• Thuộc tính
Tên đề tài Trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Nội dung tóm tắt

Trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng là vấn đề pháp lý được Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội rất quan tâm, đặc biệt đối với Việt Nam khi bước vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI và đang trong giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường cùng với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Hiến pháp 2013 đã được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014 và hiện nay, một số đạo luật đang tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc đề xuất ban hành mới nhằm triển khai thi hành Hiến pháp 2013. Hiến pháp 2013 (Điều 77, Điều 98, Điều 99) đã có quy định về trách nhiệm giải trình của các cơ quan, cá nhân công quyền (trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước), là cơ sở pháp lý để nhà nước tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.

Ngày 23/11/2012, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN), trong đó đã bổ sung Điều 32a của Luật với quy định “Khi có yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải giải trình về quyết định, hành vi của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao trước cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, lợi ích hợp pháp bị tác động trực tiếp bởi quyết định, hành vi đó” và bổ sung Điều 46b quy định về nghĩa vụ giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCTN cũng giao cho Chính phủ quy định chi tiết về trách nhiệm của cơ quan có nghĩa vụ giải trình; trình tự, thủ tục của việc giải trình; thẩm quyền yêu cầu giải trình, trách nhiệm của người giải trình…Ngày 08/08/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao; ngày 29/4/2014, Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư số 02/2014/TT-TTCP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Nghị định số 90/2013/NĐ-CP…

Như vậy, Việt Nam về cơ bản đã có một số văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các nội dung liên quan đến trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước nói chung, trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, xét về tính tổng thể, hệ thống cũng như yêu cầu về chất lượng của các quy định này vẫn còn có một số vấn đề bất cập, cụ thể là việc xác định phạm vi chủ thể thực hiện trách nhiệm giải trình; phân biệt giữa trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước (chủ thể tổ chức) và trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan này (chủ thể cá nhân); giải trình mang tính chủ động - coi đó là một nghĩa vụ của các chủ thể quản lý nhà nước khi thực thi quyền lực công nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch, công bằng, dân chủ hay chỉ giải trình khi được yêu cầu; giải trình thuộc về trách nhiệm của chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính hay các chủ thể này chỉ có nghĩa vụ tổ chức việc giải trình cho các đối tượng có liên quan; cơ chế kiểm soát về trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình ban hành quyết định hành chính, cơ chế thực hiện quyền tiếp cận thông tin của người dân … vẫn còn là những vấn đề pháp lý còn bỏ ngỏ. Đặc biệt, cơ quan hành chính nhà nước là một chủ thể quan trọng liên quan đến trách nhiệm giải trình vì hoạt động của các cơ quan này diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, dù vô tình hay cố ý đều có thể tiềm ẩn trong đó nguy cơ xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ.

Vì vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như yêu cầu hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng có vai trò quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý, tăng cường sự gắn kết giữa nhà nước với nhân dân – chủ thể thực sự của quyền lực nhà nước trong chế độ XHCN, đồng thời góp phần tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước theo tinh thần mới sửa đổi của Hiến pháp 2013 (Điều 3).

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nhằm nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn về giải trình và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước trong nhà nước pháp quyền; đánh giá thực trạng thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước tại Việt Nam; trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện và nâng cao việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước tại Việt Nam theo hướng xác định đây là một cơ chế hiệu quả nhằm tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực của bộ máy nhà nước[1], thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, giảm tham nhũng, nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và trách nhiệm trong hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng, qua đó góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân[2].

Phạm vi nghiên cứu của Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề giải trình và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước (chủ thể tổ chức) và các cán bộ, công chức làm việc trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước (chủ thể cá nhân) – chủ thể hàng ngày hàng giờ phải thực hiện các hoạt động quản lý hành chính nhà nước phát sinh trên tất cả các lĩnh vực, đòi hỏi tính linh hoạt, chủ động, kịp thời, hiệu quả, đồng thời cũng tiềm ẩn sự xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng quản lý có liên quan, do đó yêu cầu đảm bảo tính minh bạch, công khai và thực hiện nghiêm túc trách nhiệm giải trình là hết sức cần thiết. Đề tài không đi sâu vào nghiên cứu về trách nhiệm giải trình của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân thực hiện quyền lực công, ví dụ như của hệ thống Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Quốc hội, của các cá nhân thực hiện quyền lực nhà nước nằm ngoài hoạt động hành pháp. 

Đề tài phân tích, nhận xét, đánh giá quy định pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước nhưng có tập trung giới thiệu, phân tích một số lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước cụ thể, mang tính thời sự hiện nay (như trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính, quản lý đất đai, quy hoạch đô thị, cấp và thu hồi giấy phép, quản lý ngân sách nhà nước, vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước…) – được xem là cách thức phân tích tình huống để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu đang được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước ưu tiên áp dụng.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI VÀ MỘT SỐ LUẬN ĐIỂM CHÍNH

1. Vấn đề nghiên cứu của Đề tài (Research Question)

          Như tên gọi của Đề tài nghiên cứu, vấn đề nghiên cứu của Đề tài là trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, trong đó tập trung làm sáng tỏ các vấn đề mang tính lý luận liên quan đến trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước (đề tài giới hạn phạm vi chủ thể thực hiện trách nhiệm giải trình chỉ là các cơ quan hành chính nhà nước mà không phải tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân thực hiện quyền lực công); giới thiệu, phân tích, nhận xét, đánh giá về thực trạng quy định pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước hiện nay (trong đó có giới thiệu, phân tích một số lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước mang tính thời sự); nghiên cứu một số kinh nghiệm nước ngoài về trách nhiệm giải trình của các cơ quan, tổ chức, cá nhân công quyền (Nhật Bản, Mỹ, Đức, Pháp, Hàn Quốc và Trung Quốc), qua đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật đối với trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trong bối cảnh triển khai thi hành Hiến pháp 2013, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

          Đề tài được thiết kế ba chương, mỗi chương nhằm giải quyết các nội dung nghiên cứu cụ thể của Đề tài.  

2. Nội dung nghiên cứu cụ thể và một số luận điểm chính

2.1. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước (Chương 1)

Để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước, nhóm nghiên cứu đã phân tích, làm sáng tỏ một số nội dung lý luận về trách nhiệm giải trình, bao gồm khái niệm, nội dung, hình thức, chủ thể thực hiện trách nhiệm giải trình (trong đó giới hạn chủ thể thực hiện trách nhiệm giải trình các cơ quan hành chính nhà nước); làm sáng tỏ vấn đề trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ với các nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; mối quan hệ với việc thực hiện nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước (là điểm mới của Hiến pháp 2013); với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và sự cần thiết phải quy định cơ chế kiểm soát trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước (đây là vấn đề còn bỏ ngỏ hiện nay).

          - Về khái niệm “trách nhiệm giải trình”

          Trên cơ sở nghiên cứu quan điểm học thuật của một số học giả trong nước và nước ngoài, đặc biệt là của học giả Klitgaard, Robert E (năm 1988) trong cuốn sách “Controlling Corruption” có đưa ra quan điểm “nguy cơ xảy ra tham nhũng được đề cập thông qua phương trình: C = D + M – A – T”, trong đó: C (corruption) - Tham nhũng; M (Monopoly) - Tính độc quyền; D (Discretion) - Tính tùy tiện; A (Accountability) - Trách nhiệm giải trình; T (Transparency) - Tính minh bạch[3], đồng thời trên cơ sở nghiên cứu quy định hiện hành của Việt Nam liên quan đến vấn đề giải trình (Hiến pháp 2013, Luật Đất đai, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng chống tham nhũng, Nghị định số 90/2013/NĐ-CP ngày 08/08/2013 quy định về trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao…), nhóm nghiên cứu đã mạnh dạn đưa ra khái niệm về “trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước” trên cơ sở kế thừa, học tập kinh nghiệm nước ngoài và đảm bảo nhất quán với khái niệm “giải trình” được quy định trong Nghị định số 90/2013/NĐ-CP.

Theo đó, khái niệm trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước được định nghĩa như sau:

Trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước là trách nhiệm của cơ quan nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà nước (thuộc hệ thống hành pháp) và cán bộ, công chức thuộc hệ thống cơ quan này, chủ động thực hiện việc giải trình hoặc phải thực hiện nhiệm vụ giải trình khi bị các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan yêu cầu, nhằm cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó, qua đó nhằm đảm bảo tính minh bạch, công khai trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, bảo đảm và bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân có liên quan, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân.

          - Về nội dung và hình thức giải trình

Nội dung giải trình chính là những vấn đề cụ thể mà các chủ thể có trách nhiệm giải trình (bao gồm các cơ quan hành chính nhà nước và các cán bộ, công chức có thẩm quyền trong hệ thống cơ quan này) phải chuẩn bị và trả lời với các chủ thể quản lý trên cấp hoặc với các đối tượng quản lý có liên quan, có thể dưới hình thức bằng văn bản hoặc bằng miệng.

Nội dung yêu cầu giải trình phải liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu và người thực hiện việc giải trình để bảo đảm đúng mục đích của việc giải trình. Giải trình ở đây là giải thích về những nội dung liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao nhằm đảm bảo tính hợp pháp và tính hợp lý[4] trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.

Trách nhiệm giải trình được thực hiện bằng các hình thức khá đa dạng, theo đó:

(a) Từ góc độ bảo đảm quyền được thông tin của người dân nói chung, trách nhiệm giải trình được thể hiện bằng hai hình thức là: giải trình chủ động và giải trình bị động (giải trình khi được yêu cầu).

(b) Xem xét dưới góc độ quản lý hành chính nội bộ và tác động ra bên ngoài, trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức và người có thẩm quyền thường được phân thành hai loại: một là, giải trình trong hệ thống[5]; hai là, giải trình ra bên ngoài[6].

(c) Xem xét trách nhiệm giải trình dưới góc độ đối tượng tiếp nhận việc giải trình của chủ thể có thẩm quyền, trách nhiệm giải trình được chia làm hai loại: một là, trách nhiệm giải trình đối với toàn thể nhân dân; hai , trách nhiệm giải trình đối với một hoặc một số nhóm đối tượng nhất định.

          - Về chủ thể thực hiện trách nhiệm giải trình

Trong phạm vi Đề tài này, nhóm nghiên cứu chỉ giới hạn nghiên cứu trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu về tính công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhóm nghiên cứu đã làm rõ bản chất và tính chất đặc thù của trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước đúng như phạm vi giới hạn của Đề tài về chủ thể. Cụ thể là, xuất phát từ hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước  bao trùm tất cả các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, tác động tới tất cả các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, toàn thể xã hội và xảy ra hàng ngày, hàng giờ, đồng thời, xuất phát từ tính linh hoạt của hoạt động quản lý hành chính, được sử dụng sức mạnh cưỡng chế nhà nước khi cần thiết và mang bản chất quyền tự định đoạt của chủ thể trong phạm vi thẩm quyền được trao, do đó, trong mối quan hệ với người dân luôn ẩn chứa trong đó nguy cơ có thể xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng có liên quan.

Bên cạnh đó, khi phân tích về chủ thể thực hiện trách nhiệm giải trình, quan điểm của nhóm nghiên cứu là không chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước (chủ thể tổ chức) mà còn nghiên cứu, phân tích trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức (chủ thể cá nhân), cả trong mối quan hệ nội bộ - với cấp trên và trong mối quan hệ với người dân khi thực thi công vụ, nhiệm vụ được giao.

- Khi phân tích về tính lý luận của trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước, nhóm nghiên cứu đã đặt nó trong mối quan hệ với các nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; mối quan hệ với việc thực hiện nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước; với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và sự cần thiết phải quy định cơ chế kiểm soát trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước là những vấn đề vừa mang tính lý luận vĩ mô, vừa mang tính pháp lý (Hiến pháp 2013 vừa bổ sung quy định, hoặc đang là vấn đề pháp lý mới quy định mà chưa thực sự đầy đủ, hoặc còn bỏ ngỏ), vừa mang tính thực tiễn nhằm thực hiện quy chế dân chủ ở cở sở, bảo đảm và bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay.

2.2. Phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước (Chương 2)

- Về cơ sở pháp lý:

+ Hiến pháp 2013.

+ Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12/5/2009 của Chính phủ về Chiến lược quốc gia phòng chống tham nhũng đến năm 2020.

+ Luật Phòng chống tham nhũng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng chống tham nhũng ngày 23/11/2012.

+ Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Đất đai (2013), Luật Thanh tra, Luật Xây dựng, Luật Ngân sách nhà nước, Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn…

+ Nghị định số 90/2013/NĐ-CP ngày 8/8/2013 của Chính phủ quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao (Nghị định số 90/2013/NĐ-CP).

+ Thông tư số 02/2014/TT-TTCP ngày 29/4/2014 của Thanh tra Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 90/2013/NĐ-CP (Thông tư số 02/2014/TT-TTCP).

- Nhận xét, đánh giá về thực trạng quy định pháp luật:

  Trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước và pháp luật quy định về vấn đề này còn đang là một vấn đề rất mới. Hiến pháp 2013 có hiệu lực ngày 01/01/2014 và hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu triển khai thi hành Hiến pháp 2013, các dự án luật liên quan đến tổ chức bộ máy, quyền và nghĩa vụ của công dân, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng trong mối quan hệ với các tổ chức, cá nhân trong các lĩnh vực cũng đang được xây dựng, đề xuất và xin ý kiến của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội Khóa XIII. Liên quan trực tiếp đến trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 90/2013/NĐ-CP và Thanh tra Chính phủ mới ban hành Thông tư số 02/2014/TT-TTCP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 90/2013/NĐ-CP. Đến thời điểm này, chưa có sự tổng kết, thống kê, đánh giá chính thức từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về nội dung pháp luật và thực tiễn trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước, do đó, Nhóm nghiên cứu cũng đã cố gắng tập hợp tài liệu và phân tích từ các nguồn đã được công bố, hoặc đang trong giai đoạn chuẩn bị và cách đánh giá, tiếp cận riêng của nhóm nghiên cứu nhằm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của Đề tài nghiên cứu. 

(1) Kết quả:

Một là, về cơ bản trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng đã được quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam, từ Hiến pháp - đạo luật cơ bản cơ bản đến một số luật chuyên ngành và một số văn bản dưới luật…

Hai là, việc quy định về trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng là một bước ngoặt quan trọng nhằm đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động QLNN, giúp cho các chủ thể quản lý hành chính khi ban hành các quyết định hành chính đảm bảo tính hợp pháp, tính hợp lý và tính khả thi.

Ba là, việc quy định về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước là một biểu hiện của việc mở rộng quyền dân chủ của người dân, cụ thể như trong xử lý vi phạm hành chính, không coi đối tượng vi phạm là tội phạm mà trao cho họ cơ hội được trình bày ý kiến, trên cơ sở đó, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xử phạt có thể áp dụng mức xử lý đúng đắn nhất. Hoặc trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai, việc lập kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất, việc thu hồi đất cũng cần phải thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân công quyền, đảm bảo quyền dân chủ thực sự của người dân khi tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước.

Bốn là, việc quy định về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước cũng là hình thức nâng cao việc giáo dục pháp luật cho người dân nói chung, trong đó có cả các tổ chức, cá nhân vi phạm. Thông qua giải trình, có thể họ hiểu rõ pháp luật hơn, qua đó có thể hạn chế việc khiếu nại, giúp nhân dân hoặc người vi phạm hiểu rõ hơn về hoạt động quản lý nhà nước về đất đai, hoặc hoạt động xử phạt mang tính công vụ của chủ thể có thẩm quyền, từ đó có thái độ hợp tác đúng đắn.

Năm là, việc quy định về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước đã đóng góp quan trọng vào việc xây dựng và thực thi cơ chế bảo đảm và bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân khi tham gia vào các quan hệ pháp luật hành chính với nhà nước.

(2) Hạn chế:

Một là, chưa phân định rõ ràng thẩm quyền lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng với thẩm quyền quản lý điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước, từ đó, làm cho việc thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trở nên không rõ ràng, khó xác định, gặp khó khăn, vướng mắc[7].

Hai là, việc quy định giải trình và tổ chức việc giải trình trong mối quan hệ với vấn đề “trách nhiệm giải trình” của các cơ quan hành chính nhà nước chưa rõ ràng, đặc biệt liên quan đến trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng...

Luật tổ chức Chính phủ 2001 cũng chưa phân định thẩm quyền và trách nhiệm giữa Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong một số vấn đề như lãnh đạo bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo UBND, Chủ tịch UBND... làm ảnh hướng đến việc thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ, của Thủ tướng trước Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, trước Nhân dân.

Thiết chế Bộ trưởng chưa được phát huy dẫn đến tình trạng các Bộ trưởng đẩy nhiều công việc thuộc thẩm quyền lên cho Thủ tướng giải quyết. Hiến pháp 1992 (Hiến pháp 2013) đều đã xác lập rất rõ ràng thiết chế Bộ trưởng - người "chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vực, ngành mình phụ trách trong phạm vi cả nước", tuy nhiên, vị trí, vai trò hiến định này của Bộ trưởng đã không được thực thi đúng với nội dung và tinh thần quy định của Hiến pháp. Luật tổ chức Chính phủ 2001, các luật chuyên ngành và các qui định của Chính phủ đều có sự nhầm lẫn về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ với Bộ trưởng, thậm chí làm biến mất vai trò, trách nhiệm của Bộ trưởng (để chỉ còn lại chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của Bộ). Điều này dẫn đến không làm rõ và đề cao được trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của Bộ trưởng trong quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực.

Luật Xử lý vi phạm hành chính (Điều 61) chỉ quy định nhiệm vụ giải trình của tổ chức, cá nhân vi phạm mà chưa xác định trách nhiệm giải trình của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong việc ban hành quyết định xử lý vi phạm hành chính; chưa quy định hình thức chủ động giải trình, theo nghĩa là cung cấp đầy đủ thông tin về việc ban hành quyết định xử phạt, chủ động tổ chức lắng nghe ý kiến phản hồi từ phía cá nhân, tổ chức vi phạm.

Ba là, bộ máy hành chính theo quy định còn mang nặng tính thứ bậc, quan liêu làm cho việc thực hiện trách nhiệm giải trình chưa kịp thời, dẫn đến tình trạng đối phó, bị động khi phải thực hiện trách nhiệm giải trình.

Bốn là, phạm vi những vấn đề thuộc bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật về bí mật nhà nước còn quá rộng và mập mờ đã làm ảnh hưởng nhiều đến việc thực hiện đầy đủ trách nhiệm giải trình.

Năm là, quy định hiện hành chưa chú trọng đến việc xác định cơ chế kiểm soát, xử lý vi phạm trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước. Chỉ có một số ít quy định nhưng lại mang tính nguyên tắc, dẫn chiếu, tản mát và khó xác định đặc biệt là rất hạn chế về cơ chế xử lý. Bên cạnh đó, các chế tài xử lý trong các văn bản này (nếu đặt ra) cũng còn rất nhẹ, mang tính hình thức, chưa đủ sức răn đe để ngăn chặn chủ thể có trách nhiệm giải trình vi phạm trách nhiệm giải trình.

Sáu là, chưa xác định rõ mối quan hệ giữa giải trình trong nội bộ với giải trình với công chúng đối với hoạt động của các cơ quan hành chính, nhất là trong thời đại phát triển công nghệ thông tin.

- Nhận xét, đánh giá về tổ chức thực hiện pháp luật:

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, như đảm bảo tính công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận thông tin cũng như chia sẻ những băn khoăn, thắc mắc của mình đối với hoạt động của các cơ quan công quyền, thông qua hoạt động giải trình của các cơ quan có thẩm quyền, người dân hiểu, tin hơn vào chế độ, chính sách, pháp luật của nhà nước, qua đó có thể giảm tải vụ việc khiếu kiện của người dân…, thì trong việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước trong thời gian qua còn có một số hạn chế, bất cập cụ thể như sau:

Một là, do pháp luật chưa có sự phân định rõ ràng về thẩm quyền lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng với thẩm quyền quản lý điều hành của các cơ quan nhà nước, dẫn đến tình trạng bao biện, can thiệp, làm thay của các tổ chức đảng đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Điều này, đã làm cho việc thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trở nên không rõ ràng, khó xác định, gặp khó khăn, vướng mắc. 

Hai là, do pháp luật chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm giải trình của cả tập thể Chính phủ và của cá nhân Thủ tướng Chính phủ, do đó, trong thực tiễn việc thực hiện trách nhiệm giải trình, báo cáo trước Quốc hội của các chủ thể này còn có nhiều bất cập, chưa xác định rõ nội dung, phạm vi và cơ chế chịu trách nhiệm của các chủ thể này.

Ba là, liên quan đến thiết chế Bộ trưởng chưa được phát huy dẫn đến tình trạng các Bộ trưởng đẩy nhiều công việc thuộc thẩm quyền lên cho Thủ tướng Chính phủ giải quyết. Do các luật chuyên ngành và các qui định của Chính phủ còn có sự nhầm lẫn về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ với Bộ trưởng[8], thậm chí làm biến mất vai trò, trách nhiệm của Bộ trưởng, dẫn đến không đề cao được trách nhiệm giải trình của Bộ trưởng đối với ngành, lĩnh vực do mình quản lý[9].

Bốn là, do pháp luật về bí mật nhà nước quy định những vấn đề thuộc bí mật nhà nước còn quá rộng và mập mờ, dẫn đến, trong thực tiễn, việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước chưa được đầy đủ và hiệu quả, nhất là việc thực hiện trách nhiệm giải trình trước nhân dân.

Năm là, bộ máy hành chính còn mang nặng tính thứ bậc, quan liêu làm cho việc thực hiện trách nhiệm giải trình chưa kịp thời, còn phổ biến tình trạng đối phó, bị động khi phải thực hiện trách nhiệm giải trình.

Sáu, trên thực tế, việc thực hiện giải trình trong nội bộ, của cấp dưới với cấp trên trong bộ máy hành chính còn mang tính hình thức; trong khi đó việc giải trình ra bên ngoài (liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân) còn chưa được chú trọng, chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nhân dân để từ đó, nhân dân có thể thực hiện tốt quyền giám sát, phản biện đối với cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện chức năng, thẩm quyền được giao.

Bảy là, do pháp luật chưa có quy định về cơ chế kiểm soát, xử lý đối với các cơ quan hành chính nhà nước vi phạm trách nhiệm giải trình, nên trong thực tế, khi có vi phạm về vấn đề này vẫn chưa có các biện pháp xử lý thích hợp.

- Về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trong một số lĩnh vực đặc thù

Nhóm nghiên cứu cho rằng việc đặt thêm một mục về “Trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trong một số lĩnh vực quản lý nhà nước đặc thù” thực chất là muốn làm rõ hơn về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện trách nhiệm giải trình đã trình bày, đánh giá ở trên – được xem là nội dung nghiên cứu cụ thể hơn, mang tính bổ sung, minh họa để làm rõ vấn đề nghiên cứu theo xu hướng tiếp cận của nhiều nhà nghiên cứu trong nước và trên thế giới hiện nay, vừa đảm bảo nội dung nghiên cứu theo chiều rộng và chiều sâu, cũng như góp phần giải quyết được một số vấn đề bức xúc mang tính thực tiễn.

  1. Trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính

Bên cạnh một số kết quả đáng ghi nhận, thì theo nhóm nghiên cứu trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính vẫn còn có một số hạn chế sau:

Một là, Luật Xử lý vi phạm hành chính mới chỉ xác định nhiệm vụ giải trình của tổ chức, cá nhân vi phạm mà chưa xác định trách nhiệm giải trình của cơ quan, cán bộ nhà nước có thẩm quyền ra quyết định xử phạt. Do đó, trong thực tiễn thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền ra quyết định xử phạt, đặc biệt đối với các quyết định xử lý vi phạm hành chính trái pháp luật, gây thiệt hại cho người dân, chủ thể có thẩm quyền chưa tổ chức việc giải trình hiệu quả, dẫn đến việc thực thi các quyết định xử lý vi phạm hành chính chưa cao, chưa thực sự đảm bảo lợi ích của người dân.

Hai là, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính chưa quy định về trách nhiệm chủ động giải trình của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền, theo nghĩa là cung cấp đầy đủ thông tin về việc ban hành quyết định, chủ động tổ chức việc lắng nghe ý kiến phản hồi từ phía các cá nhân, tổ chức vi phạm.

Ba là, Luật Xử lý vi phạm hành chính chỉ dừng lại ở việc quy định thủ tục giải trình đối với trường hợp áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc áp dụng mức phạt tiền tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức. Đối với trường hợp áp dụng hình thức xử phạt là tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm (dù là với số lượng lớn) thì Luật không xác định thuộc trường hợp phải tổ chức giải trình, điều này ít nhiều ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Bốn là, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính chưa quy định rõ về cơ chế kiểm soát việc ban hành quyết định xử phạt hợp tình, hợp lý, đúng pháp luật;  chưa quy định tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính có quyền yêu cầu chủ thể có thẩm quyền giải trình lý do ban hành quyết định xử lý vi phạm hành chính.

(2) Trong một số lĩnh vực khác (quản lý ngân sách, đất đai, cấp, thu hồi giấy phép và một số lĩnh vực khác…)

Bên cạnh một số kết quả đạt được còn có những hạn chế sau:

Một là, một số vấn đề về quản lý ngân sách nhà nước, quản lý tài sản công hiện nay vẫn còn những điểm chưa thực sự phù hợp với quy định của Hiến pháp 2013[10], dẫn đến sự cần thiết phải sửa đổi các quy định pháp luật có liên quan đến thu chi ngân sách, tăng cường trách nhiệm giải trình và bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý ngân sách nhà nước và quản lý tài sản công, nhằm tránh hành vi tham những, lãng phí, thất thoát và sử dụng không hiệu quả các nguồn vốn ngân sách và tài sản nhà nước.

Hai là, các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước đặc thù nói trên là lĩnh vực tương đối nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến lợi ích kinh tế của các chủ thể có liên quan (các tổ chức, doanh nghiệp) cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân (như việc cấp, thu hồi giấy phép, quản lý đất đai...)[11], trong khi đó pháp luật mới chỉ dừng lại ở việc quy định trách nhiệm giải trình khi có yêu cầu mà chưa đặt ra trách nhiệm giải trình mang tính chủ động, theo đó việc chủ động giải trình, cung cấp thông tin cho người dân, lắng nghe ý kiến của người dân để từ đó ban hành các quyết định hành chính hợp pháp, hợp lý phải là vấn đề được chú trọng nhằm xây dựng một nền hành chính phục vụ, dân chủ, công bằng, văn minh theo đúng nội dung Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã đề ra.

Ba là, việc thiếu cơ chế giám sát, xử lý đối với các trường hợp vi phạm trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước hoặc xử lý không hiệu quả, hình thức là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng coi thường kỷ cương, pháp luật của nhà nước.

2.3. Phương hướng, giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước (Chương 3)

- Về kinh nghiệm nước ngoài

Trong phạm vi nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật nước ngoài quy định về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước, một số nước được tập trung nghiên cứu bao gồm: Nhật Bản, Mỹ, Đức và Pháp, Hàn Quốc và Trung Quốc (thuộc các hệ thống pháp luật lớn, nước đang trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế thị trường có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam). Quan điểm tiếp cận là học tập những kinh nghiệm nước ngoài nhưng đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa pháp lý của Việt Nam, tránh việc đề xuất xây dựng các quy định pháp luật liên quan đến trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung từ “mớ hổ lốn của những thứ vay mượn từ nước ngoài”[12].

+ Được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, từ Hiến pháp đến các đạo luật như Luật Tiếp cận thông tin, Luật Thủ tục hành chính, Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Xử phạt hành chính, Luật Cưỡng chế hành chính, Luật Khiếu nại hành chính... (Nhật Bản, Mỹ, Đức); xác định rõ các trường hợp giải trình là giải trình chủ động và giải trình khi có yêu cầu; giải trình của chủ thể tổ chức và chủ thể cá nhân (Mỹ, Nhật Bản, Đức, Pháp); quy định quyền tiếp cận hồ sơ vụ việc (Đức, Pháp); quy định việc trưng cầu dân ý liên quan đến các vấn đề quy hoạch, kế hoạch sửa dụng đất vì mục đích quốc gia, công cộng,  quản lý đô thị, quản lý hệ thống giao thông công cộng…, người dân có thể phản hồi ý kiến thông qua hệ thống thông tin điện tử (the electronic public hearings) và cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm tiếp nhận, lắng nghe phản hồi và trả lời một cách thỏa đáng trong thời hạn quy định (Nhật, Đức, Hàn Quốc).

+ Trong Luật Xử phạt hành chính, Luật Cưỡng chế hành chính, các luật liên quan đến việc cấp và thu hồi giấy phép kinh doanh, xây dựng... đều có các điều khoản quy định quyền và trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước, cá nhân có thẩm quyền trong việc ban hành quyết định cũng như các tổ chức, cá nhân có liên quan, tạo điều kiện cho các bên có thể trao đổi ý kiến; quy định việc tổ chức phiên giải trình, lắng nghe ý kiến của các bên có liên quan (cơ quan hành chính nhà nước phải cho các đối tượng liên quan biết lý do việc từ chôi cấp phép hay thu hồi giấy phép...) (Đức, Nhật Bản, Pháp); quy định cụ thể việc giải trình trong trường hợp áp dụng các hình thức xử phạt là ngừng sản xuất kinh doanh, hủy bỏ giấy chứng nhận hoặc thu hồi giấy phép, xử phạt tiền với mức phạt cao[13], việc tổ chức nghe giải trình phải được thực hiện công khai, trừ những trường hợp liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật thương nghiệp, bí mật cá nhân... (Trung Quốc, Nhật Bản…).

- Về phương hướng hoàn thiện

(1) Dưới góc độ hoàn thiện pháp luật

Một là, về lý luận nhận thức liên quan đến yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tiếp cận với lý luận về nhà nước pháp quyền trên thế giới, đồng thời vẫn giữ được những đặc trưng của Á Đông và phù hợp với thực tiễn cách mạng và công cuộc đổi mới ở Việt Nam (Thể chế không chính thức của nhà nước pháp quyền).

Hai là, đặt yêu cầu hoàn thiện pháp luật liên quan đến trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ đảm bảo tính hợp hiến, thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành, tránh việc đặt ra các quy định chồng chéo, mâu thuẫn, gây khó khăn cho chính các cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình thực hiện cũng như cho người dân trong quá trình giám sát việc thực hiện trách nhiệm này thông qua các cơ quan đại diện của mình.

Ba là, đặt yêu cầu hoàn thiện pháp luật liên quan đến trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước hay quá trình nội luật hóa quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan công quyền ở Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế, các quy định của Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Bốn là, đặt yêu cầu hoàn thiện pháp luật liên quan đến trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước gắn liền với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân, trong đó xác định rõ hai nội dung chính là đảm bảo tính minh bạch, công khai trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước và đảm bảo việc bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân trước nguy cơ có thể bị xâm hại bởi cơ quan nhà nước trong quá trình thực thi công quyền;

Năm là, xác định rõ lộ trình, kế hoạch hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trong việc tổ chức triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, nghị quyết của Quốc hội, các văn bản chỉ đạo của hệ thống chính quyền các cấp.

(2) Dưới góc độ tổ chức thực hiện pháp luật

Một là, hoàn thiện tổ chức bộ máy thực thi pháp luật (cơ quan hành chính nhà nước), đề cao trách nhiệm giải trình của cơ quan và cá nhân công quyền trong trường hợp khi có yêu cầu giải trình hoặc chủ động thực hiện việc giải trình.

Hai là, phải nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.

Ba là, phải phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh tất cả những trường hợp vi phạm trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước;

Bốn là, phải đặt việc tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam như là một yêu cầu để Việt Nam tiến sâu vào quá trình hội nhập quốc tế, đảm bảo Việt Nam thực sự tham gia vào một sân chơi chung (common playing-gound) của cộng đồng quốc tế.

- Về giải pháp, kiến nghị cụ thể

(1) Về hoàn thiện pháp luật

Một là, cần thiết ban hành Luật Tiếp cận thông tin[14]; Luật Ban hành quyết định hành chính[15].

Dự thảo Luật cần quy định rõ việc tổ chức đối thoại trong ban hành quyết định hành chính bất lợi, quy định quyền tiếp xúc hồ sơ của tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc ban hành quyết định hành chính bất lợi, quyền tiếp cận thông tin của cơ quan hành chính nhà nước, thủ tục lấy ý kiến của người dân, các bên liên quan và các cơ quan chuyên môn trong việc ban hành quy hoạch, kế hoạch quản lý đai, quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, tài sản công, ban hành các quyết định hành chính bất lợi... Việc quy định này sẽ là cơ sở để các tổ chức, cá nhân là đối tượng thi hành của quyết định hành chính có quyền yêu cầu các cơ quan hành chính nhà nước ban hành quyết định có trách nhiệm giải trình trong trường hợp cho rằng việc ban hành các quyết định hành chính bất lợi có khả năng xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ.

Ba là, trong quá trình sửa đổi các luật liên quan đến tổ chức bộ máy như Luật Tổ chức Quốc hội; Luật Tổ chức Chính phủ, ban hành Luật Chính quyền địa phương..., một số luật chuyên ngành như Luật Xây dựng, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Phòng chống tham những, Luật XLVPHC... cần thiết quy định rõ trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước (chủ thể tổ chức) và cán bộ, công chức có thẩm quyền (chủ thể cá nhân); quy định rõ trách nhiệm giải trình của cả tập thể Chính phủ và của cá nhân Thủ tướng Chính phủ, phân định rõ trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng, tránh .tình trạng các Bộ trưởng đẩy nhiều công việc thuộc thẩm quyền lên cho Thủ tướng Chính phủ giải quyết; tránh quy định nhầm lẫn về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ với Bộ trưởng, thậm chí làm biến mất vai trò, trách nhiệm của Bộ trưởng, dẫn đến không đề cao được trách nhiệm giải trình của Bộ trưởng đối với ngành, lĩnh vực do mình quản lý; cần thiết quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước theo hướng không chỉ giải trình khi có yêu cầu mà phải chủ động giải trình.

Đặc biệt, cần thiết ban hành đồng bộ các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Phòng chống tham nhũng cũng như các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính có liên quan đến trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trong việc ban hành các quyết định, trong đó không chỉ hướng dẫn quy định về trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước (chủ thể tổ chức) mà còn phải quy định rõ trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức, người có thẩm quyền (chủ thể cá nhân) về việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ, giải trình về nguồn gốc tài sản tăng thêm hay các vấn đề có liên quan khác khi có yêu cầu.

Bốn là, liên quan đến lĩnh vực tài chính công và quản lý ngân sách nhà nước, để hoàn thiện nguyên tắc trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cần cải cách khung pháp lý trong phòng, chống tham nhũng nhằm đảm bảo sự minh bạch, trách nhiệm giải trình trong đó phải làm rõ những vai trò, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức. Bên cạnh đó, cần có sự kết hợp đồng bộ giữa việc cải cách chính sách, tăng tính minh bạch và nâng cao trách nhiệm giải trình trong quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước.

Năm là, đề xuất cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi Nghị định số 90/2013/NĐ-CP để khắc phục những hạn chế hiện nay[16].

Sáu là, việc nội luật hóa trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam cần thiết xây dựng lộ trình, kế hoạch cụ thể trong từng giai đoạn, đảm bảo phù hợp với luật pháp quốc tế, các quy định của Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

(2) Về tổ chức thực hiện pháp luật

Một là, trong quá trình ban hành văn bản cá biệt của các cơ quan hành chính nhà nước, trước hết phải bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ.

Hai là, trong giải trình việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, người có thẩm quyền cần xác định lộ trình thực hiện và tập trung vào các quy định về nghĩa vụ giải trình theo yêu cầu.

Ba là, liên quan đến lĩnh vực quản lý ngân sách nhà nước và công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, việc thực hiện trách nhiệm giải trình cần có những phương pháp tiếp cận mới đối với cán bộ quản lý ngân sách nhà nước và những người được giao trách nhiệm điều tra vụ việc trong công tác phòng chống tham nhũng. Bản kê khai thu nhập và tài sản dành cho cán bộ chủ chốt, nếu được kiểm chứng và công khai như ở nhiều nước khác, có thể là một công cụ hiệu quả hơn cho cuộc chiến chống tham nhũng. Ngoài ra, cũng cần tăng cường cải cách hành chính, trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương trước người dân, thúc đẩy và tạo điều kiện cho cộng đồng tham gia vào quá trình lập kế hoạch và chi tiêu ngân sách ở địa phương, đặc biệt là phần ngân sách do nhân dân đóng góp, đẩy mạnh tính công khai, minh bạch trong thủ tục hành chính.

Bốn là, cần thiết chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nhận thức, trình độ và đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Giải trình không có nghĩa là đã có hành vi vi phạm vì có thể giải trình để nhằm làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ lý do ban hành các quyết định, khi đối tượng đã thực sự hiểu và thuyết phục, sẽ giảm tải con đường khiếu nại hay khởi kiện vụ việc ra tòa án có thẩm quyền. Việc thực hiện tốt trách nhiệm giải trình sẽ còn giúp cho người dân tin tưởng hơn vào hoạt động công vụ của cán bộ, công chức nhà nước, từ đó sẽ thúc đẩy mối quan hệ hợp tác và thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, hiệu quả.

Năm là, cần thiết phải kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân công quyền có hành vi vi phạm về trách nhiệm giải trình.

Sáu là, cần thiết huy động sức mạnh của toàn thể cộng đồng xã hội, sự hỗ trợ của cơ quan báo chí, truyền thông; cần tăng cường cải cách hành chính, trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương trước người dân, phát huy quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện cho cộng đồng tham gia vào quá trình lập kế hoạch và chi tiêu ngân sách ở địa phương, đặc biệt là phần ngân sách do nhân dân đóng góp, đẩy mạnh tính công khai, minh bạch, đơn giản trong thủ tục hành chính.

3. Đóng góp về khoa học và thực tiễn của Đề tài

Một là, Đề tài đóng góp cách tiếp cận, nghiên cứu dưới góc độ lý luận và pháp lý về trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng và các chủ thể thực hiện quyền lực công nói chung trong mối quan hệ với các tổ chức, công dân, phù hợp với yêu cầu đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, bảo đảm và bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hai là, Đề tài trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật, đánh giá ưu điểm, hạn chế, phân tích nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, từ đó, đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước, phù hợp với yêu cầu cải cách pháp luật, cải cách thể chế, cải cách hành chính hiện nay.

Ba là, Đề tài cung cấp một số thông tin, kinh nghiệm nước ngoài về trách nhiệm giải trình của các cơ quan, cá nhân công quyền, làm phong phú thêm mảng nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài về lĩnh vực này.

Bốn là, Đề tài có thể là tài liệu tham khảo trong lĩnh vực xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng và cơ quan, tổ chức, cá nhân công quyền nói chung. Đặc biệt, có thể là tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu xây dựng các dự án luật về tổ chức bộ máy nhà nước liên quan đến cơ quan hành chính nhà nước (Luật Tổ chức chính phủ, Luật Chính quyền địa phương…), Luật Ngân sách nhà nước, Luật Ban hành quyết định hành chính, Luật Tiếp cận thông tin… Đề tài cũng có thể là tài liệu tham khảo trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, luật học và quản lý nhà nước.



[1] Xem Điều 3, khoản 3 Hiến pháp 2013

[2] Xem Điều 2, khoản 1 và khoản 3 Hiến pháp 2013

[3] Xem Klitgaard, Robert E, Controlling Corruption” (Điều tiết nạn tham nhũng), tr.35 (1988). Theo phương trình trên, nếu tính độc quyền, tính tùy tiện trong quản lý NSNN càng cao thì nguy cơ tham nhũng càng lớn, đồng thời trách nhiệm giải trình và tính minh bạch càng cao thì có thể đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu

[4] Tính hợp pháp là sự phù hợp với các quy định pháp luật, ví dụ như pháp luật quy định một công chức có quyền xử phạt VPHC đối với hành vi kinh doanh trái phép và quy định mức xử phạt từ 1 triệu đến 5 triệu đồng khi gặp hành vi vi phạm đó trên thực tế, công chức đã tiến hành xử phạt đúng quy định. Tính hợp lý là sự chọn lựa tối ưu trong các giải pháp mà pháp luật đã quy định cho cán bộ, công chức được làm, trong trường hợp trên, công chức có toàn quyền xác định mức phạt thế nào đó cho hợp lý miễn là nằm trong giới hạn pháp luật cho phép.

[5] Tập trung vào giải trình việc tuân thủ  nguyên tắc, quy định và kiểm soát từ trên xuống - giải trình hướng lên trên

[6] Tập trung vào giải trình đối với kết quả hoạt động, kết quả thực hiện nhiệm vụ, công vụ trước nhân dân

[7] Hiện nay, Luật Tổ chức Chính phủ đang trong quá trình sửa đổi đảm bảo phù hợp với Hiến pháp 2013, tuy nhiên theo quy định của Luật hiện hành cũng chưa phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong một số vấn đề như lãnh đạo bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo UBND, Chủ tịch UBND... làm ảnh hướng đến việc thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ, của Thủ tướng trước Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, trước Nhân dân. Pháp luật chưa quy định rõ trách nhiệm giải trình của cả Chính phủ và Thủ tướng, cụ thể là chịu trách nhiệm về cái gì, đến đâu.

[8] Theo Quy chế làm việc của Chính phủ (ban hành kèm theo Nghị định số 179/2007/NĐ-CP trước đây cũng như theo Nghị định số 08/2012/NĐ-CP hiện nay) Thủ tướng có quyền “Trong trường hợp xét thấy cần thiết vì tính chất quan trọng, cấp bách của công việc, Thủ tướng  Chính phủ có thể trực tiếp chỉ đạo xử lý công việc thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tính” . Đây là một quy định chưa tuân thủ đầy đủ nguyên tắc phân định thẩm quyền và trách nhiệm trong hoạt động của bộ máy hành chính. Đây là một thực tế mà khi đánh giá về thực tiễn trách nhiệm giải trình, trả lời chất vấn hay thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân của Bộ trưởng về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý còn gặp nhiều khó khăn.

[9] Hiện nay có một thực trạng là Bộ trưởng chưa thực hiện đầy đủ quyền hạn, nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực một cách thông suốt và bao quát trong phạm vi cả nước; có nhiều việc thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng, kể cả việc ban hành thể chế, pháp luật, đã bị đẩy lên cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thực hiện.

Trên thực tế, Bộ, cơ quan ngang bộ chưa thực sự là một thiết chế độc lập, hoạt động theo pháp luật, có chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước mà vẫn còn có phần là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Bộ, cơ quan ngang bộ ở nước ta hiện nay về cơ bản vẫn như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chỉ là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện các chức năng quản lý nhà nước, chưa thoát khỏi cơ chế hành chính mệnh lệnh tập trung để trở thành một pháp nhân công quyền độc lập, được tổ chức và hoạt động theo pháp luật và thực sự có chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước.

[10] Hệ thống ngân sách nhà nước (NSNN) còn mang tính lồng ghép dẫn đến thẩm quyền giữa các cấp chồng chéo; quy trình ngân sách phức tạp; phạm vi thu, chi NSNN chưa rõ ràng; việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách chưa phù hợp; căn cứ xây dựng dự toán NSNN chưa đầy đủ, chưa gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ đầu ra; quy định về trách nhiệm giải trình trước các cơ quan dân cử chưa cụ thể; tính công khai, minh bạch trong quản lý NSNN chưa phù hợp với thông lệ quốc tế...

[11] Việc thực hiện các quy định của pháp luật về quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất vẫn còn những hạn chế, bất cập như: tình trạng đất được giao cho thuê sử dụng không đúng mục đích, vi phạm pháp luật, găm giữ đất, chậm đưa vào sử dụng hoặc chuyển nhượng dự án còn xảy ra ở nhiều địa phương dẫn đến lãng phí đất đai và gây bất bình trong dư luận. Nhiều địa phương còn thiếu cân nhắc trong việc chuyển mục đích sử dụng chuyên trồng lúa nước, đất lâm nghiệp có rừng, giao đất, cho thuê đất tại các khu vực nhạy cảm, vùng biên giới; nhiều tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền nhưng sử dụng lãng phí và thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra nhiều sai phạm. Nguyên nhân của tình trạng trên một phần là do chính sách hiện hành, đối tượng được giao đất không thu tiền sử dụng đất quá rộng. Nhiều địa phương chạy theo nhà đầu tư trong việc phát triển các dự án đô thị nhỏ lẻ, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, thiếu sự phối hợp thống nhất trên quy mô liên vùng, liên tỉnh; chưa xem xét đồng bộ với điều kiện hạ tầng kỹ thuật, xã hội, khả năng và thực tế lấp đầy các khu công nghiệp. Việc kiểm tra, xử lý vi phạm sau khi giao đất, cho thuê đất chưa được tiến hành một cách thường xuyên. Một trong những nguyên nhân của yếu kém, bất cập trên là chưa có một cơ chế quản lý minh bạch, hữu hiệu, chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước có liên quan.

[12] “A missmash from the borrowed things”, Xem John Gillespie, Land Law Subsystem: Urban Vietnam as Case Study, Pacific Rim Law & Policy Journal, tr.55 (1998)

[13] Mức phạt tiền cao là bao nhiêu để bắt buộc áp dụng thủ tục giải trình không quy định trong Luật Xử phạt hành chính mà được quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành quy định về xử phạt, như đối với lĩnh vực hải quan thì mức phạt tiền trên 10.000 nhân dân tệ phải có thủ tục nghe giải trình đối với đối tượng bị xử phạt. Gần đây, Bộ Tài chính của Trung Quốc cũng quy định trong “Biện pháp thực hiện nghe giải trình các bên xử phạt hành chính của cơ quan tài chính” như sau: Phạt tiền với mức phạt cao như đối với công dân từ 5.000 nhân dân tệ trở lên, hoặc đối với các tổ chức, pháp nhân phạt tiền từ 5 vạn nhân dân tệ trở lên thì phải có thủ tục giải trình

 

 

[14] Luật Tiếp cận thông tin số 104/2016/QH13 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 06/04/2016, có hiệu lực từ ngày 01/07/2018.

[15] Trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật Ban hành quyết định hành chính hiện nay, nhóm nghiên cứu Đề tài đề xuất Dự thảo Luật này cần quy định rõ trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trong việc ban hành quyết định hành chính bất lợi, cụ thể là: 1. Khi ban hành quyết định hành chính bất lợi, cơ quan ban hành cần phải giải trình lý do ban hành quyết định hành chính về căn cứ pháp lý, căn cứ thực tiễn ban hành quyết định hành chính; 2. Cơ quan hành chính nhà nước không cần phải giải trình trong những trường hợp như (a) Nếu cơ quan hành chính chấp thuận đơn yêu cầu/thực hiện nguyện vọng và quyết định hành chính đó không động chạm đến quyền lợi của người khác; (b) Đối tượng của quyết định hành chính hoặc đối tượng có liên quan đến quyết định hành chính đã được biết về quan điểm của cơ quan hành chính, thực trạng pháp lý, nội dung vụ việc; (c) Nội dung của quyết định hành chính liên quan đến nhiều người và dự thảo quyết định hành chính đã được công bố, công khai.

[16] Nghị định số 90/2013/NĐ-CP là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên quy định chuyên biệt về trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng khi thực thi nhiệm vụ được giao, tuy nhiên vẫn quy định theo hướng chỉ giải trình khi có yêu cầu mà chưa quy định việc chủ động giải trình, đồng thời, cơ chế kiểm soát, xử lý việc vi phạm trách nhiệm giải trình về cơ bản vẫn còn chung chung và mang tính dẫn chiếu đến việc sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức[16], trong khi đó Luật cán bộ, công chức cũng chưa có điều khoản xác định rõ nếu vi phạm trách nhiệm giải trình hoặc giải trình không hiệu quả thì sẽ bị xử lý như thế nào. 

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm ...