• Thuộc tính
Tên đề tài Giải pháp tăng cường trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045
Nội dung tóm tắt

CHƯƠNG 1.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP

  1. Khái niệm trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

Qua nghiên cứu khái niệm trách nhiệm giải trình và trách nhiệm giải trình tư pháp trong một số từ điển, công trình khoa học, kết hợp liên hệ đánh giá với các cơ sở của trách nhiệm giải trình tư pháp, có thể hiểu trách nhiệm giải trình tư pháp là việc các cơ quan tư pháp và chức danh tư pháp giải thích, làm rõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được người dân uỷ quyền và nhân danh quyền lực Nhà nước thông qua các cơ chế công khai, minh bạch mà không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện đến các nguyên tắc cốt lõi của hoạt động tư pháp.

II. Nội hàm của trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

1. Nội dung trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

Nội dung giải trình là những thông tin hoặc vấn đề cụ thể thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể có trách nhiệm giải trình phải cung cấp, trả lời với các chủ thể được giải trình, cụ thể bao gồm: (1) Giải trình về việc thực hiện chức năng tố tụng của các cơ quan tư pháp; (2) Giải trình về hành vi của Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác.

2. Chủ thể có quyền yêu cầu giải trình và các hình thức thực hiện trách nhiệm giải trình tư pháp

2.1. Chủ thể có quyền yêu cầu giải trình

Thứ nhất, các cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước theo Hiến pháp. Tuỳ từng mô hình phân chia quyền lực nhà nước, các cơ quan có quyền yêu cầu bao gồm: Quốc hội; Chính phủ; người đứng đầu quốc gia; Nhà vua…

Thứ hai, các cơ quan quản lý tư pháp; tuỳ thuộc vào mô hình quản lý tư pháp ở các quốc gia, có các chủ thể được giải trình khác nhau bao gồm hiệp hội nghề nghiệp, công chúng và xã hội, các tổ chức chính trị.

2.2. Các hình thức thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

Tuỳ thuộc vào các tiêu chí khác nhau, có thể có cách xác định hình thức giải trình khác nhau. Căn cứ vào biểu hiện ra bên ngoài của trách nhiệm giải trình tư pháp, có các hình thức thực hiện trách nhiệm giải trình tư pháp sau đây: (1) Hình thức tố tụng; (2) Hình thức báo cáo trước cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước; (3) Phiên điều trần trước Quốc hội/cơ quan lập pháp; (4) Trả lời chất vấn; (5) Hình thức báo cáo trước xã hội/minh bạch, công khai; (6) Chịu trách nhiệm pháp lý.

III. Những yếu tố tác động và yêu cầu đặt ra đối với trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

1. Cơ chế vận hành quyền lực nhà nước

Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước luôn chi phối tổ chức và hoạt động của các quốc gia. Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất thuộc về nhân dân, trong đó, quyên lực nhà nước được phân công, phối hợp và kiểm soát giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền tư pháp cũng như các quyền của cơ quan khác trong bộ máy nhà nước không được coi là một quyền lực độc lập, tách biệt với các quyền năng khác trong cơ cấu quyền lực nhà nước mà là một trong ba bộ phận quyền lực hợp thành quyền lực nhà nước. Nội dung quyền tư pháp nói chung cũng được hiểu trước hết là hoạt động xét xử của các Toà án[1]. Nguyên tắc phân công quyền lực nhà nước tạo ra các cơ sở Hiến định cho việc thực hiện trách nhiệm giải trình của tư pháp và đồng thời cũng là yếu tố tác động đối với trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp.

2. Đặc điểm của thể chế chính trị

Ở Việt Nam, nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với các cơ qua Nhà nước trong đó có cơ quan tư pháp là một yêu cầu mang tính quy luật và được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp. Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện quyền tư pháp tập trung ở lãnh đạo về chính trị - tư tưởng và lãnh đạo về tổ chức, cán bộ của các cơ quan tư pháp. Với đặc điểm về thể chế chính trị như vậy, quy định về trách nhiệm giải trình của cơ quan tư pháp, với tư các là cấp uỷ Đảng và của Đảng viên là các chức danh tư pháp đối với các cơ quan Đảng được quản lý. Đồng thời, cũng đặt ra các vấn đề cần xem xét trong việc thực hiện cơ chế giải trình trách nhiệm của các cơ quan tư pháp.

3. Thể chế chính sách

Hoạt động tư pháp là một trong những hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do đó cần được kiểm soát bởi xã hội và người dân. Việc xây dựng được hệ thống chính sách, pháp luật về trách nhiệm giải trình tư pháp là khâu then chốt và quan trọng để nâng cao hiệu quả thực thi trách nhiệm của cơ quan tư pháp, góp phần xây dựng hệ thống tư pháp hiệu quả, khách quan và minh bạch. Để làm rõ được nội dung giải trình, pháp luật cần phải tập trung nhưng vấn đề như: xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm, nhiệm vụ của chủ thể giải trình; thiết lập hệ thống đánh giá chất lượng vụ việc và cơ chế thẩm định tuân thủ các quy tắc tư pháp; làm rõ ranh giới giữa hoạt động tố tụng và quyền quản lý tư pháp, cụ thể là mối quan hệ giữa lãnh đạo cơ quan tư pháp với các chức danh tư pháp trong hoạt động tư pháp; xác định rõ trách nhiệm của người quản lý trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động tư pháp.

4. Chính sách về trách nhiệm của cơ quan tư pháp, chức danh tư pháp

Chính sách về việc chịu trách nhiệm của các cơ quan, chức danh tư pháp về những việc làm trái pháp luật khi thực hiện quyền tư pháp và chính sách được bồi thường của người bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người tiến hành hoạt động tư pháp là yếu tố quan trọng tác động đến việc thực hiện trách nhiệm giải trình tư pháp. Từ Hiến pháp và trong các đạo luật đều khẳng định và đề cao trách nhiệm của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng đã được thể chế hoá để có thể đưa vào vận hành trong quan hệ giữa người tiến hành tố tụng và người dân. Xét từ góc độ pháp quyền và dân chủ, ý nghĩa tích cực của chế định này là rất rõ ràng và phải được nhận thức, được quán triệt vào toàn bộ hoạt động tố tụng, bảo vệ pháp luật.

5. Các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp

Qua nghiên cứu, các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động tác động đến việc thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp chủ yếu bao gồm: (1) Nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; (2) Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai; (3) Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng; (4) Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử.

6. Các đặc điểm nghề nghiệp của các chức danh tư pháp

Độc lập tư pháp theo nghĩa đầy đủ của nó không chỉ có nghĩa là toàn bộ Tòa án phải được hưởng sự độc lập tập thể đối với các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội và cá nhân, mà còn bao gồm sự độc lập của các thẩm phán để đưa ra các phán quyết một cách tự do và công bằng theo pháp luật và cung cấp cho các thẩm phán sự bảo vệ công việc phù hợp để đảm bảo rằng họ không độc lập với danh tính đối với các mối đe dọa, áp lực và trách nhiệm giải trình không phù hợp. Tuy nhiên, cần phân biệt giữa có vấn đề về nhận thức và cố ý vi phạm pháp luật, giữa oan sai và vi phạm chuẩn mực đạo đức chung, giữa oan sai và có thiếu sót. Nếu quy trách nhiệm vô hạn hoặc tùy tiện chỉ dựa trên kết quả thì các chức danh tư pháp sẽ không dám hoặc không sẵn sàng phát huy sáng kiến ​​chủ quan của mình để thực hiện đúng nhiệm vụ của mình, thậm chí buộc các chức danh tư pháp mất đi tính độc lập của mình trong quá trình áp dụng pháp luật, làm ảnh hưởng đến sự ổn định và uy tín của toàn bộ ngành tư pháp.

7. Cơ chế giám sát của nhân dân

Bên cạnh nguyên tắc về tính chuyên trách của hệ thống các cơ quan tư pháp, nguyên tắc “đảm bảo sự tham gia hoạt động tổ tụng, thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ pháp luật của các tổ chức xã hội và công dân” phản ánh bản chất dân chủ của việc thực hiện quyền tư pháp. Cùng với nguyên tắc Toà án xét xử công khai, việc đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp nói chung, hoạt động của Toà án nói riêng, góp phần đảm bảo việc thực hiện quyền tư pháp biểu tượng của công lý ngày càng trở nên minh bạch, rõ ràng, kiểm soát được. Thông qua sự tham gia của nhân dân để hình thành cơ chế kiểm tra, giám sát xã hội đối với hệ thống tư pháp.

8. Tác động của truyền thông

Trong các nền dân chủ và pháp quyền, mối quan hệ giữa cơ quan tư pháp và người dân là yếu tố quan trọng trong việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý và duy trì niềm tin của người dân vào cơ quan tư pháp. Do đó, vai trò của các phương tiện truyền thông ngày trở nên quan trọng, từ chỗ là kênh thụ động tiếp nhận thông tin về hoạt động tư pháp, truyền thông trở thành công cụ tương truyền đạt thông tin tới công chúng về vai trò và hoạt động tư pháp. Để có được sự minh bạch và trách nhiệm giải trình, ngành tư pháp phải duy trì các cuộc đối thoại mở với báo chí, giải thích hoạt động của ngành.

 

 

CHƯƠNG 2.

KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP

I. Các tiêu chuẩn quốc tế về trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

1. Quan niệm về trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp theo một số văn kiện quốc tế

Qua nghiên cứu, theo tinh thần của các văn kiện pháp luật quốc tế, có thể hiểu trách nhiệm giải trình tư pháp là cơ sở xác lập các cơ chế kiểm soát quyền lực tư pháp trong Nhà nước và được hiểu là trách nhiệm của cơ quan tư pháp (Tòa án), của các thẩm phán phải chủ động hoặc theo yêu cầu thực hiện cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao (bao gồm cả thực hiện các hoạt động tư pháp cũng như các chức trách, nhiệm vụ khác trong công tác quản trị) và chịu trách nhiệm đối với kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ đó trước người dân, xã hội và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

2. Chủ thể và hình thức thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

2.1. Chủ thể thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

Hầu hết các văn kiện pháp lý đều đặt vấn đề về trách nhiệm giải trình tư pháp đối với chủ thể cá nhân là Thẩm phán và chủ thể tổ chức là Tòa án bởi lẽ quyền tư pháp được thực hiện bởi cơ quan là Tòa án và hoạt động xét xử được coi là hoạt động trung tâm của quyền tư pháp lại được thực hiện bởi Thẩm phán.

2.2. Các hình thức thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

Các hình thức thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp có thể được xem xét phân loại theo từng góc độ khác nhau để có thể nhận thức một cách sâu sắc và toàn diện nhất, cụ thể:

(1) Dưới góc độ phân loại theo cách thức chịu trách nhiệm đối với các hành vi sai phạm, có 05 hình thức thực hiện trách nhiệm giải trình tư pháp.

(2) Dưới góc độ phân loại theo nội dung trách nhiệm giải trình, có 04 hình thức thực hiện trách nhiệm giải trình tư pháp.

(3) Dưới góc độ chủ thể thực hiện, có 02 hình thức thực hiện trách nhiệm giải trình tư pháp là trách nhiệm giải trình cá nhân và trách nhiệm giải trình tổ chức:

3. Cơ chế thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

Các nguyên tắc Bangalore về hành xử tư pháp yêu cầu các quốc gia phải có các biện pháp hiệu quả để thực thi các nguyên tắc được đề ra, bao gồm bảo đảm thực thi trách nhiệm giải trình tư pháp. ICJ đã tổng hợp các cơ chế thực thi trách nhiệm giải trình tư pháp được áp dụng trên thế giới bao gồm: kháng cáo, kháng nghị; các ủy ban tư pháp; giám sát của nghị viện; các Tòa án lâm thời; các cơ quan phòng, chống tham nhũng; giám sát của xã hội dân sự; các cơ quan nhân quyền quốc gia; các hiệp hội nghề nghiệp; các cơ chế trách nhiệm quốc tế.

II. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

Trên cơ sở nghiên cứu các kinh nghiệm của một số quốc gia bao gồm Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức và Trung Quốc, Đề tài đã làm rõ được các tiêu chí đánh giá và các điều kiện đảm bảo trách nhiệm giải trình tư pháp trong mối liên hệ với bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam, đồng thời rút ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

CHƯƠNG 3.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TẠI VIỆT NAM

I. Chủ trương của Đảng về trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

Nghiên cứu các văn kiện của Đảng cho thấy, các yêu cầu về đảm bảo thống nhất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đã được đặt ra và là kim chỉ nam cho các hoạt đông của các cơ quan nhà nước. Việc thể hiện nguyên tắc này càng được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng, trong đó, nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Một trong những biểu hiện của Nhà nước pháp quyền chính là trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trước Nhân dân -chủ thể của quyền lực nhà nước.

Nghiên cứu các văn kiện Đảng có thể khái quát quan điểm về trách nhiệm giải trình của hoạt động của các cơ quan tư pháp trên một số khía cạnh như sau:

Thứ nhất, Đảng xác định rõ nguyên tắc cơ chế thực hiện quyển lực Nhà nước trên cơ sở nguyên tắc: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Thứ hai, Đảng ta xác định mục tiêu xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại; ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các tranh chấp trong xã hội, bảo vệ trật tự, kỷ cương, bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân; phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ ba, về đội ngũ cán bộ tư pháp, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đặt ra một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay gắn với đẩy mạnh việc học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện cuộc vận động nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó có độ ngũ cán bộ tư pháp, trên tinh thần “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” với phương châm “Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”.

Thứ tư, về phòng, chống tham nhũng, công tác phòng, chống tham nhũng nói chung, trong đó có công tác phòng, chống tiêu cực trong hoạt động tư pháp, luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm đặc biệt, thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.

Thứ năm, về giải quyết, khiếu nại tố cáo, Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo đã xác định phải phát huy và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan Nhà nước, đơn vị trong việc tô chức công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Thứ sáu, để tăng cường trách nhiệm giải trình, nâng cao trách nhiệm của cơ quan tư pháp và chức danh tư pháp, Đảng ta xác định cơ chế về bồi thường thiệt hại cho người bị oan, trong đó Đảng xác định Nhà nước đóng vai trò chủ động trong việc đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong tố tụng hình sự.

Thứ bảy, về quan hệ giữa tư pháp và truyền thông, sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí, truyền thông đã được xác định rõ, thống nhất và xuyên suốt trong nhiều quy định của Đảng.

Thứ tám, về mối quan hệ giữa lãnh đạo của Đảng và cơ quan tư pháp, trong thể chế chính trị nước ta, quyền tư pháp với tư cách là một bộ phận cấu thành quyền lực nhà nước nên lẽ đương nhiên phải chịu sự lãnh đạo của Đảng giống như các phạm vi quyền lực nhà nước khác.

Như vậy, có thể khẳng định quan điểm của Đảng liên quan đến công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp và các chức danh tư pháp được hình thành đầy đủ và được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng. Đây là những định hướng quan trọng để thể chế hoá trong các văn bản pháp luật và thực tiễn hoạt động của các cơ quan tư pháp.

II. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

1. Cơ sở pháp lý của trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

Thể chế hoá quan điểm của Đảng, trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 về nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nói chung và của bộ máy nhà nước nói riêng; về cơ chế quyền lực theo nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quền lập pháp, hành pháp và tư pháp; về trách nhiệm giải trình trước các cơ quan có thẩm quyền; về quyền làm chủ của nhân dân; về vai trò, chức năng của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong việc tham gia giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước; về quyền của người bị buộc tội được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Đây là các cơ sở Hiến định để các cơ quan nhà nước thực hiện trách nhiệm giải trình của mình; thực hiện các cơ chế công khai, minh bạch, cung cấp thông tin; giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân.

2. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp trước các chủ thể có quyền yêu cầu giải trình

2.1. Trách nhiệm giải trình của các cơ quan tư pháp trước các quan nhà nước khác

2.1.1. Trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp trước cơ quan lập pháp

Theo Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 thì Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất thực hiện quyền lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước… Quyền kiểm soát của Quốc hội - lập pháp đối với các cơ quan tư pháp ở Việt Nam thể hiện qua hai thẩm quyền chính:

Thứ nhất, về hoạt động bầu, phê chuẩn, miễn nhiệm, bãi nhiệm, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao.

Thứ hai, Quốc hội thực hiện hoạt động giám sát tối cao thông qua các hình thức: xem xét văn bản quy phạm pháp luật của TAND tối cao và VKSND tối cao; xem xét các báo cáo về công tác tư pháp; chất vấn người đứng đầu ngành Tòa án và Viện kiểm sát; giám sát vụ việc, các bản án đã xét xử thông qua hoạt động giám sát chuyên đề của Đoàn giám sát và hoạt động điều tra của Ủy ban lâm thời; giám sát bằng các hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội.

2.1.2. Trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp trước cơ quan hành pháp

Thực hiện cơ chế quyền lực Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013, Chính phủ, cơ quan thực hiện quyền hành pháp, có sự kiểm soát nhất định đối với cơ quan tư pháp trong việc thực hiện hoạt động tư pháp của các cơ quan này. Trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp trước Chính phủ thể hiện rõ nét nhất thông qua việc Chính phủ kiểm soát việc thu chi tài chính, ngân sách phục vụ cho hoạt động tư pháp. Vì nguồn ngân sách của ngành TAND, KSND chỉ dựa vào ngân sách nhà nước do Quốc hội phân bổ chứ không có các nguồn thu khác như một số cơ quan, bộ ngành hoặc các cơ quan chính quyền địa phương nên không loại trừ khả năng các ngành này thiếu hụt ngân sách do những khoản chi không lường trước hoặc không được lập kế hoạch tốt, vì vậy có thể sẽ lại phải đề nghị Chính phủ và/hoặc chính quyền địa phương bổ sung ngân sách. Chính phủ, do vậy, có quyền yêu cầu ngành TAND, KSND giải trình tổng thể về tổ chức và hoạt động của mình, xem đó là cơ sở để cung cấp kinh phí bổ sung, cơ sở vật chất và các điều kiện hoạt động cho ngành.

2.1.3. Trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp trước Chủ tịch nước

Theo Hiến pháp năm 2013, chế định Chủ tịch nước được quy định có sự giao thoa, phát triển so với các bản Hiến pháp trước đó, trước tiên xác định Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia; đồng thời thực hiện một phần quyền hành pháp, một phần quyền tư pháp, lập pháp (dù chưa thực sự rõ nét). Theo đó, trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp trước Chủ tịch nước được thể hiện rõ nét thông qua quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh đứng đầu của các cơ quan tư pháp.

2.2. Trách nhiệm giải trình trước xã hội

Thực hiện cơ chế kiểm soát quyết lực nói chung và đối với hoạt động tư pháp nói riêng, bên cạnh các thiết chế, cơ chế do cơ quan nhà nước thực hiện, pháp luật Việt Nam quan tâm đến các cơ kiểm soát của xã hội. Cơ chế giám sát xã hội được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Hiến pháp năm 2013, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, BLTTHS năm 2015, BLTTDS năm 2015… trong đó chủ yếu trên các cơ chế sau: (1) Công dân trực tiếp khiếu nại tố cáo đối với hoạt động tư pháp; (2) Thông qua các tổ chức chính trị - xã hội; (3) thông qua truyền thông. Trên cơ sở các văn bản pháp luật này, các cơ quan tư pháp có trách nhiệm giải trình đối với xã hội.

2.3. Trách nhiệm giải trình trước Đảng Cộng sản Việt Nam

Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp chủ yếu bằng các đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và thông qua công tác nhân sự của Đảng trong các cơ quan tư pháp. Vì Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình nên các cư quan tư pháp phải có trách nhiệm giải trình trước Đảng về sự tuân thủ nghiêm sự phân công của tổ chức Đảng, là sự chấp hành đường lối và chính sách của Đảng trong hoạt động tư pháp. Để duy trì quyền lãnh đạo của Đảng đối với các hoạt động tư pháp, ngoài việc Đảng thiết lập các tổ chức đảng để lãnh đạo hoạt động của các cơ quan tư pháp và các chức danh tư pháp, Đảng ta đã ban hành các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng có hiệu lực áp dụng đối với cả lĩnh vực hoạt động tư pháp.

3. Thực trạng pháp luật về nội dung trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

3.1. Trách nhiệm giải trình trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ

Để thực hiện chức năng tư pháp, pháp luật đã quy định điều chỉnh các hoạt động của cơ quan tư pháp và chức danh tư pháp phải tuân theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ. Trách nhiệm giải trình của các cơ quan tư pháp và các chức danh tư pháp về trong hoạt động tố tụng được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó việc thực hiện đầy đủ các trách nhiệm, quyền hạn; cơ cơ chế về công khai, minh bạch; bảo đảm tranh tụng, trách nhiệm giám sát theo cơ chế hai cấp xét xử…Với cơ chế đặc thù của hoạt động tư pháp, có thể nói trách nhiệm giải trình trong việc thực hiện pháp luật tố tụng chính là việc thực hiện đầy đủ các quy định pháp luật tố tụng, đặc biệt là các nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động tư pháp…

3.2. Trách nhiệm giải trình trong việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của các chức danh tư pháp

Nhận thức được tầm quan trọng của chức danh Thẩm phán và Kiểm sát viên, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương xây dựng và tăng cường thực thi pháp luật, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ công chức. TAND và VKSND cũng đã ban hành nhiều văn bản quy định về đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán và Kiểm sát viên bao gồm: (1) Trong ngành Tòa án, Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia đã ban hành Quyết định số 87/QĐ-HĐTC ngày 04/7/2018 kèm theo Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán; (2) Trong ngành Kiểm sát, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quyết định số 08/2020/QĐ-VKSTC ngày 16/01/2020 kèm theo Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động ngành Kiểm sát nhân dân; Quyết định số 21/QĐ-VKSTC ngày 07/02/2023 ban hành Quy tắc chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của người cán bộ Kiểm sát.

4. Thực trạng pháp luật về các cơ chế thực hiện trách nhiệm giải trình

  1. Cơ chế công khai, minh bạch

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 đã phản ánh yêu cầu công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử của TAND, Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai”. Trên cơ sở Luật Tổ chức TAND năm 2014 (Điều 11), Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và các đạo luật tố tụng hình sự cũng đã thể chế nguyên tắc Hiến định này.

4.2. Cơ chế báo cáo trước cơ quan giám sát

Theo Luật Tổ chức TAND năm 2014, Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Toà án, Viện kiểm sát phải chịu trách nhiệm giải trình trước Quốc hội, Chủ tịch nước theo định kỳ và kể cả đột xuất theo yêu cầu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Các đạo luật cũng quy định Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao có trách nhiệm thay mặt Toà án, Viện kiểm sát báo cáo công tác của Toà án, Viện kiểm sát; báo cáo công tác của Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và trước nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.

4.3. Cơ chế trả lời chất vấn trước Quốc hội

Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 đều ghi nhận các quy định về chất vấn và xem xét việc trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội.

4.4. Cơ chế cung cấp thông tin và trả lời khiếu nại, tố cáo

Về cung cấp thông tin, trong hoạt động tư pháp, với những đặc thù của hoạt động tư pháp, việc tiếp cận thông tin được chủ yếu thực hiện qua hoạt động công khai, minh bạch trong quá trình tố tụng, hoạt động trả lời chất vấn nêu trên; việc cung cấp thông tin hoạt động tư pháp được thực hiện qua việc công khai bản án và quy định quyền của các được sự trong các hoạt động tố tụng.

Về công khai bản án, Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP ngày 16/3/2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao quy định về việc thông báo, công khai bản án, quyết định giải quyết vụ việc thuộc diện được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án.

Về trả lời khiếu nại, tố cáo, theo quy định của pháp luật, việc trả lời đơn tố cáo được thực hiện bằng văn bản chậm nhất là 05 ngày kể từ ngày ban hành kết luận nội dung báo cáo. Đối với trả lời khiếu nại, cơ quan tiến hành tố tụng có thể gửi, công bố quyết định giải quyết khiếu nại theo quy định pháp luật.

4.5. Cơ chế chịu trách nhiệm pháp lý

Bên cạnh các chủ thể có thẩm quyền yêu cầu giải trình thông qua các hoạt động chất vấn, giải trình đã phân tích ở phần trước, trách nhiệm giải trình của Thẩm phán, Kiểm sát viên còn thể hiện thông qua việc các chủ thể có thẩm quyền xử lý kỷ luật/xử lý vi phạm các chức danh này trong trường hợp họ vi phạm pháp luật, chuẩn mực đạo đức, cụ thể gồm: bồi thường thiệt hại; chịu các hình thức kỷ luật trong trường hợp vi phạm; chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp thực hiện hành vi phạm tội.

III. Thực trạng thi hành trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

1. Thực trạng thi hành trách nhiệm giải trình của các cơ quan tư pháp trước các cơ quan nhà nước khác

1.1. Thực trạng thi hành trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp trước cơ quan lập pháp

* Về thực hiện báo cáo trước Quốc hội

 Trong thời gian qua, các cơ quan tư pháp đã thực hiện đầy đủ hoạt động giải trình trước Quốc hội một cách thường xuyên, nghiêm túc, trách nhiệm theo đúng quy định của pháp luật. Các báo cáo được thẩm tra kỹ lưỡng, định hướng được những vấn đề quan trọng làm cơ sở cho Quốc hội thảo luận. Việc xem xét báo cáo công tác của TAND và VKSND được thực hiện chủ yếu thông qua phiên thảo luận ở tổ đại biểu và ở hội trường tại các kỳ họp của Quốc hội. Nhìn chung, các báo cáo của TAND tối cao, VKSND tối cao đã phản ánh được các mặt sau đây:

- Đã phản ánh được tình hình thực hiện chức năng xét xử, kiểm soát của TAND, VKSND.

- Đã phản ánh được thực tiễn việc áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt động kiểm sát, xét xử.

- Đã phản ánh thực trạng tình hình đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan Toà án, Kiểm sát.

- Đã phản ánh một số hoạt động khác của TAND, VKSND các cấp.

- Đã nêu lên những định hướng lớn về hoạt động của các ngành Toà án, Kiểm sát.

* Về trả lời chất vấn của Quốc hội

Trong các kỳ họp quốc hội vừa qua, hầu như Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao cũng thực hiện trách nhiệm giải trình của mình. Khi trả lời chất vấn, kiến nghị của đại biểu Quốc hội tại các kỳ họp của Quốc hội, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao đều trả lời thẳng thắn, rõ ràng, không né tránh các vấn đề Đại biểu Quốc hội đã nêu và nhận được sự hài lòng của Quốc hội[2]. Đối với các văn bản chất vấn bằng của đại biểu Quốc hội, sau khi nhận được văn bản chất vấn, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao nghiên cứu, giải quyết để trả lời các đại biểu Quốc hội; đồng thời gửi văn bản trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội đến Văn phòng Quốc hội. Việc nghiên cứu, trả lời văn bản chất vấn của đại biểu Quốc hội được các cơ quan tư pháp thực hiện hiện khẩn trương với tinh thần nghiêm túc, trách nhiệm; nội dung trả lời cụ thể, đúng trọng tâm. Các cơ quan tư pháp đã nghiêm túc tiếp thu các chất vấn của đại biểu Quốc hội để nghiên cứu, xây dựng chương trình, kế hoạch công tác và lãnh đạo chỉ đạo đề ra các giải pháp khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong công tác, từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp các cấp mà trọng tâm là công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án theo đường lối của Đảng và pháp luật của nhà nước, cũng như mong muốn của cử tri, nhân dân cả nước[3].

Xét về số lượng, chất vấn của đại biểu Quốc hội (kể cả chất vấn viết và chất vấn bằng lời nói) đối với Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao tại các kỳ họp, tuy không nhiều nhưng đã phản ánh được những vấn đề bức xúc của xã hội, những tâm tư, nguyện vọng của cử tri ở nhiều cấp độ khác nhau về tình hình hoạt động của TAND, VKSND các cấp.

* Về giải trình trước các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội

Trong thời gian qua, thực hiện các yêu cầu giám sát, các cơ quan tư pháp đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm báo cáo và cung cấp thông tin theo yêu cầu của các Hội đồng và uỷ ban của Quốc hội. Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao cũng đã điều trần, giải trình trước Ủy ban Tư pháp (năm 2011) về các án cụ thể. Tóm lại, các báo cáo công tác hàng năm và trả lời chất vấn của các cơ quan tư pháp trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đều được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, đúng nội dung yêu cầu và bảo đảm thời hạn. Các báo cáo này đều được các đại biểu Quốc hội ghi nhận và đánh giá được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, chất lượng, cơ bản phản ánh đầy đủ, toàn diện kết quả các mặt công tác của TAND các cấp trong nhiệm kỳ và tán thành với các giải pháp kiến nghị được nêu trong các báo cáo của TAND tối cao.

1.2. Thực trạng thi hành trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp trước cơ quan hành pháp

Theo các báo cáo tổng kết công tác hàng năm của ngành TAND và KSND, dự toán kinh phí hoạt động của từng ngành hầu hết đều được Chính phủ đồng tình và ngay sau khi được giao dự toán năm, TAND tối cao, VKSND tối cao sẽ phân bổ ngân sách cho các đơn vị dự toán trực thuộc đảm bảo kịp thời, đúng định mức, công khai, minh bạch và công bằng giữa các đơn vị; đồng thời, hướng dẫn, đôn đốc, giám sát công tác quản lý, sử dụng ngân sách trong hệ thống TAND, VKSND. Các đơn vị dự toán cấp tỉnh cũng đã chủ động điều hành ngân sách để kịp thời đáp ứng nhu cầu thực tiễn của địa phương.

1.3. Thực trạng thi hành trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp trước Chủ tịch nước

Thực hiện trách nhiệm giải trình trước Chủ tịch nước, thời gian qua, các cơ quan tư pháp đã báo cáo về mọi mặt hoạt động tư pháp trước Chủ tịch nước trong thời gian giữa hai kỳ họp của Quốc hội. Trên cơ sở các báo cáo của các cơ quan tư pháp, thời gian qua, Chủ tịch nước đã chỉ đạo các cơ quan tư pháp đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính; nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, nhất là các vụ án kinh tế, tham nhũng lớn; không để oan sai, bỏ lọt tội phạm và thu hồi triệt để tài sản của Nhà nước bị thất thoát, tham nhũng; nâng cao chất lượng xét xử, đổi mới công tác hòa giải, đối thoại trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp vừa có đức, cỏ tài, bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật, là chỗ dựa tin cậy của nhân dân. Các cơ quan tư pháp cũng đã chuẩn bị hồ sơ và trình Chủ tịch nước trong công tác bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh tư pháp.

2. Thực trạng thi hành trách nhiệm giải trình trong tố tụng

2.1. Đánh giá chung

* Trong tố tụng hình sự:

Các cơ quan tư pháp đã có vai trò quan trọng trọng việc trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các quy định của BLTTHS đã tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, hạn chế oan, sai và bỏ lọt tội phạm, bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đặc biệt là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa, bảo đảm tính minh bạch, khách quan trong tố tụng hình sự. Các vụ án cơ bản được giải quyết đúng trình tự, thủ tục, thời hạn do BLTTHS quy định. Kết quả điều tra, xử lý tội phạm của các cơ quan tư pháp có chuyển biến tích cực.

* Trong tố tụng dân sự và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo:

Công tác giải quyết các vụ án, vụ việc dân sự; giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp có chuyển biến tích cực. Việc tiếp nhận, giải quyết đơn thư, kiểm sát việc giải quyết đơn thư về cơ bản bảo đảm chặt chẽ, đúng thời hạn, thẩm quyền; hạn chế tình trạng khiếu nại, tố cáo kéo dài, bức xúc, khiếu kiện vượt cấp[4]. Đẩy nhanh tiến độ, tăng tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.

2.2. Đánh giá một số nội dung cụ thể

Công tác thực hiện tăng cường tranh tụng, về công khai quy trình giải quyết vụ án, về nộp đơn điện tử, về phân công án và công khai bản án đạt được nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên, vẫn cần bổ sung các quy định rõ ràng, thống nhất về việc công khai thủ tục, hồ sơ, thông tin về bản án.

3. Thực trạng thi hành trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp trước xã hội, truyền thông, báo chí

3.1. Về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp

3.1.1. Trong ngành Tòa án nhân dân

* Về tình hình khiếu nại, tố cáo

Theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2022 của ngành TAND, số lượng đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc trách nhiệm giải quyết của các Tòa án mặc dù giảm, nhưng tính chất, mức độ vẫn có phần phức tạp.

* Về kết quả tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Tòa án

Công tác tiếp công dân; giải quyết khiếu nại, tố cáo được các Tòa án thực hiện nghiêm túc, theo đúng quy định và đã đạt những kết quả tích cực. Công tác giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm tiếp tục được TAND tối cao chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ.

3.1.2. Trong ngành Kiểm sát nhân dân

* Về tình hình khiếu nại, tố cáo

Theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2022 của ngành KSND, trong năm 2022, tình hình khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp tiếp tục có diễn biến phức tạp. Thực tiễn cho thấy hiện tượng công dân khiếu nại vượt cấp có chiều hướng gia tăng. Xuất hiện phổ biến hơn việc tố cáo về hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng ngay sau khi khiếu nại, tố cáo không được chấp nhận; nhiều vụ việc đã được xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật nhưng đương sự không chấp nhận và tiếp tục khiếu nại kéo dài.

* Về kết quả tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo

Ngành KSND quan tâm và thực hiện các biện pháp tăng cường chất lượng công tác tiếp công dân. Năm 2022, VKSND các cấp đã triển khai một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo. Công tác giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp đạt kết quả tích cực, tỷ lệ giải quyết đạt cao. Công tác giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đạt một số kết quả.

3.2. Về thi hành trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp trước Mặt trận Tổ quốc

Các cơ quan tư pháp đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm báo cáo giải trình đối với các đề nghị, kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc các cấp. Các cơ quan tư pháp thực hiện trách nhiệm thông báo chương trình hoạt động của Hội đồng tuyển chọn các chức danh tư pháp từng năm cho Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và chuẩn bị đầy đủ hồ sơ theo quy định của pháp luật. Chính vì vậy, việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia tuyển chọn Thẩm phán TAND, tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND và lựa chọn người để giới thiệu với Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm nhiều năm qua được thực hiện tốt.

3.3. Về thi hành trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp trước truyền thông, báo chí

Trong thời gian qua, với sự phát triển về nhân lực, các cơ quan báo chí và sự đa dạng các loại hình truyền thông đa phương tiện đã tạo nên mạng lưới thông tin rộng khắp, góp phần tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời, sinh động đến với mọi tầng lớp nhân dân. Báo chí, truyền thông đã từng bước đáp ứng vai trò là diễn đàn để các tổ chức và các tầng lớp nhân dân biểu đạt các tâm tư, đóng góp ý kiến của mình đến các cơ quan nhà nước nói chung, việc thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp nói riêng. Việc duy trì, nâng cao chất lượng các loại hình, tác phẩm báo chí trong đăng tải ý kiến của tổ chức, cá nhân về công khai, minh bạch góp phần thúc đẩy hoạt động công khai, minh bạch ngày càng được sâu rộng, đa chiều; phát huy vai trò tích cực của các cơ quan truyền thông, báo chí trong việc phát hiện, phản ánh chính xác, kịp thời những mặt tích cực và những yếu kém, thiếu sót, hạn chế của tổ chức, cá nhân trong thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình.

  1. Thực trạng thi hành trách nhiệm giải trình trong giải trình trước Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ của mình, các cơ quan tư pháp đã thực hiện nghiêm túc các chỉ thị của Bộ Chính trị có liên quan tới công tác của các cơ quan tư pháp. Trong công tác tổ chức cán bộ, Ban cán sự đảng tại các cơ quan tư pháp luôn phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ đảng địa phương trong công tác quy hoạch, bố trí sắp xếp cán bộ và xử lý cán bộ vi phạm kỷ luật, đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương và phù hợp với các điều kiện, tiêu chuẩn và quy định của ngành. Công tác xây dựng các tổ chức cơ sở đảng tại các cơ quan tư pháp luôn được quan tâm, chú trọng. Đảng ủy các cơ quan tư pháp đã chỉ đạo các tổ chức Đảng trực thuộc thông tin đầy đủ, kịp thời cho cán bộ, đảng viên về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cũng như các kế hoạch, biện pháp tổ chức thực hiện.

IV. Hạn chế trong thực hiện trách nhiệm giải trình và nguyên nhân

1. Hạn chế

1.1. Hạn chế trong thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ quan tư pháp trước các cơ quan nhà nước khác

1.1.1. Trong thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước

Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay đang còn có những hạn chế sau đây:

(1) Trong mối quan hệ kiểm soát giữa TAND tối cao với Quốc hội:

Việc giao cho Quốc hội quyền giám sát tối cao văn bản của TAND tối cao (trong đó các bản án và quyết định của Toà án) và có quyền bãi bỏ các văn bản đó nếu trái Hiến pháp và Luật do Quốc hội ban hành; đồng thời giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát văn bản của TAND tối cao và có quyền đình chỉ nếu văn bản đó trái Hiến pháp, Luật của Quốc hội và bãi bỏ nếu trái với văn bản của mình là chưa thực sự phù hợp. Quy định này đã khiến cho Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội trở thành những thiết chế hoạt động ở tầm vĩ mô và mang tính tài phán. Phương thức kiểm soát quyền lực này của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với việc thực hiện quyền tư pháp không phù hợp và trên thực tế không thực hiện được.

(2) Trong mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp với Chính phủ:

Sự kiểm soát của Chính phủ đối với cơ quan tư pháp theo quy định hiện hành chủ yếu là kiểm soát các hoạt động mang tính hành chính nhà nước. Tuy nhiên, cơ chế kiểm soát giữa Chình phủ và cơ quan tư pháp còn khá mờ nhạt và có thể nói là hiện đang còn trống.

(3) Trong mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp với Chủ tịch nước:

Xét trên phương diện cấu trúc quyền lực nhà nước, Chủ tịch nước cần được hiểu như một thiết chế nhà nước gắn với vai trò, trọng trách của một cá nhân là nguyên thủ quốc gia, có khả năng tác động tới hầu hết các mối quan hệ giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong đó có cơ quan tư pháp. Xét trong mối quan hệ giữa thiết chế Chủ tịch nước với với cơ quan thực hiện quyền tư pháp, pháp luật hiện hành còn chưa quy định thống nhất, chưa có cơ chế để Chủ tịch nước có thể theo dõi, giám sát thường xuyên, trực tiếp hoạt động của các nhân sự thuộc thẩm quyền của mình, thậm chí còn giảm đi so với Hiến pháp năm 1992.

(4) Trong mối quan hệ giữa TAND với VKSND:

Trong điều kiện thực hiện cải cách tư pháp hiện nay, nếu vẫn tiếp tục giữ nguyên vai trò, vị trí cũng như chức năng, nhiệm vụ của VKSND tại phiên tòa như hiện nay thì sẽ khó đáp ứng được yêu cầu thực hiện chủ trương “nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”.

1.1.2. Trong thực trạng thi hành trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp trước cơ quan lập pháp

Thứ nhất, hạn chế trong nội dung của báo cáo của các cơ quan tư pháp.

Thứ hai, hạn chế trong thực tiễn hoạt động chất vấn Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao trong những năm qua:

1.1.3. Trong thực trạng thi hành trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp trước Chủ tịch nước

Thứ nhất, quy định trong thời gian Quốc hội không họp, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao “báo cáo công tác trước Chủ tịch nước” nhưng chưa rõ đây là chế độ báo cáo thường xuyên định kỳ hay khi có yêu cầu;

Thứ hai, Hiến pháp chỉ quy định trách nhiệm của Chánh án TAND tối cao phải báo cáo công tác trước Chủ tịch nước, nhưng lại chưa có quy định về thẩm quyền của Chủ tịch nước khi xem xét các báo cáo này.

1.2. Hạn chế trong thực hiện trách nhiệm giải trình về chức năng, nhiệm vụ

1.2.1. Trong quá trình tố tụng

Những hạn chế cụ thể trong từng hoạt động tố tụng như sau:

Thứ nhất, trong công tác xét xử các vụ án hình sự, vẫn còn tình trạng vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn hoãn phiên tòa; vi phạm thời hạn gửi bản án, quyết định cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về tội danh, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cho hưởng án treo trong một số trường hợp còn chưa đúng. Việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung trong một số trường hợp còn thiếu căn cứ pháp luật, trong khi đó có trường hợp còn có mâu thuẫn trong các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nhưng Tòa án lại không trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung...

Thứ hai, trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, vẫn còn có tình trạng Kiểm sát viên chưa nắm chắc hồ sơ, không thực hiện đúng các thao tác nghiệp vụ của Quy chế kiểm sát xét xử nên không phát hiện được những vi phạm tố tụng trong điều tra truy tố xét xử. Việc đề xuất áp dụng các điều khoản của BLHS nhiều trường hợp thiếu chính xác. Việc đề xuất áp dụng quy định về tội danh, về mức hình phạt nhiều trường họp chưa phù hợp với hành vi phạm tội. Nhiều trường hợp Kiểm sát viên chưa chủ động, tích cực trong việc xét hỏi, chưa tranh luận đầy đủ với những người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên chưa phát hiện kịp thời các vi phạm, thiếu sót trong việc điều hành phiên tòa để đề nghị Hội đồng xét xử khắc phục.

Thứ ba, một số Viện kiểm sát chưa làm tốt công tác kiểm sát bản án quyết định của Tòa án nên chưa phát hiện được nhiều vi phạm để kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Chất lượng kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát còn nhiều trường hợp chưa đảm bảo, dẫn đển phải rút kháng nghị hoặc Tòa án xét xử không chấp nhận kháng nghị.

Thứ tư, trong công tác giải quyết các vụ việc dân sự, vẫn còn để xảy ra các vi phạm trong quá trình thụ lý đơn khởi kiện, nhiều trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án thiếu căn cứ pháp luật, vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử.

Thứ năm, trong công tác xét xử các vụ án hành chính, tiến độ giải quyết nhìn chung còn chậm; có trường hợp trả lại đơn khởi kiện không đúng, xác định sai đối tượng khởi kiện, giải quyết vụ án không đúng thẩm quyền, bỏ sót yêu cầu khởi kiện. Việc xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ trong một số vụ án không đầy đủ; đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật không đúng dẫn đến giải quyết vụ án không chính xác...

Thứ sáu, trong thực hiện nguyên tắc tranh tụng, thực tiễn cho thấy còn tồn tại một số hạn chế nhất định gây ảnh hưởng đến việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Thứ bảy, liên quan đến các phiên tòa dân sự, hành chính, bên cạnh những kết quả nêu trên, vẫn còn tình trạng thụ lý, giải quyết vụ án kéo dài, có những vụ mà tác giả là người bảo vệ quyền lợi kéo dài tới hơn 10 năm chưa giải quyết xong.

1.2.2. Trong mối quan hệ giữa các chủ thể khác trong quá trình tố tụng và Tòa án nhân dân

Thứ nhất, còn thiếu sự công khai, minh bạch trong mối quan hệ giữa TAND và VKSND.

Thứ hai, quyền tiếp cận thông tin của các bên đương sự trong thủ tục tố tụng dân sự và hành chính còn chưa được đảm bảo.

Thứ ba, việc công khai, minh bạch chứng cứ trong tố tụng dân sự chưa được thực hiện đúng quy định.

1.2.3. Trong đảm bảo tính công khai, minh bạch trong hoạt động hành chính - tư pháp

Thứ nhất, thiếu sự công khai trong quy trình giải quyết vụ án.

Thứ hai, cơ chế phân công án chưa thực sự phù hợp.

Thứ ba, việc tiếp nhận đơn điện tử chưa thực sự khả thi.

1.3. Hạn chế trong việc phân định trách nhiệm giữa các chức danh tố tụng

Còn tồn tại một số hạn chế trong việc phân định trách nhiệm giữa chức danh Chánh án và Phó Chánh án TAND; trong việc phân định trách nhiệm tố tụng của Kiểm sát viên với các lãnh đạo Viện Kiểm sát; trong việc phân định trách nhiệm của Hội thẩm trong phiên toà.

1.4. Hạn chế trong thực hiện trách nhiệm giải trình trước xã hội

1.4.1. Trong giải quyết khiếu nại, tố cáo:

* Đối với ngành Tòa án nhân dân:

- Chưa có quy định về trách nhiệm giải trình của Thẩm phán khi bản án, quyết định mà mình ban hành bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

- Pháp luật hiện hành quy định hình thức khiếu nại phải được thực hiện bằng đơn, có ký tên hoặc điểm chỉ.

* Đối với ngành Kiểm sát nhân dân:

- Quy chế, quy định nghiệp vụ của ngành KSND hiện hành về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chưa thực sự đầy đủ.

- Việc không quy định về gửi thông báo thụ lý, quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp cũng như giới hạn thời gian gửi thông báo, quyết định cho Viện kiểm sát ở một số trường hợp làm ảnh hưởng đến việc kiểm sát việc khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp, ảnh hưởng đến nhiệm vụ thông báo cho chính quyền địa phương và báo cáo cho Ủy ban Tư pháp thẩm tra, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội của ngành Kiểm sát.

- Pháp luật hiện hành chưa phân biệt rõ các vấn đề về trách nhiệm giải trình (yêu cầu giải trình, thẩm quyền thi hành trách nhiệm giải trình, những nội dung không thuộc phạm vi trách nhiệm giải trình…) với các nội dung liên quan đến trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung và trong hoạt động tư pháp nói riêng (quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo; thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo…), từ đó làm rõ sự khác nhau giữa yêu cầu giải trình với quyền khiếu nại, tố cáo; giữa trách nhiệm giải trình với trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo.

1.4.2. Trong việc kiểm soát quyền lực tư pháp thông qua hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Thực tiễn cho thấy hầu như Mặt trận chỉ thuần túy “tham gia” vào hoạt động nghe báo cáo của Tòa án và Viện kiểm sát, không chủ động trong việc phát hiện và giám sát vụ việc, cũng rất ít có những kiến nghị, đề nghị cụ thể về việc xem xét tính hợp lý, hợp pháp của bản án, quyết định của cơ quan tư pháp hoặc tính đúng đắn, phù hợp trong tư cách hành vi của cán bộ tư pháp.

1.4.3. Trong thực hiện trách nhiệm giải trình trước truyền thông

Thứ nhất, vẫn còn hiện tượng có cơ quan tư pháp do nhận thức chưa đầy đủ về trách nhiệm phối hợp với cơ quan báo chí, truyền thông nên vẫn còn tâm lý khép kín, lo ngại lộ lọt thông tin hoạt động của ngành nên việc cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí, truyền thông hay tạo điều kiện trong hoạt động tác nghiệp báo chí vẫn còn mang tính hình thức, đối phó;

Thứ hai, việc đăng tải các thông tin liên quan đến trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch trên hệ thống thông tin của cơ quan tư pháp, tố tụng chủ yếu tập trung vào các nội dung bắt buộc theo theo quy định của pháp luật, còn đối với các chủ trương, chính sách tư pháp liên quan đến ngành vẫn chưa có sự quan tâm đúng mức;

Thứ ba, còn tình trạng cơ quan, người có trách nhiệm trong các cơ quan tư pháp cố tình né tránh cơ quan báo chí, không chịu cung cấp thông tin cho báo chí, không thực hiện trách nhiệm người phát ngôn hoặc cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật;

Thứ tư, không ít cơ quan tư pháp lạm dụng các rào cản liên quan đến quy định nội dung không thuộc phạm vi giải trình (nhất là các thông tin thuộc diện bí mật nhà nước) để thoái thác hoặc hạn chế việc cung cấp thông tin, thực hiện trách nhiệm giải trình trước báo chí, truyền thông;

Thứ năm, về phía các đơn vị báo chí (cả báo viết, báo hình, báo mạng), nhất là đối với một số nhà báo có tình trạng, do nhận thức chính trị hạn chế hoặc bị tác động bới tiêu cực, lợi ích nhóm, phe cánh đã có biểu hiện khai thác, xử lý thông tin không chính thống, thông tin bị cắt xén, không toàn diện, thậm chí võ đoán, tự đoán định các tình huống và kết luận tư pháp một cách thiếu khách quan, có chủ ý dẫn đến sự hiểu lầm, phản ứng tiêu cực của dư luận (thực tế này đang khá phổ biến trên truyền thông mạng xã hội);

Thứ sáu, quyền tiếp cận thông tin của người dân ở một số khu vực thuộc vùng sâu, vùng xa, dân tộc ít người đang gặp không ít khó khăn. Rõ ràng, cùng với tính chưa hoàn thiện trong cơ chế thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trong hoạt động tố tụng, cộng với môi trường mà sự phát triển dân trí đang còn nhiều hạn chế, truyền thông kém phát triển thì rõ ràng đây chính sự cản trở để nhóm chủ thể nêu trên được tiếp cận với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung, các chính sách, trong đặc biệt các chính sách về tư pháp, hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp nói riêng.

1.5. Hạn chế trong kỷ luật các chức danh tư pháp

Trong việc bồi thường thiệt hại, vẫn còn tình trạng chậm trễ trong công tác tổ chức bồi thường; cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường chưa bảo đảm thời hạn theo quy định của pháp luật, đặc biệt ở giai đoạn xác minh, thương lượng giải quyết bồi thường. Còn một số vụ việc công dân khiếu nại kéo dài về việc VKSND đình chỉ để tránh việc bồi thường nhưng chưa được xem xét, giải quyết dứt điểm.

1.6. Hạn chế trong cơ chế lãnh đạo của Đảng

Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp còn những điểm bất cập, chưa thực sự phù hợp với tính chất hoạt động của cơ quan tư pháp.

2. Nguyên nhân

Thứ nhất, việc thể chế hoá nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc hiến định còn chậm.

Thứ hai, kiểm soát xã hội đối với hoạt động tư pháp thông qua đang thiếu một số quy định cụ thể để hiện thực hóa khả năng kiểm soát và hiệu quả kiểm soát.

Thứ ba, trên thực tế, hoạt động lãnh đạo của Đảng mang tính kiểm soát quyền tư pháp của Đảng chưa được pháp điển hóa.

Thứ tư, mô hình quản lý cơ quan tư pháp, cụ thể là đối với Toà án còn chưa phù hợp.

Thứ năm, pháp luật tố tụng còn chưa phù hợp nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch trong hoạt động tố tụng và xác định rõ trách nhiệm của cơ quan tư pháp.

Thứ sáu, việc thực hiện quỵền lập pháp, hành pháp và tư pháp theo quy định hiện hành cho thấy có sự chồng lấn giữa các quyền lực nhà nước này; chưa phân định một cách hợp lý thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính với thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án; chưa có cơ chế hữu hiệu để bảo vệ người chưa thành niên trong hoàn cảnh pháp lý đặc biệt…

Thứ bảy, pháp luật tố tụng hiện hành ở Việt Nam chưa phân định được rạch ròi, minh bạch chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

 

 

CHƯƠNG 4.

BỐI CẢNH, QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP

ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

I. Bối cảnh đặt ra cho việc tăng cường trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

1. Qua hơn 35 năm đổi mới và hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sau 15 năm thực hiện Chiến lược Cải cách tư pháp và các văn kiện của Đảng có liên quan[5], mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng định hình rõ nét và đã có những thành tựu nhất định. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực. Hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện một bước cơ bản; vai trò của pháp luật và việc thực thi pháp luật được chú trọng trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước và xã hội. Quyền con người, quyền công dân theo Hiến định tiếp tục được cụ thể hóa bằng pháp luật và thực hiện tốt hơn trên thực tế; dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện được tăng cường. Tuy nhiên, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đã đề ra mục tiêu đến năm 2030: “Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”.

2. Trong thời gian tới, số lượng các tranh chấp, vi phạm, tội phạm tiếp tục có xu hướng gia tăng; nhiều vụ án, vụ việc có quy mô lớn và tính chất rất phức tạp; xuất hiện nhiều tranh chấp, vi phạm, tội phạm phi truyền thống trong điều kiện phát triển kinh tế số, xã hội số; trong khi đó, biên chế của các cơ quan tư pháp phải giảm theo yêu cầu chung đã gây áp lực không nhỏ đối với hoạt động tư pháp. Cùng với quá trình dân chủ hoá, yêu cầu của người dân và xã hội đối với việc thực thi hoạt động tư pháp ngày càng cao, đòi hỏi mọi hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm phải được phát hiện, xử lý kịp thời, chính xác, nghiêm minh; không để xảy ra oan, sai trong quá ránh khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; phải bảo đảm thực hiện nghiêm các nguyên tắc trong lĩnh vực tư pháp, công bằng, bình đẳng, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân…

3. Thời gian qua, hoạt động tư pháp đã đạt được những kết quả tích cực, đạt được các chỉ tiêu tư pháp đặt ra, cải cách tư pháp đã đạt được một số kết quả. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, công tác tư pháp đang còn có những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được kỳ vọng của người dân và xã hội.

4. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác tư pháp trong những năm qua vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót cần rút kinh nghiệm và tìm ra các giải pháp khắc phục trong thời gian tới, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi của Thẩm phán chưa giảm mạnh; chất lượng xét xử còn chưa đáp ứng với yêu cầu đề ra; việc ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật trong một số lĩnh vực còn chậm; tình hình tiêu cực trong hoạt động tư pháp vẫn còn diễn biến phức tạp, xảy ra ở nhiều nơi; tình trạng cán bộ, công chức tư pháp vi phạm quy tắc nghề nghiệp vẫn còn xảy ra, đặc biệt có những trường hợp vi phạm pháp luật hình sự, nhận hối lộ làm ảnh hưởng đến uy tín của hoạt động tư pháp. Chính vì vậy, việc tăng cường trách nhiệm giải trình tư pháp sẽ góp phần tăng cường công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tư pháp nhằm xây dựng nền tư pháp hiệu quả, minh bạch.

5. Trong quá trình hội nhập quốc tế, Nhà nước ta đã ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, tín dụng quốc tế, sở hữu trí tuệ, thuế quan, bảo vệ môi trường… Trong lĩnh vực tư pháp, thời gian qua, đã ký kết nhiều Công ước quốc tế về tư pháp và Hiệp định tương trợ tư pháp, chủ động và tích cực tham gia các hội nghị, diễn đàn tư pháp quốc tế đa phương và song phương. Kết quả của hoạt động họp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp đã góp phần đắc lực trong việc đổi mới, tăng cường năng lực cho hệ thống tư pháp nhưng cũng đặt ra yêu cầu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động tư pháp theo hướng tăng tính công khai, minh bạch, giải quyết hiệu quả, nhanh chóng các tranh chấp, vi phạm, tội phạm và thi hành các bản án của Tòa án, phán quyết của Trọng tài nước ngoài theo đúng cam kết cam kết trong các điều ước quốc tể, góp phần tăng cường uy tín và hình ảnh của Việt Nam nói chung và tư pháp Việt Nam nói riêng trên trường quốc tế.

II. Quan điểm về tăng cường trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

Để đổi mới trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp cần quán triệt đầy đủ các quan điểm sau đây:

Thứ nhất, luôn tuân thủ nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. 

Thứ hai, tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, kiên định định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ ba, mục tiêu nâng cao trách nhiệm giải trình tư pháp là nhằm xây dựng hệ thống tư pháp xã hội chủ nghĩa công bằng, hiệu quả và hiệu lực của hoạt động tư pháp.

Thứ tư, tăng cường trách nhiệm giải trình phải phù hợp với đặc điểm của hoạt động tư pháp.

Thứ năm, trách nhiệm giải trình phải tương xứng với điều kiện bảo đảm.

III. Các giải pháp tăng cường trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1. Giải pháp lâu dài

Thứ nhất, cần tiếp tục xác định một cách đầy đủ và khoa học về cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở để xây dựng nội dung và cơ chế thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng. Đồng thời, góp phần phân định rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tư pháp.

Thứ hai, nghiên cứu xây dựng mô hình thanh tra Quốc hội là thiết chế độc lập được thành lập theo Hiến pháp để thực hiện xem xét các phán quyết Toà án. Trong đó, việc xem xét các phán quyết chỉ có ý nghĩa áp dụng các cơ chế bồi thường nhà nước và xử lý với hình thức phù hợp đối với việc ra bản án oan, sai.

Thứ ba, sửa đổi Luật Tổ chức Chính phủ trong đó giao Chính phủ thẩm quyền phê chuẩn cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn bộ máy giúp việc của TAND, VKSND và quy định chế độ chính sách đối với thư ký Tòa án, Thẩm tra viên, chế độ lương, phụ cấp… để đảm bảo Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất mà Hiến pháp đã xác định, tăng cường cơ chế kiểm soát của Chính phủ - hành pháp đối với các cơ quan tư pháp.

Thứ tư, cụ thể hoá những nhiệm vụ, quyền hạn của thiết chế Chủ tịch nước để vừa đề cao vị trí, gia tăng vai trò kiểm soát của thiết chế này với cơ quan thực hiện quyền tư pháp theo hướng quy định cụ thể trách nhiệm báo cáo công tác trước Chủ tịch nước của Chánh án TAND tối cao và mở rộng chủ thể phải báo cáo là các chức vụ, chức danh thuộc thầm quyền nhân sự của Chủ tịch nước; quy định thống nhất quyền đặc xá, ân giảm án tử hình trong các văn bản luật và cho thấy đây là đặc quyền của Chủ tịch nước nhằm xử lý các vấn đề chính trị; nghiên cứu bổ sung thêm một số biện pháp hình sự mang tính nhân đạo, khoan hồng của nhà nước cho Chủ tịch nước; xây dựng mô hình Hội đồng Tư pháp quốc gia do Chủ tich nước là Chủ tịch Hội đồng để vừa đảm bảo sự độc lập của Toà án và tăng cường các cơ chế kiểm soát thực hiện quyền tư pháp.

Thứ năm, tiếp tục nghiên cứu chủ trương chuyển VKSND thành Viện công tố; xem xét bỏ cơ chế kiểm sát của Viện kiểm sát đối với hoạt động xét xử của Toà án.

Thứ sáu, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp khoa học, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo hướng: các cơ quan tư pháp không phụ thuộc đơn vị hành chính; mô hình, quy mô, tổ chức bộ máy phải phù hợp với khối lượng công việc và đặc thù hoạt động của từng cấp tư pháp; kế thừa những thành tựu đã đạt được, khắc phục những hạn chế trong thực tiễn; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Tổ chức hệ thống Tòa án có 04 cấp, gồm: (1) TAND tối cao; (2) TAND cấp cao; (3) TAND cấp phúc thẩm; (4) TAND cấp sơ thẩm. TAND cấp sơ thẩm khu vực được tổ chức tại một số huyện trên địa bàn từng tỉnh tùy thuộc vào quy mô dân số, kinh tế - xã hội, khối lượng công việc và địa giới hành chính. Trên cơ sở đó, tổ chức hệ thống của Viện kiểm sát phù hợp với hệ thống của Toà án.

Thứ bảy, nghiên cứu thành lập Hội đồng Tư pháp Quốc gia có nhiệm vụ: (1) Xây dựng chiến lược, kế hoạch hoạt động của các cơ quan tư pháp; (2) Xây dựng chế độ chính sách; (3) Tuyển chọn, giám sát, khen thưởng, kỷ luật các chức danh tư pháp. Hội đồng Tư pháp Quốc gia do Chủ tịch nước làm Chủ tịch Hội đồng, Chánh án TAND tối cao và Viện trưởng VKSND tối cao là Phó Chủ tịch Hội đồng và các thành viên được giới thiệu từ cơ quan tư pháp, cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và các cơ quan, tổ chức khác.

2. Giải pháp trước mắt

2.1. Giải pháp về hoàn thiện trình tự, thủ tục tư pháp

Nhóm nghiên cứu cho rằng cần phân định hợp lý quyền, nghĩa vụ của các chủ thể cho phù hợp với các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự và đưa các chủ thể về đúng vị trí, vai trò tố tụng của mình, cụ thể:

* Giữa các cơ quan tư pháp:

- Đối với VKSND:

Thứ nhất, trong vụ án hình sự cần phân định rõ ràng vị trí, vai trò của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát việc xét xử.

Thứ hai, trong vụ án dân sự, hiện nay Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về giải quyết vụ việc dân sự sẽ làm mất đi bản chất cùa tranh chấp dân sự mà cụ thể là “việc dân sự cốt ở đôi bên”, cũng như nguyên tắc “quyền tự định đoạt của đương sự”, sẽ làm cho phán quyết của Tòa án bị hoài nghi, khiếu kiện xảy ra không có điểm dừng.

- Đối với TAND:

Thứ nhất, cần đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án để Toà án thực sự là hiện thân của công lý, của sự khách quan và công bằng. Toà án phải có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người.

Thứ hai, cần khẳng định rõ nguyên tắc Toà án chỉ thực hiện chức năng xét xử, không thực hiện những thẩm quyền thuộc chức năng buộc tội. Khi xét xử, Toà án tìm hiểu sự thật, nhận thức sự thật vụ án chủ yếu thông qua việc nghe các bên hỏi, tranh luận, đối đáp; dựa vào kết quả tranh tụng và căn cứ vào quy định của pháp luật để ra phán quyết. Nếu nhận thấy đủ chứng cứ xác định có tội phạm và người phạm tội thì áp dụng trách nhiệm hình sự đối với họ. Nếu không đủ chứng cứ thì tuyên bị cáo vô tội.

Thứ ba, cần loại bỏ những nhiệm vụ, thẩm quyền của Toà án không thuộc chức năng xét xử, ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử, ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động xét xử.

Thứ tư, cần tăng cường vai trò của Toà án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự theo hướng trong giai đoạn điều tra, truy tố, hoạt động tố tụng hoàn toàn thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Toà án không can thiệp vào bất cứ hoạt động nào được tiến hành trong các giai đoạn này. Tuy nhiên, kể từ khi hồ sơ vụ án cùng quyết định truy tố tội phạm được chuyển sang Toà án, Toà án có quyền tuyên bố tính vô hiệu của chứng cứ, không chấp nhận các kết quả tố tụng đã được thực hiện trong các giai đoạn này nếu phát hiện quá trình thực hiện vi phạm nghiêm trọng các thủ tục tố tụng, vi phạm các quyền con người được luật định.

Thứ năm, cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự là đồng thời thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp ở giai đoạn xét xử, góp phần để Tòa án ra bản án, quyết định đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi thực hiện chức năng công tố tại phiên tòa, Viện kiểm sát có trách nhiệm chứng minh sự thật vụ án, tranh luận dân chủ, đối đáp với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác để làm rõ sự thật vụ án. Nếu thấy đủ căn cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội thì luận tội bị cáo và đề nghị Tòa án áp dụng hình phạt. Nếu thấy không có căn cứ buộc tội bị cáo thì phải rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội.

* Giữa các cấp tố tụng:

Thứ nhất, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện nhiệm vụ của Tòa án theo cấp xét xử, cụ thể cần xác định thẩm quyền của Tòa án theo cấp xét xử[6], theo đó, phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm mà không theo cấp hành chính như hiện hành; cần bỏ thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao; xác lập điểm dừng trong xét xử, để bảo đảm bản án có hiệu lực pháp luật được thi hành, tránh thủ tục tố tụng kéo dài, vòng vo, không thể kết thúc dẫn đến nhiều hệ luỵ, gây ra nhũng nhiễu, tiêu cực, làm mất lòng tin của người dân và xã hội vào cơ quan tư pháp.

* Giữa các chức danh tư pháp:

Thứ nhất, cần phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính - tư pháp với trách nhiệm, quyền hạn tố tụng của người đứng đầu các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự; tăng quyền và trách nhiệm cho những người trực tiếp tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán) một cách hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi tố tụng và các quyết định tố tụng của mình.

Thứ hai, nghiên cứu đổi mới chức năng, nhiệm vụ của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử theo hướng: Hội thẩm chỉ tham gia xác định sự thật vụ án, không tham gia Vào việc áp dụng pháp luật nhàm khắc phục những hạn chế của pháp luật hiện hành về việc quy định Hội thẩm chiếm đa số trong thành phần Hội đồng xét xử nhưng không được đào tạo bài bản về pháp luật, trang bị kỹ năng, nghiệp vụ xét xử và không có thời gian nghiên cứu hồ sơ như Thâm phán, nên có thể dẫn đến việc đưa ra các phán quyết chưa phù họp với quy định của pháp luật. Trong khi đó, Thẩm phán là người phải chịu trách nhiệm chính trong suốt quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cũng như trong việc ra bản án, quyết định nhưng lại chiếm thiểu số trong Hội đồng xét xử.

2.2. Giải pháp về hoàn thiện cơ chế tố tụng để đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, khách quan, bảo vệ quyền con người

Thứ nhất, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số thủ tục nhằm bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự như: quy định hoạt động lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can phải được ghi âm chứ không chỉ bằng hình thức lập biên bản như hiện nay; bổ sung thủ tục giải quyết yêu cầu, đề nghị của những người tham gia tố tụng và xác định trách nhiệm của các cơ quan tiế nhành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong trường hợp vi phạm quyền của người tham gia tố tụng; quy định chặt chẽ các căn cứ, điều kiện, thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam nhằm hạn chế việc áp dụng biện pháp tạmgiam trong quá trình giải quyết vụ án, chấm dứt việc lạm dụng biện pháp tạm giam thay thế cho biện pháp điều tra. Xác định rõ 06 quyền của người bị buộc tội bao gồm: quyền được biết, được trình bày, được bào chữa, được đề nghị, được khiếu nại, tố cáo; cụ thể hóa hơn nữa các quyền của người bị buộc tội được biết, được trình bày, được bào chữa, được đề nghị, được khiếu nại, tố cáo; nghiên cứu bổ sung thêm cơ chế giám sát chống bức cung, nhục hình.

Thứ hai, nghiên cứu, hoàn thiện thủ tục, thời hạn, cách thức công khai chứng cứ, đặc biệt trong tố tụng dân sự và hành chính. Toà án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ. Cụ thể, cần thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền áp dụng biện pháp hạn chế squyền con người (bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh...). Theo đó, chỉ Thẩm phán mới có quyền áp dụng, phê chuẩn, hủy bỏ các biện pháp này. Điều này cũng phù hợp với thông lệ của nhiều nước trên thể giới và các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

Thứ ba, nghiên cứu quy định chi tiết, cụ thể về việc thực hiện các biện pháp điều tra đặc biệt (Chương XVI BLTTHS) để bảo quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sổng riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân.

Thứ tư, nghiên cứu, cụ thể hóa các hành vi bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, bảo đảm sự tôn trọng quyền tự quyết, tự thoả thuận của đương sự, người khởi kiện và Tòa án luôn đóng vai ữò thúc đẩy, tạo điều kiện cho họ tự bảo vệ.

Thứ năm, bổ sung các thủ tục để bảo đảm sự chế ước, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan tư pháp ở các giai đoạn tố tụng. Các kết quả tố tụng được thực hiện mà vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và người bào chữa của họ phải bị tuyên bố là không có giá trị chứng minh.

Thứ sáu, đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của đương sự trong tố tụng, đặc biệt là trong TTHC theo hướng mở rộng phạm vi thông tin mà các chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin trong tố tụng hành chính thay vì chỉ cung cấp “tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý” (Điều 10 Luật TTHC năm 2015), bằng việc chia sẻ, cung cấp các thông tin mà mình được biết phục vụ cho công tác xét xử. Đồng thời, nghiên cứu quy định chặt chẽ hơn về các hình thức xử lý vi phạm trong việc giao nộp, cung cấp các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án hành chính, đảm bảo tính nghiêm minh, tính răn đe của pháp luật.

Điều 92 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Tòa án có thể ra quyết định ủy thác để Tòa án khác hoặc cơ quan có thẩm quyền quyền”, tuy nhiên lại chưa quy định rõ các cơ quan nào được phép ủy quyền, tiêu chí để lựa chọn cơ quan nhận ủy quyền của Toà án. Điều này gây khó khăn cho việc lựa chọn cơ quan được ủy thác cũng như khó khăn cho cơ quan chịu sự ủy thác. Do đó, cần quy định rõ ràng cơ quan nào được ủy thác, nhiệm vụ cụ thể cũng như trách nhiệm của các cơ quan chịu ủy thác trong việc tiến hành điều tra, xác minh, thu thập thông tin phục vụ cho hoạt động xét xử vụ án hành chính.

Thứ bảy, nghiên cứu hoàn thiện các quy định về tổ chức đối thoại để đảm bảo các bên liên quan thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật. Quy định cụ thể về số lần tối đa đương sự được vắng mặt có lý do chính đáng và số lần các đương sự được quyền đề nghị hoãn phiên họp để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án. Điều 136 Luật TTHC năm 2015 quy định nếu không thể tiến hành đối thoại được Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành việc đối thoại. Tuy nhiên cần quy định trong thời gian bao lâu Tòa án phải mở lại phiên đối thoại tiếp theo và số lần tổ chức đối thoại tối đa là bao nhiêu.

2.3. Giải pháp về tăng cường thực chất nguyên tắc tranh tụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng

Đảng ta đã chủ trương đẩy mạnh tranh tụng và xem đây là giải pháp quan trọng, tạo những bước cải cách có tính đột phá trong hoạt động tư pháp hình sự. Nhóm nghiên cứu cho rằng cần thiết phải tiếp tục duy trì và phát huy những ưu điểm vốn có của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn, tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, cụ thể:

Thứ nhất, cần tiếp thu những “hạt nhân hợp lý” của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng bao gồm:

- Nghiên cứu hoàn thiện quy định về chứng cứ, cụ thể:

+ Quy định chặt chẽ mọi chứng cứ phải được làm rõ tại phiên tòa. Các
chủ thể liên quan đến cung cấp chứng cứ (Điều tra viên, Kiểm sát viên, giám
định viên, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự...) bắt buộc phải có mặt tại phiên tòa để giải trình về chứng cứ.

+ Quy định rõ về loại trừ chứng cứ, thủ tục loại trừ chứng cứ, phạm vi xác định chứng cứ không hơp pháp. Tòa án không xem xét các chứng cứ mới tại phiên tòa mới được giao nộp nểu không phải sự kiện bất khả kháng hoặc làm thay đổi bản chất của vụ án.

+ Hoàn thiện quy tắc chứng minh trong tố tụng, trách nhiệm chứng minh thuộc về đương sự, cơ quan công tố. Hạn chế việc Tòa án thực hiện thu thập tài liệu, chứng cứ.

+ Quy định chặt chẽ người làm chứng, người giám định tham gia phiên tòa. Trong tố tụng dân sự, quy định rõ hậu quả pháp lý sau khi tổ chức phiên họp kiêm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán, đương sự khi tiến hành phiên họp. Trước mắt, cần thu hẹp những trường hợp mà Tòa án phải thu thập chứng cứ trong trường hợp cần thiết. Về lâu dài, cần bỏ quy định về Tòa án thu thập chứng cứ trong trường hợp cần thiết; tiếp tục triển khai nghiên cứu định hướng về phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Tòa án để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nghiên cứu nâng cao trách nhiệm của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu, hậu quả pháp lý của việc không chứng minh được yêu cầu của mình (chịu chi phí Luật sư của bên thắng kiện và các chi phí tố tụng phát sinh).

Thứ hai, nghiên cứu phân định rành mạch các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự bao gồm: buộc tội, bào chữa và xét xử. Loại bỏ các thẩm quyền không phù hợp với chức năng tố tụng của các chủ thể, đưa các chủ thể về đúng vị trí, vai trò tố tụng của mình. Chủ thể của chức năng xét xử là Tòa án, cơ quan tư pháp, độc lập với bên buộc tội và bên bào chữa.

Thứ ba, ghi nhận về mặt pháp lý và bảo đảm trên thực tế nguyên tắc các hoạt động tố tụng chứng minh về vụ án trong các giai đoạn trước khi xét xử không thể loại trừ quá trình chứng minh chính thức tại phiên toà; chỉ có những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra, xác minh tại phiên toà và kết quả tranh tụng tại phiên toà mới là căn cứ quan trọng để phán quyết bản án.

Thứ tư, cải tiến các thủ tục tố tụng tại phiên toà để bảo đảm tranh tụng dân chủ, bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Xác định rõ, chứng minh tội phạm là nghĩa vụ của bên buộc tội (Viện kiểm sát, Kiểm sát viên). Bên bào chữa được tạo cơ hội bình đẳng như Viện kiểm sát trong việc thực hiện chức năng bào chữa, chứng minh bị can, bị cáo không phạm tội hoặc giảm tội, giảm mức hình phạt. Các yêu cầu của bên buộc tội và bên bào chữa phải được Toà án quan tâm, đáp ứng như nhau.

Thứ năm, nghiên cứu đổi mới vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tố tụng và trình tự xét xử tại phiên toà theo hướng, trách nhiệm xét hỏi chính thuộc về Kiểm sát viên và người bào chữa. Kiểm sát viên hỏi về các tình tiết chứng minh việc buộc tội. Người bào chữa hỏi về các tình tiết gỡ tội. Hội đồng xét xử chỉ hỏi khi cần thiết để kiểm tra chứng cứ buộc tội, gỡ tội nhằm nhận thức đúng sự thật, hỏi về những vấn đề chưa rõ hoặc có mâu thuẫn. Quy định này sẽ xóa bỏ được tình trạng Hội đồng xét xử vẫn là chủ thể xét hỏi chính mặc dù Điều 307 của BLTTHS năm 2015 đã quy định “Chủ tọa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, người hỏi sau” buộc Kiểm sát viên có trách nhiệm hơn đối với việc buộc tội qua sự chủ động và tích cực xét hỏi để chứng minh, bảo vệ cáo trạng của mình. Thủ tục trình bày, hỏi, tranh tụng linh hoạt theo sự điều hành của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và tính chất của từng vụ án.

2.4. Giải pháp đảm bảo cơ chế xét xử công khai, minh bạch

Thứ nhất, đổi mới tổ chức bộ phận hành chính các cơ quan tư pháp; thực hiện Quy chế một cửa liên thông và đon giản hóa việc tiêp nhận, hướng dẫn giải quyết các yêu cầu của cơ quan, tổ chức, công dân trước và sau các phiên tòa xét xử bao gồm việc tiếp nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn kháng cáo, đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và các tài liệu kèm theo (nếu có) của đương sự; đơn khiếu nại, tố cáo của công dân có liên quan đến hoạt động giải quyết, xét xử các loại vụ án; cấp giấy chứng nhận người bào chữa; cấp bản án, quyết định và các bản trích lục, trích sao bản án, quyết định của Tòa án. Nghiên cứu thực hiện quy trình phân công công việc một cách hợp lý, đảm bảo tính khách quan trong quá trình giải quyết các vụ án.

Thứ hai, trên nền tảng số, các cơ quan tư pháp cần thực hiện tốt 07 nội dung công khai sau:

(1) Công khai hệ thống pháp luật, các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, các án lệ, các văn bản hướng dẫn, các giải đáp pháp luật, qua đó, giúp người dân, các giảng viên, sinh viên luật, các nhà nghiên cứu… nhanh chóng và thuận lợi tra cứu, tìm kiếm văn bản.

(2) Công khai việc phân công cán bộ thụ lý án, qua đó, vừa tạo cơ chế
giám sát bên trong việc phân công án trong nội bộ hệ thống cơ quan tư pháp; vừa giúp các đương sự và những người tham gia tố tụng thực hiện giám sát từ bên ngoài, đồng thời thuận tiện khi thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ (như đề nghị, kiến nghị, cung cấp bổ sung chứng cứ…).

(3) Công khai tiến độ thụ lý và giải quyết án, qua đó, tạo điều kiện để
người dân và lãnh đạo tư pháp giám sát, buộc mỗi chức danh tư pháp phải nỗ lực để hoàn thành việc giải quyết án đúng thời hạn luật định.

(4) Công khai quá trình xét xử tại phiên tòa (trừ những trường hợp pháp
luật quy định cấm công khai), qua đó để người dân theo dõi và góp phần phổ
biến, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật.

(5) Công khai kết quả xét xử, cụ thể là công khai các bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật đê người dân giám sát, tham khảo. Việc công khai bản án, quyết định của Tòa án sẽ đề cao trách nhiệm của mỗi Thẩm phán và từ đó phải nâng cao chất lượng xét xử và chất lượng xây dựng bản án.

(6) Công khai quá trình và kết quả thi hành án. Qua đó, tạo điều kiện để
người dân và xã hội giám sát quá trình thi hành án, bảo đảm công lý phải được
thực thi đến cùng.

(7) Công khai quá trình và kết quả xét miễn, giảm án. Theo đó, toàn bộ quá
trình và kết quả xét miễn, giảm án, tạm đình chỉ thi hành án, hoãn thi hành án,
tha tù trước thời hạn có điều kiện đều được công khai trên nền tảng số để người
dân giám sát.

(8) Tăng cường trao đổi, cung cấp thông tin, văn bản, báo cáo, tổ chưc hội
nghị, hội thảo băng phựơng thức trực tuyên; hệ thống cơ sở dữ liệu các hoạt động của Tòa án liên thông với Cổng thông tin điện tử quốc gia để người dân hiểu về hoạt động tư pháp.  

2.5. Giải pháp tăng cường trách nhiệm giải trình của các các chức danh tư pháp

Thứ nhất, nghiên cứu hoàn thiện các quy định về trách nhiệm tổ chức hoạt động công tố, xét xử của Viện trưởng VKSND, các Chánh án, Chánh tòa và các chức danh quản lý khác. Đồng thời, cần hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền uy tư pháp. Đối với các vụ án bị hủy, sửa đang trong quá trình tố tụng xem xét lại thi không thanh tra, kiểm tra, không báo cáo trước cơ quan dân cử, không xử lý trách nhiệm chức danh tư pháp nếu đã tuân thủ đầy đủ quy trình tố tụng hoặc không vi phạm do lỗi chủ quan.

Thứ hai, nghiên cứu hoàn thiện cơ chế giám sát liêm chính tư pháp theo hướng: (1) Cải tiến, tăng cường kiểm tra, giám sát; (2) Xây dựng chế độ xử lý trách nhiệm đối với sai phạm; (3) Ban hành quy định về quan hệ của các chức danh tư pháp đối với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, đặc biệt là Luật sư; (4) Nghiên cứu, xây dựng hệ thống đảnh giá chất lượng quyết định tố tụng, bản án, của Tòa án.

Thứ ba, nghiên cứu thành lập Hội đồng kỷ luật các chức danh tư pháp ở các cơ quan tư pháp. Nghiên cứu, xây dựng các quy định liên quan đến công tác xử lý kỷ luật chức danh tư pháp theo hướng: hoàn thiện cơ chế liên kết công tác với các cơ quan kiểm tra, giám sát kỷ luật, hoàn thiện cơ chế làm việc bảo vệ quyền phát biểu, cung cấp chứng cứ, bào chữa, phản bác, xem xét, kháng nghị của Thẩm phán.

Thứ tư, nghiên cứu hoàn thiện hơn nữa cơ chế bảo vệ việc thực thi nhiệm vụ theo luật định của các chức danh tư pháp, nghiên cứu và cải tiến hệ thống bảo hiểm tai nạn cá nhân cho các chức danh tư pháp.

Thứ năm, nghiên cứu kiện toàn quy định và cơ chế bảo vệ chức danh tư pháp đã thực thi tố tụng đúng quy định pháp luật thì không bị xử lý. Quy định rõ tiêu chuẩn phân định và miễn trừ trách nhiệm đối với sai sót của các chủ thể có chức danh tư pháp, bảo đảm chức danh tư pháp làm theo chức năng luật định sẽ không bị truy cứu, được miễn trừ trách nhiệm trong một số trường hợp cụ thể[7].

2.6. Giải pháp tăng cường hiệu quả công tác truyền thông, báo chí với trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp

* Giải pháp về thể chế

Thứ nhất, bảo đảm việc rà soát, đánh giá, kiện toàn thể chế truyền thông, báo chí với trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp phải gắn liền với các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhất là phải bám sát quy định của Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, đó là: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và sự giám sát của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định pháp luật về báo chí, truyền thông, trong đó chú trọng bổ sung, sửa đổi các quy định pháp luật nhằm tạo điều kiện thực chất hơn nữa để các cơ quan báo chí, nhà báo thuận lợi trong việc tiếp cận thông tin từ phía các cơ quan tư pháp đáp ứng yếu cầu thông tin nói chung, trong lĩnh vực thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp nói riêng.

Thứ ba, cùng với việc tiếp tục hoàn thiện các luật về tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi Luật Báo chí năm 2016, các luật về tiếp cận thông tin và an toàn thông tin mạng để bảo đảm sự đồng bộ, tương thích trong việc bảo đảm các quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí đã được Hiến pháp quy định.

Thứ tư, hoàn thiện các quy định pháp luật về tiếp cận thông tin, bảo vệ bí mật Nhà nước nhằm bảo đảm cơ chế thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của các nhà báo và cơ quan báo chí, truyền thông. Theo đó, cần rà soát các quy định hiện hành về bí mật nhà nước trên nguyên tắc xác định phạm vi bí mật nhà nước phải vừa bảo vệ được các thông tin bí mật quan trọng của Đảng, Nhà nước, vừa thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân. Trên cơ sở đó, nhằm hạn chế hiện tượng cơ quan nhà nước lạm dụng kẽ hở để đóng dấu mật, cản trở việc thực hiện cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí.

Thứ năm, cần quy định rõ về hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động báo chí, truyền thông nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất và cụ thể về thẩm quyền, phần tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực thông tin, báo chí về trách nhiệm giải trình trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tư pháp. Ở đây, cần chú ý kiện toàn cơ chế phối hợp trong công tác chỉ đạo, phối hợp trong lãnh đạo, quản lý điều hành hoạt động truyền thông, báo chí giữa các cơ quan Đảng, tổ chức chính trị - xã hội và cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Thứ sáu, các cơ quan của Đảng, Nhà nước có thẩm quyền cần nghiên cứu, ban hành Quy định chuyên đề của Đảng về hoạt động công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, trong đó có quy định về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của cơ quan báo chí, truyền thông nhằm thúc đẩy mạnh mẽ và thực chất hoạt động này.

* Các giải pháp tổ chức thực hiện:

Thứ nhất, triển khai quy định của Luật Báo chí về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của báo chí, trong đó, phải quán triệt Báo chí không chỉ “Tuyên truyền, phổ biến” mà còn phải là “góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước” (Điều 4, Luật Báo chí năm 2016); cũng như tinh thần chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, đó là: “Có cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của nhân dân tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết, phản hồi ý kiến, kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của nhân dân”. Theo đó, phải bảo đảm xây dựng và từng bước hoàn thiện cơ chế để báo chí được thông tin đầy đủ, thông tin sớm các nội dung hoạt động tố tụng thuộc trách nhiệm công khai, giải trình của cơ quan tư pháp, đồng thời, tạo lập các diễn đàn, mở rộng loại hình báo chí và tiện ích của báo chí, truyền thông để người dân được tiếp cận thông tin một cách thuận lợi.

Thứ hai, các cơ quan tư pháp phải bảo đảm các điều kiện để báo chí, truyền thông được cung cấp, tiếp cận thông tin một cách trực tiếp, kịp thời đối với các quyết định, nội dung hoạt động trong lĩnh vực tư pháp thuộc phạm vi công khai, giải trình. Để triển khai tốt yêu cầu này, các cơ quan tư pháp cần quy định rõ danh mục thông tin bắt buộc phải công khai, đầu mối cung cấp thông tin. Đồng thời, thiết lập đường dây nóng để trong trường hợp khẩn cấp, báo chí có thể liên lạc trực tiếp với người phát ngôn để thu thấp thông tin được kịp thời, chính xác, tránh trường hợp phóng viên thu thập thông tin qua đường vòng, lãng phí thời gian và không bảo đảm nội dung và tính kịp thời.

Thứ ba, các cơ quan tư pháp cần kiện toàn quy định về đầu mối cung cấp thông tin cho các cơ quan báo chí, nhà báo nhằm tạo điều kiện cho cơ quan báo chí, các nhà báo trong việc thực hiện quyền yêu cầu cung cấp thông tin. Đồng thời, cần thiết phải quan tâm xây dựng được đầy đủ cơ sở dữ liệu về thông tin theo lĩnh vực hoạt động tư pháp để các cơ quan báo chí, truyền thông thuận lợi trong việc việc tiếp cận thông tin. Đồng thời, phải tăng cường các kênh giao tiếp, nhất là chú trọng tương tác trực tuyến, trước mắt nâng cấp và cập nhật thường xuyên thông tin hoạt động tư pháp trong phạm vi bắt buộc phải giải trình theo quy định của pháp luật trên website của cơ quan để các tầng lớp nhân dân và các cơ quan báo chí, truyền tông thuận lợi trong việc tìm hiểu và khai thác thông tin.

Thứ tư, các cơ quan tư pháp cần chú trọng tăng cường trách nhiệm giải trình chủ động (active explanation) thông qua việc chủ động công khai, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp trong phạm vi quy định của pháp luật, đồng thời, cần có các chỉ dẫn, giải trình chính sách góp phần bảo đảm cho mọi người dân và báo chí, truyền thông được tiếp cận sớm, đúng đắn và toàn diện.

Thứ năm, các cơ quan tư pháp cần chú trọng rà soát quy định và cách thức phản hồi thông tin từ nhân dân, báo chí, truyền thông liên quan đến nội dung thuộc phạm vi trách nhiệm giải trình. Khắc phục hiện tượng không phản hồi, phản hồi chậm hoặc phản hồi mang tính hình thức, thủ tục.

Thứ sáu, cần chú trọng mở rộng, đa dạng hóa loại hình báo chí và bảo đảm sự tiếp cận của báo chí, truyền thông đối với khu vực kém phát triển, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng yếu thế để các nhóm chủ thể này có được cơ hội tăng cường hiểu biết các chủ trương, chính sách, pháp luật về tố tụng, tư pháp, từ đó, có điều kiện, cơ hội tham gia thực chất hơn vào quá trình thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp.

Thứ bảy, cần đẩy mạnh công tác giáo dục về kiến thức cho đội ngũ làm công tác báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, trong đó, cần tập trung nhóm kiến thức về tổ chức bộ máy nhà nước, về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền, các vấn đề về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước nói chung, hệ thống cơ quan tư pháp nói riêng; kỹ năng nghề nghiệp báo chí, truyền thông; về đạo đức nghề nghiệp báo chí, truyền thông. Đồng thời, phổ biến, tuyên truyền ý thức, kiến thức đối với cộng đồng khi tham gia truyền thông xã hội về trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm xã hội và trách nhiệm đạo đức về quyền và nghĩa vụ chia sẻ thông tin trên các nền tảng internet.

Thứ tám, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực báo chí, truyền thông. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng việc kiện toàn cơ chế giám sát từ bên trong (giám sát nội bộ trong các cơ quan báo chí, truyền thông) nhằm góp phần tăng cường hơn nữa trách nhiệm chính trị, chuyên môn nghề nghiệp đối với đội ngũ cán bộ, phóng viên, người làm công tác truyền thông nhằm phòng ngừa hiệu quả, đồng thời, xử lý triệt để các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động nghề nghiệp.

Thứ chín, các cơ quan báo chí, truyền thông, dặc biệt là các cơ quan báo chí lớn của Nhà nước, của Đảng (VTV, VOV, TTXVN, Báo Nhân Dân, Truyền hình Quốc hội) cần tăng cường các chuyên mục về đối thoại chính sách, trong đó, đẩy mạnh hơn nữa sự tương tác sâu rộng của các tầng lớp nhân dân vào nội dung chương trình. Đối thoại, tọa đàm chính sách về tư pháp, tố tụng của các cơ quan tư pháp đang rất cần sự mở rộng, cởi mở hơn với công chúng truyền thông trong bối cảnh quyền tự do, dân chủ ngày càng có sự phát triển mạnh mẽ.

Thứ mười, các cơ quan quản lý báo chí, truyền thông, Hội Nhà báo và các cơ quan báo chí phải có các chính sách, biện pháp cụ thể để hỗ trợ, bảo vệ các nhà báo trong hoạt động tác nghiệp báo chí, truyền thông trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, tố tụng, thực hiện trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực hoạt động tư pháp nói riêng.

2.7. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo

2.7.1. Giải pháp chung

Cần tăng cường công tác thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật nói chung cũng như văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật nói riêng. Với trách nhiệm Hiến định, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần thành lập bộ phận chuyên trách thực hiện chức năng thẩm định, kiểm tra việc hướng dẫn áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp để đảm bảo chất lượng áp dụng pháp luật về công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.

2.7.2. Giải pháp đặc thù cho từng ngành

a. Đối với ngành Tòa án nhân dân

Thứ nhất, cần nghiên cứu, bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình của Thẩm phán trong trường hợp các bản án, quyết định mà mình ban hành bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vào trong các đạo luật về tố tụng; để đề cao hơn nữa trách nhiệm của Thẩm phán phải bảo đảm công bằng, khách quan, cẩn trọng khi giải quyết vụ việc.

Thứ hai, nhằm bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại pháp luật cần thiết quy định việc khiếu nại có thể được thực hiện trực tiếp tại Tòa án thông qua việc ghi ý kiến của đương sự. Đều này cũng phù hợp với quy định tại Thông tư số 01/2020 quy định việc khiếu nại được thực hiện bằng đơn hoặc được trình bày trực tiếp tại địa điểm tiếp công dân của các TAND.

b. Đối với ngành Kiểm sát nhân dân

Thứ nhất, các cơ quan tư pháp cần thống nhất quan điểm để ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn các vấn đề liên quan đến công tác tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp. Trong đó, cần quy định cụ thể về trách nhiệm gửi thông báo thụ lý cũng như quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp cho Viện kiểm sát với thời hạn nhất định.

Thứ hai, VKSND tối cao cần nghiên cứu để tiếp tục sửa đổi, bổ sung Quy chế số 51 và các quy định, hướng dẫn khác của ngành trong một văn bản để thuận lợi cho việc áp dụng, điển hình như cần hướng dẫn việc xử lý đơn của Viện kiểm sát khi tiếp nhận đơn thuộc diện tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc trách nhiệm điều tra của Cơ quan điều tra, không thuộc thẩm quyền kiểm sát của VKSND nhận tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố đó.

2.8. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác giải quyết oan sai, bồi thường

Thứ nhất, cần phải quy định chi tiết hơn trách nhiệm bồi hoàn, quy định rõ hơn trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự của người đã trực tiếp gây ra oan sai. Thậm chí, chính những người này phải trực tiếp công khai xin lỗi công dân tại buổi xin lỗi tổ chức công khai tại địa phương nơi cư trú của người bị oan sai.

Thứ hai, cần nghiên cứu xây dựng cơ chế giám sát, kiểm sát giữa các cơ quan tiến hành tố tụng là điều đặc biệt cần thiết nhằm ngăn chặn từ xa các nguy cơ dẫn đến oan sai, nhằm nhanh chóng phát hiện và có hình thức xử lý từ sớm, tránh cho việc hành vi vi phạm sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng hơn nếu phát hiện và xử lý muộn. Cơ chế giám sát này cũng phải được thực thi để hạn chế tình trạng nể nang, bao che, thiên vị giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau, giữa người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng với người trực tiếp tham gia vụ án. Vấn đề giám sát còn cần phải đặt ra trong trường hợp phải giải quyết vấn đề bồi thường bằng thủ tục tố tụng dân sự.

Thứ ba, cần nâng cao trình độ, tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, siết chặt kỷ luật đội ngũ những người tiến hành tố tụng là những biện pháp loại trừ oan sai đặc biệt hữu hiệu nhưng bên cạnh việc yêu cầu những người tiến hành tố tụng phải nâng cao hơn nữa ý thức trách nhiệm và chất lượng chuyên môn, còn cần phải chú ý tới việc nâng cao thu nhập, đưa đời sống của những người tiến hành tố tụng được tốt hơn lên, tiến tới một điều kiện toàn diện: “Không thể tham nhũng, không phải tham nhũng và không muốn tham nhũng”. Có như vậy, mới giải quyết được tận gốc vấn đề từ phía những người tiến hành tố tụng.

2.9. Giải pháp về thúc đẩy xây dựng Tòa án thông minh phục vụ công tác cải cách tư pháp

Cần thúc đẩy việc xây dựng nền tảng thông tin tích hợp hòa giải trực tuyến, giải quyết vụ việc trực tuyến, xác nhận tư pháp trực tuyến, xét xử trực tuyến và thủ tục giám sát điện tử để tạo thành một làn đường nhanh chóng cho giải quyết tranh chấp trực tuyến đa dạng; thúc đẩy áp dụng các phương pháp video từ xa để tổ chức các phiên tòa và phát triển và sử dụng công nghệ thông minh cho các phiên tòa; sử dụng âm thanh và video cho phiên tòa để đơn giản hóa hoặc thay thế hồ sơ Tòa án của các thư ký; thiết lập một nền tảng phân phối điện tử thống nhất cho các tòa án trên toàn quốc; hướng dẫn các bên, luật sư… gửi tài liệu tranh tụng điện tử, và thực hiện toàn bộ quy trình xử lý vụ án trực tuyến; tăng cường thông tin quản lý xét xử và khối lượng công việc, phân bổ hợp lý các nguồn lực thử nghiệm, đánh giá được toàn diện hiệu quả công việc./.

 


[1] Hiện nay, quan điểm về phạm vi nội dung quyền tư pháp hoặc các hoạt động được coi là thuộc quyền tư pháp vẫn chưa thực sự rõ ràng. Có quan điểm cho rằng, quyền tư pháp bao gồm không chỉ hoạt động xét xử của Toà án mà còn bao gồm cả các hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật khác như điều tra, truy tố, thi hành án. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng quyền tư pháp chỉ gồm hoạt động xét xử của toà án mà thôi.

[2] https://vtv.vn/chinh-tri/toan-canh-phien-chat-van-ve-linh-vuc-toa-an-va-kiem-sat-20230320180240092.htm.

[3] https://vtv.vn/chinh-tri/toan-canh-phien-chat-van-ve-linh-vuc-toa-an-va-kiem-sat-20230320180240092.htm.

[4] Theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2021 của ngành KSND, năm 2021, Viện kiểm sát các cấp đã tiếp 11.689 công dân đến khiếu nại, tố cáo, giảm 37%; tiếp nhận 91.952 đơn khiếu nại, tố cáo, giảm 6%; đã phân loại, thụ lý 22.313 đơn/13.206 việc thuộc thẩm quyền giải quyết, đã giải quyết 11.958 đơn/8.042 việc, đạt tỷ lệ 53,6% số việc, giảm 27,4%; thụ lý 3.863 đơn/3.267 việc khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, đã giải quyết 3.801 đơn/3.209 việc, đạt tỷ lệ 98,2% về số việc, giảm 0,3%. Đã trực tiếp kiểm sát tại 647 cơ quan tư pháp (tăng 16,3%); ban hành 70 văn bản yêu cầu giải quyết khiếu nại, tố cáo; yêu cầu cung cấp hồ sơ tài liệu để tiến hành kiểm sát đối với 97 việc; yêu cầu tự kiểm tra, thông báo kết quả giải quyết đối với 216 việc… Thông qua kiểm sát, phát hiện nhiều vi phạm và ban hành 345 kiến nghị yêu cầu chấn chỉnh, khắc phục.

[5] Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ Chính trị đã chỉ đạo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết, ban hành Kết luận số 84-KL/TW để xác định những nhiệm vụ tiếp tục cải cách tư pháp

[6] Việc hoàn thiện chế định này, phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia không thể biệt lập, đứng bên ngoài tác động của thế giới. Tiếp thu xu hướng của thế giới như lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, chúng ta không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại”- GS.TS. Nguyễn Phú Trọng, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Báo Nhân Dân điện tử ngày 16/5/2021.

[7] Nguyên tắc thứ 16 trong Bộ các nguyên tắc cơ bản về tính độc lập của Tòa án năm 1985, quy định: “Phù hợp với luật pháp quốc gia, Thẩm phán được hưởng quyền miễn trừ trong các vụ kiện dân sự vì những thiệt hại về tiền bạc gây ra bởi những hành động không đúng hoặc những sai sót trong khi thực hiện chức năng xét xử, và việc được hưởng quyền miễn trừ này không ảnh hưởng gì đến bất kỳ thủ tục kỷ luật nào hoặc quyển kháng cáo nào cũng như đến việc bồi thường từ phía nhà nước” (Được thông qua tại Hội nghị Liên Hợp quôc lần thứ 7 về Phòng, chống tội phạm và đối xử với người phạm tội, tổ chức tại Milan từ ngày 26/8 đến 06/9/1985, sau đó được thông qua bằng Nghị quyết số 40/32 ngày 29/11/1985 và Nghị quyết 40/146 ngày 13/12/1985 của Đại Hội đồng Liên Hợp quốc).

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm ...