• Thuộc tính
Tên đề tài Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay – Thực trạng và giải pháp (phanchuyende)
Nội dung tóm tắt

KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN

                                                TS. Nguyễn Công Bình

Trong chuyên đề này, tác giả tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm của thủ tục tố tụng rút gọn và ý nghĩa của thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự.

Tác giả cho biết: trong pháp luật TTDS Việt Nam và các các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đã được công bố đến nay vẫn chưa đề cập cụ thể đến các khái niệm này. Trong một số công trình nghiên cứu khoa học pháp lý, các bài viết về TTDS đã được công bố trong thời gian qua tuy có đề cập đến khái niệm thủ tục TTDS rút gọn nhưng còn chung chung như "thủ tục tố tụng rút gọn là thủ tục giải quyết án nhanh chóng, giúp các cơ quan tố tụng giảm tải, tránh được án quá hạn…"([1]) hay "thủ tục rút gọn trong TTDS là thủ tục tố tụng để giải quyết đối với những tranh chấp nhỏ, đơn giản và có chứng cứ rõ ràng...([2]).  Tuy vậy, việc đề cập này bước đầu đã cho thấy thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục giải quyết nhanh các vụ việc, với phạm vi giải quyết là tranh chấp nhỏ, đơn giản và có chứng cứ rõ ràng và với mục đích là giảm tải, tránh được án quá hạn. Hạn chế của việc đề cập này là mới chỉ đề cập đến tính "thủ tục" của thủ tục TTDS rút gọn mà chưa đề cập làm rõ được tính chất "rút gọn" của thủ tục TTDS rút gọn cho nên chưa làm rõ được bản chất của thủ tục TTDS rút gọn. Tính chất "rút gọn" của thủ tục TTDS rút gọn thể hiện ở chỗ, nếu như ở thủ tục TTDS thông thường, Tòa án phải tiến hành tất cả các khâu, các công việc để giải quyết vụ việc dân sự thì ở thủ tục TTDS rút gọn một số khâu, một số công việc có thể không phải thực hiện, thành phần giải quyết cũng đơn giản, giảm bớt và thời gian thực hiện các công việc cũng được có thể được rút ngắn. Mặt khác, thủ tục TTDS thông thường được áp dụng để giải quyết đa số các vụ việc dân sự còn thủ tục TTDS rút gọn chỉ áp dụng để giải quyết một số loại vụ việc là các vụ việc đơn giản, rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp, trong đó có cả các vụ việc có tranh chấp hoặc không có tranh chấp.

Từ những vấn đề nêu trên tác giả kết luận: Thủ tục TTDS rút gọn là một trong các thủ tục đặc biệt của TTDS được pháp luật quy định để áp dụng giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có nội dung đơn giản, rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp, với thủ tục, thành phần tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng được giản lược, thời hạn giải quyết ngắn.

Cũng theo tác giả, thủ tục TTDS rút gọn là một loại của thủ tục TTDS nên cũng mang những đặc điểm chung của thủ tục TTDS như cũng bao gồm những công việc phải tiến hành, do những chủ thể nhất định tiến hành theo một trình tự do pháp luật quy định. Tuy vậy, như đã nêu thủ tục TTDS rút gọn là một đơn giản, được áp dụng giải quyết các vụ việc dân sự nên so với thủ tục TTDS thông thường thủ tục TTDS rút gọn có các đặc điểm khác biệt sau đây:

1. Thủ tục TTDS rút gọn là một trong các thủ tục đặc biệt của TTDS

2.. Thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục TTDS đơn giản

3. Thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục TTDS được áp dụng giải quyết vụ việc dân sự đơn giản, rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp

Về ý nghĩa của thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự, tác giả nêu rõ: Thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục TTDS đơn giản. Việc áp dụng thủ tục TTDS rút gọn trong việc giải quyết vụ việc dân sự có ý nghĩa nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án; tiết kiệm thời gian, tiền của của Nhà nước và của đương sự, tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và nhằm đáp ứng yêu cầu về cải cách tư pháp và  hội nhập kinh tế quốc tế.

Ở xã hội Việt Nam, trước đây khi kinh tế chưa phát triển việc kiện tụng dân sự tại Tòa án không nhiều và chủ yếu là các việc kiện về dân sự, hôn nhân và gia đình thì các quy định về thủ tục TTDS trước kia là tương đối phù hợp.  Ngày nay, trong điều kiện Nhà nước chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế, quan hệ kinh tế quốc tế thì các tranh chấp dân sự, thương mại cũng nảy sinh ngày một nhiều đòi hỏi các quy định về thủ tục TTDS phải được cải tiến nhằm đáp ứng được yêu cầu về tính nhanh chóng, hiệu quả trong việc giải quyết các loại tranh chấp này. Mặt khác, ngày nay Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới nhưng pháp luật TTDS của chúng ta lại thiếu vắng các quy định về thủ tục tố tụng giản đơn áp dụng đối với các vụ kiện dân sự, thương mại đơn giản, rõ ràng và giá ngạch thấp là chưa thực sự đáp ứng được các yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt của thủ tục TTDS mà công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra. Vì vậy, việc giải quyết các vụ việc dân sự phần nào bị hạn chế chưa đáp ứng được các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thức được vai trò quan trọng của thủ tục rút gọn, tại Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ cần phải “…Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”; “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục TTDS…”. Do đó, việc pháp luật TTDS Việt Nam quy định thủ tục rút gọn trong TTDS là cấp thiết, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, đáp ứng yêu cầu về cải cách thủ tục tố tụng tư pháp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

MỐI LIÊN HỆ GIỮA VIỆC XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN VỚI MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA TỐ TỤNG DÂN SỰ

TS. Nguyễn Triều Dương

Trong phạm vi chuyên đề này, tác giả lần lượt giải quyết hai điểm mấu chốt quan trọng khi nghiên cứu xây dựng một số nguyên tắc của pháp luật TTDS Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự rút gọn ở Việt Nam là: xác định các cơ sở của việc hoàn thiện một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS Việt Nam nhằm xây dựng thủ tục rút gọn ở Việt Nam và mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn với việc hoàn thiện một số nguyên tắc hiện hành của pháp luật Việt Nam phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

Về cơ sở của việc hoàn thiện một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS để xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt nam, sau khi tập trung phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, tác giả nêu rõ: Việc hoàn thiện pháp luật TTDS quy định về thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, trong đó có quy định về thủ tục TTDS rút gọn trước hết phải được xác định từ cơ sở của việc hoàn thiện một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật. Bởi vì, nguyên tắc cơ bản của pháp luật là nhưng tư tưởng pháp lý xuyên suốt, quyết định toàn bộ bản chất, nội dung của pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng thể hiện tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong toàn bộ các chế định, nội dung của pháp luật và áp dụng pháp luật TTDS([3]). Xác định cơ sở của việc hoàn thiện các nguyên tắc sẽ là cơ sở cốt lõi để hoàn thiện thủ tục TTDS nói chung và xây dựng thủ tục TTDS nói riêng.

Về mối liên hệ giữa việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn và việc hoàn thiện một số nguyên tắc hiện hành của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, theo tác giả xác định mối liên hệ này với việc hoàn thiện một số các nguyên tắc của pháp luật TTDS trong một thể thống nhất là yêu cầu tất yếu. Vì vậy, trên cơ sở các nguyên tắc chung theo quy định của pháp luật TTDS hiện hành, chúng ta cần phải xác định những ngoại lệ được áp dụng cho thủ tục TTDS rút gọn.  

Với nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự và nguyên tắc hòa giải trong TTDS, sau khi phân tích một số quy định của pháp luật Việt Nam, đồng thời tham khảo pháp luật TTDS một số nước như Đài Loan, Singapore, Trung Quốc, theo tác giả cần thiết hoàn thiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự và nguyên tắc hòa giải trên cơ sở bảo đảm quyền này của đương sự trong tố tụng đồng thời bảo đảm việc xây dựng thủ tục tố tụng rút gọn phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

Với nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS. Việc giải quyết theo thủ tục thông thường hay thủ tục rút gọn đều đòi hỏi các tình tiết, sự kiện của vụ việc đều phải được làm rõ nên việc cung cấp chứng cứ và chứng minh có vai trò đặc biệt quan trọng. Vậy vấn đề đặt ra là đối với thủ tục rút gọn thì vấn đề chứng minh và chứng cứ có sự khác biệt gì so với thủ tục thông thường không ?

Nếu xác định thủ tục rút gọn được áp dụng với các vụ việc tranh chấp có giá trị nhỏ và chứng cứ rõ ràng hoặc bên có nghĩa vụ thừa nhận nghĩa vụ thì chúng ta có thể thấy rằng khi giải quyết theo thủ tục rút gọn các vụ việc này, vấn đề cung cấp chứng cứ vẫn đặt ra nhưng việc chứng minh sẽ không đặt ra trong thủ tục này. Tham khảo về thủ tục rút gọn của Trung Quốc chúng ta có thể thấy, với những vụ án dân sự đơn giản thực sự rõ ràng là trường hợp hai bên đương sự trình bày thống nhất đối với sự thực tranh chấp, đồng thời có thể cung cấp chứng cứ đáng tin cậy không cần Tòa án điều tra vẫn có thể biết rõ sự thật, phân biệt rõ đúng, sai. Vì vậy, nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh cần có ngoại lệ cho những vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Có như vậy mới xác định được phạm vi những vụ án gì được giải quyết ở thủ tục rút gọn và trách nhiệm chứng minh ban đầu của đương sự để vụ án đó được giải quyết theo thủ tục rút gọn.

Với nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Mặc dù, pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành không có quy định về việc xét xử một lần như trước kia, nhưng vẫn ghi nhận quyền hạn của Thẩm phán trong việc ra các quyết định giải quyết vụ án như quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, quyết định công nhận sự thoả thuận giữa các đương sự, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định giải quyết việc dân sự. Trên thực tế, Thẩm phán đã thực hiện thẩm quyền độc lập của mình, tự mình giải quyết các vấn đề phát sinh trong vụ án hoặc việc dân sự mà không cần lập một HĐXX.

Qua tham khảo pháp luật TTDS nước ngoài có thể thấy rằng pháp luật TTDS của rất nhiều nước trên thế giới có quy định về thủ tục TTDS rút gọn thì việc xét xử đều giao cho một Thẩm phán đảm nhiệm.

Ngoài ra, một thực tế là việc tham gia của Hội thẩm nhân dân đôi khi còn mang tính hình thức, bởi vì do những yếu kém và hạn chế về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nên Hội thẩm thường bị lệ thuộc và phụ thuộc bởi ý kiến của Thẩm phán nên việc ghi nhận việc xét xử bởi một thẩm phán nhưng có xác định rõ trách nhiệm của thẩm phán sẽ là một bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự không chỉ đúng đắn, nhanh chóng mà còn tiết kiện về nguồn lực con người.

Với những lý do trên có thể thấy rằng, hiện nay cần phải quy định về việc xét xử do một Thẩm phán tiến hành, trao cho Thẩm phán thẩm quyền độc lập trong việc giải quyết các vụ tranh chấp đơn giản, rõ ràng, không có tranh tụng hoặc các vụ tranh chấp có giá trị không lớn là một nhu cầu tất yếu. Nhất là trong công cuộc cải cách tư pháp và pháp luật tố tụng hiện nay việc mở rộng thẩm quyền độc lập của Thẩm phán trong việc quyết định giải quyết một số loại việc đơn giản, rõ ràng là có cơ sở khi mà thực tế, hiện nay đội ngũ cán bộ Tòa án của chúng ta đã được đào tạo, nâng cao một bước đáng kể về kiến thức pháp lý và chuyên môn nghiệp vụ.

Với nguyên tắc xét xử công khai. Qua tham khảo pháp luật TTDS một số nước cho thấy, thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục có tính giản lược nên có những trường hợp Tòa án giải quyết theo thủ tục này không phải mở phiên tòa công khai. Đây cũng là một nội dung cần tham khảo để hoàn thiện nguyên tắc xét xử công khai khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam.

Với nguyên tắc hai cấp xét xử. Qua phân tích pháp luật Việt Nam và tham khảo pháp luật nước ngoài vào điều kiện của Việt Nam hiện tại thì cần phải khôi phục lại các quy định về cơ chế xét xử một lần đối với những tranh chấp có giá ngạch thấp mà không nhất thiết phải trải qua hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm như đối với các vụ kiện khác. Theo đó, tác giả đề nghị không nên quy định việc tham gia của VKS vào thủ tục rút gọn là phù hợp với mục đích của việc giải quyết theo thủ tục này và tương đồng với pháp luật tố tụng một số nước có quy định về việc tham gia của VKS hay Viện công tố trong TTDS. Vì vậy Điều 21 BLTTDS cần quy định theo hướng VKS sẽ không tham gia quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn như là một ngoại lệ của nguyên tắc này. Tuy nhiên, cũng như thủ tục thông thường VKS có thể kháng nghị bản án, quyết định giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn để giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ VÀ THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN

                                                            TS. Trần Phương Thảo

Trong chuyên đề này, tác giả tập trung phân tích làm rõ sự cần thiết phải áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn và thủ tục giải quyết việc dân sự để giải quyết một số vụ việc dân sự phù hợp.

Theo tác giả, do các vụ việc dân sự phát sinh tại tòa án là khác nhau nên mỗi loại vụ việc dân sự đòi hỏi tòa án phải có một cách thức, thủ tục giải quyết khác nhau. Cũng vì thế, nhu cầu cần phải đa dạng hóa các biện pháp, các thủ tục giải quyết vụ việc dân sự để tòa án có thể chủ động áp dụng linh hoạt trong hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự là nhu cầu tất yếu.

Thông thường việc giải quyết các vụ việc dân sự tại TAND cần phải được thực hiện theo một quy trình tranh tụng rất chặt chẽ, vì thế thời hạn ấn định cho việc thực hiện quy trình đó phải tương đối dài và phải huy động tới nhiều người tiến hành TTDS mới có thể giải quyết đúng đắn nhất, chính xác nhất quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đương sự. Tuy nhiên, thực tế các vụ việc dân sự phát sinh tại tòa án còn cho thấy bên cạnh đa số các vụ án dân sự có các bên đương sự mâu thuẫn, tranh chấp với nhau còn có một số việc dân sự chỉ có một bên đương sự tìm đến tòa án để yêu cầu tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý nào đó có liên quan đến quyền, lợi ích của họ chứ họ không hề có mâu thuẫn, tranh chấp với ai. Vì không có mâu thuẫn, tranh chấp, vì không có các bên đương sự đối đầu với nhau nên tòa án phải áp dụng một thủ tục giải quyết khác với thủ tục giải quyết thông thường, có như vậy mới không phức tạp hóa một cách không cần thiết việc giải quyết việc dân sự. Thủ tục giải quyết việc dân sự này cần được quy định trong pháp luật TTDS như là một thủ tục đặc biệt.

Bên cạnh sự xuất hiện tương đối đặc biệt của việc dân sự, thực tiễn các vụ việc dân sự phát sinh tại tòa còn cho thấy có một loại vụ việc dân sự nữa, đó là những vụ việc dân sự mặc dù có thể vẫn có các bên đương sự tranh chấp với nhau nhưng nội dung vụ việc rất đơn giản, giá ngạch tranh chấp thấp, chứng cứ rõ ràng hay một bên đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ. Để giải quyết những vụ việc dân sự có tính rõ ràng này, đơn giản này, tòa án cũng cần phải áp dụng một cách thức giải quyết riêng cho phù hợp. Nếu vụ việc phức tạp đòi hỏi một thủ tục giải quyết phức tạp, chặt chẽ thì ngược lại, với những vụ việc dân sự có tính rõ ràng này chỉ cần tòa án áp dụng một cách thức giải quyết giản lược, đơn giản. Trong pháp luật TTDS của một số nước, các nhà lập pháp đặt tên cho thủ tục TTDS này là thủ tục tố tụng rút gọn.

Vì vậy, phân biệt thủ tục tố tụng rút gọn với thủ tục giải quyết việc dân sự trong TTDS là rất cần thiết. Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự tại tòa án cho thấy số lượng việc dân sự phát sinh ngày càng nhiều trong khi đó mô hình thủ tục giải quyết việc dân sự với mô hình giải quyết theo thủ tục rút gọn có những nét tương đồng rất gần nhau. Nhận biết được những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai thủ tục tố tụng này sẽ xác định được đúng thủ tục cần áp dụng để giải quyết vụ việc dân sự cho phù hợp, từ đó mới bảo vệ hiệu quả quyền, lợi ích của đương sự tại TAND.

THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆC XÂY DỰNG THỦ TỤC THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN Ở VIỆT NAM

                                          TS. Trần Anh Tuấn, LS. Trương Quang Dũng

Trong phạm vi chuyên đề này, nhóm tác giả tập trung nghiên cứu một số nét cơ bản về thủ tục tố tụng rút gọn của pháp luật một số nước trên thế giới nhằm rút ra mô hình cho Việt Nam như pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức, Pháp, Liên bang Nga - là hình mẫu tiêu biểu của các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, Australia và một số nước Châu á có điều kiện gần gũi và tương đồng với Việt Nam như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc, Singgapo...

LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN

                                                                 TS. Lê Thu Hà

Điều đầu tiên tác giả chuyên đề khẳng định là “thủ tục rút gọn” chưa bao giờ được quy định chính thức trong TTDS. Tuy nhiên, quy định về thủ tục đơn giản, nhanh chóng hơn so với thủ tục tố tụng thông thường đã từng được quy định trong trình tự giải quyết vụ án dân sự và mang tính không thường xuyên qua các giai đoạn phát triển khác nhau của thủ tục TTDS.

Qua chuyên đề, tác giả tập trung phân tích sự hình thành và phát triển các quy định liên quan đến thủ tục tố tụng dân sự rút gọn qua các giai đoạn: 1945-1960; 1960-2004; và từ năm 2005 đến nay. Đối với giai đoạn từ năm 2005 đến nay, theo tác giả: bằng việc quy định thủ tục giải quyết việc dân sự khác thủ tục giải quyết việc dân sự trong BLTTDS cho thấy đã hình thành nhận thức quan điểm về thủ tục tố tụng mới, có những điểm khác nhất định so với thủ tục giải quyết vụ án thông thường. Có thể chỉ ra những điểm khác nhau giữa thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục giải quyết vụ án dân sự, từ đó có thể thấy những dấu hiệu bước đầu của thủ tục xét xử rút gọn.

Dù không có nhiều điểm khác biệt, nhưng về cơ bản thủ tục giải quyết việc dân sự được tiến hành nhanh và đơn giản hơn so với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, từ thời hạn chuẩn bị giải quyết; thành phần tham gia xét xử; thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Tuy nhiên, với lịch sử giải quyết các vụ án dân sự cũng như thực tế TTDS, đã đến lúc nhà làm luật không nên chần chừ với thủ tục rút gọn và cần phải chính thức hóa trong các văn bản tố tụng.

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ VÀ YÊU CẦU VỀ XÂY DỰNG THỦ TỤC RÚT GỌN

        TS. Nguyễn Văn Cường, ThS. Phùng Thị Hoàn

Việc xây dựng mô hình về thủ tục rút gọn trong thủ tục tố tụng là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm trong bối cảnh cải cách tư pháp đang diễn ra mạnh mẽ. Nghị quyết số 49 - NQ/TW của Bộ chính trị ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ cần phải tiếp tục: “ …Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”. Trong khi Bộ luật tố tụng hình sự đã xây dựng được một mô hình tương đối cơ bản về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, thì những quy định về thủ tục rút gọn chưa được quy định trong BLTTDS năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011. Nhằm góp phần làm sáng tỏ một phần căn bản yêu cầu của việc xây dựng mô hình về thủ tục rút gọn trong TTDS, trong phạm vi chuyên đề này trình bày về một số khía cạnh của thực tiễn giải quyết vụ việc dân sự và nhu cầu của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS, đồng thời, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS ở Việt Nam, như:

1. Một số yêu cầu của việc xây dựng mô hình thủ tục rút gọn trong TTDS

2. Về việc bảo đảm chế độ hai cấp xét xử

3. Về thành phần giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn

4. Về thủ tục hoà giải

5. Về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn

6. Về vấn đề chứng cứ

7. Về xây dựng cơ chế chuyển đổi thủ tục tố tụng

8. Xây dựng quy định về mức án phí thấp, miễn tạm ứng án phí, giảm tiền án phí trong một số trường hợp khởi kiện và xét xử theo thủ tục rút gọn

9. Xây dựng cơ chế hối thúc trả nợ như một thủ tục riêng biệt áp dụng đối với trường hợp vay nợ có chứng cứ rõ ràng, các bên đều thừa nhận. Việc hối thúc do đương sự yêu cầu Tòa án thực hiện.Trong trường hợp bên bị yêu cầu không thực hiện việc trả nợ thì chuyển sang thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng không nên xây dựng cơ chế này, vì thủ tục này vẫn được người dân sử dụng khi đòi nợ thông thường.

10. Về việc xây dựng quy định về thủ tục rút gọn trong TTDS trong một Pháp lệnh riêng biệt hay thành một phần của Bộ luật TTDS

THỰC TRẠNG XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN Ở VIỆT NAM

                                                       TS. Trần Anh Tuấn

Mục tiêu của việc xây dựng thủ tục tố tụng rút gọn là tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết nhanh chóng một số loại tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động có tính chất đặc thù. Để bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên đương sự thì việc xác định hợp lý phạm vi những loại việc có thể giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn là rất cần thiết. Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng trong BLTTDS cho thấy việc xác định phạm vi những loại việc có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn cũng còn có nhiều ý kiến khác nhau.

Về phương diện lý luận thì những loại vụ kiện được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn phải là những loại việc có nội dung đơn giản, rõ ràng, Tòa án không phải mất nhiều thời gian để xác minh, việc áp dụng pháp luật giải quyết là không khó khăn, phức tạp. Kết quả nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và thực tiễn xét xử cho thấy có 3 loại việc có thể áp dụng thủ tục rút gọn. Trong chuyên đề này, tác giả tập trung phân tích làm rõ 3 loại việc này, đó là:  những việc kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận hoặc không phủ nhận nghĩa vụ của mình; những vụ tranh chấp có giá trị nhỏ và những vụ việc mà đương sự thoả thuận lựa chọn thủ tục rút gọn để giải quyết.

YÊU CẦU CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP, HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN Ở VIỆT NAM

TS.Trần Anh Tuấn,

ThS. Đặng Thanh Hoa

Pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành không quy định về thủ tục giản đơn để giải quyết các tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng, các đương sự thừa nhận nghĩa vụ hoặc những tranh chấp có giá ngạch thấp... và như vậy, việc giải quyết những loại tranh chấp nêu trên vẫn áp dụng thủ tục tố tụng thông thường, dẫn tới thời gian giải quyết vụ kiện kéo dài, gây tổn phí cho Nhà nước và đương sự một cách không cần thiết. Công cuộc cải cách tư pháp dân sự hiện nay đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được một cơ chế giải quyết các tranh chấp dân sự đơn giản, nhanh chóng hơn và hiệu quả hơn.

Qua tập trung làm rõ nội dung cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế và những yêu cầu đối với việc xây dựng thủ tục rút gọn, nhóm tác giả cho rằng: công cuộc cải cách tư pháp dân sự trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải có sự nghiên cứu và đánh giá hết sức thận trọng về những ưu điểm, nhược điểm của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành trong mối liên hệ với truyền thống lập pháp, đặc điểm văn hoá, tâm lý dân tộc và thành tựu khoa học tố tụng trên thế giới. Cải cách thủ tục TTDS phải bảo đảm “thuận tiện” cho dân; bảo đảm quyền tranh tụng của các đương sự trong TTDS. Việc đơn giản hoá các thủ tục nhằm đáp ứng đòi hỏi về tính mềm dẻo, linh hoạt của thủ tục TTDS điều kiện hiện nay phải tính đến những điều kiện kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo tính thích ứng và sự phù hợp của pháp luật TTDS với đời sống; đảm bảo sự hài hoà giữa việc khuyến khích hoà giải và quyền tiếp cận công lý; thiết lập cơ sở pháp lý cho việc khuyến khích giải quyết tranh chấp thông qua hoà giải giữa các bên đương sự.

Về định hướng xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu của cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế. Nhóm tác giả đề xuất một số định hướng sau:

- Hoàn thiện pháp luật TTDS trong mối liên hệ với truyền thống lập pháp, đặc điểm văn hoá, tâm lý dân tộc và thành tựu khoa học tố tụng trên thế giới

- Xây dựng các quy định về thủ tục TTDS  rút gọn nhằm đáp ứng yêu cầu về tính mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả theo định hướng cải cách tư pháp và hội nhập

- Đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán

- Tình trạng gia tăng, tồn đọng án và giải pháp khắc phục

- Sự thiếu mềm dẻo, linh hoạt của pháp luật TTDS cần phải có sự đổi mới cho phù hợp

-  Những vụ kiện nảy sinh từ thực tiễn đòi hỏi phải có một thủ tục mềm dẻo hơn 

- Sự lạm dụng quyền kháng cáo

- Tâm lý để hết thời hạn mới xét xử

- Thủ tục chỉ là phương tiện để bảo vệ quyền lợi, có thể linh hoạt, không nên quá câu nệ vào thủ tục

Theo nhóm tác giả: có thể nhận thấy rằng yêu cầu hội nhập quốc tế, cải cách tư pháp đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một thủ tục TTDS rút gọn để giải quyết nhanh chóng, chính xác các vụ kiện bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tiết kiệm cho đương sự và Nhà nước. Việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn là một bước chuyển biến mới, mang tính cải cách quan trọng trong việc đổi mới thủ tục TTDS ở nước ta theo định hướng cải cách tư pháp.

VỀ ĐỀ CAO TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN CỦA THẨM PHÁN KHI XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN

                                                                           TS. Bùi Thị Huyền

Trong chuyên đề này, tác giả tập trung phân tích hai nội dung chính, đó là: cơ sở khoa học của việc đề cao trách nhiệm cá nhân của thẩm phán khi xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn và các điều kiện bảo đảm cho việc đề cáo trách nhiệm cá nhân của thẩm phán khi xây dựng thủ tục rút gọn.

Theo tác giả, việc đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn hay việc giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn cần thiết giao cho một Thẩm phán giải quyết được dựa trên các cơ sở khoa học, như: Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong tổ chức bộ máy Nhà nước, trong hoạt động TTDS và đường lối cải cách tư pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam về đề cao trách nhiệm cá nhân cuả Thẩm phán trong xây dựng thủ tục tố tụng rút gọn.

Một vấn đề đặt ra là nếu đổi mới hoạt động TTDS theo hướng xây dựng thủ tục TTDS rút gọn trao thẩm quyền độc lập cho một Thẩm phán giải quyết tranh chấp thì cần xây dựng các cơ chế bảo đảm cho Thẩm phán có thể độc lập thực hiện quyền hạn này, hạn chế khả năng lạm quyền có thể xảy ra. Do vậy, về các điều kiện bảo đảm cho việc đề cao trách nhiệm cá nhân của thẩm phán khi xây dựng thủ tục rút gọn, tác giả đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện quy định liên quan đến xác định vị trí, vai trò và năng lực của Thẩm phán và hoàn thiện quy định về trách nhiệm của Thẩm phán khi tiến hành tố tụng và cơ chế giám sát hoạt động xét xử của Thẩm phán.

Theo tác giả, việc đổi mới thủ tục TTDS theo hướng trao thẩm quyền cho Thẩm phán độc lập trong việc giải quyết những loại việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc giá ngạch thấp mà không cần phải thành lập HĐXX là hoàn toàn có cơ sở. Điều đó, sẽ giúp cho Thẩm phán có thể chủ động trong công việc của mình, nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong việc ra phán quyết, mặt khác sẽ tiết kiệm cho Nhà nước về nguồn lực con người và chi phí. Song điều quan trọng là cần xây dựng các cơ chế để Thẩm phán có thể độc lập giải quyết các vụ việc theo thủ tục rút gọn và ràng buộc trách nhiệm của Thẩm phán.

 

VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN BẢO VỆ, QUYỀN TRANH TỤNG CỦA  ĐƯƠNG SỰ KHI XÂY DỰNG THỦ TỤCTỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN

                                                                    TS. Nguyễn Thị Thu Hà

Có thể thấy, ở Việt nam thủ tục TTDS rút gọn chưa được quy định nhưng thực tiễn xét xử trong những năm qua đã chứng minh có rất nhiều các vụ việc đơn giản nhưng Tòa án vẫn phải tiến hành giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường. Chẳng hạn, “ở các đô thị lớn như TP.HCM, trung bình một thẩm phán một tháng phải giải quyết từ 10 vụ việc trở lên. Trong số đó, có không ít trường hợp tranh chấp đơn giản, các bên đều thừa nhận và mong tòa giải quyết nhanh…, đương sự chỉ chờ một phán quyết của Tòa án để thực hiện việc thi hành án bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho họ. Nhưng tòa không thể đưa ra xét xử ngay vì một trong các nguyên nhân là thẩm phán sợ nếu không tiến hành đầy đủ các bước lấy lời khai, hòa giải… như luật định, dù không cần thiết thì cũng có thể bị hủy, sửa án ([4]). Vì vậy, để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, có thể làm bạn với mọi quốc gia trong cộng đồng thế giới cũng như tạo điều kiện khuyến khích đầu tư thì việc nghiên cứu xây dựng thủ tục TTDS rút gọn là cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu tính nhanh chóng, linh hoạt, đơn giản và đem lại hiệu quả kinh tế cao của thủ tục TTDS đồng thời là một giải pháp quan trọng góp phần làm giảm tình trạng gia tăng, tồn đọng án cũng như làm giảm áp lực công việc cho các thẩm phán.

Tuy nhiên, nếu chúng ta xây dựng thủ tục TTDS rút gọn tức là xây dựng một thủ tục tố tụng đơn giản hơn so với thủ tục tố tụng thông thường về thời hạn, thành phần HĐXX và trình tự các bước Tòa án tiến hành giải quyết thì vẫn phải bảo đảm giải quyết vụ án chính xác và đúng pháp luật, bảo đảm quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của các đương sự.

Trong phạm vi chuyên đề này, tác giả đề cập đến một số vấn đề sau:

1. Về vấn đề chứng cứ và chứng minh trong thủ tục tố tụng dân sự rút gọn. Theo tác giả, qua nghiên cứu pháp luật TTDS nước ngoài và thực tiễn xét xử của Việt Nam, có thể thấy việc chứng minh đối với các vụ án giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn vẫn cần phải được thực hiện. Cụ thể:

- Đối với vụ án chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ thì đây là những vụ việc mà các bên đương sự đã xuất trình cho Tòa án đầy đủ các chứng cứ, tài liệu. Do đó, Tòa án không cần phải thu thập thêm chứng cứ mà chỉ cần xem xét, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên, để kiểm tra, xác minh và đánh giá chứng cứ cũng như giải quyết vụ án một cách chính xác thì Tòa án vẫn phải sử dụng các phương pháp thu thập chứng cứ cần thiết như lấy lời khai của đương sự, người làm chứng, đối chất, xem xét, thẩm định tại chỗ…

- Đối với vụ án có sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp hoặc vụ án có giá trị nhỏ thì đây là những vụ án các đương sự chưa có sự thống nhất ý chí về chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ nên các bên cần phải chứng minh, tranh luận. Do đó, việc chứng minh của các đương sự cũng như việc thu thập chứng cứ của Tòa án vẫn cần phải được tiến hành theo thủ tục TTDS thông thường.

2. Về phiên tòa xét xử và việc triệu tập các đương sự đến tham gia phiên tòa xét xử theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

Theo tác giả, về vấn đề này, các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý cũng đưa ra các ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, khi giải quyết án dân sự theo thủ tục rút gọn, tòa ban hành lệnh (hay quyết định) mà không cần phải mở phiên tòa và cũng không cần triệu tập các bên đương sự. Ý kiến khác lại cho rằng, tình hình ở nước ta khác nên vẫn cần phải mở phiên tòa để nghe các bên đương sự trình bày, giải thích hay đối chiếu xem có mâu thuẫn hay sự giả mạo về giấy tờ hay không. Phiên xử này vẫn phải tiến hành các bước như thủ tục thông thường([5]).

Ý kiến thứ nhất sẽ đáp ứng được tính nhanh chóng, linh hoạt, đơn giản và đem lại hiệu quả kinh tế cao của thủ tục TTDS nhưng chỉ thích hợp đối với các vụ án chứng cứ đã rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (như đương sự xuất trình các chứng cứ bằng văn bản mà bị đơn cũng thừa nhận các chứng cứ này).

