• Thuộc tính
Tên đề tài Các giải pháp tăng cường công tác ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại giữa Việt Nam và các nước
Nội dung tóm tắt

Trong điều kiện hội nhập quốc tế việc ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại đã trở thành nhu cầu thiết yếu của các quốc gia trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng.

Đối với Việt Nam, việc đàm phán, ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại có một vai trò rất quan trọng. Các điều ước quốc tế đó là cơ sở pháp lý cho việc tăng cường và mở rộng các quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa Việt Nam và các quốc gia khác về vấn đề này. Bên cạnh đó, việc thực hiện điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại mang lại những đóng góp tích cực đối với việc hoàn thiện tư pháp quốc tế của Việt Nam.

Trong những năm gần đây, số lượng điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại mà Việt Nam là thành viên đã tăng lên đáng kể. Tính đến năm 2014, Việt Nam đã ký 17 hiệp định/thoả thuận song phương có quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại. Bên cạnh việc ký kết các hiệp định song phương về tương trợ tư pháp, Việt Nam cũng tích cực tham gia các thiết chế hợp tác đa phương trong lĩnh vực này, trong đó có thể kể đến Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài[1]; Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế[2] (trong Hội nghị này, Việt Nam đã gia nhập Công ước La Hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế năm 1993[3] và nghiên cứu gia nhập Công ước La Hay năm 1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại và Công ước La Hay năm 1961 về miễn hợp pháp hóa giấy tờ tài liệu công nước ngoài[4]).

Tuy nhiên, thực tiễn ký kết và gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại còn tồn tại một số bất cập, hạn chế. Việc thiết lập, thúc đẩy đàm phán các hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, thương mại với những nước mà công dân Việt Nam có nhiều quan hệ dân sự, thương mại với nước đó như: Hoa Kỳ, Ca-na-da, Liên bang Đức, Nhật Bản... chưa có được kết quả như mong muốn. Bên cạnh đó, việc thực hiện các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại còn gặp nhiều vướng mắc xuất phát từ nguyên nhân về thể chế pháp luật và năng lực cán bộ làm công tác tương trợ tư pháp.

Xuất phát từ thực tế nêu trên, việc nghiên cứu, tổng kết và đề xuất các giải pháp tăng cường công tác đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại là cần thiết để phục vụ tốt hơn công cuộc cải cách pháp luật, tư pháp và hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Mục tiêu nghiên cứu của Đề án là làm sáng tỏ cơ sở khoa học pháp lý liên quan đến điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại; đánh giá thực trạng đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại cũng như khuôn khổ pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này; xác định được các giải pháp nâng cao hiệu quả trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại nhằm phục vụ cho hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Đề án đặt ra yêu cầu nghiên cứu toàn diện và tổng thể hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại, từ đó phát hiện những bất cập và tồn tại để kiến nghị hoàn thiện công tác này, kể cả việc hoàn thiện thế chế pháp luật liên quan. Đặc biệt, việc nghiên cứu pháp luật trong nước về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại cần phát hiện được những điểm vướng mắc, bất cập để có thể sử dụng điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp để tháo gỡ.

Dưới đây là các kết quả nghiên cứu chính của Đề án:

CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ, THƯƠNG MẠI

Trong Chương này, Nhóm tác giả thực hiện Đề án đã đưa ra một bức tranh tổng thế về quá trình hình thành, phát triến của tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại mà khởi nguồn của nó là từ những hình thức sơ khai của tương trợ tư pháp về hình sự từ thời cổ đại. Đặc biệt, Nhóm tác giả cũng đưa ra các quan niệm về tương trợ tư pháp của các nhóm các quốc gia khác nhau đại diện cho các hệ thống pháp luật trên thế giới. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trên thế giới có nhiều quan niệm rộng hẹp khác nhau liên quan đến điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp. Theo đó, có cách hiểu khác nhau về phạm vi điều chỉnh của các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp nói chung và điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại nói riêng. Tuy vậy, trong một thế giới hiện đại ngày nay, quan niệm của các nhóm nước về tương trợ tư pháp nói chung và tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại nói riêng có xu hướng xích lại gần nhau. Theo đó, quan niệm về tương trợ tư pháp là khá rộng và là kết quả của sự giao thoa giữa quan niệm của các quốc gia theo hệ thống thông luật và các quốc gia theo hệ thống dân luật. Tựu chung lại, có thể hiểu tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại là việc các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia khác nhau trợ giúp cho nhau trong thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt ở lĩnh vực dân sự, thương mại theo những trình tự, thủ tục, thể thức đã định để thi hành pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của cơ quan, tố chức, cá nhân các nước liên quan, thúc đẩy phát triển quan hệ hữu nghị giữa các nước.

Bên cạnh đó, trong Chương này, Nhóm tác giả cũng chú trọng nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của tương trợ tư pháp và tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại của Việt Nam, cũng như quan điểm của Đảng, Nhà nước về vấn đề này qua các thời kỳ phát triển của đất nước. Việc nghiên cứu cho thấy Đảng, Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm thích đáng cho tương trợ tư pháp nói chung và tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại nói riêng. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, trong xu thế hội nhập trong lĩnh vực tư pháp quốc tế, nhất là trong điều kiện Việt Nam đang thúc đẩy mạnh việc ký kết, gia nhập các công ước liên quan đến tương trợ tư pháp, thì quan niệm về phạm vi tương trợ tư pháp và tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại cần được xem xét, điều chỉnh cho phù hợp với xu thế chung.

CHƯƠNG 2: THỂ CHẾ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ, THƯƠNG MẠI

Đối với thể chế trong nước, tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại được quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Luật Tương trợ tư pháp và các văn bản hướng dẫn hai văn bản này. Xét về mức độ hiệu lực, thì các văn bản điều chỉnh về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại khá hoàn chỉnh, có từ cấp độ văn bản luật đến thông tư. Tuy nhiên, nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật này còn nhiều bất cập về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại.

Liên quan đến tương trợ tư pháp nói chung và tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại nói riêng, hiện nay không có khái niệm rõ ràng được quy định trong pháp luật. Bộ luật Tố tụng Dân sự chỉ quy định nguyên tắc tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự theo nghĩa rộng và vấn đề về ủy thác tư pháp. Luật Tương trợ tư pháp hiện nay điều chỉnh cả bốn lĩnh vực, gồm: tương trợ tư pháp về dân sự, tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù. Tuy nhiên, các quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại của Luật Tương trợ tư pháp lại sơ sài, thậm chí không xác định rõ ràng tương trợ tư pháp dân sự, thương mại là gì, mà chỉ liệt kê phạm vi một cách không thực sự cụ thể liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự theo nghĩa rộng. Nhiều vấn đề chưa rõ ràng trên thực tế thực hiện còn chưa được xử lý trong quy định của pháp luật, chẳng hạn như: công nhận, cho thi hành quyết định, bản án của toà án nước ngoài và công nhận, cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài. Cho đến nay, hai nội dung này cũng chưa thực sự được xác định rõ ràng có thuộc phạm vi của tương trợ tư pháp hay không.

Các quy định pháp luật tố tụng hiện hành của Bộ luật Tố tụng dân sự và văn bản pháp luật khác liên quan chưa tính hết yếu tố đặc thù của việc có yếu tố nước ngoài cần ủy thác tư pháp. Hiện nay, quy trình, thời hạn tố tụng để giải quyết vụ việc, vụ án có yếu tố nước ngoài vẫn được áp dụng chung như với vụ việc trong nước, trong khi yêu cầu ủy thác tư pháp thường làm thời gian tố tụng trong nước kéo dài hơn (có khi đến hàng năm), làm cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan gặp lúng túng trong quá trình thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp và tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 cũng thiếu các quy định về căn cứ xử lý tài sản và các biện pháp xử lý tài sản khi người phải thi hành án ở nước ngoài. Do đó, để hoạt động tương trợ tư pháp phục vụ thiết thực và hiệu quả cho hoạt động lố tụng thì hệ thống văn bản pháp luật tố tụng trong nước cũng phải được hoàn thiện, có tính dến những yêu cầu đặc thù của các vụ việc có yêu cầu ủy thác tư pháp để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ, phù hợp với thực tế và khả thi.

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG ĐÀM PHÁN, KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ, KINH TẾ CỦA VIỆT NAM

Sau khi Luật Tương trợ tư pháp được ban hành, công tác đàm phán, ký kết điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại có nhiều tiến triển. Bên cạnh tiếp tục xúc tiến ký kết mới hoặc sửa đổi các Hiệp định tương trợ tư pháp song phương với các nước Việt Nam có nhu cầu lớn về tương trợ tư pháp (như Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ailen, Hung-ga-ri, Ôtxtrâylia),các cơ quan nhà nước cũng chủ động và tích cực hơn trong hợp tác đa phương về tương trợ tư pháp (như việc gia nhập Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế và nghiên cứu tham gia các công ước của Hội nghị).

Mặc dù có những nỗ lực đáng kể của các cơ quan nhà nước, nhưng cho đến thời điểm này công tác đàm pháp, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp còn có những tồn tại, vướng mắc, đó là: (1) việc đề xuất đàm phán điều ước quốc tế trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về dân sự, thương mại còn yếu và chưa có tính chủ động; (2) hoạt động đề xuất đàm phán, ký hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại với nước ngoài gặp phải những khó khăn nhất định do một bên không có nhu cầu; (3) Quá trình đàm phán nhiều hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại kéo dài và chậm đưa đến được một thỏa thuận chung; (4) quy định của pháp luật trong nước còn những hạn chế nhất định gây khó khăn cho hoạt động đàm phán, ký các hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, thương mại; (5) trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động ký kết, gia nhập điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại chưa được thực hiện tốt trên thực tế. Các tồn tại, vướng mắc này có nguyên nhân từ thể chế pháp luật và tổ chức thực tiễn hoạt động đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thượng mại cũng như sự đầu tư, quan tâm và nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của tương trợ tư pháp ở các Bộ, ngành và địa phương còn chưa đồng đều, đội ngũ cán bộ làm công tác tương trợ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Các tồn tại, bất cập này cần được các cơ quan nhà nước của Việt Nam tháo gỡ trong thời gian tới.

CHƯƠNG 4: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC ĐÀM PHÁN, KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ, THƯƠNG MẠI

Trên cơ sở những tồn tại và bất cập được phân tích tại các Chương 2 và Chương 3, Nhóm tác giả thực hiện Đề án đề xuất các giải pháp tăng cường công tác đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại, bao gồm:

Thứ nhất, về thể chế: trước mắt, các Bộ, ngành cần đẩy nhanh việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Tương trợ tư pháp theo chức năng và thẩm quyền đã được đưa vào kế hoạch, về dài hạn, cần nghiên cứu, xây dựng cơ chế mới về ủy thác tư pháp về dân sự, thương mại để khắc phục những hạn chế, bất cập của cơ chế ủy thác tư pháp theo quy định của Luật Tương trợ tư pháp hiện hành.

Bên cạnh đó, các Bộ, ngành rà soát quy định pháp luật liên quan trong nước cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013 nhằm tạo điều kiện cho công tác đàm phán, ký kết, thực hiện điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp nói chung và tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại nói riêng. Đặc biệt, cần khẩn trương sửa đổi một số điều của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 để đảm bảo thuận lợi cho công tác đàm phán, ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế, trong đó có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp.

Thứ hai, nâng cao năng lực cơ quan đầu mối về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại. Hiện tại, Bộ Tư pháp được giao quản lý nhà nước về tương trợ tư pháp nói chung và là đầu mối về công tác tương trợ tư pháp về dân sự theo nghĩa rộng. Liên quan đến vấn đề này còn tồn tại những bất cập cần được tháo gỡ. Do đó, trong thời gian tới Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành liên quan cần nghiên cứu hoàn thiện theo hướng Bộ Tư pháp chỉ là cơ quan đầu mối và quản lý nhà nước về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự theo nghĩa rộng. Các lĩnh vực tương trợ tư pháp khác, các Bộ, ngành trực tiếp liên quan sẽ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước. Đồng thời, với tư cách là cơ quan đầu mối của phía Việt Nam về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại, Bộ Tư pháp cần tăng cường thiết lập quan hệ với cơ quan đầu mối của các quốc gia ký kết khác để tăng cường liên hệ, trao đổi thông tin, về tình hình thực hiện những yêu cầu tương trợ tư pháp cụ thể. Ngoài ra, Bộ Tư pháp cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Toà án nhân dân tối cao để xây dựng cơ chế về trách nhiệm báo cáo của toà án nhân dân cấp tỉnh trong việc cung cấp thông tin, kết quả thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp và tình hình tiếp nhận, kết quả xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam các quyết định, bản án của tòa án và quyết định của trọng tài của nước ngoài.

Thứ ba, tăng cường đầu tư nhân lực, tài lực cho công tác đàm phán, ký kết và thực hiện điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại. Về nhân lực, trong thời gian tới cần nghiên cứu mô hình để đảm bảo yêu cầu chuyên môn hóa cao đối với công việc đặc thù này. Giải pháp trước mắt là cần ưu tiên bố trí những cán bộ có chuyên môn và ngoại ngữ tốt để thực hiện mảng công việc này. Về tài chính, xem xét áp dụng chế độ kinh phí đặc thù phục vụ công tác này, từ các hoạt động liên quan đến công tác điều ước quốc tế, đến các hoạt động thực hiện nghĩa vụ thành viên trong các tổ chức quốc tế về tương trợ tư pháp, đến việc thực hiện và theo dõi tiến độ thực hiện các hồ sơ ủy thác tư pháp, việc thống kê, báo cáo hàng năm về tương trợ tư pháp để trình Chính phủ và Quốc hội.

Thứ tư, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyên truyền về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại. Liên quan đến công tác này, Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần tiếp tục đầu tư cho công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, có kế hoạch đào tạo, xây dựng đội ngũ chuyên trách trong lĩnh vực tương trợ tư pháp nói chung và tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại nói riêng; tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, tập huấn nội dung các hiệp định tương trợ tư pháp đến các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện tương trợ tư pháp; công bố và thường xuyên cập nhật các điều ước quốc tế liên quan đến tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết trên các trang thông tin điện tử của các cơ quan.

Thứ năm, rà soát các hiệp định Việt Nam đã ký trước khi có Luật Tương trợ tư pháp để tiến hành đàm phán, sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế mới nhằm phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam. Cùng với sự phát triển của thể chế về tư pháp quốc tế và đặc biệt là về tương trợ tư pháp của Việt Nam, đặt ra nhu cầu phải tiến hành việc rà soát để kịp thời phát hiện ra những tồn tại, bất cập và những điểm không phù hợp của các hiệp định đã ký. Việc rà soát này nhằm mục đích đề xuất việc sửa đổi, bổ sung, hiện đại hóa các hiệp định đã ký trước đây hoặc ký kết, gia nhập hiệp định mới (nếu cần thiết) nhằm đảm bảo sự tương thích giữa các hiệp định đó với Luật Tương trợ tư pháp, các điều ước quốc tế đa phương về tương trợ tư pháp cũng như phù hợp với thực tiễn triển khai công tác tương trợ tư pháp.

Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh việc đàm phán, ký kết hiệp định tương trợ tư pháp với các quốc gia có quan hệ truyền thống với Việt Nam và quốc gia/vùng lãnh thổ có nhiều công dân Việt Nam sinh sống và làm việc. Trong thời gian tới việc đàm phán, ký kết mới các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và quốc gia khác cần ưu tiên các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước có quan hệ truyền thống và đặc biệt các nước có nhiều công dân Việt Nam đang sinh sống, lao động và học tập là hết sức cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết các yêu cầu tương trợ tư pháp, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai bên.

Thứ bảy, xúc tiến việc ký kết, phê chuẩn và gia nhập các điều ước quốc tế đa phương về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại. Trong xu thế hiện nay, cơ chế hợp tác đa phương đang là sự lựa chọn ưu tiên của các quốc gia phát triển trên thế giới. Các điều ước quốc tế đa phương trong lĩnh vực tương trợ tư pháp sẽ tạo ra một cơ chế thực thi chung, có hiệu quả cho các quốc gia thành viên trong việc hợp tác, hỗ trợ nhau khi giải quyết các yêu cầu tương trợ tư pháp. Do đó, trong tương lai, Việt Nam cần chú trọng tới xu hướng này để thiết lập các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại trong khuôn khổ khu vực (như ASEAN), toàn cầu (Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế).

Thứ tám, nghiên cứu và triển khai đề án xây dựng hiệp định mẫu về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại. Hiện nay, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã hoàn thiện Hiệp định khung về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự, Hiệp định này đang được Viện Kiểm sát nhân dân tối cao sử dụng để đàm phán với phía nước ngoài, tạo thế chủ động và linh hoạt của Việt Nam trong việc đàm phán. Do vậy, để nâng cao hiệu quả của việc đàm phán các Điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại, tránh việc thụ động trong việc gửi đề xuất đàm phán với phía nước ngoài, Bộ Tư pháp cần chủ động chủ trì, phối hợp với các Bộ, Ngành có liên quan xây dựng hiệp định khung về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại.

Tóm lại, trong điều kiện hội nhập quốc tế, nhu cầu về tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các quốc gia khác sẽ ngày càng tăng cao. Trong khi đó, nội dung các yêu cầu tương trợ tư pháp nói chung và tương trợ tư pháp về dân sự, thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp. Hoạt động tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại thực chất là sự hỗ trợ giữa cơ quan tư pháp của quốc gia trong việc giải quyết một vụ việc cụ thể về dân sự, thương mại. Để thực hiện hiệu quả hoạt động này, điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại là công cụ pháp lý hữu hiệu và thiết thực nhất trong hợp tác tư pháp giữa Việt Nam và các quốc gia khác.

Với việc Việt Nam ngày càng mở rộng ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp với những các quốc gia và tham gia vào những điều ước quốc tế đa phương về tương trợ tư pháp nhằm hỗ trợ những quan hệ dân sự, kinh tế có yếu tố nước ngoài phát triển thì việc tổng kết, đánh giá lại công tác đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại trong giai đoạn vừa qua của Việt Nam là hết sức cần thiết. Việc này giúp Việt Nam hoàn thiện công tác đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại và hoàn thiện thể chế pháp luật trong nước về tương trợ tư pháp nói chung và tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại nói riêng, phục vụ tốt công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước.

Ở khía cạnh quan hệ quốc tế, việc hoàn thiện công tác ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp nói chung và tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại cũng như hoàn thiện thể chế pháp luật về vấn đề này là minh chứng khẳng định Việt Nam mong muốn hội nhập quốc tế sâu rộng. Đồng thời, cũng khẳng định Việt Nam là quốc gia có trách nhiệm trong việc thực hiện các cam kết quốc tế của mình.



[1] Ngày 28/7/1995 Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra Quyết định số 453/QĐ-CTN phê chuẩn việc tham gia Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành quyêt định của trọng tài nước ngoài.

[2]  Ngày 10/4/2013 tại La Hay, Hà Lan, trong Phiên thứ 5 của cuộc họp toàn thể các nước thành viên Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế, Việt Nam đã chính thức được công nhận là thành viên đầy đủ thứ 73 của Hội nghị.

[3] Công ước có hiệu lực với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kể từ ngày 01/02/2012.

[4] Ngày 1/10/2016 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của  Công ước LaHay 1965

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm ...