• Thuộc tính
Tên đề tài Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nội dung tóm tắt

Trong tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay, Việt Nam phải thực hiện nhiều cam kết song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực và đương nhiên, việc thực hiện các cam kết quốc tế là điều không thể trì hoãn. Để hiện thực hoá các cam kết quốc tế, Việt Nam, một mặt, phải nội luật hoá các cam kết này bằng cách hoặc ban hành mới hoặc sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hữu, mặt khác, vẫn phải bảo đảm giữ cho hệ thống kinh tế nước nhà đi theo đúng quỹ đạo của một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng đã đề ra.

Như vậy, một nhiệm vụ hết sức khó khăn mà Việt Nam đã và đang phải vượt qua là vừa xây dựng một thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (thể chế nền tảng cho sự vận hành một hệ thống kinh tế mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử phát triển của xã hội loài người); vừa bảo đảm thể chế đó phù hợp với những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết trên lộ trình hội nhập. Để thực hiện được nhiệm vụ này, một mặt, cần nghiên cứu và hoàn chỉnh mảng lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế và sự tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; mặt khác, cần phải tìm ra phương hướng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nhằm đạt được đồng thời hai mục tiêu: (1) đáp ứng các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế; và (2) giữ đúng định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường của Việt Nam.

Với lý do trên, việc triển khai nghiên cứu Đề tài: “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” là việc làm cấp bách và thiết thực, đúng với đường lối, chủ trương của Đảng, chương trình hành động của Chính phủ, đồng thời lại vừa có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.

Đề tài được thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu chủ yếu sau:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế và thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam;

- Làm rõ sự tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới “thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (tập trung vào một số bộ phận tiêu biểu) cả về hình thức tác động, nội dung tác động và hệ quả của sự tác động;

- Xác định phương hướng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam dựa trên cơ sở xem xét sự tác động của thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam tới thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Dưới đây là phần tóm tắt những kết quả nghiên cứu chính của Đề tài:

I. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẼN

1. Một số vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam

1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam là một tất yếu

Hội nhập kinh tế quốc tế có một số lợi thế cho các quốc gia tham gia vào tiến trình hội nhập. Những lợi thế mà hội nhập kinh tế quốc tế có thể đem lại cho các quốc gia gồm: đẩy mạnh phát triển thương mại; dễ đạt được sự thoả thuận giữa các nước thành viên; tăng cường hợp tác về chính trị; tạo thêm cơ hội việc làm; có lợi cho thị trường tài chính; và làm tăng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế đem lại lợi ích cho tất cả các công ty, người dân và cho nền kinh tế ở các nước tham gia vào quá trình hội nhập và đã trở thành một chiến lược được ưa chuộng đối với hầu hết các nước trên thế giới.

Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng hội nhập kinh tế quốc tế cũng có những mặt trái như: tạo ra những khối thương mại; làm chệch hướng thương mại; và ft nhiều làm giảm chủ quyền quốc gia của những nước tham gia hội nhập.

Mặc dù vậy, những lợi ích mà hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cho con người, có thể thấy, vẫn lớn hơn nhiều so với những bất lợi có thể nảy sinh từ hội nhập kinh tế quốc tế mà con người phải gánh chịu. Đó chính là lý do làm cho các quốc gia trên thế giới không thể cưỡng lại sức hấp dẫn của hội nhập kinh tế quốc tế và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ.

Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu, nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Nhờ hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu khoa học, công nghệ tiên tiến và những kinh nghiệm quý báu của các nước phát triển để tăng trưởng kinh tế.

Đi ngược lại xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có nguy cơ bị phân biệt đối xử và bị cô lập, sẽ không được hưởng các ưu đãi dành riêng cho một nhóm các nước thành viên nhất định của một khu vực hay một phạm vi các quốc gia nào đó có thoả thuận hợp tác, tức sẽ bị phân biệt đối xử. Hệ quả là sản phẩm và dịch vụ từ Việt Nam sẽ bị đánh thuế cao hơn và phải chịu các rào cản phi thuế quan tinh vi, phức tạp hơn; doanh nghiệp đầu tư tại Việt Nam thì mất sức cạnh tranh do dòng thương mại và đầu tư quốc tế bị lệch hướng và chịu chi phí giao dịch cao hơn vì các đối thủ cạnh tranh được hưởng nhiều ưu đãi riêng, đặc biệt là về xuất xứ sản phẩm.

Trong bối cảnh đó, không chỉ Chính phủ, doanh nghiệp và mỗi người dân Việt Nam cần phải đổi mới nhận thức để đưa ra các đối sách hiệu quả, đồng thời chủ động đề ra các ưu tiên điều chỉnh chiến lược và chính sách mới, đặc biệt là chính sách hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, để dành được thành công trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như Đảng và Nhà nước đã đề ra.

1.2. Những thành tựu đạt được trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Thông qua chính sách đổi mới và chủ động mở cửa nền kinh tế kể từ năm 1986, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Giai đoạn sau đó, hội nhập kinh tế quốc tế thông qua các hiệp định tự do hóa thương mại ở cả ba cấp độ song phương, khu vực và đa phương đã làm cho nền kinh tế Việt Nam mở rộng không gian phát triển, thêm nhiều cơ hội hơn nhưng đồng thời cũng đem đến những thách thức và rủi ro mới cho nền kinh tế.

Từ năm 2001 đến năm 2010, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian này, những biến cố trong nền kinh tế thế giới diễn ra đã làm cho những phân tích, đánh giá để bóc tách tác động của từng hiệp định gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, khó có thể dựa vào các số liệu để có thể sử dụng phương pháp định lượng đánh giá tác động của từng hiệp định lên nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này.

Nếu nhìn một cách tổng thể vào nền kinh tế Việt Nam, vẫn có thể thấy Việt Nam được hưởng lợi từ khi bắt tay hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, cụ thể là:

- Hội nhập kinh tế quốc tế đã làm cho giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước bám sát hơn với giá cả hàng hoá, dịch vụ trên thị trường quốc tế.

- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp phân bổ lại các nguồn lực một cách có hiệu quả hơn.

- Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra các dòng lưu chuyển thương mại và đầu tư lớn và nhanh hơn.

2. Khái quát về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ờ Việt Nam

2.1. Khái quát về tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

a) Tác động tới việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

Việc bắt tay hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt việc gia nhập WTO của Việt Nam đã có nhiều tác động tích cực trong lĩnh vực hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật. Điều đó thể hiện ở việc ban hành mới hoặc sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hữu nhằm thực thi các cam kết quốc tế nói chung cũng như cam kết với WTO đồng thời tạo ra một môi trường kinh tế - xã hội đáp ứng các tiêu chí để Việt Nam được công nhận là nền kinh tế thị trường.

- Tác động tích cực + Pháp luật kinh doanh và cạnh tranh

Để nội luật hóa các cam kết WTO và tạo dựng thể chế kinh tế thị trường, ngay trước khi gia nhập WTO và trong 3 năm (2007 - 2009), hàng loạt các văn bản đã được ban hành góp phần làm môi trường kinh doanh minh bạch hơn, giảm thời gian, công sức và chi phí giao dịch của doanh nghiệp để thực hiện các thủ tục hành chính. Ví dụ, các quy định để thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 2005[1] xác định chi tiết danh mục các ngành nghề cấm kinh doanh hoặc hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện, danh sách các huyện, xã được ưu tiên khuyến khích đầu tư[2] xóa bỏ nhiều giấy phép con phải tuân theo theo quy định trước đây, giúp các nhà đầu tư dễ dàng hơn trong việc lựa chọn lĩnh vực, ngành hàng và địa bàn đầu tư. Một quy định được coi là giải tỏa nhiều vướng mắc cho các tổ chức pháp nhân, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài là quy định về quyền góp vốn, mua cổ phần.

+ Pháp luật điều chỉnh các loại thị trường

Nhờ các văn bản pháp luật liên tục được hoàn thiện[3] theo hướng xóa bỏ độc quyền, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và cam kết mở cửa thị trường, thị trường dịch vụ bảo hiểm ở Việt Nam cũng phát triển khá mạnh trong những năm gần đây với việc tham gia mạnh mẽ hơn của khu vực tư nhân trong và ngoài nước.

+ Pháp luật về sở hữu và kiểm soát của Chính phủ đối với các yếu tố sản xuất

Mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của Chính phủ đối với các yếu tố sản xuất chủ yếu để được WTO công nhận là nền kinh tế thị trường thể hiện ở mức độ và tốc độ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, mức độ hoàn thiện hệ thống luật pháp bảo đảm và bảo vệ quyền sở hữu đất tư nhân, quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản trong nền kinh tế. Các nỗ lực để Việt Nam được công nhận là nền kinh tế thị trường đã giúp cho hệ thống luật pháp bảo đảm và bảo vệ quyền sở hữu đất tư nhân, quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản trong nền kinh tế từng bước hoàn thiện.

+ Pháp luật điều chỉnh sự kiểm soát của Chính phủ đối với việc phân bổ nguồn lực và giá cả

Từ khi gia nhập WTO đến nay, để thực hiện các tiêu chí về một nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để giảm sự kiểm soát của Chính phủ đối với việc phân bổ nguồn lực và giá cả. Quản lý nhà nước được phân quyền và phân cấp mạnh mẽ xuống đến cơ sở, theo đó người dân được tham gia vào quá trình phân bổ nguồn lực công tại địa phương. Những nỗ lực này được thể hiện rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành hoặc sửa đổi, như Luật Ngân sách nhà nước năm 2002.[4]

- Những vấn đề cần tiếp tục giải quyết

+ Tiếp tục nâng cao chất lượng một số văn bản pháp luật

Mặc dù, Việt Nam đã có nỗ lực lớn trong việc ban hành mới và sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, chất lượng một số luật và văn bản còn chưa ổn định và chưa cao. Nội dung của nhiều văn bản vẫn còn chưa hoàn chỉnh, thiếu rõ ràng, chưa thực sự có tác dụng khắc phục những bất cập; một số văn bản quy phạm pháp luật đã phải sửa đổi, điều chỉnh nhiều lần, gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Một số văn bản pháp luật của Việt Nam còn khá nhiều quy định mang tính chung chung, dẫn đến tình trạng hiểu và giải thích luật không thống nhất. Điều đó dẫn đến việc áp dụng luật tùy tiện, thiếu trách nhiệm. Đôi khi, tình trạng này còn là nguyên nhân dẫn đến những hành vi tham nhũng, lợi dụng kẽ hở của luật để trục lợi cá nhân. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được sửa đổi, điều chỉnh thường xuyên, như quy định về mức lương tối thiểu, nhưng vẫn chưa hoàn toàn phù hợp với những thay đổi của thị trường. Một số lĩnh vực phải chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật cùng một lúc, gây khó khăn cho người quản lý nhà nước và thực thi pháp luật.

Một trong các nguyên nhân chính của tình trạng này là do năng lực soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, phân tích và hoạch định chính sách của cán bộ nhà nước còn hạn chế. Một lý do nữa là thiếu sự tham vấn rộng rãi trước khi dự luật được thông qua. Mặc dù Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 yêu cầu phải công bố công khai dự thảo văn bản luật để lấy ý kiến rộng rãi ít nhất 60 ngày trước khi trình cơ quan có thẩm quyền thẩm định, nhưng cho đến nay chỉ một số luật, pháp luật và nghị định của Chính phủ bảo đảm được sự tham gia xây dựng luật rộng rãi của nhiều tổ chức và cá nhân.

Hơn nữa, việc công khai thông tin thường là vào giai đoạn văn bản luật đã được soạn thảo, chứ chưa phải lấy ý kiến rộng rãi về ý tưởng luật (sự cần thiết phải ban hành, quan điểm cơ bản làm định hướng cho việc soạn thảo và đánh giá tác động mà văn bản pháp luật có thể gây ra cho xã hội). Vì vậy, việc góp ý của người dân có thể là đã muộn vì dù không ủng hộ ý tưởng làm luật thì việc soạn thảo văn bản cũng đã được thực hiện, đã mất nhiều công sức, tiền của cho việc chuẩn bị dự thảo luật. Thậm chí việc đăng công báo dự thảo luật cũng có khi chậm.

+ Đẩy mạnh chuỵển đổi sở hữu nhà nước đối với các yếu tố sản xuất

Tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước diễn ra chậm so với yêu cầu. Sau nhiều năm cổ phần hóa, đến cuối năm 2009 mới có hơn 3.800 công ty nhà nước và bộ phận của công ty nhà nước chuyển sang công ty cổ phần, 300 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nhà nước.[5]

Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, đến ngày 01/7/2010, tất cả các doanh nghiệp nhà nước phải chuyển đổi mô hình hoạt động thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Đây là một nhiệm vụ khá khó khăn. Riêng đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước, vẫn còn ý kiến tranh luận về cách thức quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này, mặc dù Nghị định số 101/2009/NĐ-CP về thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước đã được Chính phủ ban hành ngày 05/11/2009 sau 5 năm thí điểm.

+ Giảm thiểu kiểm soát của Chính phủ đối với việc phân bổ nguồn lực và giá cả

Để thị trường vận hành bình thường, nhà nước cần có các biện pháp giảm thiểu các hành vi độc quyền và lũng đoạn thị trường. Hiện nay, nhà nước vẫn chưa chú trọng đến khâu kiểm soát các loại giá hình thành trên cơ sở đặc quyền và độc quyền.

b) Tác động tới bộ máy thực thi chính sách

- Tác động tích cực

Để bảo đảm các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện qua các văn bản pháp lý, đi vào cuộc sống, bộ máy thực thi chính sách cũng liên tục được hoàn thiện. Ngay sau khi gia nhập WTO, Chính phủ đã yêu cầu các bộ/ cơ quan Chính phủ ở cả cấp trung ương và địa phương rà soát lại vai trò, chức năng quản lý vĩ mô của Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ[6], nhằm nâng cao hiệu quả quản lý phù hợp với quá trình cải cách kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế. Việc cải tổ bộ máy quản lý nhà nước trong những năm 2007, 2008 được thực hiện theo hướng tách quản lý hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước ra khỏi các hoạt động quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp, để từ đó giảm bớt sự can thiệp hành chính không cần thiết, không đúng chức năng vào quá trình sản xuất, kinh doanh, làm nảy sinh tiêu cực xã hội. Sau khi tách các cơ quan thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ thiết yếu ra khỏi các bộ và cơ quan quản lý nhà nước, một số tổ chức mới được thành lập để đảm nhiệm trách nhiệm điều tiết giá cả, quản lý chất lượng,... đối với các lĩnh vực này.

Do chức năng quản lý kinh doanh được tách khỏi chức năng quản lý nhà nước, các bộ, cơ quan Chính phủ không còn có chức năng quản lý tài sản và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc nữa. Thay vào đó, Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước đã được thành lập với chức năng giám sát các doanh nghiệp và tổng công ty nhà nước sử dụng vốn và đầu tư nhà nước.

Cải cách hệ thống cơ quan tư pháp đóng vai trò tối quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người dân và cho nhà nước. Trong thời gian qua, tổ chức, bộ máy của Tòa án, Viện Kiểm sát, các cơ quan điều tra, thi hành án, bổ trợ tư pháp đã có những điều chỉnh nhất định theo hướng tích cực. Một số tòa kinh tế, lao động, hành chính tại Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án cấp tỉnh được thành lập thêm, bảo đảm việc xét xử được chuyên môn, nghiêm minh và công bằng hơn. Theo Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, các chức năng của Tòa án sẽ được phân cấp mạnh và sẽ thành lập hệ thống tòa án theo thẩm quyền độc lập với các cấp hành chính của Chính phủ nhằm mục đích tăng cường trách nhiệm giải trình của hệ thống Tòa án.

