• Thuộc tính
Tên đề tài Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong điều kiện cải cách tư pháp
Nội dung tóm tắt

Hoạt động bình thường của các cơ quan tư pháp là điều kiện cần thiết để bảo đảm duy trì công lý nói chung cũng như để bảo đảm sự hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam các cơ quan tư pháp ngày  càng có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, quyền tự do dân chủ của nhân dân, đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác; góp phần bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do tính chất quan trọng như vậy, trong những trường hợp cần thiết hoạt động bình thường của các cơ quan tư pháp phải được bảo vệ bằng pháp luật hình sự.

Đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng, các tội phạm nói chung luôn là quyết tâm lớn của Đảng và Nhà nước ta. Việc quy định các tội xâm phạm hoạt động tư pháp thành một chương riêng trong Bộ luật Hình sự ngoài việc do tính chất của tội phạm là xâm phạm đến tính đúng đắn trong hoạt động của các cơ quan tư pháp; mặt khác, còn thể hiện thái độ cương quyết đấu tranh đối với loại tội phạm này của nhà nước ta. Ngày 22/12/1999, Quốc hội khoá X kỳ họp thứ 6 đã ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999. So với Bộ luật Hình sự năm 1985, Bộ luật Hình sự năm 1999 bổ sung thêm 4 điều luật quy định về nhóm tội này là tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội (Điều 294), tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296), tội không thi hành án (Điều 305) và tội đánh tháo người bị giam, giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử (Điều 312). Tiếp đến, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự được thông qua vào tháng 6 năm 2009 mới tập trung vào một số nội dung nhất định nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu về đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời gian trước mắt. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp chưa được đưa ra trong Luật sửa đổi, bổ sung này. Vì vậy, những vướng mắc trong việc áp dụng các quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp của Bộ luật Hình sự năm 1985 trước đây chưa được giải quyết. Chính vì thế, việc nghiên cứu đề tài khoa học "Đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong điều kiện cải cách tư pháp" là cấp thiết, cần được nghiên cứu nhằm phúc đáp các yêu cầu khách quan về lý luận và thực tiễn đặt ra trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đưa ra được các giải pháp góp phần đấu tranh có hiệu quả đối với các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong điều kiện cải cách tư pháp.

Để đạt được mục tiêu này, đề tài nghiên cứu các nội dung cụ thể sau đây:

-Một số vấn đề lý luận tội phạm học về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong điều kiện cải cách tư pháp.

  • Tình hình, nguyên nhân, điều kiện, diễn biến, cơ cấu của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong thời gian từ 2005 đến 2010 và xu hướng các tội phạm này trong các năm tiếp theo.
  • Vị trí, vai trò của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án trong việc phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong điều kiện cải cách tư pháp.
  • Bước đầu nghiên cứu mối liên hệ giữa các tội xâm phạm hoạt động tư pháp với hệ thống các cơ quan tư pháp, hệ thống pháp luật và với xã hội nói chung và sự tác động, ảnh hưởng của chúng trong quá trình đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.
  • Thực trạng các quy định pháp luật về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.        
  • Các giải pháp góp phần đấu tranh phòng chống có hiệu quả đối với các tội phạm này trong điều kiện cải cách tư pháp (về pháp luật, về tổ chức thực hiện, về  mối quan hệ phối hợp...).

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI  XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP

1. Khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Trong bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo pháp luật hiện hành, các cơ quan tư pháp bao gồm tòa án, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, các cơ quan và tổ chức hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, cơ quan thi hành án giữ vị trí rất quan trọng, có nhiệm vụ thực thi quyền lực tư pháp, là công cụ đắc lực để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa (viết tắt là XHCN), bảo vệ công lý, giữ gìn trận tự, kỷ cương của toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các cơ quan tư pháp ở nước ta đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, đặc biệt là trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật XHCN, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên hoạt động của các cơ quan tư pháp đã được bảo đảm bằng nhiều biện pháp pháp luật, trong đó có biện pháp pháp luật hình sự.

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao; đồng thời, pháp luật hình sự góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Những hành vi có tính nguy hiểm cao cho xã hội bị coi là tội phạm đều được quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự, trong đó có quy định cả những hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp bị coi là tội phạm. Theo Điều 292 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

2. Các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Từ khái niệm nêu tại điểm 1 trên đây, các tác giả đã làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của bốn yếu tố cấu thành tội phạm thuộc nhóm tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp bao gồm các vấn đề như sau:

2.1. Khách thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân qua việc xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp bằng những hình thức khác nhau. Như vậy, đối tượng mà những hành vi phạm tội thuộc nhóm này nhằm vào là những hoạt động, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ chế độ XHCN, cũng như trật tự pháp luật XHCN nói chung của các cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án và thi hành án.

Trong Bộ luật Hình sự năm 1999, những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được pháp điển hóa thành một chương riêng với khách thể loại được quy định tại Điều 292 Bộ luật Hình sự năm 1999, Đó là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án và những hoạt động có liên quan hoặc hỗ trợ cho việc xét xử của tòa án.

Khách thể loại của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp có những đặc điểm như sau:

- Các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và một số cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp có nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác, giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình… trên cơ sở các quy định của pháp luật và các nguyên tắc của luật pháp về tố tụng, nhưng khi bị các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến, thì chính hoạt động đúng đắn này lại trở thành đối tượng xâm hại của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.

- Hoạt động tư pháp với tính cách là đối tượng bảo vệ của luật hình sự được hiểu là hoạt động xét xử của tòa án và những hoạt động của các cơ quan nhà nước khác và các tổ chức khác được Nhà nước thừa nhận và cho phép thành lập, trực tiếp liên quan hoặc phục vụ cho hoạt động xét xử của Tòa án.

- Trong một số trường hợp cụ thể, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp xâm phạm cùng lúc đến hai khách thể: hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và quyền tự do dân chủ của công dân (ví dụ hành vi bức cung, dùng nhục hình, truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội…)

2.2. Mặt khách quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Cũng như mặt khách quan của tội phạm nói chung, mặt khách quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trước hết được thể hiện qua hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến hoạt động tư pháp.

Hành vi phạm tội của các tội thuộc nhóm tội xâm phạm hoạt động tư pháp là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật trong lĩnh vực hoạt động tư pháp. Đó là các quy định của pháp luật yêu cầu các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án phải tuân thủ các quy định pháp luật nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của các cơ quan này được thực hiện đúng. Các quy định đó có thể thuộc về luật nội dung hoặc luật hình thức, thuộc các lĩnh vực hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, hành chính, đất đai… Các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp có thể biểu hiện dưới dạng hành động như bức cung, dùng nhục hình, ra bản án trái pháp luật…; hoặc dưới dạng không hành động như: không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội, thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn. Các hành vi này cũng có thể được chia làm hai loại:

- Các hành vi biểu hiện dưới dạng lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền để làm trái pháp luật do những người có chức vụ trong hoạt động tư pháp thực hiện. Đó có thể là hành vi vi phạm pháp luật của người thực hiện hoạt động tư pháp, hoặc hành vi vi phạm pháp luật của người thuộc cơ quan hoặc tổ chức bổ trợ tư pháp như cơ quan giám định, công chứng, tổ chức luật sư….

- Các hành vi cản trở hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp do những người không phải là cán bộ, nhân viên tư pháp thực hiện. Đó có thể hành vi vi phạm pháp luật của công dân có nghĩa vụ phải thực hiện các phán quyết của cơ quan xét xử hoặc các quyết định cưỡng chế của các cơ quan tư pháp khác đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ đó; hoặc đó có thể là hành vi của công dân trong những trường hợp nhất định có trách nhiệm phải tạo điều kiện, giúp đỡ các cơ quan tư pháp thực hiện nhiệm vụ của mình nhưng không thực hiện trách nhiệm pháp lý đó.

Ngoài hai dạng hành vi chủ yếu trên, trong hành vi khách quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp còn có dạng hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc bằng các thủ đoạn khác tác động đến hoạt động tư pháp nhằm làm các hoạt động đó được thực hiện sai với quy định của pháp luật.

Đối với các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, hành vi nguy hiểm cho xã hội so với các tội phạm khác có tính nguy hiểm cao hơn, bởi hậu quả của nó gây ra làm giảm sút uy tín của các cơ quan tư pháp; mặt khác, nó tấn công ngay vào những cơ quan được Nhà nước giao chức năng, nhiệm vụ phòng chống tội phạm. So với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp ở Chương X - Bộ luật Hình sự năm 1985, các hành vi nguy hiểm cho xã hội thuộc mặt khách quan của các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định tại Chương XXII - Bộ luật Hình sự năm 1999 đã mở rộng hơn bằng việc quy định 3 tội phạm mới. Đó là:

- Hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội (Điều 294). Mặt khách quan của hành vi này biểu hiện là không quy kết trách nhiệm hình sự cho người có tội (như không ra quyết định khởi tố vụ án, không quy kết trách nhiệm hình sự đối với người có tội trong bản kết luận điều tra, hoặc bản cáo trạng, ra quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra đối với người có tội). Dạng hành vi này được biểu hiện dưới cả 2 dạng hành động và không hành động phạm tội. Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội thực hiện các hành vi trên.

- Hành vi không thi hành án (Điều 305): Đây là hành vi của người có thẩm quyền trong việc không đưa ra thi hành bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Hành vi phạm tội này chỉ cấu thành tội phạm khi thỏa mãn hai điều kiện là có hành vi và gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc có hành vi và trước đó đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.

- Hành vi đánh tháo người bị giam giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử (Điều 312). Đây là những hành vi được biểu hiện như việc tạo điều kiện vật chất để giải thoát người bị giam giữ, đang bị dẫn giải, đang bị xét xử, hoặc dùng vũ lực hay có thủ đoạn khác nhằm đánh tháo, giải thoát bị can, bị cáo, phạm nhân ra khỏi sự quản lý của người canh gác, người dẫn giải. Chỉ kết án người có hành vi đánh tháo người đang bị giam giữ, đang bị dẫn giải, đang bị xét xử theo Điều 312 khi không có yếu tố nhằm chống lại chính quyền nhân dân.

Trong Bộ luật Hình sự của một số nước trên thế giới, xét về phương diện khách quan các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định rất khác nhau, các hành vi này có thể được quy định trong một chương và bao gồm khá đầy đủ các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp như trong Bộ luật Hình sự Trung Quốc, Bộ luật Hình sự Nga, hoặc được quy định rải rác tại những chương khác nhau như Bộ luật Hình sự Đức, Bộ luật Hình sự Nhật Bản, Luật hình sự Hoa kỳ, Bộ luật Hình sự Thụy Điển.

Mặt khác, mặt khách quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp còn được biểu hiện ở hậu quả của hành vi. Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự, và nó được thể hiện dưới các dạng chủ yếu sau: thiệt hại về thể chất, thiệt hại về tinh thần, thiệt hại về vật chất, và các biến đổi khác. Giữa hậu quả và hành vi phạm tội phải có mối quan hệ nhân quả, nghĩa là hậu quả gây ra phải có nguyên nhân trực tiếp từ hành vi phạm tội

Hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà các tội xâm phạm hoạt động tư pháp gây ra hoặc có thể gây ra bao gồm thiệt hại cho hoạt động tư pháp hoặc các thiệt hại khác. Những thiệt hại này không được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm là dấu hiệu định tội. Trong nhiều cấu thành tội phạm cơ bản, dấu hiệu hậu quả được quy định dưới dạng “hậu quả nghiêm trọng”. Còn trong một số cấu thành tội phạm cơ bản khác, dấu hiệu hậu quả không được quy định là dấu hiệu định tội. Căn cứ vào hậu quả nguy hiểm cho xã hội, có thể thấy phần lớn các tội xâm phạm hoạt động tư pháp có cấu thành hình thức.

2.3. Chủ thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Hoạt động tư pháp với tư cách là khách thể bảo vệ của luật hình sự trong rất nhiều các lĩnh vực như điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án... Tính đa dạng của khách thể đã quyết định đến sự đa dạng của các chủ thể. Chủ thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp có thể là chủ thể thường hoặc chủ thể đặc biệt. Bên cạnh một số tội phạm do các chủ thể thường thực hiện, Bộ luật Hình sự đã đưa dấu hiệu đặc biệt vào từng trường hợp cụ thể khi hành vi phạm tội do những người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp thực hiện (điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán), hoặc do những người có nghĩa vụ rất riêng biệt mà pháp luật quy định cho họ (người giám định, người phiên dịch).

Căn cứ vào tính chất đa dạng của chủ thể và những dấu hiệu đặc trưng của mỗi loại chủ thể, có thể phân chia chủ thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp làm ba loại, và đây cũng là dấu hiệu quan trọng để phân các tội xâm phạm hoạt động tư pháp làm bốn nhóm:

Nhóm 1: các tội xâm phạm hoạt động tư pháp do những người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp thực hiện.

Nhóm tội này bao gồm chủ yếu những tội phạm trong đó chủ thể đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Ngoài ra, thuộc nhóm tội này còn có tội mà chủ thể cũng là người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp, nhưng không có sự lợi dụng chức vụ, quyền hạn này khi phạm tội, mà chỉ co sự thiếu trách nhiệm trong hoạt động tư pháp của mình. Nhóm này có 11 tội được quy định tại các điều từ điều 293 đến điều 296; các điều từ 298 đến điều 303 và Điều 305

Nhóm 2: các tội xâm phạm hoạt động tư pháp do những người có nghĩa vụ phải giúp các cơ quan tư pháp trong hoạt động tư pháp thực hiện (các tội phạm được quy định tại các Điều 307, Điều 308 và Điều 310).

Nhóm 3: các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là đối tượng của các bản án hoặc quyết định của cơ quan tư pháp (các tội được quy định tại Điều 304 và Điều 311).

Nhóm 4: các tội xâm phạm hoạt động tư pháp khác mà chủ thể có thể là công dân bình thường, là người có chức vụ, quyền hạn nhất định và đã sử dụng chức vụ, quyền hạn này để cản trở các hoạt động tư pháp (các tội được quy định tại các Điều 279, Điều 306, Điều 309, Điều 312, Điều 313 và Điều 314). Đây là các tội mà chủ thể thực hiện không có liên quan với các hoạt động tư pháp cụ thể mà họ có hành vi xâm phạm..

2.4. Mặt chủ quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Hầu hết các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được thực hiện do lỗi cố ý, trừ tội thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn (Điều 301 BLHS) được thực hiện do lỗi vô ý. Việc quy định lỗi của những người thực hiện hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định trong Chương XXII Bộ luật Hình sự năm 1999 dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:

Thứ nhất, trách nhiệm hình sự do thực hiện các hành vi này chỉ phát sinh đối với những người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm;

Thứ hai, người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc được miễn trách nhiệm hình sự chỉ trong các trường hợp pháp luật đã quy định;

Thứ ba, mỗi tình tiết khách quan nào đó của tội phạm chỉ có thể ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của chủ thể với điều kiện nếu bao quát cả lỗi cố ý hoặc vô ý của chủ thể đó

Nội dung của lỗi không nhữngi phụ thuộc vào các yếu tố khách quan của tội phạm, mà còn phụ thuộc vào cách xây dựng cấu thành tội phạm cụ thể. Nội dung của lỗi trong các cấu thành tội phạm cụ thể được quy định bằng cách chỉ rõ hình thức của lỗi, các dấu hiệu khác của mặt chủ quan của tội phạm (động cơ, mục đích); các dấu hiệu của mặt khách quan của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà chúng phản ánh trong thái độ tâm lý của chủ thể. Hình thức của lỗi được quy định bởi mối tương quan giữa các yếu tố tâm lý tạo nên nội dung của lỗi với các dấu hiệu khách quan của tội phạm. Hình thức của lỗi và việc quy định nó trong pháp luật đã chỉ ra các giới hạn của chủ thể khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Các phương án khác nhau của thái độ tâm lý của chủ thể đối với hành vi chỉ có thể được coi là có lỗi nếu chúng nằm trong phạm vi mà pháp luật đã quy định.

Dấu hiệu quan trọng thứ hai là thấy trước hậu quả của hành vi phạm tội. Điều đó bao gồm cả tính chất chung của hậu quả, cũng như tính chất chung của mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của hành vi. Đó chính sự thấy được tình tiết thực tế đặc trưng cho cấu thành tội phạm cụ thể. Trong phần lớn các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, người có hành vi nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi và trực tiếp hậu quả của hành vi. 

Ngoài ra, động cơ và mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc để định tội trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, nhưng dấu hiệu động cơ và mục đích cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.

II. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM, NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP VÀ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG Ở VIỆT NAM

1. Tình hình tội phạm, nguyên nhân và điều kiện của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

1.1. Tình hình tội phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Các tác giả đã tập trung phân tích các số liệu phản ánh thực trạng, cơ cấu và tính chất, diễn biến của tình hình các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trên phạm vi cả nước thông qua số liệu thống kê tội phạm đã xét xử sơ thẩm trên phạm vi cả nước trong vòng 6 năm, từ năm 2005 đến năm 2010.

1.1.1. Thực trạng của tình hình tội phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Để có một cái nhìn khách quan và tương đối toàn diện về thực trạng của tình hình tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tác giả đã xem xét thực trajng của tình hình tội phạm dưới hai góc độ là tội phạm rõ và tội phạm ẩn. Tình trạng thực tế các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong nghiên cứu này một phần có được do các cơ quan chức năng phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử và đưa vào thống kê hình sự (phần tội phạm rõ); còn một phần do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả về khách quan, cả về chủ quan tuy đã xảy ra trên thực tế nhưng chưa được cơ quan chức năng có thẩm quyền phát hiện và xử lý trên thực tế hoặc đã xử lý nhưng chưa được đưa vào các thống kê hình sự (phần tội phạm ẩn).

Mức độ của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được phản ánh qua tổng của các tội phạm đã xảy ra cùng với tổng của những người phạm những tội đó trong toàn quốc từ 2005 đến 2010.

a) Phần tội phạm rõ

 Về thực trạng của tình hình các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trên phạm vi cả nước từ năm 2005 đến năm 2010 của tòa án nhân dân các cấp được thể hiện qua các số liệu thống kê hình sự đã được sơ đồ hóa và đưa ra các nhận định sau đây:

- Số liệu thống kê cho thấy, tòa án nhân dân các cấp trên phạm vi cả nước đã xét xử tổng số 1.163 vụ án thuộc các tội xâm phạm hoạt động tư pháp với 1.648 bị cáo. Trung bình mỗi năm tòa án nhân dân các cấp xét xử gần 194 vụ với gần 275 bị cáo phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Trong đó cao nhất là vào năm 2008 tòa án nhân dân các cấp đã xét xử 215 vụ với 303 bị cáo phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, thấp nhất là vào năm 2007 với 164 vụ với 235 bị cáo.

- Số vụ phạm tội và số bị cáo thuộc các tội xâm phạm hoạt động tư pháp chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với số vụ phạm tội và số bị cáo phạm tội nói chung trên phạm vi cả nước, trung bình chiếm các tỷ lệ tương ứng là 0,35% và 0,30%. Trong đó, tỷ lệ số vụ phạm tội và số bị cáo thuộc các tội xâm phạm hoạt động tư pháp so với số vụ và số bị cáo phạm tội các tội phạm nói chung cao nhất là vào năm 2005, với các tỷ lệ tương ứng là 0,43% và 0,35%, và thấp nhất là năm 2009 với các tỷ lệ tương ứng là 0,29% và 0,27%. 

Nhóm các tội phạm do những người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp (Nhóm 1) thực hiện chiếm số vụ và số bị cáo so với tổng số vụ và số bị cáo các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là thấp nhất, với 16 vụ chiếm tỷ lệ tương ứng là 1,38% so với 1.163 vụ của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung và 20 bị cáo chiếm 1,21% so với tổng số 1.648 bị cáo các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Nhóm các tội mà chủ thể là đối tượng của các bản án hoặc các quyết định của cơ quan tư pháp thực hiện chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng số các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, với 1.020 vụ, chiếm 87,7% với 1.437 bị cáo chiếm 87,2%.

- Trong số các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999, thực tiễn xét xử trong khoảng thời gian 6 năm từ năm 2005 đến năm 2010, một số tội phạm chưa bị đưa ra xét xử bao giờ. Đó là tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, tội bức cung, tội tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ, tội không thi hành án,, tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định hoặc từ chối cung cấp tài liệu, tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật, tội cản trở việc thi hành án..

Đối với nhóm các tội phạm mà chủ thể là đối tượng của các bản án hoặc các quyết định của cơ quan tư pháp thực hiện thì đây là nhóm tội phạm chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Trong đó có 2 tội phạm được xét xử chủ yếu trong nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là tội không chấp hành án và tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử.

Đối với nhóm tội phạm mà chủ thể là công dân, là người có chức vụ, quyền hạn nhất định và đã sử dụng quyền hạn này để cản trở các hoạt động tư pháp thực hiện bao gồm một số tội phạm điển hình như tội không tố giác tội phạm, tội che dấu tội phạm, tội đánh tháo người bị giam, giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử và một số tội phạm khác. Đây là nhóm tội phạm có số lượng số vụ, và số bị cáo cao thứ hai trong tổng số 4 nhóm tội phạm được nghiên cứu.

Mặt khác, để có cái nhìn rõ hơn về thực trạng các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tác giả đã so sánh số vụ các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp đã bị khởi tố với số vụ phạm tội nói chung; số vụ, số bị cáo các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đã xét xử với số vụ, số bị cáo các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp đã khởi tố. Cụ thể là:

- Tỷ lệ số vụ các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đã bị khởi tố so với số vụ các tội phạm nói chung đã bị khởi tố chiếm tỷ lệ rất thấp, từ năm 2006 đến năm 2010 trung bình chỉ chiếm 0,31 %, trong đó tỷ lệ cao nhất là năm 2006 với mức tỷ lệ là 0,33%.

Số vụ, số bị cáo các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đã bị khởi tố và đã bị đưa ra xét xử nhìn chung chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số vụ và số bị cáo của các tội phạm nói chung. Tỷ lệ số vụ và số bị cáo các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đã bị đưa ra xét xử chiếm tỷ lệ rất cao so với tổng số số vụ và số bị cáo các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đã bị khởi tố, các tỷ lệ trung bình tương ứng là 93,12% và 82,98%. Điều này, càng khẳng định chất lượng khởi tố vụ án các vụ phạm tội nói chung, cũng như các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng ngày càng được đảm bảo.

Chỉ số tội phạm các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp (bao gồm số vụ phạm tội và số người phạm tội) cao nhất vào năm 2008 (tương đối) và thấp nhất vào năm 2007. Chỉ số bình quân trong 6 năm về số vụ là 0,23; về số người phạm tội là 0,33.

Trong đó, mức độ phổ biến (chỉ số của tội phạm) các tội phạm về chức vụ cao hơn so với các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, trung bình chỉ số tội phạm về số vụ và số bị cáo tương ứng là 0,42 và 0,91. Bên cạnh đó, khi so sánh với mức độ phổ biến hay chỉ số tội phạm của các tội phạm nói chung các số liệu cho thấy chỉ số tội phạm về số vụ và số bị cáo của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp thấp hơn rất nhiều so với chỉ số tội phạm về cả số vụ và số bị cáo của các tội phạm nói chung. Trung bình chỉ số tội phạm (chỉ số bình quân) về số vụ của tội phạm nói chung là 64,28 cao gấp gần 280 lần, chỉ số bình quân về số bị cáo của tội phạm nói chung là 108,11 cao gấp gần 327 lần.

b) Phần tội phạm ẩn

Tình phạm tội phạm ẩn trong nhóm tội xâm phạm các hoạt động tư pháp có thể tồn tại dưới ba dạng cơ bản sau: tội phạm ẩn tự nhiên, tội phạm ẩn nhân tạo và tội phạm ẩn thống kê. Chính các dạng tội phạm ẩn này làm cho các tội xâm phạm hoạt động tư pháp không được phát hiện trên thực tế, phần nào đó gây khó khăn cho công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa nhóm tội phạm này, cụ thể:

- Tội phạm ẩn tự nhiên

Tội phạm ẩn tự nhiên là một khái niệm dùng để chỉ tất cả những tội phạm đã xảy ra trên thực tế nhưng các cơ quan chức năng như công an, kiểm sát, tòa án không phát hiện ra được không có thông tin gì về chúng. Tội phạm ẩn tự nhiên là loại tội phạm ẩn có nguyên nhân từ việc che dấu hành vi phạm tội rất tinh vi, bằng các biện pháp nghiệp vụ, hoặc với động cơ khác nhau mà che dấu hay không tố giác tội phạm với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ thể tạo ra những cản trở để khỏi bị phát hiện. Ngoài ra, còn có các tội phạm ẩn tự nhiên do nguồn gốc từ chính phía người bị hại, nạn nhân đã không tố giác tội phạm vì những lý do khác nhau như sợ bị trả thù, muốn được giảm trách nhiệm. Tuy không có thống kê chính thức nhưng đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp tội phạm ẩn tự nhiên xảy ra cũng không ít. Đặc biệt là nhóm tội phạm do các chủ thể có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp thực hiện như thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên và các chức danh tư pháp khác, bởi lẽ đây là những chủ thể có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tương đối cao, có kinh nghiệm, có những kiến thức pháp luật khá cao...nên có thể thực hiện những hành vi phạm tội liên quan rất tinh vi và có thể che đậy được bằng các biện pháp chuyên môn nghiệp vụ rất chuyên nghiệp... Các tội phạm này thường là tội phạm trong các vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng làm chết  người, bị thương nặng, tội phạm tham nhũng tuy xảy ra nhiều nhưng cơ quan có thẩm quyền chỉ phát hiện, khởi tố và xử lý về hình sự một số lượng rất nhỏ.

- Tội phạm ẩn nhân tạo

Khác với tội phạm ẩn tự nhiên, tội phạm ẩn nhân tạo lại có nguồn gốc từ phía chủ thể áp dụng pháp luật[1]. Do những đặc điểm riêng của mình, tội phạm ẩn nhân tạo này có thể xảy ra ở các giai đoạn tố tụng hình sự như khởi tố, điều tra, truy tố, đó là những tội phạm thực tế xảy ra, các cơ quan chức năng đã nắm được, nhưng vì các nguyên nhân khác nhau mà hành vi phạm tội đó không bị xử lý theo pháp luật hoặc cũng có thể là do các cơ quan tiến hành tố tụng đã không khởi tố vụ án hình sự hoặc đình chỉ vụ án hình sự không đúng theo yêu cầu của pháp luật. Việc hành vi phạm tội đã bị phát hiện, nhưng không bị xử lý theo pháp luật là do một hành vi phạm tội khác che đậy. Đối với loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp xảy ra tội phạm ẩn nhân tạo khi các cơ quan điều tra trong quá trình tạm giữ, tạm giam, dẫn giải đã để cho tội phạm bỏ trốn nhưng đã che giấu không báo cáo  hoặc trong trại giam đã để cho phạm nhân bỏ trốn nhưng không báo cáo để tự đi tìm cũng nhằm trốn tránh trách nhiệm. Tội phạm ẩn nhân tạo là có song đối với loại tội này là không nhiều.

- Tội phạm ẩn thống kê

Tội phạm ẩn thống kê là những hành vi phạm tội và người phạm tội bằng chế tài hình sự nhưng vì nhiều lý do khác nhau mà không được đưa vào thống kê, nghĩa là phần này đã bị bỏ lọt ra ngoài. Tội phạm ẩn thống kê không có tính nguy hiểm cao như tội phạm ẩn tự nhiên và tội phạm ẩn nhân tạo, song có gây sự sai lầm, nhầm lẫn trong việc xem xét, đánh giá tình hình tội phạm và dẫn đến những sai lệch trong việc xác định các biện pháp đấu tranh chống và phòng ngừa các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Vì vậy, việc nghiên cứu tội phạm ẩn sẽ góp phần quan trọng vào việc đấu tranh chống và phòng ngừa các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng và tội phạm nói chung trong công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền.

1.1.2. Diễn biến của tình hình tội phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Diễn biến của tình hình các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là sự vận động và thay đổi của thực trạng và cơ cấu của tình hình tội phạm này trong một khoảng thời gian nhất định. Các số liệu thống kê được nêu trong đề tài trong thời gian 6 năm từ năm 2005 đến năm 2010 cho thấy: số vụ phạm tội và số bị cáo phạm tội các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp từ năm 2005 đến năm 2010 có mức độ tăng, giảm không ổn định, theo quy luật cứ năm trước tăng, năm sau lại giảm, năm trước giảm, năm sau tăng. Bên cạnh đó, về tỷ lệ bình quân số bị cáo trên một vụ án qua các năm tăng dần. Như vậy, các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp được thực hiện dưới hình thức đồng phạm có xu hướng tăng hoặc số bị cáo trên một vụ phạm tội tăng.

1.1.3. Cơ cấu, tính chất của tình hình tội phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Việc phân tích cơ cấu để rút ra tính chất của tình hình tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trên phạm vi cả nước trong giai đoạn (2005 - 2010) được các tác giả nghiên cứu, xem xét qua thống kê của Tòa án nhân dân tối cao theo một số tiêu chí sau:

- Cơ cấu của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Khi xem xét cơ cấu của các tội xâm phạm tư pháp trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến năm 2010, đề tài nghiên cứu dưới hai góc độ: số vụ án và số người phạm tội theo các tội cụ thể thuộc các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Theo tiêu chí này trong khoảng thời gian 6 năm (2005 - 2010) trong tổng số 22 cấu thành tội phạm thuộc các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thì tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử chiếm số lớn nhất; tiếp đó là tội không chấp hành án, tội không tố giác tội phạm, tội che giấu tội phạm, tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản.

Trong các tội thuộc các tội xâm phạm hoạt động tư pháp có những tội trong giai đoạn 2005 - 2010 chưa xét xử trên thực tế như: tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật, tội bức cung, tội không thi hành án, tội cản trở việc thi hành án, tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật. Ngoài ra, trong khoảng thời gian này,  có 4 tội chỉ xét xử 1 vụ với 1 bị cáo, cụ thể là: tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội; tội ra bản án trái pháp luật; tội ra quyết định trái pháp luật; tội làm sai lệch hồ sơ.

- Cơ cấu theo số người phạm tội

Các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp được thực hiện bởi 4 nhóm chủ thể có những dấu hiệu giống nhau bao gồm: (i) nhóm các tội phạm do những người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp; (ii) nhóm các tội phạm do những người có nghĩa vụ phải giúp đỡ các cơ quan tư pháp; (iii) nhóm các tội phạm do những chủ thể là đối tượng của các bản án hoặc quyết định của cơ quan tư pháp; (iv) nhóm các tội phạm do chủ thể là công dân và những người có chức vụ quyền hạn nhất định và đã sử dụng quyền đó để cản trở hoạt động tư pháp.

- Cơ cấu theo nhóm tội cố ý và nhóm tội vô ý

Khi nghiên cứu dấu hiệu lỗi các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, nhận thấy các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được thực hiện chủ yếu do lỗi cố ý, trừ tội thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn (Điều 301 Bộ luật Hình sự) được thực hiện do lỗi vô ý.

- Cơ cấu theo loại hình phạt

Các số liệu thống kê về việc áp dụng hình phạt đối với các tội phạm cụ thể thuộc các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong giai đoạn 2005 - 2010 cho thấy có 0,4% bị cáo bị áp dụng hình phạt cảnh cáo; 0,9% bị cáo bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ; 11,2% bị cáo bị tuyên hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo; 0,06% bị cáo bị tuyên hình phạt tù chung thân và phần lớn các bị cáo bị tuyên phạt hình phạt tù có thời hạn với (87,5%).

Trong các hình phạt tù có thời hạn được áp dụng với các bị cáo phạm mốt số tội trong nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, thì mức hình phạt tù có thời hạn được áp dụng với bị cáo cũng có sự khác nhau và phân hóa rõ rệt. Cụ thể, trong đó mức phạt tù dưới 3 năm chiếm tỷ lệ cao nhất (chiếm 76,6%); tiếp đó là mức hình phạt tù từ 3 năm cho đến dưới 7 năm (chiếm 19,4%), mức phạt tù từ 7 năm đến dưới 15 năm (chiếm 2,8%), mức phạt tù được áp dụng ít nhất là mức phạt tù từ 15 năm đến 20 năm (chiếm 1,2%) trong tổng số các bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn.

- Cơ cấu theo số bị cáo được và không được áp dụng án treo. Trong tổng số 1.627 bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn, trong đó có 11,37% bị cáo được hưởng án treo. Các bị cáo được hưởng án treo, tập trung chủ yếu vào tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử và tội không chấp hành án. Các chủ thể có chức vụ quyền hạn trong hoạt động tư pháp được tuyên cho hưởng án treo chiếm một tỷ lệ thấp trong tổng số bị cáo được hưởng án treo.

1.1.4. Đặc điểm nhân thân của người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Khi nghiên cứu về nhân thân của người phạm tội xâm phạm các hoạt động tư pháp các tác giả tập trung làm rõ các vấn đề sau:

- Về giới tính của người phạm tội

Trong số bị cáo các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, người phạm tội xâm phạm các hoạt động tư pháp phần lớn bị cáo là nam giới (chiếm 96,97%), số bị cáo là nữ giới chỉ chiếm 3,03%, trong đó nữ giới phạm tội tập trung chủ yếu các tội không chấp hành án và tội trốn khỏi nơi giam, giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử.

- Về độ tuổi của người phạm tội

Trong số bị cáo phạm tội các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, chỉ có 1,89% người chưa thành niên phạm tội, còn lại số bị cáo phạm nhóm tội phạm này do người đã thành niên thực hiện. Trong số 3 bị cáo là người chưa thành niên chỉ có 1 bị cáo thuộc nhóm tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi (chiếm 0,06% tổng số bị cáo các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, và chiếm 3,23% tổng số bị cáo là người chưa thành niên thực hiện nhóm tội phạm này), còn lại là số bị cáo thuộc nhóm tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi. Bị cáo là người chưa thành niên phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp tập trung chủ yếu vào các tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử, tội không chấp hành án và tội không tố giác tội phạm.

Đối với nhóm bị cáo là người đã thành niên phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp thì nhóm tuổi từ 30 tuổi trở lên phạm các tội thuộc nhóm này có số lượng bị cáo lớn (chiếm 63,36% tổng số bị cáo phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp và chiếm 64,56% tổng số bị cáo là người đã thành niên phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp), còn lại là người từ đủ 18 đến dưới 30 tuổi. Nhóm bị cáo này cũng chủ yếu tập trung vào các tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, tội không chấp hành án, tội không tố giác tội phạm.

- Về tái phạm, tái phạm nguy hiểm

Trong tổng số bị cáo phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, số bị cáo thuộc diện tái phạm, tái phạm nguy hiểm chiếm tỷ lệ không cao, chủ yếu là phạm tội lần đầu. Trong đó, chỉ có 11,58% bị cáo phạm tội thuộc diện tái phạm, tái phạm nguy hiểm, tập trung chủ yếu vào tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải.

- Về đặc điểm dân tộc của người phạm tội

Trong các bị cáo phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, số bị cáo phạm tội chủ yếu là người dân tộc kinh. Chỉ có 6,37% bị cáo là người dân tộc thiểu số. .

- Về đặc điểm của người có chức vụ quyền hạn của người phạm tội

Trong 22 cấu thành tội phạm các tội phạm cụ thể thuộc nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, có 11 cấu thành tội phạm có chủ thể đặc biệt là người có chức vụ quyền hạn, đó có thể là người có thẩm quyền trong việc thực hiện hành vi tố tụng là truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội (Điều  294); chỉ là thẩm phán (Điều 295); là người có thẩm quyền ra quyết định trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án (Điều 296), là người có chức vụ quyền hạn trong hoạt động tư pháp… Trong 11 tội phạm cụ thể đó thì từ năm 2005 đến năm 2010 chỉ có 8 tội phạm có dấu hiệu chủ thể đặc biệt này được xét xử trên thực tế 17 vụ với 25 bị cáo, trong đó có 8 vụ (mỗi vụ chỉ có một bị cáo), 4 vụ của tội thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn với 6 bị cáo (lỗi vô ý và không có đồng phạm), còn 5 vụ còn lại với 11 bị cáo cũng không có đồng phạm.

Bên cạnh đó, trong tổng số bị cáo phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, bị cáo là đảng viên, chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (chiếm 0,36%).

Tóm lại, qua các đặc điểm nhân thân của người phạm tội các tội xâm phạm hoạt động tư pháp cho thấy, để hạn chế dần và tiến tới xóa bỏ loại tội phạm này là một công việc lâu dài, khó khăn và phức tạp, không chỉ là công việc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà là của toàn xã hội. Do đó, các biện pháp đưa ra để đấu tranh chống và phòng ngừa đối với nhóm tội phạm này phải phù hợp và cần tiến hành đồng bộ, thường xuyên, một mặt phải dựa trên công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung; mặt khác, phải dựa vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước và công cuộc cải cách tư pháp đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

1.2. Nguyên nhân, điều kiện của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Với tính chất đặc thù về khách thể bảo vệ của nhóm tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp đó chính là hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, bên cạnh những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm nói chung, thì việc phát sinh các tội phạm xâm phạm tư pháp trong thực tế còn xuất phát từ những nguyên nhân và điều kiện có tính đặc thù. Trong đề tài nghiên cứu, các tác giả đã nêu ra các nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm hoạt động tư pháp từ những nhóm chủ thể sau:

1.2.1. Các nguyên nhân, điều kiện của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp do chủ thể thực hiện là những người tiến hành tố tụng và những người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp

Qua hoạt động khảo sát của đề tài, các tác giả cho thấy có những nguyên nhân và điều kiện đặc thù dẫn đến hành vi phạm tội của nhóm chủ thể này, bao gồm:

+ Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc nhóm này do các chủ thể am hiểu pháp luật, có kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ khá cao cho nên thủ đoạn phạm tội thường rất tinh vi, khả năng che dấu tội phạm cao, việc điều tra, phát hiện thường gặp khó khăn.

+ Ở một số cơ quan tiến hành tố tụng, khi những người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp phạm tội trong khi thi hành công vụ thì còn lãnh đạo cơ quan tìm cách để xử lý nội bộ, chính điều này cũng làm cản chở việc phát hiện và xử lý nhóm tội phạm này trên thực tế.

+ Một số người có chức vụ, quyền hạn phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp còn có nhận thức sai lệch về bản chất, mục đích và phạm vi quyền hạn của mình, nên có thái độ cửa quyền, hách dịch, coi thường tính mạng, tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của bị can, bị cáo hay người đang chấp hành án. Những trường hợp này thường là ra bản án  hoặc ra quyết định trái pháp luật, dùng nhục hình, làm sai lệch hồ sơ vụ án, lạm dụng chức vụ quyền hạn giam giữ người trái pháp luật…

+ Bên cạnh số đông cán bộ tư pháp đã tận tụy, kiên trì, nhiệt tình và dũng cảm trong công việc thì vẫn còn tồn tại những trường hợp, cá nhân cán bộ còn vì tư lợi cá nhân hoặc thân quen mà phạm tội.

Mặt khác, chế độ đãi ngộ cho nhưng người làm công tác này còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ tới ý thức trong công tác của họ đó là sức cám dỗ của đồng tiền.

+ Một số cán bộ tư pháp vẫn có thái độ thờ ơ, bàng quan trước nhiệm vụ của mình, trước các nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định, không gắn bó với công việc, tắc trách và tùy tiện trong các trường hợp tạm giam, tạm giữ, dẫn giải… để bị can, bị cáo trốn ngay từ giai đoạn điều tra; khi điều tra và hoàn thành hồ sơ để truy tố, các cơ quan công an và kiểm sát còn bỏ sót không ra lệnh tạm giam đối với nhiều bị can là những đối tượng phạm tội nghiêm trọng và rất nghiêm trọng.

1.2.2. Các nguyên nhân, điều kiện của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp do chủ thể thực hiện là những người tham gia tố tụng và những người có nghĩa vụ chấp hành các quyết định và bản án

Liên quan đến các tội xâm phạm hoạt động tư pháp do các chủ thể là những người tham gia tố tụng và những người có nghĩa vụ chấp hành các quyết định hoặc các bản án thực hiện, bao gồm hai tội phạm là tội không chấp hành án (Điều 304) và tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử (Điều 311). Nguyên nhân và điều kiện của tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử bao gồm:

+ Các bị can, bị cáo phạm tội này thường là có nhân thân rất xấu, phạm nhiều tội. Đối với những người này mục đích trừng trị và giáo dục của hình phạt khó có thể đạt được hiệu quả, tâm lý những người này khi đã phạm tội đều mong muốn thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật và tiếp tục phạm tội. Thường các đối tượng này luôn không yên tâm cải tạo trong các trại cải tạo và thường bỏ trốn khi có điều kiện, dẫn đến việc cải tạo giáo dục không đạt kết quả. Trong số người phạm tội trốn khỏi nơi giam, giữ không ít các trường hợp chưa bắt lại được. Điều này rất nguy hiểm vì tội phạm đang ẩn náu trong xã hội và sẵn sàng phạm tội mới.

+ Mặt khác, trên thực tễ, điều kiện cần thiết phục vụ cho công tác giam, giữ chưa được chú trọng đúng mức, cơ sở vật chất thiếu thốn, kinh phí để xây dựng sửa chữa còn hạn hẹp nên nhiều nhà tạm giữ, trại tạm giam xuống cấp chưa đáp ứng được yêu cầu giam giữ và cải tạo. Tình trạng quá tải trong việc giam giữ nên không đáp ứng được cho việc giam, giữ, cải tạo. Đây cũng là điều kiện cho can phạm dễ bỏ trốn vì khả năng kiểm soát của công tác này sẽ bị hạn chế.

Bên cạnh đó, do cán bộ, chiến sỹ thực hiện nhiệm vụ tại trại tạm giữ, trại tạm giam và trại giam chưa thực hiện các quy định về chế độ thăm nuôi, tiếp tế nên vô tình đã tạo điều kiện cho các đối tượng bên ngoài móc nối với người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang bị thi hành án bỏ trốn bằng các hình thức: có được công cụ do bên ngoài gửi vào, hoặc kết hợp với lực lượng bên ngoài bỏ trốn.

1.2.3. Các nguyên nhân, điều kiện của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp do chủ thể thực hiện không phải là người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng và người có chức vụ quyền hạn trong hoạt động tư pháp

Những người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những người bình thường, Các tội phạm do họ thực hiện gồm các tội che dấu tội phạm, không tố giác tội phạm, cưỡng ép người khác cung cấp tài liệu sai sự thật, vi phạm niêm phong, kê biên tài sản. Những tội này thường có đặc điểm tiêu cực về nhân thân, xuất phát từ quan điểm chống đối xã hội ở bên trong ý thức của những con người đó như: gian dối, không chân thành trong quan hệ con người với con người, có động cơ tư lợi, thù hằn, coi thường, bàng quan trước lợi ích của xã hội và của Nhà nước. Tất cả những đặc điểm tiêu cực này, trong quá trình hình thành nhân cách con người khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ đẩy họ vào con đường phạm tội chống lại hoạt động tư pháp.

2. Công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

2.1. Những kết quả đạt được

Như đã làm rõ ở phần tình hình tội phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp diễn biến qua các năm từ năm 2005 đến năm 2010 tuy có quy luật tăng giảm không ổn định, nhưng có chiều hướng giảm về số vụ. Điều này đã khẳng định công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp đã có những kết quả tích cực, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động của các cơ quan tư pháp.  Kết quả đó đã thể hiện sự nỗ lực, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng; đồng thời, nó cũng chứng minh, khẳng định những quyết tâm và hiệu quả trong công tác xử lý của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc điều tra, truy tố, xét xử và cả thi hành án đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Đối với mỗi cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án với những chức năng, nhiệm vụ quyền hạn theo quy định trong pháp luật về tố tụng hình sự đã phát huy cao vai trò và trách nhiệm của mình trong công tác đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.

2.2. Những tồn tại, hạn chế

Thực tế đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp thời gian qua còn bộc lộ nhiều tồn tại bất cập, thể hiện ở những điểm sau:

+ Trong tình hình tội phạm các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tuy không có con số thống kê cụ thể nhưng phần tội phạm ẩn của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp vẫn còn tồn tại dưới cả ba dạng ẩn tự nhiên, ẩn nhân tạo và ẩn thống kê. Điều đó phần nào cũng đã khẳng định trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng còn tồn tại những hạn chế nhất định trong việc điều tra, truy tố và xét xử, đặc biệt là việc phát hiện tội phạm, chưa thực sự phát huy hết vai trò và trách nhiệm của mình, thậm chí theo đánh giá của nhiều chuyên gia trong hoạt động phát hiện, xử lý các tội xâm phạm hoạt động tư pháp còn tồn tại cách xử lý mang tính chất “nội bộ”, cả nể, cho qua.

+ Việc nắm bắt và xử lý thông tin về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp chưa thực hiện tốt.

Công tác phối hợp cung cấp, trao đổi thông tin giữa Cơ quan điều tra với Viện kiểm sát các cấp, giữa cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao với Viện kiểm sát địa phương về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp còn chưa được thực hiện thường xuyên và chặt chẽ.

Viện kiểm sát nhân dân các cấp chưa chủ động nắm bắt thông tin tội phạm thông qua công tác kiểm sát, mà còn phụ thuộc vào việc cung cấp tin của cơ quan điều tra ngành công an hoặc có tổ chức việc tiếp nhận thông tin tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp đã được đánh giá, phân loại lại không chuyển cho cơ quan điều tra có thẩm quyền hoặc cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao để giải quyết theo thẩm quyền. Đặc biệt là ở một số địa phương, nếu chủ thể của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp là điều tra viên, cán bộ công an... thì dễ xảy ra tình trạng không báo cáo mà để giải quyết nội bộ hoặc sau khi sự việc phức tạp không giải quyết được thì mời thông tin, báo cáo đến các cơ quan có thẩm quyền.

Việc kiểm sát phân loại, xử lý tố giác, tin báo tội phạm ở một số địa phương còn mang tính hình thức, thiếu chủ động, chỉ dừng lại việc nắm số liệu và kết quả giải quyết vụ việc. Hoạt động kiểm sát chủ yếu thông qua kiểm sát khám nghiệm, kiểm sát bắt giữ, nghiên cứu hồ sơ phức tạp do cơ quan điều tra chuyển đến để trao đổi thống nhất đường lối giải quyết dẫn đến tình trạng việc giải quyết tố giác, tin báo không kịp thời, bị kéo dài, gây khiếu kiện phức tạp.

+ Mối quan hệ giữa cơ quan điều tra cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh vàcCơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao vẫn còn xảy ra tình trạng đùn đẩy trách nhiệm nên gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng mối quan hệ giữa các cơ quan. Quá trình thực hiện các hoạt động tư pháp, một số điều tra viên và kiểm sát viên vẫn chưa thực hiện đầy đủ chức trách, nhiệm vụ được giao, dẫn đến sự phối hợp thiếu chặt chẽ, không dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao.

Một số cơ quan tư pháp chủ quản của đối tượng phạm tội không tích cực phối hợp với cơ quan điều tra, thậm chí họ còn gây ra các trở ngại cho hoạt động điều tra như: không cho cán bộ có liên quan làm việc với điều tra viên; không cung cấp tài liệu cho cơ quan điều tra; không phối hợp thực hiện một sổ hoạt động điều tra cần có sự tham gia của họ... Có trường hợp, cơ quan tư pháp chủ quản của đối tượng phạm tội còn phản ứng đến các cơ quan cấp trên làm phức tạp hoá vấn đề, tạo ra những thông tin, dư luận trái chiều trong công luận. Từ chỗ chỉ là quan hệ tố tụng giữa cơ quan điều tra với đối tượng phạm tội, dễ trở thành vấn đề căng thẳng giữa hai cơ quan, đơn vị. Chính vì vậy, việc điều tra, xử lý trong một số vụ án gặp nhiều khó khăn, không đạt hiệu quả cao trong công tác giáo dục, phòng ngừa chung.

+ Chất lượng truy tố, điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư pháp còn chưa cao, vẫn còn tồn tại những sai sót nhất định.

2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong công tác đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp 

Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp còn tồn tại những hạn chế nhất định do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, do nguyên nhân từ quy định pháp luật. Cụ thể là:

a) Bộ luật Hình sự năm 1999:

-  Mặc dù Bộ luật Hình sự năm 1999 đã quy định một Chương riêng về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, nhưng căn cứ vào đặc điểm chung của nhóm tội này cho thấy Bộ luật Hình sự chưa quy định đầy đủ những hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp.

- Bộ luật Hình sự được ban hành năm 1999, tuy nhiên vẫn chưa có văn bản hướng dẫn về Chương XXII về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Trong phần lớn các điều luật vẫn còn tồn tại những tình tiết định tội hoặc tình tiết định khung tăng nặng mang tính chất định tính như: “gây hậu quả nghiêm trọng”; “gây hậu quả rất nghiêm trọng” và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” tại các điều luật của Bộ luật Hình sự năm 1999 chưa có văn bản hướng dẫn chính thức và cụ thể.

b) Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003

- Về thẩm quyền điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì thẩm quyền điều tra đối với các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp là thuộc về cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đồng thời, cũng quy định thẩm quyền điều tra của Bộ Công an đối với một số tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp do cán bộ, chiến sĩ trong ngành Công an thực hiện như tội bức cung, tội dung nhục hình, tội tha người trái pháp luật… Điều này dẫn đến sự chồng chéo trong thẩm quyền điều tra và làm mất tính khách quan trong hoạt động điều tra, khám phá các vụ án trên. Trong khi đó, Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chưa quy định cụ thể thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

+ Về vấn đề tiếp nhận và giải quyết tin tố giác, tin báo tội phạm: Điều 103 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chưa quy định rõ, cụ thể chức trách nhiệm vụ, vai trò, vị trí của từng cơ quan điều tra khi thực hiện mối quan hệ phối hợp. Vướng mắc này gây ảnh hưởng không nhỏ chất lượng hoạt động kiểm sát, các tố giác, tin báo tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp không được phát hiện kịp thời để thông tin đến cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải quyết theo thẩm quyền.

- Việc đảm bảo thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự:

+ Để chống bỏ lọt tội phạm trước hết Viện kiểm sát phải kiểm sát được hoạt động tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác tội phạm của các cơ quan có thẩm quyền đã được pháp luật quy định. Nhưng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân quy định Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố, nhưng không quy định các quyền năng pháp lý cụ thể và cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ này.

+ Mặc dù khoản 1 Điều 13 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và điểm a khoản 2 Điều 36 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 có quy định khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Viện kiểm sát có nhiệm vụ và quyền hạn “khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can...), nhưng tại Điều 104 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (quy định về khởi tố vụ án hình sự) lại quy định Viện kiểm sát chỉ được ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định không khởi tố của cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Vì vậy, thực tế có nhiều trường hợp vụ việc có dấu hiệu tội phạm cần được khởi tố điều tra, nhưng vì những lý do khác nhau, cơ quan điều tra không ra quyết định khởi tố và cũng không ra quyết định không khởi tố vụ án thì Viện kiểm sát không thể ra quyết định khởi tố vụ án để yêu cầu điều tra mà chỉ có thể ra văn bản yêu cầu khởi tố vụ án.

 Quy định về khởi tố bị can tại khoản 5 Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 có điểm hạn chế là trong khi vụ án đang được tiến hành điều tra, nếu yêu cầu khởi tố bị can của Viện kiểm sát chưa được thực hiện thì phải chờ đến khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra, Viện kiểm sát mới có thể ra quyết định khởi tố bị can và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Quy định này làm kéo dài thời gian điều tra vụ án một cách không cần thiết.

Trong thực tiễn, đối với một vụ án cụ thể, do nhiều lý do khác nhau Cơ quan điều tra đã không khởi tố điều tra, khi chấp nhận yêu cầu khởi tố bị can của Viện kiểm sát thường là miễn cưỡng, không tích cực điều tra, kéo dài việc điều tra… dẫn đến kết quả điều tra hạn chế, nhiều vụ sau đó phải đình chỉ điều tra, từ đó cũng làm cho Viện kiểm sát có phần hạn chế khi sử dụng quyền này. Thực tế đã có những trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu là có căn cứ, nhưng vì trái với quan điểm của cơ quan điều tra nên cơ quan điều tra không tích cực thu thập chứng cứ buộc tội (mà Viện kiểm sát cũng không thể làm thay) nên cuối cũng phải đình chỉ điều tra.

c) Trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 chưa có quy định về việc Viện kiểm sát khi thực hiện công tác kiểm sát thi hành án hình sự và công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, Viện kiểm sát nhân dân phải có nhiệm vụ và quyền hạn trực tiếp áp dụng, hoặc kiến nghị áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm. 

Thứ hai, quy định về quyền và nghĩa vụ của điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán còn chưa phù hợp, còn bị ảnh hưởng bởi mối quan hệ hành chính làm ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng

Thứ ba, do năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ công chức của các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thỏa đáng, cơ sở vật chất chưa hoàn thiện còn tồn tại những hạn chế nhất định làm ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh chống và phòng ngừa đến các tội xâm phạm hoạt động tư pháp..

III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP

1. Dự báo tình hình tội phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong thời gian tới

Tại nội dung này, các tác giả đã có những nghiên cứu và đưa ra dự báo tình hình tội phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong thời gian tới như sau:

1.1. Tình hình tội phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong thời gian tới sẽ biến động tương ứng với sự biến động của tình hình tội phạm nói chung.

Trong thời gian tới, các nguy cơ về an ninh trật tự vẫn là một trong những yêu tố làm cho tình hình tội phạm ở nước tra trong thời gian tới trở nên phức tạp, cụ thể là:

- Hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam phải điều chỉnh, hoàn thiện pháp luật cho phù hợp với những nguyên tắc của WTO, các thế lực tù địch sẽ gia tăng hoạt động làm thay đổi định chế, hệ thống pháp luật nhằm làm cho Việt Nam phát triển lệch hướng hoặc gây thua thiệt về kinh tế;

- Các giá trị về văn hoá, dân chủ, lối sống thực dụng phương tây có điều kiện thâm nhập vào các tầng lớp trong xã hội, đăc biệt là tầng lớp thanh niên làm phát sinh tư tưởng lệch lạc, cuộc sống hưởng thụ, đòi hỏi….

- Trong điều kiện thị trường cạnh tranh gay gắt, nhiều doanh nghiệp trong nước hoạt động kém hiệu quả, các công ty xuyên quốc gia với tiềm lực lớn về kinh tế, vốn, kỹ thuật sẽ dần dần thâm nhập, nắm giữ và tiến tới thâu tóm ngành kinh tế mũi nhọn, then chốt và có khả năng tác động tới nền kinh tế quốc gia như: dầu khí, tài chính tiền tệ, bưu chính viễn thông, điện lực…sẽ thao túng lũng đoạn thị trường. Với sự hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, những biến động tiêu cực của thị trường tiền tệ, tài chính, chứng khoán, thị trường hàng hoá thế giới sẽ tác động nhanh và mạnh tới thị trường trong nước, gây khủng hoảng kinh tế, dẫn đến biến động hoặc khủng hoảng về kinh tế- chính trị.

- Biến động về nhân khẩu, hộ khẩu sẽ phức tạp hơn do làn song người từ nông thôn ra thành thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu du lịch… điều này sẽ gây nguy cơ làm mất cân bằng, phá vỡ quy hoạch của địa phương.

Chính vì vậy, tình hình các tội xâm phạm hoạt động tư pháp với tính chất là một bộ phận của tình hình tội phạm nói chung cũng chứa đựng những biến động và phức tạp. Đồng thời, các tội phạm với tính chất là “đầu vào” của phân lớn các tội xâm phạm hoạt động tư pháp thì cũng là một trong những cơ sở để có thể dự báo được tính chất và mức độ phức tạp của tình hình tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong thời gian tới.

1.2. Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử vẫn là tội chiếm tỷ lệ lớn nhất trong số các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.

Mối tiềm ẩn của loại tội phạm này là sẵn sàng bỏ trốn nếu có điều kiện, do đó về cơ cấu, tính chất của tình hình tội trốn khỏi nơi giam dự kiến trong 10 năm tới với diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm nói chung, dự đoán sẽ không có xu hướng giảm, tính chất nghiêm trọng cao hơn của loại tội phạm này so với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp khác. Hậu quả của loại tội phạm này cũng hết sức nghiêm trọng vì nó không chỉ xâm phạm đến tính đúng đắn của hoạt động tư pháp, mà còn tiềm ẩn nguy cơ phạm tội mới với số lượng tái phạm rất cao, gây nên sự hoang mang trong nhân dân; uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Từ cơ sở trên có thể dự báo trong thời gian tới với việc tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện, tiến tới là thành lập tòa án cấp khu vực nếu các nhà tạm giữ, tạm giam không được củng cố, hoàn thiện kịp thời sẽ là nguy cơ làm gia tăng loại tội phạm này. .

1.3. Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 293); Tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật (Điều 297); Tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định hoặc từ chối cung cấp tài liệu (Điều 308) sẽ được xử lý nghiêm khắc hơn trong thời gian tới

Với việc đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW với định hướng quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật cũng như những giải pháp đồng bộ khác làm cho trong thời gian tới đối với những tội này sẽ được xét xử nghiêm khắc.

2. Yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong điều kiện cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay

2.1. Vai trò của nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay

Đấu tranh phòng, chống các tội phạm hoạt động tư pháp là một bộ phận hợp thành của chương trình quốc gia phòng chống tội phạm và nó có một vai trò rất to lớn, thể hiện ở những điểm sau:

- Góp phần bảo vể lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích chính đáng của công dân.

- Bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp, góp phần thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.

- Củng cố và trong sạch các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung và các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng.

- Giáo dục ý thức tuân thủ pháp luât và đề cao tính tối thượng của pháp luật.

2.2. Yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong điều kiện cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay

Trên cơ sở chủ trương, định hướng cải cách tư pháp, việc đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong điều kiện cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay và hoàn thiện tổ chức và hoạt động các cơ quan tư pháp cần phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:

Một là, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong việc phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp phải dựa trên quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta về cải cách tư pháp, với mục tiêu tăng cường sự phối hợp, phân công và kiểm soát quyền lực trong hoạt động tư pháp; đồng thời, bảo đảm các điều kiện để các cơ quan tư pháp thực thiện tốt chức năng điều tra, truy tố và xét xử và thi hành án; đảm bảo mọi hành vi vi phạm, tội phạm phải được phát hiện xử lý kịp thời, nghiêm minh; hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án... tuân thủ đúng quy định của pháp luật, các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân được tôn trọng và bảo vệ.

Hai là, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp ngày càng chuyên nghiệp, trở thành công cụ sắc bén trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao góp phần củng cố, nâng cao uy tín và bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh của các cơ quan tư pháp, đảm bảo hoạt động của các cơ quan tư pháp tuân thủ đúng quy định và tôn trọng pháp luật; cán bộ các cơ quan tư pháp chuẩn mực về phẩm chất đạo đức, khách quan, trách nhiệm trong thực thi công vụ.

Ba là, việc hoàn thiện pháp luật, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phải đáp ứng được tính chất đặc thù đấu tranh phòng chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp ở nước ta và xu hướng, diễn biến của tội phạm này trong thời gian tới; với phương châm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh các hành vi có dấu hiệu tội phạm, làm rõ các nguyên nhân điều kiện làm phát sinh tội phạm để kiến nghị các giải pháp phòng ngừa, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Bốn là, đề cao ý thức chấp hành pháp luật, tinh thần, trách nhiệm của cán bộ, nhân viên tư pháp; Giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần tự giác của công dân tham gia vào cuộc đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.

3. Các giải pháp đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Yêu cầu đặt ra cho đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung cũng như các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng là: “Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật…” (khoản 1 Điều 3 Bộ luật Hình sự năm 1999).  Để đáp ứng yêu cầu này, các tác giả đã đưa ra các giải pháp sau đây:

3.1. Nhóm các giải pháp hoàn thiện pháp luật

Trong các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội xâm phạm hoạt động tư pháp trước hết phải kể đến biện pháp hoàn thiện pháp luật. Vì vậy, các tác giả đã đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự như sau:

a) Hoàn thiện pháp luật hình sự:

Một trong những vấn đề được đưa ra xem xét, nghiên cứu trong quá trình sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là việc xác định quyền tư pháp và các cơ cơ quan thực hiện quyền tư pháp nhằm đảm bảo việc kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước như đã được Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI đặt ra. Đồng thời, trong thời gian qua cơ cấu tổ chức bộ máy tư pháp có sự thay đổi, phạm vi các tranh chấp được giải quyết tại tòa án được mở rộng. Chính vì vậy, trong thời gian tới khách thể của tội xâm phạm hoạt động tư pháp cũng có sự thay đổi, khác so với hiện nay. Chính vì vậy, các tác giả cho rằng, tên gọi của Chương XXII Bộ luật Hình sự  năm 1999 - “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp” - cần đổi thành: “Các tội xâm phạm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án”.

- Để kịp thời đấu tranh phòng, chống đối với các hành vi nguy hiểm xâm phạm hoạt động tư pháp, cần tội phạm hóa những hành vi nguy hiểm sau trong Bộ luật Hình sự như: hành vi vi phạm chế độ bảo lãnh; hành vi tiết lộ tài liệu bí mật tài liệu tư pháp; hành vi cố ý để cho bị can thông cung với nhau gây hậu quả nghiêm trọng.

- Để bảo đảm triệt để tuân thủ các yêu cầu của Công ước về việc hình sự hoá các hành vi cản trở công lý và tăng cường hiệu quả đấu tranh chống các hành vi cản trở công lý, trong tương lai, cần tiến hành sửa đổi Bộ luật Hình sự theo hướng:

Thứ nhất, giải thích rõ hành vi khách quan của tội mua chuộc hoặc cưỡng ép nhân chứng (Điều 309) để bao hàm cả trường hợp mua chuộc, cưỡng ép để nhân chứng không khai báo hoặc không cung cấp vật chứng.  

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung Điều 297- tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật để trừng trị cả những chủ thể không phải là người có chức vụ quyền hạn, bỏ yếu tố hậu quả trong yếu tố cấu thành. Việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật có thể được quy định là một tình tiết tăng nặng định khung.

- Các cơ quan có thẩm quyền cần khẩn trương ban hành văn băn hướng dẫn các quy định của Chương XXII Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành áp dụng thống nhất pháp luật, đặc biêt là các tình tiết có tính định khung trong tại các điều luật của Bộ luật Hình sự năm 1999.

b) Hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự

Song song với việc hoàn thiện pháp luật hình sự về việc quy định từng tội phạm cụ thể, thì cũng cần phải sửa đổi các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về các vấn đề liên quan đến hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự các hành vi phạm tội các hoạt động tư pháp, nâng cao hiệu quả trong hoạt động đấu tranh chống và phòng ngừa các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp cụ thể bao gồm một số vấn đề sau:

- Thứ nhất, chỉ nên quy định thẩm quyền điều tra tất cả các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp cho cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Bởi lẽ, điều này sẽ là phù hợp với chức năng của Viện kiểm sát hiện nay là kiểm sát các hoạt động tư pháp.

- Thứ hai, cần bổ sung những quy định quy định cụ thể chức trách nhiệm vụ, vai trò, vị trí của từng cơ quan khi thực hiện mối quan hệ phối hợp trong vấn đề tiếp nhận và giải quyết tin tố giác, tin báo tội phạm; quy định trách nhiệm quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong việc tiếp nhận và giải quyết các tin tố giác, tin báo tội phạm.

- Thứ ba, quy định chặt chẽ và hợp lý các thủ tục tố tụng, các hành vi tố tụng của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng sẽ là biện pháp phòng ngừa quan trọng, qua đó tránh được những kẽ hở mà người phạm tội có thể lợi dụng để thực hiện các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp.

Thứ tư, phân biệt rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án trong việc tổ chức, chỉ đạo hoạt động tố tụng đối với vụ án cụ thể. Tăng quyền hạn, trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán trong hoạt động tố tụng. Cụ thể:

- Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án chỉ thực hiện các nhiệm vụ hành chính tư pháp và phát động quá trình tố tụng thuộc năng, thẩm quyền của cơ quan mình (như quyết định khởi tố vụ án, quyết định phân công điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán…);

- Các nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng cụ thể liên quan đến giải quyết vụ án (như ra các quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, các quyết định về giải quyết thực chất vụ án như tạm đình chỉ, đình chỉ, kết luận điều tra, đề nghị truy tố, truy tố, đưa vụ án ra xét xử…) do điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán được phân công thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật; không nên để tình trạng người trực tiếp thực hiện các biện pháp tố tụng thì không có thẩm quyền quyết định; ngược lại, người có thẩm quyết định thì chỉ nghe báo cáo mà không trực tiếp tiến hành tố tụng làm cho các quyết định tố tụng khó có thể chính xác, khách quan. Hơn nữa tình trạng này cũng dễ dẫn đến trách nhiệm không rõ ràng giữa những người tiến hành tố tụng.

3.2. Nhóm giải pháp tăng cường sự giám sát, kiểm tra xã hội đối với hoạt động tư pháp

Hệ thống kiểm tra xã hội nói chung, hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp nói riêng sẽ giúp cho hoạt động tư pháp được thực hiện đúng pháp luật hơn, làm cho lòng tin của nhân dân đối với cơ quan tư pháp được tăng lên. Những chế định liên quan cần được tăng cường như hội thẩm nhân dân tham gia xét xử, sự tham gia của tổ chức, đoàn thể xã hội vào hoạt động tố tụng, những phiên tòa lưu động, sự phản ánh của báo chí vào hoạt động tư pháp… Đặc biệt hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp là hoạt động phòng ngừa có hiệu quả nhất đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Để Viện kiểm sát nhân dân tiếp tục thực hiện và thực hiện tốt hơn vai trò của mình trong lĩnh vực này, trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay, các tác giả kiến nghị cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:

- Tiếp tục xây dựng Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

- Tiếp tục nâng cao vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.

3.3. Nhóm các giải pháp liên quan tới công tác phát hiện và xử lý các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Để giảm thiểu tình hình các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, việc đầu tiên là phải giảm tình trạng tội phạm ẩn. Chức năng phát hiện các phạm vi và tội phạm trong hoạt động tư pháp trước hết thuộc về Viện kiểm sát các cấp. thông qua công tác kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử, kiếm sát thi hành án, kiểm sát giam giữ và cải tạo, Viện kiểm sát các cấp có thể sẽ phát hiện ra các vi phạm và tội phạm.

Để phát hiện các tội phạm xâm phạm hoạt dộng tư pháp, ngoài việc nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ kiểm sát thực hiện nhiệm vụ kiểm sát đối với các hoạt động tố tụng và hành vi tố tụng, cần thiết phải có cơ chế thanh tra, kiểm tra trong nội bộ từng ngành khi có đơn thư tố cáo, khiếu nại của công dân.

Cấn tách các cơ quan quản lý các trại giam, các trại cải tạo của nước ta ra khỏi sự quản lý của Bộ Công an nhằm tránh sự can thiệp của các cơ quan điều tra vào quá trình giam giữ bị can, bị cáo hoặc cải tạo người phạm tội.

Trong tố tụng hình sự, sự tham gia của người bào chữa không chỉ giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý, nó là nét dân chủ của hoạt động tố tụng, mà còn là một đảm bảo, một điều kiện ngăn ngừa các vi phạm có thể xảy ra từ phía cơ quan và những người tiến hàn tố tụng. Theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, trừ các vụ án đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia còn lại trong tất cả các vụ án khác, người bào chữa được tham gia từ khi có quyết định khởi tố bị can và trong những trường hợp cần thiết người bào chữa được quyền có mặt khi điêu tra viên tiến hành hỏi cung bị can. Rõ ràng quy định này đã tạo ra những điều kiện cần thiết không những để người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa và các quyền năng tố tụng khác của mình mà còn ngăn ngừa các vi phạm có thể xảy ra khi hỏi cung. Tuy nhiên, trong thực tế có không ít điều tra viên không những không muốn để người bào chữa thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trước thân chủ, mà còn có những người còn gây khó đễ, ngăn cản luật sư hành nghề. Bên cạnh đó cũng có không ít người bào chữa vì ngại va chạm, vì cho rằng chưa thể giúp được gì cho thân chủ nên đã không thực hiện hết các trách nhiệm nghĩa vụ của mình. Để ngăn ngừa, khắc phục những vi phạm trên, cần sửa chế định người bào chữa theo hướng cho phép người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có người bị bắt giữ.

Đối với kiếm sát viên, điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân khi được giao nhiệm vụ giải quyết án tư pháp phải thể trọng sự thật khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan và các áp lực khác, nêu cao tinh thần kiên quyết đấu tranh chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, loại trừ những tư tưởng hữu khuynh, né tránh, coi việc đấu tranh chống các tội phạm này là “ bắt bí bạn bè “ hoặc “ tay nọ tay kia” dẫn đến không những không hạn chế được tội phạm này mà còn tạo điều kiện cho nó phát triển.

Trong công tác đấu tranh chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đặc biệt là các tội được quy định từ Điều 231 đến Điều 239 Bộ luật hình sự gặp rất nhiều khó khăn, nhất là trong việc phát hiện và xử lý hành vi phạm tội. Song muốn đấu tranh chống tội phạm này có hiệu quả thì vấn đề quan trọng là phải nắm được đặc điểm của tội phạm này khác biệt với các loại tội phạm khác: các tội xâm phạm hoạt động tư pháp phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật hoặc hành vi phạm tội của người khác hoặc thong qua hoạt động nghiệp vụ áp dụng với kẻ phạm tội. Vì vậy, việc đấu tranh chống các tội này phải được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu tất cả các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động ở tất cả các quá trình tố tụng. Do đó chỉ có Viện kiểm sát, thông qua các khâu công tác thực hiện chức năng, mới có thể kiếm sát được toàn bộ tình hình điễn biến của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Vì vậy, trong công tác kiểm sát điều tra đòi hỏi kiểm sát viên phải bám sát quá trình điều tra và phải nghiên cứu tất cả các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được theo tư duy khoa học, chọn và phân loại những chứng cứ quan trọng, quyết định tính chất của vụ án để phân tích và đánh giá, thong qua đó phát hiện kịp thời đề xuất với lãnh đạo các biện pháp xử lý đối với các biện pháp bắt, giữ, giam, trả tự do người trái pháp luật. Đồng thời kiểm sát viên phải nắm được các đặc điểm hình sự, cũng như phương thức, thủ đoạn thực hiện các tội xâm phạm hoạt động tư pháp để thông qua việc nghiên cứu hồ sơ mà phát hiện ra những tài liệu nào là quan trọng và có sự sửa chữa, tẩy xóa nhằm làm sai lệch hồ sơ vụ án, như biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản giám định, giấy chứng thương, biên bản giữ tang vật, biên bản khám xét v.v.. Bằng phương pháp so sánh, đối chiếu để phát hiện ra mâu thuẫn còn tồn tại trong các chứng cứ, nhằm phát hiện ra những hành vi nhục hình, bức cung để buộc bị can phải khai báo.

3.4. Nhóm các giải phám liên quan tới tổ chức bộ máy, cán bộ tư pháp và tăng cường cơ sở vật chất

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và pháp lệnh điều tra hiện nay, bên cạnh cơ quan điều tra của Bộ công an còn có cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân cũng tham gia điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Xét về tính chất của hoạt động điều tra thì cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân có tính độc lạp về khách quan hơn do cơ cấu tổ chức và hình thức hoạt động khác với các cơ quan điều tra khác. các tác giả cho rằng nên xây dựng cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân theo khu vực, trực thuộc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao để có điều kiện tập trung lực lượng và phương tiện đủ mạnh để điều tra những vụ án quan trọng, phức tạp đồng thời khắc phục tình trang lệ thuộc vào nhiều mối quan hệ ở địa phương, đặc biệt là quan hệ với những người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, để thực hiện được vấn đề này cần phải có sự chuẩn bị đầy đủ các phương án cần thiết về cơ sở vật chất, công tác tổ chức và phương thức hoạt động của cơ quan điều tra ở khu vực thì mới đảm bảo hiệu quả của công tác điều tra.

Để đảm bảo hoạt động điều tra của Viện kiểm sát có hiệu quả, cần ban hành quy chế công tác điều tra thống nhất chung cho hệ thống cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, trong đó quy định rõ thẩm quyền, mối quan hệ trong nội bộ cơ quan điều tra, giữa thủ trưởng cơ quan điều tra với điều tra viên, giữa thủ trưởng cơ quan điều tra với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, giữa cơ quan điều tra cấp dưới với cơ quan điều tra cấp trên và các phòng nghiệp vụ cùng cấp của Viện kiểm sát nhân dân, trong việc phát hiện, quản lý và xử lý các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.

Cần quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo, tuyển chọn và bồi dưỡng  chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân, xây dựng bản lĩnh đấu tranh chống tội phạm. Đồng thời tăng cường trang bị các phương tiện cần thiết cho hoạt động điều tra như phương tiện đi lại, kể cả vũ khí để làm nhiệm vụ khi cần thiết.

Pháp luật đã quy định cho những cán bộ, nhân viên tư pháp những quyền hạn rất rộng trong việc giải quyết các vụ án. Để khắc phục và loại trừ nguyên nhân và điều kiện phạm tội của những người này trong hoạt động tư pháp, trước hết phải củng cố và kiện toàn đội ngũ cán bộ tư pháp, xây dựng đội ngũ thẩm pháp, thư kí tòa án, điều tra viên, kiểm sát viên, chấp hành viên, giám định viên, luật sư có phẩm chất chính trị và đạo đức chí công vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạch như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra. Để thực hiện được phương hướng đó, cần thực hiện những biện pháp cụ thể như sau:

- Bố trí, lựa chọn và giáo dục chính trị, tư tưởng cũng như phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ tư pháp phải làm việc thường xuyên, không được coi nhẹ. Việc bố trí và sử dụng đúng cán bộ cũng như việc thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho cán bộ tư pháp chính là một công cụ thiết thực bảo đảm tiêu chuẩn về văn minh nghề nghiệp cho cán bộ tư pháp, góp phần ngăn chặn và khắc phục những điều kiện cụ thể thúc đẩy cán bộ tư pháp phạm tội.

- Cần tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp. Bởi vì trong một thời gian dài, công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp ở nước ta chưa được chú trọng đúng mức. Phương thức đào tạo thường chỉ là dừng lại ở việc trang bi kiến thức cơ bản, ít chú ý đào tạo kĩ năng, nghiệp vụ … Vì vậy, trong thời gian sắp tới phải đổi mới cách thức và chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ tư pháp đương chức, đồng thời sớm thành lập trường đào tạo thẩm phán và các chức danh tư pháp như thư kí tòa án, công chứng viên, chấp hành viên, luật sư, hộ tịch viên… tiến hành thường xuyên các lớp bồi dưỡng cập nhật. Trong quá trình bồi dưỡng đào tạo, cần chú trọng vấn đề đạo đức trong lĩnh vực tư pháp đối với học viên.

- Bảo đảm điều kiện vật chất - kĩ thuật cho hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng là một yếu tố quan trọng để phòng ngừa tội phạm. Trong điều kiện đất  nước còn khó khăn về kinh tế thì việc trang bị phương tiện kĩ thuật hiện đại cho các cơ quan tư pháp là việc phải thực hiện từng bước. Tuy nhiên, Nhà nước cần có sự ưu tiên nhất định. 

Bên cạnh đó, cần tăng cường cơ sở vật chất cho các trại giam cho hoạt động thi hành hình phạt tù như xây dưng mới trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ đảm bảo các điều kiện về an ninh, đầu tư hơn nữa cho các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ hiện tại như xây hệ thống tường rào, hệ thống báo động an ninh, camera kiểm soát...Đồng thời, cần nâng cao hơn nữa chất lượng cuộc sống trong tù trong các trại giam về ăn, ở, sinh hoạt, chế độ lao động, đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao cho người chấp hành hình phạt tù nhằm tạo điều kiện cho những người này cho yên tâm chấp hành hình phạt tù, hạn chế tối đa các trường hợp bỏ trốn. Đảm bảo chặt chẽ hơn nữa các biện pháp an ninh, tăng cường lực lượng và bố trí sắp xếp hợp lý về số lượng cũng như thời gian làm việc cho đội ngũ quản giáo tại các trại giam, nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động thi hành án hình sự.

3.5. Nhóm giải pháp phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, nhân dân

Xuất phát từ tính đặc thù của các tội xâm phạm hoạt đông tư pháp mà công tác tuyên truyên, giáo dục có thể thực hiện được bằng những phương thức sau đây:

- Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công tác đấu tranh chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp thông qua các khâu trong công tác thực hiện chức năng và trong quá trình giaiir quyết từng vụ việc cụ thể.

- Thông qua hội nghị, chuyện đề đấu tranh phòng và chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà tuyên truyền pháp luật

- Phối hợp với các phòng tư pháp, cơ quan thông tin báo chí, đài phát thanh truyền hình ở địa phương và trung ương để tuyên truyền, phổ biến pháp luật bằng cách:

+ Viết bài hoặc đưa tin theo chuyên mục đấu tranh chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.

+ Đưa tin về kết quả điều tra, xử lý một vụ án ddiienr hình về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà quần chúng nhân dân quan tâm.

 Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý rằng: việc đưa tiun về tình hình các tội xâm phạm hoạt động tư pháp cần phải thận trọng để không gây tác hại xấu ảnh hưởng đến đạo đức xã hội và bảo đảm các yêu cầu bí mật nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật và phát huy được tính chủ động, tích cực của toàn dân tham gia vào đấu tranh chống loại tội phạm này.

Đối với người tham gia tố tụng và những người có nghĩa vụ phải chấp hành án thì cần phải áp dụng những biện pháp phòng ngừa có tính chất khác biệt vì đây là những người có quyền và lợi ích, nghĩa vụ liên quan đến quá trình giải quyết vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và bản thân họ phạm tội trong những hoàn cảnh và tình huống hết sức khác nhau. Biện pháp phòng ngừa cho các động tượng này trước hết là giáo dục ý thức công dân của họ để họ hiểu các quyền và nghĩa vụ của mình trước pháp luật, trước nhà nước và trước xã hội nhiệm vụ này trước hết thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án cũng như thi hành án. Ngoài ra nếu vì những lý do sợ họ trả thù mà phạm tội (từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định, khai báo gian dối) thì những cơ quan nói trên cần phải áp dụng những biện pháp bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ, ví dụ như đối với người có nghĩa vụ phải khai báo. Đối với những người không chấp hành án thì cần kiên trì giáo dục, thuyết phục và nếu thấy không còn biện pháp nào khác thì mới áp dụng biện pháp cưỡng chế ( đối với các bản án dân sự).

KẾT LUẬN

Hoạt động tư pháp với ý nghĩa là hoạt động của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án, đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công lý, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần to lớn vào công cuộc cải cách tư pháp cũng như xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt kinh tế, xã hội thì tình hình tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng cũng có những diễn biến phức tạp, gây tác hại nhiều mặt cho đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Tính chất nghiêm trọng của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp thể hiện ở chỗ chúng không những có thể làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung mà còn có thể làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp, gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân. Bởi vậy, đấu tranh chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp  có ý nghĩa rất quan trọng và luôn là một đòi hỏi cần thiết, đặc biệt là giai đoạn đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp hiện nay cũng như trong thời gian tới.

Qua nghiên cứu tình hình, diễn biến, nguyên nhân và điều kiện của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong những năm gần đây, nhìn một cách tổng thể là có xu hướng giảm cả về số vụ, cũng như số bị cáo, tuy nhiên, trong quá trình đó, lai tăng giảm rất phức tạp. Điều này cho thấy công tác đấu tranh phòng chống nhóm tội phạm này còn nhiều vấn đề tồn tại, chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Tình hình đó có nhiều nguyên nhân mà trước hết phải kể đến một nguyên nhân là công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp hầu như còn rất mới mẻ, thực tiễn đấu tranh còn rất ít, có những tội phạm chưa được xét xử một lần nào. Hơn nữa, đã có nhiều cán bộ và nhân viên tư pháp lợi dụng nghề nghiệp của mình để phạm tội hoặc sử dụng nghiệp vụ  nhằm che giấu hành vi phạm tội, cho nên việc xử lý những hành vi phạm tội này là hết sức khó khăn. Điều đó có thể thấy qua một số tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là cán bộ, nhân viên tư pháp được đưa ra xét xử rất ít và vì vậy số tội phạm ẩn trong nhóm tội phạm này chắc chắn sẽ không nhỏ.

Để đấu tranh có hiệu quả đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, cần thực hiện một loạt các biện pháp như đổi mới pháp luật hình sự, kiên quyết xử lý công bằng và nghiêm minh mọi hành vi phạm tội xâm phạm đến hoạt động tư pháp, đổi mới công tác đào tạo cán bộ tư pháp, đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong cán bộ và nhân dân, tăng cường hơn nữa cơ sở vật chất và các điều kiện, phương tiện hoạt động cho các cơ quan tư pháp. Có như vậy mới có thể nâng cao được hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng và phòng chống tội phạm nói chung, góp phần đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp đổi mới đất nước./.



[1] GS.TSKH. Đào Trí Úc. Chủ biên, Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1994, trang 51, 52.

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm downloadTải về