PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Việc thực hiện Đề tài: “Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác THADS trong NNQP XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” là nghiên cứu có tính chiến lược, có ý nghĩa cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn nhằm xác lập cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng định hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác THADS trong bối cảnh xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả trong bối cảnh hội nhập và cách mạng 4.0.
2. Tình hình nghiên cứu của Đề tài
Qua nghiên cứu các công trình đã được công bố, có thể rút ra những nội dung được Đề tài kế thừa, phát triển và bổ sung như sau:
- Những nội dung nghiên cứu chính đã sáng tỏ và được Đề tài kế thừa:
Thứ nhất, các đề tài, công trình nghiên cứu đã làm rõ được một số vấn đề lý luận về công tác THADS trong bối cảnh cải cách tư pháp, xây dựng NNPQ XHCN theo các Nghị quyết của Đảng:
+ Cơ bản đã thống nhất được về khái niệm, vai trò, vị trí, ý nghĩa của công tác THADS trong nhiệm vụ xây dựng NNPQ XHCN; các mục tiêu, nhiệm vụ của công tác THADS nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu cải cách tư pháp;
+ Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS và các điều kiện đảm bảo hiệu quả công tác THADS.
+ Đánh giá khá toàn diện, đầy đủ về mô hình, thể chế, tổ chức, cán bộ, các yếu tố quy định và tác động THADS từ năm 1945 đến nay; trong đó có việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp trong lĩnh vực thi hành án theo Nghị quyết số 49-NQ/TW (thống nhất quản lý thi hành án, xã hội hóa công tác THADS). Qua đó, xác định được những ưu điểm, hạn chế của các vấn đề, rút ra được một số bài học kinh nghiệm qua hơn 70 năm xây dựng hệ thống THADS và hơn 12 năm thực hiện chủ trương xã hội hóa THADS.
+ Xác định được một số yêu cầu cơ bản của cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng NNPQ XHCH đặt ra đối với công tác THADS trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từ đó, xác định được một số nhiệm vụ, giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác THADS ở tầm ngắn hạn và trung hạn.
Thứ hai, các đề tài, công trình nghiên cứu đã cụ thể hóa phần nào những yêu cầu của NNPQ XHCN đến năm 2030, định hướng đến năm 2045; về cách thức xây dựng và sử dụng các bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật phù hợp với bối cảnh, tình hình Việt Nam.
Thứ ba, các nghiên cứu, tiêu chuẩn, nguyên tắc của quốc tế trong lĩnh vực THADS có giá trị tham khảo quý báu, có thể coi là “đích đến” của công tác THADS trong tương lai ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, các nghiên cứu về đánh giá hiệu quả công tác tư pháp nói chung và hiệu quả công tác THADS nói riêng cho thấy sự thống nhất cơ bản của các nhóm nghiên cứu đối với các tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS. Mặc dù một số nghiên cứu được thực hiện khoảng năm 2007-2014, tuy nhiên, so với mức độ phát triển kinh tế - xã hội và hệ thống pháp luật của các nước châu Âu thì vẫn đảm bảo tính thời sự, giá trị tham khảo và khả năng áp dụng cho Việt Nam.
- Những vấn đề đã đặt ra nhưng chưa toàn diện, sâu sắc, Đề tài cần nghiên cứu, phát triển:
+ Việc tổng kết, đánh giá nhiệm vụ thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp như quản lý thống nhất thi hành án, xã hội hóa công tác THADS, thành lập Tòa khu vực theo Nghị quyết 49-NQ/TW cơ bản đã được thực hiện, tuy nhiên, chưa có đầy đủ cơ sở chính trị, pháp lý, khoa học cho các nhiệm vụ này đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
+ Đã xác định được một số mục tiêu, phương hướng, quan điểm, giải pháp cho công tác THADS, nhưng hầu như các nội dung này đang được phát triển từ những hạn chế, khó khăn, vướng mắc hiện nay; chưa tính đến các kịch bản phát triển có tính chiến lược đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
- Những vấn đề còn trống vì chưa có nghiên cứu hoặc cần phải đặt ra do điều kiện, hoàn cảnh thay đổi, phát triển:
+ Chưa có nghiên cứu về yêu cầu mà NNPQ XHCN đặt ra đối với công tác THADS; chưa có hệ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác THADS trong bối cảnh xây dựng NNPQ XHCN từ trước đến nay, cũng như NNPQ XHCN đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
+ Chưa có dự báo và các kịch bản phát triển có tính chiến lược về bối cảnh, tình hình, yêu cầu của NNPQ XHCH đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 có thể tác động đến công tác THADS. Do đó, chưa có các giải pháp theo định hướng để nâng cao hiệu quả công tác THADS, bảo đảm các mục tiêu cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả, góp phần xây dựng NNPQ XHCN.
+ Kinh nghiệm của các quốc gia, các tổ chức quốc tế cần nghiên cứu cụ thể để vận dụng phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác THADS trong bối cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam, nhất là tác động của cuộc cách mạng 4.0 và xây dựng NNPQ XHCN đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
Như vậy, tuy chưa phải là các công trình nghiên cứu sâu sắc và tập trung về đề tài “Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác THADS trong NNQP XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” nhưng các công trình kể trên đã cung cấp những tri thức nền tảng quan trọng; đặc biệt, các nghiên cứu phục vụ xây dựng cũng như triển khai thi hành Nghị quyết số 27-NQ/TW đã cung cấp các thông tin về thực tiễn, định hướng một số nội dung và đề ra một số giải pháp cụ thể cho giai đoạn tới. Những kết quả nghiên cứu của các công trình sẽ góp phần quan trọng trong việc tạo dựng nền tảng thực tiễn và khoa học để tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này.
3. Mục tiêu của Đề tài
3.1. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng định hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác THADS trong bối cảnh xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả trong bối cảnh hội nhập và cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
3.2. Mục tiêu cụ thể
3.2.1. Xác định, làm rõ cơ sở lý luận về hiệu quả công tác THADS; tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác THADS và các yếu tố tác động và điều kiện bảo đảm hiệu quả công tác THADS trong bối cảnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng NNPQ XHCN đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Nghiên cứu kinh nghiệm của quốc tế về nâng cao hiệu quả công tác THADS có thể vận dụng cho Việt Nam.
3.2.2. Đánh giá khách quan, toàn diện, cụ thể thực trạng hiệu quả công tác THADS trong thời gian qua, tập trung phân tích các vấn đề về mô hình, thể chế, tổ chức, cán bộ, các yếu tố quy định và tác động trong bối cảnh thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng NNPQ XHCN. Qua đó, xác định rõ những vấn đề phù hợp, những vấn đề cần điều chỉnh, thay đổi.
3.2.3. Dự báo bối cảnh, tình hình và yêu cầu của NNPQ XHCN đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 đặt ra đối với công tác THADS, từ đó xác định đúng định hướng, hướng đi để nâng cao hiệu quả công tác THADS trong NNPQ XHCN đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Trên cơ sở các định hướng đó, đề xuất các giải pháp cụ thể, khả thi, đồng bộ để nâng cao hiệu quả công tác THADS trong NNPQ XHCN Việt Nam với lộ trình cụ thể đến năm 2030 để thực hiện tốt các nhiệm vụ cụ thể đã được xác định tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013 và Văn kiện Đại hội Đảng khóa XIII. Đề xuất các giải pháp phù hợp với định hướng đến năm 2045 đối với các vấn đề cần nhiều thời gian để thực hiện hoặc cần điều chỉnh, thay đổi lớn.
Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp thông tin phục vụ cho việc hoàn thiện chủ trương, chính sách, thể chế công tác THADS. Từ đó, góp phần đề xuất các nội dung phục vụ xây dựng chính sách, xây dựng Luật THADS (sửa đổi), xem xét áp dụng các giải pháp ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị nhà nước trong lĩnh vực THADS.
4. Đối tượng nghiên cứu của Đề tài
Với câu hỏi nghiên cứu tổng quát: Căn cứ nào để xác định định hướng nâng cao hiệu quả công tác THADS trong NNPQ XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 và các giải pháp thích hợp nào cần thiết phải áp dụng để đáp ứng định hướng đã đề ra, Đề tài đặt ra các vấn đề cần nghiên cứu, làm rõ cơ bản sau:
- NNPQ XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 đặt ra yêu cầu gì đối với công tác THADS? Bối cảnh chính trị - kinh tế - xã hội của Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 ra sao và tác động như thế nào đến công tác THADS?
- Hiệu quả công tác THADS là gì và được đánh giá dựa trên các tiêu chí nào? Các yếu tố nào ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS?
- Tình hình, thực trạng hiện nay của các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS? Chúng đang ảnh hưởng thế nào đến hiệu quả công tác THADS?
- Làm thế nào để cải thiện các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS nhằm nâng cao hiệu quả công tác THADS trong NNPQ XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045?
Cơ hội cho việc thực hiện nghiên cứu chính sách này là việc toàn Hệ thống chính trị đang tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, nhất là Bộ Tư pháp sẽ tham mưu trình Chính phủ báo cáo sửa đổi Luật THADS vào năm 2025. Đây là các nhiệm vụ chính trị quan trọng, có ý nghĩa tạo lập nền tảng cho việc đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết số 27-NQ/TW đã đề ra.
5. Phạm vi nghiên cứu của Đề tài
Về không gian, Đề tài nghiên cứu các chủ trương, pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật THADS và một số lĩnh vực liên quan ở Việt Nam; tham khảo một số nghiên cứu đã công bố về công tác THADS và hiệu quả công tác THADS trên thế giới, tập trung tại khu vực châu Âu và một số quốc gia có nền pháp luật phát triển và nền chính trị - kinh tế - xã hội có nét tương đồng với Việt Nam, như Trung Quốc, Thái Lan; ngoài ra có môt số nội dung tham khảo kinh nghiệm của một số nước trong khu vực như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Về thời gian, Đề tài đề cập tổng quan quá trình hoàn thiện, thi hành chính sách, pháp luật về THADS từ năm 1946, tập trung từ giai đoạn năm 2008 đến nay - là giai đoạn áp dụng Luật THADS và hệ thống THADS được tổ chức theo mô hình ngành dọc từ trung ương đến địa phương. Đặc biệt, Đề tài cũng nghiên cứu những vấn đề mang tính dự báo đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 trong bối cảnh xây dựng NNNPQ XHCN.
6. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện tốt đề tài và đạt được mục tiêu đã đề ra, trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu cơ bản được áp dụng là phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp suy luận logic, phương pháp phân tích; nghiên cứu tài liệu có sẵn; nghiên cứu so sánh, thống kê, dự báo.
7. Kết cấu và hệ chuyên đề của Đề tài
Trên cơ sở các nội dung kể trên, ngoài mục lục, bảng viết tắt, danh mục bảng, biểu và phụ lục, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Đề tài có kết cấu gồm 03 chương:
- Chương 1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
- Chương 2. Cơ sở thực tiễn của việc đề xuất nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.
- Chương 3. Các đề xuất, kiến nghị cụ thể về định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
Để xây dựng các nội dung trên, Ban chủ nhiệm thiết kế hệ thống chuyên đề nghiên cứu như sau:
Phần thứ nhất: Lý luận về hiệu quả công tác THADS trong NNPQ XHCN đến năm 2030, định hướng đến năm 2045
Chuyên đề 1: Những yêu cầu NNPQ XHCN đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 đặt ra đối với công tác THADS.
Chuyên đề 2: Hiệu quả công tác THADS và hệ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác THADS trong NNPQ XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
Chuyên đề 3: Các yếu tố quyết định và các yếu tố tác động đến hiệu quả công tác THADS.
Chuyên đề 4: Kinh nghiệm của Châu Âu, UIHJ, UNIDROIT, Trung Quốc và Thái Lan về nâng cao hiệu quả công tác THADS.
Phần thứ hai: Thực trạng hiệu quả công tác THADS trong bối cảnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng NNPQ XHCN
Chuyên đề 5: Thực trạng về mô hình, tổ chức bộ máy THADS.
Chuyên đề 6: Thực trạng về chủ trương, chính sách, thể chế về THADS.
Chuyên đề 7: Thực trạng về đội ngũ công chức và nguồn nhân lực THADS.
Chuyên đề 8: Thực trạng về cơ sở vật chất, khoa học công nghệ và các điều kiện đảm bảo.
Chuyên đề 9: Thực trạng công tác phối hợp của các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức có liên quan trong công tác THADS.
Phần thứ 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác THADS trong NNPQ XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045
Chuyên đề 10: Dự báo về tình hình, bối cảnh NNPQ XHCN đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Chuyên đề 11: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác THADS trong NNPQ XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2045
Chương này phân tích ngắn gọn các vấn đề lý luận về NNPQ XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, về THADS và các yêu cầu về nguyên tắc pháp quyền XHCN trong công tác THADS. Tiếp đó, trên cơ sở phân tích về khái niệm hiệu quả công tác THADS, chương này đề xuất các tiêu chí đánh giá và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS. Phần cuối giới thiệu một số kinh nghiệm quốc tế về nâng cao hiệu quả công tác THADS.
1.1. Một số vấn đề lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045
NNPQ XHCN Việt Nam là kết quả của quá trình đúc kết, kế thừa, vận dụng tư tưởng về NNPQ trong lịch sử tư tưởng nhân loại, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật kiểu mới và thực tiễn xây dựng nhà nước kiểu mới ở nước ta, nhất là trong những năm đổi mới vừa qua.
Qua quá trình nghiên cứu, tổng kết, hoàn thiện, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW thống nhất nhận thức về 08 đặc trưng của NNPQ XHCN Việt Nam.
1.2. Một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự
1.2.1. Vị trí và tầm quan trọng của công tác thi hành án
Bản án, quyết định của Toà án có tính công lý sâu sắc và việc chấp hành bản án, quyết định của Toà án một cách nghiêm minh, khách quan, vô tư, không thiên lệch bên nào cũng mang tính công lý, công bằng sâu sắc.
Nguyên tắc cơ bản nêu trên đã trở thành nguyên tắc hiến định, được quy định từ Hiến pháp năm 1980 (Điều 137), Hiến pháp năm 1992 (Điều 136), đến Hiến pháp năm 2013 (Điều 106): Bản án, quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
1.2.2. Khái niệm, bản chất, vai trò của công tác thi hành án dân sự
a) Khái niệm, đặc điểm của thi hành án
Thi hành án là một hoạt động Nhà nước, do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành nhằm đưa các bản án, quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật vào thi hành; việc thi hành được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp Nhà nước theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ; tất cả các cơ quan, tổ chức và công dân đều phải tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh thi hành.
b) Khái niệm thi hành án dân sự
Xuất phát từ bản chất của các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội và quá trình Toà án giải quyết các tranh chấp dân sự phát sinh thì bản án, quyết định dân sự - kết quả giải quyết của Toà án nhân danh Nhà nước - là sự xác nhận quyền và nghĩa vụ dân sự của các đương sự có liên quan. Như vậy, có thể hiểu đơn giản, THADS là thi hành các bản án, quyết định dân sự (theo nghĩa rộng).
THADS có đầy đủ đặc điểm của hoạt động thi hành án nói chung; đồng thời, có các đặc điểm riêng biệt. THADS là việc tổ chức thi hành bản án, quyết định về dân sự được thi hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. THADS có một số đặc điểm: (i) chủ thể của hoạt động THADS là cơ quan nhà nước (cơ quan THADS) hoặc được nhà nước trao quyền (thừa phát lại), các bên đương sự và tổ chức, cá nhân có liên quan; (ii) nội dung thi hành là các quyền, nghĩa vụ về dân sự (theo nghĩa rộng); (iii) kết hợp giữa sự tự nguyện của các bên và biện pháp cưỡng chế theo quy định.
c) Bản chất của thi hành án dân sự
Hiện còn nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của THADS, tuy nhiên, các quan điểm nêu trên đều khẳng định sự gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động THADS với các giai đoạn tố tụng trước đó và đều khẳng định tính tư pháp trong hoạt động THADS. Hoạt động THADS hiện thực hoá trên thực tế bản án, quyết định của Toà án - sản phẩm của quyền tư pháp, nên do đó, nó có tính tư pháp sâu sắc, là một phần của công tác tư pháp. Mô hình của các quốc gia trên thế giới có thể giao trách nhiệm tổ chức THADS cho các cơ quan khác nhau, như một bộ phận trong các toà án, hay một cơ quan thuộc Chính phủ, hay xã hội hoá thông qua Thừa phát lại, nhưng bản chất của hoạt động THADS vẫn là đảm bảo cho quyền tư pháp được thực thi đến cùng trên thực tế. Trong bối cảnh cải cách tư pháp, xây dựng NNPQ, chúng tôi cho rằng việc nhấn mạnh tính chất tư pháp trong hoạt động THADS càng có ý nghĩa quan trọng để góp phần định hướng cho việc nâng cao hiệu quả của công tác này.
d) Vai trò của thi hành án dân sự trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
THADS là hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, duy trì ổn định, trật tự kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế đất nước. Trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, hoạt động THADS có ý nghĩa sống còn đối với niềm tin của công chúng vào cơ quan tư pháp, là công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, khai thông nguồn lực tài chính, góp phần cải thiện môi trường sản xuất, kinh doanh, thu hút đầu tư, là động lực tất yếu cho phát triển kinh tế. Trong mối quan hệ với các giai đoạn tố tụng, công tác THADS có vai trò “kiểm định” tính hiệu quả của giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, vì các hoạt động này có mối quan hệ nhân quả với nhau.
1.3. Yêu cầu về nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự
Căn cứ 08 đặc trưng, cũng chính là các nguyên tắc pháp quyền của NNPQ XHCN Việt Nam mà Nghị quyết số 27-NQ/TW đã xác định, khái niệm, bản chất và vai trò của THADS, có thể nhận thấy yêu cầu về các nguyên tắc pháp quyền đặt ra trong hoạt động THADS như sau:
Một là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong công tác THADS.
Hai là, bảo đảm nguyên tắc dân chủ trong hoạt động THADS, góp phần xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Ba là, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong THADS.
Bốn là, các cơ quan THADS được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật; cơ quan THADS, các cơ quan, tổ chức có liên quan trong THADS phải tuân thủ pháp luật nói chung và pháp luật THADS nói riêng.
Năm là, các cơ quan THADS đảm bảo thực hiện đúng các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công, phối hợp và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Sáu là, hệ thống pháp luật về THADS dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán.
Bảy là, tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh, kịp thời, đầy đủ bản án, quyết định của Tòa án là tôn trọng sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của tòa án.
Tám là, công tác THADS phải thực hiện nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế.
1.4. Hiệu quả công tác thi hành án dân sự và hệ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045
1.4.1. Khái niệm về hiệu quả công tác thi hành án dân sự
a) Khái niệm “hiệu quả”
“Hiệu quả” là việc so sánh giữa “kết quả thực tế đạt được” với “kết quả dự kiến đạt được” đồng thời đánh giá xem chi phí về nguồn lực (thời gian, công sức, tiền bạc…) đã tối ưu chưa.
b) Khái niệm “hiệu quả công tác thi hành án dân sự”
Trong NNPQ XHCN Việt Nam, công tác THADS có ý nghĩa quan trọng, góp phần “xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân” . Với cách tiếp cận từ bản chất hoạt động THADS và yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW đã đề ra thì hiệu quả công tác THADS là thi hành đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật theo nội dung bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực thi hành với chi phí thấp nhất và thời gian ngắn nhất, bảo đảm quyền con người, an ninh chính trị, an toàn xã hội.
1.4.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác thi hành án dân sự
Do tính chất phức tạp của hoạt động THADS, việc đánh giá hiệu quả công tác THADS chính xác, toàn diện là vấn đề phức tạp, không nên dựa vào sự so sánh đơn thuần về mặt số học giữa kết quả THADS đạt được với những chi phí đầu vào sử dụng trong quá trình THADS. Mặt khác, hiệu quả công tác THADS không chỉ biểu hiện ngay sau khi kết thúc một việc THADS cụ thể mà còn phát huy tác dụng trong một thời gian dài sau đó nên đánh giá hiệu quả công tác THADS tại một thời điểm cụ thể chỉ mang tính tương đối. Mặc dù có nhiều vấn đề đặt ra như vậy, việc đánh giá hiệu quả công tác THADS hiện nay đã có các căn cứ pháp luật và thực tiễn nhất định, cụ thể là:
Thứ nhất, Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tư pháp đã ban hành nhiều văn bản trong đó đề ra các chỉ tiêu cụ thể để đánh giá hoạt động THADS.
Thứ hai, hiện nay, Bộ Tư pháp đã ban hành một số văn bản có tính quy phạm để đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật và cũng đã có các nghiên cứu về bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ ba, các tổ chức trên thế giới đánh giá hiệu quả THADS thông qua một số tiêu chí cơ bản là khả năng tiếp cập thi hành án, hiệu quả của dịch vụ thi hành án và hiệu quả của các biện pháp thi hành (CEPEJ-GT-EVAL), đo lường bằng các chỉ số cơ bản về thời gian và chi phí thực thi (WB, WEF…).
Như vậy, hiện nay đã có những tiêu chí, chỉ số đánh giá khá cụ thể và toàn diện về công tác THADS, không chỉ về kết quả thi hành xong về việc, tiền, mà còn các vấn đề liên quan đến quy trình tổ chức thi hành án, các vấn đề phát sinh trước, trong và sau khi tổ chức thi hành án, các yếu tố đảm bảo cho hoạt động THADS. Trên cơ sở khái niệm về hiệu quả công tác THADS, các căn cứ pháp luật và các kết quả nghiên cứu nêu trên, chúng tôi cho rằng có thể đánh giá hiệu quả công tác THADS dựa trên 05 tiêu chí định lượng và 03 tiêu chí định tính dưới đây.
- 05 tiêu chí định lượng:
+ Tỷ lệ ra quyết định thi hành án đúng quy định của pháp luật đối với các bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực;
+ Tỷ lệ phân loại án dân sự có điều kiện thi hành, tỷ lệ THADS xong trên tổng số án có điều kiện thi hành; số vụ việc phải cưỡng chế;
+ Thời gian và chi phí THADS;
+ Số hành vi vi phạm trong THADS;
+ Bộ máy THADS tinh gọn, hoạt động hiệu lực hiệu quả.
- 03 tiêu chí định tính:
+ Chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật về THADS được tuân thủ, thực thi công bằng, bình đẳng, dân chủ, nhất quán và nghiêm minh;
+ Đảm bảo quyền con người, quyền công dân, bảo đảm yếu tố nhân đạo và an sinh xã hội, xây dựng môi trường chính trị xã hội ổn định;
+ Tạo ra sự thay đổi tích cực trong nhận thức và thực hiện hành vi của các tổ chức, cá nhân trong THADS, củng cố sự tin tưởng của nhân dân vào nền tư pháp.
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác thi hành án dân sự
Trên cơ sở tham khảo các nghiên cứu của CEPEJ, UIHJ, WB…, có thể thấy các quan điểm cơ bản thống nhất xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS là chủ trương chính sách, quy định pháp luật và chất lượng của hoạt động xét xử, mô hình tổ chức (quản trị hệ thống) với sự phối hợp của các bên liên quan, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất (nhất là mức độ tin học hóa). Bên cạnh đó, với những đặc thù về điều kiện chính trị - kinh tế, văn hóa xã hội, truyền thống lịch sử… của Việt Nam cũng ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS.
Chúng tôi xác định có 08 yếu tố sau ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS của Việt Nam:
+ Chủ trương, chính sách của Đảng về công tác THADS;
+ Mô hình tổ chức THADS;
+ Pháp luật về THADS;
+ Chất lượng bản án, quyết định có hiệu lực thi hành;
+ Đội ngũ công chức và nguồn nhân lực THADS;
+ Cơ sở vật chất, khoa học công nghệ;
+ Công tác phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức có liên quan trong công tác THADS;
+ Các yếu tố về chính trị - kinh tế - xã hội.
Để nâng cao hiệu quả THADS thì cần hoàn thiện các yếu tố này theo các yêu cầu của bối cảnh, tình hình thực tiễn, đồng thời có tính đến các xu hướng phát triển trong tương lai, đảm bảo sự ổn định, phát triển bền vững của công tác THADS.
1.6. Kinh nghiệm quốc tế về nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự và giá trị tham khảo cho Việt Nam
- Về các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác THADS: Nghiên cứu của CEPEJ, WB cho thấy các tiêu chí đánh giá công tác THADS được xem xét toàn diện, từ khả năng tiếp cận việc thi hành án đến hiệu quả của dịch vụ thi hành án và hiệu quả của các biện pháp thi hành. Các nghiên cứu đề cập đến các yếu tố cơ bản để đo lường như chi phí thực thi, thời gian thực thi, tỉ lệ thi hành xong, quản lý cơ quan THADS và người thực thi. Trong số các tiêu chí nêu trên thì tiêu chí được đề cập và phân tích nhiều nhất là thời gian thực thi, tiếp đó là chi phí thực thi. Tuy nhiên, tiêu chí tỉ lệ thi hành xong, nhất là đối với án dân sự, như báo cáo của CEPEJ, cho thấy các quốc gia không đặt ra quá nhiều.
- Về các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác THADS:
Công tác THADS ngày càng nhận được sự quan tâm của các nước trên thế giới nhằm bảo đảm hiệu lực của quyền tư pháp trong NNPQ. Qua nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế thì xu hướng pháp luật về THADS đang được phát triển theo các định hướng cơ bản là: tinh gọn bộ máy; cơ chế thi hành án thông suốt, hiện đại hóa công tác THADS; tăng cường công khai minh bạch, trách nhiệm giải trình; bảo vệ các quyền tài sản để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và sự thịnh vượng của nền kinh tế; rút ngắn thời gian, cắt giảm chi phí; tôn trọng quyền cá nhân và an ninh thông tin, đồng thời cải thiện hiệu quả truy tìm tài sản, kiểm soát, định giá, đấu giá tài sản; thực hiện quyền thi hành án một cách thận trọng, cân bằng, ngăn chặn hiệu quả việc lạm dụng quyền lực thi hành án; nâng cao chất lượng nghiệp vụ, bảo đảm phúc lợi và an toàn cho đội ngũ nhân sự làm công tác THADS.
04 giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác THADS được các tổ chức và các quốc gia áp dụng cụ thể như sau:
- Đổi mới, tinh gọn cơ quan THADS;
- Rút gọn quy trình thi hành án, tăng cường hòa giải, quy định trách nhiệm của người phải thi hành án và các cơ quan phối hợp và có phương án xử lý đối với trường hợp người phải thi hành án không có khả năng thi hành;
- Tăng cường công khai, minh bạch, giám sát nội bộ, đạo đức và năng lực nhân viên thi hành án;
- Tăng cường ứng dụng CNTT, kết nối cơ sở dữ liệu để xác minh, truy tìm tài sản, đấu giá tài sản thi hành án trực tuyến.
Trên cơ sở các kinh nghiệm quốc tế nêu trên, Việt Nam có thể tham khảo, nghiên cứu và áp dụng để nâng cao hiệu quả công tác THADS với một số gợi ý như sau:
Thứ nhất, về các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác THADS, cần nghiên cứu xem xét có sự điều chỉnh phù hợp với cách thức quy định hiện nay trong công tác THADS. Về cơ bản, các chỉ tiêu theo Nghị quyết số 96/2019/NQ-QH khá tương đồng với các chỉ tiêu mà các nước đặt ra, tuy nhiên, vẫn còn một số điểm có thể nghiên cứu áp dụng. Theo đó, có thể xem xét bổ sung chỉ tiêu về thời gian, chi phí thi hành án, đồng thời, sửa đổi cách thức quy định về chỉ tiêu “Nâng tỷ lệ THADS xong trên tổng số án có điều kiện thi hành năm sau cao hơn năm trước” dựa trên tiêu chí về thời gian thi hành án. Thực tế cho thấy, trong các tháng cuối năm công tác THADS, nếu vụ việc mới thụ lý có giá trị lớn, tính chất phức tạp, khó có thể hoàn thành trong thời gian ngắn có thể hạ thấp kết quả thi hành xong về việc, tiền của cơ quan THADS. Do đó, kết quả thi hành xong cần được tính toán bao gồm cả yếu tố về thời gian tổ chức thi hành. Điều này là phù hợp với yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW về rút ngắn thời gian và giảm chi phí thi hành án.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới, tinh gọn hệ thống cơ quan THADS Việt Nam. Tại các quốc gia theo mô hình thi hành án công, xu hướng chung đều là tinh gọn bộ máy. Tại Việt Nam, có thể nghiên cứu đổi mới tổ chức hệ thống THADS theo hướng tổ chức theo khu vực trên cơ sở đánh giá cụ thể nhu cầu thực tiễn tại địa phương, mức độ phát triển về ứng dụng CNTT và tính chất địa lý vùng, miền.
Bên cạnh đó, với nhiệm vụ “thực hiện xã hội hóa một số hoạt động THADS với cơ chế bảo đảm và lộ trình phù hợp” , có thể tham khảo kinh nghiệm của các nước đang thực hiện mô hình hỗn hợp, như kinh nghiệm của Anh trong việc phân chia nhiệm vụ của Hiệp hội Thi hành án Tòa án Cấp cao (HCEOA) với Hiệp hội Thi hành Dân sự (CIVEA).
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật về THADS theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí thi hành án. Xem xét bổ sung các quy định chặt chẽ, nghiêm khắc về trách nhiệm của người phải thi hành án và các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc kê khai, cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập; các biện pháp thi hành theo thỏa thuận (giãn nợ, trả dần…); phương án xử lý đối với trường hợp người phải thi hành án không có khả năng thi hành, nhất là đối với phần dân sự trong bản án hình sự. Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan phối hợp trong quá trình THADS.
Thứ tư, tăng cường công khai, minh bạch, giám sát nội bộ, đạo đức và năng lực nhân viên thi hành án. Cùng với việc tinh gọn đầu mối, cần hoàn thiện các cơ chế quản lý chất lượng, quản trị, giám sát, kiểm soát quyền lực nội bộ trong từng cơ quan THADS và trong hệ thống THADS. Đặc biệt, cần chú trọng đảm bảo quy tắc đạo đức nghề nghiệp, đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra năng lực; các cơ chế tạo động lực, bảo đảm an toàn, bảo hiểm nghề nghiệp đi cùng với giám sát thi hành và chế tài nếu có hành vi vi phạm đối với chấp hành viên, thừa phát lại.
Thứ năm, tăng cường chuyển đổi số trong THADS, kết nối cơ sở dữ liệu để xác minh, truy tìm tài sản, đấu giá tài sản thi hành án trực tuyến. Đây không chỉ là nhiệm vụ của riêng Hệ thống THADS mà là của cả hệ thống chính trị, đã được giao cụ thể tại Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là giải pháp đột phá nâng cao hiệu quả THADS.
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Chương 2 phân tích thực trạng hiện nay của hiệu quả công tác THADS trên cơ sở các tiêu chí định tính, định lượng đã xác định tại Chương 1. Tiếp đó, chương này đánh giá tình hình, thực trạng của các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS.
2.1. Thực trạng hiệu quả công tác thi hành án dân sự
Dựa trên các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác THADS như đã phân tích tại mục 2 Chương 1, hiệu quả công tác THADS hiện nay có thể đánh giá cơ bản như sau:
2.1.1. Về các tiêu chí định lượng
- Vẫn còn sai sót và một số hạn chế trong việc ra quyết định THADS.
- Tỉ lệ phân loại có điều kiện hàng năm cho thấy khoảng 80% việc và 50% tiền phải thi hành có điều kiện. Việc phân loại cơ bản chính xác, đúng quy định; phản ánh đúng tình hình, khả năng của người phải thi hành án cũng như mức độ quản lý tài sản, thu nhập, tài khoản trong xã hội. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu để đánh giá chính xác tỉ lệ này, như các chế tài áp dụng đối với người phải thi hành án trong kê khai, chế tài đối với các tổ chức, cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin; việc quản lý, theo dõi các loại việc chưa có điều kiện v.v.
- Kết quả thi hành xong cơ bản đạt chỉ tiêu được giao, năm sau cao hơn năm trước, tuy nhiên Số việc, tiền chưa thi hành xong hàng năm vẫn còn chiếm tỉ lệ lớn; Số việc, tiền chưa có điều kiện thi hành đang ngày càng tăng, trong đó gồm cả các việc đã chuyển sang theo dõi riêng nhưng chưa có cơ chế để xử lý dứt điểm và triệt để.
- Số vụ việc cưỡng chế hàng năm có xu hướng tăng nhưng số tự nguyện thi hành sau khi có quyết định cưỡng chế cũng tăng. Tuy nhiên chỉ tiêu định lượng này cần đi cùng với chỉ tiêu định lượng về thời gian, chí phí bỏ ra, chỉ tiêu tính về an ninh trật tự, an sinh xã hội, ý thức pháp luật để nhìn nhận toàn diện hơn.
- Thời gian và chi phí thi hành án vẫn là vấn đề đáng quan ngại nhất.
- Số hành vi vi phạm trong THADS có chiều hướng giảm, nhưng tình hình vi phạm trong THADS vẫn là vấn đề hết sức đáng quan tâm, gây bức xúc trong dư luận xã hội đối với công chức THADS.
- Tổ chức bộ máy của các cơ quan THADS từng bước được củng cố, điều chỉnh. Hệ thống tổ chức THADS từ năm 2008 đã được xác định rõ hơn theo nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến cấp huyện, với một vị thế mới, tương xứng với nhiệm vụ chính trị được giao và phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp. Nhìn chung, so với trước đây, cơ cấu tổ chức Hệ thống THADS đã được sắp xếp tập trung, thống nhất, từng bước chuyên môn hóa để đáp ứng các yêu cầu về quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao và thực tiễn công tác THADS; ngoài ra còn thực hiện nhiệm vụ theo dõi THAHC theo Luật Tố tụng hành chính. Hoạt động THADS trong thời gian qua ngày càng đạt được các kết quả đáng ghi nhận. Việc thực hiện chế định Thừa phát lại cơ bản đạt được một số kết quả, nhưng mới chỉ tập trung vào một số hoạt động về tống đạt và lập vi bằng.
2.1.2. Về các tiêu chí định tính
Cơ bản được bảo đảm trong quá trình tổ chức THADS.
Việc triển khai thực hiện chủ trương về tinh gọn bộ máy THADS, xã hội hóa một số hoạt động THADS còn chậm, chưa quyết liệt, đồng bộ. Việc tổ chức thực hiện pháp luật vẫn còn tình trạng nể nang đối với những người có chức vụ, quyền hạn, quen biết; chưa có sự cân bằng và công bằng giữa các chủ thể trong nước và nước ngoài, các vụ việc có giá trị lớn với các việc giá trị nhỏ trong một số trường hợp. Quy trình tổ chức THADS chưa có đủ các cơ chế, điều kiện để công khai, minh bạch toàn bộ. Quyền tự định đoạt, thỏa thuận của đương sự được ghi nhận nhưng lại bị lợi dụng để kéo dài thời gian thi hành án.
Các vấn đề về quyền con người, quyền công dân trong THADS cơ bản được đảm bảo; nhưng một số vấn đề còn khó thực hiện, như việc bố trí nhà cho người phải thi hành án khi bị cưỡng chế giao nhà ở duy nhất còn khó khăn, nhất là ở các khu đô thị lớn. Các vấn đề giới và người yếu thế mới bước đầu được quan tâm. Một số vấn đề về an sinh xã hội còn chưa thực sự được đảm bảo, như thi hành án cấp dưỡng, vay tín dụng để sản xuất nông nghiệp nhưng bị mất mùa, thiên tai, dịch bệnh v.v… chưa có cơ chế hỗ trợ, thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án hình sự chưa có cơ chế tạo điều kiện để người phải thi hành án có thu nhập để thực hiện nghĩa vụ. Một số vụ việc cưỡng chế do đương sự chống đối, sử dụng các biện pháp bạo lực nên đã gây nên sự mất ổn định, an toàn cho chính đương sự, Chấp hành viên, công an bảo vệ cũng như an ninh, chính trị địa phương. Điều này cũng ảnh hưởng một phần tới các vụ việc phải cưỡng chế sau đó, khi các cơ quan chính quyền e ngại cưỡng chế.
Những hạn chế, bất cập hiện nay của công tác THADS vẫn còn đặt ra không ít tâm lý e ngại của người dân, như không tham gia mua tài sản đấu giá thi hành án, không hợp tác với cơ quan THADS trong quá trình xác minh, cung cấp thông tin v.v. Một số vụ việc chống đối thi hành đã được đưa ra xét xử về tội không chấp hành án, tuy nhiên mức độ răn đe, phòng ngừa từ các ví dụ điển hình này còn hạn chế, chưa thực sự tạo ra sự chuyển biến trong ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân.
2.2. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác thi hành án dân sự
2.2.1. Chủ trương, chính sách về công tác thi hành án dân sự
Hoạt động THADS không nằm ngoài sự điều chỉnh của nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Trong những năm qua, các chủ trương, chính sách về công tác THADS ngày càng được quan tâm, gắn với các nhiệm vụ cải cách tư pháp và tập trung vào 03 vấn đề chính: (i) về mô hình tổ chức: thống nhất thi hành án; xã hội hoá THADS; (ii) hoàn thiện thể chế nhằm nâng cao hiệu quả công tác THADS theo hướng rút ngắn thời gian, giảm chi phí; nâng cao hiệu quả phối hợp của các cơ quan liên quan trong THADS; (iii) tăng cường vai trò của hoạt động THADS, không chỉ là bảo vệ công lý, hiệu quả nền tư pháp, thực hiện tốt nhiệm vụ phân công, phối hợp, kiểm soát các quyền lực nhà nước, mà còn có ý nghĩa thúc đẩy nền kinh tế thị trường, xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh cạnh tranh. Chủ trương của Đảng về quản lý THADS, tổ chức THADS là cơ bản là nhất quán, bao trùm các lĩnh vực công tác THADS, tạo cơ sở chính trị quan trọng để thể chế hóa, phát triển và hoàn thiện tổ chức, hoạt động của hệ thống các cơ quan THADS.
2.2.2. Thực trạng về mô hình, tổ chức bộ máy thi hành án dân sự
2.2.2.1. Về xây dựng, kiện toàn hệ thống thi hành án dân sự
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đến nay, công tác THADS luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Qua hơn 70 năm hình thành và phát triển, Hệ thống cơ quan THADS được kiện toàn, chuyên nghiệp hóa, từng bước ngang tầm với nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao.
Việc chuyển giao công tác THADS từ Tòa án sang các cơ quan thuộc Chính phủ và xây dựng Hệ thống cơ quan THADS theo mô hình tập trung thống nhất từ Trung ương xuống địa phương là một chủ trương đúng đắn và đã phát huy được hiệu quả trong thực tế, cụ thể:
Thứ nhất, thực tiễn hoạt động và kết quả đạt được thời gian qua cho thấy mô hình THADS hiện nay phù hợp với tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở nước ta, bảo đảm nguyên tắc tập trung thống nhất theo đúng chủ trương của Đảng đã đề ra về tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án, tạo điều kiện để Toà án tập trung thực hiện nhiệm vụ xét xử. Kết quả hoạt động THADS sau khi chuyển giao mô hình từ Tòa án sang các cơ quan thuộc Chính phủ cho thấy vai trò quan trọng của mô hình tổ chức.
Thứ hai, với tính chất của hoạt động THADS, mô hình hệ thống THADS hiện nay đã mang lại hiệu quả nhất định như: (i) Bảo đảm thống nhất về tổ chức và thực hiện hoạt động nghiệp vụ; (ii) Thiết lập, duy trì được mối quan hệ phối hợp với UBND cùng cấp, tranh thủ được sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và chính quyền địa phương và thuận lợi trong việc phối hợp với các cơ quan, ban, ngành có liên quan tại địa phương; (iii) Gần dân, tạo điều kiện thuận lợi cho dân trong việc thực hiện các quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm liên quan đến công tác THADS; (iv) Phù hợp với các mô hình cơ quan tố tụng, tư pháp như Cơ quan Điều tra, TAND, VKSND - là các cơ quan có quan hệ mật thiết tới công tác THADS.
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được tì vẫn còn một số hạn chế:
Thứ nhất, chủ trương thống nhất thi hành án đã dừng thực hiện, tuy nhiên, việc nghiên cứu về thực hiện chủ trương này chưa được đầu tư thoả đáng.
Thứ hai, mức độ tinh gọn trong hệ thống THADS; phân bổ nguồn lực, phân cấp, phân quyền vẫn còn một số điểm chưa phù hợp với chức năng nhiệm vụ và số lượng công việc được giao.
Thứ ba, vấn đề kiểm tra, giám sát, kiểm sát đối với cơ quan THADS và hoạt động THADS còn chồng chéo, chưa phân định rõ thẩm quyền của các cơ quan liên quan.
2.2.2.2. Xã hội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự
Chủ trương xã hội hoá một số hoạt động THADS đã được đặt ra từ Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW năm 2005 và được chính thức triển khai thực hiện từ năm 2008 đến nay. Việc thực hiện chủ trương này đã đạt được một số kết quả tích cực bước đầu.
Việc thực hiện chủ trương này vẫn còn một số hạn chế nhất định:
Thứ nhất, một số điều kiện bảo đảm cho sự phát triển ổn định, lành mạnh của chế định này chưa đầy đủ, đồng bộ.
Thứ hai, hoạt động của các Văn phòng Thừa phát lại chủ yếu là tống đạt, lập vi bằng, tập trung ở các khu vực đô thị, thành phố lớn; số việc xác minh, tổ chức thi hành án rất hạn chế.
Thứ ba, đội ngũ Thừa phát lại vẫn còn mỏng về số lượng, hạn chế về kỹ năng, kinh nghiệm, dễ dẫn đến sai sót trong quá trình hành nghề.
Thứ tư, nhận thức, hiểu biết của người dân, doanh nghiệp, các cơ quan, ban, ngành ở địa phương về Thừa phát lại ở một số địa phương còn hạn chế, nhất là ở những địa phương mới triển khai thực hiện, nên việc sử dụng dịch vụ của Thừa phát lại còn ít. Việc quản lý tài sản, thu nhập trong xã hội chưa đồng bộ, chưa tạo điều kiện để Thừa phát lại thuận lợi thực hiện việc khai thác thông tin trong công tác xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức thi hành các vụ việc đơn giản.
Do đó, xã hội hoá một số hoạt động THADS là một chủ trương đúng đắn và tiến bộ, tuy nhiên, cần có “cơ chế bảo đảm và lộ trình phù hợp” như Nghị quyết số 27-NQ/TW đã khẳng định.
2.2.3. Thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự và các pháp luật liên quan
Công tác xây dựng hoàn thiện thể chế là nhiệm vụ trọng tâm, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất, đồng bộ trong hệ thống THADS. Ngày 14/11/2008, Quốc hội đã thông qua Luật THADS số 26/2008/QH12, tiếp đó đã sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 64/2014/QH13 và Luật số 03/2022/QH15. Đến nay, có 02 nghị quyết, 05 nghị định, 46 quyết định và thông tư, thông tư liên tịch có hiệu lực để quy định, hướng dẫn thi hành Luật THADS. Các văn bản cơ bản được ban hành, sửa đổi, bổ sung kịp thời, phù hợp với yêu cầu, đặc điểm tình hình của từng giai đoạn. Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trực tiếp đến hoạt động THADS cũng tiếp tục được hoàn thiện, cơ bản bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất.
Mặc dù công tác xây dựng thể chế được quan tâm chỉ đạo, thực hiện, nhưng pháp luật THADS đã bộc lộ hạn chế, bất cập xuất phát từ trong nội tại các quy định của Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành, hoặc chưa theo kịp các quan hệ phát sinh trong thực tiễn phát triển của đất nước; nhiều quy định chưa đồng bộ với các pháp luật khác liên quan.
Thứ nhất, về quyền, nghĩa vụ của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn bất cập, chưa đầy đủ, dễ bị lợi dụng để kéo dài thời gian, chây ỳ thi hành án hoặc làm chậm quá trình thi hành án.
Thứ hai, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và các cơ chế kiểm soát, bảo vệ Chấp hành viên, trách nhiệm của cơ quan liên quan còn bất cập.
Thứ ba, trình tự, thủ tục THADS còn khá “cồng kềnh”, “cũ kỹ”, “giấy tờ” trước tốc độ phát triển kinh tế xã hội, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, chưa thực sự đảm bảo tính đồng bộ của pháp luật theo cả chiều dọc và chiều ngang, gây khó khăn, phức tạp trong quá trình xử lý tài sản thi hành án:
Thứ năm, chưa có cơ chế đặc thù đối với một số loại việc THADS.
