Trang chủ > Đề
tài >
Định hướng xây dựng, hoàn thiện Hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2030
Tên đề tài
|
Định hướng xây dựng, hoàn thiện Hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2030
|
Nội dung tóm tắt
|
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1.1. Hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.1.1. Quan niệm về hệ thống pháp luật[1]
Ở phương Tây, khái niệm “hệ thống pháp luật” được coi là khái niệm “đa nghĩa”. Ít nhất, khái niệm này có 2 nghĩa cơ bản. Nghĩa thứ nhất, “hệ thống pháp luật” được coi là một hệ thống các quy phạm. Theo nghĩa này, nói đến hệ thống pháp luật của một quốc gia là nói tới “tổng hợp có tính cách khép kín các quy tắc và nguyên tắc đang có hiệu lực trong biên giới của một vùng lãnh thổ quốc gia”. Cũng theo nghĩa này, khái niệm “pháp luật” (law) và “hệ thống pháp luật” (legal system) được coi là hai khái niệm tương đồng như nhau. Hệ thống pháp luật của một quốc gia được hiểu là tất cả các quy phạm pháp luật của quốc gia đó cũng như mối quan hệ giữa các quy phạm ấy với nhau. Nghĩa thứ hai của “hệ thống pháp luật” chính là nghĩa mà người dân ở các quốc gia này thường hiểu. Đó chính là hệ thống các thiết chế liên quan đến việc sản sinh và thực thi các quy phạm pháp luật.
Ở Việt Nam quan niệm “hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau được phân định thành các chế định pháp luật và các ngành luật, được thể hiện trong các văn bản do Nhà nước ban hành theo trình tự và hình thức nhất định”[2] có thể coi là quan niệm được chấp nhận khá phổ biến trong khoa học pháp lý nước ta nhiều thập kỷ qua.
Tuy nhiên, trong vòng hai thập kỷ trở lại đây, trong giới khoa học pháp lý Việt Nam đã xuất hiện các ý tưởng và đề xuất cho rằng cần có sự thay đổi trong tư duy xây dựng và thi hành pháp luật với bước đầu tiên là nhận thức lại quan niệm về hệ thống pháp luật[3]. Có thể khái quát ba xu hướng (ba cách tiếp cận) khác nhau khi đánh giá về hệ thống pháp luật của một quốc gia[4]: (i) Cách tiếp cận truyền thống Xô Viết: Đánh giá hệ thống pháp luật chủ yếu thông qua cấu trúc bên trong, tính hệ thống và tương quan giữa các quy phạm pháp luật, các chế định hay ngành luật; (ii) Cách tiếp cận đặt hệ thống pháp luật trong quan hệ cạnh tranh với các thể chế xã hội khác (tập quán, luật tục, quy tắc nghề nghiệp, quy tắc đạo đức, tôn giáo….), vì vậy, đánh giá hiệu quả pháp luật và THPL cũng đặt trong môi trường cạnh tranh với các thể chế chính thức hoặc phi chính thức, trong nước hoặc quốc tế; (iii) Cách tiếp cận hệ thống pháp luật với mục tiêu hướng tới công lý và nguyên tắc thượng tôn pháp luật trong nhà nước pháp quyền, theo đó, đánh giá về hệ thống pháp luật (gồm pháp luật và các thiết chế xây dựng pháp luật, THPL) thông qua các tiêu chí đo lường tính hiệu quả hoạt động của các thiết chế đó và mức độ đạt được mục tiêu của pháp luật trên thực tế, đó là mức độ đạt được các giá trị công lý và pháp quyền dân chủ, thúc đẩy phát triển bền vững đất nước.
Cách tiếp cận thứ nhất khá gần gũi với quan niệm truyền thống trong khoa học pháp lý của nước ta, theo đó, hệ thống pháp luật chủ yếu được xem xét, đánh giá trên phương diện pháp luật trên văn bản (cấu trúc hệ thống của các quy phạm pháp luật) mà ít được nhìn nhận từ góc độ pháp luật trong hành động (quy phạm pháp luật đi vào cuộc sống, điều chỉnh các quan hệ xã hội, phát huy hiệu lực thực tế). Quan niệm truyền thống này có thể dẫn đến nhận thức chưa đầy đủ về tính hệ thống, liên tục, không thể tách rời giữa xây dựng pháp luật và THPL mà biểu hiện rõ rệt là pháp luật ban hành ra nhưng chậm và khó thi hành, thiếu các điều kiện, các nguồn lực bảo đảm thực thi pháp luật (bao gồm cả tổ chức, nhân lực); thiếu cơ chế theo dõi, đánh giá quá trình luật đi vào cuộc sống, thiếu đánh giá hiệu lực, tác động thực tế của văn bản pháp luật đối với đời sống kinh tế- xã hội của đất nước trong quá trình tổ chức thi hành[5].
1.1.2. Các đặc trưng của hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong Nhà nước pháp quyền XHCN, vai trò của pháp luật thể hiện ở các mặt cơ bản sau đây: (1) Pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN; (2) Pháp luật là phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội và giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa Nhà nước - Thị trường - Xã hội; (3) Pháp luật là cơ sở để xây dựng và phát triển nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, ghi nhận và bảo vệ quyền con người, bảo đảm bình đẳng và công bằng xã hội; (4) Pháp luật là phương tiện thể hiện ý chí, nguyện vọng, lợi ích của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; (5) Pháp luật là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; là phương tiện để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm trong quá trình Nhà nước quản lý kinh tế - xã hội; (6) Pháp luật là cơ sở để phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ; (7) Pháp luật là cơ sở để xác lập và điều chỉnh những quan hệ mới; (8) Pháp luật tạo lập môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ hợp tác và phát triển.
Với những vai trò và ý nghĩa nói trên, hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là pháp luật của Nhân dân và vì Nhân dân..
Thứ hai, hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một hệ thống pháp luật có nội dung đảm bảo phát huy các giá trị tiến bộ của nhân loại, trong đó, cốt lõi là phát huy dân chủ, công bằng.
Thứ ba, pháp luật phải bảo đảm việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội; đảm bảo quyền con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Thứ tư, pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam.
Thứ năm, pháp luật phải bảo đảm quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện theo các nguyên tắc: phân công, phối hợp quyền lực và kiểm soát quyền lực.
Thứ sáu, hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nguồn pháp luật đa dạng, tuy nhiên, tập trung chủ yếu vào hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ bẩy, pháp luật của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là công cụ quản lý Nhà nước, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:[6].
1.2. Các tiêu chí đánh giá hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Theo Nghị quyết 27-NQ/TW, một trong những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là có hệ thống pháp luật “dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán”. Do đó, có thể coi các yêu cầu “dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán” là những tiêu chí cần hướng đến trong quá trình xây dựng pháp luật để tạo tiền đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong thời gian tới. Với phạm vi nghiên cứu của đề tài hướng đến hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2030, nhóm tác giả cho rằng, hệ tiêu chí này là phù hợp để hướng tới xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2030. Bởi vậy, để đưa ra được những đề xuất, kiến nghị xây dựng hệ thống pháp luật giai đoạn từ nay đến 2030, nhóm tác giả sẽ sử dụng các tiêu chí này để đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay tại Chương II của Đề tài.
Trên cơ sở kế thừa các kết quả trong quá trình nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn để xây dựng Nghị quyết số 27-NQ/TW mà các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã thực hiện được, có thể giải mã những tiêu chí được đề cập ở trên như sau:
Thứ nhất, tính công bằng của hệ thống pháp luật: tính công bằng của hệ thống pháp luật đòi hỏi các quy định của pháp luật phải phản ánh được quan niệm chung về lẽ công bằng trong xã hội, nhất là sự công bằng trong mối quan hệ giữa cống hiến, đóng góp và hưởng thụ của từng chủ thể trong xã hội, công bằng trong mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm của từng chủ thể trong xã hội, nhất là các chủ thể có quyền lực, bảo đảm, mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm càng lớn; lạm dụng, lợi dụng quyền lực phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Tính công bằng của hệ thống pháp luật còn đòi hỏi bảo đảm sự bình đẳng của mọi chủ thể trước pháp luật. Hệ thống pháp luật phải tạo khung khổ pháp lý cho các chủ thể phát huy hết khả năng, trí tuệ của mình đóng góp cho sự phát triển đất nước và được thụ hưởng hoặc ghi nhận tương xứng với sự đóng góp ấy. Tính công bằng của hệ thống pháp luật cũng đòi hỏi các quy định pháp luật về hành vi vi phạm mới hoặc tăng nặng trách nhiệm pháp lý không có hiệu lực hồi tố. Tính công bằng của pháp luật còn được thể hiện ở những khía cạnh sau: các đạo luật không được tạo ra sự độc tôn hay sự phân biệt vô lý dựa trên địa vị kinh tế hoặc địa vị xã hội (chủng tộc, màu da, nguồn gốc xã hội hoặc nguồn gốc thiểu số, đẳng cấp, quốc tịch, ngoại lai, tôn giáo, ngôn ngữ), quan điểm hoặc xu hướng chính trị, giới, tình trạng hôn nhân, xu hướng đổi giới hoặc giới tính, tuổi và khuyết tật;...
Thứ hai, tính dân chủ của hệ thống pháp luật: tính dân chủ của hệ thống pháp luật đòi hỏi nội dung quy định pháp luật phải thực sự phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, ghi nhận, tôn trọng, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân (các quyền dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện), ghi nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tính dân chủ của hệ thống pháp luật cũng đòi hỏi pháp luật phải được xây dựng (hình thành) theo phương thức dân chủ, bảo đảm sự tham gia thực chất của nhân dân trong quá trình xây dựng pháp luật. Hệ thống pháp luật dân chủ cũng đòi hỏi hệ thống pháp luật phải ghi nhận đầy đủ cơ chế pháp lý để nhân dân thực sự là chủ, thực hiện được quyền làm chủ, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tính dân chủ của hệ thống pháp luật cũng đòi hỏi phải loại bỏ triệt để những quy định tạo rào cản bất hợp lý cho người dân thực hiện các quyền dân chủ của mình.
Thứ ba, tính nhân đạo của hệ thống pháp luật: Tính nhân đạo của hệ thống pháp luật đòi hỏi hệ thống pháp luật phải vì hạnh phúc của con người, ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội. Tính nhân đạo của hệ thống pháp luật cũng đòi hỏi có sự phân hóa trong xử lý các chủ thể có hành vi vi phạm, thiết kế các quy định về các biện pháp chế tài đối với hành vi vi phạm theo hướng không chỉ nhằm trừng trị người vi phạm mà còn phải quan tâm giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tính hướng thiện trong xử lý người vi phạm.
Thứ tư, tính đầy đủ và kịp thời của hệ thống pháp luật: Tính đầy đủ và kịp thời của hệ thống pháp luật đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật phải sớm được ban hành để cung cấp những chỉ dẫn pháp lý cần thiết cho ứng xử của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ (nhất là những việc mà cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức được phép làm), cho ứng xử của các cá nhân, tổ chức trong xã hội (nhất là những điều cấm) để thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. Điều này đòi hỏi hoạt động xây dựng, hoàn thiện pháp luật phải được tiến hành thường xuyên, liên tục để đáp ứng kịp thời nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các vấn đề kinh tế - xã hội mới phát sinh hoặc loại bỏ các quy phạm pháp luật đã lạc hậu, không còn phù hợp, cản trở tiến trình phát triển của xã hội. Tính đầy đủ và kịp thời của hệ thống pháp luật đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải kịp thời xử lý những khoảng trống pháp lý làm hạn chế hoặc phương hại cho việc thực hiện các quyền, lợi ích chính đáng, hợp hiến, hợp pháp của người dân và các chủ thể trong xã hội. Tính đầy đủ và kịp thời của hệ thống pháp luật đòi hỏi bảo đảm sự song hành giữa tốc độ xây dựng pháp luật và những thay đổi trong nhu cầu điều chỉnh pháp luật phát sinh từ những thay đổi trong điều kiện kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ, chính trị, văn hóa của đất nước. Bảo đảm tính đầy đủ và kịp thời của hệ thống pháp luật đòi hỏi phải tăng cường năng lực, chất lượng hoạt động lập pháp nói riêng và hoạt động xây dựng pháp luật nói chung, mở rộng phạm vi các nguồn pháp luật như án lệ của Tòa án, các tập quán pháp luật, các điều ước hoặc tập quán quốc tế… Tính đầy đủ và kịp thời của hệ thống pháp luật cũng đòi hỏi nâng cao năng lực phản ứng chính sách, cùng với đó, hệ thống pháp luật phải thích ứng kịp thời với những thay đổi của tình hình đất nước.
Thứ năm, tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận của hệ thống pháp luật: Tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật phải đòi hỏi các chỉ dẫn pháp lý trong hệ thống pháp luật phải rõ ràng, dứt khoát, không gây ra nhầm lẫn với các chủ thể trong xã hội. Hệ thống pháp luật không được chứa đựng những quy định mâu thuẫn, những chỉ dẫn trái ngược nhau đối với hành vi xử sự của các chủ thể có nghĩa vụ tuân thủ. Tính khả thi của hệ thống pháp luật đòi hỏi mọi quy định pháp luật không được chứa đựng những yêu cầu, đòi hỏi không thể thực hiện được với chủ thể có nghĩa vụ tuân thủ. Tính công khai của hệ thống pháp luật đòi hỏi các quy phạm pháp luật khi được ban hành phải được công bố rộng rãi, kịp thời để mọi cá nhân, tổ chức đều có thể biết và thực hiện. Tính minh bạch của hệ thống pháp luật đòi hỏi các quy phạm pháp luật phải có nội dung và được thể hiện bằng ngôn ngữ phổ thông, rõ ràng, dễ hiểu với đối tượng chịu sự tác động. Tính ổn định của hệ thống pháp luật đòi hỏi các quy phạm pháp luật không bị thay đổi một cách tùy tiện và không bảo đảm sự dễ tiên liệu (tính khả đoán) với các chủ thể, nhất là các đối tượng chịu sự tác động. Tính dễ tiếp cận của hệ thống pháp luật đòi hỏi các quy định pháp luật phải được tập hợp, sắp xếp và lưu giữ hợp lý, thuận tiện cho việc tra cứu của cá nhân, tổ chức có nhu cầu tìm hiểu và tuân thủ pháp luật. Tính dễ tiếp cận của hệ thống pháp luật còn đòi hỏi việc thiết kế trình tự, thủ tục thực hiện quyền của tổ chức, cá nhân trong xã hội phải thuận lợi. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật phải có các quy định tạo tiền đề phát triển các hoạt động giải thích pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, dịch vụ tư vấn pháp luật và luật sư, trợ giúp pháp lý.
Về mặt kỹ thuật, pháp luật trong nhà nước pháp quyền coi Hiến pháp có vị trí tối thượng, các đạo luật là nguồn quy phạm cơ bản điều chỉnh các quan hệ xã hội. [7] Pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải “đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch”, và dễ tiếp cận. Pháp luật giữ vị trí tối thượng trong việc đảm bảo tính chính danh, chính đáng của nhà nước, không chỉ là công cụ để nhà nước quản lý xã hội mà còn là công cụ để nhân dân (cũng như các cơ quan hữu quan) quản lý, kiểm soát, chế ước quyền lực nhà nước. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải có chất lượng cao, dựa trên các văn bản pháp luật có chất lượng tốt (tất nhiên, ở các nước theo truyền thống án lệ, còn đòi hỏi án lệ có chất lượng tốt). Văn bản pháp luật “tốt” được nhiều chuyên gia ở Việt Nam xác định là văn bản đáp ứng các tiêu chuẩn sau đây[8]: (1) phải giải quyết mục tiêu vấn đề đặt ra trên cơ sở đảm bảo tính kinh tế, hiệu quả; (2) các chính sách thể hiện trong văn bản rõ ràng, bảo đảm nhất quán với chính sách chung của Nhà nước trong lĩnh vực mà dự thảo điều chỉnh; (3) nội dung văn bản phải hợp hiến, hợp pháp, bảo đảm tính thống nhất, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, bảo đảm tính tương thích với điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập; (4) nội dung quy định trong dự thảo phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội; vừa phải đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước đồng thời phải đảm bảo thúc đẩy phát triển xã hội; (5) nội dung văn bản phải đảm bảo tính khả thi (các điều kiện bảo đảm thi hành văn bản như nguồn tài chính, nguồn nhân lực; các biện pháp đảm bảo thực hiện nội dung các chính sách của văn bản… phải được quy định cụ thể, đầy đủ và hợp lý)[9]; (6) nội dung các quy định phải minh bạch, cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện (đối tượng chịu sự tác động của văn bản phải biết được họ phải làm gì, được phép làm gì, không được phép làm gì; cơ quan nhà nước chỉ được phép làm gì, đến mức độ nào…); (7) đảm bảo tính ổn định của hệ thống pháp luật; các quy định trong văn bản phải cụ thể, nhưng không quá chi tiết dẫn đến nguy cơ phải sửa đổi, bổ sung ngay sau khi văn bản được ban hành; (8) chế tài đặt ra phải hợp lý, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi vi phạm. Tám tiêu chuẩn kể trên được các chuyên gia Việt Nam đúc rút từ thực tiễn kinh nghiệm lập pháp của Việt Nam cũng như có tham khảo kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này.[10] Thực tế cho thấy, vi phạm các tiêu chuẩn trên vẫn khá bức xúc trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam mà nhiều học giả ở Việt Nam đã chỉ ra[11].
Thứ sáu, tính nghiêm minh và nhất quán trong thực hiện pháp luật: Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống pháp luật phải được thực hiện nghiêm minh và nhất quán. Thực hiện pháp luật nghiêm minh và nhất quán chính là một trong những thước đo tính công bằng, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý xã hội của Nhà nước. Việc thực hiện pháp luật nghiêm minh đòi hỏi phải coi trọng công tác phòng ngừa vi phạm pháp luật đồng thời bảo đảm mọi hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật đều phải được phát hiện nhanh chóng, xử lý kịp thời, với chế tài tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Tính nhất quán trong việc thực hiện pháp luật đòi hỏi các vụ việc có tình tiết tương tự nhau phải được xử lý theo cách thức và hệ quả pháp lý tương tự nhau.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
1.3.1. Kinh nghiệm quốc tế về quy trình xây dựng luật và xu hướng cải cách pháp luật
1.3.1.1. Quy trình xây dựng pháp luật
Về thẩm quyền xây dựng pháp luật, đại đa số các quốc gia đều quy định quyền lập pháp thuộc về Quốc hội. Tuy nhiên, trong lĩnh vực lập pháp, Chính phủ luôn là chủ thể có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật thông qua vai trò đề xuất chính sách, trình dự án luật.
Về quyền sáng kiến lập pháp và trình các dự án luật
Hầu hết các quốc gia nghiên cứu, trừ Hoa Kỳ, thì quyền sáng kiến lập pháp và soạn thảo, trình dự án luật đều được quy định cho nhiều chủ thể, không chỉ có Quốc hội. Trong thực tiễn ở nhiều quốc gia, việc trình dự án luật chủ yếu được thực hiện bởi nhánh hành pháp tức là Chính phủ.
Về quy trình soạn thảo dự án luật
Việc soạn thảo dự án luật thường được giao cho cơ quan đề xuất sáng kiến lập pháp (Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Nga, Trung Quốc) hoặc tập trung ở Quốc hội (Hoa Kỳ).
Về quy trình thảo luận và thông qua dự án luật tại Quốc hội
Ở Pháp, Việc trình dự thảo luật có thể bắt đầu từ một trong hai Viện. Mỗi dự án đều phải trải qua 2 lần đọc tại mỗi Viện trước khi được bỏ phiếu thông qua hoặc không thông qua dự thảo luật. Kể từ năm 2009, mọi dự án luật do Chính phủ trình đều phải kèm theo báo cáo đánh giá tác động của dự luật từ các khía cạnh như: sự tương thích của dự án luật với Luật của cộng đồng châu Âu, các hệ quả kinh tế, xã hội, tài chính và môi trường của dự án luật.[12]
Theo quy định tại Điều 42 Hiến pháp của Pháp, việc thảo luận các dự án luật tại phiên họp toàn thể sẽ được tiến hành trên cơ sở dự thảo đã được Ủy ban của Quốc hội thảo luận và thông qua. Tuy nhiên, các dự án luật về tài chính, dự án luật về nguồn tài chính của quỹ bảo hiểm xã hội được thảo luận tại phiên họp toàn thể được tiến hành trên cơ sở dự thảo do Chính phủ trình trong lần đọc đầu tiên tại Viện đầu tiên mà dự án đó được trình. Các phiên thảo luận toàn thể tại lần đọc thứ nhất đối với dự án luật ở một Viện chỉ có thể được tiến hành sau thời hạn 6 tuần kể từ thời điểm dự án đó được trình lên trong trường hợp Viện đó là Viện đầu tiên mà dự án luật được đệ trình. Trong trường hợp là dự án luật được chuyển từ Viện khác sang, lần đọc thứ nhất tại Viện này chỉ được tiến hành sau thời hạn 4 tuần kể từ thời điểm dự luật được Viện kia chuyển sang. Tuy nhiên, quy định tại đoạn trên không áp dụng đối với trường hợp áp dụng quy trình rút gọn theo các điều kiện được quy định tại Điều 45 cũng như đối với các đạo luật về tài chính, các đạo luật về nguồn tài chính cho các quỹ bảo hiểm xã hội hoặc các đạo luật có liên quan tới tình trạng khẩn cấp.
Việc xem xét dự án luật tại các Ủy ban của Quốc hội cũng được qui định cụ thể. Điều 43 Hiến pháp của Pháp quy định, các dự án luật phải được chuyển cho một trong các ủy ban thường trực của Quốc hội để xem xét. Số lượng ủy ban thường trực ở mỗi Viện là không quá 8 ủy ban. Tuy nhiên, nếu Chính phủ có yêu cầu thì Quốc hội có thể lập ủy ban lâm thời để xem xét dự án luật. Theo quy định tại Điều 44 Hiến pháp của Pháp, thành viên Quốc hội và Chính phủ có quyền đưa ra các sửa đổi, bổ sung đối với dự án luật được trình trước Quốc hội. Quyền này có thể được thực hiện tại phiên họp toàn thể hoặc tại ủy ban theo Nội quy của các Viện được xây dựng phù hợp với một đạo luật về tổ chức Quốc hội. Khi cuộc tranh luận bắt đầu, Chính phủ có quyền phản đối việc xem xét các sửa đổi, bổ sung mà trước đó chưa được chuyển đến xem xét tại Uỷ ban của Quốc hội có liên quan. Nếu Chính phủ có yêu cầu, Hạ viện hoặc Thượng viện sẽ tiến hành biểu quyết một lần duy nhất về một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản đưa ra thảo luận trên cơ sở chỉ giữ lại những sửa đổi, bổ sung đã được Chính phủ đề xuất hoặc chấp nhận.
Theo quy định tại Điều 45 Hiến pháp của Pháp, dự án luật được lần lượt đưa ra xem xét, thảo luận tại 2 Viện của Quốc hội sau đó thông qua như một văn bản thống nhất. Tuy nhiên, đối với dự án luật do Chính phủ trình, nếu sau 2 lần đọc ở mỗi Viện mà quan điểm của hai Viện vẫn khác nhau thì Thủ tướng Chính phủ có thể đề nghị lập Ủy ban hỗn hợp chung của hai Viện. Đây là một ủy ban đặc biệt với số lượng thành viên đến từ hai Viện ngang bằng nhau. Chức năng chính của Ủy ban này là tìm kiếm phương án về dự án luật có thể chấp nhận được đối với cả hai viện. Tuy nhiên, phương án thỏa hiệp này phải được Chính phủ chấp thuận. Nếu việc lập Ủy ban này vẫn không mang lại giải pháp chấp nhận được đối với cả hai Viện, thì sau khi văn bản đã được Hạ viện và Thượng viện xem xét, thảo luận một lần nữa, Chính phủ sẽ đề nghị Hạ viện có tiếng nói cuối cùng.
Ở Trung Quốc, Đối với dự án luật được đưa vào chương trình họp của Quốc hội đang diễn ra thì người bảo trợ dự án luật phải báo cáo trước Quốc hội về dự án luật trước khi các đoàn đại biểu tiến hành thảo luận, xem xét.[13] Trong quá trình các đoàn đại biểu xem xét dự án luật, người bảo trợ dự án luật có thể cử đại diện tới dự để nghe bình luận và trả lời các câu hỏi. Nếu đoàn đại biểu có yêu cầu thì cơ quan, tổ chức có liên quan phải cử đại diện tới dự phiên họp của đoàn thảo luận dự án luật và cung cấp thông tin cho đoàn đại biểu[14]. Thông thường, một dự thảo luật được xem xét ở Quốc hội thì sẽ được thảo luận khoảng 3 lần trước khi được đưa ra bỏ phiếu thông qua.
Ở phiên thảo luận thứ nhất: những người bảo trợ sẽ có trách nhiệm trình bày các nội dung của dự thảo luật trước Quốc hội. Sau đó, các cuộc họp của các đoàn đại biểu sẽ được tổ chức để thảo luận sơ bộ về nội dung thảo luận.
Ở phiên họp thảo luận thứ hai: các đoàn đại biểu sẽ xem xét báo cáo của Ủy ban pháp luật về các sửa đổi, bổ sung đối với dự thảo và tiếp tục thảo luận về những vấn đề còn cần cân nhắc.
Ở phiên họp thứ ba, Ủy ban pháp luật đưa ra báo cáo thẩm tra về dự thảo luật. Dự thảo luật lúc này sẽ được chuẩn bị, chỉnh sửa để chuẩn bị trình ra phiên họp toàn thể của Quốc hội. Báo cáo thẩm tra phải chứa đựng những giải thích về những vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau. Chỉ sau khi Chủ tịch đoàn thảo luận, thông qua báo cáo thẩm tra và dự thảo luật, báo cáo và dự thảo mới này phải được in và phát cho các đại biểu tham dự phiên họp của Quốc hội.[15]
Ở Nhật Bản, Khi dự luật được trình ra Hạ viện hoặc Thượng viện, Chủ tịch hạ viện hoặc Chủ tịch Thượng viện thường sẽ chuyển dự án luật về các Ủy ban của Quốc hội để xem xét, thẩm tra.
Tại Ủy ban, công việc thẩm tra bắt đầu với việc Bộ trưởng quản lý ngành bảo trợ dự án luật sẽ giải trình về lý do xây dựng dự án luật. Sau đó các thành viên trong Ủy ban sẽ tiến hành việc hỏi đáp, trao đổi với Bộ trưởng bảo trợ dự án luật. Sau phần hỏi đáp, trao đổi, Chủ nhiệm Ủy ban sẽ yêu cầu bỏ phiếu tại Ủy ban đề xem Ủy ban có ủng hộ hay không ủng hộ dự án luật. Kết thúc hoạt động thẩm tra, dự án luật sẽ tiếp tục được thảo luận tại phiên họp toàn thể của Viện mà dự án luật đang được trình.
Hầu hết các dự án luật được trình lên Nghị viện đều phải trải qua giai đoạn xem xét, thẩm tra tại Ủy ban. Hơn nữa, quãng thời gian dự án luật được xem xét tại Ủy ban cũng chiếm nhiều thời gian hơn so với quá trình xem xét dự án luật tại phiên họp toàn thể. Có thể nói, việc một dự án luật có được thông qua hay không có thể được đoán định trước ngay từ giai đoạn xem xét ở Ủy ban.
Sau khi được đệ trình trước Hạ viện, Chủ tịch Hạ viện dựa vào nội dung dự án luật để chuyển dự án luật đến Ủy ban có thẩm quyền xem xét tương ứng. Riêng dự án ngân sách được xem xét tại Ủy ban ngân sách của mỗi viện. Nếu khó có thể xác định Ủy ban có thẩm quyền xem xét dự án luật thì Chủ tịch Hạ viện hoặc các nghị sỹ có thể đề nghị Hạ viện xem xét quyết định. Ngoài ra, Hạ viện cũng có thể thành lập một Ủy ban đặc biệt trong trường hợp cần thiết để xem xét dự án luật. Trong quá trình xem xét dự án luật, Ủy ban của Nghị viện có thẩm quyền khá lớn. Khi nhận được dự án luật, Ủy ban có thể xem xét dự án luật hoặc không đưa dự án luật vào chương trình làm việc của Ủy ban. Ủy ban cũng có thể bác bỏ dự luật bằng cách quyết định rằng dự án luật không có nội dung quan trọng cần phải trình ra phiên họp toàn thể của Nghi viện (trừ trường hợp dự án luật đó được chuyền từ Viện khác tới).
Các phiên họp của Ủy ban ở Nghị viện Nhật Bản được tổ chức vào thời gian không tiến hành các phiên họp toàn thể của Nghị viện với ít nhất phải có một nửa số thành viên của Ủy ban có mặt. Số lần phát biểu của một nghị sỹ về vấn đề đang được Ủy ban tiến hành xem xét là không hạn chế. Ủy ban có thể tổ chức các buổi điều trần để nghe ý kiến của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến dự án luật. Ngoài ra, Ủy ban cũng có thể yêu cầu các quan chức chính phủ tham gia các cuộc họp của Ủy ban để giải trình về những vấn đề có liên quan. Ủy ban cũng có thể đề nghị với các nghị sỹ không thuộc Ủy ban phát biểu về dự án luật nếu thấy cần thiết. Trong một số trường hợp, một Ủy ban có thể tổ chức một cuộc họp liên tịch với các Ủy ban khác theo sự thỏa thuận giữa các Ủy ban. Quá trình từ khi thảo luận cho đến khi biểu quyết về dự án luật tại Ủy ban phải được ghi thành biên bản, phải được in và gửi đến từng hạ nghị sỹ, trừ những phần biên bản của các cuộc họp kín được Ủy ban quyết định giữ bí mật và những điểm mà Chủ nhiệm Ủy ban ra lệnh rút bỏ. Các biên bản này phải được Chủ nhiệm Ủy ban ký chứng thực và được lưu giữ tại Hạ viện. Sau khi đã hoàn thành việc xem xét một dự án luật, các báo cáo của Ủy ban giải thích ngắn gọn về các lý do để Ủy ban đưa ra quyết định. Báo cáo này thường được Chủ nhiệm Ủy ban trình lên Chủ tịch Hạ viện tại phiên họp toàn thể của Hạ viện. Bên cạnh đó, theo nguyên tắc bảo vệ ý kiến thiểu số, bản báo cáo ý kiến thiểu số trong Ủy ban với đầy đủ số lượng chữ ký cần thiết sẽ được gửi đến Chủ nhiệm Ủy ban để trình lên Chủ tịch Hạ nghị viện. Các báo cáo của Ủy ban và các báo cáo về ý kiến thiểu số sẽ được in và gửi đến tất cả các nghị sỹ, trừ những phần được cho là thuộc về bí mật quốc gia. Đến đây, dự án luật được chuyển sang giai đoạn xem xét tại phiên họp toàn thể của Hạ viện. Khi dự luật đã được cả Ủy ban và phiên họp toàn thể của Viện mà dự án luật được trình thông qua, dự án luật được chuyển cho Viện còn lại để xem xét. Sau đó quy trình lại được lặp lại như trên tại Viện còn lại mà dự thảo luật tiếp tục được trình.
Trong thực tế, không phải lúc nào dự luật được Hạ viện thông qua và dự luật được Thượng viện thông qua cũng là 2 bản có nội dung giống hệt nhau. Trong trường hợp này, quan điểm của Hai viện về dự án luật đã có sự bất đồng. Để giải quyết sự bất đồng này, pháp luật Nhật Bản cũng đã có những quy tắc nhất định. Theo quy định tại Điều 59 Hiến pháp năm 1947 của Nhật Bản, nếu thượng viện không đồng ý với dự luật mà Hạ viện đã thông qua thì dự luật này vẫn trở thành đạo luật nếu Hạ viện biểu quyết lần thứ hai và đạt được ít nhất là 2/3 số đại biểu có mặt thông qua.
Khi một dự án luật đã được Hạ viện thông qua nhưng chỉ được Thượng viện thông qua với sự sửa đổi, bổ sung nhất định hoặc không được Thượng viện thông qua, dự án luật sẽ được chuyển lại cho Hạ viện để xem xét thêm. Để tìm đến một giải pháp lập pháp hợp lý, có được sự đồng thuận từ phía các nghị sỹ của cả hai viện, Hạ viện có thể đề nghị Thượng viện cùng lập ra một Ủy ban liên hợp để xem xét dự án luật. Ủy ban này bao gồm thành viên của cả hai viện mà thông thường mỗi viện được quyền cử mười thành viên tham dự. Các phiên họp của Ủy ban chung sẽ do các thành viên của mỗi viện thay nhau chủ tọa. Riêng phiên họp đầu tiên, người chủ tọa sẽ do tất cả các thành viên trong Ủy ban chung quyết định. Thủ tục làm việc của Ủy ban chung được quy định rất nghiêm ngặt. Để có thể tiến hành phiên họp, Ủy ban chung phải có đủ 2/3 tổng số các thành viên có mặt. Các thành viên khác của nghị viện không phải là thành viên của Ủy ban chung thì tuyệt đối không được tham dự phiên họp của Ủy ban này ngoại trừ được tham gia với tư cách là thành viên của Chính phủ hoặc các cơ quan hữu quan được Ủy ban chung triệu tập để giải trình, làm rõ các vấn đề có liên quan trong dự án. Trình tự thảo luận, đệ trình các giải pháp sửa đổi, bổ sung, biểu quyết tại Ủy ban chung được áp dụng theo nguyên tắc được quy định tại Luật Nghị viện Nhật Bản mà cả Hạ viện và Thượng viện đều phải tuân thủ. Một giải pháp lập pháp chỉ được thông qua khi có đa số hai phần ba tổng số thành viên của Ủy ban có mặt tại phiên họp nhất trí tàn thành. Các giải pháp đã được Ủy ban chung thống nhất thông qua thì không được phép sửa đổi, bổ sung. Phương án này sẽ được chuyển đến xem xét lại ở Hạ viện và Thượng viện. Trong mối quan hệ giữa hai viện, Hạ viện vẫn có những ưu thế nổi trội hơn, đặc biệt là trong quy trình lập pháp. Trường hợp Nghị viện không nhất trí với ý kiến của Hạ viện về dự án luật hoặc Ủy ban chung do hai viện thành lập không tìm được một giải pháp thống nhất thì Hạ viện vẫn có thể đưa ra quyết định cuối cùng nếu có được đa số hai phần ba tổng số thành viên của Hạ viện biểu quyết thông qua theo phương án của Hạ viện. Phương án của Hạ viện cũng được coi là mặc nhiên được Thượng viện chấp thuận trong trường hợp trong vòng sáu mươi ngày kể từ ngày nhận được dự án luật từ Hạ viện mà Thượng viện không đưa ra được quyết định cuối cùng về dự án luật. Thời hạn này được rút ngắn thành 23 ngày trong trường hợp đó là dự án ngân sách của năm tài chính tiếp theo do Chính phủ đệ trình hoặc là các nghị quyết về việc phê chuẩn các điều ước quốc tế.
Ở Hàn Quốc, khi dự thảo luật đã được thông qua bởi Nội các và bản dự thảo được Tổng thống ký thì sẽ được Bộ Lập pháp trình sang Quốc hội. Tại đây, quá trình thảo luận, thẩm tra dự thảo được bắt đầu ở Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội sẽ trình bày dự thảo luật trước phiên họp toàn thể Quốc hội. Sau đó dự thảo luật sẽ được chuyển đến Ủy ban thường vụ có thẩm quyền xem xét, thẩm tra dự thảo. Sau khi xem xét ở Ủy ban thường vụ hoàn thành, dự thảo sẽ được đưa vào chương trình phiên họp toàn thể. Nếu cần thiết, các ủy ban có thẩm quyền có thể yêu cầu các tiểu ban xem xét dự thảo luật. Đối với dự án luật quan trọng, một ủy ban gồm tất cả các thành viên có thể tham gia thẩm tra. Sau khi quá trình thẩm tra hoàn thành, dự án luật sẽ được chuyển đến Ủy ban Pháp luật và Tư pháp để xem xét các thuật ngữ pháp lý. Sau đó, dự luật sẽ được thảo luận và thông qua tại phiên họp toàn thể của Quốc hội.[16]
Ở Hoa Kỳ, sau khi chính thức đệ trình, mọi dự luật đều được trải qua phiên đọc đầu tiên (first reading) bằng thủ tục đơn giản là tên của dự luật sẽ được chủ tọa đọc tại phiên họp toàn thể của Hạ viện. Sau đó dự luật được Chủ tịch Hạ viện chuyển cho Ủy ban chuyên môn của Hạ viện để xem xét, hoàn thiện. Dự thảo luật sẽ được xem xét rất kỹ lưỡng ở Hạ viện và Thượng viện. Khác với các quốc gia khác, ở giai đoạn này, dự thảo luật sẽ nhận được sự tham gia của công chúng cũng như ý kiến tham vấn từ các Bộ/cơ quan hành pháp.
Ủy ban cũng có quyền quyết định sẽ không cho dự luật đi tiếp khi thấy dự luật là không cần thiết hoặc không phù hợp. Nếu thấy cần tiếp tục ủng hộ dự luật, Ủy ban sẽ gửi dự luật cho một tiểu ủy ban để xem xét chi tiết và kỹ lưỡng hơn. Tiểu ủy ban sẽ tiến hành nghiên cứu nội dung dự án luật từ nhiều khía cạnh bằng cách mở các phiên điều trần, mời các chủ thể có liên quan gồm: các chuyên gia, những người chịu sự tác động của dự án luật, những người tán thành và những người phản đối tới để nghe họ trình bày quan điểm. Sau đó tiểu ủy ban có thể đề xuất hoàn thiện dự án luật hoặc không chấp nhận dự án luật nếu thấy dự án luật không cần thiết hoặc không phù hợp. Nếu tiểu ủy ban chấp nhận dự án luật, dự án luật sẽ được hoàn thiện và gửi đến Ủy ban để bỏ phiếu chấp thuận hay không chấp thuận. Nếu được chấp nhận, Ủy ban phải hoàn thiện báo cáo về dự án luật, nêu rõ mục đích và các nội dung của dư án luật để gửi cho toàn thể Hạ viện xem xét.
Các phiên họp của Ủy ban để thảo luận, cho ý kiến hoàn thiện các dự thảo luật đều phải tổ chức công khai và công chúng được quyền đăng ký tham dự tự do (ngoại trừ Ủy ban ra quyết định chỉ tổ chức phiên họp kín).
Nếu dự án luật có nội dung quan trọng, tác động tới lợi ích của các nhóm đối tượng có liên quan khác nhau, Ủy ban có thể tổ chức các phiên điều trần công khai (public hearing). Khi quyết định tổ chức phiên điều trần này, Chủ tịch Ủy ban phải công bố công khai lịch trình của phiên điều trần trước ít nhất 1 tuần để công chúng và các đối tượng liên quan biết, đăng ký tham dự.
Kết thúc quá trình nghiên cứu, Ủy ban sẽ ra báo cáo theo một trong các hướng sau: (1) không cho phép dự luật, (2) cho phép nhưng đề nghị sửa đổi, hoặc (3) cho phép dự án luật đi tiếp và không cần sửa đổi. Nếu đề xuất dự án luật tiếp tục được đưa ra Quốc hội xem xét, báo cáo của Ủy ban phải có đủ các thông tin như: (1) mô tả về nội dung của dự án luật; (2) nêu rõ mục đích của việc ban hành dự án luật; (3) tác động của dự án luật khi được thông qua lên hệ thống pháp luật hiện hành (thay thế, sửa đổi, bổ sung quy định trong văn bản nào); (4) tác động dự kiến của dự án luật lên các đối tượng có liên quan; (5) dự toán chi phí thực thi luật hàng năm và trong 5 năm tới.
Tiếp theo, dự thảo luật được cho phép sẽ được cân nhắc bởi toàn thể Hạ viện và bỏ phiếu: Trong giai đoạn này, Hạ viện dành thời gian để thảo luận bản dự thảo luật do Ủy ban đệ trình và báo cáo kèm theo về dự án luật. Sau phiên thảo luận này, Dự luật được xem xét chi tiết theo từng điều khoản. Sự xem xét này được gọi là Phiên đọc lần 2 (second reading), tại đây, các đề xuất sửa đổi, bổ sung dự luật được đưa ra. Sau đó dự luật bước vào phiên đọc thứ ba (third reading) và chuẩn bị bỏ phiếu ở Hạ viện.
Sau khi dự thảo được thông qua tại Hạ Viện, dự thảo sẽ được gửi tới Thượng viện. Trong giai đoạn này, Dự luật lại được chuyển cho Ủy ban của thượng viện (và tiểu ban của Thượng viện). Thông thường, kết thúc hoạt động này, với những dự luật được chấp thuận đưa ra bỏ phiếu ở thượng viện, Dự luật sẽ có nội dung và ngôn ngữ thể hiện rất khác với dự luật đã được thông qua ở Hạ viện.
Nếu dự luật được thượng viện thông qua mà khác với dự luật hạ viện đã thông qua, hai viện phải thành lập một ủy ban liên hợp (Conference Committee) mang tính lâm thời để cân nhắc sự khác biệt này, tìm cách đồng thuận hóa nội dung của dự án luật. Ủy ban này sẽ do Chủ tịch Hạ viện và người chủ tọa Thượng viện (Senate Presiding Officer)[17] thống nhất thành lập, chọn lựa thành viên từ cả hạ viện và thượng viện (thường mỗi viện sẽ cử khoảng 7 đến 11 thành viên tham gia). Ủy ban này tiến hành hoạt động bằng các phiên họp (có thể 1 phiên họp hoặc nhiều phiên họp) và phải xây dựng được báo cáo đề xuất về phương án mà cả lưỡng viện chấp thuận về dự luật. Sau khi báo cáo này được gửi lại cho lưỡng viện và được lưỡng viện chấp thuận thì ủy ban sẽ tự động giải tán.[18] Ủy ban liên hợp hoạt động theo nguyên tắc tập thể và biểu quyết theo đa số. Ủy ban này chỉ cân nhắc những điểm bất đồng của hai viện về dự luật để tìm giải pháp dung hòa. Những điểm đã được cả hai viện chấp thuận thì ủy ban không được xem xét. Nếu trong vòng 10 ngày làm việc kể từ khi lập Ủy ban mà các bên vẫn chưa đạt được bất cứ sự đồng thuận nào liên quan tới giải pháp dung hòa, Ủy ban mới có thể sẽ được thành lập để đảm nhận thay vai trò của Ủy ban lâm thời cũ, nhằm đảm bảo quá trình xây dựng luật thoát được những điểm “nghẽn”. Cho tới khi dự luật được đồng thuận của cả Hạ viện và Thượng viện dưới hình thức tuyệt đối giống nhau, dự luật mới được chuyển cho Tổng thống xem xét, quyết định phủ quyết hay ký ban hành.
Về công bố (ban hành) văn bản pháp luật
Thẩm quyền công bố văn bản pháp luật sau khi đã được Quốc hội thống nhất thông qua ở hầu hết các quốc gia đều do nguyên thủ quốc gia, là người đứng đầu nhà nước, đại diện Nhà nước trong các hoạt động đối nội, đối ngoại ký ban hành. Cụ thể như sau:
Ở Trung Quốc, sau khi dự thảo luật được Quốc hội nhất trí thông qua thì sẽ được ký ban hành bởi Chủ tịch nước và có hiệu lực vào một ngày được ấn định. Tương tự như vậy, ở Nhật Bản, nếu dự luật được cả 2 Viện thông qua, dự luật được chuyển trở lại cho Chính phủ để Chính phủ trình Nhật Hoàng ký lệnh công bố. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày dự luật được chuyển tới cho Nhật Hoàng, dự luật phải được công bố. Cùng với việc công bố, đạo luật đã được thông qua sẽ được xuất bản trên công báo. Đạo luật được công bố có tên, được đánh số và được ký bởi cả Bộ trưởng quản lý ngành đã bảo trợ dự án luật và Thủ tướng Chính phủ. Ở Hàn Quốc, Tổng thống người đứng đầu nhánh hành pháp được coi là nguyên thủ quốc gia, bởi vậy, khi một dự luật được Quốc hội thông qua, dự luật sẽ được gửi đến cơ quan hành pháp. Tổng thống có 15 ngày để ban hành dự luật như một đạo luật. Tương tự như Hàn Quốc, Tổng thống là nguyên thủ quốc gia của Cộng hòa Pháp, nên việc thông qua lần cuối một dự luật hoặc một đề xuất lập pháp sẽ kết thúc giai đoạn nghị viện của thủ tục lập pháp. Dự luật được thông qua sẽ được gửi tới Tổng thống, người có quyền ban hành luật trong vòng 15 ngày. Ở Hoa Kỳ, Tổng thống, nguyên thủ quốc gia và là người đứng đầu nhánh hành pháp cũng là người có quyền xem xét và quyết định phê chuẩn dự án luật mà đã được Hạ Viện và Thượng viện thông qua trước đó. Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có 10 ngày để xem xét và quyết định phê chuẩn dự án luật. Trường hợp đồng ý, Tổng thống sẽ ký vào dự luật và ghi rõ “phê chuẩn” và ngày ký. Một dự luật cũng vẫn có thể trở thành luật mà không cần Tổng thống ký, nếu Tổng thống không trả lại dự luật với những ý kiến phản đối của mình trong vòng 10 ngày (không tính các ngày chủ nhật) sau khi dự luật đã được chuyển tới Tổng thống. Ở Liên Bang Nga, Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp liên bang Nga năm 1993, trong vòng 5 ngày sau khi đã được thông qua, luật phải được chuyển đến để Tổng thống xem xét ký ban hành.
Quyền rút lại dự án luật và đề nghị xem xét lại dự án Luật
Nhìn chung, các quốc gia đều quy định về quyền rút lại dự án luật của cơ quan trình dự thảo hoặc quyền đề nghị xem xét lại dự án Luật của các nguyên thủ quốc gia trước khi ký ban hành. Tuy nhiên, mạnh mẽ nhất phải kể đến quy định về quyền phủ quyết của Tổng thống Hoa Kỳ và quyền phủ quyết của Tổng thống Nga. Bên cạnh đó, nhiều quốc gia quy định về quyền rút lại dự án luật hoặc quyền đề nghị xem xét lại dự án luật của các nguyên thủ quốc gia trước khi ký ban hành.
1.3.1.2. Xu hướng cải cách pháp luật của các quốc gia
a) Xu hướng cải cách pháp luật phục vụ phát triển kinh tế
Để đạt được sự phát triển về mặt kinh tế cũng như tăng cường hiệu qủa quản trị quốc gia, tăng cường dân chủ, nhiều quốc gia đã phải trải qua các cuộc cải cách pháp luật một cách toàn diện, trong số quốc gia được nghiên cứu, Hàn Quốc là quốc gia thể hiện rõ nhất xu hướng này.
b) Xu hướng cải cách pháp luật tăng cường bảo vệ quyền con người, quyền công dân
Hiện nay, các quốc gia đặc biệt là các quốc gia Châu Âu, là cái nôi của chế độ nhà nước phúc lợi xã hội, nơi mà kinh tế hầu hết đã đạt tới trình độ phát triển cao thì xu hướng cải cách pháp luật nhằm tăng cường bảo vệ quyền con người, quyền công dân đang tiếp tục được quan tâm, chú trọng.
Ở Châu Á, Nhật Bản cũng là một quốc gia cho đến nay còn tồn tại nhiều vấn đề liên quan đến bảo về quyền con người, đặc biệt trong các vấn đề bình đẳng giới, bảo vệ quyền lợi của những người yếu thế như: cộng đồng LGBT, người khuyết tật, trẻ em.v.v. Bởi vậy, trong những năm gần đây, Nhật Bản vẫn đang tiếp tục cải cách thể chế để tăng cường bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Trung Quốc trong thời gian qua cũng có nhiều cải cách liên quan đến các lĩnh vực pháp luật khác nhau nhằm tăng cường bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
c) Xu hướng cải cách pháp luật tăng cường hiệu quả khu vực công
Tại Hàn Quốc, Cho đến năm 1997, các chương trình cải cách quy định ở Hàn Quốc không phải là trọng tâm cải cách chính. Các vấn đề bãi bỏ quy định đã được xử lý như một phần của chương trình cải cách hành chính về thủ tục hành chính và các thủ tục gắn liền với giai đoạn phát triển do nhà nước lãnh đạo. Tuy nhiên, khi nền kinh tế Hàn Quốc trở nên phát triển và phân mảnh, chiến lược phát triển do nhà nước lãnh đạo đã bị thách thức về tính hiệu quả và hiệu suất của nền kinh tế thị trường. Để giải quyết vấn đề này, cải cách chính phủ đã trở thành một chương trình nghị sự quan trọng.
Ở Nhật Bản, Chương trình cải cách hành chính của Nhật Bản được thực hiện với 3 trọng tâm ưu tiên: Cắt giảm chi phí hành chính để hạn chế thâm hụt ngân sách (thực hiện nguyên tắc “mức tối đa bằng 0” - tức mức tăng của ngân sách chi cho hoạt động hành chính so với năm trước phải bằng 0); giảm biên chế viên chức hành chính đi đôi với cải cách lương hưu; giảm thiểu số lượng tổ chức kinh tế nhà nước và hợp lý hóa công tác quản lý, tập trung đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Pháp là quốc gia duy nhất ở châu Âu đi theo mô hình công vụ chức nghiệp, công chức Pháp có các ngạch tương ứng với năng lực và việc làm cụ thể đối với mỗi nhánh công vụ nhất định (Nhà nước Trung ương, địa phương và y tế). Pháp có số lượng công chức lớn (chiếm 1/5 lao động), song là nước có dân số già nên độ tuổi trung bình của người làm việc cao (48 tuổi). Số lượng lớn nhân viên nghỉ hưu ồ ạt của thế hệ bùng nổ dân số sau Chiến tranh thế giới thứ II cùng với việc phân quyền mạnh giữa nhánh công vụ địa phương và Trung ương từ năm 1982 trở lại đây đã làm thay đổi các vị trí việc làm hiện tại và nảy sinh những vấn đề như: có sự thay đổi trong nhu cầu và mong muốn của thế hệ nhân viên, phổ biến hệ thống tin học và công nghệ mới làm thay đổi phương pháp làm việc... đòi hỏi cần hiện đại hóa công tác quản lý nhân sự trong nền công vụ chức nghiệp của Pháp. Đứng trước yêu cầu thực tiễn, Pháp thực hiện cải cách nền công vụ trên nhiều phương diện.
d) Xu hướng cải cách pháp luật đáp ứng yêu cầu CMCN 4.0
Trong những năm gần đây, Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với những công nghệ lõi như trí tuệ nhân tạo (AI), chuỗi khối (blockchain), kết nối vạn vật (IoT), điện toán đám mây, dữ liệu lớn (big data)... đang ảnh hưởng ngày càng sâu rộng tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội của các quốc gia. Việc ứng dụng các công nghệ mới của CMCN 4.0 không chỉ làm thay đổi lối sống, sinh hoạt của mỗi người dân, cách thức đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp công nghệ mà cả cách thức quản trị quốc gia của nhà nước. Bởi vậy, hầu hết các quốc gia đều có những thay đổi để hoàn thiện thể chế thích ứng với những ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, từ đó tận dụng được các cơ hội từ sự phát triển của công nghệ, đồng thời ứng phó với mặt trái mà cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại.
1.3.2. Bài học cho Việt Nam từ kinh nghiệm về quy trình xây dựng luật và xu hướng cải cách pháp luật
Thứ nhất, mặc dù quyền lập pháp tối cao thuộc về Quốc hội. Tuy nhiên, ở hầu hết các quốc gia, Chính phủ vẫn là chủ thể có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng pháp luật. Bởi một số nguyên nhân đó là, nhu cầu ban hành chính sách luôn xuất phát từ thực tiễn sinh động của đời sống xã hội mà ở đó hành pháp là chủ thể đầu tiên phát hiện ra và cần có nhu cầu giải quyết. Nhu cầu ấy được phản ánh tới Quốc hội thông qua các sáng kiến lập pháp và quyền trình dự án luật trước Quốc hội.
Thứ hai, quy trình xây dựng pháp luật ở hầu hết các quốc gia đều trải qua các công đoạn như: sáng kiến lập pháp, soạn thảo, trình dự án luật, thảo luận, thông qua. Hầu hết các nước được nghiên cứu, các công đoạn này diễn ra lần lượt trong cùng một quy trình.
Thứ ba, về quyền phủ quyết, đề nghị xem xét lại dự án luật, như đã phân tích ở trên, nhiều quốc gia đều có quy định về quyền phủ quyết, đề nghị xem xét lại dự án luật trong quy trình ban hành văn bản pháp luật. Theo đó, nguyên thủ quốc gia, người ký ban hành Luật có quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại dự án luật (Trung Quốc, Pháp) hay quyền phủ quyết việc ban hành luật của Tổng thống (Hoa Kỳ, Nga). Những quy định này thể hiện sự kiểm soát nhất định giữa cơ quan hành pháp với cơ quan lập pháp. Kiểm soát quyền lực giữa hành pháp, tư pháp đối với lập pháp xuất phát từ quan điểm cho rằng không nên tuyệt đối hóa, hay trao quyền lực một cách vô hạn cho bất kỳ cơ quan nhà nước nào, kể cả đó là Nghị viện/Quốc hội - cơ quan lập pháp, cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra.[19]
Thứ tư, các xu hướng cải cách pháp luật của các quốc gia trên thế giới hiện nay mặc dù đi vào vấn đề cụ thể khá phong phú, phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng tựu chung lại đều xoay quanh các nội dung cốt lõi đó là: thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, bảo vệ quyền con người và tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước.
1.3.3. Kinh nghiệm quốc tế về tổ chức thi hành pháp luật
1.3.3.1. Về chủ thể tổ chức thi hành pháp luật
Hầu hết các quốc gia được nghiên cứu, nhiệm vụ tổ chức thi hành pháp luật đều là một trong những chức năng cơ bản của nhánh hành pháp. Trong đó, cụ thể là Chính phủ, Nội các mà đứng đầu là Tổng thống, Thủ tướng Chính phủ.
1.3.3.2. Công tác xây dựng các quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật
Cũng như thực trạng ở Việt Nam, hầu hết các đạo luật để được thi hành trong thực tiễn thì cần các văn bản hướng dẫn thi hành vì những đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành không đủ chi tiết để áp dụng vào thực tiễn ngay lập tức. Vì vậy, bước đầu tiên để tổ chức thi hành một đạo luật ở các quốc gia trên thế giới đó là xây dựng các quy định dưới luật nhằm cụ thể hóa các vấn đề cần thiết để thi hành.
1.3.3.3. Công tác công bố chính thức các quy định pháp luật, pháp điển hóa văn bản và phổ biến văn bản quy phạm pháp luật
Hầu hết các quốc gia đều phải thực hiện bước công bố chính thức cũng như thông tin công khai VBQPPL để phục vụ thuận lợi cho người dân tiếp cận pháp luật từ đó pháp luật đi vào thực tiễn dễ dàng hơn.
1.3.3.4. Về giám sát thi hành pháp luật và xử lý vi phạm
Nhìn chung, hầu hết các quốc gia đều rất coi trọng giai đoạn này. Đây là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo việc tuân thủ pháp luật nghiêm minh, nhất quán.
1.3.3.5. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp
Trong Nhà nước pháp quyền, đạo luật tối cao được ghi nhận là Hiến pháp. Mọi văn bản quy phạm pháp luật khi được ban hành đều cần tuân thủ yêu cầu tiên quyết đó là không trái với quy định Hiến pháp. Bởi vậy, để bảo vệ tính thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, hầu hết các quốc gia hiện nay đều quy định một cơ chế để đánh giá tính hợp hiến của nội dung các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành nói riêng và về tính hợp hiến trong hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung.
1.3.3.6. Bài học cho Việt Nam từ kinh nghiệm tổ chức thi hành pháp luật
Như vậy, thông qua việc tìm hiểu cơ chế tổ chức thi hành pháp luật tại một số quốc gia, Ban chủ nhiệm đề tài rút ra một số bài học có thể tham khảo cho Việt Nam trong quá trình nâng cao chất lượng của hoạt động tổ chức thi hành pháp luật thời gian tới như sau:
Thứ nhất, dù với thể chế nhà nước và hệ thống pháp luật như thế nào thì việc tổ chức thi hành pháp luật ở các nước hiện nay đều quy định thuộc trách nhiệm của Chính phủ. Đây là điểm tương đồng ở hầu hết các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Thứ hai, việc tổ chức thi hành pháp luật được coi là một trong những nhiệm vụ chính của nhánh hành pháp, các khâu trong việc tổ chức thi hành pháp luật ở các nước về cơ bản cũng có nhiều nét tương đồng với quan niệm hiện tại ở Việt Nam, bao gồm: việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật, việc phổ biến pháp luật, đầu tư nguồn nhân lực, cơ sở vật chất cho công tác tổ chức thi hành pháp luật; thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thi hành pháp luật.
Thứ ba, đi vào từng khâu cụ thể trong cơ chế tổ chức thi hành pháp luật.
Đối với hoạt động ban hành văn bản chi tiết hướng dẫn: hầu hết các nước đều quy định Chính phủ, các bộ, ngành có quyền ban hành các văn bản như vậy để thuận tiện cho việc cụ thế hóa pháp luật nhằm đưa pháp luật áp dụng vào thực tiễn. Việc ban hành văn bản chi tiết hướng dẫn được quy định cụ thể và đều phải trải qua các bước liên quan đến việc đăng tải, công khai dự thảo để lấy ý kiến công chúng cũng như trải qua các bước tiếp thu, chỉnh sửa kỹ càng để đi đến thông qua và công bố.
Đối với việc phổ biến pháp luật được thực hiện hết sức bài bản và hầu hết các nước đều chú trọng đến việc rà soát, hệ thống hóa và pháp điển hóa VBQPPL, kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác này. Hoa Kỳ, Pháp, Hàn Quốc và cả Trung Quốc đều có những trang thông tin dành riêng cho việc tập hợp, công bố những VBQPPL mới ban hành và được cập nhật thường xuyên.
Đối với công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, hầu hết các nước đều rất chú trọng đến công tác này và những kết quả hoạt động nói chung, kết quả thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm nói riêng đều được cụ thể hóa và công khai ở mức độ cao, từ đó, người dân có thể dễ dàng tiếp cận và đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan tổ chức thực thi pháp luật như: Hoa Kỳ, Pháp đều có những cơ quan cụ thể chịu trách nhiệm về các vấn đề nóng trong xã hội như: môi trường, an toàn thực phẩm… Và trên các trang thông tin điện tử của các cơ quan này đều công khai hoạt động hàng năm của cơ quan thông qua báo cáo cụ thể, cả báo cáo nội dung hoạt động cũng như báo cáo tài chính để người dân dễ dàng tiếp cận.
Đối với cơ chế bảo vệ Hiến pháp, hầu hết các quốc gia được nghiên cứu đều hình thành một cơ quan bảo vệ Hiến pháp độc lập. Cụ thể: việc quy định cơ chế bảo vệ Hiến pháp dựa trên quyền tài phán Hiến pháp của cơ quan tư pháp như Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Liên Bang Nga, Nhật Bản hoặc một cơ chế độc lập như Hội đồng Hiến pháp của Cộng hòa Pháp đã thể hiện sự kiểm soát quyền lực nhất định giữa tư pháp với cơ quan lập pháp và hành pháp. Khi đó, mọi hành vi ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quyết định, mệnh lệnh hành chính.v.v trái với Hiến pháp thì đều có thể bị xem xét, hủy bỏ. Từ đó, bảo đảm tính tôn nghiêm của Hiến pháp. Đồng thời, bảo đảm tính thượng tôn Hiến pháp, pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật của các cơ quan hành pháp.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN HỆ THỐNG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Hệ thống pháp luật nói chung, nhất là sau khi có Hiến pháp năm 2013, hệ thống các luật, pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn thi hành đã không ngừng được xây dựng và hoàn thiện cả về nội dung, hình thức, số lượng và chất lượng. Các văn bản này về cơ bản đã thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối, chủ trương của Đảng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Đánh giá chung về tính toàn diện, đồng bộ, tính thống nhất, phù hợp, khả thi, dễ tiếp cận của hệ thống pháp luật, có thể thấy:
Một là, nội dung các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng bảo đảm sự phù hợp với thực tiễn và đáp ứng tốt hơn yêu cầu quản lý nhà nước, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội bền vững và chủ động hội nhập quốc tế. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật được dựa trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, nhiều chính sách pháp luật đã có đánh giá tác động kỹ, được các cơ quan có thẩm quyền xem xét một cách thận trọng ở nhiều phương diện khác nhau, ngày càng bảo đảm tính thực tiễn, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp Nhân dân và đạt được sự đồng thuận cao trong quá trình triển khai thi hành. Thông qua việc ban hành pháp luật, nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về kinh tế, chính trị, xã hội,… đã được thể chế hóa, triển khai trên thực tế, có tác động tích cực, đáp ứng các yêu cầu quản lý và phát triển đất nước[20].
Hai là, tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật nhìn chung được bảo đảm. Mặc dù số lượng dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết được trình trong thời gian qua là rất lớn với nhiều nội dung mới, đa dạng và phức tạp nhưng các cơ quan có thẩm quyền đã dành sự quan tâm thỏa đáng và coi việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật là một tiêu chí quan trọng trong soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, chỉnh lý, xem xét, thông qua dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết.
Ba là, tính công khai, minh bạch của các quy định trong hệ thống pháp luật được bảo đảm tốt hơn. Nội dung các quy định về thẩm quyền của cơ quan nhà nước ngày càng cụ thể, chặt chẽ, rõ ràng hơn nhằm góp phần bảo đảm nguyên tắc cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Pháp luật hiện hành cũng quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, thẩm quyền xử lý công việc của các cơ quan nhà nước; bảo đảm sự chặt chẽ, rõ ràng hơn trong các quy định dẫn chiếu pháp luật áp dụng, trong việc giao quy định chi tiết, giảm đáng kể việc sử dụng các cụm từ như “theo quy định của pháp luật”, “theo quy định khác của pháp luật có liên quan”, chỉ rõ từng nội dung, điều khoản giao Chính phủ quy định. Một số luật, pháp lệnh đã quy định cụ thể, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội, không phải chờ văn bản quy định chi tiết. Các luật điều chỉnh một số lĩnh vực phức tạp, dễ phát sinh tham nhũng, tranh chấp, khiếu kiện, đã được thiết kế với các yêu cầu cao hơn về tính công khai, minh bạch.
Bốn là, về tính đầy đủ của hệ thống pháp luật:
- Thể chế về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng. Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định rõ trong Hiến pháp năm 2013, là cơ sở cho việc xây dựng các đạo luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước[21] và hệ thống chính trị, hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp[22], hành pháp, tư pháp.
- Thể chế về bảo vệ, bảo đảm quyền con người được quan tâm hoàn thiện. Trên cơ sở tư duy lập hiến mới của Hiến pháp năm 2013 coi công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân là trách nhiệm của Nhà nước,[23] các đạo luật về quyền dân sự,[24] chính trị[25], quyền tự do, dân chủ của công dân đã được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.[26] Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung, ghi nhận nhiều quyền mới [27]và quy định rõ ràng, đầy đủ hơn nội hàm của các quyền mà Hiến pháp năm 1992 đã quy định, đồng thời bổ sung nguyên tắc quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (Khoản 2 Điều 14).
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện với nhiều đặc điểm của thể chế kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Chế độ sở hữu[28], pháp luật về các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế[29] và thể chế cho việc đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước[30] đều có bước phát triển mới. Các quyền và nghĩa vụ về tài sản được thể chế hóa tương đối đầy đủ. Vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân ngày càng được coi trọng[31], thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt kết quả tích cực, đội ngũ doanh nhân không ngừng lớn mạnh. Thể chế về các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn[32], tạo điều kiện cho việc gắn kết với thị trường khu vực và thế giới. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện và thông thoáng hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được đảm bảo hơn.[33] Cải cách thủ tục hành chính trong công tác quy hoạch, quản lý sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, đấu giá quyền sử dụng đất đã được đẩy mạnh, đưa quản lý, sử dụng đất đai vào nề nếp.[34] Pháp luật về giá quy định rõ quyền, nghĩa vụ của tổ chức cá nhân trong lĩnh vực giá và hoạt động quản lý giá qua đó, bảo đảm sự điều tiết của Nhà nước về giá thông qua các biện pháp kinh tế nhằm ổn định thị trường; tôn trọng quyền tự định giá của cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh; khuyến khích, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng; ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và bình ổn thị trường.[35]
.- Cùng với việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế, trong những năm qua, Việt Nam đã đẩy mạnh thực hiện việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với thông lệ quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, cơ bản đã theo kịp và tương thích với hầu hết các nguyên tắc, tập quán quốc tế, góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, tài chính, ngân hàng… tương trợ tư pháp, chống khủng bố, chống tội phạm, chống rửa tiền, chống tham nhũng.
Có thể nói, đến nay, đa số các lĩnh vực kinh tế - xã hội đều đã được điều chỉnh bởi các đạo luật. Số lượng đạo luật điều chỉnh lĩnh vực quyền con người, quyền công dân đã cân xứng hơn so với các đạo luật về tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN cũng như các đạo luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, kinh tế. Trên cơ sở đó, Chính phủ và các bộ, ngành, chính quyền địa phương đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, góp phần sớm đưa các quy định trong các đạo luật vào thực tiễn đời sống.
Thêm vào đó, quy trình xây dựng luật, pháp lệnh đã được đổi mới một bước khá cơ bản[36] theo hướng tách bạch quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo bảo đảm sự phù hợp của luật, pháp lệnh với đường lối, chủ trương của Đảng, nâng cao tính công khai, minh bạch trong xây dựng chính sách, tăng cường, phát huy sự tham gia của xã hội vào quy trình xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chất lượng công tác thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đã được nâng lên rõ rệt; công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm. Tiến độ xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết đã được cải thiện, từng bước đáp ứng yêu cầu công tác triển khai thi hành luật, pháp lệnh, tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết đã giảm so với các năm trước đây.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật vẫn tồn tại một số hạn chế sau:
- Hệ thống pháp luật chưa thật đầy đủ, việc thể chế hóa một số chủ trương, đường lối của Đảng có nội dung còn chưa đầy đủ, kịp thời; tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, ổn định của một số quy định chưa cao; chi phí tuân thủ pháp luật còn lớn.
- Cấu trúc của hệ thống pháp luật còn cồng kềnh với nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành.
- Một số nội dung còn mâu thuẫn, chồng chéo.[37] Một số bất cập của pháp luật được phát hiện, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung; còn nhiều văn bản dưới luật; còn tình trạng văn bản quy phạm pháp luật được duy trì ở hình thức pháp lệnh kéo dài nhiều năm, đã sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhưng chưa được nâng lên thành luật[38].
- Tình trạng nợ ban hành văn bản quy định chi tiết hoặc hướng dẫn thi hành chưa được khắc phục triệt để, chất lượng một số văn bản chưa cao.
- Vẫn còn một số quy định trong các văn bản chưa bảo đảm điều kiện, nguồn lực thực hiện. Trong một số lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, một số quy định về đầu tư, kinh doanh còn chưa theo kịp yêu cầu phát triển nhanh chóng của đời sống kinh tế - xã hội dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý khi phát sinh nhiều tình hình kinh doanh mới, sản phẩm kinh doanh mới như tài sản mã hóa, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử…
Cụ thể, đánh giá thực trạng pháp luật trong một số lĩnh vực như sau:
2.1. Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.1.1. Thành tựu
Riêng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kể từ năm 1986 đến nay, Trung ương Đảng đã hai lần ban hành Nghị quyết chuyên đề về chủ đề này, đó là Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30/1/2008 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) về “tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XII về “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Theo tinh thần các Nghị quyết này, nội dung cốt lõi của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là các quy định pháp luật về sở hữu, quyền tài sản, pháp luật về đầu tư, kinh doanh (nhằm phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp), pháp luật về các loại thị trường (hàng hóa, dịch vụ, lao động, bất động sản, khoa học và công nghệ, tài chính v.v.), pháp luật về bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường (nhằm gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển bền vững, tiến bộ và công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu), pháp luật về giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong lĩnh vực kinh tế. Những định hướng, chính sách nêu trên của Đảng đã được cụ thể hóa thành hệ thống các văn bản pháp luật phục vụ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này được thể hiện ở một số thành tựu sau:
Thứ nhất, pháp luật về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thể hiện rất rõ nét nhất tính đầy đủ, kịp thời, khả thi của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
Cho tới nay, Việt Nam đã dần hình thành đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, vận hành cơ bản thông suốt, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế.
Thứ hai, pháp luật trong lĩnh vực phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã thể hiện rõ nét phương châm ngày càng tăng cường tính dân chủ trong hệ thống pháp luật của Nhà nước. Điều này thể hiện ở tư duy xây dựng pháp luật trong lĩnh vực kinh tế thị trường có sự thay đổi theo chiều hướng tiến bộ, trong đó có những thay đổi mang tính đột phá. Ngày càng tôn trọng quyền tự do kinh doanh của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Chuyển từ “tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”[39] (và chỉ dành riêng quyền tự do kinh doanh đó cho công dân) sang “tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”[40] (và dành cho tất cả mọi người).[41]
Thứ ba, tính công bằng của pháp luật trong lĩnh vực phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã được thể hiện rõ trong sự phát triển của các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực an sinh xã hội.
Thứ tư, các chính sách vĩ mô phục vụ sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam kể từ năm 1986 cho đến nay được đánh giá là khá ổn định.
2.1.2. Hạn chế, bất cập
Mặc dù hệ thống pháp luật về kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta dần được hoàn thiện và có những bước tiến đáng kể trong tư duy quản lý và cách thức thiết kế chính sách. Tuy nhiên, pháp luật trong lĩnh vực phát triển kinh tế thị trường, định hướng XHCN hiện nay vẫn còn nhiều bất cập thể hiện ở các khía cạnh như: các quy định chưa thống nhất, đồng bộ, chưa đầy đủ, kịp thời, chưa tạo điều kiện bình đẳng, cạnh tranh cho sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp, tính ổn định của pháp luật chưa cao dẫn đến nhiều khó khăn cho các cá nhân, chủ thể trong quá trình thực hiện pháp luật.
Thứ nhất, pháp luật phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều quy định chưa thống nhất, đồng bộ.
Thứ hai, để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, mặc dù hệ thống văn bản pháp luật phát triển kinh tế thị trường thời gian qua đã được ban hành về cơ bản đầy đủ, kịp thời tuy nhiên trước tác động của cuộc CMCN 4.0, các quy định pháp luật của Việt Nam, nhất là các quy định pháp luật phục vụ thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN như: sở hữu, hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tài chính, thuế… đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, chưa cung cấp cơ sở pháp lý vững chắc để xử lý thỏa đáng một số vấn đề pháp lý mới phát sinh.
Thứ ba, mặc dù hệ thống VBQPPL trong lĩnh vực kinh tế thị trường định hướng XHCN đã từng bước tăng cường tính dân chủ, công bằng tuy nhiên, khung khổ pháp luật hiện nay vẫn chưa thực sự tạo được sự công bằng trong phát triển giữa khu vực kinh tế truyền thống và khu vực kinh tế mới xuất hiện như mô hình kinh tế chia sẻ do còn thiếu các quy định cụ thể thiếu hành lang pháp lý; bên cạnh đó, mặc dù theo quy định, trong hệ thống chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam hiện nay không có sự phân biệt theo loại hình doanh nghiệp nhưng trên thực tế trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp FDI đang được hưởng lợi nhiều nhất từ các chính sách ưu đãi thuế, trong khi đó mức độ tiếp cận của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế.
Thứ tư, mặc dù tính ổn định của các chính sách vĩ mô trong lĩnh vực pháp luật về kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng đã đạt được mức độ tương đối. Tuy nhiên, không tránh khỏi một thực tế đó là tuổi thọ các VBQPPL trong lĩnh vực này còn hạn chế.
2.2. Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực bảo đảm quyền con người, quyền công dân[42]
2.2.1. Thành tựu
Giai đoạn hơn 35 năm đổi mới cũng chứng kiến những thay đổi đáng kể mang tính tích cực của hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam. Điểm nhấn chính trong những thành tựu về hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực quyền con người, quyền công dân là Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp năm 2013 trên cơ sở kế thừa, phát triển các bản Hiến pháp trước đó tiếp tục đề cao việc thể chế hóa tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước, phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong tình hình mới, tạo bước chuyển quan trọng trong nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về tư duy lập hiến, lập pháp theo hướng công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân là trách nhiệm của Nhà nước. Những kết quả cụ thể được thể hiện ở các điểm sau đây:
Thứ nhất, kể từ Đổi mới (1986), Nhà nước Việt Nam đã chú trọng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong đó bao gồm các quan hệ xã hội về QCN, QCD. Cho đến nay, hệ thống pháp luật về QCN, QCD đã ngày càng đầy đủ, toàn diện, phù hợp hơn với thực tiễn phát triển đất nước và từng bước tương thích với các quy định quốc tế về QCN[43].
Thứ hai, tính nhân đạo ngày càng được chú trọng và thể hiện rõ nét trong hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Thứ ba, tính dân chủ của hệ thống văn bản pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền công dân ngày càng được chú trọng.
2.2.2. Hạn chế, bất cập
Thứ nhất, mặc dù như đánh giá ở trên, pháp luật đảm bảo quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam thời gian qua đã được chú trọng xây dựng và hoàn thiện để đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện. Tuy nhiên, thực tế, thực thi quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập do pháp luật còn chưa đầy đủ, toàn diện.
Thứ hai, tính thống nhất, đồng bộ, tương thích còn chưa cao. Thể hiện ở việc pháp luật về quyền con người ở Việt Nam còn nhiều điểm chưa hoàn toàn tương thích với các quyền và tự do cơ bản của con người được ghi nhận và bảo vệ trong các điều ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam đã tham gia, đặc biệt là Công ước về quyền dân sự, chính trị năm 1966.
Thứ ba, tính khả thi của pháp luật về đảm bảo quyền con người, quyền công dân cần tiếp tục được cải thiện. Điều này thể hiện ở thực tế, còn có quy định của pháp luật về cơ chế thực hiện quyền chưa thực sự thuận lợi để chủ thể có quyền thực hiện một cách thực chất quyền năng hiến định của mình[44].
Thứ tư, tính dễ tiếp cận của pháp luật về đảm bảo quyền con người, quyền công dân còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Điều này dẫn đến khó khăn cho các chủ thể trong quá trình thực thi quyền trong thực tiễn.
2.3. Thực trạng pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN[45]
2.3.1. Thành tựu
Từ năm 1991 đến nay, nhất là trong giai đoạn 2005 đến nay, pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị nói chung, của Chính phủ và hệ thống cơ quan hành chính nhà nước nói riêng; pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức được xây dựng đầy đủ và không ngừng hoàn thiện, đặc biệt sau khi Quốc hội ban hành Hiến pháp năm 2013. Thể chế về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng.
Thành tựu trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay được thể hiện ở một số điểm như sau:
Thứ nhất, pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước được ban hành khá đầy đủ, kịp thời, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới.
Thứ hai, các quy định pháp luật ngày càng rõ ràng, cụ thể hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan.
Thứ ba, tính dân chủ được thể hiện ngày càng rõ nét trong các quy định của pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
.
2.3.2. Hạn chế, bất cập
Cùng với cải cách, đổi mới thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế về tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước cũng đã đạt được những thành tựu nhất định trong thời gian qua, tuy nhiên, pháp luật về tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước hiện nay như đánh giá tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII: “vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hóa, xã hội, giữa đổi mới kinh tế với đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có một số mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ”.[46] “Bộ máy nhà nước ở một số nơi còn cồng kềnh, sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế còn gặp nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao. Phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ… việc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình còn hạn chế…”[47] Những hạn chế trong thực tiễn như trên, phần nào xuất phát từ thực tiễn hạn chế của pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Những hạn chế đó được thể hiện ở một số điểm như sau:
Thứ nhất, tính đầy đủ, kịp thời trong ban hành pháp luật nhằm thể chế hóa một số nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Một số nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN chưa được nhận thức đầy đủ, sâu sắc dẫn đến còn chậm chễ trong thể chế hóa thành pháp luật để tổ chức thi hành.
Thứ hai, pháp luật về phân cấp, phân quyền trong hành chính nhà nước còn chưa đồng bộ, khả thi. Bên cạnh đó, các quy định về chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền, trách nhiệm giữa một số lĩnh vực vẫn còn giao thoa, chồng chéo hoặc phân công chưa thực sự phù hợp hoặc chưa đủ rõ, dẫn đến khó xác định trách nhiệm khi có vấn đề xảy ra.[48]
Thứ ba, một số văn bản trong các lĩnh vực cụ thể còn nằm rải rác, đồng thời còn có nội dung mâu thuẫn đã gây nên tình trạng khó tiếp cận và khó áp dụng một cách thống nhất.
2.4. Đánh giá thực trạng pháp luật trên một số lĩnh vực cụ thể khác[49]
2.4.1. Về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; tài nguyên, môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu
a) Thành tựu
- Pháp luật về giáo dục và đào tạo[50] cơ bản đầy đủ, thể chế hóa quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn để phát triển và hội nhập quốc tế.
- Pháp luật về khoa học và công nghệ có nhiều quy định mới, phù hợp hơn với yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế; bảo đảm quyền của cá nhân, tổ chức trong hoạt động khoa học và công nghệ, khuyến khích sự phát triển của khoa học và công nghệ, nhất là các ngành công nghệ cao; xã hội hóa hoạt động khoa học và công nghệ; đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ.
- Pháp luật về tài nguyên và môi trường được quan tâm hoàn thiện theo nguyên tắc quản lý chặt chẽ, phát triển bền vững, bảo đảm kết hợp hài hòa giữa việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên[51].
b) Hạn chế, bất cập
- Pháp luật về giáo dục và đào tạo chưa khắc phục hiệu quả một số bất cập của hệ thống giáo dục và đào tạo như: chưa bảo đảm tính đồng bộ và liên thông giữa các trình độ, các phương thức giáo dục và đào tạo; nội dung, chương trình còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành; thiếu gắn kết giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; …[52].
- Pháp luật về chuyển giao, ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao còn bất cập; thiếu giải pháp đồng bộ và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và địa phương. Cơ chế và chính sách cán bộ trong hoạt động khoa học và công nghệ còn nặng về hành chính hoá, chưa tạo được môi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân tài.
2.4.2. Về văn hóa, thể thao, du lịch; thông tin, truyền thông; y tế và an sinh xã hội
a) Thành tựu
- Pháp luật về văn hóa[53] góp phần thu hút được sự tham gia của nhiều chủ thể, thúc đẩy sự đa dạng trong loại hình sáng tạo, tạo điều kiện cho người dân tham gia tích cực vào hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sáng tạo, người sử dụng và công chúng hưởng thụ văn hóa. Pháp luật trong lĩnh vực này cũng góp phần phát triển rộng rãi phong trào thể dục, thể thao quần chúng, nâng cao thành tích thể thao, tạo cơ sở để phát triển thể thao chuyên nghiệp, đồng thời tăng cường phát triển du lịch với vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn.
- Pháp luật về báo chí và xuất bản không ngừng được hoàn thiện; bảo đảm quyền tự do báo chí, xuất bản, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân gắn liền với trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp của người làm báo, xuất bản; phù hợp với sự thay đổi của thị trường, công nghệ[54]. Pháp luật về thông tin, truyền thông tạo điều kiện cho các loại hình thông tin cung cấp trên mạng ngày càng trở nên phong phú, đáp ứng nhu cầu, thói quen của người sử dụng.
- Pháp luật về an sinh xã hội[55] đã bảo đảm tốt hơn quyền tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng, các dịch vụ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động cứu trợ xã hội, xoá đói, giảm nghèo, thực hiện các chính sách ưu đãi xã hội đối với các đối tượng chính sách; giải quyết tốt hơn mối quan hệ gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện chính sách xã hội nói chung, chính sách lao động và an sinh xã hội nói riêng theo nguyên tắc công bằng, tiến bộ xã hội; hình thành Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
- Pháp luật về dân số, gia đình và trẻ em[56] đã tạo cơ sở pháp lý lâu dài, ổn định, thống nhất cho việc xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ và hạnh phúc; bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình (ví dụ, cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, bổ sung chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận khi kết hôn...); bình đẳng giới; bảo vệ bà mẹ, trẻ em và những người yếu thế khác.
b) Hạn chế, bất cập
- Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phúc lợi xã hội có mặt còn hạn chế; thụ hưởng của người dân từ thành tựu phát triển của đất nước chưa hài hoà[57]. Pháp luật về y tế có một số văn bản không còn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội[58].
- Pháp luật về văn hóa, thể thao, du lịch có số lượng văn bản lớn, cồng kềnh, nhiều văn bản có hiệu lực pháp lý thấp, chưa thể chế hóa đầy đủ, toàn diện chủ trương của Đảng[59]. Pháp luật về thông tin, truyền thông vẫn còn những khoảng trống liên quan đến quản lý trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội, dịch vụ cung cấp trò chơi trực tuyến và dịch vụ cung cấp nội dung thông tin trên mạng viễn thông di động[60].
2.4.3. Về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
a) Thành tựu
- Hệ thống pháp luật về quốc phòng[61], an ninh[62] không ngừng được hoàn thiện, thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ Tổ quốc, quốc phòng và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, qua đó, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch[63]. Việt Nam cũng đã ký kết hoặc tham gia nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về dẫn độ, chuyển giao người bị kết án phạt tù, tương trợ tư pháp về hình sự và hợp tác phòng, chống tội phạm, như: Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin; Công ước quốc tế về chống khủng bố bằng bom; Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người; Công ước ASEAN về chống khủng bố.
- Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua nhiều đạo luật lớn, quan trọng trong hoạt động tư pháp[64], bảo đảm tốt hơn các quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong lĩnh vực tư pháp như giảm hình phạt tử hình, điều chỉnh mức định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một số tội phạm… nhằm thể chế hoá một bước chủ trương cải cách tư pháp, chủ trương nhân đạo hoá của Đảng và Nhà nước ta[65], đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Pháp luật về tố tụng hình sự bảo đảm dân chủ, minh bạch, khách quan hơn trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, chống bức cung, nhục hình; bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử; bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội và quyền bào chữa. Pháp luật về phòng, chống tham nhũng có bước thay đổi về chất, xây dựng được cơ chế phòng ngừa tham nhũng toàn diện và sâu rộng phù hợp với tinh thần Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng; làm rõ vai trò, trách nhiệm, sự phối hợp hoạt động của các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng như thanh tra, kiểm toán, điều tra.
b) Hạn chế, bất cập
Một số văn bản pháp luật về quốc phòng còn chưa đáp ứng được yêu cầu, một số văn bản được duy trì ở hình thức pháp lệnh, nghị định quá lâu, chậm được sửa đổi, bổ sung nâng lên thành luật. Một số nhiệm vụ của quân đội chưa được luật hóa như quân đội tham gia phòng chống khủng bố, phòng chống bạo loạn; tác chiến không gian mạng; công tác ứng phó sự cố, thiên tai thảm họa và tìm kiếm cứu nạn, phòng thủ dân sự; phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu...[66].
2.4.4. Về hội nhập quốc tế
a) Thành tựu
Khung pháp luật về hội nhập quốc tế đã được hình thành, phát triển khá đồng bộ[67], tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế, cũng như cơ chế đảm bảo thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam,[68] theo đúng các chủ trương, đường lối của Đảng[69]; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; tạo khung pháp lý vừa chặt chẽ, vừa linh hoạt, đáp ứng nhu cầu ký kết và thực hiện điều ước quốc tế phù hợp với lợi ích của đất nước. Hệ thống pháp luật hiện nay về cơ bản đã theo kịp, tương thích với hầu hết các nguyên tắc, tập quán quốc tế[70]. Công tác rà soát pháp luật phục vụ việc gia nhập WTO[71] hoặc đàm phán và thực thi các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA, RCEP …)[72] được thực hiện hiệu quả. Việt Nam cũng đã tham gia hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế, gia nhập các công ước của Hội nghị này,[73] đồng thời đã là thành viên của Ủy ban pháp luật thương mại của Liên hợp quốc (UNCITRAL) và đang tích cực tham gia xây dựng các văn kiện của Ủy ban này nhằm xây dựng luật chơi mới trong lĩnh vực thương mại quốc tế.
Trong thời gian qua, pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại ngày càng được hoàn thiện, tiếp thu các tiêu chuẩn xu hướng quốc tế và nội luật hóa các điều ước quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam đã tham gia. Sau hơn 20 năm gia nhập Công ước New York về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài, thể chế pháp luật trọng tài đã dần dần được hoàn thiện từ Pháp lệnh năm 1995 của Chủ tịch nước về Công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài nước ngoài đến Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, đặc biệt, Quốc hội đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 với những quy định về CN&CTH phán quyết trọng tài nước ngoài nội luật hóa đầy đủ quy định của Công ước New York[74]. Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thay thế Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 được xây dựng trên cơ sở tiếp thu các quy định của Luật mẫu về trọng tài của UNCITRAL đã tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đưa hệ thống pháp luật về trọng tài của Việt Nam gần hơn với tiêu chuẩn quốc tế.
Bên cạnh phương thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án, trọng tài, pháp luật điều chỉnh các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án như hoà giải thương mại cũng bắt đầu hình thành tạo cơ sở pháp lý cho các bên trong quan hệ thương mại có thể linh hoạt lựa chọn, đưa hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại của Việt Nam phát triển phù hợp với xu thế quốc tế.[75]
Việt Nam cũng đã có bước tiến vượt bậc trong đàm phán, ký kết các hiệp định song phương về tương trợ tư pháp trong cả bốn lĩnh vực dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù[76], đặc biệt là gia nhập và thực thi các điều ước quốc tế đa phương về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự.
b) Hạn chế, bất cập
Việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản thực hiện điều ước quốc tế có mặt còn chậm. Pháp luật xử lý một số vấn đề mới như an ninh mạng, kinh tế số, môi trường… cần tiếp tục được hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung để phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
2.5. Thực trạng công tác tổ chức thi hành pháp luật
2.5.1. Thành tựu đạt được
Thứ nhất, về công tác ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết; công tác rà soát, hệ thống hóa, pháp điển hóa pháp luật
Công tác ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đặc biệt quan tâm thực hiện; tiến độ thực hiện nhanh hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu triển khai đồng bộ việc thi hành luật, pháp lệnh[77].
Công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) luôn được các cơ quan Trung ương và địa phương quan tâm chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện thường xuyên, định kỳ và theo chuyên đề.
Công tác pháp điển hóa: Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành quan tâm triển khai thực hiện công tác pháp điển, bảo đảm các điêu kiện cần thiết cho việc xây dựng Bộ pháp điển.
Thứ hai, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, phát triển hệ thống thông tin pháp luật, trợ giúp pháp lý, tăng cường khả năng tiếp cận của người dân đối với hệ thống pháp luật
Về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Thể chế, chính sách về công tác PBGDPL, tăng cường khả năng tiếp cận của người dân đối với hệ thống pháp luật cơ bản được hoàn thiện đưa công tác này phát triển ổn định, bền vững[78].Công tác PBGDPL được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, hướng về cơ sở, lấy người dân làm trung tâm phục vụ; nội dung PBGDPL đã bám sát thực tiễn, hình thức PBGDPL đa dạng, phong phú phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng, địa bàn.
Về phát triển hệ thống thông tin, tăng cường khả năng tiếp cận của người dân đối với hệ thống pháp luật
Cơ sở dữ liệu về pháp luật của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa phương ngày càng được kiện toàn, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiếp cận của người dân đối với hệ thống pháp luật. Về cơ bản, các cơ quan này đều có trang thông tin phục vụ công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật, được cập nhật thường xuyên để mọi người dân, doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận.
Về trợ giúp pháp lý
Pháp luật về lĩnh vực trợ giúp pháp lý dần được hoàn thiện phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước[79], tạo khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển bền vững của công tác TGPL theo hướng chuyên nghiệp, phù hợp xu thế phát triển chung của thế giới; góp phần nội luật hóa ở mức độ cao các cam kết quốc tế trong các Điều ước quốc tế, Công ước quốc tế[80].
Thứ ba, việc tổ chức áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; công tác bảo đảm các điều kiện về tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực, ngân sách và các điều kiện khác cho việc thi hành pháp luật
Công tác tập huấn, phổ biến kiến thức pháp luật được các bộ, ngành và địa phương tổ chức thường xuyên, kịp thời, đầy đủ đến đội ngũ cán bộ, công chức thi hành pháp luật qua nhiều hình thức đa dạng, phong phú tạo nên sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, xử lý nghiêm minh các vụ việc về tham nhũng, kinh tế có sức cảnh báo, răn đe mạnh mẽ, góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy Nhà nước, khẳng định quyết tâm chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”.
Việc bố trí nguồn lực về tổ chức thi hành pháp luật đã được các bộ, ngành, địa phương quan tâm phù hợp với bối cảnh thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/04/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về tinh giản biên chế và các quy định có liên quan[81].
Thứ tư, công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật; thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo
Công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật
Công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo và các bộ, ngành, địa phương chú trọng triển khai, bảo đảm ngày càng gắn kết chặt chẽ với công tác PBGDPL, kiểm tra, xử lý văn bản. Thể chế về theo dõi thi hành pháp luật đã bước đầu được hình thành.[82]
Công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo
Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật tiếp tục được tăng cường, tập trung vào các lĩnh vực có nhiều dư luận về tiêu cực, tham nhũng; đẩy nhanh tiến độ thanh tra các vụ việc phức tạp, được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm[83].
Thứ năm, công tác xử lý vi phạm pháp luật
Về công tác xử lý vi phạm hành chính
Công tác xử lý vi phạm hành chính là nhiệm vụ quan trọng nhằm duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội; mang tính đặc thù, phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực, ở mọi cấp chính quyền và hoạt động thường ngày của các tổ chức, cá nhân.
Về công tác xử lý tội phạm
Các bộ, ngành, địa phương đã thực hiện nhiều giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước, đẩy mạnh phòng ngừa xã hội, phòng ngừa nghiệp vụ, tấn công trấn áp tội phạm đạt được kết quả tích cực. Công tác xử lý tội phạm đã góp phần bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, làm thất bại nhiều âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; xử lý kịp thời các vụ việc phức tạp liên quan đến biểu tình, gây rối, khủng bố, phá hoại; triệt phá nhiều băng, ổ nhóm tội phạm, khẩn trương điều tra làm rõ các vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật[84]
Thứ sáu, công tác sơ kết, tổng kết việc tổ chức thi hành pháp luật.
Việc tổ chức sơ kết, tổng kết thi hành pháp luật định kỳ 6 tháng, hằng năm được Chính phủ và các bộ, ngành thực hiện theo từng lĩnh vực quản lý. Kết quả sơ kết, tổng kết là cơ sở thực tiễn để các bộ, ngành tham mưu, đề xuất các cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định việc sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc ban hành mới VBQPPL, các quy phạm pháp luật không còn phù hợp. Thực tiễn xây dựng luật, pháp lệnh cho thấy, trước khi đề xuất việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới một đạo luật, các bộ, ngành đã quan tâm tổng kết thực tiễn thi hành luật, pháp lệnh để nhận diện vấn đề bất cập, phân tích nguyên nhân và đề xuất định hướng chính sách phục vụ việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành.
2.5.2. Hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đạt được nêu trên, thực tiễn tổ chức thi hành pháp luật trong thời gian qua cho thấy, công tác tổ chức thi hành pháp luật vẫn là một khâu yếu, nhiều tồn tại, hạn chế chậm được khắc phục; kỷ luật, kỷ cương nhìn chung chưa nghiêm, có lúc, có việc còn lỏng lẻo, tính răn đe, giáo dục chưa cao.
Trong khi đó, một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng hệ thống pháp luật đó là tính nghiêm minh và nhất quán trong thi hành pháp luật. Thực tiễn hiện nay cho thấy, việc thi hành pháp luật ở nước ta còn chưa nghiêm. Thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: Việc đổi mới lề lối làm việc, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong một số cơ quan, đơn vị chưa đáp ứng yêu cầu, tham nhũng, lãng phí ở một số nơi còn chưa được xử lý kịp thời; cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành và trong nội bộ cơ quan, đơn vị hiệu quả chưa cao, còn tình trạng thiếu quyết liệt, đùn đẩy, né tránh tránh trách nhiệm; công tác kiểm tra, giám sát, theo dõi, đôn đốc thực thi công vụ ở một số cơ quan, đơn vị còn chưa nghiêm[85]. Tình trạng tội phạm và vi phạm pháp luật của cá nhân, tổ chức diễn biến theo chiều hướng phức tạp trên nhiều lĩnh vực.[86] Nhiều tư tưởng, tinh thần tiến bộ trong quy định của Hiến pháp, Luật mặc dù đã được ban hành, có hiệu lực, tuy nhiên, khó thi hành trong thực tiễn vì thiếu các văn bản cụ thể hóa, hướng dẫn chi tiết.[87] Bên cạnh đó, tính nghiêm minh, nhất quán trong thi hành pháp luật chưa được đảm bảo.
Từ thực trạng nêu trên, có thể thấy, nếu như hệ thống pháp luật của nước ta đã được “hoàn thiện một bước cơ bản”[88], bao quát mọi mặt của đời sống xã hội thì tổ chức thi hành pháp luật vẫn còn nhiều tồn tại. Những tồn tại, hạn chế trong tổ chức thi hành pháp luật được thể hiện ở một số điểm như sau:
Thứ nhất, vẫn còn tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết; vẫn còn một số văn bản quy định chi tiết chưa tuân thủ đầy đủ quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ hai, hoạt động kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật còn chưa đồng bộ.
Thứ ba, tổ chức truyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đôi lúc chưa sát với nhu cầu thực tiễn, còn dàn trải, có lúc chưa trọng tâm, trọng điểm.
Thứ tư, công tác triển khai thi hành luật, pháp lệnh trong một số trường hợp còn chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao[89], nhận thức và thực thi pháp luật còn chưa thống nhất, chi phí tuân thủ pháp luật còn cao.[90]
Thứ năm, việc triển khai hoạt động theo dõi thi hành pháp luật ở một số bộ, ngành, địa phương còn mang tính hình thức, chưa thực sự phát huy hiệu quả của công tác này trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật thuộc phạm vi, lĩnh vực quản lý của bộ, ngành và địa phương.
Thứ sáu, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm chưa đạt kết quả như đã đề ra. Công tác thanh tra, kiểm tra tại Trung ương cũng như địa phương chưa được tổ chức thường xuyên, số lượng đơn vị được thanh tra, kiểm tra còn ít, bị động do số đối tượng quản lý nhiều trong khi nguồn lực có hạn, phần lớn chỉ tổ chức kiểm tra, thanh tra, xử lý khi phát hiện vi phạm pháp luật.[91] Như phân tích ở trên cho thấy, từ thực trạng trên dẫn đến nhiều hành vi vi phạm chưa được phát hiện và xử lý kịp thời. Tình trạng vi phạm pháp luật vẫn diễn biến phức tạp.
2.6. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật
- Những giải pháp đổi mới trong quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật (như đánh giá tác động của chính sách, thu hút sự tham gia của chuyên gia, nhà khoa học) chưa phát huy đầy đủ hiệu quả trong thực tiễn.
- Chất lượng của công tác nghiên cứu lý luận về pháp luật, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật chưa đáp ứng tốt yêu cầu, việc nghiên cứu, đề xuất chính sách trong một số lĩnh vực thiếu khảo sát, đánh giá tác động kỹ lưỡng. Việc đổi mới tư duy pháp lý cho phù hợp với những diễn biến mới của thực tiễn có mặt còn chậm.
- Công tác phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật chưa chặt chẽ, hiệu quả.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu.
Nhận thức của lãnh đạo một số cơ quan về vai trò, tầm quan trọng của công tác xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật còn hạn chế, dẫn đến việc triển khai chưa thật sự đúng yêu cầu nên sự chỉ đạo triển khai còn gặp nhiều lúng túng, thiếu đồng bộ, tập trung ngay từ ban đầu.
Năng lực, trình độ của cán bộ pháp chế, cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật tại các bộ, ngành và địa phương, tuy đã được nâng lên nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, tính chuyên nghiệp chưa thực sự cao. Biên chế cán bộ, công chức còn thiếu về số lượng trong khi chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật còn nhiều ngành, nhiều cấp chưa được chuẩn hóa về chuyên môn nghiệp vụ.
- Nguồn lực tài chính cho công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật chưa tương xứng với vai trò, tầm quan trọng của hệ thống pháp luật trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Việc chấp hành, kỷ luật, kỷ cương trong công tác xây dựng pháp luật chưa nghiêm, hoạt động của một số Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật chưa thực sự hiệu quả, thậm chí hình thức. Không ít thành viên Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật còn “phó thác” cho cơ quan chủ trì soạn thảo.
- Ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức và một bộ phận Nhân dân chưa cao; chưa tự giác chấp hành pháp luật trong khi cơ chế phát hiện vi phạm chưa hiệu quả và chế tài xử lý đối với một số vi phạm chưa nghiêm.
- Cơ chế bảo đảm tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong tổ chức thi hành pháp luật còn chưa hoàn thiện. Việc đổi mới lề lối làm việc, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong một số cơ quan, đơn vị chưa đáp ứng yêu cầu. Tham nhũng, lãng phí ở một số nơi còn chưa được xử lý kịp thời. Cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành và trong nội bộ cơ quan, đơn vị hiệu quả chưa cao. Còn tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Công tác kiểm tra, giám sát, theo dõi, đôn đốc thực thi công vụ ở một số cơ quan, đơn vị còn chưa nghiêm.
CHƯƠNG III
ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030
3.1. Bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước
3.1.1. Bối cảnh quốc tế
Trong giai đoạn vừa qua, tình hình thế giới biến động rất nhanh, phức tạp, chưa có tiền lệ. Trong bối cảnh chung đó, quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam chưa bao giờ sâu rộng như hiện nay.
Về cơ hội, bối cảnh gia tăng liên kết kinh tế đa dạng, đa tầng nấc tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập của Việt Nam, tạo cơ hội phát triển bứt phá thông qua việc sớm hoàn thiện thể chế. Hội nhập quốc tế giai đoạn tới giúp mở rộng không gian phát triển của quốc gia trong bối cảnh thương mại và đầu tư truyền thống có xu hướng chậm lại do tác động từ bảo hộ và đại dịch Covid-19. Đồng thời, về thách thức, hội nhập cũng làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên ngoài và do vậy, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường quốc tế.
Bối cảnh đó cũng đòi hỏi cần hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế; gắn kết chặt chẽ quá trình hội nhập quốc tế với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước.
3.1.2. Tình hình trong nước
Thứ nhất, trình độ phát triển mới của đất nước ta: Nhờ công cuộc Đổi mới do Đảng ta lãnh đạo và khởi xướng cùng sự phấn đấu, nỗ lực gian khổ, không mệt mỏi của nhân dân ta và cả hệ thống chính trị, chưa bao giờ đời sống nhân dân ta, diện mạo và tiềm lực của đất nước ta đạt được tầm mức như ngày nay.
Thứ hai, trong các năm 2022, 2023, Chính phủ đẩy mạnh thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Nỗ lực thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ thường xuyên ngày càng nhiều và nặng nề hơn; đồng thời tập trung xử lý các vấn đề tồn đọng kéo dài và giải quyết, ứng phó kịp thời những vấn đề mới phát sinh. Với những giải pháp đồng bộ đó, tình hình kinh tế - xã hội trong năm 2022 và 9 tháng đầu năm 2023 đã phục hồi tích cực và đạt những kết quả quan trọng, khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Mặc dù vậy, dự báo trong thời gian tới, sự phát triển kinh tế - xã hội có những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen những khó khăn, thách thức nhiều hơn.
Thứ ba, cuộc CMCN 4.0 đang tác động mạnh mẽ tới mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường. Những năm qua, nhiều quốc gia trên thế giới đã đặt cược tiến trình phát triển của mình vào cuộc CMCN này và đề ra nhiều chủ trương, chính sách, chiến lược tận dụng cơ hội và ứng phó với những thách thức.
Hiện tại, ở Việt Nam, dưới sự tác động của CMCN 4.0, quá trình chuyển đổi số đang được triển khai khá mạnh. Nền kinh tế số, xã hội số đang được hình thành một cách rõ nét. Tiến trình này mang lại các cơ hội ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ để phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng mang lại các thách thức về bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với các vấn đề kinh tế - xã hội mới phát sinh, cũng như bảo vệ các quyền và lợi ích của đất nước và người dân trong không gian mạng.
Thứ tư, từ nay đến năm 2045 là giai đoạn Đảng, Nhà nước và Nhân dân quyết tâm hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam “trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.[92] Mục tiêu đến năm 2025, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp[93], đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.[94]
Thứ năm, hoạt động hoàn thiện thể chế còn bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố khác như: yêu cầu ngày càng cao của người dân và doanh nghiệp đối với chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước, chất lượng của thể chế. Nhu cầu tham gia của người dân vào hoạt động hoàn thiện thể chế sẽ cao hơn. Yêu cầu về chất lượng dịch vụ công, về tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thượng tôn pháp luật … cũng sẽ cao hơn.
3.2. Yếu tố chi phối và yêu cầu đặt ra cho hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2030
3.2.1. Yếu tố chi phối quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2030
Thứ nhất, kỳ vọng về kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2030 của Đảng, Nhà nước ta là một trong những yếu tố chi phối, định hướng cho quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ hai, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, ổn định môi trường chính trị, an ninh, quốc phòng là yếu tố tiên quyết trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ ba, yếu tố con người luôn được đặt là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng và là mục tiêu của sự phát triển[95]. Bởi vậy, yếu tố này cần trở thành mục tiêu xuyên suốt trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn 2021-2030 cần đưa yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân vào từng nội dung của quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Thứ tư, thế giới đang bước vào “kỷ nguyên số” với đặc điểm, tính chất và sự tác động sâu rộng chưa từng có. Đây là thời đại của thông tin và tri thức. Bởi vậy, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài sự tác động này.
Thứ năm, hội nhập quốc tế cũng là yếu tố chi phối mạnh mẽ quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2030.
3.2.2. Yêu cầu đặt ra cho hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2030
Từ những yếu tố chi phối nêu trên, hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2030 cần đảm bảo đạt được những yêu cầu như sau:
Thứ nhất, thể chế hóa đầy đủ, kịp thời, chính xác các chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là các Nghị quyết Đại hội Đảng; các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật.
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn ở Việt Nam đồng thời chủ động thích ứng linh hoạt với những chuyển biến nhanh của thực trạng kinh tế - xã hội và quá trình hội nhập quốc tế.
Thứ ba, xây dựng được hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Hiến pháp và các đạo luật là nguồn pháp luật chủ yếu, quyết định trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Kiểm soát chặt chẽ việc ủy quyền lập pháp và hoạt động lập pháp theo ủy quyền.
Thứ tư, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp, pháp luật, ghi nhận đầy đủ, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật. Tôn trọng nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Bảo đảm tính cân xứng trong việc quy định và thực hiện các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Thứ năm, bảo đảm sự tham gia của Nhân dân trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật. “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện.”[96]
Thứ sáu, tăng cường hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật; giảm tối đa rủi ro pháp lý và chi phí tuân thủ đối với người dân và doanh nghiệp. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ.
Thứ bảy, bảo đảm sự tuân thủ đầy đủ các cam kết quốc tế trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật. Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế.
3.3. Định hướng, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2030
3.3.1. Định hướng chung hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2030
Với những kỳ vọng cụ thể về kinh tế-xã hội nêu trên được đề ra trong các văn bản, nghị quyết của Đảng từ nay đến năm 2030. Trong đó, vẫn đặc biệt nhấn mạnh và nổi bật lên là các chỉ tiêu liên quan đến phát triển kinh tế. Do đó, hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2030, về cơ bản vẫn sẽ được ưu tiên hoàn thiện để phục vụ thực hiện thắng lợi các mục tiêu này. Nhìn chung, giai đoạn từ nay đến năm 2030, hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục được tập trung hoàn thiện trong lĩnh vực thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN theo hướng ngày càng bảo đảm quyền tự do kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, phân định rõ mối quan hệ giữa Nhà nước, Thị trường và Xã hội, bảo đảm tương thích, thực hiện các cam kết mà Việt Nam quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, hướng tới nền kinh tế xanh, kinh tế số. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật trong lĩnh vực bảo đảm quyền con người, quyền công dân và tổ chức bộ máy nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN cũng sẽ từng bước được quan tâm hoàn thiện để đảm bảo thích ứng với yêu cầu của sự phát triển kinh tế-xã hội cũng như từng bước tương thích với những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Cụ thể như sau:
* Giai đoạn từ nay đến 2025
Tiếp tục thể chế hoá, cụ thể hoá đầy đủ, toàn diện quan điểm, chủ trương của Đảng và Hiến pháp năm 2013. Tiếp tục tiến hành rà soát hệ thống pháp luật để sửa đổi, bổ sung, bảo đảm khắc phục những mâu thuẫn, chồng chéo, đảm bảo sự tương thích đầy đủ với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia; loại bỏ các văn bản, quy định pháp luật không phù hợp với thực tiễn và gây trở ngại cho tiến trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tăng cường hiện đại hoá hệ thống pháp luật, đẩy nhanh vững chắc việc xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo; chú trọng xây dựng pháp luật theo chiều sâu và nâng cao chất lượng pháp luật; bảo đảm sự đồng bộ và kịp thời trong xây dựng chính sách, pháp luật giữa Quốc hội với Chính phủ, giữa các bộ, ngành, giữa trung ương và địa phương, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm.
Về tổ chức thi hành pháp luật, đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với thực hiện pháp luật; tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý và các cơ chế bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả; xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong tổ chức thi hành pháp luật. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến kiến thức, thông tin và các hoạt động giáo dục về ý thức thượng tôn Hiến pháp và pháp luật cho mọi tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống chính trị. Từng bước khắc phục tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Tăng cường nâng cao chất lượng của công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa các hoạt động tổ chức xây dựng pháp luật. Bước đầu ước đầu đặt nền tảng chuyển đổi số, trong đó tập trung vào công tác phổ biến giáo dục pháp luật, tăng cường việc kết nối, sử dụng hiệu quả kết quả rà soát, hệ thống hóa văn bản, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật.
Về mặt hình thức, hoàn thiện hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Bảo đảm tôn trọng pháp luật quốc tế, bảo đảm tính tương thích, nội luật hóa đầy đủ, kịp thời cam kết tại các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên; kịp thời thích ứng với những chuyển biến nhanh chóng của hội nhập quốc tế. Đảm bảo vừa phù hợp, vừa phát huy được lợi thế, nội lực của quốc gia. Hoàn thiện cơ chế pháp lý về bảo hộ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân, pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài. Góp phần tăng cường sự tham gia của Việt Nam trong các thiết chế pháp luật quốc tế.
Về nội dung, hệ thống pháp luật phải đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện ở một số yêu cầu về nội dung như sau:
-
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Theo đó, đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội.[97]; thực hiện tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, theo đó, bộ máy nhà nước được tổ chức, vận hành trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật và đặt dưới sự kiểm soát của Nhân dân. Xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc để thực hiện trên thực tế nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp nhịp nhàng và kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện pháp luật về phân cấp, phân quyền mạnh giữa Trung ương và Địa phương theo hướng đề cao tính tự chủ, tư chịu trách nhiệm của Địa phương đi đôi với việc tăng cường kiểm tra, giám sát.
-
Hoàn thiện pháp luật theo hướng đề cao trách nhiệm bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; tiếp tục cụ thể hoá đầy đủ, toàn diện chủ trương của Đảng, quy định của Hiến pháp 2013 và các điều ước quốc tế mà Việt nam là thành viên về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
-
Tiếp tục tập trung đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước, Thị trường và Xã hội, theo đó, Nhà nước cần tập trung thực hiện tốt các chức năng vốn có trong một nền kinh tế thì trường hiện đại, tạo môi trường pháp lý dân chủ để kinh tế tư nhân phát triển, đồng thời tập trung xây dựng pháp luật, duy trì trật tự công trên thị trường và trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức xã hội. Nhà nước xây dựng và thực thi có hiệu quả các quy tắc pháp lý về sở hữu, tự do hợp đồng, tự do kinh doanh, giải quyết tranh chấp để mọi người dân, doanh nghiệp thực hiện tốt quyền tự do kinh doanh nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, hình thành hệ thống thị trường đồng bộ. Nhà nước xây dựng và thực thi có hiệu quả các quy tắc pháp lý điều tiết các hoạt động kinh tế nhằm khắc phục những trục trặc, khuyết tật của cơ chế thị trường. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đảm bảo phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Đồng thời, góp phần tăng cường hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế.
-
Hoàn thiện thể chế nhằm thực hiện hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước; đổi mới mạnh mẽ pháp luật về giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút, trọng dụng nhân tài.
-
Hoàn thiện pháp luật về văn hóa, thông tin, truyền thông, thể thao, y tế, an sinh xã hội phục vụ phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân…
-
Hoàn thiện pháp luật về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, biển, hải đảo, vùng trời của Tổ quốc, về bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng.
-
Hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế làm cơ sở pháp lý cho việc chủ động và tích cực hội nhập quốc tế với nhiều hình thức đa dạng, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển đa phương hóa, đa dạng hóa trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Về tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả. Hoàn thiện Nghiên cứu xây dựng cơ chế giải thích pháp luật. Xác định rõ ràng, cụ thể vai trò, vị trí, tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan thi hành pháp luật và bảo vệ pháp luật, các cơ quan tham gia thi hành, áp dụng pháp luật, các cơ quan theo dõi, giám sát thực hiện pháp luật. Tinh thần thượng tôn pháp luật được các cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể, các thiết chế khác trong hệ thống chính trị và cá nhân, doanh nghiệp quán triệt sâu sắc và áp dụng triệt để trong đời sống thường nhật.
3.3.2. Một số định hướng cụ thể trong hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2030
3.3.2.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến năm 2030
Trên cơ sở mục tiêu chung và định hướng ưu tiên giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong phát triển kinh tế - xã hội, những vấn đề phát sinh trong thực tiễn; đồng thời, giải quyết những điểm hạn chế như đã chỉ ra trong Chương 2, đó là: pháp luật phát triển KTTT định hướng XHCN còn nhiều quy định chưa thống nhất, đồng bộ; chưa đảm bảo tính đầy đủ, kịp thời, hay còn bất cập trong đảm bảo tính dân chủ, công bằng, tính ổn định; cần tập trung hoàn thiện pháp luật trên một số lĩnh vực cụ thể như: pháp luật dân sự, pháp luật về thị trường tài chính, ngân hàng; pháp luật về cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; pháp luật về lao động và an sinh xã hội; thương mại điện tử….
3.3.2.2. Một số định hướng cụ thể hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân đến năm 2030
- Tiếp tục thể chế hóa các quyền con người, quyền công dân đã được đề ra trong các chủ trương, nghị quyết của Đảng và Hiến pháp 2013, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và có tính đến các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế phát huy hơn nữa vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nhà nước trước các cơ quan dân cử đối với các vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân, quy định rõ ràng chế tài, trách nhiệm của người có thẩm quyền; tăng cường sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, huy động sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức thành viên đối với công tác xây dựng pháp luật và giám sát thi hành pháp luật; thiết lập các kênh tiếp nhận khiếu nại, tố cáo thuận tiện.
- Tạo điều kiện để người dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp và các quyền tự do, dân chủ khác, tạo thêm động lực cho cải cách, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, các thiết chế trong hệ thống chính trị.
- Tiếp tục hoàn thiện pháp luật để nâng cao hơn nữa vai trò của của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền lập hội, tự do tín ngưỡng, tôn giáo đồng thời tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức xã hội, các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và chính sách dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập của đồng bào dân tộc thiểu số so với bình quân chung của cả nước; góp phần giảm nghèo nhanh, bền vững, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá tốt đẹp của các dân tộc; củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc và niềm tin của đồng bào các dân tộc thiểu số đối với Đảng, Nhà nước trong công cuộc đổi mới và hội nhập.
3.3.2.3. Một số định hướng cụ thể hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030
Về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, pháp luật về cán bộ, công chức, công vụ
- Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo đúng nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, bảo đảm Chính phủ thực hiện đầy đủ vai trò, vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Tổ chức, sắp xếp lại bộ máy hành chính nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, không chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ.
- Tiếp tục nghiên cứu, phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm và phương thức hoạt động khác nhau giữa chính quyền đô thị, chính quyền nông thôn, chính quyền hải đảo và các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở theo nguyên tắc nhà nước đơn nhất, quyền lực nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với chính quyền các cấp.[98]
- Tăng cường phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn với quyền hạn và trách nhiệm; khuyến khích sự năng động, sáng tạo và phát huy tính tích cực, chủ động của các cấp, các ngành trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước.[99]
- Tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức; cải cách công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo hướng phân công, phân cấp rõ ràng hơn.
- Hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến phòng chống tham nhũng, đảm bảo nêu cao trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch; hoàn thiện các quy định và chế tài xử lý đối với tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực; cơ chế kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý; thực hiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt.[100]
Về Chính phủ số
- Hoàn thiện cơ sở pháp lý để tăng cường việc triển khai xây dựng Chính phủ điện tử, hiện đại hóa nền hành chính nhà nước. Phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam có chỉ số phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số ở mức độ cao trên thế giới, thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu theo xếp hạng của Liên hợp quốc.[101]
Về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quốc phòng; an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
- Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, thể chế hóa sâu sắc hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng, củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, nâng cao năng lực bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; về quyền và nghĩa vụ của công dân trong bảo vệ Tổ quốc; về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Xây dựng mới các quy định pháp luật điều chỉnh lĩnh vực an ninh phi truyền thống. Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật về lĩnh vực quân sự, quốc phòng, cơ yếu. Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các cơ quan, đơn vị Quân đội; chức vụ, chức danh sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; về nghĩa vụ quân sự; chế độ, chính sách đối với quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng; quản lý, điều hành lĩnh vực giáo dục và đào tạo trong Quân đội phù hợp với lộ trình chuyển đổi số, gắn với xây dựng Chính phủ điện tử trong Bộ Quốc phòng; xây dựng nhà trường thông minh tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; công tác ứng phó sự cố, thiên tai thảm họa và tìm kiếm cứu nạn, phòng thủ dân sự; hoạt động đo đạc và bản đồ quốc phòng phù hợp với sự phát triển của khoa học và công nghệ; tiêu chuẩn vật chất hậu cần, quân y; khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh…
- Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
- Hoàn thiện cơ sở pháp lý về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ,[102] đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm gắn phù hợp với thực tiễn và đồng bộ với cải cách tư pháp, cải cách hành chính; tăng cường hợp tác quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm, tiếp tục đàm phàn, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ, chuyển giao người bị kết án phạt tù với các nước và vùng lãnh thổ.
- Quy định tội phạm mới đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế; tiếp tục cụ thể hóa các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường.
Về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế
- Đẩy mạnh việc rà soát, ưu tiên xây dựng các văn bản pháp luật và các thiết chế bảo vệ nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. Chú trọng việc nội luật hoá những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhất là các điều ước quốc tế về tự do hóa thương mại thế hệ mới (như Hiệp định CPTPP và EVFTA...). Chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương (nhất là các diễn đàn đa phương về pháp luật) và khu vực (nhất là cộng đồng ASEAN) trên cơ sở các chủ trương về hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước.
- Tăng cường đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, các hiệp định bảo hộ đầu tư song phương, các hiệp định về tương trợ tư pháp. Đẩy mạnh việc gia nhập các công ước quốc tế đa phương, các công ước về lao động của Tổ chức lao động thế giới (ILO) trên tinh thần hợp tác cùng có lợi, trên cơ sở phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế. Tiếp tục ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế về các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, tín dụng quốc tế, sở hữu trí tuệ, thuế quan, bảo vệ môi trường, giải quyết tranh chấp, hoàn thiện các quy định pháp luật về phòng ngừa tranh chấp đầu tư quốc tế và tố tụng về giải quyết tranh chấp đầu tư, thương mại... để khai thác tối đa các cơ hội thuận lợi, hạn chế thấp nhất các tác động tiêu cực, mở rộng thị trường, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho phát triển. Đẩy mạnh công tác ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế và thỏa thuận quốc tế song phương, đa phương khu vực và toàn cầu về hợp tác pháp luật và tư pháp.[103]
3.3.2.4. Một số định hướng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả cơ chế tổ chức thi hành pháp luật
Đại hội XIII của Đảng xác định định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 là “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”[104]. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội XIII là “tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là việc thực thi tinh thần “thượng tôn pháp luật”, gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương”[105]. Đại hội XIII của Đảng cũng đã xác định định hướng lớn bao quát những vấn đề phát triển quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm tới, trong đó có nhiều vấn đề mới, nổi bật, đó là: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực”[106].
Tổ chức thi hành pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức đưa pháp luật thực định vào đời sống nhà nước và đời sống xã hội, làm cho pháp luật sau khi ban hành có hiệu lực trên thực tế. Như vậy, tổ chức thi hành pháp luật có một trong những nội dung quan trọng là tổ chức để các chủ thể tuân theo các nghĩa vụ pháp lý của mình bằng các hành động tích cực trong thực tế; góp phần tăng cường tính thượng tôn pháp luật trong xã hội. Do đó, tổ chức thi hành pháp luật là hoạt động hàng đầu của cơ quan thực hiện quyền hành pháp, đảm bảo cho Hiến pháp, luật giữ địa vị thống trị trong nhà nước pháp quyền, phát huy đầy đủ vai trò của mình trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, đảm bảo cho nguyên tắc pháp quyền được thực thi trong hoạt động hành pháp. Đồng thời, thông qua việc tổ chức thi hành pháp luật mà phát hiện những lỗ hổng, những quy định pháp luật không phù hợp, không đi vào cuộc sống, góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp và lập quy, đảm bảo cho nguyên tắc pháp quyền được thực thi đầy đủ trong hoạt động lập pháp và lập quy[107]. Hoạt động tổ chức thi hành pháp luật cần được nhìn nhận trong chỉnh thể thống nhất của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là một nhân tố quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền và thực hiện “thượng tôn pháp luật”. Vì vậy, định hướng nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, từ nay đến năm 2030 phải thể hiện được sự gắn bó hữu cơ, không thể tách rời với hoạt động xây dựng Nhà nước pháp quyền. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2030, các định hướng đối với công tác tổ chức thi hành pháp luật thể hiện ở một số điểm như sau:
- Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế về tổ chức thi hành và theo dõi thi hành pháp luật theo hướng quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và mọi công dân trong việc thi hành pháp luật và theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
- Đặt trọng tâm vào nhiệm vụ tổ chức thi hành pháp luật, đảm bảo sự gắn kết giữa xây dựng, hoàn thiện pháp luật với nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật. Tiếp tục tổ chức thực hiện nghiêm Hiến pháp năm 2013, các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; kịp thời ban hành các văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh nhằm sớm đưa pháp luật vào cuộc sống. Tăng cường theo dõi, hướng dẫn áp dụng pháp luật; sớm phát hiện và xử lý kịp thời các vướng mắc trong thực tiễn thi hành; kịp thời đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định không phù hợp với thực tiễn. Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp; nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, bảo đảm thượng tôn pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử trong thi hành công vụ và trong đời sống xã hội.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, các công nghệ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và các hình thức tổ chức thi hành pháp luật khác. Hình thành các hệ sinh thái số trong tổ chức thi hành pháp luật. Giảm tối đa rủi ro pháp lý và chi phí tuân thủ đối với người dân và doanh nghiệp.
- Công tác tổ chức thi hành pháp luật có hiệu lực, hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ mới. Đổi mới tổ chức thi hành pháp luật được theo hướng khuyến khích tối đa sự tham gia chủ động của cá nhân, tổ chức trong tiếp cận thông tin pháp luật; đẩy mạnh công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình. Bảo đảm cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung tăng cường giám sát, xử lý nghiêm minh vi phạm trong công tác thi hành pháp luật. Bảo đảm thượng tôn pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử phổ biến trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và trong đời sống thường nhật của mỗi cán bộ, công chức, viên chức, của mọi người dân doanh nghiệp.
3.3.3. Các giải pháp đảm bảo góp phần thực hiện thành công các định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật đến năm 2030
3.3.3.1. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp chung
(1) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền về vị trí, vai trò của công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật, từ đó tạo chuyển biến căn bản trong nhận thức và hành động của đội ngũ lãnh đạo cấp ủy, chính quyền, đội ngũ cán bộ, công chức trong quá trình xây dựng và tổ chức thực thi các quy định của pháp luật, thực hiện nhiệm vụ công vụ được giao. Các cấp ủy Đảng thường xuyên tiến hành xây dựng chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện pháp luật trên địa bàn cấp mình và phải luôn xác định vai trò gương mẫu, tiên phong của đảng viên trong việc tổ chức thi hành pháp luật. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác hướng dẫn, chỉ đạo, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc của cấp ủy Đảng đối với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật tại địa phương để giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn.
(2) Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật
Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức thi hành pháp luật.
Nâng cao chất lượng của hoạt động đánh giá tác động văn bản quy phạm pháp luật. Các đánh giá phải được thực hiện một cách thực chất, kỹ lưỡng, dựa trên các căn cứ khoa học và thực tiễn. Coi trọng quá trình nghiên cứu, tổng kết, đánh giá khoa học trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Từ đó, đánh giá chính xác, khách quan các điều kiện đảm bảo về nguồn lực, tài chính, dự liệu chính xác những tác động của chính sách sẽ xảy ra. Từ khâu soạn thảo, thẩm định cho đến khi thẩm tra, ban hành cần bám sát vào những đánh giá này để xây dựng, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật, tính toán đến các yếu tố cần thiết để tạo điều kiện thi hành văn bản trong thực tế, bảo đảm văn bản chỉ được ban hành khi cân nhắc tới các điều kiện bảo đảm thi hành trong thực tiễn.
Bảo đảm sự tham gia của người dân trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Khắc phục triệt để tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết hoặc hướng dẫn thi hành, đồng bộ quá trình xây dựng luật và các văn bản quy định chi tiết, không để tình trạng Luật “chờ” nghị định, nghị định “chờ” thông tư.
(3) Tăng cường hợp tác quốc tế trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật.
Theo đó cần học tập, chia sẻ kinh nghiệm, tăng cường hội nhập và lĩnh hội những thành tựu của các quốc gia trong việc ứng dụng công nghệ số trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Qua đó nghiên cứu chiến lược, đổi mới và thiết lập hệ thống công nghệ thông tin thông suốt, minh bạch, hiệu quả trong công tác xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật.
(4) Các giải pháp về điều kiện bảo đảm (nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính và các điều kiện bảo đảm khác).
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại, đáp ứng các yêu cầu công việc đặt ra. Nâng cao chất lượng đào tạo luật; bảo đảm chế độ tuyển dụng, sử dụng, đề bạt công chức, viên chức dựa trên cơ chế thi tuyển cạnh tranh; sử dụng, tôn trọng nguồn nhân lực này trong thực tế. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ này. Củng cố kiện toàn tổ chức pháp chế, tổ chức làm công tác xây dựng pháp luật. Đồng thời tăng tốc quá trình xử lý cán bộ thoái hóa, biến chất, không đáp ứng yêu cầu về chất lượng ra khỏi bộ máy nhà nước. Cần khẩn trương ban hành cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung nhất là trong tổ chức thi hành pháp luật.
- Bảo đảm nguồn lực tài chính với tính chất là một nguồn đầu tư của Nhà nước cho hạ tầng pháp lý, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật và thi hành pháp luật. Có chế độ, chính sách phù hợp đối với công chức làm công tác xây dựng pháp luật và pháp chế để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao.[108] Cần đổi mới cơ chế phân bổ kinh phí, đảm bảo tài chính để thực hiện hiệu quả quy trình xây dựng pháp luật, nhất là khảo sát thực tiễn, đánh giá tác động của chính sách.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động xây dựng, hoàn thiện pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật đảm bảo tính kết nối, liên thông và hiệu quả của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật.
+ Xây dựng Đề án về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động lập pháp và hoạt động tổ chức thi hành pháp luật, đảm bảo công nghệ thông tin phát huy tối đa vai trò của mình trong hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật. Trước mắt, cần thiết khẩn trương xây dựng, vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu, phần mềm thu thập thông tin thi hành pháp luật kết nối với Hệ thống thông tin báo cáo Quốc gia và phần mềm hỗ trợ công tác lập pháp, phần mềm đánh giá tình hình thi hành pháp luật.
3.3.3.2. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
(1). Nhóm giải pháp nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, nâng cao tính khả thi và hiệu quả, chất lượng của công tác dự báo trong xây dựng pháp luật…[109]
- Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác xây dựng pháp luật; xác định xây dựng pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật của bộ, ngành, địa phương mình.
- Thường xuyên nghiên cứu, rà soát các văn kiện của Đảng, sự chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền để kịp thời thể hóa các đường lối, chủ trương, chính sách thành các quy định của pháp luật. Tăng cường công tác rà soát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, kịp thời xử lý các văn bản trái pháp luật, không phù hợp với thực tiễn, tăng cường tính động bộ, thống nhất trong nội dung của hệ thống pháp luật thông qua công tác rà soát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Tăng cường ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào công tác xây dựng, soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hóa… nhằm nâng cao chất lượng của công tác này.
(2). Nhóm giải pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình, cách thức xây dựng pháp luật[110]
- Nghiên cứu, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật theo hướng tăng cường sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan đảng đối với công tác pháp luật, tăng cường trách nhiệm của từng cơ quan và nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Nghiên cứu, hoàn thiện quy trình lập pháp, lập quy theo hướng thực chất, hiệu quả, xác định rõ trách nhiệm của từng chủ thể tham gia vào quy trình nhằm tạo chuyển biến mạnh về chất lượng công tác này.
- Nghiên cứu, xác định rõ điều kiện, nội dung, trình tự, thủ tục, thẩm quyền xây dựng, ban hành, vận hành khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát để kịp thời ứng phó với những diễn biến phức tạp, khó lường của bối cảnh kinh tế-xã hội trong nước, quốc tế và chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
- Tạo cơ chế thuận lợi cho hoạt động thẩm định, thẩm tra; tiếp tục nâng cao chất lượng các báo cáo thẩm định, thẩm tra; bảo đảm tính độc lập, khách quan, khoa học của các báo cáo thẩm định, thẩm tra.
- Thay đổi tư duy trong làm luật để tiếp tục hoàn thiện quy trình xây dựng luật, pháp lệnh đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội mới phát sinh, đặc biệt đặt trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư theo hướng thay đổi mạnh mẽ từ chỗ thụ động, chạy theo sự việc, hiện tượng xã hội và quan hệ xã hội sang chủ động, đón đầu và định hướng cho quan hệ xã hội.
- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan chủ trì soạn thảo với các bộ, ngành có liên quan và các cơ quan của Quốc hội, giữa các cơ quan Trung ương và địa phương trong quá trình soạn thảo các văn bản luật, pháp lệnh. Tổ chức đánh giá kỹ lưỡng việc đề xuất xây dựng các chính sách mới đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, hiệu quả và khả thi của văn bản luật, pháp lệnh.
- Quy định rõ hơn trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trong quá trình nghiên cứu, cho ý kiến đối với dự án và biểu quyết, thông qua luật, pháp lệnh.
3.3.3.3. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của công tác tổ chức thi hành pháp luật
(1). Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết; công tác rà soát, hệ thống hóa, pháp điển hóa pháp luật
- Nghiêm túc chấp hành kỷ cương, kỷ luật hành chính trong xây dựng văn bản quy định chi tiết, thực hiện nghiêm các quy định của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết như yêu cầu về việc trình dự thảo văn bản quy định chi tiết kèm theo dự án luật, pháp lệnh, nếu có nội dung giao quy định chi tiết.
- Đề cao vai trò, tinh thần trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết, lấy kết quả thực hiện công tác này là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ theo năm công tác và theo nhiệm kỳ.
- Phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh, ban hành văn bản quy định chi tiết, nhất là giữa cơ quan chủ trì soạn thảo luật, pháp lệnh và cơ quan soạn thảo văn bản quy định chi tiết trong quá trình xây dựng, chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh liên quan đến nội dung giao quy định chi tiết.
- Tập trung xây dựng Bộ pháp điển điện tử, đảm bảo chất lượng, tiến độ để sớm đưa vào khai thác, sử dụng; đẩy mạnh công tác truyền thông, giới thiệu Bộ pháp điển. Nghiên cứu, đề xuất một cơ quan quản lý, vận hành thống nhất Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, công báo và Bộ pháp điển. Thực hiện có hiệu quả việc tiếp nhận và xử lý các kiến nghị, phản ánh của cơ quan, tổ chức, cá nhân về văn bản, quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp thực tiễn. chú trọng đối thoại với doanh nghiệp về vướng mắc, bất cập trong thực thi chính sách, pháp luật. Tăng cường việc kết nối, sử dụng hiệu quả kết quả rà soát, hệ thống hóa văn bản, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật giúp quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể cập nhật, nhận diện và đánh giá được đầy đủ, kịp thời các vướng mắc, bất cập, mâu thuẫn chồng chéo để sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp. Đồng thời, kết quả hệ thống hóa văn bản và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật sẽ góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch, dễ tiếp cận của hệ thống pháp luật, tạo thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân trong áp dụng và thực hiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật. Các thông tin từ tình hình thi hành pháp luật cũng là căn cứ quan trọng để tổ chức thực hiện kịp thời việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật, nhất là những vướng mắc, bất cập mới phát sinh đòi hỏi có sự rà soát, đánh giá để điều chỉnh, hoàn thiện về thể chế, pháp luật cho phù hợp.
(2). Đổi mới và nâng cao chất lượng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, phát triển hệ thống thông tin pháp luật, trợ giúp pháp lý, tăng cường khả năng tiếp cận của người dân đối với hệ thống pháp luật
Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật, nâng cao trình độ, kiến thức pháp lý cho mọi tầng lớp Nhân dân, thu hút người dân tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật. Chuyển từ tiếp cận pháp luật bị động sang ý thức tiếp cận pháp luật một cách chủ động. Từng bước chuyển dần cách thức phổ biến, giáo dục pháp luật từ mô hình Nhà nước chịu trách nhiệm chính trong việc đưa pháp luật đến với người dân sang mô hình người dân tự tìm hiểu pháp luật là chính; những người thuộc diện chính sách sẽ nhận được sự trợ giúp pháp lý của nhà nước. Đổi mới quy trình, phương thức, sự tham gia của cá nhân, tổ chức, xã hội trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Đa dạng hóa hình thức, phương pháp, thiết thực, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn giúp cho cán bộ công chức, viên chức thi hành công vụ và người dân có khả năng nắm bắt, vận dụng pháp luật vào thực tiễn đời sống. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
(3). Thường xuyên thực hiện việc theo dõi, đôn đốc thi hành pháp luật. Nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác theo dõi, đôn đốc thi hành pháp luật. Tăng cường bố trí nguồn lực về kinh phí để hoạt động theo dõi thi hành pháp luật được triển khai đồng bộ, toàn diện, đáp ứng mục tiêu đặt ra.
(4). Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tăng cường phát hiện và đẩy nhanh tiến độ xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử và của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các cơ quan báo chí, truyền thông và của nhân dân.
(5). Tăng cường bảo đảm các điều kiện về nhân lực, ngân sách và các điều kiện khác cho việc tổ chức thi hành pháp luật.
Trước yêu cầu của thực tiễn, các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước cần thay đổi tư duy, quan tâm đến công tác pháp chế, hình thành thói quen trước khi xem xét, quyết định cần có ý kiến của tổ chức pháp chế. Đổi mới về tổ chức bộ máy, biên chế làm công tác tổ chức thi hành và theo dõi thi hành pháp luật, sắp xếp, kiện toàn theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng nghiên cứu thành lập cơ quan chuyên trách theo dõi thi hành pháp luật theo hướng tinh gọn, hiệu quả từ Trung ương xuống địa phương.
Xây dựng được đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức thi hành pháp luật có năng lực chuyên môn và bản lĩnh, phẩm chất chính trị, nghề nghiệp vững vàng. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn và dài hạn, nâng cao trình độ chuyên môn cho lực lượng cán bộ công chức làm công tác tổ chức thi hành pháp luật tại các Bộ, ngành, địa phương. Tiếp tục mở rộng những chính sách thỏa đáng về cơ chế, chế độ ưu tiên, thu hút đối với những người làm công tác tổ chức thi hành pháp luật, đồng thời, cần có sự đầu tư đầy đủ, toàn diện về cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, tức là điều kiện cần và đủ trong tổ chức thi hành pháp luật, tạo ra môi trường thuận lợi trong việc triển khai hoạt động tổ chức thi hành pháp luật trong thực tiễn.
(6). Chú trọng và đổi mới cách thức tiến hành công tác sơ kết, tổng kết việc tổ chức thi hành pháp luật bảo đảm kết quả sơ kết, tổng kết việc tổ chức thi hành pháp luật phản ánh đúng thực trạng chất lượng văn bản quy phạm pháp luật cũng như thực tiễn thi hành văn bản quy phạm pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng đề xuất xây dựng, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật.
(7). Đổi mới về cơ chế phối hợp trong hoạt động tổ chức thi hành pháp luật
- Xây dựng và hoàn thiện các quy định về việc phối hợp giữa các đơn vị có chức năng tham mưu, giúp Bộ, ngành và địa phương tổ chức thực hiện công tác tổ chức thi hành pháp luật (cơ chế phối hợp bên trong nội bộ của Chính phủ và bộ máy hành chính);
- Xây dựng, hoàn thiện quy định về phối hợp tổ chức thi hành pháp luật giữa Bộ, ngành, địa phương với cơ quan giám sát, cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan khác trong việc cung cấp thông tin về tình hình thi hành pháp (cơ chế phối hợp bên ngoài).
(8). Tăng cường năng lực phản ứng chính sách trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật, đặc biệt là việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của người dân và doanh nghiệp về tình hình thi hành pháp luật
- Thiết lập các hình thức đa dạng, linh hoạt trong tiếp nhận kiến nghị, phản ánh của doanh nghiệp trong thực thi pháp luật, trong đó chú trọng việc ghi nhận, xử lý công khai, công bằng, nhanh chóng, khách quan, đúng thẩm quyền; chủ động tổ chức đối thoại với doanh nghiệp về các quy định của pháp luật về đầu tư kinh doanh để có các biện pháp chỉ đạo, giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc mà doanh nghiệp phản ánh, kiến nghị; trường hợp không giải quyết được cũng cần giải thích, thông tin trả lời rõ ràng, minh bạch.
- Thiết lập kênh thông tin đa dạng, thuận lợi, bảo mật để người dân, doanh nghiệp phát huy tính tự giác, kịp thời khiếu nại, tố cáo về những hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi pháp luật.
- Tăng cường chỉ đạo việc tổ chức tiếp nhận và tập trung giải quyết các kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của người dân và doanh nghiệp kịp thời, đúng quy định pháp luật. Người đứng đầu chính quyền, cơ quan quản lý nhà nước các cấp phải dành thời gian tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp, giải quyết hiệu quả các vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền.
KẾT LUẬN
Đề tài với mục tiêu nghiên cứu hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2030, bám sát hệ tiêu chí đã được đề ra trong Nghị quyết số 27-NQ/TW, coi những tiêu chí này là kim chỉ nam trong hoạt động hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn tới, ít nhất là trong giai đoạn từ nay đến 2030. Các tiêu chí này bao gồm: dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận. Từ đó, Đề tài đã sử dụng hệ tiêu chí để đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất các định hướng, giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2030 từng bước đáp ứng các tiêu chí đề ra. Kết quả của những đánh giá, kiến nghị đó về cơ bản được tóm tắt như sau:
Việt Nam sau gần 40 năm Đổi mới đã đạt được rất nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử trong phát triển kinh tế - xã hội. Thành công đó có sự đóng góp cũng như tạo nền tảng rất lớn từ quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật. Kể từ sau Nghị quyết số 48-NQ/TW, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, cơ bản cân đối trên mọi lĩnh vực. Trước năm 2005, hệ thống pháp luật chủ yếu được chú trọng xây dựng trong lĩnh vực kinh tế, nhưng đến nay, hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đều có văn bản quy phạm pháp luật ở tầm luật điều chỉnh, cơ bản thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn đường lối, chủ trương của Đảng, không chỉ góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, mà còn bảo đảm xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tôn trọng, bảo vệ quyền con người, chủ động hội nhập quốc tế của đất nước. Bên cạnh những thành tựu to lớn đó, hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế cần tiếp tục được khắc phục. Với nhận thức hệ thống pháp luật luôn ở trạng thái động, là sự phản ánh đối với nhu cầu nội tại của cuộc sống, tương ứng với từng bối cảnh xã hội, bởi vậy, thời gian tới, cùng với các yếu tố như: nhu cầu phát triển nhanh hơn nữa về kinh tế-xã hội để tránh tụt hậu, sự ảnh hưởng của bối cảnh quốc tế tới Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ… sẽ tiếp tục đặt ra cho Việt Nam trong thời gian tới những thách thức về hoàn thiện thể chế. Trong đó, giai đoạn từ nay đến năm 2030, trọng tâm của quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật vẫn sẽ là phát triển kinh tế thị trường, định hướng XHCN. Đồng thời, hệ thống pháp luật trong lĩnh vực bảo đảm quyền con người, quyền công dân và tổ chức bộ máy nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN cũng sẽ từng bước được quan tâm hoàn thiện để thích ứng với sự phát triển kinh tế-xã hội cũng như từng bước tương thích với những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
Trong giai đoạn này, các yêu cầu ngày càng cao về hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật cũng sẽ được đặt ra. Từ đó, để nâng cao hiệu quả xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật, các giải pháp được đặt ra trong thời gian tới đó là Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác xây dựng hệ thống pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật; tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy trình xây dựng VBQPPL để tăng cường đưa thực tiễn cuộc sống vào pháp luật, tăng cường tính thích ứng nhanh của pháp luật đối với sự thay đổi nhanh chóng của cuộc sống. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về tổ chức thi hành pháp luật, đặc biệt trong công tác phối hợp tổ chức, tăng cường hiệu quả công tác theo dõi thi hành pháp luật; đảm bảo nguồn lực cả về nhân lực và vật lực cho công tác xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật./.
[1] Trong phần này, nhóm nghiên cứu có tiếp thu một số nội dung của các nghiên cứu trước đây:
- Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Đề tài khoa học cấp nhà nước “Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước, đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do PGS.TS. Hà Hùng Cường làm chủ nhiệm (bảo vệ năm 2019); Đề tài cấp Bộ “Nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2030 (Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Văn Cương).
[2] Lê Minh Tâm, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam (Luận án tiến sỹ), 1992, tr. 34.
[3] Xem them: Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Đề tài khoa học cấp nhà nước “Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước, đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do PGS.TS. Hà Hùng Cường làm chủ nhiệm (bảo vệ năm 2019).
[4] PGS.TS.Phạm Duy Nghĩa- Một số đóng góp về phương pháp đánh giá tình hình THPL – Chuyên đề của Đề tài và Tiêu chí đánh giá hiệu quả THPL của cơ quan nhà nước- Tham luận Hội thảo trong khuôn khổ Đề tại khoa học cấp nhà nước “Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước, đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do PGS.TS. Hà Hùng Cường làm chủ nhiệm (bảo vệ năm 2019), tổ chức tại TP.Hồ Chí Minh,
[5] TS. Nguyễn Văn Hiển, Đề tài khoa học cấp bộ “Nhận diện hệ thống pháp luật trong Nghị quyết số 48-NQ/TƯ và việc ứng dụng trong công tác xây dựng pháp luật và THPL”, Viện KHPL, Bộ Tư pháp năm 2012, tr. 37-38.
[6] Xem: Đặc trưng cơ bản của hệ thống pháp luật nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
https://vietnamhoinhap.vn/vi/dac-trung-co-ban-cua-he-thong-phap-luat-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-45680.htm
[7] GS.VS. Nguyễn Duy Quý và PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn (đồng chủ biên), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân: Lý luận và thực tiễn (Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia, 2008) tr. 58.
[8] PGS.TS. Hoàng Thế Liên (chủ biên), Sổ tay kỹ thuật soạn thảo, thẩm định, đánh giá tác động của văn bản quy phạm pháp luật (Hà Nội: NXB Tư pháp, 2011) tr. 21-22.
[9] Ví dụ: Luật thi hành án hình sự ngày 17/6/2010 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2011 tại Điều 59 quy định việc thi hành án tử hình phải được thực hiện bằng hình thức “tiêm thuốc độc”. Tuy nhiên, cho tới tháng 10/2012, hơn 400 phạm nhân bị tuyên án tử hình nhưng không thi hành được vì lý do Việt Nam chưa sản xuất được và cũng không nhập khẩu được thuốc độc để thi hành loại án này. Xem “Không thể tử hình bằng thuốc độc vì… thiếu thuốc” <http://dantri.com.vn/c20/s20-655781/khong-the-tu-hinh-bang-thuoc-doc-vi-thieu-thuoc.htm> (ngày 26/10/2012).
[10] Trong kinh nghiệm quốc tế, bàn luận về tiêu chí để đánh giá một đạo luật tốt (nhất là đạo luật đáp ứng các tiêu chuẩn của một nhà nước pháp quyền), người ta hay nhắc tới quan điểm của Lon Fuller, giáo sư luật Đại học Harvard. Theo giáo sư Lon Fuller, trong tác phẩm “Đạo của pháp luật” (The Morality of Law) xuất bản năm 1964, một văn bản pháp luật sẽ mất hiệu lực nếu mắc phải một trong 8 lỗi cơ bản sau: (1) Không chứa đựng quy phạm cụ thể (kiểu chỉ chứa toàn các khẩu hiệu mà không chứa đầy đủ mô thức quy phạm theo đúng công thức giả định, quy định và chế tài); (2) Không công khai (văn bản đã được ban hành nhưng đối tượng bị điều chỉnh lại không biết hoặc khó biết được); (3) Chứa đựng quy phạm khó hiểu, không rõ ràng hoặc hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau (điều này khiến cho thông điệp của văn bản trở nên không rõ ràng); (4) Áp dụng hiệu lực hồi tố; (5) Chứa đựng các quy định mâu thuẫn nhau; (6) Đưa ra các yêu cầu vượt quá khả năng chấp hành của người bị điều chỉnh hoặc vượt quá khả năng thi hành của cơ quan thực thi pháp luật; (7) Không ổn định (thay đổi quá nhanh chóng); (8) Không đảm bảo chữ tín trong thi hành pháp luật (tức là luật pháp yêu cầu một đằng như cơ quan thực thi pháp luật lại thực thi một nẻo) (xem: Lon L. Fuller, The Morality of Law (revised edition) (New Haven and London: Yale University Press, 1969) at 39). Ngoài ra, có thể xem thêm tiêu chuẩn của văn bản pháp luật có chất lượng tốt của các học giả gần đây, chẳng hạn xem: Helen Xanthaki, “On Transferability of Legislative Solutions: The Functionality Test” in Constantin Stefanou & Helen Xanthaky (eds.), Drafting Legislation: A Modern Approach (Hampshire, England: Ashgate Publishing, 2008) 1-18 at 4-14 (nhấn mạnh tới tiêu chuẩn về tính hiệu lực, hiệu quả, tính đơn giản, dễ hiểu của các quy định pháp luật; Raymond Mallon và Lê Duy Bình, Thực hiện hiệu quả quy trình đánh giá dự báo tác động pháp luật tại Việt Nam (Hà Nội, 2007) tr. 10 (nhấn mạnh tới các tiêu chuẩn: (1) tạo ra gánh nặng tối thiểu cho xã hội và doanh nghiệp: các biện pháp pháp luật cần đảm bảo tính tối thiểu, đủ để đạt được các kết quả dự kiến; (2) được xây dựng sao cho có ảnh hưởng tối thiểu tới sự cạnh tranh; (3) tương thích với các thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế hoặc được quốc tế công nhận nhằm giảm thiểu các cản ngại đối với thương mại; (4) rõ ràng, minh bạch, thống nhất và có thể tiên liệu được; (5) tập trung vào vấn đề chính, và giảm thiểu các tác động khác; (6) xác định một cơ chế trách nhiệm rõ ràng về thực hiện và giám sát (các cơ quan chịu trách nhiệm cần đảm bảo rằng mình đã tiến hành một đánh giá dự báo tác động pháp luật (RIA) và thấy rằng lợi ích của đề xuất thay đổi lớn hơn chi phí của việc thực hiện đề xuất đó)).
[11] Hà Thị Mai Hiên, Những phát triển mới của hệ thống pháp luật Việt Nam giai đoạn 2004 -2009, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 162 Tháng 1/2010 <http://www.nclp.org.vn/nha_nuoc_va_phap_luat/phap-luat/nhung-phat-trien-moi-cua-he-thong-phap-luat-viet-nam-giai-111oan-2004-2009>.
[12] Điều 8 Luật tổ chức số 2009-403 ngày 15/4/2009 về việc áp dụng các quy định tại Điều 34-1, Điều 39 và Điều 44 của Hiến pháp.
[13] Điều 16, Luật lập pháp Trung Quốc.
[14] Điều 16, Luật lập pháp Trung Quốc.
[15] Điều 18, Luật lập pháp Trung Quốc.
[17] Hai người này được xem là người lãnh đạo Đảng chiếm đa số trong mỗi Viện.
[18] Xem: Bill Scheppler, How a Law is Passed (New York: Infobase Publishing, 2007) at 73-74.
[20] Ví dụ việc ban hành Nghị quyết số 96/2015/QH13 ngày 26/6/2015 của Quốc hội về tăng cường các biện pháp phòng, chống oan, sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự, sau đó, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đã ban hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 tạo cơ sở pháp lý để tăng cường bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của công dân, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động và tăng cường trách nhiệm của các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
[21] Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, các đạo luật về tố tụng v.v.
[22] Điều 69 của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 có nhiều đổi mới, quy định chức năng của Quốc hội theo hướng ngắn gọn hơn, theo đó “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.”, tạo cơ chế để hoạt động giám sát của Quốc hội tập trung vào những vấn đề bức thiết, quan trọng của đất nước.
[23] Chương II Hiến pháp 2013 đã quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; theo đó bổ sung một số quyền mới như quyền sống, quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác… phù hợp với các công ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên, đồng thời bổ sung nguyên tắc quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
[24] Bộ luật dân sự năm 2015.
[25] Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015.
[26] Lần đầu tiên, Quốc hội ban hành Luật Trưng cầu ý dân (năm 2015), Luật Tiếp cận thông tin (năm 2016).
[27] Hiến pháp năm 2013 bổ sung, ghi nhận nhiều quyền mới như quyền sống (Điều 19); quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43); quyền không bị trục xuất, giao nộp cho nước khác (Khoản 2, Điều 17); quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22); quyền được hưởng an sinh xã hội (Điều 34); quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42),… Hiến pháp năm 2013 cũng quy định rõ ràng, đầy đủ hơn nội hàm của các quyền mà Hiến pháp 1992 đã quy định, đó là các quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trước pháp luật (Điều 16); không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (khoản 1 Điều 20); quyền bảo vệ đời tư (Điều 21); quyền tiếp cận thông tin (Điều 25); quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28); quyền bình đẳng giới (Điều 26); quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29);...
[28] Bộ luật dân sự năm 2015, Luật Đất đai năm 2013, Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014, Luật quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 v.v.
[29] Luật Doanh nghiệp năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2016, 2020), Luật Đầu tư năm 2014 và năm 2020…
[30] Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014;
[31] Nghị quyết số 10-NQ/TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 5 (Khóa XII) về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Nghị quyết số 11-NQ/TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 5 (Khóa XII) về hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
[32] Bộ luật lao động năm 2019, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 (sửa đổi năm 2020), Luật Nhà ở năm 2014… Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 đã mở cửa một phần thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài đầu tư ở Việt Nam. Luật Nhà ở năm 2014 quy định đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam bao gồm cả tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và tổ chức, cá nhân nước ngoài với một số điều kiện cụ thể, minh bạch.
[33] Quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp năm 2013 quy định theo hướng “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Điều 33), đồng thời Hiến pháp cũng khẳng định các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng với nhau trong hoạt động; tạo bước đột phá mạnh mẽ hơn về quyền tự do kinh doanh và sự bình đẳng trong hoạt động kinh doanh giữa các thành phần kinh tế. Tiếp đó, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014 đã được ban hành theo hướng đơn giản hóa điều kiện, thủ tục cấp phép, dỡ bỏ hàng loạt hạn chế, bất cập của quy định cũ, mở rộng các nhóm quyền tự quyết của doanh nghiệp.
[34] Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
[35] Luật Giá năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
[36] Xem Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 20105, sửa đổi bổ sung năm 2020;
[37] Mâu thuẫn giữa Luật Di sản văn hóa với Luật Đầu tư công, Luật Bảo vệ môi trường (Báo cáo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổng kết Nghị quyết số 48-NQ/TW, tr22); Mâu thuẫn giữa Bộ luật Lao động và Luật Doanh nghiệp (Báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội tổng kết Nghị quyết số 48-NQ/TW, tr.18…);…
[38] Ví dụ: Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng (ban hành năm 2005, được sửa đổi, bổ sung một số điều vào các năm 2007, 2012 và 2018).
[39] Điều 57 Hiến pháp năm 1992 quy định “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”.
[40] Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề pháp luật không cấm”.
[42] Đánh giá theo các tiêu chí ở Chương 1
[43]Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, giáo trình Lý luận và pháp luật về QCN, Nhà xuất bản Lý luận chính trị. H, 2021, trang 200.
[44] Trương Hồng Quang (2020), Để quyền thực sự là quyền, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 13/2020, tr. 24-28.
[45] Đánh giá theo các tiêu chí ở Chương 1
[46] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, tr.89.
[47] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, tr.74.
[48] http://dukcqtw.dcs.vn/tinh-gia%CC%89n-bien-che%CC%81-va%CC%80-co-ca%CC%81u-la%CC%A3i-doi-ngu%CC%83-ca%CC%81n-bo-cong-chu%CC%81c-vien-chu%CC%81c-theo-tinh-tha%CC%80n-nghi%CC%A3-quye%CC%81t-ho%CC%A3i-nghi%CC%A3-trung-uong-6-kho%CC%81a-xii-duk3941.aspx
[49] Xem thêm: Ban Cán sự Đảng Chính phủ (2021), BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ “Công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật ở Việt Nam - Thực trạng và quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
[50] Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục năm 2009 và 2019, Luật Giáo dục đại học năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2018, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, Luật Dạy nghề năm 2006...
[51] Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 (trước đó là Luật Bảo vệ môi trường năm 1994, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và Luật Bảo vệ môi trường năm 2014), Luật Đa dạng sinh học năm 2008, Luật Dầu khí năm 2009, Luật Khoáng sản năm 2010, Luật Tài nguyên nước năm 2012, Luật Tài nguyên môi trường biển và hải đảo năm 2015…
[52] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, Hà Nội, năm 2021, Tập 1, trang 82, 83.
[53] Lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch hiện nay đang có 8 Luật, 47 Nghị định, 35 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và khoảng 250 Thông tư, Thông tư liên tịch điều chỉnh trực tiếp. Trong 12 lĩnh vực chuyên môn về văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch hiện mới có 8 lĩnh vực có Luật điều chỉnh gồm: Luật Điện ảnh; Luật Di sản văn hóa; Luật Quảng cáo; Luật Thư viện; Luật Sở hữu trí tuệ; Luật phòng, chống bạo lực gia đình (Luật này chỉ điều chỉnh 1 nhánh của công tác gia đình); Luật Thể dục, thể thao; Luật Du lịch, 04 lĩnh vực chuyên môn còn lại được điều chỉnh bằng Nghị định gồm nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật nhiếp ảnh và triển lãm; văn hóa quần chúng, văn hóa dân tộc và tuyên truyền cổ động; văn học chưa có văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp.
[54] Luật Báo chí năm 2016, Luật Xuất bản năm 2012, Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Luật Viễn thông năm 2009, Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009, …
[55] Pháp lệnh Ưu đãi người có công 2005 (sửa đổi 2007), Luật Bình đẳng giới 2006, Luật Bảo hiểm xã hội 2006, Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2007, Luật Bảo hiểm y tế 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014)…
[56] Luật Bình đẳng giới năm 2006, Luật Phòng chống bạo lực trong gia đình năm 2007, Luật Nuôi con nuôi 2010, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (thay thế Luật năm 2000), Luật Trẻ em năm 2016…
[57] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, Hà Nội, năm 2021, Tập 1, trang 85, 86.
[59] Báo cáo Bộ Văn hóa - Thể thảo và Du lịch.
[60] Báo cáo Bộ Thông tin và Truyền thông.
[61] Hệ thống pháp luật về quân sự, quốc phòng, cơ yếu đồng bộ, thống nhất, khả thi; thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân (Báo cáo Bộ Quốc phòng).
[62] Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về an ninh, trật tự ngày càng được hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc quản lý nhà nước trên lĩnh vực an ninh, trật tự, góp phần vào việc thực hiện tốt Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Báo cáo Bộ Công an).
[63] Luật Dân quân tự vệ năm 2009; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam năm 2008; Pháp lệnh Lực lượng cảnh sát biển năm 2008 thay thế bởi Luật Cảnh sát biển Việt Nam năm 2018; Pháp lệnh Động viên công nghiệp năm 2008; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam năm 2014, Luật Quốc phòng năm 2018... Luật Công an nhân dân năm 2005 (sửa đổi năm 2014 và 2018), Luật Cư trú năm 2006 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2014), Luật Đặc xá năm 2007, Luật Phòng, chống khủng bố năm 2013, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014, Luật Căn cước công dân năm 2014, Luật Cảnh vệ năm 2017, Luật Luật An ninh mạng năm 2018, Luật Thi hành án hình sự năm 2019… Bộ Quốc phòng đã tham mưu, giúp Chính phủ chủ trì soạn thảo và trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 18 luật, pháp lệnh, nghị quyết văn bản (13 luật, 04 pháp lệnh, 01 Nghị quyết của Quốc hội); trình Chính phủ ban hành 89 Nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 53 Quyết định và ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền 2.220 Thông tư, thông tư liên tịch. Từ năm 2013 đến tháng 10/2021, Bộ Công an đã trình cấp có thẩm quyền, ban hành theo thẩm quyền được 830 văn bản quy phạm pháp luật về an ninh, trật tự (80 nghị định, 26 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 39 thông tư liên tịch, 685 thông tư của Bộ trưởng Bộ Công an).
[64] Bộ luật Hình sự, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật Thi hành án hình sự, Luật Đặc xá, Luật Tương trợ tư pháp, Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011, sửa đổi năm 2018…
[65] Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2009 đã bỏ hình phạt tử hình đối với 8 tội; thay đổi biện pháp thi hành án tử hình (từ bắn thay bằng tiêm thuộc độc);
[66] Báo cáo số 4470/BQP-VP ngày 9/11/2021 của Bộ Quốc phòng.
[67] Việt Nam đã ban hành Luật Điều ước quốc tế năm 2016 thay thế Luật Ký kết, gia nhận và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, Luật Thỏa thuận Quốc tế năm 2020 thay thế Pháp lệnh Ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế năm 2007.
[68] Việt Nam đã ký, gia nhập, phê chuẩn, phê duyệt rất nhiều điều ước quốc tế, góp phần đảm bảo công tác hội nhập kinh tế quốc tế đạt được những thành tựu lớn. Những cam kết mở cửa thị trường không chỉ giới hạn trong phạm vi thương mại hàng hóa mà còn bao gồm thương mại dịch vụ, đầu tư, dịch vụ tài chính, sở hữu trí tuệ… Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách thương mại theo hướng minh bạch và tự do hóa hơn. Đồng thời hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp đã được đẩy mạnh thông qua việc ký kết các điều ước quốc tế song phương, từng bước tham gia các thiết chế đa phương, khu vực về tương trợ tư pháp, giải quyết tranh chấp thương mại, đầu tư...
[69] Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”, Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế.
[70] Rà soát và hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ đàm phán WTO; rà soát phục vụ đàm phán, ký các hiệp định thương mại (FTA), Hiệp định bảo hộ đầu tư (IPA)…
[71] Theo quy định của Hiệp định WTO, Việt Nam phải đưa ra Chương trình xây dựng pháp luật để thực hiện các cam kết gia nhập WTO. Chương trình xây dựng pháp luật của Việt Nam được trình ra Ban công tác lần đầu tiên vào tháng 6 năm 2000. Tại các phiên đàm phán đa phương tiếp theo, Chương trình này thường xuyên được cập nhật hai nội dung: (i) bổ sung các cam kết mới phù hợp với tiến trình đàm phán; và (ii) thông tin về tiến độ ban hành các văn bản pháp luật. Chương trình được xây dựng dựa trên các tiêu chí chủ yếu sau:
- Tính khả thi: tức là phải phù hợp với điều kiện lập pháp của Việt Nam và Chương trình xây dựng pháp luật dài hạn và hàng năm của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các chương trình, kế hoạch ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ.
- Tính đồng bộ: Chương trình được xây dựng trên cơ sở rà soát pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế, được tiến hành từ năm 2000. Mục tiêu chính của Chương trình là thiết lập hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập, không vì thực hiện các nghĩa vụ thành viên WTO mà bỏ qua tính đồng bộ của Chương trình.
- Tính tương đồng: lộ trình và nội dung của Chương trình phù hợp với lộ trình và nội dung đàm phán, hỗ trợ tối đa cho tiến trình đàm phán.
[72] Rà soát quy định của Hiệp định CPTPP với quy định pháp luật Việt Nam: Trong giai đoạn đàm phán, đã rà soát 56 luật, 04 pháp lệnh, 186 nghị định, 02 nghị quyết của Quốc hội, 02 nghị quyết Chính phủ, 01 nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TATC và 14 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung 12 văn bản bao gồm: 08 luật, 03 nghị định, 01 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và kiến nghị ban hành mới là 05 văn bản bao gồm: 04 nghị định và 01 quyết định của Thủ tướng Chính phủ để đảm bảo thực thi. Để thực thi Hiệp định CPTPP, Quốc hội, Chính phủ và các Bộ, ngành của Việt Nam đã ban hành 16 văn bản (gồm 2 Luật, 4 Nghị định, 9 Thông tư, 1 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ) để thực thi cam kết của Hiệp định CPTPP. Các văn bản này về cơ bản đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định và được các nước thành viên CPTPP ghi nhận và đánh giá cao.
Rà soát pháp luật phục vụ đàm phán, ký hiệp định EVFTA và IPA: Tổng số các văn bản được rà soát là: 58 luật, 14 pháp lệnh, 02 Nghị quyết của Chính phủ, 139 nghị định và 74 thông tư và đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung là 5 văn bản bao gồm: 03 Luật (Bộ luật lao động, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Kinh doanh bảo hiểm), 01 nghị định, 01 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, tổng số văn bản quy phạm pháp luật được kiến nghị ban hành mới là 05 văn bản bao gồm 01 Nghị quyết của Quốc hội và 04 Nghị định. Với Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực với Việt Nam và Liên minh châu Âu từ ngày 1/8/2020, đến nay, các Bộ, ngành đã ban hành 6 văn bản quy phạm pháp luật (gồm 3 Nghị định, 2 Quyết định và 1 Thông tư, đồng thời bãi bỏ 1 Quyết định) để nhằm hoàn thiện việc ban hành các văn bản pháp luật cần được ban hành ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
[73] Việc gia nhập Công ước tống đạt giấy tờ và Công ước thu thập chứng cứ đã tạo cơ sở pháp lý quốc tế cho việc thực hiện trung bình hơn 2.000 yêu cầu tương trợ tư pháp/năm và nâng số yêu cầu có kết quả trên 70% giúp các tòa án, cơ quan thi hành án dân sự có kết quả giải quyết các vụ việc liên quan.
[74] Quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên phải thi hành, các căn cứ không công nhận phán quyết trọng tài hoàn toàn theo Công ước
[75] Chính phủ đã ban hành Nghị định 22/2007/NĐ-CP ngày 24/02/2017 về hòa giải thương mại
[76] Từ năm 2005 Việt Nam đã ký 10 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, 05 Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự; 15 Hiệp định dẫn độ, 16 Hiệp định chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù.
[77] Từ năm 2005 đến năm 2020, tổng số lượng VBQPPL của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã ban hành là 13.336 văn bản, trong đó Chính phủ ban hành 1.952 nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 1.107 quyết định, các Bộ, cơ quan ngang Bộ ban hành 10.060 thông tư và thông tư liên tịch. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan ban hành nhiều nghị quyết liên tịch; Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp đã ban hành hàng trăm nghìn văn bản, trong đó văn bản do HĐND và UBND cấp tỉnh ban hành là 55.691 văn bản, cấp huyện ban hành là 57.593 văn bản và cấp xã ban hành là 273.226 văn bản quy phạm các loại (Theo Báo cáo số 01/BC-BTP của Bộ Tư pháp tổng kết công tác tư pháp năm 2020, nhiệm kỳ 2016-2020; định hướng nhiệm kỳ 2021-2025 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2021).
[78] Chính phủ đã tham mưu Ban Bí thư Trung ương ban hành 01 Chỉ thị, 01 Thông báo và 02 Kết luận nhằm tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác PBGDPL: Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; Thông báo kết luận số 74-TB/TW ngày 11/5/2007 về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW; Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 về kết quả thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW và Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32/CT/TW.
Các văn bản liên quan đến công tác PBGDPL gồm có: Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012; 03 Nghị định, 06 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 01 Thông tư liên tịch, 05 Thông tư của Bộ Tư pháp. Bên cạnh đó, một số bộ, ngành còn ban hành văn bản quy phạm pháp luật về PBGDPL trong ngành (Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông vận tải) hoặc văn bản có tính chuyên đề về công tác này (Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam).
Tại địa phương, hầu hết các Tỉnh ủy, Thành ủy đều ban hành văn bản để tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác PBGDPL. Một số tỉnh, thành phố đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật triển khai công tác PBGDPL. Ví dụ, Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc ban hành Nghị quyết số 209/2015/NQ-HĐND ngày 22/12/2015 về tăng cường công tác PBGDPL giai đoạn 2016-2020. UBND tỉnh Hậu Giang ban hành Quyết định số 09/2014/QĐ-UBND ngày 06/03/2014 quy định trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân trong công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh. Hiện có 46/63 địa phương đã ban hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân hoặc Quyết định của UBND cùng cấp quy định về kinh phí phục vụ nhiệm vụ PBGDPL.
[79] Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và 2017; Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật...
[80] Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989, Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị 1966, Các Nguyên tắc và hướng dẫn của Liên hợp quốc về quyền về tiếp cận trợ giúp pháp lý trong hệ thống tư pháp hình sự 2012...
[81] Theo Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế xã hội năm 2018 và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2019, các Tổng cục, Vụ, Cục thuộc Bộ đã giảm trên 86,3 nghìn biên chế, trong đó có 12,4 nghìn công chức.
[82] Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật (sửa đổi, bổ sung năm 2020 bởi Nghị định số 32/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020).
[83] Theo Báo cáo số 1959 ngày 04/11/2021 của Thanh tra Chính phủ về kết quả và phương hướng, giải pháp tổ chức thi hành pháp luật thì từ năm 2013 đến năm 2020, tiến hành 56.611 cuộc thanh tra hành chính và 1.851.156 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Công tác thanh tra đã chấn chỉnh quản lý, hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật trên nhiều lĩnh vực; phát hiện vi phạm về kinh tế 629.530 tỷ đồng, 108.049 ha đất; trong đó kiến nghị thu hồi về ngân sách nhà nước 328.511 tỷ đồng và 20.992 ha đất; xuất toán, loại khỏi giá trị quyết toán do chưa thực hiện đúng quy định và đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét xử lý 301.019 tỷ đồng, 87.057 ha đất; kiến nghị xử lý hành chính đối với nhiều tập thể, cá nhân; chuyển cơ quan điều tra tiếp tục xem xét, xử lý 685 vụ, 850 đối tượng.
[84] Theo Báo cáo của Bộ Công an, từ năm 2005 đến tháng 6/2019, Cơ quan điều tra các cấp của Công an nhân dân đã tiếp nhận, giải quyết 919.931 tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Từ kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm về kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra đã khởi tố, điều tra 838.351 vụ, 1.257.017 bị can.
[85] Theo Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế xã hội năm 2020 và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2021.
[86] Cụ thể: Trong năm 2022, đã phát hiện 5.117 vụ phạm tội về trật tự quản lý kinh tế, giảm 36,68% (trong đó khởi tố 2.390 vụ án với 4.135 bị cán), 523 vụ phạm tội về tham nhũng và chức vụ, tăng 40,97% (trong đó khởi tố 501 vụ án với 1.211 bị can). Tội phạm về môi trường, tài nguyên, an toàn thực phẩm vẫn diễn ra phổ biến trên các lĩnh vực, nổi lên là các vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm; xả nước thải, khí thải, vi phạm về quản lý chất thải nguy hại gây tâm lý lo lắng và ảnh hưởng đến sức khỏe người dân; tình trạng ô nhiễm môi trường tại các cụm công nghiệp, làng nghề chưa được giải quyết triệt để; khai thác, vận chuyển trái phép tài nguyên, khoáng sản, nhất là cát, sỏi, đất, chặt phá rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng vẫn diễn ra tại nhiều địa phương, vi phạm quy định về mua bán, vận chuyển động vật hoang dã trái phép còn diễn biến phức tạp. Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông tăng mạnh (tăng 143,98% về số vụ) và tiếp tục diễn biến ngày càng phức tạp với nhiều phương thức, thủ đoạn phạm tội mới, tinh vi hơn, nổi lên là tổ chức đánh bạc, đánh bạc, cá độ bóng đá qua mạng internet với số tiền lớn có sự tham gia của nhiều đối tượng liên kết chặt chẽ tại nhiều địa phương; biến tướng dưới nhiều hình thức mới. Xem thêm: https://lsvn.vn/nang-cao-hie-u-qua-cong-ta-c-pho-ng-cho-ng-to-i-pha-m-va-vi-pha-m-pha-p-lua-t-trong-ti-nh-hi-nh-mo-i-1683995009.html ; https://baovephapluat.vn/kiem-sat-24h/van-de-su-kien/cong-tac-phong-chong-toi-pham-va-vi-pham-phap-luat-nam-2022-dat-duoc-nhieu-ket-qua-quan-trong-131138.html
[87] Nhiều quy định trong Hiến pháp về quyền con người hiện nay chưa được thi hành trong thực tiễn do chưa được luật hóa như: quyền tự do lập hội, quyền biểu tình; quyền của mọi người về bất khả xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân…
[88] Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thât, Hà Nội, tr.
[90] Tình trạng các cơ quan nhà nước tiếp nhận hồ sơ của doanh nghiệp nhưng lại xử lý chậm, quá hạn làm cho doanh nghiệp mất hoặc giảm cơ hội kinh doanh hoặc tình trạng hệ thống tiếp nhận đơn, tài liệu trực tuyến của nhiều cơ quan thường xuyên bị nghẽn nên doanh nghiệp không thể thực hiện được thủ tục trực tuyến… Một số quy định về điều kiện kinh doanh cũng chưa thực sự rõ ràng làm cho doanh nghiệp gặp khó khăn khi tuân thủ và phát sinh thêm chi phí. Xem: https://tienphong.vn/cat-giam-chi-phi-tuan-thu-phap-luat-mong-muon-cua-cong-dong-doanh-nghiep-post1430877.tpo.
[91] Báo cáo số 351/BC-CP ngày 27 tháng 9 năm 2022 về tình hình thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 2022, tr.21.
[92] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội 2021, Tr 218.
[93] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội 2021, Tập II Tr 94
[94] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội 2021, Tập I Tr 217
[95] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội 2021, tr.215-216.
[96] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
[97] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tập 2, NXB Chính trị quốc gia, 2021. Theo đó, Quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả là phương thức quản trị quốc gia mới, dựa trên những chuẩn mực phổ quát của quản trị tốt, trong đó Nhà nước đóng vai trò là trung tâm điều phối, cùng với sự tham gia của các chủ thể ngoài nhà nước, sử dụng các phương pháp, công cụ, phương tiện phù hợp để huy động các nguồn lực quốc gia, nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước.
[98]Báo cáo số 1128-BC/BCSĐCP của Ban cán sự đảng Chính phủ tổng kết Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020.
[99] Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình tổng thể Cải cách hành chính, định hướng 2021-2030.
[100] Công văn số 1949-CV/BNCTW, ngày 12/4/2022 của Ban Nội chính Trung ương về Thông báo kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
[101] Quyết định 942/QĐ-TTg ban hành Chiến lược Chính phủ điện tử, Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến 2030.
[102]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, 2021.
[103] Báo cáo số 1128-BC/BCSĐCP của Ban cán sự đảng Chính phủ tổng kết Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020.
[104] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, Tập I, tr. 118.
[105] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), tlđd, tr. 202.
[106] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), tlđd, tr. 38.
[107] GS.TS Trần Ngọc Đường (2018), “Tổ chức thi hành pháp luật theo Hiến pháp năm 2013 - nhân tố đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp quyền trong đời sống nhà nước và xã hội”-, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 9 (361), kỳ 1, tháng 5.
[108] Báo cáo số 1128-BC/BCSĐCP của Ban cán sự đảng Chính phủ tổng kết Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020.
[109] Báo cáo định hướng Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh Khóa XV.
[110] Báo cáo định hướng Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh Khóa XV.
|
Nội dung toàn văn
|
|
File đính kèm
|
...
|
|
|