  • Những vấn đề cần tiếp tục giải quyết

Tuy Việt Nam đã có những bước tiến trong cải cách khung pháp luật và bộ máy thực thi, song hiệu lực thực thi pháp luật của Việt Nam chưa được cải thiện nhiều. Có một số nguyên nhân dẫn đến tình hình này. Trước hết, tuyên truyền, quảng bá, phổ biến thông tin về luật còn chưa rộng khắp, phạt chế tài chưa có hoặc còn quá thấp chưa đủ sức răn đe khiến những người thực thi pháp luật thiếu động lực thực thi. Trách nhiệm giải trình của họ cũng chưa cao. Thông thường, do luật quy định chung nên Chính phủ, các bộ, ngành phải ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành. Các văn bản này thường được ban hành chậm, đôi khi có những điều mâu thuẫn hoặc chồng chéo với một số Luật hoặc văn bản quy phạm pháp luật quy khác. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực thi pháp luật. Thông tin pháp luật thường chưa kịp thời, chính xác, cập nhật. Do công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật chưa thường xuyên, nhiều người dân chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ về tính tối thượng của pháp luật, về vai trò, vị trí và ý nghĩa của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế, xã hội. Một số Tòa án của Việt Nam yếu kém là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thực thi pháp luật chưa cao. Việt Nam cho đến nay vẫn còn nhiều khó khăn do thiếu các luật sư, thẩm phán được đào tạo cơ bản. Hơn nữa, trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, trong nhiều trường hợp, trình tự thực hiện và thi hành pháp luật hoặc là mới, chưa được thử nghiệm, hoặc là chưa có và do đó khó có thể dự đoán kết quả.

Mặc dầu chính sách kinh doanh, thương mại đã được điều chỉnh theo hướng tự do hóa, xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn nhiều rào cản thương mại đối với khu vực tư nhân trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Những rào cản như thủ tục hải quan, vay vốn ngân hàng, thủ tục hành chính rườm rà làm cho quyền kinh doanh của doanh nghiệp khó có thể thực hiện một cách bình đẳng trên thực tế. Nhất là khung pháp lý về đất đai và giao dịch bảo đảm còn nhiều bất cập càng làm cho các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước khó sử dụng thế chấp để vay vốn ngân hàng. Hiệu lực thực thi pháp luật kém còn do việc kiểm soát tham nhũng chưa cao.

c) Tác động tới cơ chế thực thi pháp luật

- Tác động tích cực

Việc gia nhập WTO đã có những tác động to lớn đối với việc hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật, phù hợp với sự vận hành của nền kinh tế thị trường[7]. Cải thiện rõ nhất trong cơ chế thực thi pháp luật đã được tạo ra nhờ thực hiện Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành chính giai đoạn 2007 - 2012[8]. Trong một khuôn khổ pháp lý từng bước được hoàn thiện, những nỗ lực đơn giản hóa thủ tục hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước giúp cho hoạt động của bộ máy Chính phủ có hiệu quả hơn, giảm chi phí và thời gian cho các doanh nghiệp và công dân để được tiếp nhận dịch vụ hành chính công, phòng tránh được tệ quan liêu, nhũng nhiễu, tham nhũng của các cán bộ nhà nước.

- Những vấn đề cần tiếp tục giải quyết

Tuy có nhiều nỗ lực trong đơn giản hóa thủ tục hành chính trong giai đoạn 2007 - 2009, số lượng thủ tục và thời gian để các doanh nhân có thể khởi nghiệp kinh doanh gần như vẫn chưa thay đổi, duy trì ở mức 11 thủ tục và 50 ngày trong suốt 3 năm 2007, 2008, 2009[9]. Trong cuộc điều tra doanh nghiệp 2009 do Ban Thư ký Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức, hiệu quả dịch vụ hành chính cũng bị coi là một trong năm lĩnh vực bị đánh giá thấp nhất (2,09 điểm).

2.2. Những tư tưởng mới nảy sinh từ hội nhập kinh tế quốc tế tác động tới cải cách thể chế về xây dựng pháp luật ở Việt Nam

a) Tuân thủ các cam kết quốc tế

Tư tưởng, yêu cầu tuân thủ nghiêm túc các cam kết quốc tế đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam coi trọng. Đại hội Đảng lần thứ XI xác định Việt Nam trong hội nhập quốc tế phải “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” và “hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế”[10]. Chính Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 cũng xác định: “Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế”; và “Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về cùng một vấn đề”.[11] Điều này cũng được ghi nhận trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.[12] Để bảo đảm việc tuân thủ các cam kết quốc tế trong quá trình xây dựng pháp luật, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật yêu cầu cơ quan chủ trì soạn thảo (luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban Thường vụ Quốc hội và nghị định của Chính phủ) có trách nhiệm tổ chức nghiên cứu thông tin, tư liệu, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có liên quan đến dự thảo[13].

Vì tầm quan trọng của việc tuân thủ các cam kết quốc tế trong xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật trong nước, trong Chỉ thị về một số biện pháp triển khai chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế ban hành vào đầu năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu “Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan rà soát, kiến nghị điều chỉnh, sửa đổi, bãi bỏ các quy định không phù hợp với các cam kết quốc tế của ta trong các văn bản quy phạm pháp luật và ban hành các quy định mới đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả cơ chế pháp luật thực thi các cam kết quốc tế, đẩy nhanh việc nội luật hóa các cam kết quốc tế”.[14]

Nguyên tắc tuân thủ cam kết quốc tế là một tư tưởng, yêu cầu chung. Trong các trường hợp cụ thể, các tư tưởng, yêu cầu khác cần phải được đáp ứng như phân tích dưới đây.

b) Không phân biệt đối xử

Ớ Việt Nam, để thống nhất quản lý và thực thi nguyên tắc không phân biệt đối xử nhằm đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế vào năm 2002[15]. Đây chính là tiền đề cho việc áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử ở Việt Nam nhằm thực thi các cam kết quốc tế trong quá trình xây dựng (cũng như áp dụng) pháp luật ở Việt Nam.

c) Công nhận và bảo hộ đầy đủ, an toàn, công bằng về tài sản

Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, hàng hóa, dịch vụ, vốn và lao động có thể được tự do dịch chuyển giữa các quốc gia; đầu tư từ nước ngoài vào trong nước cũng như từ trong nước ra nước ngoài ngày càng phát triển và đa đạng. Điều này đặt ra yêu cầu tất yếu là một quốc gia phải bảo hộ đầy đủ và công bằng về tài sản (và quyền tài sản như quyền sở hữu trĩ tuệ) không những đối với công dân của mình mà đối với cả công dân nước ngoài, vấn đề này được thể hiện rất rõ trong các hiệp định bảo hộ đầu tư song phương hay khu vực. Việt Nam từ năm 1991 đến nay đã ký 60 hiệp định bảo hộ đầu tư song phương[16]. Ngoài ra, nhiều hiệp định thương mại song phương hay khu vực mà Việt Nam ký kết cũng có một chương riêng về bảo hộ đầu tư[17]. Các hiệp định hay chương về bảo hộ đầu tư này đều quy định nghĩa vụ của quốc gia tiếp nhận đầu tư (như Việt Nam) về việc bảo hộ đầy đủ, an toàn, công bằng và thỏa đáng các khoản đầu tư, bao gồm tài sản và quyền tài sản, của công dân hay doanh nghiệp nước ngoài tại quốc gia này[18].

Bên cạnh các cam kết của Việt Nam trong các Hiệp định bảo hộ đầu tư ký với nhiều nước và khu vực trên thế giới, vấn đề công nhận và bảo hộ đầy đủ, an toàn, công bằng về tài sản đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Bộ luận Dân sự năm 2005. Theo đó, Nhà nước “bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài”; và công dân Việt Nam “có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác”[19]. Chính vì vậy, nội dung của văn bản quy phạm pháp luật khi được xây dựng và ban hành phải đáp ứng yêu cầu công nhận và bảo hộ đầy đủ, an toàn, công bằng về tài sản.

d) Bảo đảm quyền tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh

Quyền tự do kinh doanh là một trong những quyền cơ bản của con người, thuộc “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”[20]. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) năm 1966 mà Việt Nam tham gia năm 1982 thừa nhận và bảo vệ các quyền kinh tế của con người, trong đó bao hàm cả quyền làm việc (thành lập doanh nghiệp) và tự do kinh doanh. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tất yếu dẫn đến tự do hóa thương mại, mở cửa thị trường nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh, kể cả quyền tự do kinh doanh của cá nhân và doanh nghiệp nước ngoài tại nước sở tại trong khuôn khổ các hiệp định thương mại tự do mà nước đó tham gia.

 

Ở Việt Nam, cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, quyền tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh đã và đang được ghi nhận, nhất là trong Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005 và Luật Cạnh tranh năm 2004. Quyền tự do kinh doanh (theo quy định của pháp luật) cũng được quy định trong Hiến pháp năm 1992. Tuy nhiên, việc xác định giới hạn của việc can thiệp vào các quyền tự do này còn là một vấn đề đáng quan tâm ở Việt Nam.

đ) Minh bạch

Minh bạch là một trong những nguyên tắc quan trọng trong toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Nó hướng đến mục tiêu giúp các đối tác thương mại tiếp cận và hiểu rõ về cơ chế thương mại của nhau, góp phần duy trì tính ổn định và có thể dự báo được các thay đổi của các luật lệ thương mại.

Nguyên tắc minh bạch trong chừng mực nhất định được ghi nhận trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Theo đó, quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật (một số ngoại lệ) phải “bảo đảm tính công khai”, và quy định của văn bản quy phạm pháp luật phải “bảo đảm tính minh bạch”[21]. Ngoài ra, theo Luật này, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải được công bố toàn văn trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý kiến; văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo và thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong văn bản nhưng không sớm hơn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành[22].

e) Một số yêu cầu khác

Ngoài các tư tưởng, yêu cầu nêu trên, trong bất cứ trường hợp nào, cần lưu ý mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế (và hội nhập quốc tế nói chung) mà các quốc gia cũng như nhân loại muốn hướng đến là: hòa bình, hợp tác cùng phát triển, tự do, dân chủ, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, thân thiện và bảo vệ môi trường, phát triển bền vững trên cơ sở nhà nước pháp quyền[23]. Ngoài ra, hệ thống pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế phải đồng bộ, thống nhất và khả thi. Mục tiêu chung đó cũng cần xem xét khi xây dựng, ban hành và áp dụng pháp luật, nhất là khi việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xác định là một trong tám phương hướng cơ bản của Việt Nam hiện nay và được công nhận trong Hiến pháp năm 1992[24].

 

 

II. THỰC TIỄN TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TỚI THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ TRUNG QUỐC

1. Thực tiễn tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới một số thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

1.1. Pháp luật thuế

Các cam kết quốc tế đã tác động tới hầu như toàn bộ mảng pháp luật thuế của Việt Nam gồm cả luật thủ tục và luật nội dung. Trong luật nội dung, các cam kết này tác động tới cả thuế gián thu (điển hình là thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu) và thuế trực thu (điển hình là thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân); đồng thời, làm nảy sinh nhu cầu ban hành một số loại thuế đặc thù khi một quốc gia tham gia vào quan hệ thương mại với các nước trên thế giới như thuế tự vệ, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử... Cuối cùng, chính sự thay đổi của hệ thống pháp luật thuế dưới tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, đến lượt mình, lại có tác động dây chuyền tới các vấn đề kinh tế, xã hội ở Việt Nam trong thời gian vừa qua.

1.2. Pháp luật dịch vụ tài chính (chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm)

a) Các cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ chứng khoán

Qua nghiên cứu, rà soát, đối chiếu các quy định hiện hành về chứng khoán với cam kết quốc tế về dịch vụ chứng khoán, có thể đánh giá, về cơ bản Việt Nam đã tiến hành nội luật hóa tương đối thành công các cam kết quốc tế về dịch vụ chứng khoán. Nhiều quy định hiện hành về chứng khoán đã thể hiện sự phù hợp với nội dung của các cam kết quốc tế về dịch vụ chứng khoán.

Bên cạnh những thành công trong quá trình nội luật hóa các cam kết quốc tế về dịch vụ chứng khoán, pháp luật Việt Nam hiện hành vẫn thể hiện một số điểm chưa phù hợp với cam kết hoặc thông lệ quốc tế. Cụ thể là:

Thứ nhất, theo quy định tại điểm d khoản 7 Điều 71 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 của Chính phủ được đánh giá là cứng nhắc và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, vì nếu quy định như vậy thì vô hình chung nhà nước đã “bó” các công ty chứng khoán trong việc triển khai thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán, vốn dĩ là một trong những nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của công ty chứng khoán.

Thứ hai, theo quy định tại khoản 3 Điều 76 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP tỏ ra chưa hợp lý và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế ở chỗ, việc ủy quyền từng lần sẽ gây khó khăn, tốn kém về thời gian và tiền bạc cho quá trình xác lập và thực hiện giao dịch, đồng thời gây phiền hà về thủ tục hành chính cho tổ chức cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài do phải gửi văn bản giấy ủy quyền này cho ủy ban chứng khoán Việt Nam. Hơn nữa, trong trường hợp Trưởng văn phòng đại diện của tổ chức cung ứng dịch vụ chứng khoán nước ngoài không gửi hoặc gửi muộn hơn 10 ngày kể từ ngày giấy ủy quyền có hiệu lực thì liệu hành vi này có ảnh hưởng gì đến việc xác lập giao dịch chứng khoán tại Việt Nam hay không và hậu quả pháp lý xảy ra là như thế nào? Đây là một trong những quy định thể hiện tính thiếu minh bạch của các quy định hiện hành về dịch vụ chứng khoán ở Việt Nam so với thông lệ quốc tế.

b) Các cam kết về dịch vụ ngân hàng

Ở mức độ khái quát, có thể nhận thấy quá trình nội luật hóa các cam kết quốc tế về dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, cùng với thời gian, sự biến đổi không ngừng của nền kinh tế chuyển đổi trong bối cảnh hội nhập đã khiến cho pháp luật ngân hàng Việt Nam bộc lộ dần những hạn chế và bất cập, điển hình là những hạn chế, bất cập trong các quy định về dịch vụ ngân hàng. Qua rà soát, tìm hiểu các quy định của pháp luật ngân hàng và đối chiếu với các cam kết quốc tế của Việt Nam, có thể nhận định pháp luật Việt Nam về dịch vụ ngân hàng vẫn bộc lộ những điểm khác biệt sau đây so với các cam kết quốc tế của Việt Nam:

Thứ nhất, pháp luật hiện hành chưa phản ánh sự thừa nhận quan điểm về dịch vụ ngân hàng theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

Thứ hai, các quy định hiện hành về quy trình, thủ tục cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho tổ chức tín dụng vẫn thể hiện tư duy quản lý hành chính cứng nhắc, thiếu sự linh hoạt cần thiết và dường như chưa tính đến các yếu tố kinh tế của các quy định đó.

Thứ ba, các quy định hiện hành về thành lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài chưa có sự thống nhất và đồng bộ. Sự không thống nhất và đồng bộ giữa các văn bản này không chỉ thể hiện tính thiếu minh bạch của các quy định pháp luật về dịch vụ ngân hàng, mà còn có thể gây ra các khó khăn, vướng mắc cho quá trình áp dụng pháp luật về tổ chức, hoạt động của tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài và từ đó làm giảm tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư tại Việt Nam.

Thứ tư, qua rà soát cho thấy một số quy định hiện hành của Việt Nam về nhận tiền gửi, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh ngân hàng, cho thuê tài chính, dịch vụ thanh toán, hoạt động kinh doanh ngoại hối... tỏ ra không phù hợp với thông lệ quốc tế và chưa phù hợp với tinh thần của các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng. Mặt khác, thực tế cũng cho thấy pháp luật ngân hàng Việt Nam còn thiếu những quy định quan trọng, cần thiết và có tính chất nền tảng cho các hoạt động ngân hàng hiện đại. Sự thiếu vắng các quy định này không chỉ dẫn đến hậu quả làm giảm khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng trong nước trên con đường hội nhập mà còn tạo ra những khoảng cách giống như sự phân biệt đối xử giữa các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng trong nước với các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Có thể xem đây là bất lợi đáng kể cho việc cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng.

c) Các cam kết về dịch vụ bảo hiểm

Có thể nhận định, việc nội luật hóa các cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ bảo hiểm là một quá trình diễn ra khá sớm (kể từ khi ban hành Nghị định số 45/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000). Tuy nhiên, chỉ đến khi sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm vào năm 2010 và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành thì việc nội luật hóa các cam kết này mới trở nên đầy đủ và toàn diện hơn. Để bảo vệ một cách hợp lý quyền lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng trên thị trường bảo hiểm nội địa, ngoài các hạn chế đã liệt kê trong Biểu cam kết, Việt Nam còn tăng cường áp dụng các điều kiện kỹ thuật khác để bảo đảm năng lực của nhà cung cấp dịch vụ và chất lượng dịch vụ. Việc áp dụng các biện pháp này là hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Hiệp định WTO về thương mại dịch vụ (GATS).

Qua rà soát, có thể nhận thấy, quá trình nội luật hóa các cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ bảo hiểm vẫn còn một số điểm hạn chế như sau:

Thứ nhất, về tính hợp lý trong cấu trúc của Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành. Qua nghiên cứu, rà soát cho thấy, Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) vẫn dành hẳn một chương riêng (chương VI) để quy định về doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài, về nguyên tắc, trong các cam kết quốc tế về thương mại dịch vụ, Việt Nam đã đồng ý thực hiện theo nguyên tắc đối xử quốc gia (nghĩa là không đặt các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài vào tình trạng bị đối xử kém thuận lợi hơn so với các nhà cung cấp dịch vụ trong nước) thì việc thiết kế một chương riêng quy định về doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài để phân biệt với các doanh nghiệp bảo hiểm, môi giới bảo hiểm trong nước tỏ ra chưa hợp lý và có thể bị nghi ngờ là trái với nguyên tắc đối xử quốc gia mà Việt Nam đã cam kết thực hiện.

Thứ hai, hiện tại Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) và các văn bản hướng dẫn thi hành luật này chưa có quy định cụ thể về phương thức “tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài”. Thiết nghĩ, nếu đã có cam kết về phương thức này mà không quy định rõ sẽ áp dụng trực tiếp quy định của Hiệp định thì cần được nội luật hóa trong pháp luật quốc gia để bảo đảm các cam kết quốc tế về dịch vụ bảo hiểm sẽ được thực hiện một cách nghiêm túc.

Thứ ba, về tính hợp lý của các quy định về hiện diện thương mại của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam. Theo cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ WTO, do không cam kết về hình thức hiện diện thương mại là công ty cổ phần nên Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) và các văn bản hướng dẫn thi hành luật này cũng quy định doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm mà không có hình thức công ty cổ phần bảo hiểm. Quy định này tỏ ra chưa thực sự hợp lý, vì có thể hạn chế khả năng hiện diện thương mại của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam để thực hiện các kế hoạch đầu tư lâu dài trong lĩnh vực bảo hiểm. Mặt khác, quy định này có thể dẫn đến nguy cơ một số nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm nước ngoài sẽ tìm cách “lách luật” bằng việc mua cổ phần của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước để thực hiện được ước muốn đầu tư vào thị trường bảo hiểm ở Việt Nam.

1.3. Pháp luật dịch vụ kế toán, kiểm toán và thuế

Kế toán, kiểm toán và thuế là ba ngành khoa học độc lập có đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu riêng, tuy nhiên các hoạt động dịch vụ trên ba lĩnh vực này đôi khi khó bóc tách rành mạch, đặc biệt đối với mảng dịch vụ kế toán và kiểm toán. Vì vậy, có thể tìm hiểu về các dịch vụ này theo hai nhóm: (1) các dịch vụ kế toán, kiểm toán; và (2) dịch vụ thuế[25].

Trên cơ sở phân tích các cam kết quốc tế về dịch vụ kiểm toán, kế toán và thuế của Việt Nam, cũng như mức độ nội luật hoá các cam kết quốc tế này của Việt Nam, có thể rút ra một số kết luận chính về sự tác động của các cam kết này tới pháp luật Việt Nam như sau:

- Căn cứ vào nội dung các cam kết của Việt Nam trong việc gia nhập WTO, có thể khẳng định, ngành dịch vụ kiểm toán, kế toán, thuế được mở cửa thị trường gần như là tối đa, ngoại trừ phương thức tham gia thị trường bằng sự hiện diện của thể nhân nước ngoài. Như vậy, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài có thể tham gia thị trường ở Việt Nam với ba phương thức là: cung cấp dịch vụ qua biên giới, tiêu dùng dịch vụ qua biên giới và thành lập hiện diện thương mại ở Việt Nam.

- Mặc dù nội dung cam kết mở cửa thị trường không hạn chế nhưng Việt Nam vẫn thiết lập các điều kiện ràng buộc cụ thể cho từng phương thức nêu trên với hai lý do. Một là dịch vụ kế toán, kiểm toán và thuế là dịch vụ đặc thù, sản phẩm dịch vụ đòi hỏi tính chính xác và trách nhiệm pháp lý cao vì chất lượng dịch vụ không chỉ ảnh hưởng đến các bên cung cấp và sử dụng dịch vụ, mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới việc thực hiện các nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh với nhà nước trong mối quan hệ với cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật liên quan. Hai là các điều kiện ràng buộc là các điều kiện chung áp dụng cho mọi tổ chức trong nước và nước ngoài cung cấp dịch vụ, vì vậy có thể xem là sẽ không tạo ra sự vi phạm quy tắc về đối xử quốc gia mà Việt Nam đã cam kết.

- Mức độ tác động của các cam kết về dịch vụ kiểm toán, kế toán, thuế đối với từng bộ phận pháp luật tương ứng ở Việt Nam không giống nhau. Có thể phân ra ba mức độ tác động của các cam kết tới các bộ phận pháp luật này:

+ Tác động trực tiếp và toàn diện đối với pháp luật về dịch vụ kiểm toán. Luật Kiểm toán độc lập năm 2011 đã thể hiện sự ảnh hưởng này qua các quy định riêng biệt về: (1) doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài thực hiện hoạt động kiểm toán ở Việt Nam dưới các hình thức hiện diện thương mại nhất định; (2) cho phép thành lập chi nhánh kiểm toán nước ngoài ở Việt Nam; (3) quy định cụ thể về cung cấp dịch vụ kiểm toán qua biên giới.

+ Tác động hạn chế đối với pháp luật dịch vụ thuế: theo các cam kết về dịch vụ thuế, pháp luật ở Việt Nam hiện nay đã bước đầu đề cập tới dịch vụ về thủ tục thuế. Tuy nhiên, nhiều phương thức tham gia thị trường dịch vụ thuế còn chưa được quy định rõ ràng đối với nhà cung cấp nước ngoài.

+ Hầu như không có tác động tới pháp luật dịch vụ kế toán: các cam kết về dịch vụ kế toán của Việt Nam không có tác động đáng kể tới các quy định của pháp luật kế toán.

- Cách thức cơ bản để nội luật hóa các cam kết về dịch vụ kế toán, kiểm toán và thuế được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp luật liên quan là:

+ Xác định các hình thức cho hiện diện thương mại của nhà cung cấp nước ngoài. Do đặc trưng của dịch vụ kế toán, kiểm toán, thuế là dịch vụ về chuyên môn, thường được coi là gắn với yếu tố “đối nhân”, nên thông lệ, hình thức kinh doanh phổ biến là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Do vậy, về cơ bản nhà cung cấp nước ngoài sẽ không được thành lập công ty cổ phần để kinh doanh các dịch vụ này.

+ Xu hướng của pháp luật Việt Nam là mở rộng hơn các cam kết liên quan đến việc thành lập chi nhánh.

+ Xác định một số hạn chế mang tính kỹ thuật áp dụng đối với nhà cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán và thuế đến từ nước ngoài.

1.4. Pháp luật doanh nghiệp và đầu tư

a) Đối với mảng pháp luật doanh nghiệp Hội nhập kinh tế quốc tế đã làm thay đổi pháp luật doanh nghiệp theo chiều hướng tích cực như: đặt Việt Nam trước yêu cầu tạo dựng một thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam với môi trường kinh doanh minh bạch, thủ tục hành chính gọn nhẹ. Bên cạnh đó, dưới tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, các nhà làm luật không chỉ chú trọng tới việc doanh nghiệp gia nhập thị trường mà còn chú trọng tới cả tình huống doanh nghiệp cần rút khỏi thị trường. Hội nhập kinh tế quốc tế còn buộc Chính phủ Việt Nam phải giảm bớt mức độ kiểm soát đối với các yếu tố sản xuất; buộc Việt Nam phải đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp.

Ngoài ra, nhóm tác giả còn đưa ra một số vướng mắc cần tiếp tục tháo gỡ, cụ thể như sau:

- Về quyền bình đẳng trong việc thành lập doanh nghiệp của các tổ chức và cá nhân nước ngoài, các tổ chức và cá nhân Việt Nam dường như chưa được thừa nhận trong mọi trường hợp.

- Còn nhiều cơ quan quản lý nhà nước tham gia vào công tác cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp.

- Pháp luật doanh nghiệp của Việt Nam chưa nhìn nhận đúng mức tầm quan trọng của giám đốc bên ngoài (outside directors) của doanh nghiệp.

- Tỷ lệ biểu quyết thông qua quyết định của hội đồng thành viên (công ty trách nhiệm hữu hạn) và đại hội cổ đông (công ty cổ phần) trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 còn chưa nhất quán với cam kết khi gia nhập WTO.

b) Đối với pháp luật đầu tư

Bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc tạo ra một khuôn khổ pháp lý bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, trong pháp luật về đầu tư của Việt Nam vẫn có quy định về thủ tục và nội dung mang tính phân biệt đối xử. Điều này làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.

1.5. Đối với mảng pháp luật cạnh tranh

Mặc dù Việt Nam chưa có bất kỳ cam kết quốc tế cụ thể nào về pháp luật cạnh tranh nhưng hầu hết các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết và tham gia đều đòi hỏi pháp luật cạnh tranh Việt Nam phải có sự tương thích với điều ước quốc tế đó. Tại Đề tài, nhóm tác giả đã sơ lược đánh giá mức độ tương thích đó trong pháp luật cạnh tranh của Việt Nam, từ đó đưa ra những bất cập của pháp luật về các quy định chung (phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng; phần giải thích từ ngữ); quy định về hạn chế cạnh tranh (thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền; tập trung kinh tế); quy định về cạnh tranh không lành mạnh; quy định về cơ quan quản lý cạnh tranh; quy định về tố tụng vụ việc cạnh tranh; quy định về biện pháp chế tài.

1.6. Pháp luật môi trường

Tính đến thời điểm này, các cam kết quốc tế về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học ở Việt Nam đã được nội luật hóa tương đối đầy đủ và triệt để. Tuy nhiên, mức độ nội luật hóa các cam kết về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học không giống nhau giữa các điều ước quốc tế.

Nhóm tác giả đã đưa ra một số đánh giá cụ thể như sau:

Thứ nhất, so với các điều ước quốc tế về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, việc đánh giá mức độ nội luật hóa một số cam kết quốc tế về kiểm soát ô nhiễm môi trường gặp nhiều khó khăn hơn. Lý do là vì phần lớn các điều ước quốc tế về kiểm soát ô nhiễm môi trường được hình thành từ nhu cầu bảo vệ bầu khí quyển, bảo vệ tầng ôzôn. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề này còn nổi lên một số ý kiến chưa đạt được sự đồng thuận.

Thứ hai, Bộ Tài nguyên và Môi trường được Chính phủ giao nhiệm vụ là đầu mối của hầu hết các điều ước quốc tế về kiểm soát ô nhiễm môi trường, tuy nhiên để có thể thực hiện được đầy đủ các cam kết trong lĩnh vực này thì trách nhiệm chính lại thuộc về Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công thương... Với cách thức xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật như ở Việt Nam hiện nay thì việc nội luật hóa các điều ước quốc tế với việc bảo đảm thực thi đầy đủ các cam kết không luôn luôn đạt được sự đồng bộ.

Thứ ba, tính đến thời điểm này, Công ước Viên về bảo vệ tầng ôzôn, Công ước khung về biến đổi khí hậu và Công ước Basel được xem là có mức độ nội luật hóa cao nhất trong số các điều ước quốc tế về kiểm soát ô nhiễm môi trường.

1.7. Pháp luật lao động

Việt Nam đã phê chuẩn phần lớn các công ước chứa đựng các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản của ILO. Điều này có tác động lớn đến việc xây dựng và hoàn thiện Bộ luật Lao động của nước ta trong thời gian vừa qua cũng như trong những giai đoạn phát triển tiếp theo.

Tại Đề tài, nhóm tác giả có nêu hạn chế, tồn tại và nguyên nhân trong quá trình thực hiện các cam kết quốc tế về lao động ở Việt Nam và những vấn đề đang đặt ra, cụ thể như sau:

- Thứ nhất, việc nội luật hóa các quy định của ILO trong các Công ước mà Việt Nam đã phê chuẩn chưa thực sự đầy đủ hoặc đồng bộ; việc thực hiện trực tiếp các quy định quốc tế về lao động chưa được thực hiện đầy đủ ở nước ta.

- Thứ hai, một số tiêu chuẩn lao động quốc tế chưa được tôn trọng và bảo đảm thực hiện trên thực tế: tình trạng lao động trẻ em, kể cả lao động trẻ em phải làm việc trong những điều kiện không bảo đảm (tồi tệ) vẫn còn tồn tại; quyền tự do hiệp hội của người lao động và người sử dụng lao động chưa thực sự được bảo đảm theo đúng nghĩa của nó hoặc nhiều khi việc thực hiện còn mang tính hình thức; thương lượng tập thể chưa thực sự được chú trọng, nhìn chung mang tính hình thức và chưa đạt hiệu quả trên thực tế; lao động bắt buộc vẫn tồn tại dưới các dạng và bằng những con đường khác nhau; việc phân biệt đối xử trong nghề nghiệp và việc làm trên thực tế chưa được xóa bỏ...

- Thứ ba, việc tham khảo ý kiến ba bên ở Việt Nam chưa đạt được sự hoàn chỉnh về cơ cấu đồng thời chưa bảo đảm được tính chất ba bên trong các hoạt động. Các cơ cấu ở tầm quốc gia để giải quyết những vấn đề vĩ mô như hội đồng ba bên về quan hệ lao động hoặc hội đồng ba bên về hoà bình công nghiệp, hội đồng lương quốc gia... chưa được thành lập hoặc chưa được nhắc đến trong hệ thống các quy định của pháp luật, đặc biệt là chưa được ghi nhận chắc chắn trong Bộ luật Lao động. Hoặc có hội đồng quốc gia về một hoặc các vấn đề lao động được thành lập nhưng việc tham gia của các bên trong quan hệ lao động chỉ có tính chất bổ sung mà chưa phải là thành phần chủ yếu[26]. Việc tham gia của các tổ chức đại diện của người lao động và của người sử dụng lao động vào lĩnh vực lao động vẫn bị hạn chế ở vai trò “tư vấn” để cơ quan nhà nước có thẩm quyền “tham khảo”.

- Thứ tư, về mức độ hỗ trợ cho người sử dụng lao động và người lao động của Thanh tra lao động Việt Nam chưa thực sự triệt để.

Những hạn chế, tồn tại trên đây có những nguyên nhân khách quan và chủ quan của chúng ta. Tựu trung lại, có những nguyên nhân chủ yếu sau đây[27]:

Thứ nhất, do nhận thức và trình độ của các giới có liên quan trong xã hội còn hạn chế. Vì vậy, việc áp dụng trực tiếp các Công ước quốc tế để giải quyết các vấn đề trong quan hệ lao động ở Việt Nam là việc làm khó có thể thực hiện trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, nếu việc này kéo dài thì sẽ ảnh hưởng không tốt tới chất lượng thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam, từ đó ảnh hưởng tới uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ hai, có những công ước của ILO Việt Nam phê chuẩn nhưng chưa thực sự chuẩn bị đầy đủ những điều kiện để có thể thực hiện hiệu quả trên thực tế, nhất là những công ước có liên quan đến những vấn đề chống lao động cưỡng bức hoặc lao động bắt buộc, công ước về chống phân biệt đối xử.

Thứ ba, mặc dù các quy định của ILO trong các công ước mà Việt Nam phê chuẩn đã được nội luật hóa khá chính xác và đầy đủ. Tuy nhiên, nhìn vào tổng thể hệ thống pháp luật lao động nói chung của nước ta còn có vấn đề bất cập. Đây cũng là nguyên nhân không nhỏ dẫn đến việc thực hiện chưa hiệu quả các cam kết quốc tế về lao động trong thời gian qua ở nước ta. Có thể khái quát những điểm bất cập trong hệ thống pháp luật lao động của nước ta như sau:

+ Hệ thống pháp luật lao động Việt Nam thiếu tính đồng bộ, tính khả thi chưa cao;

+ Hệ thống pháp luật lao động Việt Nam chưa được xây dựng từ yêu cầu thực sự của kinh tế thị trường;

+ Một số cơ chế cần thiết trong lĩnh vực lao động chưa được chú trọng và chưa được xác định một cách rõ ràng trong các quy định của pháp luật hoặc chưa hợp lý: cơ chế ba bên; cơ chế thương lượng tập thể; cơ chế giải quyết tranh chấp lao động; cơ chế giải quyết khiếu nại trong lao động...

+ Biện pháp chế tài đối với vi phạm pháp luật lao động chưa đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe vi phạm và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật. Trong nhiều trường hợp, người sử dụng lao động còn lấy đó làm cái cớ để tiếp tục vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền lợi của người lao động và đến trật tự chung của xã hội.

- Thứ tư, ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể có liên quan chưa tốt, trong đó đáng kể nhất là ý thức của người lao động và người sử dụng lao động. Hiện tượng người sử dụng lao động vi phạm pháp luật, xâm phạm thô bạo tới quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động vẫn là tình trạng phổ biến; hiện tượng người lao động chưa tuân thủ pháp luật, ý thức tổ chức kỷ luật lao động kém, có những đòi hỏi quá đáng..., xâm phạm đến quyền lợi chính đáng của người sử dụng lao động cũng xảy ra khá nhiều ở tất cả các khu vực và loại hình doanh nghiệp. Bên cạnh đó là ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể có liên quan cũng còn hạn chế, như: những người đại diện cho các bên, một số cán bộ nhà nước có liên quan trong khi thi hành công vụ... Đây có thể được coi là nguyên nhân cốt lõi dẫn đến sự kém hiệu quả trong thực thi pháp luật lao động nói chung, thực thi các cam kết quốc tế về lao động nói riêng ở nước ta hiện nay.

- Thứ năm, sự buông lỏng hoặc chưa nghiêm trong quản lý, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật lao động vừa là biểu hiện của sự yếu kém trong việc thực hiện cam kết quốc tế về thanh tra lao động, đồng thời nó cũng chính là nguyên nhân góp phần không nhỏ làm nên sự yếu kém đó.

- Thứ sáu, sự yếu kém của các tổ chức đại diện người lao động và người sử dụng lao động trong lĩnh vực lao động (cả về kiến thức pháp luật lao động, kỹ năng và uy tín) không những không cải thiện được tình hình theo chiều hướng tốt hơn, thậm chí nhiều khi còn làm cho tình trạng quan hệ lao động của hai bên xấu đi.

1.8. Hệ thống cơ quan tài phán Việt Nam

Mặc dù đã có nhiều chuyển biến tích cực như đã phân tích ở trên, hệ thống tài phán của Việt Nam vẫn còn bộc lộ khá nhiều tồn tại, bất cập cần được giải quyết, nhằm đáp ứng những yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng ở nước ta. Những tồn tại này được phản ảnh ở cả hệ thống Tòa án và các cơ quan khác trong hệ thống tài phán ở nước ta.

- Bất cập của hệ thống Tòa án

Bước vào tiến trình hội nhập, cải cách, mở cửa, hệ thống Tòa án ở nước ta đã có những bước chuyển đáng khích lệ. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu một cách thấu đáo, theo đánh giá của các chuyên gia, hệ thống Tòa án của nước ta còn khá nhiều vấn đề tồn tại, yếu kém, ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật nói chung ở Việt Nam[28].

Trước hết, xây dựng và phát triển thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời với việc xây dựng nhà nước pháp quyền trong đó Hiến pháp - với tư cách là đạo luật tối cao phải được triệt để tôn trọng. Trong thực tiễn, đã xuất hiện không ít những hành vi vi phạm Hiến pháp, gây ra những hậu quả tiêu cực đối với sự phát triển của xã hội. Xây dựng cơ chế bảo hiến phù hợp, vì vậy, được xác định là nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho bất kỳ quốc gia nào và xu thế chung hiện nay là Tòa án, Tư pháp được giao nhiệm vụ phán quyết về tính hợp hiến trong hành vi của các chủ thể có liên quan. Dù đã có những nỗ lực thành lập và đưa vào hoạt động các Tòa chuyên trách thuộc hệ thống Tòa án nhân dân để xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp pháp lý, một cơ chế bảo hiến đúng nghĩa, do Tòa án đảm nhiệm vẫn chưa được xác lập ở nước ta. Trên thực tế, Tòa án nhân dân ở nước ta đã được trao quyền xét xử hành chính để kiểm tra, đánh giá tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Tuy nhiên, việc kiểm tra, đánh giá tính hợp pháp chỉ giới hạn đối với các quyết định hành chính cá biệt chứ không phải đối với các văn bản quy phạm pháp luật hành chính; trong khi đó, một trong những hành vi vi hiến thường gặp là việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung trái Hiến pháp. Vì vậy, việc thành lập và vận hành thiết chế Tòa án Hiến pháp, đáp ứng được yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền đặt ra, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập như hiện nay là điều cần được đặc biệt lưu tâm.

Thứ hai, dù chất lượng của đội ngũ thẩm phán của hệ thống Tòa án được đánh giá là có những dấu hiệu khả quan nhưng hệ thống Tòa án của nước ta vẫn còn thiếu một đội ngũ thẩm phán được đào tạo và tuyển chọn bài bản. Giải quyết các tranh chấp kinh tế, trong nhiều trường hợp, còn đòi hỏi người thẩm phán có trình độ hiểu biết về các lĩnh vực kinh tế, thương mại có liên quan. Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cần có những thẩm phán giỏi về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và không những thông thạo luật pháp trong nước mà còn am hiểu cả pháp luật quốc tế, để có đủ khả năng xét xử các vụ án, đặc biệt là những vụ án có tính chất phức tạp, nảy sinh trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay. Những yêu cầu nói trên dường như vẫn còn là yêu cầu, thách thức đối với đội ngũ những người hành nghề trong lĩnh vực xét xử và giải quyết tranh chấp ở Việt Nam.

Rõ ràng, tình trạng thiếu các thẩm phán có kỹ năng nghề nghiệp tốt và có kiến thức chuyên môn cao là một trong những rào cản trên con đường nâng cao hiệu quả của công tác xét xử, đặc biệt trước thách thức của tiến trình hội nhập quốc tế.

Thứ ba, tính độc lập trong xét xử của Toà án nói chung và của thẩm phán nói riêng hiện nay vẫn còn là vấn đề được bàn luận rất nhiều. Hệ thống tư pháp độc lập là một trong những đặc trưng của nhà nước pháp quyền và xây dựng hệ thống tài phán trong bối cảnh hội nhập hiện nay phải đặc biệt chú trọng đến đặc trưng này. Nếu việc xét xử của hệ thống Tòa án không bảo đảm tính độc lập, phán quyết của Tòa án vì thế sẽ khó được tôn trọng, lòng tin của các cá nhân, tổ chức đối với Tòa án sẽ bị giảm sút. Trên thực tế, có nhiều lý do dẫn đến việc hệ thống Tòa án ở Việt Nam chưa thực sự độc lập trong hoạt động xét xử.

Thứ tư, bất cập trong hoạt động xét xử hiện nay của hệ thống Tòa án Việt Nam còn thể hiện ở việc thiếu cơ chế phối hợp hữu hiệu giữa Tòa án với các thiết chế khác trong việc thực hiện các công việc có liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án. Trước hết, đó là sự phối hợp giữa Tòa án với các thiết chế ngoài Tòa án tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp. Để có thể xét xử hiệu quả, quan hệ phối hợp giữa Tòa án với các thiết chế làm công việc thương lượng, hòa giải, trọng tài, các thiết chế làm công việc giải quyết khiếu nại, tranh chấp cần được xác định rõ ràng, bảo đảm cho Tòa án có đầy đủ các thông tin cần thiết khi thực hiện công việc xét xử các tranh chấp, vụ việc có liên quan. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa Tòa án với các cơ quan thi hành án để bảo đảm rằng phán quyết do Tòa án ban hành ra được thực thi hữu hiệu trên thực tế cũng là một yếu tố rất quan trọng. Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp, mặc dù phán quyết của Tòa án ban hành đã có hiệu lực thi hành nhưng chưa có một cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thi hành và Tòa án nên đã dẫn đến tình trạng phán quyết chưa được thực thi, gây ra nhiều phản ứng tiêu cực, làm giảm sút lòng tin của cá nhân, tổ chức đối với các cơ quan công quyền.

Thứ năm, vấn đề công khai, minh bạch phán quyết của Toà án cũng đã được đề cập đến nhiều lần trong quá trình Việt Nam đàm phán để gia nhập WTO. Trong vài năm gần đây, các bản án của Toà án nhân dân tối cao cũng đã được chọn lọc để công bố và đây là dấu hiệu đáng mừng, cho thấy tác động tích cực của hội nhập quốc tế. Đáng mừng vì thông qua công khai, minh bạch bản án của Toà án, các thẩm phán sẽ buộc phải có ý thức hơn, có tinh thần trách nhiệm hơn trong quá trình xét xử để xây dựng lòng tin của công chúng vào cán cân công lý. Tuy nhiên, việc công bố bản án còn hạn hẹp và tập trung vào một số bản án của Toà án nhân dân tối cao, được chọn lọc để công bố mà chưa vươn rộng ra các bản án khác của Toà án nhân dân tối cao cũng như của các Toà án cấp tỉnh, thành phố... là những cấp xét xử cao trong hệ thống Toà án.

- Bất cập của hệ thống Trọng tài thương mại

Như đã phân tích ở phần trên, mặc dù số lượng các vụ việc được xét xử tại cơ quan trọng tài đang có xu hướng gia tăng, nhưng số lượng các vụ kiện được giải quyết tại cơ quan trọng tài ở nước ta vẫn còn khiêm tốn. Điều này được lý giải bởi một số bất cập của hệ thống Trọng tài và những bất cập này cần được giải quyết kịp thời để tạo điều kiện cho thiết chế này phát huy được vai trò của mình trong việc giải quyết các tranh chấp pháp luật trong lĩnh vực thương mại:

Thứ nhất, dù đã được cải thiện, trình độ của đội ngũ trọng tài viên của nước ta vẫn là vấn đề cần được chú trọng. Sự thiếu hụt về trình độ của đội ngũ trọng tài viên được lý giải đặt trong bối cảnh chung là chúng ta hiện còn đang thiếu rất nhiều những chuyên gia về pháp luật và các lĩnh vực có liên quan có đủ sức để theo đuổi các vụ kiện có yếu tố nước ngoài mang tính chất phức tạp. Chính sự thiếu hụt này đã làm cho các bên tranh chấp chưa tin tưởng vào năng lực giải quyết công việc của trọng tài viên và vì vậy đã không lựa chọn việc giải quyết tranh chấp của mình bằng con đường trọng tài. Điều này càng thấy rõ khi một bên tranh chấp là các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Trong những trường hợp này, nếu có lựa chọn phương thức trọng tài, họ sẽ lựa chọn các trung tâm trọng tài nước ngoài mà thường không lựa chọn các trung tâm trọng tài của Việt Nam.

Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài có sự trực tiếp hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của Toà án thông qua việc xác định giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài; giải quyết khiếu nại về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; xét đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài; công nhận và thi hành phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, trên thực tế, ở nước ta cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với trọng tài chưa hiệu quả dẫn đến việc làm cho các bên tranh chấp thấy việc giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài còn có bất lợi so với việc giải quyết tranh chấp bằng con đường Tòa án nên đã không lựa chọn phương thức trọng tài. Bất cập này đã làm cho khối lượng công việc xét xử của hệ thống Tòa án của Việt Nam ngày càng chịu áp lực trong khi đó hệ thống Trọng tài với khá nhiều ưu thế trong việc giải quyết tranh chấp lại không phát huy được hết vai trò của mình.

2. Kinh nghiệm của Trung Quốc về xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường dưới tác động của hội nhập kinh tế quốc tế

Trong Đề tài, nhóm tác giả đã xem xét tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở Trung Quốc, tập trung vào ba lĩnh vực (1) từ quản lý nhà nước bằng chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc đến quản lý nhà nước bằng pháp luật; (2) hình thành hệ thống pháp luật điều chỉnh nền kinh tế thị trường trước thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế; và (3) những chuyển biến trong hệ thống Toà án.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM XÂY DỰNG VA HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẨU HỘI NHẬP

1. Sự cần thiết phải cải cách, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Quá trình hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng là một trong những chìa khóa cho sự phát triển thịnh vượng của Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình này cũng đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức. Nó có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như thực thi pháp luật.

Yêu cầu cấp thiết về việc cải cách, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, đặc biệt là xây dựng và hoàn thiện pháp luật, nhằm phù hợp và đáp ứng các yêu cầu, tư tưởng của hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này càng quan trọng khi công việc hoàn thiện thể chế kinh tế cùng với việc phát triển nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ được Đại hội Đảng lần thứ XI xác định là ba đột phá chiến lược.

Phần dưới đây sẽ đưa ra một số đề xuất cụ thể đối với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm có liên quan của Trung Quốc (nếu có), đặc biệt là gắn với vấn đề quản trị công ty; tính độc lập của hệ thống Toà án, cũng như năng lực của đội ngũ thẩm phán.

 

 

2. Các giải pháp cụ thể

Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật thuế và giảm thiểu những tác động tiêu cực có liên quan tới các vấn đề kinh tế, xã hội ở Việt Nam do sức ép của hội nhập kinh tế quốc tế.

a) Về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

Một là, cần sửa đổi, bổ sung Biểu thuế xuất khẩu theo hướng khuyến khích sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hạn chế xuất khẩu khoáng sản, tài nguyên chưa qua chế biến, giảm hàng hóa gia công giá trị gia tăng thấp.

Hai là, cần sửa đổi, bổ sung thuế nhập khẩu nhằm bảo hộ hợp lý hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước; thu gọn số lượng mức thuế suất nhằm dần dần đơn giản biểu thuế, mã số hàng hóa...

Ba là, cần sửa đổi quy định về giá tính thuế và tỷ giá tính thuế cho thống nhất với pháp luật về xác định giá trị hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam và thông lệ quốc tế.

Bốn là, cần sửa quy định về phương pháp tính thuế (bao gồm cả phương pháp tính thuế hỗn hợp, kết hợp thuế suất theo tỷ lệ phần trăm và thuế suất tuyệt đối); thực hiện lộ trình điều chỉnh các mức thuế xuất khẩu, nhập khẩu, nhất là đối với các hàng hóa, dịch vụ thuộc nhóm cam kết quốc tế (ASEAN - AFTA; ASEAN + Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản; WTO...).

Và cuối cùng, cần nghiên cứu chuyển dần các quy định về quản lý thuế trong Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sang Luật Quản lý thuế.

b) Về thuế giá trị gia tăng

Cần nghiên cứu để phấn đấu trong 10 năm nữa về cơ bản áp dụng một mức thuế suất (không kể mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu) nhằm giảm bớt những khó khăn, thậm chí nguy cơ gian lận, tiêu cực trong khâu quản lý, thu thuế giá trị gia tăng do sự chưa rõ ràng trong việc áp dụng hai loại thuế suất trên thực tế đối với những hàng hoá, dịch vụ khó phân biệt rạch ròi. Đây là việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong điều kiện trình độ và phương tiện quản lý thuế của Việt Nam còn bất cập so với những vấn đề đó ở các nước phát triển. Đồng thời, cần hoàn thiện phương pháp tính thuế, tiến tới cơ bản thực hiện phương pháp khấu trừ thuế; quy định về ngưỡng doanh thu để áp dụng hình thức kê khai thuế giá trị gia tăng phù hợp với thực tế kinh doanh của người nộp thuế, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và thông lệ quốc tế.

c) Về thuế tiêu thụ đặc biệt

Cần nghiên cứu để bổ sung đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nhằm hướng dẫn điều tiết tiêu dùng phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng lộ trình điều chỉnh thuế suất đối với các mặt hàng thuốc lá, bia, rượu, ôtô... nhằm điều tiết tiêu dùng và thực hiện các cam kết quốc tế; nghiên cứu, bổ sung quy định về giá tính thuế đối với một số trường hợp hợp tác, phân công giữa các nước trong chuỗi sản xuất toàn cầu, bảo đảm điều tiết công bằng giữa hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong nước và hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu; nghiên cứu áp dụng kết hợp giữa thuế suất theo tỷ lệ và thuế suất tuyệt đối đối với một số hàng hóa, dịch vụ chịu thuế.

d) Thuế thu nhập doanh nghiệp

Cần điều chỉnh giảm mức thuế suất chung theo lộ trình phù hợp để thu hút đầu tư tạo điều kiện để doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích luỹ để đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh; đơn giản hoá chính sách ưu đãi thuế theo hướng thu hẹp về lĩnh vực ưu đãi, tiếp tục khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất, các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học, dịch vụ chất lượng cao, có giá trị gia tăng lớn, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có khả năng cạnh tranh để tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, lĩnh vực xã hội hoá, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.

đ) Tăng cường biện pháp tuyên truyền, giáo dục để nâng cao sự hiểu biết của người dân nói chung và những người làm việc tại các doanh nghiệp nói riêng về tác động hai mặt của hội nhập quốc tế tới hệ thống pháp luật thuế, từ đó thúc đẩy những đối tượng nói trên tăng cường ý thức phát huy thế mạnh của hội nhập quốc tế đối với nền kinh tế và đối với toàn xã hội

Cần tuyên truyền, phổ biến, giáo dục người dân nói chung và những người làm công ăn lương trong các doanh nghiệp nói riêng về mặt trái của hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là việc làm quan trọng vì nếu lầm tưởng rằng hội nhập kinh tế quốc tế tự thân nó sẽ đem lại tăng trưởng cho nền kinh tế sẽ dẫn đến nguy cơ những người làm trong doanh nghiệp không có tinh thần, trách nhiệm và ý thức phấn đấu để nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí nhằm hạ giá thành sản phẩm... khi đó hàng hoá và dịch vụ do các doanh nghiệp trong nước cung ứng cho xã hội sẽ không đủ sức cạnh tranh với các hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu vốn dĩ có thương hiệu... và từ đó, các doanh nghiệp trong nước sẽ khó đứng vững trước sức ép cạnh tranh của các hàng hoá và dịch vụ từ ngoài nước.

Việc tuyên truyền, phổ biến nhận thức đúng đắn về tác động hai mặt của hội nhập kinh tế quốc tế đối với toàn dân là việc làm không quá khó trong thời đại thông tin hiện nay. Có thể sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng như đài, tivi, báo, internet làm phương tiện truyền tải những thông tin cần thiết tới quảng đại quần chúng nhân dân. Riêng đối với nhóm những người mà nghề nghiệp gắn liền với các tế bào của nền kinh tế, các doanh nghiệp, cần có chương trình phổ biến kiến thức riêng như mở các lớp tập huấn, tổ chức toạ đàm để tạo điều kiện cho người lao động tham gia vào các hoạt động này và lĩnh hội được những kiến thức cần thiết, góp phần nâng cao tinh thần, trách nhiệm của họ trong công việc nói riêng và đối với lợi ích của toàn bộ nền kinh tế đất nước, với xã hội nói chung.

2.2. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật dịch vụ tài chính (chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm) đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

a) Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ chứng khoán

Từ kết quả phân tích, đánh giá quá trình nội luật hóa các cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ chứng khoán, một số đề xuất có thể đưa ra nhằm hoàn thiện pháp luật về dịch vụ chứng khoán ở Việt Nam như sau:

Thứ nhất, để tránh nguy cơ “bó” các công ty chứng khoán trong việc triển khai thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán (vốn dĩ là một trong những nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của công ty chứng khoán), cần sửa đổi quy định tại điểm d, khoản 7 Điều 71 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP theo hướng: “Công ty chứng khoán hoạt động tại Việt Nam không được góp vốn thành lập, mua cổ phần, phần vốn góp tại một công ty chứng khoán khác tại Việt Nam, ngoại trừ các trường hợp sau: a) Hoạt động hợp nhất, sáp nhập; b) Mua để sở hữu hoặc cùng với người có liên quan (nếu có) sở hữu không quá 5% số cổ phiếu đang lưu hành của công ty chứng khoán đã đăng ký giao dịch, niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán; hoặc c) Mua chứng khoán để bán lại nhằm thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán”.

Thứ hai, để tạo thuận lợi về thủ tục pháp lý cho các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam và bảo đảm tính minh bạch của các quy định hiện hành về dịch vụ chứng khoán so với thông lệ quốc tế, cần sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 76 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP theo hướng: Bỏ quy định về việc phải lập giấy ủy quyền riêng từng lần cho Trưởng đại diện trong việc thay mặt công ty mẹ để ký kết các hợp đồng liên quan đến hoạt động kinh doanh, đầu tư của công ty mẹ với các tổ chức kinh tế Việt Nam (nghĩa là chỉ cần có giấy ủy quyền hợp lệ, trong đó ghi rõ phạm vi ủy quyền thực hiện công việc). Đồng thời, pháp luật phải quy định rõ hậu quả pháp lý đối với giao dịch chứng khoán đã xác lập trong trường hợp Trưởng văn phòng đại diện của tổ chức cung ứng dịch vụ chứng khoán nước ngoài không gửi cho ủy ban chứng khoán nhà nước hoặc gửi muộn hơn 10 ngày kể từ ngày giấy ủy quyền có hiệu lực.

b) Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ ngân hàng

Nhóm tác giả đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật về dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam như sau:

Thứ nhất, cần nhận thức lại khái niệm dịch vụ ngân hàng và thống nhất quan niệm về dịch vụ ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế (quy định của WTO) trong các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam. Theo quy định chung của Hiệp định GATS, không có một khái niệm riêng cho dịch vụ ngân hàng mà trên thực tế, dịch vụ này (giống như dịch vụ về bảo hiểm và chứng khoán) được coi như một loại hình dịch vụ tài chính. Cũng theo Hiệp định này, dịch vụ tài chính là bất kì dịch vụ nào có tính chất tài chính, do một nhà cung cấp dịch vụ tài chính của một thành viên thực hiện. Nhà cung cấp dịch vụ tài chính là pháp nhân hoặc thể nhân của một thành viên muốn cung cấp hoặc đang cung cấp những dịch vụ tài chính nhưng thuật ngữ “nhà cung cấp dịch vụ tài chính” không bao gồm tổ chức công. Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác.

Theo ý kiến chúng tôi, cần quy định rõ trong Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành về các loại dịch vụ ngân hàng phù hợp với quan điểm của Hiệp định WTO và phù hợp với cam kết của Việt Nam.

Thứ hai, pháp luật cần quy định chặt chẽ hơn về các điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng, nhưng đồng thời phải đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong hoạt động cấp giấy phép (ví dụ, rút ngắn thời gian làm thủ tục thẩm định hồ sơ và cấp giấy phép theo hướng bảo đảm không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài). Mặt khác, cần có quy định thống nhất và đồng bộ giữa Luật Các tổ chức tín dụng với các văn bản hướng dẫn thi hành để bảo đảm tính công khai, minh bạch cho khuôn khổ pháp lý về dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam. Giải pháp này không chỉ nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng trên thị trường mà quan trọng hơn, đây còn là giải pháp nhằm nâng cao tính minh bạch và hiệu quả của các quy định về quản lý, giám sát từ phía Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng, góp phần làm giảm chi phí giao dịch và chi phí gia nhập thị trường của các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam, trong đó có các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.

Thứ ba, cần sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm bảo đảm tính minh bạch và hiệu quả cho pháp luật về dịch vụ ngân hàng. Các quy định cần được sửa đổi, bổ sung nhằm minh bạch hóa môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam bao gồm:

- Sửa đổi các quy định về điều kiện cấp giấy phép đối với các tổ chức nước ngoài có hoạt động dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam theo hướng tiến tới bảo đảm sự bình đẳng về các điều kiện cấp giấy phép giữa tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng trong nước với tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, cần sửa đổi, bổ sung Nghị định của Chính phủ số 22/2006/NĐ-CP ngày 28/02/2006 về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam theo hướng bảo đảm tính phù hợp, đồng bộ, thống nhất với các quy định hiện hành của Luật Các tổ chức tín dụng (2010);

- Sửa đổi quy định về chủ thể gửi tiền tiết kiệm tại tổ chức tín dụng theo hướng cho phép mọi tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài, kể cả các tổ chức kinh doanh đều được gửi tiết kiệm tại ngân hàng bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ;

- Sửa đổi các quy định về huy động vốn theo hướng quy định bình đẳng về giới hạn an toàn trong hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước ngoài có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam.

- Sửa đổi, bổ sung các quy định về dịch vụ thanh toán theo hướng quy định bình đẳng về quyền phát hành thẻ và cung cấp không giới hạn các dịch vụ thẻ tại Việt Nam giữa các tổ chức tín dụng nước ngoài và tổ chức tín dụng trong nước.

- Sửa đổi các quy định về cho thuê tài chính hiện hành theo hướng mở rộng đối tượng cho thuê tài chính, bao gồm cả động sản và bất động sản. Giải pháp này không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu thực tế của cả bên thuê và bên cho thuê trong quá trình cung cấp và sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính mà còn bảo đảm cho pháp luật Việt Nam về dịch vụ cho thuê tài chính phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.

c) Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ bảo hiểm

Nhóm tác giả xin có một vài ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật về dịch vụ bảo hiểm ở Việt Nam như sau:

Thứ nhất, cần cân nhắc việc thay đổi cấu trúc của Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành theo hướng: hoặc đổi tên Chương VI theo tiêu đề “những quy định về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bảo hiểm”, hoặc bỏ hẳn Chương VI và lồng ghép các quy định có tính hạn chế đối với doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài vào các chương khác có liên quan để tránh nguy cơ bị quy kết là vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia trong lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm.

Thứ hai, cần bổ sung, sửa đổi Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành văn bản luật này một số quy định cụ thể về phương thức “tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài” để bảo đảm việc tuân thủ đúng và đầy đủ các cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ bảo hiểm. Giải pháp cần thiết cho vấn đề này là Nhà nước có thể ban hành một văn bản riêng (dưới hình thức Nghị định hoặc Thông tư) quy định chi tiết về vấn đề sử dụng dịch vụ bảo hiểm tại Việt Nam của các tổ chức, cá nhân nước ngoài và sử dụng dịch vụ bảo hiểm ở nước ngoài của các tổ chức, cá nhân Việt Nam.

Thứ ba, cần sửa đổi các quy định về hiện diện thương mại của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam theo hướng: bổ sung thêm hình thức hiện diện thương mại của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài là công ty cổ phần bảo hiểm. Quy định theo hướng này không những vẫn bảo đảm phù hợp với cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ bảo hiểm trong khuôn khô WTO, mà còn góp phân tạo thêm cơ hội đầu tư tại Việt Nam cho các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm nước ngoài thông qua việc thành lập công ty cổ phần bảo hiểm (hoặc công ty cổ phần môi giới bảo hiểm) tại Việt Nam.

2.3. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật dịch vụ kế toán, kiểm toán và thuế, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

a) Cần làm rõ hơn các khái niệm về dịch vụ kế toán, dịch vụ thuế.

Cho tới nay, hai khái niệm này vẫn chưa được làm rõ trong các văn bản pháp luật, và trên thực tế cũng còn có những cách hiểu rất khác nhau. Hệ quả là, sự điều chỉnh pháp luật nhiều khi chồng chéo, ví dụ: dịch vụ thuế. Nếu căn cứ vào các quy định hiện nay, ít nhất có 3 tổ chức thực hiện dịch vụ thuế, đó là: đại lý thuế làm thủ tục thuế; các công ty luật, văn phòng luật sư làm tư vấn, tranh tụng về pháp luật thuế; các tổ chức, cá nhân hành nghề kế toán cũng thực hiện các công việc về kế toán thuế. Không chỉ có vậy, việc từng luật cụ thể hiểu khái niệm dịch vụ kế toán, thuế theo những nghĩa khác nhau đã làm cho pháp luật Việt Nam không có sự thống nhất với cách hiểu chung trong các cam kết quốc tế. Bởi vậy, các văn bản liên quan cần có sự bổ sung và quan niệm về dịch vụ kế toán, thuế phù hợp với thông lệ quốc tế.

Từ sự thống nhất cách hiểu theo thông lệ quốc tế, chúng ta có thể phải tiến hành một số công việc để tiếp tục “nội luật hóa” các cam kết như sau:

Một là, về dịch vụ thuế.

Luật Quản lý thuế nên được sửa đổi theo hướng, coi các doanh nghiệp làm dịch vụ thuế không chỉ giới hạn trong làm thủ tục thuế, mà còn bao gồm cả các công việc tư vấn thuế trong hoạch định chính sách của doanh nghiệp. Trong trường hợp sửa đổi như vậy, cần có sự hướng dẫn cụ thể và thích hợp hơn về điều kiện để làm đại lý thuế, cũng như hành nghề tư vấn thuế. Các hướng dẫn này có thể được quy định bởi một văn bản của cơ quan hành pháp.

Nếu Luật Quản lý thuế vẫn chỉ giữ phạm vi và đối tượng điều chỉnh như hiện nay, tức là giới hạn trong các quan hệ liên quan đến cơ quan thuế, thì khái niệm dịch vụ thuế trong luật này vẫn chỉ là làm thủ tục thuế. Do vậy, cần có sự bổ sung trong Luật Luật sư hoặc Luật Kế toán về phạm vi, điều kiện, đối tượng thực hiện việc tư vấn pháp luật thuế và tư vấn kế toán thuế.

Hai là, về Luật Kế toán.

Như ta thấy, dịch vụ kế toán được chia làm hai nội dung chính: các dịch vụ có bản chất liên quan trực tiếp tới sổ sách kế toán, báo cáo tài chính và các dịch vụ bổ trợ cho hoạt động kế toán như phần mềm kế toán, hệ thống thông tin. Mục đích cơ bản của Luật Kế toán là nên hướng vào các dịch vụ liên quan đến sổ sách, báo cáo kế toán. Do vậy, các điều kiện mà luật đặt ra khi thành lập doanh nghiệp dịch vụ kế toán chỉ cần bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ nêu trên.

b) Sửa đổi toàn diện Luật Kế toán 2003

Do ra đời trước thời điểm Việt Nam gia nhập WTO nên nhìn chung, Luật Kế toán đã lạc hậu. Một số nội dung cần phải sửa đổi trong Luật Kế toán là:

Một là, Luật cần quy định toàn diện về hoạt động dịch vụ kế toán. Thứ nhất, thay tên gọi “hành nghề kế toán” thành “cung cấp dịch vụ kế toán” cho phù hợp với thông lệ, cũng như phản ánh đúng hơn bản chất của hoạt động này. Thứ hai, Luật cần xác định rõ mô hình pháp lý cho hoạt động dịch vụ kế toán, nên theo hướng là các doanh nghiệp có “tính đối nhân”. Thứ ba, xác định rõ phạm vi và nội dung của dịch vụ kế toán.

Hai là, Luật cần có quy định về doanh nghiệp kế toán nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam phù hợp với thông lệ chung. Chẳng hạn về sự thừa nhận chứng chỉ kế toán của nước ngoài.

Ba là, có thể nội luật hóa các yêu cầu về cung cấp dịch vụ kế toán qua biên giới.

c) Cần bổ sung quy định pháp luật cho phép các doanh nghiệp kinh doanh một trong ba lĩnh vực dịch vụ kế toán, kềm toán hoặc thuế đều có thể cung ứng hai dịch vụ còn lại

Mặc dù, hiện nay, 3 lĩnh vực dịch vụ này được điều chỉnh bởi các văn bản riêng biệt, nhưng có thể dễ dàng nhận thấy trên thực tế, một doanh nghiệp hoạt động trên một trong ba lĩnh vực vẫn có thể thực hiện được công việc của 2 lĩnh vực kinh doanh dịch vụ còn lại. Điều này hoàn toàn dễ hiểu bởi vì ba lĩnh vực tư vấn này đều liên quan đến công tác tài chính và có nền tảng kiến thức chung về kế toán, tài chính. Vì vậy, có thể quy định, nếu một doanh nghiệp đã đáp ứng được yêu cầu để kinh doanh một trong ba lĩnh vực dịch vụ đang bàn ở đây thì cũng có thể kinh doanh 2 lĩnh vực dịch vụ còn lại nếu có đủ nguồn nhân lực và cơ sở vật chất cần thiết.

d) Các quy định về phương thức kinh doanh dịch vụ kế toán, kiểm toán và thuế còn thiếu minh bạch

Các cam kết của Việt Nam đối với dịch vụ kế toán, kiểm toán và thuế đều là cam kết tối đa (trừ hiện diện thể nhân). Tuy nhiên, ngoại trừ phương thức hiện diện thương mại được điều chỉnh chi tiết, các phương thức còn lại vẫn chưa có quy định cụ thể. Điều này, có thể làm cho nghĩa vụ minh bạch hóa của Việt Nam không được thực thi một cách trọn vẹn theo đúng cam kết với quốc tế. Bởi vậy, cần ban hành một Nghị định để quy định về cách thức thực hiện đối với tiêu dùng qua biên giới, tiêu dùng ở nước ngoài cho cả 3 dịch vụ kế toán, kiểm toán và thuế.

2.4. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp và đầu tư đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

a) Hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp

- Cần nhất quán trong quy định về luật áp dụng và thủ tục thành lập doanh nghiệp bất kể chủ thể sáng lập doanh nghiệp là nhà đầu tư nước ngoài hay trong nước và tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp đang hoạt động đứng ra góp vốn đăng ký thành lập doanh nghệp mới. Việc làm này sẽ bảo đảm Việt Nam thực hiện tốt nguyên tắc đối xử quốc gia như đã cam kết với quốc tế.

- Cần thống nhất về thủ tục đăng ký kinh doanh và quy công tác cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh về một đầu mối để cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho mọi doanh nghiệp, không phân biệt ngành nghề kinh doanh. Tất nhiên, điều kiện để được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp dự định kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau có thể khác nhau nhưng không nhất thiết phải duy trì nhiều cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh như hiện nay. Theo kinh nghiệm của nhiều nước phát triển trên thế giới, Toà án địa phương là cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp thành lập và hoạt động ở địa phương mình. Đây cũng là một bài học tốt mà Việt Nam nên tham khảo khi hoàn thiện những quy định về đăng ký kinh doanh trong thời gian tới.

- Có liên quan tới vấn đề quản trị doanh nghiệp, Việt Nam cũng tương tự Trung Quốc ở chỗ những thiết chế điển hình của nền kinh tế thị trường vừa mới du nhập vào cả hai nước, còn nhiều bỡ ngỡ trong cả khâu xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật. Vì vậy, cả hai quốc gia đều cần tiếp tục hoàn thiện mảng pháp luật điều chỉnh vấn đề này. Cụ thể là:

+ Cần sửa đổi quy định về giám đốc bên ngoài trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 theo hướng mỗi doanh nghiệp hoặc ít ra là mỗi công ty cổ phần đại chúng đều phải thuê giám đốc bên ngoài vì những lợi ích của giám đốc bên ngoài như đã được minh chứng ở Phần II Mục 1.4. Tiểu mục a. Việc làm này sẽ bảo đảm góp phần nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp cho các doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam, từ đó góp phần bảo vệ thoả đáng lợi ích của các cổ đông nhỏ.

+ Cần sửa đổi quy định về tỷ lệ biểu quyết để thông qua các quyết định của hội đồng thành viên (công ty trách nhiệm hữu hạn) và của đại hội cổ đông (công ty cổ phần) nhằm bảo đảm tính thống nhất giữa Luật Doanh nghiệp năm 2005 với Nghị quyết số 71/2006/NQ-QH11 và cũng là bảo đảm thực hiện các cam kết với WTO về không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp đến từ các quốc gia khác nhau. Hơn nữa, sửa đổi tỷ lệ biểu quyết này còn nhằm bảo đảm sự nhất quán của chính các điều, khoản của cùng một đạo luật, Luật Doanh nghiệp năm 2005 có liên quan tới nguyên tắc bình đẳng giữa các doanh nghiệp và nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thoả thuận giữa các chủ sở hữu doanh nghiệp.

b) Hoàn thiện pháp luật đầu tư

- Cần nhất quán trong quy định về các dự án đầu tư phải làm thủ tục đăng ký đầu tư bất kể dự án đầu tư đó là của nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước ngoài để bảo đảm thực thi nguyên tắc đối xử quốc gia mà Việt Nam đã cam kết khi gia nhập WTO và cam kết trong các hiệp định song phương, đa phương khác.

- Cần làm rõ một số khái niệm trong Luật Đầu tư ví dụ khái niệm “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”, “nhà đầu tư nước ngoài”... để bảo đảm có cách hiểu luật và áp dụng luật nhất quán và bảo đảm sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp khi tham gia vào sân chơi chung.

- Cần bổ sung một số quy định về ưu đãi đầu tư và về điều kiện để được cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các nhà đầu tư đến từ các nước không phải là thành viên WTO để khuyến khích và tăng cường khả năng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn vào kinh doanh tại Việt Nam.

- Cần gỡ bỏ quy định về chế độ báo cáo tài chính và báo cáo kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh hiện đang áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm giảm thiểu bớt gánh nặng cả về nguồn nhân lực và về chi phí cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể áp dụng chung yêu cầu về minh bạch thông tin đối với các doanh nghiệp là công ty đại chúng theo pháp luật chứng khoán để bảo đảm tính nhất quán của pháp luật và không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp.

2.5. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật cạnh tranh đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

a) Rà soát và khắc phục những bất cập còn tồn tại của pháp luật cạnh tranh

Đến nay, đã có nhiều nghiên cứu nhằm trả lời câu hỏi tại sao việc thực thi Luật Cạnh tranh tại Việt Nam lại gặp khá nhiều khó khăn đến như vậy? Các lý do được đưa ra thường là: các nguồn lực thực thi Luật còn hạn chế; trình độ nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp và người dân nói chung về các quy định trong Luật Cạnh tranh chưa cao... Và nguyên nhân được cho là có ảnh hưởng lớn nhất chính là bản thân Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn còn có bất cập, gây vướng mắc cho việc giải thích và áp dụng trên thực tế.

Vì vậy, trước hết cần phải rà soát, đánh giá và khắc phục những bất cập còn tồn tại trong pháp luật cạnh tranh, bảo đảm pháp luật cạnh tranh phải: tạo lập và thúc đẩy các cơ hội bình đẳng và không phân biệt đối xử trong cạnh tranh của các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế; bảo vệ và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh; ngăn chặn các hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của doanh nghiệp và của người tiêu dùng... Đặc biệt, pháp luật cạnh tranh phải là hành lang pháp lý chung, tạo tiền đề cho pháp luật chuyên ngành thực hiện kiểm soát cạnh tranh và cơ sở pháp lý vững chắc cho Việt Nam trong quá trình đàm phán các cam kết quốc tế.

b) Bảo đảm sự tương tác với các lĩnh vực pháp luật khác

Trong kiểm soát vi phạm cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh và pháp luật chuyên ngành phải có sự tương tác lẫn nhau. Hay nói cách khác, để hoàn thiện cơ chế kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật cạnh tranh về vấn đề này, chúng ta cần tăng cường các lĩnh vực pháp luật có liên quan như (i) tiếp tục triển khai thi hành Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và tăng cường hoàn thiện các quy định pháp luật về gia nhập và rút lui khỏi thị trường, khuyến khích các chủ thể kinh doanh, các nhà đầu tư tham gia và hoạt động trên thị trường lành mạnh; (ii) hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng, củng cố cơ chế giám sát của hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng đối với hoạt động của các chủ thể kinh doanh; (iii) tăng cường hệ thống pháp luật về kiểm soát giá các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền; (iv) tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về thuế, tài chính; giải quyết hài hòa lợi ích giữa các doanh nghiệp; không phân biệt doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.

c) Hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật cạnh tranh

Thứ nhất, phương thức cơ bản của kiểm soát hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh là bảo đảm cho các doanh nghiệp luôn luôn có được những thông tin cần thiết về các yêu cầu của pháp luật cạnh tranh, của cơ quan quản lý cạnh tranh đối với quyền và nghĩa vụ của mình. Bên cạnh đó, hoạt động quản lý của cơ quan quản lý cạnh tranh cũng đòi hỏi phải luôn có thông tin về quá trình hoạt động trên thị trường của doanh nghiệp. Như vậy, xét một cách tổng quan thì dù ở góc độ nào, việc bảo đảm thông tin luôn phải được đáp ứng và đặt lên hàng đầu.

Thứ hai, trong cơ chế thực thi pháp luật cạnh tranh cần làm rõ vai trò của Nhà nước và giảm ảnh hưởng của Nhà nước đến sự hình thành độc quyền bằng con đường hành chính.

Thứ ba, một trong các khó khăn khi thực thi pháp luật cạnh tranh hiện nay là xung đột pháp luật và phân định thẩm quyền giữa các cơ quan thực thi. Để khắc phục tình trạng này chúng ta nên đẩy mạnh hoạt động vận động chính sách cạnh tranh trong các cơ quan nhà nước, nhất là đối với các cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh. Thông qua việc thực hiện các chương trình khác nhau các cơ quan sẽ đưa ra các sáng kiến hướng tới củng cố thị trường, bảo vệ phát triển kinh tế tự do và công bằng. Khi đó, các cơ quan thực thi sẽ tăng cường mối quan hệ sâu rộng và cùng nhau phối hợp đưa pháp luật cạnh tranh vào thực tiễn đời sống.

Thứ tư, cần phải nâng cao cơ chế thực thi pháp luật cạnh tranh thông qua việc nhanh chóng phát hiện các hành vi vi phạm. Để phát hiện hành vi một cách hiệu quả đòi hỏi có sự phối hợp của cá nhân, tổ chức và toàn xã hội. Bên cạnh việc xử lý vi phạm thông qua sự khiếu kiện của đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng, các điều tra viên cũng cần phải chủ động tìm kiếm và thu thập thông tin qua các kênh thông tin như báo chí, quan hệ với các cơ quan nhà nước khác để phát hiện những dấu hiệu vi phạm.

Thứ năm, khuyến khích cơ quan thực thi áp dụng thủ tục khám xét để tìm kiếm những thông tin, bằng chứng mà các điều tra viên cho rằng doanh nghiệp không cung cấp cho cơ quan điều tra. Theo đó, cơ quan điều tra cạnh tranh được quyền điều tra chính thức, áp dụng quyền khám xét và thu giữ tang vật có liên quan đến các doanh nghiệp bị nghi ngờ. Với thẩm quyền như vậy, cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ dễ dàng điều động điều tra viên tiến hành khám xét đúng lúc, đúng thời điểm nhằm thu được những chứng cứ quan trọng xác thực, nhanh chóng đưa vụ việc ra xử lý.

Thứ sáu, cơ quan thực thi cạnh tranh nên phát hành những thông cáo báo chí nhằm phổ biến rộng rãi tới mọi doanh nghiệp, mọi tầng lớp xã hội về những thông tin liên quan đến việc thụ lý, điều tra và xử lý các vụ việc cạnh tranh nhằm tranh thủ sự ủng hộ của toàn xã hội cũng như răn đe các doanh nghiệp có ý định vi phạm. Đồng thời tăng cường công tác nghiên cứu và đào tạo về cạnh tranh trên mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước.

2.6. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật môi trường đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

- Đối với các cam kết về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học

Một là, cần chú trọng hơn nữa trong việc xác định những yếu tố nào của đa dạng sinh học. Tiếp đến cần xây dựng các tiêu chí pháp lý để xác định các loài sinh vật, cũng như các nguồn gen sinh vật nguy cấp, quý, hiếm, được ưu tiên bảo vệ và xem đây là những căn cứ quan trọng để phân biệt giữa các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học phải bảo tồn với các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học cần phát triển bền vững; các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học được phép khai thác, sử dụng phục vụ cho các mục đích phát triển kinh tế, xã hội. Trong quá trình xây dựng các tiêu chí nêu trên, cần học hỏi triệt để kinh nghiệm pháp lý của các tổ chức quốc tế và các quốc gia đi trước trong lĩnh vực này như IUCN, WWF, Birthlife...

Hai là, pháp luật môi trường Việt Nam cần chú trọng đến công tác quy hoạch bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học, trong đó cần sớm có các quy định về nhất thể hóa các loại quy hoạch có liên quan đến bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học. Việc quy hoạch bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học cần tính đến các mối quan hệ sau:

+ Quan hệ giữa quy hoạch tổng thể về bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học với quy hoạch bảo tồn từng yếu tố tài nguyên và đa dạng sinh học;

+ Quan hệ giữa quy hoạch bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học với quy hoạch phát triển bền vững tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học; quy hoạch khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học;

+ Quan hệ giữa quy hoạch bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học với các quy hoạch phát triển đô thị, phát triển kinh tế, xã hội.

+ Hài hòa hóa quy hoạch về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học giữa cấp trung ương với cấp địa phương, giữa quy hoạch chung của cả nước với quy hoạch của các bộ, ngành...

Ngoài ra, cũng cần lưu ý là làm tốt công tác quy hoạch bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học không chỉ là để phù hợp với các cam kết quốc tế về bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học mà còn phù hợp với các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu và bảo vệ tầng ôzôn.

Trong quá trình xây dựng quy hoạch bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, Việt Nam cũng cần tham khảo kinh nghiệm của các nước đi trước trong việc mở rộng các mô hình hỗ trợ bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học như xây dựng và quản lý hành lang đa dạng sinh học...

Ba là, cùng với pháp luật về tổ chức bộ máy, pháp luật môi trường cần góp phần vào việc kiện toàn lại tổ chức bộ máy về quản lý nhà nước đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học. Tình trạng mỗi nguồn tài nguyên lại do một ngành quản lý trong những năm qua đã cho thấy sự bất cập cần phải được giải quyết trong thời gian tới. Chậm trễ kiện toàn hệ thống này sẽ khiến cho Việt Nam gặp trở ngại trong việc tiếp cận sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế trong bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học, cũng như khó khăn trong việc nội luật hóa các cam kết quốc tế trong lĩnh vực này.

Ngoài thiết chế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc bảo tồn và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học, Việt Nam cũng cần mở rộng các thiết chế xã hội trong việc tổ chức bảo tồn và phát triển bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học, như công nhận quyền quản lý và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học của các tổ chức phi chính phủ, hộ gia đình, cá nhân thay vì chỉ tập trung vào tổ chức thuộc khu vực nhà nước. Điều này chính là nội luật hóa cam kết tăng cường sự tham gia của cộng đồng dân cư vào việc bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học.

Bốn là, riêng đối với Công ước về đa dạng sinh học, Việt Nam cần khẩn trương thực thi các yêu cầu đã cam kết nhưng chưa có điều kiện thực hiện trong thời gian qua, như đưa các chủ đề về bảo tồn đa dạng sinh học và an toàn sinh học vào chương trình giáo dục; thúc đẩy và tạo thuận lợi hợp tác khoa học và kỹ thuật thông qua cơ chế trao đổi thông tin...

Năm là, riêng đối với Công ước Cites, quá trình sửa đổi, bổ sung Danh mục động vật, thực vật nguy cấp, quý hiếm, được ưu tiên bảo vệ theo Luật Đa dạng sinh học 2008 trong thời gian tới cần phải tham khảo các quy định trong các Phụ lục 1, 2, 3 của Công ước Cites để bảo đảm mức độ tương thích cao hơn với những cam kết quốc tế trong lĩnh vực này.

Sáu là, riêng đối với Công ước Ramsar, Việt Nam cần mở rộng điều tra cơ bản về các vùng đất ngập nước là nơi cư trú của các loài chim di cư để bổ sung vào Danh mục các vùng Ramsar, thông tin tới cộng đồng quốc tế và xây dựng quy chế quản lý thống nhất các vùng đất này.

- Đối với các cam kết về kiểm soát ồ nhiễm môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu

Một là, do chưa phải thực hiện nghĩa vụ giảm phát thải khí nhà kính theo yêu cầu của các cam kết quốc tế, song nếu Việt Nam chủ động hạn chế phát thải khí nhà kính ngay từ thời điểm này thì uy tín đối với các nhà tài trợ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường sẽ tăng lên rõ rệt, điều đó sẽ có lợi cho Việt Nam trong việc có thêm nguồn lực bảo đảm cho việc thực thi các cam kết quốc tế. Ngoài ra, việc hạn chế phát thải kính ngay từ bây giờ sẽ giúp Việt Nam kéo dài được thời gian đưa vào danh sách các nước phải có nghĩa vụ cắt giảm phát thải khí nhà kính, đồng thời tránh cú “shock” đối với nền kinh tế khi phải thực hiện triệt để nghĩa vụ giảm phát thải.

Hai là, Việt Nam cần có các bước đi tắt, đón đầu trong việc hoạch định các chính sách về năng lượng không phát thải để từng bước thay thế năng lượng phát thải. Từ đây sẽ góp phần làm giảm hiệu ứng nhà kính vốn là nguyên nhân sâu xa của biến đổi khí hậu. Chính sách và pháp luật về năng lượng sạch, năng lượng tái tạo của Việt Nam trong thời gian tới không chỉ tính đến các khía cạnh giá, ưu đãi về tài chính mà còn phải tính đến các ưu đãi về thủ tục hành chính, ưu đãi về công nghệ, về bảo đảm quyền sở hữu... Điều này một mặt giúp cho Việt Nam hội nhập nhanh hơn với nền kinh tế thế giới, mặt khác giúp Việt Nam có thêm nguồn lực về tài chính để cùng với các khoản viện trợ quốc tế đủ chi cho các dự án ứng phó với biến đổi khí hậu.

Ba là, yêu cầu về thông tin, quan trắc xuất hiện trong tất cả các cam kết về kiểm soát ô nhiễm môi trường. Việt Nam cần nội luật hóa đầy đủ và sâu sắc hơn nữa những nội dung này. Cụ thể là người dân có quyền tiếp cận các thông tin về môi trường và biến đổi khí hậu, ngược lại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm phải cung cấp thông tin về môi trường và biến đổi khí hậu đến với người dân.

Bốn là, như trên đã phân tích, việc thực thi nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế về bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học rừng cũng sẽ có ý nghĩa rất to lớn đối với việc giảm thiểu thiên tai có nguyên nhân từ biến đổi khí hậu. Từ đây, nảy sinh nhu cầu lồng ghép các hoạt động cụ thể của các công ước về bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học với các công ước về kiểm soát ô nhiễm môi trường, cũng như kết nối các cơ quan đầu mối công ước trong việc tổ chức thực hiện các nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam đã cam kết trong 2 nhóm công ước nêu trên, đặc biệt là giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Năm là, riêng đối với Công ước khung về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto, “Cơ chế phát triển sạch” (CDM) được xem là chìa khóa của sự thành công, do vậy, Việt Nam cần nội luật hóa toàn diện hơn nữa đối với cơ chế này, đặc biệt là các quy định hướng dẫn cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp xây dựng dự án CDM tại Việt Nam sau khi đã có các nghiên cứu dự báo về thị trường buôn bán các "Giảm phát thải được chứng nhận - CERs”.

Sáu là, riêng đối với Công ước Viên và Nghị định thư Montreal về bảo vệ tầng ozôn, Việt Nam cần tranh thủ hơn nữa sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính từ Quỹ đa phương để phục vụ cho việc nghiên cứu các giải pháp công nghệ hoặc các chất thay thế chất làm suy giảm tầng ôzôn và để nâng cao nhận thức của công chúng trong việc bảo vệ tầng ôzôn.

Xây dựng Luật Không khí sạch cũng sẽ góp phần vào việc đáp ứng các yêu cầu của bốn điều ước nêu trên.

Bảy là, riêng đối với Công ước Basel, Việt Nam cần chú trọng hơn nữa vào các quy định về nhập khẩu phế liệu vì phế liệu được xem là “ranh giới mong manh” giữa việc đáp ứng hay không đáp ứng các yêu cầu của công ước này.

2.7. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật lao động đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

Nhóm tác giả đề xuất 04 nhóm giải pháp nhằm cải thiện tình trạng xây dựng và thực thi pháp luật lao động theo hướng đáp ứng ngày càng cao yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta:

Về công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật lao động của người lao động, người sử dụng lao động và các chủ thể có liên quan

Việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật lao động, trong đó có các công ước quốc tế về lao động cần phải tiến hành thường xuyên với những nội dung, hình thức phù hợp với từng nhóm đối tượng nhằm nâng cao nhận thức và ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người lao động, người sử dụng lao động và các chủ thể có liên quan.

Đặc biệt, Việt Nam muốn hướng tới mục tiêu áp dụng trực tiếp các công ước quốc tế về lao động trên thực tế, không cần chờ nội luật hóa thì càng yêu cầu công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật lao động phải thực sự nâng cao về chất lượng.

- Về hoàn thiện hệ thống pháp luật lao động ở Việt Nam

Hệ thống pháp luật lao động Việt Nam cần được hoàn thiện theo hướng khắc phục tất cả các bất cập nói trên. Cụ thể:

+ Thứ nhất, cần tạo ra sự đồng bộ, thống nhất trong toàn hệ thống pháp luật lao động: bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất giữa Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phải được tôn trọng và bảo đảm thực hiện trên thực tế; bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất giữa Bộ luật Lao động và các luật chuyên biệt trong lĩnh vực lao động (Luật Công đoàn, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Dạy nghề, Luật Người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng...); bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất giữa Bộ luật Lao động với các đạo luật có liên quan (Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại...).

+ Thứ hai, cần bảo đảm tính khả thi của hệ thống pháp luật lao động nhằm đáp ứng được các yêu cầu của kinh tế thị trường nói chung, thị trường lao động nói riêng.

+ Thứ ba, cần tạo lập và duy trì các cơ chế cần thiết và hợp lý để giải quyết các vấn đề phát sinh từ quan hệ lao động và thị trường lao động, như: cơ chế thương lượng tập thể, cơ chế tham khảo ý kiến ba bên, cơ chế giải quyết khiếu nại trong lao động, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động...

+ Thứ tư, cần tăng cường sức mạnh của các biện pháp chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật lao động nhằm hỗ trợ cho việc tăng cường ý thức chấp hành pháp luật lao động.

- Về  việc phê chuẩn, thực thi các công ước quốc tế về lao động

+ Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, chuyển hóa các quy định của Công ước chưa cụ thể vào pháp luật trong nước, đặc biệt là 5 Công ước cơ bản mà Việt Nam đã phê chuẩn.

+ Thứ hai, tuyên truyền rộng rãi và từng bước chuẩn bị các điều kiện để có thể áp dụng trực tiếp các quy định của Công ước Việt Nam đã phê chuẩn mà không chờ đợi việc chuyển hóa vào pháp luật trong nước.

+ Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu để tiến hành phê chuẩn các Công ước khác của ILO, trong đó tập trung vào các Công ước liên quan đến việc xây dựng và phát triển thể chế kinh tế thị trường phục vụ cho quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam; Tiến hành nghiên cứu các Công ước cơ bản còn lại chưa phê chuẩn như Công ước số 105 về xóa bỏ lao động cưỡng bức và bắt buộc, Công ước số 87 về tự do hiệp hội và bảo vệ quyền tổ chức, Công ước số 98 về quyền tổ chức, thương lượng tập thể để phê chuẩn vào thời điểm thích hợp.

- Về  tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật lao động

+ Thứ nhất, cần có những biện pháp phù hợp để tổ chức thực hiện các công ước quốc tế và các văn bản pháp luật quốc gia về lao động trên thực tế.

+ Thứ hai, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật lao động. Trong đó, cần tăng cường lực lượng thanh tra viên lao động, thực hiện rộng rãi và hiệu quả hơn quy chế thanh tra viên phụ trách vùng; tăng cường năng lực và hiệu quả của đội ngũ cộng tác viên trong công tác thanh tra lao động; tạo điều kiện để tổ chức đại diện người lao động, người sử dụng lao động và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác tham gia quá trình quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật lao động.

+ Thứ ba, kiên quyết xử lý và xử lý nghiêm tất cả các hành vi vi phạm pháp luật lao động của người sử dụng lao động, người lao động và các chủ thể khác có liên quan bằng các biện pháp chế tài đủ mạnh để vừa trừng phạt người vi phạm, răn đe người vi phạm và những người khác cũng như giáo dục ý thức chấp hành pháp luật lao động nói chung.

Tóm lại, cần phải xây dựng và tổ chức thực hiện một hệ thống giải pháp đồng bộ, từ tuyên truyền, giáo dục pháp luật lao động, đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật lao động hiện tại, chuẩn bị các điều kiện thực tế tốt hơn cho việc thực hiện các cam kết quốc tế về lao động cũng như tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát và xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật lao động.

2.8. Một số đề xuất hoàn thiện các cơ quan tài phán đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

a) Một số yêu cầu chung

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ quan tài phán của Việt Nam cần được tiến hành trên cơ sở những yêu cầu chung sau đây:

Thứ nhất, đa dạng hóa các cơ chế tài phán để tạo điều kiện cho việc lựa chọn phương thức phù hợp nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức;

Thứ hai, các thiết chế tài phán cần được xây dựng và hoàn thiện theo hướng chuyên nghiệp hóa, nhằm bảo đảm có thể xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp pháp lý một cách có hiệu quả nhất;

Thứ ba, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ quan tài phán ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập phải hướng đến các chuẩn mực giá trị chung của hệ thống tài phán của các quốc gia trên thế giới;

Thứ tư, trong bối cảnh hội nhập, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống tài phán của Việt Nam cần được thực hiện trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước phát triển, phù hợp với bối cảnh cụ thể của Việt Nam.

b) Một số giải pháp cụ thể

Thứ nhất, nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống Tòa án được xác định là công việc trọng tâm để thúc đẩy hiệu quả hoạt động của hệ thống tài phán trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Để thực hiện được nhiệm vụ này, cần phải giải quyết hàng loạt các vấn đề đặt ra, cụ thể là:

+ Nghiên cứu và xúc tiến việc thiết lập Tòa án Hiến pháp thực hiện nhiệm vụ phán quyết tính hợp hiến trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân nhằm tạo ra một cơ chế bảo hiến hữu hiệu ở Việt Nam;

+ Nghiên cứu và chính thức trao chức năng giải thích luật thành văn cho Toà án, là cơ quan mà công việc hàng ngày đều gắn với việc áp dụng pháp luật. Việc làm này vừa bảo đảm pháp luật thành văn được giải thích và áp dụng nhất quán, vừa bảo đảm Việt Nam có một hệ thống Toà án với vai trò và chức năng tương đồng với hệ thống Toà án ở nhiều nước trên thế giới. Đây là việc làm có ý nghĩa lớn, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đã diễn ra hết sức sâu và rộng ở nước ta hiện nay. Bất cứ một hiện tượng trái quy luật chung nào của quốc tế cũng sẽ có khả năng gây nghi ngờ cho cộng đồng quốc tế trong quan hệ với Việt Nam.

+ Một vấn đề của hệ thống Toà án Việt Nam hết sức tương tự với pháp luật của Trung Quốc đó là tính độc lập của Toà án. cần nghiên cứu và hiến định về sự độc lập của hệ thống Toà án nói chung và của người thẩm phán nói riêng để bảo đảm nguyên tắc Toà án xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật thực sự đi vào cuộc sống. Trung Quốc cũng đã trải qua những khó khăn, vướng mắc và có nhiều trăn trở do sự thiếu độc lập của hệ thống Toà án và đã đưa vấn đề độc lập của Toà án lên thành vấn đề quan trọng trong cải cách. Việt Nam chúng ta không nên xem nhẹ vấn đề này.

+ Phù hợp với xu thế chuyên nghiệp hóa, cần nghiên cứu để thiết lập một số Tòa chuyên trách khác làm nhiệm vụ giải quyết các vụ việc phát sinh trong các lĩnh vực có nhiều tranh chấp, vi phạm nảy sinh đặc biệt trong bối cảnh xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Phù hợp với logíc này, việc thành lập các Tòa chuyên trách về sở hữu trĩ tuệ, đất đai, môi trường là những đề xuất cần được ưu tiên;

+ Phù hợp với Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta, việc thiết lập hệ thống Tòa án theo thẩm quyền, không phụ thuộc vào cấp quản lý hành chính nhằm bảo đảm tính độc lập trong xét xử của hệ thống Tòa án là vấn đề cần được đặc biệt ưu tiên. Nói cách khác, đề án thành lập Tòa án khu vực cần sớm được hiện thực hóa để khắc phục những bất cập liên quan đến độc lập xét xử của hệ thống Tòa án của nước ta.

+ Nâng cao năng lực đội ngũ thẩm phán của hệ thống Tòa án để bảo đảm đội ngũ này có đủ khả năng giải quyết các vụ việc phát sinh đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Để giải quyết được vấn đề này, ngoài việc tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm phán đương nhiệm và thẩm phán nguồn, việc cân nhắc để bổ sung những luật sư có nhiều kinh nghiệm và đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, chính trị vào đội ngũ thẩm phán của hệ thống Tòa án cũng là điều cần xem xét. Kinh nghiệm từ Trung Quốc về mở những cơ sở đào tạo và cấp đào tạo đội ngũ thẩm phán không nên bỏ qua.

+ Để nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống Tòa án của nước ta, vấn đề quan trọng là tăng cường bổ sung cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác xét xử của ngành Tòa án bởi lẽ đây là điều kiện hỗ trợ quan trọng giúp thẩm phán và các cán bộ của hệ thống Tòa án có thể hoàn thành tốt các công việc được giao.

Thứ hai, nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống cơ quan tài phán của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế cần thiết phải chú trọng việc nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống Trọng tài thương mại ở nước ta. Trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, để thực hiện được nhiệm vụ này cần phải giải quyết tốt các công việc sau đây:

+ Tuyên truyền, giáo dục để giúp các bên tranh chấp hiểu và nhận rõ được ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài để trên cơ sở đó họ tự nguyện lựa chọn phương thức này cho việc giải quyết tranh chấp của mình;

+ Nâng cao trình độ, năng lực của Trọng tài viên, đặc biệt là khả năng am hiểu pháp luật quốc tế, trình độ ngoại ngữ và các vấn đề chuyên môn khác. Ngành Tư pháp hiện đang xây dựng Đề án đào tạo luật sư phục vụ mục tiêu hội nhập và việc triển khai thực hiện Đề án này góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu nêu trên. Để làm tốt điều này, việc tranh thủ sự hỗ trợ, hợp tác của các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ nước ngoài để đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ luật sư của Việt Nam cũng nên được xem là một giải pháp thiết thực;

+ Cần xác định một cách rõ ràng và có cơ chế thực hiện cụ thể những nội dung hỗ trợ của hệ thống Tòa án đối với trọng tài để làm cho trọng tài thực sự là một phương thức giải quyết tranh chấp được tin cậy và có thể chia sẻ được gánh nặng công việc với hệ thống Tòa án.

Thứ ba, cùng với cơ chế tài phán hiện có, chúng ta cần học tập kinh nghiệm của các nước có hệ thống tài phán phát triển để bổ sung những cơ chế tài phán phù hợp, phục vụ đắc lực và hiệu quả cho việc xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp pháp lý nảy sinh. Đề án thành lập cơ quan tài phán hành chính hiện đang bị tạm dừng để nhường chỗ cho những công việc cần ưu tiên. Tuy vậy, về phương diện nghiên cứu, cần tiếp tục triển khai để hiểu rõ bản chất của thiết chế này và khi có đủ điều kiện cần thiết có thể sẵn sàng tiếp nhận thiết chế pháp lý mới vào hệ thống tài phán hiện có của nước ta.

3. Trật tự ưu tiên thực hiện các giải pháp đã đề xuất

Có lẽ sẽ quá thiếu thực tế nếu đặt ra yêu cầu phải đồng thời thực hiện đồng bộ tất cả các giải pháp. Việc đưa ra một trật tự ưu tiên nhằm thực hiện các giải pháp đã đề xuất, vì vậy, trở nên hết sức cần thiết.

Tuy nhiên, việc xác định trật tự ưu tiên nào lại phụ thuộc rất nhiều vào việc các nhà hoạch định chính sách coi mục tiêu nào là mục tiêu trọng yếu của quốc gia. Giả thiết rằng với một nước đang phát triển như Việt Nam, việc thu hút đầu tư nước ngoài nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế được đặt lên hàng đầu, khi đó, lộ trình thực hiện các đề xuất ở mục trên có thể được hoạch định như sau:

Thực tế này đòi hỏi trước hết, cần ưu tiên thực hiện các đề xuất hoàn thiện mảng pháp luật đầu tư, doanh nghiệp và thuế, là những lĩnh vực giới đầu tư nước ngoài quan tâm trước tiên trong số những lĩnh vực pháp luật mà đề tài đã triển khai nghiên cứu. Bất cứ một nhà đầu tư nào khi thăm dò, tìm kiếm một môi trường đầu tư mới cũng quan tâm tới chính sách, pháp luật của nước chủ nhà có liên quan đến trình tự, thủ tục cấp phép đầu tư, mức độ ưu đãi đầu tư và trình tự, thủ tục thành lập doanh nghiệp cũng như chính sách thuế áp dụng đối với các chủ thể kinh doanh. Trong mỗi mảng pháp luật đầu tư, doanh nghiệp và thuế, cần ưu tiên thực hiện các giải pháp gắn với việc hoàn thiện các quy định pháp luật phù hợp với cam kết quốc tế trước; tiếp đến là hoàn thiện các quy định pháp luật theo thông lệ của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.

Thứ hai, cần ưu tiên thực hiện các đề xuất hoàn thiện pháp luật lao động, đặc biệt ưu tiên thực hiện hoàn thiện những quy định pháp luật gắn với việc bảo vệ lợi ích của người lao động.

Đây là vấn đề hết sức nhạy cảm, thể hiện sự tôn trọng và đề cao quyền con người nói chung và quyền của người lao động nói riêng của Chính phủ Việt Nam - một vấn đề bị xuyên tạc và bóp méo bởi một số phần tử xấu trong cộng đồng quốc tế. Vì vậy, giải quyết ổn thoả vấn đề này, môi trường đầu tư của Việt Nam sẽ trở nên hấp dẫn hơn trong con mắt của các nhà đầu tư nước ngoài, xét từ phương diện chính trị - xã hội.

Thứ ba, cần ưu tiên hoàn thiện hệ thống các cơ quan tài phán cả về vị trí, tổ chức và hoạt động của các cơ quan này, nhằm xây dựng và củng cố lòng tin của cộng đồng đầu tư đến từ ngoài nước đối với cơ quan tài phán nói chung và hệ thống Toà án nói riêng của Việt Nam. Đây là việc làm cũng hết sức có ý nghĩa giúp các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm bỏ vốn đầu tư vì biết rằng họ và tài sản của họ cũng như những lợi ích hợp pháp của họ sẽ được bảo vệ và tin tưởng vào sự công bằng của cơ quan tài phán, của những người cầm cân nảy mực trong trường hợp nếu tranh chấp xảy ra trong quá trình kinh doanh tại Việt Nam.

Thứ tư, những đề xuất về hoàn thiện pháp luật về dịch vụ kế toán, kiểm toán, thuế và cạnh tranh cũng cần được thực hiện nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng và có thể đánh giá được thực chất giá trị của các doanh nghiệp. Đây là việc làm có ý nghĩa không nhỏ trong việc thu hút đầu tư gián tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam song song với việc đầu tư gián tiếp từ trong nước. Dịch vụ kế toán, kiểm toán yếu kém sẽ làm giảm tính minh bạch, chính xác trong kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp, gây khó khăn cho giới đầu tư trong việc đánh giá các mặt hàng trên thị trường chứng khoán, từ đó ảnh hưởng tiêu cực tới quyết định đầu tư của các nhà đầu tư trên thị trường đặc biệt này. Trong tình huống đó, một kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế sẽ bị thu hẹp do sự lo ngại của giới đầu tư và nền kinh tế không được hưởng lợi tối đa từ kênh huy động vốn này.

Tiếp đến, hoàn thiện những bất cập của pháp luật về môi trường. Mặc dù, bảo vệ môi trường là vấn đề được quan tâm trên phạm vi toàn cầu nhưng dường như lại chỉ là mối quan tâm của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế chứ không phải của cá nhân các doanh nghiệp hay giới đầu tư. Thực tế cho thấy, đây là lĩnh vực pháp luật có ít tác động nhất tới quyết định đầu tư của giới đầu tư. Tuy nhiên, không thể không chú trọng tới việc hoàn thiện mảng pháp luật này vì mục tiêu sức khoẻ của cộng đồng dân cư Việt Nam nói riêng và con người nói chung. Pháp luật môi trường phát triển cùng với cơ chế thực thi pháp luật hiệu quả sẽ buộc các doanh nghiệp phải tôn trọng yêu cầu bảo vệ môi trường trong quá trình kinh doanh; không đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên hết, bất chấp những nguy hại tiềm tàng có thể dẫn đến đối với thị trường.

Cuối cùng nhưng cũng không kém phần quan trọng là thực hiện giải pháp về tuyên truyền, phố biến, giáo dục sự tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới cộng đồng người dân nhằm nâng cao sự hiểu biết của họ; từ đó giúp họ có cái nhìn đúng đắn về những thuận lợi và thách thức mà quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có thể đem lại và cùng chung tay góp sức khai thác thế mạnh của hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy lùi hoặc đối phó hiệu quả với những thách thức của tiến trình này.



[1]    Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/20Ọ7 của Chinh phủ về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần, Nghị định số 139/2007/NĐ-CP ngày 05/9/2007 của Chĩnh phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, Nghị định số 109/2008/NĐ-CP ngày 10/10/2008 của Chính phủ quy định về bán, giao doanh nghiệp 100% vốn nhà nước,...

[2]   Xem Luật Doanh nghiệp năm 2005, Nghị định số 139/2007/ NĐ-CP, Luật đầu tư và Nghị định số 108/2006/NĐ-CP.

[3]

Bao gôm: Luật Báo hiêm xã hội năm 2006, Nghị định

[5] Theo báo điện tử ATP Vietnam (2009a)

[6]  Nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ;  Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Nghị định số14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

[7] 22% trong tổng số doanh nghiệp được hỏi trong cuộc điều tra doanh nghiệp năm 2009 do Ban Thư ký Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức cho biết có cải thiện trong thực thi pháp luật

[8] Theo Quyết định số 30/QĐ-TTg ngày 10/01/2007 về việc Phê duyệt Đề án Đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 – 2010

[9]   Theo World Bank và IFC (2008, 2009, 2010).

[10]. Cương lĩnh xây dựng đât nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chú thích số 218, tr. 83-84.

[11]. Luật số 41/2005/QH11 ngày 14/6/2005 (khoản 1 và 2 Điều 6).

[12]. Một trong những nguyên tăc xây dựng, ban hành văn bán quy phạm pháp luật là ““không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Xem khoản 5 Điều 3 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật số 17/2008/QH12 ngày 03/6/2008).

[13] Xem khoản 3 Điều 33 và điểm b khoản 2 Điều 61 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.

[14] Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 09/01/2012 (Mục 5).

[15]  Pháp lệnh số 41/2002/PL-UBTVQH10 ngày 25/5/2002.

[17]. Ví dụ: Chương 4 Hiệp định thương mại Việt - Mỹ ký năm 2000, Chương 11 Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Australia - New Zealand ký năm 2009.

[18]. Ví dụ, xem Điều 2 Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt - Anh ký năm 2002, Điều 3 và 5 Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt - Pháp ký năm 1992

[19] Điều 25 và Điều 58 Hiến pháp 1992

[20] Xem Tuyên ngôn độc lập cua Việt Nam năm 1945 và Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1776. Điều 16 Hiến chương về các quyền cơ bản của Liên minh châu Âu (EUCFR) thừa nhận quyền tự do kinh doanh là một trong những quyền cơ bản của con người.

 

[21]. Khoán 3 Điều 3 Luật Ban hành văn bán quy phạm pháp luật năm 2008.

[22]   Điều 78 Luật Ban hành văn bán quy phạm pháp luật năm 2008

[23]. Xem Lời nói đầu của Hiệp định thành lập WTO; Tám mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) của Liên hợp quốc, trong United Nations, The Millennium Development Goals Report 2011, New York, 2011, http://www.un.org/millenniumgoals/pdf/%282011_E%29%20 MDG%20Report%202011_Book%20l_R.pdf.

[24]  Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chú thích số 220, tr. 72; Điều 2 Hiến pháp năm 1992.

[25]. Nội dung được tóm tắt theo Bản giái thích về dịch vụ liệt kê trong Hệ thống phân loại sản phẩm chủ yếu của Liên Hợp Quốc, thường gọi tắt là Phân loại dịch vụ theo theo CPC.

[26] Ngày 28/02/2005 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 40/2005/QĐ-TTg về việc thành lập Hội đồng quốc gia  về bảo hộ lao động  trong đó có 15 thành viên là người đại diện cho các bộ, ngành. Quyết định có ghi “Mời đại diện đoàn chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam làm Phó Chủ tịch hội đồng; mời đại diện lãnh đạo Hội đồng liên minh các Hợp tác xã. Hội nông dân Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội đồng khoa học kỹ thuật an toàn - Vệ sinh lao động tham gia hội đồng” (Điều 1).  

[27] Xem thêm báo cáo kêt quả khảo sát tác động của hội nhập quốc tế đối với pháp luật lao động của Đề tài này.

[28]. Xem Viện nghiên cứu quản lý kinh tế (CIEM), Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với nền kinh tế sau ba năm Việt Nam gia nhập WTO, 2010, tr. 95. http://trungtamwto.vn/sites/default/files/Bao%20cao%20, KT-XH%203%20nam%20WT0.pdf

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm ...