• Thuộc tính
Tên đề tài Đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam
Nội dung tóm tắt

Kể từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính sách đổi mới, việc đào tạo đội ngũ cán bộ pháp luật đã có những bước phát triển vượt bậc cả về số lượng cũng như chất lượng. Các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật đã không ngừng nâng cao trình độ của các giảng viên, hoàn thiện chương trình, đổi mới phương pháp, tăng cường cơ sở vật chất... để đào tạo và cung cấp cho đất nước những cán bộ pháp luật có trình độ cao và có năng lực trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Tuy vậy, trong quá trình nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống quốc tế, nhất là hội nhập về kinh tế, nhiều vấn đề, nhiều yêu cầu mới đang được đặt ra trước mắt cũng như lâu dài đối với đội ngũ cán bộ pháp luật.

Trong quá trình hoạt động của mình, các cán bộ pháp luật được đào tạo trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành công, nhưng khi đối mặt với những đòi hỏi do quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, thì cán bộ pháp luật này chưa đáp ứng được. Nhiều vấn đề liên quan đến bảo hộ sở hữu trí tuệ, thương mại quốc tế v.v… hầu như mới lạ đối với những cán bộ pháp luật đã được đào tạo. Việc các doanh nghiệp Việt Nam bị thua kiện trong các tranh chấp thương mại quốc tế, bị mất các cơ hội đầu tư, mất đối tác kinh doanh….có một phần là lỗi của những cán bộ pháp luật. Họ chưa đủ năng lực để đối mặt với các thách thức mới.

Trong bối cảnh đó, việc đào tạo được một đội ngũ cán bộ pháp luật có trình độ cao, có năng lực toàn diện và phẩm chất tốt để giải quyết những yêu cầu do công cuộc hội nhập quốc tế đặt ra là một yêu cầu vô cùng bức xúc.

Tuy vậy, việc đào tạo được những cán bộ pháp luật có trình độ cao không đơn giản. Cần phải tìm hiểu những vấn đề thuộc về đến phẩm chất và năng lực của cán bộ pháp luật có trình độ cao, xác định các tiêu chí của khái niệm này cũng như cách thức để đạt được những tiêu chí đó. Việc này đòi hỏi sự nghiên cứu, tìm hiểu cả lý luận và thực tiễn, nhất là quy trình đào tạo cán bộ pháp luật, tìm ra cách thức khắc phục những khiếm khuyết của quy trình đó.

Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích xác định những tiêu chí của người cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ yêu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam; và dựa trên những tiêu chí đó, đề xuất những giải pháp thiết thực, cụ thể nhằm đào tạo những cán bộ pháp luật đáp ứng những tiêu chí đó.

Để đạt được mục tiêu đã nêu, đề tài thực hiện những nhiệm vụ sau:

- Xác định được các phẩm chất, năng lực mà cán bộ pháp luật cần có để có thể đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực mà đất nước ta đang tiến hành;

- Nghiên cứu các chương trình, nội dung đào tạo cán bộ pháp luật hiện hành của các cơ sở đào tạo trong nước để xác định những phần mà trong chương trình của các cơ sở đào tạo luật còn thiếu so với yêu cầu đối với cán bộ pháp luật có trình độ cao;

- Xác định nhu cầu và thực tế sử dụng cán bộ pháp luật trong các cơ quan, tổ chức, các doanh nghiệp đang thực hiện các hoạt động kinh tế đối ngoại, các hoạt động ngoại giao để có sự đánh giá đúng năng lực hiện tại của họ.

- Đề xuất phương hướng và các giải pháp cụ thể nhằm bổ sung những yếu tố mới cho cán bộ pháp luật, nâng cao trình độ, năng lực của họ lên một mức cao hơn, đáp ứng đòi hỏi của công cuộc hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam.

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ PHÁP LUẬT CÓ TRÌNH ĐỘ CAO PHỤC VỤ HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

1. Bối cảnh quốc tế, khu vực và chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam

Tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế nói trên, Việt Nam đứng trước những cơ hội thuận lợi và thách thức. Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để tận dụng các nguồn lực và điều kiện quốc tế thuận lợi, phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước để phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy vậy, quá trình hội nhập quốc tế diễn ra cạnh tranh hết sức gay gắt có thể là nguyên nhân gây ra phá sản đối với những ngành kinh tế và những doanh nghiệp kém hiệu quả của nước ta, gây ra xáo trộn về công ăn việc làm cho nhiều người lao động. Hệ thống pháp luật thương mại của nước ta cũng còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.

Trình độ cán bộ thực hiện hội nhập quốc tế chưa cao, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho công tác hội nhập quốc tế chưa được đẩy mạnh. Trình độ cán bộ của Việt Nam nhìn chung đã được nâng lên đáng kể sau hơn một thập kỷ tiến hành hội nhập quốc tế, nhưng so với yêu cầu hiện nay và mặt bằng trình độ chung của các nước thì đội ngũ cán bộ của nước ta cần được nâng cao hơn nữa cả về chuyên môn và ngoại ngữ.

2. Các chủ trương, chính sách về hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã nhận định: "Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh" [17, tr.13]. Để đạt được mục tiêu đó, một trong những định hướng quan trọng là: "Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước" [17, tr.26].

Song song với đường lối, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, chủ trương trọng tâm về đối ngoại của Đảng giai đoạn này là: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.

Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 07/NQ-TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Ngày 14/3/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 37/QĐ-TTg về Chương trình hành động của Chính phủ chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 7. Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai Nghị quyết số 7/NQ-TW của Bộ Chính trị đã nhất trí về năm nội dung cơ bản trong công tác hội nhập kinh tế quốc tế như sau:

- Thống nhất về nhận thức tư tưởng về hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp tục tuyên truyền nâng cao hiểu biết về hội nhập kinh tế quốc tế cho mọi tầng lớp nhân dân;

- Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế;

- Mở cửa thị trường và giảm thuế quan;

- Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý phù hợp với các quy định của quốc tế về kinh tế - thương mại;

- Đào tạo nguồn nhân lực.

Trong lĩnh vực pháp luật, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/5/2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp, trong đó có nhấn mạnh rằng “tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”[4].

Các cơ sở đào tạo luật cần phải nghiên cứu đề ra định hướng, thực hiện các giải pháp nhằm đổi mới cơ bản về nội dung chương trình, hình thức và phương pháp đào tạo để bảo đảm đào tạo và cung cấp cho xã hội những cán bộ pháp lý có trình độ cao, có khả năng giải quyết được những vấn đề pháp lý quan trọng; bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và công dân Việt Nam trong quan hệ dân sự, thương mại với các nước, tổ chức quốc tế và cá nhân là người nước ngoài khác.

3. Nhu cầu đội ngũ cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ hội nhập quốc tế của Việt Nam

Trong tương lai, Việt Nam sẽ trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế quan trọng, đồng thời sẽ gia nhập một số tổ chức quốc tế lớn, ví dụ như Tổ chức Thương mại Thế giới. Điều này đòi hỏi nước ta cần phải có một lực lượng lớn những người có trình độ pháp luật phù hợp với các công việc liên quan tới hội nhập quốc tế. Xuất phát từ thực tế đội ngũ cán bộ pháp luật làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam còn thiếu và yếu, trước mắt cũng như lâu dài, việc đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ pháp luật có trình độ cao để phục vụ hội nhập quốc tế là hết sức rất cấp thiết, cụ thể ở những lĩnh vực sau:

- Nhu cầu về đội ngũ cán bộ pháp luật có trình độ cao trong lĩnh vực cố vấn về kinh tế và thương mại quốc tế.

- Nhu cầu về cán bộ pháp luật đàm phán về vấn đề quốc tế.

- Nhu cầu đối với cán bộ hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật cho hội nhập quốc tế.

- Nhu cầu đào tạo các chức danh tư pháp trong giai đoạn mới.

Việc xác định chính xác nhu cầu đào tạo các chức danh tư pháp trong thời gian trước mắt và lâu dài có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch đào tạo. Nhu cầu đào tạo được đánh giá qua hai tiêu chí: Nhu cầu về số lượng cán bộ và nhu cầu về chất lượng cán bộ.

4. Kinh nghiệm và mô hình đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ việc hội nhập quốc tế của một số nước

 Qua việc nghiên cứu chương trình đào tạo luật gia tại các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Cộng hòa Philippines, Cộng hoà Liên bang Đức, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh, Ôxtrâylia và New Zealand, Hoa Kỳ, và Canada, có thể đưa ra ba nhận định sau đây:

Thứ nhất, ở những nước XHCN, nền luật học chưa phát triển. Luật pháp được đồng nghĩa với cách hiểu của luật công, là những công cụ triển khai chính sách của Nhà nước. Dạy luật về cơ bản cũng dựa trên các phương pháp của luật công, lấy lý luận Mác-Lênin về tổ chức bộ máy nhà nước làm công cụ tư tưởng chính, các ngành luật được lựa chọn tùy theo nhãn quan quản lý nhà nước từng thời điểm khác nhau. Trong hệ đại học, người ta không rèn luyện các kỹ năng hành nghề cần có của Luật sư như kỹ năng thẩm vấn, kỹ năng đàm phán, kỹ năng tranh tụng, mà chủ yếu diễn giảng tư tưởng và cầu trúc các đạo luật, cách hiểu và vận dụng chúng theo một đường lối thống nhất bởi Đảng cầm quyền. Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa gặp khủng hoảng, ảnh hưởng của mô hình này suy giảm đáng kể. Các quốc gia Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô cũ quay trở lại với nền dân luật truyền thống. ở Trung Quốc và Việt Nam, hệ thống pháp luật của mô hình Nhà nước toàn trị được thay thế bởi một nền pháp luật tương thích với kinh tế thị trường. Tư duy lại việc dạy và học luật ở các quốc gia này là một điều tất yếu đang diễn ra.

Thứ hai, ở các quốc gia châu Âu lục địa, kể cả ở Anh và các quốc gia chịu ảnh hưởng của người Anh, việc dạy luật được bắt đầu ở bậc đại học, học viên phần lớn là những tú tài trẻ tuổi, chưa có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống. Sau khi có bằng cử nhân luật, họ phải trải qua những kỳ đào tạo nghiệp vụ mới có thể từng bước hành nghề luật. Quy trình đào tạo luật được chia thành hai công đoạn: công đoạn hàn lâm, do các khoa luật phụ trách, công đoạn dạy nghề, do Bộ Tư pháp, Hiệp hội Luật sư hoặc các tổ chức được ủy quyền tiến hành. Các cấp học thạc sĩ, tiến sĩ luật học là nối dài của quá trình đào tạo hàn lâm, người có bằng tiến sĩ luật thường đạt được một số kỹ năng nghiên cứu, mà không được đào tạo về hành nghề luật. Các khoa dạy luật thường thuộc các trường đại học công lập, giai đoạn dạy nghề luật ở một số nước còn được xem như đào tạo công chức tập sự với chế độ lương bổng và nghĩa vụ giống với công chức.

Thứ ba, Hoa Kỳ không phân chia đào tạo luật thành hai công đoạn hàn lâm và dạy nghề, mà nhập hai giai đoạn này vào chương trình đạo tạo luật cho những người đã có ít nhất một bằng cử nhân ở các ngành khoa học khác. Dạy luật ở nước này mang tính rèn luyện kỹ năng rõ rệt, sau khi có bằng luật (J.D.), người học có thể thi vào Hiệp hội Luật sư các bang để hành nghề. Các cơ sở đào tạo luật không được gọi là khoa luật, mà là các trường luật độc lập. Các trường danh tiếng phần lớn là trường tư, vận hành với những cơ chế không khác gì các công ty. Thẩm phán được lựa chọn từ những Luật sư có kinh nghiệm. Giới Luật sư có vai trò rất đáng kể trong đời sống kinh tế và chính trị nước Mỹ.

Riêng kinh nghiệm đào tạo cán bộ pháp luật ở Trung Quốc, Đề tài rút ra một số nhận xét sau:

- Giáo dục pháp lý hiện nay, có rất nhiều vấn đề làm cho những người làm công tác giáo dục pháp lý cảm thấy thiếu sót và áp lực, điều này chủ yếu biểu hiện ở : Chạy đua về số lượng, giáo dục pháp lý thể hiện giống như bọt xà phòng; Biện pháp dạy học đơn điệu, mô hình giáo dục đơn nhất; giáo dục pháp lý tách rời nghề nghiệp pháp luật, nội dung dạy học cũ kỹ, tốc độ đổi mới chậm; đầu tư cho dạy học không đủ, cơ sở vật chất thiếu thốn.

- Đào tạo pháp luật bậc cao chưa có mục tiêu rõ ràng chính xác. Nhiều trường đại học chưa nêu rõ mục tiêu cụ thể của đào tạo sinh viên chuyên ngành pháp luật trong các văn bản giới thiệu về trường mình.

- Tầng lớp giáo dục chưa có quy củ. Đào tạo pháp luật ở Trung Quốc có tới 5,6 tầng lớp; các biện pháp dưới các tầng lớp này lại càng nhiều hơn. Các trường, bất kể lực lượng giáo viên và điều kiện giảng dạy có đầy đủ hay không, chỉ cần thu hút được sinh viên là mở lớp với quy mô lớn và tốc độ nhanh. Nhìn từ bề nổi, đào tạo pháp luật ở Trung Quốc có đầy đủ các tầng lớp, hoàn thiện, và hiện ra cục diện lạc quan, nhưng nó không phù hợp với quy luật đào tạo, đặc biệt là quy luật phát triển môn học pháp luật. Sự tồn tại của hệ thống đào tạo nhiều tầng lớp cho thấy hiện nay Trung Quốc vẫn chưa xây dựng được một hệ thống khoa học hoàn thiện về đào tạo pháp luật. Hiệu quả mà đào tạo nhiều tầng lớp này mang lại là đã đào tạo được nhiều cán bộ pháp luật với nhiều tầng lớp, nhưng về chất lượng cán bộ và tầng thứ tổng thể lại tồn tại vấn đề rất lớn.

- Thiếu tư tưởng đào tạo pháp luật. Đào tạo pháp luật luôn luôn tồn tại phụ thuộc vào chính trị, pháp luật từ lâu được coi là công cụ chính trị, về cơ bản nội dung giáo dục pháp luật là các văn kiện của Đảng, nhà nước và lý luận của giai cấp vô sản chuyên chính. Ở Trung Quốc chưa hình thành được một tư tưởng đào tạo pháp luật độc lập, có hệ thống, hoàn chỉnh, đồng bộ. Cho nên, sau cải cách mở cửa, là thời kỳ phục hồi và phát triển của đào tạo luật, nhưng đào tạo pháp luật của Trung Quốc đã tiến một cách mò mẫm trong hoàn cảnh thiếu tư tưởng đào tạo. Thiếu tư tưởng đào tạo có nghĩa là thiếu sự hướng đạo và sẽ mất phương hướng trong sự thay đổi của xã hội, nhất là trong thời đại toàn cầu hoá ngày nay. Thiếu tư tưởng đào tạo pháp luật sẽ trở thành một căn bệnh nan y hạn chế sự phát triển đào tạo pháp luật tại Trung Quốc.

Kinh nghiệm đào tạo cán bộ pháp luật tại Vương quốc Thụy Điển cho thấy tất cả các trường Đại học ở Thụy Điển đều là những trường đa ngành. Cơ cấu của trường bao gồm các khoa khác nhau, giảng dạy các chuyên ngành khác nhau như: Y học, Luật, Thần học, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Kỹ thuật. Người đứng đầu trường đại học tổng hợp là Hiệu trưởng và mỗi khoa có Ban Chủ nhiệm khoa, mà người lãnh đạo là Trưởng khoa. Mỗi khoa có ngân sách riêng và Chủ nhiệm khoa chịu trách nhiệm về nhân sự và tài chính. Chủ nhiệm khoa là người đứng đầu một viện và thông thường mỗi khoa có một số viện nghiên cứu. Có một trường hợp ngoại lệ là Khoa Luật Trường Đại học Tổng hợp Lund: đó là một Khoa và một Viện, tổ chức có một ban lãnh đạo khoa, một Trưởng khoa và một Chủ nhiệm khoa.

Chương trình đào tạo tại các trường đại học là đáp ứng nhu cầu đào tạo cán bộ cho các lĩnh vực hoạt động của Chính phủ. Hầu hết các cơ quan vẫn thường đề nghị tiếp tục đào tạo cán bộ về các vấn đề có liên quan tới Luật công, Luật Hành chính, Luật Thuế và Luật của Liên minh Châu Âu. Nhưng tình hình đã có sự thay đổi. Nhiều lĩnh vực đã tác động tới công tác đào tạo tại các trường đại học, làm cho nó hợp lý hơn, năng động hơn trước và thậm chí công tác nghiên cứu dường như cũng mất đi vai trò mũi nhọn, tiên phong trong một thế giới phát triển.

II. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO VÀ THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ PHÁP LUẬT LÀM CÔNG TÁC HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM

1. Thực trạng đào tạo cán bộ pháp luật ở Việt Nam

 1.1. Mô hình hiện tại của việc đào tạo cán bộ pháp luật ở Việt Nam

Trong 26 năm vừa qua, các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật đã đào tạo được hàng chục nghìn cử nhân, hàng nghìn thạc sĩ và hàng trăm tiến sĩ luật học. Đội ngũ cán bộ pháp luật được đào tạo đã hoạt động trong nhiều cơ quan và trong nhiều lĩnh vực khác nhau và bước đầu đã phát huy được những tác dụng nhất định, góp phần xây dựng Nhà nước XHCN cũng như nền kinh tế quốc dân ngày càng phát triển.

Tuy vậy, việc đào tạo cán bộ pháp luật phục vụ cho việc hội nhập quốc tế của nước ta còn có nhiều nhược điểm và bất cập, đó là:

- Cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật, nhất là các giảng đường, phòng học, phòng làm việc, ký túc xá... được xây dựng một cách chắp vá, manh mún, còn thiếu thốn; nhiều cơ sở thiếu thốn trầm trọng. Các trang thiết bị giảng dạy còn nghèo nàn, thô sơ; thư viện nhìn chung còn lạc hậu, chỉ có sách mà thiếu các tạp chí chuyên ngành mới nhất; các phương tiện tin học còn quá ít. Số tài liệu đã có chưa được khai thác một cách tối đa.

- Đội ngũ cán bộ giảng dạy còn nhỏ bé về số lượng, hạn chế về chất lượng và chưa được nâng cao trình độ ở mức cần thiết, thiếu hiểu biết về chính sách và pháp luật trong cơ chế thị trường. Việc cập nhật kiến thức và kỹ năng giảng dạy, nghiên cứu theo cơ chế mới còn có nhiều hạn chế. Số lượng các giảng viên luật tham gia các công tác thực tiễn còn ít và có tính tự phát. Trình độ ngoại ngữ của các giảng viên còn thấp và chưa đồng đều.

- Phần lớn các chương trình đào tạo có cơ cấu kiến thức không phù hợp. Nhìn chung, chương trình đào tạo của các cơ sở đều nặng nề, chú ý nhiều đến lý thuyết và thiếu kiến thức thực tiễn, kỹ năng hành nghề. Thời gian dành cho việc tự nghiên cứu của sinh viên, học viên còn ít và chưa được sử dụng triệt để.

- Hệ thống giáo trình, giáo án, sách và tài liệu tham khảo còn chưa đầy đủ và có nhiều bất cập. Nội dung của nhiều giáo trình, tài liệu tham khảo trùng lặp, thiếu tính đa dạng, không chuyên sâu, ít kiến thực thực tiễn và chưa theo kịp sự phát triển của kinh tế và xã hội. Công tác biên soạn giáo trình của nhiều cơ sở đào tạo chưa được coi trọng, thiếu tính thống nhất trong toàn bộ hệ thống...

- Mối quan hệ giữa các cơ sở đào tạo trong nước cũng như với các cơ sở đào tạo luật ở nước ngoài vẫn chưa được khai thông ở mức cần thiết.

- Mục đích học tập của sinh viên, học viên và nghiên cứu sinh đôi khi chưa chính đáng. Ý thức học tập của các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh còn chưa đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp hội nhập quốc tế của nước ta.

- Chưa có sự gắn bó và liên thông giữa các bậc học, giữa các ngành học, giữa các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật cũng như giữa lý luận và thực tiễn, giữa việc đào tạo và sử dụng cán bộ pháp luật.

- Việc sử dụng cán bộ pháp luật đã tốt nghiệp các hệ chưa thật hợp lý, gây ra sự lãng phí và không phát huy được hết những kiến thức mà các nhà trường đã trang bị cho các luật gia này.

Tất cả những điều đó cho thấy cần phải khẩn trương xây dựng một mô hình tổng thể mới về đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam.

1.2. Các cấp bậc đào tạo cán bộ pháp luật hiện hành.

Các cấp bậc đào tạo cán bộ pháp luật này có một số thành công và ưu điểm như:

- Người học có thể lựa chọn các cấp bậc đào tạo, thường xuyên nâng cao trình độ theo nhu cầu công tác cũng như điều kiện và khả năng của mình;

- Bên cạnh việc đào tạo bài bản và chính quy một số cấp bậc, còn có việc đào tạo nghề để các Luật gia sau khi tốt nghiệp có thể làm việc một cách thuần thục ngay;

Tuy vậy, có thể nhận thấy một số nhược điểm, bất cập của hệ thống các cấp bậc đào tạo cán bộ pháp luật này là:

a) Ở cấp đào tạo đại học luật, các môn phụ trợ như: Các môn chính trị, ngoại ngữ, thể dục, quân sự, tâm lý học…) chiếm một tỷ lệ khá lớn (30%)

b) Đến cấp cao học, tỷ lệ các môn phụ trợ như Triết học, Ngoại ngữ, Phương pháp giảng dạy đại học, Phương pháp nghiên cứu khoa học cũng vẫn chiếm một tỷ lệ khá lớn (25%).

c) Các cấp học không có sự liên kết, gắn bó và bổ sung cho nhau, mà tách biệt nhau.

d) Chưa thực hiện được vệc bồi dưỡng sau đại học để cung cấp những kiến thức chuyên ngành, cập nhật, mới về một lĩnh vực hoặc về một số vấn đề để trang bị cho người học (có thể là các cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ luật) những kiến thức cần thiết phục vụ cho công việc hàng ngày của họ, đáp ứng tốt hơn những yêu cầu có tính chất thời sự cũng như lâu dài về hội nhập quốc tế của Việt Nam.

1.3. Các hình thức đào tạo cán bộ pháp luật hiện hành

a) Đào tạo tập trung

Đào tạo tập trung có ưu điểm là quá trình đào tạo (dạy và học) được thực hiện một cách bài bản, tích cực và được chuẩn hóa. Sinh viên, học viên cũng như nghiên cứu sinh có điều kiện tập trung mọi khả năng, sức lực và thời gian vào việc học tập, không bị phân tán vào những công việc khác, hoạt động khác nên có điều kiện đọc sách báo, tài liệu, nhớ nhanh và nhớ lâu các kiến thức lý luận và thực tiễn được giảng viên truyền thụ.

Về nội dung chương trình của hình thức đào tạo tập trung có một số nhận xét sau đây:

- Những ưu điểm và thành công trong nội dung chương trình đào tạo luật

+ Chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo luật đã được xây dựng một cách thống nhất trên cơ sở dự kiến chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chia thành hai phần cơ bản: Khối kiến thức giáo dục đại cương và khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp.

+ Chương trình của các cơ sở đào tạo luật đã thay đổi theo hướng giảm số tiết của các môn học; bổ sung thêm một số môn học mới phù hợp với xu hướng phát triển chung của xã hội.

+ Các cơ sở đào tạo luật đã chú ý tăng thời gian thảo luận đối với từng môn học, tạo điều kiện cải thiện kỹ năng nói của người đọc.

- Những nhược điểm và hạn chế trong nội dung chương trình đào tạo luật

+ Chương trình của các cơ sở đào tạo còn khá nặng (200 ĐVHT). Chương trình đào tạo cao học ở Nhật Bản, Mỹ, Thái Lan... là 130 - 150 ĐVHT.

+ Thời gian giảng lý thuyết nhiều hơn thời gian thảo luận: 4,3 tiết lý thuyết có 1 tiết thảo luận. Trên thế giới, số giờ thảo luận tương đương với số giờ giảng lý thuyết.

+ Các cơ sở đào tạo luật vẫn chú trọng đến việc cung cấp kiến thức lý luận cho người học hơn là cung cấp và rèn luyện kỹ năng thực hành cho sinh viên.

+ Trong khối kiến thức chuyên ngành, số học phần, chuyên đề tự chọn còn chưa được phong phú, chưa tạo cho người học nhiều sự lựa chọn.

Sau khi nghiên cứu, phân tích chương trình đào tạo sau đại học tại một số cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật đã nêu ở trên, có thể rút ra nhận xét về những ưu điểm và thành công của các chương trình này như sau:

- Các cơ sở đào tạo sau đại học đều đã xây dựng chương trình đào tạo thạc sĩ và đào tạo tiến sĩ cơ bản tuân theo Quy chế Đào tạo Sau đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Các chương trình đào tạo cao học đều được xây dựng bao gồm chương trình cơ bản, chương trình cơ sở, chương trình chuyên ngành, viết và bảo vệ luận văn thạc sĩ. Các chương trình đào tạo tiến sĩ đều bao gồm việc học chương trình tương tự như đào tạo thạc sĩ, học ngoại ngữ chuyên ngành, NCS phải viết và bảo vệ ba chuyên đề tiến sĩ, trình bày luận án ở bộ môn, luận án được phản biện độc lập và bảo vệ luận án tiến sĩ cấp nhà nước.

- Các chương trình đào tạo sau đại học đã được các cơ sở đào tạo sau đại học xây dựng tương đối khoa học, hợp lý. Thí dụ trong các chương trình có phần lý luận, có phần thực tiễn, có phần pháp luật trong nước, có phần nghiên cứu lịch sử phát triển của các ngành luật, của các chế định pháp luật; tìm hiểu và nghiên cứu áp dụng các kinh nghiệm thích hợp của nước ngoài phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của nước ta.

- Các cơ sở đào tạo đã xây dựng được nhiều chương trình, mở ra nhiều mã số ngành đào tạo để các học viên cũng như nghiên cứu sinh có điều kiện lựa chọn ngành khoa học thích hợp với khả năng, trình độ cũng như những lĩnh vực hoạt động của họ.

- Các cơ sở đào tạo đã xây dựng cơ cấu chương trình gồm các môn học bắt buộc và một số môn học tự chọn nhằm mục đích giảm tải (về số môn học, về số tiết cho mỗi môn) để phù hợp với ngành nghề, công việc, vị trí công tác… của các học viên và nghiên cứu sinh.

- Các cơ sở đào tạo sau đại học đã thường xuyên nghiên cứu, tham khảo chương trình đào tạo sau đại học của các nước khác.

Tuy vậy, các chương trình đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ sau đại học ở các cơ sở đào tạo luật ở nước ta có một số nhược điểm và bất cập như sau:

- Chương trình đào tạo của các cơ sở chưa thống nhất, không đồng đều, có nơi nặng, có nơi nhẹ; có nơi rất bài bản, có nơi còn sơ sài, tuỳ tiện.

- Có một số môn học không thích hợp, làm tốn nhiều thời gian, công sức, chi phí tài chính, hiệu quả thấp.

Nội dung đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ sau đại học có những ưu điểm và thành công như:

- Các chuyên đề được giảng dạy đã được cân nhắc và lựa chọn trong số các vấn đề cơ bản và hiện đại, có tính lý luận và thực tiễn cao. Điều này được thể hiện ở chỗ các cơ sở đào tạo không giảng dạy tất cả các vấn đề của một môn học mà chỉ dạy một số vấn đề cơ bản và hiện đại của các môn học đó;

- Đa số các chuyên đề có tính phổ biến, và tương thích giữa các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam;

- Một số chuyên đề, môn học thể hiện sự đặc sắc của cơ sở đào tạo, tạo ra sức hấp dẫn của cơ sở đào tạo đó;

- Nội dung các chuyên đề được giảng dạy đã thể hiện được các vấn đề có tính cấp thiết của đời sống pháp lý;

- Một số chuyên đề phục vụ có hiệu quả cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam;

- Các chuyên đề nói chung đã được thường xuyên cải tiến, sửa đổi, bổ sung và cập nhật những vấn đề mới của khoa học pháp lý và thực tiễn thi hành pháp luật. Hệ thống các chuyên đề đã có nhiều đổi mới, vừa cơ bản, vừa hiện đại, đồng thời bám sát các vấn đề có tính thời sự, cấp thiết, liên quan đến sự nghiệp hội nhập và mở cửa của Việt Nam.

Tuy vậy, nội dung đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ sau đại học có những nhược điểm và bất cập như:

- Một số môn học, chuyên đề không thích hợp, không cần thiết;

- Một số chuyên đề được giảng dạy chồng chéo, lặp lại chương trình đại học;

- Thiếu những chuyên đề liên quan hoặc phục vụ cho hội nhập quốc tế của Việt Nam, thí dụ như: Luật Đầu tư chung của các nước ASEAN, Luật Hình sự Quốc tế, Luật về Trọng tài quốc tế, Luật Thương mại điện tử, Luật Tài chính quốc tế ...

Ở các cơ sở đào tạo sau đại học, hình thức đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ sau đại học có những ưu điểm và thành công như sau:

- Có nhiều hình thức phong phú đáp ứng yêu cầu của nhiều đối tượng đào tạo, thí dụ có các hình thức như: Tập trung, tại chức; học trong giờ hành chính, học ngoài giờ hành chính, học vào những ngày cuối tuần...

- Có nhiều cấp bậc đào tạo cán bộ có trình độ cao (như đại học, thạc sĩ, tiến sĩ, bồi dưỡng sau đại học...). Mỗi cơ sở đào tạo sau đại học đã đào tạo các cấp bậc khác nhau tùy theo khả năng, điều kiện của cơ sở đó.

- Hợp tác với các nước khác và tiếp thu được những kinh nghiệm tiên tiến của các nước này. Các cơ sở đào tạo sau đại học đã thực hiện nhiều quan hệ hợp tác với nhiều nước khác nhau và đã tiếp thu được nhiều kinh nghiệm tiến tiến của các nước này.

Hình thức đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ sau đại học có những nhược điểm và bất cập như:

- Có những hình thức đào tạo không bảo đảm chất đào tạo sau đại học lượng, hiệu quả không cao. Hình thức vừa làm vừa học (tại chức) hoặc đào tạo ban đêm, cuối tuần là những hình thức đào tạo đạt hiệu quả không cao. Học viên luôn luôn bị chi phối bởi nhiều vấn đề cùng phải giải quyết ngay một lúc hoặc sau một ngày, một tuần làm việc căng thẳng, vất vả, thì học viên và ngay cả giảng viên cũng không còn sức lực và hứng thú giảng dạy, học tập nữa.       

- Các cơ sở đào tạo sau đại học triển khai quá chậm hình thức bồi dưỡng sau đại học; Mặt khác, hình thức này chưa phù hợp với nguyện vọng và nhu cầu của người học, không khuyến khích, động viên được người học.

 Phương pháp đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ sau đại học có những ưu điểm và thành công như sau:

- Một số giảng viên đã sử dụng các phương pháp đào tạo thích hợp (như thuyết trình, hướng dẫn thảo luận, gợi ý nghiên cứu, trao đổi giữa thầy và trò...);

- Một số giảng viên đã học tập và sử dụng có hiệu quả các phương pháp giảng dạy tiên tiến, như chương trình tin học phục vụ cho đào tạo đại học và sau đại học. Công nghệ Power Point đã làm tăng thêm tính hấp dẫn và nhớ lâu của các học viên, đòi hỏi người giảng viên phải đầu tư nhiều công sức, có nhiều kỹ năng trong soạn bài, hoàn thành giáo án.

- Nhiều giảng viên đã coi học viên và nghiên cứu sinh là trung tâm của quá trình đào tạo; giảng viên cần làm mọi việc để phục vụ cho họ học tập và nghiên cứu một cách tốt nhất.

Phương pháp đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ sau đại học có những nhược điểm và bất cập như sau:

- Một số giảng viên chưa sử dụng phương pháp đào tạo thích hợp. Các giảng viên này sử dụng chủ yếu phương pháp thuyết trình (độc thoại); hầu như không sử dụng phương pháp trao đổi, thảo luận giữa giảng viên và học viên, nên không gợi được sự hăng say, sáng tạo, chủ động, chịu khó tìm tòi trong học tập và nghiên cứu khoa học của học viên, nghiên cứu sinh.

- Một số giảng viên chưa chịu khó học tập và sử dụng các phương pháp giảng dạy tiên tiến, làm cho các giờ giảng kém sức hấp dẫn, học viên không thể nhớ lâu nội dung bài giảng của giảng viên và hệ thống các trang thiết bị hiện đại của cơ sở đào tạo không được sử dụng một cách triệt để, gây ra sự lãng phí to lớn.

- Một số giảng viên chưa coi học viên và nghiên cứu sinh là trung tâm của quá trình đào tạo.

Về thực trạng đào tạo nghề ở Việt Nam, có thể nhận định về đối tượng đào tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp như sau:

- Các học viên của các lớp đào tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp đã nắm được một số kỹ năng nghề nghiệp ban đầu. Học viên được học kỹ năng nghề nghiệp một cách hệ thống với các mức độ nâng cao cần thiết để đảm bảo khi tốt nghiệp ra trường và được bổ nhiệm làm Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư, Chấp hành viên, Công chứng viên các học viên có thể bắt tay vào công việc ngay.

- Các kỹ năng có được của học viên khi mới vào trường chủ yếu được hình thành từ việc học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước, do đó, bên cạnh những kỹ năng nghề nghiệp tốt còn có nhiều cách làm theo thói quen, không chính quy, chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Điều này gây trở ngại nhất định cho việc tiếp thu những kiến thức mới.

- Do nhiều học viên đã tốt nghiệp đại học từ lâu, trong quá trình công tác thực tiễn không được bồi dưỡng thường xuyên nên nhiều kiến thức mới về pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng không được cập nhật. Kết quả khảo sát cho thấy phần lớn các học viên thường đề nghị bổ sung các chuyên đề pháp luật chuyên sâu liên quan đến hoạt động nghề nghiệp của từng chức danh và các chuyên đề thông tin pháp luật trong chương trình đào tạo.

- Việc tuyển học viên các lớp Thẩm phán, Kiểm sát viên, Chấp hành viên, Công chứng viên đã kết hợp giữa cử tuyển và thi tuyển; nhưng do việc lựa chọn những người đi học các lớp này bị giới hạn trong phạm vi biên chế của các cơ quan tư pháp nên chưa lựa chọn được những người thật sự giỏi về chuyên môn, có tư cách đạo đức tốt để đào tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh này.

- Đa số học viên Luật sư khi mới vào trường còn chưa được tiếp cận với hoạt động tranh tụng hoặc tư vấn của Luật sư. Chương trình đào tạo nghiệp vụ Luật sư cần trang bị một cách bài bản, hệ thống về các kỹ năng nghề nghiệp ban đầu để tạo cơ sở cho các học viên sau khi tốt nghiệp có thể thực hiện được một số hoạt động nghề nghiệp cần thiết trong thời gian làm Luật sư tập sự.

b) Đào tạo tại chức

Hình thức đào tạo tại chức được áp dụng để đào tạo các cử nhân Luật theo một chương trình riêng nhằm tạo điều kiện cho các học viên tham gia các chương trình đào tạo không chính quy trong khi vẫn có khả năng tham gia vào các quá trình lao động xã hội. Hình thức đào tạo tại chức giải quyết được việc nâng cao trình độ cho cán bộ trong các cơ quan, xí nghiệp, đồng thời cung đảm bảo được quyền lợi của người học.

Tuy nhiên, việc đào tạo theo hình thức tại chức có nhược điểm là trong cùng một khoảng thời gian, người học phải vừa học, vừa làm, giải quyết nhiều công việc nên không thể chú tâm vào việc học, chất lượng học tập và nghiên cứu không cao. Các học viên dễ bị chi phối bởi công việc chuyên môn, nghề nghiệp hàng ngày; các học viên không tuân theo chương trình một cách chặt chẽ về số môn học; việc tổ chức giảng dạy các lớp được rải ra trên nhiều địa bàn, rất khó khăn cho công tác quản lý trực tiếp…

c) Đào tạo từ xa

Hình thức đào tạo từ xa có đặc điểm giống đặc điểm của hình thức đào tạo tại chức, là: người học vừa công tác, vừa đi học nhằm nâng cao trình độ. Nhưng nó khác với hình thức học tại chức là ở chỗ: Học viên học tại chức phải tập trung đến lớp để nghe giảng viên giảng và hướng dẫn thảo luận; nhưng người học từ xa phải tự nghiên cứu các tài liệu học tập mà cơ sở đào tạo cung cấp là chủ yếu. Khi nào cơ sở đào tạo chuẩn bị thi các môn thì mới tổ chức việc hệ thống hoá và giải đáp thắc mắc cho sinh viên. Các sinh viên thi tốt nghiệp là chủ yếu. Chỉ có rất ít sinh viên có kết quả học tập tốt trong các lớp ở các địa phương có điều kiện đi lại thuận tiện mới được viết và bảo vệ luận văn tốt nghiệp.

d) Học lý thuyết kết hợp với thực tập trong thực tiễn

Trong các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật, việc kết hợp giữa học tập lý luận với thực tập trong thực tiễn đã được thường xuyên chú ý thực hiện. Lý thuyết soi đường cho thực tiễn, nhưng thực tiễn cũng là môi trường để kiểm nghiệm lý thuyết, thể hiện sinh động những lý luận đã được giảng dạy. Vì vậy, việc kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo về mặt lý thuyết và tạo điều kiện cho người học đi thực tập trong thực tiễn trong quá trình đào tạo cán bộ có trình độ cao phục vụ cho hội nhập quốc tế của Việt Nam, đã được thường xuyên thực hiện một cách có kế hoạch. Lý thuyết là vấn đề khoa học đã được nghiên cứu và đúc kết lại; còn thực tiễn có tính năng động, phát triển theo một quy luật riêng của nó và có tác dụng minh hoạ cho những điều mà lý luận đã nghiên cứu được.

e) Đi học tập ở nước có nhiều kinh nghiệm về đào tạo cán bộ pháp lý phục vụ cho việc hội nhập quốc tế.

Trong những năm vừa qua, các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật của Việt Nam đã có nhiều mối quan hệ với các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật của các nước này. Thí dụ như: Trường Đại học Luật Hà Nội đã có quan hệ chính thức với 14 cơ sở đào tạo luật và các tổ chức quốc tế ở Pháp, Thuỵ Điển, Cộng hoà Liên bang Đức, Trung Quốc, Nhật Bản, Ôxtrâylia, Mỹ v.v…đã và đang thực hiện một số dự án quốc tế về đào tạo và nghiên cứu luật. Trường đã hợp tác với Trường Đại học tổng hợp Pantheon Assas (Paris II) của nước Cộng hoà Pháp, hợp tác với Trường Đại học Tổng hợp Lund của Vương quốc Thuỵ Điển. Cho tới nay, đã có hơn 100 cán bộ, giảng viên của Trường Đại học Luật Hà Nội được đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài và có hơn 40 giáo sư nước ngoài đến giảng dạy, hướng dẫn khoa học tại trường. Số sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh là người nước ngoài đến học tập, nghiên cứu tại Trường ngày càng đông. Trường đã đào tạo được nhiều cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ là công dân Lào, Campuchia, Yêmen, Trung Quốc.

Các cơ sở đào tạo luật khác như Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật thuộc Trường Đại học Cần Thơ, Khoa Luật thuộc Trường Đại học Đà Lạt, Khoa Luật thuộc Trường Đại học Khoa học Huế…cũng đã không ngừng đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế. Việc hợp tác này đã đem lại nhiều kết quả khả quan, đóng góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, chất lượng đào tạo, phát triển năng lực đào tạo của các cán bộ, giảng viên trong các cơ sở đào tạo này.

Tuy vậy, hoạt động hợp tác quốc tế của các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật có nơi, có lúc vẫn chưa được coi trọng và chưa được xem như một biện pháp hữu hiệu để đổi mới tư duy, nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng viên và việc học tập, nghiên cứu của sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh. Hiệu quả của hoạt động hợp tác quốc tế có lúc còn hạn chế và chưa bám sát yêu cầu đào tạo, thiếu sự phối hợp giữa các cơ sở đào tạo và sự điều phối của các cơ quan hữu quan. Tình trạng mạnh ai nấy làm còn xảy ra. Một số cơ sở đào tạo luật còn chưa chủ động trong việc mở rộng hợp tác quốc tế và có tính chủ động chưa cao.

+ Các lĩnh vực đào tạo cán bộ pháp luật sau đại học hiện hành

Trong những năm vừa qua, các chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật của Việt Nam đã bước đầu thể hiện được sự đa dạng về các lĩnh vực pháp luật được đào tạo phục vụ cho sự hội nhập quốc tế của Việt Nam. Thí dụ, trong các chương trình đã có những môn học hoặc chuyên đề về hoặc liên quan đến hội nhập quốc tế, như: Công pháp Quốc tế, Tư pháp quốc tế, Luật Kinh tế quốc tế, Luật So sánh, Luật Thương mại Quốc tế, Luật về sở hữu trí tuệ, Luật về chuyển giao công nghệ, Luật Hiến pháp các nước, Luật Hình sự Quốc tế, Lịch sử các học thuyết chính trị…

2. Thực trạng đội ngũ cán bộ pháp luật làm công tác hội nhập quốc tế hiện nay của Việt Nam

Nhận định về tình trạng hiện nay của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại, Nghị quyết số 07/ NQ-TW của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế đã chỉ rõ: “Đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại còn thiếu và yếu.” Cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại được hiểu là tất cả những người làm việc liên quan tới hội nhập kinh tế quốc tế ở trong và ngoài hệ thống bộ máy Nhà nước, tất nhiên trong đó bao gồm cả lực lượng cán bộ pháp luật trong lĩnh vực này. Thực tế, đội ngũ cán bộ pháp lý phục vụ việc hội nhập quốc tế của Việt Nam thể hiện ở chỗ còn thiếu về số lượng và còn yếu về chất lượng được phản ánh khá rõ trong kết quả điều tra, khảo sát một số cơ quan của hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vừa qua của cho thấy: thứ nhất, còn thiếu những người làm công tác pháp luật trong lĩnh vực hội nhập quốc tế;thứ hai, trình độ chuyên môn của những người làm công tác pháp luật liên quan tới hội nhập quốc tế còn yếu.

III. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CHO VIỆC ĐÀO TẠO CÁN BỘ PHÁP LUẬT CÓ TRÌNH ĐỘ CAO PHỤC VỤ CÔNG CUỘC HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

1. Quan điểm về việc đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ công cuộc hội nhập quốc tế của Việt Nam

1.1. Quan điểm về cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ hội nhập quốc tế

Cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ hội nhập quốc tế cần phải thoả mãn những tiêu chí như sau:

- Là những người được đào tạo chuyên ngành luật học từ trình độ đại học trở lên.

- So với những cán bộ pháp luật được đào tạo đại trà khác, những cán bộ pháp luật có xu hướng tham gia các hoạt động hội nhập quốc tế phải có một trình độ cao hơn hẳn về những kiến thức lý luận và thực tiễn liên quan trực tiếp đến các lĩnh vực hội nhập quốc tế.

- Thông thạo kiến thức nói chung và từ ngữ chuyên ngành luật của ít nhất một ngoại ngữ phổ biến trên thế giới.

- Có kiến thức sâu rộng về kinh tế, xã hội, lịch sử, văn hoá, tập quán ... của Việt Nam và của nhiều nước trên thế giới.

Việc này có thể thực hiện được bằng các biện pháp cụ thể và thiết thực như sau:

- Tổ chức những khoá giảng dạy kiến thức sâu rộng về kinh tế, xã hội, lịch sử, văn hoá, tập quán ... của Việt Nam và của nhiều nước trên thế giới cho nhóm cán bộ pháp luật có xu hướng tham gia hội nhập quốc tế;

- Tổ chức những chuyến nghiên cứu, khảo sát, tìm hiểu về kinh tế, xã hội, lịch sử, văn hoá, tập quán ... của Việt Nam và của nhiều nước trên thế giới cho nhóm cán bộ pháp luật có xu hướng tham gia hội nhập quốc tế.

- Nhóm cán bộ pháp luật có xu hướng tham gia hội nhập quốc tế phải có ý chí tự học, tự tìm tòi, khám phá ở mọi nơi, mọi lúc để nâng cao sự hiểu biết về kinh tế, xã hội, lịch sử, văn hoá, tập quán ... của nhiều nước trên thế giới.

1.2. Phân loại cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho hội nhập quốc tế.

Cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho công tác hội nhập quốc tế có thể được chia thành những nhóm sau:

- Cán bộ, chuyên gia nghiên cứu cơ bản công tác tại các viện nghiên cứu;

- Giảng viên các trường đại học luật, các khoa, bộ môn luật của các học viện, trường đại học, cao đẳng ở trung ương và địa phương;

- Chuyên gia công tác ở các cơ quan nhà nước với tư cách là những chuyên gia xây dựng chính sách, pháp luật, chuyên gia đàm phán, công chức hành chính;

- Cán bộ ở các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp như Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư, Công chứng viên, Giám định viên, Điều tra viên, Cán bộ thi hành án ...;

- Các cán bộ quản lý, chuyên viên pháp lý, chuyên gia đàm phán ở các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ...

 1.3. Những yêu cầu đối với công tác đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ hội nhập quốc tế

Công tác đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phải đáp ứng được những yêu cầu như sau:

Toàn bộ quá trình triển khai công tác đào tạo cán bộ pháp luật phục vụ hội nhập quốc tế phải đảm bảo quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế. Chiến lược đào tạo cán bộ pháp lý nói chung và đào tạo cán bộ pháp lý phục vụ hội nhập quốc tế nói riêng phải quán triệt Nghị quyết số 48/NQ-TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020.

Công tác đào tạo cán bộ pháp lý phải đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng phục vụ hội nhập quốc tế.

Cơ cấu đào tạo cán bộ pháp luật phải được thiết kế hoàn chỉnh, đồng bộ đối với từng bậc, từng hệ, từng loại hình, từng chuyên ngành đào tạo.

Chương trình đào tạo cán bộ pháp luật phải vừa thiết thực, đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vừa tiếp cận trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới.

Phương pháp và phương tiện đào tạo phải đồng bộ và phù hợp với các loại hình và quy mô đào tạo cán bộ pháp lý phục vụ công tác hội nhập. Phương pháp đào tạo cán bộ pháp lý phải được cải tiến mạnh mẽ, có kết hợp hợp lý giữa các phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại nhằm truyền đạt có hiệu quả chương trình đào tạo mới đã được đề cập ở trên. Cần đầu tư thích đáng cho việc hoàn thiện và hiện đại hoá các phương tiện đào tạo.

Đội ngũ cán bộ giảng dạy đa dạng, được huy động từ nhiều nguồn khác nhau, vừa giỏi năng lực chuyên môn, phương pháp sư phạm, giàu kinh nghiệm thực tiễn và có đạo đức tác phong chân chính. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên chuyên nghiệp tại các cơ sở đào tạo cần có chính sách khuyến khích và thu hút nhiều nhà quản lý, nhà khoa học, nhiều cán bộ làm công tác chuyên môn ở các bộ, ngành, các công ty làm giảng viên kiêm chức phục vụ công tác đào tạo cán bộ hội nhập quốc tế.

 Để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chuyên gia pháp luật đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế đang đặt ra hiện nay, cần phải xác định rõ các phương hướng đổi mới công tác đào tạo cán bộ pháp luật như sau:                         

Phương hướng đổi mới đối với công tác “đào tạo nền” cho cán bộ pháp luật.

  • Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo đại học luật phải bảo đảm tính kế thừa và phát triển những thành tựu đã đạt được trong những năm qua.
  • Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo đại học luật phải bảo đảm cho các chủ thể tham gia quá trình đào tạo phát huy ở mức độ cao nhất nội lực, bảo đảm tính sáng tạo và chủ động.
  • Đổi mới nội dung chương trình đào tạo.
  • Đổi mới phương pháp đào tạo.
  • Đổi mới cách thức tổ chức đào tạo.
  • Đổi mới phương pháp giảng dạy.       
  • Đổi mới phương pháp đánh giá kết quả học tập.

2. Giải pháp đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ công cuộc hội nhập quốc tế của Việt Nam

Kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, những thành công và nhược điểm của mô hình đào tạo cán bộ pháp luật trong quá khứ cho thấy cần phải tạo cho được một mô hình tổng thể mới, có những thay đổi về chất và về lượng, về thời gian đào tạo trong việc đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Việc đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho hội nhập quốc tế của Việt Nam bao gồm các giải pháp như sau:

- Đổi mới chương trình đào tạo cán bộ pháp luật.

- Hoàn thiện tài liệu học tập, nghiên cứu cho người học.

- Đổi mới phương pháp giảng dạy.

- Đổi mới phương pháp học tập của sinh viên, học viên.

- Phát triển và nâng cao trình độ giảng viên.

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học trong giảng viên, sinh viên, NCS.

- Đổi mới phương thức tuyển chọn đối tượng đào tạo cán bộ pháp luật.

- Đổi mới việc sử dụng luật gia của các cơ quan làm công tác hội nhập quốc tế.

- Đổi mới việc đào tạo, rèn luyện kỹ năng hành nghề của cán bộ pháp lý.

- Tăng cường bồi dưỡng sau đại học cho các cán bộ pháp lý.

2.1. Đổi mới chương trình đào tạo cán bộ pháp luật

- Chương trình đào tạo thống nhất: Chương trình đào tạo thống nhất thể hiện ở chỗ các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật trong cả nước cần ngồi lại với nhau để cùng trao đổi, bàn bạc, thảo luận một cách thật sự dân chủ và khoa học về việc xây dựng một khung chương trình đào tạo cán bộ pháp luật phục vụ cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam với nhiều cấp bậc và hình thức khác nhau. Chương trình này sẽ bao gồm những môn học, chuyên đề thiết yếu cho việc đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam và dành một phần thích hợp cho mỗi cơ sở đào tạo thể hiện những đặc sắc riêng của mình. Có thể tham khảo khung chương trình đào tạo cử nhân luật nói chung mà các cơ sở đào tạo luật đã hoàn thành dưới sự chủ trì của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

- Chương trình đào tạo hiện đại: Chương trình đào tạo hiện đại thể hiện ở chỗ các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật mạnh dạn áp dụng những nội dung, kiến thức mới phục vụ cho việc hội nhập quốc tế. Những nội dung và kiến thức mới thể hiện ở những kết quả nghiên cứu mới nhất từ lý luận và thực tiễn hội nhập quốc tế. Chương trình đào tạo cán bộ pháp luật phải tiếp tục hoàn thiện và phát huy tính tích cực của các kiến thức đã được cho là cần thiết và đúng trong chương trình đào tạo hiện hành. Ngoài ra, chương trình phải tham khảo các kinh nghiệm quốc tế, các môn học, các chuyên đề mà các nước khác đã áp dụng thành công khi đào tạo cán bộ pháp luật phục vụ cho hội nhập quốc tế của nước họ.

- Chương trình đào tạo thiết thực: Chương trình đào tạo cán bộ pháp luật phục vụ cho hội nhập quốc tế thiết thực được thể hiện ở chỗ cần mạnh dạn giảm bớt đến mức tối đa việc giảng dạy các môn phụ trợ trong chương trình đào tạo cử nhân cũng như đào tạo thạc sĩ, để các sinh viên và học viên cao học có thời gian và điều kiện nghiên cứu sâu rộng các vấn đề lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn thi hành pháp luật. Có thể nêu ra một thí dụ về vấn đề này là: Trong chương trình đào tạo thạc sĩ cũng như tiến sĩ luật của các nước khác, không thấy có việc giảng dạy môn Triết học, môn ngoại ngữ, môn xã hội học, môn Tin học....Trong khi đó, chương trình đào tạo cán bộ pháp luật của các nước này lại rất chú trọng đến các môn như: Thương mại quốc tế, Luật Cộng đồng Châu Âu, Luật So sánh, Luật cạnh tranh...

- Chương trình đào tạo có cơ cấu hợp lý: Chương trình đào tạo cán bộ pháp luật phục vụ cho hội nhập quốc tế có cơ cấu hợp lý thể hiện ở chỗ: Càng ở bậc đào tạo cao hơn thì tỷ lệ đào tạo về lý luận càng phải nâng cao lên, tỷ lệ nghiên cứu pháp luật thực định cần giảm xuống. Ngoài ra, ở cấp đào tạo nào cũng nên có thời gian đào tạo nghề cho người học với một tỷ lệ phù hợp, để các nhà luật gia, dù được đào tạo ở trình độ nào (đại học, cao học, tiến sĩ), sau khi học xong chương trình đó, đều không bỡ ngỡ khi bắt tay vào các công việc thực tiễn và cũng đều có thể phát huy được những kiến thức và trình độ của mình, phục vụ một cách tốt nhất cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam.

 2.1.1. Đổi mới chương trình đào tạo cử nhân luật

Cần tăng thêm thời lượng cho các môn học cung cấp kiến thức pháp lý trực tiếp phục vụ công tác hội nhập quốc tế và bổ sung thêm một số môn học mới vào chương trình đào tạo. Những môn luật liên quan trực tiếp đến hội nhập quốc tế sau đây cần được giảng dạy cho tất cả các sinh viên học luật: cụ thể như:1) Công pháp Quốc tế, 2) Tư pháp Quốc tế, 3) Luật Hiến pháp nước ngoài, 4) Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, 5) Luật Hôn nhân và Gia đình có yếu tố nước ngoài, 6) Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, 7) Luật về Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài, 8) Luật Sở hữu trí tuệ, 9) Luật Chuyển giao công nghệ, 10) Luật So sánh, và 11) Luật Biển

Ngoài ra, còn một số môn học hoặc chuyên đề khác cũng liên quan trực tiếp đến việc hội nhập quốc tế, nhưng nếu giảng dạy đại trà các môn này cho tất cả các sinh viên luật thì sẽ không đủ thời gian và không khả thi. Do đó, sau khi đã được cấp bằng cử nhân luật, các cử nhân có xu hướng tham gia trực tiếp vào hội nhập quốc tế cần học thêm trong thời gian 6 tháng một số môn học hoặc chuyên đề khác liên quan trực tiếp đến hoạt động hội nhập quốc tế để đạt được trình độ cao hơn, phục vụ có hiệu quả hơn cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam. Đó là những môn học hoặc chuyên đề sau: 1) Luật về các tổ chức quốc tế, 2) Luật Thương mại Quốc tế, 3) Luật Môi trường Quốc tế, 4) Luật Cạnh tranh Quốc tế, 5) Luật Trọng tài Quốc tế, 6) Luật về ngoại hối, 7) Luật Tài chính quốc tế và về các định chế tài chính quốc tế, 8) Luật về Hải quan Quốc tế, 9) Luật Hàng hải và Vận tải, 10) Liên hơp quốc và trật tự thế giới, và 11) Luật Ngoại giao và lãnh sự

Sau khi học xong các môn này, người học sẽ được cấp một chứng chỉ cử nhân có trình độ cao phục vụ hội nhập quốc tế và sẽ được ưu tiên tuyển dụng vào các cơ quan có hoạt động thực tiếp hội nhập quốc tế (như ngoại giao, ngoại thương, hải quan, xuất nhập khẩu, các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài....).

Tỷ lệ các giờ giảng dạy các vấn đề về hoặc liên quan đến việc hội nhập quốc tế của Việt Nam trong tổng số giờ đào tạo cử nhân cũng như đào tạo thạc sĩ cũng cần phải được nâng cao lên nhiều hơn (cần phải chiếm từ 40% đến 50% tổng số giờ giảng của mỗi cấp bậc đào tạo) thì mới đáp ứng được việc đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Sau một thời gian làm việc với trình độ cử nhân luật, trình độ thạc sĩ luật, thậm chí có thể với trình độ tiến sĩ luật, luật gia có thể tham gia chương trình bồi dưỡng sau đại học (chiếm khoảng 10% thời gian đào tạo thạc sĩ) để nắm bắt được những vấn đề lý luận mới, những vấn đề thiết thực, có tính thời sự cho công việc của các cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ luật.

Tỷ lệ các đề tài về hoặc liên quan đến việc hội nhập quốc tế của Việt Nam trong tổng số các đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ cũng cần phải được nâng cao lên nhiều hơn (cần phải chiếm từ 40% đến 50% trong tổng số các đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ) thì mới đáp ứng được các yêu cầu mà cuộc sống đặt ra, mới phục vụ một cách đắc lực cho việc hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và có hiệu quả cao hơn của Việt Nam.

 Đổi mới nội dung chương trình, hình thức và phương pháp đào tạo đại học ngành luật là vấn đề có tính cấp bách.

Đổi mới việc đào tạo cán bộ pháp luật cần phải được thực hiện theo các phương hướng sau đây:

- Một là, cần thống nhất về quan điểm và hành động theo hướng cải cách mạnh mẽ. Sự thống nhất tư tưởng và quan điểm sẽ tạo nên những điều kiện tốt về mặt tinh thần cho quá trình xây dựng và triển khai các chiến lược đào tạo và chiến lược phát triển của nhà trường. Trong đào tạo cán bộ pháp lý cần có những định hướng chung, rõ ràng và thiết thực.

- Hai là, cần tổ chức lại hệ thống chuyên ngành giảng dạy và các khoa chuyên môn. Lấy đơn vị khoa làm đầu mối triển khai các chuyên ngành đào tạo.

- Ba là, cần phải có sự đổi mới đồng bộ, thiết thực. Quá trình đào tạo luật cần được đổi mới toàn diện, từ khâu xây dựng nội dung, chương trình đến các lĩnh vực khác như phương pháp đào tạo, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật phục vụ đào tạo. Cần sử dụng mạnh mẽ phương pháp chuyên gia và tăng cường dân chủ trong mọi mặt hoạt động để tận dụng chất xám, khuyến khích tinh thần cống hiến cho khoa học pháp lý của các thành viên nhà trường.

- Bốn là, cần có sự đầu tư mạnh mẽ của Nhà nước và xã hội trong công tác đào tạo luật. Cơ sở vật chất tuy đã được từng bước xây dựng, tạo lập, song vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc mua sắm các trang thiết bị dựa trên cơ sở chỉ tiêu phân bổ hàng năm, khó có thể cùng lúc giải quyết được các nhu cầu về cơ sở vật chất hiện đại. Cơ sơ vật chất chưa đáp ứng được đòi hỏi của một trường luật hiện đại. Hiện tại, trường còn thiếu giảng đường, phòng thi, phương tiện giảng dạy…cho đến không gian dành cho các hoạt động chuyên môn, hoạt động xã hội.

 Sau khi nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về đào tạo cán bộ pháp luật, Ban chủ nhiệm đề tài đề xuất một số ý kiến sau:

Thứ nhất, Đào tạo cử nhân, thạc sĩ luật và dạy hành nghề luật không nên tách rời mà cần được xây dựng hợp lý trong một tổng thể. Việc đào tạo bậc cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ tốt nhất nên trao cho các khoa luật thuộc các trường đại học trong hệ thống của Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc Trường Đại học Luật thuộc Bộ Tư pháp.

Thứ hai, bên cạnh việc đào tạo về lý luận pháp luật, các cơ sở đào tạo luật cũng cần đào tạo kỹ năng hành nghề cho các luật gia tương lai, không nên để cho Học viện Tư pháp giữ vị trí độc quyền trong lĩnh vực này. đào tạo ở bậc đại học chủ yếu là truyền tải kiến thức cơ bản nhưng cũng cần được học kỹ năng. Nên từng bước tập dượt cho sinh viên làm quen với case study hay diễn án. Trong thời lượng 4 năm đào tạo, nên giảm bớt số môn và thời gian dạy các môn chính trị, phụ trợ mà tăng thêm thời gian cho việc học các kiến thức thực tiễn và học về kỹ năng. Tòa án tối cao thực hiện việc bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ Thẩm phán, Thư ký Toà án...Không nên giao việc đào tạo nguồn Luật sư cho Học viện Tư pháp - một cơ sở của Nhà nước - bởi vì một khi Luật sư do cơ sở của Nhà nước đào tạo, chứng chỉ hành nghề cũng do cơ quan nhà nước cấp, thì Luật sư bị phụ thuộc vào cơ quan nhà nước, không thể hành nghề một cách độc lập, khách quan được. Cần để cho Hiệp hội Luật sư tự đào tạo nguồn bổ sung cho họ.

Thứ ba, Các viện nghiên cứu không nên tham gia đào tạo cử nhân, thạc sĩ mà chỉ nên đào tạo tiến sĩ. Lý do là: Các viện nghiên cứu không có đủ cơ sở vật chất, kỹ năng, nghiệp vụ và đội ngũ giảng viên, chuyên viên để đào tạo cử nhân và thạc sĩ.

Thứ tư, Cũng nên dành một thời gian thích hợp cho việc dạy môn Hán Văn, Cổ luật, tiếng Latinh và Luật La Mã. Trong các môn luật, nên bắt đầu bằng Luật Dân sự ngay từ năm thứ nhất hoặc năm thứ hai, giảm bớt và tránh dạy các môn luật công ngay từ ban đầu.

Thứ năm, Không nên chỉ tuyển nguồn Thẩm phán từ đội ngũ Thư ký tòa án, mà nên tuyển dụng rộng hơn từ đội ngũ luật gia nói chung, nhất là từ các Luật sư đang hành nghề. 

Thứ sáu, cần phải bổ sung, thay đổi một số điểm trong chương trình, nội dung đào tạo. Cần loại bỏ một số môn học không thực sự liên quan đến chương trình đào tạo cử nhân Luật, thí dụ như các môn: Toán học, Khoa học Trái đất, Lịch sử Phát triển công nghệ...

2.1.2. Đổi mới chương trình đào tạo Thạc sĩ

Do thời lượng giảng dạy các môn cơ sở quá dài, hầu hết các vấn đề đã được học ở chương trình đại học, nên dẫn đến tình trạng chán nản, lãng phí về kinh tế và mất nhiều thời gian của cả giảng viên và học viên. Nhiều môn chuyên ngành đã dành nhiều thời gian để đề cập đến lý thuyết và chỉ dành một lượng thời gian rất hạn hẹp cho việc phân tích các tình huống cụ thể. Chương trình đào tạo cử nhân đã trang bị cho sinh viên các kiến thức cơ bản nhất, vậy nên chăng chúng ta lại lặp lại những điều đã nói ở cấp học cao hơn? Trong khi các thạc sĩ tương lai cần nhiều thời gian hơn thế để phát triển khả năng lý luận, nâng cao kiến thức đã được học ở bậc đại học, nâng cao kỹ năng xử lý công việc cũng như năng lực giải quyết các tình huống cụ thể.

Cần phải có những thay đổi nhất định để đáp ứng yêu cầu đào tạo thạc sĩ thực sự trở thành những người có trình độ khoa học pháp lý và có khả năng lý luận cao. Đặc biệt, trong quá trình hội nhập hiện nay, khi mà việc giao lưu không đơn thuần chỉ trên phương diện kinh tế, mà còn đòi hỏi năng lực pháp lý, sự hiểu biết pháp luật của đối tác, pháp luật của các quốc gia thành viên...

  Chương trình đào tạo thạc sĩ luật học nhằm cung cấp cho các học viên khả năng lý luận, phải nhằm đạt được mục tiêu chung là giúp học viên cao học có kiến thức chuyên môn vững vàng, có năng lực thực hành và khả năng thích ứng cao trước sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và kinh tế, có khả năng phát hiện và giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành của mình.

 Đối với các thạc sĩ có xu hướng tham gia trực tiếp vào các hoạt động hội nhập quốc tế, trong thời gian 6 tháng, cần được học thêm một số môn luật liên quan trực tiếp đến hội nhập quốc tế như sau: 1) Quan hệ quốc tế và Luật về giải quyết xung đột trong quan hệ quốc tế, 2) Lịch sử Tư tưởng pháp luật nước ngoài, 3) Lịch sử các hệ thống pháp luật nước ngoài, 4) Luật Nhân quyền quốc tế, 5) Luật của các nước ASEAN, 6) Luật Đầu tư chung của các nước ASEAN, 7) Các vấn đề trong hội nhập ASEAN, Luật Cộng đồng Châu Âu, 8) Luật Hình sự Quốc tế, 9) Luật Thương mại điện tử, 10) Luật về nhượng quyền thương mại, 11) Luật Đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam, và 12) Luật Bảo hiểm Quốc tế.

Sau khi học xong các môn này, người học sẽ được cấp một chứng chỉ thạc sĩ có trình độ cao phục vụ hội nhập quốc tế và sẽ được ưu tiên tuyển dụng vào các cơ quan có hoạt động thực tiếp hội nhập quốc tế (như ngoại giao, ngoại thương, hải quan, xuất nhập khẩu, các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...).

Về kiến thức, chương trình phải bảo đảm bổ sung và nâng cao những kiến thức pháp lý đã học ở đại học cho học viên, cung cấp những kiến thức lý luận và thực tiễn chuyên sâu về chuyên ngành luật mà học viên đã lựa chọn.

Để thực hiện được việc đổi mới đào tạo cán bộ pháp luật ở các cơ sở đào tạo cao học theo phương hướng trên, cần tiến hành các công việc cụ thể như sau:

- Bỏ môn Triết học khỏi chương trình đào tạo thạc sĩ hoặc nếu có dạy thì chỉ dạy về Triết học pháp quyền.

- Bỏ việc dạy môn ngoại ngữ chung chung trong chương trình đào tạo thạc sĩ. Các học viên cần tự học ngoại ngữ chuyên ngành ở các cơ sở phù hợp. Cơ sở đào tạo chỉ tổ chức thi ngoại ngữ chuyên ngành “đầu ra” cho các học viên. Cần tăng thêm thời lượng cho các môn học cung cấp kiến thức pháp lý trực tiếp phục vụ công tác hội nhập.

- Bỏ môn Tin học khỏi chương trình đào tạo thạc sĩ vì học viên có thể theo học môn này ở các Trung tâm đào tạo tin học. Nếu cần thiết, các cơ sở đào tạo sau đại học chỉ cần kiểm tra “đầu ra” cho các học viên.

- Bỏ môn Phương pháp dạy học đại học trong chương trình đào tạo thạc sĩ, vì chỉ những ai làm nghề giảng dạy đại học mới cần đến môn học này.

Việc loại các môn Triết học, Ngoại ngữ, Tin học, Phương pháp dạy học đại học ra khỏi chương trình đào tạo thạc sĩ sẽ rút ngắn thời gian đào tạo được một năm và tăng tính chuyên nghiệp của các thạc sĩ Luật.

- Dạy học theo phương pháp mới, coi học viên là trung tâm. Cung cấp đề cương bài giảng và danh mục tài liệu tham khảo sớm cho học viên nghiên cứu trước. Tăng cường sự trao đổi, thảo luận giữa giảng viên và học viên.

- Nhất thiết không lặp lại những kiến thức cơ bản, các chuyên đề cần được thiết kế theo các lĩnh vực và cập nhật kịp thời thông tin và gắn với thực tiễn. Tập trung xây dựng các chuyên đề trong một số lĩnh vực cấp thiết hiện nay như pháp luật cạnh tranh, bán phá giá...

- Liên kết với các chuyên gia, cán bộ làm công tác thực tiễn để tham gia đào tạo một số kỹ năng cơ bản cho học viên trong các lĩnh vực như: Đàm phán hợp đồng; giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp thương mại; hoà giải các tranh chấp; soạn thảo các văn bản, hợp đồng, thoả thuận...

- Các cơ sở đào tạo cần có những chương trình bồi dưỡng kiến thức linh hoạt phục vụ cho đối tượng (cả cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ) chỉ có nhu cầu được bồi dưỡng ngắn hạn theo các chuyên đề trong từng lĩnh vực cụ thể phục vụ trực tiếp cho công tác hội nhập.

2.1.3. Đổi mới chương trình đào tạo tiến sĩ

Chương trình đào tạo phải giúp nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý thuyết và thực hành, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, giải quyết những vấn đề khoa học và hướng dẫn hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực pháp luật do nghiên cứu sinh lựa chọn.

Về kiến thức, chương trình đào tạo phải bảo đảm hoàn chỉnh kiến thức pháp lý cơ bản cho nghiên cứu sinh, cung cấp những kiến thức lý luận và thực tiễn chuyên sâu.

Để khắc phục được những khiếm khuyết, bất cập của quá trình đào tạo tiến sĩ đã nêu ở trên, các cơ sở đào tạo nghiên cứu sinh luật ở Việt Nam cần thực hiện những phương hướng và giải pháp cụ thể như sau:

a) Đổi mới việc định hướng, phê duyệt các đề tài luận án tiến sĩ.

- Các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật, đặc biệt là các tiểu ban chuyên môn, sẽ chủ động hơn trong việc định hướng các đề tài luận án tiến sĩ cho các NCS lựa chọn.

- Các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật khuyến khích các NCS chủ động đề xuất các đề tài luận án đáp ứng các yêu cầu của lý luận và thực tiễn hoặc giải quyết các vấn đề cấp bách trong thực tiễn.

- Việc tuyển NCS nên chủ yếu dựa vào trình độ chuyên môn và khả năng nghiên cứu của các ứng viên (thể hiện qua đề cương luận án); Không nên tổ chức thi môn chuyên ngành và ngoại ngữ. Các ứng viên chỉ cần trình chứng chỉ ngoại ngữ của những cơ sở đào tạo có uy tín.

- Việc phê duyệt đề tài luận án cần được các Tiểu ban chuyên ngành, Khoa sau đại học và Hiệu trưởng thực hiện một cách nhanh gọn, kịp thời và dựa trên những căn cứ xác đáng, tránh trùng lặp.

- Các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật khuyến khích, động viên NCS sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu pháp luật Việt Nam với pháp luật của các nước khác hoặc pháp luật quốc tế trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án.

- Các Tiểu ban chuyên môn thường xuyên cập nhật và đổi mới việc định hướng các đề tài luận án cho phù hợp với yêu cầu mới của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, mở rộng và làm sâu sắc việc hội nhập quốc tế của Việt Nam.

- Mở rộng phạm vi các cơ quan tham gia vào việc định hướng danh mục các đề tài luận án tiến sĩ.

- Công bố rộng rãi kết quả nghiên cứu của các luận án trên website của Trường; xuất bản các cuốn sách, bài báo, bài giới thiệu luận án ở trong nước cũng như ở phạm vi quốc tế.

- Giảm bớt những môn học không liên quan đến việc nâng cao trình độ chuyên môn của NCS;

- Các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật và giảng viên áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin với những phương tiện hiện đại trong việc trang bị kiến thức cũng như thông tin về khóa học cho NCS;

b) Đổi mới mối quan hệ giữa người hướng dẫn với NCS

Mối quan hệ giữa người hướng dẫn khoa học và NCS cần được đổi mới theo các giải pháp sau:

- Giữa người hướng dẫn và NCS thường xuyên có sự gặp gỡ trao đổi về học thuật và kỹ năng viết luận án.

Mặc dù hiện nay và trong tương lai, Trường vẫn đào tạo NCS theo hình thức tại chức, nhưng NCS cần tăng thời gian làm việc với người hướng dẫn (mỗi tháng nên gặp nhau ít nhất một lần), tham gia sinh hoạt khoa học tại bộ môn, tham gia các hội thảo, diễn đàn khoa học tại Trường, tham gia giảng bài hoặc hướng dẫn thảo luận cho sinh viên đại học...để tăng cơ hội trao đổi học thuật, trau dồi thêm kiến thức với người hướng dẫn.

- Người hướng dẫn tăng cường quan tâm đến việc hướng dẫn NCS

Trong bất kỳ trường hợp nào, người hướng dẫn cần nắm được tình hình công tác, nghiên cứu khoa học của NCS để thể kịp thời đôn đốc, thúc giục NCS thực hiện nghiêm túc kế hoạch nghiên cứu đã được nhà trường quy định.

Khi NCS trình dự thảo luận án, người hướng dẫn cần khẩn trương đọc và nhận xét đầy đủ, góp ý chu đáo cho NCS chỉnh sửa luận án, không để NCS phải chờ đợi một thời gian dài, bảo đảm thực hiện đúng kế hoạch nghiên cứu mà Trường đã đề ra.

- Người hướng dẫn không áp đặt quan điểm của mình đối với NCS nhưng cũng không để NCS tuỳ tiện thể hiện quan điểm của mình mà không có ý kiến gì.

Người hướng dẫn chỉ có thể vận động NCS đi theo các quan điểm của mình trên cơ sở có lập luận, có dẫn chứng có sức thuyết phục chứ không áp đặt các quan điểm của mình đối với NCS. Nếu người hướng dẫn không quan tâm hướng dẫn nhiệt tình NCS làm luận án, để NCS không viết được luận án có chất lượng, không bảo vệ luận án đúng hạn... thì người hướng dẫn cũng phải chịu một phần trách nhiệm.

- Tăng cường các yếu tố bảo đảm cho NCS thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của họ.

+ Các cán bộ hướng dẫn NCS cần thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học và cập nhật các vấn đề thời sự về lý luận và thực tiễn pháp lý để hướng dẫn khoa học cho NCS có chất lượng hơn;

+ Đưa thêm một số môn học bắt buộc và tự chọn vào chương trình đào tạo tiến sĩ, thí dụ như môn Phương pháp nghiên cứu khoa học; Giáo dục tính tự giác và có cơ chế thích hợp để rèn luyện phương thức tự học tập, tự nghiên cứu của NCS

+ Các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật sẽ tiếp tục tăng cường và hiện đại hoá các cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật phục vụ cho việc đào tạo NCS có chất lượng (như thư viện, giảng đường, cơ sở dữ liệu, máy tính, máy sao chụp tài liệu, in ấn ...)

c) Đổi mới, cải tiến việc đánh giá luận án tiến sĩ.

- Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện đúng quy định của Luật Giáo dục về việc phân cấp cho Hiệu trưởng có quyền ra quyết định công nhận trúng tuyển NCS, ra quyết định thành lập Hội đồng Chấm luận án tiến sĩ cấp nhà nước, ra quyết định công nhận học vị và cấp bằng tiến sĩ cho NCS đã tốt nghiệp.

- Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo bỏ thủ tục phản biện độc lập đối với luận án của NCS bởi vì việc này không tôn trọng Hội đồng đánh giá luận án ở bộ môn và làm kéo dài thời gian đánh giá kết quả nghiên cứu của NCS.

- Thực hiện thường xuyên việc khảo sát, học tập những kinh nghiệm tốt của các trường khác trong nước và ở nước ngoài phù hợp với điều kiện của cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật trong việc hướng dẫn khoa học và đánh giá luận án tiến sĩ của NCS.

Về lâu dài, cũng cần thay thế cơ chế giao chỉ tiêu tuyển sinh từ Bộ Giáo dục và Đào tạo bằng cơ chế đăng ký và bảo vệ chỉ tiêu của từng cơ sở trước Bộ. Căn cứ vào nhu cầu thực tế của xã hội về đào tạo tiến sĩ ở từng cơ sở thông qua số thí sinh đăng ký dự thi (tuyển) năm trước và năng lực đào tạo của mỗi cơ sở đó, các cơ sở tiến hành đăng ký và bảo vệ kế hoạch đào tạo trước cơ quan quản lý là Bộ Giáo dục và Đào tạo để được chấp nhận chỉ tiêu đào tạo. Cách làm này tạo sự chủ động về chuẩn bị năng lực đào tạo của các cơ sở cũng như sự đảm bảo sự công bằng giữa các cơ sở đào tạo, đồng thời phù hợp với chủ trương đổi mới quản lý theo hướng nâng cao tính tự chủ và trách nhiệm xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh của từng cơ sở đào tạo sau đại học và toàn hệ thống giáo dục sau đại học trong cả nước.

d) Đổi mới cơ chế tuyển nghiên cứu sinh

Cần thay đổi cơ chế tuyển sinh đào tạo tiến sĩ theo hướng thay thế chế độ thi tuyển bằng chế độ xét tuyển, trong đó đặt trọng tâm vào việc xem xét, đánh giá đề cương nghiên cứu của thí sinh. Khác với đào tạo ở các trình độ khác (cử nhân, thạc sĩ), đào tạo trình độ tiến sĩ không (hoặc ít) đòi hỏi nghiên cứu sinh phải lên lớp nghe giảng, mà chủ yếu phải tự lực, độc lập trong nghiên cứu; họ phải có khả năng sáng tạo, kiến giải, khả năng hình thành các ý tưởng để có thể tạo ra những tri thức mới trong quá trình nghiên cứu... Những khả năng này thể hiện chủ yếu thông qua đề cương nghiên cứu mà nghiên cứu sinh phải chuẩn bị trước đó và hình thành nên hồ sơ xét tuyển. Thông qua việc xem xét, đánh giá đề cương nghiên cứu, cơ sở đào tạo sẽ đánh giá được năng lực nghiên cứu thông qua khả năng tiếp cận vấn đề và giải quyết đề tài, ý nghĩa khoa học, tính khả thi và triển vọng của đề tài nghiên cứu, khả năng thực hiện cũng như sự chuẩn bị của thí sinh, một yếu tố quan trọng làm nên sự thành công trong nghiên cứu. Phương thức này cũng đã được các nước khác trên thế giới áp dụng, ví dụ Thuỵ Điển. Trong Chương trình hợp tác đào tạo tiến sĩ tới đây giữa Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh và Trường Đại học Tổng hợp Lund - Thuỵ Điển, việc tuyển sinh nghiên cứu sinh cũng sẽ theo phương thức nêu trên.

Hiện tại, theo quy định hiện hành, thí sinh phải trải qua kỳ thi môn Ngoại ngữ và môn chuyên ngành. Việc thi môn chuyên ngành với những yêu cầu về kiến thức cơ bản hoặc nâng cao ở mức độ nhất định không thật sự cần thiết khi thí sinh đang có (hoặc đang làm việc chuyên môn) ở đúng chuyên ngành đó (ví dụ thí sinh đang là giáo viên giảng dạy bộ môn Luật Kinh tế mà thi môn chuyên ngành là Luật Kinh tế trong chuyên ngành Luật Kinh tế), càng không cần thiết và không công bằng nếu thí sinh đang làm việc và có hướng nghiên cứu ở môn luật khác (ví dụ thí sinh có chuyên môn ở bộ môn Luật Đất đai có nguyện vọng làm đề tài về Luật Đất đai nhưng vẫn phải dự thi môn Luật Kinh tế bởi Luật Đất đai thuộc chuyên ngành Luật Kinh tế). Hơn nữa, một môn thi khó có thể đánh giá được đầy đủ năng lực nghiên cứu của thí sinh...Do vậy, nên loại bỏ việc thi môn chuyên ngành đối với thí sinh thi tuyển vào hệ nghiên cứu sinh.

Đối với nghiên cứu sinh, với chức năng chủ yếu là nghiên cứu, ngoại ngữ là điều kiện đặc biệt cần thiết để có thể tham khảo tài liệu tiếng nước ngoài, tham gia hoạt động quốc tế về chuyên môn để phục vụ nghiên cứu đề tài. Điều này càng quan trọng đối với một tiến sĩ trong tương lai để có thể tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế. Do vậy việc đòi hỏi một trình độ ngoại ngữ nhất định đối với thí sinh nghiên cứu sinh là một "điều kiện cần". Tuy nhiên, không nhất thiết phải tổ chức thi môn Ngoại ngữ qua kỳ thi tuyển nghiên cứu sinh, mà xuất phát từ yếu tố kinh tế, có thể chỉ yêu cầu thí sinh chứng minh trình độ ngoại ngữ qua một chứng chỉ quốc tế hoặc một hình thức khác, coi đó là một điều kiện để có thể dự tuyển đào tạo tiến sĩ.

đ) Về chuyên ngành đào tạo và đề tài tiến sĩ

Để đáp ứng yêu cầu về hội nhập quốc tế, những cơ sở đào tạo tiến sĩ luật chưa có chuyên ngành Luật Quốc tế cần sớm được bổ sung đào tạo chuyên ngành này, bởi đây là chuyên ngành có đối tượng và nội dung là các môn Luật liên quan trực tiếp đến hội nhập quốc tế. Ngoài ra, các cơ sở đào tạo luật cần xây dựng danh mục các đề tài tiến sĩ ở từng chuyên ngành căn cứ vào nhu cầu giải quyết những vấn đề cấp thiết đã và đang đặt ra trong lĩnh vực khoa học, có các hình thức giới thiệu và khuyến khích việc lựa chọn các đề tài tiến sĩ liên quan đến hội nhập quốc tế để tăng tỉ lệ các đề tài với nội dung này trên tổng số các đề tài tiến sĩ. Chẳng hạn, hàng năm Tiểu ban các chuyên ngành Luật có thể xây dựng những đề tài dạng này và giới thiệu trên trang Web để định hướng việc lựa chọn của các thí sinh thi tuyển vào hệ nghiên cứu sinh, khi họ xác định hướng nghiên cứu và quyết định dự xét tuyển.

e) Về nội dung chương trình, hình thức và quản lý quá trình đào tạo tiến sĩ.

Đây là các vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo tiến sĩ. Sẽ khó có chất lượng đào tạo tốt nếu chương trình đào tạo không phù hợp và việc quản lý lỏng lẻo, không đạt yêu cầu.

Đối với mỗi đề tài, người hướng dẫn phải giúp nghiên cứu sinh xác định các chuyên đề tiến sĩ phù hợp và thiết thực cho quá trình đào tạo và việc thực hiện luận án. Cơ sở đào tạo phải xây dựng các tiêu chí và nguyên tắc xác định các chuyên đề tiến sĩ để áp dụng thống nhất, khắc phục tình trạng ngay chính bản thân người hướng dẫn cũng chưa định hướng được việc xác định vấn đề này.

Cùng với việc đó, cơ sở đào tạo cũng cần xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ thể đối với chất lượng của một luận án tiến sĩ phù hợp với từng chuyên ngành đào tạo, làm cơ sở cho việc đánh giá luận án ở cấp bộ môn hoặc cấp nhà nước để nâng cao tính khoa học, tránh hình thức trong việc đánh giá, với mục tiêu đạt được chất lượng đào tạo tiến sĩ ở mức cao nhất.

Về chương trình ngoại ngữ chuyên ngành, cần tăng số đơn vị học trình lên 8-10 so với hiện nay là 4 đơn vị học trình nhằm đảm bảo cho NCS đạt được trình độ ngoại ngữ ở mức tương đối cao. Khi thi kết thúc môn học, cần nâng cao đòi hỏi đối với phần thi hội thoại và trình bày miệng một vấn đề khoa học để bảo đảm cho người tiến sĩ luật học tương lai có thể tham gia có hiệu quả vào quá trình hội nhập quốc tế.

Về hình thức đào tạo tiến sĩ, bên cạnh hình thức đào tạo không tập trung, nên khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các NCS nghiên cứu, học tập theo hình thức tập trung như hầu hết các nước khác trên thế giới thường áp dụng.

Nghiên cứu sinh cần thường xuyên tham gia tích cực vào các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học, sinh hoạt học thuật tại cơ sở đào tạo để đảm bảo được tiến độ và chất lượng đào tạo. Nghiên cứu sinh cần báo cáo định kỳ về kết quả nghiên cứu, tiến độ thực hiện đề tài, kế hoạch nghiên cứu trong thời gian tới, định kỳ tham vấn giữa nghiên cứu sinh và giáo viên hướng dẫn...Giáo viên hướng dẫn cũng phải có trách nhiệm định kỳ nhận xét và báo cáo Khoa Sau đại học tình hình nghiên cứu, tiến độ đạt được của nghiên cứu sinh sau từng giai đoạn. Trên cơ sở đó, cơ sở đào tạo sàng lọc từng năm đối với những người không hoàn thành chương trình học tập, kế hoạch nghiên cứu.

g) Tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo tiến sĩ Luật học.

Các cơ sở đào tạo cần tận dụng các cơ hội và nguồn tài chính để gửi nghiên cứu sinh đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài để tiếp cận phương pháp nghiên cứu hiện đại và pháp luật các nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo cần tạo ra và tăng cường việc liên kết đào tạo để một mặt đào tạo ra những cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ công tác hội nhập quốc tế; mặt khác, thông qua sự hợp tác, năng lực và chất lượng chương trình đào tạo của cơ sở cũng được nâng lên, bởi tiếp thu được ưu điểm trong chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo và cách quản lý đào tạo của những nước phát triển, có quá trình đào tạo tiến sĩ lâu dài.

2.1.4. Đổi mới chương trình đào tạo nghề cho cán bộ pháp lý

Các chuyên gia pháp luật có trình độ cao phải là “chuyên gia” pháp luật, tức là đã có khả năng nhất định, và phải có trình độ hơn hẳn, vượt trội so với những người khác cùng chuyên môn. Chuyên gia phải được tiêu chuẩn hoá về trình độ và kinh nghiệm hoạt động. Khả năng giải quyết vấn đề và tính hiệu quả trong hoạt động là thước đo căn bản của các chuyên gia pháp luật.

Việc đào tạo chuyên gia pháp luật có trình độ cao đòi hỏi sự hợp tác đa biên đồng thời có sự lựa chọn đối tác thích hợp. Tri thức pháp lý hiện nay mang tính quốc tế, cả về nội dung và phương thức sử dụng. Vì thế, sự hợp tác để tranh thủ những tinh hoa pháp lý mang tính thời đại là rất cần thiết. Sự hợp tác có thể dưới những hình thức khác nhau song nó rất cần sự đầu tư mạnh mẽ cả về mặt quan điểm, chính sách và tiền bạc.

Cần xây dựng trường đại học luật trọng điểm để triển khai hoạt động đào tạo chuyên gia pháp luật có trình độ cao. Muốn đào tạo các chuyên gia pháp luật có trình độ cao, cần có sự tập trung đầu tư nguồn lực vào một hoặc hai cơ sở. Có như vậy mới vừa đảm bảo tính tập trung, vừa đảm bảo có sự cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy quá trình đổi mới thường xuyên trong đào tạo.

* Hoàn thiện các chương trình đào tạo các chức danh tư pháp đang áp dụng

Các chương trình đào tạo các chức danh tư pháp đang áp dụng là phù hợp với đối tượng và mục đích đào tạo. Tuy vậy, xu thế hội nhập quốc tế đang đặt ra các yêu cầu và nhiệm vụ mới cho hoạt động đào tạo các chức danh tư pháp. Để nâng cao chất lượng đào tạo, trước hết phải có chương trình đào tạo phù hợp với đối tượng đào tạo và mục đích đào tạo. Các chương trình đào tạo các chức danh tư pháp cần được hoàn thiện trên cơ sở khung chương trình chung với bốn nội dung cấu thành sau đây:

Phần 1: Các chuyên đề chung. Phần này cung cấp cho học viên các kiến thức chung về nghề nghiệp; bổ sung và cập nhật các kiến thức pháp luật cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp; giới thiệu một số vấn đề mang tính chất bổ trợ cho hoạt động nghề nghiệp của các chức danh. Phần chuyên đề chung có thể chia thành ba nhóm nội dung lớn như sau:

1) Các chuyên đề về nhận thức nghề nghiệp của các chức danh tư pháp:

Mục đích của nội dung này là:

- Nâng cao nhận thức của học viên về nghề nghiệp tương lai của mình;

- Nâng cao ý thức trách nhiệm đối với nghề nghiệp; trau dồi đạo đức nghề nghiệp;

- Làm rõ vị trí của từng chức danh và mối quan hệ công tác giữa các chức danh Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư trong hoạt động tố tụng.

  Với mục đích như vậy, nội dung về nghề nghiệp của các chức danh tư pháp gồm các chuyên đề về đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp của các chức danh tư pháp; vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư trong hoạt động tố tụng; điều kiện bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh tư pháp.

2) Các chuyên đề pháp luật:

Phần này trang bị các kiến thức pháp luật chuyên sâu liên quan đến hoạt động nghề nghiệp của các chức danh và cập nhật các thông tin pháp luật mới. Tuy học viên là những người có bằng cử nhân luật nhưng chương trình đại học luật chỉ trang bị kiến thức mặt bằng mà chưa trang bị kiến thức chuyên sâu, liên quan đến hoạt động nghề nghiệp của các chức danh tư pháp. Mặt khác, hệ thống pháp luật Việt Nam có nhiều thay đổi trong thời gian gần đây. Nhiều văn bản pháp luật mới được ban hành. Bởi vậy chương trình đào tạo cần cập nhật các thông tin pháp luật mới để bổ sung kiến thức pháp luật cho học viên.

Các kiến thức pháp luật chuyên sâu và các thông tin pháp luật mới được lựa chọn từ năm lĩnh vực pháp luật chủ yếu của Việt Nam là: Pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật kinh tế, pháp luật lao động và pháp luật hành chính. Các chuyên đề được lựa chọn giới thiệu có thể thuộc pháp luật tố tụng (luật hình thức) hoặc pháp luật nội dung (luật vật chất). Các chuyên đề pháp luật chuyên sâu và thông tin pháp luật có thể thay đổi theo từng khoá học cụ thể.

3) Các chuyên đề bổ trợ:

Đây là các nội dung có tác dụng hỗ trợ thêm cho hoạt động nghề nghiệp của các chức danh tư pháp như các chuyên đề về tội phạm học, tâm lý tư pháp, đánh giá kết quả giám định, kỹ năng soạn thảo văn bản, kỹ năng giao tiếp, tranh luận...  Ngoài ra, học viên còn cần được trang bị các kiến thức bổ trợ khác là tin học và ngoại ngữ.

Phần 2: Kỹ năng. Phần này trang bị cho học viên các kỹ năng nghề nghiệp cơ bản theo từng chức danh để học viên có cơ sở ban đầu để hành nghề khi được bổ nhiệm. Trong quá trình hành nghề sau khi được bổ nhiệm, họ sẽ tự tích luỹ các kinh nghiệm qua thực tiễn công tác và thông qua các hoạt động bồi dưỡng chuyên sâu do Trường Cán bộ Toà án thuộc Tòa án nhân dân tối cao, Trường Bồi dưỡng cán bộ ngành Kiểm sát thuộc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Học viện Tư pháp (đối với các chức danh tư pháp thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp) tiến hành.

Các nội dung cụ thể trong Phần kỹ năng được xây dựng trên cơ sở các hoạt động nghề nghiệp mà các chức danh tư pháp phải thực hiện trong thực tế. Các bài học kỹ năng được thiết kế theo quy trình tố tụng và với cấu trúc chung gồm:

- Một bài giới thiệu lý thuyết chung về các kỹ năng có liên quan;

- Một số bài nghiên cứu tình huống để học viên rèn luyện từng kỹ năng cụ thể thông qua các hồ sơ vụ việc thực tế.

- Một bài đối thoại và kiểm tra để học viên và giáo viên trao đổi, rút kinh nghiệm, tìm hướng giải quyết các vấn đề phát sinh từ bài học hoặc từ thực tiễn nghề nghiệp của các chức danh tư pháp. Bài kiểm tra để đánh giá mức độ tiếp thu bài học, tìm ra các lỗ hổng kiến thức của học viên để có biện pháp khắc phục.

Ngoài ra, học viên còn được rèn luyện các kỹ năng nghề nghiệp thông qua các phiên toà giả định (diễn án).

Phần thứ 3: Thực tập. Sau khi được trang bị các kỹ năng nghề nghiệp cơ bản, các học viên sẽ tiến hành thời gian thực tập tại các cơ quan tư pháp địa phương theo từng chức danh. Với tính chất đào tạo nghề thì nội dung thực tập phải được coi là bộ phận cấu thành quan trọng trong các chương trình đào tạo các chức danh tư pháp.

Phần thứ 4: Kỹ năng chuyên sâu và thi tốt nghiệp.

Trên cơ sở những kỹ năng cơ bản đã được giới thiệu ở phần hai, sau khi đi thực tập, các học viên sẽ quay về Học viện để học nâng cao và chuẩn bị cho việc thi tốt nghiệp ra trường. Trong phần này, học viên sẽ được giới thiệu một cách chuyên sâu về kỹ năng giải quyết một số loại việc cụ thể theo các từng chức danh. Tiêu chí để lựa chọn loại án để giới thiệu trong phần này là:

- Các loại việc tương đối phổ biến trong thực tiễn hoạt động của từng chức danh;

- Các loại việc tương đối phức tạp mà thực tiễn giải quyết có nhiều vướng mắc về thủ tục cũng như về áp dụng pháp luật.

Sau thời gian học nâng cao, các học viên sẽ được hệ thống hoá lại các nội dung trong chương trình đào tạo và chuẩn bị thi tốt nghiệp ra trường.

* Một số kiến nghị về đổi mới, hoàn thiện công tác đào tạo cán bộ pháp luật ở Việt Nam.

- Đổi mới nội dung đào tạo

Trong xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá như hiện nay cần tăng cường khối kiến thức pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài, pháp luật so sánh trong mỗi môn học. Ví dụ, môn học Luật Hiến pháp không chỉ giảng dạy Khoa học Luật Hiến pháp Việt Nam, Hiến pháp Việt Nam mà còn phải giảng dạy Khoa học Luật Hiến pháp nước ngoài và Hiến pháp nước ngoài.

Vì khoa học pháp lý Việt Nam cũng như pháp luật Việt Nam chưa phát triển so với khoa học pháp lý và pháp luật nhiều nước trên thế giới, nên nếu các giảng viên luật chỉ dạy luật Việt Nam và Khoa học pháp lý Việt Nam thì không thể đào tạo và cung cấp cho xã hội những chuyên gia pháp lý có đủ trình độ và có tư duy pháp luật hiện đại để phục vụ tốt cho việc hội nhập quốc tế của nước ta.

- Đổi mới chương trình đào tạo.

+ Cần giảm tải giờ lên lớp để tăng giờ tự học, tự nghiên cứu của sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh.

+ Giáo trình và các tài liệu nghiên cứu khác liên quan đến bài giảng phải phổ biến trước cho sinh viên, học viên ít nhất là 1 tuần.

+ Sinh viên, học viên trước khi lên lớp, phải nghiên cứu các tài liệu liên quan đến bài học theo tỷ lệ 1 giờ lên lớp/3 giờ đọc sách nghiên cứu.

+ Mỗi trư­ờng cần có nhiều chương trình đào tạo khác nhau cho các nhu cầu nghề nghiệp khác nhau. Mỗi cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật nên có ít nhất 10 chương trình khác nhau cho các sinh viên và học viên cao học lựa chọn.

+ Tăng cường các môn tự chọn cho sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh từ năm thứ 2 đến khi tốt nghiệp.

+ Các môn học đều phải có phần so sánh đối chiếu với pháp luật nước ngoài.

Chuyển từ phương pháp đào tạo lấy giáo viên là trung tâm sang phương pháp đào tạo lấy người học làm trung tâm.

+ Giáo trình và các tài liệu nghiên cứu khác liên quan đến bài giảng phải phổ biến trước cho sinh viên, học viên ít nhất là 1 tuần.

+ Sinh viên, học viên trước khi lên lớp, phải nghiên cứu các tài liệu liên quan đến bài học theo tỷ lệ 1 giờ lên lớp/3 giờ đọc sách nghiên cứu.

 Đây là phương pháp tiếp thu kiến thức chủ động. Cách thức tiếp thu kiến thức này làm cho người học tích cực hơn, hiểu sâu sắc hơn những vấn đề mình tiếp thu được và tạo cho người học một phương pháp làm việc chủ động và độc lập.

- Đổi mới phương pháp đào tạo:        

+ Đa dạng hoá các phương pháp đào tạo

+ Nên chuyển việc giảng dạy các môn học liên quan đến hội nhập quốc tế từ Tiếng Việt sang Tiếng Anh và thi bằng Tiếng Anh. Cách thức giảng dạy này đang được áp dụng trong chương trình giảng dạy của Tổ chức Pháp ngữ tại các trường đại học (AUF).

+ Cần bổ sung một số môn học mới về các khu vực, các tổ chức quan trọng của nền kinh tế quốc tế, như Luật về tổ chức, hoạt động của ASEAN, EC, của Liên hợp quốc...

2.2. Hoàn thiện tài liệu học tập, nghiên cứu cho người học.

Trong khi giảng dạy, các giảng viên cần cung cấp cho sinh viên, học viên cao học một danh mục các sách báo, tài liệu tham khảo cần thiết cho việc học một chuyên đề, một môn học. Để đạt được điều đó, các giảng viên cần biên soạn giáo trình, giáo án, sách giáo khoa, sách tham khảo, sách chuyên khảo, các bài báo khoa học và các tài liệu khác một cách thật đầy đủ và thường xuyên cập nhật những vấn đề mới nhất. Đây chính là nguồn tư liệu học tập giúp ích tốt nhất cho các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh trong quá trình tự học tập, tự nghiên cứu. Để đạt được điều đó, các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật cần xây dựng thư viện, tạp chí chuyên ngành thật sự hiện đại và đầy đủ. Các sách báo chuyên ngành luật, sách báo về hội nhập quốc tế, về các kinh nghiệm nước ngoài. Ngoài ra, các cơ sở đào tạo còn cần tin học hóa thư viện, trang bị một hệ thống các máy tính nối mạng quốc tế để tạo điều kiện cho người dạy người học truy cập tài liệu, thông tin được dễ dàng, thuận tiện.

- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống giáo trình, tài liệu phục vụ giảng dạy và học tập trong lĩnh vực đào tạo nghề.

Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống giáo trình, tài liệu phục vụ công tác đào tạo các chức danh tư pháp phải có các bước đi cụ thể, mà trước mắt là tiếp tục hoàn thiện các giáo trình, tài liệu sẵn có để có thể phục vụ ngay cho hoạt động đào tạo Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư và lâu dài là viết mới các bộ giáo trình phục vụ việc đào tạo thống nhất các chức danh Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư.

Bên cạnh các bộ giáo trình, cần sớm chỉnh lý, bổ sung các hồ sơ vụ án thực tế phục vụ cho các bài học nghiên cứu tình huống của học viên. Hiện nay, một số hồ sơ có tình tiết quá đơn giản, không phù hợp với các ý đồ sư phạm; nhiều hồ sơ mờ rất khó đọc; một số hồ sơ được xét xử theo các văn bản pháp luật cũ, đã hết hiệu lực thi hành. Bởi vậy, phải có biện pháp thu thập thêm các hồ sơ để biên tập lại.

2.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên.

Để đào tạo ra được những luật gia giỏi có trình độ cao phục vụ tốt cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam, các giảng viên trong các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật cần đổi mới mạnh mẽ phương pháp giảng dạy, lấy người học làm trung tâm. Tất cả đội ngũ cán bộ, giảng viên cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người học có được một môi trường sư phạm tốt nhất.

Cần thay đổi phương pháp độc thoại là phương pháp giảng dạy chủ yếu hiện nay ở các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật bằng những phương pháp giảng dạy mới, có hiệu quả hơn, thí dụ như: phương pháp gợi mở nêu vấn đề, phương pháp đối thoại giữa giảng viên và người học, phương pháp sử dụng các thiết bị Power Point, phương pháp chia thành nhóm nghiên cứu...Giảng viên không nên áp đặt hoặc buộc các học viên phải luôn luôn tuân theo các quan điểm, ý nghĩ hay hành động của người giảng viên, mà cần để cho người học được tự do thể hiện nhận xét, đánh giá, quan điểm về các vấn đề trong hoạt động của nhà trường.

Với những phương pháp mới này, người giảng viên không phải lên lớp nhiều giờ, không tốn nhiều công sức... mà vẫn đảm bảo cho người học nắm vững vấn đề cần nghiên cứu, phát huy được tính chủ động, tự chủ, tự giác trong học tập của sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh.

Phương pháp đào tạo là một trong các yếu tố quyết định đến chất lượng đào tạo. Các cơ sở đạo tạo cán bộ pháp lý, nhất là Học viện Tư pháp, cần tiếp tục duy trì và hoàn thiện các phương pháp giảng dạy tích cực hiện đang được áp dụng. Về việc hoàn thiện phương pháp đào tạo nghề, xin có một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất: Việc sử dụng phương pháp đào tạo phải linh hoạt, phù hợp với tính chất của từng nội dung trong chương trình đào tạo. Đối với các bài giảng lý thuyết (kể cả lý thuyết về kỹ năng) thì phương pháp chủ đạo nên được sử dụng là phương pháp thuyết trình. Phương pháp này có ưu điểm là đồng thời truyền đạt lượng thông tin lớn cho nhiều học viên để đảm bảo tính thống nhất trong nội dung bài giảng, nhằm tạo mặt bằng kiến thức lý thuyết cho các học viên. Tuy nhiên, việc sử dụng phương pháp thuyết trình cũng phải tính tới các đặc thù của hoạt động đào tạo nghề. Các nội dung của bài học phải được minh hoạ bằng các tình huống thực tiễn sinh động. Giáo viên lên lớp cần trao đổi với học viên để cải thiện không khí lớp học, tránh tình trạng học viên hoàn toàn thụ động khi lên lớp.

Thứ hai: Cải thiện phương pháp giải quyết tình huống bằng cách xây dựng quy trình tiến hành các giờ học tình huống và tập huấn cho đội ngũ giáo viên để họ có thể làm chủ phương pháp đào tạo này. Tăng cường phương pháp thảo luận theo nhóm để rèn luyện phương pháp làm việc tập thể đồng thời phát huy tính tự chịu trách nhiệm của cá nhân.

Thứ ba: Kết hợp quá trình đào tạo trên lớp với quá trình tự đào tạo ở nhà bằng cách giao các nhiệm vụ cụ thể mà học viên phải giải quyết ngoài giờ lên lớp với cơ chế kiểm tra, giám sát và đánh giá hữu hiệu. Các nhiệm vụ mà học viên phải thực hiện ngoài giờ lên lớp có thể là: Viết tiểu luận theo đề tài có sẵn hoặc theo đề tài học viên tự lựa chọn; viết thu hoạch nghiên cứu hồ sơ tình huống; soạn thảo các văn bản tố tụng; soạn thảo thư tư vấn hay hợp đồng cho khách hàng...

Thứ tư: Tăng cường hiệu quả của các giờ học diễn án. Chương trình đào tạo thống nhất các chức danh tư pháp cần gia tăng các giờ học diễn án đóng vai. Lịch diễn án, hồ sơ diễn án và các vai diễn cụ thể của học viên phải được công bố từ đầu khoá học theo nguyên tắc mọi học viên đều phải tham gia diễn án dưới các vai khác nhau, phù hợp với nghề nghiệp mà học viên theo học. Các buổi diễn án của học viên cần được quay băng VIDEO để chiếu lại cho học viên xem và rút kinh nghiệm. Các học viên không trực tiếp tham gia diễn án cần viết bản thu hoạch diễn án trong đó có nhận xét về từng vai diễn và đề xuất ý kiến cá nhân về đuờng lối giải quyết vụ việc theo các diễn biến tại phiên toà giả định.

2.4. Đổi mới phương pháp học tập của sinh viên, học viên cao học.

Cần mạnh dạn đổi mới phương pháp học tập của sinh viên và học viên cao học. Những người học này cần chuyển từ phương pháp học tập, nghiên cứu thụ động (Thầy nói, trò ghi, thầy đọc sách thay cho người học) sang phương pháp các giảng viên chỉ gợi mở vấn đề, còn để cho sinh viên, học viên tự tìm và đọc các tài liệu mà giảng viên đã cung cấp. Sau đó, việc thầy và trò gặp nhau ở lớp được dùng chủ yếu cho việc trao đổi, giải đáp thắc mắc, tranh luận khoa học...

Trong nhiều môn học, các sinh viên, học viên cao học cần đọc sách, nghiên cứu tài liệu, giáo trình... về các chuyên đề sắp học từ trước, chuẩn bị trả lời các câu hỏi hoặc thay mặt cả nhóm trả lời các câu hỏi trước.

Giữa giảng viên và sinh viên hoặc học viên cao học cần có một sự trao đổi thường xuyên, liên tục, thẳng thắn về mọi vấn đề trong chương trình đào tạo. Sức sống của các buổi học phụ thuộc vào người học. Học đại học đồng nghĩa với việc người học tự học, tự nghiên cứu. Sinh viên, học viên là những người dễ dàng nắm bắt những cái mới, vì thế cần phải phát huy tinh thần tự học, tự nghiên cứu, tự làm giàu kiến thức của mình, cả về kiến thức chuyên ngành lẫn các kiến thức tự nhiên, xã hội... 

Để có được kỹ năng giải quyết các vụ việc cụ thể, sinh viên, học viên cần được đi thực tế, tiếp cận nhiều hơn với các vụ việc cụ thể, giải quyết các tình huống có yếu tố nước ngoài.

Cần tăng cường các giờ thảo luận, diễn tập trên trường lớp. Chuyển dần các môn học luật tố tụng từ người thầy độc giảng lý thuyết sang thực tế diễn tập dưới hình thức mở các phiên tòa tập sự, tăng cường việc cho sinh viên tham dự các phiên tòa xét xử các vụ án cụ thể tại Tòa án.

Cần mạnh dạn thay thế việc điểm danh sinh viên, học viên cao học trong giảng đường (rất lạc hậu và mất thời gian) và xét lên lớp hàng năm bằng việc coi trọng việc tự học của sinh viên, học viên cao học; áp dụng việc đào tạo theo tín chỉ là phương thức đào tạo rất phổ biến hiện nay trên thế giới và ở một số trường đại học của Việt Nam.

2.5. Nâng cao trình độ chuyên môn và có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với giảng viên

Trong quá trình đào tạo cán bộ pháp luật, người giảng viên như những “chiếc máy cái”. Những “chiếc máy cái” có tốt thì mới chế tạo ra được những “chiếc máy con” tốt. Để đào tạo được những cán bộ pháp lý có trình độ cao phục vụ việc hội nhập quốc tế của Việt Nam, các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật cần thực hiện những công việc như sau để nâng cao trình độ của các giảng viên:

- Khuyến khích, tạo điều kiện cho các giảng viên đi học tập, nâng cao trình độ chuyên môn (như tham gia các khoá bồi dưỡng, học cao học, làm nghiên cứu sinh);

- Khuyến khích và tạo điều kiện cho các giảng viên đi học tập, nâng cao trình độ ngoại ngữ, nhất là học tốt Tiếng Anh-là thứ ngoại ngữ phổ biến nhất hiện nay trên thế giới;

- Đào tạo và hướng dẫn cho các giảng viên được học tập các môn như Phương pháp giảng dạy đại học; Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học; Phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên và học viên cao học;

Những cải cách, đổi mới chương trình đào tạo chỉ có thể thực hiện được khi có sự đổi mới tư duy của người đào tạo: Từ chỗ coi người thầy là trung tâm chuyển sang coi người học là trung tâm. Nhà trường cũng như các giảng viên cần phải làm tất cả mọi việc cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh học tập, nghiên cứu đạt được các kết quả tốt nhất.

2.6. Tăng cường hợp tác, liên kết giữa các cơ sở đào tạo trong nước và quốc tế trong đào tạo cán bộ pháp luật.

Các giải pháp hợp tác, liên kết có thể là:

- Thành lập Hiệp hội các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật ở Việt Nam cũng như trên phạm vi khu vực và thế giới để cùng nhau xây dựng những chương trình khung cho đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ luật; biên soạn sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu dùng chung cho các cơ sở đào tạo; có tiếng nói chung với các cơ quan nhà nước quản lý đào tạo đại học và sau đại học....

- Tiến hành trao đổi giảng viên và sinh viên, học viên và NCS giữa các cơ sở thuộc hiệp hội; công nhận các văn bằng, chứng chỉ, kết quả học tập, nghiên cứu của các sinh viên, học viên, NCS của nhau.

- Xây dựng các trang web chung để thông tin cập nhật chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, thông tin về các kết quả nghiên cứu khoa học, hệ thống luận văn, luận án đang nghiên cứu và đã bảo vệ của mỗi cơ sở đào tạo.

- Thường xuyên tiến hành các cuộc hội thảo khoa học về các vấn đề mà các thành viên hiệp hội cùng quan tâm (thí dụ như chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, công nghệ hướng dẫn sinh viên, học viên và NCS, kỹ năng sử dụng thư viện, phương pháp nghiên cứu khoa học...).

- Thực hiện việc tương trợ, giúp đỡ về mặt vật chất, phương tiện (thí dụ như máy móc, sách báo, tài liệu, học bổng...) của những nước phát triển, những cơ sở đào tạo luật có khả năng, có điều kiện đối với các nước đang phát triển, các cơ sở đào tạo luật chưa có điều kiện.

2.7. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và sử dụng có hiệu quả kết quả nghiên cứu khoa học

Trong các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật, việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai công việc có vai trò quan trọng như nhau và gắn bó chặt chẽ với nhau. Muốn giảng dạy, học tập tốt thì cần phải nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của đời sống pháp lý, nhất là những vấn đề của sự nghiệp hội nhập quốc tế toàn diện của nước ta. Những kết quả nghiên cứu đạt được sẽ góp phần thiết thực phục vụ cho hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp của nước ta.

2.8. Đổi mới phương thức tuyển chọn đối tượng đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao

Cần xác định đúng đối tượng cần đào tạo để không làm lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc của bản thân người đi học cũng như của Nhà nước và của xã hội. Các Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ luật cần phải có nhiều kinh nghiệm sống và kinh nghiệm chuyên môn. Do đó, bên cạnh việc khuyến khích, tạo điều kiện cho các học sinh đã học xong chương trình phổ thông tiếp tục theo học chương trình đại học, tiếp theo đó là những chương trình cao hơn; cần có chính sách lựa chọn những người có khả năng hiện đang công tác tại các cơ quan, tổ chức có liên quan đến hội nhập quốc tế của Việt Nam đi học những chương trình nâng cao kiến thức pháp luật về hội nhập quốc tế. Việc lựa chọn người học như vậy sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí của người học, của Nhà nước cũng như của xã hội, bảo đảm sẽ đào tạo được một đội ngũ những luật gia có chất lượng, phục vụ tốt cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam.

2.9. Đổi mới việc sử dụng luật gia của các cơ quan làm công tác hội nhập quốc tế.

Việc sử dụng các luật gia đã tốt nghiệp đại học, cao học hoặc nghiên cứu sinh phải thật sự khoa học và hợp lý. Các cán bộ này đã thể hiện sự cố gắng cao độ của bản thân; Nhà nước và xã hội cũng đã chi phí những khoản tài chính rất lớn cho việc học tập, nghiên cứu của các cán bộ này, do đó không được sử dụng một cách lãng phí những luật gia đã được đào tạo này. Các luật gia này cần được phân công làm những công việc phù hợp với trình độ và khả năng của họ, giao cho họ thực hiện những công việc quan trọng liên quan đến việc hội nhập quốc tế của Việt Nam. Tuyệt đối không phân công họ làm những công việc trái ngành trái nghề hoặc để họ tự xoay sở kiếm sống, làm mai một những kiến thức và trình độ đã được đào tạo bài bản của họ.

2.10. Đổi mới việc đào tạo, rèn luyện kỹ năng hành nghề của cán bộ pháp luật

Ngay trong quá trình đào tạo các luật gia có trình độ đại học, các cơ sở đào tạo đã cần phải giảm bớt thời lượng dành cho các môn phụ trợ để rèn luyện cho sinh viên có kỹ năng hành nghề (chiếm 10% số giờ giảng). Cần rèn luyện kỹ năng hành nghề cho sinh viên, học viên cao học ở nhiều lĩnh vực và với những nghề nghiệp khác nhau, thí dụ như: Thẩm pháp, Thư ký Toà án, Luật sư, Kiểm sát viên, Giám định viên, Trọng tài viên, Công chứng viên… chứ không nên chỉ tiến hành việc rèn luyện kỹ năng hành nghề đối với một số chức danh như: Thẩm phán, Luật sư, Kiểm sát viên như Học viện Tư pháp đang tiến hành hiện nay.

Sau khi các học viên đã được trang bị đầy đủ về lý luận, cần tiến hành trang bị cho họ kỹ năng thực hành, bí quyết hành nghề…để những người học có thể vận dụng được những kiến thức đã học vào cuộc sống sôi động hàng ngày và không bị bỡ ngỡ. Việc trang bị các kỹ năng hành nghề có thể được thực hiện ở các trường dạy nghề (như Học viện Tư pháp).

2.11. Tăng cường bồi dưỡng sau đại học cho các cán bộ pháp luật.

Việc trang bị những kiến thức lý luận, thực tiễn cũng như dạy nghề cho người học chưa phải là đã kết thúc quá trình đào tạo các cán bộ pháp lý phục vụ cho hội nhập quốc tế của Việt Nam. Việc này còn cần được tiếp tục bằng việc mở ra các lớp bồi dưỡng sau đại học. Người học các lớp này có thể có trình độ và năng lực không đồng đều. Họ có thể là các Cử nhân, các Thạc sĩ và cũng có thể là các Tiến sĩ luật học. Nhưng vì yêu cầu công tác, họ có thể cùng ngồi lại với nhau để được cung cấp những kiến thức lý luận về pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật cập nhật, mới mẻ về một hoặc một số vấn đề của sự nghiệp hội nhập quốc tế của Việt Nam.                    

Nội dung toàn văn
File đính kèm downloadTải về