Thứ sáu, chưa có cơ chế thực sự hiệu quả, hữu hiệu để giải quyết loại án chưa có điều kiện thi hành; thiếu sự kết nối THADS và THAHS.
Thứ bảy, mức độ nghiên cứu gia nhập các điều ước quốc tế có liên quan đến lĩnh vực THADS còn hạn chế.
Thứ tám, áp lực chỉ tiêu thi hành xong về tiền có thể tạo ra khó khăn cho tiếp cận công lý của các đối tượng yếu thế, nhỏ lẻ.
Các hạn chế về pháp luật THADS một phần do kỹ thuật lập pháp còn hạn chế, việc sửa đổi, bổ sung, xây dựng các luật chưa chú trọng đến tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật cũng như vấn đề liên quan đến quản lý tài sản, tài khoản và các đặc thù của công tác THADS. Bên cạnh đó, thực tiễn đặt ra những vấn đề mới mà việc sửa đổi, bổ sung pháp luật còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Việc nghiên cứu, gia nhập điều ước quốc tế đòi hỏi nghiên cứu kỹ, lựa chọn điều ước đảm bảo phục vụ cho nhiều mục tiêu, đối tượng, và phải đảm bảo nội luật hóa hiệu quả. Việc chưa có hệ tiêu chí phù hợp đánh giá hiệu quả THADS cũng phần nào tác động đến định hướng hoàn thiện pháp luật THADS cũng như các chỉ tiêu mà Quốc hội giao cho công tác THADS. Các tiêu chí định tính đánh giá hiệu quả THADS cần phải được lồng ghép phù hợp trong pháp luật THADS, tuy nhiên đây là nội dung khó và cần rà soát, nghiên cứu thêm.
2.2.4. Thực trạng về chất lượng bản án, quyết định có hiệu lực thi hành
Chất lượng công tác xét xử của Tòa án, giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại và Hội đồng cạnh tranh ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng án tuyên không rõ, khó thi hành; vẫn còn tỉ lệ nhất định các bản án đã có hiệu lực bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ảnh hưởng đến quá trình tổ chức thi hành án.
2.2.5. Về đội ngũ công chức và nguồn nhân lực thi hành án dân sự
Chất lượng, số lượng đội ngũ công chức THADS ngày càng được cải thiện, tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra như biên chế bị cắt giảm trong khi số việc, tiền hàng năm đều tăng; các chức danh đặc thù còn thiếu; việc phân bổ, phân công nhiệm vụ chưa hợp lý; chưa có cơ chế bảo vệ CHV khỏi các rủi ro nghề nghiệp; năng lực số của công chức còn hạn chế. Bên cạnh đó, kỷ luật kỷ cương đạo đức công vụ vẫn còn tiếp tục phải hết sức quan tâm.
2.2.6. Thực trạng về cơ sở vật chất, các điều kiện làm việc và khoa học công nghệ
Các nhiệm vụ ứng dụng CNTT đã được Tổng cục THADS triển khai thực hiện, bước đầu đạt được một số kết quả nhưng vẫn còn chưa được đảm bảo theo các yêu cầu mới của 4.0.
2.2.7. Thực trạng công tác phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức có liên quan trong công tác thi hành án dân sự
Chương VIII Luật THADS đã quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong THADS như Bộ Công an, TAND, VKSND, UBND các cấp, Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, Bảo hiểm xã hội, cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm… Để thực hiện tốt công tác phối hợp, liên ngành đã ký kết, ban hành nhiều văn bản liên tịch như Quy chế số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-KSNDTC ngày 09/10/2013 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TANDTC, VKSNDTC về phối hợp liên ngành trong công tác THADS; các thông tư liên tịch về phối hợp bảo vệ cưỡng chế, về xét miễn, giảm khoản thu, nộp ngân sách nhà nước, về hoạt động của Ban chỉ đạo THADS v.v. Đặc biệt, Ban Bí thư cũng đã có Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 trong đó yêu cầu các cơ quan, tổ chức liên quan thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, quyền hạn và phối hợp trong công tác thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế. Nhìn chung, các cơ quan, tổ chức cơ bản đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền, lĩnh vực mình quản lý, đồng thời cũng đã phối hợp với cơ quan THADS trong quá trình tổ chức THADS. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng chia cắt trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, còn tình trạng coi việc thực hiện nhiệm vụ về THADS là của cơ quan THADS và phối hợp chưa nhịp nhàng, hiệu quả.
2.2.8. Thực trạng điều kiện kinh tế - xã hội
Trong những năm qua, Việt Nam luôn được đánh giá là quốc gia có nền chính trị hòa bình, ổn định; kinh tế từng bước phát triển theo nguyên tắc thị trường; đời sống người dân được nâng cao, ý thức pháp luật ngày càng tiến bộ.
Quyết tâm phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước được ủng hộ, vai trò của công tác tư pháp trong nhiệm vụ chính trị quan trọng này càng được đề cao. Những điều kiện này là tiền đề quan trọng, là nền tảng để công tác tư pháp nói chung và công tác THADS nói riêng tiếp tục nâng cao chất lượng.
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, vẫn còn không ít khó khăn, thách thức đặt ra. Nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài, nhất là việc xử lý tình trạng các ngân hàng thương mại yếu kém; những doanh nghiệp, dự án chậm tiến độ, kém hiệu quả. Kinh tế thế giới có xu hướng suy thoái do tác động của chiến tranh, biến đổi khí hậu, dịch bệnh tác động không nhỏ đến sự hồi phục kinh tế trong nước sau COVID-19. Việc quản lý tài sản, thu nhập trong xã hội còn khó khăn. Mặc dù ý thức pháp luật của nhân dân đã từng bước phát triển, nhưng tâm lý chung của người dân vẫn là “vô phúc đáo tụng đình”, chưa tin tưởng vào sự vô tư, khách quan, độc lập, công minh của các cơ quan tư pháp và thi hành pháp luật. Các hoạt động chống phá nhà nước, lợi dụng những hạn chế trong thực thi pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân để kích động, chia rẽ... ngày càng tinh vi. Do đó, những vấn đề này đang và sẽ đặt ra thách thức đối với công tác THADS.
CHƯƠNG 3. CÁC ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CỤ THỂ VỀ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2045
Trên cơ sở đánh giá hiệu quả công tác THADS hiện nay, những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS, Chương 3 đưa ra đề xuất, kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác THADS trong giai đoạn mới. Các đề xuất, kiến nghị được đặt ra trên cơ sở dự báo về tình hình, bối cảnh NNPQ XHCN Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; những định hướng về tổ chức và hoạt động THADS trong thời gian tới. Để đảm bảo tính khả thi, lôgic, có lộ trình thực hiện phù hợp, các định hướng và giải pháp được chia thành 02 giai đoạn: từ nay đến năm 2030, và từ năm 2030 đến năm 2045.
3.1. Dự báo về tình hình, bối cảnh Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Có thể dự báo những xu hướng thuận lợi, tích cực cũng như những thách thức, yêu cầu đặt ra trên cả bốn khía cạnh: Kinh tế - xã hội với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng 4.0; hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện; xây dựng NNQP XHCN gắn với cải cách hành chính, cải cách tư pháp, và mở rộng dân chủ XHCN với sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động của Nhân dân vào quản trị nhà nước. Bối cảnh đó đòi hỏi sự phát triển đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả của nền tư pháp nói chung và hoạt động THADS nói riêng, để vừa đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, vừa góp phần vào sự phát triển và thịnh vượng chung của xã hội.
3.2. Những định hướng về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự trong thời gian tới
Nghị quyết số 27-NQ/TW đã đề ra các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và nhiệm vụ, giải pháp thích hợp để thực hiện mục tiêu “Hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng XHCN vào năm 2045.”
Với 08 đặc trưng của NNPQ XHCN Việt Nam đã xác định tại Nghị quyết số 27-NQ/TW, công tác THADS phải đảm bảo thực hiện được các yêu cầu liên quan đến các đặc trưng này như đã phân tích tại mục 1.3 ở trên (trang…).
Đặc biệt, Nghị quyết số 27-NQ/TW đã xác định định hướng, nhiệm vụ của công tác THADS trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới tại nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ bảy “Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”. Cụ thể:
- “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án. … Hoàn thiện cơ chế nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THADS, hành chính theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan trong THAHS, dân sự và hành chính; thực hiện xã hội hóa một số hoạt động THADS với cơ chế bảo đảm và lộ trình phù hợp”;
- “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực để xã hội hóa và phát triển các lĩnh vực … thừa phát lại, …; xây dựng đội ngũ hành nghề … thừa phát lại, … đủ về số lượng và bảo đảm chất lượng, hoạt động chuyên nghiệp, tuân thủ pháp luật và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội.”
- “Phát triển nhân lực tư pháp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý. Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp; .... Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp. Mở rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Đổi mới chính sách, chế độ tiền lương, thời hạn bổ nhiệm và cơ chế bảo đảm để đội ngũ cán bộ tư pháp yên tâm công tác, liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới”.
Bên cạnh đó, tại nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ tám “Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực”, công tác thi hành án cũng được đề cập: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. Nghiên cứu thành lập các thiết chế mới về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; ban hành các quy định về kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác … thi hành án”.
Công tác THADS mang đặc trưng là một trong những hoạt động tư pháp, đồng thời là một trong những công tác do Chính phủ quản lý. Do đó, định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác THADS cũng gắn với nhiệm vụ và đòi hỏi tổ chức và hoạt động của Chính phủ, các cơ quan thuộc Chính phủ (nhiệm vụ và giải pháp thứ sáu): “tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức với ba trụ cột chính: Tổ chức bộ máy; công vụ, công chức; hành chính điện tử và chuyển đổi số”.
Đồng thời, việc thực hiện các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và nhiệm vụ, giải pháp do Nghị quyết số 27-NQ/TW đã đề ra đối với công tác THADS không thể tách biệt mà phải gắn kết chặt chẽ và bám sát các nhiệm vụ, giải pháp còn lại của Nghị quyết số 27-NQ/TW, như công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, v.v. trong các lĩnh vực, nhiệm vụ cụ thể của công tác THADS.
3.3. Đề xuất và kiến nghị cụ thể để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030
Công tác THADS trong NNPQ XHCN Việt Nam đến năm 2030 cần bảo đảm thực hiện nghiêm các quy định của Hiến pháp năm 2013, các mục tiêu cụ thể, các đột phá chiến lược (hoàn thiện đồng bộ thể chế; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng) của Nghị quyết Đại hội Đảng khóa XIII , các mục tiêu, trọng tâm, nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết số 27-NQ/TW đề ra.
3.3.1. Định hướng về hiệu quả công tác thi hành án dân sự theo các tiêu chí đánh giá
Căn cứ thực trạng hiệu quả công tác THADS hiện nay, bối cảnh đến năm 2030 và các yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, chúng tôi đề xuất các chỉ tiêu về hiệu quả công tác THADS sẽ đạt được đến năm 2030 ở mức độ như sau:
3.3.1.1. Về các tiêu chí định lượng
a) Tỷ lệ ra quyết định thi hành án đúng quy định của pháp luật đối với các bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực
Nhìn chung, hiện nay, tiêu chí này đã cơ bản tốt, chỉ còn một số hạn chế nhỏ cần khắc phục. Do đó, đến năm 2030, tiêu chí này có thể đạt được ở mức tuyệt đối: Đảm bảo thực hiện nghiêm chỉ tiêu “ra quyết định thi hành án đúng quy định của pháp luật 100% đối với các bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực”. Khắc phục triệt để các hạn chế hiện có, bao gồm các vấn đề từ phía cơ quan tố tụng: chậm chuyển giao bản án, quyết định, vật chứng, chậm đính chính, giải thích bản án. Đảm bảo 100% đương sự hiểu rõ về quyền yêu cầu thi hành án và thời hiệu yêu cầu thi hành án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Cơ sở của các chỉ số này là xu hướng tin học hóa mạnh mẽ ở cả Tòa án lẫn hệ thống THADS, sự chú trọng của Tòa án trong việc nâng cao chất lượng công tác xét xử và tăng cường các biện pháp hỗ trợ người dân tiếp cận công lý ngay từ giai đoạn xét xử đến giai đoạn THADS.
b) Tỷ lệ phân loại án dân sự có điều kiện thi hành, tỷ lệ thi hành án dân sự xong trên tổng số án có điều kiện thi hành; số vụ việc phải cưỡng chế
- Phân loại án có điều kiện thi hành: Yêu cầu của chỉ tiêu này là kết quả phân loại án chính xác, phản ánh thực chất tình hình, điều kiện về tài sản, thu nhập của người phải thi hành án. Kết quả phân loại do đó không đặt ra chỉ tiêu cụ thể bao nhiêu %, mà chỉ đặt ra tính chính xác của tỉ lệ đó. Để đạt được chỉ tiêu này, cần có đủ các cơ chế, công cụ, biện pháp để đảm bảo tính chính xác của việc phân loại án, bao gồm các cơ chế đảm bảo đương sự kê khai thông tin chính xác, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, và kịp thời theo dõi tình hình tài sản, thu nhập của đương sự để thi hành án.
- Về kết quả thi hành xong: Tiếp tục duy trì mục tiêu nâng tỷ lệ THADS xong trên tổng số án có điều kiện thi hành năm sau cao hơn năm trước trên cơ sở kết quả phân loại án có điều kiện chính xác và bổ sung tiêu chí về thời gian thi hành.
- Số vụ việc cưỡng chế: Việc đặt ra định mức cụ thể về số vụ việc cưỡng chế là khó khăn, do đó, định hướng đề ra là hạn chế các vụ việc phải huy động lực lượng lớn, giảm chi phí cưỡng chế và rút ngắn thời gian tổ chức thi hành trong các vụ việc phải cưỡng chế.
c) Thời gian và chi phí thi hành án dân sự
- Về thời gian: Theo quy định pháp luật THADS hiện hành, các thời hạn tác nghiệp cơ bản đã quy định khá hợp lý, ngoại trừ một số giai đoạn thi hành chưa xác định cụ thể (xác minh, tổ chức cưỡng chế) hoặc kéo dài chưa phù hợp (ưu tiên mua tài sản chung, xử lý tiền, tài sản không có người đến nhận…). Vướng mắc chủ yếu hiện nay là do việc thực thi pháp luật chưa nghiêm, phối hợp chưa chặt chẽ, thiếu thông tin về tài sản và tình trạng pháp lý của tài sản phức tạp. Do đó, về lý thuyết, thời gian thi hành án trung bình là 150 ngày (như nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới), nhưng thực tế thì còn kéo dài hơn khá nhiều (như kết quả khảo sát luật sư năm 2016). Với định hướng hoàn thiện thể chế về THADS, các vấn đề từ quy định pháp luật THADS sẽ sớm được khắc phục. Các vấn đề còn lại cần sự vào cuộc của không chỉ cơ quan THADS mà còn các cá nhân, cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương, mức độ kiểm soát tài sản, thu nhập trong xã hội, xây dựng, đồng bộ hoá và khai thác thông tin từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư v.v.
Do đó, về thời gian thi hành án, định hướng đến năm 2025 là rút ngắn thời gian thi hành án luật định một cách tối đa, loại trừ hết các vấn đề vướng mắc đã phát hiện nêu trên, từng bước khắc phục các khó khăn từ thực tiễn để đến năm 2030 thời gian thi hành thực tế đúng với thời hạn mà pháp luật quy định. Khả quan hơn, đến năm 2030, thời gian thi hành án trung bình của Việt Nam - đồng thời cũng là thời gian thi hành trên thực tế - có thể bằng với Thái Lan (hiện nay là 120 ngày) và nằm trong top 4 nước dẫn đầu ASEAN, như mục tiêu Chính phủ đã đề ra.
- Về chi phí: Mức phí thi hành án của Việt Nam hiện là 3% giá trị tài sản thực nhận, ở nhóm trung bình của các nước châu Á. Các trường hợp được miễn, giảm, không thu phí cũng đã quy định đầy đủ, đảm bảo cho các mục tiêu an sinh xã hội, nhân đạo, khuyến khích đương sự cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án v.v. Do đó, mức phí thi hành án và các quy định hiện hành cơ bản là phù hợp và nên tiếp tục duy trì.
Định hướng đến năm 2030 là triệt để xoá bỏ chi phí không chính thức (do “tham nhũng vặt”, thông đồng, móc nối trong đấu giá tài sản thi hành án…); từng bước cắt giảm chi phí hành chính, chi phí đầu tư để tuân thủ quy định, chi phí rủi ro pháp lý, và chi phí đặc thù có thể phát sinh trong quá trình thi hành án. Tuy nhiên, để giảm bớt các chi phí này cho đương sự, thì đòi hỏi Nhà nước phải có sự đầu tư thoả đáng vào các hoạt động của các cơ quan thực thi để thực hiện các nhiệm vụ như: hoàn thiện hệ thống toà án điện tử, chuyển giao bản án, quyết định trực tuyến, tống đạt trực tuyến, gửi yêu cầu thi hành án trực tuyến, khai thác thông tin về tài sản, thu nhập của người phải thi hành án trực tuyến, đấu giá tài sản thi hành án trực tuyến, xây dựng các kênh uỷ thác tư pháp trực tuyến v.v. Bên cạnh đó, việc rút ngắn thời gian thi hành án cũng sẽ tương ứng với giảm thiểu chi phí thi hành án thông qua hoàn thiện các quy trình, thủ tục THADS.
d) Số hành vi vi phạm trong thi hành án dân sự
Thực tiễn công tác kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong THADS thời gian qua cho thấy số hành vi vi phạm của Chấp hành viên, người làm công tác THADS vẫn là một vấn đề đáng lo ngại. Việc vi phạm pháp luật trong THADS bên cạnh các vấn đề liên quan đến nghiệp vụ, áp dụng pháp luật, quản lý chỉ đạo… còn có các vấn đề về đạo đức, liêm chính.
Từ các nguyên nhân đã phân tích, cùng với yêu cầu tăng cường công khai, minh bạch, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong giai đoạn hiện nay, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: i) kiểm tra, giám sát, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; ii) rà soát, hoàn thiện pháp luật THADS, quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan THADS để giảm thiểu rủi ro cho Chấp hành viên, người làm công tác THADS vì các lý do khách quan khi áp dụng pháp luật; đảm bảo trình tự thủ tục THADS công khai, minh bạch, chặt chẽ, không tạo kẽ hở để bị lợi dụng nhằm tham nhũng, tiêu cực; iii) tăng cường công khai, minh bạch, giám sát, kiểm soát quyền lực trong THADS, nhất là phát huy trách nhiệm của đương sự, xã hội thông qua số hóa hoạt động THADS; iv) xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm, bảo đảm các điều kiện về chế độ chính sách, tiền lương cho công chức trong Hệ thống THADS để “không muốn” và “không cần” tham nhũng, tiêu cực.
e) Đổi mới tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
Với yêu cầu “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án”, hệ thống cơ quan THADS cần bảo đảm tính kế thừa và phát huy những ưu điểm cơ bản của mô hình hiện tại, đồng thời khắc phục triệt để những nhược điểm đang cản trở, làm giảm hiệu lực và hiệu quả của toàn bộ công tác thi hành án, có tính đến bối cảnh, xu hướng phát triển của nền kinh tế - xã hội và xu thế hội nhập, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp. Như đã phân tích ở Chương 2, tỉ lệ số lượng Chấp hành viên/Thừa phát lại trên tổng dân số Việt Nam hiện chỉ ở mức thấp, trong khi đó, thời gian tới, số lượng việc, tiền có xu hướng tăng lên hàng năm, kết quả của quá trình chuyển đổi số mới ở giai đoạn đầu, năng lực, chất lượng đội ngũ công chức, Chấp hành viên vẫn còn tiếp tục cần được nâng cao nhất là các kỹ năng số, kỹ năng làm việc trong môi trường hiện đại. Do đó, mục tiêu chủ yếu đến năm 2030 là tinh gọn đầu mối cơ quan THADS, cơ bản thực hiện lộ trình tinh giản biên chế theo chủ trương chung của Chính phủ. Tổ chức, bộ máy của Tổng cục THADS và các cơ quan THADS địa phương đến năm 2030 được sắp xếp, đổi mới theo đúng tinh thần, mục tiêu tại Nghị quyết 18-NQ/TW; Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 27-NQ/TW, bảo đảm tổ chức bộ máy tinh gọn, hợp lý, khoa học và đi vào hoạt động ổn định; đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, nhạy bén.
Về mô hình phát triển của Thừa phát lại, trong thời gian tới cần phải phát huy các kết quả đã đạt được từ khi thực hiện thí điểm về Thừa phát lại năm 2009 đến nay và cần có lộ trình phù hợp. Đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội hiện nay cho thấy, các điều kiện để bảo đảm cho hoạt động của Thừa phát lại trong lĩnh vực xác minh, tổ chức thi hành án chưa chín muồi. Vì vậy, với các điều kiện trên, trước mắt, cần tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng chế định này để có bước đi thận trọng, thích hợp. Do đó, từ nay đến năm 2030, nhiệm vụ chủ yếu là đánh giá, tổng kết và xây dựng thể chế đảm bảo quyền năng và khả năng thực hiện nhiệm vụ của Thừa phát lại.
3.3.1.2. Về các tiêu chí định tính
Như đã phân tích ở Chương 2, các tiêu chí định tính cơ bản đã được đảm bảo trong quá trình tổ chức THADS nhưng vẫn còn không ít vấn đề được đặt ra. Để khắc phục những hạn chế này, các nhiệm vụ đến năm 2030 gắn với công tác hoàn thiện thể chế và tổ chức thi hành pháp luật hiệu lực, hiệu quả. Một số định hướng cơ bản là cần hoàn thiện các quy định theo hướng đảm bảo trao đủ quyền, đủ công cụ, điều kiện thực hiện cho cơ quan THADS, đương sự; đồng thời quy định các chế tài, trách nhiệm cho người phải thi hành án, cơ quan, tổ chức có liên quan trong quá trình thi hành án.
3.3.2. Các giải pháp cụ thể
3.3.2.1. Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác thi hành án dân sự
Công tác THADS luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước (từ định hướng đến thể chế, tổ chức, chính sách cán bộ, cơ sở vật chất và phương tiện hoạt động). Nhờ đó, vị thế của Hệ thống THADS ngày càng được nâng lên, là cơ sở để các Bộ, Ngành ở trung ương, cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm, hỗ trợ, lãnh đạo chỉ đạo; việc phối hợp giữa Bộ Tư pháp với các Bộ, Ban ngành ở Trung ương và địa phương trong công tác THADS, THAHC ngày càng thuận lợi, chặt chẽ, hiệu quả hơn. Việc Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, toàn hệ thống chính trị đã vào cuộc và đồng hành cùng với các cơ quan THADS trong việc thực hiện chính trị quan trọng này. Do đó, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác THADS vừa là định hướng, vừa là giải pháp trọng yếu để nâng cao hiệu quả công tác THADS.
3.3.2.2. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hệ thống Thi hành án dân sự
Vấn đề đầu tiên cần thực hiện để nâng cao hiệu quả công tác THADS từ thực tiễn và lý luận đều khẳng định là vấn đề về mô hình tổ chức (thiết chế). Theo đó, mô hình tổ chức THADS trong giai đoạn mới cần đổi mới theo các định hướng và giải pháp sau:
a) Tinh gọn đầu mối bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự
Thứ nhất, xây dựng bộ máy tinh gọn, hiệu lực hiệu quả; tăng cường năng lực tổ chức thi hành án cho cấp Chi cục THADS, với các giải pháp cụ thể như sau:
- Về chức năng, nhiệm vụ: Bộ Tư pháp tiếp tục giữ vai trò chủ trì giúp Chính phủ thực hiện hiệu quả nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác THADS, THAHC; tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Hệ thống THADS; phối hợp hiệu quả với Bộ Quốc phòng trong quản lý THADS trong quân đội.
- Về tổ chức bộ máy, dự kiến đến năm 2030, hệ thống tổ chức THADS sẽ được kiện toàn như sau:
+ Sắp xếp các đơn vị trực thuộc Tổng cục THADS đảm bảo tinh gọn theo nguyên tắc một đơn vị phụ trách nhiều lĩnh vực và một lĩnh vực do một đơn vị chủ trì phụ trách.
+ Sắp xếp các phòng và tương đương thuộc Cục THADS bảo đảm tinh gọn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và các tiêu chí thành lập.
+ Sắp xếp lại hệ thống và đảm bảo năng lực tổ chức thi hành án cho Chi cục THADS, vì đây là cấp đơn vị cơ sở trực tiếp tổ chức thi hành án lớn nhất. Phương án sắp xếp có thể bám sát theo phương án sắp xếp của TAND cấp huyện và sắp xếp theo nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện theo quy định. Hoặc, Hệ thống THADS cũng có thể chủ động đánh giá tình hình, khối lượng công việc và xu hướng phát triển của từng đơn vị cấp Chi cục để có phương án sắp xếp lại các Chi cục theo hướng gọn đầu mối, đảm bảo số lượng các chức danh THADS và tiết kiệm, hiệu quả trong đầu tư cơ sở hạ tầng.
+ Rà soát, sắp xếp, bố trí, sắp xếp đủ số lượng cấp trưởng, số lượng cấp phó các đơn vị trong Hệ thống tổ chức THADS theo đúng quy định, bảo đảm sự ổn định, kế thừa, có lộ trình, bảo đảm chế độ, chính sách đối với công chức lãnh đạo, quản lý.
Thứ hai, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đảm bảo quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp THADS - cơ quan - cá nhân; đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành.
- Phân cấp hợp lý giữa Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS và các cơ quan THADS địa phương trong thực hiện các nhiệm vụ được giao, gắn phân cấp với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, trực tiếp là về thể chế, tổ chức bộ máy, cán bộ và kinh phí.
- Phân định rõ, hợp lý chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các đơn vị trong Hệ thống THADS, giữa các đơn vị thuộc cơ quan Tổng cục và các tổ chức trực thuộc, quy định đầy đủ quy chế, quy trình, phương thức làm việc hiện đại, chuyên nghiệp thông qua tăng cường ứng dụng CNTT, chuyển đổi số.
b) Kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực chặt chẽ, hiệu quả
Trước hết, về kiểm tra, giám sát nội bộ, tiếp tục tăng cường hiệu quả công tác tự kiểm tra, kiểm tra của cơ quan THADS và cơ quan cấp trên trực tiếp.
Thứ hai, về kiểm sát của Viện kiểm sát, với việc xác định bản chất của công tác THADS là hoạt động tư pháp, cần tăng cường tính tư pháp trong hoạt động của cơ quan THADS, trong đó, khẳng định vai trò, trách nhiệm của VKSND các cấp trong kiểm sát THADS.
Thứ ba, quy định rõ phạm vi, nội dung của hoạt động thanh tra với hoạt động kiểm tra, kiểm sát theo hướng hoạt động thanh tra áp dụng đối với các nội dung đặc thù hành chính trong hoạt động của cơ quan THADS, như kế toán hành chính, đầu tư công, tuyển dụng, sử dụng công chức.
Thứ tư, về kiểm tra, giám sát của Đảng, các cơ quan dân cử và Nhân dân, tăng cường kiểm soát của Đảng đối với án thuộc diện chủ động thi hành; phối hợp với cơ quan kiểm sát, cơ quan THADS cấp trên trực tiếp trong việc tổ chức các đoàn kiểm tra, giám sát từ khâu lập kế hoạch kiểm tra, giám sát hàng năm. Thực hiện các cơ chế công khai, minh bạch và yêu cầu về trách nhiệm giải trình của cơ quan, công chức THADS đối với đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thông qua các ứng dụng, phầm mềm cập nhật tình hình, tiến độ tổ chức THADS; đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được cấp tài khoản để truy cập và theo dõi tiến trình THADS và thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình.
Thứ năm, quy định rõ hơn để đảm bảo quyền kiểm soát trở lại của cơ quan THADS đối với các cơ quan tư pháp, các cơ quan, tổ chức có liên quan, nhất là các quy định về trách nhiệm của TAND trong việc giải quyết các yêu cầu, kiến nghị của cơ quan THADS; trong việc đính chính, giải thích bản án; chịu trách nhiệm “đến cùng” cùng với cơ quan THADS trong quá trình tổ chức thi hành án...; trách nhiệm của VKSND trong trường hợp cơ quan THADS kiến nghị, yêu cầu VKSND xem xét lại hành vi, quyết định của VKSND khi có căn cứ cho rằng hành vi, quyết định đó không có căn cứ, trái pháp luật chứ không chỉ dừng lại ở việc trả lời theo quy định; trách nhiệm của cơ quan công an trong việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các biện pháp bảo đảm v.v.
c) Xã hội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự
Về thể chế, có thể xem xét hoàn thiện quy định về sự phân định nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan THADS và Thừa phát lại, khắc phục sự chồng chéo, đan xen trách nhiệm dẫn đến khó tổ chức thực hiện trên thực tế và phù hợp với tính chất chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan… Theo đó, có thể hoàn thiện các quy định, quyền hạn hiện nay của Thừa phát lại theo hướng :
- Đối với hoạt động tống đạt văn bản: Thực tế phát sinh nhiều nhu cầu tống đạt văn bản của cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp. Vì vậy, ngoài việc tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu của cơ quan tòa án, cơ quan thi hành án nên mở rộng phạm vi tống đạt của thừa phát lại theo hướng:
+ Thừa phát lại được tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu có liên quan đến tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài trên phạm vi toàn quốc;
+ Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm đôn đốc, yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ và nghĩa vụ pháp lý khác.
- Hoàn thiện các quy định về chi phí tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu của Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan THADS; xác minh điều kiện thi hành án
- Đối với việc lập vi bằng: từ thực tiễn một số sai phạm gần đây về hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại, cần quy định rõ ràng, cụ thể hơn đối với thẩm quyền lập vi bằng, giá trị pháp lý của vi bằng, việc đăng ký vi bằng.
Xây dựng và phát triển đội ngũ thừa phát lại chuyên nghiệp theo hướng tăng cường công tác đào tạo chính quy, bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, có kinh nghiệm thực tiễn trong công tác pháp luật, tư pháp.
Đặc biệt, cần đẩy mạnh việc nghiên cứu, tham khảo một số mô hình THADS hiệu quả trên thế giới nhằm học tập kinh nghiệm xã hội hóa trong THADS.
Có thể xây dựng chính sách và giải pháp thúc đẩy thành lập tổ chức xã hội nghề nghiệp của thừa phát lại, như điều kiện, quy trình, thủ tục thành lập tổ chức xã hội - nghề nghiệp của thừa phát lại ở từng địa phương tiến tới thành lập tổ chức xã hội nghề nghiệp của thừa phát lại toàn quốc.
3.3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và pháp luật có liên quan
Theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW, cần thực hiện rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về THADS theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí. Để bảo đảm các định hướng trên, việc hoàn thiện pháp luật về THADS đến năm 2030 tập trung vào các giải pháp chính như sau:
a) Hoàn thiện các quy định về quyền, nghĩa vụ của đương sự, người tham gia THADS khác
- Hoàn thiện các quy định hiện hành về quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án theo hướng tăng cường vai trò, trách nhiệm và cơ chế để họ có thể chủ động thực hiện, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong THADS. Quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm của Thừa phát lại khi cung cấp các dịch vụ hỗ trợ đương sự nhằm đẩy nhanh việc thi hành án.
- Đề cao nguyên tắc người phải thi hành án phải chịu trách nhiệm thi hành đối với toàn bộ tài sản của mình. Đảm bảo cân bằng hợp lý giữa nghĩa vụ với quyền của người phải thi hành án.
- Quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục, phạm vi thẩm quyền để Chấp hành viên hòa giải trong THADS. Xem xét các phương án cho phép đương sự thỏa thuận giãn nợ, trả góp, các cơ chế buộc thực hiện đúng thỏa thuận và có phương thức thống kê phù hợp đối với việc thi hành theo hình thức này. Đối với các vụ việc đã có quyết định cưỡng chế, người phải thi hành án bị hạn chế quyền thỏa thuận, người được thi hành án có quyền đề nghị được thỏa thuận và phải chịu trách nhiệm về đề nghị này.
- Bổ sung quy định đầy đủ tư cách, quyền và nghĩa vụ của người thứ ba bảo đảm bằng tài sản của mình thực hiện nghĩa vụ cho người phải thi hành án.
b) Hoàn thiện quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và các cơ chế kiểm soát, bảo vệ Chấp hành viên, trách nhiệm của cơ quan liên quan
- Về quyền hạn, trách nhiệm của Chấp hành viên:
+ Rà soát và loại trừ các quy định trao các quyền hạn, trách nhiệm chưa phù hợp cho Chấp hành viên trong quá trình thi hành án. Quy định rõ ràng, cụ thể phạm vi quyền hạn của Chấp hành viên theo đúng nguyên tắc chỉ được làm những gì pháp luật quy định; hoàn thiện các cơ chế kiểm sát, giám sát đối với các quyết định quan trọng, có thể dẫn đến sai sót, vi phạm hoặc có thể bị lợi dụng để tham nhũng, tiêu cực.
+ Quy định chặt chẽ và kiên quyết xử lý nghiêm những hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của Chấp hành viên…
- Bổ sung, làm rõ vai trò, trách nhiệm của VKSND trong việc kiểm sát hoạt động, kiểm soát quyền lực trong suốt quá trình THADS.
- Xác định rõ chế tài đối với những cá nhân, cơ quan khi không nghiêm túc thực hiện quy định của pháp luật về phối hợp trong THADS.
c) Hoàn thiện quy định về trình tự, thủ tục THADS, đảm bảo tính đồng bộ của pháp luật theo cả chiều dọc và chiều ngang
- Rà soát các thời hạn cụ thể của từng giai đoạn thi hành án, loại bỏ các quy định gây kéo dài thời gian, tốn kém chi phí thi hành án, đảm bảo tính hợp lý, khả thi và xác định được thời gian tối đa để thực hiện.
- Đổi mới, hiện đại hoá trình tự, thủ tục tổ chức thi hành theo hướng tăng cường ứng dụng yền trong THADS, đảm bảo khả thi, phù hợp với thực tiễn. Đơn giản hoá và tăng cường ứng dụng CNTT đối với thủ tục tống đạt, thông báo thi hành án.
- Hoàn thiện các quy định về áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế THADS. Khi cưỡng chế THADS, xem xét quy định chỉ thực hiện kê biên 01 lần và người phải thi hành án có trách nhiệm giao tài sản để cơ quan THADS xử lý.
- Rà soát để khắc phục những vấn đề còn mâu thuẫn, chưa rõ, chưa phù hợp, còn khoảng trống trong đấu giá tài sản THADS. Rút ngắn thời gian ưu tiên mua tài sản chung. Chuyển đổi đấu giá sang hình thức trực tuyến để tăng tính cạnh tranh, công khai, minh bạch và nâng cao giá trị tài sản bán được.
- Nghiên cứu bổ sung các quy định đặc thù để rút ngắn thời gian THADS đối với i) án dân sự, kinh doanh, thương mại, phá sản – nhất là đối với các loại tài sản đặc thù như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, dự án đầu tư, quyền khai thác khoáng sản, tài sản số…; ii) phần dân sự trong bản án hình sự, nhất là án thu hồi tài sản tham nhũng, các cơ chế thu hồi tài sản ở nước ngoài, xử lý vật chứng; iii) loại việc buộc thực hiện hoặc không thực hiện công việc nhất định, nhất là các loại việc liên quan đến quyền nhân thân nhằm bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của các nhóm yếu thế; iv) thi hành án có yếu tố nước ngoài để đáp ứng nhu cầu hội nhập; v) thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp phát sinh trong giai đoạn thi hành án với vai trò của Toà án hoặc Thẩm phán chuyên trách giải quyết loại việc này trong pháp luật tố tụng dân sự.
d) Tiếp tục nghiên cứu gia nhập các điều ước quốc tế, tham gia tổ chức hợp tác đa phương về thi hành án dân sự
Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế song phương và đa phương về thi hành án nói chung và THADS nói riêng; kịp thời nội luật hoá và triển khai thực hiện hiệu quả.
Đối với các cơ chế hợp tác song phương, đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS, trước mắt, có thể tiếp tục tích cực tham gia các hội nghị, diễn đàn quốc tế, kịp thời cập nhật những kinh nghiệm hay, các nguyên tắc chung được giới thiệu và áp dụng phổ biến để nghiên cứu hoàn thiện thể chế cũng như cách thức tổ chức thi hành; giới thiệu cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về vai trò, chức năng, nhiệm vụ, thành tựu của Việt Nam, thậm chí có thể đề xuất các thực tiễn tốt của Việt Nam trong THADS. Về lâu dài, căn cứ quy chế hoạt động của từng tổ chức và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, có thể xem xét gia nhập, trở thành thành viên của các tổ chức hành nghề và trực tiếp đóng góp vào việc xây dựng luật chơi chung.
e) Nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện quy định về tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác THADS
Hiệu quả công tác THADS hiện nay chủ yếu được Chính phủ đánh giá một cách tổng thể, toàn diện tại Báo cáo về công tác Thi hành án theo các chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể mà Đảng, Quốc hội giao cho Chính phủ về công tác THADS. Do đó, có thể tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác THADS tại các Nghị quyết của Quốc hội để đảm bảo đánh giá toàn diện các tiêu chí định lượng và nhất là các tiêu chí định tính.
Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tư pháp có thể xem xét ban hành văn bản quy định bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác THADS trong bối cảnh xây dựng NNPQ XHCN trong giai đoạn mới.
3.3.2.4. Tăng cường chất lượng bản án, quyết định có hiệu lực thi hành
TAND các cấp cần hoàn thiện vai trò trung tâm của mình trong việc thực hiện quyền tư pháp.
Trọng tài thương mại, Hội đồng Cạnh tranh cần tiếp tục phát huy vai trò giải quyết tranh chấp ngoài Toà án, chú trọng hòa giải, đối thoại để đương sự tự nguyện thi hành.
3.3.2.5. Phát triển đội ngũ công chức và nguồn nhân lực thi hành án dân sự
Chú trọng phát triển đội ngũ Chấp hành viên, công chức ngành THADS theo định hướng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật THADS có đủ phẩm chất, năng lực, chuyên nghiệp, hiện đại, liêm chính, chí công, vô tư, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.
Về năng lực chuyên môn, tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, thu hút nhân tài với việc từng bước nâng cao các tiêu chuẩn thi tuyển, tuyển dụng đầu vào. Tăng cường phối hợp với các cơ sở đào tạo luật hoàn thiện các chương trình đào tạo có nội dung về công tác THADS. Tiếp tục quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên cho đội ngũ làm công tác THADS, nhất là các kỹ năng tác nghiệp, kỹ năng phục vụ chuyển đổi số để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả làm việc, kỹ năng mềm, kỹ năng ngoại ngữ v.v.
Về đạo đức công vụ, tiếp tục thực hiện các biện pháp bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, rèn luyện, tu dưỡng bản lĩnh chính trị của các công chức THADS, bảo vệ chính trị nội bộ, tăng cường đoàn kết trong cơ quan THADS. Xem xét tiếp tục cụ thể hóa các hành vi mà Chấp hành viên, người làm công tác THADS không được làm trên cơ sở tham khảo một số bộ tiêu chuẩn quốc tế.
Về cơ cấu ngạch công chức, xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân lực THADS. Mở rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm các chức danh THADS. Bảo đảm cơ cấu hợp lý các ngạch Chấp hành viên - Thẩm tra viên - Thư ký THADS - Thủ kho - Kế toán nghiệp vụ và các chức danh khác trong THADS.
Về định mức năng suất lao động, cần có khảo sát và thống kê hợp lý số lượng việc/ tiền, tính chất loại việc mà mỗi Chấp hành viên có thể thi hành trong tuần/tháng/quý/năm, đảm bảo thời gian thi hành nhanh chóng, hiệu quả, không xảy ra sai sót, vi phạm để xác định định mức năng suất lao động và làm căn cứ xác định mức độ “quá tải” của Chấp hành viên. Từ đó, có biện pháp luân chuyển, điều động, bố trí biên chế phù hợp với từng vùng, từng khu vực phù hợp với số biên chế hiện có.
Về bảo đảm phúc lợi và an toàn cho công chức làm công tác THADS, cần đổi mới chính sách, chế độ tiền lương, nâng cao đời sống của đội ngũ Chấp hành viên, công chức ngành THADS, thời hạn bổ nhiệm và cơ chế bảo đảm để đội ngũ cán bộ THADS yên tâm công tác, liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là đối với đội ngũ Chấp hành viên. Tiếp tục quy định chặt chẽ, phù hợp về kiểm soát quyền lực trong THADS, hạn chế tình trạng kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, giám sát chồng chéo, nhiều tầng nhiều nấc, gây khó khăn phức tạp cho Chấp hành viên và cơ quan THADS cũng như tạo tâm lý lo ngại sai phạm trong quá trình tổ chức thi hành án. Nghiên cứu xây dựng Quỹ bảo hiểm đặc thù. Quỹ bảo hiểm có thể hỗ trợ, chi trả đối với các trường hợp Chấp hành viên bị rủi ro trong quá trình thi hành án do đương sự chống đối, hoặc phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước do lỗi vô ý. Có các cơ chế phù hợp để bảo vệ Chấp hành viên, người làm công tác THADS và gia đình khỏi các nguy hiểm, rủi ro nghề nghiệp. Xem xét có chế độ tương đương với cán bộ chiến sĩ THAHS khi xảy ra các vấn đề xâm hại đến sức khỏe, tính mạng của Chấp hành viên.
3.3.2.6. Chuyển đổi số, đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động thi hành án dân sự
Trong bối cảnh nguồn lực quốc gia có hạn, cần đầu tư cho nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, việc đầu tư để bảo đảm cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng cho hoạt động THADS phải bảo đảm gắn liền với yêu cầu tinh gọn bộ máy, đầu tư trang thiết bị có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, tốn kém. Đồng thời, phải tận dụng và phát huy hết các kết quả đạt được từ sự đầu tư của nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực khác, nhất là gắn kết THADS với THAHS.
a) Hiện đại hóa, chuyển đổi số trong thi hành án dân sự
Các mục tiêu cần đạt được của việc chuyển đổi số trong THADS đến năm 2030 cần đạt được là: (i) Đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ: xử lý xuyên suốt trên một nền tảng, xâu chuỗi thông tin trong quá trình thụ lý, tổ chức THADS; hoạt động trên môi trường điện tử, gắn với Chính phủ số; Tiếp cận dễ dàng, thuận tiện; (ii) Nâng cao chất lượng dịch vụ: Thiết lập hệ sinh thái hỗ trợ THADS và chủ động cung cấp dịch vụ cho người dân, tổ chức để đáp ứng nhu cầu xã hội; Tối ưu thời gian, chi phí khi thực hiện TTHC, thực thi việc tổ chức THADS; (iii) Quy hoạch hệ thống cơ sở dữ liệu: Kế thừa mô hình thiết kế hệ thống dữ liệu hiện tại; thiếp lập cơ sở dữ liệu THADS tập trung, toàn diện; Hình thành hệ sinh thái phục vụ THADS, kết nối với hệ sinh thái ngành Tư pháp; (iv) Tích hợp dữ liệu: đẩy mạnh việc tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu quốc gia khác; mở rộng kết nối, tích hợp hệ thống với các cơ quan nhằm thu thập thông tin hỗ trợ THADS; chia sẻ dữ liệu phục vụ quản lý nhà nước, phát triển chính phủ số; (v) Ứng dụng công nghệ 4.0: xử lý dữ liệu lớn, ứng dụng AI; hỗ trợ người dùng tự động 24/7; đảm bảo vận hành ổn định và an toàn thông tin cho hệ thống; (vi) Học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong triển khai thi hành Bộ luật toàn cầu về thi hành án số và các phần mềm, ứng dụng, kinh nghiệm quản lý khi số hóa THADS.
b) Đảm bảo về trụ sở, kho vật chứng, kinh phí, phương tiện làm việc
Trên cơ sở thực trạng cơ sở vật chất của cơ quan THADS hiện nay, Bộ Tư pháp đã ban hành một số Đề án để kịp thời trang cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc và tăng cường ứng dụng CNTT trong THADS. Cùng với các nhiệm vụ về tinh gọn bộ máy mà hệ thống các cơ quan THADS đang thực hiện, việc đảm bảo những yêu cầu cơ bản, thiết yếu trong hoạt động của cơ quan THADS là cấp thiết. Do đó, việc đầu tư cơ sở vật chất, khoa học công nghệ đến năm 2030 cần xác định có trọng tâm, trọng điểm, tập trung các giải pháp đột phá để nâng cao hiệu quả THADS thông qua các mục tiêu, giải pháp về chuyển đổi số.
Về trụ sở, trên cơ sở rà soát tình hình trụ sở hiện nay, đề án tinh gọn các cơ quan THADS trong thời gian tới, cần xây dựng quy hoạch trụ sở cơ quan THADS. Việc thiết kế trụ sở đảm bảo tiết kiệm, đáp ứng công năng, nhu cầu sử dụng trong thời gian dài. Thường xuyên duy tu, bảo dưỡng, bảo vệ đối với các công trình hiện có.
Về kho vật chứng, tiếp tục quan tâm đầu tư cho các kho vật chứng của hệ thống THADS.
Về trang thiết bị làm việc, bảo đảm trang bị đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
3.3.2.7. Hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp trong thi hành án dân sự
Chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác nội chính, tư pháp ngày càng đặt ra các vấn đề phân công trách nhiệm rõ ràng, gắn với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các bộ, ngành trong từng lĩnh vực công tác. Do đó, trong THADS, đây cũng chính là định hướng, nhiệm vụ đặt ra cho các bộ, ngành có liên quan. Các quy định pháp luật, trước hết, cần quy định chặt chẽ, cụ thể quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của từng cơ quan, người có chức vụ quyền hạn trong quá trình thực thi nhiệm vụ đặc thù nói riêng và hướng tới mục tiêu thi hành nghiêm minh bản án, quyết định nói chung. Tiếp đó, cần phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan, nâng cao ý thức trách nhiệm phối hợp của từng ngành, địa phương trong công tác phối hợp ngày càng nhịp nhàng, chặt chẽ, hiệu quả để mỗi ngành thực hiện hoàn thành nhiệm vụ được giao và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác THADS.
Từ đó, kết quả, hiệu quả THADS không chỉ là tiêu chí để đánh giá hệ thống các cơ quan THADS, mà có thể sử dụng để đánh giá vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, ban, ngành liên quan trong việc đảm bảo tính nghiêm minh của hệ thống pháp luật và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
3.4. Đề xuất và các kiến nghị cụ thể để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2045
Giai đoạn 2030-2045, với các thành quả kế thừa của giai đoạn 2023-2030, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS sẽ có những thay đổi nhất định về chất. Việt Nam tiến gần hơn đến mục tiêu “Hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng XHCN vào năm 2045”.
Trên cơ sở tổng kết các kết quả đạt được của giai đoạn 2023-2030, các định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác THADS đến năm 2045 sẽ tiếp tục được điều chỉnh, hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới. Các vấn đề đòi hỏi giải quyết ở mức độ dài hạn, tổng thể, có khó khăn, vướng mắc với các thể chế hiện hành có thể được xem xét. Bên cạnh đó, cũng cần đặt ra những vấn đề thách thức, rủi ro nhất định trước nguy cơ khủng hoảng chính trị, năng lượng, biến đổi khí hậu và những tác động tiêu cực của nó đến loài người; song với phạm vi Đề tài này, sẽ không đi sâu vào các viễn cảnh phức tạp vừa nêu.
Chúng tôi xác định rằng, về cơ bản, với định hướng đúng đắn mà Đảng đã đề ra, với xu hướng ngày càng thực hiện tốt hơn các nguyên tắc pháp quyền, các vấn đề cần tập trung trong giai đoạn 2030-2045 cơ bản vẫn sẽ là tiếp tục phát huy, củng cố những kết quả đã đạt được, tận dụng tốt hơn khoa học công nghệ trong đời sống xã hội. Ý thức pháp luật của cá nhân, tổ chức được nâng cao. Các thiết chế bảo vệ pháp luật như Tòa án, các cơ quan giải quyết tranh chấp ngày càng chuyên nghiệp, hiện đại, chất lượng bản án, quyết định có hiệu lực thi hành ngày càng cao. Do đó, định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác THADS về cơ bản sẽ tiếp nối với các nội dung đã phân tích tại mục 3.3 ở trên.
3.4.1. Định hướng về hiệu quả công tác thi hành án dân sự theo các tiêu chí đánh giá
a) Về các tiêu chí định lượng
- Về tỷ lệ ra quyết định thi hành án đúng quy định của pháp luật đối với các bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực: Kế thừa kết quả chuyển đổi số mạnh mẽ đến năm 2030, theo đó, bản án, quyết định từ Tòa án đã được chuyển tự động, yêu cầu thi hành án được gửi trực tuyến, thì công tác kiểm tra, xử lý, ra quyết định thi hành án sẽ cơ bản thuận lợi, nhanh chóng và chính xác. Đặc biệt, có thể sử dụng các phần mềm hoặc trí tuệ nhân tạo (AI) để ra quyết định thi hành án. Do đó, tỉ lệ “ra quyết định thi hành án đúng quy định của pháp luật 100% đối với các bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực” là hoàn toàn có thể đạt được.
- Về tỷ lệ phân loại án dân sự có điều kiện thi hành, tỷ lệ THADS xong trên tổng số án có điều kiện thi hành; số vụ việc phải cưỡng chế:
+ Phân loại án có điều kiện thi hành: Cũng trên cơ sở kết quả công tác chuyển đổi số, cơ sở dữ liệu về tài sản, tài khoản của cá nhân, tổ chức sẽ cơ bản được kiểm soát tốt hơn và chính xác hơn. Bên cạnh đó, các quy định về trách nhiệm phối hợp, cung cấp thông tin của các cơ quan, tổ chức liên quan cũng đã được hoàn thiện theo các đề xuất nêu trên. Do đó, đến năm 2045, việc phân loại án có điều kiện có thể đảm bảo chính xác tuyệt đối.
+ Về kết quả thi hành xong: Đảm bảo thi hành xong đối với các việc có điều kiện thi hành trong thời hạn quy định.
+ Số vụ việc cưỡng chế: theo kinh nghiệm của Phần Lan, đến 80% loại việc có thể thi hành trực tuyến, không cần tiếp xúc trực tiếp với đương sự; 20% vụ việc còn lại liên quan đến bất động sản, tính chất vụ việc phức tạp. Với khả năng phân loại và tổ chức thi hành án như vậy, số vụ việc cưỡng chế có thể giảm thiểu, nhất là hạn chế tối đa các việc cưỡng chế phải huy động lực lượng lớn.
- Về thời gian và chi phí THADS
+ Về thời gian: Các vướng mắc về thể chế và cơ chế phối hợp cơ bản đã khắc phục được cơ bản đến năm 2030. Do đó, về thời gian thi hành án, định hướng đến năm 2045 là rút ngắn tối đa thời gian thi hành án và nằm trong top 3 nước dẫn đầu ASEAN (hiện nay top 2 là Bru-nêi, với thời gian thi hành trung bình là 90 ngày).
+ Về chi phí: có thể tiếp tục duy trì mức phí thi hành án là 3% giá trị tài sản thực nhận; triệt để xoá bỏ chi phí không chính thức; cắt giảm tối đa chi phí hành chính, chi phí đầu tư để tuân thủ quy định, chi phí rủi ro pháp lý, và chi phí đặc thù có thể phát sinh trong quá trình thi hành án.
- Về số hành vi vi phạm trong THADS: Tiếp tục tăng cường các cơ chế giám sát, kiểm soát chất lượng đối với hoạt động thi hành án của Chấp hành viên, đảm bảo cơ chế tạo động lực làm việc (thu nhập, chế độ) để loại bỏ các hành vi vi phạm trong THADS.
- Về tổ chức bộ máy THADS và hiệu lực, hiệu quả hoạt động:
Trên cơ sở tinh gọn đầu mối cơ quan THADS như kết quả đạt được năm 2030, kết quả chuyển đổi số và sự phát triển nhất định của đội ngũ Thừa phát lại, bộ máy THADS đến năm 2045 có thể tinh gọn về số lượng biên chế. Theo đó, cần có lộ trình phù hợp giai đoạn 2030-2045 để vừa tinh giản số biên chế hiện có, vừa đào tạo nguồn đầu vào chất lượng cao với số lượng phù hợp, vừa có chế độ khuyến khích công chức chuyển hóa sang làm thừa phát lại.
Về mô hình Thừa phát lại, giai đoạn 2030-2045, một số điều kiện kinh tế - xã hội sẽ có những phát triển nhất định, tạo nền tảng cho việc mở rộng phạm vi hoạt động của Thừa phát lại. Ví dụ, công tác quản lý tài sản, tài khoản, thu nhập hiệu quả, hiệu lực hơn; có thể trích xuất thông tin từ các cơ sở dữ liệu của các cơ quan quản lý nhanh chóng bằng dịch vụ thu phí hoặc không thu phí. Ý thức pháp luật của nhân dân được nâng cao, ý thức tốt hơn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình ngay từ giai đoạn giao kết hợp đồng; tôn trọng bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng cạnh tranh...; sẵn sàng chi trả một khoản chi phí nhất định để thi hành nhanh chóng vụ việc. Cơ quan THADS sẽ tập trung vào thi hành các khoản chủ động thu cho ngân sách Nhà nước hoặc nhằm thực hiện một số chính sách an sinh xã hội như thi hành án đối với đối tượng chính sách, người nghèo, vùng sâu, vùng xa, nhóm đối tượng yếu thế.
b) Về các tiêu chí định tính
Kế thừa kết quả đến năm 2030, công tác THADS giai đoạn 2030-2045 tiếp tục hoàn thiện theo hướng đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn quốc tế về tiếp cận công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Khả quan hơn, có thể đảm bảo hài hòa pháp luật về THADS trong khu vực ASEAN và thi hành án giữa các nước thuận lợi như mô hình EU hiện nay.
3.4.2. Các giải pháp cụ thể
Về cơ bản, các giải pháp của giai đoạn 2030-2045 tiếp tục kế thừa và phát triển các giải pháp của giai đoạn trước. Theo đó:
Thứ nhất, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chủ trương, chính sách về công tác THADS. Trong đó, cần tiếp tục nghiên cứu mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án và giao cho một cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án, đặt trong bối cảnh chung của các nghiên cứu về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và thi hành án nhằm thực hiện tốt hơn nữa nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan THADS theo yêu cầu quản trị quốc gia hiệu lực, hiệu quả và đảm bảo nguyên tắc dân chủ. Theo đó:
(i) Đối với hệ thống cơ quan thi hành án dân sự:
Tổ chức, bộ máy của Tổng cục THADS và các cơ quan THADS địa phương trong bối cảnh mới càng phải đảm bảo mục tiêu tinh gọn, hợp lý, khoa học, phù hợp với sự phát triển về khoa học, công nghệ trong giai đoạn mới. Giai đoạn 2030-2045, sẽ tiếp tục sắp xếp, tính tới phương án tái cấu trúc lại mô hình quản lý, mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống THADS phù hợp với cơ chế, phương thức thi hành án trong điều kiện phát triển mới của đất nước về mọi mặt nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả, thuận tiện, bảo đảm tốt hơn các quyền con người trong lĩnh vực thi hành án.
Về chức năng, nhiệm vụ: Bộ Tư pháp tiếp tục giữ vai trò chủ trì giúp Chính phủ, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác THADS; tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Hệ thống THADS; phối hợp hiệu quả với Bộ Quốc phòng trong quản lý THADS trong quân đội; tăng cường phối hợp với Bộ Công an để thi hành hiệu quả phần dân sự trong bản án hình sự, khắc phục triệt để các hạn chế, có khăn và không để án tồn đọng kéo dài trong lĩnh vực này.
Về tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực: Việt Nam có thể học tập mô hình của Phần Lan hoặc Thụy Điển trong việc thiết kế các cơ quan THADS theo hướng thu gọn đầu mối, tập trung bộ máy thi hành các loại việc phức tạp, cần phối hợp nhiều cấp, nhiều ngành. Theo đó, có thể thiết kế mô hình cơ quan THADS theo các cấp độ phức tạp khác nhau của việc tổ chức thi hành án.
(ii) Về xã hội hóa một số hoạt động THADS
Giải pháp lâu dài và căn bản 1à cần xã hội hóa tất cả các việc THADS theo yêu cầu. Đây sẽ 1à phương án tối ưu nhất, cho phép giải quyết cơ bản để việc xã hội hóa công tác THADS.
Lực lượng thi hành án xã hội hóa sẽ 1à lực lượng chủ chốt thực hiện hoạt động thi hành án (ra quyết định thi hành án, tống đạt các loại quyết định... và cả việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế). Theo đó, thể chế về THADS, cần tăng cường thẩm quyền để đảm bảo thi hành án là hoạt động chủ yếu, cơ bản của thừa phát lại, theo hướng: (i) Quy định thừa phát lại có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ trong quá trình tổ chức thi hành án, bao gồm cả việc yêu cầu hỗ trợ, huy động lực lượng của cơ quan công quyền trong cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 71 và Điều 72 Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) để đảm bảo Thừa phát lại có thể trực tiếp tổ chức THADS hiệu quả, đến cùng; (ii) Nghiên cứu phân định phạm vi tổ chức thi hành án theo việc của thừa phát lại và chấp hành viên; (iii) Quy định thẩm quyền của thừa phát lại thi hành phán quyết của trọng tài thương mại và quyền ủy thác, nhận uỷ thác các việc THADS, đồng thời, cần mở rộng quyền của Văn phòng Thừa phát lại được ủy thác và nhận ủy thác theo quy định của pháp luật về THADS, tạo điều kiện để tòa án hay cơ quan THADS có thể chủ động yêu cầu thừa phát lại thực hiện việc xác minh điều kiện thi hành án hoặc trực tiếp thi hành án trong bối cảnh người dân chưa có nhiều hiểu biết về thừa phát lại; (iv) Quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ khác của thừa phát lại, nhất là trong hoạt động THADS.
Về phân bổ Văn phòng Thừa phát lại, cần căn cứ vào các tiêu chí, điều kiện về kinh tế - xã hội; số lượng vụ việc thụ lý của Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan THADS; mật độ dân cư, nhu cầu của người dân, và đảm bảo tính cạnh tranh và hoạt động hiệu quả của các Văn phòng Thừa phát lại.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế về THADS và pháp luật có liên quan đảm bảo đồng bộ, đảm bảo quyền con người, quyền công dân, rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí, đảm bảo tính đặc thù, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Trong đó, cần tham khảo kinh nghiệm quốc tế để tiếp tục hoàn thiện về chế định Chấp hành viên/ Thừa phát lại, đảm bảo trao đủ quyền năng, công cụ cho quá trình hành nghề, các điều kiện đảm bảo thực thi nhiệm vụ, cũng như quy định về trách nhiệm đối với hành vi vi phạm. Nghiên cứu xây dựng và áp dụng các Tiêu chuẩn quản lý chất lượng và Kinh nghiệm tốt về THADS được phổ biến ở nhiều quốc gia. Đây không chỉ là sự hoàn thiện về thể chế, mà còn là sự chia sẻ, “truyền nghề” của các thế hệ Chấp hành viên, Thừa phát lại trong thực tiễn tổ chức thi hành án, từ đó giúp cho nghiệp vụ của đội ngũ này sớm vững vàng, áp dụng pháp luật đồng bộ, thống nhất.
Thứ tư, tiếp tục tăng cường chất lượng bản án, quyết định có hiệu lực thi hành thông qua vai trò của cơ quan xét xử, giải quyết tranh chấp, nhất là vai trò trung tâm của Toà án trong việc thực hiện quyền tư pháp. Đảm bảo sự kết nối chặt chẽ giữa các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Phát huy vai trò “kiểm soát” chất lượng hoạt động xét xử thông qua quá trình tổ chức thi hành án của cơ quan THADS.
Thứ năm, không ngừng phát triển đội ngũ công chức và nguồn nhân lực THADS có phẩm chất đạo đức, năng lực, phân công hợp lý và được bảo đảm an toàn trong quá trình thực thi công vụ. Đội ngũ Chấp hành viên/ Thừa phát lại phải thực sự thích nghi kịp thời với thời kỳ 4.0, hội nhập quốc tế. Có thể xem xét thiết lập các chỉ số đo lường và đánh giá hiệu quả công việc (key performance indicator - KPI) để đánh giá hiệu quả công tác THADS của từng cá nhân.
Thứ sáu, tăng cường cơ sở vật chất, khoa học kỹ thuật trong THADS. Theo đó, định hướng đến năm 2045, công tác THADS có thể điện tử hóa toàn bộ quá trình THADS. Bản án, quyết định của Tòa án được chuyển giao trực tuyến, yêu cầu thi hành án được thực hiện trực tuyến, tống đạt các tài liệu, giấy tờ trực tuyến, truy cập các cơ sở dữ liệu quản lý tài sản, tài khoản để xác minh điều kiện thi hành án trực tuyến. Đi cùng với mục tiêu này phải là sự đầu tư đồng bộ các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có công tác THADS để có thể bắt kịp với xu hướng chuyển đổi số toàn diện nêu trên. Với dự báo về sự phát triển vượt bậc như vậy, hoạt động THADS tại Việt Nam cần phải hoàn thiện thể chế một cách toàn diện để đảm bảo thực hiện được các biện pháp nghiệp vụ trực tuyến, xác thực điện tử, lưu trữ, bảo mật trong quá trình tổ chức THADS; xem xét có các quy định phù hợp để tổ chức thi hành án đối với các loại tài sản đặc thù như tài sản ảo.
Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, không một hệ thống trực tuyến nào có thể thay thế con người và vẫn cần phải duy trì đội ngũ làm công tác THADS với năng lực, trình độ phù hợp để quản lý, vận hành được quá trình tổ chức thi hành án này.
KẾT LUẬN
Hiệu quả công tác THADS là thi hành đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật theo nội dung bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực thi hành với chi phí thấp nhất và thời gian ngắn nhất, bảo đảm quyền con người, an ninh chính trị, an toàn xã hội. Trong NNPQ XHCN, công tác THADS càng có vị trí, vai trò quan trọng, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân, góp phần xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với môi trường thu hút đầu tư, kinh doanh. Do đó, nâng cao hiệu quả công tác THADS là mục tiêu, là nhiệm vụ quan trọng mà Đảng đã đặt ra trong Nghị quyết số 27-NQ/TW.
Mặc dù công tác THADS trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng hiệu quả công tác THADS vẫn chưa cao, thể hiện không chỉ qua kết quả thi hành về việc, tiền thi hành xong; thời gian, chi phí phải bỏ ra, mà còn một số hạn chế của công tác THADS tác động đến đời sống xã hội, một bộ phận công chức THADS năng lực, trình độ chưa đáp ứng yêu cầu, còn vi phạm pháp luật... Trước bối cảnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế sâu rộng, chuyển đổi số, công tác THADS vừa có những cơ hội mới, nhưng cũng là những thách thức, đòi hỏi phải có bước chuyển mình để đáp ứng yêu cầu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Để xác định được định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác THADS trong thời gian tới, Chương 1 đã tập trung xác định, làm rõ cơ sở lý luận về hiệu quả công tác THADS; tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác THADS và các yếu tố tác động và điều kiện bảo đảm hiệu quả công tác THADS trong bối cảnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng NNPQ XHCN đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế về nâng cao hiệu quả công tác THADS. Theo đó, chúng tôi thống nhất nhận thức NNPQ XHCN Việt Nam là nhà nước XHCN thực sự của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, quản lý xã hội theo pháp luật nhằm phục vụ lợi ích và hạnh phúc của nhân dân, do Đảng tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo đồng thời chịu trách nhiệm trước nhân dân và sự giám sát của nhân dân. Trong NNPQ XHCN Việt Nam, hoạt động THADS có đầy đủ đặc điểm của hoạt động thi hành án nói chung; đồng thời, có các đặc điểm riêng biệt. THADS là việc tổ chức thi hành bản án, quyết định về dân sự được thi hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và có một số đặc điểm: (i) chủ thể của hoạt động THADS là cơ quan nhà nước (cơ quan THADS) hoặc được nhà nước trao quyền (thừa phát lại), các bên đương sự và tổ chức, cá nhân có liên quan; (ii) nội dung thi hành là các quyền, nghĩa vụ về dân sự (theo nghĩa rộng); (iii) kết hợp giữa sự tự nguyện của các bên và biện pháp cưỡng chế theo quy định. Công tác THADS là một phần của hoạt động tư pháp, sử dụng quyền lực nhà nước. Vai trò của THADS không chỉ là bảo vệ tính nghiêm minh của bản án, quyết định được thi hành, mà còn góp phần bảo vệ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, khai thông nguồn lực tài chính, góp phần cải thiện môi trường sản xuất, kinh doanh, thu hút đầu tư. Trong bối cảnh NNQP XHCN giai đoạn mới, hoạt động THADS được đặt ra nhiều yêu cầu, nhiệm vụ, trọng tâm là “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án. … Hoàn thiện cơ chế nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THADS, hành chính theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan trong THAHS, dân sự và hành chính; thực hiện xã hội hóa một số hoạt động THADS với cơ chế bảo đảm và lộ trình phù hợp”.
Trên cơ sở các vấn đề lý luận trên, Đề tài xây dựng khái niệm hiệu quả công tác THADS là thi hành đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật theo nội dung bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực thi hành với chi phí thấp nhất và thời gian ngắn nhất, bảo đảm quyền con người, an ninh chính trị, an toàn xã hội. Hiệu quả công tác THADS được đánh giá qua 05 tiêu chí định lượng và 03 tiêu chí định tính; đồng thời, có 08 yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS. Do đó, để nâng cao hiệu quả công tác THADS thì phải thay đổi, phát triển, nâng tầm các yếu tố này.
Tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, chỉ tiêu THADS được đo lường chủ yếu bằng thời gian, chi phí tổ chức thi hành án. Các giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác THADS cũng tập trung vào nâng cao các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động THADS, trong đó có 04 nội dung chính: đổi mới, tinh gọn cơ quan THADS; rút gọn quy trình thi hành án, tăng cường các biện pháp xử lý loại việc không có điều kiện thi hành; tăng cường công khai, minh bạch, giám sát nội bộ, đạo dức và năng lực nhân viên THADS; tăng cường ứng dụng CNTT, kết nối cơ sở dữ liệu để xác minh, đấu giá tài sản thi hành án.
Chương 2 đã đánh giá khách quan, toàn diện, cụ thể thực trạng hiệu quả công tác THADS trong thời gian qua, tập trung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS trong bối cảnh thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng NNPQ XHCN. Theo đó, về cơ bản, hoạt động THADS đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, nhất là từ sau khi chuyển giao từ Tòa án sang các cơ quan thuộc Chính phủ. Mặc dù số việc, tiền phải thi hành hàng năm đều tăng, nhưng kết quả thi hành án xong cơ bản đạt chỉ tiêu Quốc hội giao và bền vững. Tổ chức bộ máy cơ bản phù hợp, được kiện toàn, phát triển ổn định; đội ngũ công chức cơ bản đảm bảo về số lượng, năng lực, trình độ, đạo đức. Công tác tổ chức THADS đã góp phần bảo vệ tốt quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, khơi thông nguồn lực kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất vẫn là thời gian thi hành còn dài, chi phí THADS còn cao và một số bất cập, hạn chế khác trong công tác THADS, cán bộ, quản lý. Các hạn chế này có thể tìm thấy nguyên nhân từ thực trạng của các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS, như tổ chức bộ máy chưa thực sự tinh gọn, mức độ xã hội hóa hoạt động THAD còn hạn chế, pháp luật về THADS chưa đồng bộ, còn không ít quy định bất cập, vướng mắc; bản án, quyết định được thi hành vẫn còn một số hạn chế; đội ngũ công chức còn thiếu về số lượng, nhất là các ngạch đặc thù, năng lực, đạo đức của một bộ phận chưa đảm bảo, còn thiếu một số quy định bảo vệ an toàn, điều kiện, chế độ để yên tâm, gắn bó, cống hiến với ngành; cơ sở vật chất, khoa học công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số; công tác phối hợp với bộ, ngành có nơi có lúc chưa nhịp nhàng, hiệu quả. Các hạn chế, nguyên nhân chỉ ra từ thực trạng về hiệu quả công tác THADS và các yếu tố ảnh hưởng chính là các căn cứ thực tiễn để đưa ra định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác THADS trong giai đoạn mới.
Trên cơ sở dự báo bối cảnh, tình hình và yêu cầu của NNPQ XHCN đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 đặt ra đối với công tác THADS, Chương 3 đưa ra các đề xuất, kiến nghị cụ thể về định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác THADS trong NNPQ XHCN đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, đảm bảo tính khả thi, đồng bộ và có lộ trình thực hiện cụ thể.
Theo đó, công tác THADS trong NNPQ XHCN Việt Nam đến năm 2030 cần bảo đảm thực hiện nghiêm các quy định của Hiến pháp năm 2013, các mục tiêu cụ thể, các đột phá chiến lược của Nghị quyết Đại hội Đảng khóa XIII, các mục tiêu, trọng tâm, nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết số 27-NQ/TW đề ra. Công tác THADS giai đoạn đến năm 2030 đầu tiên và trước hết phải đảm bảo và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Tiếp đó là tiếp tục kiện toàn mô hình tổ chức theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, thực hiện chủ trương xã hội hóa một số hoạt động THADS ở mức độ bước đầu, phù hợp với bối cảnh, tình hình giai đoạn 2023-2030. Các vấn đề tiếp theo là về thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật, phát triển nguồn nhân lực, và bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động THADS, nhất là chú trọng các điều kiện bảo đảm chuyển đổi số, từ con người đến hạ tầng kỹ thuật. Công tác phối hợp với các cơ quan liên quan, thực chất là xác định, làm rõ trách nhiệm của từng cơ quan trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thông qua hoàn thiện các văn bản pháp luật quy định cụ thể các vấn đề này. Trong đó, vai trò của Bộ Công an trong việc phối hợp với Bộ Tư pháp để thi hành hiệu quả lĩnh vực THADS và THAHS cần được nhấn mạnh, nhất là phải thay đổi từ pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.
Giai đoạn 2030-2045, với các thành quả kế thừa của giai đoạn 2023-2030, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS sẽ có những thay đổi nhất định về chất. Đặt trong bối cảnh Việt Nam đã có những thành tựu nhất định về kinh tế - xã hội, ý thức pháp luật của người dân được nâng cao, hoạt động THADS sẽ tập trung đổi mới ở nhiệm vụ chuyển đổi số và đổi mới tổ chức. Theo đó, có thể xem xét mở rộng Thừa phát lại để thi hành đối với các loại việc theo yêu cầu.
Các kết quả nghiên cứu nêu trên kế thừa các nghiên cứu trong nước và nước ngoài về công tác THADS, hiệu quả công tác THADS; đồng thời có những phát triển nhất định về định hướng, giải pháp cho công tác THADS trong giai đoạn 2023-2030. Các phân tích chi tiết, cụ thể về các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác THADS, những bất cập ảnh hưởng đến hiệu quả THADS, nhất là về thời gian, chi phí thi hành án có thể được áp dụng, sử dụng ngay trong quá trình đề xuất chủ trương, chính sách xây dựng Luật THADS (sửa đổi), xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành, sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật liên quan như Luật Đấu giá tài sản, Luật Phá sản, Luật Trọng tài thương mại; sửa đổi Nghị định hoặc xây dựng Luật về Thừa phát lại; việc thực hiện các đề án về công tác tổ chức bộ máy, cán bộ; chuyển đổi số trong hoạt động THADS. Việc hoàn thiện quy định về các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác THADS, xem xét ban hành văn bản quy phạm ở tầm Chính phủ, Bộ Tư pháp, hoặc liên ngành cần tiếp tục nghiên cứu để đảm bảo tính toàn diện, khả thi, đo lường được nhưng cũng không quá cứng nhắc.
Các đề xuất cho giai đoạn 2030-2045 mang tính đổi mới nhiều hơn có thể là định hướng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị nhà nước trong lĩnh vực THADS trong giai đoạn mới theo yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW. Tuy nhiên, đây là những vấn đề khó và cần tiếp tục nghiên cứu để đề xuất các giải pháp cụ thể, khả thi, mang tính chiến lược và đảm bảo tính dự báo nhiều hơn.
Mặc dù đã có những nỗ lực nhất định trong quá trình nghiên cứu, tuy nhiên chúng tôi luôn xác định rằng kết quả nghiên cứu của Đề tài không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Việc xây dựng các kịch bản, mô hình đặt ra cho giai đoạn 2030-2045 vẫn còn mang tính khái lược, sơ bộ và đang ở viễn cảnh tươi sáng, chưa có những kịch bản cho các vấn đề phức tạp có thể phát sinh như biến đổi khí hậu, dịch bệnh nguy hiểm v.v... có thể tác động tiêu cực nhiều mặt đến đời sống xã hội, an sinh, an toàn xã hội. Các giải pháp đặt ra cũng chưa thực sự cụ thể, mang tính gợi mở hơn là đi vào từng vấn đề chi tiết. Đây sẽ là những nội dung mà các nghiên cứu tiếp theo có thể tiếp tục khai phá, đưa ra các đề xuất cụ thể, nhất là các vấn đề về hoàn thiện thể chế, các cơ chế THADS trong môi trường số, về mô hình tổ chức cơ quan THADS, cơ quan THAHS, xu hướng chuyển đổi của các cơ quan, tổ chức khi xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động THADS. Các chủ đề này sẽ góp phần thiết thực vào việc hoàn thiện các vấn đề lý luận và thực tiễn để nâng cao hiệu quả công tác THADS trong thời gian tới./.