• Thuộc tính
Tên đề tài Cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chuyển đổi số trong một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp
Nội dung tóm tắt

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ CHUYỂN ĐỔI SỐ, CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ, CHÍNH PHỦ SỐ VÀ CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG LĨNH VỰC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT, QUẢN LÝ THI HÀNH PHÁP LUẬT

1. Khái niệm chính phủ điện tử, chuyển đổi số, chính phủ số

1.1. Chính phủ điện tử

Chính phủ điện tử bao gồm tất cả các vai trò và hoạt động của chính phủ, được hình thành bởi công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), bao gồm bốn lĩnh vực quản trị và hành chính công: các chương trình kinh tế và xã hội của nhà nước; mỗi quan hệ của nhà nước với công dân và pháp quyền, hoạt động nội bộ của nhà nước và mối quan hệ của nhà nước với môi trường quốc tế. Chính phủ điện tử được xây dựng dựa trên ba lực lượng đang phát triển: công nghệ, khái niệm quản lý và bản thân chính phủ. Bốn khía cạnh của chính phủ điện tử có tác động lâu dài đối với hành chính: dịch vụ lấy người dân làm trung tâm, thông tin là nguồn tài nguyên công, các kỹ năng và mối quan hệ công việc mới, và các mô hình quản lý và trách nhiệm giải trình.

1.2. Chuyển đổi số

Theo định nghĩa của Bộ Thông tin và Truyền thông thì chuyển đổi số “là quá trình chuyển đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức, cộng đồng về cách thức sống, làm việc, sản xuất, kinh doanh dựa trên các công nghệ số”.[1] Chuyển đổi số là bước phát triển tiếp theo của tin học hóa, có được nhờ sự tiến bộ vượt bậc của những công nghệ mới mang tính đột phá, nhất là công nghệ số trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.[2]

1.3. Chính phủ số

Chính phủ số là giai đoạn phát triển cao hơn của Chính phủ điện tử, phản ánh mức độ trưởng thành hơn về chuyển đổi số trong Chính phủ điện tử. Ở mức độ phát triển này, Chính phủ hoạt động, vận hành, ban hành chính sách, đưa ra quyết định  chỉ đạo điều hành và cung cấp các dịch vụ số một cách chủ động theo nhu cầu của người dân, doanh nghiệp, tối ưu dựa trên năng lực khai thác và phân tích dữ liệu, trú trọng tới cung cấp dịch vụ chất lượng, thiết kế và vận hành tổ chức tốt hơn; tối ưu hóa nguồn lực; kiến tạo phát triển và giải quyết những vấn đề lớn của quốc gia trong phát triển và quản lý kinh tế - xã hội.

1.4. So sánh tổng quan giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ số      

Khác biệt cốt lõi của Chính phủ số là sử dụng dữ liệu để ra quyết đinh, coi dữ liệu là một tài nguyên mới, đó là chuyển đổi về cách thức ra quyết định của cơ quan chính quyền dựa trên báo cáo bản giấy sang dữ liệu phân tích định lượng và tổng hợp từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau. Đó là sự kết nối và chia sẻ dữ liệu của các cơ quan nhà nước để người dân chỉ cần cung cấp thông tin 1 lần cho cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp có thể sử dụng dữ liệu này để cung cấp thêm các dịch vụ mới.[3]

Chính phủ điện tử sử dụng công nghệ thông tin – truyền thông để phát triển các phần mềm, hệ thống thông tin ứng dụng trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Chính phủ số sử dụng công nghệ số (gồm công nghệ thông tin – truyền thông và các công nghệ như trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, phân tích dữ liệu lớn,…) để xây dựng các nền tảng giúp phát triển nhanh, tối ưu hóa quy trình, dữ liệu để cung cấp các dịch vụ mới.

          Trong Chính phủ điện tử, cơ quan chính quyền cung cấp các dịch vụ trực tuyến, chẳng hạn như một công dân khi sinh ra thì có dịch vụ đăng ký khai sinh, khi đến tuổi trưởng thành thì chủ động đi đăng ký dịch vụ cấp thẻ căn cước công dân hay dịch vụ cấp hộ chiếu. Người dân phải thực hiện nhiều thủ tục hành chính, mỗi lần thực hiện lại phải điền dữ liệu từ đầu, mặc dù đã từng cung cấp trước đó. Còn trong Chính phủ số, khi dữ liệu được chia sẻ giữa các cơ quan khác nhau và trong trọn vẹn vòng đời, người dân chỉ cần cung cấp thông tin một lần cho một cơ quan nhà nước, khi sinh ra được cấp một mã định danh duy nhất, khi đến tuổi trưởng thành cơ quan nhà nước chủ động thông báo qua phương thức điện tử tới người dân để thực hiện làm thẻ căn cước công dân, thậm chí; trong quá trình trưởng thành từ khi sinh ra, sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp các dịch vụ chủ động tới người dân.

1.5. Phân biệt giữa số hóa, ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số

          Số hóa là việc tạo ra các thông tin đầu vào từ các thông tin thực (dưới các dạng cổ điển, quen thuộc hàng ngày, phổ biến dưới dạng thông tin tương tự (analog) sang dạng số (digital). Kết quả của số hóa là những đối tượng thực được chuyển sang đối tượng số dưới hình thức tệp tin. Số hóa cũng có thể được hiểu rộng hơn là quá trình tạo lập thông tin/dữ liệu số, có thể là thông qua việc chuyển đổi từ dạng vật lý sang dạng số hoặc đã là ở dạng số ngay từ khi được tạo ra.[4]

Ứng dụng công nghệ số là việc sử dụng các dữ liệu số để thực hiện công việc nhanh và tốt hơn. Ứng dụng công nghệ số được xem là một bước tiến của số hóa. Ứng dụng công nghệ số còn được gọi là “số hóa quá trình’, “số hóa tổ chức”, là cấp độ dùng các công nghệ số và dữ liệu đã được số hóa trước đó và sử dụng nó để tối ưu hóa hoạt động.[5]

Chuyển đổi số là việc sử dụng công nghệ số hay ứng dụng công nghệ số trên cơ sở các dữ liệu số hoặc dữ liệu đã được số hóa để thay đổi mô hình nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh nhằm tạo ra nhiều cơ hội và giá trị mới, cải thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động, tính cạnh tranh của tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp. Bốn công nghệ số nền tảng của chuyển đổi số là điện toán đám mây, dữ liệu lớn, internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo. Chuyển đổi số không phải là sự nâng cấp liên tục của công nghệ thông tin hay là số hóa quy trình, dữ liệu và thông tin.[6]

1.6. Các tiền đề để chuyển đổi số thành công[7]

          Thứ nhất, chuyển đổi nhận thức (nhận thức số). Nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số, muốn chuyển đổi số trước hết phải chuyển đổi nhận thức. Tham gia vào tiến trình chuyển đổi số, mỗi cán bộ, công chức, viên chức, người dân và doanh nghiệp cần cảm nhận, thấy rõ, nhận thức rõ về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của chuyển đổi số trước khi có hành động cụ thể để thực hiện.

          Thứ hai, phát triển hạ tầng số, nền tảng số. Tập trung phát triển hạ tầng số, nền tảng số là nhiệm vụ hàng đầu, là giải pháp đột phá thúc đẩy sự phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số. Các thành phần của hạ tầng số phục vụ chính phủ số liên quan và tác động lẫn nhau, như kết nối liên thông phải đi cùng chia sẻ dữ liệu và phải được bảo đảm bởi pháp luật. Công tác xây dựng hạ tầng số là việc cần kiên trì, sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân từ trung ương đến địa phương. Trong quá trình triển khai thực hiện chuyển đổi số ở các địa phương, hạ tầng số phải được xem là yếu tố nền tảng cần được quan tâm, ưu tiên đầu tư sớm đảm bảo sự đồng bộ, hiện đại. Kế hoạch xây dựng hạ tầng số phục vụ chuyển đổi số ở từng địa  phương phải trên cơ sở kế thừa, phát triển từ các nền tảng hạ tầng sẵn có; xác định rõ mục tiêu, ưu tiên bố trí nguồn lực để tập trung thực hiện đồng bộ nền tảng hạ tầng công nghệ thông tin trọng yếu.

          Thứ ba, xây dựng, phát triển dữ liệu số. Yếu tố quan trọng đầu tiên của bất kỳ quá trình chuyển đổi số nào chính là dữ liệu số. Nếu không có dữ liệu số, sẽ không thể xác định mô hình hoạt động số và tiến hành chuyển đổi số. Để công cuộc chuyển đổi số thành công, mỗi địa phương trong quá trình triển khai xây dựng dữ liệu phải có chiến lược cụ thể, phù hợp với chiến lược dữ liệu quốc gia, tuân thủ nguyên tắc thu thập dữ liệu một lần (once-only) nghĩa là, khi dữ liệu đã được cơ quan nhà nước thu thập, quản lý và chia sẻ thì cơ quan nhà nước sẽ không được yêu cầu người dân, doanh nghiệp cung cấp lại.

Thứ tư, phát triển ứng dụng số hóa (hoạt động số). Sự biểu hiện cụ thể của quá trình chuyển đổi số ở mỗi lĩnh vực chính là việc xác định mô hình chuyển đổi, lựa chọn các ứng dụng số (các phần mềm, dịch vụ CNTT, công cụ hỗ trợ…) để tổ chức hoạt số dựa trên các yếu tố hạ tầng số, nền tảng số, nguồn dữ liệu số, cơ sở pháp lý, đảm bảo an toàn, anh ninh thông tin, nguồn nhân lực…Việc phát triển ứng dụng số - hoạt động số cần được quan tâm triển khai thực hiện trên cả 3 trụ cột: Chính quyền số, kinh tế số và xã hội số. Trong đó, tập trung ưu tiên cho phát triển các ứng dụng số hóa trong hoạt động của chính quyền để đẩy nhanh tiến trình xây dựng Chính quyền điện tử hướng tới Chính quyền số ở các địa phương.

2. Khái quát lịch sử phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số, chuyển đổi số ở Việt Nam

2.1. Khái quát lịch sử phát triển

Chính phủ Việt Nam đã bắt tay xây dựng chính phủ điện tử ngay từ đầu những năm 2000, gắn với quá trình đổi mới thể chế và cải cách nền hành chính và đã có những kết quả nhất định trong việc xây dựng thể chế và triển khai.

          Từ năm 2003 đến năm 2005, đây là giai đoạn sơ khai đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào bộ máy quản lý của chính quyền, từng bước xây dựng chính phủ điện tử tại Việt Nam, giúp tăng cường sự tiếp cận của người dân vào quản lý của chính phủ.

          Năm 2006, Quốc hội ban hành Luật Công nghệ thông tin quy định cụ thể về nguyên tắc, điều kiện, nội dung ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước.

          Năm 2008, việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia và cải cách thủ tục hành chính theo hướng xây dựng dịch vụ công trực tuyến trở thành hướng phát triển chủ đạo.

          Năm 2009, sau khi được Hội đồng thẩm định đánh giá cao và nhất trí thông qua, Cồng thông tiện điện tử Chính phủ được triển khai.

          Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 48/2009/QĐ-TTg về “Ứng dụng công nghệ thông tin – truyền thông trong các cơ quan nhà nước giai đoạn 2009-2010” và tổng kết thực hiện Chỉ thị số 58/CT-TW của Bộ Chính trị. Kế hoạch quốc gia về “Ứng dụng công nghệ thông tin – truyền thông trong các cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015” với tổng đầu tư hơn 40 triệu USD vào 20 dự án quốc gia cũng được thông qua.[8]

          Năm 2015, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 36a/NQ-CP về Chính phủ điện tử. Trong đó, nhiệm vụ xây dựng hệ thống thông tin điện tử thông suốt, kết nối liên thông văn bản điện tử, dữ liệu điện tử Chính phủ điện tử đến cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã; 100% dịch vụ công được cung cấp trực tuyến; xây dựng Cổng dịch vụ công quốc gia tại địa chỉ duy nhất trên Internet là những nội dung trọng yếu.

          Từ năm 2018 đến nay, Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và cung cấp dịch vụ công trực tuyến, bảo đảm rút ngắn quy trình xử lý, giảm số lượng và đơn giản hóa, chuẩn hóa nội dung hồ sơ, giảm thời gian và chi phí thực hiện thủ tục hành chính; cải cách toàn diện cả ba nhóm chỉ số dịch vụ công trực tuyến (OSI), hạ tầng viễn thông (TII) và nguồn nhân lực (HCI).

          Nhìn nhận cốt lõi của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là chuyển đổi số kết hợp số hóa, kết nối, siêu kết nối và xử lý dữ liệu thông minh, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra nhiệm vụ cấp bách phải đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Ba đột phá chiến lược được đề cập trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam gồm hoàn thiện thể chế; phát triển nguồn nhân lực và xây dựng hạ tầng đều nhắc tới vai trò của chuyển đổi số.      

2.2. Định hướng xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, chuyển đổi số trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay 

Thứ nhất, dữ liệu mở và nền tảng đổi mới sáng tạo mở

Dữ liệu mở là nguồn tài liệu khai thác cần thiết cho quá trình phát triển thông qua các ứng dụng, nền tảng, phân tích dữ liệu lớn, và hệ thống Trí tuệ nhân tạo. Dữ liệu mở sẽ tăng cường tính minh bạch và niềm tin vào chính phủ Việt Nam, cũng như thúc đẩy đổi mới sáng tạo và cắt giảm chi phí cung cấp dịch vụ.

Thứ hai, tiếp tục hiện đại hóa các dịch vụ của chính phủ, xem xét việc sử dụng robot, mạng cảm biến và giải pháp trí tuệ nhân tạo cho các hệ thống và quy trình xử lý công việc

Thứ ba, khuyến khích khu vực công thí điểm các công nghệ mới. Các công chức nhà nước thường không muốn mạo hiểm thử nghiệm công nghệ mới. Nên khuyến khích và trao thưởng cho các thí điểm công nghệ mới được tiến hành hợp tác với khu vực tư.

Thứ tư, sử dụng dữ liệu để hoạch định chính sách. Chuyển đổi số phụ thuộc rất nhiều vào các hoạt động sử dụng dữ liệu. Dữ liệu sẵn có giúp tăng cường chất lượng quyết định chính sách, nâng cao hiệu quả và gia tăng lợi ích cho người dân.

Thứ năm, bảo đảm nguồn lực cho chuyển đổi số. Cần phải đảm bảo nguồn ngân sách nhà nước dành cho xây dựng chính phủ điện tử. Huy động, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực và chú trọng công tác truyền thông, nâng cao nhận thức của toàn xã hội trong xây dựng chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số và nền kinh tế số.

3. Khái niệm, vai trò, thách thức của chuyển đổi số trong xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật

3.1. Khái niệm chuyển đổi số trong xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật

Chuyển đổi số trong xây dựng, thi hành pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật được hiểu là quá trình cơ quan nhà nước sử dụng dữ liệu số, công nghệ số để đưa các hoạt động xây dựng pháp luật, quản lý thi hành pháp luật lên môi trường số và tối ưu hoạt động, tạo ra phương thức làm việc mới, từng bước mở dữ liệu, cung cấp dữ liệu mở, tăng cường minh bạch và sự tham gia của người dân vào hoạt động xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật.

          Kết quả của quá trình chuyển đổi số trong hoạt động xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật có khả năng thay đổi mối quan hệ giữa nhà nước với người dân, doanh nghiệp và giữa các cơ quan nhà nước. Ứng dụng công nghệ phục vụ mục tiêu cung cấp dịch vụ tốt cho người dân, cải thiện tương tác giữa nhà nước với doanh nghiệp trong quá trình xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật. Bên cạnh đó, trao quyền cho người dân, doanh nghiệp thông qua khả năng tiếp cận thông tin một cách tối ưu. Từ đó, lợi ích thu được là tăng cường thuận lợi, minh bạch, giảm tham nhũng, giảm chi phí, tăng hiệu quả quản lý nhà nước.

Từ khái niệm nêu trên, có thể thấy rằng, mô hình chuyển đổi số trong xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật được xoay quanh các mối quan hệ giữa ba trục chính, bao gồm: (1) Nhà nước với người dân (Government to Citizen – G2C); (2) Nhà nước với doanh nghiệp (Government to Bussiness – G2B); (3) Chính phủ với Chính phủ (Government to Government – G2G).

3.2. Vai trò chuyển đổi số trong xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật

Chuyển đổi số trong xây dựng pháp luật có thể thực hiện qua một hoạt động như[9]:

- Sử dụng sự hỗ trợ của công nghệ Dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT) trong quá trình thu thập thông tin, tài liệu, trao đổi thông tin, tài liệu; sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo để hỗ trợ quá trình đánh giá, phân tích chính sách, đánh giá tác động chính sách…

- Đồng thời, có thể áp dụng công nghệ thuận lợi hóa quá trình tiếp cận dự thảo văn bản QPPL đối với cá nhân, tổ chức; đồng thời áp dụng công nghệ để thu thập, phân tích những kiến nghị từ cá nhân, tổ chức nhằm tăng cường hiệu quả cho công tác lấy ý kiến góp ý văn bản QPPL;

- Bên cạnh những thách thức, cách mạng công nghiệp cũng đang tạo ra những tiện ích quan trọng để hỗ trợ cho công tác xây dựng pháp luật. Công nghệ mới có thể giúp kết nối nhanh chóng và hiệu quả các nhà lập pháp với công chúng. Ứng dụng của công nghệ như Internet of things, thực tiễn ảo (virtual reality), thực tiễn ảo tăng cường (augmented virtual reality) v.v. có thể cho phép quá trình tham vấn được thực hiện minh bạch, công khai và rộng rãi hơn. Người dân, doanh nghiệp, chuyên gia có thể tiếp cận dễ dàng hơn với quá trình làm luật. Ứng dụng công nghệ, chẳng hạn như Big Data, AI, có thể giúp phân hoá các vấn đề và đối tượng lấy ý kiến, từ đó người được tham vấn có thể dễ dàng nhận ra những vấn đề gì tác động trực tiếp tới họ để dành sự quan tâm cũng như có ý kiến về vấn đề đó. Các công cụ này cũng có thể giúp phân tích kết quả lấy ý kiến, giúp cho việc sử dụng kết quả lấy ý kiến được nhanh chóng, hiệu quả và loại dần các yếu tố chủ quan trong việc phân tích các ý kiến tham gia…

3.3. Thách thức của chuyển đổi số trong xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật tại Bộ Tư pháp

          Thách thức thứ nhất là hạ tầng số. Để chuyển đổi số thành công, cần xây dựng hạ tầng số với cơ sở dữ liệu quốc gia, bao gồm hạ tầng thiết bị, truyền thông, hạ tầng dữ liệu, ứng dụng và không thể thiếu hạ tầng nghiên cứu phát triển. Trong đó, việc quan trọng nhất là kết nối cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành, địa phương.

Thách thức thứ hai là các rào cản kỹ thuật.

Thách thức thứ ba là mối quan tâm về quyền riêng tư và bảo mật dữ liệu. Việc số hóa các thông tin pháp lý nhạy cảm làm tăng đáng kể các mối lo ngại về quyền riêng tư và bảo mật.

Thách thức thứ tư là chi phí và nguồn lực. Việc triển khai một hệ thống kỹ thuật số có thể tốn kém và có thể cần khoản đầu tư đáng kể vào công nghệ, đào tạo và nhân sự.

Thách thức thứ năm là nguồn nhân lực.

 

Thách thức thứ sáu là thể chế và khung pháp lý cho chuyển đổi số trong hoạt động xây dựng pháp luật và quản lý nhà nước về thi hành pháp luật còn chưa hoàn thiện.

Thách thức thứ bảy là khả năng thúc đẩy sự thay đổi của các nhà lãnh đạo, quản lý các cấp trong tổ chức.

4. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số

4.1. Kinh nghiệm xây dựng chính phủ số của Úc

Năm 2016, chính phủ liên bang đã thành lập một cơ quan mới để quản lý các chương trình nghị sự kỹ thuật số và ICT của chính phủ: Cơ quan Chuyển đổi Kỹ thuật số. Cơ quan này nhằm mục đích tích hợp phân phối kỹ thuật số trên toàn chính phủ liên bang và cũng tăng cường tính minh bạch của các dự án ICT và kỹ thuật số của chính phủ.

Các tiểu bang và hội đồng địa phương cũng cung cấp một loạt các dịch vụ trực tuyến. Hơn 1,5 triệu tài khoản đã đăng ký giao dịch tại Chính phủ New South Wales, nơi cung cấp dịch vụ đăng nhập một lần để truy cập an toàn vào các giao dịch của chính phủ.[10]

Chính phủ Úc cũng đang thực hiện một chương trình công nhận thí điểm, theo đó các doanh nghiệp khu vực tư nhân có thể nộp đơn xin được công nhận theo Khung nhận dạng kỹ thuật số đáng tin cậy (Trusted Digital Identity Framework - TDIF)[11] để kiểm tra sự sẵn sàng cho việc sử dụng nó được mở rộng ra ngoài chính phủ.

4.2. Kinh nghiệm xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số của Hàn Quốc

          - Giai đoạn sơ khai - Tin học hóa Chính phủ (1967-1986)[12]

          - Giai đoạn hình thành nền tảng (1987-1996)

          - Giai đoạn hoàn thiện Chính phủ điện tử (1997-2010)

          - Giai đoạn nâng cấp, hướng tới Chính phủ số (2010-đến nay): Giai đoạn này, Chính phủ Hàn Quốc tiếp tục ứng dụng các công nghệ tiên tiến vào chính phủ điện tử, hướng tới xây dựng chính phủ điện tử thông minh, với mục tiêu lấy người dân là trung tâm.

4.3. Kinh nghiệm chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật của Hàn Quốc

Hệ thống hỗ trợ công tác lập pháp của Chính phủ Hàn Quốc là một hệ thống thống nhất bao gồm 3 thành tố chính: (i) Hệ thống lập pháp quốc gia; (ii) Trung tâm lập pháp có sự tham gia của người dân; và (iii) Phần mềm biên tập dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Hệ thống hỗ trợ công tác lập pháp được thể hiện dưới dạng một cổng thông tin pháp lý tích hợp toàn bộ vòng đời của luật vào một hệ thống phần mềm duy nhất, hỗ trợ soạn thảo, thẩm định dự án luật trước khi công bố và ban hành luật.[13] Bên cạnh đó, để 3 thành tố này hoạt động thuận lợi, cần sự hỗ trợ cung cấp dữ liệu từ Trung tâm thông tin pháp luật Hàn Quốc. Trung tâm thông tin pháp luật và hệ thống hỗ trợ công tác lập pháp đều được vận hành và quản lý bởi Bộ Lập pháp Hàn Quốc.

4.4. Kinh nghiệm của Vương quốc Anh trong xây dựng chính phủ số

          Gov.uk là trang web chính của Chính phủ, cho phép người dùng tương tác với Chính phủ và tìm các dịch vụ, hướng dẫn và tin tức từ tất cả các cơ quan thuộc Chính phủ. Có hơn 400.000 nội dung khác nhau trên Gov.uk, 700 nội dung được xuất bản mỗi tuần trên website Gov.uk. Lượng nội dung này và tỷ lệ xuất bản cao dẫn đến nội dung trùng lặp và khiến người sử dụng khó tìm kiếm thông tin.[14]

4.5. Một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình chuyển đổi số chính phủ và chuyển đổi số trong xây dựng pháp luật và quản lý thi hành pháp luật

          Thứ nhất, chuyển đổi số trong công tác xây dựng pháp luật nói riêng không chỉ là tăng cường tự động hóa các hoạt động chuyên môn của cơ quan nhà nước hay thuận lợi hóa quá trình xây dựng pháp luật để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của khu vực công mà mục tiêu cuối cùng đó là lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, hướng tới kết nối tốt hơn với người dân, tăng cường minh bạch, thúc đẩy sự tham gia của người dân, cộng đồng vào quá trình quản lý nhà nước cũng như xây dựng pháp luật.

          Thứ hai, chuyển đổi số nói chung và chuyển đổi số trong hoạt động xây dựng pháp luật, quản lý thi hành pháp luật là một quá trình lâu dài, cần nhiều thời gian và công sức cũng như cần có chiến lược cho từng giai đoạn cũng như kế hoạch cụ thể cho từng nhiệm vụ.

          Thứ ba, để chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật thành công cần có sự đầu tư nguồn lực thường xuyên và dài hạn.

          Thứ tư, đối với Việt Nam, chuyển đổi số trong hoạt động xây dựng pháp luật và quản lý nhà nước về thi hành pháp luật trong tương lai gần có thể được thực hiện ở Bộ Tư pháp, tuy nhiên, về lâu dài cần được thực hiện đồng bộ, ở tất cả các cơ quan trung ương cũng như địa phương với quyết tâm lớn của lãnh đạo cũng như thay đổi tư duy, phương thức làm việc của mỗi cán bộ, công chức.

          Thứ năm, quá trình chuyển đổi số trong hoạt động xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật ở Bộ Tư pháp cần được diễn ra song hành với quá trình xây dựng xã hội số.

          Thứ sáu, bên cạnh đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ chuyển đổi số là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu. Các văn bản quy phạm pháp luật cần được cập nhật đầy đủ, thống nhất, chuẩn hóa về định dạng, phù hợp với thông lệ quốc tế về lưu trữ, phân tích, kết nối, lưu chuyển, tiếp cận và khai thác sử dụng thông tin, từ đó tạo cơ sở triển khai các giai đoạn tiếp theo.

 

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG LĨNH VỰC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI HÀNH PHÁP LUẬT TẠI BỘ TƯ PHÁP

1. Đánh giá khái quát thực trạng chuyển đổi số quy trình xây dựng pháp luật và quản lý nhà nước về thi hành pháp luật tại Bộ Tư pháp

 

Số hóa thông tin riêng lẻ thông qua các phần mềm soạn thảo đơn giản

Ứng dụng công nghệ thông tin số hóa quy trình (Sử dụng chuyên trang/phần mềm chuyên biệt để số hóa quy trình)

Chuyển đổi số (Liên thông các cơ sở dữ liệu, sử dụng nền tảng chung, ứng dụng điện toán đám mây, dữ liệu lớn, internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo)

Xây dựng nội dung chính sách

x

 

 

Tổ chức đánh giá tác động chính sách

x

 

 

Lập hồ sơ đề nghị xây dựng văn bản

x

 

 

Tổ chức lấy ý kiến/tham vấn về đề nghị xây dựng văn bản

x

 

 

Tổ chức thẩm định đề nghị xây dựng văn bản

x

 

 

Hoàn thiện hồ sơ và trình cơ quan có thẩm quyền thông qua đề nghị xây dựng văn bản

x

 

 

Tổ chức soạn thảo dự án, dự thảo văn bản

x

 

 

Lập hồ sơ dự án, dự thảo văn bản

x

 

 

Tổ chức lấy ý kiến tham vấn về dự án, dự thảo

 

x

(Trang thông tin lấy ý kiến dự thảo VBQPPL)

 

Tổ chức thẩm định dự án, dự thảo

x

 

 

Trình thông qua dự án, dự thảo văn bản cấp Chính phủ

x

 

 

Bảng 1: Tình hình chuyển đổi số trong quy trình xây dựng pháp luật tại Bộ Tư pháp

 

Ứng dụng công nghệ thông tin riêng lẻ thông qua các phần mềm soạn thảo đơn giản

Sử dụng phần mềm chuyên biệt để xử lý

Liên thông các cơ sở dữ liệu, sử dụng nền tảng chung để xử lý

Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc soạn thảo văn bản quy định chi tiết

x

 

 

Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật

 

x

(Phần mềm hỗ trợ kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản)

 

Pháp điển hóa văn bản QPPL

 

x

(Phần mềm hỗ trợ Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật)

 

Phổ biến, giáo dục pháp luật

 

x

(Cổng Thông tin điện tử về phổ biến giáo dục, pháp luật)

 

Quản lý xử lý vi phạm hành chính

x

 

 

Theo dõi thi hành văn bản QPPL

x

 

 

Bảng 2: Các quy trình liên quan đến quản lý nhà nước về thi hành pháp luật thuộc chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp và tình hình chuyển đổi số ở Bộ Tư pháp hiện nay

2. Thực trạng chi tiết về chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật của Bộ Tư pháp

2.1. Thực trạng hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhu cầu chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý thi hành pháp luật của Bộ Tư pháp

2.1.1. Hạ tầng kỹ thuật phục vụ chuyển đổi số đã được trang bị, đầu tư trong giai đoạn trước tuy nhiên hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu

Hạ tầng kỹ thuật của Bộ Tư pháp được triển khai tập trung, thống nhất tại Trung tâm dữ liệu điện tử của Bộ, từng bước đáp ứng yêu cầu triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin trên phạm vi toàn quốc. Nhằm đảm bảo hạ tầng tối thiểu phục vụ triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin trong Bộ, ngành, trong giai đoạn 2016-2020, Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm Dữ liệu điện tử của Bộ.[15]

Hệ thống mạng tại Trung tâm dữ liệu điện tử Bộ Tư pháp được trang bị đầy đủ các thành phần trong mô hình mạng. Thiết bị chuyển mạch trung tâm sử dụng các cổng kết nối quang tốc độ cao 10Gb để kết nối đến hệ thống máy chủ ảo hoá; hệ thống máy chủ cơ sở dữ liệu và các thiết bị quan trọng trong hệ thống. Tuy nhiên hiện tại đã sử dụng hết, không còn khả năng cung cấp thêm cổng kết nối cho các hệ thống sẽ đầu tư và nâng cấp trong giai đoạn 2021-2025.

* Hệ thống máy chủ

Hệ thống máy chủ tại Trung tâm dữ liệu điện tử Bộ Tư pháp đã từng bước được trang bị bổ sung, ứng dụng các công nghệ ảo hóa máy chủ với các máy chủ có cấu hình và hiệu năng xử lý tốt nhằm tăng cường năng lực xử lý thông tin đảm bảo cho Trung tâm dữ liệu điện tử Bộ Tư pháp đáp ứng các yêu cầu bức thiết trong việc duy trì hoạt động cho các hệ thống thông tin, phần mềm ứng dụng, các cơ sở dữ liệu quốc gia/chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý của Bộ.

* Hệ thống lưu trữ

Hệ thống thiết bị lưu trữ phục vụ lưu trữ máy chủ ảo hoá và hệ thống sao lưu backup bao gồm:

  •  Hệ thống thiết bị lưu trữ SAN:

  •  Hệ thống thiết bị lưu trữ NAT:.

  •  Hệ thống kết nối SAN Switch:

- Hệ thống lưu trữ SAN: Gồm 4 tủ đĩa lưu trữ được trang bị các năm 2013, 2014, 2017 và 2020 với dung lượng lưu trữ khoảng 88 TB

- Hệ thống sao lưu: 01 thiết bị được đầu tư năm 2015 với dung lượng 12 TB hiện đang sử dụng sao lưu backup và cấp kho lưu trữ cho một số ứng dụng.

          Với hiện trạng hệ thông lưu trữ hiện nay đã sử dụng trên 80% tài nguyên và một số thiết bị đã hết khấu hao. Do vậy để phục vụ chuyển đổi số trong giai đoạn 2022-2025 nếu không được đầu tư sẽ không đáp ứng được nhu cầu sử dụng.

* Sơ đồ kết nối hệ thống mạng

- Đường truyền Internet Leased Line gồm 02 đường truyền với tốc độ hiện tại là:

+ 01 Đường truyền chính có tốc độ 600 Mbps trong nước và 10 Mbps quốc tế (01 đường dự phòng có thông số kỹ thuật tương đương).

+ 01 Đường truyền dự phòng có tốc độ 400 Mbps trong nước và 5 Mbps quốc tế (01 đường dự phòng có thông số kỹ thuật tương đương).

  - Hệ thống thiết bị mạng bao gồm thiết bị cân bằng tải Loadbalancer, Switch core, Switch access, Hệ thống Cable, Conveter…  và hệ thống thông tin liên lạc của Bộ.

- Kết nối mạng truyền dữ liệu số chuyên dùng, đường truyền kết nối Bộ tài chính

- Hệ thống mạng nội bộ (LAN) kết nối các tòa nhà tại trụ sở Bộ, với hơn 800 máy trạm (PC).

2.1.2. Hệ thống đảm bảo an toàn thông tin về cơ bản đáp ứng nhu cầu bảo mật, an toàn, an ninh mạng

Bên cạnh việc nâng cấp phát triển hạ tầng, hệ thống trang thiết bị bảo mật đã từng bước được đầu tư để đảm bảo hệ thống mạng hoạt động thông suốt, đảm bảo an toàn an ninh thông tin cho các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia, phần mềm ứng dụng chuyên ngành triển khai trên diện rộng qua môi trường mạng Internet.

2.1.3. Về Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật đã được xây dựng, cập nhật, tuy nhiên nội dung cập nhật còn chưa thống nhất

Bộ Tư pháp đã xây dựng và đưa Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật pháp luật vào hoạt động chính thức tại địa chỉ http://vbpl.vn đáp ứng khả năng kết nối, tích hợp dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật của Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, phần mềm hỗ trợ pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật. Bộ Tư pháp thường xuyên đôn đốc các Bộ, ngành, tỉnh, thành phố trong việc rà soát, cập nhật dữ liệu trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật theo quy định tại Nghị định số 52/2015/NĐ-CP.

Hiện nay, cơ sở dữ liệu hiện nay do nhiều chủ thể có thẩm quyền rà soát, cập nhật, vì vậy dẫn đến quá trình cập nhật văn bản QPPL chưa được thực hiện thống nhất, định dạng văn bản còn khác nhau, dẫn đến khó khăn cho quá trình liên kết, tra cứu giữa cơ sở dữ liệu và một số phần mềm khác của Bộ Tư pháp đang quản lý liên quan đến hoạt động xây dưng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật.

2.1.4. Các nền tảng số kết nối, liên thông chia sẻ dữ liệu đã được Bộ Tư pháp tích cực triển khai

2.1.4.1. Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp bộ[16]

Bộ Tư pháp đã triển khai các giải pháp về hạ tầng, kỹ thuật phục vụ kết nối liên thông một cách hiệu quả giữa Hệ thống quản lý văn bản và điều hành của Bộ Tư pháp với Trục liên thông văn bản Quốc gia; xây dựng, nâng cấp và áp dụng thống nhất một Hệ thống quản lý văn bản và điều hành đáp ứng các yêu cầu được quy định tại Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg ngày 12/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc gửi.

Từ tháng 11/2019, Hệ thống LGSP của Bộ Tư pháp đã được triển khai kết nối với Hệ thống kết nối liên thông các hệ thống thông tin ở Trung ương và địa phương (Hệ thống NGSP) để thực hiện việc kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu với các Bộ, ngành, địa phương đối với các dữ liệu có yêu cầu kết nối theo quy định. Đến nay, các hệ thống thông tin lớn của Ngành Tư pháp như hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch, hệ thống phần mềm lý lịch tư pháp (LLTP), cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật đều đã được kết nối, liên thông qua hệ thống LGSP và NGSP.

Trong năm 2020, nền tảng kết nối, chia sẻ dùng chung của Bộ đã thực hiện kết nối tới các hệ thống:

- Kết nối với Phần mềm quản lý LLTP để nhận hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP, nhận tình trạng xử lý hồ sơ;

- Kết nối với Hệ thống đăng ký trực tuyến để nhận hồ sơ đăng ký trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm, nhận tình trạng xử lý hồ sơ;

- Kết nối với Cổng dịch vụ công Bộ Tư pháp để gửi hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP, hồ sơ đăng ký trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm, tình trạng xử lý hồ sơ đã tiếp nhận từ các hệ thống chuyên ngành lên Cổng dịch vụ công của Bộ;

- Kết nối với Hệ thống Một cửa điện tử Bộ Tư pháp để nhận hồ sơ tiếp nhận, trạng thái hồ sơ được cập nhật vào Hệ thống Một cửa điện tử của Bộ;

- Kết nối với Cổng dịch vụ công Quốc gia để gửi hồ sơ đã tiếp nhận từ Hệ thống Một cửa điện tử Bộ Tư pháp, Phần mềm quản lý LLTP, Hệ thống đăng ký trực tuyến lên Cổng Dịch vụ công Quốc gia.

2.1.4.2. Phần mềm quản lý văn bản và điều hành

          Năm 2019, Bộ Tư pháp đã nâng cấp Phần mềm quản lý văn bản và điều hành đáp ứng các yêu cầu tại Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg ngày 12/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước và Quy chuẩn số 102:2016/BTTTT về cấu trúc mã định danh và định dạng dữ liệu gói tin phục vụ kết nối các hệ thống văn bản quản lý và điều hành. Hệ thống quản lý văn bản và điều hành của Bộ cũng đã thực hiện liên thông, kết nối với Trục liên thông văn bản quốc gia.

Bộ Tư pháp đã triển khai phần mềm quản lý văn bản và điều hành cho tất cả các đơn vị thuộc Bộ và cơ quan thi hành án dân sự địa phương (Phiên bản Mobile được triển khai trong năm 2021). Bộ đang duy trì việc kết nối Phần mềm Quản lý văn bản và điều hành với Trục liên thông văn bản Quốc gia đáp ứng các yêu cầu gửi/nhận văn bản, đồng thời tích hợp việc ký số văn bản điện tử theo quy định của Ban Cơ yếu Chính phủ; thực hiện cập nhật đầy đủ danh mục mã định danh từ Trục liên thông văn bản Quốc gia.

2.2. Thực trạng các Trang thông tin/phần mềm hiện hành phục vụ xây dựng pháp luật và quản lý nhà nước về thi hành pháp luật tại Bộ Tư pháp

2.2.1. Thực trạng trang thông tin lấy ý kiến dự thảo văn bản QPPL

Nhằm triển khai lấy ý kiến nhân dân và các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản và các cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định tại Điều 120 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp đã xây dựng Trang thông tin Lấy ý kiến dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Trang thông tin cung cấp công cụ để đăng tải hồ sơ dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, cung cấp công cụ để lấy ý kiến nhân dân về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tư pháp và công khai các ý kiến tiếp thu giải trình của Ban soạn thảo.

Thực tế cho thấy việc ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam nói chung và Bộ Tư pháp nói riêng còn hết sức hạn chế. Việc xây dựng chính sách, soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu được thực hiện bằng các phương pháp thủ công, không bảo đảm sự chính xác cao.

2.2.2. Thực trạng các phần mềm hỗ trợ kiểm tra, rà soát, pháp điển văn bản

2.2.2.1. Phần mềm hỗ trợ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật

Bộ Tư pháp xây dựng và đưa vào sử dụng Phần mềm hỗ trợ kiểm tra văn bản QPPL. Việc sử dụng Phần mềm hỗ trợ kiểm tra văn bản sẽ giúp cán bộ thực hiện kiểm tra văn bản và lưu trữ hồ sơ, thống kê, báo cáo về kết quả của công tác này được tiến chóng, thuận tiện và chính xác hơn.

Phần mềm hỗ trợ công tác kiểm tra văn bản đã tin học hóa một số khâu đoạn trong công tác kiểm tra văn bản như sau:

(1) Tự kiểm tra:

- Thu thập văn bản

- Phân công văn bản

- Kiểm tra văn bản:

+ Kiểm tra căn cứ ban hành của văn bản cần kiểm tra.

+ Kiểm tra thẩm quyền ban hành của văn bản cần kiểm tra.

+ Kiểm tra nội dung của văn bản cần kiểm tra.

+ Kiểm tra thể thức của văn bản cần kiểm tra: Tính năng này tự động kiểm tra, phát hiện lỗi sai về thể thức của văn bản. Tức là văn bản đó không đúng với quy định về các thể thức văn bản QPPL theo Luật ban hành văn bản QPPL.

+ Kiểm tra hiệu lực của văn bản.

- Tạo phiếu kiểm tra văn bản đối với văn bản có sai phạm về: căn cứ, thẩm quyền, nội dung, thể thức, hiệu lực.

- Tạo lập Hồ sơ kiểm tra.

- Sổ theo dõi kết quả kiểm tra.

(2) Đối với việc kiểm tra theo thẩm quyền: Phần mềm tạo chức năng kiểm tra theo thẩm quyền riêng để giúp việc theo dõi, quản lý được tách bạch, khoa học. Về các tính năng thì cơ bản giống với các tính năng của phần tự kiểm tra nêu trên.

2.2.2.2. Phần mềm hỗ trợ rà soát văn bản quy phạm pháp luật

Bộ Tư pháp xây dựng và đưa vào sử dụng Phần mềm hỗ trợ rà soát văn bản QPPL. Việc sử dụng Phần mềm hỗ trợ rà soát văn bản sẽ giúp cán bộ thực hiện rà soát văn bản và lưu trữ hồ sơ, thống kê, báo cáo về kết quả của công tác này được tiến chóng, thuận tiện và chính xác hơn. Phần mền hỗ trợ công tác rà soát văn bản đã tin học hóa một số khâu đoạn trong công tác rà soát như sau:

- Thu thập văn bản.

- Phân công rà soát văn bản cho phép phân công văn bản cần rà soát đã được thu thập cho các cá nhân/đơn vị thực hiện rà soát văn bản.

- Rà soát theo văn bản QPPL:

+ Rà soát căn cứ

+ Rà soát hiệu lực

+ Rà soát thẩm quyền

+ Rà soát nội dung

- Tạo phiếu rà soát theo văn bản QPPL.

2.2.2.3. Phần mềm hỗ trợ công tác pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật

Bộ Tư pháp xây dựng và đưa vào sử dụng Phần mềm pháp điển hệ thống QPPL. Phần mềm hỗ trợ pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật được Bộ Tư pháp xây dựng và triển khai tại tất cả các đơn vị có liên quan bao gồm 27/27 Bộ, Ngành tham gia với 210 tài khoản. Phần mềm đã hỗ trợ các đơn vị thực hiện công tác pháp điển theo Quyết định số 1267/QĐ-TTg ngày 29/7/2014 và Quyết định số 891/QĐ-TTg ngày 17/7/2019  của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng Bộ pháp điển. Đến nay, phần mềm đã hỗ trợ thực hiện pháp điển 252/271 đề mục (đạt tỷ lệ 93% khối lượng của Bộ pháp điển). Bộ pháp điển về cơ bản đã hoàn thành và chuyển sang giai đoạn mới đi vào khai thác, sử dụng và tiếp tục duy trì, hoàn thiện.

Những hạn chế, tồn tại:

Phần lớn thông tin, số liệu, tình hình về công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật vẫn được tổng hợp, cập nhật thủ công, việc liên kết các nội dung, dữ liệu có cùng lĩnh vực, cùng nhóm quan hệ xã hội điều chỉnh còn hạn chế, không có sự liên kết. Trong thực tiễn, còn tồn tại nhiều văn bản có chứa quy phạm pháp luật do địa phương ban hành bằng hình thức không đúng với hình thức do Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định (ví dụ: ban hành dưới hình thức thông báo, công văn…). Do các văn bản về mặt hình thức không phải là văn bản quy phạm pháp luật nên sẽ không được cập nhật trên Cơ sở dữ liệu về văn bản pháp luật, nên người làm công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật sẽ gặp khó khăn thu thập, rà soát văn bản.

Cơ sở dữ liệu còn nhiều hạn chế về nội dung và hạ tầng kỹ thuật, chưa được cập nhật đầy đủ, chính xác văn bản quy phạm pháp luật và tình trạng hiệu lực của văn bản đã được ban hành, do đó chưa phát huy hiệu quả trong công tác kiểm tra văn bản, gây trở ngại cho việc tiếp cận văn bản quy phạm pháp luật khi thực hiện công tác kiểm tra văn bản. Văn bản trên cơ sở dữ liệu còn tồn tại ở nhiều định dạng khác nhau nên chưa đáp ứng hiệu quả trong công tác kiểm tra, rà soát văn bản.

2.2.3. Thực trạng hoạt động của Trang/Cổng thông tin phổ biến, giáo dục pháp luật quốc gia

Năm 2021, Bộ Tư pháp đã xây dựng và thiết lập Cổng Thông tin điện tử về phổ biến giáo dục, pháp luật tại Trung tâm tích hợp dữ liệu - Bộ Tư pháp và đưa ra internet tại địa chỉ https://pbgdpl.gov.vn.

Bộ Tư pháp đã tổ chức lấy ý kiến Văn phòng Chính phủ, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ về Cổng Thông tin điện tử quốc gia về Phổ biến giáo dục, pháp luật và App "Vietnam Laws".

Hiện nay, Bộ Tư pháp đã xây dựng xong Cổng Thông tin điện tử PBGDPL quốc gia và vận hành thử nghiệm từ tháng 1/2022.[17] Cổng Thông tin PBGDPL quốc gia được Bộ Tư pháp xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu về chuyển đổi số trong công tác PBGDPL theo định hướng lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ, bảo đảm tính tương tác, gắn kết giữa cơ quan quản lý nhà nước với người dân, doanh nghiệp.

Để phục vụ việc xây dựng nội dung cho Cổng Thông tin điện tử PBGDPL quốc gia, Bộ Tư pháp xúc tiến xây dựng dữ liệu hỏi - đáp pháp luật phục vụ xây dựng ứng dụng (App) về PBGDPL trên thiết bị di động trên cơ sở tổng hợp các tình huống hỏi – đáp về một số lĩnh vực pháp luật được nhiều người quan tâm như hôn nhân – gia đình, phòng, chống tệ nạn xã hội, xử phạt vi phạm hành chính….

Một số tồn tại, hạn chế:

- Cổng thông tin điện tử đang trong quá trình thử nghiệm, chưa được đưa vào chính thức sử dụng. Do được nâng cấp từ Trang Thông tin điện tử phố biến, giáo dục pháp luật nên các ứng dụng cũ không còn đáp ứng được nhu cầu, ví dụ: Phần mềm thi trực tuyến, Đào tạo trực tuyến, khảo sát trực tuyến…); Một số hạng mục mới chưa hoàn thiện, chưa thể sử dụng.

- Cổng Thông tin điện tử PBGDPL quốc gia dù đã được xây dựng và vận hành thử nghiệm nhưng cấu trúc dữ liệu thông tin về PBGDPL để xây dựng dữ liệu dùng chung chưa được hoàn thiện; vấn đề kết nối, chia sẻ dữ liệu chưa được thực hiện thường xuyên, rộng khắp; nền tảng số hóa công tác PBGDPL chưa được phát triển. Cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin của Bộ Tư pháp cũng như nhiều bộ, ngành, địa phương còn hạn chế, chưa được đầu tư đúng mức.

- Hiện nay, hình thức tương tác chủ yếu của Trang thông tin và Công thông tin điện tử về phổ biến, giáo dục pháp luật chủ yếu vẫn là hình thức tương tác một chiều. Chủ yếu các nội dung thông tin được cơ quan nhà nước lựa chọn và cung cấp trên Cổng thông tin, chưa xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của người dân. Nội dung phổ biến, giáo dục PL còn nặng về cung cấp tin tức, trùng lặp; chưa hình thành theo chủ đề… nên chưa thu hút được người dân truy cập, tìm hiểu thông tin pháp luật.

- Chưa phát triển được các ứng dụng phụ trợ (app mobile về phổ biến, giáo dục pháp luật; sử dụng các nền tảng mạng xã hội để cung cấp thông tin pháp luật…) để gia tăng phục vụ nhu cầu của người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận thông tin pháp luật.

2.3. Thực trạng chuyển đổi số trong công tác quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật của Bộ Tư pháp

Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật đang bắt đầu triển khai xây dựng Hệ thống CSDLQG về XLVPHC với định hướng quy mô bao gồm:

(i) Hệ thống phần mềm nền tảng, phần mềm nội bộ phục vụ xây dựng CSDLQG về XLVPHC, tác nghiệp, quản lý và tích hợp, chia sẻ dữ liệu

Hệ thống phần mềm phục vụ tác nghiệp cho người dùng là cán bộ làm công tác XLVPHC trên phạm vi dự án, bảo đảm các vấn đề sau:

- Hệ thống đáp ứng đầy đủ các yêu cầu nghiệp vụ cần thiết của CSDLQG về XLVPHC, đáp ứng số lượng người sử dụng lớn (trên phạm vi dự án và có khả năng mở rộng sau này) trong việc tạo lập, cập nhật, hiệu chỉnh, quản lý CSDLQG về XLVPHC.

- Hệ thống được xây dựng và triển khai theo mô hình tập trung (cơ sở dữ liệu tập trung và một hệ thống phần mềm dùng chung), được mọi đối tượng người dùng khai thác, sử dụng qua Internet.

- Hệ thống được tích hợp với các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (thông qua nền tảng tích hợp của Bộ Tư pháp) để có được các thông tin nhân thân về công dân bị XLVPHC.

- Hệ thống có các giao diện lập trình ứng dụng (API-Application Programming Interface) được cung cấp riêng theo chuẩn mở để các hệ thống chuyên ngành khác của Bộ Tư pháp, các thành phố trực thuộc Trung ương và các Sở tư pháp có thể tích hợp và được chia sẻ khai thác thông tin về XLVPHC phù hợp. Các API này sẽ tích hợp đến các hệ thống có yêu cầu thông qua trục tích hợp của Bộ Tư pháp. Các khối phần mềm trong CSDLQG về XLVPHC cũng được tích hợp với nhau qua trục tích hợp nhằm đảm bảo dễ dàng mở rộng sau này.

- Hồ sơ quyết định XLVPHC đối với các vụ việc đã hết thời hạn theo dõi có thể kết xuất sang vùng dữ liệu riêng và có thể cho phép xóa khi cần.

- Hệ thống sử dụng các công nghệ về phần mềm mới nhất, có các giao diện phục vụ khai thác sử dụng thân thiện và phù hợp, ứng dụng công nghệ phân tích dữ liệu lớn, đáp ứng các nhu cầu về chia sẻ dữ liệu, tổng hợp, phân tích, báo cáo.

(ii) Đào tạo người dùng

Thực hiện đào tạo cho người dùng vận hành và sử dụng hệ thống:

- Đào tạo cho cán bộ quản trị tại Bộ tư pháp vận hành hệ thống

- Đào tạo cho cán bộ nghiệp vụ sử dụng phần mềm theo phạm vi dự án (các đơn vị trong phạm vi dự án cử cán bộ nghiệp vụ đại diện cho các lĩnh vực tham gia).

(iii) Triển khai và tích hợp hệ thống

Thực hiện triển khai hệ thống tại các đơn vị thụ hưởng, tích hợp và đồng bộ dữ liệu hệ thống CSDLQG về XLVPHC với các hệ thống chuyên ngành tại các đơn vị (nếu có).      

3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập của quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật tại Bộ Tư pháp

  Thứ nhất, quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật tại Bộ Tư pháp chưa có các định hướng cụ thể với tầm nhìn dài hạn. Quá trình tạo lập hồ sơ công việc, xử lý công việc liên quan đến xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật thì vẫn thực hiện thủ công, chưa có sự hỗ trợ của một phần mềm cung cấp các tiện ích chuyên biệt về nghiệp vụ về xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật.

Thứ hai, các hệ thống, ứng dụng CNTT tại Bộ Tư pháp được xây dựng, triển khai, nhưng rời rạc, thiếu kết nối; sử dụng tài nguyên chưa hiệu quả, còn trùng lặp. Việc khai thác, sử dụng các phần mềm, ứng dụng liên quan đến quá trình xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật tại Bộ Tư pháp chưa hiệu quả.

          Thứ ba, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ chuyển đổi số tại Bộ Tư pháp còn chưa đảm bảo đáp ứng yêu cầu đặt ra. Thực tế, trong giai đoạn 2011-2020, Bộ Tư pháp chưa có dự án đầu tư tổng thể về hạ tầng kỹ thuật và an toàn thông tin. Việc đầu tư hạ tầng chỉ được thực hiện lồng ghép trong các dự án khác hoặc sử dụng nguồn kinh phí chi thường xuyên còn rất hạn chế. Do đó, hạ tầng công nghệ thông tin của Bộ không đáp ứng được yêu cầu phát triển chính phủ điện tử, yêu cầu chuyển đổi số của ngành Tư pháp.

          Thứ tư, số lượng nguồn nhân lực phục vụ chuyển đổi số của Bộ Tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu. Đội ngũ này chủ yếu bao gồm các công chức của Cục Công nghệ thông tin. Đây là đơn vị chuyên trách về công nghệ thông tin thuộc Bộ Tư pháp.

          Thứ năm, nhận thức, kỹ năng, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức Bộ Tư pháp còn hạn chế. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực phục vụ chuyển đổi số nói chung và chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật tại Bộ Tư pháp chưa tương xứng với các yêu cầu cũng như lộ trình Bộ Tư pháp đề ra trong các Kế hoạch chuyển đổi số của Bộ, ngành.

Thứ sáu, huy động kinh phí phục vụ xây dựng các phần cứng, phần mềm, bảo đảm nguồn nhân lực phục vụ chuyển đổi số tại Bộ Tư pháp còn gặp nhiều khó khăn. Do không có điều kiện đầu tư tổng thể nên đa phần các dự án đầu tư xây dựng, nâng cấp các phần mềm diễn ra cắt khúc, manh mún, dàn trải. Điều này dẫn đến thiếu tính đồng bộ, liên kết giữa các đơn vị trong quá trình thực hiện chuyển đổi số, từ đó dẫn tới hầu hết các phần mềm hiện hành đang phục vụ hoạt động xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật tại Bộ Tư pháp chưa có tính liên thông, làm giảm hiệu quả khai thác, sử dụng.

 

 

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG LĨNH VỰC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI HÀNH
PHÁP LUẬT TẠI BỘ TƯ PHÁP

1. Bối cảnh tác động đến công tác chuyển đổi số trong hoạt động xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật tại Bộ Tư pháp

1.1. Bối cảnh, tình hình quốc tế và khu vực

Chuyển đổi số không chỉ là một xu thế về công nghệ trên toàn cầu, mà còn có sự tác động rất lớn đến các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội của các nước trên thế giới. Trong sự tác động đó, chuyển đổi số mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Sự đan xen của các quá trình hội nhập cùng với xu thế đổi mới công nghệ diễn ra nhanh có thể là điều kiện cho các nước đi sau thực hiện các bước phát triển rút ngắn. Vì vậy, Việt Nam cần nắm bắt cơ hội này, thực hiện chuyển đổi số góp phần phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại, nguồn lực bên trong và bên ngoài, giúp giải quyết hiệu quả các mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội.

1.2. Bối cảnh, tình hình trong nước

(1). Trước hết, phải nói đến quyết tâm chính trị về thực hiện chuyển đổi số quốc gia (yêu cầu xây dựng chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và công dân số).  Thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện rất rõ quyết tâm chính trị trong việc thực hiện chuyển đổi số quốc gia. Đảng và Nhà nước ta cũng thể hiện rất rõ quyết tâm chính trị trong việc thực hiện chuyển đổi số trong công tác pháp luật thông qua việc ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới đã chính thức coi chuyển đổi số là một phương thức phát triển mới có tính đột phá, giúp đẩy nhanh, rút ngắn tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; công nghiệp công nghệ số trở thành ngành công nghiệp nền tảng.

(2). Yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật

Trong bối cảnh Nghị quyết số 27-NQ/TW đề ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật có những nội dung được phát triển mới hơn so với Văn kiện đại hội đảng lần thứ XIII về hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật, thì việc chuyển đổi số và ứng dụng các công nghệ mới hỗ trợ cho công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật để nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả là điều cấp thiết. Việc ứng dụng công nghệ số trong xây dựng pháp luật sẽ góp phần: (1) tăng hiệu quả của các hoạt động xây dựng pháp luật; (2) tăng độ chính xác của các quy định; (3) tăng tính minh bạch và niềm tin vào quy trình lập pháp. Công nghệ số có thể cung cấp các công cụ đảm bảo độ chính xác cao hơn trong quy trình xây dựng pháp luật. Đây cũng là một công cụ mạnh để bảo đảm minh bạch cho phép bất kỳ người nào quan tâm có thể biết được các điều khoản đã thay đổi như thế nào trong quá trình lập pháp.

Bên cạnh đó, chuyển đổi số trong công tác tổ chức thi hành pháp luật cũng là một trong những giải pháp căn cơ, có tính đột phá để thay đổi tổng thể, toàn diện diện mạo, cách thức tổ chức thi hành pháp luật dựa trên sự phát triển của các công nghệ số, có thể mở ra cánh cửa cho người dân tự học tập, tìm hiểu pháp luật, đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân. Qua đó, sẽ giúp cho hoạt động thi hành pháp luật không bị giới hạn về không gian, thời gian, tạo sự lan toả rộng lớn và nhanh chóng các thông tin pháp luật chính thống; nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của cơ quan nhà nước; giúp người dân dễ dàng, thuận lợi trong khai thác, sử dụng pháp luật để bảo vệ và thực thi các quyền, nghĩa vụ pháp lý.

 

 

2. Quan điểm về chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật của Bộ Tư pháp

          Thứ nhất, thay đổi nhận thức đóng vai trò quyết định trong quá trình chuyển đổi số. Trước mắt là số hóa toàn bộ thông tin, dữ liệu, tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, thiết lập, các hoạt động nghiệp vụ từ môi trường truyền thống sang môi trường số.

          Thứ hai, quá trình chuyển đổi số cần được tiến hành trên cơ sở bảo đảm sự thuận lợi, đơn giản, dễ dàng, hiệu quả trong tiếp cận thông tin nhằm tăng cường sự tham gia của người dân trong các hoạt động xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật.

          Thứ ba, phát triển nền tảng số dựa trên phát triển công nghệ là giải pháp đột phá để thúc đẩy chuyển đổi số nhanh hơn, từ đó giảm chi phí, tăng cường hiệu quả xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật.

          Thứ tư, bảo đảm an toàn, an ninh mạng là yêu cầu then chốt để chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật thành công và bền vững.

Thứ năm, tận dụng tối đa nguồn lực con người, cơ sở vật chất, nền tảng thể chế, các thông tin, dữ liệu sẵn có phục vụ quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật nhằm tối đa hóa lợi ích, tiết kiệm chi phí.

          Thứ sáu, chuyển đổi số cần đáp ứng tiêu chí đảm bảo tính linh hoạt nhất định dự phòng các trường hợp thể chế pháp luật thay đổi hoặc dự phòng trường hợp cần thực hiện liên thông, chuẩn hóa với Chính phủ và các cơ quan liên quan ngoài Bộ Tư pháp.

          Thứ bảy, việc chuyển đổi số cần được thực hiện theo lộ trình cụ thể và dài hạn. Lộ trình chuyển đổi số cần đảm bảo được thiết kế phù hợp với sự phát triển của xã hội số, đồng bộ với sự phát triển của các yếu tố khác, ví dụ như: thực trạng về nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, con người…

3. Định hướng, giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật

3.1. Định hướng chung xây dựng nền tảng số phục vụ công tác xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật

Mục tiêu tổng quát dài hạn là kết nối cung cấp mọi thông tin liên quan đến Bộ Tư pháp, các đơn vị liên quan thuộc Bộ, các quy trình xử lý công việc, kết nối với người dân, doanh nghiệp phục vụ hoạt động của Bộ Tư pháp được thực hiện trên cùng một nền tảng. Từ đó giảm thiểu sự trùng lặp, chồng chéo về thông tin, tăng cường chất lượng trải nghiệm cho người sử dụng. Thiết lập hệ thống đăng nhập một lần (cùng một tên người, cùng một mật khẩu) an toàn, dễ dàng cho mọi công chức, viên chức, người dân khi tìm kiếm thông tin, tham gia quản lý nhà nước và sử dụng các dịch vụ công của Bộ Tư pháp. Từ đó, chuẩn bị sẵn sàng cùng với các Bộ, ngành gia nhập vào nền tảng chung của Chính phủ.

 

 

Các mục tiêu cụ thể:

Thứ nhất, thiết lập, củng cố, xây dựng, cập nhật cơ sở dữ liệu phục vụ quá trình xây dựng nền tảng số thống nhất phục vụ công tác xây dựng pháp luật, quản lý thi hành pháp luật của Bộ Tư pháp.

Thứ hai, xây dựng nền tảng số và các phần mềm tích hợp vào nền tảng số phục vụ công tác xây dựng pháp luật, quản lý thi hành pháp luật của Bộ Tư pháp.

Thứ ba, triển khai sử dụng nền tảng số và các phần mềm tích hợp vào nền tảng số phục vụ công tác xây dựng pháp luật, quản lý thi hành pháp luật của Bộ Tư pháp

Thứ tư, tiếp tục duy trì, chỉnh sửa, cập nhật nền tảng số và các phần mềm tích hợp vào nền tảng số phục vụ công tác xây dựng pháp luật, quản lý thi hành pháp luật của Bộ Tư pháp.

3.2. Các yêu cầu đặt ra đối với nền tảng số phục vụ công tác xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật

  • Về cơ sở dữ liệu: Cơ sở dữ liệu trọng tâm là các văn bản QPPL cần phải được cập nhật, thống nhất về định dạng để có thể dùng để sử dụng các tiện ích liên quan trong quá trình xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật. Nền tảng số cần được thiết kế để tiến tới tương lai dài hạn đó là liên kết với các cơ sở dữ liệu khác thuộc quản lý của Bộ Tư pháp và các cơ sở dữ liệu liên quan thuộc quản lý của các Bộ, ngành khác.

  • Về các tính năng chung của nền tảng số (Có thể được tiếp tục nghiên cứu, phát triển, cập nhật nâng cao chất lượng trải nghiệm của người dùng)

+ Tính năng quản lý, thông tin về các cuộc họp.

+ Tính năng thông báo về tình trạng văn bản trong quá trình xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật.

+ Hệ thống thư điện tử.

+ Hệ thống đăng nhập/quản lý định danh cá nhân.

+ Hệ thống quản lý quyền hạn truy cập.

Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về XLVPHC và theo dõi thi hành pháp luật trong thời gian tới Bộ Tư pháp cần tập trung nguồn lực phát triển các tính năng sau: Xây dựng Phần mềm thu thập thông tin thi hành pháp luật (phần mềm phục vụ việc báo cáo tình hình thi hành pháp luật) kết nối với Hệ thống thông tin báo cáo Quốc gia, Phần mềm đánh giá tình hình thi hành pháp luật (Phần mềm Quan trắc tình hình thi hành pháp luật)[18]; Xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính.

Trong đó:

  • Đối với xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính:

- Mục tiêu: Xây dựng hệ thống CSDL là một phần quan trọng trong nền tảng của Chính phủ điện tử, hoạt động ổn định, lâu dài, quản lý tập trung, thống nhất dữ liệu về XLVPHC trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, các địa phương trên toàn quốc nhằm hỗ trợ truy cập, tra cứu và tìm kiếm dữ liệu XLVPHC một cách dễ dàng, thông qua hệ thống thông tin điện tử và những phương tiện khác, tạo công cụ tin cậy, hiệu quả để lưu trữ và tra cứu các dữ liệu về XLVPHC.

- Phạm vi: Bộ Tư pháp,15 Bộ, 01 cơ quan ngang Bộ; 01 cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và UBND các cấp thuộc 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

- Đối tượng sử dụng: Cán bộ, công chức làm công tác xử lý vi phạm hành chính.

- Yêu cầu của hệ thống:

+ Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu nghiệp vụ cần thiết của CSDLQG về XLVPHC, đáp ứng số lượng người sử dụng lớn trong việc tạo lập, cập nhật, hiệu chỉnh, quản lý CSDLQG về XLVPHC.

+ Xây dựng và triển khai theo mô hình tập trung, được mọi đối tượng người dùng khai thác, sử dụng qua Internet.

+ Tích hợp với các CSDLQG về dân cư, CSDLQG về đăng ký doanh nghiệp, CSDLQG về văn bản pháp luật.

+ Có các giao diện lập trình ứng dụng (API - Application Programming Interface) được cung cấp riêng theo chuẩn mở để các hệ thống chuyên ngành khác của Bộ Tư pháp, của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương có thể tích hợp và được chia sẻ khai thác thông tin về XLVPHC phù hợp.

+ Hồ sơ quyết định XLVPHC đối với các vụ việc đã hết thời hạn theo dõi có thể kết xuất sang vùng dữ liệu riêng và có thể cho phép xóa khi cần.

+ Sử dụng các công nghệ về phần cứng và phần mềm mới nhất, có các giao diện phục vụ khai thác sử dụng thân thiện và phù hợp, ứng dụng công nghệ phân tích dữ liệu lớn, đáp ứng các nhu cầu về chia sẻ dữ liệu, tổng hợp, phân tích, báo cáo.

  • Đối với xây dựng phần mềm đánh giá tình hình thi hành pháp luật trên toàn quốc

- Mục tiêu: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thu thập, lưu trữ dữ liệu về tình hình thi hành pháp luật nói chung và báo cáo tình hình thi hành pháp luật nói riêng nhằm đảm bảo nguồn dữ liệu đa dạng, đầy đủ, sẵn có, mang tính tích hợp, giảm gánh nặng xây dựng các báo cáo tình hình thi hành pháp luật; hướng đến việc xây dựng một phần mềm giúp theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật một cách thường xuyên, kịp thời, khách quan.

- Phạm vi: Bộ Tư pháp, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND các cấp thuộc 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

- Đối tượng sử dụng: Cán bộ, công chức làm công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

- Yêu cầu của hệ thống:

+ Xây dựng và triển khai theo mô hình tập trung, sử dụng một phần mềm dùng chung trên toàn quốc, sử dụng qua internet.

+ Tích hợp với CSDLQG về văn bản pháp luật để có được các thông tin về các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.

          + Cung cấp các thông tin về: Tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật; Tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật; Tình hình tuân thủ pháp luật.

+ Sử dụng các công nghệ về phần cứng và phần mềm mới nhất, có các giao diện phục vụ khai thác sử dụng thân thiện và phù hợp, ứng dụng công nghệ phân tích dữ liệu lớn, đáp ứng các nhu cầu về chia sẻ dữ liệu, tổng hợp, phân tích, báo cáo.

  • Yêu cầu về tính liên kết, liên thông dữ liệu trong quá trình sử dụng nền tảng:

          Các thông tin, dữ liệu liên quan đến quá trình xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật cần được cập nhật, chia sẻ để tận dụng tối đa hiệu quả sử dụng dữ liệu, ví dụ: dự thảo văn bản QPPL cần được cung cấp, chia sẻ trực tuyến cho những chủ thể liên quan để phục vụ quá trình thẩm định văn bản QPPL; kết quả của quá trình kiểm tra, rà soát văn bản QPPL cần được chia sẻ đến công chức, viên chức làm công tác xây dựng pháp luật để có thêm thông tin cũng như rút kinh nghiệm cho quá trình xây dựng văn bản QPPL; thông tin về tình trạng chậm ban hành văn bản QPPL có thể được công khai trên nền tảng để người dân có thể tiếp cận được…

  • Yêu cầu về đối tượng, phạm vi sử dụng:

          + Bước 1: Triển khai sử dụng trong Bộ Tư pháp, người dân, doanh nghiệp có thể tiếp cận các cơ sở dữ liệu và thông tin liên quan đến phổ biến, giáo dục pháp luật.

      + Bước 2: Tiến tới phổ biến tới các Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND các cấp thuộc 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện công tác xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật.

  • Yêu cầu về đối tượng, phạm vi sử dụng: nền tảng được lập trình để có thể sử dụng ở nhiều hệ điều hành khác nhau

3.3. Đề xuất giải pháp về kỹ thuật, lộ trình, các điều kiện đảm bảo thực hiện các yêu cầu về định hướng chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật

3.3.1. Đề xuất các giải pháp kỹ thuật chung để xây dựng nền tảng

Mô tả chi tiết các thành phần:

Người sử dụng: Có 2 nhóm người sử dụng chính:

- Nhóm người dân, doanh nghiệp là những cá nhân, tổ chức sử dụng các dịch vụ do Bộ Tư pháp cung cấp như: Đọc, tra cứu thông tin trên Cổng thông tin điện tử; tra cứu, sử dụng các dịch vụ công trực tuyến do Bộ cung cấp thông qua Cổng dịch vụ công; sử dụng các dịch vụ khác mà Bộ cung cấp cho người dân, doanh nghiệp.

- Nhóm cán bộ, công chức, viên chức sử dụng hệ thống của Bộ để giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp; các nghiệp vụ nội bộ của Bộ và các công việc được giao khác.

Kênh giao tiếp

Cung cấp các kênh giao tiếp như sau để phục vụ người sử dụng nêu trên:

- Qua môi trường Internet: Cổng Thông tin - Giao tiếp điện tử của Bộ và các cổng thông tin điện tử thành phần; Hệ thống xử lý nghiệp vụ; Cổng dịch vụ công trực tuyến, hệ thống thông tin một cửa điện tử, thông qua các thiết bị như: Máy tính; thiết bị di động tại bộ phận một cửa, phòng tiếp dân.

- Ngoài môi trường Internet: Các kênh thoại, SMS hoặc trực tiếp tại bộ phận một cửa, phòng tiếp dân, các đường dây liên hệ.

Kỹ thuật - công nghệ

Gồm có:

- Phần cứng: máy tính, thiết bị lưu trữ, hạ tầng truyền dẫn LAN, WAN, mạng truyền số liệu chuyên dùng, Trung tâm Hạ tầng thông tin Bộ;

- Công nghệ nền tảng có: ảo hóa, dữ liệu lớn, LGSP;

- Phần mềm có: Các phần mềm của tỉnh được đặt trên các hạ tầng phần cứng (hoặc ảo hóa); các phần mềm bảo đảm an toàn thông tin.

An toàn thông tin

Bảo đảm an toàn thông tin là thành phần xuyên suốt và thống nhất.

- Triển khai phương án bảo đảm an toàn thông tin theo cấp độ;

- Triển khai Trung tâm điều hành an toàn, an ninh mạng;

- Các phương án bảo đảm an toàn thông tin.

Chỉ đạo, chính sách

- Chỉ đạo: Kiến nghị Lãnh đạo cấp cao tham gia chỉ đạo, điều phối sự phối hợp, giải quyết các xung đột, vấn đề phát sinh giữa các đơn vị trong Bộ, đặc biệt là các dự án dùng chung cấp Bộ;

- Tổ chức: Cơ cấu tổ chức, quyền và nghĩa vụ các bên liên quan và quy trình để tổ chức triển khai chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật;

- Chính sách: Các chính sách, quy định, quy chế, tiêu chuẩn có tính đặc thù của Bộ phục vụ việc triển khai chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật

- Tuyên truyền, đào tạo: Thực hiện hướng dẫn, đào tạo, truyền thông nâng cao nhận thức và kỹ năng của công chức, viên chức, tổ chức, công dân trong triển khai chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật, đối tượng thụ hưởng của các dịch vụ, ứng dụng thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về thi hành pháp luật.

3.3.2. Đề xuất các giải pháp kỹ thuật cụ thể đổi với từng tính năng

(1) Tạo kênh các kênh tương tác trong công tác xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật trên nền tảng số: Cung cấp các dịch vụ tra cứu, tìm kiếm trên nền tảng số; tương tác hai chiều, các nền tảng ứng dụng liên quan đến lĩnh vực pháp luật phục vụ người dân, doanh nghiệp (kênh đối thoại trực tuyến, thi tìm hiểu pháp luật trực tuyến).

(2) Ứng dụng các công nghệ mới: Ứng dụng công nghệ chatbot trong tư vấn, thông tin pháp luật trực tuyến cho người dân và doanh nghiệp quan tâm; Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) hỗ trợ công tác rà soát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật tự động.

(3) Hỗ trợ hoạt động quản lý điều hành thông qua công nghệ số: Quản lý công tác xây dựng pháp luật trên nền tảng số; Quản lý, điều hành công tác công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; Thu thập, tổng hợp thông tin phản hồi, góp ý của người dân về văn bản pháp luật; Tổng hợp thông tin quản lý xử lý VPHC và theo dõi thi hành pháp luật.

(4) Tích hợp, kết nối và liên kết, chia sẻ dữ liệu: Tích hợp, kết nối và liên kết, chia sẻ dữ liệu với các cơ sở dữ liệu khác thuộc quản lý của Bộ Tư pháp và các cơ sở dữ liệu liên quan thuộc quản lý của các Bộ, ngành khác như: CSDL quốc gia về dân cư, CSDL quốc gia về đăng ký kinh doanh, CSDL quốc gia về tài chính…

Các hệ thống nền tảng số thuộc 04 thành phần cụ thể như sau:

1. Nền tảng số tư vấn, thông tin pháp luật tự động (Chatbot)

Nền tảng tư vấn, thông tin pháp luật tự động ứng dụng công nghệ 4.0 được cài đặt sẵn các nội dung trả lời hỗ trợ thông tin về các tình huống pháp luật cho người dân thông qua trợ lý ảo tích hợp trên Cổng Thông tin điện tử về phổ biến giáo dục, pháp luật... Việc áp dụng nền tảng tư vấn, thông tin pháp luật tự động bằng công nghệ trí tuệ nhân tạo giúp người dân tra cứu hệ thống pháp luật, giải đáp các câu hỏi về các tình huống pháp luật điển hình. “Trợ lý ảo” đóng vai trò như tư vấn viên pháp luật, được lập trình am hiểu pháp luật, làm việc 24/7 và luôn sẵn sàng hỗ trợ người dùng bằng ngôn ngữ nói hoặc chữ viết thông qua điện thoại di động, máy tính cá nhân và các thiết bị thông minh khác.

2. Nền tảng số Họp không giấy tờ trực tuyến

Nền tảng số Họp không giấy tờ trực tuyến dùng để triển khai các cuộc họp trực tuyến; triển khai các hội nghị, tập huấn bằng hình thức trực tuyến trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật; quản lý các cuộc họp, thông tin về các cuộc họp trong quá trình xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật.

Nền tảng liên kết đến các nền tảng/ hệ thống liên quan trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật (hệ thống quản lý văn bản quy phạm pháp luật và quản lý công việc; Hệ thống tổng hợp thông tin quản lý xử lý VPHC và theo dõi thi hành pháp luật...). Người dùng có thể tham gia các hội nghị, hội thảo, tập huấn và các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ trực tuyến để trao đổi nghiệp vụ, nâng cao trình độ, đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ mà không làm phát sinh thêm chi phí đi lại, công tác phí, tiết kiệm thời gian...

3. Nền tảng số Hệ thống xác thực định danh điện tử

Hệ thống xác thực định danh điện tử là hệ thống cung cấp dịch vụ định danh, xác thực danh tính cho các cơ quan tổ chức, cá nhân tham gia vào giao dịch điện tử. Hệ thống sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo để bóc tách thông tin trên giấy tờ và xác minh khuôn mặt, sẵn sàng kết nối với nhiều nguồn dữ liệu đáng tin cậy để xác minh danh tính.

Đặc điểm, công nghệ nổi bật tích hợp với CSDL quốc gia về dân cư của Bộ Công an để xác minh và xác thực thông tin thông qua công nghệ trí tuệ nhân tạo OCR, xác nhận CMND/Thẻ căn cước/Hộ chiếu, nhận diện khuôn mặt (face recognition) tuân thủ theo các mức được quy chuẩn theo các mức đảm bảo tham chiếu theo nghị định định danh và xác thực điện tử. Người dùng chỉ cần nhớ một tài khoản để truy cập vào các hệ thống được tích hợp. Có thể dùng tài khoản định danh để thực hiện các dịch vụ trên môi trường điện tử như thực hiện dịch vụ công, thanh toán,… trong tương lai.

4. Nền tảng số xây dựng Hệ thống quản trị, phân quyền người dùng

Hệ thống quản trị, phân quyền người dùng đáp ứng yêu cầu về quản lý, xác thực và phân quyền người dùng: Thực hiện các khai báo ban đầu cũng như các tham số tùy chọn, quản lý tài khoản đối với người dùng có vai trò tham gia vào các nền tảng/hệ thống liên quan trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật khác. Khi người dùng thực hiện đăng nhập vào các nền tảng/hệ thống liên quan, hệ thống Quản trị và dịch vụ dùng chung sẽ xác thực thông qua tên đăng nhập và mật khẩu đã cấp cho người dùng cùng với các quyền truy cập theo vai trò của người dùng đó đã được cấp ban đầu. Chức năng phân quyền được thực hiện linh hoạt theo vai trò của nhóm người sử dụng, người sử dụng với các cấp độ truy cập và sử dụng khác nhau dựa trên quy trình công việc xuyên suốt trong hệ thống.

5. Nền tảng số xây dựng Hệ thống quản lý văn bản quy phạm pháp luật và quản lý nhà nước về thi hành pháp luật

Nền tảng số xây dựng hệ thống quản lý văn bản quy phạm pháp luật và quản lý nhà nước về thi hành pháp luật sẽ giúp quá trình xây dựng chính sách, soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện tự động tối đa từ khâu quản lý mẫu văn bản quy phạm pháp luật, soạn thảo trực tuyến đồng thời bởi nhiều người dùng trong đó hỗ trợ đối chiếu, so sánh và quả lý lịch sử phiên bản giữa các lần thay đổi khi chỉnh lý.

Nền tảng hỗ trợ quản lý kho biểu mẫu văn bản quy phạm pháp luật giúp thuận tiện hơn cho người soạn thảo trong việc lựa chọn được mẫu văn bản phù hợp với quy định của pháp luật.

Quá trình soạn thảo dự thảo được thực hiện theo phương thức trực tuyến, có sự hỗ trợ của phần mềm soạn thảo với các tính năng như so sánh, đối chiếu nội dung của dự thảo với các phiên bản khác nhau để thấy được những thay đổi của văn bản qua các lần chỉnh lý.

Văn bản quy phạm pháp luật trước khi chính thức ban hành được tuân thủ theo quy trình, thủ tục lấy ý kiến chính sách, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Quy trình này được tự động hóa thông từ khâu đăng tải toàn văn hồ sơ đề nghị, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trên Cồng thông tin điện tử thông qua việc tích hợp giữa hai nền tảng, hệ thống. Các ý kiến, góp ý dự thảo được tổng hợp tự động và thực hiện quản lý quá trình tiếp thu, phản hồi để đảm bảo các ý kiến, nội dung góp ý cho các đối tượng đều được tiếp thu, giải trình.

Ngoài ra, hệ thống còn thực hiện liên kết, liên thông dữ liệu với các CSDL về xử lý vi phạm hành chính, CSDL về báo cáo tình hình thi hành pháp luật để phục vụ công tác tổng hợp, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật của từng văn bản cụ thể, từ đó, dưa ra những gợi ý tổng kết, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật của từng Bộ, ngành, địa phương.

6. Nền tảng số xây dựng Tủ sách pháp luật điện tử quốc gia

Nội dung Tủ sách pháp luật điện tử quốc gia sẽ xây dựng theo đúng nội dung tại Chương II của Quyết định số 14/2019/QĐ-TTg ngày 13/3/2019 của Thủ tướng Chính phủ về Tủ sách pháp luật điện tử quốc gia, được quản lý thống nhất, được vận hành, khai thác, sử dụng chung trong phạm vi toàn quốc. Bộ Tư pháp quản lý thống nhất Tủ sách pháp luật điện tử quốc gia, cấp tài khoản quản lý và phân quyền quản lý các dữ liệu thành phần sách, tài liệu pháp luật cho các đơn vị.

Các loại sách, tài liệu pháp luật trong Tủ sách pháp luật điện tử quốc gia: Tài liệu, đề cương giới thiệu các luật, pháp lệnh; Sách, tài liệu hỏi đáp, bình luận, giải thích, hướng dẫn pháp luật; tờ gấp, tiểu phẩm, câu chuyện pháp luật; Sách, tài liệu hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về các lĩnh vực của bộ ngành, địa phương; Văn bản quy phạm pháp luật được liên kết, trích xuất từ các cơ sở dữ liệu; sách, tài liệu được liên kết, trích xuất từ các cơ sở dữ liệu thông tin khác; Các sách, tài liệu pháp luật cần thiết khác.

Nền tảng số xây dựng Tủ sách pháp luật điện tử quốc gia sau khi hoàn thành sẽ hình thành nền tảng để các đơn vị cung cấp dữ liệu theo qui định và có các tiện ích tra cứu, tìm kiếm nâng cao giúp người dân, doanh nghiệp dễ dàng khai thác, sử dụng.

7. Các nền tảng phần mềm hệ thống khác cần nâng cấp đáp ứng yêu cầu về chuyển đổi số

*Phần mềm hỗ trợ kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật: Nâng cấp phần mềm hỗ trợ kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật trong đó có ứng dụng nền tảng trí tuệ nhân tạo (AI) hỗ trợ công tác rà soát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành.

*Trang/Cổng thông tin phổ biến, giáo dục pháp luật quốc gia: Cổng thông tin phổ biến, giáo dục pháp luật quốc cần tiếp tục vận hành, khai thác kết nối và nâng cấp các tính năng đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số công tác của ngành, cụ thể:

- Tiếp tục triển khai các Trang PBGDPL cho các địa phương chưa có, trên cơ sở khuôn mẫu (template) đã có trên Cổng quốc gia để đảm bảo 100% các địa phương đều có Cổng/Trang thông tin dành riêng cho công tác PBGDPL.

- Hướng dẫn và đôn đốc các địa phương rà soát, điều chỉnh, bổ sung để đảm bảo Cổng PBGDPL của đơn vị mình cung cấp đầy đủ 07 nội dung theo quy định tại Quyết định 471/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

- Nâng cấp tính năng tự động thu thập dữ liệu về PBGDPL tại Cổng PBGDPL quốc gia, Cổng thông tin của bộ ngành, địa phương đã xây dựng và một số Trang thông tin điện tử chính thống về lĩnh vực pháp luật để làm giầu cho CSDL về PBGDPL, từ đó, dữ liệu PBGDPL trên toàn quốc được thu thập, chuẩn hóa, lưu trữ và cung cấp sẵn các giao diện hiện thị thông tin, giao diện cung cấp dữ liệu và giao diện tìm kiếm để phục vụ người dân, doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức khai thác.

3.3.3. Đề xuất lộ trình (các bước đi và thời gian cụ thể), kinh phí, các điều kiện đảm bảo khác

3.3.3.1. Lộ trình thực hiện

Việc lựa chọn các dự án trọng điểm trong việc chuyển đổi số cần xuất phát từ nhu cầu bức thiết của doanh nghiệp, người dân và từ quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đơn vị. Việc xác định phân loại ưu tiên triển khai theo nguyên tắc ưu tiên kết hợp với yêu cầu triển khai tuần tự: (i) các vấn đề có mức độ ưu tiên cao và độ khó thấp sẽ được triển khai trước; (ii) các vấn đề có mức độ ưu tiên cao nhưng độ khó cao hơn hoặc các dự án có mức độ ưu tiên thấp hơn nhưng có độ khó thấp hơn sẽ được triển khai sau; (iii) các vấn đề khó triển khai, mức độ ưu tiên thấp sẽ được triển khai cuối cùng.

Lộ trình thực hiện cụ thể được đề xuất như sau:

(i) Đào tạo tập huấn:

- Tên công việc: Đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng, tuyên truyền

- Nội dung triển khai: Thực hiện các nội dung sau xuyên suốt các giai đoạn:

(1) Đào tạo cho cán bộ, công chức, viên chức.

(2) Các nhiệm vụ tuyên truyền, nâng cao hiểu biết, nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức về vai trò, lợi ích của việc thực hiện chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật.

- Thời gian bắt đầu: 2023

- Mức độ ưu tiên: 1

- Giải thích: Việc tư vấn để triển khai thực hiện chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật một cách phù hợp, chính xác là rất cần thiết. Bên cạnh đó, việc đào tạo cũng cần tổ chức ngay từ khi các hệ thống bắt đầu hình thành để đảm bảo Lãnh đạo, cán bộ có thể nắm bắt được sự thay đổi về công nghệ, quy trình làm việc. Trong khi đó, cán bộ, công chức, viên chức cũng cần tiếp cận từng bước đối với sự thay đổi trong quá trình thực hiện thực hiện chuyển đổi số. Do đó, nội dung Đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng, tuyên truyền cần được thực hiện ngày từ đầu và xuyên suốt qua các giai đoạn.

(ii) Hạ tầng kỹ thuật:

- Tên công việc: Trang bị thiết bị hạ tầng CNTT để triển khai và vận hành các hệ thống nền tảng số, đồng thời giúp nâng cao năng lực của Trung tâm Dữ liệu điện tử Bộ Tư pháp đáp ứng các yêu cầu về hạ tầng mạng, hệ thống an toàn bảo mật và an ninh thông tin theo các quy định mới.

- Nội dung triển khai: Đầu tư hạ tầng để triển khai và vận hành các phần mềm ứng dùng, hệ thống thông tin quản lý, như: Hệ thống máy chủ, thiết bị lưu trữ, thiết bị mạng, phần mềm bản quyền…

- Thời gian bắt đầu: 2024-2026

- Mức độ ưu tiên: 1

- Giải thích: Cục Công nghệ thông tin theo chức năng, nhiệm vụ sẽ là đơn vị có trách nhiệm đảm bảo cung cấp hạ tầng đáp ứng yêu cầu triển khai theo từng giai đoạn; đồng thời trong quá trình triển khai, vận hành Cục Công nghệ thông tin sẽ tiếp tục theo dõi để có đánh giá, điều chỉnh phù hợp với nhu cầu thực tế.

(iii) Ứng dụng CNTT:

- Tên công việc: Xây dựng và triển khai nền tảng số và các phần mềm tích hợp vào nền tảng số phục vụ công tác xây dựng pháp luật, quản lý thi hành pháp luật của Bộ Tư pháp

- Nội dung triển khai: Xây dựng và triển khai nền tảng số và các phần mềm tích hợp vào nền tảng số phục vụ công tác xây dựng pháp luật, quản lý thi hành pháp luật của Bộ Tư pháp theo các thành phần nền tảng đã xác định.

- Thời gian bắt đầu: 2024-2026

- Mức độ ưu tiên: 1

3.3.3.2. Tài chính

Nhu cầu về tài chính phục vụ công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật ước lượng khoảng 178 tỷ (khoảng 7,74 triệu USD) với cơ cấu:

(1) Hạng mục hạ tầng kỹ thuật CNTT để triển khai và vận hành các hệ thống nền tảng số (máy chủ, thiết bị lưu trữ, phần mềm thương mại): 90 tỷ

(2) Hạng mục phần mềm nội bộ (bao gồm các phần mềm xây mới và nâng cấp): Nền tảng số tư vấn, thông tin pháp luật tự động (12 tỷ); Nền tảng số Họp không giấy tờ trực tuyến (15 tỷ); Nền tảng số xây dựng Hệ thống xác thực định danh điện tử (5 tỷ); Nền tảng số xây dựng Hệ thống quản trị, phân quyền người dùng (6 tỷ); Nền tảng số xây dựng Hệ thống quản lý văn bản quy phạm pháp luật và quản lý nhà nước về thi hành pháp luật (12 tỷ); Nền tảng số xây dựng Tủ sách pháp luật điện tử quốc gia (8 tỷ); Nâng cấp Phần mềm hỗ trợ kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật (5 tỷ); Nâng cấp Cổng thông tin phổ biến, giáo dục pháp luật quốc gia (5 tỷ). Tổng cộng: 68 tỷ.

(3) Các chi phí khác (Triển khai, đào tạo, tư vấn, quản lý dự án, dự phòng…): 20 tỷ.

Sau khi hoàn thành việc triển khai thì cần tiếp tục bố trí khoản kinh phí để duy trì bao gồm:

-  Chi phí thuê dịch vụ bảo trì, quản trị, vận hành: Khoảng 3-5% chi phí đầu tư ban đầu/01 năm, tương đương kinh phí khoảng 5-8 tỷ/01 năm.

4. Đề xuất các điều kiện đảm bảo sự thành công chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật của Bộ Tư pháp

4.1. Ban hành các văn bản điều hành, kế hoạch cụ thể về chuyển đổi số đối với tổng thể các hoạt động nghiệp vụ của Bộ Tư pháp nói chung; trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật nói riêng

          Trên cơ sở hệ thống hóa các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp; các quy trình nghiệp vụ của các đơn vị thuộc Bộ. Bộ Tư pháp  cần ban hành chương trình, kế hoạch cụ thể về chuyển đổi số hoạt động của Bộ, ngành nói chung và chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật nói riêng để đảm bảo thống nhất, đồng bộ. Bên cạnh đó, cần xây dựng và ban hành quy chế quản lý, vận hành.

4.2. Thống nhất, chuẩn hóa đồng bộ quy trình nghiệp vụ của Bộ Tư pháp phục vụ xây dựng nền tảng

          - Việc quản lý quy trình, xử lý công việc được tiến hành một cách đồng bộ trên một nền tảng chung, các quy trình nội bộ được chuẩn hóa, thống nhất.

- Phối hợp xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị thuộc Bộ chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ, triển khai các hệ thống thông tin đã được đầu tư để đổi mới phương thức làm việc, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác.

          - Quy trình liên thông giữa các cơ quan, đơn vị trong Bộ sẽ được thực hiện trên nền tảng chung về quản lý quy trình.

4.3. Kiện toàn bộ máy nhân lực chính phục vụ chuyển đổi số của Bộ, ngành Tư pháp

          - Thành lập tổ công tác giúp việc cho Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số Ngành Tư pháp; kiện toàn tổ chức cho Cục Công nghệ thông tin và đội ngũ làm công nghệ thông tin ở các đơn vị liên quan thuộc Bộ Tư pháp.

          - Tập trung vào công tác kiện toàn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyên gia về chuyển đổi số và an ninh mạng để theo kịp yêu cầu về cả số lượng và chất lượng đáp ứng được lực lượng chuyên gia chuyên trách bảo đảm các vấn đề về chuyển đổi số và an ninh mạng cho Bộ, ngành Tư pháp.

- Tập trung kiện toàn đội ngũ nhân lực khi vận hành: Để triển khai hiệu quả thì nguồn nhân lực vận hành, quản trị sẽ gồm: (1) Thuê dịch vụ vận hành, quản trị các hệ thống phần mềm; (2) Khoảng 03 công chức của Bộ triển khai hoạt động thuộc lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật trên nền tảng số, có chuyên môn được đào tạo về lĩnh vực pháp luật, truyền thông, chuyển đổi số và an ninh mạng; (3) Tại bộ ngành, địa phương sẽ do các công chức đang được giao nhiệm vụ triển khai công tác thuộc lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật.

4.4. Tăng cường đào tạo kỹ năng của lãnh đạo, công chức, viên chức Bộ Tư pháp phục vụ chuyển đổi số

          - Tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức của lãnh đạo, cán bộ Bộ Tư pháp, người dân và doanh nghiệp về chuyển đổi số trong ngành Tư pháp.

          - Người đứng đầu chịu trách nhiệm trực tiếp về hoạt động chuyển đổi số trong cơ quan, tổ chức, lĩnh vực được phụ trách; gắn các mục tiêu, nhiệm vụ về chuyển đổi số với chương trình hành động, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển của từng cơ quan, tổ chức.

          - Tăng cường đào tạo, tập huấn cho đội ngũ công chức, viên chức của Bộ Tư pháp về các kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin trong quá trình giải quyết công việc nói chung, kỹ năng sử dụng nền tảng xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật nói riêng.   

4.5. Đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức, kỹ năng số, tăng cường tương tác qua môi trường số đối với người dân, doanh nghiệp đồng thời duy trì các phương thức cũ đối với những khu vực, người dân, doanh nghiệp chưa đủ điều kiện tiếp cận chuyển đổi số

- Đẩy mạnh phổ biến, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kế hoạch của các cấp về đẩy mạnh ứng dụng CNTT, phát triển chính phủ điện tử, chuyển đổi số bằng nhiều hình thức khác nhau để nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân viên với quan điểm ”Chuyển đổi số trước kết là chuyển đổi nhận thức”. Trước hết là thay đổi nhận thức của lãnh đạo các đơn vị. Người đứng đầu chịu trách nhiệm trực tiếp về chuyển đổi số trong cơ quan, đơn vị mình phụ trách. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp gắn các mục tiêu, nhiệm vụ về chuyển đổi số với nghị quyết, kế hoạch hoạt động hằng năm. Coi việc ứng dụng CNTT, phát triển CPĐT, chuyển đổi số là việc của cơ quan, đơn vị mình; không phụ thuộc vào cơ quan chuyên trách, cán bộ chuyên môn; chấp nhận thay đổi đổi phong cách làm việc.

          - Đối với người dân, doanh nghiệp chưa đủ điều kiện tiếp cận công nghệ thông tin thì tiếp tục duy trì các phương thức cũ.

          - Đẩy mạnh công tác truyền thông qua việc ứng dụng đa dạng các kênh truyền thông, nâng cao nhận thức, hình thành văn hóa cho người dân, khuyến khích người dân cài đặt và sử dụng các ứng dụng tương tác với Bộ Tư pháp.

          - Hỗ trợ, hướng dẫn tương tác trực tuyến giữa người dân, doanh nghiệp với Bộ Tư pháp trên nền tảng phục vụ hoạt động xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật.

 


[1] Xem: Chuyển đổi số trong khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã. AI Academy Vietnam

https://storage-vnportal.vnpt.vn/lci-ubnd-responsive/sitefolders/lmhtx/5722/chuyen-doi-so-vca.pdf

[2] Xem: Bộ Thông tin và Truyền thông (2021). Cẩm nang chuyển đổi số. Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông.

[3] Xem: Chính phủ điện tử và Chính phủ điện tử khác nhau ở điểm nào?

https://mt.gov.vn/vn/Pages/chitiettin.aspx?IDNews=69737

[4] Xem: Cao Minh Kiểm (2020). Chuyển đổi số trong phát triển tài nguyên thông tin khoa học và công nghệ số. https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/117263/1/48052-Article%20Text-151817-1-10-20200518.pdf 

[5] Xem: Hiệp hội các Trường Cao đẳng Việt Nam (2020). Khái niệm chuyển đổi số và chuyển đổi số trong giáo dục đại học. https://avnuc.vn/wp-content/uploads/2022/08/Khai-niem-CDS-va-CDS-trong-GD-DT.pdf

[6] Xem: Phan Huy Giao (2020). Chuyển đổi số: Bản chất, thực tiễn và ứng dụng. Tạp chí Dầu khí. Số 12-2020, trang 12-16.

[7] Xem: Để chuyển đổi số thành công - Những vấn đề cơ bản cần quan tâm trong triển khai thực hiện

https://sotnmt.ninhbinh.gov.vn/chuyen-doi-so/de-chuyen-doi-so-thanh-cong-nhung-van-de-co-ban-can-quan-tam-trong-trien-khai-thuc-hien-66.html

[8] tlđd

[9] Xem Chu Thị Hoa (2022), Xu hướng chuyển đổi số và tác động đến quá trình xây dựng luật ở Việt Nam. Chuyên đề Hội thảo “Xây dựng luật đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số” do trường Đại học Luật tổ chức tháng 6/2022.

[10] Ping Identity, ‘More than 3 million sign up to NSW’s unified SSO portal’, 2018, https://www.pingidentity.com/en/customer-stories/customer-stories/3234-new-south-wales.html.

[11] Xem thêm tại https://www.digitalidentity.gov.au/tdif.

[12] Ministry of Interior and Safety, 50 - year Footprints of Korean e-Government The Greatest Leap in Korean History, T10, 2017.

[13] Như trên.

[14] https://www.gov.uk/government/case-studies/how-gds-used-data-to-improve-content-and-user-journeys-on-govuk.

[15] Xem: Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển Chính phủ số và bảo đảm an toàn thông tin trong hoạt động của Ngành Tư pháp giai đoạn 2021-2025 (Ban hành kèm theo Quyết định số 682/QĐ-BTP ngày 07 tháng 5 năm 2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp)

[16] Xem: Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển Chính phủ số và bảo đảm an toàn thông tin trong hoạt động của Ngành Tư pháp giai đoạn 2021-2025 (Ban hành kèm theo Quyết định số 682/QĐ-BTP ngày 07 tháng 5 năm 2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp)

[17] Xem: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ‘thương hiệu’ của Bộ Tư pháp. https://pbgdpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoat-dong-pgbdpltw.aspx?ItemID=1571

[18] Với mục đích đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thu thập, lưu trữ dữ liệu về tình hình thi hành pháp luật nói chung và báo cáo tình hình thi hành pháp luật nói riêng nhằm đảm bảo nguồn dữ liệu đa dạng, đầy đủ, sẵn có, mang tính tích hợp, giảm gánh nặng xây dựng các báo cáo tình hình thi hành pháp luật; hướng đến việc xây dựng một phần mềm giúp theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật một cách thường xuyên, kịp thời, khách quan.

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm ...