• Thuộc tính
Tên đề tài Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay – Thực trạng và giải pháp (phần chung)
Nội dung tóm tắt

Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành chỉ quy định về thủ tục giải quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự mà không quy định về thủ tục giản đơn để giải quyết các tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng, các đương sự thừa nhận nghĩa vụ hoặc những tranh chấp có giá ngạch thấp... Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự ở Việt Nam cho thấy đã xuất hiện nhiều vụ việc đơn giản, có chứng cứ rõ ràng, giá trị tranh chấp không lớn nhưng các Tòa án vẫn phải áp dụng thủ tục thông thường để giải quyết gây kéo dài thời gian và tổn phí cho cả Nhà nước và đương sự. Nhiều vụ việc tuy đơn giản nhưng người có nghĩa vụ vẫn lạm dụng quyền kháng cáo nhằm trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ của mình và trong nhiều trường hợp chi phí cho hoạt động tố tụng còn lớn hơn nhiều so với lợi ích cần được bảo vệ.

Trong khi đó, pháp luật tố tụng dân sự của nhiều nước trên thế giới đều thiết lập bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường các thủ tục tố tụng dân sự đặc biệt, trong đó có thủ tục rút gọn. Đây là thủ tục tố tụng được áp dụng để giải quyết các loại việc đáp ứng những điều kiện nhất định với một trình tự đơn giản, ngắn gọn. Thủ tục này là một trong những công cụ hữu hiệu của người dân cũng như Tòa án trong việc thực hiện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức một cách nhanh chóng, linh hoạt và hiệu quả. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, các tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự, thương mại, lao động với nước ngoài phát sinh ngày một nhiều, đòi hỏi Việt Nam phải xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia tương thích với pháp luật của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước mà Việt Nam có ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp hoặc tham gia Điều ước quốc tế, trong đó có thủ tục tố tụng tư pháp. Xét dưới góc độ kinh tế học thì các doanh nghiệp nước ngoài khi xúc tiến đầu tư bao giờ cũng quan tâm tới tính hiệu quả và nhanh chóng, sự bảo đảm an toàn pháp lý của hệ thống tư pháp và thủ tục TTDS trong trường hợp giữa các đối tác có tranh chấp về quyền lợi. Do vậy, để tạo điều kiện khuyến khích, thu hút đầu tư nước ngoài thì việc nghiên cứu xây dựng thủ tục TTDS rút gọn là cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu về tính nhanh chóng, đơn giản và hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp.

Nhận thức được những hữu ích của thủ tục rút gọn cũng như tổng kết thực tiễn của hoạt động tố tụng tư pháp tại Tòa án, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ quan điểm về việc xây dựng thủ tục rút gọn. Theo đó, cần phải “… Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”. Ngoài ra, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đã quy định “Vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết theo thủ tục giản đơn quy định trong pháp luật tố tụng dân sự...”. Hiến pháp năm 2013 cũng đã có những sửa đổi, bổ sung về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án trong tố tụng cho phù hợp với thủ tục tố tụng rút gọn. Theo đó, “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn… Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn (Điều 103). Do vậy, Bộ luật Tố tụng Dân sự và các văn bản hướng dẫn với tư cách là công cụ hữu hiệu bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức cần có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các nguyên tắc trong Hiến pháp năm 2013 nhằm làm cơ sở quy định về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự.

Với những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay - Thực trạng và giải pháp” nhằm làm rõ yêu cầu của việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn, cơ sở khoa học của việc xây dựng và đề xuất các giải pháp xây dựng mô hình thủ tục này ở Việt Nam là cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

Mục đích nghiên cứu của Đề tài là: Hiện thực hóa đường lối cải cách tư pháp của Đảng được nêu trong Nghị quyết 48 và 49-NQ/TW 2005 của Bộ Chính trị về “Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”; Xác định các yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn; Làm rõ cơ sở lý luận của việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo định hướng cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế; Làm rõ cơ sở thực tiễn của việc xác định phạm vi loại việc có thể được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn tại Việt Nam và Đề xuất giải pháp về xác định phạm vi loại việc và mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn tại Việt Nam. Đề tài được triển khai nghiên cứu trên toàn bộ hệ thống pháp luật về thủ tục tố tụng dân sự của Việt Nam cũng như thực tiễn hoạt động tố tụng dân sự của Toà án. Ngoài ra, đề tài còn triển khai nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự của một số nước có quy định về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn như Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singgapor, Australia... nhằm so sánh và tham khảo

LUẬN ĐIỂM CHÍNH VÀ ĐÓNG GÓP VỀ KHOA HỌC, THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1. Mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam được xây dựng trên cơ sở kết quả nghiên cứu nhận diện bản chất, cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế

1.1. Kết quả nghiên cứu lý luận đã giúp nhóm nghiên cứu nhận diện được sâu sắc hơn về bản chất và lợi ích của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

1.1.1. Trên cơ sở nghiên cứu đã rút ra được khái niệm thủ tục tố tụng dân sự rút gọn:

Việc nghiên cứu nhận diện bản chất của thủ tục tố tụng dân sự (TTDS) rút gọn là tiền đề căn bản cho việc nhận thức để xây dựng thủ tục này nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Nghiên cứu lý luận ở Việt Nam về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn cho thấy đây là một vấn đề mới chưa được đề cập trong các Giáo trình luật tố tụng dân sự của các cơ sở đào tạo luật và nghề luật hiện nay.

Kế thừa và phát triển toàn bộ kết quả nghiên cứu lý luận về thủ tục tố tụng thủ tục giản lược (Giáo sư Nguyễn Huy Đẩu)[1]; về thủ tục đơn giản hay thủ tục ra lệnh (Pierre ESTOUP)[2]; Kết luận trong công trình nghiên cứu cấp bộ của Viện Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao[3]; Luận văn thạc sỹ về những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự (Ths. Trần Anh Tuấn)[4] và kết quả nghiên cứu của đề tài về khái niệm thủ tục tố tụng dân sự rút gọn tại Chuyên đề Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn (TS. Nguyễn Công Bình), nhóm nghiên cứu đã đi tới nhận định:

Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là loại hình thủ tục tố tụng được giản lược, có tính đơn giản và nhanh chóng, được một Thẩm phán áp dụng để giải quyết các vụ kiện dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có giá ngạch thấp hoặc nội dung đơn giản, rõ ràng theo cơ chế xét xử một lần, cơ chế phúc thẩm với sự giản lược về thủ tục hoặc cơ chế kháng án chuyển hóa tố tụng. Từ nhận định này nhóm nghiên cứu đã rút ra khái niệm về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn như sau:

“Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là loại hình thủ tục tố tụng được giản lược, do một Thẩm phán tiến hành giải quyết đối với các vụ kiện dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có nội dung đơn giản, rõ ràng hoặc có giá trị nhỏ theo một trình tự tố tụng đơn giản, nhanh chóng, phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật ngay hoặc có thể bị phản kháng để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thông thường hoặc thủ tục phúc thẩm được giản lược”.  

1.1.2. Kết quả nghiên cứu lý luận đã rút ra được đặc thù của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn so với  với thủ tục giải quyết vụ án dân sự và việc dân sự

Dựa trên kết quả nghiên cứu của các chuyên đề: Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn (TS. Nguyễn Công Bình); Mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn với một số nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự (TS. Nguyễn Triều Dương); Sự tương đồng và khác biệt giữa thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục tố tụng dân sự rút gọn (TS. Trần Phương Thảo); Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo pháp luật một số nước trên thế giới và việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam (TS. Trần Anh Tuấn) nhóm nghiên cứu đã rút ra những đặc điểm cơ bản của thủ tục TTDS rút gọn về loại việc, thành phần giải quyết, về thời hạn tố tụng và các thủ tục được giản lược so với thủ tục tố tụng thông thường.

-  Thứ nhất, loại việc được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn là những vụ kiện chứng cứ rõ ràng, nội dung tranh chấp đơn giản, người có nghĩa vụ đã thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ của mình, tài sản tranh chấp có giá trị không lớn

Đây là điểm khác biệt với các loại việc hiện được giải quyết theo thủ tục giải quyết vụ án dân sự thông thường và thủ tục giải quyết việc dân sự. Thủ tục TTDS rút gọn được áp dụng đối với những vụ án dân sự (có thể vẫn có sự tranh chấp quyền lợi giữa các đương sự với nhau) nhưng nội dung sự việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng hay một bên đương sự đã thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ; tranh chấp có giá ngạch thấp. Còn các việc dân sự được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự là loại việc được các đương sự thỏa thuận hoặc một bên đương sự yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý nào đó.

- Thứ hai, thủ tục TTDS rút gọn được tiến hành theo cơ chế một Thẩm phán phán quyết mà không phải thông qua Hội đồng xét xử

Nghiên cứu lý luận tố tụng của nhiều nước có quy định về thủ tục TTDS rút gọn, nhóm nghiên cứu đã rút ra nhận định cơ chế một Thẩm phán phán quyết được áp dụng đối với những vụ việc có giá trị tranh chấp nhỏ, nội dung tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng.

