Nghiên cứu lịch sử xây dựng và phát triển Luật cạnh tranh trên thế giới cho thấy Cơ quan quản lý, điều tiết cạnh tranh (sau đây gọi tắt là Cơ quan quản lý cạnh tranh) đóng vai trò quyết định trong việc đảm bảo thực thi luật cạnh tranh. Tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Đức..., khi đặt những viên gạch đầu tiên cho hệ thống pháp luật cạnh tranh thì cũng chính là lúc nhà làm luật phải trăn trở đi tìm lời giải cho câu hỏi: cơ quan quản lý cạnh tranh phải được tổ chức và hoạt động theo mô hình nào để đảm bảo thực thi luật cạnh tranh một cách hiệu quả nhất?. Mỗi quốc gia, tuỳ điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mình mà xây dựng cơ quan quản lý cạnh tranh theo những mô hình khác nhau, song mục đích thành lập ra nó thì chỉ có một, đó là góp phần thực thi luật cạnh tranh một cách hiệu quả nhất.
Ngày nay, không một quốc gia nào, kể cả những quốc gia có nền kinh tế thị trường tự do nhất, áp dụng triệt để học thuyết kinh tế “bàn tay vô hình" của Adam Smith vốn chủ trương thủ tiêu sự can thiệp của Chính phủ đối với sự vận hành của nền kinh tế. Một xã hội dân sự không được hiểu là môi trường mà trong đó các hoạt động của con người được thực hiện một cách hoàn toàn tự do, vô Chính phủ. Trái lại, luôn cần phải có sự can thiệp của Nhà nước, với tư cách là biểu hiện tập trung nhất của quyền lực chính trị, ở một mức độ thích hợp để các quyền và tự do của các thể nhân, pháp nhân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong hoạt động kinh tế, được tôn trọng và bảo đảm thực thi. Xét từ góc độ quản lý nhà nước, cơ quan quản lý cạnh tranh chính là một trong những công cụ hữu hiệu để các chính phủ thực hiện chức năng quản lý, điều tiết các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật cạnh tranh, nhằm đảm bảo ổn định các quan hệ kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng cũng như định hướng nền kinh tế phát triển bền vững. Trong một nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được quyền tự do giao kết hợp đồng hoặc thực hiện các hành vi khác vì mục đích lợi nhuận. Song, nếu các hành vi đó gây những tác động tiêu cực đến nền kinh tế, làm biến dạng quy luật cạnh tranh và gây thiệt hại đến các doanh nghiệp khác, thì cũng chính là lúc các biện pháp, các chế tài cần thiết phải được sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm bớt tối đa những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Hầu hết các cơ quan quản lý cạnh tranh của các nước trên thế giới đều được trao thẩm quyền áp dụng các loại chế tài mang tính ‘‘trừng phạt’’ để phòng ngừa, ngăn chặn, răn đe các hành vi vi phạm luật cạnh tranh.
Việt Nam đang đi những bước đầu tiên trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật cạnh tranh. Dự thảo Luật cạnh tranh do Bộ Thương mại chủ trì đã được soạn thảo từ năm 2000([1]), theo dự kiến sẽ được trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp cuối năm 2004. Trong quá trình xây dựng dự thảo Luật này, một trong những vấn đề gây tranh luận nhiều nhất là chọn mô hình nào là thích hợp cho Cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam? Đây là khó khăn lớn nhất khi xác dịnh vấn đề này mà trước hết bắt nguồn chính từ vấn đề phương pháp luận. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê Nin đã chỉ ra rằng kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng quyết định. Thiết chế quản lý, điều tiết cạnh tranh vốn là một vấn đề thuộc về kiến trúc thượng tầng, nó phải phụ thuộc vào điều kiện, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong khi đó chúng ta biết rằng trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta khác xa so với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đã có luật cạnh tranh từ hàng trăm năm nay. Tuy nhiên, song song với việc khẳng định nguyên tắc kiến trúc thượng tầng phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, chính Mác cũng đã chỉ ra rằng kiến trúc thượng tầng vẫn có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với cơ sở hạ tầng. Tính độc lập này thể hiện ở tính ‘‘đi trước’’ của kiến trúc thượng tầng. Vận dụng quy luật này cho phép rút ra một nhận xét bước đầu là: mặc dù một mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh tiến bộ ở nước ngoài chưa chắc đã vận hành tốt trong điều kiện Việt Nam, nhưng một hoặc một số thuộc tính, yếu tố của mô hình đó lại có thể được nghiên cứu, ứng dụng vào Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay đã và đang được từng bước xác lập và phát triển.
Khó khăn thứ hai là Việt Nam chưa có lịch sử xây dựng luật cạnh tranh cũng như thiết lập tổ chức và vận hành hoạt động của Cơ quan quản lý cạnh tranh. Hơn nữa, các công trình nghiên cứu về vấn đề này có thể nói là còn rất ít.
Số chuyên đề: “Cơ quan quản lý cạnh tranh - kinh nghiệm của Pháp và một số nước - Đề xuất một mô hình cho Việt Nam” là kết quả nghiên cứu của ThS. Nguyễn Hữu Huyên, Vụ Hợp tác Quốc tế - Bộ Tư pháp tại Cộng hoà Pháp. Nội dung của luận văn thạc sĩ này, tác giả giới thiệu kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động cơ quan quản lý cạnh tranh ở Cộng hòa Pháp và một số nước trên thế giới, đồng thời tác giả đã cố gắng tiếp cận vấn đề trên để đề xuất mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam.
([1]) Ban soạn thảo Luật cạnh tranh được thành lập theo Quyết định số 621/2002/QĐ -BTM của Bộ trưởng Bộ Thương mại ngày 12/4/2000.