, để đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thì cho dù Toà án cấp trên hướng dẫn Toà án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử nhưng không được quyết định trước về chủ trương xét xử trong một vụ án cụ thể, buộc Toà án cấp dưới phải tuân theo. Khi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, nếu Toà án cấp trên ra quyết định hủy bản án hoặc quyết định bị kháng cáo, kháng nghị để điều tra xét xử lại với thành phần hội đồng xét xử mới thì hội đồng xét xử mới đó vẫn có quyền xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Ngược lại, khi Toà án cấp trên thực hiện việc xét xử theo những trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm đối với các bản án, quyết định của Toà án cấp dưới thì chính Toà án cấp trên, hội đồng xét xử của Toà án cấp trên cũng không được lệ thuộc vào những kết luận, quyết định của Toà án cấp dưới mà phải tự mình đánh giá chứng cứ, xác định và áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp có những bản án, quyết định đúng pháp luật.
Độc lập với những yếu tố bên trong đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải độc lập với nhau trong suy nghĩ, trong việc xem xét, kiểm tra và đánh giá chứng cứ của vụ án và phán quyết trên cơ sở pháp luật. Các thành viên trong Hội đồng xét xử độc lập với nhau trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, loại và mức hình phạt cụ thể cần áp dụng trong các vụ án hình sự; độc lập trong việc quyết định tính đúng đắn và hợp pháp về quyền và nghĩa vụ của các bên trong các vụ án về dân sự, hôn nhân và gia đình; hành chính; kinh tế; lao động. Thẩm phán chủ tọa phiên toà không được dùng quyền lực và chức danh pháp lý của mình để đề nghị Hội thẩm nhân dân tuân theo ý kiến của mình khi quyết định các vấn đề cụ thể trong quá trình xét xử; ý kiến của Thẩm phán và Hội thẩm có giá trị ngang nhau và một Hội thẩm nhân dân hay Thẩm phán đều có quyền bảo lưu ý kiến của mình đối với từng vụ việc cụ thể. Như vậy, xét về mặt chủ quan để có thể độc lập trong xét xử, người Thẩm phán phải có một trình độ pháp lý vững vàng, một bản lĩnh dám đấu tranh vì công bằng, lẽ phải, một năng lực vận dụng pháp luật và niềm tin vào chính mình, đồng thời phải thực sự chí công vô tư, thanh liêm và đạo đức trong sáng, biết vượt lên cái riêng.
Tất cả những yêu cầu nêu trên đối với người Thẩm phán là những bảo đảm quan trọng để Thẩm phán được xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Thứ hai, sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải trên cơ sở pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải tuân thủ các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục tố tụng và áp dụng đúng đắn các quy định pháp luật để đảm bảo sự công bằng, quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể được pháp luật bảo vệ. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải thực sự đánh giá khách quan các chứng cứ theo quy định của pháp luật, độc lập trong việc lựa chọn các quy phạm pháp luật cần áp dụng để đưa ra các quyết định đúng đắn phù hợp sự thật khách quan của vụ việc.
Độc lập của Thẩm phán không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà độc lập trong khuôn khổ của pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không một bước xa rời pháp luật, không có bất kỳ một sự lẩn tránh nào đối với pháp luật, không tha thứ cho bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào. về vấn đề này Xixêron - một Luật sư và là nhà hùng biện nổi tiếng của La Mã cổ đại đã từng nói: “Quan tòa - đó là một đạo luật biết nói, còn đạo luật là một vị quan tòa câm”. A.F Konhi (luật gia Liên Xô trước đây) cũng đã từng nói: “đối với hoạt động tư pháp sẽ là một điều bất hạnh, khi trong bản án và quyết định phụ thuộc vào sự tùy tiện cá nhân”. Vì vậy, Thẩm phán khi quyết định vấn đề của vụ án không bao giờ được quyền nói rằng, “tôi không muốn làm như vậy” mà phải nói giống như Martin Lute (1483 - 1546) - người sáng lập ra trường phái đạo Tin lành ở Đức vào thế kỷ XVI từng nói: “Ich Kann nicht anders” tức là “Tôi không thể làm khác được” vì cảm xúc bên trong và lẽ phải của cuộc sống và đạo lý của pháp luật dứt khoát và không ngừng nhắc nhở tôi, thúc giục tôi quyết định cần phải đúng lương tâm của tôi, lương tâm của người Thẩm phán và của một con người bắt buộc tôi chống lại bất cứ một cái gì khác ngoài quyết định cần có[6].
Như vậy, để bảo đảm cho Thẩm phán “phụng công, thủ pháp” cần phải có hệ thống pháp luật (pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng) đầy đủ, đồng bộ và khả thi. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng bảo đảm cho Thẩm phán thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ xét xử của mình.
Duy trì sự độc lập của hoạt động xét xử là vấn đề cần thiết nhằm đạt được những mục tiêu của các quy định pháp luật và thực thi một cách có hiệu quả chức năng của Toà án. Sự độc lập này phải được Nhà nước đảm bảo và trân trọng ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật, do đó, bất cứ một hành động nào của cơ quan hành pháp hay lập pháp can thiệp vào cơ quan tư pháp (xét xử) cũng có thể bị khởi tố. Như Alexander Hamilton chỉ ra rằng sai phạm của chính phủ trong thực tế cũng có thể được đưa ra xét xử bởi một Toà án công bằng. Thiếu điều đó thì giói hạn của mọi quyền lợi đặc biệt hay những quyền ưu tiên sẽ không có giá trị. Độc lập tư pháp bảo đảm rằng các quan chức cũng phải tuân theo pháp luật, với việc xét xử độc lập không có ai ở phía trên hay ở bên dưới luật. Nếu không mọi người sẽ mất lòng tin vào pháp luật. Như nhật ký của Lord Acton ghi nhận rằng “quyền lực đi đối với tham nhũng và quyền lực hoàn toàn thì tất yếu phải gắn liền với tham nhũng hoàn toàn”. Để duy trì việc thực thi quyền lực một cách có hiệu quả, Thẩm phán phải không bị ảnh hưởng bởi sự can thiệp của những người có thẩm quyền thuyên chuyển hay bãi miễn họ vì những quyết định của họ. Vì vậy, độc lập tư pháp là cần thiết không phải cho Thẩm phán hay bộ máy tư pháp mà cho tất cả mọi người. Thẩm phán Stephen Breyer giải thích về tầm quan trọng của độc lập tư pháp và vai trò của Thẩm phán như sau: Sự thi hành công lý thực sự là trụ cột vững chắc nhất cho một Chính phủ tốt. Những mong muốn mà việc xét xử đúng mang lại cho một đất nước về sự ổn định và công bằng chỉ có thể đạt được nếu như các Thẩm phán ra bản án đúng theo các căn cứ pháp luật chứ không phải theo cảm tính hay theo đường lối của một thế lực chính trị nào. Độc lập tư pháp cung cấp khái niệm về tổ chức trong đó chúng ta có thể nghĩ đến sự phát triển của những đảm bảo có tổ chức cho phép các Thẩm phán thực hiện tốt vai trò quan trọng đó. Vai trò xã hội quan trọng của Thẩm phán trong việc bảo vệ quyền tự do và tạo ra một chính phủ ổn định phụ thuộc vào thế mạnh của độc lập tư pháp. Mặc dù sự trừng phạt đối với một cá nhân có thể diễn ra tại phiên xét xử nhưng quyền tự do của con người không thể bị xâm phạm với điều kiện là hệ thống tư pháp phải hoàn toàn độc lập với hệ thống hành pháp và lập pháp[7].
Từ những phân tích trên về nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” có thể thấy nguyên tắc này là nguyên tắc quan trọng và mang tính đặc thù nhất trong tổ chức và hoạt động của Toà án; là cơ sở để xây dựng tiêu chuẩn chung của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Đồng thời, nguyên tắc này còn được quán triệt trong hoạt động xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với tất cả các vụ án hình sự; dân sự, hôn nhân và gia đình; hành chính; kinh tế; lao động; phân biệt hoạt động xét xử của Toà án với hoạt động của các cơ quan khác như cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan thi hành án, Cơ quan thanh tra, trọng tài.
Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc hiến định, có ý nghĩa trung tâm của quá trình tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói riêng. Nguyên tắc này có ý nghĩa không chỉ đối với các cơ quan, cán bộ làm công tác pháp luật mà còn cần thiết đối với các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội và mọi công dân trong việc đảm bảo cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong quá trình xét xử không bị ràng buộc bởi bất cứ yếu tố nào ngoài pháp luật, đồng thời ngăn ngừa sự can thiệp từ bên ngoài vào hoạt động xét xử của Toà án; đảm bảo tính khách quan trong việc xét xử và tính thống nhất của pháp luật, đề cao trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong việc xem xét, đánh giá các chứng cứ, tình tiết của vụ án, xác định các quy phạm pháp luật cần áp dụng để ra các bản án, quyết định đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, nhà nước và xã hội.
Để nâng cao chất lượng công tác xét xử, nguyên tắc này còn có ý nghĩa là cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện các quy định về tổ chức và hoạt động của Toà án nói chung và những quy định về tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm Thẩm phán, bầu Hội thẩm nhân dân nói riêng cũng như tăng cường các điều kiện đảm bảo cho sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử, bởi vì, ở một khía cạnh nhất định, có thể nói độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử là một tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
1.3. Toà án độc lập xét xử và mối quan hệ với tổ chức Đảng và các cơ quan trong bộ máy nhà nước
-
Mối quan hệ với tổ chức Đảng:
Toà án là một cơ quan trong bộ máy nhà nước, chịu sự lãnh đạo của Đảng và có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan khác trong hệ thống chính trị. Do đó, khi nói Toà án độc lập xét xử thì sự độc lập đó chỉ có tính chất tương đối trong khi thực hiện nhiệm vụ xét xử chứ không phải độc lập là đứng một mình, không chịu sự lãnh đạo, kiểm tra, giám sát nào cũng như không có mối quan hệ phối hợp với cơ quan khác.
Trước hết, độc lập xét xử nhưng không được tách rời sự lãnh đạo của Đảng, Điều 4 Hiến pháp 1992 đã khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành với quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Toà án là một bộ phận trong bộ máy nhà nước tất nhiên phải chịu sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thông qua việc Đảng đề ra đường lối, chủ trương chính sách lớn cho sự phát triển của xã hội trên tất cả các lĩnh vực trong từng thời kỳ xây dựng đất nước để đảm bảo nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Một Nhà nước có bộ máy tinh gọn có hiệu lực, một đội ngũ viên chức Nhà nước có phẩm chất, năng lực và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, không quan liêu, cửa quyền, tham ô, hách dịch. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc Đảng đề ra tiêu chuẩn cán bộ, phát hiện, bồi dưỡng, lựa chọn ra những đảng viên ưu tú; những người ngoài đảng có phẩm chất, năng lực để giới thiệu với các cơ quan nhà nước để thông qua bầu cử mà lựa chọn và bố trí họ công tác trong các cơ quan nhà nước. Đảng luôn giáo dục đảng viên nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu, qua đó tập hợp quần chúng, giáo dục động viên họ tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, ủng hộ va tích cực thực hiện đường lối và chính sách của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật nhà nước. Đảng kiểm tra đảng viên và các tổ chức đảng trong cơ quan nhà nước về việc chấp hành và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng, đồng thời theo dõi hoạt động của các cơ quan nhà nước, phát hiện những lệch lạc, sai lầm để uốn nắn kịp thời. Đảng tiến hành tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm để không ngừng bổ sung và hoàn thiện đường lối chính sách trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Phương pháp lãnh đạo của Đảng là giáo dục, thuyết phục và bằng hành động gương mẫu, uy tín của Đảng viên. Đảng không dùng mệnh lệnh cưỡng bức hoặc gò ép, áp đặt. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng phải tự đổi mói, tự chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cho phù hợp với yêu cầu khách quan của cách mạng nước ta trong tình hình mới, Đảng phải khắc phục tình trạng bao biện, làm thay cơ quan nhà nước, can thiệp vào chức năng của cơ quan nhà nước, dùng phương pháp mệnh lệnh áp đặt đối với cơ quan nhà nước - khuyết điểm này vừa làm giảm sút uy tín của Đảng vừa làm kém hiệu lực của Nhà nước.
Bàn về vấn đề này, V.I. Lê Nin từng kịch liệt phản đối những hành vi can thiệp vào việc xét xử. Người viết: “Tôi đề nghị thông báo cho các tỉnh ủy biết rằng: Ban Chấp hành Trung ương sẽ khai trừ ra khỏi Đảng đối với những ai mưu toan can thiệp dù nhỏ nhất vào Toà án nhằm làm giảm nhẹ cho những Đảng viên Cộng sản”[8].
Chỉ thị số 29/CT-TW ngày 8/11/1993 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan pháp luật đã nêu rõ: “Đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật, sự lãnh đạo của Đảng cần được tăng cường nhằm một mặt củng cố các cơ quan bảo vệ pháp luật, mặt khác tạo điều kiện cho các cơ quan này phát huy được chức năng của mình, hoạt động theo đúng đường lối quan điểm của Đảng. Cần khắc phục những nhận thức và khuynh hướng sai lầm như: cấp ủy Đảng bao biện làm thay công việc nhà nước, tổ chức Đảng và đảng viên có những quyết định và việc làm tuỳ tiện trái với quy định của pháp luật; buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật, coi lãnh đạo của Đảng là sự can thiệp vào hoạt động của các cơ quan này, các cơ quan bảo vệ pháp luật ỷ lại, thụ động, không dám chịu trách nhiệm về công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình”. Chỉ thị số 29/CT-TW của Ban Bí thư cũng chỉ rõ các cấp ủy đảng cần. phải: “Tôn trọng chức năng, quyền hạn của các cơ quan bảo vệ pháp luật, tạo điều kiện cho các cơ quan đó phát huy vai trò và trách nhiệm, cấp ủy lãnh đạo và kiểm tra về đường lối, quan điểm, về định hướng chính trị, không trực tiếp làm công tác điều tra, không lập “ban chuyên án” của cấp ủy, không can thiệp vào việc định tội danh và mức án”.
Như vậy, đối với những vụ án quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội mà khi đưa ra xét xử có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện các chính sách đối ngoại, đối nội như chính sách tôn giáo, chính sách dân tộc, chính sách đại đoàn kết... thì cơ quan xét xử cần phải xin ý kiến chỉ đạo của cấp ủy đảng, cấp ủy đảng ngoài việc có ý kiến về đường lối, quan điểm xử lý đối với vụ án, còn có trách nhiệm chỉ đạo cho các ngành chức năng, các cơ quan thông tin đại chúng, các tổ chức đoàn thể làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn dư luận để bản án tuyên xử có tính thuyết phục và tạo được sự đồng tình của đại đa số quần chúng.
Về nguyên tắc, Đảng chỉ đạo đường lối xét xử, thể chế hoá quan điểm của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là nguyên tắc tối cao, là nhân tố có ý nghĩa quyết định cho mọi thắng lợi và đã được quy định trong hiến pháp. Do vậy, trước hết cần phê phán quan niệm cho rằng để Toà án được độc lập trong xét xử cần để cho Toà án “độc lập” với sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng cũng phê phán một tình trạng do nhận thức không đúng, không đầy đủ của một số cán bộ Toà án hoặc do trình độ non kém, sợ trách nhiệm nên nhất nhất đều “xin ý kiến”, “tranh thủ sự chỉ đạo” của các cấp ủy Đảng. Mặt khác, một số cá nhân lợi dụng vị trí lãnh đạo của mình can thiệp không đúng pháp luật vào việc xét xử của Toà án trong các vụ việc nhất định theo hướng có lợi cho mình hay những người thân quen, vì vậy đã hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và ảnh hưởng uy tín của Đảng.
Hiện nay để bảo đảm thực hiện đúng đường lối xét xử của Đảng, có một số vụ án phức tạp, nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến địa phương và xã hội nên cần tranh thủ xin ý kiến về đường lối xét xử của cấp ủy (như các bị cáo là người đứng đầu các tôn giáo, người có chức có quyền trong Đảng trong Nhà nước, hoặc hậu quả đặc biệt nghiêm trọng...); khi các cơ quan Công an, Kiểm sát, Toà án có ý kiến không thống nhất về nội dung, đánh giá tính chất hoặc đường lối xử lý vụ án. Tại Nghị quyết số 08-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương cũng khẳng định: “Đối với một số vụ án có ý nghĩa quan trọng về chính trị, ban cán sự Đảng các cơ quan tư pháp báo cáo xin ý kiến Bộ Chính trị”.
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn những trường hợp một số cán bộ có chức vụ trong Đảng, chính quyền vì những động cơ khác đã can thiệp vào việc xét xử các vụ việc cụ thể của Toà án. Điển hình là việc xét xử vụ án tham nhũng đât đai ở Đồ Sơn mà mức án cảnh cáo đối với ba bị cáo là không tương xứng với tính chất nghiêm trọng của vụ án và nguyên nhân là sự can thiệp từ hậu trường. Theo nội dung vụ việc này thì việc xét xử của Toà án đã có sự can thiệp của Thành ủy Hải Phòng. Trước khi vụ án được đưa ra xét xử, UBND TP Hải Phòng đã có hai văn bản (do Phó chủ tịch UBND TP Nguyễn Văn Thành ký) đề nghị các cơ quan tố tụng xem xét miễn xử lý hình sự đối với các cá nhân liên quan trong vụ án. Chính vì vậy, Thủ tướng đã kịp thời có chỉ đạo xem lại vụ việc này.
-
Mối quan hệ giữa Toà án với các cơ quan tiến hành hành tố tụng, người tham gia tố tụng:
-
Mối quan hệ giữa Toà án và cơ quan điều tra:
Cơ quan điều tra và Toà án là hai cơ quan trong hệ thống cơ quan tu pháp, thực hiện những nhiệm vụ riêng, nhưng giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Kết quả hoạt động của cơ quan điều tra trong việc thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm và người phạm tội không chỉ phục vụ trực tiếp cho Viện kiểm sát đưa ra quyết định truy tố, mà còn giúp cho Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử công khai trước tòa, đồng thời, thông qua hoạt động xét xử, Tòa án kiểm tra công khai kết quả hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra. Mặt khác, trong hoạt động xét xử, bản án, quyết định của Tòa án đưa ra không chỉ căn cứ vào hồ sơ của cơ quan điều tra đã thu thập được mà phải căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Điều tra là giai đoạn tiền tố tụng, có ý nghĩa, vai trò quan trọng trong việc phát hiện, thu thập chứng cứ, xử lý tội phạm nhanh chóng, kịp thời và có hiệu quả. Kết quả của hoạt động điều tra chuẩn xác, đúng người, đúng tội sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Mặc dù đây là hai giai đoạn độc lập với nhau, song nội hàm của hai giai đoạn này ấn chứa những mối quan hệ chặt chẽ, lôgíc khi giải quyết vụ án hình sự.
Với chức năng, thẩm quyền độc lập theo luật định nhưng trong suốt quá trình tố tụng hai cơ quan này lại hỗ trợ cho nhau rất nhiều. Nếu như kết quả của giai đoạn tiền tố tụng (giai đoạn điều tra) có những sai phạm, hòặc chưa đầy đủ, chính xác thì sẽ gây ra những trở ngại, khó khăn cho các giai đoạn tố tụng sau và ngược lại nếu như kết quả điều tra chuẩn xác sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc truy tố và xét xử vụ án công minh, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Ngoài giai đoạn xét xử Toà án vẫn phải tuân thủ cơ chế phối hợp để giải quyết vụ án có hiệu quả theo quy định của pháp luật, điều này được khẳng định rất rõ ràng và cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS). Theo quy định của Điều 250 BLTTHS thì: “Toà án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm để tiến hành tố tụng từ giai đoạn điền tra khi nhận thấy việc điền tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được… Khi hủy án để điều tra bổ sung lại hoặc xét xử lại, Toà án cấp phúc thẩm cần phải ghi rõ lý do của việc hủy án sơ thẩm...”. Tiếp đó, tại Điều 252 BLTTHS quy định “San khi Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại thì Cơ quan điều tra tiến hành điều tra lại,... và Toà án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án theo thủ tục chung”.
Toà án với chức năng là cơ quan xét xử không bị lệ thuộc vào kết luận điều tra, mà trong khi thực hiện việc xét xử nếu thấy kết luận điều tra không khớp với những tình tiết, diễn biến vụ án được thẩm vấn, đối chất tại phiên toà, thì Toà án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm để điều tra bổ sung hoặc điều tra lại theo quy định của pháp luật. Bản thân cơ quan điều tra, khi đặt vào mối quan hệ này với Toà án cũng có những xem xét, đánh giá lại kết quả điều tra của mình, hoàn thiện lại đầy đủ hồ sơ, chuẩn xác để sớm chuyển sang cho Toà án tiếp tục xét xử. Trên cơ sở các tình tiết, diễn biến vụ án và căn cứ vào các quy định của pháp luật Toà án nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra bản án, quyết định đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Như vậy, hoạt động của hai cơ quan này luôn là mắt xích nối liền và là hệ quả của quá trình tố tụng. Tuy nhiên, trong mắt xích nảy cơ quan trung gian làm cầu nối quan trọng là Viện kiểm sát, với chức năng thực hiện việc kiểm sát hoạt động điều tra, xét xử và thực hiện quyền công tố tại phiên toà xét xử nhưng vẫn đảm bảo được tính độc lập xét xử cho Toà án. Hoạt động điều tra, truy tố và xét xử là hoạt động của 3 cơ quan có chức năng, thẩm quyền riêng nhưng luôn luôn bảo đảm tính độc lập của nhau, đặc biệt là cơ quan Toà án.
-
Mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát:
Toà án và Viện kiểm sát là hai cơ quan tiến hành tố tụng đều có mục đích trong hoạt động tố tụng hình sự là giải quyết vụ án thực sự khách quan, toàn diện, đầy đủ, đảm bảo việc áp dụng đúng pháp luật, đảm bảo lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tập thể, lợi ích của cá nhân và điều cơ bản quan trọng là bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và công bằng xã hội. Trong tố tụng hình sự, chức năng của hai cơ quan này khác nhau: Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, thực hành quyền công tố theo quy định của Hiến pháp và pháp luật (Điều 137 Hiến pháp 1992, Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002), còn Toà án thực hiện chức năng xét xử. Trong tất cả hoạt động tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, có thể nói rằng hoạt động xét xử là hoạt động quan trọng, có tính độc lập cao.
Hoạt động xét xử của Toà án nằm trong phạm vi quyền kiểm sát của Viện kiểm sát với chức năng “kiểm sát hoạt động tư pháp” và khi thực hiện quyền công tố, Viện kiểm sát có quyền truy tố người phạm tội theo tội danh được Bộ luật hình sự quy định. Đây chính là cơ sở pháp lý mà Toà án dựa vào đó để tiến hành xét xử theo chức năng của mình. Có nghĩa là hoạt động xét xử của Toà án chỉ được tiến hành khi có quyết định truy tố của Viện kiểm sát (nếu như Toà án xét thấy đủ điều kiện, căn cứ pháp lý để đưa vụ án ra xét xử). Tuy nhiên, ở đây vấn đề đặt ra là liệu hoạt động xét xử của Toà án có thực sự độc lập với Viện kiểm sát hay không?
Theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng có quyền tiến hành các hoạt động kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử. Tại phiên toà, kiểm sát viên có quyền đưa ra những kết luận điều tra nhưng Hội đồng xét xử không buộc phải nghe mà Hội đồng xét xử giải quyết vụ án hoàn toàn dựa trên hồ sơ vụ án, các chứng cứ liên quan đến vụ án, những nhận thức, đánh giá bằng kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm xét xử và vận dụng các quy định của pháp luật chuẩn xác, đúng đắn. Thẩm phán và Hội thẩm phải trực tiếp xét xử bằng những chứng cứ chứ không chỉ căn cứ vào Hồ sơ của vụ án hay chứng cứ mà Viện kiểm sát đưa ra trong bản cáo trạng. Hội đồng xét xử căn cứ vào kết quả của quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, vào kết quả nghị án để ra bản án và có quyền kết luận khác với ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Ví dụ: nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội (khoản 2 Điều 222 BLTTHS).
Mặt khác, Viện kiểm sát có thể kháng nghị bản án, quyết định của Toà án nếu Viện kiểm sát có căn cứ cho rằng quyết định, bản án của Toà án là chưa khách quan, không đúng. Toà án khi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nếu xét thấy kháng nghị của Viện kiểm sát không có căn cứ thì vẫn giữ nguyên hiệu lực của quyết định, bản án đã tuyên. Tuy nhiên, trong hoạt động tố tụng, theo quy định của pháp luật thì tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm với tư cách là những thành viên trong hội đồng xét xử còn chưa thực sự được đảm bảo. Chúng tôi sẽ phân tích kỹ ở phần thực trạng.
-
Mối quan hệ giữa các cơ quan Toà án:
Luật tổ chức Toà án nhân dân hiện hành quy định: Toà án nhân dân tối cao quản lý các TAND địa phương về tổ chức có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa phương; Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định Quy chế phối hợp giữa Toà án nhân dân tối cao và Hội đồng nhân dân địa phương trong việc quản lý các Toà án địa phương về tổ chức. Sự phối hợp này được thể hiện trên nhiều mặt quản lý, tuy nhiên ý nghĩa sâu sắc của nó chính là ở công tác kiểm tra, giám sát. Đây cũng là đặc điểm nổi bật trong công tác quản lý nhà nước đối với ngành Toà án. Nội dung quản lý Thẩm phán được thể hiện trên các phương diện: quản lý về tổ chức, nhân sự và quản lý về nghiệp vụ đối với Thẩm phán. Quản lý về tổ chức nhân sự bao gồm: quyết định và phân bổ biên chế Thẩm phán cho toàn ngành và cho từng đơn vị Toà án; quy định các tiêu chuẩn, điều kiện tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán, quyết định vấn đề điều động, khen thưởng, kỷ luật Thẩm phán; xây dụng và thực hiện các chế độ, chính sách, bao gồm cả tiền lương đối với Thẩm phán; tổ chức kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; thống kê và đánh giá chất lượng Thẩm phán hàng năm. Như vậy, nội dung quản lý Thẩm phán nhìn nhận dưới góc độ này giống như nội dung quản lý đối với các cán bộ, công chức khác.
Về phương diện quản lý nghiệp vụ, xuất phát từ mối quan hệ tố tụng trong cơ quan Toà án, Thẩm phán Toà án cấp dưới quan hệ với Thẩm phán Toà án cấp trên là quan hệ tố tụng theo pháp luật tố tụng quy định. Mối quan hệ này cho phép Toà án cấp trên hướng dẫn Toà án cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử, nhưng không quyết định trước về chủ trương xét xử một vụ án cụ thể buộc Toà án cấp dưới phải tuân theo.
Theo pháp luật hiện hành thì thẩm quyền tố tụng của TANDTC đối với các Toà án cấp dưới bao gồm: quyền hủy bỏ các bản án, quyết định của Toà án địa phương; quyền tổng kết công tác xét xử và quyền hướng dẫn công tác xét xử đối với các Toà án địa phương[9].
Về mối quan hệ giữa Thẩm phán và Lãnh đạo Toà án, theo quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 thì Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án và Phó Chánh án. Như vậy, việc tham gia xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trên cơ sở một quyết định của một trong số những người lãnh đạo của Toà án về mặt hành chính. Sau khi được phân công thụ lý hồ sơ xét xử, quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm với Chánh án hay Phó Chánh án chỉ là quan hệ hành chính chứ không phải quan hệ tố tụng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên mối quan hệ hành chính đó trong một số trường hợp lại chi phối, ảnh hưởng nhất định đến sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi xét xử.
Theo các quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân, Thẩm phán và Hội thẩm thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án và Phó Chánh án. Như vậy, Thẩm phán và Hội thẩm trở thành người tiến hành tố tụng và làm nhiệm vụ xét xử một vụ án nào đó trên cơ sở một quyết định (bằng văn bản hoặc bằng miệng) của một trong số cán bộ lãnh đạo của Toà án. Sau khi được phân công thụ lý hồ sơ vụ án, quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm với Chánh án, Phó Chánh án chỉ là mối quan hệ hành chính chứ không phải là mối quan hệ tố tụng. Thế nhưng, do nhiều nguyên nhân khác nhau, mối quan hệ hành chính đó lại chi phối hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm, hạn chế hoặc làm mất đi tính độc lập của những người này khi xét xử. Xét từ phía cán bộ lãnh đạo Toà án, trong một số trường hợp, do không tin tưởng ở cán bộ cấp dưới nên họ đã can thiệp vào công việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm, yêu cầu báo cáo, thỉnh thị hoặc thậm chí chỉ đạo những người này xét xử theo ý kiến chủ quan của mình. Cũng không ít trường hợp, do nhũng động cơ cá nhân hay vụ lọi mà Chánh án, Phó Chánh án định hướng cho Thẩm phán và Hội thẩm phải xét xử thế này hoặc thế khác nhằm mang lại lợi ích cho mình hoặc lợi ích của những người khác. Trong Toà án, quan hệ hành chính giữa Thẩm phán, Hội thẩm tồn tại không chỉ với Chánh án, Phó Chánh án mà còn với Chánh toà và các Phó Chánh toà chuyên trách mà ảnh hưởng của những người này tới sự độc lập khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm cũng tương tự như Chánh án, Phó Chánh án mặc dù mức độ ảnh hưởng có phần ít hơn.
Ở nước ta, Toà án nhân dân được tổ chức theo đơn vị hành chính - lãnh thổ, vì vậy dù là Chánh án hay Thẩm phán thì họ vẫn bị chi phối bởi các ý kiến của lãnh đạo chính quyền địa phương. Trước khi đưa một người xuống giữ chức vụ Chánh án một quận, huyện, tỉnh, thành phố, hay đưa một cán bộ Toà án vào danh sách tuyển chọn để bổ nhiệm Thẩm phán, lãnh đạo Toà án cũng vẫn cần ý kiến của chính quyền địa phương nơi đặt trụ sở của Toà án. Giữa Toà án địa phương và chính quyền địa phương không tồn tại mối quan hệ hành chính, không có người lãnh đạo và người bị lãnh đạo, thế nhưng trong các cuộc họp của hội đồng nhân dân địa phương từ cấp huyện trở lên, Chánh án Toà án vẫn có trách nhiệm báo cáo về công tác của Toà án, Chánh án Toà án có thể bị chất vấn về công tác xét xử. Từ khía cạnh hoạt động tư pháp, ngành Toà án, Toà án cấp trên có thể đánh giá công tác xét xử của một Toà án địa phương nào đó tốt nhưng ngược lại, nếu việc xét xử ấy không phù hợp với chủ trương, ý chí của chính quyền địa phương thì nó có thể bị địa phương đánh giá ngược lại. Là người chịu sự quản lý về nghiệp vụ của Toà án cấp trên nhưng Chánh án, Thẩm phán Toà án địa phương lại đồng thời chịu sức ép từ phía chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức trực tiếp nắm giữ và chi phối các quyền lợi vật chất và chính trị của Chánh án và Thẩm phán nên khi xét xử, những người này cũng không thể độc lập. Trong công tác tổ chức cán bộ của ngành Toà án hiện nay còn có tình trạng Thẩm phán thường được điều động về Toà án địa phương nơi người đó có nhà ở. Vì vậy, hoạt động xét xử của Thẩm phán không những chịu sự chi phối của cấp ủy, chính quyền địa phương, mà còn bị chi phối bởi các mối quan hệ thân quen, bè bạn, họ hàng và các mối quan hệ khác.
Trong quá trình giải quyết các vụ án khác nhau, giữa Thẩm phán và Hội thẩm với những người tiến hành tố tụng khác, những người tham gia tố tụng cũng tồn tại những mối quan hệ tố tụng rất phức tạp. Bên cạnh tính phối hợp còn tồn tại tính chế ước trong các quan hệ tố tụng nêu trên; nếu có những căn cứ do pháp luật quy định, Thẩm phán và Hội thẩm có thể bị đề nghị thay đổi, không được tiếp tục tham gia tố tụng để xét xử vụ án. Các quyết định của hội đồng xét xử có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo các trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Trong những điều kiện hiện nay, các chuẩn mực để đánh giá phán quyết của Toà án, nhất là phán quyết trong các vụ án kinh tế, dân sự chưa thống nhất, rõ ràng nên không ít các bản án, quyết định của Toà án cấp dưới đã đúng đắn nhưng vẫn bị kháng cáo, kháng nghị lên Toà án cấp trên và chúng đã bị cải sửa, hủy theo ý chí, sự đánh giá chủ quan của một số người nào đó. Trong những trường hợp này, người đã có quyết định hoặc bản án bị cải sửa, hủy sẽ bị khiển trách, kiểm điểm một cách vô lý. Chính điều này đã tác động tới tâm lý của Thẩm phán, Hội thẩm khi xét xử và tới lượt mình, Thẩm phán, Hội thẩm không độc lập giải quyết vụ án theo suy nghĩ của mình mà “uốn” theo ý kiến của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác.
-
Mối quan hệ giữa Toà án và Luật sư:
Theo quy định của Điều 56 và Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì Luật sư là người bào chữa, ngườỉ đại diện để bảo vệ các quyền, lợi ích của bị can, bị cáo, của cá nhân, tổ chức... Luật sư có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can; có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong các hoạt động điều tra khác; có quyền xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định liên quan đến người mà mình bào chữa; có quyền đề nghị Cơ quan điều tra thông báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác; có quyền đưa ra tài liệu, yêu cầu; có quyền được gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo khi bị tạm giam; đọc ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật...
Tuy nhiên, bên cạnh những quyền trên luật sư cũng phải tuân thủ các nghĩa vụ như: tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nếu Luật sư làm trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Trong quan hệ pháp luật hình sự, luật sư với vai trò là người bào chữa được pháp luật cho phép tham gia từ giai đoạn khởi tố vụ án để kịp thời theo dỗi các tình tiết, diễn biến của vụ án nhằm bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích chính đáng cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu như các quyền đó không được bảo đảm thực hiện trên thực té và có dấu hiệu bị xâm hại. Đối với Toà án, để luật sư tham gia thực hiện quyền bào chữa của mình thì Chánh án Toà án hoặc Hội đồng xét xử cấp giấy chứng nhận người bào chữa trong vụ án để họ thực hiện nhiệm vụ bào chữa. Và để thực hiện tốt nhiệm vụ bào chữa của mình, Luật sư có quyền được tiếp cận đọc, sao chụp tài liệu và nghiên cứu hồ so vụ án, được tham gia vào quá trình xét hỏi, thẩm vấn tại phiên toà xét xử, luật sư có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo, giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo.
Mối quan hệ giữa Luật sư và Toà án là hai mối quan hệ độc lập mang tính chất tương hỗ cho hoạt động xét xử được đảm bảo khách quan và công bằng, mối quan hệ này đã được luật quy định rất cụ thể. Chính vì vậy, trong trường hợp bị can, bị cáo không yêu cầu luật sư hoặc không mời được luật sư thì Toà án trong trường hợp pháp luật quy định yêu cầu Đoàn Luật sư cử người bào chữa cho họ để bảo vệ các quyền và lợi ích cho họ trước toà. Trong quá trình xét hỏi, thẩm vấn tại phiên Toà, Hội đồng xét xử và các thành phần tham gia tại phiên toà xét xử cùng xem xét tài liệu, vật chứng liên quan đến vụ án, Hội đồng xét xử có thể thẩm vấn thêm về những tài liệu, vật chứng này để làm rõ tính chuẩn xác của tài liệu, vật chứng để làm căn cứ ra bản án, quyết định tuyên bố bị cáo có tội hay vô tội; người bào chữa có thể đưa ra những chứng cứ, những lời lẽ, lập luận để bào chữa hợp pháp cho hành vi của bị cáo nếu như hành vi đó không có trên thực tế hoặc có nhưng ở mức độ nhẹ hơn (tội danh khác, khung hình phạt khác). Đối với kết luận giám định, nếu như người bào chữa thấy có một số vấn đề cần phải làm rõ hoặc phát hiện thấy có những mâu thuẫn trong kết luận giám định, trong trường hợp xét thấy cần thiết Hội đồng xét xử sẽ quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại. Trong quá trình tranh luận tại phiên toà, chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án (Điều 192 BLTTHS).
Từ nhũng phân tích cũng như việc viện dẫn các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục tiến hành phiên toà xét xử cho thấy, mối quan hệ giữa Toà án và Luật sư kéo dài từ khi bắt đầu xét xử cho đến khi kết thúc xét xử. Hội đồng xét xử với vai trò là chủ thể, trung tâm tiến hành tố tụng, điều khiển hoạt động phiên toà có nhũng ý kiến thẩm vấn, quan điểm và lập luận trên cơ sở hồ sơ vụ án cộng với những tình tiết tranh luận của các thành phần tham gia phiên Toà (Viện kiểm sát, Luật sư...), những vật chứng được đưa ra kiếm chúng tại phiên toà để làm rõ vụ án. Luật sư với vai trò là người bào chữa cho bị cáo trước Toà để bảo vệ các quyền và lợi ích cho bị cáo có quyền đưa ra những lập luận, chứng cứ đối chất trước toà để giúp cho Toà án có quyết định đúng đắn, công minh, khách quan chứ không có nghĩa là quyết định của Toà án bị lệ thuộc bởi sự tranh luận của Luật sư tại toà. Toà án và Luật sư có mối quan hệ tố tụng nhưng không bị chi phối, ảnh hưởng sự “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” của Toà án hay chính xác là Thẩm phán và Hội thẩm trong quá trình xét xử.
-
Mối quan hệ giữa Toà án với cơ quan thông tin đại chúng:
Với ý nghĩa khi xét xử, Hội đồng xét xử không chịu sự chi phối của bất kỳ cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội hoặc cá nhân nào, không bị ràng buộc bởi ý kiến của Viện Kiểm sát hoặc các thành viên trong Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật và tự chịu trách nhiệm về các quyết định của mình trong phiên toà xét xử. Đây cũng là một trong những lý do mà hoạt động xét xử của Toà án mang một ý nghĩa chính trị, xã hội quan trọng, nó phản ánh một cách đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất nền công lý của chế độ ta. Mỗi bản án, quyết định của Toà án không chỉ tác động hoặc làm ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sinh mệnh chính trị, danh dự, nhân phẩm và quyền lợi của một hay một số người là bị cáo, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn hay những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan... mà còn có thể gây nên dư luận tích cực hoặc không tích cực trong xã hội.
Hoạt động xét xử của Toà án là công khai, trừ trường hợp do luật định nên bản án, quyết định của Toà án phát huy tính phòng ngừa chung, góp phần giáo dục, tuyên truyền, hướng dẫn pháp luật đối với quần chúng nhân dân. Trong đó, phải kể đến báo chí - một cơ quan ngôn luận đóng vai trò quan trọng trong việc tham gia phản ánh hoạt động xét xử. Một trong những nhiệm vụ của báo chí là phản ánh toàn diện và kịp thời các mặt của đời sống xã hội. Đòi sống pháp luật là đối tượng được báo chí quan tâm phản ánh tương đối nhiều nhất. Thông qua báo chí mà nhiều chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật đã đến được với nhân dân ở khắp mọi miền đất nước. Ngược lại, những ý kiến phản hồi từ phía nhân dân thông qua báo chí đến với các cơ quan nhà nước. Riêng đối với hoạt động xét xử của Toà án, báo chí tham gia phản ánh nhằm hướng dẫn dư luận xã hội nhận thức đúng đắn và đầy đủ hoạt động xét xử của Toà án nói chung và một số vụ án cụ thể đang được dư luận xã hội quan tâm, có ý nghĩa góp phần bảo vệ công lý. Đồng thời, báo chí là phương tiện, là diễn đàn của quần chúng thực hiện quyền thông tin trên lĩnh vực hoạt động tư pháp, góp phần động viên quần chúng tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm, thiết lập trật tự kỷ cương và công bằng xã hội.
Theo Điều 7 Luật Báo chí của nước ta được ban hành năm 1989 thì “Trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình, các tổ chức có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí, giúp cho báo chí thông tin chính xác, kịp thời và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin. Đối với vụ án đang được điều tra hoặc chưa xét xử thì các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền không cung cấp thông tin cho báo chí, nhưng báo chí có quyền thông tin theo các nguồn tài liệu của mình và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin....”. Theo quy định trên, ngoài những vụ án có yêu cầu xử kín, bảo vệ bí mật quốc gia, bảo vệ thuần phong mỹ tục thì những vụ án chưa được đưa ra xét xử, Toà án có quyền cung cấp hoặc không cung cấp thông tin về vụ án cho báo chí. Sở dĩ Luật Báo chí quy định như vậy là vì trong quá trình xét xử, vụ án mới được Hội đồng xét xử xem xét một cách khách quan, toàn diện, đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, xác định bị cáo có phạm tội hay không, bị điều tra và truy tố có đúng không và quyết định trách nhiệm hình sự đối với người có tội. Vì vậy, nếu như trước khi vụ án được xét xử, đặc biệt là những vụ án phức tạp mà Thẩm phán được giao trách nhiệm xét xử vụ án đó lại đưa ra những thông tin mang tính chất nhận định, đánh giá, thậm chí phán xét về hành vi vi phạm pháp luật của các đương sự, của bị can, về nhân thân bị can hoặc đưa ra những lý lẽ, quan điểm cho rằng bị can phạm tội gì, đương sự, bị can sẽ phải chịu chế tài ra sao... sẽ dễ gây ra hoặc làm ảnh hưởng đến dư luận về vụ án, về đương sự, hoặc bị can đó, vì “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của Toà án” (Điều 72 Hiến pháp năm 1992; Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự). Hoặc cũng có trường hợp vụ án chưa xét xử nhưng Thẩm phán lại đưa ra thông tin bị can không phạm tội. Chẳng hạn như theo tin đăng tại Báo Pháp luật ngày 28/7/2003 về trường hợp ông Đào Quốc Tuý, nguyên Giám đốc Công ty TNHH Thái Hoà bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thì kết quả phiên toà đã được một số phóng viên các báo, đài biết trước khi xử hai tháng nên đã làm cho không ít người quan tâm. Theo bài báo thì trước khi vụ án xét xử gần hai tháng, “trong một lần đi giám sát việc thực hiện Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, ông Lê Minh Nhựt và một số vị trong Ban Pháp chế HĐND TP. Hồ Chí Minh đã được một vị lãnh đạo TAND TP. Hồ Chí Minh báo cáo rằng: “Toà sẽ tuyên vô tội đối với bị cáo Đào Quốc Tuý trong phiên toà xét xử vào thời gian tới”. Như vậy là dù vụ án chưa được đưa ra xét xử nhưng đã được công khai biết trước kết quả. Đây có lẽ là lần đầu tiên xảy ra và đã đi ngược lại tinh thần Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị: “Bản án phải được tuyên dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên toà”.
Trong trường hợp Toà án không cung cấp thông tin về vụ án cho cơ quan báo chí thì cơ quan báo chí, theo quy trình làm báo sẽ tự phát hiện, điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ và có quyền thông tin về vụ án đó nhưng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về độ chính xác những thông tin của mình và phải tuân thủ Điều 10 Luật Báo chí về những điều không được thông tin trên bảo chí. Khi thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của đương sự, bị can, người bị hại... trong vụ án thì báo chí phải đăng, phát sóng lời cải chính, xin lỗi của cơ quan báo chí, của tác giả. Sau khi có kết luận của Toà án bằng một bản án, quyết định về vụ án đó thì cơ quan báo chí phải thông tin về kết quả của phiên xét xử đó (Điều 9 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí 12/6/1999). Trước mỗi sự kiện, vụ việc cụ thể, người làm báo phải có bản lĩnh và sự nhạy cảm nhất định, cần phải tự đặt ra các câu hỏi: có cần phản ánh công khai thông tin đó không, nội dung thông tin đến mức độ nào? thông tin vào thời điểm nào? Trước khi phát sóng, duyệt bài, đưa tin, người quản lý trực tiếp báo, đài phải tự trả lời cho được câu hỏi ấy. Nếu còn băn khoăn, vướng mắc, nên tham khảo ý kiến đồng nghiệp hoặc ý kiến chỉ đạo của cấp trên để khắc phục hiện tượng thông tín trên báo chí bị xuyên tạc, công kích gây phản cảm trong xã hội. Thông tin chính xác, kịp thời, có phân tích khoa học, căn cứ thực tiễn vững chắc sẽ góp phần định hướng nhận thức, hướng dư luận xã hội phát triển một cách tích cực. Bên cạnh việc cung cấp thông tin có thực một cách thuần tuý, rất cần những bài viết, bài nói, hình ảnh có nội dung định hướng sâu sắc từ những sự kiện đang được dư luận xã hội quan tâm như vụ án Năm Cam, vụ cháy rừng U Minh Thượng và U Minh Hạ, tính chất mức độ của các vụ tai nạn giao thông, bọn lâm tặc phá rừng và tấn công lực lượng Kiểm lâm, Hải quan...
Một điều đáng chú ý là, trong một số trường hợp, vụ việc, báo chí còn thiếu sự lựa chọn và đi đúng hướng. Đáng lẽ báo chí cần đi sâu điều tra, phát hiện những sự việc, hành động sai trái có tính tiêu biểu, tập trung vào những trọng điểm gây thiệt hại cho kinh tế và xã hội, bị nhân dân ca thán, chê trách, từ đó rút ra những bài học để giáo dục, ngăn ngừa thì có báo chí lại dường như gặp việc gì nêu việc ấy một cách gần như ngẫu nhiên, thiếu sự phân tích và ít đề xuất được ý kiến giải quyết. Thậm chí có một vài tờ báo, nhà báo chưa thực sự đề cao trách nhiệm khi đưa tin, bài về các hoạt động xét xử của Toà án, tạo nên những ý kiến trái ngược nhau không đáng có. Từ những tài liệu được thu thập theo quy trình làm báo, các nhà báo đã thông qua báo chí nêu ra những lý lẽ của cá nhân mình phản bác, phủ nhận sự thật về vụ án và đơn phương bác bỏ kết luận của Toà án một cách suy đoán, gây sự hiểu lầm trong công luận về sự thật của vụ án và sự nghiêm minh của pháp luật. Có những vụ án báo chí đã tập trung định hướng dư luận phán xét trước khi Toà án xét xử, gây nên sức ép tâm lý đối với Hội đồng xử án, dẫn đến tình trạng Toà án đã có sự lựa chiều để xử theo công luận.
II. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN
-
Những quy định về độc lập xét xử ở nước ta và quốc tế.
2.1.1. Những quy định pháp luật của nước ta về độc lập xét xử:
Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động xét xử của Toà án. Nguyên tắc này đã được khẳng định trong tất cả các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992; các luật Tổ chức Toà án nhân dân 1960, 1992, 2002 và các văn bản hướng, dẫn thi hành. Tuy nhiên, tuỳ từng giai đoạn lịch sử nhất định, việc quy định và thực hiện nguyên tắc này cũng có những yêu cầu đặc thù về điều kiện đảm bảo cho sự độc lập khi xét xử, tiêu chuẩn của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân....
Ngay từ khi thành lập nước, ngày 13/9/1945 Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh thiết lập các Toà án quân sự ở Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ đã đánh dấu sự ra đời của Toà án nhân dân ở nước ta. Ở giai đoạn này, Toà án nhân dân được tổ chức ở một cấp nhưng quyết định của Toà án được thi hành ngay sau khi tuyên án, người bị kết án không có quyền chống án ngoại trừ người bị kết án tử hình có thể làm đơn để Chủ tịch Chính phủ ân giảm. Tiếp đó, nhằm hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của Toà án, ngày 24/1/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thòi đã ban hành Sắc lệnh số 13-SL về tổ chức các Toà án và ngạch Thẩm phán. Có thể nói, Sắc lệnh số 13-SL là sắc lệnh đầu tiên quy định tương đối đầy đủ về tổ chức, nhiệm vụ của Toà án cũng như quy định về tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của các ngạch Thẩm phán. Tại Sắc lệnh này, tính độc lập của Toà án, mà cụ thể là Thẩm phán và phụ thẩm nhân dân được quy định cụ thể là: “Họ có bổn phận và lấy trí sáng suốt và lương tâm ngay thẳng ra xét mọi việc rồi phát biểu ý kiến một cách công bằng không vì nể, vì sợ một thế lực nào, vì lợi ích riêng tư hay tư thù mà bênh vực ai hay làm hại ai”. Cũng theo sắc lệnh 13-SL thì một người được tuyển vào ngạch Thẩm phán phải có các điều kiện chung là có quốc tịch Việt Nam, hạnh kiểm tốt, chưa can án bao giờ. Một Hội đồng do Bộ trưởng Bộ Tư pháp cử sẽ xét hạnh kiểm và năng lực của các người xin làm Thẩm phán. Khi nhận chức, khi chuyển ngạch từ Toà án cấp dưới lên Toà án cấp trên, khi nhận chức Chánh án, Chưởng lý thì các Thẩm phán đều phải tuyên thệ rằng: “Tôi thề sẽ trung thành với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà”, “Tôi thề sẽ mang hết sức và công tâm ra phụng sự chức vụ của tôi, sẽ giữ khẩu mật những cuộc khẩu nghị, và luôn luôn cư xử cho xứng đáng là một vị Thẩm phán cương trực và đủ tư cách” (Điều 94 Sắc lệnh 13-SL ngày 24/1/1946). Các Thẩm phán phải làm đầy đủ bổn phận, dự đều các phiên toà, xét xử thật nhanh chóng và thật công minh. Thanh liêm là một đức tính thiêng liêng của các Thẩm phán Việt Nam. Trong đời tư cũng như trong đời công, các Thẩm phán phải cư xử đúng mực và biết tự trọng để giữ thanh danh và phẩm cách của một vị quan toà (Điều 83, 84 Sắc lệnh 13-SL ngày 24/1/1946).
Đối với phụ thẩm, Sắc lệnh cũng quy định những yêu cầu khi phụ thẩm tham gia xét xử để đảm bảo không bị can thiệp từ bên ngoài, cụ thể như: “Các phụ thẩm phải giữ kín các điều bàn bạc trong lúc nghị án, nếu tiết lộ bí mật ấy sẽ bị Toà thượng thẩm phạt từ sáu tháng đến hai năm tù”. Đối với Thẩm phán xử án và Thẩm phán công tố (Thẩm phán buộc tội), Sắc lệnh cũng quy định về sự độc lập, vô tư của Thẩm phán khi xét xử ở toà đệ nhị cấp và Toà thượng thẩm. Điều 47 quy định: các vị Thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào việc tư pháp.
Để đảm bảo sự độc lập của Toà án, sự vô tư, khách quan của các vị Thẩm phán, Sắc lệnh cũng có những quy định cụ thể cơ cấu tổ chức của các Toà án, tiêu chuẩn của Thẩm phán, cán bộ Toà án; cách thức tuyển chọn; nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán và những biện pháp chế tài đối với Thẩm phán khi vi phạm pháp luật. Cụ thể là, theo Điều thứ 9, Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quy định: về dân sự và thương sự, Chánh án xử một mình. Nhưng khi xử các việc tiểu hình, phải có thêm hai viên phụ thẩm nhân dân góp ý kiến; Toà án sơ cấp gồm có một Thẩm phán, một Lục sự và một hay nhiều Thư ký giúp việc. Tiếp đó, Điều thứ 15 quy định: Toà án đệ nhị cấp gồm có: một Chánh án, một Biện lý, một Dự thẩm, một Chánh lục sự và những thư ký giúp việc. Tuỳ từng nơi với công việc xét xử nhiều hay ít mà có thể tăng cường số Thẩm phán và lục sự hoặc Thẩm phán phải kiêm thêm nhiều chức vụ. Vào thời điểm này, do mới thành lập Chính phủ nên các phụ thẩm nhân dân được lựa chọn tham gia công việc xét xử của Toà án buộc phải là những người được chọn vào cơ cấu Hội đồng nhân dân hoặc đã là thành viên dự khuyết hay chính thức của Hội đồng nhân dân. Tính chất của phụ thẩm nhân dân được thể hiện ở vai trò đại biểu của dân tham gia việc xét xử của Toà án nhằm tăng thêm tính khách quan, công bằng trong hội đồng xét xử. Như vậy, cách thức lựa chọn Thẩm phán và phụ thẩm nhân dân ở thời điểm này cũng phần nào ảnh hưởng đến công việc xét xử và tính độc lập xét xử của Toà án. Các Thẩm phán và phụ thẩm nhân dân còn có thể được kiêm nhiệm nhiều chức vụ và công việc khác ngoài công tác chuyên môn cũng phần nào làm ảnh hưởng đến khả năng xét xử, bởi vì, để thực sự làm tốt công tác xét xử của mình thì Thẩm phán phải được chuyên môn hoá, nghĩa là phải là người chuyên xét xử đại diện cho ngành tư pháp chứ không thể kiêm cả các chức vụ khác ở Hội đồng nhân dân hay Ủy ban hành chính Nhà nước. Tuy nhiên, việc kiêm nhiệm cũng có tính lịch sử nhất định, bởi do việc lựa chọn những người thực hiện chức năng xét xử phải là những người cách mạng và vào thời điểm đó Chính phủ mới phải giải quyết nhiều công việc nên việc lựa chọn phụ thẩm nhân dân trong Ủy ban hành chính hoặc là thành viên của Hội đồng nhân dân là hoàn toàn hợp lý. Điều 18 của Sắc lệnh số 13 quy định: “Cách thức lập danh sách các Phụ thẩm: Danh sách các Phụ thẩm nhân dân, do Ủy ban hành chính tỉnh hay thành phố lập vào hồi đầu năm, gồm tất cả các hội viên chính thức và dự khuyết của Hội đồng nhân dân tỉnh hay thành phố, trừ các ủy viên hành chính và các hội viên nào làm Thẩm phán hay luật sư; và nếu cần, sẽ thêm từ 10 đến 30 Phụ thẩm nữa do Ủy ban hành chính chọn trong những người ở tỉnh hay thành phố mà có đủ điểu kiện để được ứng cử vào Hội đồng nhân dân. Danh sách số Phụ thẩm thêm này phải đưa sang ông Biện lý để hỏi ý kiến rồi đệ lên Hội đồng nhân dân tỉnh hay thành phố duyệt y. Với cách lựa chọn phụ thẩm nhân dân như vậy và để đảm bảo cho phiên toà được minh bạch, các phụ thẩm được độc lập và không có sự thông gian trong phiên toà, Điều thứ 19 Sắc lệnh quy định: “Hai phụ thẩm dự phiên toà sẽ chọn theo cách rút thăm”. Để đảm bảo hơn nữa tính độc lập của các phụ thẩm nhân dân trong khi xét xử, Điều thứ 20 Sắc lệnh quy định những trường hợp không thể cùng làm phụ thẩm trong một Toà án, đó là: “Các người thân thuộc hay thích thuộc với nhau cho đến bậc thứ ba; các người thân thuộc hay thích thuộc với các Thẩm phán hoặc với các người đương sự cho đến bậc thứ ba”. Ngoài ra, để tránh cho việc các phụ thẩm có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố thân, lợi hay lạm dụng trong cương vị xét xử của mình để mưu lợi cá nhân thì tại Điều thứ 21 của Sắc lệnh có quy định: “Không ai có thể làm phụ thẩm trong một việc mà mình là người đương sự, hoặc đã điều tra, hoặc đã làm chứng hay làm giám định”.
Điểm đáng chú ý là Sắc lệnh không chỉ đảm bảo cho phụ thẩm nhân dân độc lập với Thẩm phán và những người khác tham gia tại phiên xét xử mà còn có quy định đảm bảo cho phụ thẩm nhân dân thực sự độc lập trong việc suy xét vụ án và yên tâm khi thực hiện công việc xét xử của mình. Điều thứ 24 Sắc lệnh quy định: Các phụ thẩm nhân dân có bổn phận là lấy trí sáng suốt và lương tâm ngay thẳng ra xét mọi việc rồi phát biểu ý kiến một cách công bằng không vị nể, vì sợ một thế lực nào, vì riêng hay tư thù, mà bênh vực hay làm hại ai. Các Phụ thẩm nhân dân phải giữ kín các điều bàn bạc trong lúc nghị án. Nếu tiết lộ bí mật ấy ra sẽ bị Toà Thượng thẩm phạt từ sáu tháng đến hai năm tù. Sự độc lập của phụ thẩm nhân dân còn được đảm bảo bằng những quy định có tính thủ tục, lễ nghi nhằm tôn vinh, khích lệ phụ thẩm nhân dân ý thức được trách nhiệm của mình về sự công bằng, độc lập trong công việc xét xử của mình mà không có thế lực hay lợi ích nào có thể ảnh hưởng tiêu cực đến công việc của mình. Điều thứ 25 Sắc lệnh quy định: Khi các phụ thẩm nhậm chức, tại phiên toà đầu, ông Chánh án sẽ đọc Điều thứ 22 nói trên, rồi mời các phụ thẩm tuyên thệ rằng: “Tôi thề trước Công lý và nhân dân rằng tôi sẽ suy xét cẩn thận những án đem ra xử, không hề ăn hối lộ, vị nể, vì sợ hãi, vì tư lợi hay thù oán riêng mà bênh vực hay làm hại một bị can nào. Tôi sẽ cứ công bằng mà xét định mọi việc. Tôi thề sẽ không bao giờ tiết lộ ra ngoài những điều bàn bạc trong lúc nghị án”.
Như vậy, việc quy định sự tuyên thệ như trên đã thể hiện sự tiến bộ về thủ tục tham gia xét xử của phụ thẩm nhân dân, bảo đảm tính uy nghiêm của một phiên toà mà còn tăng thêm niềm tin nội tâm cho Thẩm phán và phụ thẩm khi nhậm chức và trước khi bựớc vào phiên xử (ở một số nước như Anh, Mỹ, Hồng Kông cũng có quy định về sự tuyên thệ của Thẩm phán và các thành viên tham gia xét xử khi nhậm chức và khi bắt đầu phiên toà...; nếu vi phạm những điều đã tuyên thệ trước Toà thì những người đã tuyên thệ còn bị phạt cảnh cáo hoặc có thể bị phạt tù nữa).
Cùng với những quy định đảm bảo sự độc lập, khách quan của phụ thẩm nhân dân, Sắc lệnh cũng có những quy định đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán; Thẩm phán không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố bên ngoài, kể cả cường quyền hay lợi ích vật chất khác. Điều thứ 50 Sắc lệnh quy định: “Mỗi Thẩm phán xử án quyết định theo pháp luật và lương tâm của mình. Không quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án”. Hơn nữa, sự độc lập của Thẩm phán còn được thể hiện sự không bị ảnh hưởng, chi phối bởi những vấn đề lương tâm, vị thân của mình khi xét xử. Điều thứ 65 Sắc lệnh quy định: “Các người thân thuộc, thích thuộc cho đến bậc chú cháu, bác cháu, hay cậu cháu, không thể cùng làm Thẩm phán trong một toà, trừ phi vị Chủ tịch nước Việt Nam cho phép miễn trừ riêng. Dù có miễn trừ, các người ấy cũng không thể làm cùng một phòng trong Toà Thượng thẩm”. Điều thứ 66 quy định: “Một Thẩm phán không thể xét xử một việc mà người thay mặt hay Luật sư của người đương sự là thân thuộc hay thích thuộc của mình cho đến bậc thứ ba”.
Để tránh cho Thẩm phán bị mắc vào các lợi ích vật chất làm ảnh hưởng đến công tác xét xử, thì tại Điều thứ 67 Sắc lệnh có quy định: “Chức vụ Thẩm phán không thể kiêm nhiệm được với một nghề nghiệp hay nhiệm vụ công tư nào khác, trừ chức giáo sư trường Đại học hay trường Trung học của Nhà nước”. Việc quy định cho phép Thẩm phán có thể kiêm nhiệm nhằm khuyến khích Thẩm phán cống hiến hết sức lực, trí tuệ của mình vào công tác nghiên cứu hay giảng dạy. Ngoài ra, Sắc lệnh còn có những quy định hạn chế sự kiêm nhiệm của Thẩm phán để Thẩm phán thực sự độc lập khi xét xử. Đó là, tuy Điều thứ 18 của Sắc lệnh có đề cập đến sự kiêm nhiệm của Thẩm phán nhưng sự kiêm nhiệm này cũng rất hạn chế và chỉ trong những trường hợp đặc biệt. Điều thứ 68 Sắc lệnh quy định: Các Thẩm phán có thể làm hội viên các Hội đồng nhân dân, nhưng nếu được bầu vào một Ủy ban hành chính, thì phải hoặc từ chối không vào, hoặc từ chức Thẩm phán. Quy định này đã thể hiện sự tiến bộ, đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán, bởi vì, Thẩm phán là người đại diện cho nền tư pháp để phán quyết một người là có tội hay không thì phải là người được độc lập và không chịu sự ràng buộc về mặt tổ chức của một đơn vị mà không đại diện cho nền tư pháp. Nếu Thẩm phán vừa có chân trong Ủy ban hành chính vừa giữ cương vị là Thẩm phán thì việc xét xử sẽ không đảm bảo tính khách quan và công bằng vì dễ bị tác động, ảnh hưởng từ phía cơ quan hành chính mà mình là thành viên.
Như vậy, những quy định tại Sắc lệnh số 13 đã bước đầu khẳng định vị trí độc lập của Toà án trong mối quan hệ với các cơ quan khác, đảm bảo sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán và phụ thẩm nhân dân cả với các cơ quan, cá nhân bên ngoài và cả trong các thành viên tham gia xét xử. Đồng thời, những quy định của Sắc lệnh số 13 cũng khẳng định vị thế, trách nhiệm, lương tâm của Thẩm phán và phụ thẩm nhân dân khi tham gia xét xử. Giá trị của những quy định của Sắc lệnh số 13 về sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán và phụ thẩm nhân dân tiếp tục được ghi nhận trong Hiến pháp 1946.
Theo Hiến pháp 1946, thì nhũng quy định về cơ cấu tổ chức của Toà án; nhiệm vụ, quyển hạn của Thẩm phán cũng như những nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Toà án đã có những bước hoàn thiện, trong đó độc lập khi xét xử của Toà án là một nguyên tắc quan trọng nhất, đảm bảo vị thế của Toà án với tư cách là thiết chế đại diện công lý, đảm bảo củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Theo Hiến pháp 1946 thì việc tham gia xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân đã được quy định cụ thể. Điều 64 Hiến pháp 1946 quy định: “Các viên Thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm”. Điều 65 “Trong khi xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với Thẩm phán nếu là việc đại hình”. Để đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán và phụ thẩm nhân dân, Hiến pháp 1946 cũng có những quy định về điều kiện tổ chức phiên toà, tránh sự can thiệp vào công việc xét xử của Toà án. Điều 67 quy định: Các phiên Toà án đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư. Điều 69 quy định: Trong khi xét xử, các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp. Quy định này có ý nghĩa lớn, thể hiện bản chất của nhà nước ta, đoạn tuyệt với cách xét xử quan liêu, thiên lệch, tuỳ tiện của Toà án thực dân phong kiến trước đây và chấm dứt sự can thiệp vào công tác xét xử.
Tiếp đó, trước yêu cầu cải cách bộ máy tư pháp, ngày 22/5/1950, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra Sắc lệnh số 85-SL về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng. Theo Sắc lệnh số 85 thì phụ thẩm nhân dân được đổi thành Hội thẩm nhân dân. Điều 1 Sắc lệnh quy định “Toà án sơ cấp nay gọi là Toà án nhân dân huyện, Toà án đệ nhị cấp nay gọi là Toà án nhân dân tỉnh, Hội đồng phúc án nay gọi là Toà phúc thẩm, Phụ thẩm nhân dân nay gọi là Hội thẩm nhân dân”. Điều 3 quy định: “Để xử việc hình và việc hộ, Toà án nhân dân huyện và Toà án nhân dân tỉnh gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân; Toà phúc thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân có quyền xem hồ sơ và biểu quyết. Hội thẩm nhân dân được hưởng đặc quyền tài phán như các Thẩm phán và lương bổng như các ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính cấp tương đương. Hội thẩm nhân dân dự khuyết được hưởng phụ cấp vãng phản và phụ cấp lưu trú như các hội viên Hội đồng nhân dân tỉnh đi họp Hội đồng nhân dân”.
Trên cơ sở kết quả đã đạt được, Hiến pháp 1959 (ngày 31/12/1959) tiếp tục khẳng định sự độc lập của Toà án và nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Điểm nổi bật là Điều 98 Hiến pháp 1959 đã quy định chế độ Thẩm phán bầu ở Toà án nhân dân các cấp. Điều 99 có quy định “Việc xét xử ở các Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán”. Điều 100 Hiến pháp 1959 quy định: “Khi xét xử, Toà án có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Để cụ thể hoá những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1959, Điều 4 Luật Tổ chức Toà án nhân dân ngày 14/7/1960 quy định “Khi xét xử, Toà án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Tại Điều 5 quy định: “Các Toà án nhân dân thực hành chế độ Thẩm phán bầu”. Theo nội dung những quy định này thì Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập ngay cả trong mối quan hệ giữa những thành viên trong hội đồng xét xử, không bị ảnh hưởng bởi cương vị của nhau, thể hiện sự ngang quyền giữa Thẩm phán và Thẩm phán, giữa Thẩm phán và Hội thẩm hoặc giữa Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm nhân dân. Điều 11 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 quy định: Khi xét xử sơ thẩm, Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia. Hội thẩm nhân dân do nhân dân bầu ra. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán. Để đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong quá trình xét xử, pháp luật còn quy định những quyền hạn nhất định của đương sự. Đó là, Điều 14 quy định: “Đương sự có quyền yêu cầu Toà án thay đổi Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân, nếu thấy những người này có quan hệ với vụ án có thể làm cho việc xét xử không được công bằng. Việc thay đổi này do Chánh án Toà án nhân dân xét và quyết định”. Việc quy định quyền yêu cầu thay đổi Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân cho thấy đây là một biện pháp hiệu quả, loại bỏ những yếu tố làm ảnh hưởng đến công việc xét xử cũng như khả năng và tâm lý của người Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Ở thời kỳ này “Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn. Nhiệm kỳ của Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương là bốn năm” (Điều 27) và “Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn. Nhiệm kỳ của Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương là ba năm” (Điều 28).
Kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1959 và những quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân, Hiến pháp 1980 (ngày 18/12/1980) có nhũng quy định cụ thể về nguyên tắc độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử cũng như những điều kiện đảm bảo cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật. Cụ thể như Điều 129 quy định: “Chế độ bầu cử Thẩm phán được thực hiện ở Toà án nhân dân các cấp. Nhiệm kỳ của Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp theo nhiệm kỳ của cơ quan bầu ra mình”; Điều 130 quy định “Việc xét xử ở Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán”; Điều 131 quy định: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Những quy định trên đã thể hiện sự độc lập của các thành viên trong hội đồng xét xử; Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi xét xử ngang quyền với nhau chứ không ai có thể đứng trước cương vị của mình mà lấn át người kia vì nhũng lý do như trình độ, bằng cấp, chuyên môn hay vị thế xã hội....của mình để áp đặt cho người kia đường lối xét xử như thế nào; việc bầu cử Hội thẩm nhân dân được thực hiện ở Toà án nhân dân các cấp theo nhiệm kỳ (Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tối cao là hai năm rưỡi; nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương là hai năm). Để cụ thể hoá những quy định trẽn của Hiến pháp 1980, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1981, tại Điều 3 quy định: “Chế độ bầu cử Thẩm phán được thực hiện ở Toà án nhân dân các cấp. Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán của mỗi Toà án nhân dân do cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp bầu ra và có thể bị cơ quan này bãi miễn. Nhiệm kỳ của Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp theo nhiệm kỳ của cơ quan bầu ra mình”. Điều 4 quy định: “Việc xét xử ở Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán”. Hội thẩm nhân dân của mỗi Toà án nhân dân do cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp bầu ra và có thể bị cơ quan này bãi miễn. Nhiệm kỳ của Hội thẩm Toà án nhân dân tối cao là hai năm rưỡi. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân các Toà án nhân dân địa phương là hai năm. Điều 16 quy định: “Việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm. Bộ trưỏng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao trong việc thực hiện nhiệm vụ đó”. Tiếp đó, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 tiếp tục khẳng định tính độc lập ngang quyền giữa Thẩm phán và Hội thẩm trong xét xử. Điều 4 quy định: “Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, việc xét xử của các Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật tố tụng. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”; Điều 5 quy định “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”; Điều 16 quy định: “Việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm và có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tối cao trong việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định”; Điều 37 có quy định: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất, đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán, được bầu hoặc cử làm Hội thẩm. Tiêu chuẩn cụ thể của Thẩm phán, Hội thẩm của Toà án mỗi cấp, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán, bầu hoặc cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm, tổ chức và hoạt động của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán, Hội thẩm do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định”.
Tiếp tục ghi nhận và hoàn thiện nguyên tắc độc lập xét xử của Toà án, Hiến pháp 1992 và bản Hiến pháp được sửa đổi, bổ sung năm 2001 khẳng định Toà án là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm Tòa án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định. Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân để đảm bảo tính công khai, khách quan của việc xét xử, đồng thời khẳng định sự bình đẳng và ngang quyền giữa Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Điều 129 quy định: “Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”. Đồng thời, Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định vị trí độc lập của Toà án khi thực hiện chức năng xét xử của mình. Điều 130 Hiến pháp 1992 quy định: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Trên cơ sở Hiến pháp 1992, các quy định của Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 đã có những bước phát triển mới đảm bảo sự độc lập cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thực hiện tốt chức năng xét xử. Cụ thể là theo Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 thì chế độ bầu Thẩm phán đã được thay thế bằng chế độ bổ nhiệm Thẩm phán còn Hội thẩm nhân dân vẫn được thực hiện theo chế độ bầu (đối với Hội thẩm nhân dân của các Toà án nhân dân địa phương) và chế độ cử (đối với Hội thẩm quân nhân của các Toà án quân sự quân khu và tương đương, các Toà án quân sự khu vực. Điều 4 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 khẳng định tính ngang quyền và độc lập xét xử giữa các thành viên trong Hội đồng xét xử: “Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, việc xét xử của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật tố tụng. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”; đồng thời, Điều 5 quy định “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” đã khẳng định được tính độc lập của hội đồng xét xử là chỉ tuân theo các quy định của pháp luật để xét xử các vụ án.
Như vậy, từ việc khái quát nêu trên cho thấy nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng nhất trong quá trình tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án ở nước ta; ở chừng mực nhất định, nguyên tắc này là một cơ chế điều chỉnh hữu hiệu đối với hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử.
2.1.2. Những quy định của quốc tế về độc lập xét xử:
Ngày 19/8/1995, tại Hội nghị các Chánh án Toà án tối cao khu vực châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 6 tổ chức tại Bắc Kinh đã thông qua “Tuyên bố Bắc Kinh về các nguyên tắc độc lập tư pháp”. Tuyên bố này được chỉnh lý tại Hội nghị lần thứ 7 tổ chức tại Malina, Philippin tháng 8/1997. Hiện nay đã có 32 Chánh án Toà án tối cao ký tuyên bố này:
“Độc lập tư pháp:
1. Cơ quan tư pháp là tổ chức mang giá trị cao nhất của bất kỳ xã hội nào.
2. Tuyên ngôn nhân quyền (Điều 10) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (Điều 14 (1)) tuyên bố rằng mọi người đều có quyền được xét xử công khai và công bằng bởi một Toà án độc lập, có thẩm quyền, khách quan và được thành lập theo pháp luật. Một cơ quan tư pháp độc lập chính là điều kiện không thể thiếu để có thể thực hiện được quyền này.
3. Độc lập tư pháp có nghĩa là:
a) Cơ quan tư pháp quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền dựa trên sự đánh giá khách quan của mình về các sự kiện của vụ án và trình độ hiểu biết pháp luật của mình mà không chịu sự tác động sai trái, trực tiếp hay gián tiếp của bất kỳ cá nhân, tổ chức, hay cơ quan nào;
b) Cơ quan tư pháp có thẩm quyền giải quyết trực tiếp hoặc xem xét lại đối với tất cả những vấn đề mang tính chất tư pháp.
4. Việc duy trì tính độc lập của cơ quan tư pháp là cần thiết để đạt được mục tiêu và thực hiện đúng chức năng của cơ quan tư pháp trong một xã hội tự do và tôn trọng pháp quyền. Sự độc lập này cần phải được Nhà nước đảm bảo và phải được quy định rõ trong Hiến pháp hoặc pháp luật.
5. Cơ quan tư pháp có trách nhiệm tôn trọng các mục tiêu và chức năng hợp pháp của các cơ quan Chính phủ khác. Các cơ quan này cũng có trách nhiệm tôn trọng các mục tiêu và chức năng hợp pháp của cơ quan tư pháp.
6. Trong quá trình giải quyết vụ án, không một cơ quan hay một cá nhân dù ở cấp nào trong hệ thống tư pháp được can thiệp nhằm tác động đến nghĩa vụ của Thẩm phán hoặc tập thể Thẩm phán đang thực hiện thẩm quyền ra bản án theo quy định tại Điều 3 (a). Về phần mình, Thẩm phán tự mình hoặc thông qua tập thể thực hiện chức năng của mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
7. Thẩm phán phải bảo đảm phẩm chất trung thực, chính trực và tính độc lập của Cơ quan tư pháp bằng cách tránh có những hành vi sai trái và tránh sự biểu hiện của những hành vi đó trong tất cả các hoạt động của mình.
8. Ở mức độ phù hợp với nghĩa vụ của mình, với tư cách là cán bộ cơ quan tư pháp, Thẩm phán cũng như các công dân khác có quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng và tự do hội họp.
9. Thẩm phán được tự do thành lập hoặc tham gia hiệp hội các Thẩm phán theo quy định của pháp luật để thực hiện các quyền lợi và thúc đẩy việc bồi dưỡng nghiệp vụ của mình, đồng thời có quyền thực hiện những hành vi khác thích hợp để bảo vệ sự độc lập của mình.
Mục tiêu tư pháp:
10. Mục tiêu và chức năng của cơ quan tư pháp bao gồm:
-
Đảm bảo tất cả mọi người đều có thể sống an toàn theo các quy định của pháp luật;
-
Thúc đẩy việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong phạm vi chức năng tư pháp cho phép;
-
Áp dụng pháp luật một cách công bằng, khách quan, vô tư giữa các cá nhân với nhau và giữa cá nhân với nhà nước.
Bổ nhiệm Thẩm phán:
11. Để cơ quan tư pháp có thể đạt được mục tiêu, thực hiện được chức năng của mình, Thẩm phán cần phải được tuyển chọn trên cơ sở có đầy đủ năng lực, phẩm chất và tính độc lập.
12. Việc bổ nhiệm Thẩm phán phải bảo đảm người được bổ nhiệm là những người có phẩm chất phù hợp nhất cho công tác xét xử. Phải bảo đảm không có những can thiệp sai trái tác động vào quá trình tuyển chọn, để chỉ những người có năng lực, phẩm chất và tính độc lập mới được bổ nhiệm làm Thẩm phán.
13. Trong quá trình tuyển chọn Thẩm phán, không được phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, quan điểm chính trị và các quan điểm khác, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tình trạng hôn nhân, tài sản, thành phần xuất thân hay địa vị, trừ trường hợp yêu cầu người úng cử vào cơ quan tư pháp một người phải là người mang quốc tịch nước đó thì không coi là có sự phân biệt.
14. Cơ cấu tổ chức nghề nghiệp pháp lý và nguồn Thẩm phán ở mỗi nước là khác nhau. Ở một số nước, Thẩm phán được tuyển chọn từ cán bộ trong ngành nhưng ở một số nước khác thì Thẩm phán được tuyển chọn từ giới luật sư. Vì vậy, các nước khác nhau có thể áp dụng những thủ tục và các biện pháp tuyển chọn khác nhau để đảm bảo Thẩm phán được bổ nhiệm một cách chính xác.
15. Ở một số nước, việc bổ nhiệm Thẩm phán có lấy ý kiến tham khảo, hoặc phải được sự đồng ý của Ủy ban công tác tư pháp nhằm mục đích bảo đảm việc lựa chọn Thẩm phán đúng với mục đích, yêu cầu. Ủy ban này phải có đại diện của cơ quan tư pháp cấp trên và tổ chức nghề nghiệp pháp lý độc lập để bảo đảm tuyển chọn đúng người có năng lực, phẩm chất và độc lập.
16. Trong trường hợp không có Ủy ban công tác tư pháp thì thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán được quy định rõ ràng, chính thức và công khai.
17. Việc nâng bậc, đề bạt Thẩm phán lên vị trí cao hơn phải dựa trên cơ sở đánh giá khách quan đối với các tiêu chuẩn như năng lực, phẩm chất, tính độc lập và kinh nghiệm.
Nhiệm kỳ:
18. Thẩm phán được bảo đảm giữ chức Thẩm phán trong suốt nhiệm kỳ.
19. Nhiệm kỳ của Thẩm phán ở một số nước là có thòi hạn và khi hết nhiệm kỳ thì có thể bổ nhiệm lại thông qua bỏ phiếu hoặc các thủ tục chính thức khác.
20. Tuy nhiên, đề nghị nên quy định rằng tất cả các Thẩm phán cùng cấp được bổ nhiệm có thời hạn và thời hạn đó kết thúc khi họ đến một độ tuổi nhất định.
21. Nhiệm kỳ của Thẩm phán không thể bị thay đổi với mục đích gây bất lọi cho Thẩm phán.
22. Thẩm phán chỉ có thể bị bãi nhiệm khi có căn cứ chứng minh là không có năng lực, bị kết án hình sự hoặc có những hành vi làm cho người Thẩm phán không còn đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán.
23. Vì lý do khác biệt lịch sử, văn hoá nên thủ tục bãi nhiệm Thẩm phán ở các nước có quy định khác nhau, ở một số nước việc bãi nhiệm Thẩm phán được tiến hành thông qua thủ tục tại nghị viện, nhưng ở một số nước khác thì thủ tục đó không phù hợp vì không thích hợp để xem xét một số nguyên nhân, cơ sở của việc bãi nhiệm. Thủ tục này nếu được áp dụng thì cũng rất ít và rất có thể bị lạm dụng khi bãi nhiệm Thẩm phán dựa trên những lý do không quan trọng.
24. Trong trường hợp không áp dụng thủ tục bãi nhiệm thông qua nghị viện hay thông qua việc bỏ phiếu bãi nhiệm của nhân dân thì thủ tục bãi nhiệm Thẩm phán phải được giám sát bởi cơ quan tư pháp (tức Toà án).
25. Trong trường hợp việc bãi nhiệm Thẩm phán không thông qua thủ tục tại nghị viện hoặc thủ tục bãi nhiệm của nhân dân thì việc bãi nhiệm Thẩm phán nên tiến hành theo các bước sau: trước hết là xác minh kiểm tra các cơ sở, lý do đề xuất việc bãi nhiệm để xác định xem có nên bắt đầu tiến hành thủ tục chính thức không. Thủ tục chính thức chỉ được bắt đầu tiến hành khi việc xác minh, kiểm tra ban đầu nêu trên chứng minh được rằng có căn cứ xác đáng để tiến hành thủ tục bãi nhiệm.
26. Trong bất kỳ trường hợp nào, việc bãi nhiệm Thẩm phán phải được tiến hành thông qua thủ tục và trình tự công bằng có sự tham gia của Thẩm phán đó.
27. Tất cả các thủ tục kỷ luật, tạm đình chỉ hoặc bãi nhiệm Thẩm phán phải được tiến hành theo đúng các chuẩn mực tư pháp đã quy định.
28. Phán quyết kỷ luật Thẩm phán, dù được tiến hành kín hay công khai, đều phải được công bố rộng rãi.
29. Việc chấm dứt hoạt động của Toà án nơi một Thẩm phán đang công tác không được coi là lý do để bãi nhiệm Thẩm phán đó. Trong trường hợp một Toà án bị chấm dứt hoạt động hoặc được cải tổ, tất cả các cán bộ đương nhiệm của Toà án đó phải được bổ nhiệm lại hoặc bổ nhiệm vào vị trí cùng cấp và cùng nhiệm kỳ ở một cơ quan tư pháp khác. Những cán bộ của Toà án bị chấm dứt hoạt động hoặc cải tổ không có vị trí tương ứng thay thế thì phải được bồi thường hoàn toàn.
30. Cơ quan hành pháp không được thuyên chuyển Thẩm phán từ vị trí có chức năng, thẩm quyền này sang vị trí có chức năng, thẩm quyền khác mà không được sự đồng ý của của Thẩm phán đó, nhưng nếu việc thuyên chuyển này nằm trong quá trình thực hiện một chính sách thống nhất của cơ quan hành pháp sau khi đã tham khảo ý kiến của cơ quan tư pháp thì không có bất kỳ Thẩm phán nào được phép từ chối với những lý do không chính đáng.
Các điều kiện xét xử:
31. Thẩm phán phải được hưởng sự ưu đãi thoả đáng và điều kiện làm việc thích hợp. Những ưu đãi và điều kiện làm việc của Thẩm phán không thể bị thay đổi theo chiều hướng bất lợi trong suốt nhiệm kỳ Thẩm phán, trừ trường hợp nếu sự thay đổi đó nằm trong biện pháp kinh tế công thống nhất và phải được sự đồng ý của tất cả hoặc đa số các Thẩm phán của Toà án có liên quan.
32. Thẩm phán được hưởng quyền miễn trừ trách nhiệm cá nhân đối với các vụ kiện dân sự đòi bồi thường những thiệt hại về vật chất gây ra do hành vi sai trái hoặc những sai sót của mình khi thực hiện chức năng xét xử. Quy định này không ảnh hưởng đến việc thực hiện các thủ tục thi hành kỷ luật đối với Thẩm phán, hoặc quyền khiếu nại cũng như yêu cầu bồi thường từ phía nhà nước theo quy định cửa pháp luật nước đó.
Thẩm quyền:
33. Cơ quan tư pháp có thẩm quyền đối với tất cả các vấn đề mang tính tư pháp và có thẩm quyền đặc biệt quyết định những vấn đề nào đó thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án hay không căn cứ theo quy định của pháp luật.
34. Thẩm quyền của Toà án cấp cao nhất trong một thể chế xã hội không thể bị hạn chế nếu không có sự đồng ý của các cán bộ Toà án đó.
Quản lý tư pháp:
35. Việc giao vụ án cho Thẩm phán xét xử là vấn đề thuộc quản lý tư pháp, và người chịu trách nhiệm giám sát cuối cùng là Chánh án của Toà án đó.
36. Trách nhiệm chính đối với quản lý tư pháp, bao gồm việc bổ nhiệm, giám sát và kỷ luật cán bộ quản lý và bộ máy giúp việc thuộc về cơ quan tư pháp hoặc một cơ quan có thẩm quyền với sự tham gia có hiệu quả của đại diện ngành Toà án.
37. Ngân sách của Toà án do Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền cùng phối hợp với Toà án dự trù dựa trên những nhu cầu cần thiết để đảm bảo độc lập xét xử và công tác quản lý hành chính. Ngân sách dành cho Toà án cần phải đủ để Toà án có thể thực hiện được chức năng của mình mà không phải đảm trách khối lượng công việc lớn quá mức.
Quan hệ với cơ quan hành pháp:
38. Cơ quan hành pháp không được phép sử dụng những quyền hạn có thể ảnh hưởng đến Thẩm phán đang đương nhiệm hoặc chế độ và điều kiện của họ với mục đích đe doạ hoặc gây áp lực can thiệp đối với một Thẩm phán hoặc một nhóm Thẩm phán cụ thể.
39. Thẩm phán không được phép tham gia giao dịch, đề xuất hoặc chấp nhận bất kỳ lợi ích nào khác nếu chúng ảnh hưởng hoặc có thể gây ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng xét xử.
40. Các cơ quan hành pháp có thẩm quyền phải luôn luôn bảo đảm an ninh và an toàn thân thể cho Thẩm phán và gia đình họ.
Nguồn lực:
41. Thẩm phán phải được hưởng các chế độ làm việc nghỉ ngơi cần thiết để có thể thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình.
42. Trong trường hợp điều kiện kinh tế hạn chế ảnh hưởng đến việc cung cấp cho hệ thống Toà án những phương tiện và điều kiện làm việc cần thiết để Thẩm phán thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thì công tác xét xử và hệ thống Toà án sẽ được đáp ứng các điều kiện vật chất ở mức độ ưu tiên cao để đáp ứng đòi hỏi duy trì pháp quyền và bảo vệ quyền con người.
Tình trạng khẩn cấp:
43. Trong tình trạng khẩn cấp công cộng đặc biệt đe doạ đến đời sống xã hội thì cho phép có sự vi phạm tính độc lập tư pháp, nhưng chỉ trong khoảng thời gian thật cần thiết và trong khuôn khổ các điều kiện được pháp luật quy định và phải phù hợp với chuẩn mực quốc tế, và sự vi phạm này có thể được Toà án xem xét lại. Trong thời gian có tình trạng khẩn cấp, Nhà nước cần cố gắng bảo đảm rằng bị cáo bị truy tố về bất kỳ tội phạm nào có thể bị xét xử ở Toà án dân sự thông thường và cơ sở và tính hợp pháp của việc giam giữ hành chính có thể bị Toà án hoặc cơ quan độc lập khác có thẩm quyền xem xét lại.
44. Thẩm quyền của Toà án binh được giới hạn đối với các tội phạm quân đội. Quyền kháng cáo lên Toà án hoặc hội đồng phúc thẩm có nghiệp vụ pháp lý để phúc thẩm lại phải được đảm bảo”[10].
Từ ngày 26/8 đến 06/9/1985, tại Milan (ITALIA), Hội nghị lần thứ 7 của Liên Hợp Quốc đã thông qua “Các nguyên tắc cơ bản của độc lập xét xử đối với các cơ quan Toà án trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm”. Theo đó, để đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán thì các nguyên tắc cần phải tuân thủ là:
+ Không được can thiệp bất hợp pháp và không đúng thẩm quyền vào quá trình xét xử và thông qua bản án;
+ Mỗi Nhà nước thành viên có nghĩa vụ bảo đảm cho các cơ quan Toà án các phương tiện cần thiết để thực hiện tốt công việc của mình;
+ Các thành viên của cơ quan Toà án cũng như mọi công dân khác cần sử dụng quyền tự do ngôn luận, tín ngưỡng, hội họp. Thẩm phán cần phải nghiêm chỉnh nhằm bảo đảm sự kính trọng đối với chức vụ của mình và bảo đảm sự vô tư và độc lập của các cơ quan Toà án.
+ Những cá nhân được tuyển chọn vào chức vụ Thẩm phán cần phải có những phẩm chất đạo đức cao cả và được đào tạo tốt trong lĩnh vực pháp luật. Bất kỳ sự tuyển chọn Thẩm phán nào cũng phải bảo đảm hợp pháp và không có sự phân biệt chủng tộc, màu da, dân tộc, tín ngưỡng, thành phần xã hội, tài sản... và Thẩm phán phải là công dân chính nước đó;
+ Nhiệm kỳ Thẩm phán, việc bảo đảm tính độc lập của Thẩm phán, an ninh, lương bổng, điều kiện làm việc, chế độ nghỉ hưu... cần phải được quy định trong pháp luật;
+ Thẩm phán (được bổ nhiệm hay bầu) phải được bảo đảm các mặt suốt nhiệm kỳ công tác cho đến lúc nghỉ huu hoặc hết nhiệm kỳ;
+ Thẩm phán có thể phải tạm nghỉ công việc hoặc bị nghỉ hẳn nếu như không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của người Thẩm phán hoặc đạo đức của Thẩm phán không xứng đáng với chức vụ của họ.
2.2. Tình hình thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Toà án ở nước ta
Nghiên cứu quá trình phát triển của hệ thống Toà án cho thấy mỗi bước thăng trầm của lịch sử Toà án nhân dân nước ta đã có những bước phát triển khác nhau và luôn là một công cụ đắc lực của chuyên chính vô sản góp phần quan trọng vào sự nghiệp dụng nước và giữ nước. Toà án đã xét xử kịp thời, nghiêm minh các tội phạm và các tranh chấp xảy ra trong xã hội. Thực hiện chủ trương tranh tụng theo định hướng của Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/1/2001 của Bộ Chính trị, các Toà án đã phối hợp chặt chẽ với Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp triển khai ngay việc tổ chức các phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp. Trong những năm qua, hầu hết các vụ án lớn, trọng điểm đã được các Toà án phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra xét xử kịp thời theo tinh thần cải cách tư pháp. Các vụ án lón như: vụ Trương Văn Cam và đồng bọn; vụ Lã Thị Kim Oanh, vụ buôn lậu ở Hang Dơi (Lạng Sơn); vụ Công ty Đông Nam; vụ Điện kế điện lực thành phố Hồ Chí Minh, vụ Kim Văn Phương và đồng bọn phạm tội về ma tuý; vụ Công ty Dược và xuất nhập khẩu Cà Mau; vụ Mai Văn Huy và đồng bọn phạm tội tham ô, cố ý làm trái xảy ra tại Công ty thương mại xuất nhập khấu dầu khí Đồng Tháp; vụ Trần Hồng Sơn phạm tội tham ô, cố ý làm trái, đưa và nhận hối lộ xảy ra ở huyện Mường Tè (Lai Châu); vụ Phạm Văn Phương (Phương VICARENT) về tội lừa đảo và cưỡng đoạt tài sản ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Các phán quyết của Toà án khách quan, đúng pháp luật và được dư luận đồng tình ủng hộ. Việc tổ chức các phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp đã đề cao vị trí, vai trò và tinh thần trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng, nhất là việc tranh tụng dân chủ giữa kiểm sát viên với luật sư và những người tham gia tố tụng khác, góp phần khắc phục oan sai, nâng cao chất lượng xét xử và bảo đảm giải quyết các vụ án trong thời hạn luật định. Tỷ lệ các bản án, quyết định của Toà án bị sửa, hủy đã giảm theo từng năm; việc kết án oan, sai cũng đã giảm mạnh: năm 2002 có 23 trường hợp bị kết án oan, năm 2005 chỉ còn 4 trường hợp. Một số địa phương làm tốt công tác này là Đồng Nai, Hưng Yên....[11]
Việc tăng thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự và dân sự cho các Toà án nhân dân cấp huyện cho thấy chủ trương này là phù hợp với yêu cầu của thực tiễn hoạt động tư pháp, đặc biệt là hoạt động xét xử của Toà án nhân dân, bước đầu giảm bớt áp lực công việc cho các Toà án nhân dân cấp tỉnh và các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân, tạo điều kiện cho Toà án nhân dân tối cao tập trung vào công tác giám đốc thẩm, tái thẩm, tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn các Toà án áp dụng thống nhất pháp luật, bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án này nhanh chóng hơn, phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị của các địa phương, bảo đảm cho Toà án độc lập trong công tác xét xử. Hệ thống các cơ quan tư pháp đã được điều chỉnh, sắp xếp lại phù hợp với một số điều chỉnh về chức năng, nhiệm vụ theo tinh thần cải cách tư pháp. Để triển khai Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, Toà án nhân dân tối cao đã tiếp nhận và quản lý các Toà án địa phương về mặt tổ chức; hiện công tác này đã đi vào nề nếp. Bên cạnh đó, Toà án nhân dân tối cao đã thành lập Vụ Kế hoạch tài chính, bổ sung chức năng nhiệm vụ, tăng cường cán bộ, kiện toàn lãnh đạo cho Vụ tổ chức cán bộ, Ban Thư ký, Ban thanh tra Toà án nhân dân tối cao; củng cố bộ máy giúp việc Toà án quân sự, thành lập Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, đồng thời thành lập Phòng tổ chức cán bộ Toà án nhân dân cấp tỉnh để thực hiện nhiệm vụ được giao. Các Toà án đã đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức Toà án các cấp; bố trí sử dụng cán bộ hợp lý, xác định lại nhu cầu biên chế của từng đơn vị theo yêu cầu của công việc, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và kiện toàn bộ máy Toà án các cấp đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ. Thủ tục xem xét và bổ nhiệm Thẩm phán và cán bộ có chức danh tư pháp của ngành Toà án nhân dân được đổi mới, tiến hành nhanh, bảo đảm các tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức, phẩm chất, nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ có chức danh tư pháp. Việc tuyển dụng cán bộ, công chức của Toà án được thực hiện thông qua thi tuyển, đặc biệt là cán bộ được tuyển dụng làm thư ký Toà án các cấp được kiện toàn, bổ sung, đảm bảo công tác chỉ đạo, điều hành việc thực hiện các nhiệm vụ của cơ quan Toà án. Công tác luân chuyển cán bộ chủ chốt được thực hiện khá tốt giữa các Toà án cấp trên và cấp dưới nhằm tăng cường cán bộ lãnh đạo cho các Toà án.
Nhận thức về vai trò, vị trí của Toà án trong hệ thống các cơ quan tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền đã có sự chuyển biến tích cực nhất lả từ khi có Nghị quyết số 08/NQ-TW, thực hiện tốt nguyên tắc độc lập xét xử đã góp phần bảo đảm cho Toà án thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án ở Trung ương và địa phương đã có sự phối kết hợp chặt chẽ hơn. Mối quan hệ phối hợp giữa các ngành, bước đầu đã được thể chế hoá bằng pháp luật, bằng quy chế phối hợp trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ mỗi ngành do pháp luật quy định theo tinh thần cải cách tư pháp.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, để Toà án được độc lập trong xét xử, cần phải có những bảo đảm rõ ràng, cụ thể. Chúng tôi lần lượt phân tích các nhược điểm của những bảo đảm đó.
Về pháp luật nội dung: trong những năm qua, mặc dù số lượng văn bản pháp luật liên quan đến công tác tư pháp được ban hành nhiều hơn và có chất lượng hơn đã tạo cơ sở pháp lý cho việc xét xử độc lập của Toà án. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều quy định làm hạn chế hoặc cản trở Hội đồng xét xử thực hiện quyền năng của mình. Điều 295 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về Tội ra bản án trái pháp luật: “1. Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm; 3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. 4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm”. Điều 296 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về Tội ra quyết định trái pháp luật, thì: “1. Người nào có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án ra quyết định mà mình biết rõ là trái pháp luật gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 3, Phạm tội gây hậu qua rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm. 4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm”.
Việc quy định hai điều luật này nhằm nâng cao trách nhiệm của hội đồng xét xử khi ra bản án, quyết định của Toà án, nhưng mặt khác cũng gây tâm lý lo sợ, e ngại làm sai nên không dám độc lập trong việc ra bản án, quyết định mà thường muốn xin ý kiến chỉ đạo về đường lối xét xử. Mặt khác, quyền miễn trừ trách nhiệm cá nhân do hành vi sai trái hoặc sai sót của mình khi thực hiện chức năng xét xử của Thẩm phán theo tuyên bố Bắc Kinh chúng ta cần tính đến.
Trong Bộ luật hình sự năm 1999, các tình tiết định khung như “phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng”, “phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng” trong các cấu thành tội phạm cụ thể chưa được hướng dẫn chi tiết nên hội đồng xét xử thường lúng túng khi cần xác định cụ thể như thế nào là phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng và phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng, cũng như phân biệt các tình tiết này và các tình tiết định khung tăng nặng khác như “gây hậu quả nghiêm trọng”5, “gây hậu quả rất nghiêm trọng” nhưng ở khoản tăng nặng tiếp theo lại quy định các tình tiết phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng, phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng dẫn đến không nhất quán và rất khó xác định cụ thể trong thực tiễn.
Về pháp luật tố tụng: trong hoạt động tố tụng, theo quy định của pháp luật thì tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm với tư cách là những thành viên trong hội đồng xét xử còn chưa thực sự được đảm bảo. Toà án không chỉ phụ thuộc vào hồ sơ điều tra của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, mà còn bị giới hạn ở phạm vi xét xử. Theo quy định của Điều 170 BLTTHS năm 2003 “Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử”; “Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện Kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố” (Điều 196 BLTTHS). Theo quy định này thì Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử. Tại mục V Thông tư liên ngành số 01/LN ngày 08/12/1988 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS thì: “... các Toà án không xét xử những người và những hành vi chưa được Viện kiểm sát truy tố và không xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. Trước khi mở phiên toà, nếu Toà án thấy cần phải truy tố thêm người, thêm tội hoặc cần xét xử bị cáo theo tội danh khác nặng hơn, thì Toà án trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung và thay đổi cáo trạng... Trong trường hợp Toà án đề nghị Viện kiểm sát đổi tội danh nặng hơn và đã trao đổi mà Viện kiểm sát không nhất trí, thì cả hai bên phải báo cáo ngay với cấp trên của mình. Thủ trưởng hai cơ quan cấp trên cần trao đổi ngay để nếu thống nhất thì hướng dẫn cấp dưới thi hành, nếu không thống nhất ý kiến thì Toà án cấp dưới phải xét xử theo tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, hoặc áp dụng hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã đề nghị, thì Toà án không phải báo trước cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng”[12].
Như vậy, theo quy định trên thì khi xét xử, Toà án phải căn cứ vào bản cáo trạng của Viện kiểm sát để xem xét giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử không giải quyết những việc mà Viện kiểm sát chưa đề cập đến trong bản cáo trạng. Toà án không được xét xử những người và những hành vi chưa được Viện kiểm sát truy tố và không xét xử bị cáo theo tội danh khác nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. Điều này cho thấy rằng Toà án bị hạn chế không được xét xử đối với tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố chứ không bị hạn chế bởi khung hình phạt nặng hơn. Trong trường hợp Toà án đề nghị thay đổi khung hình phạt nặng hơn nhưng Viện kiểm sát không đồng ý với việc thay đổi khung hình phạt nặng hơn khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố thì Toà án vẫn có quyền quyết định mà không lệ thuộc vào quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, trong thực tế nếu xảy ra trường hợp này thì Viện kiểm sát sử dụng quyền kháng nghị của mình để đề nghị xem xét lại bản án. Chính vì vậy, việc quy định giới hạn xét xử như trên chưa thực sự thoả đáng bởi lẽ theo quy định của pháp luật thì Toà án và Viện kiểm sát. là hai cơ quan tiến hành tố tụng, có cùng mục đích tố tụng là đảm bảo giải quyết vụ án khách quan, đúng người đúng tội đúng pháp luật, đảm bảo công bằng xã hội. Viện kiểm sát và Toà án có chức năng khác nhau. Để thực hiện chức năng của mình, mỗi cơ quan có cơ cấu tổ chức và hoạt động với những nhiệm vụ, quyền hạn riêng. Theo quy định của Bộ luật hình sự thì chỉ có Viện kiểm sát có quyền quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện hành vi phạm tội và truy tố theo tội danh Bộ luật hình sự quy định và Toà án có quyền xét xử, xác định người đó có tội hay không có tội, nếu có tội thì phạm tội gì và quy định tại điều nào của Bộ luật hình sụ. Vì vậy, nếu Viện kiểm sát truy tố sai tội danh và các sự kiện, tài liệu được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát sử dụng làm chứng cứ bị loại trừ bởi chúng không phù hợp với sự thật của vụ án trong khi đó những tài liệu, chứng cứ mới thu thập được qua quá trình xét hỏi tại phiên toà lại phản ánh đúng thực tế của vụ án đủ điều kiện đưa ra kết luận khác với kết luận của Viện kiểm sát, mặt khác tại khoản 1, Điều 159 Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định: Bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà. Nhưng theo quy định tại Điều 170 BLTTHS và Thông tư nêu trên thì khi biết sai nhưng ngay Toà án không định lại tội danh được, và nếu cứ quyết định theo cáo trạng của Viện kiểm sát thì sẽ không đảm bảo tính khách quan và phù hợp với các tình tiết tại phiên toà. Chính vì vậy, đây có thể coi là một minh chứng nổi bật về sự bất cập của pháp luật làm cho Toà án chưa thực sự độc lập và có quyền quyết định vụ việc theo các tình tiết khách quan tại phiên toà cũng như các chứng cứ khác.
Về quản ỉý Toà án: Theo quy định tại Điều 17, 18, 19 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 thì Toà án nhân dân tối cao quản lý các Toà án nhân dân địa phương về tổ chức; Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ: hướng dẫn các Toà án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của Toà án; Giám đốc việc xét xử của Toà án cấp dưới. Có thể nói rằng, Toà án nhân dân địa phương hiện nay không chỉ chịu sự hướng dẫn về việc áp dụng thống nhất pháp luật, mà còn chịu sự quản lý về tổ chức của Toà án nhân dân tối cao. Vậy, mối quan hệ quản lý và hướng dẫn này có ảnh hưởng, tác động, chi phối đến hoạt động xét xử độc lập của Toà án không? Về vấn đề này, từ lâu đã có hai loại quan điểm trái ngược nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng việc giao công tác quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức cho Toà án nhân dân tối cao là nội dung mới của Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002. Thực hiện cơ chế này có ý nghĩa làm giảm bớt đầu mối, phù hợp với chủ trương cải cách các thủ tục hành chính hiện nay, tạo điều kiện cho Toà án nhân dân thực hiện một cách có hiệu quả hơn hoạt động xét xử của mình. Việc giao cho Toà án nhân dân tối cao quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức không ảnh hưởng đến nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, bởi vì, pháp luật nước ta (kể cả pháp luật về nội dung (Hiến pháp, Luật Tổ chức Toà án nhân dân...) cũng như pháp luật về tố tụng (Tố tụng hình sự, Tố tụng dân sự, Tố tụng hành chính...) đã có khá đầy đủ những quy định mang tính hệ thống nhằm bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế, cụ thể là:
-
Toà án nhân dân xét xử công khai (Điều 131 Hiến pháp năm 1992, Điều 7 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, Điều 9 BLTTHS năm 2003).
-
Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (Điều 11 BLTTHS năm 2003).
-
Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi nếu có căn cứ cho thấy có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ (Điều 30 BLTTHS, Điều 12 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân...).
-
Thẩm phán phải xem xét và giải quyết vụ án trên cơ sở chứng cứ chứ không phụ thuộc vào bất kỳ đối tượng nào. Thẩm phán và Hội thẩm chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ sai phạm và hậu quả mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án một cách trái pháp luật đều có thể bị xử lý nghiêm khắc theo Điều 295 (tội ra bản án trái pháp luật), Thẩm phán cũng có thể phải bị truy tố về các tội phạm có liên quan đến chức vụ của mình, như tội nhận hối lộ (Điều 279), tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281) BLHS 1999.
-
Nghiêm cấm mọi hành vi can thiệp vào công tác xét xử Thẩm phán, mọi hành vi ép buộc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân làm trái pháp luật trong hoạt động xét xử có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 297 (tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật) của BLHS 1999...
Việc giao cho Toà án nhân dân tối cao quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức không làm xuất hiện tính chất “khép kín” và Nhà nước có thể kiểm soát được cơ quan Toà án. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, có thể thấy rằng, trong hoạt động xét xử của Toà án còn có vai trò của người bào chữa, hoạt động xét xử của Toà án trong nhiều trường hợp không tách rời và phải dựa trên kết quả hoạt động giám định tư pháp, công chứng... trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Bên cạnh đó, trong hoạt động xét xử của Toà án, pháp luật còn quy định việc kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát nhân dân, giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và điều quan trọng nữa là hoạt động xét xử cũng như vấn đề quản lý cán bộ Toà án các cấp còn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Như vậy, với những quy định trên và căn cứ vào những quy định khác của pháp luật về việc tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm, Thẩm phán, việc giao cho Toà án nhân dân tối cao quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức không gắn với yếu tố “khép kín” trong tổ chức và hoạt động của ngành.
Quan điểm thứ hai cho rằng việc giao Toà án nhân dân địa phương cho Toà án nhân dân tối cao quản lý như quy định hiện hành sẽ ảnh hưởng đến nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Bởi vì: Thứ nhất, Tòa án là cơ quan xét xử, không phải là cơ quan quàn lý hành chính. Khác với Bộ, ngành, các Tòa án tuy khác nhau về thẩm quyền nhưng đều là cơ quan xét xử, chỉ quan hệ với nhau về mặt tố tụng và đều nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam để phán quyết. Do đó, các Tòa án nhân dân không thể tổ chức như một ngành, Toà án nhân dân tối cao không làm nhiệm vụ như một Bộ của hệ thống hành pháp, các Toà án cấp dưới không phụ thuộc và phục tùng cấp trên theo các nguyên tắc tổ chức và hoạt động hành chính, Toà án nhân dân tối cao cũng là cơ quan xét xử, và khi xét xử Chánh án Toà án nhân dân tối cao cũng thực hiện nhiệm vụ như một Thẩm phán. Do đặc thù này mà các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 đã quy định thành một nguyên tắc truyền thống: các Toà án nhân dân đều là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu quan hệ giữa ba cấp Toà án, bên cạnh quan hệ tố tụng đã khá chặt chẽ, nếu về mặt tổ chức lại được hành chính hoá, cấp dưới trực thuộc cấp trên trực tiếp về mặt tổ chức với những thẩm quyền về mặt đánh giá, bố trí, sử dụng, thì sẽ tạo nên một áp lực tâm lý thường xuyên của cấp dưới đối với cấp trên như thế nào. Trong bộ máy Nhà nước ta, hoạt động quản lý (các Hiến pháp gọi là hoạt động chấp hành và hành chính) là hoạt động chủ yếu thuộc ngành hành pháp, ở cấp trung ương, là Chính phủ. Chính phủ có trách nhiệm quản lý toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội. Nền hành chính quốc gia là một chính thể thống nhất. Vì vậy, không thể tách quản lý tư pháp khỏi hoạt động quản lý nói chung của Chính phủ. Nếu Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức, thì một mặt sẽ biến Tòa án nhân dân tối cao thành cơ quan xét xử; đồng thời, là cơ quan quản lý, trái với nguyên tắc Hiến pháp quy định tòa án chỉ là cơ quan xét xử, không phù hợp với chủ trương của Đảng là phân định rõ chức năng, tránh sự chồng chéo trong chức năng, thẩm quyền của bộ máy nhà nước, bảo đảm quyền lực thống nhất nhưng có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thứ hai, Toà án nhân dân tối cao không có chức năng quản lý chuyên môn, nghiệp vụ đối với Toà án địa phương. Xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động xét xử mà trong tổ chức của Tòa án không có Toả án cấp trên, tòa án cấp dưới. Quan hệ giữa các tòa án là quan hệ theo thẩm quyền tố tụng, theo cấp xét xử độc lập với nhau. Do đó, trong công tác quản lý tòa án địa phương không có nội dung quản lý chuyên môn, nghiệp vụ; chỉ có nội dung quản lý về mặt tổ chức, chăm lo về đào tạo, bố trí cán bộ, về cơ sở vật chất và điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ Toà án với mục đích bảo đảm cho các tòa án tập trung thực hiện thẩm quyền tố tụng một cách độc lập và khách quan nhất. Việc Tòa án nhân dân tối cao quyền quản lý các tòa án địa phương về mặt tổ chức thì cùng với quyền năng tố tụng hiện có, các cơ quan tòa án sẽ trở thành một hệ thống cơ quan xét xử khép kín. Việc hành chính hoá quan hệ giữa các Toà án cùng với quan niệm không đúng về “quản lý chuyên môn, nghiệp vụ xét xử” sẽ có nguy cơ thực tế dẫn đến cách hiểu và cách làm thông thường trong quan hệ giữa người quản lý và người bị quản lý, bao hàm cả việc Toà án “cấp dưới” bị lệ thuộc và phải xin ý kiến, thỉnh thị án ở Toà án “cấp trên” hoặc, ngược, lại, Toà án cấp trên thực hiện việc quản lý, chỉ đạo thường xuyên và từng việc cụ thể đối với các Toà án thuộc quyền quản lý. Điều đó chứa đụng khả năng tiềm ấn không những làm tốn hại đến nguyên tắc độc lập xét xử của các Tòa án nhân dân, mà ở mức độ đáng kể còn có thể vô hiệu hóa hoạt động kháng nghị của Viện kiểm sát, kháng cáo của đương sự, các hoạt động của cơ quan điều tra, luật sư, giám định cũng bị ảnh hưởng. Bởi vì, một khi Tòa án cấp trên được giao nhiệm vụ quản lý Toà án cấp dưới về mặt tổ chức, thì Toà án cấp trên phải có trách nhiệm về chất lượng xét xử của Thẩm phán cấp dưới, cách thức tổ chức hoạt động xét xử, kinh phí, phương tiện của Toà án cấp dưới. Tình hình đó sẽ tạo ra trách nhiệm trở lại của Toà án cấp trên đối với Toà án cấp dưới, dễ làm phát sinh tâm lý nương nhẹ, cho qua đối với những sai sót trong xét xử của Toà án cấp dưới vì mình cũng có phần trách nhiệm nếu án của Toà án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị, bị hủy hoặc cải sửa. Chính vì vậy, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan giám định có thể bị vô hiệu hoá, còn các quy định về thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm cũng dễ trở thành hình thức. Việc Toà án nhân dân tối cao quản lý Toà án địa phương và khẳng định Toà án cấp trên quản lý chuyên môn nghiệp vụ đối với Tòa án cấp dưới thì đây chính là sự hợp thức hóa thực tế không bình thường đang diễn ra, vi phạm nguyên tắc độc lập, khách quan trong hoạt động xét xử.
Về đội ngũ cán bộ: Qua nghiên cứu thực trạng đội ngũ Thẩm phán cho thấy trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như trình độ lý luận của Thẩm phán Toà án các cấp đã có sự tiến bộ rõ rệt so với các nhiệm kỳ trước, số Thẩm phán được bổ nhiệm lần đầu đều có trình độ cử nhân luật và đều được đào tạo về nghiệp vụ xét xử. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại tình trạng Thẩm phán chưa có bằng đại học luật. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu do quá trình hình thành đội ngũ cán bộ Toà án, đội ngũ Thẩm phán trong những năm trước đây được xuất phát từ nhiều nguồn cán bộ khác nhau, tiêu chuẩn về chuyên môn chưa được chú ý, quan tâm đúng mức mà chỉ chú ý đến tiêu chuẩn, phẩm chất chính trị, đạo đức và yêu cầu có người để giải quyết công việc. Mặt khác, theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 1993 thì cho phép cả những người có trình độ cao đẳng Toà án và tương đương có thể được bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án các cấp và thực tế nếu không bổ nhiệm những trường hợp đó thì không có nguồn bổ nhiệm Thẩm phán. Vì vậy mà còn một số lượng đáng kể Thẩm phán chỉ có bằng cao đẳng Toà án, cao đẳng kiểm sát hoặc chứng chỉ, luân huấn luật. Vì thế Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002 quy định đối tượng như trên là chưa đủ điều kiện chuyên môn và trong nhiệm kỳ bổ nhiệm phải được học tập để đạt trình độ cử nhân luật.
Hiện nay, ở nước ta, bên cạnh một số Thẩm phán có trình độ chuyên môn nghiệp vụ thực hiện được nhiệm vụ của mình thì vẫn còn rất nhiều Thẩm phán, đặc biệt là Thẩm phán Toà án cấp quận, huyện, Toà án quân sự khu vực năng lực, trình độ chuyên môn còn yếu và chính điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sự độc lập của họ khi xét xử. Vì năng lực, trình độ nghiệp vụ yếu nên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Thẩm phán đã thiếu tự tin, ỷ lại hoặc sợ trách nhiệm, không tự quyết định được những vấn đề đặt ra khi xét xử và họ đã đánh mất tính độc lập của mình bằng cách chủ động xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên.
Qua rà soát, đánh giá chất lượng công tác và qua công tác bổ nhiệm Thẩm phán của Toà án nhân dân dân tối cao cho thấy có khoảng trên dưới 10% số lượng Thẩm phán năng lực công tác yếu, có số án bị hủy hoặc bị sửa nghiêm trọng do lỗi chủ quan từ 3-5%, số Thẩm phán này tập trung chủ yếu ở các huyện miền núi, vùng cao, vùng sâu[13].
Tuy nhiên, trên thực tế thì năng lực công tác xét xử của Thẩm phán trên các địa bàn, giữa các cấp Toà án với nhau là không đồng đều, điều này thể hiện ở chỗ hiệu quả chất lượng xét xử của Thẩm phán ở các thành phố lớn cao hơn Thẩm phán ở các địa bản khác, có Thẩm phán ở các thành phố lớn xét xử 10 - 15 vụ án/tháng trong khi đó Thẩm phán ở các tỉnh khác chỉ xét xử 1,5 - 3 vụ/tháng. Mặt khác, Thẩm phán Toà án cấp huyện thường có số bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ quan cao hơn so với Thẩm phán cấp tỉnh.
Về tiền lương và chế độ khác: Bảng lương ngạch Thẩm phán được thực hiện theo Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQH ngày 30/9/2004 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc phê chuẩn bảng lương chuyên môn nghiệp vụ ngành Toà án, ngành Kiểm sát.
Bảng lương cán bộ, công chức Toà án nhân dân kèm theo Công văn số 37/TCCB ngày 27/01/2005 của Toà án nhân dân tối cao:
Nhóm ngạch, chức danh
|
Mã ngạch
|
Bậc 1
|
Bậc 2
|
Bậc 3
|
Bậc 4
|
Bậc 5
|
Bậc 6
|
Bậc 7
|
Bậc 8
|
Bậc 9
|
Vượt Khung
|
Vượt Khung
|
Thẩm phán TA NDTC
|
|
6,20
|
6,56
|
6,92
|
7,28
|
8,00
|
|
|
|
|
5%
|
|
Thẩm phán TAND cấp tỉnh
|
|
4,40
|
4,79
|
5,08
|
5,42
|
6,10
|
6,44
|
6,78
|
|
|
5%
|
|
Thẩm phán TAND cấp huyện
|
|
2,34
|
2,67
|
3,00
|
3,33
|
3,36
|
3,99
|
4,32
|
4,65
|
4,98
|
5%
|
8%
|
Về chế độ bồi dưỡng phiên toà: hiện nay, chế độ bồi dưỡng phiên toà đối với Thẩm phán áp dụng theo Quyết định số 241/2006/QĐ-TTg ngày 25/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ. Cụ thể là: Thẩm phán - chủ toạ phiên toà được bồi dưỡng 50.000đ/ngày xét xử; Thẩm phán, kiểm sát viên tham gia phiên toà được bồi dưỡng 30.000đ/ngày xét xử.
Về phụ cấp trách nhiệm, theo quy định tại Quyết định số 171/2005/QĐ-TTg ngày 08/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ thi: Thẩm phán TAND cấp huyện với mức phụ cấp 30% mức lương hiện hưởng cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung nếu có; Thẩm phán TAND cấp tỉnh phụ cấp 25% mức lương hiện hưởng cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung nếu có; Thẩm phán TANDTC phụ cấp 20% mức lương hiện hưởng cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung nếu có.
Qua nghiên cứu mức lương, phụ cấp và chế độ bồi dưỡng như trên của Thẩm phán cho thấy mặc dù công việc của Thẩm phán rất nặng nề nhưng lương, phụ cấp và chế độ bồi dưỡng còn thấp nên trên thực tế rất khó đảm bảo tính độc lập của Thẩm phán.
Về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống: Qua đánh giá của Chánh án Toà án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2005 và triển khai công tác năm 2006 cho thấy: trong một số trường hợp tinh thẩn kiên quyết bảo vệ pháp luật của Thẩm phán còn yếu, không giữ vững nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật, để việc tác động trái pháp luật từ bên ngoài ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn vụ án, cá biệt vẫn còn có những trường hợp cán bộ, Thẩm phán vi phạm phẩm chất đạo đức, vi phạm pháp luật phải xem xét xử lý kỷ luật, thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự, có đơn vị để xảy ra tình trạng mất đoàn kết nội bộ, làm ảnh hưởng đến công tác của đơn vị. Theo Báo cáo tổng kết và báo cáo chuyên đề các năm 2003 – 2004 - 2005 của Toà án nhân dân tối cao thì số lượng cán bộ, Thẩm phán của ngành Toà án nhân dân có vi phạm bị xử lý, kỷ luật với số lượng như sau:
Năm 2003
|
Có 35 người bị xử lý kỷ luật, trong đó 5 trường hợp bị Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định cách chức Thẩm phán, 26 trường hợp khiển trách, cảnh cáo về Đảng hoặc chính quyền, 4 trường hợp bị đình chỉ công tác để điều tra về hành vi nhận hối lộ và có một tập thể Ban cán sự Đảng Toà án nhân dân cấp tỉnh bị kỷ luật với hình thức cảnh cáo.
|
Năm 2004
|
Có 10 Thẩm phán Toà án nhân dân bị kỷ luật, trong đó có 3 trường hợp bị cách chức Thẩm phán do có hành vi tiêu cực như: nhận hối lộ, vi phạm đạo đức, sử dụng bằng giả, ra quyết định trái pháp luật.
|
Năm 2005
|
Có 21 cán bộ Toà án bị xử lý kỷ luật, trong đó có 9 Thẩm phán, trong số 21 trường hợp bị xử lý kỷ luật có 4 trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
|
Về quy trình bổ nhiệm Thẩm phán: Khoản 1 Điều 26 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân ngày 04/10/2002 quy định: “Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán TANDTC, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương gồm có Chánh án TANDTC làm chủ tịch, đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tố quốc Việt Nam, Ban Chấp hành trung ương Hội luật gia Việt Nam là ủy viên” và khoản 1 Điều 27 quy định: “Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện gồm có Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh làm Chủ tịch, Chánh án TAND cấp tỉnh, đại diện lãnh đạo Ban Tổ chức chính quyền, Ủy ban Mặt trận Tố quốc Việt Nam, Ban Chấp hành Hội luật gia là ủy viên”. Như vậy, tuỳ theo việc Thẩm phán đang làm việc tại Toà án cấp nào mà họ có thể bị phụ thuộc vào các thành viên của Hội đồng tuyển chọn trong quá trình xét xử. Ở đây cần phải thấy rằng bản thân các quy định trên đây của pháp luật không hạn chế hay gây ảnh hưởng đến sự độc lập của Thẩm phán khi xét xử. Nhưng trong thực tế, vì tồn tại quan hệ phụ thuộc giữa Thẩm phán với từng thành viên trong Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán nên đã có không ít Thẩm phán và trong không ít trường hợp đã làm theo đề nghị, yêu cầu của ai đó trong số những người nêu trên để mong có cơ hội tiếp tục được tái tuyển chọn và tái bổ nhiệm vào chức danh Thẩm phán trong nhiệm kỳ sau. Trong trường hợp này, lại một lần nữa chúng ta thấy chính bản thân Thẩm phán đã tự chối bỏ sự độc lập của mình khi xét xử - điều mà pháp luật đã trao cho họ. Ngoài ra, trong thực tế cũng đã có những trường hợp thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc làm mất đi tính độc lập của Thẩm phán khi xét xử.
Về nhiệm kỳ của Thẩm phán: ở nhiều nước, một cơ chế nâng cao tính độc lập hoạt động của Thẩm phán đó là bảo đảm cho các vị Thẩm phán một chế độ bổ nhiệm và nhiệm kỳ đặc biệt. Hamitoa đã viết: “Trong tất cả các yếu tố khiến cho ngành tư pháp có thể duy trì được tính độc lập và cương quyết của mình, nhiệm kỳ trường kỷ của các vị Chánh án là yếu tố quan trọng nhất...”[14]. Điều đó đã được thể hiện trong Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (tại khoản một Điều III): “... Các pháp quan tối cao pháp viện và của những pháp viện hạ cấp sẽ giữ chức vụ của mình vĩnh viễn nếu lúc nào cũng có một hành vi chính đáng. Và sẽ có quyền hưởng, trong những kỳ hạn nhất định một trợ cấp sẽ không bao giờ bị sút giảm suốt trong thời kỳ tại chức”. Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức năm 1959 tại Điều 97 quy định: “Những Thẩm phán được bổ nhiệm chính và theo kế hoạch chỉ có thể bị bãi nhiệm trước khi kết thúc nhiệm kỳ họ, hoặc bị tước cương vị lâu dài hay ngắn hạn... bằng một quyết định của TA và chỉ khi có lý do. Cơ quan lập pháp có thể quy định giới hạn tuổi hưu của các Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời...”. Hiến pháp Nhật Bản năm 1946 tại Điều 78 ghi: “Các Thẩm phán chỉ bị cách chức theo thủ tục đặc biệt... không một cơ quan nào trong ngành hành pháp có thể áp dụng biện pháp kỷ luật đối với Thẩm phán”. Trong khi đó, ở Việt Nam, Thẩm phán được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 5 năm là quá ngắn. Với việc quy định nhiệm kỳ bổ nhiệm 5 năm thì rất khó bảo đảm cho Thẩm phán yên tâm trong hoạt động của mình và điều này không phù hợp với xu thế hiện nay ở một số nước trên thế giới với việc bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời hoặc với nhiệm kỳ dài hơn (Tuyên bố Bắc Kinh). Do đó, trong thời gian tới cần nghiên cứu quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán với thới hạn nhiều hơn hoặc suốt đời.
Về Hội thẩm nhân dân: theo quy định của pháp luật hiện hành với đa số trong Hội đồng xét xử sơ thẩm, các Hội thẩm có thể tạo ra sự chế ước khi đưa ra phán quyết, nhưng với điều kiện họ xét xử công minh, có sự vũng vàng về kiến thức pháp lý và dũng cảm bảo vệ công lý. Đây chính là sự tạo điều kiện từ phía Nhà nước để những người đại diện cho nhân dân trực tiếp quyết định chất lượng xét xử của một cấp xét xử quan trọng - xét xử sơ thẩm. Sự chế ước này có tác dụng góp phần làm cho kết quả xét xử phù hợp với thực tế khách quan, nhưng nếu sự chế ước chỉ thông qua việc áp đảo vể số lượng thì chưa đủ. Vấn đề là ở chỗ họ còn phải sử dụng kinh nghiệm xã hội và kiến thức chuyên môn để tạo ra sự chế ước lành mạnh. Cả nước có hơn 11.000 Hội thẩm nhưng tiêu chuẩn chuyên môn của họ lại rất chung chung, chưa cụ thể như theo quy định của pháp luật, và khác xa với các tiêu chuẩn về chuyên môn đối với Thẩm phán. Như vậy, xét về lôgíc, trên thực tế Hội thẩm sẽ khó thực hiện được nguyên tắc độc lập xét xử như các Thẩm phán chuyên nghiệp, họ như những người lao động mà không có đủ công cụ chuyên dùng. Trong hoàn cảnh như vậy thì Hội thẩm sẽ bị hạn chế khi cần phải vận dụng kiến thức chuyên môn để bảo vệ ý kiến của mình. Rõ ràng, sự độc lập của Hội thẩm chỉ có tính chất tương đối trong điều kiện hiện nay. Đây là yếu tố ảnh hưởng đến việc nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Hội thẩm khi xét xử.
Việc khắc phục yếu tố trình độ chuyên môn và nghiệp vụ để Hội thẩm thực sụ độc lập là vấn đề nan giải, ở đây phải giải quyết một mâu thuẫn là: nếu đòi hỏi tất cả Hội thẩm phải có trình độ pháp lý như Thẩm phán thì có nghĩa là “Thẩm phán hoá” đội ngũ Hội thẩm và rõ ràng là sẽ không cần sử dụng đến đội ngũ Hội thẩm như hiện nay. Nhưng nếu cứ để trình độ Hội thẩm như hiện nay thì e rằng chất lượng xét xử sẽ không thể như mong muốn được. Nhà nước cần trang bị cho các Hội thẩm kiến thức pháp lý ở mức cần thiết để họ có thể tự tin, giữ vững bản lĩnh khi xét xử. ở đây, có thể đồng tình với một học giả Xô viết trước đây khi ông cho rằng: “Việc mở rộng yếu tố nhân dân trong Toà án Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử, có thể chừng mực nào đó gây tổn hại cho sự chuẩn mực về chuyên môn trong những lời tuyên án, nhưng điều đó là cần thiết vì nhân dân muốn và cần phải có tiếng nói quyết định trong việc thực hiện công tác xét xử”[15].
Trách nhiệm pháp lý của Hội thẩm: Khi nghiên cứu vai trò của các thành viên hội đồng xét xử cho thấy trong trường hợp ý kiến của đa số Hội thẩm khác với ý kiến của Thẩm phán Chủ toạ phiên toà khi nghị án thì phải tôn trọng theo đa số. Sau đó, bản án bị kháng cáo, kháng nghị hoặc xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm thì trước hết Thẩm phán được giao giải quyết vụ án phải chịu trách nhiệm. Vậy, pháp luật trao quyền cho Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử với tư cách là người tiến hành tố tụng thì cũng cần quy định rõ trách nhiệm của Hội thẩm như thế nào, mức độ đến đâu. Hoặc trong Hội đồng xét xử sơ thẩm về hình sự, số lượng Hội thẩm nhiều hơn Thẩm phán, vậy khi bản án có sai lầm thì trách nhiệm pháp lý của Hội thẩm như thế nào?. Đối với họ có thể áp dụng các nguyên tắc về bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của những người tiến hành tố tụng gây ra hay không? Và cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm về hiệu quả và chất lượng hoạt động của hội thẩm. Ý kiến khác cũng cho rằng mỗi một sơ suất, yếu kém trong nghiệp vụ, mỗi bản án bị Toà án cấp trên cải sửa hoặc hủy... thì Thẩm phán đều phải chịu trách nhiệm theo mức độ nhất định (kể cả việc mất điểm thi đua). Trong trường hợp như vậy thì trách nhiệm của Hội thẩm ra sao không được quy định rõ ràng và không có quy chế ràng buộc.
Cơ sở vật chất, kỹ thuật hảo đảm cho hoạt động xét xử của Toà án: vấn đề cơ sở vật chất kỹ thuật và điều kiện làm việc của các cơ quan Toà án trong những năm qua còn gặp nhiều khó khăn và có ảnh hưởng nhất định đến sự độc lập xét xử của Toà án. Tại mục 3 phần đánh giá tình hình công tác tư pháp trong những năm qua của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã khẳng định: “Cơ sở vật chất và điều kiện làm việc của các cơ quan tư pháp nhất là ở cấp huyện nhiều nơi trụ sở còn chật chội, phương tiện làm việc vừa thiếu, vừa lạc hậu, chính sách đối với cán bộ tư pháp chưa tương xứng với nhiệm vụ và trách nhiệm được giao”. Qua khảo sát và nghiên cứu tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật trang thiết bị của Toà án đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa trong những năm qua cho thấy không nằm ngoài nhận định, đánh giá trên. Có thể nói trụ sở của Toà án hiện nay được đổi mới khang trang hơn nhiều so với trước nhưng vẫn chưa đảm bảo thực sự là bộ mặt của cơ quan xét xử, một số trụ sở Toà án đã xuống cấp nghiêm trọng nhất là ở vùng sâu, vùng xa.
Về trang thiết bị và phương tiện làm việc: trong thời gian qua, các Toà án nhất là Toà án cấp huyện đã được trang bị một số phương tiện làm việc thiết yếu như máy tính, bàn ghế làm việc. Phần lớn các Toà án đã được cấp xe máy, một số Toà án quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã đã được cấp máy phô tô nhưng nhìn chung trang thiết bị của các Toà án hiện nay vừa lạc hậu, chậm được đổi mới. Do việc đầu tư trang bị không được đầy đủ, đồng bộ do vậy các cán bộ làm công tác xét xử không có điều kiện truy cập, khai thác thông tin phục vụ cho công tác xét xử, công tác lưu trữ hồ sơ vụ án, công khai các bản án, quyết định đã có hiệu lực tạo điều kiện cho nhũng ai quan tâm cần tìm thông tin từ những hồ sơ vụ án như hiện nay là rất khó khăn, kể cả những cán bộ Toà án.
CHƯƠNG II
NHỮNG BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC: “KHI XÉT XỬ,
THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT”
Trong thời gian qua, nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” vẫn chưa được tuyệt đối tuân thủ và bị chi phối bởi những yếu tố nêu trên. Để thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc này, nâng cao hiệu quả của công tác xét xử cần thiết thực hiện một cách đồng bộ các biện pháp bảo đảm khác. Nguyên nhân đầu tiên dẫn tới sự can thiệp vào hoạt động xét xử các vụ án khác nhau của Toà án là sự nhận thức không đúng đắn về vai trò, vị trí của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Có không ít người cho rằng nguyên tắc này chỉ mang tính cương lĩnh, định hướng chứ chưa phù hợp và không thể thực hiện được trong những điều kiện hiện nay của nước ta. Những người này hoặc thờ ơ hoặc chấp nhận sự can thiệp vào hoạt động xét xử của Toà án từ các phía mặc dù quy định về nguyên tắc nêu trên đã được ghi nhận từ rất lâu trong Hiến pháp và pháp luật. Chính vì vậy, biện pháp đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” theo chúng tôi là phải làm cho nhân dân trước hết là những cán bộ, đảng viên, những người có chức có quyền trong tổ chức Đảng và cơ quan nhà nước nhận thức đúng đắn và rõ hơn vị trí, vai trò, ý nghĩa của nguyên tắc này trong quá trình giải quyết vụ án. Trung ương Đảng cũng cần có một nghị quyết chuyên đề về bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử các vụ án giống như Nghị quyết 08 của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương vừa qua về cải cách tư pháp ở nước ta trong những năm sắp tới.
I. VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
Hoàn thiện pháp luật là vấn đề quan trọng hàng đầu để đảm bảo thực hiện nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, bởi vì Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ độc lập khi tuân theo pháp luật và tuân theo pháp luật trong khi xét xử cũng có nghĩa là xét xử độc lập. Hay nói cách khác, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập bởi vì họ chỉ tuân theo pháp luật và chỉ nhờ có tuân theo pháp luật mà họ giữ vững được sự độc lập của mình. Như vậy, nếu pháp luật không đầy đủ, không phù hợp, không theo kịp thực tế cuộc sống hoặc pháp luật còn chồng chéo, không thống nhất sẽ gây khó khăn cho công tác xét xử, sẽ làm cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân mất chỗ dựa để thực hiện sự độc lập của mình.
Hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay vừa thừa, vừa thiếu. Chúng ta thừa những văn bản pháp luật được xây dựng trong thời gian chúng ta tiến hành thực hiện một nền kinh tế hiện vật, quan liêu, bao cấp mà nay nhiều quy phạm pháp luật không còn phù hợp nữa. Chúng ta thiếu nhiều văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội mới phát sinh từ khi chúng ta thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện hội nhập quốc tế. Do đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của việc phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội là vấn đề cấp thiết và cấp bách. Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn thuộc các ngành luật khác nhau, vì vậy chúng tôi chỉ nêu một số quy phạm pháp luật cần được sửa đổi, bổ sung để làm cơ sở cho việc thực hiện nguyên tắc: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Về pháp luật nội dung: qua nghiên cứu điểm 32, Tuyên bố Bắc Kinh về các nguyên tắc độc lập tư pháp đã nêu ở trên, chúng ta cần xem xét Điều 295, 296 Bộ luật hình sự năm 1999 theo hướng phù hợp với Tuyên bố Bắc Kinh.
Theo chúng tôi đối với các vụ kiện dân sự đòi bồi thường thiệt hại về vật chất do hành vi sai trái hoặc những sai sót của Thẩm phán và Hội thẩm gây ra khi thực hiện chức năng xét xử thì được miễn trừ. Trách nhiệm đền bù thiệt hại ở đây phải do nhà nước gánh chịu. Vì vậy, Nghị quyết số 388/2003/NQ- UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội cần được xem xét, sửa đổi theo hướng miễn trừ trách nhiệm cho Thẩm phán và Hội thẩm.
Cần trao thẩm quyền giải thích và hướng dẫn thực hiện pháp luật tố tụng hình sự cho Toà án nhân dân tối cao:
Xét xử là một hoạt động phức tạp và hiệu quả phụ thuộc vào sự nỗ lực của cả hệ thống các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp. Do vậy, để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động tố tụng hình sự nói chung và hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng, việc sửa đối, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến tư pháp hình sự là rất quan trọng nhằm đảm bảo cho việc xét xử của Toà án được chính xác, khách quan, công bằng và đúng pháp luật. Hiện nay, Toà án nhân dân tối cao có nhiều hướng dẫn không chính thức dưới dạng văn bản về nội dung một số điều luật. Đây chính là một trong những cách thức giải thích pháp luật mà thẩm quyền này theo quy định của Hiến pháp thuộc về Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, trên thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội lại rất ít khi thực hiện quyền này. Việc Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn các Toà án cấp dưới xét xử xuất phát từ thực tiễn hoạt động của ngành, được nhiều Toà án áp dụng nhưng do không có chức năng giải thích pháp luật nên sự hướng dẫn này không phải là căn cứ pháp lý công khai của việc tuyên án. Vậy nên chăng trao quyền này cho Toà án nhân dân tối cao thực hiện bằng việc quy định giải thích pháp luật là một trong các chức năng, nhiệm vụ của Toà án nhân dân tối cao.
Toà án nhân dân tối cao cần hướng dẫn đối với các cơ quan chức năng về các tình tiết định khung như “phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng”, “phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng” trong các cấu thành tội phạm cụ thể, đồng thời phân biệt các tình tiết này với các tình tiết định khung tăng nặng khác như: “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”.
Về pháp luật tố tụng: cần nghiên cứu để sửa đổi Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về giới hạn xét xử của Toà án theo hướng Tòa án có thẩm quyền độc lập trong việc ra bản án, quyết định trên cơ sở căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà. Việc sửa đối điều luật này vừa bảo đảm nâng cao vai trò, vị trí của cơ quan Toà án trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vai trò trung tâm, hạt nhân của Toà án trong hệ thống Cơ quan tư pháp, phù hợp với thông lệ quốc tế, nguyên tắc phân chia quyền lực.
Cần sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 theo hướng phân định rõ hơn chức năng tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng và chức năng bào chữa; bảo đảm không lẫn lộn giữa thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định Tòa án nhân dân tối cao quản lý Tòa án nhân dân địa phương và các Tòa án quân sự về mặt tổ chức (Điều 17). Đồng thời, Tòa án nhân dân tối cao lại có thẩm quyền hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệp xét xử của các Tòa án (Điều 19). Như vậy, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ, hướng dẫn công tác xét xử, vừa quản lý về mặt tổ chức (bao gồm quản lý về nhân sự: bổ nhiệm, điều động, biệt phái, miễm nhiệm, cách chức Thẩm phán và các chức danh quản lý như Chánh án, Phó Chánh án tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự quân khu và khu vực; quản lý kinh phí, biên chế, bộ máy giúp việc...),các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự cấp quân khu và khu vực. Với quy định này thì Tòa án nhân dân tối cao vừa là cơ quan xét xử, đồng thời lại là cơ quan quản lý nhà nước; hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao cũng giống như hoạt động của một chủ thể quản lý.
Theo quy định của Điều 127 Hiến pháp năm 1992 thì Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử và xét xử là chức năng của Tòa án. Theo Hiến pháp và tinh thần xây dựng nhà nước pháp quyền thì Tòa án không thể đồng thời vừa là cơ quan xét xử và là cơ quan quản lý nhà nước. Vì vậy, chúng ta cần xem xét lại quy định tại Điều 17 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 cho phù hợp.
Cách thức tổ chức và hoạt động của các Toà án ở nước ta hiện nay vẫn còn mang tính chất giám hộ của Toà án cấp trên đối với cấp dưới. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Toà án nhân dân tối cao có tất cả các thẩm quyền xét xử: xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm trong đó xét xử giám đốc thẩm nhiều cấp vòng vo gây phiền hà, tốn kém cho xã hôi. Điều đó vừa thể hiện sự tập trung hoá cao độ quyền lực xét xử vào Toà án nhân dân tối cao, vừa làm giảm chức năng kiểm tra tính đúng đắn của việc áp dụng pháp luật trong xét xử của các Toà án. Toà án tối cao buộc phải dành phần lớn lực lượng và thời gian vào việc xét xử các vụ án cụ thể mà đáng lẽ ra phải tập trung vào việc giám đốc thẩm. Vì vậy, cần phải xác định rõ trong Hiến pháp nguyên tắc hai cấp xét xử (sơ thẩm và chung thẩm). Mỗi cấp Toà án phải được tổ chức theo hướng chỉ có một thẩm quyền, không nên kéo dài tình trạng một cấp Toà án có nhiều thẩm quyền xét xử như hiện nay. Toà án tối cao tập trung làm chức năng giám đốc thẩm hoạt động xét xử và tổng kết các công tác xét xử để đưa ra hướng dẫn việc áp dụng pháp luật một cách thống nhất, Nghị quyết số 48 -NQ/TW ngày 02/01/2002 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 của Bộ Chính trị cũng đề cập vấn đề này. Việc tổ chức như vậy sẽ đảm bảo thực hiện nguyên tắc truyền thống của Toà án là độc lập xét xử không phụ thuộc vào chính quyền địa phương và Toà án cấp trên.
II. VỀ ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” cho thấy một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng Thẩm phán và Hội thẩm mất tính độc lập khi xét xử là do trình độ, năng lực chuyên môn của các Thẩm phán chưa đáp ứng được nhu cầu của công việc xét xử. Đã có một thời kỳ dài ở nước ta, các Thẩm phán do cơ quan đại diện bầu ra nên có không ít người mặc dù không đủ trình độ, kiến thức pháp luật cần thiết nhưng vẫn “được” làm Thẩm phán. Cho tới nay, mặc dù cơ chế bầu Thẩm phán đã được thay thế bằng cơ chế bổ nhiệm theo các quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002 nhưng hiện vẫn còn không ít Thẩm phán đương nhiệm chưa có các điều kiện cần và đủ theo quy định. Để có được một đội ngũ Thẩm phán có trình độ chuyên môn vững vàng, có năng lực độc lập giải quyết được tất cả các loại án cần phải tiếp tục đào tạo và đào tạo lại những người đang và sẽ là Thẩm phán. Khi Thẩm phán có trình độ, năng lực, họ sẽ tự tin hơn, quyết đoán hơn trong công việc và lúc này, cho dù có thể có sự ảnh hưởng, sự tác động nào đó thì họ vẫn không thể bị chi phối khi đang giải quyết một vụ án cụ thể. Tiêu chuẩn hóa đội ngũ Thẩm phán đang và sẽ là công việc phải tiến hành.
Hiện nay, ở nước ta Thẩm phán có ở ba cấp: Thẩm phán Toà án nhân dân cấp quận, huyện; Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (tương ứng trong quân đội có Thâm phán Toà án quân sự (TAQS) khu vực; Thẩm phán TAQS cấp quân khu và Thẩm phán TAQS trung ương), về nguyên tắc và thứ bậc thì một người muốn được bổ nhiệm Thẩm phán Toà án cấp trên thì người đó phải từng là Thẩm phán Toà án cấp dưới. Thực hiện nguyên tắc này trong tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán sẽ có điều kiện tạo ra một đội ngũ Thẩm phán có kinh nghiệm nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn cao, có năng lực xét xử tất cả các vụ án thuộc thẩm quyền và có khả năng độc lập trước ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau. Để các Thẩm phán, Hội thẩm độc lập khi xét xử cần bỏ cơ chế thỉnh thị, báo cáo, duyệt án như nó đã và đang tồn tại ở nhiều Toà án của nước ta hiện nay. Xoá bỏ cơ chế thỉnh thị, báo cáo, duyệt án sẽ tạo ra điều kiện để các Thẩm phán đề cao trách nhiệm cá nhân, dám làm dám chịu, buộc các Thẩm phán phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình, tránh sự ỷ lại vào cấp trên, cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trong ngành Toà án phải có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh. Người giỏi, người có công phải được đánh giá đúng mức, người kém, người vi phạm cần phải xử phạt nghiêm khắc. Những Thẩm phán không hoàn thành trách nhiệm có thể bị tạm đình chỉ công việc xét xử trong một thời gian nếu sai phạm chưa tới mức miễn nhiệm chức danh Thẩm phán và có thể không được đưa vào danh sách tuyển chọn để tái bổ nhiệm. Tuy nhiên, cán bộ lãnh đạo, quản lí cũng cần thấy một thực tế hiển nhiên là không làm thì không sai còn đã làm thì cũng có lúc mắc sai lầm. Vì thế, khi một người mắc sai lầm, cần phân biệt lỗi cố ý hoặc vô ý để có biện pháp xử lí phù hợp. Để có cơ sở đánh giá trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán một cách chính xác, theo chúng tôi cần chia chức danh Thẩm phán thành nhiều ngạch thay vì chia thành ba cấp như hiện nay. Việc phân chia Thẩm phán thành nhiều ngạch vừa làm căn cứ đề ra chính sách đãi ngộ với họ phù hợp vừa tạo điều kiện để luân chuyển Thẩm phán bảo đảm một Thẩm phán đang làm việc ở Toà án địa phương này có thể đuợc phân công xét xử vụ án xảy ra ở địa phương khác. Điều này cũng phù hợp với chính sách sử dụng cán bộ của Trung ương Đảng hiện nay vừa tạo điều kiện cho Thẩm phán được độc lập khi xét xử.
Để tránh sự can thiệp thô bạo của một số cán bộ lãnh đạo, quản lí ở địa phương đối với công tác xét xử của các Thẩm phán, không nên đặt tổ chức đảng ở các Toà án trực thuộc cấp ủy ở địa phương mà nên quy định các tổ chức đảng ở Toà án hoặc sinh hoạt theo tổ chức đảng của ngành mình hoặc là một tổ chức trực thuộc cấp ủy cấp trên trực tiếp (đảng bộ Toà án nhân dân cấp quận, huyện trực thuộc tỉnh ủy hoặc thành ủy; đảng bộ Toà án nhân dân cấp tỉnh trực thuộc đảng ủy khối nội chính trung ương).
Đạo đức, lương tâm nghề nghiệp luôn luôn là một tiêu chuẩn quan trọng của Thẩm phán. Chính vì vậy, cơ quan có thẩm quyền phải ban hành quy chế để quy định vấn đề này. Quy chế về đạo đức nghề nghiệp không chỉ đề ra các chuẩn mực về ý thức, trách nhiệm nghề nghiệp của Thẩm phán, mà còn phải có quy định đối với các hành vi giao tiếp, ứng xử của Thẩm phán trong công tác cũng như trong sinh hoạt cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là tác phong, thái độ của Thẩm phán trong khi tiếp xúc với nhân dân, với đương sự và những người tham gia tố tụng trong mỗi vụ án; bản lĩnh nghề nghiệp, những việc mà Thẩm phán được làm hoặc không được làm để phòng tránh việc giải quyết không vô tư, khách quan các vụ án hoặc các vi phạm pháp luật cũng là những vấn đề cần được đề cập và làm rõ trong quy chế này. Quy chế cần được quy định rõ ràng, phù hợp với vị trí, trọng trách cao cả của nghề Thẩm phán trong xã hội và phải được công bố công khai để nhân dân tham gia giám sát, để tự mỗi cán bộ cân nhắc và quyết định trước khi bước vào nghề Thẩm phán.
Cần nghiên cứu để ban hành các văn bản hướng dẫn cơ quan Toà án địa phương tổ chức hoạt động xét xử, tiếp công dân, tự học tập bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ nhằm nâng cao năng lực công tác của Thẩm phán nói riêng, cán bộ Toà án nói chung, nâng cao văn hoá tố tụng để Toà án trở thành niềm tin, chỗ dựa tin cậy của Đảng, chính quyền và nhân dân trong hoạt động áp dụng pháp luật.
Cần phải cải tiến chế độ tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán bằng việc vẫn duy trì chế độ bổ nhiệm Thẩm phán, song cần đơn giản về thủ tục tuyển chọn mà vẫn chặt chẽ đảm bảo tính nhanh nhạy của công tác tổ chức cán bộ và đáp ứng được yêu cầu xét xử. Xây dụng chương trình, kế hoạch tuyển chọn cụ thể (Lịch họp của hội đồng tuyển chọn các cấp) để chủ động về thời gian, đấy nhanh tiến độ bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương, không để quá thời gian nhiệm kỳ của Thẩm phán.
Thẩm quyền xét xử của Thẩm phán không nên chỉ hạn chế trong một địa phương (nếu đã được bổ nhiệm Thẩm phán thì theo thẩm quyền quản lý có thể điều động, thuyên chuyển công tác nhưng không phải làm thủ tục bổ nhiệm lại).
Không quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán là 5 năm như hiện nay mà cần phải kéo dài nhiệm kỳ đến 10 năm. Quy định này cũng phù hợp với các thông lệ quốc tế, tuyên bố Bắc Kinh nhằm bảo đảm tính ổn định của Thẩm phán và tiến tứi kéo dài nhiệm kỳ vô thòi hạn.
Về chế độ và chính sách đãi ngộ đối với Thầm phán: Chúng tôi cho rằng việc cải cách tiền lương đối với Thẩm phán đã trở thành yêu cầu bức xúc trong giai đoạn hiện nay mức lương của Thẩm phán không đòi hỏi phải cao như ở các nước trên thế giới và trong khu vực, nhưng phải đảm bảo phục vụ các nhu cầu tối thiểu của bản thân vào quá trình tái sản xuất sức lao động của cá nhân Thẩm phán; đảm bảo được cuộc sống bình thường của 2 người thân trong gia đình và có khoản dư dật nhỏ để tích luỹ. Trước mắt cần điều chỉnh sự cách biệt vô lý giữa mức lương của Thẩm phán theo hướng tăng hệ số mức lương cho Thẩm phán Tòa án cấp huyện.
Các chế độ đãi ngộ khác đối với Thẩm phán và công chức Tòa án phải cụ thể, rõ ràng và có khả năng thực thi, phải đảm bảo tính chính xác và kịp thời. Đặc biệt nên tránh tạo ra sự bất bình đẳng giữa các công chức Tòa án, nhất là giữa những người trực tiếp tham gia hoạt động tố tụng. Tránh tình trạng Thẩm phán được hưởng chế độ phụ cấp phiên toà, nhưng kinh phí cho khoản chi này lại không được cấp theo số vụ án, mà lại cấp theo số biên chế...
Vấn đề nâng lương trước niên hạn, nâng ngạch không phải qua thi tuyển: Áp dụng cho Thẩm phán các Tòa án nhân dân địa phương có thành tích xuất sắc được Nhà nước và Chính phủ khen thưởng đối với hình thức Bằng khen Chính phủ, Huân chương lao động, chiến sĩ thi đua ngành, chiến sĩ thi đua toàn quốc. Cụ thể:
+ Nâng lương trước niên hạn: Bằng khen Chính phủ, chiến sĩ Thi đua Ngành.
+ Nâng ngạch Thẩm phán: Huân chương Lao động, Chiến sĩ thi đua toàn quốc.
Áp dụng chế độ phụ cấp theo lương cho Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương: Các Thẩm phán làm việc ở các Toà án nhân dân địa phương nếu là các Thành phố lớn trực thuộc Trung ương kiến nghị Chính phủ cho áp dụng phụ cấp đô thị loại I. Các Thẩm phán làm việc ở các tỉnh, thành phố được xác định đô thị loại II thì ở cấp tỉnh và xã được hưởng phụ cấp đô thị loại II.
Phụ cấp khu vực: áp dụng cho các Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương làm việc tại các Toà án nhân dân cấp huyện miền núi hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
Phụ cấp thu hút: áp dụng đối với các Thẩm phán tình nguyện công tác tạl các địa phương có hoàn cảnh điều kiện sinh hoạt khó khăn trong một nhiệm kỳ. Các phụ cấp này sẽ không còn khi Thẩm phán được điều động đến những địa phương mà Chính phủ không áp dụng phụ cấp.
Phụ cấp thâm niên: áp dụng đối với trường hợp Thẩm phán đã vượt khung nhưng không chuyển ngạch.
Ngoài những điều kiện đảm bảo trên, các Thẩm phán còn được hưởng chế độ vật chất tương đối cao so với các quan chức Nhà nước khác, để giúp họ bảo đảm cuộc sống cho bản thân và gia đình tránh sự cám dỗ trong nghề nghiệp của họ.
Sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp bảo đảm cho Thẩm phán hoạt động: Khi xét xử các vụ án, Toà án ra các phán quyết có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của đương sự như tài sản, danh dự của các đương sự, sự tự do và thậm chí cả tính mạng của người có hành vi vi phạm. Chính điều này đã dẫn đến nhiều nguy cơ đối với Thẩm phán (với tư cách là trung tâm của hoạt động xét xử) trở thành đối tượng của sự thù hằn, có nhiều nguy cơ bị đe doạ, trả thù. Mặt khác, trong quá trình xét xử, các đối tượng có hành vi vi phạm thường lợi dụng kẽ hở của pháp luật, bằng mọi thủ đoạn nhằm cản trở hoạt động xét xử bình thường, ép buộc Thẩm phán thay đổi tính chất vụ án, ra các bản án có lợi cho họ, vô hiệu hoá bản án, quyết định của Toà án. Do vậy, Thẩm phán có thể có nguy cơ phải đối mặt với những hành vi đe doạ, ép buộc...
Trên thực tế, để bảo vệ Thẩm phán cũng như những người nắm giữ công quyền khác, pháp luật của Việt Nam đã có nhũng quy định tương đối cơ bản, xét xử nghiêm khắc bằng chế tài hình sự như quy định về tội chống người thi hành công vụ, một số tội trong lĩnh vực xâm phạm hoạt động tư pháp... Tuy nhiên, trước thực tế diễn biến của tội phạm ngày càng phức tạp, tính chất của tội phạm ngày càng nghiêm trọng, đã xuất hiện những hành vi phạm tội mà số người phạm tội lên đến hàng chục, liên quan đến nhiều đối tượng, diễn ra trong phạm vi rộng, đối tượng phạm tội nguy hiểm, táo bạo, liều lĩnh... Điển hình là những vụ án về ma tuý, buôn lậu, chống tham nhũng lớn... Ngoài ra, khi xét xử các tranh chấp dân sự, kinh tế cũng có những trường hợp đương sự thua kiện đe doạ, trả thù..
Trong bối cảnh đó, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ cho Thẩm phán trở lên cấp thiết hơn bao giờ hết. Những biện pháp này cần có tính phòng ngừa từ xa, đảm bảo cho Thẩm phán được bảo vệ an toàn, giúp họ thực hiện tốt hơn chức trách quan trọng của mình, yên tâm công tác, đấu tranh vì sự công bằng, công lý.
Các biện pháp áp dụng để bảo đảm cho Thẩm phán:
+ Áp dụng biện pháp an ninh nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản của Thẩm phán. Biện pháp này do các cơ quan công an thực hiện;
+ Áp dụng biện pháp pháp lý, trong đó tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của Thẩm phán;
+ Áp dụng biện pháp bảo vệ về mặt xã hội như: quy định việc bảo hiếm, bồi thường vật chất... trong trường hợp Thẩm phán bị chết, thương tật nặng, hoặc có những tổn hại đối với sức khoẻ, tài sản của họ cũng bị hủy hoại, hư hỏng do thực hiện công vụ....
Đối với Hội thẩm nhân dân, để bảo đảm cho Hội thẩm hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, bảo đảm độc lập trong hoạt động xét xử theo chúng tôi:
Trước hết, cần xây dựng một quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm nhân dân. Sở dĩ hoạt động của Hội thẩm hiện nay chưa thật chặt chẽ và nền nếp ngoài các lý do về tổ chức, trình độ... còn vì thiếu một quy chế cụ thể. Đã đến lúc chúng ta phải cụ thể hoá các quy định chung của Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh về Hội thẩm thành một quy chế hoàn chỉnh làm nền tảng cho việc ổn định, nhất quán cho tổ chức và hoạt động của đội ngũ Hội thẩm tham gia xét xử có tính nghiệp dư hiện nay. Để tạo thuận lợi cho Hội thẩm vừa tham gia công tác ở cơ quan, tổ chức xã hội, vừa tham gia xét xử ở Toà án, trên cơ sở Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Toà án nhân dân tối cao, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ cần xem xét ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Toà án nhân dân. Thành lập ở mỗi Toà án một Văn phòng Hội thẩm để tạo mối quan hệ giữa Chánh án Toà án nhân dân với Hội thẩm trong việc bồi dưỡng nghiệp vụ, phân công xét xử. Văn phòng Hội thẩm sẽ là cầu nối quan trọng giữa Toà án với Hội thẩm, Mặt trận Tố quốc, Hội đồng nhân dân.
Thứ hai, về tổ chức và quản lý Hội thẩm: trình tự bầu Hội thẩm như hiện nay vẫn lấy đầu mối là Mặt trận Tổ quốc các cấp theo đề xuất từ các tổ chức thành viên mà lập danh sách ứng cử viên Hội thẩm nhân dân để Hội đồng nhân dân cấp mình bầu Hội thẩm. Cách thức này thường mang nặng tính giới, tính ngành, tính mặt trận nên lực lượng Hội thẩm chủ yếu xuất thân từ công chức đương nhiệm, cán bộ của các đoàn thể... do đó, số đại diện cho các nhóm dân cư, cho thôn, ấp hay khu phố rất ít. Chính vì vậy, nên chăng giao cho cơ sở xã phường giới thiệu ứng cử viên để bầu Hội thẩm theo một tỷ lệ tương xứng với dân số nơi đó. Giải pháp này đảm bảo việc đại diện cho nhân dân của Hội thẩm có sự đồng đều theo địa bàn và việc giám sát của người dân ở cơ sở đối với hoạt động, tư cách, tác phong là “quan toà nhân dân” được thường xuyên và chặt chẽ hơn.
Một thực tế tổ chức Hội thẩm nhân dân hiện nay là ai có nhiệm vụ và quyền hạn chính thức để quản lý đội ngũ Hội thẩm vẫn chưa được quy định cụ thể, đầy đủ. Chúng tôi cho rằng khi Hội đồng nhân dân đã bầu ra Hội thẩm thì cũng nên để họ trực thuộc Hội đồng nhân dân, báo cáo về hoạt động và chịu trách nhiệm trước cơ quan dân cử thì mới hợp lý và mới mong tạo được hậu thuẫn cho sự bình đẳng và độc lập của Hội thẩm khi ngồi xét xử với Thẩm phán. Nên quy tụ Hội thẩm vào Ban Hội thẩm có trưởng ban lãnh đạo, phân công các Hội thẩm tham gia xét xử theo yêu cầu của Chánh án.
Thứ ba, các tiêu chuẩn của Hội thẩm: để đảm bảo cho việc tham gia xét xử của Hội thẩm có hiệu quả thì ngay từ khi chuẩn bị lựa chọn nhân sự để bầu Hội thẩm đã phải tính ngay đến khả năng khả thi trong thực hiện nhiệm vụ của Hội thẩm theo quy định của pháp luật, dĩ nhiên có tính đến cơ cấu ngành nghề, vùng dân cư nhưng phải lấy tiêu chuẩn làm căn cứ trước hết. Khi tham gia hội đồng xét xử thì Thẩm phán và Hội thẩm đều có quyền ngang nhau và độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Do đó, không thể xem nhẹ và hạ thấp tiêu chuẩn của Hội thẩm. Để đảm bảo cho Hội thẩm tham gia xét xử có hiệu quả cần phải chuẩn hoá tiêu chuẩn của Hội thẩm, nhất là về trình độ văn hoá, pháp luật và kinh nghiệm thực tiễn. Trong điều kiện hiện nay, để phù hợp với các tiêu chuẩn của Thẩm phán thì cần xác định trình độ của Hội thẩm là đại học luật, đồng thời để Hội thẩm tham gia xét xử thì cần có sự bồi dưỡng thêm về chuyên môn, nghiệp vụ xét xử. Một vấn đề khác là cần có sự quy định về giới hạn tuổi tham gia của Hội thẩm trong hoạt động xét xử. Thực tế cũng cho thấy rằng trong nhiều trường hợp gánh nặng tham gia xét xử dồn vào các Hội thẩm là cán bộ hưu trí, nhiều người cho rằng đó là công việc của những người về hưu, do vậy, để gánh vác được công việc xét xử với tính chất phức tạp của nó thì cần quy định độ tuổi tối thiểu để được lựa chọn là Hội thẩm là 30 tuổi và tối đa là không quá 60 là hợp lý. Bên cạnh đó thì cũng tính đến việc quy định thời gian tham gia Hội thẩm cho hợp lý, bởi vì, nếu Hội thẩm tham gia tích cực theo nhiều nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân thì sẽ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm; đồng thời hoàn thiện các quy định về việc miễn nhiệm và bãi nhiệm Hội thẩm; về số lượng Hội thẩm; cơ chế giám sát đối với Hội thẩm (đây là vấn đề đang bỏ ngỏ vì chưa có cơ chế quản lý thống nhất đối với Hội thẩm); chế độ chính sách đối với Hội thẩm.
Thứ tư, vấn đề kiêm nhiệm và chuyên nghiệp trong hoạt động của Hội thẩm nhân dân. Với việc quy định Hội thẩm tiến hành việc tố tụng sơ thẩm tại Toà án thì việc xét xử ở đây có tính bán chuyên nghiệp. Nếu coi xét xử là hoạt động nghề nghiệp đặc biệt liên quan đến sinh mệnh con người, đến các quyền nhân thân và vật chất quan trọng của các cá nhân, tổ chức thì có nên tiếp tục duy trì sự kiêm nhiệm trong xét xử hay không? Chúng tôi cho rằng nếu chuyên nghiệp hoá ngay hoạt động xét xử của Hội thẩm là việc làm ngoài khả năng hiện nay vì điều này liên quan đến biên chế, tiền lương, đào tạo... Nhưng có thể giải quyết vấn đề bằng việc tăng hoặc dành hẳn một lượng thời gian cụ thể cho Hội thẩm để nghiên cứu hồ sơ vụ án và tham gia xét xử, trang bị tài liệu, phương tiện làm việc, các khoá huấn luyện nghiệp vụ, chuyên môn cho Hội thẩm nhân dân.
-
VỀ TĂNG CƯỜNG CỞ SỞ VẬT CHẤT, KỸ THUẬT CHO TOÀ ÁN
Vấn đề cơ sở vật chất và điều kiện của các cơ quan tư pháp đặc biệt là cấp huyện trong những năm gần đây được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và được coi như là một nội dung của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay và được thể hiện trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng. Gần đây Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, tại điểm 4 mục I đã khẳng định: “Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có chế độ chính sách hợp lý đối với cán bộ tư pháp”. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện làm việc, đầy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hoá các cơ quan tư pháp, phấn đấu trong thời gian tới xây dựng đủ trụ sở và cơ sở làm việc của các cơ quan tư pháp từ Trung ương đến cấp huyện, về biện pháp tổ chức thực hiện Điều 3 Mục II Nghị quyết 08 đã chỉ rõ “Ban Cán sự Đảng, Chính phủ chủ trì cùng Ban cán sự Đảng Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao xác định rõ khoản ngân sách hàng năm cho các cơ quan tư pháp theo hướng tăng thêm để đáp ứng kịp thời, đầy đủ kinh phí, điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động cho các cơ quan tư pháp các cấp, trước mắt cần xây dựng trụ sở làm việc của cơ quan tư pháp cấp huyện”. Quán triệt tinh thần chỉ đạo mà Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã đề ra cũng như Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 chúng ta cần đầu tư cơ sở vật chất cho cơ quan Toà án bảo đảm tính kiên cố, sự bề thế nơi công đường, đặc biệt là có nét hiện đại và phù hợp với sự phát triển của kinh tế - xã hội của đất nước.
HỆ CHUYÊN ĐỀ
Chuyên đề 1
KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC
“KHI XÉT XỬ, THẨM PHÁN VÀ HỘI THẢM NHÂN DÂN ĐỘC LẬP
VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT”
TS. Phạm Văn Lợi
-
Khái niệm:
1.1. Khái niệm chung về nguyên tắc:
Khái niệm “nguyên tắc” được hiểu như là những tư tưởng có giá trị làm nền tảng, làm cơ sở chỉ đạo những hoạt động của con người trong từng lĩnh vực cụ thể; trong thực tiễn đời sống xã hội. Tuỳ theo đối tượng, nội dung và phạm vi điều chỉnh mà người ta đề ra các nguyên tắc như: nguyên tắc chính trị, nguyên tắc pháp lý, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước v.v...
Nguyên tắc “khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân được hiểu là những tư tưởng pháp lý có ý nghĩa chính trị sâu sắc, có giá trị làm nền tảng, làm cơ sở chỉ đạo việc xây dựng hệ thống tổ chức và hoạt động xét xử của Toà án nhân dân.
Có thể khẳng định rằng nguyên tắc trên là sự kế thừa và phát triển tư tưởng tiến bộ của xã hội loài người về công tác xét xử các hành vi vi phạm và tội phạm. Nghiên cứu lịch sử lập Hiến và lập pháp của Nhà nước ta kể từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cho đến nay, nguyên tắc này đều được quy định trong tất cả bốn bản Hiến pháp (Điều 69 Hiến pháp năm 1946, Điều 100 Hiến pháp năm 1959, Điều 69 Hiến pháp năm 1980, Điều 130 Hiến pháp năm 1992 và được tiếp tục khẳng định và cụ thể hoá trong Sắc lệnh số 13 ngày 21/01/1946 và các luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, 1981, 1992, 2002.
1.2. Khái niệm nguyên tăc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
Việc nghiên cứu và làm sáng tỏ các khía cạnh pháp lý của khái niệm này không chỉ có ý nghĩa về mặt nghiên cứu lý luận mà còn có ý nghĩa quan trọng hơn trong việc thực hiện đúng và có hiệu quả đối với hoạt động xét xử của Toà án.
Chính vì vậy, để có một cách nhìn toàn diện, đầy đủ về khái niệm này trước hết cần làm rõ thuật ngữ “độc lập” và những vấn đề liên quan đến thuật ngữ này.
“Độc lập” được hiểu là tự mình, không lệ thuộc vào người khác hoặc không chịu sự tác động của người khác. Nhưng khi nói đến độc lập không phải là độc lập chung chung, độc lập tuỳ tiện vô ý thức mà “độc lập” phải gắn liền với hoạt động có ý thức, có mục đích của một chủ thể nhất định và để cho tính độc lập được thực hiện đúng đắn bao giờ cũng phải căn cứ vào các quy định đối với hoạt động đó.
Như vậy nếu hiểu theo nghĩa hẹp: nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được hiểu là khi xét xử các vụ án hình sự; dân sự; hôn nhân và gia đình; hành chính; kinh tế; lao động Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không lệ thuộc vào ý kiến của bất cứ cơ quan, cá nhân nào mà chỉ tuân theo các quy định của pháp luật liên quan đến việc xét xử vụ án đó.
Theo nghĩa rộng: nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được hiểu là xét xử các vụ án hình sự; dân sự; hôn nhân và gia đình; hành chính; kinh tế; lao động Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không lệ thuộc vào ý kiến của cơ quan, cán bộ quản lý, cơ quan tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng và các cơ quan, cá nhân khác mà phải tự mình xem xét đánh giá các tình tiết của vụ án, các chứng cứ đã được thẩm tra công khai tại phiên toà, căn cứ vào các quy định của pháp luật, đúng đường lối chính sách của Đảng.
Để nắm vững và thực hiện đúng nguyên tắc này chúng tôi đi sâu nghiên cứu và phân tích trên hai phương diện đó là: xét trên phương diện thực hiện chức năng xét xử của Toà án nhân dân và xét trên phương diện thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước.
Xét trên phương diện thực hiện chức năng xét xử của Toà án nhân dân thì nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật bao gồm những nội dung sau đây:
Giai đoạn xét xử là giai đoạn trung tâm của cả quá trình tố tụng. Toàn bộ các hoạt động trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố đối với các vụ án hình sự; thụ lý, lập hồ sơ đối với các vụ án dân sự, hôn nhân vả gia đình; hành chính, kinh tế; lao động chỉ là cơ sở để Toà án quyết định có đưa vụ án ra xét xử hay không và cung cấp các tài liệu chứng cứ để Hội đồng xét xử tiến hành thẩm tra công khai trước phiên toà và ra phán quyết cuối cùng về hành vi vi phạm hoặc tội phạm. Còn giai đoạn Thi hành án cũng chỉ là việc thi hành bản án, quyết định của Toà án trong thực tiễn. Bản án, quyết định của Hội đồng xét xử liên quan trực tiếp đến tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và các quyền, nghĩa vụ khác của công dân. Chính vì vậy, quyết định của Hội đồng xét xử phải là quyết định khách quan, chính xác và độc lập. Tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trước hết phải độc lập với ý kiến; quan điểm của cơ quan điều tra thể hiện trong hồ sơ và bản kết luận điều tra; độc lập với quan điểm và ý kiến của cơ quan Viện kiểm sát thể hiện trong bản cáo trạng, trong luận tội và việc buộc tội hoặc bản kết luận của kiểm sát viên tại phiên toà. Mặt khác, tại phiên toà Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cũng không bị ràng buộc bởi các ý kiến của nhũng người tham gia tố tụng khác như bị cáo, bị hại, nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng, người phiên dịch, giám định viên, người bào chữa, mặc dù là pháp luật quy định cho họ có nhũng quyền và nghĩa vụ nhất định trong việc làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Mặt khác, trong quá trình xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cũng không lệ thuộc vào ý kiến tác động của những người có chức vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước khác hoặc những người thân thích tuy không có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà họ quan tâm đến việc xét xử vụ án. Thực hiện nguyên tắc này, vấn đề đặt ra đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là phải độc lập trong việc xem xét đánh giá chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, độc lập trong việc xem xét đánh giá các tình tiết có liên quan đến việc giải quyết vụ án và độc lập trong việc lựa chọn các quy phạm pháp luật cần áp dụng để đưa ra các quyết định đúng đắn phù hợp sự thật khách quan của sự việc. .
Trong hệ thống Toà án nhân dân, quan hệ giữa Toà án nhân dân các cấp trước hết và quan trọng nhất vẫn là quan hệ tố tụng. Xét trong mối quan hệ này thì nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thể hiện ỏ chỗ: Toà án cấp trên hướng dẫn Toà án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật và đường lối xét xử, nhưng không được dùng mệnh lệnh, dùng quyền lực để bắt buộc Toà án cấp dưới phải tuân theo khi xét xử một vụ án cụ thể: Ngược lại, khi Toà án cấp trên xét xử theo thủ tục: Phúc thẩm, Giám đốc thẩm, Tái thẩm bản án, quyết định của Toà án cấp dưới thì Toà án cấp trên cũng không lệ thuộc vào những kết luận, quyết định của Toà án cấp dưới mà phải tự mình đánh giá chứng cứ và xác định các quy phạm pháp luật phù hợp để ra bản án, quyết định trong từng trường hợp cụ thể.
- Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật còn thể hiện ở chỗ các thành viên trong Hội đồng xét xử cũng độc lập với nhau trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, loại và mức hình phạt cụ thể cần áp dụng trong các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình; hành chính; kinh tế; lao động. Thẩm phán chủ tọa phiên toà không được dùng quyền lực và chức danh pháp lý của mình để bắt buộc Hội thẩm nhân dân tuân theo ý kiến của mình khi quyết định các vấn đề cụ thể trong quá trình xét xử.
Xét trên phương diện thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được thể hiện ở nhũng vấn đề sau đây:
- Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong hàng chục năm qua Đảng ta luôn luôn coi trọng việc lãnh đạo các cơ quan Tư pháp nói chung và ngành Toà án nhân dân nói riêng nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà cách mạng xã hội chủ nghĩa đã đặt ra. Đảng lãnh đạo Toà án bằng đường lối xét xử và bằng việc xây dựng các tổ chức Đảng trong ngành Toà án vững mạnh; bồi dưỡng kiến thức về chính trị, về kiến thức quản lý cho đội ngũ cán bộ, Thẩm phán Tòa án nhân dân, kiểm tra tư cách Đảng viên của họ nhằm đảm bảo cho hoạt động xét xử của Toà án nhân dân phục vụ cho việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Toà án nhưng không làm thay Toà án và cũng không can thiệp vào việc xét xử từng vụ án cụ thể. Đối với các vụ án điểm, án phức tạp nhiều người quan tâm, cấp ủy Đảng cần chỉ đạo, thì cũng chỉ đạo vể mục tiêu, yêu cầu đạt được khi xét xử chứ không xác định tội danh, khung hình phạt phải áp dụng hoặc cần phải xử có lợi cho nguyên đơn hay bên bị đơn v.v..
Tòa án nhân dân là một trong bốn hệ thống cơ quan thuộc bộ máy nhà nước do Quốc hội thành lập và giao cho chức năng xét xử. Trong mối quan hệ với các cơ quan Nhà mrác khác, Toà án nhân dân độc lập về tổ chức bộ máy, về biên chế và độc lập về thực hiện chức năng, nhưng Toà án nhân dân cũng có trách nhiệm phải phối hợp với các cơ quan Nhà nước khác để thực hiện tốt chức năng của mình và chức năng của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, khi xét xử (bao gồm các giai đoạn chuẩn bị xét xử) Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cần phối hợp với kiểm sát viên trong việc tổ chức phiên toà, tuyên truyền phổ biến pháp luật tại phiên toà cũng như trong quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà. Trên thực tế, trong quá trình nghiên cứu hồ sơ để ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, ở một số trường hợp nếu thấy hồ sơ chưa đầy đủ cần phải điều tra bổ sung hoặc cần phải thay đổi tội danh, điều luật truy tố v.v.. Thẩm phán cũng cần phải trao đổi với kiểm soát viên để đi đến thống nhất là có cần phải tiếp tục điều tra bổ sung hay không, bổ sung những chứng cứ gì hay có thay đổi quyết định truy tố hay không?
Trong trường hợp không thống nhất được quan điểm thì căn cứ vào quy định của pháp luật về chức năng của mỗi cơ quan để thực hiện, tránh trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm đặc biệt là hạn chế đến mức thấp nhất. Viện kiểm sát truy tố, kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố nhung Hội đồng xét xử lại tuyên vô tội làm giảm hiệu lực hoạt động của cơ quan nhà nước, gây ra bức xúc cho nhân dân và nhũng người tham gia tố tụng khác. Mặt khác, việc thực hiện nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật không có nghĩa là không có sự kiểm tra, và giám sát. Theo quy định của pháp luật thì Toà án cấp trên có quyền thẩm tra nhũng bản án, quyết định của Toà án cấp dưới, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật thì kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm, Tái thẩm và có quyền hủy bỏ, sửa đổi bản án, quyết định của Toà án cấp dưới trong trường hợp không có căn cứ và trái pháp luật. Trong quan hệ với Viện kiểm sát nhân dân, hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân còn chịu sự giám sát của Viện kiểm sát nhân dân. Tại phiên toà, kiểm sát viên không chỉ thực hiện chức năng thực hành quyền công tố (buộc tội bị cáo trong các vụ án hình sự), mà còn thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và những người tham gia tố tụng khác, khi phát hiện có vi phạm pháp luật thì theo quy định tại Điều 19, Điều 20 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và tuỳ theo mức độ vi phạm kháng nghị theo thủ tục Phúc thẩm, Giám đốc thẩm, Tái thẩm các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật; kiến nghị với Toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới khắc phục vi phạm trong xét xử.
2. Vị trí, vai trò của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc quan trọng và mang tính đặc thù nhất về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân. Chính vì vậy, nguyên tắc này luôn được quy định trong các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và được tiếp tục khẳng định trong các luật Tổ chức Toà án nhân dân 1960, 1992, 2002 và làm cơ sở cho việc tổ chức bộ máy của Toà án nhân dân; quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Toà án nhân dân các cấp; quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật còn là cơ sở để xây dựng tiêu chuẩn chung của Thẩm phán và tiêu chuẩn cụ thể của Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương; Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh và Thẩm phán Toà án quân sự cấp quân khu; Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện và Thẩm phán Toà án quân sự khu vực.
Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập vả chỉ tuân theo pháp luật được quán triệt trong hoạt động xét xử Sơ thẩm, Phúc thẩm, Giám đốc thẩm, Tái thẩm đối với tất cả các vụ án hình sự; dân sự, hôn nhân và gia đình; hành chính; kinh tế; lao động. Mặt khác, nguyên tắc này còn là sự thể hiện bản chất của hoạt động xét xử của Toà án nhân dân, do đó là cơ sở để phân biệt hoạt động xét xử của Toà án nhân dân với hoạt động của các cơ quan tư pháp khác như cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, cũng như phân biệt với hoạt động của cơ quan trọng tài kinh tế, cơ quan thanh tra.
3. Ý nghĩa của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
Việc pháp luật quy định nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý, mà còn có ý nghĩa về thực tiễn thực hiện chức năng xét xử của Toà án nhân dân. Trước hết, việc tuân thủ nguyên tắc này là nhằm đảm bảo tính khách quan trong việc xét xử và tính thống nhất của pháp luật, đề cao trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trước pháp luật, làm cho họ tự tin hơn khi đưa ra các quyết định liên quan đến vụ án. Đồng thời, nguyên tắc này còn là “rào cản” để ngăn ngừa sự tác động của bất cứ cơ quan, cá nhân nào làm ảnh hưởng đến công tác xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân và tạo cho họ sự chủ động xem xét, đánh giá các chứng cứ, các tình tiết của vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, trong việc xác định các quy phạm pháp luật cần áp dụng cũng như việc quyết định các vấn đề khác. Trên ý nghĩa như vậy thì việc vi phạm nguyên tắc này tức là vi phạm nghiêm trọng quy định của Hiến pháp, vi phạm Luật tổ chức Toà án nhân dân và các văn bản pháp luật tố tụng khác.
Trong thực tiễn xét xử của Toà án việc thực hiện nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thực sự có ý nghĩa khi đặt trong mối quan hệ, tôn trọng và thực hiện các nguyên tắc khác về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân như: nguyên tắc Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số; nguyên tắc Toà án xét xử công khai trừ trường hợp cần xét xử kín; nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; nguyên tắc Toà án bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự v.v... Mặt khác, việc bổ nhiệm Thẩm phán và bầu Hội thẩm nhân dân (bao gồm cả Hội thẩm quân nhân) đòi hỏi phải theo đúng tiêu chuẩn và đúng quy trình tuyển chọn. Toà án nhân dân tối cao phải có kế hoạch thường xuyên bồi dưỡng pháp luật mới, nghiệp vụ công tác xét xử và trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm để họ có điều kiện thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Mặt khác, giữa độc lập xét xử pháp luật và với trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chính vì vậy, khi đề ra nguyên tắc độc lập xét xử và để chống lại sự tuỳ tiện trong xét xử, Nhà nước cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật và quy định cụ thể trách nhiệm pháp lý của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi vi phạm nguyên tắc này./.
Chuyên đề 2
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI NGUYÊN TẮC
“KHI XÉT XỬ, THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM ĐỘC LẬP VÀ
CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT”
PGS.TS. Phạm Hồng Hải
Ở nước ta, trong tất cả các bản Hiến pháp, từ Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 đến Hiến pháp 1992 sửa đổi đều có các điều luật quy định Toà án là cơ quan xét xử. Mặc dù có một thời gian trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (giai đoạn 1945 - 1954), do hoàn cảnh chiến tranh, ở một số nơi không tổ chức được Toà án nên công tác xét xử có giao cho Ủy ban hành chính kháng chiến nhưng về cơ bản việc xét xử các vụ án hình sự, dân sự vẫn do Toà án đảm nhiệm. Cùng với sự phát triển chung của xã hội, hệ thống Toà án ở nước ta ngày càng được củng cố, hoàn thiện và cho tới nay, Toà án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động. Đoạn 1 Điều 127 Hiến pháp 1992 quy định “Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Theo quỵ định của các luật tổ chức Toà án trước đây (1960, 1981, 1992), Luật tổ chức Toà án nhân dân hiện hành (2002) và các văn bản pháp luật về tố tụng (Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế...) thì Toà án thực hiện chức năng xét xử thông qua các Thẩm phán và Hội thẩm. Khi được Chánh án phân công, Thẩm phán và Hội thẩm trở thành người tiến hành tố tụng và có toàn quyền quyết định những vấn đề liên quan tới vụ án được giao. Khi thực hiện công việc xét xử, cùng với việc tuân thủ các nguyên tẳc khác nhau của tố tụng, Thẩm phán và Hội thẩm còn phải tuân thủ nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đây vừa là một nguyên tắc hiến định được quy định tại Điều 130 Hiến pháp 1992 vừa là một nguyên tắc của các hình thức tố tụng như tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động và tố tụng hành chính. Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” có hai nội dung cơ bản:
1. Khi xét xử bất kì một vụ án nào, ở bất kì cấp xét xử nào, nếu được phân công làm chủ toạ hay tham gia hội đồng xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không phụ thuộc vào bất cứ cá nhân hay tổ chức nào trong việc đua ra các ý kiến và phán quyết của mình về vụ án;
2. Căn cứ duy nhất mà Thẩm phán và Hội thẩm dựa vào để xét xử là pháp luật.
Hai nội dung trên đây của nguyên tắc có mối quan hệ biện chứng với nhau. Chỉ khi Thẩm phán và Hội thẩm không bị phụ thuộc thì họ mới có điều kiện để tuyệt đối tuân thủ pháp luật và nguọc lại, chỉ khi Thẩm phán và Hội thẩm tuyệt đối tuân thủ pháp luật, lấy pháp luật là căn cứ duy nhất để xét xử thì họ mới được độc lập, không bị phụ thuộc vào ai.
Có thể nói “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của các hình thức tố tụng, nó cũng là một trong những điều kiện bảo đảm hiệu quả của công tác xét xử. Tuy nhiên, trong hoạt động xét xử của các cấp Toà án ở nước ta trong thời gian qua đã tồn tại không ít các yếu tố gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện nguyên tắc nêu trên. Nhận diện các yếu tố ảnh hưởng tới nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” và hạn chế thấp nhất mức độ ảnh hưởng của chúng có tác dụng góp phần nâng cao hiệu quả của công tác xét xử của Toà án.
Theo các quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân, Thẩm phán và Hội thẩm thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án và Phó Chánh án. Như vậy, Thẩm phán và Hội thẩm trở thành người tiến hành tố tụng và làm nhiệm vụ xét xử một vụ án nào đó trên cơ sở một quyết định (bằng văn bản hoặc bằng miệng) của một trong số cán bộ lãnh đạo của Toà án. Sau khi được phân công thụ lý hồ sơ vụ án, quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm với Chánh án, Phó Chánh án chỉ là mối quan hệ hành chính chứ không phải là mối quan hệ tố tụng. Thế nhưng, do nhiều nguyên nhân khác nhau, mói quan hệ hành chính đó lại chi phối hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm, hạn chế hoặc làm mất đi tính độc lập của những người này khi xét xử. Xét từ phía cán bộ lãnh đạo Toà án, trong một số trường hợp, do không tin tưởng ở cán bộ cấp dưới nên họ đã can thiệp vào công việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm, yêu cầu báo cáo, thỉnh thị hoặc thậm chí chỉ đạo những người này xét xử theo ý kiến chủ quan của mình. Cũng không ít trường hợp, do những động cơ cá nhân hay vụ lợi mà Chánh án, Phó Chánh án chỉ thị cho Thẩm phán và Hội thẩm phải xét xử thế này hoặc thế khác nhằm mang lại lợi ích cho mình hoặc lợi ích của những người khác. Trong Toà án, quan hệ hành chính giữa Thẩm phán, Hội thẩm tồn tại không chỉ với Chánh án, Phó Chánh án, mà còn với chánh toà và các phó chánh toà chuyên trách, ảnh hưởng của những người này tới sự độc lập khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm cũng tương tự như Chánh án, Phó Chánh án mặc dù mức độ ảnh hưởng có phần ít hơn.
Hiện nay, ở nước ta, bên cạnh một số Thẩm phán có trình độ chuyên môn nghiệp vụ thực hiện được nhiệm vụ của mình thì vẫn còn rất nhiều Thẩm phán, đặc biệt là Thẩm phán Toà án cấp quận, huyện, Toà án quân sự khu vực năng lực, trình độ chuyên môn còn yếu và chính điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sự độc lập của họ khi xét xử. Vì năng lực, trình độ nghiệp vụ yếu nên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Thẩm phán đã thiếu tự tin, ỷ lại hoặc sợ trách nhiệm, không tự quyết định được những vấn đề đặt ra khi xét xử và họ đã đánh mất tính độc lập của mình bằng cách chủ động xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên.
Trước thời điểm Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 có hiệu lực pháp luật, Toà án địa phương do Bộ Tư pháp quản lí, trong đó Bộ Tư pháp quản lí Toà án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Sở Tư pháp được Bộ Tư pháp phân cấp quản lí Toà án cấp quận, huyện. Theo các quy định hiện hành của Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, Toà án nhân dân tối cao thống nhất quản lý các Toà án địa phương cả về công việc và tổ chức cán bộ, trong đó Tòa án nhân dân tối cao quản lý Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố ừực thuộc trung ương quản lý Toà án nhân dân cấp quận, huyện. Cho dù việc quản lý Toà án địa phương theo cơ chế trước đây hay cơ chế như hiện nay thì trong một chừng mực nào đó, sự độc lập khi xét xử của Thẩm phán vẫn bị chi phối bởi những cán bộ Toà án cấp trên và những người thuộc cơ quan, tổ chức khác là thành viên các hội đồng tuyển chọn Thẩm phán. Khoản 1 Điều 26 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân ngày 04/10/2002 quy định: “Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương gồm có Chánh án Toà án nhân dân tối cao làm Chủ tịch, đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành trung ương Hội luật gia Việt Nam là ủy viên” và khoản 1 Điều 27 Pháp lệnh trên quy định: “Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện gồm có Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh làm Chủ tịch, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, đại diện lãnh đạo Ban tổ chức chính quyền, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành Hội luật gia là ủy viên”. Như vậy, tuỳ theo việc Thẩm phán đang làm việc tại Toà án cấp nào mà họ có thể bị phụ thuộc vào một số người này hoặc một số người khác trong quá trình xét xử vụ án. Ở đây, cần phải thấy rằng bản thân các quy định trên đây của pháp luật không hạn chế hay gây ảnh hưởng tới sự độc lập của Thẩm phán khi xét xử. Thế nhưng, trong thực tế, vì tồn tại quan hệ phụ thuộc giữa Thẩm phán với từng thành viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán nên đã có không ít Thẩm phán và trong không ít trường hợp đã làm theo đề nghị, yêu cầu của ai đó trong số những người nêu trên để mong có được cơ hội tiếp tục được tái tuyển chọn và tái bổ nhiệm vào chức danh Thẩm phán trong nhiệm kì sau. Trong trường hợp này, lại một lần nữa chúng ta thấy, chính bản thân Thẩm phán đã tự chối bỏ sự độc lập của mình khi xét xử - điều mà pháp luật đã trao cho họ. Ngoài ra, trong thực tế cũng đã có những người là thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình gây sức ép với Thẩm phán, hạn chế hoặc làm mất đi tính độc lập của Thẩm phán khi xét xử.
Ở nước ta, Toà án nhân dân được tổ chức theo đơn vị hành chính - lãnh thổ. Dù là Chánh án hay Thẩm phán thì họ vẫn bị chi phối bởi các ý kiến của cấp ủy hay lãnh đạo chính quyền địa phương. Trước khi đưa một người xuống giữ chức vụ Chánh án một quận, huyện, tỉnh, thành phố, hay đưa một cán bộ Toà án vào danh sách tuyển chọn để bổ nhiệm Thẩm phán, lãnh đạo Toà án cũng vẫn cần ý kiến của cấp ủy và chính quyền địa phương nơi đặt trụ sở của Toà án. Tổ chức đảng trong Toà án là bộ phận hợp thành, là cấp dưới của tổ chức đảng ở địa phương. Vì vậy, muốn hay không, hoạt động chuyên môn của Toà án là công tác xét xử cũng vẫn phụ thuộc vào ý kiến của cấp ủy hoặc ý kiến cá nhân của người nào đó giữ vai trò lãnh đạo trong cấp ủy. Giữa Toà án địa phương với chính quyền địa phương không tồn tại mối quan hệ hành chính, không có người lãnh đạo và người bị lãnh đạo, thế nhưng trong các cuộc họp của Hội đồng nhân dân địa phương từ cấp quận, huyện trở lên, Chánh án Toà án vẫn có trách nhiệm báo cáo về công tác của Toà án, Chánh án Toà án có thể bị chất vấn về công tác xét xử. Từ khía cạnh hoạt động tư pháp, ngành Toà án, Toà án cấp trên có thể đánh giá công tác xét xử của một Toà án địa phương nào đó là tốt, nhưng ngược lại, nếu việc xét xử ấy không phù hợp với chủ trương, ý chí của cấp ủy, chính quyền địa phương thì nó có thể bị địa phương đánh giá ngược lại. Là người chịu sự quản lí về nghiệp vụ của Toà án cấp trên nhưng Chánh án, Thẩm phán Toà án địa phương lại đồng thời chịu sức ép từ phía cấp ủy và chính quyền địa phương - cơ quan, tổ chức trực tiếp nắm giữ và chi phối các quyền lợi vật chất và chính trị của Chánh án và Thẩm phán nên khi xét xử, những người này cũng không thể độc lập. Trong công tác tổ chức cán bộ của ngành Toà án hiện nay còn có tình trạng Thẩm phán thường được điều động về Toà án địa phương nơi người đó có nhà ở. Vì vậy, hoạt động xét xử của Thẩm phán không những chịu sự chi phối của cấp ủy, chính quyền địa phương, mà còn bị chi phối bởi các mối quan hệ thân quen, bè bạn, họ hàng và các mối quan hệ khác.
Trong một số năm gần đây, với xu thế dân chủ hoá mọi hoạt động của Nhà nước trong đó có hoạt động tố tụng, vai trò của các cơ quan ngôn luận ngày càng được nâng cao. Nhiều vụ án được thông tin tới nhân dân thậm chí trước cả khi Toà án xét xử. Các bài báo, chương trình truyền hình, phát thanh không những chỉ đưa thông tin, mà còn hướng dẫn dư luận. Vì vậy, khi thụ lí hồ sơ vụ việc, Thẩm phán ít nhiều bị chi phối bởi các nhận định, đánh giá, thậm chí phán xét của cơ quan ngôn luận. Cũng đã có không ít trường hợp nhà báo sử dụng vị trí nghề nghiệp của mình để gây sức ép với Thẩm phán, Hội thẩm để những người này giải quyết vụ án theo quan điểm của mình đã hoặc sẽ được thông tin trên mặt bảo, đài hay truyền hình. Không ít Thẩm phán, do trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn yếu, thiếu tính quyết đoán nên đã bị ảnh hưởng bởi sự chi phối của dư luận dẫn tới việc ra các quyết định không đúng với bản chất và diễn biến của vụ việc.
Trong quá trình giải quyết các vụ án khác nhau, giữa Thẩm phán, Hội thẩm với những người tiến hành tố tụng khác, những người tham gia tố tụng tồn tại những mối quan hệ tố tụng rất phức tạp. Bên cạnh tính phối hợp còn tồn tại tính chế ước trong các quan hệ tố tụng nêu trên. Nếu có những căn cứ do pháp luật quy định, Thẩm phán và Hội thẩm có thể bị đề nghị thay đổi, không được tiếp tục tham gia tố tụng để xét xử vụ án. Các quyết định của hội đồng xét xử có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo các trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Trong những điều kiện hiện nay, các chuẩn mực để đánh giá phán quyết của Toà án, nhất là phán quyết trong các vụ án kinh tế, dân sự chưa thống nhất, rõ ràng nên không ít các bản án, quyết định của Toà án cấp dưới đã đúng đắn nhưng vẫn bị kháng cáo, kháng nghị lên Toà án cấp trên và chúng đã bị cải sửa, hủy theo ý chí, sự đánh giá chủ quan của một số người nào đó. Trong những trường hợp này, người đã có quyết định hoặc bản án bị cải sửa, hủy sẽ bị khiển trách, kiểm điểm một cách vô lí. Chính điều này đã tác động tới tâm lí của Thẩm phán, Hội thẩm khi xét xử và tới lượt mình, Thẩm phán, Hội thẩm không độc lập giải quyết vụ án theo suy nghĩ của mình mà “uốn” theo ý kiến của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác.
Trong thời gian qua, nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” vẫn chưa được tuyệt đối tuân thủ và bị chi phối bởi những yếu tố nêu trên. Để thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc này, nâng cao hiệu quả của công tác xét xử cần thiết thực hiện một cách đồng bộ các biện pháp khác nhau.
Nguyên nhân đầu tiên dẫn tới sự can thiệp vào hoạt động xét xử các vụ án khác nhau của Toà án là sự nhận thức không đúng đắn về vai trò, vị trí của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Có không ít người cho rằng nguyên tắc này chỉ mang tính cương lĩnh, định hướng chứ chưa phù hợp và không thể thực hiện được trong những điều kiện hiện nay của nước ta. Những người này hoặc thờ ơ hoặc chấp nhận sự can thiệp vào hoạt động xét xử của Toà án từ các phía mặc dù quy định về nguyên tắc nêu trên đã được ghi nhận từ rất lâu trong Hiến pháp và pháp luật. Chính vì vậy, biện pháp đầu tiên đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” theo chúng tôi là phải làm cho nhân dân trước hết là những cán bộ, đảng viên, những người có chức có quyền trong tổ chức Đảng và cơ quan nhà nước nhận thức đúng đắn và rõ hơn vị trí, vai trò, ý nghĩa của nguyên tậc này trong quá trình giải quyết vụ án. Thiết nghĩ, Trung ương Đảng cũng cần có một nghị quyết chuyên đề về bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử các vụ án giống như Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương vừa qua về cải cách tư pháp ở nước ta trong những năm sắp tới.
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hường tới nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” chúng tôi thấy một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng Thẩm phán và Hội thẩm mất tính độc lập khi xét xử là do trình độ, năng lực chuyên môn của các Thẩm phán chưa đáp ứng được nhu cầu của công việc xét xử. Đã có một thời kì dài ở nước ta, các Thẩm phán do cơ quan đại diện bầu ra nên có không ít người mặc dù không đủ trình độ, kiến thức pháp luật cần thiết nhưng vẫn “được” làm Thẩm phán. Cho tới nay, mặc dù cơ chế bầu Thẩm phán đã được thay thế bằng cơ chế bổ nhiệm theo các quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002 nhưng hiện vẫn còn không ít Thẩm phán đương nhiệm chưa có các điều kiện cần và đủ theo quy định. Để có được một đội ngũ Thẩm phán có trình độ chuyên môn vững vàng, có năng lực độc lập giải quyết được tất cả các loại án cần phải tiếp tục đào tạo và đào tạo lại những người đang và sẽ là Thẩm phán. Khi Thẩm phán có trình độ, năng lực, họ sẽ tự tin hơn, quyết đoán hơn trong công việc và lúc này, cho dù có thể có sự ảnh hưởng, sự tác động nào đó thì họ vẫn không thể bị chi phối khi đang giải quyết một vụ án cụ thể. Tiêu chuẩn hóa đội ngũ Thẩm phán đang và sẽ là công việc phải tiến hành. Trong thời gian vừa qua có tình trạng một người chưa từng làm Thẩm phán, chưa từng xét xử một loại vụ án nào dù là vụ án đơn giản nhất nhưng ngay lập tức lại được bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hay Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và mặc dù là Thẩm phán mới nhưng lại phải xét xử sơ thẩm cảc vụ án phức tạp hoặc xét xử phúc thẩm các vụ án do Thẩm phán lâu năm xét xử sơ thẩm. Điều này đã đẩy các Thẩm phán mới được bổ nhiệm vào tình thế khó khăn, làm họ rất lúng túng khi xem xét các kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm và dẫn tới tình trạng mặc dù quyết định, bản án của cấp dưới sai nhưng hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn y án sơ thẩm. Hiện nay, ở nước ta, Thẩm phán có ba cấp: Thẩm phán TAND cấp quận, huyện; Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (tương ứng trong quân đội có Thẩm phán Toà án quân sự (TAQS) khu vực; Thẩm phán TAQS cấp quân khu và Thẩm phán TAQS trung ương), về nguyên tắc và thứ bậc thì một người muốn được bổ nhiệm Thẩm phán Toà án cấp trên thì người đó phải từng là Thẩm phán Toà án cấp dưới. Thực hiện nguyên tắc này trong tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán sẽ có điều kiện tạo ra một đội ngũ Thẩm phán có kinh nghiệm nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn cao, có năng lực xét xử tất cả các vụ án thuộc thẩm quyền và có khả năng độc lập trước ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau. Để các Thẩm phán, Hội thẩm độc lập khi xét xử cần bỏ cơ chế thỉnh thị, báo cáo, duyệt án như nó đã và đang tồn tại ở nhiều Toà án của nước ta hiện nay. Xoá bỏ cơ chế thỉnh thị, báo cáo, duyệt án sẽ tạo ra điều kiện để các Thẩm phán đề cao trách nhiệm cá nhân, dám làm dám chịu, buộc các Thẩm phán phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình, tránh sự ỷ lại vào cấp trên, cán bộ lãnh đạo, quản lí. Trong ngành Toà án phải có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh. Người giỏi, người có công phải được đánh giá đúng mức, người kém, người vi phạm cần phải xử phạt nghiêm khắc. Những Thẩm phán không hoàn thành trách nhiệm có thể bị tạm đình chỉ công việc xét xử trong một thời gian nếu sai phạm chưa tới mức miễn nhiệm chức danh Thẩm phán và có thể không được đưa vào danh sách tuyển chọn để tái bổ nhiệm. Tuy nhiên, cán bộ lãnh đạo, quản lí cũng cần thấy một thực tế hiển nhiên là không làm thì không sai còn đã làm thì cũng có lúc mắc sai lầm. Vì thế, khi một người mắc sai lầm, cần phân biệt lỗi cố ý hoặc vô ý để có biện pháp xử lí phù hợp. Để có cơ sở đánh giá trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán một cách chính xác, theo chúng tôi cần chia chức danh Thẩm phán thành nhiều ngạch thay vì chia thành ba cấp như hiện nay. Việc phân chia Thẩm phán thành nhiều ngạch vừa làm căn cứ đề ra chính sách đãi ngộ với họ phù hợp vừa tạo điều kiện để luân chuyển Thẩm phán bảo đảm một Thẩm phán đang làm việc ở Toà án dịa phương này có thể được phân công xét xử vụ án xảy ra ở địa phương khác. Điều này cũng phù hợp với chính sách sử dụng cán bộ của Trung ương Đảng hiện nay vừa tạo điêu kiện cho Thẩm phán được độc lập khi xét xử.
Để tránh sự can thiệp thô bạo của một số cán bộ lãnh đạo, quản lí ở địa phương đối với công tác xét xử của các Thẩm phán, không nên đặt tổ chức đảng ở các Toà án trực thuộc cấp ủy ở địa phương mà nên quy định các tổ chức đảng ở Toà án hoặc sinh hoạt theo tổ chức đảng của ngành mình hoặc là một tổ chức trực thuộc cấp ủy cấp trên trực tiếp (đảng bộ Toà án nhân dân cấp quận, huyện trực thuộc tỉnh ủy hoặc thành ủy; đảng bộ Toà án nhân dân cấp tỉnh trực thuộc đảng ủy khối nội chính trung ương). Thiết nghĩ việc thực hiện các biện pháp trên đây sẽ tạo ra những điều kiện cần thiết bảo đảm cho việc thực hiện trong thực tiễn nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Chuyên đề 3
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THẨM PHÁN
VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN GÓP PHẦN BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC
KHI XÉT XỬ THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM ĐỘC LẬP
VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT
ThS. Nguyển Văn Hiển
L Những quy định của pháp luật hiện hành về quản lý Thẩm phán.
Các quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh về chế định quản lý Thẩm phán nằm ở nhiều văn bản khác nhau như: Hiến pháp 1992; Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Bộ luật tố tụng dân sự 2004; Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002; Pháp lệnh về tổ chức Toà án quân sự 2002; Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân 2002... và các văn bản hướng dẫn thi hành. Các quy định này tập trung ở các vấn đề sau:
1. Về tiêu chuẩn Thẩm phán
Tiêu chuẩn Thẩm phán là điều kiện cần phải có của một người để làm căn cứ cho việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán. Dưới góc độ pháp lý thì việc xây dựng các tiêu chuẩn Thẩm phán là một công việc khó khăn. Thông thường việc xây dựng tiêu chuẩn Thẩm phán ở các nước đều dựa trên các yếu tố cơ bản: quan điểm chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác, sức khoẻ. Các tiêu chuẩn này một mặt phải xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp, mặt khác phải phù hợp với thực trạng chất lượng cán bộ hiện có.
Đồng thời, khi xây dụng tiêu chuẩn Thẩm phán, chúng ta cũng phải quán triệt quan điểm của Đảng về tiêu chuẩn cán bộ là: “Có phẩm chất chính trị tốt, vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có tinh thần năng động, sáng tạo, phấn đấu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, dám đấu tranh với những quan điểm sai trái. Có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn đoàn kết nội bộ. Có quan hệ mật thiết với nhân dân. Có năng lực, trình độ và sức khoẻ phù hợp với nhiệm vụ công tác được giao. Có phong cách làm việc khoa học, đưa lại hiệu quả thiết thực”[16].
Điều 5 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân 2002 quy định: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian công tác thực tiễn, có năng lực làm công tác xét xử theo quy định của Pháp lệnh này, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán.
Theo quy định trên thì việc tuyển chọn Thẩm phán phải dựa trên những tiêu chuẩn chính sau:
-
Tiêu chuẩn về chính trị;
-
Tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức;
-
Tiêu chuẩn về chuyên môn (chuyên môn luật);
-
Tiêu chuẩn về nghiệp vụ (tiêu chuẩn nghề), kinh nghiệp xét xử;
-
Tiêu chuẩn về sức khoẻ.
1.1. Về tiêu chuẩn chính trị, phẩm chất đạo đức:
Tiêu chuẩn chính trị là những tiêu chuẩn về mặt quan điểm, tư tưởng chính trị của người Thẩm phán. Bất cứ một Nhà nước nào, một chế độ nào thì yêu cầu đầu tiên đối với bất kỳ một nhân viên nào trong bộ máy nhà nước là sự trung thành với chế độ. Với chế độ ta, đó là sự trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, vì “Nhà nước CHXNCH Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”..., “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Điều 2, Điều 4 Hiến pháp 1992).
Để đánh giá được tư tưởng, quan điểm, bản lĩnh chính chính trị vững vàng của Thẩm phán thì đòi hỏi cũng phải có những tiêu chuẩn cụ thể nhất định. Tiêu chuẩn ấy là kết quả của quá trình bồi dưỡng, đào tạo và tự rèn luyện và được đánh giá thông qua hệ thống văn bằng như: trình độ lý luận chính trị sơ cấp, trung cấp, cao cấp.
Đạo đức là một dạng hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp nhũng quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội về điều thiện, điều ác, về danh dự, lương tâm, lẽ công bằng... Trong đời sống hiện thực, đạo đức bao gồm: ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức.
Đối với người Thẩm phán thì ngoài việc đáp ứng các chuẩn mực đạo đức thông thường, người Thẩm phán còn phải đáp ứng các chuẩn mực đạo đức xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp như: các tiêu chuẩn về công bằng, khách quan, vô tư trong hoạt động nghề nghiệp, các chuẩn mực giao tiếp, ứng xử khi xét xử, các chuẩn mực về lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp... Vậy pháp luật cần điều chỉnh phạm trù (các quan hệ) đạo đức đối với nghề xét xử ở mức độ nào và như thế nào? Chúng tôi cho rằng đạo đức là một phạm trù xã hội, các xử sự của chủ thể mang tính tự nguyện và chế tài đối với các xử sự trái với các quy phạm đạo đức là dư luận xã hội, còn quy phạm pháp luật là các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung được đề lên thành luật và được bảo đảm bằng các chế tài pháp lý. Như vậy, pháp luật cần điều chỉnh vấn đề đạo đức Thẩm phán ở phạm vi sau:
-
Pháp luật sẽ không điều chỉnh ý thức đạo đức mà chỉ điều chỉnh các quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức.
-
Pháp luật chỉ điều chỉnh các quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán (như ảnh hưởng đến tính vô tư, khách quan, độc lập trong xét xử...).
-
Các vấn đề khác thuộc phạm trù đạo đức như lương tâm, trách nhiệm, chuẩn mực giao tiếp, ứng xử... cần được điều chỉnh bằng các văn bản của Hiệp hội Thẩm phán (chẳng hạn như bản quy tắc đạo đức Thẩm phán).
Hiện nay, các quy định về phẩm chất chính trị, đạo đức của Thẩm phán được quy định rải rác trong các văn bản pháp luật như: Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Bộ luật tố tụng dân sự 2004, Luật tổ chức TAND, Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân 2002, Pháp lệnh cán bộ, công chức... Theo các văn bản pháp luật này thì Thẩm phán phải đáp ứng các yêu cầu về đạo đức của cán bộ, công chức nói chung như: công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, học tập nâng cao trình độ và năng lực công tác để thực hiện tốt nhiệm vụ, công vụ được giao; tận tụy phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân; liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tham gia sinh hoạt với cộng đồng dân cư nơi cư trú, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; có nếp sống lành mạnh, trung thực, cân kiệm liêm chính, chí công vô tư; không được quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng; có ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm trong công tác; thực hiện nghiêm chỉnh nội quy của cơ quan, tổ chức; giữ gìn và bảo vệ của công, bảo vệ bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật; không được chây lười trong công tác, trốn tránh trách nhiệm hoặc thoái thác nhiệm vụ, công vụ; không được gây bè phái, mất đoàn kết, cục bộ hoặc tự ý bỏ việc; không được cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong khi giải quyết công việc... (Điều 2, 6, 15, 16 Pháp lệnh Cán bộ, công chức).
Bên cạnh đó Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân còn quy định:
-
Thẩm phán phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng, tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
-
Thẩm phán có trách nhiệm học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ Tòa án.
- Thẩm phán không được làm những việc sau đây:
-
Những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm;
-
Tư vấn cho bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác không đúng quy định của pháp luật;
-
Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án;
-
Đem hồ sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan, nếu không vì nhiệm vụ được giao hoặc không được sự đồng ý của người có thẩm quyền;
-
Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định.
Ngoài ra, pháp luật còn có một số quy định riêng về đạo đức của Thẩm phán. Những người không đủ tiêu chuẩn “có phẩm chất, đạo đức tốt” thì không được bổ nhiệm làm Thẩm phán. Theo Điểm 3, Mục 1, Thông tư liên ngành số 05-TTLN ngày 15/10/1993, của Toà án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn[17] một số quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân[18] thì những người không đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán là: Người đã bị kết án về tội cố ý, không phụ thuộc vào việc đã được xoá án hay chưa được xoá án; Người đã bị kết án về tội vô ý, nhưng chưa được xoá án; Người có hành vi vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức gây ảnh hưởng xấu hoặc mất uy tín trong quần chúng nhân dân; Người có người thân thích ruột thịt như cha mẹ, vợ chồng, con cùng sống chung trong gia đình mà họ có những việc làm vi phạm pháp luật nghiêm trọng, có hệ thống.
1.2. Về tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ:
Nghề Thẩm phán là nghề xét xử, muốn xét xử được đòi hỏi Thẩm phán phải có tiêu chuẩn cần thiết về chuyên môn và nghiệp vụ. Nhưng chuyên môn và nghiệp vụ như thế nào được coi là cần thiết? Cái thước để đo về chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán chính là kết quả của hoạt động xét xử. Tức là bản án do Hội đồng xét xử tuyên (trong đó có Thẩm phán) có đúng pháp luật không. Tuy nhiên, tiêu chuẩn chuyên môn và nghiệp vụ của Thẩm phán không chỉ được đánh giá thông qua chất lượng xét xử, mà còn phải được xem xét khi tuyển chọn Thẩm phán. Do vậy, về mặt lý luận đòi hỏi phải có một thước đo nhất định để làm căn cứ xem xét một người có đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán không.
Tiêu chuẩn về chuyên môn chính là những kiến thức về pháp luật của Thẩm phán. Việc quy định tiêu chuẩn chuyên môn của Thẩm phán phụ thuộc vào một số vấn đề sau: hệ thống pháp luật hiện hành, chất lượng đào tạo chuyên ngành luật, mặt bằng hiểu biết pháp luật của người dân nói chung, tính phức tạp của hoạt động tố tụng...
Tiêu chuẩn về nghiệp vụ của Thẩm phán là kỹ năng, kinh nghiệm xét xử của Thẩm phán. Do tính phức tạp của nghề Thẩm phán cho nên ngoài việc trang bị các kiến thức lý luận thì việc trang bị kinh nghiệm thực tiễn là điều không thể thiếu. Tiêu chuẩn về nghiệp vụ có thể được đánh giá thông qua một số hình thức như:
-
Khả năng được đào tạo nghề: người được bổ nhiệm làm Thẩm phán cần phải được bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp tại một trung tâm đào tạo nghề nhất định.
-
Kinh nghiệm thực tiễn (thời gian công tác và vị trí công tác): người muốn bổ nhiệm làm Thẩm phán phải công tác trong ngành pháp luật một thời gian nhất định (như trong pháp luật hiện hành), hoặc là phải giúp việc cho Thẩm phán ở Toà án một thời hạn nhất định sau đó mới được bầu làm Thẩm phán tập sự, làm Thẩm phán tập sự sau một thời gian nhất định mới được bổ nhiệm làm Thẩm phán chính thức.
Trên cơ sở Điều 5 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, các Điều 20, 21, 22, 23 của Pháp lệnh này quy định cụ thể:
-
Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, có thời gian làm công tác pháp luật từ bốn năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực.
-
Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân và đã là Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện, Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực ít nhất là năm năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu.
Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của ngành Tòa án nhân dân, người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân và đã có thời gian làm công tác pháp luật từ mười năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu.
Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân và đã là Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu ít nhất là năm năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự Trung ương, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương.
Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của ngành Tòa án nhân dân, người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân và đã có thòi gian làm công tác pháp luật từ mười lăm năm năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự Trung ương, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương.
- Trong trường hợp cần thiết, người công tác trong ngành Tòa án nhân dân hoặc người do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều động đến công tác tại ngành Tòa án nhân dân tuy chưa có đủ thời gian làm Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp dưới hoặc chưa có đủ thời gian làm công tác pháp luật, nhưng có đủ các tiêu chuẩn khác quy định tại Điều 20 hoặc Điều 21 hoặc Điều 22 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực hoặc Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu hoặc Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương.
Như vậy, so với các quy định trước đây của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 1993 thì tiêu chuẩn để bổ nhiệm Thẩm phán theo quy định mới cao hơn so với tiêu chuẩn trước đây cả về trình độ chuyên môn luật và kinh nghiệm, năng lực xét xử thực tế (theo quy định của Pháp lệnh 1993 thì yêu cầu về chuyên môn luật đối với người được lựa chọn để bổ nhiệm Thẩm phán chỉ là “có trình độ cao đẳng Toà án hoặc đại học luật”, còn yêu cầu về kinh nghiệm năng lực xét xử thực tế chỉ là “có thời gian làm công tác pháp luật” từ 4 năm trở lên, 6 năm trở lên[19]....). Những quy định này đã góp phần từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tiễn.
1.3. Về tiêu chuẩn sức khoẻ:
Xét xử là một nghề đòi hỏi ở người Thẩm phán phải tụ họp nhiều yếu tố như chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức, sức khoẻ... Tiêu chuẩn sức khoẻ của Thẩm phán không chỉ thông thường như các nghề nghiệp khác (tức là các yêú tố thể chất), mà trên một phương diện nào đó lao động của Thẩm phán cũng là một lao động nghệ thuật - xét hỏi, thẩm vấn phải có nghệ thuật - vì vậy, tiêu chuẩn sức lchoẻ của Thẩm phán cũng phải đáp ứng các điều kiện như một “ngành nghệ thuật” chuyên biệt, nghĩa là cũng phải có các tiêu chuẩn về hình thức, về ứng xử, giao tiếp (ăn nói).
-
Về tác phong: phải đi đứng đàng hoàng, đĩnh đạc, ngồi xét xử đúng tư thế (vấn đề này có thể đáp ứng được thông qua hoạt động đào tạo hoặc tự rèn luyện).
-
Về giao tiếp: ăn nói phải chuẩn mực, tức là người Thẩm phán cũng có phong cách giao tiếp như: khi thẩm vấn, xét hỏi, lấy lời khai phải dùng từ ngữ phổ thông, dễ hiểu phù hợp với từng đối tượng nhung tránh sử dụng các từ ngữ thô tục, khi tuyên án phải sử dụng ngôn ngữ pháp lý chính xác, mạch lac.
Những người có các khuyết tật trong giao tiếp như: nói ngọng, nói lắp... đều không phù hợp với nghề xét xử.
Tiêu chuẩn “có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao” chưa được hướng dẫn cụ thể trong pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, theo Thông tư liên tịch số 05 trước đây hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 1993 thì được hiểu là ngoài thể lực cần thiết, còn bao gồm yếu tố ngoại hình đó là không dị tật, dị hình ảnh hưởng trực tiếp đến tư thế hoặc việc thực hiện nhiệm vụ của người Thẩm phán.
Trong quá trình công tác Thẩm phán có thể được miễn nhiệm chức danh Thẩm phán do sức khỏe mà xét thấy không thể bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.
2. Quản lý Thẩm phán
Xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp của hoạt động xét xử nên hoạt động quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân cũng là một hoạt động quản lý hành chính nhà nước tương đối đặc biệt. Nội dung quản lý Thẩm phán cũng bao gồm các nội dung chính của hoạt động quản lý cán bộ, công chức. Tuy nhiên, do xuất phát từ đặc thù của nghề Thẩm phán mà các nội dung cụ thể cũng có những điểm khác biệt so với hoạt động quản lý cán bộ, công chức bình thường. Tuỳ vào tình hình và đặc điểm của mỗi nước, việc tổ chức và quản lý Thẩm phán cũng có nhũng khác nhau, nhưng tất cả các nước đều thống nhất quản lý Thẩm phán trên các vấn đề sau:
-
Biên chế Thẩm phán trong toàn quốc;
-
Quỹ tiền lương;
-
Vấn đề tuyển dụng, sử dụng, thuyên chuyển, đào tạo, bổ nhiệm, miễn nhiệm Thẩm phán;
Tiêu chuẩn Thẩm phán;
-
Tiền lương, chế độ chính sách đối với Thẩm phán;
-
Phương pháp đánh giá chất lượng Thẩm phán hàng năm;
-
Khen thưởng, kỷ luật, cách chức Thẩm phán.
-
Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo;
-
Thống kê Thẩm phán.
Để thực hiện các nội dung trên đòi hỏi phải có nhiều cơ quan khác nhau, trong đó mỗi cơ quan đảm nhiệm một khâu quản lý nhất định như: ban hành văn bản, tổ chức thực hiện (trong đó có kết hợp các nguyên tắc quản lý nhà nước như: quản lý theo chức năng, quản lý theo ngành, quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ, thực hiện phân cấp, ủy quyền...) kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo... Trong các nội dung kể trên, thì một số nội dung sau mang tính chất khá đặc thù của hoạt động quản lý Thẩm phán.
2.1. Về thẩm quyền quản lý Thẩm phản:
Quản lý Thẩm phán là một vấn đề phức tạp trong pháp luật Việt Nam, do xuất phát từ tính đặc thù trong hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán nên vấn đề quản lý Thẩm phán cũng có những đặc thù khác so với công tác quản lý cán bộ, công chức khác.
-
Về chuyên môn, nghiệp vụ: theo quy định của pháp luật hiện hành thì Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn các Toà án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Toà án. Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân sự quân khu bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật taị Toà án cấp mình và các Toà án cấp dưới, tổng kết kinh nghiêm xét xử (Điều 19, 28 Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002, Điều 27 Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự 2002).
-
Quản lý về mặt tổ chức:
Điểu 17 Luật tổ chức Toà án nhăn dân quy định: Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về tổ chức có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa phương. Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án quân sự về tổ chức có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng
Trước đây, (theo quy định tại Điều 16 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1992 và Điều 16 Pháp lệnh Tổ chức TAQS 1993) thì việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án TANDTC. Việc quản lý các Toà án quân sự quân khu và tương đương, các Toà án quân sự khu vực về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ trưởng Bộ quốc phòng và Chánh án TANDTC.
Như vậy, việc quản lý Thẩm phán đã được chuyển từ Bộ Tư pháp sang Chánh án Toà án nhân dân tối cao kể từ tháng 10/2002 và công việc này được được chia xẻ cho nhiều cơ quan quản lý gồm: Toà án nhân dân tối cao, Bộ quốc phòng, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố.
2.2. Về bổ nhiệm Thẩm phán:
Điểm 8 Điều 103 Hiến pháp 1992 quy định Chủ tịch nước có thẩm quyền “Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán TANDTC”. Đối với các chức danh khác của Toà án và Thẩm phán TAND địa phương và Toà án quân sự quân khu trở xuống thuộc thẩm quyển của Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Điều 25 Luật tổ chức Toà án nhân dân và Pháp lệnh Tòa án và Hội thẩm nhan dân 2002 quy định, Chánh án Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền:
-
Bố nhiệm, miên nhiệm, cách chức Chánh tòa, Phó Chánh tòa các Tòa chuyên trách, Vụ trưởng, Phó vụ tnrởng và các chức vụ khác trong Tòa án nhân dân tối cao, trừ Phó Chánh án, Thẩm phán;
-
Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán;
-
Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó Chánh án các Tòa án nhân dân địa phương sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân địa phương; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng;
Để giúp Chủ tịch nước và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân, ở mỗi cấp đều có Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán. Theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân có 3 loại Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán là: Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương; Các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện; Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu, Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực. Thành phần, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp được quy định tại Điều 25, 26, 27, 28 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương gồm có Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm Chủ tịch, đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương Hội Luật gia Việt Nam là ủy viên. Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện gồm có Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp định làm Chủ tịch, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, đại diện lãnh đạo Ban Tổ chức chính quyền, Ủy ban Mặt trận Tố quốc Việt Nam, Ban chấp hành Hội Luật gia cấp tỉnh là ủy viên. Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu, Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực gồm có Chánh án Tòa án quân sự. Trung ương làm Chủ tịch, đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương Hội Luật gia Việt Nam là ủy viên.
Việc quy định thành phần như vậy thể hiện tính dân chủ, khách quan của các cơ quan, tổ chức xã hội, đoàn thể và tầng lớp nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua người đại diện trong việc tuyển chọn người xứng đáng giữ cán cân công lý. Mặt khác, quy định này cũng xác định vai trò và trách nhiệm của từng cơ quan tham gia vào tuyển chọn Thẩm phán.
Hiện nay Toà án nhân dân tối cao đang phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng Quy chế phối hợp giữa Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng nhân dân địa phương, giữa Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Quốc phòng trong việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự về tổ chức do để trình Ủy ban ban thường vụ Quốc hội thông qua.
2.3. Về việc miên nhiệm và cách chức Thẩm phán:
Việc miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán theo Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002 cũng có sự phân cấp và quy định rõ hơn so với trước đây.
- Về các trường hợp miễn nhiệm, cách chức:
Pháp lệnh 2002 quy định rõ hai trường hợp miễn nhiệm, cách chức chức danh Thẩm phán và miễn nhiệm, cách chức các chức vụ quản lý như: Chánh án, Phó Chánh án. Theo đó:
+ Thẩm phán đương nhiên được miễn nhiệm chức danh Thẩm phán khi nghỉ hưu (khoản 1 Điều 29). Thẩm phán còn có thể được miễn nhiệm chức danh Thẩm phán do sức khỏe, do hoàn cảnh gia đình hoặc vì lý do khác mà xét thấy không thể bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao (khoản 2 Điêu 29);
+ Thẩm phán đương nhiên bị mất chức danh Thẩm phán khi bị kết tội bằng bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (khoản 1 Điều 30). Ngoài ra, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, Thẩm phán còn có thể bị cách chức chức danh Thẩm phán khi thuộc một trong các trường hợp: (i) Vi phạm trong công tác xét xử, giải quyết những việc thuộc thẩm quyền của Tòa án; (ii) Vi phạm các điều cấm được quy định tại Điều 15 trong Pháp lệnh Thẩm phán (như: những việc mà cán bộ, công chức không được làm; Tư vấn cho bị can, bị cáo, đương sự hoặc người giam gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án hoặc nhũng việc khác không đúng quy định của pháp luật; can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án...); (iii) Bị kỷ luật bằng hình thức cách chức chức vụ quản lý đang đảm nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; (iv) Vi phạm về phẩm chất đạo đức; (v) Có hành vi vi phạm pháp luật khác (khoản 2 Điều 30);
+ Việc miễn nhiệm, cách chức các chức vụ quản lý (Chánh án, Phó Chánh án) được thực hiện theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
-
Về thẩm quyền, miễn nhiệm, cách chức:
+ Về thẩm quyền miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán được quy định tại Điều 25 (xem phần bổ nhiệm);
+ Điều 31 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002 còn quy định rõ Chủ tịch nước miễn nhiệm, cách chức các chức danh Phó Chánh án TANDTC, Chánh án, Phó Chánh án TAQSTW theo đề nghị của Chánh án TANDTC. Chánh án TANDTC miễn nhiệm, cách chức các chức danh Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân địa phương sau khi thống nhất với thường trực Hội đồng nhân dân địa phương cùng cấp; miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Trước khi đề nghị Chủ tịch nước, Chánh án TANDTC cách chức các chức danh trên, nếu người bị cách chức thuộc một trong các trường hợp cách chức chức danh Thẩm phán thì phải có ý kiến của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán có thẩm quyền tuyển chọn Thẩm phán đó.
-
Về thủ tục miễn nhiên, cách chức:
Hiện nay Pháp luật chưa có quy định cụ thể về thủ tục miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán và các chức danh quản lý. Tuy nhiên, theo tinh thần của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân thì các trường hợp đương nhiên miễn nhiệm, đương nhiên cách chức (khoản 1 Điều 29 và khoản 1 Điều 30) không cần phải có ý kiến của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán. Đối với các trường hợp miễn nhiệm và cách chức khác thì trước khi đề nghị Chủ tịch nước hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao miễn nhiệm, cách chức chức danh Thẩm phán hoặc các chức vụ quản lý đối với một người nào đó phải có ý kiến đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán có thẩm quyền tuyển chọn Thẩm phán đó.
Theo quy định trước đây (Thông tư số 05/TTLN) thì việc miễn nhiên Thẩm phán cần xác định rõ lý do miễn nhiệm (do yêu cầu quy hoạch cán bộ ở địa phương để chuyển sang cơ quan khác hoặc do sức khỏe, do nghỉ hưu...) và Thẩm phán phải có đơn xin miễn nhiệm, có ý kiến của cấp ủy Đảng địa phương nơi người đó công tác (các trường hợp đề nghị miễn nhiệm để chuyển công tác khác do yêu cầu sắp xếp, quy hoạch cán bộ của địa phương thì không cần đơn xin miễn nhiệm). Đối với việc cách chức các chức Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh thì việc chuẩn bị hồ sơ cách chức (hồ sơ gồm có: bản tự kiểm điểm của Thẩm phán bị đề nghị cách chức; ý kiến bằng văn bản của Ban Thường vụ tỉnh ủy, thành ủy về việc cách chức Thẩm phán; Tờ trình của Chánh án Toà án nhân dân tỉnh về việc cách chức Thẩm phán, kèm theo Biên bản phiên họp của Hội đồng kỷ luật cơ quan nơi Thẩm phán công tác và các tài liệu vi phạm của Thẩm phán bị đề nghị cách chức) do Toà án nhân dân cấp tỉnh đảm nhiệm, có sự phối hợp chặt chẽ với các Ban chức năng của Đảng với sự chỉ đạo của Ban Thường vụ tỉnh ủy, thành ủy. Đối với việc cách chức Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện thì việc chuẩn bị hồ sơ cách chức (hồ sơ gồm có: bản tự kiểm điểm của Thẩm phán; biên bản họp Hội đồng kỷ luật cơ quan nơi Thẩm phán công tác; các tài liệu về việc vi phạm của Thẩm phán; ý kiến bằng văn bản của Ban Thường vụ cấp ủy cùng cấp về việc cách chức Thẩm phán; tờ trình của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện về việc cách chức Thẩm phán, cùng với Biên bản phiên họp xét kỷ luật Thẩm phán của Hội đồng) do Sở Tư pháp đảm nhiệm, có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và Thường vụ cấp ủy cùng cấp.
2.4. Về việc điền động, biệt phái đổi với Thẩm phán:
Theo quy định tại Điều 19 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002 thì việc điều động, biệt phái Thẩm phán từ Tòa án nhân dân này đến Tòa án nhân dân khác cùng cấp do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định, việc điều động, biệt phái Thẩm phán Tòa án quân sự từ Tòa án quân sự này sang Tòa án quân sự khác cùng cấp do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định sau khi thống nhất với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Quy định này đã xác định rõ thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cũng như của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc điều động, biệt phái công tác đối với Thẩm phán.
Theo quy định của Thông tư số 05/TTLN trước đây thì việc thuyên chuyển (nay là điều động, biệt phái) Thẩm phán được quy định khá chặt chẽ, cụ thể như sau:
-
Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân tỉnh này đến Tòa án nhân dân tỉnh khác thì phải có ý kiến của cấp ủy Đảng nơi Thẩm phán hiện đang công tác và ý kiến của cấp ủy Đảng nơi Thẩm phán sẽ đến công tác. Trên cơ sở các ý kiến đó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định.
-
Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân huyện này đến Tòa án nhân dân huyện khác thì cần phải có ý kiến của cấp ủy đảng nơi Thẩm phán sẽ đến công tác. Trên cơ sở các ý kiến đó, Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh thống nhất với Chánh án TAND tỉnh đề nghị Bộ trưỏng Bộ Tư pháp ra quyết định (trong trường hợp thuyên chuyển Thẩm phán giữa các Toà án nhân dân cấp huyện không cùng tỉnh, thành phố thì cần phải có tờ trình của Giám đốc Sở Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh của cả nơi đi và nơi chuyển đến).
Quy định như trên bảo đảm sự chặt chẽ trong công tác quản lý cán bộ, tuy nhiên trên thực tế có nhiều trường hợp phải chờ đợi ý kiến thống nhất của các cơ quan liên quan. Điều này đã gây rất nhiều phiền hà cho các đương sự .
II. Những quy định của pháp luật hiện hành về quản lý Hội thẩm
1. Về tiêu chuẩn Hội thẩm
Khoản 2, Điều 5 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân quy định: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có kiến thức pháp lý, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được bầu hoặc cử làm Hội thẩm”.
Như vậy, so với trước đây tiêu chuẩn chung của Hội thẩm đã có những bổ sung nhất định, theo đó ngoài các tiêu chuẩn như trước đây, tiêu chuẩn chung của Hội thẩm còn đòi hỏi các tiêu chuẩn: trung thành với Hiến pháp, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
2. Quản lý Hội thẩm
Khác với Thẩm phán, Hội thẩm là một chế định thể hiện rõ nét quyền giám sát trực tiếp của nhân dân đối với cơ quan tư pháp. Hội thẩm không phải là cán bộ, công chức nhà nước do vậy việc quản lý Hội thẩm cũng có những đặc thù nhất định. Việc quản lý Hội thẩm nhân dân chỉ giói hạn trong việc bầu, cử, miễm nhiệm, bãi nhiệm và các chế độ chính sách khác đối với Hội thẩm.
2.1. Bầu, cử Hội thẩm:
Theo quy định của pháp luật thì Hội thẩm Tòa án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân bầu, Hội thẩm quân nhân do cơ quan quân đội cử. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp, nhiệm kỳ của Hội thẩm quân nhân là năm năm kể từ ngày được cử. Điều 38 Pháp lệnh 2002 quy định rõ:
-
Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp;
-
Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự quân khu do Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương;
-
Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự khu vực do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương.
Như vậy, quy trình bầu, cử Hội thẩm trong Pháp lệnh 2002 không có gì thay đổi so với Pháp lệnh 1993.
2.2. Miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm:
Việc miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm trong Pháp lệnh 2002 cũng tương tự như các quy định của Pháp lệnh 1993. Cụ thể là:
“Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp sau khi thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp;
-
Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự quân khu do Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu sau khi thống nhất với cơ quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tuơng đương;
-
Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự khu vực do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Tòa án quân sự khu vực sau khi thống nhất với cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương.
Bên cạnh đó, Pháp lệnh 2002 còn quy định cụ thể các trường hợp miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm. Cụ thể là;
-
Hội thẩm có thể được miễn nhiệm vì lý do sức khỏe hoặc lý do khác;
-
Hội thẩm bị bãi nhiệm khi có vi phạm về phẩm chất đạo đức hoặc có hành vi vi phạm pháp luật không còn xứng đáng làm Hội thẩm.
Để tránh các trường hợp bầu, cử Hội thẩm mang tính hình thức hoặc là các trường hợp vi phạm các quy định về miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm, Pháp lệnh 2002 còn quy định rõ, trong thời hạn một năm mà Hội thẩm không được Chánh án Tòa án phân công làm nhiệm vụ xét xử thì có quyền yêu cầu Tòa án cho biết lý do.
2.3. Bồi dưỡng chuyên môn; chế độ, chính sách đổi với Hội thẩm:
Pháp lệnh quy định rõ Hội thẩm được bồi dưỡng về nghiệp vụ, tham gia hội nghị tổng kết công tác xét xử của Tòa án. Kinh phí bồi dưỡng về nghiệp vụ cho Hội thẩm được dự toán trong kinh phí hoạt động của Tòa án nhân dân, có sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước.
Về chế độ chính sách thì Hội thẩm được cấp trang phục. Mẫu trang phục, chế độ cấp phát và sử dụng trang phục do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định. Khi làm nhiệm vụ xét xử, Hội thẩm được hưởng phụ cấp theo quy định của pháp luật. Hội thẩm là cán bộ, công chức, quân nhân tại ngũ, công nhân quốc phòng thì thời gian làm nhiệm vụ Hội thẩm được tính vào thời gian làm việc ở cơ quan, đơn vị.
III. Một số nhận xét, bình luận
Nhìn chung Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002 đã quy định khá rõ về tiêu chuẩn Thẩm phán và Hội thẩm về công tác quản lý Thẩm phán và Hội thẩm. Các quy định này sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng trong công tác đối mới công tác quản lý Thẩm phán và Hội thẩm, nâng cao chất lượng của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Tuy nhiên, việc quản lý Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được xém xét dưới góc độ bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử thì vẫn còn có những băn khoăn đáng đưa ra để bàn luận.
Nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là một trong những nguyên tắc hiến định và quan trọng bậc nhất trong tổ chức, hoạt động của Tòa án và được quy định tại Điều 130 Hiến pháp 1992 (sửa đổi). Nguyên tắc này cũng được quy định tại Điều 5 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Điều 4 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002 và Điều 8 Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự 2002. Để đảm bảo thực thi triệt để nguyên tắc này trên thực tế, đòi hỏi chúng ta có hàng loạt các thiết chế, chế định pháp lý cần thiết nhằm tránh sự can thiệp tùy tiện của bất cứ tổ chức, cá nhân nào vào hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân nói riêng.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định Tòa án nhân dân tối cao quản lý Tòa án nhân dân địa phương và các Tòa án quân sự về mặt tổ chức (Điều 17). Đồng thời, Tòa án nhân dân tối cao lại có thẩm quyền hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệp xét xử của các Tòa án (Điều 19). Vì cho rằng, Toà án nhân dân tối cao có trách nhiệm kiểm tra, chỉ đạo, hướng dẫn về mặt nghiệp vụ đối với các Toà án cấp dưới thì phải quản lý về nhân sự và tổ chức đối với các Toà án đó. Mặt khác, cũng tạo thuận lợi cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao báo cáo công tác trước Quốc hội.
Như vậy, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ, hướng dẫn công tác xét xử, vừa quản lý về mặt tổ chức (bao gồm quản lý về nhân sự: bổ nhiệm, điều động, biệt phái, miễm nhiệm, cách chức Thẩm phán và các chức danh quản lý như Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự quân khu và khu vực; quản lý kinh phí, biên chế, bộ máy giúp việc...) các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự cấp quân khu và khu vực. Với quy định này thì Tòa án nhân dân tối cao vừa là cơ quan xét xử, đồng thời lại là cơ quan quản lý nhà nước. Hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao cũng giống như hoạt động của một chủ thể quản lý, điều này vừa trái với nguyên tắc phân công, phân nhiệm trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, vừa ảnh hưởng tới nguyên tắc hiến định “độc lập xét xử” trong tổ chức và hoạt động của các Toà án.
Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy định “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân...”, “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Điều 127 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy định tiếp “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác là những cơ quan xét xử của nước công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Như vậy, theo quy định của Hiến pháp thì Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử và xét xử là chức năng của Tòa án. Theo Hiến pháp và tinh thần xây dựng nhà nước pháp quyền thì Tòa án không thể đồng thời vừa là cơ quan xét xử và là cơ quan quản lý nhà nước. Muốn xây dựng nhà nước pháp quyền thì trước hết chúng ta phải có sự phân công rành mạch và rõ ràng trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp vả tư pháp, sau đó mới là cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền này. Cơ chế phân công và phối hợp này phải trên nền tảng là “quyền lực nhà nước là thống nhất”, “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” (Điều 2 Hiến pháp 1992). Theo sự phân công quyền lực ấy thì Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”, “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và Tòa án “là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (xem các Điều 83, 109 và 127 Hiến pháp 1992 sửa đổi).
Xét trên phương diện này thì quy định tại Điều 17 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 là chưa thực sự phù hợp với tinh thần xây dựng nhà nước pháp quyền và quy định của Hiến pháp 1992. Quy định của Điều 17 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 cũng có những tác động, ảnh hưởng nhất định đối với nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Do đó, trong tương lai vấn đề quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức vẫn là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu đưa ra giải pháp tối ưu nhất nhằm bảo đảm hiệu quả của công tác quản lý và hiệu quả, chất lượng của công tác xét xử, bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử trong hoạt động của Tòa án./.
Chuyên đề 4
MỐI QUAN HỆ GIỮA TOÀ ÁN VÀ CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TÓ TỤNG TRONG VIỆC BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC “KHI XÉT XỬ THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT”
CN. Bùi Thu Hằng
1. Mối quan hệ giữa Toà án và Cơ quan điều tra
Cơ quan điều tra và Tòa án là hai cơ quan có vị trí khác nhau, thực hiện những nhiệm vụ riêng, nhưng giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Kết quả hoạt động của cơ quan điều tra trong thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm và người phạm tội không chỉ phục vụ trực tiếp cho Viện kiểm sát đưa ra quyết định truy tố, mà còn giúp cho Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử công khai trước tòa; đồng thời, thông qua hoạt động xét xử, Tòa án kiểm tra công khai kết quả hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra. Mặt khác, trong hoạt động xét xử, bản án của Tòa án không chỉ căn cứ vào hồ sơ của cơ quan điều tra đã thu thập được mà phải căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Trên cơ sở hồ sơ mà cơ quan điều tra chuẩn bị, Tòa án kiểm tra lại tính xác thực của những chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Kết quả của hoạt động điều tra chuẩn xác, đúng người, đúng tội sẽ tạo điều kiện thuận lọi cho các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Mặc dù đây là hai giai đoạn độc lập với nhau, song nội hàm của hai giai đoạn này ẩn chứa những mối quan hệ chặt chẽ, theo lôgíc khi giải quyết vụ án hình sự.
Với chức năng, thẩm quyền độc lập theo luật định nhưng trong suốt quá trình tố tụng hai cơ quan này lại hỗ trợ cho nhau rất nhiều. Nếu như kết quả của giai đoạn tiền tố tụng (giai đoạn điều tra) có những sai phạm, hoặc chưa đầy đủ, chính xác thì sẽ gây ra những trở ngại, khó khăn cho các giai đoạn tố tụng sau và ngược lại nếu như kết quả điều tra chuẩn xác sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc truy tố và xét xử vụ án công minh, đúng người đúng tội và đúng pháp luật. Tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử thể hiện rất rõ nét trong giai đoạn xét xử. Ngoài giai đoạn xét xử Toà án vẫn phải tuân thủ cơ chế phối hợp để giải quyết vụ án có hiệu quả theo quy định của pháp luật, điểu này được khẳng định rất rõ ràng và cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS). Theo quy định của Điều 250 BLTTHS thì: “Toà án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm để tiến hành tố tụng từ giai đoạn điều tra khi nhận thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được...
Khi hủy án để điều tra bổ sung lại hoặc xét xử lại, Toà án cấp phúc thẩm cần phải ghi rõ lý do của việc hủy án sơ thẩm...”.
Tiếp đó, tại Điều 252 BLTTHS quy định “Sau khi Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại thì Cơ quan điều tra tiến hành điều tra lại,... và Toà án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án theo thủ tục chung”.
Toà án với chức năng là cơ quan xét xử không bị lệ thuộc vào kết luận điều tra, mà trong khi thực hiện việc xét xử nếu thấy kết luận điều tra không khớp với những tình tiết, diễn biến vụ án được thẩm vấn, đối chất tại phiên toà, thì Toà án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm để điều tra bổ sung hoặc điều tra lại theo quy định của pháp luật.
Bản thân cơ quan điều tra, khi đặt vào mối quan hệ này với Toà án cũng có những xem xét, đánh giá lại kết quả điều tra của mình nhằm hoàn thiện lại hồ sơ để sớm chuyển sang cho Toà án tiếp tục xét xử.
Như vậy, hoạt động độc lập của hai cơ quan này luôn là mắt xích nối liền và là hệ quả của quá trình tố tụng. Tuy nhiên, trong mắt xích này cơ quan trung gian làm cầu nối quan trọng là Viện kiểm sát, với chức năng thực hiện việc kiểm sát hoạt động điều tra, xét xử và thực hiện quyền công tố tại phiên toà xét xử nhưng vẫn đảm bảo được tính độc lập xét xử cho Toà án. Hoạt động điều tra, truy tố và xét xử là hoạt động của 3 cơ quan có chức năng, thẩm quyền riêng nhưng luôn luôn bảo đảm tính độc lập của nhau, đặc biệt là cơ quan Toà án.
2. Mối quan hệ giữa Toả án và Viện kiểm sát
Chúng ta đều biết rằng, Toà án và Viện kiểm sát là hai cơ quan tiến hành tố tụng đều có mục đích trong hoạt động tố tụng hình sự là giải quyết vụ án thực sự khách quan, toàn diện, đầy đủ, đảm bảo việc áp dụng đúng pháp luật, đảm bảo lợi ích của Nhà nước, tập thể, của cá nhân và điều cơ bản quan trọng là bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và công bằng xã hội.
Trong tố tụng hình sự chức năng của hai cơ quan này khác nhau: Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, thực hành quyền công tố theo quy định của Hiến pháp và pháp luật (Điều 137 Hiến pháp 1992, Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002), còn Toà án thực hiện chức năng xét xử. Trong tất cả hoạt động tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, có thể nói rằng hoạt động xét xử là hoạt động quan trọng, có tính độc lập cao.
Hoạt động xét xử của Toà án nằm trong phạm vi quyền kiểm sát của Viện kiểm sát “kiểm sát hoạt động tư pháp” và khi thực hiện quyền công tố, Viện kiểm sát có quyền truy tố người phạm tội theo tội danh được Bộ luật hình sự quy định: Đây chính là cơ sở pháp lý mà Toà án dựa vào đó để tiến hành xét xử theo chức năng của mình. Có nghĩa là hoạt động xét xử của Toà án chỉ được tiến hành khi có quyết định truy tố của Viện kiểm sát (nếu như Toà án xét thấy đủ điều kiện, căn cứ pháp lý để đưa vụ án ra xét xử).
Một vấn đề đặt ra là: trên cơ sở mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát nói trên liệu rằng hoạt động xét xử của Toà án có thực sự độc lập với Viện kiểm sát hay không?
Theo luật định, Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng có quyền tiến hành các hoạt động kiểm sát. Tại phiên toà, kiểm sát viên có quyền đưa ra những ý kiến, quan điểm của mình nhưng Hội đồng xét xử không buộc phải nghe mà Hội đồng xét xử xem xét vụ án hoàn toàn dựa trên hồ sơ vụ án, các chứng cứ liên quan đến vụ án, những nhận thức, đánh giá bằng kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm xét xử và vận dụng các quy định của pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm phải trực tiếp xét xử bằng những chứng cứ chứ không chỉ căn cứ vào Hồ sơ của vụ án hay chứng cứ mà Viện kiểm sát đưa ra trong bản cáo trạng. Hội đồng xét xử căn cứ vào kết quả của quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, vào kết quả nghị án để ra bản án và có quyền kết luận khác với ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát: “... Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội” (khoản 2 Điều 222 BLTTHS). Mặt khác, Viện kiểm sát có thể kháng nghị bản án, quyết định của Toà án nếu Viện kiểm sát có căn cứ rằng quyết định, bản án của Toà án là chưa khách quan, không đúng, nhưng Toà án khi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm xét thấy kháng nghị không có căn cứ vẫn giữ nguyên hiệu lực của quyết định, bản án đã tuyên.
Tính độc lập của Tòa án và Viện Kiếm sát còn được thể hiện qua quy định về giới hạn xét xử của Tòa án. Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự 1988 quy định: “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử” Xem xét tổng thể những vấn đề trên, chúng ta có thể đưa ra nhận định: Toà án hoàn toàn độc lập với Viện kiểm sát trong phạm vi chức năng của mình. Đây cũng chính là biếu hiện sự độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm với kết luận (bản cáo trạng và quyết định truy tố) của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, nếu xét mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát ở khía cạnh khác, chúng ta có thể thấy rằng “Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử; Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện Kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố” (Điều 196 BLTTHS).
Chuyên đề 5
MỐI QUAN HỆ GIỮA TOÀ ÁN VỚI CƠ QUAN BÁO CHÍ, NGÔN LUẬN ĐỂ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC “THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT”
CN. Đỗ Thị Hoà
Xét xử là một trong những chức năng không thể thiếu được của Nhà nước. Xã hội càng phát triển, vai trò của duy trì, đảm bảo trật tự, công bằng xã hội, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm của hoạt động xét xử càng lớn. Hiệu quả của hoạt động xét xử phản ánh hiệu lực của bộ máy Nhà nước và tổ chức, mức độ dân chủ của Nhà nước và xã hội đó. Ở mỗi quốc gia, hệ thống cơ quan xét xử được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định, nội dung của những nguyên tắc này được quy định tuỳ thuộc vào đặc điểm lịch sử của từng nước mà trước hết là phụ thuộc vào bản chất của Nhà nước.
Ở Việt Nam, Toà án là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng xét xử nhân danh Nhà nước. Với định hướng đảm bảo và phát huy dân chủ, tiến bộ xã hội, đảm bảo các quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo hiệu quả hoạt động xét xử của Toà án, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 và Luật Tổ chức Toà án cũng như các luật ban hành trên cơ sở Hiến pháp 1992 đã quy định các nguyên tắc hoạt động của Toà án nhân dân ở Việt Nam nhằm phục vụ tối ưu các nhiệm vụ trên. “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tnân theo pháp luật” là một trong những nguyên tắc hiến định quan trọng nhằm đảm bảo cho Toà án xét xử khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Với ý nghĩa khi xét xử, Hội đồng xét xử không chịu sự chi phối của bất kỳ cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội hoặc cá nhân nào, không bị ràng buộc bởi ý kiến của Viện Kiểm sát hoặc các thành viên trong Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật và tự chịu trách nhiệm về các quyết định của mình trong phiên toà xét xử. Đây cũng là một trong những lý do mà hoạt động xét xử của Toà án mang một ý nghĩa chính trị, xã hội quan trọng, nó phản ánh một cách đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất nền công lý của chế độ ta. Mỗi bản án, quyết định của Toà án không chỉ tác động hoặc làm ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sinh mệnh chính trị, danh dự, nhân phẩm và quyền lợi của một hay một số người là bị cáo, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn hay những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan... mà còn có thể gây thành một dư luận tích cực hoặc không tích cực trong xã hội.
Hoạt động xét xử của Toà án là công khai trừ trường hợp do luật định nên bản án, quyết định của Toà án phát huy tính phòng ngừa chung, góp phần giáo dục, tuyên truyền, hướng dẫn pháp luật đối với quần chúng nhân dân. Trong đó, phải kể đến báo chí - một cơ quan ngôn luận đóng vai trò quan trọng trong việc tham gia phản ánh hoạt động xét xử.
Một trong những nhiệm vụ của báo chí là phản ánh toàn diện và kịp thời các mặt của đời sống xã hội. Đời sống pháp luật là một đối tượng được báo chí quan tâm phản ánh nhiều nhất. Thông qua báo chí mà nhiều chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật đã đến được với nhân dân ở khắp mọi miền đất nước. Ngược lại, những ý kiến phản hồi từ phía nhân dân thông qua báo chí đến với các cơ quan nhà nước, các tổ chức Đảng, các đoàn thể. Đồng thời, báo chí còn là phương tiện thông tin truyền tải thu hút hàng triệu người đến với những sự kiện pháp lý quan trọng của đất nước như các kỳ bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các đợt thảo luận các dự án luật lớn và sát thực với lợi ích cửa người dân. Đối với riêng hoạt động xét xử của Toà án, báo chí tham gia phản ánh nhằm hướng dẫn dư luận xã hội nhận thức đúng đắn và đầy đủ hoạt động xét xử của Toà án nói chung và một số vụ án cụ thể đang được dư luận xã hội quan tâm, có ý nghĩa góp phần bảo vệ công lý. Đồng thời, báo chí là phương tiện, là diễn đàn của quần chúng thực hiện quyền thông tin trên lĩnh vực hoạt động tư pháp, góp phần động viên quần chúng tham gia đấu tranh chống tội phạm, thiết lập trật tự kỷ cương và công bằng xã hội.
Theo Điều 7 của Luật Báo chí của nước ta được ban hành năm 1989 thì “Trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình, các tổ chức có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí, giúp cho báo chí thông tin chính xác, kịp thời và chịu trách nhiệm tnrớc pháp luật về nội dung thông tin. Đối với vụ án đang được điều tra hoặc chưa xét xử thì các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền không cung cấp thông tin cho báo chí, nhưng báo chí có quyền thông tin theo các nguồn tài liệu của mình và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin...”. Theo quy định trên, ngoài những vụ án có yêu cầu xử kín, bảo vệ bí mật quốc gia, bảo vệ thuần phong mỹ tục thì những vụ án chưa được đưa ra xét xử, Toà án có quyền cung cấp hoặc không cung cấp thông tin về vụ án cho báo chí. sở dĩ Luật Báo chí quy định như vậy là vì Toà án thực hiện nhiệm vụ xét xử, giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng, ở giai đoạn này, Toà án với tư cách là một cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện công việc xét xử vụ án, giải quyết những vấn đề thuộc về bản chất vụ án. Chỉ trong quá trình xét xử, vụ án mới được Hội đồng xét xử xem xét một cách khách quan, toàn diện, đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, xác định bị cáo có phạm tội hay không, bị điều tra và truy tố có đúng không và quyết định trách nhiệm hình sự đối với người có tội. Vì vậy, nếu như trước khi vụ án được xét xử đặc biệt là những vụ án phức tạp mà Thẩm phán được giao trách nhiệm xét xử vụ án đó lại đưa ra những thông tin mang tính chất nhận định, đánh giá, thậm chí phán xét về hành vi vi phạm pháp luật của các đương sự, của bị can, về nhân thân bị can hoặc đưa ra những lý lẽ, quan điểm cho rằng bị can phạm tội gì, đương sự, bị can sẽ phải chịu chế tài ra sao... sẽ dễ gây ra hoặc làm ảnh hưởng đến dư luận về vụ án, về đương sự, hoặc bị can đó, vì “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của Toà án” (Điều 72 Hiến pháp năm 1992; Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự). Hoặc cũng có trường hợp vụ án chưa xét xử nhưng Thẩm phán lại đưa ra thông tin bị can không phạm tội. Chẳng hạn như theo tin đăng tại Báo Pháp luật ngày 28/7/2003 về trường hợp ông Đào Quốc Tuý, nguyên Giám đốc Công ty TNHH Thái Hoà bị Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thì kết quả phiên toà đã được một số phóng viên các báo, đài biết trước khi xử hai tháng, đây là điều làm cho không ít người quan tâm. Theo bài báo thì trước khi vụ án xét xử gần hai tháng, “trong một lần đi giám sát việc thực hiện Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, ông Lê Minh Nhựt và một số vị trong Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã được một vị lãnh đạo Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh háo cáo rằng: “Toà sẽ tuyên vô tội đối với bị cáo Đào Quốc Tuý trong phiên toà xét xử vào thời gian tới”. Như vậy là dù vụ án chưa được đưa ra xét xử nhung đã được công khai hỉết trước kết quả. Đây có lẽ là lần đầu tiên xảy ra và đã đi ngược lại tỉnh thần Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị: Bản án phải được tuyên dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên toà”.
Tuy nhiên, trong trường hợp Toà án không cung cấp thông tin về vụ án cho cơ quan báo chí thì cơ quan báo chí, theo quy trình làm báo sẽ tự phát hiện, điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ và có quyền thông tin về vụ án đó nhưng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về độ chính xác những thông tin của mình và phải tuân thủ Điều 10 Luật Báo chí về những điều không được thông tin trên báo chí. Khi thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của đương sự, bị can, người bị hại... trong vụ án thì báo chí phải đăng, phát sóng lời cải chính, xin lỗi của cơ quan báo chí, của tác giả. Sau khi có kết luận của Toà án bằng một bản án, quyết định về vụ án đó thì cơ quan báo chí phải thông tin về kết quả của phiên xét xử đó (Điều 9 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí 12/6/1999). Trước mỗi sự kiện, vụ việc cụ thể, người làm báo phải có bản lĩnh và sự nhạy cảm nhất định, cần phải tự đặt ra các câu hỏi: có cần phản ánh công khai thông tin đó không, nội dung thông tin đến mức độ nào? thông tin vào thời điểm nào? Trước khi phát sóng, duyệt bài, đưa tin, người quản lý trực tiếp báo, đài phải tự trả lòi cho được câu hỏi ấy. Nếu còn băn khoăn, vướng mắc, nên tham khảo ý kiến đồng nghiệp hoặc ý kiến chỉ đạo của cấp trên để khắc phục hiện tượng thông tin trên báo chí bị xuyên tạc, công kích gây phản cảm trong xã hội. Thông tin chính xác, kịp thời, có phân tích khoa học, căn cứ thực tiễn vững chắc sẽ góp phần định hướng nhận thức, hướng dư luận xã hội phát triển một cách tích cực. Bên cạnh việc cung cấp thông tin có thực một cách thuần tuý, rất cần những bài viết, bài nói, hình ảnh có nội dung định hướng sâu sắc từ những sự kiện đang được dư luận xã hội quan tâm như vụ án Năm Cam, vụ cháy rừng U Minh Thượng và U Minh Hạ, tính chất mức độ của các vụ tai nạn giao thông, bọn lâm tặc phá rừng và tấn công lực lượng kiểm lâm, hải quan...
Đối với trường hợp Toà án cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí về vụ án lại nảy sinh hai xu hướng: Xu hướng thứ nhất là báo chí và Toà án có cùng chung quan điểm. Theo chiều hướng này thì thông tin mà báo chí tác động đến dư luận sẽ là tích cực, tạo được sức mạnh và tác dụng cao trong việc giáo dục phòng ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật. Xu hướng thứ hai là một số báo chí và Toà án không thống nhất quan điểm, vì vậy nảy sinh các ý kiến tranh luận khác nhau về vụ án không chỉ giữa Toà án với một số báo chí mà thậm chí còn giữa một số báo với nhau. Xét một khía cạnh nào đó thì đây cũng là một trong các yếu tố thúc đấy sự phát triển bởi sự khác nhau giữa các ý kiến đều mang tính khoa học và cũng là những gợi ý để Toà án nghiên cứu kỹ hơn về vụ việc đang thụ lý. Nói như thế không có nghĩa là Toà án mà cụ thể là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chịu sự tác động và ảnh hưởng bởi búa rìu dư luận vì độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt quá trình tổ chức và hoạt động tư pháp đòi hỏi các thành viên trong Hội đồng xét xử phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, chí công vô tư, không được để cho tình cảm cá nhân, quyền lợi riêng tư cũng như mọi sự can thiệp từ bên ngoài ảnh hưởng đến việc xét xử. Để giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải dựa trên các quy định của pháp luật dân sự, tố tụng dân sự; pháp luật hành chính, tố tụng hành chính; pháp luật hình sự, tố tụng hình sự... Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi đã nghiên cửu một cách tổng hợp khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết của vụ án (Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự), phải dựa vào niềm tin nội tâm, lấy pháp luật và ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa làm cơ sở chỉ đạo. Đó là tổng hợp các yếu tố như: trình độ, năng lực, kinh nghiệm, sự hiểu biết xã hội cũng như trách nhiệm lương tri của người tiến hành tố tụng bảo vệ sự thật khách quan.
Một điều đáng chú ý là, trong một số trường hợp, vụ việc, báo chí còn thiếu sự lựa chọn và đi đúng hướng. Đáng lẽ báo chí cần đi sâu điều tra, phát hiện những sự việc, hành động sai trái có tính tiêu biếu, tập trung vào những trọng điểm gây thiệt hại cho kinh tế và xã hội, bị nhân dân ca thán, chê trách, từ đó rút ra những bài học để giáo dục, ngăn ngừa thì có báo chí lại dường như gặp việc gì nêu việc ấy một cách gần như ngẫu nhiên, thiếu sự phân tích và ít đề xuất được ý kiến giải quyết. Thậm chí có một vài tờ báo, nhà báo chưa thực sự đề cao trách nhiệm khi đưa tin, bài về các hoạt động xét xử của Toà án, tạo nên những ý kiến trái ngược nhau không đáng có. Từ những tài liệu được thu thập theo quy trình làm báo, các nhà báo đã thông qua báo chí nêu ra những lý lẽ của cá nhân mình phản bác, phủ nhận sự thật về vụ án và đơn phương bác bỏ kết luận của Toà án một cách suy đoán, gây sự hiểu lầm trong công luận về sự thật của vụ án và sự nghiêm minh của pháp luật. Có những vụ án báo chí đã tập trung định hướng dư luận phán xét trước khi Toà án xét xử, gây nên sức ép tâm lý đối với Hội đồng xử án, dẫn đến tình trạng Toà án có sự lựa chiều để xử theo công luận.
Phiên toà xét xử bất kể là vụ án gì, hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính hay lao động thì nó vẫn là một trong những hình thức tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho quần chúng nhân dân. Quá trình thẩm vấn, tranh tụng tại phiên toà khác hẳn quá trình điều tra trước đó. Nếu có thể cho đây là cuộc điều tra do Hội đồng xét xử tiến hành thì nó là cuộc điều tra mang tính công khai nhất, toàn diện nhất và dân chủ nhất. Chính tại phiên toà xét xử, dưới sự điều khiển của Thẩm phán chủ toạ phiên toà, các bên có cơ hội bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về vụ án và vì vậy sự phán quyết của Hội đồng xét xử bằng bản án hay quyết định với nội dung nào đó cũng được coi là kết qủa của quá trình thẩm vấn và tranh tụng mà các bên đã được tham gia. Những người trực tiếp tham dự phiên toà cũng như quần chúng được thông tin về phiên toà đều tiếp nhận được những kiến thức mới về pháp luật.
Vụ án hình sự, các tranh chấp về dân sự, hành chính, kinh tế, lao động luôn luôn là hậu quả của những yếu tố, những tình tiết nào đó được coi là những nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm và vi phạm. Thông qua hoạt động xét xử tại phiên toà, Toà án phát hiện ra những thiếu sót trong công tác quản lý của các chủ thể khác nhau dẫn đến tội phạm và vi phạm, để từ đó có sáng kiến pháp luật hoặc kiến nghị với nhiều nội dung khác nhau gửi tới các cơ quan có thẩm quyền.
Như vậy, trong xét xử sơ thẩm các loại vụ án (trừ án lao động) thì việc tham gia của hai Hội thẩm nhân dân là bắt buộc để thực hiện chế độ xét xử và biểu quyết theo đa số. Trong thực tiễn, đội ngũ Hội thẩm nhân dân hầu như không được đào tạo, không có đủ năng lực, trình độ pháp luật. Hầu hết Hội thẩm nhân dân nêu ý kiến của mình trên cơ sở kinh nghiệm và vốn sống thực tiễn, họ thụ động, thậm chí hoàn toàn dựa vào ý kiến của Thẩm phán. Có thể nói, trong thời gian qua chế định Hội thẩm nhân dân mới chỉ đáp ứng được tính nhân dân trong xét xử chứ chưa đáp ứng được nguyên tắc “chỉ tuân theo pháp luật”. Trong xét xử tập thể, việc biểu quyết, quyết định theo đa số nhiều khi chỉ là hình thức chứ không phải là thực chất.
Chuyên đề 6
CÁC ĐIỀU KIỆN VẬT CHẤT BẢO ĐẢM THựC HIỆN NGUYÊN TẮC: “KHI XÉT XỬ, THẨM PHÁN VÀ HỘI THẢM NHÂN DÂN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT”
CN. Nguyễn Minh Khuê
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như Luật tổ chức Tòa án nhân dân qua các thời kỳ đều xác định rõ nhiệm vụ của Tòa án nhân dân đó là nhiệm vụ xét xử - nhiệm vụ đặc trưng mà chỉ có Tòa án mới có. Việc thực hiện nhiệm vụ này, chính là thông qua hoạt động nghiệp vụ chuyên môn của các chủ thể tiến hành xét xử mà cụ thể là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Khi tiến hành xét xử, pháp luật dành cho Thẩm phán một quyền đặc biệt đó là quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Cơ sở của việc quy định quyền này bắt nguồn từ đặc trưng của họat động xét xử là vận dụng quy định chung để phán xét, giải quyết một vụ việc cụ thể. Sự phán quyết đó chỉ có thể đúng khi người vận dụng có sự am hiểu về pháp luật cũng như am hiểu mọi tình tiết, sự việc diễn ra trong vụ án đó mà còn đòi hỏi người Thẩm phán phải có sự chí công vô tư, không bị ảnh hưởng bởi những quan hệ cá nhân, cũng như tác động của bên ngoài. Độc lập ở đây không có nghĩa lá Thẩm phán quyết định mọi việc theo ý muốn chủ quan, bởi vì như thế sẽ dẫn đến chuyên quyền, độc đoán. Do vậy, sự độc lập trong xét xử của Thẩm phán luôn là sự độc lập trong việc tuân theo pháp luật. Chỉ khi nào người Thẩm phán tuân theo pháp luật - một đại lượng công bằng và bình đẳng - thì việc xét xử của Thẩm phán mới đảm bảo được tính khách quan, quyền và nghĩa vụ của công dân mới thực sự được bảo đảm trên thực tế.
Để đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” thì không chỉ đòi hỏi người Thẩm phán có một trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, các phẩm chất “cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư” như yêu cầu đối với công chức nhà nước mà còn đòi hỏi phải có những đặc điểm đạo đức riêng. Đó là lương tâm và trách nhiệm đối với nghề nghiệp, công việc mà họ đã chọn, là bản lĩnh nghề nghiệp không chịu khuất phục trước bất kỳ sự chi phối trái pháp luật nào vào công việc xét xử của họ. Ở góc độ khác, đòi hòi nhà nước phải có một cơ chế pháp lý không chỉ có ý nghĩa điều chỉnh hoạt động của họ, mà còn là những điều kiện để đảm bảo cho hoạt động của họ hiệu quả, tránh những ảnh hưởng, tác động bên ngoài ảnh hưởng tính độc lập trong xét xử, đồng thời Nhà nước phải có chế độ đãi ngộ thoả đáng đối với Thẩm phán để đảm bảo cho Thẩm phán tập trung và công tác xét xử, giữ vững được phẩm chất của mình.
Trong phạm vi chuyên đề: các điều kiện vật chất bảo đảm thực hiện nguyên tắc: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, chúng tôi tập trung nghiên cứu nhũng nội dung chính sau:
I. Thực trạng chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
1. Thực trạng chế độ tiền lương đối với Thẩm phán:
Nhìn lại chế độ tiền lương đối với Thẩm phán, thấy rõ Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đối với đội ngũ Thẩm phán, từ buổi ban đầu lương của Thẩm phán được xếp như đối với các công chức hành chính khác. Đến năm 1985 đã có sự chuyển biến đáng kể, Nhà nước quy định thang bảng lương riêng đối với Thẩm phán. Dù khi đó trình độ đại học luật chưa là tiêu chuẩn bắt buộc đối với người được bầu làm Thẩm phán nhưng lương khởi điểm của Thẩm phán cấp huyện bằng lương khởi điểm của người có trình độ đại học, ngạch chuyên viên là 290. Lương khởi điểm của Thẩm phán cấp tình là 359 bằng lương của chuyên viên bậc 4. Lương khởi điểm của Tòa án nhân dân tối cao là 463 bằng lương chuyên viên chính bậc 2.
Năm 1993, thực hiện chế độ tiền lương mới, lương của Thẩm phán tòa án nhân dân các cấp được đặc biệt quan tâm và thiết kế theo hướng cao hơn ngạch lương hành chính tương đương. Lương khởi điểm Thẩm phán cấp huyện là 2,16 cao hơn khởi điểm của ngạch chuyên viên (1,86). Lương khởi điểm của Thẩm phán cấp tỉnh là 3,62 cáo hơn lương khỏi điểm của ngạch chuyên viên chính (3,52). Lương khởi điểm của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là 5,02 cao hơn lương khởi điểm ngạch chuyên viên cao cấp (4,92).
2. Bất cập:
- Về chế độ tiền lương: từ năm 1993, Nhà nước thực hiện chế độ tiền lương mới, hệ thống thang bảng lương của công chức nói chung cũng như của Thẩm phán Tòa án các cấp nói riêng có sự thay đổi căn bản. Về lý thuyết thì lương của Thẩm phán cao hơn ngạch lương hành chính tương đương, nhưng điều này chỉ đúng với Thẩm phán cấp tỉnh, Thẩm phán tối cao, còn lương của Thẩm phán cấp huyện so với chuyên viên thì chỉ bằng hoặc chênh lệch không đáng kể (sau 10 năm hệ số lương của chuyên viên là 2,58 còn hệ số lương của Thẩm phán là 2,62), trong khi đó để trở thành Thẩm phán thì tiêu chuẩn cũng như các điều kiện, thủ tục bổ nhiệm khó khăn hơn nhiều.
Hơn nữa, theo quy định của pháp luật, Thẩm phán không được tham gia vào các dịch vụ kinh doanh... Do vậy, với thu nhập như trên, đời sống cán bộ Tòa án càng khó khăn hơn. Do cuộc sống gặp nhiều khó khăn nên xuất hiện tình trạng Thẩm phán nhũng nhiễu, gây phiền hà cho đương sự, xin tiền “bồi dưỡng”, tiếp đương sự tại nhà riêng, ăn nhậu cùng đương sự... Một số người không vững vàng đã sa ngã, nhận hối lộ. Trong 4 năm qua có 98 cán bộ Tòa án vi phạm bị xử lý kỷ luật, trong đó có 35 Thẩm phán. Qua xử lý vi phạm cho thấy tình trạng Thẩm phán vi phạm không giảm mà có xu hướng ngày càng tăng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó có nguyên nhân tình trạng gia đình khó khăn, đồng lương không bảo đảm mức sống tối thiểu dẫn đến sa sút về phẩm chất, đạo đức nảy sinh tiêu cực, vi phạm kỷ luật, pháp luật...
- Bất cập về lương ngay trong đội ngũ Thẩm phán các cấp: Lương giữa Thẩm phán các cấp cũng có sự chênh lệch hệ số khởi điểm quá cao. vấn đề này có thể lý giải bởi nguyên tắc làm công việc gì thì hưởng lương theo công việc đó; thế nhưng ở đây thể hiện sự bất cập là: hiện nay, có rất nhiều Thẩm phán cấp huyện và cấp tỉnh đã hưởng bậc lương tối đa (4,25 hoặc 5,70) nhưng vì Nhà nước chưa quy định cụ thể chế độ phụ cấp vượt khung nên nhũng trường hợp này nhiều năm không được nâng bậc lương, gây nên tâm lý thiếu phấn khỏi, không an tâm công tác. Chúng tôi đề nghị trong hướng cải cách lương sắp tới, Nhà nước cần quan tâm để có những giải pháp phù hợp đối với các trường hợp tương tự.
Theo quy định hiện hành thì Thẩm phán vừa là đối tượng điều chỉnh của Pháp lệnh cán bộ, công chức, vừa là đối tượng điều chỉnh của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Do vậy, khi có vi phạm thì Thẩm phán vừa bị xử lý kỷ luật theo Pháp lệnh cán bộ, công chức, vừa có thể bị bãi nhiệm, miễn nhiệm theo Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Nhưng trong thiết kế bảng lương của Thần phán không có phụ cấp lương chức vụ.
Tại Điều 9 Nghị định 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 quy định: “Đối với mỗi hành vi vi phạm chi bị xử lý một hình thức kỷ luật”.
Một thực tế là, các Thẩm phán tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chi Minh phải thụ lý và giải quyết khối lượng án nhiều hơn, tính chất và mức độ vụ việc phức tạp cũng cao hon so với các Thẩm phán đồng nghiệp ở các tỉnh, huyện khác, thế nhưng mức lương của họ vẫn ngang nhau. Đây là một bất hợp lý cần phải điều chỉnh trong nội bộ ngạch lương của Thẩm phán cấp huyện và cấp tỉnh. Hoạt động xét xử của Thẩm phán là loại hình lao động đặc thù, vì vậy ngoài chế độ chính sách của Nhà nước đối với công chức nói chung, thì cũng cần một chế độ chính sách riêng thích họp đối với Thẩm phán thì mới động viên, khích lệ các Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp yên tâm công tác. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành những chế độ đó thực sự còn quá khiêm tốn đối với những người làm công tác xét xử.
II. Giải pháp đảm bảo chế độ, chính sách cho các chủ thể tiến hành hoạt động xét xử.
Cần điều chỉnh sự cách biệt vô lý giữa mức lương của Thẩm phán theo hướng tăng hệ số mức lương cho Thẩm phán Tòa án cấp huyện. Đồng thời, thiết kế lại ngạch lương Thư ký theo hướng tiêu chuẩn Thư ký Tòa án, tốt nghiệp Đại học luật (công chức loại A), tốt nghiệp trung cấp (công chức loại B). Đối với công chức loại A là nguồn bổ nhiệm Thẩm phán và những công chức này phải được đào tạo các vấn đề về chế độ chính sách đối với các cán bộ của các cơ quan tư pháp nói chung và của cơ quan Tòa án trong đó có Tòa án cấp huyện hiện nay đang được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm và được khẳng định trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng. .Quán triệt tinh thần và tư tưởng chỉ đạo của Đảng, chúng tôi cho rằng giải pháp đổi mới chế độ, chính sách đối với những người tham gia công tác xét xử cần hướng tới những mục đích và yêu cầu sau đây:
Tiếp tục nghiên cứu và cải tiến thang lương đối với ngạch Thẩm phán Tòa án dân nhân cấp huyện cho phù hợp, nhằm đảm bảo cuộc sống ổn định bình thường của họ và gia đình họ. Trước mắt chuyên môn nghiệp vụ, do đó lương của Thư ký phải cao hơn lương hiện hành.
Nên quy định phụ cấp lương vượt khung đối với các trường hợp đã hưởng hệ số lương tối đa. Ví dụ sau 3 năm được nhận phụ cấp 5% và tiếp theo được tính cứ 1 năm cộng thêm 1%. Cần có chế độ chính sách ưu đãi để thu hút động viên những người đến nhận công tác ở các Tòa án vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Cụ thể là có chế độ trợ cấp lần đầu 3 tháng lương tối thiểu.
Đối với những cán bộ có đủ thời gian công tác 10 năm liên tục ở các vùng nói ừên cần có quy định ưu tiên đối với họ trong việc chuyển vùng công tác.
Ngoài ra, các chế độ đãi ngộ khác đối với Thẩm phán và công chức Tòa án phải được cụ thể rõ ràng đảm bảo tính chính xác và kịp thời. Đặc biệt nên tránh tạo ra sự bất bình đẳng giữa các công chức Tòa án nhất là những người trực tiếp tham gia tố tụng. Tránh tình trạng Thẩm phán được hưởng chế độ phụ cấp phiên toà, nhưng kinh phí cho khoản chi này lại không được cấp theo số vụ án mà lại cấp theo số biên chế.
Như đã nêu ở phần trên, tại Điều 32 Luật Tổ chức Tòa án năm 1992 quy định: Tòa án nhân dân cấp huyện có Chánh án, một hoặc hai Phó Chánh án, các Thẩm phán và các Thư ký. Nhưng trong thực tế, công chức Tòa án có thể chia thành 3 nhóm: Thẩm phán (bao gồm Chánh án, Phó Chánh án), Thư ký và công chức khác, trong đó mức lương của Thẩm phán là cao hơn cả.
Nhiều người cho rằng, thang bảng lương Thẩm phán cao hơn một số công chức ngạch hành chính tương đương khác, nhưng điều này chỉ đúng với Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện thì hệ số lương còn quá thấp thậm chí còn thấp hơn cả ngạch chuyên viên, vì nguồn bổ nhiệm Thẩm phán cấp huyện là thư ký, chuyên viên có thâm niên công tác pháp luật là 4 năm, mà hệ số khởi điểm chỉ là 2,16. Mức lương trên không đủ phục vụ cho mức sống tối thiểu của Thẩm phán trong tình hình hiện nay. Trong khi đó, Thẩm phán và gia đình không được tham gia hoạt động kinh doanh, dịch vụ, điều này dễ làm phát sinh tiêu cực đối với những Thẩm phán yếu về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức kém, ý chí không vững vàng. Đã có nhiều Thẩm phán xin thôi việc do hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Mức lương tối đa của Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện là 4,25. Trên thực tế có nhiều Thẩm phán được hưởng mức lương này đã gần 10 năm nhưng không được nâng lương do hết khung lương.
Qua thực tiễn công tác quản lý Tòa án địa phương về mặt tổ chức, chúng tôi thấy rằng lao động của Thẩm phán là lao động có tính đặc thù nghề nghiệp cao, do đó, ngoài chế độ như đối với công chức Nhà nước nói chung thì Thẩm phán còn phải được hưởng một số chế độ chính sách riêng khác, mà cụ thể hiện nay, Thẩm phán được cấp trang phục xét xử, được hưởng chế độ phụ cấp phiên toà... Tuy nhiên, các chế độ này không giải quyết được căn bản đời sống khó khăn của Thẩm phán trong thời gian hiện nay.
Về chế độ bồi dưỡng ngoài lương, thực hiện Chỉ thị 53/CT-TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị, mỗi Thẩm phán hàng tháng được cấp 120.000 đồng, Thư ký được cấp 100.000 đồng. Chế độ bồi dưỡng trên tuy không lớn, nhưng là sự đãi ngộ đặc biệt của Nhà nước đối với dạng lao động có tính đặc thù cao của công chức Tòa án.
Theo Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, Thẩm phán được cấp chứng minh thư để làm nhiệm vụ, nhưng trên thực tế cho thấy chứng minh thư Thẩm phán ít được sử dụng và không có ý nghĩa thiết thực tạo điều kiện thuận lợi cho Thẩm phán thực thi nhiệm vụ.
Về chế độ và chính sách đãi ngộ đối với công chức Tòa án cấp huyện:
Vấn đề được quan tâm hiện nay là mối quan hệ giữa thu nhập của công chức Tòa án, đặc biệt là Thẩm phán với đạo đức nghề nghiệp trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Như chúng ta đã biết, trong cơ quan Tòa án Thẩm phán thường có mức lương cao nhất, nhưng cũng không vượt qua hệ số 4,25. Với tính chất lao động của Thẩm phán là lao động có tính đặc thù nghề nghiệp cao, bản thân Thẩm phán và gia đình họ không được tham gia các hoạt động kinh doanh, dịch vụ thì mức thu nhập trên thức tế chỉ đáp ứng được nhu cầu cuộc sống tốt thiểu của 1 người. Chính vì vậy, nhiều người cho rằng, hiện tượng tham nhũng, vi phạm đạo đức nghề nghiệp của công chức Tòa án hiện nay có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân sâu xa chính từ mức thu nhập và các chế độ đãi ngộ đối với họ không phù hợp.
Do đó, chúng tôi thấy rằng việc cải cách tiền lương đối với Thẩm phán và công chức Tòa án đã trở thành yêu cầu bức xúc trong giai đoạn hiện nay. Chúng tôi không đòi hỏi Thẩm phán phải có mức lương cao như ở các nước trên thế giới và trong khu vực, nhưng mức lương của Thẩm phán phải đảm bảo phục vụ các nhu cầu tối thiểu của bản thân và quá trình tái sản xuất sức lao động của cá nhân Thẩm phán; đảm bảo được cuộc sống bình thường của 2 người thân trong gia đình và có khoản dư dật nhỏ để tích luỹ. Trước mắt, cần điều chỉnh sự cách biệt vô lý giữa mức lương của Thẩm phán theo hướng tăng hệ số mức lượng cho Thẩm phán Tòa án cấp huyện.
Các chế độ đãi ngộ khác đối với Thẩm phán và công chức Tòa án phải cụ thể, rõ ràng và có khả năng thực thi, phải đảm bảo tính chính xác và kịp thời. Đặc biệt nên tránh tạo ra sự bất bình đẳng giữa các công chức Tòa án, nhất là giữa những người trực tiếp tham gia hoạt động tố tụng. Tránh tình trạng Thẩm phán được hưởng chế độ phụ cấp phiên toà, nhưng kinh phí cho khoản chi này lại không được cấp theo số vụ án, mà lại cấp theo số biên chế...
* Vấn đề nâng lương trước niên hạn, nâng ngạch không phải qua thi tuyển:
Áp dụng cho Thẩm phán các Tòa án nhân dân địa phương có thành tích xuất sắc được Nhà nước và Chính phủ khen thưởng đối với hình thức Bằng khen Chính phủ, Huân chương lao động, chiến sĩ thi đua ngành, chiến sĩ thi đua toàn quốc. Cụ thể:
-
Nâng lương trước niên hạn: Bằng khen Chính phủ, Chiến sĩ Thi đua Ngành.
-
Nâng ngạch Thẩm phán: Huân chương Lao động, Chiến sĩ thi đua toàn quốc.
Áp dụng chế độ phụ cấp theo lương cho Thẩm phán TAND địa phương:
-
Các Thẩm phán làm việc ở các TAND địa phương nếu là các thành phố lớn trực thuộc Trung ương kiến nghị Chính phủ cho áp dụng phụ cấp đô thị loại I. Các Thẩm phán làm việc ở các tỉnh, thành phố được xác định đô thị loại II thì ở cấp tỉnh và xã được hưởng phụ cấp đô thi loại II.
-
Phụ cấp khu vực: áp dụng cho các Thẩm phán TAND địa phương làm việc tại các TAND cấp huyện miền núi hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
-
Phụ cấp thu hút: áp dụng đối với các Thẩm phán tình nguyện công tác tại các địa phương có hoàn cảnh điều kiện sinh hoạt khó khăn trong một nhiệm kỳ. Các phụ cấp này sẽ không còn khi Thẩm phán được điều động đến nhũng địa phương mà Chính phủ không áp dụng phụ cấp.
- Phụ cấp thâm niên: áp dụng đối với trường hợp Thẩm phán đã vượt khung nhưng không chuyển ngạch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-
Báo cáo 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới số 12-BC/CCTP ngày 22/02/2006.
-
Báo Pháp luật ngày 28/7/2003.
-
Bộ luật hình sự năm 1999.
-
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
-
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
-
Các nguyên tắc cơ bản của độc lập xét xử đối với các cơ quan Toà án trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm. Italia, 1985.
-
Chỉ thị số 29/CT-TW ngày 08/11/1993 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan pháp luật.
-
Công văn số 37/TCCB ngày 27/01/2005 của Toà án nhân dân tối cao
-
Hiến pháp 1946.
-
Hiến pháp 1959.
-
Hiến pháp 1980.
-
Hiến pháp 1992.
-
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).
-
Hiến pháp Cộng hoà Liên bang Đức 1959.
-
Hiến pháp Nhật Bản năm 1946.
-
Luật Tổ chức Toà án nhân dân ngày 14/7/1960.
-
Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1981.
-
Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992.
-
Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002.
-
Luật Báo chí năm 1989.
-
Montesquieu, Tinh thần pháp luật, Nxb. Giáo dục, H.1996.
-
Nguyễn Đăng Dung (2001), Luật Hiến pháp đối chiếu, Nxb. TP. Hồ Chí Minh.
-
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới
-
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
-
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020.
-
Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQH ngày 30/9/2004 về việc phê chuẩn bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ ngành Toà án, Kiểm sát.
-
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ngày 04/10/2002.
-
Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 2002.
-
Pháp luật trong cuộc sống của chúng ta, Nxb. Pháp lý, 1986, trang 170.
-
Quyết định số 241/2006/QĐ-TTg ngày 25/10/2006.
-
Quyết định số 171/2005/QĐ-TTg ngày 08/7/2005
-
Sắc lệnh thiết lập các Toà án quân sự ở Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ ngày 03/9/1945.
-
Sắc lệnh số 13-SL về tổ chức các Toà án và ngạch Thẩm phán ngày 24/1/1946.
-
Sắc lệnh số 85-SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng.
-
Sắc lệnh số 33c ngày 13/9/1945. ,
-
Sắc lệnh số 21 ngày 24/01/1946.
-
Tuyên bố Bắc Kinh về các nguyên tắc độc lập tư pháp ngày 19/8/1995.
-
Tạp chí Toà án nhân dân số 1 tháng 1/2001.
-
Tạp chí Toà án nhân dân, số 8 tháng 4/2006.
-
Thông tư liên ngành số 01/LN ngày 08/12/1988.
-
Thông tin khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp số 10 + 11/2000.
-
Thông tư liên ngành số 05-TTLN ngày 15/10/1993.
-
Trần Ba, Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Luận văn Thạc sĩ luật học, TP Hồ Chí Minh – 1996.
-
V.I. Lê Nin, tập 36, Nxb Tiến bộ Matxcơva, 1977.
[1] Tinh thần pháp luật - Montesquieur, Nxb Giáo dục, Hà nội 1996, trang 81.
[4] Nguyễn Đăng Dung, Luật Hiến pháp đối chiếu, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2001, trang 250.
[5] Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
[6] Pháp luật trong cuộc sống của chúng ta, Nxb. Pháp lý 1986, trang 170.
[7] Khắc phục tham nhũng tư pháp trong khi phải đảm bảo độc lập tư pháp, Tạp chí Toà án nhân dân số 8- 4/2006.
17
[8] V.I. Lê Nin, Tập 36, Nxb. Tiến bộ Matxcơva, 1977, trang 67, 68 (tiếng Nga).
[9] Đỗ Gia Thư, Tạp chí Toà án nhân dân 1/2001, số 1.
[10] Lưu Tiến Dũng, Tạp chí Toà án nhân dân số 8 tháng 4/2006.
[11] Báo cáo 4 năm triển khại thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới - số 12- BC/CCTP ngày 22/02/2006
[12] Thông tư liên ngành số 01/LN ngày 08/12/1988.
[13] Một số giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng giải quyết khiếu kiện hành chính tại Toà án nhân dân theo tinh thẩn cải cách tư pháp - Toà án nhân dân tối cao -2005.
[14] Nguyễn Đăng Dung 2001, Luật Hiến pháp đối chiếu, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh,
[15] V. Te-le-ghin- Ở Liên xô, người ta chờ đợi gì ở cuộc cải cách nền tư pháp; Phụ trương Bản tin “Liên xô ngày nay” số 1/1958-1988, tiếng Việt.
[16] Đảng Cộng săn Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương lchoá VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, trang 31, 68, 80.
[17] Xem Điều 16, 17 và 18, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 1993
[18] Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn Pháp lệnh mói nên văn bản này vẫn còn hiệu lực
[19] Xem các Điều 16, 17, và 18 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 1993
|
File đính kèm
|
Tải về
|
|
|