Nghiên cứu pháp luật Việt Nam hiện hành cho thấy, việc sơ thẩm vụ án dân sự có tranh chấp do một Hội đồng gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân tiến hành. Việc sơ thẩm việc dân sự thông thường chỉ do một Thẩm phán tiến hành mà không có sự tham gia của hội thẩm nhân dân. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, đối với một số việc dân sự có mức độ phức tạp, khó khăn hơn thì việc giải quyết các yêu cầu đó cần phải có số thành viên tham gia giải quyết gồm ba Thẩm phán (Điều 52 BLTTDS sửa đổi).

- Thứ ba, thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục được đơn giản hóa hơn so với thủ tục tố tụng thông thường

Theo kết quả nghiên cứu thì thủ tục rút gọn được xây dựng trên cơ sở đơn giản hóa thủ tục tố tụng thông thường, có thể bỏ qua các bước không cần thiết, đương sự có thể đến Tòa án trực tiếp yêu cầu bằng lời nói và không cần phải làm đơn khởi kiện, trình tự phiên tòa không buộc phải tuân theo các quy định về thông báo phiên tòa, thẩm vấn và tranh luận như với các vụ án dân sự khác...v.v.  Tuy nhiên, do sự khác nhau về tính chất loại việc được áp dụng nên quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa án vẫn có thể bị xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm nhằm đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử([5]). Trong khi đó, quyết định của Tòa án giải quyết vụ kiện theo thủ tục TTDS rút gọn sẽ có hiệu lực ngay hoặc vụ việc sẽ được chuyển sang giải quyết theo trình tự tố tụng thông thường nếu không thỏa mãn các tiêu chí về loại việc được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn.

- Thứ tư, thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục bảo vệ quyền lợi của đương sự một cách nhanh chóng với thời hạn tố tụng được rút ngắn

Kết quả nghiên cứu cho thấy do thủ tục tố tụng được giản lược nên việc bảo vệ quyền lợi của đương sự theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sẽ nhanh chóng hơn so với thủ tục tố tụng thông thường, thời hạn giải quyết cũng được rút ngắn hơn. Trong thủ tục tố tụng thông thường, tranh chấp có tính quyết liệt nên thời gian giải quyết vụ án thường kéo dài hơn do Tòa án cần có thời gian để tiến hành xác minh, thu thập các chứng cứ, tài liệu để làm sáng tỏ sự việc, vụ án được giải quyết tuần tự qua cấp sơ thẩm, phúc thẩm nhằm bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử.

1.1.3. Lợi ích của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn:

- Thủ tục TTDS rút gọn là đáp ứng yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế và cải cách tư pháp

- Thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục ít tốn kém, góp phần giảm bớt các chi phí tố tụng, tạo điều kiện cho các Tòa án có thể tập trung thời gian và nguồn lực vào những vụ án khó khăn, phức tạp

- Thủ tục TTDS rút gọn là phương tiện để đương sự có thể nhanh chóng bảo vệ có hiệu quả quyền lợi của mình, nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán

1.2. Mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam được xây dựng dựa trên những cơ sở lý luận nhất định

1.2.1. Việc xây dựng mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn phù hợp với định hướng của Đảng về cải cách tư pháp

- Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra được trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc cải cách thủ tục tố tụng tư pháp, đổi mới hoạt động của Tòa án là một trong những nội dung và yêu cầu cơ bản của công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta đề xướng. Việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn là nhằm hiện thực hóa nhiệm vụ cải cách tư pháp, xây dựng một thủ tục tố tụng thực sự của dân, do dân và vì dân.

- Hội nghị lần thứ ba Ban chấp  hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta đã chỉ rõ đường hướng cơ bản của việc đổi mới hoạt động tố tụng của Toà án cũng như việc hoàn thiện pháp luật TTDS: "Hoạt động tư pháp phải nhằm ... bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ...bỏ thủ tục xét xử sơ chung thẩm của Toà án nhân dân tối cao và Toà án quân sự Trung ương. Nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng".

- Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ ra những nhiệm vụ trọng tâm trong việc hoàn thiện thủ tục tố tụng tư pháp. Đó là cần phải “Hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người…Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”; “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục TTDS… Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Tòa án, Tòa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn. Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”.

1.2.2. Việc xây dựng mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn được dựa trên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự

- Giữa pháp luật dân sự và pháp luật TTDS có một mối quan hệ gắn bó mật thiết hữu cơ như vậy cho nên việc nghiên cứu xây dựng một thủ tục TTDS rút gọn trong điều kiện hiện tại không thể tách rời các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.

- Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra các nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận; bình đẳng; thiện chí, trung thực; chịu trách nhiệm dân sự; hoà giải; tôn trọng, bảo vệ quyền quyền dân sự được quy định tại các Điều 4, Điều 5, Điều 6, Điều 7, 9 của Bộ luật dân sự 2005 là tiền đề quan trọng cho việc nghiên cứu xây dựng một thủ tục đơn giản hơn áp dụng giải quyết những tranh chấp đơn giản, rõ ràng hoặc một bên đương sự thừa nhận nghĩa vụ của mình.

- Với một số loại việc nhất định, do chứng cứ của vụ tranh chấp đã rõ ràng, người có nghĩa vụ đã thừa nhận nghĩa vụ của mình nên vấn đề giải quyết tranh chấp chỉ còn là việc buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Theo nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự, nếu người có nghĩa vụ không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình thì sẽ bị cưỡng chế thực hiện theo quy định của pháp luật. Tòa án có thể nhanh chóng ra phán quyết buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình.

- Dưới góc độ kinh tế học cần phải tính đến hiệu quả xã hội của việc giải quyết các tranh chấp về tài sản có giá trị nhỏ. Theo nghiên cứu thì có thể coi quy định tại Điều 8 và Điều 12 Bộ luật dân sự 2005 về nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp và nguyên tắc hòa giải trong quan hệ dân sự là tư tưởng chỉ đạo để vận dụng giải quyết các tranh chấp về tài sản có giá trị nhỏ:

- Việc xây dựng một thủ tục giản lược hơn có thể giải quyết dứt điểm tranh chấp là giải pháp để phát huy truyền thống tốt đẹp của người Việt, khắc phục hiện tượng giá trị việc kiện tuy không lớn nhưng do mâu thuẫn cá nhân hoặc tâm lý cố chấp theo kiện đến cùng dẫn tới vụ kiện phải qua nhiều cấp xét xử, gây tổn phí cho đương sự và hệ thống tư pháp trong khi lợi ích cần bảo vệ là không lớn.

1.2.3. Mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự với những sự linh hoạt, mềm dẻo cần thiết:

- Việc xây dựng các quy định về thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam được dựa trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự:

Thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục giải quyết về quyền và nghĩa vụ của đương sự nhưng được đơn giản hóa hơn so với thủ tục tố tụng thông thường (đặc điểm thứ ba). Do vậy, về phương diện lý luận thì việc xây dựng các quy định về thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam về căn bản phải dựa trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi năm 2011, tuân thủ các nguyên tắc về bảo đảm quyền tố tụng của đương sự như quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (Điều 4), quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5), bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự (Điều 9); bảo đảm quyền tranh luận trong TTDS (Điều 23a), bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTDS (Điều 24); các nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh của đương sự (Điều 6), về trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (Điều 7). Ngoài ra, các nguyên tắc liên quan đến tính độc lập, khách quan và giám sát tố tụng của Tòa án cũng phải được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng như nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 12), Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia TTDS (Điều 16), Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong TTDS (Điều 3), Giám đốc việc xét xử (Điều 18) của Bộ luật tố tụng dân sự 2004.

- Một số nguyên tắc của TTDS có thể sẽ không được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn hoặc việc áp dụng có thể chỉ được thực hiện ở một mức độ nhất định:

Việc nghiên cứu cũng cho thấy rằng cơ chế một Thẩm phán ra phán quyết và sự giản lược về thủ tục tố tụng là hai đặc điểm cơ bản của thủ tục TTDS rút gọn. Do vậy, một số nguyên tắc của Bộ luật TTDS sửa đổi có thể sẽ không được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn hoặc việc áp dụng có thể chỉ được thực hiện ở một mức độ nhất định do yêu cầu giản lược về thành phần và thủ tục tố tụng đối với một số loại tranh chấp có tính đặc thù. Chẳng hạn, nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự (Điều 11), Toà án xét xử tập thể (Điều 14) có thể không được áp dụng với thủ tục TTDS rút gọn; nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án (Điều 10), nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử (Điều 17), nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS (Điều 21) có thể chỉ được thực hiện ở mức độ hạn chế đối với thủ tục TTDS rút gọn. Việc không áp dụng các nguyên tắc này đối với thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng đã được mở đường bởi những sửa đổi mới đây về nguyên tắc hoạt động của Tòa án tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013.

1.3. Mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới

- Toàn cầu hóa kinh tế thế giới đòi hỏi pháp luật về tố tụng tư pháp dân sự của các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau hơn, loại bỏ dần những yếu tố không hợp lý và chấp nhận những ưu điểm của hệ thống pháp luật khác. Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải có những cải cách về thủ tục tố tụng dân sự tương thích với pháp luật của cộng đồng quốc tế.

- Việc nghiên cứu đã được thực hiện đối với pháp luật một số nước có quy định về thủ tục TTDS rút gọn như Cộng hòa liên bang Đức, Cộng hoà Pháp, Liên bang Nga, Australia và một số nước Châu Á có điều kiện gần gũi và tương đồng với Việt Nam như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc, Singgapo...

- Dựa trên kết quả nghiên cứu so sánh, nhóm nghiên cứu đã rút ra bài học kinh nghiệm về phân hóa loại việc để thiết lập các thủ tục tố tụng tương ứng. Pháp luật TTDS Pháp, Đức, Nhật Bản, Đài Loan có quy định về thủ tục giản đơn đối với vụ kiện có giá trị nhỏ đồng thời cũng có quy định về thủ tục ra lệnh. Tuy nhiên, Pháp luật Pháp quy định theo hướng phân biệt hai loại thủ tục ra lệnh riêng biệt là thủ tục ra lệnh buộc thanh toán và thủ tục ra lệnh buộc làm một công việc. Trong khi đó, pháp luật TTDS Đài Loan, Nhật Bản chỉ quy định một thủ tục ra lệnh thanh toán nợ; pháp luật TTDS Nga lại đi theo hướng quy định một thủ tục ra lệnh chung áp dụng cho các trường hợp khác nhau.

Đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ, thành phần và thủ tục TTDS được giản lược hơn so với thủ tục tố tụng thông thường, việc giải quyết vụ án chỉ do một Thẩm phán tiến hành, với thời hạn ngắn hơn, phán quyết của Thẩm phán không bị kháng cáo phúc thẩm (Pháp, Đức, Nhật Bản....). Theo thủ tục TTDS rút gọn, đương sự có thể trực tiếp thưa kiện tại Tòa án mà không nhất  thiết phải làm đơn khởi kiện. Vụ kiện theo trình tự giản đơn sẽ được giải quyết bằng một phiên toà nhanh gọn hơn, khi tiến hành phiên toà, Thẩm phán có thể bỏ qua các bước không cần thiết. Thẩm phán chỉ tuyên quyết định của Tòa án về việc giải quyết vụ kiện, còn phần nội dung vụ kiện, nhận định của Tòa án được ghi ngay trong biên bản phiên toà (Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc..).

- Nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy rằng quan niệm về vụ kiện có giá trị nhỏ và hiệu lực của phán quyết giải quyết vụ kiện có giá trị nhỏ theo pháp luật các nước cũng có những khác biệt nhất định. Chẳng hạn, theo pháp luật của Pháp, Đức và nhiều nước theo hệ thống luật dân sự thì đương sự không được quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm nếu như giá ngạch của vụ kiện thuộc thẩm quyền sơ chung thẩm của Tòa án. Theo pháp luật Nhật Bản, đối với những vụ kiện nhỏ có giá trị dưới 600.000 yên được Tòa án đơn giản giải quyết theo thủ tục về vụ kiện có giá trị nhỏ thì đương sự không được quyền khiếu nại lên Tòa án cấp trên, nếu có khiếu nại thì Tòa án đơn giản sẽ giải quyết lại([6]). Pháp luật một số nước như Thái Lan quy định nếu giá ngạch vụ án thấp hơn một khoản tiền nhất định thì không cho phép đương sự kháng cáo bản án sơ thẩm về vấn đề sự kiện của vụ án nhưng có quyền kháng cáo về vấn đề áp dụng pháp luật. Theo pháp luật Đài Loan đối với vụ kiện nhỏ đương sự được quyền kháng cáo phúc thẩm nhưng không có quyền khiếu nại bản án phúc thẩm này nếu không có sự đồng ý của Tòa án đã xử sơ thẩm.

Tiểu kết luận điểm thứ nhất:

Cải cách thủ tục tố tụng dân sự ở Việt Nam là đòi hỏi khách quan của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Kết quả nghiên cứu lý luận đã làm sáng tỏ về bản chất của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn, mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục này với một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự, bài học rút ra từ việc nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài. Kết quả nghiên cứu lý luận đã cho thấy định hướng về cải cách tư pháp dân sự ở Việt Nam mới chỉ vạch ra những đường hướng cơ bản là cần xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định. Điều cốt lõi cần phải thực hiện là kết nối các định hướng này với lý luận và kỹ thuật lập pháp về tố tụng dân sự để xây dựng thủ tục rút gọn cho phù hợp. Nền tảng căn bản của cải cách là xử lý hài hòa mối liên hệ giữa tính chất đơn giản hay phức tạp của sự việc tranh chấp với trình tự, thủ tục tố tụng dân sự và cơ chế kháng án cần được thiết lập để đáp ứng yêu cầu về tính hiệu quả, nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm được an toàn pháp lý cho các đương sự.

2. Mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam được xây dựng dựa trên những tiền đề thực tiễn

Kết quả nghiên cứu lý luận là tiền đề quan trọng để có thể nhận diện mô hình thủ tục TTDS rút gọn và phác thảo những định hướng ban đầu về mô hình thủ tục TTDS cần được xây dựng ở Việt Nam. Tuy nhiên, để có thể tiến sâu hơn và đưa ra những đề xuất cụ thể, hợp lý về mô hình thủ tục TTDS rút gọn thì cần phải dựa trên những tiền đề thực tiễn nhất định. Đó là nội dung các quy định có liên quan quan tới sự giản lược về thành phần và thủ tục tố tụng trong lịch sử; những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn tố tụng tại Tòa án; những việc đã làm được và chưa làm được trong tiến trình xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam trong gần 20 năm qua.

2.1. Các quy định về sự giản lược thành phần và thủ tục tố tụng dân sự trong lịch sử lập pháp Việt Nam là tiền đề thực tiễn pháp lý cho việc xây dựng mô hình thủ tục rút gọn

Kết quả nghiên cứu cho thấy pháp luật TTDS Việt Nam chưa có một quy định chính thức về “thủ tục TTDS rút gọn”. Tuy nhiên, những quy định về giản lược thành phần xét xử, thủ tục tố tụng trong giải quyết các vụ kiện dân sự đã từng tồn tại và dường như mang tính không thường xuyên qua các giai đoạn phát triển khác nhau của pháp luật TTDS Việt Nam. Nếu so sánh đối chiếu với kết quả nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm quốc tế về thủ tục rút gọn thì có thể xem đây là tiền đề cho việc xây dựng thủ tục rút gọn ở Việt Nam.

2.1.1. Quy định về giản lược thành phần xét xử

- Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia được coi là các nguyên tắc trong TTDS. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các nguyên tắc này không có biệt lệ. Cơ chế xét xử một Thẩm phán đã từng được ghi nhận tại Điều 10 Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946. Theo đó, việc xét xử ở các cấp Toà án có sự khác nhau về thành phần của Hội đồng, mà sự khác nhau đáng chú ý nhất chính là xuất phát từ sự phức tạp hoặc đơn giản của tranh chấp, ngoài ra giá trị tranh chấp của mỗi loại án kiện cũng là một điều kiện để xác định thành phần Hội đồng xét xử là một Thẩm phán, một mình Chánh án hay Hội đồng phải có thêm Hội thẩm.

- Tại các Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992, 2002 đều quy định rằng Tòa án xét xử tập thể, xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia nhưng vẫn có ngoại lệ về việc xét xử bởi một Thẩm phán. Chẳng hạn, Điều 12 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 quy định "Tòa án nhân dân thực hành chế độ xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Khi sơ thẩm, Tòa án nhân dân gồm một Thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân; trường hợp xử những vụ án nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì Tòa án nhân dân có thể xử không có hội thẩm nhân dân".

- Cơ chế giải quyết bằng một Thẩm phán cũng được nhà lập pháp ghi nhận tại Điều 55 Bộ luật TTDS sửa đổi đối với các việc dân sự không có tranh chấp.

- Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã có những cải cách cơ bản về nguyên tắc Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, tạo cơ sở pháp lý cho cơ chế xét xử một Thẩm phán trong TTDS. Theo quy định tại Khoản 1 và khoản 4 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 thì “Việc xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” và “Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc giản lược thành phần tiến hành tố tụng đối với thủ tục TTDS rút gọn.

2.1.2. Quy định về sự giản lược về quy trình tố tụng và cơ chế kháng án

Kết quả nghiên cứu cho thấy trong lịch sử lập pháp Việt Nam thì mặc dù quy định việc xét xử của Tòa án phải qua hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm nhưng không phải là không có ngoại lệ. Cơ chế xét xử một lần, tức là xét xử sơ thẩm nhưng bản án của Tòa án có hiệu lực ngay đã từng tồn tại.

- Theo "Bắc kỳ Pháp viện biên chế" công bố bằng Nghị định ngày 2/12/1921 được thi hành tại toàn cõi Bắc kỳ, thì Tòa án sơ cấp có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm và chung thẩm nếu giá ngạch không quá 30 đồng bạc (Điều 6); Tòa án tỉnh có quyền giải quyết sơ thẩm và chung thẩm nếu giá ngạch quá 30 đồng bạc và không tới 100 đồng bạc (Điều 13).

- Tại miền Trung Việt Nam, theo Nghị định ngày 20/10/1947 của Hội đồng chấp chánh lâm thời Trung kỳ về sửa đổi giá ngạch cũ có quy định: Các Toà đệ nhị cấp xử chung thẩm các việc tương tranh động sản hoặc đối với người, việc thương sự; việc đòi tiền bồi hoàn hay bồi thường với giá ngạch trên 500 $ nhưng dưới 1500 $, về bất động sản theo giá ngạch đồng niên không quá 150 $ (Điều 19).

- Ở miền Nam Việt Nam, theo Sắc lệnh ngày 27/12/1943 có quy định: Toà xử sơ thẩm và chung thẩm các tố quyền đối nhân và động sản đến mức 7.500 quan tức 750 $ hay 750 giạ lúa (mỗi giạ trọng lượng độ 20 ki lô), các tố quyền bất động sản lợi tức đồng niên 40 giạ lúa hay 300 quan hay 30$ mỗi năm. Theo Điều 16 BLDS và thương sự ngày 20/1/1972 của chính quyền Sài Gòn, thì những vụ kiện về động sản có giá trị dưới 60.000đ (thời điểm 1972) được coi là có giá ngạch thấp([7]).

- Theo các Sắc lệnh số 51/SL "Ấn định thẩm quyền các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án" ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số 85/SL "Về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng" ngày 22/5/1950 thì cơ chế xét xử một lần được áp dụng đối với những vụ kiện mà đối tượng tranh chấp là những tài sản có giá trị nhỏ và được thực hiện ở các Tòa án sơ cấp và đệ nhị cấp. Tuy nhiên, sau này theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 thì việc xét xử hai cấp đã chính thức được ghi nhận thành một nguyên tắc do vậy cơ chế này không còn được áp dụng nữa([8]).

+ Theo các quy định về TTDS trong giai đoạn từ năm 1981 đến trước ngày ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, thì việc xét xử vẫn được thực hiện theo hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm, đồng thời trong các văn bản pháp luật vẫn quy định về cơ chế xét xử một lần. Tuy nhiên, nếu so sánh với các quy định của thời kỳ trước năm 1960 thì cơ chế xét xử một lần trong thời kỳ này có sự thay đổi về bản chất của nó. Nếu trước năm 1960 cơ chế xét xử một lần chỉ áp dụng ở Tòa án sơ cấp (ở cấp quận, huyện...) và các Tòa án đệ nhị cấp (ở cấp tỉnh), thì theo Điều 21 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 và Điều 27 Luật sửa đổi bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1988, thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm (xét xử một lần) chỉ thuộc về Tòa án nhân dân tối cao([9]).

- Theo Điều 17 Bộ luật TTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì việc xét xử theo hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm đã được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản như đã từng quy định trong các Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, 1981 nên cơ chế xét xử một lần không còn được áp dụng nữa. Ngoài ra, quy định tại khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 với nội dung “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” cũng tạo ra những vướng mắc nhất định đối với việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn hiện nay. Mặc dù, văn từ của Điều 103 Hiến pháp năm 2013 cho thấy chế độ xét xử phúc thẩm có thể không có tính bắt buộc đối với những loại việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng, áp dụng pháp luật đơn giản (không cần phải xét xử) nhưng đối với những tranh chấp có giá ngạch thấp thì dường như câu trả lời vẫn còn bỏ ngỏ.

- Ngoài cơ chế xét xử một lần dựa trên giá ngạch của vụ kiện hay tính chất của tranh chấp, pháp luật Việt Nam đã từng có những quy định về thủ tục giải quyết nhanh đối với các khiếu nại về danh sách cử tri được quy định tại Điều 9 trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 11, ngày 31/12/1959: “Khi kiểm tra danh sách cử tri, nếu thấy có sai lầm hoặc thiếu sót thì trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày niêm yết, nhân dân có quyền khiếu nại hoặc báo cáo bằng miệng hoặc bằng giấy lên cơ quan lập danh sách. Cơ quan lập danh sách cử tri phải ghi vào một quyển sổ những khiếu nại hoặc báo cáo bằng miệng. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại hoặc báo cáo, cơ quan lập danh sách cử tri phải giải quyết xong. Nếu người khiếu nại hoặc báo cáo chưa đồng ý về cách giải quyết đó thì có quyền khiếu nại lên Tòa án nhân dân huyện, châu, thị xã hoặc thành phố. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Tòa án nhân dân phải giải quyết xong. Quyết định của Tòa án nhân dân là quyết định cuối cùng”.

Sau này, các quy định về thủ tục xét xử nhanh giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri nêu trên vẫn được kế thừa nguyên bản tại Điều 25 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1983. Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1989 cũng vẫn tiếp tục quy định tương tự, nhưng thời gian Tòa án giải quyết là năm ngày, thay vì ba ngày như trước đó. Khoản 6, Điều 10 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 cũng quy định loại việc khiếu nại về danh sách cử tri thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân.

Điều 25 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1994 cũng quy định nội dung tương tự. Tuy nhiên, đến năm 1996, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được ban hành, việc khiếu nại về danh sách cử tri được giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính, nên chính thức thì bắt đầu từ thời điểm này, thủ tục giải quyết vụ án dân sự không còn loại việc nào được quy định theo thủ tục rút gọn.

2.2. Việc xây dựng mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam là đòi hỏi khách quan từ thực tiễn giải quyết án kiện dân sự tại Tòa án

          2.2.1. Yêu cầu rút ngắn thời hạn, đơn giản hóa thành phần và thủ tục tố tụng dân sự từ thực tiễn giải quyết án kiện

- Kết quả khảo sát về nhu cầu cải cách thủ tục TTDS từ thực tiễn giải quyết án kiện, do nhóm nghiên cứu tiến hành cho thấy, đa số các ý kiến được hỏi đều cho rằng pháp luật Việt Nam về thủ tục TTDS chưa phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước (56 %), chưa đáp ứng được yêu cầu về quyền tiếp cận công lý, quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS (50%) và có tới 71% cho rằng chưa đáp ứng được yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả của thủ tục khi áp dụng trên thực tế.

- Nghiên cứu thực tiễn tố tụng tại Tòa án cho thấy vấn đề nổi lên là sự gia tăng của án kiện và áp lực về công việc của ngành Tòa án. Từ sau quá trình đổi mới nền kinh tế năm 1986, cùng với sự phát triển của kinh tế thì các tranh chấp về dân sự, thương mại diễn ra ngày càng nhiều, năm sau luôn cao hơn năm trước cả về số lượng lẫn tính chất mức độ phức tạp trong từng vụ việc. Vấn đề này đã được minh chứng qua các số liệu được thể hiện trong các Báo cáo của ngành Tòa án từ 2005 đến nay.

- Kết quả nghiên cứu thực tiễn tố tụng tại Tòa án và kết quả khảo sát do nhóm nghiên cứu tiến hành cho thấy trong tổng số các vụ kiện mà toàn hệ thống Tòa án thụ lý, giải quyết nêu trên có không ít những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, nội dung tranh chấp đơn giản, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối yêu cầu của nguyên đơn, vụ kiện có giá ngạch thấp nhưng vẫn phải giải quyết theo trình tự thủ tục tố tụng thông thường gây mất thời gian, tiền bạc, công sức của cơ quan tố tụng và các đương sự; hiện tượng bị đơn cố tình lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ, gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án là khá phổ biến. Thực trạng này được nhóm nghiên cứu minh chứng qua một loạt các vụ án dân sự, kinh doanh, thương mại mà bị đơn kháng cáo trì hoãn nghĩa vụ trong những năm gần đây tại các Tòa án Thành phố Nam Định, Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu;  Tòa án Gia Lâm; Tòa án Quận Cầu Giấy; Tòa án Quận Đông Anh; Tòa án Thành phố Hà Nội; Tòa án Chương Mỹ; Quận 3 Thành phố HCM... Kết quả nghiên cứu này cho thấy những hạn chế, bất cập của pháp luật TTDS hiện hành đã dẫn tới những sự lạm dụng của một bên đương sự. Do vậy, việc nghiên cứu để sửa đổi pháp luật là rất cần thiết.

2.2.2. Kết quả nghiên cứu thực tiễn đã chỉ ra những loại việc có thể giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn

Trên cơ sở tổng hợp kết quả khảo sát tại các cơ quan tư pháp và kết quả nghiên cứu thực tiễn từ các chuyên đề, nhóm nghiên cứu đã rút ra một số kết luận về loại việc phát sinh từ thực tiễn đòi hỏi phải được giải quyết theo thủ tục đơn giản hơn. Kết quả nghiên cứu thực tiễn giải quyết án kiện và điều tra, khảo sát cho thấy thực tiễn tại Tòa án đã xuất hiện nhiều loại việc đáp ứng tiêu chí lý luận về loại việc theo thủ tục rút gọn. Đó là:

(1) Những vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ, bị đơn đã thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ của mình.

 (2) Những vụ kiện có chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, các sự kiện đã được xác định, Tòa án không mất nhiều thời gian để xác minh và không cần thiết phải thu thập thêm chứng cứ.

Nhóm nghiên cứu đã kế thừa một số kết quả của công trình nghiên cứu trước đây([10]) nhưng đã có sự loại bỏ một số loại việc mà hiện nay đã được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự như yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật và một số loại việc mà nếu giải quyết theo thủ tục rút gọn có thể sẽ không bảo đảm an toàn pháp lý cho người bị kiện như yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do ký kết với người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên.

 (3) Những vụ kiện có giá ngạch thấp:

Nhóm nghiên cứu nhận định về thực trạng thực tiễn xét xử xuất hiện những vụ kiện tuy giá trị nhỏ nhưng phải áp dụng thủ tục thông thường để giải quyết, thậm chí phải xử đi xử lại nhiều lần gây tổn phí không cần thiết.

2.3. Bài học kinh nghiệm từ việc nghiên cứu quá trình xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam từ gần 20 năm nay

2.3.1. Tiến trình xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS) được thông qua

Nghiên cứu tiến trình xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam cho thấy, việc khởi thảo thủ tục này trong Dự thảo BLTTDS đã được bắt đầu từ những năm 1996, 1997. Thủ tục rút gọn đã được xây dựng tại Chương XV Dự thảo V BLTTDS gồm 7 điều luật (Điều 237 - Điều 243). Tuy còn có những điểm còn phải chỉnh sửa nhưng các quy định về thủ tục rút gọn này đã phần nào đáp ứng được những đòi hỏi mà thực tiễn giải quyết tranh chấp đặt ra và phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế về TTDS. Cho tới Dự thảo VIII BLTTDS phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn này đã bị thu hẹp bởi 3 điều luật (Điều 267 - Điều 269) tại Chương XV với tên gọi là “Thủ tục yêu cầu thanh toán nợ”. Có thể thấy rằng thủ tục yêu cầu thanh toán nợ trong Dự thảo VIII về cơ bản là sự mô phỏng các quy định về thủ tục ra lệnh trong BLTTDS Pháp năm 1807. Tuy nhiên, so sánh với các quy định trong BLTTDS Pháp thì phạm vi áp dụng thủ tục yêu cầu thanh toán nợ theo Dự thảo VIII BLTTDS Việt Nam đã bị thu hẹp. Bởi vì, theo Dự thảo VIII BLTTDS thủ tục này chỉ áp dụng trong các quan hệ hợp đồng vay tài sản mà không áp dụng cho việc thanh toán các nghĩa vụ tài sản khác như BLTTDS Pháp([11]).

Việc nghiên cứu cũng cho thấy cho tới Dự thảo X và XI thì thủ tục rút gọn đã hoàn toàn không còn tồn tại nữa. Trong khi đó, theo kết quả nghiên cứu so sánh mà nhóm nghiên cứu thực hiện thì pháp luật của nhiều nước trên thế giới bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường đều có xây dựng một thủ tục tố tụng rút gọn áp dụng đối với những tranh chấp đơn giản, rõ ràng hoặc giá ngạch thấp. Ngoài Cộng hoà Pháp, Đức là hai nước có thể coi là hình mẫu tiêu biểu của các nước theo hệ thống Châu Âu lục địa thì Australia và một số nước Châu Á có điều kiện gần gũi và tương đồng với Việt Nam như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc, Singapo... đều có những quy định về thủ tục rút gọn này. Sau khi BLTTDS ra đời, nhiều ý kiến cho rằng thủ tục giải quyết việc dân sự được quy định từ Điều 311 đến Điều 341 BLTTDS năm 2004 chính là thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, việc nghiên cứu pháp luật TTDS của nhiều nước trên thế giới cho thấy rằng đây chỉ là các thủ tục tố tụng đặc biệt chứ không phải là thủ tục rút gọn theo đúng nghĩa của nó.

2.3.2. Tiến trình xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 được thông qua

Nhận định thủ tục giải quyết việc dân sự không phải là thủ tục TTDS rút gọn theo đúng nghĩa của nó tiếp tục được khẳng định tại Nghị quyết số 49 - NQ/TW của Bộ chính trị ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã củng cố cho nhận định này và chỉ rõ cần phải tiếp tục: “…Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”. Thực hiện Nghị quyết nói trên, Ban soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS cũng đã xây dựng các quy định về thủ tục này.

Khi tổng hợp ý kiến các bộ, ngành về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS thì đa số các bộ, ngành đều nhất trí bổ sung thủ tục đơn giản trong TTDS với định hướng là cần xem xét, cân nhắc các tiêu chí, điều kiện, trình tự, thủ tục áp dụng thủ tục đơn giản([12]). Khoản 69 Điều 1 Dự thảo 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (2010) đã thiết lập Chương XV về thủ tục rút gọn Điều 281 b. Dự thảo này về cơ bản xác định hai loại việc có thể áp dụng thủ tục rút gọn, bao gồm loại việc có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối nghĩa vụ và loại việc mà đương sự thoả thuận lựa chọn thủ tục rút gọn để giải quyết. Tuy nhiên, do còn có nhiều ý kiến khác nhau nên một lần nữa các quy định về thủ tục rút gọn trong Dự thảo 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (2010) đã không được giữ lại trong BLTTDS sửa đổi 2011. Đây chính là lý do giải thích vì sao các quy định về thủ tục TTDS rút gọn lại không hiện hữu trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011.

2.3.3. Việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự được thông qua

Nhận thức được nhu cầu cấp thiết trong việc giải quyết các tranh chấp tiêu dùng bằng thủ tục TTDS rút gọn, Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 đã chính thức ghi nhận việc giải quyết tranh chấp dân sự về bảo vệ người tiêu dùng (một trong những loại tranh chấp dân sự) bằng thủ tục TTDS rút gọn. Theo đó, khoản 2 Điều 41 Luật Bảo vệ người tiêu dùng ghi nhận:

“…Vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết theo thủ tục đơn giản quy định trong pháp luật về TTDS khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện;

b) Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng;

c) Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng”.

Có thể nhận thấy các quy định nêu trên của Luật Bảo vệ người tiêu dùng là quy định của pháp luật về nội dung và tranh chấp về tiêu dùng là một trong những tranh chấp thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án. Tuy nhiên, pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành vẫn chưa có các quy định về thủ tục TTDS rút gọn để áp dụng giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung và một số loại tranh chấp về tiêu dùng có nội dung đơn giản, rõ ràng, giá trị dưới 100 triệu.

Theo Nghị quyết số 70/2014/QH13 ngày 30/5/2014 của Quốc hội về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2014 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định số 89/QĐ-TANDTC ngày 16/7/2014 tổng kết thi hành BLTTDS làm cơ sở cho việc sửa đổi tổng thể BLTTDS trong thời gian tới. Việc tiếp tục nghiên cứu để xây dựng thủ tục TTDS rút gọn là một trong những nội dung trọng tâm của kế hoạch sửa đổi BLTTDS lần này.

Tiểu kết luận điểm thứ hai:

Như vậy, kết quả nghiên cứu về thực trạng tố tụng dân sự và xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam đã cho thấy mặc dù chưa có một quy định chính thức về “thủ tục TTDS rút gọn” nhưng những quy định về giản lược thành phần xét xử và giản lược về thủ tục tố tụng dân sự và cơ chế kháng án đã từng tồn tại trong lịch sử pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Các quy định này đã được áp dụng và kiểm nghiệm trên thực tế trong một thời gian dài. Tuy nhiên, do những thay đổi quan niệm lập pháp trong Luật Tổ chức Tòa án năm 1981 về cơ chế xét xử một Thẩm phán và trong BLTTDS năm 2004 về nguyên tắc hai cấp xét xử nên các cơ chế giản lược này không còn được áp dụng nữa.

Kết quả nghiên cứu và khảo sát thực tiễn giải quyết án kiện dân sự, kinh tế, lao động tại các Tòa án cũng đã cho thấy yêu cầu khách quan và cơ sở thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn ở Việt Nam. Việc nghiên cứu và tổng kết những thành tựu và khó khăn, vướng mắc trong việc xây dựng thủ tục rút gọn từ gần 20 năm nay ở Việt Nam, đã giúp cho việc xác định trọng tâm và đường hướng cơ bản của việc xây dựng thủ tục này được rõ nét hơn, nhất là trong bối cảnh sửa đổi các quy định có liên quan tới các nguyên tắc của tố tụng dân sự trong Hiến pháp 2013 và việc ghi nhận cơ chế giải quyết tranh chấp bằng thủ tục rút gọn theo Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010.

3. Quan điểm và đề xuất mô hình về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam

3.1. Quan điểm về xây dựng mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam

Tổng hợp các kết quả nghiên cứu lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn nhóm nghiên cứu nhận định việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam cần phải được tiến hành trên một nền tảng căn bản, đó là sự kết hợp giữa đường lối của Đảng về cải cách tư pháp dân sự, học lý về TTDS, thực tiễn tố tụng tại Tòa án và thành tựu lập pháp trên thế giới. Việc xây dựng mô hình thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau đây :

1. Thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng phải trên cơ sở kế thừa thành tựu lập pháp của dân tộc, tiếp thu thành tựu khoa học tố tụng trên thế giới phù hợp với truyền thống lập pháp, đặc điểm văn hoá, tâm lý dân tộc.

2. Thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng trên cơ sở đơn giản hoá thủ tục thông thường, đáp ứng yêu cầu về đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo và hiệu quả của thủ tục TTDS  đồng thời phải bảo đảm hợp lý quyền tranh tụng, quyền bảo vệ của đương sự.

3. Thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng phải đáp ứng yêu cầu về an toàn pháp lý cho các đương sự.

4. Thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng phải đáp ứng yêu cầu về tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết tranh chấp.

5. Thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng trên cơ sở của Hiến pháp, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và TTDS.

3.2. Đề xuất về xây dựng mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam

3.2.1. Đề xuất về thẩm quyền và nguyên tắc áp dụng pháp luật trong thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

-  Về thẩm quyền giải quyết các loại việc theo thủ tục TTDS rút gọn

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu so sánh và thực hiện tinh thần cải cách thủ tục tư pháp dân sự “thuận tiện” cho dân thì cần phải sửa đổi các quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo hướng các loại việc được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn sẽ thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án cấp thấp nhất trong hệ thống Tòa án của Việt Nam (hiện nay là Tòa án cấp huyện). Đề xuất này phù hợp với xu hướng mở rộng thẩm quyền cho Tòa án cấp huyện, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc theo kiện, tránh những tổn phí về đi lại do việc theo kiện sơ thẩm tại Tòa án cấp tỉnh và phúc thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao.

- Về nguyên tắc áp dụng pháp luật trong thủ tục TTDS rút gọn:

+ Theo kết quả nghiên cứu lý luận thì thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng trên cơ sở giản lược thủ tục tố tụng thông thường, do vậy thủ tục rút gọn được xây dựng vẫn phải tuân thủ các nguyên tắc về bảo đảm quyền tố tụng của đương sự theo quy định của pháp luật TTDS như: quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự, bảo đảm quyền tranh luận trong TTDS, bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTDS; các nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh của đương sự, về trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Ngoài ra, các nguyên tắc liên quan đến tính độc lập, khách quan và giám sát hoạt động tố tụng của Tòa án cũng phải được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng như nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia TTDS, Bảo đảm pháp chế trong TTDS, Giám đốc việc xét xử .v.v...

+ Việc nghiên cứu cũng cho thấy rằng cơ chế xét xử một Thẩm phán và sự giản lược về thủ tục tố tụng là hai đặc điểm cơ bản của thủ tục TTDS rút gọn. Do vậy, một số nguyên tắc của TTDS có thể sẽ không được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn (như nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, nguyên tắc xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia) hoặc việc áp dụng có thể chỉ được thực hiện ở một mức độ nhất định (như nguyên tắc về sự tham gia TTDS của Viện kiểm sát, nguyên tắc về hòa giải) nhằm đáp ứng yêu cầu giản lược về thành phần và thủ tục tố tụng đối với một số loại tranh chấp có tính đặc thù.

+ Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đề xuất theo hướng các quy định về thủ tục TTDS rút gọn cần được quy định thành một phần riêng trong Bộ luật TTDS và khi giải quyết các vụ việc theo thủ tục TTDS rút gọn thì về nguyên tắc phải ưu tiên áp dụng các quy định trong phần riêng trước. Bên cạnh đó, những quy định chung của Bộ luật TTDS cho mọi loại hình thủ tục như quy định về nguyên tắc cơ bản trong TTDS, về thay đổi người tiến hành tố tụng; về người đại diện, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, về thời hiệu; thủ tục cấp, tống đạt thông báo các văn bản tố tụng, thủ tục áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời... vẫn được áp dụng cho các vụ việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn.

3.2.2. Đề xuất về mô hình loại việc được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

Như đã đề cập ở trên, sự giản lược về thủ tục tố tụng là một trong những đặc điểm cơ bản của thủ tục TTDS rút gọn. Do vậy, để sự giản lược về thủ tục tố tụng này không làm tổn hại đến an toàn pháp lý và quyền lợi chính đáng của đương sự thì sự cẩn trọng trong việc xác định hợp lý phạm vi những loại việc có thể giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn là rất cần thiết. Tổng hợp kết quả nghiên cứu lý luận cũng như kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này có thể kết luận những loại việc được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn phải là những loại việc đáp ứng tiêu chí về sự đơn giản, rõ ràng về sự việc và áp dụng pháp luật. Ngoài ra, xét dưới góc độ kinh tế và hiệu quả của hoạt động tố tụng thì loại việc được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn có thể còn bao gồm cả những tranh chấp có giá trị không lớn. Từ kết quả nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới, nhóm nghiên cứu đã rút ra bài học về phân hóa loại việc để thiết lập các thủ tục tố tụng tương ứng.

- Loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ của mình:

- Loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết là đơn giản

- Những tranh chấp có giá trị nhỏ:

- Các vụ kiện được đương sự thoả thuận lựa chọn áp dụng thủ tục rút gọn

3.2.3. Đề xuất về thành phần tiến hành tố tụng theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

- Đề xuất về cơ chế một Thẩm phán giải quyết theo thủ tục rút gọn:

Theo kết quả nghiên cứu lý luận thì việc xét xử được tiến hành bởi một Hội đồng xét xử, có Hội thẩm nhân dân tham gia có ưu điểm là hạn chế các áp lực tác động từ bên ngoài, mặt khác sự tham gia ý kiến giữa các thành viên của Hội đồng xét xử sẽ làm sáng tỏ các vấn đề của vụ án, giúp Tòa án đi tới một nhìn nhận đầy đủ và giải quyết đúng đắn các vụ việc. Tuy nhiên, hạn chế của cơ chế này lại là ở chỗ không nâng cao được tinh thần trách nhiệm của các thành viên bởi chính chế độ trách nhiệm tập thể. Ngoài ra, như đã phân tích thì xét dưới góc độ kinh tế học, cơ chế xét xử này là một cơ chế tốn kém với những tổn phí phát sinh đối với hệ thống tư pháp do chi phí về nhân lực sẽ tăng gấp 3 lần so với cơ chế giải quyết tranh chấp bằng một Thẩm phán. Trong khi đó, cơ chế một Thẩm phán có ưu điểm ở chỗ Thẩm phán có thể chủ động trong công việc của mình, gắn trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ kiện. Do yêu cầu giản lược về thành phần tiến hành tố tụng đáp ứng đòi hỏi về tính hiệu quả, giảm chi phí không cần thiết về nhân lực của hệ thống tư pháp đối với một số loại tranh chấp có tính đơn giản, rõ ràng, giá trị tranh chấp không lớn nên nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự, Toà án xét xử tập thể sẽ không được áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn.

Hiến pháp năm 2013 đã có một số sửa đổi, bổ sung đối với một số nguyên tắc về TTDS như nguyên tắc việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham gia; nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 4 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 thì “Việc xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” và “Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Như vậy, các quy định tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã mở đường cho việc giản lược thành phần tiến hành TTDS đối với trường hợp xét xử theo thủ tục TTDS rút gọn.

Do vậy, để tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn, bảo đảm sự đồng bộ của hệ thống pháp luật thì các quy định tại Điều 11 và Điều 14 BLTTDS sửa đổi về nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự và nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể cần phải được sửa đổi theo hướng xác định những ngoại lệ đối với các vụ kiện giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn:

+ Điều 11 BLTTDS sửa đổi về nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự cần được sửa đổi như sau: “Việc xét xử các vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục TTDS rút gọn”.

+ Điều 14 BLTTDS sửa đổi về nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể cần được sửa đổi như sau: “Tòa án xét xử tập thể vụ án dân sự và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục TTDS rút gọn”.

+ Điều 52 và Điều 53 BLTTDS sửa đổi về thành phần xét xử cần được sửa đổi như sau:

Điều 52 BLTTDS sửa đổi sẽ được sửa đổi theo hướng “Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục TTDS rút gọn”. Ngoài ra, để mở đường cho đề xuất về cơ chế kháng án đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ trong trường hợp đề xuất về hiệu lực thi hành ngay của phán quyết theo thủ tục rút gọn đối với loại việc này không được chấp nhận thì cần phải sửa đổi Điều 53 BLTTDS sửa đổi về thành phần xét xử theo hướng “Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự gồm ba Thẩm phán, trừ trường hợp xét xử phúc thẩm đối với các vụ kiện có giá trị nhỏ theo thủ tục TTDS rút gọn”.

Trên cơ sở những đề xuất khôi phục cơ chế xét xử một Thẩm phán đối với những loại việc giải quyết theo thủ tục rút gọn như trên, nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy cần phải có những giải pháp hỗ trợ cho việc thực hiện cơ chế này.

- Đề xuất về sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát:

Theo kết quả nghiên cứu lý luận đã được thực hiện thì do yêu cầu giản lược về thành phần tiến hành tố tụng đối với một số loại vụ kiện có tính đơn giản, rõ ràng, giá trị tranh chấp không lớn nên nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS (Điều 21 BLTTDS sửa đổi) chỉ được thực hiện ở mức độ hạn chế nhất định. Do vậy, trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu kiến nghị sửa đổi quy định tại Khoản 2 Điều 21 BLTTDS sửa đổi năm 2011 như sau:

2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên toà sơ thẩm đối với những vụ án do Toà án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục TTDS rút gọn”.

3.2.4. Đề xuất về thời hạn và mô hình trình tự, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

- Về thời hạn giải quyết vụ kiện theo thủ tục TTDS rút gọn:

Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng cần phải cân nhắc về “khoảng thời gian của thời hạn” được rút ngắn một cách hợp lý để vừa đảm bảo nhanh chóng, hiệu quả trong việc giải quyết việc kiện nhưng cũng vẫn phải đảm bảo cho Tòa án đủ thời gian để tiến hành các hoạt động cần thiết cho việc ra phán quyết đúng đắn và chính xác. Từ việc nghiên cứu thực tiễn giải quyết các án kiện, kế thừa kết quả của công trình nghiên cứu trước đây do chủ nhiệm đề tài thực hiện([13]), nhóm nghiên cứu cho rằng đối với những loại vụ kiện đòi thanh toán, thực hiện nghĩa vụ mà có chứng từ rõ ràng, bên bị kiện không phản đối thì trong vòng một tháng, Tòa án có thể tiến hành xác minh, thẩm định lại một cách chắc chắn giá trị chứng minh của các chứng cứ mà đương sự cung cấp cũng như các tình tiết khách quan của vụ kiện. Do vậy, nhóm nghiên cứu đề xuất quy định thời hạn chung cho việc chuẩn bị xét xử theo thủ tục TTDS rút gọn là không quá 30 ngày kể từ ngày Tòa án thụ lý vụ kiện là hợp lý.

- Về xác minh và thu thập chứng cứ theo thủ tục TTDS rút gọn:

Theo kết quả nghiên cứu lý luận thì thủ tục TTDS rút gọn được xây dựng trên cơ sở giản lược một cách hợp lý thủ tục tố tụng thông thường cho phù hợp với tính chất đơn giản, rõ ràng của vụ kiện hoặc đáp ứng yêu cầu về tính hiệu quả của hoạt động tố tụng. Kết quả nghiên cứu so sánh về kinh nghiệm lập pháp của một số nước có quy định về thủ tục này cho thấy việc xác minh đối với các vụ kiện giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn đều được tiến hành theo trình tự đơn giản, nhanh chóng, hiệu quả nhưng vẫn bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, nhóm nghiên cứu đề xuất như sau :

+ Đối với vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ hoặc việc áp dụng pháp luật là đơn giản:

Xét về bản chất thì đây là những vụ kiện mà đương sự đã xuất trình cho Tòa án đầy đủ các chứng cứ, tài liệu. Do đó, Tòa án không cần phải thu thập thêm chứng cứ mà thực chất chỉ xem xét, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên, xác minh, đánh giá chứng cứ cũng như giải quyết vụ kiện một cách chính xác thì Tòa án vẫn phải sử dụng các phương pháp thu thập chứng cứ nếu xét thấy cần thiết như lấy lời khai của đương sự, người làm chứng, đối chất.v.v…Trường hợp các đương sự đưa ra yêu cầu Tòa án buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ đã rõ ràng nhưng lại không xuất trình được chứng cứ, tài liệu để chứng minh cho yêu cầu của mình hoặc khi tiến hành xác minh, Tòa án phát hiện thấy vụ kiện có tranh tụng về chứng cứ hoặc phức tạp trong việc áp dụng pháp luật thì Tòa án không ra quyết định giải quyết vụ kiện theo thủ tục TTDS rút gọn mà tiến hành giải quyết vụ kiện theo thủ tục tố tụng thông thường. Nếu chứng cứ đầy đủ, rõ ràng thì Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ.

+ Đối với vụ kiện có giá trị nhỏ:

Đây là loại vụ kiện được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn để đáp ứng yêu cầu về tính hiệu quả của hoạt động tố tụng. Đối với những loại việc kiện này thì giữa các đương sự vẫn có thể có tranh tụng cả về sự việc và pháp luật, do vậy, việc chứng minh của các đương sự cũng như việc thu thập chứng cứ của Tòa án vẫn cần phải được tiến hành theo thủ tục TTDS thông thường([14]).

- Đề xuất về hòa giải của Tòa án theo thủ tục TTDS rút gọn:

Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đề xuất theo hướng việc hòa giải của Tòa án có tính bắt buộc hay có thể tùy nghi lại phụ thuộc vào tính chất đơn giản hay phức tạp của các loại việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ có tính đơn giản, rõ ràng thì không nên coi hòa giải tại Tòa án là có tính bắt buộc trước khi xét xử, còn những tranh chấp có giá trị nhỏ nhưng các bên có những vướng mắc về tâm lý, tình cảm, mâu thuẫn cá nhân thì vẫn phải tiến hành hòa giải trước khi xét xử sơ thẩm. Đối với những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự đã thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ hoặc việc áp dụng pháp luật là đơn giản thì sẽ hợp lý hơn nếu cho phép Thẩm phán có thể ra ngay quyết định buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ mà không cần thiết phải triệu tập các bên đương sự đến để hòa giải trước khi ra quyết định buộc thực hiện nghĩa. Với những lập luận trên, nhóm nghiên cứu kiến nghị sửa đổi Điều 10 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 theo hướng trao cho Thẩm phán quyền tùy nghi quyết định việc triệu tập các bên đương sự đến để hòa giải trước khi ra phán quyết theo thủ tục TTDS rút gọn

+ Đối với vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ; vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật đơn giản:

Nhóm nghiên cứu đề xuất để đảm bảo tính nhanh chóng, hiệu quả của thủ tục TTDS thì việc hòa giải đối với loại vụ kiện này được thực hiện theo hướng nếu yêu cầu của nguyên đơn không đủ căn cứ giải quyết theo thủ tục rút gọn thì Thẩm phán quyết định chuyển sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường và hòa giải được thực hiện như khi Tòa án giải quyết các vụ án dân sự thông thường. Nếu yêu cầu của nguyên đơn có đủ căn cứ thì Thẩm phán có thể ra quyết định buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ mà không cần phải hòa giải. Bị đơn có quyền phản đối lệnh này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định của Tòa án. Khi bị đơn phản đối quyết định của Tòa án thì Thẩm phán sẽ triệu tập đầy đủ các bên đương sự đến tham gia hòa giải. Việc hòa giải được thực hiện theo thủ tục TTDS thông thường.

+ Đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ:

Đây là những vụ án mà giữa các đương sự vẫn có thể có tranh chấp, mâu thuẫn với nhau, vì vậy nhóm nghiên cứu đề xuất tùy theo trường hợp Thẩm phán vẫn có thể triệu tập đương sự để tiến hành hòa giải giúp các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp. Trường hợp hòa giải không thành thì Thẩm phán ra quyết định mở phiên tòa xét xử để ra phán quyết đối với vụ kiện có giá trị nhỏ. Nhóm nghiên cứu cũng đề xuất đối với những trường hợp này nếu hòa giải thành thì Thẩm phán lập biên bản hòa giải thành, biên bản ghi đầy đủ những thỏa thuận của các bên đương sự, có đầy đủ chữ ký của đương sự, thư ký Tòa án và Thẩm phán đồng thời ra ngay quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay([15]). Giải pháp này đáp ứng tốt hơn yêu cầu về tính hiệu quả của hoạt động tố tụng do không phải chờ đợi sau 7 ngày mới có thể ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như trong thủ tục tố tụng thông thường.

- Về việc ra quyết định buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ đã rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết là đơn giản và cơ chế phản kháng:

Tổng hợp kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn ở Việt Nam cũng như tham khảo kinh nghiệm quốc tế, để đảm bảo tính hiệu quả và an toàn pháp lý của các đương sự, nhóm nghiên cứu đề xuất về thủ tục và cơ chế kháng án đối với loại việc kiện yêu cầu bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ rõ ràng, đơn giản như sau:

+ Nếu việc kiện của nguyên đơn không đáp ứng yêu cầu của loại việc theo thủ tục rút gọn thì Thẩm phán giải quyết vụ việc theo thủ tục tố tụng thông thường.

+ Nếu yêu cầu của nguyên đơn có đủ căn cứ thì Thẩm phán ra quyết định buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ mà không cần mở phiên tòa. Bị đơn có quyền phản đối quyết định của Tòa án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định. Nếu trong thời hạn này mà bị đơn không phản đối thì quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quyết định buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ có hiệu lực pháp luật chỉ có thể bị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm khi có căn cứ được pháp luật quy định.

+ Trường hợp bị đơn phản đối quyết định buộc thực hiện nghĩa vụ của Tòa án thì Thẩm phán sẽ quyết định mở phiên tòa xét xử theo thủ tục tố tụng thông thường. Phiên tòa xét xử cần triệu tập đầy đủ các bên đương sự đến tham gia tố tụng. Trong trường hợp các bên vắng mặt trong phiên tòa thì việc xét xử hay hoãn phiên tòa được thực hiện theo thủ tục tố tụng thông thường. Bản án sơ thẩm của Tòa án sẽ thay quyết định buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ. Việc xem xét lại bản án này theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo thủ tục tố tụng thông thường. Tuy nhiên, để hạn chế việc phản đối có tính lạm quyền nhằm nhằm trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ, nhóm nghiên cứu kiến nghị thiết lập quy định phạt tiền đối với người lạm quyền phản đối nhằm trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ khi có căn cứ khẳng định việc phản đối là vô căn cứ. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng cho rằng việc buộc bị đơn phải chịu những tổn phí tố tụng do việc phản đối có tính lạm quyền gây ra cũng là giải pháp hợp lý và cần thiết để chống lại sự lạm quyền của các tụng nhân không trung thực.

- Về phiên tòa đối với vụ kiện có giá trị nhỏ:

Kết quả nghiên cứu lý luận cho thấy xét dưới góc độ kinh tế học và hiệu quả của hoạt động tố tụng thì thủ tục giải quyết các vụ kiện có giá trị không lớn cần được giản lược so với thủ tục tố tụng thông thường. Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu cho rằng phiên tòa sơ thẩm đối với loại vụ kiện có giá trị nhỏ không bắt buộc phải tiến hành tuần tự các bước như thủ tục TTDS thông thường mà có thể bỏ qua các bước không cần thiết. Thực chất có thể xem đây như là một phiên đối chất để kiểm tra lại các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, trước khi Thẩm phán ra quyết định về vụ việc:

+ Thẩm phán công bố lời khai cũng như các chứng cứ, tài liệu mà các bên đưa ra và chỉ xét hỏi thêm những điểm còn chưa rõ ràng.

+ Trong phần tranh luận, nếu xét thấy cần thiết Thẩm phán sẽ cho các bên đương sự tranh luận về chứng cứ. Nếu các bên đương sự không có tranh luận về chứng cứ thì trong phần này Thẩm phán chỉ cần yêu cầu các bên đề xuất hướng giải quyết vụ kiện.

+ Sau khi các bên đương sự đã đề xuất ý kiến của mình thì Thẩm phán có thể công bố ngay quyết định của Tòa án về việc giải quyết vụ kiện.

Ngoài ra, đối với trường hợp các đương sự vắng mặt trong lần triệu tập thứ nhất thì Thẩm phán cần phải hoãn phiên tòa để đảm bảo quyền tham gia phiên tòa của các đương sự. Tuy nhiên, khi đương sự được Tòa án triệu tập lần thứ hai thì dù có hay không có lý do chính đáng thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử để tránh kéo dài thời gian giải quyết vụ kiện đối với vụ kiện có giá trị không lớn([16]).

- Đề xuất về hiệu lực của phán quyết đối với vụ kiện có giá trị nhỏ theo thủ tục TTDS rút gọn:

Theo nghiên cứu về phương diện lý luận thì sự giản lược về thủ tục tố tụng là một trong những đặc điểm cơ bản của thủ tục TTDS rút gọn. Do vậy, nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử cần được xem là một biệt lệ hoặc hạn chế áp dụng đối với thủ tục TTDS rút gọn. Kết quả nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế được tổng hợp tại Tiểu mục “2.1.3. Mô hình về thủ tục TTDS rút gọn theo pháp luật một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” cũng cho thấy pháp luật của Pháp, Đức và nhiều nước theo hệ thống luật dân sự thì đương sự không được quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm nếu như giá ngạch của vụ kiện thuộc thẩm quyền sơ chung thẩm của Tòa án.

Theo Điều 17 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì việc xét xử theo hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm đã được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản như đã từng quy định trong các Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, 1981 nên cơ chế xét xử một lần không còn được áp dụng nữa. Ngoài ra, quy định tại khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 với nội dung “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” cũng tạo ra những vướng mắc nhất định đối với việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn hiện nay. Mặc dù, văn từ của Điều 103 Hiến pháp năm 2013 cho thấy quy định này hoàn toàn có thể không áp dụng đối với những loại việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối nghĩa vụ do bản chất của những loại việc này là không có tranh tụng nên Tòa án không cần phải xét xử mà vẫn có thể giải quyết được vụ việc. Tuy nhiên, đối với những tranh chấp có giá trị nhỏ thì dường như câu trả lời vẫn còn bỏ ngỏ. Xét dưới góc độ kinh tế học và hiệu quả của hoạt động tư pháp theo hình mẫu của nhiều nước Châu Âu thì cần phải giải thích quy định trên của Hiến pháp theo hướng cho phép áp dụng cơ chế xét xử một lần đối với các vụ kiện có giá trị nhỏ ở một mức độ nhất định. Từ định hướng này cần nghiên cứu sửa đổi quy định tại Điều 17 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử theo hướng “Bản án sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, trừ những vụ kiện có giá trị nhỏ thuộc thẩm quyền sơ chung thẩm của Tòa án theo thủ tục TTDS rút gọn”. Theo định hướng này thì phán quyết của Tòa án đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ sẽ có hiệu lực thi hành ngay. Ngoài ra, từ góc nhìn về kinh tế học và hiệu quả của hoạt động tư pháp, nhóm nghiên cứu cũng đề xuất theo hướng phán quyết của Tòa án đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ sẽ không được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Đề xuất này được rút ra từ kết quả nghiên cứu so sánh và tiền đề pháp luật về cơ chế xét xử một lần đã tồn tại trong lịch sử lập pháp Việt Nam.

Tuy nhiên, nếu nhà lập pháp Việt Nam đi theo quan niệm quy định tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 về “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” là quy định có tính tuyệt đối đối với mọi vụ kiện dân sự thì cũng cần phải rút ngắn thời hạn kháng cáo phúc thẩm theo hướng đương sự chỉ có quyền kháng cáo phán quyết của Tòa án đối với những vụ kiện có giá trị nhỏ trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày Tòa án cấp sơ thẩm ra phán quyết. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng đề xuất nếu theo phương án này thì cần rút ngắn thời hạn, thành phần và thủ tục xét xử phúc thẩm đối với các vụ kiện có giá trị nhỏ. Theo đó, trong trường hợp có kháng cáo đối với bản án giải quyết vụ kiện có giá trị nhỏ theo thủ tục rút gọn thì chỉ cần một Thẩm phán của Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xét xử trong một thời hạn ngắn là 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án do Tòa án cấp sơ thẩm chuyển giao. Thủ tục phiên tòa phúc thẩm được giản lược như phiên tòa sơ thẩm đối với vụ kiện có giá trị nhỏ.

Tiểu kết luận điểm thứ ba:

Như vậy, kết quả nghiên cứu về quan điểm và đề xuất mô hình về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam cho thấy việc đổi mới thủ tục tố tụng dân sự có liên quan tới thể chế, con người, do vậy, đòi hỏi Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các đơn vị nghiên cứu trực thuộc phải có sự thống nhất về nhận thức và phối hợp chặt chẽ trong việc nghiên cứu xây dựng thủ tục này. Việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam cần phải được tiến hành trên cơ sở đánh giá hết sức thận trọng về thực trạng pháp luật, truyền thống lập pháp, đặc điểm văn hoá, tâm lý dân tộc Việt Nam và thành tựu khoa học tố tụng trên thế giới. Trên cơ sở sự nghiên cứu, đánh giá này có thể tham khảo và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài về thủ tục rút gọn cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam



[1] GS. Nguyễn Huy Đẩu (1962), “Luật dân sự  tố tụng Việt Nam ”,  xuất bản tại Sài Gòn, tr. 503.

[2] Pierre ESTOUP (1990), La pratique des procédures rapides, Nxb Litec, tr. 279

[3] Viện Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao (1995), “Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng BLTTDS”, Đề tài cấp bộ, tr. 70

[4] Trần Anh Tuấn (2000), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS Việt Nam”, Luận văn cao học, tr. 85

([5]) Luật sư Trương Quang Dũng - Công ty Luật Audier và cộng sự, Chuyên đề  “Thủ tục TTDS rút gọn theo pháp luật một số nước trên thế giới và việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam”; TS. Trần Phương Thảo, Chuyên đề “Sự tương đồng và khác biệt giữa thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục tố tụng dân sự rút gọn”.

 

([6]). Ngô Cường (2014), “Mô hình Tòa án đơn giản ở Nhật Bản”, Tạp chí Tòa án nhân dân, kỳ II tháng 8/2016 (số 16), tr. 43.

([7]). Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, Nxb Khai Trí, Sài gòn, tr 255, 256.  

([8]). Trần Anh Tuấn (2000), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS Việt Nam”, Luận văn cao học, tr. 61, 62.

([9]). Trần Anh Tuấn (2000), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS Việt Nam”, Luận văn cao học, tr. 15.

([10]). Xem thêm Ths. Trần Anh Tuấn (2000), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS Việt Nam”, Luận văn cao học, tr. 67.

([11]). Trần Anh Tuấn, Chuyên đề 7, “Thực trạng xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam”, tr. 98 - 99.

([12]). TANDTC (2010), Bản tổng hợp ý kiến Bộ, ngành về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS ngày 1/9/2010, Hà Nội, tr. 195.

([13]). Trần Anh Tuấn (2000), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS Việt Nam”, Luận văn cao học, tr. 74 - 75.

([14]). TS. Nguyễn Thị Thu Hà, Chuyên đề “Việc bảo đảm quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của đương sự khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn”.

([15]). TS. Nguyễn Thị Thu Hà, Chuyên đề  “Việc bảo đảm quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của đương sự khi xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn”.

([16]). TS. Nguyễn Thị Thu Hà, Chuyên đề 12, “Việc bảo đảm quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của đương sự khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ”, tr. 169.

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm ...