Quyền tiếp cận thông tin chính là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện các quyền con người và quyền công dân. Việc ban hành Luật Tiếp cận thông tin đối với Việt Nam hiện nay là cần thiết và cấp bách. Trong thời đại hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá, quyền tiếp cận thông tin đã và đang trở thành một quyền cơ bản và là một trong những quyền quan trọng nhất của con người và công dân.
Quyền tiếp cận thông tin (Right to acces to information) là một trong những quyền cơ bản của công dân, của con người, bảo đảm quyền được thông tin là một trong những điều kiện cần thiết để xây dựng một thể chế dân chủ và nhà nước pháp quyền. Trong bối cảnh đất nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, thông tin trở thành một yêu cầu vô cùng cần thiết trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo đảm thực hiện công bằng xã hội và an sinh xã hội, nâng cao dân trí, xây dựng nhà nước và hoàn thiện pháp luật để phát huy rộng rãi sự tham gia của người dân vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, giám sát công quyền, tăng cường tính công khai, minh bạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phòng và chống tham nhũng, lãng phí, sử dụng có hiệu quả ngân sách nhà nước. Quyền tiếp cận thông tin cũng bảo đảm mỗi cá nhân thực hiện các quyền khác tốt hơn và bảo vệ các lợi ích hợp pháp của họ. Phương châm các công việc quan trọng của Nhà nước “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” theo tư duy lôgic của một chuyên gia về luật tiếp cận thông tin có thể diễn đạt như sau: “dân biết nhờ có thông tin, dân bàn nhờ có thông tin, dân làm nhờ có thông tin, dân kiểm tra nhờ có thông tin”. Nói cách khác thông tin là tất cả, là điều kiện tiên quyết để thực hiện các quyền con người và công dân. Thông tin là "ô xy" của nền dân chủ, nếu thông tin không được bảo đảm, thông tin sai lệch hoặc bưng bít thông tin, quyền làm chủ của Nhân dân khó có thể thực hiện được.
Ở Việt Nam, quyền được thông tin đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và nhiều văn bản pháp luật khác, tuy nhiên cho đến nay, Nhà nước ta vẫn chưa có đạo luật riêng quy định về quyền này. Quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay được thể hiện rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật: Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, Luật Báo chí năm 1989, Luật Xuất bản năm 2004, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2004, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2005, Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí năm 2005, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007, Pháp lệnh về vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003. Đặc biệt trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 đã quy định những nội dung phải công khai để Nhân dân biết, Nhân dân bàn và quyết định; những nội dung Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung Nhân dân giám sát, trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, của cán bộ thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố, của cơ quan tổ chức cá nhân có liên quan.
Những quy định trên đây về việc tiếp cận thông tin của công dân và nghĩa vụ của cơ quan nhà nước về cung cấp thông tin trong một số lĩnh vực và phạm vi địa bàn áp dụng cũng đã khá rõ, tuy nhiên việc thực hiện các quy định nói trên còn rất hạn chế vì trong tất cả các văn bản pháp luật nói trên hầu như rất ít chế tài quy định về vấn đề xử phạt việc không cung cấp thông tin và những quy định nói trên nằm rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau và thiếu tính hệ thống nên vẫn chưa có một cơ chế hữu hiệu để bảo đảm cho công dân được thực hiện một cách đầy đủ quyền tiếp cận thông tin.
Nhận thức được tầm quan trọng của quyền tiếp cận thông tin trong việc phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường tính công khai minh bạch và hiệu lực quản lý nhà nước, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành TW Đảng (Khoá X) tháng 8-2006 đã chỉ rõ: xem xét, sửa đổi các danh mục bí mật nhà nước nhằm mở rộng công khai và nghiên cứu ban hành Luật về bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Đây là chủ trương quan trọng của Đảng, là định hướng quan trọng cho việc bảo đảm thực tế quyền được thông tin ở nước ta, góp phần vào cuộc chiến chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền công dân và quyền con người ở Việt Nam.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, việc nghiên cứu Đề tài "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tiếp cận thông tin phục vụ xây dựng Luật Tiếp cận thông tin là hết sức cần thiết". Đề tài đáp ứng yêu cầu về mặt lý luận cũng như thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.
Mục đích nghiên cứu của Đề tài là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận thông tin trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay phục vụ việc xây dựng Luật Tiếp cận thông tin. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, Đề tài xác định nhiệm vụ của mình là phân tích được nội dung cơ bản của các quy định của pháp luật Việt Nam về tiếp cận thông tin, chỉ ra được những thành tựu đã đạt được và những bất cập hạn chế của pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin cũng như những hạn chế trong cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay. Đề tài phải nghiên cứu, khảo sát các công trình nghiên cứu ở Việt Nam và một số nước trên thế giới về Luật Tiếp cận thông tin của một số quốc gia đã ban hành luật này. Khi phân tích các Luật Tiếp cận thông tin và các công trình nghiên cứu về Luật Tiếp cận thông tin của các quốc gia trên thế giới. Đề tài phải lý giải được vì sao gần 90 quốc gia trên thế giới, hầu hết các nước trong đó có nền kinh tế phát triển đã ban hành Luật Tiếp cận thông tin. Lý giải được tính cấp thiết của việc ban hành Luật Tiếp cận thông tin của các quốc gia đã ban hành Luật Tiếp cận thông tin. Từ đó lý giải tính cấp thiết của việc hoàn thiện pháp luật tiếp cận thông tinở Việt Nam, đặc biệt là tính cấp thiết của việc ban hành một đạo luật về quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay làm công cụ đắc lực cho việc xây dựng một xã hội dân chủ, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế.
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CẬN THÔNG TIN
1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin và pháp luật về tiếp cận thông tin
Quyền tiếp cận thông tin (Right to access to information) hay quyền được thông tin không phải là khái niệm mới. Khái niệm này đã được ghi nhận rất sớm trong văn kiện pháp lý của nhiều quốc gia cùng với sự phát triển của các quyền khác của con người. Đạo luật về Tự do báo chí của Thụy Điển được ban hành vào năm 1766 đã trao cho người dân quyền được yêu cầu tiếp cận văn bản/hồ sơ của các cơ quan chính phủ. Bản Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 cũng như Tuyên ngôn của Hà Lan năm 1795 cũng đã xác lập nguyên tắc bảo đảm khả năng tiếp cận các thông tin từ các cơ quan công quyền hoặc các công chức phải báo cáo các công việc của mình. Đặc biệt, sau khi Liên Hợp quốc ra đời năm 1945 và việc ghi nhận quyền tiếp cận thông tin như là một trong số các quyền và tự do cơ bản của cá nhân trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, quyền tiếp cận thông tin đã trở thành mối quan tâm trên bình diện quốc tế và ngày càng được các quốc gia quan tâm nhiều hơn. Kể từ thời điểm đó trở đi, quyền tiếp cận thông tin tiếp tục được quy định trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế trên phạm vi toàn cầu cũng như khu vực. Chẳng hạn như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế khác như Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường năm 1998, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003, Công ước Nhân quyền Châu Âu (ECHR), Công ước Nhân quyền Châu Mỹ (ACHR), Chương trình Hành động Chống tham nhũng dành cho khu vực Châu Á – Thái Bình Dương được ký kết vào ngày 30/11/2001 ở Tokyo (Nhật Bản) cũng xác định việc bảo đảm cho công chúng và các phương tiện truyền thông được tự do tiếp nhận và phổ biến thông tin về các vấn đề tham nhũng phù hợp với pháp luật trong nước. Ở cấp độ quốc gia, hiện nay, gần 90 quốc gia ban hành luật bảo đảm quyền tiếp cận thông tin công dưới những tên gọi khác nhau như Luật về Tự do thông tin, Luật Tiếp cận thông tin...
Trong quá trình phát triển của quyền tiếp cận thông tin, nội dung của nó đã có sự phát triển ngày càng rộng hơn. Trong các văn kiện pháp lý đầu tiên về quyền con người, quyền tiếp cận thông tin được xem là một nội dung thuộc khái niệm quyền tự do ngôn luận (Điều 19 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948). Trong báo cáo năm 1998 và 2000 của mình, Đặc phái viên của Liên Hợp quốc về Tự do ý kiến và ngôn luận khẳng định rằng, quyền tiếp cận thông tin là một quyền con người độc lập nằm trong ngoại diên của tự do ngôn luận được các văn kiện quốc tế về quyền con người bảo hộ. Tinh thần của quyền tiếp cận thông tin chính là sự công khai hóa tối đa hoạt động của các cơ quan nhà nước, các quan chức nhà nước đối với công chúng cũng như đối với từng người dân. Về bản chất, quyền tiếp cận thông tin là một trong những nội dung của mối quan hệ cơ bản giữa Nhà nước và cá nhân (mà trước tiên là công dân của Nhà nước đó), theo đó cá nhân có quyền tiếp cận tới thông tin dưới các hình thức khác nhau mà Nhà nước đang nắm giữ và Nhà nước có nghĩa vụ phải bảo đảm cho sự tiếp cận này.
Cùng với sự phát triển của nền dân chủ, quyền tiếp cận thông tin trở thành một quyền độc lập với nội hàm rộng hơn mà nền tảng của nó là quyền được biết sự thật và đòi hỏi phải có tự do thông tin. Vì vậy, nội dung của quyền tiếp cận thông tin không đơn giản chỉ là quyền của người dân mà còn phản ánh nghĩa vụ của nhà nước bảo đảm cho công dân có được các thông tin sự thật về các vấn đề khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị xã hội và các lĩnh vực khác của đời sống. Những thông tin này là những thông tin được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay mặt Nhân dân lưu giữ với quan niệm “các cơ quan công quyền nắm giữ các thông tin không phải cho chính bản thân họ mà là cho lợi ích công cộng”.[1] Do đó, các cơ quan phải có trách nhiệm bảo quản và tạo điều kiện thuận lợi để người dân có thể tiếp cận các thông tin này… Với ý nghĩa đó, khi nói đến nội dung của quyền tiếp cận thông tin, có hai nội dung cần phải được giải quyết. Một là, thành tố cơ bản của quyền tiếp cận thông tin; và Hai là những thông tin nào sẽ được tiếp cận.
a) Thành tố cơ bản của quyền tiếp cận thông tin
Quyền tiếp cận thông tin theo quan niệm của đa số các luật gia ngày nay bao gồm quyền tự do tìm kiếm thông tin, thu thập thông tin và quyền yêu cầu cung cấp thông tin.
Tìm kiếm, thu thập thông tin
Quyền tìm kiếm, thu thập thông tin được hiểu là chủ thể của quyền tiếp cận thông tin có quyền xem các tác phẩm, hồ sơ, tài liệu chứa đựng các thông tin được các cơ quan công quyền quản lý hoặc kiểm soát; ghi chép, trích dẫn, sao chụp các thông tin đó dưới các hình thức khác nhau và bằng những phương tiện khác nhau; có quyền có các bản sao có chứng thực các tài liệu chứa đựng các thông tin; và thu thập thông tin bằng việc sao chép các thông tin đó vào các thiết bị điện tử hoặc bằng việc in các tài liệu đó trực tiếp từ những nơi lưu giữ chúng. bằng máy vi tính hoặc bằng các thiết bị khác.
Yêu cầu cung cấp thông tin
Cùng với quyền tìm kiếm, thu thập thông tin, chủ thể của quyền tiếp cận thông tin còn có quyền yêu cầu cơ quan quản lý hoặc kiểm soát thông tin cung cấp thông tin cho mình. Quyền yêu cầu cung cấp thông tin được xem là một trong những điều kiện để bảo đảm cho việc tìm kiếm thu thập thông tin.
Quyền yêu cầu cung cấp thông tin của người dân đòi hỏi một nghĩa vụ tương ứng từ phía các cơ quan công quyền nắm giữ các thông tin. Đó là nghĩa vụ cung cấp thông tin. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm rằng các loại thông tin cần thiết liên quan đến lợi ích của cộng đồng phải luôn sẵn sàng cho việc tiếp cận.
b) Những thông tin nào có thể được tiếp cận?
Quan niệm cho rằng các cơ quan công quyền nắm giữ các thông tin không phải cho chính bản thân cơ quan đó mà là cho lợi ích công cộng, nhằm bảo đảm lợi ích của tất cả các thành viên trong xã hội. Vì thế, về mặt nguyên tắc, tất cả những thông tin liên quan đến lợi ích công cộng là có thể tiếp cận được, gồm có: thông tin về các vấn đề khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội...; về các vấn đề liên quan đến quốc kế dân sinh; về các quyền và sự tự do của công dân. Tuy nhiên, tự do thông tin không có nghĩa là tất cả các tin tức của nhà nước đang nắm giữ sẽ công khai hết, và cá nhân, công dân được tự do tìm kiếm, thu thập và yêu cầu cung cấp bất kỳ thông tin nào được lưu giữ bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sẽ có những thông tin liên quan đến lợi ích của cộng đồng nhưng không thể được tiếp cận bởi bất kỳ một cá nhân nào, như: thông tin liên quan đến an ninh, quốc phòng, đến hệ thống phòng thủ của quốc gia... Tuy nhiên, có những thông tin ở thời điểm này không thể tiếp cận được nhưng lại có thể tiếp cận ở thời điểm khác[2].
Ngày nay, quyền tiếp cận thông tin đã trở thành một nhu cầu và một quyền cấp thiết cần được bảo đảm. Nói cách khác, công dân có quyền tiếp cận đối với thông tin, đặc biệt là thông tin về pháp luật, chính sách cũng như hoạt động của các cơ quan công quyền liên quan đến đời sống xã hội. Việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin được xem là nhân tố then chốt trong hoạt động quản lý của Nhà nước đối với đời sống xã hội được vận hành theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền.