Ý kiến thứ hai thì việc mở phiên tòa và thực hiện đầy đủ các bước trong phiên tòa như thủ tục TTDS thông thường sẽ đáp ứng được việc bảo đảm quyền tranh tụng của các đương sự nhưng trong những vụ án tình tiết đơn giản, chứng cứ chứng minh rõ ràng, thẩm phán chỉ cần thẩm định lại sự việc để áp dụng pháp luật giải quyết vụ án thì phiên tòa tiến hành đầy đủ các bước là không cần thiết, không đáp ứng được tính nhanh chóng, linh hoạt và đơn giản của thủ tục TTDS rút gọn.

3. Về quyền kháng cáo phúc thẩm đối với bản án của tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

Theo tác giả, đối với vụ án chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ thì khi Tòa án ra lệnh buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ thì bị đơn có quyền phản đối lệnh của Tòa án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được lệnh. Nếu bị đơn không phản đối thì lệnh có hiệu lực pháp luật. Nếu bị đơn phản đối lệnh của Tòa án thì Tòa án sẽ mở phiên tòa để ra bản án. Bản án này có hiệu lực như bản án sơ thẩm được giải quyết theo thủ tục TTDS thông thường tức là các đương sự có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, đương sự phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kháng cáo của mình. Trong trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm mà có căn cứ người kháng cáo cố tình kháng cáo không có căn cứ thì có thể bị phạt tiền, và có thể phải bồi thường thiệt hại nếu có yêu cầu.

Đối với vụ án có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật không có khó khăn và phức tạp hoặc vụ án có giá ngạch thấp thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật ngay, đương sự không được kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.

VỀ CƠ CHẾ KẾT HỢP HÒA GIẢI KHI GIẢI QUYẾT VỤ ÁN THEO  THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN

                                                                       TS. Nguyễn Thị Thu Hà

Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02/06/2006 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “…xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có một số điều kiện nhất định”. Định hướng này của Đảng đã được hiện thực hóa trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong lĩnh vực TTDS thì thủ tục rút gọn chưa được quy định. Do đó, việc nghiên cứu để xây dựng thủ tục TTDS là một đòi hỏi cấp thiết trong giai đoạn hiện nay đặc biệt khi Hiến pháp sửa đổi 2013 quy định rõ các nguyên tắc khi Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn (Khoản 1, 4 Điều 103 Hiến pháp sửa đổi 2013). Để có thể xây dựng được thủ tục TTDS rút gọn đòi hỏi cần giải quyết những vấn đề cơ bản như phạm vi những vụ án được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn; thời hạn, thành phần HĐXX, các bước tiến hành giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn.

Trong phạm vi chuyên đề này tác giả đề cập đến vấn đề hòa giải có được thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục TTDS rút gọn hay không thông qua việc khái quát về cơ chế hòa giải khi giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn ở một số nước cũng như phân tích quy định về hòa giải đối với vụ án dân sự được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị về cơ chế kết hợp hòa giải khi giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn, cụ thể:

Hiện nay, chúng ta đang tiến hành xây dựng Dự thảo Pháp lệnh Thủ tục rút gọn trong TTDS với mục tiêu tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết nhanh chóng một số loại tranh chấp có tính chất đặc thù trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân, gia đình, thương mại, lao động thì việc có hòa giải các vụ án dân sự được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn hay không còn có các ý kiến khác nhau.

Theo Luật sư Trần Công Ly Tao (Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP.HCM) cho rằng nên bỏ hẳn khâu hòa giải. Bởi lẽ một khi tình tiết, chứng cứ đã rõ, đã được các bên thừa nhận, không phản đối và không cần xác minh thì tòa hòa giải cũng bằng thừa.

Ý kiến khác lại cho rằng, khâu hòa giải là thủ tục bắt buộc cần thiết đối với án dân sự, không thể bỏ. Bởi lẽ nếu đương sự có thể thỏa thuận với nhau khi hòa giải thì có thể giải quyết còn nhanh hơn. Hơn nữa, việc tổ chức phiên hòa giải cũng không tốn quá nhiều thời gian, thẩm phán hoàn toàn có thể sắp xếp được để giải quyết cho phù hợp([6]).

Ý kiến thứ nhất rất phù hợp đối với các vụ án chứng cứ đã rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ bởi với những chứng cứ mà nguyên đơn xuất trình thì bị đơn đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn nên không cần phải hòa giải. Tuy nhiên, đối với các vụ án khác như vụ kiện có giá ngạch thấp, vụ kiện có tình tiết đơn giản, chứng cứ chứng minh rõ ràng, việc áp dụng pháp luật không khó khăn và phức tạp thì đây là vụ án mà các bên đang có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ thì việc bỏ qua thủ tục hòa giải để mở phiên tòa luôn lại làm cho quá trình tố tụng bị kéo dài, không đáp ứng được tính nhanh chóng và hiệu quả của thủ tục TTDS rút gọn.

Ý kiến thứ hai thích hợp với các tranh chấp đơn giản nhưng các bên chưa thống nhất được ý kiến về chứng cứ, về quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự thì việc hòa giải sẽ giúp các bên giải quyết tranh chấp mà không cần phải mở phiên tòa, tiết kiệm được thời gian, công sức và tiền của Nhà nước và các đương sư. Tuy nhiên, trong những vụ án chứng cứ đã rõ ràng bị đơn không phản đối về nghĩa vụ (như đương sự xuất trình các chứng cứ bằng văn bản mà bị đơn cũng thừa nhận các chứng cứ này) thì hòa giải là không cần thiết, không đáp ứng được tính nhanh chóng, linh hoạt và đơn giản của thủ tục TTDS rút gọn.

Như vậy, có thể thấy việc Tòa án có tiến hành hòa giải đối với các vụ án dân sự được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn hay không nên căn cứ vào từng loại vụ án được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn để vừa đảm bảo tính nhanh chóng, linh hoạt, hiệu quả của thủ tục tố tụng nhưng vẫn bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Cụ thể:

- Đối với vụ án chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ (chẳng hạn vay nợ có giấy biên nhận hoặc các khoản phải thanh toán phát sinh từ các loại hợp đồng khác…): đây là trường hợp với những chứng cứ rõ ràng mà nguyên đơn xuất trình thì bị đơn đã tự nguyện thừa nhận nghĩa vụ của mình đối với nguyên đơn. Trong trường hợp này, nghĩa vụ của bị đơn là rõ ràng và nguyên đơn cần có một quyết định của Tòa án làm cơ sở để buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ. Hay nói cách khác, với sự thừa nhận của bị đơn thì giữa các đương sự đã không còn sự mâu thuẫn về chứng cứ cũng như về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự. Do đó, đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ thì thẩm phán không cần triệu tập các đương sự để tiến hành hòa giải mà thẩm phán chỉ cần xem xét thấy rằng chứng cứ đầy đủ cũng như sự thừa nhận của bị đơn là xuất phát từ ý chí tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội, thẩm phán ra lệnh buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của bị đơn thì lệnh buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ phải có thời hạn nhất định để cho bị đơn phản đối. Khi bị đơn phản đối lệnh của Tòa án có nghĩa là các đương sự đã có tranh chấp, mâu thuẫn về chứng cứ cũng như về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự. Đối với các tranh chấp, mâu thuẫn này cần phải được hòa giải, tranh luận, chứng minh để làm rõ về các tình tiết, sự kiện trong vụ án dân sự cũng như để các đương sự xác định những vấn đề đã thống nhất và những vấn đề chưa thống nhất tức là tranh chấp này cần được giải quyết theo trình tự, thủ tục tố tụng thông thường. Tuy nhiên, nguyên đơn không cần thiết phải khởi kiện lại vụ án để yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục TTDS thông thường bởi như vậy chỉ làm kéo dài thêm thời gian giải quyết vụ án. Do đó, để tiết kiệm thời gian, chi phí tố tụng, khi bị đơn phản đối lệnh buộc thực hiện nghĩa vụ thì vụ kiện được chuyển sang giải quyết theo thủ tục TTDS thông thường. Hay nói cách khác, vụ án lúc này cần được tiến hành hòa giải trước khi đưa vụ án ra xét xử. Nguyên tắc, phạm vi, trình tự, thủ tục hòa giải được thực hiện theo thủ tục chung.

Vì vậy, đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ thì để đảm bảo tính nhanh chóng, hiệu quả của thủ tục TTDS thì việc hòa giải vụ án này được thực hiện như sau:

+ Nếu yêu cầu của nguyên đơn không đủ căn cứ thì thẩm phán trả lại đơn yêu cầu. Nguyên đơn khởi kiện vụ án theo thủ tục tố tụng thông thường và hòa giải được thực hiện như khi Tòa án giải quyết các vụ án dân sự thông thường.

+ Nếu yêu cầu của nguyên đơn có đủ căn cứ thì thẩm phán ra lệnh bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ mà không cần phải hòa giải. Lệnh này bị đơn có quyền phản đối trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được lệnh của Tòa án. Khi bị đơn phản đối Lệnh của Tòa án thì thẩm phán sẽ triệu tập đầy đủ các bên đương sự đến tham gia hòa giải. Việc hòa giải được thực hiện theo thủ tục TTDS thông thường.

- Đối với vụ án có sự việc rõ ràng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết không khó khăn phức tạp hoặc vụ án có giá trị nhỏ thì đây là những vụ án mà giữa các đương sự có tranh chấp, mâu thuẫn với nhau về chứng cứ cũng như về quyền và nghĩa vụ. Vì vậy, Tòa án cần tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án trừ những trường hợp pháp luật quy định không được hòa giải hoặc không hòa giải được. Thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực ngay tại thời điểm các đương sự thỏa thuận bởi vì “bản chất các thỏa thuận của đương sự về việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án là giao dich dân sự thông thường thì bản thân thỏa thuận đó có hiệu lực ngay tại thời điểm các bên thỏa thuận (được ghi nhận băng biên bản hòa giải thành) và có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên, việc Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận đó vừa có tính công chứng, vừa có tính cưỡng chế thi hành, nếu sau đó các bên không tự nguyện thi hành”(1). Do đó, trong trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thẩm phán lập biên bản hòa giải không thành và đưa vụ án ra xét xử. Trong trường hợp các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án thì thẩm phán lập biên bản hòa giải thành, biên bản ghi đầy đủ những thỏa thuận của các bên đương sự, có đầy đủ chữ ký của đương sự, thư ký Tòa án và Thẩm phán đồng thời ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay.   

 

 

 

 


([1]). http://luatminhkhue.vn/hinh-su/an-rut-gon.

([2]). Trần Anh Tuấn, “Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế”, Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển bền vững”, Nxb CAND, tr. 440, 445, 446.

 

([3]). Đinh Trung Tụng (2004), "Những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật TTDS", Đặc san chuyên đề Bộ luật TTDS, Hà Nội, tr. 237.

([4]). http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP, Án dân sự: Có nên xử rút gọn?

 

([5]). http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP, Thủ tục rút gọn: Chỉ xử trong vòng một tháng?

([6])http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP, Thủ tục rút gọn: Chỉ xử trong vòng một tháng?

 

(1) TANDTC (1996), Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật TTDS, Hà Nội, tr. 49.

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm ...