• Thuộc tính
Tên đề tài Giá trị xã hội của pháp luật trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam
Nội dung tóm tắt

Giá trị xã hội của pháp luật là một vấn đề khoa học vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có giá trị thực tiễn. Trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam hiện nay thì việc nghiên cứu vấn đề giá trị của pháp luật thực sự cần thiết và trở nên cấp bách, do có sự hạn chế trong nhận thức tư tưởng về giá trị xã hội vốn có của pháp luật; việc xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật chưa được thực hiện tốt; hoạt động sáng tạo pháp luật trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật chưa được thực hiện tốt; nội dung của pháp luật hiện hành còn chưa chứa đựng đầy đủ các yếu tố tạo nên giá trị xã hội của pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản theo hướng ngày càng bảo đảm nhiều hơn tính nhân văn, nhân đạo, bình đẳng xã hội, tiến bộ xã hội, dân chủ; hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên, việc nghiên cứu giá trị xã hội của pháp luật ở nước ta trong thời gian qua chưa thật đầy đủ và toàn diện, nhất là trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống dân tộc hiện nay ở nước ta. Do đó, nhiệm vụ chủ yếu của việc nghiên cứu đề tài là nghiên cứu, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giá trị xã hội của pháp luật, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp pháp lý khả thi nhằm tiếp tục bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật trên các phương diện xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật, pháp luật; tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật. Các nhiệm vụ trên được thực hiện nhằm mục tiêu cuối cùng là xây dựng nên một hệ thống các quan điểm khoa học về giá trị xã hội của pháp luật trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm kho tàng tri thức khoa học pháp lý về giá trị xã hội của pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

Dưới đây là tóm tắt kết quả nghiên cứu của đề tài.

1. Những vấn đề lý luận chung về giá trị xã hội của pháp luật trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam

1.1. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về vị trí, vai trò của pháp luật trong sự nghiệp phát triển đất nước

          Qua phân tích quan điểm của Đảng qua các kỳ Đại hội, nhóm nghiên cứu đã khẳng định: Đảng, Nhà nước luôn luôn coi pháp luật là công cụ chủ yếu để thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và chính sách của Nhà nước, thường xuyên quan tâm tới việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật; Đảng và Nhà nước luôn phát triển và hoàn thiện các quan điểm tư tưởng và chính sách của mình về pháp luật, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, nhất là đối với lĩnh vực xã hội.

1.2. Giá trị xã hội của pháp luật: khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình thức thể hiện, quan hệ với các giá trị khác của pháp luật, phân loại

- Khái niệm: Theo nhóm nghiên cứu, “giá trị xã hội của pháp luật” vừa là những phẩm chất, nội dung hữu ích bên trong của pháp luật, vừa là kết quả thực tế tích cực của sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản trong lĩnh vực sinh hoạt xã hội của con người, đồng thời là một trong những tài sản, thành tựu quý báu của dân tộc, quốc gia. Tuy nhiên, khái niệm "giá trị xã hội của pháp luật" cần được hiểu trên hai cấp độ - cấp độ chung (theo nghĩa rộng) và cấp độ riêng (theo nghĩa hẹp). Ở cấp độ chung, khái niệm "giá trị xã hội của pháp luật" được xem như là những phẩm chất, nội dung hữu ích bên trong của pháp luật, nhờ đó mà pháp luật có công dụng (tác dụng, vai trò) tạo ra những thành tựu (các giá trị) văn minh vật chất và văn minh tinh thần cho xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển không ngừng. Còn ở cấp độ riêng, khái niệm "giá trị xã hội của pháp luật" chỉ được xem xét gắn liền với lĩnh vực sinh hoạt xã hội của con người. Đây cũng chính là cách tiếp cận của nhóm nghiên cứu đối với "giá trị xã hội của pháp luật" trong công trình này.

- Những đặc điểm cơ bản của giá trị xã hội của pháp luật. Với cách đặt vấn đề như trên về giá trị xã hội của pháp luật, có thể nêu lên 5 đặc điểm cơ bản của giá trị xã hội của pháp luật: 1) Luôn gắn liền với sự tồn tại và điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản trong lĩnh vực sinh hoạt xã hội của con người; 2) Chịu ảnh hưởng của kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, truyền thống và tác động trở lại tới các nhân tố đó; 3) Có mối quan hệ tác động qua lại với các giá trị khác của pháp luật - giá trị kinh tế, giá trị chính trị, giá trị văn hóa và giá trị đạo đức; 4) Có nội dung và hình thức biểu hiện cụ thể gắn liền với linh vực sinh hoạt xã hội của con người; 5) Dung lượng và chất lượng của giá trị xã hội của pháp luật nói chung, của từng dạng (loại, hình thái) của giá trị xã hội của pháp luật nói riêng không ngừng tăng lên do sự gia tăng về đối tượng và phạm vi điều chỉnh của pháp luật bắt nguồn từ sự phát triển các nhu cầu sinh hoạt xã hội của con người.

- Nội dung giá trị xã hội của pháp luật gồm 5 yếu tố cơ bản: nhân văn, nhân đạo, bình đẳng xã hội, tiến bộ xã hội và dân chủ.

- Những hình thức biểu hiện giá trị xã hội của pháp luật: có hai hình thức chủ yếu: một là, nội dung các quy định pháp luật mang tính nhân văn, nhân đạo, bình đẳng xã hội, tiến bộ xã hội, dân chủ và hai là, kết quả thực tế tích cực của điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản trong lĩnh vực xã hội (một trật tự xã hội hay một hiện trạng xã hội) mà sự điều chỉnh pháp luật đó được thực hiện thông qua hoạt động của Nhà nước, xã hội về xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật.

- Giá trị xã hội của pháp luật có quan hệ qua lại với các loại giá trị khác của pháp luật - đó là giá trị kinh tế, giá trị chính trị, giá trị văn hóa và giá trị đạo đức.

- Phân loại giá trị xã hội của pháp luật dựa trên 2 căn cứ là đối tượng điều chỉnh và mục đích điều chỉnh của pháp luật. Theo đó, có thể chia giá trị xã hội của pháp luật thành giá trị nhân văn của pháp luật, giá trị nhân đạo của pháp luật, giá trị bình đẳng xã hội của pháp luật, giá trị tiến bộ xã hội của pháp luật và giá trị dân chủ của pháp luật.

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị xã hội của pháp luật

Giá trị xã hội của pháp luật chịu ảnh hưởng của 5 nhân tố cơ bản là kinh tế, chính trị, văn hóa, truyền thống dân tộc và quốc tế. Cả 5 nhân tố này không chỉ ảnh hưởng đến nội dung, hình thức pháp luật mà còn cả tới kết quả điều chỉnh của pháp luật đối với 5 nhóm quan hệ xã hội cơ bản để tạo nên 5 hình thái giá trị xã hội của pháp luật là giá trị nhân văn, giá trị nhân đạo, giá trị bình đẳng xã hội, giá trị tiến bộ xã hội và giá trị dân chủ.

1.4. Các điều kiện bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật: Đó là điều kiện chính trị, điều kiện kinh tế -xã hội, điều kiện văn hóa, điều kiện truyền thống dân tộc, điều kiện quốc tế.

1.5. Bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa, truyền thống Việt Nam hiện nay và giá trị xã hội của pháp luật

          Qua phân tích bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam tại thời điểm nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã đưa ra một số nhận định sau:

          Một là, đã và đang tồn tại nhiều nhân tố chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống tích cực, tiến bộ, lành mạnh trở thành những giá trị quý báu làm tiền đề thuận lợi cho sự hình thành, tồn tại, phát triển và phát huy một cách ổn định, bền vững của giá trị xã hội của pháp luật và đến lượt mình giá trị xã hội của pháp luật cũng góp phần quan trọng vào việc củng cố, phát triển, phát huy những giá trị, thành tựu của chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống tốt đẹp ở nước ta trong quá trình hội nhập quốc tế.

          Hai là, bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam hiện nay đang đòi hỏi cả Nhà nước và xã hội vừa phải nhận thức nhanh nhạy và tiếp nhận đầy đủ những mặt tích cực, tiến bộ, lành mạnh và vận dụng chúng một cách linh hoạt, sáng tạo vào quá trình hoạt động xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, thực hiện pháp luật nhằm tạo ra, giữ gìn, bảo vệ, phát triển, phát huy giá trị xã hội của pháp luật, vừa phải sử dụng đồng bộ các biện pháp, trong đó có biện pháp pháp lý để ngăn ngừa và loại bỏ những hiện tượng tiêu cực trong đời sống chính trị, xã hội, văn hóa và trong việc bảo tồn, phát huy truyền thống dân tộc để giá trị xã hội của pháp luật không bị ảnh hưởng bởi các hiện tượng đó.tiếp tục được hoàn thiện, tồn tại, bảo vệ, phát triển và phát huy trong đời sống xã hội nước ta.

          Ba là, Nhà nước và nhân dân tiếp tục giữ vững sự ổn định chính trị và củng cố hệ thống chính trị về mọi mặt; tăng cường sự đoàn kết toàn dân, sự đồng thuận xã hội và kỷ luật xã hội; tiếp tục xây dựng và phát triển, phát huy nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; đổi mới toàn diện nền giáo dục nước nhà theo hướng hiện đại, chất lượng; thực hiện tốt chính sách khoa học-công nghệ theo tinh thần Nghị quyết lần thứ 6 (khóa XI) BCHTƯ Đảng; tiếp tục bảo tồn, phát triển và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tất cả những việc làm đó đều nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giá trị xã hội của pháp luật tiếp tục được hoàn thiện, tồn tại, bảo vệ, phát triển và phát huy trong đời sống xã hội nước ta.

2. Những hình thái (dạng thức, loại hình) giá trị xã hội của pháp luật trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam

2.1. Giá trị nhân văn của pháp luật trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam 

a) Khái niệm "giá trị nhân văn của pháp luật" và những hình thức biểu hiện của nó

Theo nhóm nghiên cứu, giá trị nhân văn của pháp luật là những nội dung hữu ích bên trong của pháp luật, nhờ đó mà pháp luật có thể điều chỉnh hành vi con người theo hướng nhân, đức, trí, dũng, nghĩa, tín, chân, thiện, mỹ; là tác dụng (công dụng, vai trò) của pháp luật trong việc thiết lập, duy trì, phát triển đời sống tinh thần văn minh và phong phú của con người và là những kết quả thực tế của sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản liên quan đến đời sống tinh thần (mặt tinh thần) của con người (gồm: tri thức, tư tưởng, tình cảm, tự do, hạnh phúc cá nhân,..), trong đó con người được phát triển toàn diện, hài hòa về thể chất, trí tuệ và tinh thần.

Giá trị nhân văn của pháp luật được biểu hiện ở nội dung các quy định pháp luật mang tính nhân văn và kết quả thực tế tích cực của điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản theo hướng nhân văn thông qua hoạt động của Nhà nước, xã hội về xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật.

- Nội dung các quy định pháp luật mang tính nhân văn được chứa đựng trong các văn bản quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau bao gồm những vấn đề cơ bản sau: a) Đáp ứng nhu cầu hưởng thụ các thành tựu văn hóa và hoạt động văn hóa, tham quan, du lịch, thể dục, thể thao, học tập, nghiên cứu khoa học, kỹ thuật của người dân; b) Bảo đảm thực hiện các quyền nhân thân của con người; d) Bảo đảm thực hiện quyền của trẻ em và quyền của thanh niên; đ) Bảo vệ môi trường, phòng và chống bạo lực gia đình, nhà ở, dân số và kế hoạch hóa gia đình, trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội; e) Phòng chống tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông; f) Nghiêm cấm sự kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người dân tộc, người khuyết tật, người nhiễm HIV và đối xử nhân văn với người bán dâm, người nghiện ma túy.

-  Theo nhóm nghiên cứu, giá trị nhân văn mà pháp luật đem lại cho xã hội là hình thành và bồi dưỡng tư tưởng nhân, nghĩa, tín và ý thức chân, thiện, mỹ cho mọi người; xác lập thái độ, cách cư xử, tình cảm vì con người ở mỗi cá nhân; thiết lập một hệ thống các quan hệ thân thiện, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau giữa người với người, góp phần xây dựng một xã hội cởi mở, khoan dung, văn minh theo tinh thần tất cả từ con người, cho con người, vì con người.

b) Thực trạng giá trị nhân văn của pháp luật nước ta hiện nay và những yêu cầu về nội dung các quy định pháp luật và kết quả thực tế tích cực của điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản theo hướng nhân văn thông qua hoạt động của Nhà nước, xã hội về xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật.

 - Từ góc độ là những phẩm chất, nội dung hữu ích bên trong của pháp luật, nhờ đó pháp luật có tác dụng (công dụng, vai trò) điều chỉnh hành vi con người theo hướng nhân văn, nội dung các quy định pháp luật nước ta đã bao quát được nhiều mặt sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người (từ ăn, ở, đi lại, học tập, vui chơi giải trí đến hoạt động văn hóa - văn nghệ, tín ngưỡng và tôn giáo,…) và xác lập được những bảo đảm cần thiết cho việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tinh thần. Các nội dung đó được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992 và các văn bản quy phạm pháp luật khác.

Tuy vậy, giá trị nhân văn của pháp luật cũng đang đứng trước những thách thức mới do, một mặt, sự biến đổi quá nhanh trên nhiều lĩnh vực trong xã hội ta và trên thế giới mà khả năng nhận biết, ghi nhận của con người thì có hạn, nhất là đối với các nhà làm luật. Còn khá nhiều khoảng trống trong nội dung của pháp luật chưa được lấp đầy, còn thiếu nhiều quy phạm pháp luật cần thiết để điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu liên quan đến việc nâng cao dân trí và đời sống tinh thần của con người, con người vẫn còn thiếu những điều kiện tinh thần cần thiết để sống, làm việc, sinh hoạt, phát triển một cách an toàn, chắc chắn, bền vững. Do sự tác động của các hiện tượng tiêu cực trong đời sống chính trị, xã hội, văn hóa, truyền thống và những yếu kém trong công tác quản lý nhà nước cũng như ý thức chấp hành pháp luật kém của một bộ phận nhân dân, cho nên trật tự xã hội mang tính nhân văn do pháp luật tạo ra chưa thật sự ổn định và vững chắc. Những hạn chế này cũng được nêu ra trong Báo cáo của Chính phủ tại phiên khai mạc kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII ngày 22- 10-2012.

   - Trong thời gian tới, cần xây dựng mới hoặc bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về những vấn đề xã hội quan trọng như nhà ở cho người có thu nhập thấp; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; thể dục, thể thao; du lịch; vui chơi, giải trí lành mạnh và hợp pháp (ví dụ: đua ngựa, đua xe máy, đua ô tô, chơi bạc,…); an toàn giao thông; quyền của những người đồng tính; xử lý thỏa đáng một số "hiện tượng xã hội" mang tính nhạy cảm (chứ không phải là "tệ nạn xã hội" như quan niệm từ trước tới nay) như nghiện hút và mại dâm, duy trì giảm sinh một cách vững chắc, nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần,… Ngoài ra, nội dung của pháp luật cần bao quát thêm những vấn đề cơ bản được nêu trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng, đặc biệt trong Báo cáo của Chính phủ tại phiên khai mạc kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII ngày 22 - 10 - 2012, như phát triển văn hóa và quản lý văn hóa theo hướng xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, tăng cường quản lý lễ hội, hoạt động văn hóa, nghệ thuật và giữ gìn giá trị truyền thống, thuần phong mỹ tục và bản sắc văn hóa dân tộc;  phát triển giáo dục - đào tạo nhằm triển khai Luật giáo dục đại học, Chiến lược phát triển giáo dục và Kết luận Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục- đào tạo (trong đó coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên); phát triển khoa học - công nghệ nhằm triển khai nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 (khóa XI) và Chiến lược phát triển khoa học - công nghệ giai đoạn 2011 - 2020; bài trừ nghiện hút, mại dâm;…quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, y tế, hôn nhân và gia đình, bảo vệ môi trường; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể pháp luật; hoàn thiện các quy phạm pháp luật xác định các chế tài pháp luật hình sự, dân sự, hành chính, kỷ luật cũng như các biện pháp khuyến khích, động viên, khen thưởng đối với các cá nhân, tổ chức đã có nhiều thành tích xuất sắc trong việc tạo lập, giữ gìn, phát triển, phát huy giá trị nhân văn của pháp luật trong đời sống xã hội.

2.2. Giá trị nhân đạo của pháp luật trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam

a) Khái niệm "giá trị nhân đạo của pháp luật" và những hình thức biểu hiện của nó

Qua phân tích nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đề tài cho rằng giá trị nhân đạo của pháp luật là những phẩm chất, nội dung hữu ích bên trong của pháp luật, nhờ đó mà pháp luật có thể điều chỉnh, định hướng hành vi con người theo hướng thiện tâm, sự tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của con người; là tác dụng (công dụng, vai trò) của pháp luật trong việc thiết lập và duy trì các mối quan hệ giữa người với người theo hướng thiện tâm, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau và những kết quả thực tế tích cực của điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản theo hướng nhân đạo (trật tự xã hội, hiện trạng xã hội), thông qua hoạt động của Nhà nước, xã hội về tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật, trong đó con người, cuộc sống con người và sự phát triển toàn diện, hài hòa của con người là những giá trị cao nhất, là trung tâm của mọi hoạt động của Nhà nước, xã hội và mỗi thành viên xã hội.

          - Giá trị nhân đạo của pháp luật thể hiện ở nội dung các quy định pháp luật và kết quả điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản theo hướng nhân đạo (trật tự xã hội, hiện trạng xã hội).

b) Thực trạng giá trị nhân đạo của pháp luật nước ta hiện nay và những yêu cầu về nội dung các quy định pháp luật và kết quả thực tế tích cực của điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản theo hướng nhân đạo thông qua hoạt động của Nhà nước, xã hội về xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật.

          - Nhìn chung, pháp luật nước ta hiện nay đã chứa đựng khá nhiều yếu tố nhân đạo, nhờ đó mà nó đã và đang điều chỉnh có hiệu quả nhiều quan hệ xã hội phức tạp liên quan đến việc thực hiện các chính sách của Nhà nước về ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội, trợ giúp xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp… Nhiều đối tượng thuộc chính sách xã hội nói chung của Nhà nước đã thụ hưởng được nhiều lợi ích từ việc thực hiện pháp luật như thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người và gia đình người có công với nước, người tàn tật, người khuyết tật, người cao tuổi, trẻ em, thanh niên, phụ nữ, nhất là phụ nữ thai sản và lao động, sản xuất trong môi trường độc hại,… Tuy nhiên, nội dung các quy định pháp luật còn chưa bao quát hết nhiều vấn đề nhân đạo khác trong đời sống xã hội hoặc chưa quy định đầy đủ và cụ thể nhiều vấn đề thuộc bản chất nhân đạo của pháp luật như việc chăm sóc, chữa trị, bảo vệ, quản lý các đối tượng nghiện hút, nhiễm HIV và mắc các bệnh xã hội khác; chăm sóc người già cô đơn không nơi nương tựa; hiến tạng để cứu người bệnh;…Nhiều quyền con người, quyền công dân chưa được quy định rõ ràng, cụ thể như quyền sống, quyền được hưởng chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội. Còn thiếu các quy định pháp luật về cơ chế pháp lý thực hiện quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực xã hội mà Hiến pháp năm 1992 và các luật khác đã ghi nhận.

          Đồng thời, do những yếu kém trong công tác quản lý cộng với sự tác động nhất định của các nhân tố tiêu cực trong đời sống chính trị, xã hội, văn hóa, cho nên trật tự xã hội - những kết quả thực tế của tổ chức thực hiện pháp luật, thực hiện pháp luật chưa đáp ứng được các yêu cầu của pháp luật. Báo cáo của Chính phủ tại phiên khai mạc kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII ngày 22 - 10 - 2012 đã nêu rõ những hạn chế sau đây: đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội, chương trình giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, tạo việc làm và cải cách tiền lương chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra do nguồn lực hạn chế nên không thể mở rộng diện và nâng mức hỗ trợ; nhiều hạn chế, yếu kém trong chăm sóc y tế, bảo vệ sức khỏe nhân dân, tình trạng quá tải bệnh viện chậm được khắc phục; quản lý giá thuốc và dịch vụ y tế chưa tốt; ô nhiễm môi trường còn nghiêm trọng; trật tự, an toàn xã hội vẫn còn nhiều bức xúc, nhất là tình trạng tội phạm, tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật giao thông, vệ sinh an toàn thực phẩm,…

- Trong thời gian tới, cần mở rộng phạm vi điều chỉnh với mức độ điều chỉnh sâu hơn các vấn đề nhân đạo để pháp luật bao quát và thể hiện ngày càng đầy đủ giá trị nhân đạo của nó. Một trong những hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh của pháp luật là mở rộng hơn nữa nội dung của từng loại hình bảo hiểm xã hội và thiết lập cơ chế quản lý và giám sát chặt chẽ từng loại hình bảo hiểmxã hội đó. Ngoài ra, nội dung của pháp luật cần chứa đựng các quy định về những vấn đề như khám, chữa bệnh cho người nghèo; hiến máu tình nguyện; hỗ trợ và tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Hội phẫu thuật nụ cười Việt Nam, các cơ sở bảo trợ xã hội, các cơ sở y tế khám chữa bệnh nhân đạo; quản lý và sử dụng Quỹ bảo trợ trẻ em, Quỹ bảo trợ nạn nhân chất độc da cam, Quỹ xã hội, Quỹ từ thiện, Quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo, tiền và hàng cứu trợ vùng bị lụt bão; hoạt động tìm kiếm cứu nạn; bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểmxã hội; cái chết êm ái; cơ chế thực hiện các chính sách xã hội, tiền lương; cụ thể hóa Bộ luật lao động mới, Pháp lệnh ưu đãi người có công; bảo đảm mức tối thiểu về các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số; kết hợp dạy nghề với tạo việc làm cho lao động nông thôn, người nghèo, bộ đội xuất ngũ, lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài; giảm nghèo bền vững, nhất là các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số, các hộ cận nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; cứu đói giáp hạt, cứu trợ nhân dân vùng bị thiên tai, bão lụt, mất mùa; khuyến khích nông dân, lao động tự do tham gia bảo hiểmxã hội tự nguyện; bảo đảm có hiệu quả bảo hiểm thất nghiệp; kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, giải quyết các tranh chấp lao động; thanh tra, kiểm tra an toàn lao động; bảo đảm hiệu quả thực hiện chính sách người có công, hỗ trợ về nhà ở cho hộ người có công; ngăn chặn, đẩy lùi hiện tượng xâm hại, mua bán trẻ em và phụ nữ; bảo đảm quyền trẻ em và bình đẳng giới; bảo đảm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; …

2.3. Giá trị bình đẳng xã hội của pháp luật trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam

a) Khái niệm "giá trị bình đẳng xã hội của pháp luật" và những hình thức biểu hiện của nó

Qua phân tích, nghiên cứu, nhóm thực hiện đề tài nhận định giá trị bình đẳng xã hội của pháp luật là những phẩm chất, nội dung hữu ích bên trong của pháp luật, nhờ đó mà pháp luật có thể điều chỉnh, định hướng hành vi con người theo những giá trị, chuẩn mực của bình đẳng xã hội (bình đẳng về nguồn gốc, giới tính, dân tộc, chủng tộc, thành phần xã hội, ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán, truyền thống, văn hóa, địa vị xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, hoàn cảnh kinh tế, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội, về quyền, nghĩa vụ trước Nhà nước và xã hội,…); là tác dụng (công dụng, vai trò) của pháp luật trong việc xác lập và duy trì sự bình đẳng xã hội trong các mối quan hệ giữa người với người và những kết quả thực tế của sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản theo hướng bình đẳng xã hội trong xã hội.

          - Giá trị bình đẳng xã hội của pháp luật được thể hiện ở nội dung các quy định pháp luật chứa đựng các yếu tố bình đẳng xã hội và kết quả thực tế tích cực của điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản theo hướng bình đẳng xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước, xã hội về tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật.

          + Theo quy định của pháp luật nước ta, giá trị bình đẳng xã hội thể hiện ở những nội dung sau:

Trong lĩnh vực chính trị, mọi cá nhân đều bình đẳng trong bầu cử, ứng cử, bãi nhiệm đại biểu mà mình đã bầu ra, tham gia quản lý nhà nước và quản lý xã hội, bình đẳng trong việc thực hiện các nghĩa vụ chính trị.

Đối với lĩnh vực dân sự, vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong quan hệ dân sự, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Mọi cá nhân, tổ chức đều bình đẳng về các quyền và nghĩa vụ dân sự ...

Trong lĩnh vực kinh tế, sự bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa mọi cá nhân được thể hiện trong sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng...

Đối với lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học-công nghệ, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền, nghĩa vụ trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật và các hoạt động văn hóa khác, học tập, nghiên cứu khoa học và kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất ...

Trong lĩnh vực xã hội, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền, nghĩa vụ trong nghỉ ngơi, hưởng chế độ bảo hiểmxã hội, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe, xây dựng nhà ở, cho thuê nhà và thuê nhà, quan nhệ vợ chồng, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội, lao động, việc làm, thu nhập,…

Ngoài ra, sự bình đẳng xã hội còn được thể hiện trong quan hệ giữa các dân tộc và quan hệ giới (quan hệ giữa giới nam và giới nữ). Các dân tộc và giới nam, giới nữ đều bình đẳng về quyền, nghĩa vụ trong các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã ...

          + Giá trị bình đẳng xã hội lớn nhất mà pháp luật đem lại cho xã hội là xác lập, nuôi dưỡng trong mỗi người ý thức và hành vi tôn trọng sự bình đẳng về mặt xã hội của mỗi cá nhân con người trong xã hội; ý thức tự giác và tinh thần chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ trước Nhà nước, xã hội và trước những người, tổ chức mà mình có mối quan hệ xã hội hay quan hệ pháp lý ràng buộc. Nhờ có pháp luật mà bình đẳng xã hội đã trở thành một trong những tiêu chuẩn và thước đo đánh giá mức độ văn minh của xã hội Việt Nam đương đại.

b) Thực trạng giá trị bình đẳng xã hội của pháp luật nước ta hiện nay và những yêu cầu về nội dung các quy định pháp luật và kết quả thực tế tích cực của điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản theo hướng bình đẳng xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước, xã hội về xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật.

          - Trong thời gian qua, nhìn chung, nội dung các quy định pháp luật nước ta hiện nay đã bao quát được khá nhiều vấn đề liên quan đến bình đẳng xã hội trên các mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học-công nghệ, xã hội, nhờ đó mà pháp luật có khả năng điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội cơ bản liên quan đến bình đẳng xã hội. pháp luật ngày càng có tính toàn diện, đồng bộ, khoa học, thực tiễn. Bên cạnh những quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của các loại chủ thể tham gia các quan hệ xã hội nhằm thiết lập một trật tự pháp lý và trật tự xã hội, trong đó mọi cá nhân đều được bình đẳng về mặt xã hội trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, còn có những quy định pháp luật về các chế tài để xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật và các biện pháp khuyến khích, động viên về vật chất, tinh thần đối với những cá nhân, tổ chức có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật vì mục tiêu bình đẳng xã hội. Tuy nhiên, nội dung các quy định pháp luật còn có những nhược điểm, hạn chế nhất định, thể hiện ở chỗ: còn thiếu cơ chế pháp lý bảo đảm sự bình đẳng xã hội trên nhiều mặt đời sống xã hội, như lao động, việc làm, thu nhập, thụ hưởng những giá trị vật chất, tinh thần của xã hội,…; còn thiếu các chế tài đủ mạnh để xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật, nhất là trong lĩnh vực bình đẳng giới, cho nên hiệu quả, hiệu lực và giá trị xã hội của pháp luật về các vấn đề xã hội chưa cao.

          Do công tác tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật đạt nhiều kết quả tích cực, cho nên đã hình thành một trật tự xã hội (hiện trạng xã hội), trong đó các nguyên tắc như mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, mọi người đều bình đẳng trong việc hưởng thụ các quyền, lợi ích chính đáng của mình và trong việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình đối với Nhà nước, xã hội, mọi người đều phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau khi vi phạm pháp luật,…đã được tôn trọng và thực hiện trong các mối quan hệ cơ bản giữa người với người trong xã hội; nguyên tắc bình đẳng dân tộc được quán triệt sâu sắc và thực hiện triệt để tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật, nhờ vậy mà khối đại đoàn kết toàn dân tộc được mở rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; việc thực hiện pháp luật về bình đẳng nam nữ, bình đẳng giới đạt những kết quả đáng ghi nhận, phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới mà Luật bình đẳng giới năm 2006 đã quy định. Tuy vậy, các kết quả đó vẫn chưa thật sự ổn định và vững chắc do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chính và biểu hiện ở những mặt sau: chưa có sự nhận thức thống nhất về bình đẳng xã hội, nhất là trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình; bình đẳng giới, bình đẳng nam nữ chưa được thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh trong các lĩnh vực đời sống xã hội; vẫn còn hiện tượng phân biệt, đối xử đối với những người thuộc dân tộc thiểu số, người dân ở vùng núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo, ven biển; chưa có sự bình đẳng thật sự về cơ hội thụ hưởng những thành quả, những giá trị xã hội trong các lĩnh vực chăm sóc y tế, bảo vệ sức khỏe nhân dân, giáo dục, khoa học-công nghệ, lao động, việc làm, phân phối sản phẩm lao độngxã hội,…      

          - Về nội dung các quy định pháp luật trong thời gian tới, theo kết quả điều tra xã hội, đa số người được hỏi đồng tình với những vấn đề sau cần được pháp luật tiếp tục quy định: bình đẳng trước pháp luật; bình đẳng nam và nữ; bình đẳng; phòng và chống mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ; điều kiện và cơ hội bình đẳng cho mọi công dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư trong sản xuất, kinh doanh tìm và tự tạo việc làm, tìm kiếm thông tin kinh tế và thông tin thị trường; điều kiện và cơ hội bình đẳng cho mọi công dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư trong cạnh tranh lành mạnh về cung ứng dịch vụ việc làm, thương mại, tài chính - ngân hàng, vận tải, bưu chính - viễn thông, sản xuất - đời sống ở thành phố và nông thôn, bảo hiểm, chứng khoán, kiểm toán, pháp luật,văn hóa, giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, du lịch, y tế, thể dục-thể thao, an sinh an sinh xã hội,…; điều kiện và cơ hội bình đẳng cho mọi cá nhân được hưởng sự chăm sóc y tế và bảo vệ sức khỏe từ phía Nhà nước, xã hội và tự bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho bản thân; được hưởng thụ những thành quả của thể dục-thể thao, các dịch vụ thể dục - thể thao, những giá trị văn hóa-nghệ thuật và các dịch vụ văn hóa - nghệ thuật, những thành quả của giáo dục-đào tạo và các dịch vụ giáo dục-đào tạo, những thành quả của khoa học-công nghệ và các dịch vụ khoa học-công nghệ, những thành quả của hệ thống an sinh xã hội, các dịch vụ an sinh xã hội; phòng, chống bạo lực gia đình, chủ nghĩa cào bằng và chủ nghĩa bình quân; sự bình đẳng giữa những người đồng tính với những người tính dục khác;…

2.4. Giá trị tiến bộ xã hội của pháp luật trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam

a) Khái niệm "giá trị tiến bộ xã hội của pháp luật" và những hình thức biểu hiện của nó

Theo nhóm nghiên cứu đề tài, giá trị tiến bộ xã hội của pháp luật là những phẩm chất, nội dung hữu ích bên trong của pháp luật, nhờ đó mà pháp luật có thể điều chỉnh, định hướng hành vi con người theo những giá trị, chuẩn mực của tiến bộ xã hội (văn hóa, văn minh, phát triển), phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và của thời đại hiện nay; là tác dụng (công dụng, vai trò) của pháp luật trong việc xây dựng và duy trì các mối quan hệ thân thiện, hợp tác để cùng nhau phát triển giữa các cá nhân, tổ chức với nhau và những kết quả thực tế của sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản theo hướng tiến bộ xã hội, trong đó mọi người đều có thái độ, tình cảm, cách cư xử thân thiện với nhau, đều có mức sống vật chất và tinh thần ngày càng cao và đều được hưởng thụ một nền văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ tiên tiến, phát triển; nam nữ bình đẳng trong mọi lĩnh vực; có hệ thống an sinh xã hội phát triển theo hướng phục vụ lợi ích con người.

- Giá trị tiến bộ xã hội của pháp luật được thể hiện ở nội dung các quy định pháp luật và ở kết quả thực tế tích cực của điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản theo giá trị, chuẩn mực của tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước, xã hội về tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật.

          + Nội dung các quy định pháp luật bao gồm những vấn đề liên quan đến tiến bộ xã hội thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó quan trọng nhất là: a) lao động, việc làm, thu nhập và an sinh xã hội đối với người lao động; b) Nhà ở, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới; c) Dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc bà mẹ và trẻ em; d) Chăm sóc y tế và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Ngoài ra, pháp luật còn quy định việc xây dựng đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh và văn minh cho con người…

          + Kết quả thực tế tích cực của điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản theo giá trị, chuẩn mực của tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước, xã hội về tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật chính là một trật tự xã hội (hiện trạng xã hội), trong đó mọi người dân đều có công ăn, việc làm ổn định, thu nhập ngày càng cao dẫn tới đời sống vật chất dồi dào, đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh, văn minh; nam nữ thật sự bình đẳng trong mọi lĩnh vực; người cao tuổi, trẻ em, thanh niên, những người gặp hoàn cảnh khó khăn và những người yếu thế, dễ bị tổn thương khác,...đều được Nhà nước, xã hội quan tâm giúp đỡ; quan hệ giữa người với người dựa trên nền tảng đạo đức và pháp luật theo nguyên tắc thân thiện, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, giúp nhau cùng tiến bộ, phát triển; nền văn hóa, giáo dục, khoa học-công nghệ tiên tiến, phát triển;...

b) Thực trạng giá trị tiến bộ xã hội của pháp luật nước ta hiện nay và những yêu cầu về nội dung các quy định pháp luật và kết quả thực tế tích cực của điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản theo hướng bình đẳng xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước, xã hội về xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật

- Trong thời gian qua, pháp luật nước ta đã quy định và bảo đảm thực hiện những nội dung cơ bản trong chính sách phát triển xã hội theo hướng tiến bộ, văn minh mà Đảng, Nhà nước đã đề ra, nhờ vậy mà xã hội ta đã và đang thay đổi sâu sắc, bền vững theo mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; phạm vi, đối tượng điều chỉnh của pháp luật theo hướng tiến bộ xã hội không ngừng được mở rộng một cách ổn định, vững chắc, nhờ đó mà đa số các đối tượng chính sách và ngoài chính sách đều được hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới, phát triển, nhất là trong lĩnh vực an sinh xã hội. Tuy vậy, nội dung tiến bộ xã hội của pháp luật còn chưa thật đầy đủ và vững chắc, còn thiên về giải quyết vấn đề ổn định xã hội chứ chưa thật sự chú trọng tới yếu tố tiến bộ xã hội [1].

- Trong thời gian tới, nội dung các quy định pháp luật cần được bổ sung, hoàn thiện để tăng thêm giá trị tiến bộ xã hội của pháp luật. Cũng theo kết quả điều tra xã hội học ở trên, đa số những người được hỏi đều đồng tình với các đề xuất sau: pháp luật cần có đầy đủ các quy định về xóa đói nghèo, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động; cải thiện điều kiện lao động và vệ sinh, an toàn lao động cho người lao động; phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội; hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số, chăm sóc phụ nữ thai sản và trẻ sơ sinh; chăm sóc y tế và bảo vệ sức khỏe nhân dân; bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, chăm sóc những người yếu thế dễ bị tổn thương khác như người cao tuổi, người tàn tật, người khuyết tật; chăm sóc và giáo dục thanh niên về mọi mặt; xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng và phát triển nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại; xây dựng và phát triển nền khoa học-công nghệ tiên tiến, hiện đại; phòng, chống vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội; phòng, chống bạo lực gia đình; định hướng quá trình đô thị hóa và di dân nhằm phát triển bền vững các đô thị, phân bố hợp lý dân cư và lực lượng lao động theo vùng, bảo đảm sự phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường bền vững ở các địa phương; bảo vệ môi trường[2].

          Đối với kết quả thực tế tích cực của điều chỉnh pháp luật thông qua hoạt động của Nhà nước, xã hội về tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật thì như trên đã nói, mặc dù trong mấy chục năm qua, nhờ có sự điều chỉnh của pháp luật và sự nỗ lực phấn đấu của cả Nhà nước và xã hội trong tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về mặt tiến bộ xã hội trong nhiều lĩnh vực xã hội, đặc biệt trong xóa đói nghèo và bình đẳng giới. Tuy nhiên, trật tự xã hội đó chưa thật sự ổn định và bền vững do nhận thức tư tưởng chưa thật sự thống nhất trong toàn xã hội, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ và đầy đủ, vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội đang diễn biến phức tạp và xâm hại đến những thành quả tiến bộ xã hội đã đạt được, công tác xóa nghèo bền vững và tạo việc làm bền vững chưa ổn định, tổ chức thực hiện pháp luật còn hạn chế, thiếu thốn về cơ sở vật chất - kỹ thuật và đội ngũ cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật chưa thường xuyên, liên tục, việc xử lý các vi phạm chưa nghiêm và chưa kịp thời, nhanh chóng,…Trong bối cảnh đó, trật tự xã hội - kết quả sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản liên quan đến tiến bộ xã hội và công tác tổ chức thực hiện pháp luật, thực hiện pháp luật về tiến bộ xã hội đang đòi hỏi phải được duy trì, bổ sung, phát triển và bảo vệ một cách toàn diện.

2.5. Giá trị dân chủ của pháp luật trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam

a) Khái niệm "giá trị dân chủ của pháp luật" và những hình thức biểu hiện của nó

 - Theo nhóm nghiên cứu, có thể hiểu giá trị dân chủ của pháp luật là những phẩm chất, nội dung hữu ích bên trong của pháp luật, nhờ đó mà pháp luật có thể điều chỉnh, định hướng hành vi con người theo những giá trị, chuẩn mực của dân chủ; là tác dụng (công dụng, vai trò) của pháp luật trong việc xây dựng và phát triển một xã hội thật sự dân chủ, tạo lập và duy trì tính dân chủ trong quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức và các dân tộc với nhau; là những kết quả hiện hữu của sự điều chỉnh pháp luật tới các quan hệ xã hội cơ bản theo hướng dân chủ (hiện trạng xã hội), trong đó mọi cá nhân, tổ chức đều được hưởng các quyền tự do dân chủ và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, xã hội.        

- Giá trị dân chủ của pháp luật được thể hiện trong nội dung các quy định pháp luật chứa đựng các yếu tố dân chủ và kết quả điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản theo hướng dân chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, xã hội về tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật.

+ Nội dung các quy định pháp luật chứa đựng các yếu tố dân chủ được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992, các bộ luật, đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau và trong nhiều lĩnh vực khác nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ .

+ Kết quả điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản theo hướng dân chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, xã hội về tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật chính là một trật tự xã hội (một hiện trạng xã hội), trong đó các quyền tự do dân chủ của con người, của công dân và các tổ chức chính trị - xã hội được thực hiện trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội; các sinh hoạt chính trị - xã hội trong xã hội đều được tiến hành theo những những nguyên tắc của nền dân chủ tiến bộ: công khai, minh bạch, cạnh tranh lành mạnh; mọi cá nhân, tổ chức đều ý thức được rằng quyền và nghĩa vụ đi đôi với nhau và nếu sai phạm thì đều phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau.

b) Thực trạng giá trị dân chủ của pháp luật nước ta hiện nay và những yêu cầu về nội dung các quy định pháp luật và kết quả thực tế tích cực của điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản theo hướng dân chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, xã hội về xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật

- Từ những trình bày ở trên có thể thấy trong thời gian qua, nội dung các quy định pháp luật đã bao quát được khá nhiều vấn đề của dân chủ nhằm bảo đảm các quyền tự do dân chủ của con người, của công dân và quyền làm chủ Nhà nước và xã hội của nhân dân. Tuy nhiên, nội dung các quy định pháp luật vẫn còn những hạn chế nhất định. Qua điều tra xã hội học cho thấy đa số những người được hỏi đều cho rằng nội dung các quy định pháp luật ở nước ta hiện nay mới chủ yếu đề cập vấn đề ổn định xã hội trước mắt chứ chưa định hướng phát triển xã hội lâu dài theo hướng dân chủ hóa; pháp luật nước ta hiện nay đã chứa đựng yếu tố dân chủ nhưng chưa thật đầy đủ và vững chắc. Nguyên nhân được cho là do sự phát triển của pháp luật chưa tương xứng với yêu cầu phát triển của Nhà nước và xã hội theo hướng dân chủ hóa[3].

- Giá trị dân chủ lớn nhất mà pháp luật đem lại cho xã hội là mọi người dân đều được bảo đảm các quyền tự do dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân đối với Nhà nước và xã hội được bảo đảm, mọi người dân đều được tham gia quản lý nhà nước và quản lý xã hội, đều có thể kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, đều có thể tham gia vào cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước và ở ngoài xã hội. Tuy nhiên, như Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nhận xét về thực trạng dân chủ ở nước ta hiện nay là còn tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, chế độ bầu cử còn những bất cập, các quyền tự do dân chủ của công dân vẫn thiếu cơ chế pháp lý hữu hiệu để thực hiện.

          - Trong thời gian tới, nội dung các quy định pháp luật cần được bổ sung thêm nhiều yếu tố mới để làm phong phú thêm giá trị dân chủ của pháp luật. Qua điều tra xã hội học đa số đều thấy rằng cần bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về những vấn đề sau đây: chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND; việc tiếp xúc, đối thoại của ứng cử viên đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND với cử tri trước khi diễn ra cuộc bỏ phiếu bầu; vận động bầu cử tự do; chế độ bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND; chế độ thông tin, báo cáo công khai của đại biểu dân cử trước cử tri và nhân dân; sự tham gia trực tiếp và gián tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước và xã hội, trong đó chú trọng hình thức tham gia trực tiếp; dân chủ hóa trong sinh hoạt của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và của công dân, đặc biệt ở cơ sở; trưng cầu ý dân về chủ trương, chính sách, pháp luật và những vấn đề quan trọng khác của Nhà nước; việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân; phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật của Nhà nước cả ở giai đoạn xây dựng chính sách, pháp luật lẫn trong giai đoạn thực thi chính sách, pháp luật; xử lý những cá nhân, tổ chức vi phạm quyền làm chủ của nhân dân và các quyền, lợi ích chính đáng của công dân một cách kịp thời, nghiêm minh, nhanh chóng, đúng pháp luật [4].

          - Kết quả thực tế tích cực của điều chỉnh pháp luật thông qua hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về dân chủ: Những thành quả thực tế của nền dân chủ ở nước ta trong 67 năm qua nhờ có hệ thống pháp luật về dân chủ ngày càng đầy đủ và khả thi, cũng như công tác tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật ngày càng đạt hiệu quả cao. Trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống hiện nay ở nước ta, những thành quả đó đòi hỏi phải được bổ sung, hoàn thiện, bảo vệ và phát huy. Cụ thể: đổi mới, cải cách các thiết chế chủ yếu của nền dân chủ đại diện (Quốc hội, HĐND) theo hướng thực quyền, chất lượng, hiệu quả; hoàn thiện nền dân chủ trực tiếp mà trọng tâm là sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào xây dựng và thông qua hiến pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; cải cách chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND theo hướng thực chất, công khai, minh bạch, công bằng; xác lập và thực hiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền của nhân dân được biểu quyết thông qua hiến pháp và các vấn đề quan trọng khác của đất nước, phản biện chính sách, pháp luật ở giai đoạn xây dựng và thực thi chúng, quản lý các công việc cụ thể mà Nhà nước giao cho, nhất là ở cơ sở;… 

3. Những giải pháp pháp lý nhằm tiếp tục bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam

3.1. Xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam

Qua phân tích quan điểm xây dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam và phân tích nội dung của chính sách pháp luật cần được tiếp tục xây dựng, hoàn thiện trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật, nhóm nghiên cứu đưa ra 6 giải pháp xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật, đó là:

          1) Nhận thức đúng đắn, đầy đủ, toàn diện hơn nữa về mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất giữa đường lối, chính sách chung với chính sách xã hội và chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật; 2) Rà soát lại các quan điểm tư tưởng của Đảng, Nhà nước từ trước tới nay về xây dựng và hoàn thiện pháp luật trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật, nhằm phát hiện sự thiếu hụt để đề xuất quan điểm tư tưởng pháp luật mới, những quan điểm tư tưởng pháp luật đã lạc hậu cần loại bỏ hoặc chỉnh sửa hay bổ sung, hoàn thiện thêm bằng các nhân tố tư tưởng pháp luật mới; 3) Khảo sát, điều tra xã hội học thực tiễn thực hiện chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước trên phạm vi cả nước và trên từng vùng, miền, địa phương, cơ sở để tạo lập căn cứ thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật; 4) Khảo sát, điều tra xã hội học thực tiễn thực hiện chính sách pháp luật hiện có trong xây dựng, hoàn thiện và thực hiện pháp luật trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật, trên cơ sở đó xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật cho phù hợp; 5) Thu hút nhiều hơn nữa các chuyên gia pháp luật, các nhà khoa học, nhà giáo, hoạt động thực tiễn pháp luật,… vào quá trình xây dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật; 6) xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật phải gắn với với chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, xã hội và xây dựng nền dân chủ ở nước ta, đồng thời phải phù hợp với quy luật vận động, phát triển của con người, của xã hội theo hướng bình đẳng xã hội, tiến bộ xã hội và dân chủ.

3.2. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam

Qua phân tích ưu điểm của hoạt động xây dựng pháp luật; các bất cập, hạn chế của hoạt động xây dựng pháp luật; mục tiêu, quan điểm, phương hướng, giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật, nhóm nghiên cứu đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xây dựng và hoàn thiện pháp luật trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật, cụ thể:

          - Đổi mới tư duy pháp lý nhằm nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn nữa về sự cần thiết phải lồng ghép các yếu tố nhân văn, nhân đạo, bình đẳng xã hội, tiến bộ xã hội và dân chủ vào các giai đoạn của quá trình xây dựng pháp luật, nhất là xây dựng và ban hành các đạo luật, bộ luật. Phải coi đây vừa là yêu cầu vừa là một nguyên tắc pháp lý của hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay và phải được quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi. Bên cạnh đó, vừa phải quán triệt đường lối, chính sách của Đảng về phát triển xã hội theo hướng nhân văn, nhân đạo, bình đẳng xã hội, tiến bộ xã hội, dân chủ, vừa sử dụng pháp luật để điều chỉnh hoạt động xây dựng pháp luật theo hướng bảo đảm giá trị nhân văn, nhân đạo, bình đẳng xã hội, tiến bộ xã hội, dân chủ.

          - Cần xác định tập trung vào những vấn đề trọng tâm, then chốt như đã nêu trong phần nội dung của pháp luật trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật trong trương trình xây dựng pháp luật liên quan đến phát triển con người, bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích chính đáng của công dân, bình đẳng xã hội, tiến bộ xã hội, dân chủ,. Đồng thời, gắn chương trình xây dựng pháp luật với chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, xã hội của đất nước và xây dựng nền dân chủ ở nước ta; xây dựng pháp luật phải phù hợp với quy luật vận động, phát triển của con người, của xã hội theo hướng bình đẳng xã hội, tiến bộ xã hội và dân chủ.

- Cần ưu tiên tập trung các nguồn lực cần thiết để khẩn trương sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; về văn hóa, giáo dục, dân chủ (đặc biệt là dân chủ trực tiếp); về an sinh xã hội, công bằng xã hội, bình đẳng xã hội, tiến bộ xã hội nhằm tạo cơ sở pháp lý mới để  xây dựng và ban hành kịp thời các đạo luật, bộ luật có tính khả thi cao liên quan đến các vấn đề nêu trên, phù hợp với những định hướng trong Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và các quan điểm Đại hội XI của Đảng về xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong điều kiện mới.

          - Đổi mới hoạt động sáng kiến pháp luật, nhất là sáng kiến xây dựng và ban hành các đạo luật, bộ luật liên quan đến phát triển con người, bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích chính đáng của công dân, bình đẳng xã hội, tiến bộ xã hội, dân chủ theo hướng là trong các đề nghị, kiến nghị xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trước khi được gửi đến cơ quan thẩm tra để đưa vảo chương trình xây dựng pháp luật thì nhất thiết phải nêu rõ sự đánh giá về mức độ bảo đảm các yếu tố nhân văn, nhân đạo, bình đẳng xã hội, tiến bộ xã hội, dân chủ và sự tác động của nó tới xã hội. Cơ quan thẩm tra phải thẩm tra kỹ càng nội dung báo cáo về những vấn đề đó.

- Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, quy trình và phương thức thảo luận và thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là các dự án luật, bộ luật liên quan đến phát triển con người, bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích chính đáng của công dân, bình đẳng xã hội, tiến bộ xã hội, dân chủ theo đúng các yêu cầu đã được quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND năm 2004. Kịp thời chuyển hoá các điều ước quốc tế về quyền con người và các đều ước quốc tế khác có liên quan mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia thành các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam.

- Nâng cao năng lực, trình độ, kỹ năng xây dựng pháp luật của cán bộ xây dựng pháp luật, đặc biệt đối với đại biểu Quốc hội trong việc xây dựng và ban hành luật. Muốn vậy, cần đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động xây dựng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật nói chung, Quốc hội nói riêng; kiện toàn bộ máy chuyên trách giúp việc về xây dựng pháp luật của các cơ quan đó; kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền ban hành.

- Chính phủ cần chú trọng thực hiện các giải pháp cụ thể như đổi mới hoạt động lập chương trình, kế hoạch, xây dựng dự thảo luật, pháp lệnh để trình Quốc hội, UBTVQH; chương trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ; thực hiện một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng trong xây dựng dự thảo luật, pháp lệnh cũng như các văn bản dưới luật thuộc thẩm quyền của Chính phủ và của Thủ tướng Chính phủ; đổi mới công tác soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh, các văn bản dưới luật; hoàn thiện các cơ chế thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của mình; thường xuyên rà soát, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để xác định các nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội.

- Củng cố tổ chức các cơ quan pháp chế của các bộ, ngành, các cơ quan, tổ chức nghiên cứu trong hoạt động xây dựng pháp luật; xác lập và thực hiện cơ chế thu hút các tần lớp nhân dân, các tổ chức vào xây dựng pháp luật theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 48-NQ/TƯ ngày 25 - 4 - 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã xác định:"Có cơ chế thu hút các hiệp hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, các chuyên gia giỏi vào việc nghiên cứu, đánh giá nhu cầu, hoạch định chính sách pháp luật, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra các dự thảo văn bản pháp luật. Xác định cơ chế phản biện xã hội và tiếp thu ý kiến của các tầng lớp nhân dân đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật".

- Hiện đại hoá các phương thức và phương tiện xây dựng pháp luật nhằm mục đích phục vụ việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật được tốt hơn, thực hiện đổi mới hình thức, phương pháp, đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng và hiệu quả đối với quy trình xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật, xây dựng và khai thác tốt cơ sở dữ liệu pháp luật. Muốn vậy, cần đầu tư kinh phí thoả đáng để đẩy mạnh công tác hiện hiện đại hoá phương thức và phương tiện xây dựng pháp luật. Khai thác, ứng dụng, cập nhật kịp thời tối đa các thành tựu của khoa học, kỹ thuật, đặc biệt coi trọng vai trò của công nghệ thông tin trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Cần hoàn thiện xây dựng về công báo để đảm bảo khi các văn bản quy phạm pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết đều được công bố đầy đủ, chính xác, kịp thời trên công báo. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cần thiết để các cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan chủ động tổ chức thực hiện có hiệu quả. Hơn nữa, trong thời gian tới phải tổ chức nghiên cứu, đánh giá những ảnh hưởng tích cực của các nguồn pháp luật khác như án lệ, tập quán, các quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp. Trên cơ sở đó nghiên cứu đưa ra các khả năng khai thác, áp dụng chúng để góp phần bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.

3.3. Tổ chức thực hiện pháp luật trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam

          - Tuyên truyền, phổ biến, giải thích và giáo dục pháp luật. Trong thời gian tới cần tiến hành các biện pháp cơ bản sau để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục pháp luật: a) xã hội hóa giáo dục pháp luật  nhằm huy động toàn xã hội vào hoạt động giáo dục pháp luật, bởi vì chỉ có Nhà nước thực hiện giáo dục pháp luật thôi thì không thể kham nổi vì khả năng và điều kiện có hạn. Ngoài ra, thông qua xã hội hóa giáo dục pháp luật không chỉ hình thành và nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng giáo dục pháp luật mà còn góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho chủ thể giáo dục pháp luật; b) Đối với các cơ sở giáo dục - đào tạo chuyên luật, cần đổi mới nội dung giảng dạy theo hướng cơ bản, khoa học, hiện đại và thực tiễn; cải tiến phương pháp giảng dạy theo hướng "đồng thoại" giữa người dạy với người học, khơi dậy óc sáng tạo, tinh thần tự chủ, tính tự giác của người học; c) Đối với các cơ sở giáo dục - đào tạo không chuyên luật, cần sửa đổi, bổ sung nội dung giảng dạy theo hướng tinh gọn, phù hợp với ngành, nghề chính đang theo học, đồng thời cải tiến phương pháp giảng dạy như đối với các cơ sở giáo dục - đào tạo chuyên luật; c) Đối với việc giáo dục pháp luật ở ngoài xã hội, cần đa dạng hóa các hình thức giáo dục, như tọa đàm pháp luật, thi tìm hiểu pháp luật, nói chuyện pháp luật, giải đáp pháp luật, dựng pano, áp phích,…    

          - Vận động, thuyết phục, tổ chức nhân dân tham gia tích cực và đông đảo vào việc thực hiện pháp luật, cần tiến hành hai hoạt động: một là "vận động, thuyết phục nhân dân thực hiện pháp luật" và hai là "tổ chức nhân dân thực hiện pháp luật". Cả hai hoạt động này đều đòi hỏi phải có "sức người", "sức của", tức là cần hai điều kiện quan trọng nhất là con người và vật chất. Cụ thể là có đội ngũ cán bộ vừa có tâm vừa có tinh thần trách nhiệm cao, tận tụy với công việc và có phương tiện vật chất, kỹ thuật bảo đảm cho họ hoạt động. Muốn được như vậy, Nhà nước phải ban hành và thực hiện các chính sách đúng đắn về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, quản lý cán bộ và về cung cấp trang thiết bị vật chất, kỹ thuật cho cán bộ hoạt động, đồng thời phải thực hiện chế độ thưởng, phạt kịp thời, nghiêm túc. 

          - Tổng kết, đánh giá việc thực hiện pháp luật. Việc tổng kết, đánh giá phải diễn ra thường xuyên và có tổ chức hẳn hoi. Đây không phải chỉ là công việc của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà còn là trách nhiệm của các tổ chức xã hội và mọi người dân. Ngoài những số liệu tổng kết mà địa phương, cơ sở đưa lên, các cơ quan chức năng cần khảo sát, điều tra xã hội học để có được những số liệu "sống", xác thực hơn phục vụ cho công tác tổng kết, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật trên phạm vi toàn xã hội.

          - Khen thưởng kịp thời những cá nhân, tổ chức có thành tích xuất sắc trong thực hiện pháp luật và lên án, phê phán mạnh mẽ các hành vi vi phạm pháp luật. Các hình thức khen thưởng gồm có: huân chương, huy chương, danh hiệu vinh dự nhà nước, "Giải thưởng Hồ Chí Minh", "Giải thưởng nhà nước", kỷ niệm chương, huy hiệu, bằng khen, giấy khen. Ngoài việc khen thưởng của Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể quần chúng khác cũng có thể thực hiện khen thưởng dưới nhiều hình thức phi nhà nước như biểu dương công khai thành tích, khuyến khích bằng lợi ích vật chất, v.v…

          Đi đôi với khen thưởng là lên án, phê phán các hiện tượng vi phạm pháp luật. Các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể quần chúng và mọi cá nhân cùng tham gia vào quá trình này, tạo nên "một làn sóng xã hội", "một nguồn dư luận xã hội" mạnh mẽ phản kháng mọi hành vi vi phạm pháp luật.

3.4. Thực hiện pháp luật trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa và truyền thống việt nam

Qua phân tích khái niệm "thực hiện pháp luật" và mối quan hệ giữa thực hiện pháp luật với giá trị xã hội của pháp luật, thực trạng thực hiện pháp luật trước yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật, nhóm nghiên cứu đề tài nhận định cần thực hiện các giải pháp lý sau nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật đáp ứng yêu cầu bảo đảm giá trị xã hội của pháp luật: 1) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích và giáo dục pháp luật, trong đó tập trung đổi mới nội dung, mở rộng hình thức và cải tiến phương pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật phù hợp với từng đối tượng được tuyên truyền, phổ biến pháp luật; mở rộng chủ thể giải thích pháp luật chính thức và nâng cao chất lượng, hiệu quả của giải thích pháp luật không chính thức; đổi mới nội dung, mở rộng hình thức và cải tiến phương pháp giáo dục pháp luật phù hợp với từng đối tượng được giáo dục pháp luật; 2) Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện pháp luật với những nội dung chủ yếu sau: kết hợp chặt chẽ 4 loại kiểm tra - kiểm tra của Đảng, kiểm tra của Nhà nước, kiểm tra của các tổ chức chính trị - xã hội và kiểm tra của nhân dân đối với sự tôn trọng và thực hiện pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và nội bộ nhân dân nói chung; tăng cường hơn nữa hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp đối với việc tôn trọng và thực hiện pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội và công dân; kịp thời thanh tra những vụ việc có dấn hiệu vi phạm pháp luật và có kết luận rõ ràng, khách quan, minh bạch; 3) Phát hiện và xử lý mọi vi phạm pháp luật một cách kịp thời, nhanh chóng. Trách nhiệm trước hết thuộc về các cơ quan chức năng bảo vệ pháp luật. Cán bộ và nhân dân nói chung cũng có trách nhiệm trong việc phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật



[1]  Báo cáo xử lý, phân tích số liệu điều tra xã hội học…

[2]  Báo cáo xử lý, phân tích số liệu điều tra xã hội học…

[3] Báo cáo xử lý, phân tích số liệu điều tra xã hội học…

[4] Báo cáo xử lý, phân tích số liệu điều tra xã hội học…

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm downloadTải về