Xét một cách tổng quát, theo nhóm nghiên cứu, quyền được thông tin hay quyền tiếp cận thông tin là khái niệm được sử dụng để nói đến quyền của cá nhân được biết thông tin của Nhà nước, theo các cách thức trực tiếp lẫn gián tiếp nhằm thỏa mãn các nhu cầu cuộc sống của mình cũng như để bảo vệ và thực hiện các quyền năng khác đã được pháp luật ghi nhận.
Từ khái niệm quyền tiếp cận thông tin trên đây chúng ta có thể suy ra pháp luật về quyền tiếp cận thông tin là hệ thống các quy phạm pháp luật bảo đảm cho cho cá nhân thực hiện quyền tiếp cận thông tin như một quyền cơ bản của con người và công dân.
1.2. Tầm quan trọng của pháp luật về tiếp cận thông tin đối với mỗi quốc gia
Ngày nay, hầu khắp các quốc gia và các tổ chức quốc tế đều có chung một nhận thức: tự do thông tin là một quyền cơ bản của con người. Thực hiện được quyền này là điều kiện cần thiết để các cá nhân có thể bảo vệ hữu hiệu các quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, ngăn ngừa và chống lại các hành vi lạm dụng quyền lực, thúc đẩy dân chủ hoá và minh bạch hoá quá trình hoạch định chính sách và ban hành pháp luật, thực thi pháp luật, củng cố lòng tin và tăng cường sự ủng hộ của dân chúng đối với các chủ trương và chính sách của chính quyền, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.
Sự chuyển đổi sang cơ chế dân chủ tại nhiều quốc gia, sự phát triển của lĩnh vực công nghệ thông tin cũng làm cho quyền đối với thông tin ngày càng trở nên quan trọng đối với mọi công dân. Công nghệ thông tin đã tạo điều kiện và khuyến khích các thành viên của cộng đồng kiểm soát và hạn chế nạn tham nhũng bằng nhiều phương pháp khác nhau như giám sát hoạt động của các nhà lãnh đạo và khuyến khích công chúng tham gia vào quá trình ra quyết định. Thông tin như một nền tảng thiết yếu của nền dân chủ ở mọi cấp độ. Công khai cùng với bầu cử và tự do báo chí là cần thiết bảo đảm xã hội mở và dân chủ.
Quyền đối với thông tin cũng là một công cụ mấu chốt trong việc đấu tranh chống tham nhũng và các hành vi sai trái của chính quyền. Các nhà báo và các tổ chức phi chính phủ làm nhiệm vụ giám sát có thể sử dụng quyền này để vạch trần các hành vi sai trái nhằm loại bỏ nó. Quyền tiếp cận thông tin cũng đáp ứng các mục tiêu xã hội quan trọng khác, chẳng hạn quyền của cá nhân tiếp cận thông tin cá nhân của mình là một phần nhân phẩm của cá nhân đó và là mấu chốt để cá nhân đưa ra quyết định hiệu quả. Ví dụ, khả năng tiếp cận thông tin bệnh lý cá nhân có thể giúp cá nhân đó đưa ra quyết định về phương thức điều trị, lên các kế hoạch tài chính…
Một khía cạnh khác của quyền đối với thông tin thường được phản ánh là việc sử dụng quyền này để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Các cơ quan công quyền nắm giữ một khối lượng lớn các thông tin trong tất cả các lĩnh vực, nhiều loại trong số đó liên quan tới các vấn đề kinh tế và chúng có thể là rất hữu ích cho các doanh nhân.
Nhìn nhận một cách tổng quát, quyền tiếp cận thông tin đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tăng cường thực hiện và thực hiện tốt, thực hiện một cách công bằng các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội của người dân từ quyền bầu cử, quyền chất vấn, biểu quyết, tham gia đóng góp ý kiến, khiếu nại tố cáo đến quyền yêu cầu bồi thường do hành vi sai trái của cơ quan công quyền, quyền tự do kinh doanh và tiếp cận nguồn vốn, quyền học tập và lao động, quyền được sống trong môi trường trong sạch, tiếp cận với các dịch vụ y tế…Thông tin công là tài sản công và chính sách cung cấp thông tin công phải hình thành trên cơ sở phi lợi nhuận. Quá trình tiếp cận thông tin là quá trình thúc đẩy công bằng, thực thi luật pháp và củng cố nhà nước pháp quyền.
Tự do thông tin cũng có lợi ích hàn gắn vết thương quá khứ. Tại nhiều quốc gia trong quá trình chuyển đổi sang một nền dân chủ, Luật Tự do thông tin cho phép các chính phủ chia sẻ thông tin, tài liệu về quá khứ và cho phép xã hội cũng như các nạn nhân và gia đình của họ, những người từng bị lạm dụng và thương tổn biết và hiểu rõ hơn những gì đã xảy ra trong quá khứ.
Có thể nói, nhận thức tầm quan trọng của tiếp cận thông tin không chỉ là từ phía công chúng, các nhóm xã hội mà còn từ phía Chính phủ. Sự cần thiết của quyền tiếp cận thông tin cho các mục tiêu dân chủ, chống tham nhũng, đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của cá nhân, từng lớp xã hội cũng như coi nó là một nguồn lực xã hội cần tiếp cận và khai thác bình đẳng để giải quyết các vấn đề kinh tế, môi trường và an sinh xã hội. Xây dựng một Chính phủ điện tử trở thành một nhu cầu thiết yếu trong việc quản lý và điều hành nhanh và có hiệu quả, vì vậy tự do thông tin được nhiều lãnh đạo quốc gia đánh giá như là nhu cầu tự thân. Một số yếu tố khác như nhu cầu hiểu đúng và thực thi các chính sách của Nhà nước từ phía công chúng, nhu cầu cân bằng lợi ích các nhóm xã hội, củng cố sự đồng thuận xã hội và tạo điều kiện cơ chế giám sát từ bên trong có hiệu quả… cũng thúc đẩy Chính phủ nhiều nước nhận thức về quyền tự do thông tin. Nếu quyền này được áp dụng một cách hệ thống với sự quan tâm thích đáng nhằm cân bằng các nhóm lợi ích khác nhau thì quyền này có thể làm thu hẹp việc bất đồng quan điểm, tăng cường tính hiệu quả của các chính sách được ban hành cũng như nâng cao lòng tin của Nhân dân vào hệ thống chính trị.
1.3. Nội dung cơ bản của pháp luật tiếp cận thông tin
Về tổng thể pháp luật tiếp cận thông tin của mỗi nước được cấu thành bởi một số nội dung cơ bản:
- Phạm vi cung cấp thông tin/giới hạn thông tin;
- Các nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin;
- Các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin;
- Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin;
- Nội dung quyền tiếp cận thông tin;
- Thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin;
- Giải quyết khiếu nại, khiếu kiện quyền tiếp cận thông tin.
1.3.1. Phạm vi cung cấp thông tin
Phạm vi cung cấp thông tin là giới hạn những thông tin mà các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin phải cung cấp. Theo nguyên tắc số 2 và số 5 của Bộ nguyên tắc về Luật tự do thông tin và quyền được thông tin của Uỷ ban nhân quyền, Liên Hợp quốc[3], các cơ quan công quyền có trách nhiệm chủ động cung cấp, phổ biến đối với các loại thông tin chủ chốt cần cho công chúng biết một cách rộng rãi và có trách nhiệm cung cấp thông tin theo yêu cầu đối với loại thông tin cụ thể.
Thể chế hoá các nguyên tắc nói trên, trong các Luật về tiếp cận thông tin của phần lớn các quốc gia đã ban hành đều quy định những loại thông tin chủ chốt sau đây cần được phổ biến công khai và cung cấp rộng rãi cho công chúng:
-
Thông tin về chức năng, nhiệm vụ, hoạt động, cơ cấu của cơ quan, tổ chức công quyền;
-
Thông tin về ngân sách gồm mục tiêu ngân sách, chi tiêu ngân sách, thông tin kiểm toán, kết quả đạt được trong hoạt động của cơ quan công quyền;
-
Thông tin hướng dẫn thủ tục, quy trình sử dụng dịch vụ công do cơ quan công quyền cung cấp hoặc quy trình tham gia vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật.
-
Thông tin về Nghị viện: những thảo luận trong các phiên họp, những chính sách mà Nghị viện phê duyệt;
-
Thông tin về quy hoạch đô thị, nông thôn, về các công trình quốc gia, về chính sách an sinh xã hội và bảo vệ môi trường…;
-
Thông tin về dự báo thời tiết, dịch bệnh, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội…
Phạm vi quyền tiếp cận thông tin được quy định trong Luật Tiếp cận thông tin mỗi nước không hoàn toàn giống nhau. Nhìn chung phạm vi của quyền tiếp cận thông tin được quy định trong Luật theo hai cách chính:
* Cách thứ nhất, Luật liệt kê một loạt các loại thông tin cơ quan công quyền có trách nhiệm phải công bố trong thời hạn luật định và sau đó là những thông tin miễn trừ tiết lộ. Những nước theo cách này như Ấn Độ, Nga, Trung Quốc…
* Cách thứ hai, Luật xác định và liệt kê những loại thông tin không công khai, hạn chế, miễn trừ tiếp cận.
1.3.2. Các nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
a) Nguyên tắc mở thông tin một cách tối đa
Theo Toby Mendel, chuyên gia cao cấp của Liên Hợp quốc về Luật Tiếp cận thông tin, khi xây dựng Luật về tiếp cận thông tin/tự do thông tin, nhà làm luật cần tiếp cận theo nguyên tắc thông tin phải được công khai tối đa. Nguyên tắc này cần được thể hiện trong Luật Tiếp cận thông tin của mỗi quốc gia. Nguyên tắc mở thông tin một cách tối đa nghĩa là thông tin cần được cung cấp theo khả năng cao nhất có thể cung cấp.
b) Nguyên tắc các cơ quan công quyền có nghĩa vụ công bố thông tin
Nội hàm của nghĩa vụ công bố thông tin tập trung ở trách nhiệm của các cơ quan nhà nước công khai một cách rộng rãi, dễ truy cập, tiếp cận, nắm bắt các thông tin về chức năng, nhiệm vụ của mình. Luật mẫu về tự do thông tin do nhóm Article 19 của Liên Hợp quốc chuẩn bị để trợ giúp các quốc gia triển khai xây dựng Luật Tiếp cận thông tin đã dành hẳn một điều riêng về trách nhiệm công bố thông tin của các cơ quan công quyền.
Nguyên tắc các cơ quan công quyền có nghĩa vụ công bố thông tin không chỉ dừng ở việc đáp ứng thông tin khi có yêu cầu từ phía người dân mà đòi hỏi sự tích cực, chủ động của cơ quan nhà nước trong việc công khai thông tin ngay cả khi chưa hay không có yêu cầu.
c) Nguyên tắc thúc đẩy “Chính phủ mở”
Tiếp cận thông tin là một trong những biện pháp thúc đẩy tính minh bạch thực sự của Chính phủ. Cơ quan nhà nước cũng phải chủ động tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật để người dân nhận thức đầy đủ và sử dụng quyền, nghĩa vụ của mình trong tiếp cận thông tin.
d) Nguyên tắc hạn chế phạm vi miễn trừ
Các trường hợp miễn trừ phải được quy định rõ ràng và ở phạm vi hẹp như có thể, tuỳ thuộc hoàn cảnh cụ thể của quốc gia. Luật mẫu về tự do thông tin thiết kế một số điều khoản về quy định cấm hoặc hạn chế cung cấp thông tin. Không dừng ở đó, luật mẫu có quy định ngoại lệ có nghĩa là có quy định cho phép cung cấp thông tin thuộc danh mục không được cung cấp hay hạn chế cung cấp. Người được yêu cầu không thể từ chối cung cấp thông tin, trừ khi lợi ích cần được bảo vệ lớn hơn lợi ích công khai thông tin. Cơ quan được yêu cầu cũng không thể từ chối cung cấp thông tin vì lý do thông tin đó đã được đăng tải rộng rãi.
e) Nguyên tắc cung cấp thông tin nhanh, hiệu quả, chi phí không quá cao hoặc miễn phí
Luật mẫu thiết kế quy định về trả lời yêu cầu cung cấp thông tin, thông báo trả lời và lệ phí. Về lệ phí, nguyên tắc chung là khoản lệ phí không được vượt quá chi phí thực tế chi trả cho việc tìm kiếm, chuẩn bị và cung cấp thông tin. Các yêu cầu về cung cấp thông tin cá nhân hoặc thông tin về lợi ích công cộng không phải nộp lệ phí.
f) Nguyên tắc công khai về hội họp
Cần công khai các cuộc họp của cơ quan công quyền vì quyền tự do thông tin bao gồm quyền của công chúng được biết những việc chính quyền đang thay mặt Nhân dân làm và quyền được tham gia vào quá trình ra quyết định. Các cuộc họp có thể là họp kín nhưng chỉ được họp kín theo đúng những thủ tục đã định và khi có các lý do thích đáng cho việc tổ chức họp kín.
g) Nguyên tắc bảo vệ cho người cung cấp thông tin (“người thổi còi”)
Cá nhân tiết lộ thông tin về hành vi vi phạm pháp luật phải được bảo vệ khỏi các chế tài dù là hành chính hay kỷ luật. Người “thổi còi” cần nhận được sự bảo vệ trong trường hợp đã hành động một cách ngay tình và có lý do tin tưởng rằng thông tin đưa ra là đúng và có chứng cứ về hành vi vi phạm pháp luật mà người đó đã phát hiện.
1.3.3. Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin
Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Cá nhân có thể là công dân Việt Nam, công dân nước ngoài hoặc người không có quốc tịch.
Với quan niệm tiếp cận thông tin là một quyền dân sự - chính trị, Hiến pháp và luật các nước sử dụng các công thức như “mọi người”, “bất kể người nào”, hay “công chúng”, “người dân” để thể hiện tính phổ quát của quyền này.
Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin là cá nhân:
Một số Luật Tự do thông tin hay Luật Bảo vệ dữ liệu cho phép các cá nhân được tiếp cận tài liệu lưu trữ do các cá nhân và các tổ chức tư nhân nắm giữ cũng như cho phép thực hiện quyền được tiếp cận và được sửa đổi các tài liệu lưu trữ cá nhân và bảo đảm rằng, các tài liệu này luôn chính xác và các quyết định được đưa ra không dựa trên các thông tin không có liên quan hoặc không được cập nhật. Quyền này cũng bảo đảm rằng mọi người có thể nhận thức rõ ràng những lợi ích hoặc dịch vụ mà họ có quyền được hưởng và xem họ có được nhận đúng và đủ các lợi ích đó không.
Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin là tổ chức, pháp nhân:
Ở Ấn Độ, các nhóm hoạt động xã hội cơ sở đã sử dụng quyền được biết để tiếp cận các thông tin về các dự án, các công trình công cộng ở địa phương để biết các khoản tiền đã chi trả thế nào và để người dân có quyền hỏi về việc dự án đã hoàn thành hay chưa và các khoản chi tiêu cho dự án đó là bao nhiêu.
Luật về tự do tiếp cận thông tin của Cộng hoà Séc ban hành tháng 5/1999 cho phép các thể nhân và pháp nhân quyền tiếp cận các thông tin do các cơ quan nhà nước, cơ quan cộng đồng và các tổ chức tư nhân quản lý công quỹ nắm giữ.
Một số chủ thể đặc biệt:
Ngoài các chủ thể trên, các văn kiện quốc tế và luật của một số nước còn đề cập đến một số chủ thể được ưu tiên đặc biệt trong việc tiếp cận thông tin.
Luật Hành chính công Đan Mạch điều chỉnh việc tiếp cận hồ sơ tài liệu trong trường hợp một người là một bên có liên quan đến quyết định hành chính[4]. Luật này quy định phạm vi tiếp cận tài liệu rộng hơn so với Luật Tiếp cận thông tin. Luật về Xử lý dữ liệu cá nhân Đan Mạch cho phép các cá nhân được quyền tiếp cận hồ sơ về bản thân mình do các cơ quan nhà nước hoặc tổ chức tư nhân nắm giữ[5].
1.3.4. Các yếu tố cấu thành quyền tiếp cận thông tin
Vì những lợi ích to lớn của quyền tiếp cận thông tin, Hiến pháp và luật nhiều nước đều có quy định rộng mở đối với các nội dung của quyền tiếp cận thông tin bao gồm tìm kiếm, thu thập thông tin, yêu cầu cung cấp thông tin và cả truyền bá thông tin (thường được tách khỏi khái niệm “tiếp cận thông tin” nhưng có liên quan đến quyền được thông tin. Nhìn chung, tại các nước, nội dung quyền tiếp cận thông tin có thể được quy định trong các luật khác nhau. Có thể quyền tiếp cận thông tin được Hiến pháp hoá (như Thụy Điển, Na Uy) và xây dựng nội luật về Tự do thông tin và một số các luật khác liên quan như Luật Bảo vệ dữ liệu thông tin, Luật Bí mật, Luật Chống tham nhũng và một số văn bản pháp lý như Bộ nguyên tắc điều hành Chính phủ (Thụy Điển), Nguyên tắc tiếp cận tài liệu công (Thụy Điển)… Đan Mạch để thực thi quyền tự do thông tin còn có các văn bản dưới luật. Đan Mạch lồng ghép các nguyên tắc tự do thông tin vào các luật khác, ví dụ như Luật Minh bạch và Mở trong giáo dục. Luật Tiếp cận tài liệu hành chính công của Đan Mạch áp dụng với hầu hết các cơ quan công, bao gồm công ty và tổ chức khác sử dụng nguồn ngân sách công và có quyền ra chính sách và quyết định do chính quyền trung ương và địa phương trao cho thay cho họ. Luật không áp dụng cho khu vực tư pháp và lập pháp.
a) Tìm kiếm, thu thập thông tin
Các Luật Tự do thông tin quốc gia sử dụng rất nhiều các thuật ngữ khác nhau để mô tả các thông tin mà cá nhân có quyền tiếp cận. Các đạo luật được ban hành từ lâu đời nói chung đều quy định về quyền tiếp cận hồ sơ tài liệu, tài liệu chính thức hoặc tài liệu, trong khi các đạo luật mới được ban hành thì thường quy định về quyền thông tin. Trên thực tế không có nhiều sự khác biệt vì hiện nay hầu hết các luật đã định nghĩa quyền thông tin theo nghĩa rộng nhằm bao hàm tất cả các loại thông tin mà không phụ thuộc vào hình thức chứa đựng các thông tin đó. Tuy nhiên tại một số quốc gia như Thụy Điển, thuật ngữ “tài liệu chính thức” không bao gồm các tài liệu đang trong quá trình chuẩn bị hoặc các dự thảo không được sử dụng trong quá trình ra quyết định cuối cùng. Ở Ấn Độ, luật cũng cho phép các cá nhân được yêu cầu lấy mẫu, ví dụ như mẫu thực phẩm được phân phối hoặc mẫu vật liệu sử dụng để làm đường sá.
Phần lớn Luật Tiếp cận thông tin các nước có quy định quyền tiếp cận tới tất cả các thông tin do chính phủ lưu giữ mà không chỉ là các tài liệu của Nhà nước/tài liệu chính thức. Một đặc điểm chung của hầu hết các luật là đều quy định các cơ quan Chính phủ có nghĩa vụ phải cung cấp một số loại thông tin nhất định một cách tích cực. Các thông tin này thường bao gồm chi tiết về cơ cấu tổ chức và các quan chức chủ yếu của Chính phủ, lời văn các đạo luật và quy định, các đề xuất và chính sách hiện hành, các biểu mẫu và quyết định. Các luật mới ban hành có xu hướng quy định cụ thể một danh sách các thông tin cần công bố.
b) Yêu cầu cung cấp thông tin
Quyền tiếp cận thông tin cho phép các công dân hoặc bất kỳ người nào có quyền được yêu cầu các cơ quan Chính phủ cung cấp thông tin.
c) Truyền bá thông tin
Truyền bá thông tin là một khái niệm có phạm vi khác hơn so với tiếp cận thông tin, gắn với tự do thông tin. Quyền tự do thông tin và tự do truyền tải quan điểm có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức như nói, viết, in ấn, điện tử hoặc bằng nghệ thuật…
1.3.5. Thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin
Thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, về cơ bản, được thể hiện ở các khía cạnh: thực hiện quyền tiếp cận thông tin thông qua việc quy định trách nhiệm của cơ quan nắm giữ thông tin phải công bố công khai rộng rãi các thông tin; thực hiện quyền tiếp cận thông tin thông qua việc quy định quyền yêu cầu cung cấp các thông tin; quy định thời hạn hợp lý được tiếp cận thông tin, từ chối tiếp cận thông tin và bố trí đầu mối tiếp cận thông tin.
Nhìn chung, luật các nước có những điểm chung nhất định như quy định trách nhiệm chủ động công bố rộng rãi, công khai đến mức tối đa thông tin, tạo cơ sở cho người dân tiếp cận thông tin mà không cần yêu cầu, quy trình cung cấp thuận tiện, dễ tiếp cận, nhanh, rẻ, minh bạch. Gần như tất cả các luật đều quy định yêu cầu bằng văn bản, một số nước như Na Uy, Slovenia,… người yêu cầu có thể gửi yêu cầu bằng miệng hoặc thậm chí qua điện thoại. Luật phần lớn các nước không quy định nghĩa vụ của ngườiyêu cầu phải nêu lý do trong yêu cầu cung cấp thông tin. Nhiều luật quy định cụ thể yêu cầu phải nộp tới công chức cụ thể, trong khi một số nước quy định có thể gửi yêu cầu tới cơ quan công quyền nắm giữ thông tin.
Phần lớn các luật đều quy định thời hạn tối đa trả lời yêu cầu từ khoảng 15-30 ngày. Phần lớn các luật đều cho phép gia hạn thời gian cung cấp thông tin. Thông thường thì, thời gian mà người nộp đơn phải trả lời các câu hỏi liên quan đến làm rõ hơn một số chi tiết liên quan đến thông tin hoặc để trả lệ phí sẽ không được tính vào thời hạn yêu cầu trả lời. Ở nhiều nước, việc không trả lời được yêu cầu cung cấp thông tin trong thời gian hạn định được coi như từ chối yếu cầu cung cấp thông tin.
Phần lớn các nước đều quy định việc chuyển giao yêu cầu, hoặc người nộp đơn sẽ được thông báo về việc thông tin do một cơ quan khác nắm giữ, là nơi mà thông tin có liên quan chặt chẽ nhất tới công việc của họ (Anh, Ấn Độ) hay nơi mà việc chuyển giao là “hợp lý” (Nhật).
Luật nhiều nước cũng yêu cầu cơ quan công quyền gửi thông báo trả lời bằng văn bản cho người yêu cầu, nếu đơn yêu cầu được đáp ứng thì thông báo có thể sẽ ghi cả số lệ phí phải nộp, dạng thông tin được đáp ứng, một số quy định liên quan đến quyền khiếu nại; còn khi yêu cầu bị từ chối, thông báo thường ghi rõ lý do từ chối, có thể viện dẫn điều khoản cụ thể trong luật về lý do từ chối, đồng thời cũng có thể ghi cả quyền khiếu nại.
1.3.6. Thủ tục khiếu nại, khiếu kiện
Giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin thường bằng 3 con đường khác nhau: bằng con đường nội bộ hành chính, bằng Uỷ ban thông tin độc lập/Cao uỷ viên thông tin độc lập, bằng con đường tòa án.
Nhìn chung, quyền được khiếu nại hay kháng cáo của cá nhân được thừa nhận rộng rãi trong luật các nước. Các luật khác nhau quy định các biện pháp giải quyết khiếu nại cũng khác nhau, khiếu nại nội bộ là cách thức được lựa chọn đầu tiên và phổ biến nhất, tiếp theo là khiếu nại đến một cơ quan giám sát độc lập và/hoặc khởi kiện tới tòa án. Luật của Nam Phi, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Peru, Slovenia quy định cụ thể về cơ chế khiếu nại nội bộ, tức khiếu nại trực tiếp lên cơ quan hành chính có thẩm quyền cao hơn cơ quan đã từ chối cung cấp thông tin. Ở Anh, khiếu nại nội bộ là một thủ tục bắt buộc trước khi khiếu nại tới một cấp xét xử khác.
Nhiều luật thiết kế một cơ quan giám sát độc lập đóng vai trò giải quyết các khiếu nại liên quan đến tiếp cận thông tin ví dụ Cao uỷ viên, Uỷ ban Thông tin hay Thanh tra Nhà nước/Thanh tra Nghị viện hoạt động độc lập. Một xu hướng ngày càng phổ biến là thành lập một Uỷ ban Thông tin độc lập, đây có thể là cơ quan của Quốc hội, cơ quan độc lập thuộc Chính phủ (Văn phòng Chính phủ) hoặc một cơ quan hoàn toàn độc lập. Đến năm 2006 đã có 22 nước thành lập cơ quan dạng này. Ở một số nước như Pháp, Canada, cơ quan này có thẩm quyền tương tự như Thanh tra Quốc hội. Tại Slovenia, Serbia, Ireland, Anh, Uỷ ban Thông tin có quyền ban hành các quyết định có tính bắt buộc, trừ một số ít trường hợp. Trong nhiều trường hợp khiếu nại thông qua hệ thống thanh tra nhanh hơn và có thể giải quyết bằng hoà giải hơn là bằng các vụ kiện lên hệ thống tư pháp gây tốn kém và thủ tục lâu hơn.
Tại một số nước thành lập một cơ quan dạng tòa án chuyên giải quyết khiếu nại về tiếp cận thông tin như Ban Thẩm tra việc Công khai thông tin ở Nhật hay ở Úc, có Tài phán Phúc tra hành chính. Bên cạnh đó, công dân Úc cũng có thể khiếu nại với Thanh tra Quốc hội liên bang. Tại một số nước như Anh hay Thái Lan, luật quy định cả hai cơ chế: hình thành cơ quan giám sát độc lập và một Toà trọng tài (Tribunal) chuyên biệt có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại. Nhiều nước, nhưng không phải là tất cả, luật quy định cơ quan xét xử phúc thẩm cuối cùng là tòa án. Tòa án giải quyết tại Ba Lan là tòa án hành chính ở địa phương có cơ quan là bị đơn, tại Hàn Quốc, Na Uy, Nam Phi, Nga là tòa án thẩm quyền chung, tại Peru là tòa án theo thủ tục bảo hiến habeas data, tại Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ là Tòa án hành chính, ở Antigue và Barbuda là Toà thượng thẩm. Ở Ecuado, không chỉ cá nhân mà thanh tra quốc hội cũng có thể khởi kiện, và quyết định của tòa án cũng có thể bị kháng cáo lên Tòa án Hiến pháp.
1.3.7. Hình phạt, các biện pháp bảo hộ, các biện pháp khuyến khích thực thi pháp luật.
a) Hình phạt
Phần lớn luật các nước quy định một số hình thức trừng phạt đối với cá nhân có dụng ý cản trở việc tiếp cận thông tin, một số nước khác thì quy trách nhiệm trực tiếp cho cơ quan công quyền. Tại một số nước như Jamaica, Bulgary, Nam Phi và Peru, cản trở có chủ ý việc tiếp cận thông tin được coi là một tội phạm hình sự và hình phạt có thể là hình phạt theo Luật Hình sự, thông thường là phạt tù. Một số nước khác như Mexico, luật quy định trách nhiệm hành chính đối với các vi phạm này.
b) Các biện pháp bảo vệ
Nhiều luật đã quy định việc bảo vệ hành động công khai thông tin có thiện chí. Một số luật (Uganda, Ấn Độ, Nam Phi) có quy định bảo vệ công chức đối với bất kỳ hoạt động nào liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin hoặc có hàm ý thực hiện nhiệm vụ theo quy định của luật.
Một số nước quy định nghĩa vụ công khai các thông tin ngoại lệ. Luật của Thụy Điển là một ví dụ, Thụy Điển quy định nghĩa vụ theo Bộ luật Hình sự và cũng đặt ra một số nghĩa vụ trực tiếp.
Luật Tiếp cận thông tin của nhiều nước như Anh, Nam Phi, Hoa Kỳ quy định hình thức bảo vệ “người thổi còi”. Đây là biện pháp an toàn quan trọng nhằm hỗ trợ bảo đảm các thông tin cơ bản vì lợi ích công cộng được công khai.
c) Các biện pháp khuyến khích thực thi pháp luật
Một số nước như Mexico, Anh, Nam Phi hay Ấn Độ quy định khá nhiều các biện pháp khuyến khích thực thi pháp luật. Nhiều luật quy định việc bổ nhiệm các công chức tận tụy với công việc đảm nhiệm nhiệm vụ công chức thông tin nhằm hỗ trợ việc thực thi pháp luật.
Tại Uganda và Nam Phi, người đứng đầu các cơ quan công chịu trách nhiệm thực hiện chức năng của công chức thông tin, mặc dù họ có thể chỉ định những người được uỷ quyền để thực hiện các công việc hàng ngày. Luật của Ấn Độ quy định việc bổ nhiệm nhiều cán bộ mẫn cán làm công chức thông tin. Tại Hoa Kỳ, cơ quan công quyền còn phải chỉ định các trung tâm hỗ trợ người yêu cầu cung cấp thông tin, công chức giám sát việc giải quyết các khiếu nại nội bộ.
Một số luật cũng quy định việc phải hướng dẫn và giải thích cho công chúng về quyền được tiếp cận thông tin của họ và cách thức gửi đơn yêu cầu, trong khi một số nước khác thì quy định việc xây dựng các hướng dẫn này dưới dạng các quy tắc về thực hành nhiệm vụ. Tại một số nước, cơ quan trung ương sẽ làm nhiệm vụ hướng dẫn, trong khi ở một số nước khác từng cơ quan công phải xây dựng các quy định hướng dẫn. Tại Nam Phi, Uỷ ban Nhân quyền còn có thêm nhiệm vụ xây dựng hướng dẫn trên phạm vi toàn quốc bằng 11 ngôn ngữ chính thức của quốc gia này.
Nhiều nước quy định tiêu chuẩn tối thiểu đối với việc quản lý hồ sơ tài liệu, một số hình thức báo cáo về việc thực thi pháp luật và tại một số nước quy định cơ quan giám sát có trách nhiệm chung là thúc đẩy việc thực thi pháp luật. Tại Kyrgyzstan, luật quy định việc rà soát tất cả các văn bản luật có các quy định liên quan đến việc hạn chế công khai thông tin để từ đó xem xét dưới góc độ của Luật Tiếp cận thông tin.
Để quyền tiếp cận thông tin được bảo đảm thiết thực, vai trò của các tổ chức xã hội dân sự là rất quan trọng. Tại nhiều quốc gia, các tổ chức chính trị, chính trị- xã hội,… có vai trò quan trọng thúc đẩy và giám sát thực thi Luật Tiếp cận thông tin. Các Ombudsman với tư cách là “người bảo vệ công chúng”, một thiết chế lưỡng tính, kết nối với Nhà nước và xã hội, hoạt động độc lập để bảo vệ lợi ích của người dân, bao gồm cả quyền tiếp cận thông tin.
Chương II
PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CẬN THÔNG TIN/ TỰ DO THÔNG TIN TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Pháp luật về tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế
Quyền tiếp cận thông tin đã trở thành mối quan tâm trên phạm vi quốc tế, sau khi Liên Hợp quốc ra đời. Trong phiên họp thứ nhất, Đại hội đồng Liên Hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 59(1), quy định: “tự do thông tin là quyền con người cơ bản và… nền tảng của tất cả các tự do khác…”. Tiếp đó, bản Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người được thông qua vào năm 1948 đã liệt kê một loạt các quyền và tự do cơ bản của cá nhân, trong đó có quyền tiếp cận thông tin và trách nhiệm của các chính phủ trong việc tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền này. Quyền tiếp cận thông tin tiếp tục được quy định trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và trong một số công ước quốc tế khác như Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường năm 1998, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003…Ở cấp độ khu vực và quốc gia, quyền tiếp cận thông tin được quy định trong Công ước Nhân quyền Châu Âu (ECHR), Công ước Nhân quyền Châu Mỹ (ACHR), và trong Chương trình hành động chống tham nhũng dành cho khu vực Châu Á – Thái Bình Dương[6] cũng đã quy định rõ về tiếp cận thông tin: bảo đảm rằng công chúng và các phương tiện truyền thông được tự do tiếp nhận và phổ biến thông tin về các vấn đề tham nhũng một cách phù hợp với pháp luật trong nước[7]…Hiện nay, các nước trên thế giới dù khác nhau về thể chế chính trị, trình độ phát triển kinh tế hay sự khác biệt về văn hoá trong pháp luật quốc gia đều có quy định về quyền tiếp cận thông tin của công dân. Tính đến năm 2010 đã gần 90 quốc gia ban hành Luật Tiếp cận thông tin công.
2.2. Các đặc điểm chung và đặc thù của pháp luật tiếp cận thông tin và thực hiện pháp luật tiếp cận thông tin của các nước trên thế giới
Trên cơ sở phân tích Luật Tiếp cận thông tin của một số nước trên thế giới gồm có một số nước Châu Âu, Châu Mỹ-La tinh, Châu Phi, Châu Á và Châu Úc, nhóm nghiên cứu đã nghiên cứu tổng hợp và đưa ra các đặc điểm chung và đặc thù của pháp luật tiếp cận thông tin và thực hiện pháp luật tiếp cận thông tin của các nước trên thế giới.
Theo đó, các luật tự do thông tin/tiếp cận thông tin trên khắp thế giới có nhiều điểm tương đồng. Nguyên nhân chủ yếu của sự tương đồng này là các quốc gia ban hành Luật Tiếp cận thông tin thường học hỏi kinh nghiệm các quốc gia đã đi trước và những quy định hợp lý thường được tiếp nhận như là một yếu tố của hội nhập quốc tế. Cũng theo David Banisar thì gần đây có một số Luật Tự về do thông tin đã có một số sáng tạo. Các đạo luật mới ban hành đã có một số quy định mới chưa từng có trong các đạo luật trước đây như việc quy định các Uỷ viên thông tin có quyền hạn và chức năng thi hành luật. Việc xem xét đến các lợi ích công cộng trong quá trình quyết định giữ bí mật hay công bố thông tin cũng như phạm vi điều chỉnh đối với các cơ quan nhà nước ngày càng sâu rộng hơn.
2.2.1. Các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin
Hầu hết các luật về tự do thông tin/tiếp cận thông tin đều quy định các cơ quan hành pháp có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Một số quốc gia cũng quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin của cơ quan toà án và cơ quan lập pháp. Nhiều quốc gia quy định các cơ quan nhà nước có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Khái niệm cơ quan nhà nước thường được hiểu là bất kỳ cơ quan nào thực hiện chức năng của Chính phủ. Luật Tiếp cận thông tin của Bồ Đào Nha quy định các cơ quan thực hiện chức năng công đều có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Một số quốc gia như Ireland quy định một danh sách các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho công chúng.
2.2.2 Những người có quyền yêu cầu cung cấp thông tin
Hầu hết các quốc gia hiện nay đều cho phép bất kỳ người nào đều có quyền yêu cầu cung cấp thông tin mà không kể các lợi ích pháp lý có liên quan hay không, có là công dân hay cư trú tại quốc gia đó hay không[8]. Một số quốc gia như Phần Lan còn cho phép việc đưa ra các yêu cầu vô danh nhằm bảo đảm rằng người yêu cầu cung cấp thông tin không bị phân biệt đối xử. Theo David Banisar việc đặt ra các hạn chế nghiêm ngặt hơn có thể làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tiếp cận thông tin ví dụ như trên thực tiễn một số quan chức Ấn Độ yêu cầu phải đưa ra các chứng cứ chứng minh mình là công dân Ấn Độ khi họ yêu cầu tiếp cận thông tin mặc dù biết rằng không nhiều người dân Ấn Độ có hộ chiếu hoặc chứng minh nhân dân.
2.2.3 Các thông tin được miễn trừ cung cấp
Tuy không hoàn toàn giống nhau, tuy nhiên hầu hết Luật Tiếp cận thông tin/tự do thông tin trên thế giới thường có những quy định về miễn trừ cung cấp các thông tin sau đây: Tài liệu về vụ án hình sự đang trong quá trình điều tra; Tài liệu nội bộ đang trong quá trình chuẩn bị chưa được chính thức phê chuẩn hoặc thông qua; Tài liệu thông tin về an ninh quốc phòng; Tài liệu liên quan đến bí mật thương mại; Tài liệu liên quan đến bí mật cá nhân.
2.2.4 Xử lý khiếu nại, khiếu kiện về từ chối cung cấp và yêu cầu thông tin
Luật Tiếp cận thông tin của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy định về việc xử lý khiếu nại, khiếu kiện về việc từ chối cung cấp thông tin, tuy nhiên cách thức xử lý có thể bằng các con đường khác nhau. Bất kỳ quốc gia nào muốn cho việc xử lý khiếu nại khiếu kiện có hiệu quả cao thì phải bảo đảm tính độc lập của hệ thống cơ quan thực hiện quyền giám sát thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Hệ thống cơ quan giám sát độc lập có thẩm quyền tiếp nhận, điều tra và giải quyết các khiếu nại, khiếu kiện của các cá nhân, tổ chức. Trên thế giới hiện nay, trừ con đường giải quyết nội bộ hành chính có hai cách lực chọn khác nhau về việc tổ chức cơ quan giám sát độc lập này. Cách thứ nhất là thành lập Uỷ ban thông tin độc lập hay Thanh tra Nhà nước/Thanh tra Quốc hội (hoặc Cao uỷ viên về quyền tiếp cận thông tin). Ví dụ, các nước Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan và Đan Mạch có Thanh tra Quốc hội (Ombudsman) bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của cá nhân cùng với các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội khác của họ.
Theo nhận xét của chuyên gia hàng đầu của Liên Hợp quốc về quyền tiếp cận thông tin thì cách mà phần lớn các quốc gia đã ban hành Luật Tiếp cận thông tin lựa chọn là thành lập cơ quan giám sát và giải quyết khiếu nại, khiếu kiện độc lập – Cao uỷ viên thông tin.
2.2.5 Các khoản lệ phí cung cấp thông tin
Luật Tiếp cận thông tin/tự do thông tin của đa số các nước trên thế giới cho phép Chính phủ được thu lệ phí đối với người yêu cầu cung cấp thông tin. Cá nhân yêu cầu cung cấp thông tin sẽ phải chịu hoàn toàn phí tổn của việc sao chép thông tin được yêu cầu. Mức lệ phí sẽ được nêu ở quy định về thủ tục hành chính của mỗi một cơ quan công cộng. Theo David Banisar, các khoản lệ phí thường được quy định trong việc cung cấp thông tin là lệ phí nộp đơn, tìm kiếm, sao chép và lệ phí khiếu nại. Các khoản lệ phí không nên đặt ra quá cao vì nó sẽ làm giảm các yêu cầu cung cấp thông tin.
2.2.6 Văn hoá giữ bí mật - sự khó khăn và cản trở việc đưa pháp luật vào cuộc sống ở một số quốc gia
Theo Báo cáo tự do thông tin thế giới năm 2006, do các yêu cầu về minh bạch và cởi mở trên toàn cầu nên nhiều quốc gia đã ban hành Luật Tiếp cận/tự do thông tin, tuy nhiên chỉ trên danh nghĩa mà không phải là thực chất.
Trong thực tiễn ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước Châu Á và Châu Phi văn hoá bí mật vẫn còn ngự trị. Việc xây dựng và phát triển một nền văn hoá minh bạch và cởi mở chắc chắn sẽ gặp nhiều lực cản. Các quan chức Chính phủ phải có thời gian học hỏi để thay đổi tư duy chuyển từ nền hành chính cai trị sang nền hành chính phục vụ, coi thông tin mình nắm giữ không phải là tài sản của riêng mình mà là tài sản của công chúng. Cung cấp thông tin cho công chúng là nghĩa vụ của công chức, nghĩa vụ của Chính phủ.
2.3. Những kinh nghiệm có thể áp dụng vào Việt Nam
Tại Việt Nam, các cơ quan, tổ chức có sử dụng ngân sách hay thực hiện chức năng công quyền rất rộng và yêu cầu minh bạch hoá hoạt động của hệ thống cơ quan công quyền, chống tham nhũng là đòi hỏi bức xúc hiện nay, vì thế quá trình xây dựng dự thảo Luật Tiếp cận thông tin cần tham khảo luật các nước khác, cả quá trình thực hiện, để có thể ban hành một đạo luật có tính khả thi cao, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Luật cần chi tiết về các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh, quy định cụ thể các thông tin cần công khai, các thông tin ngoại lệ, đặc biệt là thủ tục cung cấp thông tin, cũng như chế tài xử phạt người vi phạm luật, bảo vệ người tố cáo, cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, và có cơ chế thúc đẩy luật có hiệu lực trên thực tế. Từ kinh nghiệm của các nước đã ban hành và thực hiện Luật Tiếp cận/tự do thông tin, nhóm nghiên cứu thấy rằng Luật Tiếp cận thông tin ở Việt Nam phải thể hiện được các nội dung cơ bản sau đây:
-
Xác định thông tin do Chính phủ nắm giữ là một trong những tài sản quốc gia, thuộc quyền sở hữu của Nhân dân, quyền tiếp cận thông tin do Chính phủ nắm giữ là một trong những quyền quan trọng của con người và công dân, cung cấp thông tin công cho cá nhân là nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước.
-
Phạm vi cung cấp thông tin là tất cả các thông tin chính thức ngoại trừ các thông tin liên quan đến bí mật quốc gia, bí mật thương mại, bí mật cá nhân, và các thông tin liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố tội phạm. Danh sách các thông tin miễn trừ cung cấp phải công khai cho dân chúng được biết.
-
Khi xẩy ra tranh chấp giữa việc xác định một thông tin cần được công khai hay không công khai thì nguyên tắc xác định dựa trên lợi ích cho xã hội từ việc công bố hay không công bố mang lại. Khi lợi ích của việc công bố lớn hơn lợi ích không công bố thì thông tin cần được công bố cho dân chúng biết. Quyền quyết định công bố thông tin thuộc Cao uỷ viên thông tin-một chức vụ hiến định do Quốc hội thành lập và chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
-
Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin là tất cả cá nhân gồm công dân Việt Nam, công dân nước ngoài và người không có quốc tịch.
-
Cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin là tất cả các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp có trên 50% vốn của Nhà nước.
-
Thủ tục tiếp cận thông tin do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định bằng một Pháp lệnh về thủ tục tiếp cận thông tin.
-
Các khiếu nại, khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin được giải quyết bởi Uỷ ban thông tin độc lập là cơ quan hiến định do Quốc hội thành lập.
-
Lệ phí cung cấp thông tin do Pháp lệnh về thủ tục cung cấp thông tin quy định.
-
Các biện pháp bảo đảm thực hiện Luật Tiếp cận thông tin bao gồm chế tài hành chính và chế tài hình sự.
Chương III
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về tiếp cận thông tin ở Việt Nam
Ở nước ta quyền được thông tin tuy chưa được quy định trực tiếp trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, tuy nhiên trong mấy chục năm xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước vẫn tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận thông tin phù hợp hoàn cảnh của đất nước. Đến Đại hội VII của Đảng năm 1991, quyền được thông tin đã được xác định trong Cương lĩnh của Đảng, là cơ sở để năm 1992, Hiến pháp mới được thông qua bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Điều 69 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin theo quy định của pháp luật”. Sau khi Hiến pháp 1992 được ban hành, đã có nhiều văn bản quy định quyền được thông tin trong một số phạm vi cụ thể. Ví dụ: Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, ban hành kèm theo Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998, được sửa đổi năm 2003, Luật Báo chí năm 1989 sửa đổi năm 1999, Luật Xuất bản năm 2004, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán Nhà nước, Luật Nhà ở, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, … Các đạo luật tổ chức các cơ quan nhà nước cũng quy định về công khai hoạt động, cung cấp tin tức để người dân được tiếp cận thông tin. Các đạo luật về tố tụng cũng quy định công khai trong hoạt động xét xử.
Tuy nhiên, chưa có một văn bản nào giải thích khái niệm quyền được thông tin của công dân là gì, mà mới chỉ dừng lại ở việc quy định trách nhiệm của cơ quan công quyền, công khai minh bạch trong một số lĩnh vực và quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân, công dân, cơ quan báo chí được yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan, có trách nhiệm cung cấp thông tin về các vấn đề có liên quan thuộc phạm vi hoạt động của cơ quan, tổ chức.
3.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay
3.2.1. Quyền tìm kiếm, trao đổi thông tin
Quyền tiếp cận thông tin trước hết thể hiện ở quyền tự do tìm kiếm, trao đổi thông tin. Ngoài việc tìm kiếm thông tin bằng các phương tiện nghe, nhìn và thông tin trong sách, báo truyền thống, việc tìm kiếm thông tin có thể thực hiện thông qua mạng internet. Theo quy định của Luật Công nghệ thông tin năm 2006, các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin có quyền tìm kiếm trao đổi, sử dụng thông tin trên môi trường mạng, có quyền yêu cầu khôi phục thông tin của mình hoặc khôi phục khả năng truy cập đến nguồn thông tin của mình, từ chối cung cấp hoặc nhận trên môi trường mạng sản phẩm, dịch vụ trái với quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về việc đó (Điều 8).
3.2.2. Quyền yêu cầu cung cấp thông tin
Các cá nhân và tổ chức có quyền yêu cầu cung cấp thông tin mà các cơ quan công quyền đang nắm giữ loại trừ các thông tin mật. Luật Phòng, chống tham nhũng ghi nhận quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân, cơ quan, tổ chức (trong đó có cơ quan báo chí, các phóng viên). Cơ quan, tổ chức được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu đó theo quy định của pháp luật, trường hợp không cung cấp thì trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do (Điều 86). Luật Phòng, chống tham nhũng còn quy định nghĩa vụ của cơ quan thanh tra cung cấp thông tin về phòng chống tham nhũng cho bộ, ngành, địa phương. Theo quy định tại Điều 18 trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị về cung cấp thông tin Thanh tra chính phủ có nghĩa vụ cung cấp thông tin theo yêu cầu. Theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 47/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng về vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng, cơ quan nhà nước có nghĩa vụ cung cấp thông tin về hoạt động của mình trong công tác phòng, chống tham nhũng cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên.
3.2.3. Quyền phổ biến thông tin
Quyền phổ biến thông tin là một yếu tố quan trọng của quyền tiếp cận thông tin. Phổ biến thông tin là quyền được truyền đạt thông tin của mình có cho người khác, nhờ sự truyền đạt này mà thông tin của một cá nhân, tổ chức tạo ra đến được với nhiều cá nhân, tổ chức khác. Thông qua sự phổ biến này mà thông tin thể hiện được giá trị của mình. Ngày nay, với công nghệ tin học, khi một thông tin được đưa lên mạng trong giây lát nó có thể đến với hàng triệu người, nhờ vậy những thông tin có giá trị khoa học và thực tiễn cao có thể dễ dàng thể hiện được giá trị của mình nếu nó được phổ biến. Luật Xuất bản năm 2004 đã quy định nguyên tắc bảo đảm quyền phổ biến tác phẩm và bảo hộ quyền tác giả. Tại Điều 5 Luật này đã quy định: “Nhà nước bảo đảm quyền phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất bản phẩm thông qua nhà xuất bản và bảo hộ quyền tác giả”. Dưới hình thức xuất bản phẩm và bảo hộ quyền tác giả các thông tin chứa đựng các ý tưởng sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, công nghệ sẽ được phổ biến và lưu truyền, quyền của người sáng tạo ra tác phẩm sẽ được bảo vệ. Tuy nhiên, quyền phổ biến thông tin ở Việt Nam hiện nay bên cạnh những ưu điểm, những mặt tích cực trên thực tiễn vẫn đang tồn tại những biểu hiện lệch lạc. Một mặt, một số nhà xuất bản thiếu mạnh dạn, thiếu can đảm công bố các công trình nghiên cứu nói về mặt trái trong cấu trúc các thiết chế chính trị, chính trị-xã hội, chế độ bầu cử, các biểu hiện của dân chủ hình thức bằng cách không xuất bản hoặc cắt xén các phần gai góc trong các công trình nghiên cứu. Nhiều người chỉ muốn cho vỡ quả trứng luôn tròn trịa, không bị sứt vỡ mà không biết rằng gà con chỉ có thể ra đời khi vỡ quả trứng bị vỡ. Mặt khác, chúng ta chưa xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm bí mật đời tư, vi phạm các quy tắc bảo vệ thuần phong, mỹ tục khi thỉnh thoảng chúng ta lại phải chứng kiến những hình ảnh tục tĩu, hoặc những thông tin thuộc bí mật cá nhân lại được phát tán trên mạng.
3.2.4. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân thông qua các quy định về trách nhiệm công khai thông tin của các cơ quan, tổ chức
Ở Việt Nam, mặc dù chưa có đạo luật riêng về quyền tiếp cận thông tin, nhưng nghĩa vụ của các cơ quan công quyền trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin cho công dân đã được thể hiện trong nhiều văn bản luật khác nhau. Khoản 3 Điều 3 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định: “Bảo đảm tính công khai trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trừ trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nước; bảo đảm tính minh bạch trong các quy định của pháp luật”. Theo quy định tại khoản 2 Điều 78 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008, văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo, văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành (trừ văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước). Trong thời gian chậm nhất là 2 ngày làm việc kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành, cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải gửi văn bản đến cơ quan Công báo để đăng Công báo. Cơ quan Công báo có trách nhiệm đăng toàn văn văn bản quy phạm pháp luật trên Công báo trong 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản. Theo quy định tại khoản 1 Điều 78 của Luật này, thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong văn bản nhưng không sớm hơn 45 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành.
Theo Điều 3 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002, ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch; Khoản 1 Điều 13 của Luật này quy định dự toán, kiểm toán, kết quả kiểm toán ngân sách nhà nước, ngân sách các cấp, các đơn vị dự toán ngân sách, các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ phải công bố công khai. Theo Luật Kế toán 2003, đơn vị kế toán là cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước phải công khai quyết toán thu, chi ngân sách hàng năm và các khoản thu, chi tài chính khác (Điều 32). Điều 58, 59 Luật Kiểm toán năm 2005 quy định báo cáo kiểm toán năm và báo cáo thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước sau khi trình Quốc hội sẽ được công bố công khai theo các hình thức họp báo, công bố trên Công báo và phương tiện thông tin đại chúng…
Mặc dù đã có nhiều văn bản pháp luật quy định về việc công khai thông tin, tuy nhiên rất ít văn bản quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin khi công dân yêu cầu. Do không có một đạo luật riêng quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của tất cả các cơ quan công quyền nên, như kết quả khảo sát đã trình bày ở phần “Tình hình nghiên cứu” hầu hết các cơ quan, cán bộ, công chức chưa nhận thức được một cách sâu sắc rằng họ có nghĩa vụ cung cấp thông tin công do họ đang nắm giữ (trừ các thông tin mật) cho các cá nhân và tổ chức khi họ yêu cầu.
3.2.5. Nội dung, phạm vi các vấn đề, lĩnh vực cơ quan nhà nước có trách nhiệm công khai trong hoạt động, bảo đảm quyền được biết của công dân trong một số văn bản pháp luật
Các vấn đề, lĩnh vực thuộc phạm vi hoạt động của cơ quan công quyền phải công khai được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
Pháp lệnh Dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 tại Điều 5 liệt kê 11 lĩnh vực chính quyền địa phương phải công khai cho dân biết, bao gồm: kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, dự án, công trình đầu tư, nhiệm vụ, quyền hạn cán bộ công chức của cấp xã; việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, chủ trương kế hoạch cho Nhân dân vay vốn để phát triển sản xuất,…
Luật Kế toán năm 2003 quy định nội dung công khai báo cáo tài chính của đơn vị kế toán thuộc hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước và đơn vị sự nghiệp không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.
Luật Kiểm toán năm 2005 quy định: công khai báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán (Điều 58). Báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước sau khi trình Quốc hội được công bố công khai theo quy định của pháp luật. Điều 59 của Luật quy định: công khai báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán. Báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán sau khi phát hành được công bố công khai cùng với báo cáo tài chính theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và Luật Kế toán.
Trên lĩnh vực nhà ở, Nghị định số 90/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 13/9/2006 quy định chi tiết hướng dẫn Luật Nhà ở năm 2005 có quy định UBND cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức năng thuộc thẩm quyền công bố công khai danh mục các dự án phát triển nhà ở thương mại.
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định nội dung nguyên tắc công khai, minh bạch tại Điều 11: Chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật phải được công khai, minh bạch bảo đảm công bằng, dân chủ. Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của Chính phủ. Từ Điều 13 đến Điều 30 quy định 18 nội dung các lĩnh vực, cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ công quyền phải công khai như: trong lĩnh vực mua sắm công và xây dựng cơ bản; trong quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản; về tài chính và ngân sách nhà nước; trong việc huy động và quản lý sử dụng các khoản đóng góp của Nhân dân; trong việc quản lý sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ; trong quản lý doanh nghiệp nhà nước; trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; trong kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước; trong quản lý sử dụng đất…v.v. Điều 33 quy định công khai báo cáo hàng năm về kết quả công tác đấu tranh chống tham nhũng.
Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí năm 2005 tại Điều 6 quy định các lĩnh vực công khai bao gồm phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước; tài sản và kế hoạch mua sắm, sử dụng tài sản trong cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước;…
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 tại Điều 104 quy định công khai thông tin, dữ liệu về môi trường bao gồm: báo cáo đánh giá tác động môi trường, quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường và kế hoạch thực hiện các yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; cam kết bảo vệ môi trường đã đăng ký;…v.v.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004 tại Điều 8 có quy định: "Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được đăng Công báo cấp tỉnh. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo, văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước và các trường hợp quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều này".
Trước đó, Nghị định số 104/2004/NĐ-CP ngày 23/3/2004 của Chính phủ về Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng quy định các văn bản phải đăng trên Công báo ở Trung ương.
Quy định về công khai cũng được quy định tại Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008, Luật Đa dạng sinh học năm 2008, Luật Cư trú năm 2006, Luật Điện lực năm 2004, Luật Dược năm 2004, Luật Đất đai năm 2003, Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Xây dựng năm 2003, Luật Công nghệ thông tin, Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.
Nhằm tiếp tục bảo đảm tính công khai minh bạch trên lĩnh vực quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, ngày 13/9/2006, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số 92/2006/NĐ-CP về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, theo đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh có trách nhiệm công khai quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội cả nước, các vùng, các tỉnh, huyện, các ngành, lĩnh vực để mọi công dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận nghiên cứu và khai thác…
Trong các văn bản này và các văn bản hướng dẫn thi hành, có quy định về các hình thức công khai thông tin và cách thức cung cấp thông tin, quyền yêu cầu cung cấp thông tin và trách nhiệm, thời hạn cơ quan công quyền phải cung cấp trả lời, cũng như các hình thức xử lý vi phạm mặc dù có thể chưa cụ thể, rõ ràng.
Nhìn chung, pháp luật nước ta đã từng bước hoàn thiện theo hướng bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của bộ máy công quyền. Đáng chú ý là các văn bản pháp luật được ban hành sau việc quy định trách nhiệm công khai minh bạch và cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước có phần rõ hơn so với các văn bản ban hành trước. Tuy nhiên, nếu nhìn vào hiện trạng pháp luật và quá trình thực thi pháp luật trong thời gian vừa qua cho thấy quyền được tiếp cận thông tin của công dân Việt Nam vẫn còn hạn hẹp, nhiều bất cập khó thực hiện trên thực tế và có lúc, có nơi vẫn còn bị vi phạm nghiêm trọng.
Việc tiếp cận thông tin do các cơ quan công quyền còn rất khó khăn, vì thế tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan này chưa được thực hiện, cụ thể như trên lĩnh vực đất đai, đền bù giải toả, dự án ưu đãi, các khoản tín dụng, cứu trợ thiên tai,…Vì thế hiện tượng đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, quan liêu, hách dịch, lợi dụng các kẽ hở của pháp luật trong các cơ quan công quyền còn phổ biến, dẫn đến hiện tượng khiếu kiện đông người, kéo dài hay vượt cấp…
Việc thiếu các quy định cụ thể về thủ tục, trình tự yêu cầu, biện pháp xử lý vi phạm dẫn tới việc khai thác, tìm kiếm thông tin từ cơ quan công quyền vẫn thường hay bị gây phiền hà. Quyền được phổ biến thông tin, bày tỏ quan điểm, tiếp nhận thông tin một cách tự do gắn với quyền được thông tin còn thiếu cơ chế để thực hiện, các quy định hiện hành rất mờ nhạt. Hiện tượng bưng bít thông tin của các cơ quan công quyền, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh làm thiệt hại đến lợi ích của người dân khá phổ biến. Các phương tiện truyền thông còn bị hạn chế trong tiếp cận thông tin từ phía cơ quan công quyền, tổ chức và doanh nghiệp. Công tác phổ biến pháp luật còn yếu kém. Trình độ dân trí chưa cao, các hoạt động báo chí, truyền thanh, truyền hình, xuất bản còn nhiều hạn chế, vì thế người dân chưa nhận thức được đầy đủ quyền của mình, thậm chí có khi thờ ơ với thông tin từ phía Nhà nước. Ngoài ra, hiện cũng chưa có quy định cụ thể người phát ngôn của cơ quan công quyền phải tiếp nhận, trả lời các yêu cầu trực tiếp của công chúng.
Các văn bản về thông tin miễn trừ tiếp cận (quy định tại Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Bảo vệ môi trường, Quy chế người phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí ban hành kèm theo Quyết định số 77/2007/QĐ-TTg ngày 28/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ v.v. ) quy định còn chung chung, chưa rõ ràng, thiếu tính đồng bộ… cản trở cho việc tiếp cận thông tin của người dân hay gây khó khăn cho cơ quan, cán bộ cung cấp thông tin cho người dân cũng như làm công tác bảo mật.
Xuất phát từ thực tiễn tổ chức, lãnh đạo và quản lý nhà nước, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành TW Đảng (Khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã đề ra chủ trương nghiên cứu ban hành Luật Bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Đây là cơ sở để thực hiện tốt quyền tiếp cận thông tin của người dân, góp phần vào công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu trong bộ máy nhà nước và các cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước.
Chương IX
XÂY DỰNG LUẬT TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật Tiếp cận thông tin ở Việt Nam
4.1.1. Cơ sở lý luận xây dựng Luật Tiếp cận thông tin
Như trên đã trình bày, quyền được thông tin là một trong những quyền cơ bản của con người, gắn với quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và là cơ sở để bảo đảm mỗi cá nhân thực thi hay bảo vệ các quyền và lợi ích khác của bản thân. Quyền được thông tin hay tiếp cận thông tin là một nhu cầu chính đáng của Nhân dân, góp phần để Nhân dân nắm bắt được và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền, xã hội công dân, chống lại tham nhũng, lãng phí, quan liêu từ phía các cơ quan nhà nước, là một nguồn lực mọi công dân được bình đẳng khai thác phục vụ cho mưu cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân. Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 đều quy định rõ về quyền tiếp cận thông tin. Theo đó, quyền tiếp cận thông tin có bốn thành tố là: quyền tự do giữ quan điểm không bị sự can thiệp; quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến. Quyền tiếp cận thông tin còn được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế khác như Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003, Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển năm 1992...
Quyền tự do thông tin cũng được hầu hết các Nhà nước trên thế giới nhận thức là một quyền cơ bản, và trên cơ sở sự thúc đẩy thực hiện quyền này của các tổ chức và công dân, Hiến pháp và pháp luật nhiều quốc gia cũng đã có những quy định rộng rãi về tự do thông tin. Gần 90 quốc gia đã ban hành đạo luật riêng về tiếp cận thông tin hay tự do thông tin.
Đứng trước yêu cầu của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, bảo đảm thiết thực quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra không chỉ trên lý thuyết suông mà phải đi vào cuộc sống, trước những đòi hỏi của yêu cầu chống tham nhũng và tạo điều kiện kinh tế dân doanh phát triển, việc xây dựng đạo luật tiếp cận thông tin là hết sức cần thiết, là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Đạo luật này cũng là đòi hỏi của xã hội trên cơ sở trình độ dân trí đã nâng cao, nhu cầu tìm kiếm thông tin từ phía người dân, sự phát triển khoa học công nghệ và các phương tiện truyền tải thông tin, sự mở cửa của Việt Nam hội nhập ngày càng nhiều hơn vào sân chơi quốc tế trên mọi mặt kinh tế, văn hoá - xã hội.
4.1.2. Cơ sở thực tiễn xây dựng Luật Tiếp cận thông tin
Mặc dù Hiến pháp 1992 đã có quy định về quyền được thông tin của công dân, tuy nhiên hiện nay nhu cầu tiếp cận thông tin của người dân cũng như của một số cán bộ nhà nước cũng chưa được đáp ứng một cách đầy đủ vì thông tin không được cung cấp thường xuyên và có hệ thống. Việc tìm kiếm, tiếp cận thông tin còn gặp nhiều khó khăn và thiếu tính kịp thời vì việc người dân có được thông tin hay không còn phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của cơ quan nhà nước hoặc cán bộ công chức. Hơn thế nữa, mặc dù một số thông tin có trong các văn bản, tài liệu theo quy định pháp luật hiện hành là phải công khai, song các quy định về công khai các văn kiện, tài liệu này nằm rãi rác ở trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau gây khó khăn cho việc tìm kiếm của người dân, đồng thời gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước khi xác định trách nhiệm của mình trong việc xác định thông tin nào phải công khai, công khai dưới hình thức nào và khi nào.
Trong thực tiễn, liên quan đến khả năng tiếp cận thông tin cũng như công tác phòng, chống tham nhũng một vấn đề đang vướng mắc hiện nay là phạm vi thông tin được tiếp cận còn nhiều hạn chế. Các quy định về bí mật nhà nước nói chung và danh mục bí mật nhà nước nói riêng chưa thật cụ thể và có một số điểm chưa hợp lý. Do đó, tình trạng lạm dụng các quy định về bí mật nhà nước để không công khai những vấn đề thực sự không thuộc phạm vi bí mật nhà nước dẫn đến hạn chế quyền tiếp cận thông tin của công dân.
Theo chuyên gia pháp luật Phạm Anh Tuấn ngay cả đối với một số tài liệu không đóng dấu mật, không ghi rõ giới hạn về đối tượng được khai thác sử dụng, nhưng cũng không được công khai và người dân khó tiếp cận những tài liệu đó khi có nhu cầu. Luật Phòng, chống tham nhũng có quy định 18 lĩnh vực phải công khai thông tin, tuy nhiên quy định này cũng chỉ mới giải quyết một phần vướng mắc vì rất nhiều thông tin nằm ngoài 18 lĩnh vực nói trên cũng phải công bố công khai. Mặc dù, pháp luật hiện hành có quy định về nghĩa vụ công khai thông tin, tuy nhiên lại chưa quy định rõ những thông tin nào cơ quan nhà nước chủ động công bố để người dân tự tiếp cận, tìm hiểu, thông tin nào chỉ được cung cấp theo yêu cầu của người dân. Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản pháp luật có liên quan chưa có các quy định đầy đủ để tạo ra một cơ chế thực thi quyền tiếp cận thông tin có hiệu quả. Ví dụ, Nghị định của Chính phủ cụ thể hoá Luật Phòng, chống tham nhũng quy định cán bộ, công chức không cung cấp thông tin sẽ bị kỷ luật nhưng lại chưa quy định rõ chế tài đối với từng hành vi vi phạm cụ thể là gì[9], vì vậy trên thực tế khó có thể áp dụng được. Do các quy định của pháp luật còn nhiều bất cập nên tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan công quyền chưa được bảo đảm thực hiện. Việc thiếu các quy định ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan công quyền trong việc công khai thông tin đã dẫn đến tình trạng lợi dụng quyền lực tạo ra đặc quyền, đặc lợi của những người có điều kiện, vị trí công tác dễ dàng tiếp cận thông tin để trục lợi cá nhân, gây ra sự bất bình đẳng trong xã hội đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh, đầu tư. Việc thiếu minh bạch, công khai trong hoạt động quản lý nhà nước và thiếu cơ chế tiếp cận thông tin có hiệu quả đã làm hạn chế sự tham gia của các cá nhân và tổ chức vào hoạt động giám sát, phản biện nhằm hoàn thiện chính sách và các quy định của pháp luật nhà nước. Trong việc thực thi các dự án quy hoạch và cải tạo thành phố việc thiếu công khai minh bạch sẽ dễ dàng dẫn đến tình trạng tham nhũng. Đối với một số người dân, do không biết rõ những thông tin về quy hoạch, giải toả, đền bù… sẽ phải chịu những thiệt hại mà lẽ ra họ có thể tránh được. Nhận thức được thực trạng trên đây, Ban chấp hành trung ương Đảng khoá X đã ra Nghị quyết Trung ương 3 về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí", trong đó yêu cầu “Xem xét, sửa đổi các danh mục bí mật nhà nước nhằm mở rộng công khai” và “Nghiên cứu ban hành Luật bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân”. Chiến lược quốc gia phòng chống tham nhũng đến năm 2020 quy định: “Tổng rà soát, sửa đổi pháp luật về bí mật nhà nước theo hướng thu hẹp phạm vi bí mật nhà nước ở mức cần thiết”; “Xây dựng và thực hiện cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị”; “Xây dựng và ban hành Luật về tiếp cận thông tin; có chế tài đối với người vi phạm quyền được thông tin của công dân”.
Để thực hiện chủ trương phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hình thành một cơ chế thống nhất trong việc tổ chức thực hiện quyền được thông tin của người dân, bảo đảm về mặt pháp lý cơ chế thực hiện quyền tiếp cận thông tin, Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội đã đưa Luật Tiếp cận thông tin vào danh mục các Dự án được chuẩn bị để trình cơ quan lập pháp xem xét năm 2009.
Quy trình soạn thảo Luật Tiếp cận thông tin đang được tiến hành theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ban Soạn thảo Dự thảo Luật Tiếp cận thông tin đã được thành lập theo Quyết định ngày 22/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp là cơ quan được phân công chủ trì chuẩn bị xây dựng Luật. Tổ Biên tập đã được hình thành để giúp việc Ban Soạn thảo.
Ban Soạn thảo đã triển khai các nhiệm vụ nhằm khẩn trương xây dựng dự thảo, trong đó có hoạt động tổng kết việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực tiếp cận thông tin và liên quan; nghiên cứu các Điều ước quốc tế, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về cung cấp thông tin và tiếp cận thông tin, đánh giá tác động những nội dung chính của Dự án Luật. Dự thảo Luật đã được tổ chức lấy ý kiến bằng các hình thức đa dạng và đã được chỉnh lý trên cơ sở thu thập và tiếp thu các ý kiến tham gia. Nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo với các chuyên gia trong nước và nước ngoài đã được tổ chức. Nhiều cơ quan, tổ chức đã cho ý kiến góp ý vào Dự thảo Luật.
Dự thảo Luật, Dự thảo Tờ trình và Dự thảo Báo cáo đánh giá tác động của Dự thảo Luật đã được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.
Ngày 24/6/2009, Bộ Tư pháp đã gửi Dự án Luật đến các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức có liên quan để lấy ý kiến. Ngày 10/7/2009, Hội đồng thẩm định đã họp để thẩm định Dự án Luật. Ý kiến của Hội đồng thẩm định đã được Bộ Tư pháp nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý Dự án Luật.
Việc xây dựng Dự thảo Luật được tiến hành dựa trên các quan điểm chỉ đạo sau đây:
- Tiếp tục thể chế hoá các quan điểm, chủ trương trong các nghị quyết của Đảng về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của cá nhân, cơ quan, tổ chức; bảo đảm tính công khai, minh bạch trong việc tiếp cận thông tin;
- Bảo đảm sự phù hợp của Dự thảo Luật với Hiến pháp và tính thống nhất của Dự thảo Luật trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật;
- Bảo đảm tính kế thừa các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến minh bạch, công khai thông tin trong các lĩnh vực;
- Tăng cường tính minh bạch trong hoạt động và trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan hành chính nhà nước;
- Bảo đảm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam; phù hợp với điều kiện về cơ sở hạ tầng của Việt Nam, nguồn nhân lực, tổ chức bộ máy và các nguồn lực khác; bảo đảm tính khả thi của Luật;
- Bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam, bảo đảm tính tương thích và phù hợp với thông lệ, pháp luật quốc tế; phù hợp với các nguyên tắc về quyền tự do thông tin của Liên Hợp quốc.
4.2. Nội dung cơ bản của dự thảo Luật Tiếp cận thông tin của Việt Nam
Dự thảo Luật Tiếp cận thông tin sau nhiều lần chỉnh lý, đặc biệt là sau khi có ý kiến của các thành viên của Chính phủ, góp ý của các bộ, ngành và báo cáo về tình hình tiếp cận thông tin của các cơ quan trung ương và địa phương, dự thảo cuối cùng đã được rút gọn gồm 4 chương 29 điều.
Chương I. Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 7)
Chương này quy định mục đích ban hành Luật (Điều 1), phạm vi điều chỉnh của luật (Điều 2), giải thích từ ngữ (Điều 3), cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin (Điều 4), các nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin (Điều 5), các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 6), mối quan hệ giữa Luật Tiếp cận thông tin và các luật khác có liên quan (Điều 7).
Chương II. Công bố thông tin, cung cấp thông tin theo yêu cầu (Từ Điều 8 đến Điều 20). Chương này bao gồm 3 mục: Phương thức, trách nhiệm cung cấp thông tin (Mục 1); Chủ động công bố thông tin (Mục 2); Cung cấp thông tin theo yêu cầu (Mục 3).
Chương III. Các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin (Từ Điều 21 đến Điều 25).
Chương IV. Điều khoản thi hành (từ Điều 26 đến Điều 29).
Dự thảo Luật Tiếp cận thông tin xác định nội hàm của tiếp cận thông tin là đọc, xem, nghe, ghi chép, chụp, trích dẫn nội dung của hồ sơ tài liệu (khoản 3 Điều 3). Để thực hiện quyền này, Điều 8 Dự thảo Luật quy định hai phương thức cung cấp thông tin, đó là: chủ động cung cấp thông tin và cung cấp thông tin theo yêu cầu của công dân.
Điều 5 Dự thảo Luật quy định các nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, gồm: mọi công dân, tổ chức đều bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải công khai, minh bạch, kịp thời; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức tiếp cận thông tin và cán bộ, công chức cung cấp thông tin; việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân, tổ chức phải bảo đảm lợi ích cộng đồng, bảo vệ bí mật nhà nước, bí mật đời tư, bí mật kinh doanh; nhà nước tạo điều kiện cho công dân, tổ chức tiếp cận thông tin phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, kỹ thuật của đất nước; khuyến khích áp dụng công nghệ thông tin trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin.
Dự thảo Luật xác định rõ mối quan hệ giữa Luật Tiếp cận thông tin và các luật khác có liên quan, theo đó Luật này áp dụng chung cho việc tiếp cận thông tin; trong trường hợp luật khác có quy định khác rộng hơn về phạm vi thông tin được tiếp cận, thuận lợi hơn về trình tự, thủ tục tiếp cận thông tin thì áp dụng quy định của luật đó. Trong trường hợp luật khác quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin cho công dân, tổ chức nhưng không quy định trình tự, thủ tục thì áp dụng quy định của Luật này (Điều 7).
Mục 2 Chương II quy định về các thông tin được các cơ quan nhà nước chủ động công bố (Điều 10), hình thức công bố thông tin (Điều 11), quy định những thông tin công khai trên trang thông tin điện tử (Điều 12), thông tin công khai trên phương tiện thông tin đại chúng (Điều 13), quy định về đăng công báo và niêm yết (Điều 14).
Dự thảo Luật Tiếp cận thông tin quy định rõ các loại thông tin phải được cơ quan nhà nước chủ động công bố. Đó là các thông tin mà các văn bản quy phạm pháp luật quy định phải công bố công khai; thủ tục hành chính và quy trình giải quyết công việc thuộc thủ tục hành chính của cơ quan; các loại thông tin khác nếu thấy việc công bố là cần thiết nhằm bảo vệ an toàn tính mạng, sức khoẻ của con người, bảo vệ môi trường, lợi ích cộng đồng. Hình thức chủ động công bố thông tin theo dự luật có thể được thể hiện bằng các hình thức: đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơ quan; công bố trên phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo; niêm yết tại trụ sở cơ quan và các địa điểm khác; các hình thức khác thuận lợi cho công dân do cơ quan xác định và được ghi rõ trong danh mục thông tin.
Mục 3 Chương II quy định về thông tin được cung cấp theo yêu cầu (từ Điều 15 đến Điều 20). Mục này quy định những thông tin có thể cung cấp theo yêu cầu, trách nhiệm của người yêu cầu cung cấp thông tin (Điều 15), nội dung cần có của văn bản yêu cầu cung cấp thông tin (Điều 16), cách thức cung cấp thông tin theo yêu cầu (Điều 17).Theo quy định của dự thảo việc cung cấp thông tin theo yêu cầu có thể được thể hiện bằng các cách thức: cung cấp thông tin trực tiếp tại trụ sở cơ quan, cung cấp thông tin qua mạng điện tử, cung cấp bản sao chép, bản chụp hồ sơ, tài liệu. Mục 3 Chương II cũng quy định về thời hạn, trình tự, thủ tục cung cấp thông tin theo yêu cầu theo dự thảo chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu cơ quan có trách nhiệm xem xét quyết định cung cấp hoặc từ chối cung cấp thông tin. Trong trường hợp cần thiết thêm thời gian để xem xét, giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin thì có thể gia hạn tối đa là 15 ngày. Trong Mục 3 Chương II cũng quy định về chi phí cung cấp thông tin (Điều 19).
Mục 3 đồng thời cũng quy định về việc từ chối yêu cầu cung cấp thông tin (Điều 20). Theo dự thảo cơ quan được yêu cầu cung cấp thông tin có thể từ chối trong các trường hợp cơ quan không có thông tin theo yêu cầu; thông tin được yêu cầu cung cấp không thuộc loại thông tin được quy định trong Khoản 1 Điều 15 của Luật này; thông tin đã được cung cấp cho người yêu cầu 2 lần; văn bản yêu cầu cung cấp thông tin không nêu rõ lý do yêu cầu hoặc lý do yêu cầu cung cấp thông tin không phù hợp; yêu cầu cung cấp thông tin cho người khác; người yêu cầu cung cấp thông tin bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự; thông tin được yêu cầu với số lượng quá lớn, vượt quá khả năng đáp ứng của cơ quan, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan; thông tin mà việc cung cấp sẽ ảnh hưởng xấu đến chính sách tài chính tiền tệ, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quan hệ ngoại giao, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, gây nguy hiểm cho tính mạng, sức khoẻ hoặc sự an toàn của cá nhân hoặc cộng đồng; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan, tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ; các tài liệu đang trong quá trình soạn thảo mà chưa đến thời điểm pháp luật quy định phải công bố để lấy ý kiến.
Chương III. Các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin (từ Điều 21 đến Điều 25).
Chương này quy định về trách nhiệm của cơ quan cung cấp thông tin trong việc bảo đảm các nguồn lực và biện pháp cần thiết cho việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin (Điều 21). Bên cạnh đó, Chương này cũng quy định cụ thể cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện (Điều 24); xử lý vi phạm (Điều 25); giám sát việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin (Điều 23) và quản lý nhà nước về công tác bảo đảm quyền tiếp cận thông tin (Điều 22).
Chương IV. Điều khoản thi hành (từ Điều 26 đến Điều 29).
Chương này xác định trách nhiệm của Chính phủ quy định các biện pháp bảo đảm việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin và quy định chi tiết một số điều của Luật (Điều 28); xác định trách nhiệm của Chính phủ quy định cụ thể về việc cung cấp thông tin của tổ chức sự nghiệp dịch vụ công và doanh nghiệp nhà nước (Điều 27). Chương này cũng xác định thời điểm có hiệu lực của Luật (Điều 29).
4.3. Một số kiến nghị đối với dự thảo Luật Tiếp cận thông tin
So với các dự thảo đầu tiên, dự thảo cuối cùng (sau khi đã chỉnh sửa theo ý kiến của các thành viên Chính phủ và ý kiến của các bộ, ngành) có nhiều ưu điểm nổi trội. Đó là dự thảo lần này ngắn gọn hơn, chú ý nhiều hơn đến tính khả thi của dự luật. Các điều luật trong dự thảo quy định khá rõ ràng, rành mạch, lời văn trong dự thảo được viết giản dị, dễ hiểu. Dự luật không ôm đồm những vấn đề mặc dù rất cần thiết nhưng khó thực hiện được trong điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, theo nhóm nghiên cứu dự luật vẫn còn một số hạn chế cần phải khắc phục để bảo đảm khi ra đời Luật này có thể phát huy hiệu lực cao trong đời sống nhà nước và xã hội:
- Về cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin, dự thảo (Điều 4) quy định 14 loại cơ quan khá cụ thể[10], tuy nhiên phạm vi điều chỉnh của Luật áp dụng cho các cơ quan, tổ chức theo Điều 4 là khá hạn hẹp, trong khi ở nước ta số lượng các cơ quan nhà nước lớn hơn rất nhiều, hơn nữa các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp là những tổ chức cũng phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Vì thế, cần thiết phải quy định tất cả các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp có trách nhiệm cung cấp thông tin. Ngoài ra, cần quy định thêm các tổ chức tư nhân nếu nắm giữ các thông tin cần thiết cho việc thực hiện hoặc bảo vệ một quyền lợi của một chủ thể pháp luật nhất định cũng có nghĩa vụ cung cấp thông tin khi chủ thể đó yêu cầu.
- Việc công khai tài chính nhất là sử dụng ngân sách và các khoản do Nhân dân đóng góp cần quy định cụ thể, áp dụng thống nhất với mọi đối tượng sử dụng ngân sách nhà nước, với cả tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp; việc công khai và cung cấp thông tin khác do tổ chức đó tự quy định hoặc theo các văn bản pháp luật khác. Đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có sử dụng ngân sách nhà nước hay Nhà nước nắm cổ phần như nêu trên thì thực hiện theo quy định cụ thể của Chính phủ như đối với doanh nghiệp nhà nước và tổ chức sự nghiệp dịch vụ công. Theo nhóm nghiên cứu, phần quy định các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin không nên dùng phương pháp liệt kê vì không thể tránh khỏi sự bỏ sót và điều luật sẽ rất dài dòng. Phương pháp tốt nhất là quy định một cách khái quát hơn, ví dụ, Điều 6 Luật mẫu về tự do thông tin do nhóm Article 19 của Liên Hợp quốc xây dựng: “Cơ quan nhà nước bao gồm bất cứ cơ quan nào:
(a) Được thành lập bởi hoặc theo quy định của Hiến pháp;
(b) Được thành lập theo quy định của luật;
(c) Là bộ phận ở bất cứ cấp nào của Chính phủ;
(d) Được sở hữu, điều khiển hoặc tài trợ chủ yếu bởi ngân sách nhà nước;
(e) Thực hiện chức năng nhà nước do pháp luật quy định.
- Về mối quan hệ với các luật khác, nên có quy định các luật khác quy định hẹp hơn đối với tiếp cận thông tin hay trình tự, thủ tục tiếp cận không thuận lợi như Luật Tiếp cận thông tin mà ban hành trước Luật này thì phải áp dụng theo quy định Luật này và phải sửa đổi, bổ sung các luật đó. Mặc dù Điều 33 có quy định cụ thể phải rà soát loại bỏ những văn bản không phù hợp và quy định nếu có mâu thuẫn giữa các luật thì quy định của luật sau được áp dụng nhưng trên thực tế việc thực thi sẽ khó khăn nếu không có quy định rõ ràng.
- Về thông tin công khai rộng rãi cần quy định rộng hơn về công khai tài chính, sử dụng ngân sách, việc phê duyệt các dự án, việc đền bù trưng dụng thu hồi đất, phân phối tiền trợ cấp… và bắt buộc (chứ không chỉ khuyến khích) công khai trên trang thông tin điện tử về các nội dung từ điểm e đến điểm l khoản 1 Điều 9 như trong dự thảo luật; nên quy định cụ thể hơn về thời hạn phải công khai như buộc phải công khai trong vòng bao nhiêu ngày kể từ ngày tạo thông tin. Cần quy định cụ thể hơn thông tin công khai trên phương tiện thông tin đại chúng. Cần quy định thời hạn gia hạn trường hợp công khai rộng rãi thông tin vì lợi ích cộng đồng. Hình thức công khai cần quy định rõ công khai rộng rãi bảo đảm mọi cá nhân, tổ chức có thể tiếp cận được bằng các hình thức. Các thông tin buộc phải công khai trên trang thông tin điện tử không loại trừ công khai bằng các hình thức khác.
- Về thông tin được cung cấp theo yêu cầu, cần mở rộng quy định thông tin do cơ quan nhà nước nhận được để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, và liên quan đến chức năng, nhiệm vụ cơ quan, thuộc sở hữu của cơ quan chứ không chỉ thông tin do cơ quan nhà nước ban hành. Dự thảo trong điểm b khoản 2 Điều 4 có thể gây sự tùy tiện áp dụng. Quy định lại như vậy nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người yêu cầu.
- Quy định tại khoản 2 Điều 14 cần mở rộng với các đối tượng không có khả năng tiếp cận với các hình thức công khai rộng rãi.
- Cần quy định rõ người yêu cầu không cần phải nêu lý do, trừ một số trường hợp cụ thể theo quy định của pháp luật. Quy định như vậy nhằm tránh trường hợp cán bộ thông tin gây khó khăn cho người yêu cầu hay hạch sách họ. Cần quy định trong trường hợp người yêu cầu có khó khăn khách quan trong việc thể hiện yêu cầu bằng văn bản, cán bộ thông tin phải hướng dẫn họ.
- Thời hạn để cung cấp thông tin cần ngắn hơn quy định trong dự thảo tại điểm b khoản 2 Điều 22, hiện quy định 15 ngày từ ngày thông báo chấp nhận cung cấp thông tin trong trường hợp miễn phí hoặc kể từ ngày người yêu cầu thanh toán đủ chi phí là quá lâu, nên quy định tối đa 10 ngày.
Trường hợp yêu cầu với số lượng thông tin lớn thì cần quy định rõ là thời gian gia hạn thêm tối đa 15 ngày kể từ ngày thông báo chấp nhận cung cấp thông tin. Liên quan đến Điều 20, đối với thông tin được yêu cầu quá lớn không thể đáp ứng, cần quy định một cách cụ thể, nếu như cơ quan có thể đáp ứng cung cấp thông tin một phần theo yêu cầu thì phải cung cấp theo yêu cầu của người yêu cầu.
- Cần quy định cụ thể về nguyên tắc tính phí, như mức phí không thể cao hơn giá thị trường hay quá cao so với giá thị trường cho việc sao, chụp, in ấn; đối với việc cung cấp một số lượng nhỏ thông tin đơn giản nên có quy định miễn phí. Cần quy định cụ thể không tính phí cho công sức của cán bộ thông tin bỏ ra để đáp ứng yêu cầu của người yêu cầu. Các quy định miễn phí cần quy định một cách cụ thể, tránh trường hợp lợi dụng quy định chưa rõ để không phải nộp phí. Cần quy định cụ thể thời hạn đóng phí.
- Cần quy định cụ thể tạo điều kiện cho người yêu cầu có thể tiếp nhận thông tin tại cơ quan thuận lợi nhất cho họ, như gần địa chỉ của họ nhất, điều này là cần thiết, nhất là trong trường hợp có thể có nhiều cơ quan nắm thông tin mà trách nhiệm cung cấp thông tin đều thuộc về các cơ quan đó nhưng đùn đẩy trách nhiệm. Cũng quy định cụ thể trách nhiệm cán bộ thông tin tiếp người yêu cầu khi đến để thực hiện yêu cầu.
- Luật cần quy định vấn đề thông tin liên quan đến người thứ ba. Hiện trong dự thảo chưa quy định.
- Các quy định liên quan đến việc từ chối yêu cầu tại Điều 20 còn chung chung, chưa cụ thể. Phần lớn các nước đã ban hành luật này đều quy định cụ thể các trường hợp từ chối cung cấp thông tin. Nên có quy định phân tách thông tin trong một tài liệu, nếu một tài liệu có cả thông tin không thể cung cấp và thông tin phải cung cấp, thì phần thông tin phải cung cấp cơ quan có trách nhiệm cung cấp cho người yêu cầu.
- Việc từ chối yêu cầu cần quy định rõ trong văn bản từ chối là người yêu cầu có quyền khiếu nại, khiếu kiện đến cơ quan có thẩm quyền, ghi rõ cơ quan giải quyết; lý do từ chối cần viện dẫn quy định của pháp luật cụ thể; trong trường hợp cơ quan không có thông tin theo yêu cầu hoặc thông tin nhận được nhưng không có trách nhiệm phải cung cấp thông tin dựa theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 4 thì cần quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan tiếp nhận yêu cầu phải hướng dẫn người yêu cầu đến nơi mà có thể có thông tin mà người yêu cầu có thể tiếp cận hoặc chuyển yêu cầu đến cơ quan đó nếu có thể thực hiện được. Thông tin được cung cấp hai lần dưới hình thức trả lời bằng lời nói không nên đưa vào diện từ chối nếu có yêu cầu bằng văn bản hay hình thức khác, trừ khi yêu cầu lần thứ ba bằng lời nói. Trường hợp thông tin được công khai theo quy định tại Điều 9 mà không phải dưới hình thức công khai trên trang điện tử thì cơ quan nhận yêu cầu cũng phải hướng dẫn người yêu cầu để có thể tiếp cận thông tin, trường hợp người yêu cầu không thể tiếp cận được thì cũng phải cung cấp thông tin theo yêu cầu.
- Việc bố trí cán bộ, công chức làm đầu mối cung cấp thông tin là cần thiết, nhưng quy định rõ trách nhiệm của họ đặc biệt là nên bao gồm cả trách nhiệm liên quan việc quản lý hồ sơ tài liệu của cơ quan và liên quan việc quản lý thông tin được công bố rộng rãi.
- Luật hoặc nghị định hướng dẫn thi hành cần quy định cụ thể về thời hạn các cơ quan phải công bố thông tin rộng rãi, và trách nhiệm của các cơ quan không thực hiện đúng thời hạn theo quy định không có lý do hợp pháp, hợp lý.
- Quy định về khiếu nại, khiếu kiện còn quá sơ sài. Cần quy định thêm quyền khiếu nại đối với trường hợp không tiếp nhận yêu cầu. Nên mở rộng quy định người yêu cầu có quyền yêu cầu bồi thường nếu thông tin cung cấp không theo đúng quy định của pháp luật (có tính chất cố ý), hay yêu cầu của họ không được đáp ứng trái pháp luật, gây thiệt hại cho họ. Đồng thời, mở rộng quy định người thứ ba có liên quan có quyền khiếu nại, khiếu kiện.
Nên quy định hai cấp giải quyết khiếu nại là giải quyết khiếu nại trong nội bộ, và sau đó là khiếu nại lên cơ quan chuyên môn có trách nhiệm trong giám sát thực thi quyền tiếp cận thông tin (không trực thuộc bộ máy hành chính). Đồng thời, quy định về quyền khiếu kiện theo hướng người yêu cầu hay người thứ ba có quyền kiện ra cơ quan Tòa án kể cả trong trường hợp đã thực hiện quyền khiếu nại. Hiện nhiều quốc gia nhất là các quốc gia ban hành luật trong những năm gần đây đã xây dựng thiết chế giám sát thông tin độc lập (thậm chí cả cấp địa phương), bao gồm cả giải quyết khiếu nại, tại Việt Nam có thể nghiên cứu nâng cấp Ban Dân nguyện thuộc Quốc hội thành Uỷ ban Dân nguyện, một Uỷ ban của Quốc hội để thực thi giải quyết khiếu nại và giám sát. Cơ chế giải quyết khiếu kiện tại nhiều nước theo quy định pháp luật tố tụng hành chính, một số nước thiết lập cơ quan bán Tòa án giải quyết khiếu kiện gần giống cơ chế trọng tài thương mại. Việt Nam có thể nghiên cứu để áp dụng.
- Việc xử lý vi phạm quy định còn quá chung chung, chế tài không đủ mạnh. Nên quy định cụ thể cơ quan giám sát thông tin có quyền kiến nghị áp dụng chế tài xử lý đối với cán bộ, công chức nếu xét thấy sai phạm. Quy định rõ ràng xử lý vi phạm cơ quan không công khai thông tin cần công khai rộng rãi theo quy định của pháp luật. Quy định xử lý cả cơ quan tự ý nâng phí tiếp cận thông tin không theo quy định của luật.
- Cần quy định cụ thể cơ chế bảo vệ người tố cáo vi phạm, không nên quy định chung chung và không rõ ràng bao hàm cung cấp thông tin có tính tố cáo như trong dự thảo tại Điều 5.
- Cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác bảo đảm quyền tiếp cận thông tin nên giao cho Bộ Thông tin và Truyền thông. Tuy nhiên đây là cơ quan thuộc bộ máy hành pháp vì vậy cần quy định rõ trách nhiệm của cơ quan thuộc cơ quan lập pháp thực hiện chức năng giám sát, giải quyết khiếu nại. Tránh sự chồng chéo thẩm quyền cơ quan giám sát thuộc cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp.
- Cần quy định rõ việc Chính phủ ban hành quy định công khai thông tin của chính quyền cấp xã trên trang thông tin điện tử phù hợp quy định của luật, không quá 1 năm (ở đô thị) và 2 năm (các địa bàn khác) sau khi Luật có hiệu lực.
[1] Toby Mendel, Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin, Parliament and Access to Information: Working for Transparent Governance, Working Paper for World Bank Institute, 2005, trang 4
[2] Tony Mendel, Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin, Parliament and Access to Information: Working for Transparent Governance, Working Paper for World Bank Institute, 2005, trang 4
[3] Nguyên tắc về Luật tự do thông tin và quyền được thông tin (hay còn gọi là quyền được biết) của công chúng đã được Ủy ban nhân quyền của Liên hợp quốc thông qua tại Phiên họp thứ 56 (năm 2000), bao gồm 9 nguyên tắc cơ bản sau đây: 1. Mở thông tin tối đa (trên cơ sở luật và các nguyên tắc, quy định cụ thể); 2. Nghĩa vụ công bố (của các cơ quan công quyền); 3. Thúc đẩy Chính phủ mở (các cơ quan công quyền tích cực thực hiện cơ chế Chính phủ mở, xóa bỏ văn hóa bí mật trong quá trình điều hành đất nước); 4. Hạn chế phạm vi các quy định về miễn trừ cung cấp thông tin, hạn chế danh mục mật (danh mục mật cần được quy định rõ ràng, minh bạch và phải bị hạn chế; thông tin bị hạn chế, nếu có, chỉ với mục đích bảo vệ quyền lợi chung của cộng đồng); 5. Bảo đảm tính khả thi của quá trình tiếp cận thông tin (cơ chế cung cấp thông tin nhanh, kịp thời, đầy đủ, hiệu quả và có đánh giá giám sát độc lập); 6. Chi phí tiếp cận thông tin (về cơ bản, người dân không phải trả chi phí, hoặc không phải trả chi phí quá cao cho việc yêu cầu cung cấp thông tin); 7. Công khai các cuộc họp (cho công chúng biết về các cuộc họp của các cơ quan công quyền bằng nhiều hình thức phù hợp như cung cấp văn bản, nói chuyện trực tiếp, cung cấp thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng, phương tiện truyền thông, v.v…); 8. Sửa đổi, bổ sung các quy định để bảo đảm công khai thông tin (các luật, văn bản pháp luật không nhất quán với nguyên tắc về quyền tiếp cận thông tin cần được sửa đổi, bổ sung, chỉnh lý cho phù hợp với nguyên tắc này); 9. Bảo vệ người cung cấp thông tin.
[4] Luật số 571 ngày 19/12/1995. http://aabenhedskomite.dk/07love/forvaltningsloven_paa_engelsk.htm
[5] Luật về Xử lý dữ liệu cá nhân (Luật số 429 ngày 31/5/2000). http://www.datatilsynet.no/upload/Dokumenter/regelverk/lov_forskrift/lov-20000414-031-eng.pdf.
[6] Được ký kết vào ngày 30 tháng 11 năm 2001 ở Tokyo (Nhật Bản)
[7] Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, trang 30
[8] David Banisar – Báo cáo tự do thông tin thế giới năm 2006, nguồn: www.privacyinternational. org
[9] Phạm Anh Tuấn – Vai trò của tiếp cận thông tin đối với phòng, chống tham nhũng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề “Xây dựng Luật Tiếp cận thông tin” năm 2010,, tr. 14
[10] Theo quy định tại Điều 4 dự thảo luật: các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin bao gồm: Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Cơ quan được tổ chức theo ngành dọc trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp; Kiểm toán nhà nước; Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương phòng, chống tham nhũng; Văn phòng đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh,thành phố trực thuộc trung ương; Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, Văn phòng Ban chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng cấp tỉnh; Cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh; Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.