• Thuộc tính
Tên đề tài Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Nội dung tóm tắt

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN

THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM THEO TINH THẦN

VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

 

PHẦN MỞ ĐẦU

 

1. Ở Phần này, Nhóm nghiên cứu đã làm rõ về cơ sở chính trị, pháp lý; cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn triển khai thực hiện đề tài. Qua đó, khẳng định việc nghiên cứu Đề tài khoa học “Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng” là có căn cứ chính trị, pháp lý và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay, góp phần thực hiện thắng lợi định hướng“Tiếp tục phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp” đã được đề ra trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.

2. Nhóm nghiên cứu cũng đã thực hiện tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước và quốc tế về thị trường dịch vụ pháp lý và các nội dung có liên quan. Từ đó, xác định các nội dung cần nghiên cứu, làm rõ của đề tài; cũng như xác định nhiệm vụ chính của đề tài cần giải quyết. Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài, Nhóm nghiên cứu đã xác định mục tiêu, nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài. Xác định cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu và các nội dung khoa học cần phải làm rõ (trả lời), như:

(i) Thị trường dịch vụ pháp lý gồm các thành tố nào? Các đặc trưng riêng của Thị trường dịch vụ pháp lý là gì?

(ii) Quy mô về Thị trường dịch vụ pháp lý hiện nay ở Việt Nam như thế nào? Khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý của các chủ thể (luật sư, tư vấn và các tổ chức hành nghề luật sư trong nước và nước ngoài tại Việt Nam) đã phúc đáp được nhu cầu của xã hội đến đâu?

(iii) Nhu cầu, xu hướng sử dụng dịch vụ pháp lý của tổ chức, công dân hiện nay và dự báo trong thời gian tới như thế nào (nhu cầu được biết, được tư vấn hoặc giúp đỡ về mặt pháp lý của các tổ chức, cá nhân)?

(iv) Các tác động từ kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế đến sự vận hành của Thị trường dịch vụ pháp lý là gì? Tác động như thế nào đến sự phát triển của Thị trường dịch vụ pháp lý trong thời gian tới?

(v) Làm gì và làm như thế nào để Thị trường dịch vụ pháp lý phát triển?

3. Về cấu trúc của Báo cáo kết quả nghiên cứu, ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Báo cáo được cấu trúc thành 4 phần, cụ thể như sau:

Phần I: Một số vấn đề lý luận về thị trường dịch vụ pháp lý

Phần II: Phát triển thị trường dịch vụ pháp lý ở một số quốc gia – Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Phần III: Tổng quan về thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam

Phần IV: Định hướng, giải pháp và kiến nghị.

 

PHẦN I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ

 

I. MỘT SỐ THUẬT NGỮ, KHÁI NIỆM

          Tại mục này, Nhóm nghiên cứu đã phân tích, làm rõ về các thuật ngữ, khái niệm cơ bản như: (1) Thị trường, (2) Dịch vụ, (3) Thị trường dịch vụ; (4) Dịch vụ pháp lý và (5) Thị trường dịch vụ pháp lý (được trình bày từ trang 25 đến trang 41 của Báo cáo).

          Qua nghiên cứu, làm rõ về nội hàm của các thuật ngữ, khái niệm, Nhóm nghiên cứu khẳng định Ở Việt Nam, đến nay chưa có định nghĩa/khái niệm thống nhất về “Thị trường dịch vụ pháp lý”. Từ phân tích những thuật ngữ, khái niệm có liên quan và nhất là tham khảo quốc tế về thị trường dịch vụ pháp lý, Nhóm nghiên cứu mạnh dạn đưa ra khái niệm Thị trường dịch vụ pháp lý để làm cơ sở phân tích, bình luận và đánh giá ở phần nghiên cứu tiếp theo (được trình bày từ trang 41 đến trang 48 của Báo cáo)..

          Nhóm nghiên cứu quan niệm: Thị trường dịch vụ pháp lý (Legal services market) là nơi những tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện các dịch vụ pháp lý nhằm đáp ứng nhu cầu được biết, được tư vấn hoặc giúp đỡ về mặt pháp lý của các tổ chức, cá nhân trong xã hội[A1] ”.

Hoặc có thể nói theo cách khác, “Thị trường dịch vụ pháp lý là nơi cung cấp dịch vụ, hàng hóa liên quan đến pháp luật do những tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề. Họ tư vấn cho khách hàng (cá nhân, doanh nghiệp hoặc các tổ chức khác) về các quyền và lợi ích hợp pháp của họ; đồng thời đại diện cho khách hàng trong các vụ việc dân sự và hình sự, giao dịch kinh doanh và các vấn đề khác thông qua tư vấn pháp lý và các hỗ trợ khác theo quy định của pháp luật.

Ở nôi dung nghiên cứu này, Nhóm nghiên cứu cũng đã làm rõ về

(i) Vị trí, vai trò của Thị trường dịch vụ pháp lý trong nền kinh tế và

(ii) Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam để nhận diện rõ hơn về thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.

II. THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ

Ở phần này, Nhóm nghiên cứu tập trung làm rõ về (1) Nhận diện thị trường dịch vụ pháp lý; (2) Đặc thù của thị trường dịch vụ pháp lý; (3) Các yếu tố tác động đến thị trường dịch vụ pháp lý. Cụ thể:

1. Nhận diện thị trường dịch vụ pháp lý

Nhóm nghiên cứu khẳng định “Thị trường dịch vụ pháp lý (Legal services market) là nơi những tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện các dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu được biết, được tư vấn hoặc giúp đỡ về mặt pháp lý của các tổ chức, cá nhân trong xã hội[A2] ”. Nó mang đầy đủ các đặc điểm, yếu tố của thị trường nói chung như tuân thủ và vận hành theo các quy luật của thị trường (quy luật cung – cầu; quy luật giá trị; quy luật cạnh tranh...) và mang đầy đủ đặc điểm của thị trường dịch vụ, như tính vô hình, tính không thể tách rời, tính không thể cất giữ, tính đa dạng và sự tham gia của người tiêu dùng...

Thị trường dịch vụ pháp lý là một thị trường rộng lớn và phức tạp, bao gồm nhiều thành phần khác nhau. Một số thành phần chính của thị trường dịch vụ pháp lý bao gồm: (1) Các tổ chức hành nghề luật sư (các tổ chức hành nghề luật sư có thể là các công ty luật, văn phòng luật sư, tổ chức phi lợi nhuận hoặc các cá nhân hành nghề luật sư độc lập; (2) Khách hàng của dịch vụ pháp lý (khách hàng của dịch vụ pháp lý là những người cần sử dụng dịch vụ pháp lý để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình). Khách hàng của dịch vụ pháp lý có thể là cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức hoặc cơ quan nhà nước; (3) Các loại dịch vụ pháp lý (dịch vụ pháp lý rất đa dạng, bao gồm tư vấn pháp luật, đại diện pháp lý, dịch thuật pháp lý, đào tạo pháp lý và các dịch vụ khác); (4) Giá cả dịch vụ pháp lý (Giá cả dịch vụ pháp lý phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm loại dịch vụ, độ phức tạp của vấn đề, kinh nghiệm của luật sư và địa điểm cung cấp dịch vụ; (5) Chất lượng dịch vụ pháp lý (chất lượng dịch vụ pháp lý phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm trình độ chuyên môn của luật sư, kinh nghiệm của luật sư, sự tận tâm của luật sư và sự hài lòng của khách hàng).

Để nhận diện thị trường dịch vụ pháp lý, cần làm rõ về các thành tố sau: (i) chủ thể tham gia vào thị trường; (ii) về phạm vi của thị trường dịch vụ pháp lý; (iii) về quy mô của thị trường dịch vụ pháp lý; (iv) về giá cả và chất lượng dịch vụ pháp lý.

1.1. Về chủ thể tham gia vào thị trường dịch vụ pháp lý

Phân tích về thị trường dịch vụ pháp lý cho thấy, các chủ thể tham gia vào thị trường này được xác định là:

a. Nhóm chủ thể trực tiếp cung cấp dịch vụ, gồm: luật sư, tư vấn viên pháp luật; trợ giúp viên pháp lý hoặc cộng tác viên trợ giúp pháp lý; tổ chức hành nghề luật sư (văn phòng luật sư, công ty luật và tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam. Tổ chức hành nghề luật sư phải có trụ sở làm việc tại Việt Nam); các trung tâm tư vấn pháp luật và các trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.

Chú ý 1: Trong quá trình nghiên cứu, có quan điểm cho rằng hoạt động tư vấn pháp luật của Tư vấn viên pháp lý và hoạt động trợ giúp pháp lý của Trợ giúp viên pháp lý chưa thể hiện đầy đủ đặc trưng, bản chất của “dịch vụ pháp lý”. Bởi vì: (i) về lý luận, chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý phải là người hành nghề chuyên nghiệp – Trong khi đó, Tư vấn viên pháp luật không phải là người hành nghề chuyên nghiệp, họ chỉ thực hiện tư vấn theo yêu cầu không có tính thường xuyên của hội viên tổ chức hoặc một số đối tượng khác, không được tham gia tố tụng với tư cách tư vấn viên pháp luật. Trợ giúp viên pháp lý được thực hiện tư vấn, hỗ trợ và đại diện tham gia tố tụng. (ii) Yếu tố thù lao, giá dịch vụ chưa thể hiện rõ: hoạt động tư vấn pháp luật của các tổ chức hội đoàn thể mang tính chất xã hội, phi lợi nhuận. Trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nước và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, Nhóm nghiên cứu giữ quan điểm hoạt động trợ giúp pháp lý và tư vấn pháp luật là dịch vụ pháp lý đặc thù và Trợ giúp viên pháp lý, Tư vấn viên pháp luật là chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý. Điều này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.

Chú ý 2: Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 thì ngoài các luật sư còn có các chủ thể khác được bào chữa cho bị cán, bị cáo như: (i) Người đại diện[1]; (ii) Bào chữa viên nhân dân[2]; (iii) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Theo Nhóm nghiên cứu (i) Người đại diện và (ii) Bào chữa viên nhân dân không phải là chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý. Do vậy, không phải là đối tượng nghiên cứu của Đề tài.

b. Nhóm chủ thể sử dụng dịch vụ pháp lý, là:

- Cơ quan, tổ chức[3], cá nhân Việt Nam;

- Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam;

- Cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam hoạt động tại nước ngoài;

- Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp tham gia hoặc có liên quan đến hoạt động xử lý dữ liệu cá nhân tại Việt Nam.

c. Nhóm chủ thể quản lý, gồm: cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư.

- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở đây được hiểu là cơ quan nhà nước có trách nhiệm quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư; tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý. Cụ thể gồm:

+ Chính phủ.

+ Bộ Tư pháp và các bộ, ngành có liên quan.

+ Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

+ Sở Tư pháp có chức năng giúp Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư; hoạt động tư vấn pháp luật,  trợ giúp pháp lý tại địa phương.

- Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư thực hiện tự quản luật sư và hành nghề luật sư theo quy định của Luật Luật sư và Điều lệ của mình.

1.2. Về phạm vi của thị trường dịch vụ pháp lý

Từ phân tích về dịch vụ pháp lý như đã trình bày ở phần trên cho thấy với vai trò giữ gìn và bảo đảm công lý, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Hay nói cách khác, việc cung cấp dịch vụ pháp lý góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; góp phần giảm thiểu các vụ án oan sai, bảo vệ tốt nhất quyền lợi của khách hàng trên cơ sở các quy định của pháp luật. Mặt khác góp phần đảm bảo cho các hoạt động của các cơ quan này diễn ra đúng pháp luật. 

Với mục tiêu pháp luật phải được mọi người nhận thức và thực hiện thống nhất trên toàn lãnh thổ và ở tất cả các ngành, các cấp. Theo đó, phạm vi của thị trường dịch vụ pháp lý được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực pháp luật[4] và quy mô của thị trường dịch vụ pháp lý phụ thuộc vào sự đầy đủ, cụ thể của hệ thống pháp luật; đồng thời phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của người dân và tổ chức (chú ý, nhu cầu ở đây còn phụ thuộc vào tâm lý, văn hóa và thói quen của người dân, tổ chức). 

Việc cung cấp dịch vụ pháp lý hiện nay được thể hiện thông qua:

- Dịch vụ đại diện pháp lý được hiểu là chủ thể cung cấp dịch vụ sẽ là người đại diện cho khách hàng, thay mặt cho khách hàng trước các cơ quan, tổ chức, trước các đối tác của khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của khách hàng theo đúng các quy định của pháp luật... Như vậy, dịch vụ đại diện pháp lý bao hàm cả việc tham gia tranh tụng trước Tòa như bào chữa cho bị can, bị cáo (đại diện quyền lợi cho bị can, bị cáo) trong các vụ án hình sự; bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn, bị đơn trong các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, tham gia bảo vệ quyền lợi cho các bên đương sự trong tố tụng trọng tài ở các tổ chức trọng tài thương mại trong nước và nước ngoài. Cụ thể:

+ Trong lĩnh vực tham gia tố tụng: các chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý (luật sư) tham gia hoạt động tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự; là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật.

+ Trong lĩnh vực đại diện ngoài tố tụng: Người cung cấp dịch vụ pháp lý đại diện cho khách hàng để giải quyết công việc có liên quan đến việc mà họ đã nhận theo phạm vi, nội dung được ghi trong hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc theo sự phân công của công ty luật hoặc văn phòng luật sư nơi luật sư hành nghề với tư cách là cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động. Họ sẽ cùng khách hàng hoặc thay mặt khách hàng làm việc với các cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết các vụ việc liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Thông thường, người cung cấp dịch vụ pháp lý tham gia đại diện ngoài tố tụng thể hiện trong các lĩnh vực như hành chính, lao động, khiếu nại…

- Tư vấn pháp luật là việc người cung cấp dịch vụ pháp lý hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng thực hiện quyền, nghĩa vụ của khách hàng trong tất cả các lĩnh vực pháp luật. Hay nói một cách khác, “tư vấn pháp luật” là việc giải đáp pháp luật, hướng dẫn ứng xử đúng pháp luật nhằm giúp công dân, tổ chức trong nước và quốc tế thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; hướng dẫn người được tư vấn tự đưa ra lựa chọn và quyết định cho vấn đề của mình. Khi thực hiện tư vấn pháp luật, người cung cấp dịch vụ pháp lý phải giúp khách hàng thực hiện đúng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật.

Trong lĩnh vực tư vấn pháp luật, người cung cấp dịch vụ pháp lý tư vấn cho khách hàng ứng xử đúng pháp luật để đảm bảo quyền lợi hợp pháp tốt nhất của mình. Hoạt động tư vấn pháp luật có thể là: tư vấn hợp đồng, tư vấn cho các doanh nghiệp hoặc thực hiện các dịch vụ pháp lý khác,…thông qua hoạt động hướng dẫn, giải đáp pháp luật, đưa ra các ý kiến pháp lý và hướng giải quyết hoặc cung cấp thông tin liên quan đến vụ việc hoặc giúp soạn thảo văn bản, tài liệu... Việc tư vấn pháp luật cho khách hàng của người cung cấp dịch vụ pháp lý góp phần không nhỏ trong việc giải quyết những tranh chấp xảy ra trong đời sống xã hội, ngăn chặn được những hành vi vi phạm pháp luật, giảm bớt phiền hà cho cơ quan nhà nước khi người dân thiếu hiểu biết pháp luật đi khiếu nại không đúng cơ quan có thẩm quyền.

- Cung cấp dịch vụ pháp lý khác là việc người cung cấp dịch vụ pháp lý giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính; giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải quyết khiếu nại; dịch thuật, xác nhận giấy tờ, các giao dịch và giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật. Chú ý, khi cung cấp dịch vụ pháp lý khác, người cung cấp dịch vụ pháp lý có quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật có liên quan (Điều 30 Luật Luật sư 2006).

Như vậy, hoạt động tư vấn pháp luật và dịch vụ pháp lý khác của người cung cấp dịch vụ pháp lý là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, lành mạnh theo đúng pháp luật, đồng thời hỗ trợ tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển thị trường dịch vụ, tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm; góp phần bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp cả ở nước ngoài. Sự tham gia tích cực của người cung cấp dịch vụ pháp lý trong dự án đầu tư, các giao dịch kinh doanh, thương mại không chỉ góp phần phát huy nội lực mà còn thu hút ngoại lực, thúc đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

1.3. Về quy mô của thị trường dịch vụ pháp lý

Quy mô thị trường hiểu một cách đơn giản nhất là tổng số lượng bán hàng hoặc khách hàng của một ngành, một lĩnh vực được xác định trong một khoảng thời gian nhất định (thường lấy niên độ tính là một năm). Hay nói một cách khác, quy mô thị trường là tổng số khách hàng đã mua sản phẩm, tổng doanh thu bán hàng và những khách hàng tiềm năng ở một thời gian cụ thể.

Với cách hiểu như vậy, để xác định quy mô của thị trường dịch vụ pháp lý, chúng ta có thể xác định quy mô của thị trường là tổng số dịch vụ pháp lý (dịch vụ đại diện pháp lý, dịch vụ tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý khác) được cung cấp bởi các chủ thể trong một năm và những khách hàng tiềm năng có thể sử dụng dịch vụ pháp lý trong khoảng thời gian ấy. 

Với phạm vi của thị trường dịch vụ pháp lý như đã phân tích ở trên chúng ta có thể thấy quy mô của thị trường dịch vụ pháp lý là rất lớn. Đó là nhu cầu được sử dụng dịch vụ pháp lý trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội như: (1) đại diện cho khách hàng, thay mặt cho khách hàng trước các cơ quan, tổ chức và trước các đối tác của khách hàng; (2) hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng (người dân, tổ chức trong nước và quốc tế) trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ trên tất cả các lĩnh vực pháp luật.

Cụ thể, để xác định quy mô của thị trưởng dịch vụ pháp lý chúng ta có thể có các phương pháp/cách thức như: (i) dựa vào số lượng các hợp đồng dịch vụ pháp lý đã được ký kết và tổng số các tranh chấp đã sảy ra trong xã hội trong năm; (ii) dựa vào sổ thụ lý của hệ thống tòa án; sổ thụ lý của các tổ chức trọng tài... theo năm; (iii) dự vào số doanh thu hay số lượng thuế mà các tổ chức cung cấp dịch vụ pháp lý phải nộp theo năm...; (iv) dựa theo tỷ lệ phần trăm GDP của quốc gia[5].

- Nếu tính theo doanh thu của các chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý thì quy mô của thị trường pháp lý có thể được xác định theo doanh thu của các Tổ chức hành nghề Luật sư[6] + phí luật sư của các luật sư hoạt động độc lập (trong và ngoài nước) + doanh thu của các trung tâm tư vấn pháp luật và + tổng thù lao, bồi dưỡng và chi phí thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý của người thực hiện trợ giúp pháp lý do các Trung tâm trợ giúp pháp lý.

- Nếu tính theo tỷ lệ phần trăm GDP của quốc gia, tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia cho thấy có một số nước hoặc tổ chức quốc tế đã sử dụng các xác định này để đánh giá và định hướng cho việc tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý.

- Nếu tính theo tiêu chí khách hàng tiềm năng thì quy mô của thị trường dịch vụ pháp lý có thể được xác định theo các nhu cầu có khả năng sử dụng dịch vụ pháp lý bao gồm:

+ Số người bị truy tố trước TAND cấp sơ thẩm, phúc thẩm (đối với các vụ án hình sự); số nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, hôn nhân và gia đình (tham gia tố tụng) trong một năm.

+ Số lượng các hợp đồng, giao dịch (kinh tế, thương mại, đầu tư...) được ký kết trong một năm.

+ Số lượng các khiếu nại, khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong một năm...

Dù theo cách tính nào để xác định về quy mô của thị trường dịch vụ pháp lý, chúng ta có thể thấy tiềm năng của thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam hiện nay và trong tương lai là rất lớn. Đây cũng là căn cứ để các cơ quan có thẩm quyền hoạch định chính sách và định hướng để thị trường dịch vụ pháp lý phát triển một cách bền vững, đúng mục tiêu của Nhà nước; qua đó tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

1.4. Về giá cả và chất lượng của dịch vụ pháp lý

Giá cả dịch vụ pháp lý khi xác định sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: loại dịch vụ, độ phức tạp của vấn đề, kinh nghiệm của luật sư và địa điểm cung cấp dịch vụ. Chất lượng dịch vụ pháp lý được cung cấp sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như: trình độ chuyên môn của luật sư, kinh nghiệm của luật sư, sự tận tâm của luật sư và sự hài lòng của khách hàng.

Khi sử dụng dịch vụ, người sử dụng dịch vụ pháp lý phải trả cho người cung cấp dịch vụ pháp lý một khoản thù lao bao gồm cả chi phí sử dụng dịch vụ pháp lý (phí luật sư) theo thỏa thuận khi ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với chất lượng dịch vụ tương ứng.

Về cơ bản việc thỏa thuận phí luật sư phải phù hợp với những nguyên tắc của pháp luật dân sự về tiền công trong hợp đồng dịch vụ. Theo đó, người cung cấp dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức, cơ quan và được nhận một khoản thù lao, được thanh toán các chi phí hợp lý khác do người sử dụng dịch vụ trả. Như vậy, thù lao là khoản tiền bù đắp lại công sức mà người cung cấp dịch vụ pháp lý bỏ ra để thực hiện dịch vụ pháp lý. Chi phí là những khoản tiền mà người cung cấp dịch vụ pháp lý phải chi trả trong khi thực hiện dịch vụ pháp lý như: tiền tàu xe, lưu trú, các chi phí hợp lý khác. Khách hàng phải trả thù lao và thanh toán chi phí thực tế cho người cung cấp dịch vụ pháp lý khi sử dụng dịch vụ pháp lý.

Tuy nhiên, nguyên tắc thoả thuận về thù lao chỉ được áp dụng đối với vụ việc đại diện trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý khác. Chú ý: đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc cho cơ quan, tổ chức (tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức khác) theo chế độ hợp đồng lao động thì được hưởng lương theo quy định của pháp luật về lao động.

2. Đặc thù của thị trường dịch vụ pháp lý

Về lý luận “Thị trường dịch vụ pháp lý”, trước hết cần được khẳng định là “thị trường dịch vụ”, do vậy, nó mang đầy đủ các đặc điểm, yếu tố của thị trường nói chung như: tuân thủ và vận hành theo các quy luật của thị trường (quy luật cung – cầu; quy luật giá trị; quy luật cạnh tranh...) và mang đầy đủ đặc điểm của thị trường dịch vụ, như: tính vô hình, tính không thể tách rời, tính không thể cất giữ, tính đa dạng và sự tham gia của người tiêu dùng... Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm thị trường dịch vụ pháp lý là loại hình dịch vụ đặc biệt (việc cung cấp dịch vụ pháp lý phải do những nhà chuyên nghiệp thực hiện bởi chỉ những người đủ điều kiện cũng như am hiểu pháp luật, biết vận dụng pháp luật, có kỹ năng nghề nghiệp mới có đủ kinh nghiệm, khả năng tư vấn pháp luật).Vì vậy, thị trường dịch vụ pháp lý là một thị trường đặc thù, có những đặc điểm khác biệt so với các thị trường khác. Một số đặc điểm đặc thù của thị trường dịch vụ pháp lý chung (ở cả thế giới và Việt Nam) được xác định, gồm:

(i) Tính chuyên môn cao: Dịch vụ pháp lý đòi hỏi trình độ chuyên môn cao của luật sư, bao gồm kiến thức pháp luật, kỹ năng tư vấn và giải quyết vấn đề. Đồng thời, dịch vụ pháp lý là các dịch vụ liên quan đến pháp luật, do đó các tổ chức hành nghề luật sư cần tuân thủ các quy định pháp luật về hành nghề luật sư.

 (ii) Tính đặc thù của dịch vụ: Dịch vụ pháp lý thường là các dịch vụ cá biệt, không có tính tiêu chuẩn hóa cao. Điều này khiến việc cung cấp dịch vụ pháp lý trở nên khó khăn và phức tạp hơn.

(iii) Tính ngẫu nhiên của dịch vụ: Dịch vụ pháp lý thường được cung cấp khi khách hàng gặp phải các vấn đề pháp lý bất ngờ. Điều này khiến việc dự báo nhu cầu và cung cấp dịch vụ pháp lý trở nên khó khăn hơn.

(iv) Tính cạnh tranh cao: Thị trường dịch vụ pháp lý là một thị trường cạnh tranh cao, với sự tham gia của nhiều tổ chức hành nghề luật sư khác nhau. Các tổ chức hành nghề luật sư cần cạnh tranh về giá cả, chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng để thu hút khách hàng.

(v) Dịch vụ pháp lý thuộc kiến trúc thượng tầng nên phải phù hợp với cơ sở kinh tế – xã hội và gắn chặt với sự phát triển kinh tế - xã hội và hệ thống pháp luật ở từng thời kỳ và vùng miền...

Ngoài ra, thị trường dịch vụ pháp lý còn có các điểm đặc thù như:

2.1. Thị trường dịch vụ pháp lý là thị trường bị hạn chế bởi các quy định của pháp luật quốc gia

Như trên đã phân tích, để được cung cấp dịch vụ pháp lý cho cá nhân, công dân và tổ chức ở Việt Nam, pháp luật đã quy định một cách cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn và thầm quyền cũng như về lĩnh vực, nội dung cung cấp đối với mỗi chủ thể. Theo đó, Luật sư là công dân Việt Nam được cung cấp đối với mọi dịch vụ pháp lý theo quy định của Luật Luật sư. Còn các chủ thể khác có những hạn chế tương ứng. Ví dụ:

- Chỉ Luật sư là công dân Việt Nam mới được (1) tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự; (2) Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật; (3) Thực hiện tư vấn pháp luật đối với các vấn đề về tranh chấp hợp đồng kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, đất đai…; (4) Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật; (5) Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của Luật Luật sư như soạn đơn khởi kiện đòi chia di sản thừa kế, đơn ly hôn, đơn khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo yêu cầu của khách hàng…

- Tư vấn viên pháp lý - nếu không phải là Luật sư thì chỉ được thực hiện tư vấn pháp luật trong phạm vi hoạt động của Trung tâm tư vấn pháp luật.

- Luật sư nước ngoài[7] và luật sư Việt Nam hoạt động trong tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài không được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án Việt Nam hoặc thực hiện các dịch vụ về giấy tờ pháp lý và công chứng liên quan tới pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, được cử luật sư Việt Nam trong tổ chức hành nghề của mình tư vấn pháp luật Việt Nam.

2.2. Chủ thể tham gia cung cấp dịch vụ pháp lý phải đáp ứng các điều kiện nhất định

Với mục tiêu cung cấp dịch vụ góp phần bảo vệ, giữ gìn và bảo đảm công lý, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật, vì vậy, ở các quốc gia đều xác định đây là một nghề đặc biệt. Theo đó chỉ những người có trình độ cử nhân luật và phải qua đào tạo nghề hoặc có những chứng chỉ cụ thể và phải đăng ký hoạt động với cơ quan/tổ chức có thẩm quyền mới được cung cấp dịch vụ này. Quy định này cũng tương đồng với quy định của các nước.

2.3. Thị trường dịch vụ pháp lý là thị trường mở, có tính không đồng nhất và bất cân xứng

Thị trường dịch vụ pháp lý được xác định là thị trường mở, xuất phát từ quy định luật sư được cung cấp dịch vụ trên tất cả các lĩnh vực pháp luật. Do vậy, khi pháp luật ngày càng đầy đủ, hoàn thiện thì dịch vụ pháp lý cũng được mở rộng và hoàn thiện tương ứng. Mặt khác, do được cung cấp bởi các chủ thể khác nhau (luật sư, tư vấn viên pháp lý, trợ giúp viên pháp lý), với trình độ, kỹ năng không giống nhau - hay nói cách khác là sản phẩm của dịch vụ không tiêu chuẩn hóa được bởi vì hiệu quả của hoạt động cung ứng dịch vụ bị chi phối bởi yếu tố con người (người nhân viên cung cấp dịch vụ và khách hàng) tạo nên chất lượng phục vụ không đồng đều giữa các khách hàng với nhau.

Các dịch vụ pháp lý có vai trò rất quan trọng; chúng là đầu vào thiết yếu cho toàn bộ nền kinh tế và là nền tảng quan trọng của một xã hội vận hành tốt. Cá nhân, tổ chức thường sử dụng dịch vụ pháp lý vào những thời điểm quan trọng trong cuộc sống. Kết quả mà họ nhận được trong những tình huống này có thể gây ra những hậu quả lớn về tài chính và cá nhân mà không thể đảo ngược hoặc khắc phục được. Ví dụ, (i) một cá nhân có thể bị trục xuất do nhận được lời dịch vụ tư vấn kém chất lượng liên quan đến một vấn đề luật nhập cư; (ii) một doanh nghiệp không xin được bằng sáng chế cho một sản phẩm mới do nhận được dịch vụ tư vấn pháp luật kém chất lượng... Một thị trường dịch vụ pháp lý hoạt động tốt, nơi người dùng có thể lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ có chất lượng phù hợp và nơi dịch vụ được cung cấp thể hiện giá trị đồng tiền, đặc biệt quan trọng khi sản phẩm hoặc dịch vụ đó quan trọng đối với cá nhân, tổ chức, nền kinh tế và xã hội.

Có một số đặc điểm chính của lĩnh vực dịch vụ pháp lý, một số trong đó có thể dẫn đến thất bại thị trường như:

- Thông tin bất đối xứng - các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý (mà thường là các công ty luật hay luật sư) là những người có kiến thức pháp luật và kỹ năng chuyên môn mà người sử dụng dịch vụ pháp lý thường không có hoặc không sâu. Như vậy, người sử dụng dịch vụ pháp lý có thể không đánh giá được chất lượng của dịch vụ được cung cấp. Sự bất cân xứng về thông tin giữa người sử dụng dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ pháp lý hợp pháp đôi khi có thể tạo ra động cơ khuyến khích các nhà cung cấp tính phí cao hơn… Hậu quả của việc tư vấn pháp lý kém chất lượng có thể ảnh hưởng đáng kể đến người sử dụng dịch vụ pháp lý đó, mà còn ảnh hưởng đến bên thứ ba. Một tác động tiêu cực khác có thể phát sinh từ việc luật sư đại diện không tốt cho khách hàng là làm giảm hiệu quả và hiệu lực của hệ thống tư pháp. Ngoài ra, các vấn đề liên quan đến lợi ích công rộng hơn thường được coi là biện minh cho các quy định cụ thể trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý. Những cân nhắc này bao gồm lợi ích cơ bản của công chúng trong việc hỗ trợ pháp quyền; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân; bảo đảm tính độc lập của nghề luật sư; và đảm bảo tiếp cận công lý để các cá nhân có thể tham gia bình đẳng trong xã hội.

- Các vấn đề “pháp lý” không phải lúc nào cũng được xác định rõ ràng - người sử dụng dịch vụ pháp lý có thể không phải lúc nào cũng xác định được rằng họ có vấn đề “pháp lý” và đôi khi có thể phớt lờ vấn đề hoặc cố gắng tự mình giải quyết vấn đề (ví dụ: thông qua nghiên cứu của chính họ hoặc bằng cách tìm kiếm lời khuyên không chính thức từ một người liên hệ), thay vì tìm kiếm lời khuyên của một nhà cung cấp dịch vụ pháp lý.

Người sử dụng dịch vụ pháp lý cần các nhà cung cấp minh bạch về giá cả và chất lượng của những gì họ đang cung cấp để lựa chọn những ưu đãi nhằm giải quyết các nhu cầu pháp lý của họ. Điều này tạo ra một chu trình cạnh tranh lành mạnh, trong đó các nhà cung cấp được thúc đẩy bởi những người tiêu dùng có hiểu biết để cạnh tranh và đổi mới nhằm cải thiện giá trị sản phẩm của họ và giành được khách hàng.

3. Các yếu tố tác động đến thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam

3.1. Từ định hướng chính trị

Với mục tiêu đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, ưu tiên những ngành có tiềm năng, lợi thế, những loại hình dịch vụ mới mang lại hiệu quả cao; chú trọng các dịch vụ hỗ trợ sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp. Giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước, nhất là về thể chế, chính sách[8] là những định hướng tác động mang tính căn cốt đối với yêu cầu phát triển thị trường dịch vụ pháp lý.

Vai trò của thị trường dịch vụ pháp lý đối với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội đã được khẳng định trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, khi đánh giá về kết quả thực hiện các đột phá chiến lược Báo cáo đã khẳng định: “Hoạt động luật sư, công chứng, trợ giúp pháp lý, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp có bước phát triển mạnh, thị trường dịch vụ pháp lý bước đầu có đóng góp tích cực cho việc quản trị rủi ro pháp lý trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp”[9].

Để phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025 thì một trong các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô đã được Đảng xác định là: tiếp tục phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp”[10]. Phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý cũng là một trong những giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực kiến tạo phát triển[11].

Trên đây là các chủ trương, định hướng quan trọng của Đảng về phát triển dịch vụ pháp lý cũng như định hướng xây dựng và phát triển thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam trong thời gian tới. Đồng thời, cũng là những căn cứ chính trị quan trọng để Nhà nước xây dựng, ban hành các quy định nhằm hỗ trợ, thúc đẩy thị trường dịch vụ pháp lý phát triển.

3.2. Từ yếu tố văn hóa, xã hội

Các yếu tố văn hóa, xã hội luôn gắn liền với một  phạm vi không gian xã hội nhất định, nơi các cá nhân và cộng đồng người tổ chức các hoạt động sống, sinh hoạt, cùng nhau tạo dựng, thừa nhận và chia sẻ các giá trị văn hóa, lối sống, phong tục tập quán, lễ nghi… Với những mặt, những khía cạnh biểu hiện của mình, các yếu tố văn hóa, xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động thực hiện, thi hành pháp luật, thể hiện trên các điểm sau:

- Các phong tục, tập quán trong cộng đồng xã hội có ảnh hưởng nhất định tới hoạt động thực hiện pháp luật của các tầng lớp nhân dân. Lối sống đô thị và lối sống nông thôn có ảnh hưởng khác nhau tới hoạt động thực hiện pháp luật.

Đặc trưng nổi bật của lối sống đô thị là tích cực chính trị - xã hội [t3] ở đô thị cao; tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội. Mặt khác, ở vùng đô thị phạm vi giao tiếp về xã hội cơ bản tương đối rộng, cường độ giao tiếp cao và mang tính ẩn danh trong giao tiếp. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật và các hình thức thực hiện pháp luật. Tuy nhiên, xét trên phương diện xã hội, đây là môi trường phát sinh nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm nhiều tới mức đáng báo động, gây khó khăn cho công tác quản lý xã hội và hoạt động thực thi, bảo vệ pháp luât.

Lối sống nông thôn là lối sống mang tính cộng đồng rất cao và chặt chẽ, liên kết cả thành viên trong làng xã lại với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác. Điều đó thể hiện ở mối quan hệ gắn bó, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ, lối xóm ở nông thôn. Đây là một biểu hiện rất riêng, rất đặc thù của lối sống nông thôn Việt. Tính cộng đồng được coi là điều kiện thuận lợi đối với hoạt động thực hiện pháp luật. Tuy nhiên, cũng là tiền đề cho thói quen ỷ lại vào tập thể và tâm lý an phận thủ thường, e dè khi đối diện với cơ quan Nhà nước bởi nhiều lý do chủ quan và khách quan.

Về văn hóa, thói quen ứng xử “nặng tình - nhẹ lý” của người Việt đã đem lại những hệ quả tiêu cực trong văn hóa ứng xử với pháp luật xưa và nay. Ý thức tôn trọng pháp luật và tính chủ động sử dụng pháp luật là những điểm yếu lớn nhất trong thực tiễn pháp lý ở nước ta hiện nay. Điển hình như là đối với người dân, số đông vẫn e dè khi nói đến việc kiện tụng, giải quyết tranh chấp bằng luật pháp. Đối với doanh nghiệp, việc giải quyết các tranh chấp không cần đến pháp luật vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Trong xã hội Việt Nam cổ truyền, truyền thống trọng tình hơn lý đã khiến cho pháp luật không phải là một cách giải quyết tranh chấp được ưa chuộng. Một mặt, họ cho rằng quan liêu, cửa quyền sẽ không mang lại cho họ kết quả như mong muốn nhờ pháp luật. Từ nhận thức đó dẫn đến hành vi sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho mình không trở thành một thói quen ứng xử phổ biến của người dân. Mặt khác, câu thành ngữ “vô phúc đáo tụng đình” thể hiện thái độ của người dân coi chuyện ra toà là một cái gì đó ghê gớm, làm tổn hại thanh danh và sứt mẻ tình cảm, vì “một đời kiện, chín đời thù”. Thực tế ấy cho thấy, trong một xã hội mà nếu cái tình được đặt ở vị trí được ưu tiên hơn, thậm chí lấn át cái lý thì pháp luật tất yếu sẽ không được coi là một công cụ quan trọng để điều tiết các quan hệ xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng lý giải việc ít dùng dịch vụ pháp lý của người dân, doanh nghiệp khi có tranh chấp xảy ra.

3.3. Từ kinh tế thị trường

Với bản chất là cung ứng dịch vụ, hoạt động dịch vụ pháp lý cùng chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường[12] như các lĩnh vực dịch vụ khác trong nền kinh tế. Sự chi phối của cơ chế thị trường đối với hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý và thị trường dịch vụ pháp lý thể hiện ở những điểm sau:

(i)  Trên phương diện là dịch vụ, công việc của người cung cấp dịch vụ pháp lý phải thỏa mãn được mong đợi của khách hàng và làm khách hàng hài lòng tương ứng khách hàng sẽ tiếp tục sử dụng dịch vụ và trả thù lao. Trong bối cảnh số lượng các tổ chức hành nghề pháp luật tại thị trường Việt Nam ngày càng tăng, sự cạnh tranh giữa các tổ chức tư vấn pháp luật nhằm giữ và thu hút khách hàng càng trở nên mạnh mẽ, sôi động và chuyên nghiệp hơn. Cách thức cạnh tranh không chỉ dừng lại ở việc đưa ra mức phí dịch vụ hấp dẫn mà các tổ chức hành nghề pháp luật còn phải đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi ngày càng khắt khe của khách hàng, chẳng hạn như phải giải quyết công việc khách hàng trong thời gian ngắn theo thỏa thuận, làm việc ngoài giờ hành chính, chấp nhận giải quyết các vụ việc khó khăn, phức tạp để làm hài lòng khách hàng. Bên cạnh đó, các tổ chức phải thường xuyên có các hoạt động chuyên môn và xã hội nhằm quảng bá và nâng cao thương hiệu, uy tín cho tổ chức mình.

(ii) Dưới tác động của cơ chế thị trường, sự thay đổi về nhu cầu của khách hàng đối với từng lĩnh vực cụ thể cũng dẫn đến sự gia tăng về số lượng người hành nghề trong những lĩnh vực đó. Trước đây, khi nền kinh tế của Việt Nam chưa phát triển, các luật sư thường tập trung nhiều ở các lĩnh vực truyền thống như dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và các giao dịch kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, hiện nay khi nhiều lĩnh vực mới trong nền kinh tế có bước phát triển mạnh mẽ như tài chính, chứng khoán, thuế, sở hữu trí tuệ, đầu tư, v.v. thị trường dịch vụ tư vấn pháp luật tại Việt Nam ngày càng chào đón nhiều luật sư mới tham gia trong các lĩnh vực này.

Tuy nhiên, khác với các thị trường dịch vụ khác, thị trường dịch vụ pháp lý tại Việt Nam, bên cạnh chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường, còn bị ràng buộc và chi phối bởi các nguyên tắc hành nghề luật sư được quy định tại Luật luật sư và Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư của Hội đồng Luật sư toàn quốc. Nguyên nhân xuất phát từ bản chất của nghề luật sư là một nghề đặc thù so với các ngành, nghề khác với mục tiêu cao cả là để giúp đỡ và bảo vệ mọi người, hướng mọi người đến cải thiện và tuân thủ pháp luật nhằm mục đích xây dựng một xã hội công bằng. Chính bởi sự chi phối của các quy định và quy tắc đạo đức này, thị trường dịch vụ tư vấn pháp luật [t4] hoạt động có một số ràng buộc và hạn chế nhất định, chẳng hạn như:

(i) Trong cơ chế thị trường, giá dịch vụ phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên "thuận mua vừa bán" để các bên cùng có lợi. Khách hàng có thể thỏa thuận với bên cung cấp dịch vụ về phương thức tính phí và cách thức thanh toán mà khách hàng mong muốn và cảm thấy thỏa đáng nhất. Trên thực tế, rất nhiều khách hàng có thể đề nghị luật sư tính thù lao căn cứ theo kết quả vụ việc, ví dụ như tính trên giá trị giao dịch thành công của khách hàng hoặc chi trả thù lao khi vụ việc thành công theo yêu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, cách thức tính phí như vậy sẽ không được phép áp dụng trong việc cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật tại Việt Nam. Bởi lẽ, Luật luật sư chỉ quy định cho phép tổ chức hành nghề luật sư và luật sư thỏa thuận thù lao theo các cách thức: tính theo giờ làm việc của luật sư; thù lao trọn gói, tính theo phần trăm giá trị hợp đồng hoặc dự án hoặc hợp đồng dài hạn với mức thù lao cố định. Ngoài ra, quy định pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư cũng không cho phép luật sư được cam kết bảo đảm kết quả của vụ việc với mục đích để tính thù lao theo kết quả cam kết.

(ii) Luật sư cũng không được phép cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng trong trường hợp có xung đột lợi ích giữa khách hàng mới với khách hàng hiện tại của tổ chức hành nghề luật sư hoặc giữa khách hàng và luật sư, vợ, chồng, con, cha mẹ, anh em của luật sư trong cùng một vụ việc hoặc trong những vụ việc khác có liên quan đến vụ việc đó... Theo quy định của Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, trong những trường hợp xảy ra xung đột lợi ích như vậy, luật sư và tổ chức hành nghề luật sư phải từ chối cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Quy định này là bắt buộc đối với luật sư và tổ chức hành nghề luật sư kể cả trong trường hợp khách hàng rất muốn được tổ chức hành nghề luật sư cung cấp dịch vụ và chấp nhận khả năng xảy ra xung đột lợi ích. Trên thực tế, tại thị trường dịch vụ tư vấn pháp luật hiện nay, các tổ chức hành nghề luật sư đều đã dần dần hệ thống hóa dữ liệu về khách hàng và vụ việc mà tổ chức hành nghề luật sư đang cung cấp trên hệ thống mạng máy tính để tra cứu về khả năng xung đột lợi ích của khách hàng trước khi chấp nhận cung cấp dịch vụ pháp lý.

(iii) Chịu sự tác động của cơ chế thị trường và vì mục đích lợi nhuận, sự cạnh tranh giữa các luật sư, tổ chức hành nghề trong thị trường dịch vụ pháp lý là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, khác với các thị trường dịch vụ khác, cách thức cạnh tranh của các luật sư, tổ chức hành nghề trong thị trường dịch vụ pháp lý có nhiều ràng buộc nghiêm ngặt nhằm đảm bảo tính đúng đắn và giữ gìn đạo đức của nghề luật sư. Một số hạn chế về cạnh tranh mà các luật sư, tổ chức hành nghề trong thị trường dịch vụ pháp lý tại Việt Nam không được phép làm như: (i) So sánh năng lực nghề nghiệp, phân biệt vùng, miền hoạt động hành nghề của luật sư hoặc tổ chức hành nghề luật sư này với các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư khác; (ii) Xúi giục khách hàng từ chối đồng nghiệp dễ nhận vụ việc về cho mình hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo luật sư đồng nghiệp; hoặc (iii) Trực tiếp hoặc sử dụng các nhân viên của mình hoặc người khác làm người lôi kéo, dụ dỗ khách hàng, trước trụ sở các cơ quan tiến hành tố tụng, trại tạm giam, cơ quan nhà nước và các tổ chức khác.

3.4. Từ hội nhập kinh tế, quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

3.4.1. Tác động từ hội nhập kinh tế, quốc tế

Trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, song song với làn sóng đầu tư từ nước ngoài vào trong nước, những loại hình kinh doanh trong nước ngày càng đa dạng và phức tạp hơn như lĩnh vực sở hữu trí tuệ, thị trường chứng khoán, thị trường công cụ tài chính… Đặc biệt, các doanh nghiệp trong nước trong quá trình mở rộng tầm kinh doanh của mình ra thế giới đã phải đương đầu với những hệ thống “phòng thủ thương mại” và “chế tài quốc tế” như những vụ kiện chống phá giá, vụ kiện ở trọng tài thương mại quốc tế...  Trong bối cảnh này, thị trường cung ứng dịch vụ pháp lý được tạo ra từ những thị trường kinh doanh của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, đòi hỏi người luật sư phải có những phẩm chất, kiến thức kinh doanh quốc tế nhất định.

Việc gia nhập WTO và các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã, đang tham gia trở thành một “cú hích” lớn, đòi hỏi các quy định pháp luật Việt Nam không trở thành những rào cản trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời cần đồng bộ hóa các quy định pháp luật trong nước so với các thông lệ, quy tắc thực hành thương mại thế giới và việc thực hiện công khai minh bạch hóa các thiết chế quản lý theo quy định của WTO. Toàn cầu hóa thương mại và kinh doanh đã dẫn đến toàn cầu hóa các dịch vụ pháp lý và nhu cầu ngày càng tăng về tư vấn pháp lý vượt ra ngoài biên giới của một khu vực tài phán. Khách hàng thường thích có một cố vấn pháp lý cố định thay vì cố vấn pháp lý ở các khu vực khác nhau. Trong bối cảnh đó, các chuyên gia tư vấn pháp luật nước ngoài đã trở thành đặc điểm chung của nghề luật sư. Họ cung cấp dịch vụ pháp lý ở nước ngoài bằng cách tư vấn về pháp luật quốc tế, luật pháp nước sở tại của họ hoặc luật pháp của một quốc gia thứ ba mà họ đủ tiêu chuẩn hành nghề. Sự thay đổi của thị trường dịch vụ pháp lý đã được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố khác nhau trong những năm qua: sự mở rộng của các bộ phận pháp lý nội bộ, toàn cầu hóa (thông qua sáp nhập và thuê ngoài), tiến bộ công nghệ và sự gia tăng của các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý thay thế.

Sự hội nhập của Việt Nam với thế giới, tự nó cũng tạo ra những cơ hội hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ pháp lý ngày càng mở rộng, tạo tiền đề cho việc học tập nâng cao kỹ năng hành nghề luật của giới luật sư Việt Nam từ các hãng luật nước ngoài. Đây là một thuận lợi lớn đối với giới luật sư nói chung và người cung cấp dịch vụ pháp lý nói riêng, bởi với những cải cách minh bạch hóa về thiết chế quản lý sẽ giúp luật sư tư vấn có thể dự đoán được các rủi ro pháp lý trong quy trình thực hiện hệ thống quản lý doanh nghiệp, vốn trước kia rất chồng chéo bằng những quy định thiếu minh bạch. Dịch vụ pháp lý cùng với quá trình hội nhập đã ngày một mở rộng. Khách hàng không chỉ tìm đến nhà tư vấn để giải quyết những sự cố pháp lý đã xảy ra, hoặc tìm giải pháp cho những vấn đề đã được định hình như đàm phán soạn thảo một hợp đồng, thực hiện thủ tục thành lập doanh nghiệp mà còn tìm đến với luật sư để tìm hiểu những cơ hội, thách thức kinh doanh. Có thể nói rằng hợp tác quốc tế toàn diện bằng sự chuyển giao công nghệ đã nâng đội ngũ hành nghề luật Việt Nam lên một tầm cao mới. Tuy nhiên, cũng tạo nhiều khó khăn thách thức mà những mặt trái của quá trình hợp tác quốc tế mang lại, đó là khuynh hướng an phận, đi làm thuê cho nước ngoài. Như vậy, sẽ khó lòng tạo ra được những hãng luật Việt Nam thực thụ.

3.4.2. Từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) với việc ứng dụng ngày càng phổ biến hơn những công nghệ mới như chuỗi khối, trí thông minh nhân tạo, internet vạn vật, robot, điện toán đám mây, dữ liệu lớn (big data) cũng như các công nghệ khác đang liên tục được phát minh ra, mà cốt lõi là quá trình chuyển đổi số, đang làm thay đổi mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Sự ứng dụng rộng rãi những thành tựu từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là sự gia tăng của nền kinh tế số, kinh tế sáng tạo, kinh tế chia sẻ, sự thông minh hóa quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng sản phẩm, thông minh hóa quá trình quản trị xã hội, hình thành các mối quan hệ xã hội mới, những tương tác mới giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với người lao động và người tiêu dùng, giữa người dân và chính quyền đang thách thức những quan điểm pháp lý truyền thống, đòi hỏi hệ thống pháp luật cần phải có những điều chỉnh tương ứng. Đồng thời, CMCN 4.0 đã và đang tác động toàn diện, sâu rộng và nhanh chóng trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có hoạt động hành nghề Luật sư. Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và trí thông minh nhân tạo[13] đã có tác động trực tiếp tới tất cả các ngành dịch vụ. Với sự phát triển của trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý cùng với những ưu điểm vượt trội (dữ liệu lớn, tốc độ tra cứu quy định pháp luật chuẩn xác, nhanh chóng, khả năng dự liệu rủi ro pháp lý toàn diện, chi phí pháp lý thấp và được công khai chi tiết…) đang tạo nên một áp lực cạnh tranh ngày càng lớn đối với những người hành nghề Luật sư truyền thống.

Cuộc CMCN 4.0 vừa giúp các Luật sư giải quyết công việc một cách hiệu quả và chính xác, bên cạnh đó, những thách thức mới cũng đang được đặt ra khiến nghề Luật sư cũng phải thích ứng để bắt kịp sự phát triển chung này. Có thể nói rằng, CMCN 4.0 hiện nay đã đưa giới Luật sư Việt Nam đến với nhiều cơ hội nhưng cũng đầy thách thức. Với Việt Nam, có tới hơn 64 triệu người sử dụng Internet cùng trên một trăm triệu thuê bao thiết bị di động[14], các mô hình kinh tế chia sẻ và thương mại điện tử đang bước vào giai đoạn phát triển bùng nổ. Cách mạng công nghiệp 4.0, vì thế, về nhiều mặt không còn xa lạ với Việt Nam mà đang tác động trực diện tới sinh hoạt thường nhật của người dân.

Tác động rõ ràng nhất của Cách mạng công nghiệp 4.0 là trí tuệ nhân tạo và sự xuất hiện của robot có thể thay thế con người về khả năng tính toán, ghi nhớ, phân tích cùng hiệu suất công việc cao[15]. Vì vậy một số công việc mà AI có thể làm thay con người trong một số hoạt động nghề nghiệp cụ thể thuộc lĩnh vực tư pháp, đưa ra các phán xử - tự xử lý thông tin và đưa ra phán quyết của mình. Hiện nay đã có sự tham gia của trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) vào thị trường dịch vụ pháp lý[16]. Trí tuệ nhân tạo giúp tự động hoá, tin học hoá một số công việc buộc luật sư phải tập trung vào giá trị gia tăng của mình; làm thay đổi cấu trúc văn phòng luật; điều chỉnh lại thù lao vì hiện nay các công ty công nghệ pháp lý (Legaltech) công khai chi phí trên internet. Tin học hoá, tự động hoá và ứng dụng trí tuệ nhân tạo sẽ dẫn tới xu hướng chuyên môn hoá nghề luật sư. Trước đây, luật sư thường hành nghề trong nhiều lĩnh vực khác nhau thì nay với sự phát triển của các ứng dụng trí tuệ nhân tạo sẽ cho phép khách hàng có được câu trả lời cho các vấn đề pháp lý gần như ngay lập tức với một chi phí thấp hơn so với việc tham vấn Luật sư. Điều này buộc luật sư phải đầu tư vào một lĩnh vực chuyên môn sâu, để nhanh chóng giải quyết được tình huống pháp lý đặt ra và cũng là cách để nâng cao giá trị gia tăng của nghề nghiệp.

III. CHỦ TRƯƠNG, ĐỊNH HƯỚNG VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ THEO VĂN KIỆN ĐẠI HỘI LẦN THỨ XIII CỦA ĐẢNG

Các định hướng về phát triển thị trường dịch vụ pháp lý đã được khẳng định tại Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Cụ thể:

(i) Các định hướng chung, như: Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập[17]. Phát triển và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, ưu tiên những ngành có tiềm năng, lợi thế, những loại hình dịch vụ mới mang lại hiệu quả cao; chú trọng các dịch vụ hỗ trợ sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp[18]. Giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước, nhất là về thể chế, chính sách[19].

(ii) Các định hướng cụ thể, như:

- Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp. Phát triển hoạt động dịch vụ pháp lý và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án[20].

- Tiếp tục phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp[21].

- Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý của người dân và doanh nghiệp. Phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, các hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, bổ trợ tư pháp và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài toà án. Nâng cao hiệu quả và bảo đảm thời gian giải quyết tranh chấp, thi hành án trong lĩnh vực dân sự, hành chính, đầu tư, kinh doanh, thương mại và bảo vệ người tiêu dùng theo đúng quy định của pháp luật[22].

- Nâng cao năng lực hội nhập, thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại tự do; lồng ghép với các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy các lợi thế chính trị, đối ngoại để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, nhất là trong các tranh chấp kinh tế, thương mại và đầu tư quốc tế[23].

Đó là các chủ trương, định hướng quan trọng của Đảng về phát triển dịch vụ pháp lý cũng như định hướng xây dựng và phát triển thị trường dịch vụ pháp lý trong thời gian tới.

Gần đây nhất phải nhắc đến Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới; Kế hoạch số 11-KH/TW ngày 28/11/2022 của Bộ Chính trị thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Các văn kiện này đã xác định nhiều biện pháp, giải pháp quản lý, trong đó khẳng định định hướng “Hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với luật sư, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động hành nghề luật sư. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, am hiểu pháp luật, giỏi về kỹ năng hành nghề và ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế”[24].

“Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng trợ giúp pháp lý, nhất là trong hoạt động tố tụng tư pháp; hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống trợ giúp pháp lý; mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước.

Phát triển nhân lực tư pháp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý. Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp; rà soát, sắp xếp hợp lý các cơ sở đào tạo cử nhân luật. Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp”[25]

 

KẾT LUẬN PHẦN I

1. Từ các phân tích, lập luận và làm rõ các khái niệm, thuật ngữ có liên quan, Nhóm nghiên cứu đã thống nhất đưa ra cách hiểu về thị trường dịch vụ pháp lý. Theo đó, “Thị trường dịch vụ pháp lý” (Legal services market) là nơi những tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện các dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu được biết, được tư vấn hoặc giúp đỡ về mặt pháp lý của các tổ chức, cá nhân trong xã hội[A5] ”. Nó mang đầy đủ các đặc điểm, yếu tố của thị trường nói chung như tuân thủ và vận hành theo các quy luật của thị trường (quy luật cung – cầu; quy luật giá trị; quy luật cạnh tranh...) và mang đầy đủ đặc điểm của thị trường dịch vụ, như tính vô hình, tính không thể tách rời, tính không thể cất giữ, tính đa dạng và sự tham gia của người tiêu dùng...

2. Thông qua phân tích, bình luận làm rõ các khía cạnh của thị trường dịch vụ pháp lý (1) Về chủ thể tham gia vào thị trường dịch vụ pháp lý; (2) Về phạm vi của thị trường dịch vụ pháp lý; (3) Về quy mô của thị trường dịch vụ pháp lý và (4) Về giá cả và chất lượng dịch vụ pháp lý, Nhóm nghiên cứu kết luận:

- Chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý chủ yếu là do các luật sư thực hiện. Việc tham gia cung cấp dịch vụ pháp lý của trợ giúp viên pháp lý và tư vấn viên pháp luật không phải là luật sư bị giới hạn theo quy định của pháp luật.

- Về phạm vi của thị trường dịch vụ pháp lý được xác định theo sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Quy mô của thị trường dịch vụ pháp lý phụ thuộc chủ yếu vào số lượng, trình độ, uy tín của người cung cấp dịch vụ pháp lý; đồng thời phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của người dân và tổ chức (chú ý, nhu cầu ở đây còn phụ thuộc vào tâm lý, văn hóa và thói quen của người dân, tổ chức).

3. Vì mang đẩy đủ các đặc điểm, yếu tố của thị trường nói chung và thị trường dịch vụ nói riêng nên việc phát triển thị trường dịch vụ pháp lý sẽ phụ thuộc chủ yếu vào việc phát triển đội ngũ cung cấp dịch vụ pháp lý (cả về số lượng và chất lượng cung cấp dịch vụ). Hay nói cách khác, muốn phát triển thị trường dịch vụ pháp lý thì điều kiện tiên quyết là phải quan tâm, đầu tư phát triển dịch vụ pháp lý.

4. Định hướng của Đảng và Nhà nước đã xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong việc quản lý, hỗ trợ, thúc đẩy dịch vụ pháp lý phát triển; qua đó tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

 

PHẦN II

PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA - BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

 

Ở Phần này, Nhóm nghiên cứu đã nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm phát triển thị trường dịch vụ pháp lý của một số quốc gia như: (1) các nước trong khối EU; Trung Quốc, Singapor, Hoa Kỳ và một quốc gia khác. Trongn phần nghiên cứu này, Nhóm nghiên cứu đã cố gắng tìm hiểu và làm rõ các yếu tố có liên quan đến thị trường dịch vụ pháp lý; việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho tổ chức, công dân; về phạm vi và chủ thể cung cấp dịch vụ, cũng như các chủ thể quản lý dịch vụ pháp lý; một số quan điểm, quan niệm và các xu hướng ảnh hướng đến thị trường dịch vụ pháp lý... (được trình bày từ trang 75 đến trang 114 Báo cáo kết quả nghiên cứu)

Trên cơ sở kinh nghiệm của một số quốc gia, Nhóm nghiên cứu đã tổng hợp, rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc phát triển thị trường dịch vụ pháp lý. Nhóm nghiên cứu nhận thấy về cơ bản quan niệm, phạm vi và nội dung, cũng như quy định của pháp luật về dịch dịch vụ pháp lý của Việt Nam là tương đồng với quy định của các quốc gia; cũng như về cơ quan phù hợp với thông lệ quốc tế.

Tuy nhiên, qua kinh nghiệm của các nước, để phát triển thị trường dịch vụ pháp lý cần quan tâm và chú ý xử lý một số vấn đề sau:

(i) Về đặc tính “Thông tin bt đi xng – các nhà cung cp dch v pháp lý (mà thưng là các công ty lut hay lut sư) là những người có kiến thc và k năng chuyên môn cao mà ngưi tiêu dùng dch v pháp lý thưng không có. Như vy, ngưi tiêu dùng có th không đánh giá đưc cht lưng ca dch v đưc cung cp. S bt cân xng v thông tin gia ngưi tiêu dùng và nhà cung cp dch v hp pháp đôi khi có th to ra đng cơ khuyến khích các nhà cung cp hoc là chn mt gi vàng tính giá cao hơn) hoc v cht lưng (đ có v cnh tranh v giá) có th dn đến các vn đ quan trng v bo v ngưi tiêu dùng.

(ii) Về chất lượng kết quả dịch vụ. Hu qu ca vic tư vn pháp lý kém cht lưng có th nh hưng đáng k đến ngưi tiêu dùng mua các dch v pháp lý đó mà còn nh hưng đến các bên th ba không liên quan, nhng ngưi có th không có nh hưng đến vic la chn nhà cung cp dch v pháp lý nào. Mt tác đng tiêu cc khác có th phát sinh t vic lut sư đi din không tt cho khách hàng là làm gim hiu qu và hiu lc ca h thng tư pháp. Ngoài ra, các vn đ liên quan đến li ích công rng hơn thưng đưc coi là bin minh cho các quy đnh c th trong lĩnh vc dch v pháp lý. Nhng cân nhc này bao gm li ích cơ bn ca công chúng trong vic h tr pháp quyn; bo v quyn li hp pháp ca cá nhân; bo đm tính đc lp ca ngh lut sư; và đm bo tiếp cn công lý đ các cá nhân có th tham gia bình đng trong xã hi. Có nhng đc đim c hu ca dch v pháp lý liên quan đến bên cu (tc là tri nghim ca ngưi tiêu dùng v các dch v đó) và bên cung (tc là hành vi ca ngưi cung cp dch v). Nhng đc đim này có th ngăn ngưi tiêu dùng đt đưc kết qu tt.

(iii) Về ý thức sử dụng dịch vụ pháp lý. Các vn đ 'pháp lý' không phi lúc nào cũng đưc xác đnh rõ ràng - ngưi tiêu dùng có th không phi lúc nào cũng xác đnh đưc rng h có vn đ 'pháp lý' và đôi khi có th pht l vn đ hoc c gng t mình gii quyết vn đ (ví d: thông qua nghiên cu ca chính h hoc bng cách tìm kiếm li khuyên không chính thc t mt ngưi liên h), thay vì tìm kiếm li khuyên ca mt nhà cung cp dch v pháp lý. Ngưi tiêu dùng có xu hưng s dng dch v pháp lý không thưng xuyên hơn là lp đi lp li. Do đó, h có th có mt khung tham chiếu hn chế đ la chn mt nhà cung cp dch v pháp lý đáp ng nhu cu ca h (c v cht lưng và giá c).

(iv) Về minh bạch thông tin. Ngưi tiêu dùng cn các nhà cung cp minh bch v giá c và cht lưng ca nhng gì h đang cung cp đ chn nhng ưu đãi th hin giá tr đng tin tt nht nhm gii quyết các nhu cu pháp lý ca h. Điu này to ra mt chu trình cnh tranh lành mnh, trong đó các nhà cung cp đưc thúc đy bi nhng ngưi tiêu dùng có hiu biết đ cnh tranh và đi mi nhm ci thin giá tr sn phm ca h và giành đưc khách hàng.

Thị trường dịch vụ pháp lý là một thị trường phức tạp và có nhiều đặc điểm đặc thù và giữ vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp. Từ kinh nghiệm phát triển thị trường dịch vụ pháp lý của các quốc gia, chúng ta có thể rút ra một số bài học sau:

- Tăng cường cạnh tranh trong thị trường dịch vụ pháp lý: Cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý. Các tổ chức hành nghề luật sư cần cạnh tranh về giá cả, chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng để thu hút khách hàng. Theo đó, cần xóa bỏ các rào cản đối với việc thành lập và hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức hành nghề luật sư có tầm vóc để có đủ sức cạnh tranh; đồng thời từng bước tạo điều kiện để các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.

- Nâng cao chất lượng dịch vụ pháp lý: Chất lượng dịch vụ pháp lý là yếu tố quan trọng nhất để thu hút khách hàng. Các tổ chức hành nghề luật sư cần có trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật để cung cấp dịch vụ chất lượng cho khách hàng. Theo đó, tiếp tục tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho các luật sư, nâng cao trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của các luật sư. Việt Nam cũng cần sớm xây dựng các tiêu chuẩn về chất lượng dịch vụ pháp lý và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện dịch vụ pháp lý.

- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân và doanh nghiệp: Người dân và doanh nghiệp cần hiểu biết về pháp luật để có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các tổ chức hành nghề luật sư cần phối hợp với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội để tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân và doanh nghiệp. Theo đó, cần tiếp tục tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân và doanh nghiệp, thông qua các phương tiện truyền thông, các lớp học tập huấn và các hoạt động khác. Việt Nam cũng cần xây dựng các website cung cấp thông tin pháp luật cho người dân và doanh nghiệp.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức hành nghề luật sư hoạt động: Các tổ chức hành nghề luật sư cần được tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động, bao gồm các chính sách về thuế, tín dụng, đào tạo và bồi dưỡng. Theo đó cần tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức hành nghề luật sư hoạt động, bao gồm các chính sách về thuế, tín dụng, đào tạo và bồi dưỡng. Việt Nam cũng cần tăng cường hợp tác giữa các tổ chức hành nghề luật sư trong nước và quốc tế.

- Nghiên cứu mở rộng điều kiện hành nghề luật sư: Hiện nay, điều kiện hành nghề luật sư ở Việt Nam còn khá khắt khe, đặc biệt là về thời gian tập sự. Điều này đã hạn chế số lượng luật sư, làm cho người dân khó tiếp cận với dịch vụ pháp lý. Cần mở rộng điều kiện hành nghề luật sư, để tạo điều kiện cho những người có trình độ chuyên môn cao như giảng viên, nghiên cứu viên chuyên luật được hành nghề luật sư. Mặt khác, cân nhắc cho phép luật sư nước ngoài nếu đỗ kỳ thi do Việt Nam tổ chức về kiến thức pháp luật trong một số ngành nghề nhất định (ví dụ như tài chính - ngân hàng, mua bán sáp nhập doanh nghiệp…) có thể hành nghề trong lĩnh vực này nhằm thu hút thêm luật sư giỏi vào hành nghề tại Việt Nam.

- Tăng cường vai trò của tổ chức hành nghề luật sư: Tổ chức hành nghề luật sư là một trong những cơ quan quan trọng trong hệ thống tổ chức nghề luật sư ở Việt Nam. Tuy nhiên, vai trò của tổ chức hành nghề luật sư hiện nay còn chưa được phát huy đầy đủ. Cần tăng cường vai trò của tổ chức hành nghề luật sư, để tổ chức này có thể thực hiện tốt chức năng quản lý, giám sát hoạt động của luật sư, bảo đảm chất lượng dịch vụ pháp lý. Đồng thời, tự đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng luật sư, để luật sư có kiến thức, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp cao. Mặt khác, trong thời gian tới Việt Nam cũng có thể nghiên cứu, cân nhắc mở rộng quyền đầu tư, sở hữu văn phòng luật sư, công ty luật của các chủ thể khác, không phải luật sư để tạo động lực đổi mới trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý cho cộng đồng.

- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý. Theo đó, trú trọng: (i) Số hóa trong giao kết Hợp đồng trên nền tảng công nghệ online, hoặc nền tảng công nghệ kết nối Luật sư và khách hàng thông qua Video Call, hoặc nghiên cứu ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào lĩnh vực dịch vụ pháp lý. (ii)  Quản lý hồ sơ, chia sẻ và truy cập dữ liệu một cách bảo mật; ứng dụng vào quản lý hành chính văn phòng (bank-office technology) nhằm hỗ trợ luật sư trong các hoạt động nghiên cứu, đánh giá, so sánh các vấn đề pháp lý nhằm tiết kiệm thời gian. (iii) Xây dựng website, phần mềm hữu dụng dành riêng cho từng giải pháp mà các hãng luật có thể tham khảo để sử dụng (VISABOT: ứng dụng giúp công dân nước ngoài nộp hồ sơ xin cấp thị thực; LAWDROID: ứng dụng sử dụng trợ lý cá nhân ảo nhằm hỗ trợ luật sư lên lịch họp, ghi chú và phân công nhiệm vụ hay METASOTA: trang web cung cấp công cụ soạn thảo văn bản, các bản dịch văn bản quy phạm pháp luật và công cụ tìm kiếm thông minh); phần mềm giúp tự động hóa việc xem xét tài liệu cho một loại hợp đồng nhất định; Công nghệ điện toán đám mây cũng hỗ trợ luật sư và khách hàng chia sẻ tài liệu, dữ liệu trên các nền tảng khác nhau thay vì chỉ dựa vào email như trước đây; Trợ lý ảo cũng là một xu hướng được triển khai ở nhiều công ty luật.

- Tăng cường hỗ trợ người dân tiếp cận dịch vụ pháp lý: Người dân là chủ thể của quyền và nghĩa vụ pháp lý, họ có quyền được tư vấn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, hiện nay, người dân vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ pháp lý. Cần tăng cường hỗ trợ người dân tiếp cận dịch vụ pháp lý, để người dân có thể thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình.

 

PHẦN III

TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM

 

          Ở Phần này, Nhóm nghiên cứu đã tập trung làm rõ về: (1) Tổng quan việc cung cấp dịch vụ pháp lý của các chủ thể; (2) Về sự phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý; (3) Pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật về dịch vụ pháp lý và thị trường dịch vụ pháp lý. Cụ thể:

I. TỔNG QUAN VIỆC CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ CỦA CÁC CHỦ THỂ

Như phần lý luận đã khẳng định, phạm vi của thị trường dịch vụ pháp lý được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực pháp luật với mục tiêu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; góp phần giảm thiểu các vụ án oan sai, bảo vệ tốt nhất quyền lợi của khách hàng trên cơ sở các quy định của pháp luật. Theo đó, người cung cấp dịch vụ pháp lý thực hiện cung cấp dịch vụ đại diện pháp lý, tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác cho cá nhân, tổ chức có yêu cầu.

Trong thực tiễn, (i) việc cung cấp dịch vụ đại diện pháp lý, nhất là trong lĩnh vực tham gia tố tụng là đặc quyền của Luật sư. Luật sư có phạm vi hành nghề rất rộng gồm tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự; tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật; thực hiện tư vấn pháp luật; đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật và thực hiện dịch vụ pháp lý khác. (ii) Hoạt động tư vấn pháp luật sẽ do cả luật sư, tư vấn viên pháp luật và trợ giúp viên pháp lý hoặc cộng tác viên trợ giúp pháp lý thực hiện. Tuy nhiên việc tham gia của các chủ thể không phải là luật sư chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ trong hoạt động này. Thị phần dịch vụ tư vấn pháp luật còn được thực hiện bởi luật sư Việt Nam hiện đang làm việc trong tác tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam. Mặc dù, cơ cấu dịch vụ pháp lý của luật sư gồm nhiều lĩnh vực hoạt động, nhưng trên thực tế khối lượng công việc tham gia tố tụng vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn so với tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và dịch vụ pháp lý khác.

(i) Có thể nhìn tổng thể hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý mà đội ngũ luật sư đã thực hiện trong giai đoạn 2015-2020 theo các hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý qua biểu đồ dưới đây (Biểu đồ 1):

 

 

 

 

 

(ii) Hoạt động trợ giúp pháp lý từ ngày 01/01/2018 đến ngày 30/6/2022 với các hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý[26] qua biểu đồ sau (Biểu đồ 2):

 

1. Thực trạng cung cấp dịch vụ pháp lý cho tổ chức và công dân

1.1. Về hoạt động tham gia tố tụng

Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật hiện đã và vẫn đang là hoạt động tranh tụng chủ yếu của luật sư hiện nay.

- Luật sư có thể tham gia tố tụng trong các vụ án, dân sự, hình sự, hành chính, thương mại… do được chính thân chủ mời hoặc theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng (bào chữa theo chỉ định trong vụ án hình sự) hoặc theo yêu cầu của Trung tâm trợ giúp pháp lý (khi luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo hợp đồng với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước; luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo phân công của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý).

Luật sư tham gia tố tụng trong tất cả các lĩnh vực pháp luật. Đội ngũ luật sư đã tham gia bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng trong tất cả các lĩnh vực hình sự, dân sự, thương mại, hành chính, lao động, hôn nhân gia đình... Trong đó, tỷ lệ luật sư tham gia tranh tụng trong các vụ án hình sự là lớn nhất, tiếp đến là tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự. Những vụ án hình sự mà luật sư tham gia bào chữa và những vụ án dân sự mà luật sư tham gia bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự tăng hàng năm, thì số vụ án về về kinh doanh - thương mại có sự tham gia của luật sư có chiều hướng gia tăng. Luật sư đã và đang tham gia cung cấp dịch vụ pháp lý trong các vụ án hành chính, lao động tuy nhiên số lượng còn ít. Trong những năm qua, đội ngũ luật sư đã đảm nhận 100% việc bào chữa chỉ định trong các vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Kể cả các Đoàn Luật sư ở vùng sâu, vùng xa có số lượng luật sư ít như các Đoàn Luật sư tỉnh Bắc Cạn (chỉ có 6 luật sư), Lai Châu (10 luật sư), Hà Giang (13 luật sư) Kon Tum (15 luật sư), cũng đã thực hiện tốt công tác này.

Số lượng các vụ việc mà luật sư được mời để tham gia tranh tụng (theo hợp đồng) trong các vụ án hình sự tăng dần qua các năm. Tuy nhiên, tỷ lệ vụ án hình sự đưa ra xét xử có luật sư tham gia tố tụng vẫn còn thấp[27]. Điều này cho thấy, số lượng người dân, cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư theo hình thức tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự vẫn còn thấp. Biểu đồ dưới đây khái quát về cung cấp dịch vụ pháp lý trong hoạt động tố tụng theo các lĩnh vực chuyên ngành mà luật sư đã thực hiện trong giai đoạn từ 2015-2020 (Biểu số 3):

 

(ii) Biểu đồ về trợ giúp pháp lý trong tố tụng theo các lĩnh vực chuyên ngành mà trợ giúp pháp lý đã thực hiện từ 1/1/2018 đến 30/6/2022.

 

 Theo thống kê (chưa đầy đủ) của các Đoàn Luật sư, trong giai đoạn từ 2015 đến 2020[28], đội ngũ luật sư Việt Nam đã tham gia vào 81,072 vụ án hình sự trong đó có 37,503 vụ án hình sự chỉ định theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng và 43,569 vụ án hình sự theo hợp đồng do được khách hàng mời cung cấp dịch vụ pháp lý. Số liệu cung cấp dịch vụ pháp lý theo hình thức tranh tụng các vụ án hình sự của luật sư theo từng năm và cụ thể số vụ việc theo yêu cầu cung cấp dịch vụ của khách hàng (theo hợp đồng) và theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng (theo chỉ định), được thể hiện trong Biểu đồ 5 dưới đây:

Việc tham gia, hỗ trợ của luật sư Việt Nam vào giải quyết các vụ tranh chấp thương mại quốc tế còn mờ nhạt, chủ yếu là do công ty luật nước ngoài thuê lại luật sư Việt Nam xử lý một số việc, do luật sư Việt Nam chưa chủ động nắm bắt toàn bộ thông tin cũng như cơ hội học hỏi kinh nghiệm từ luật sư, công ty luật nước ngoài.

 

Hầu hết các cơ quan Chính phủ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chưa xây dựng được cơ chế sử dụng đội ngũ luật sư tham gia tư vấn các vấn đề liên quan đến hội nhập quốc tế để phòng ngừa rủi ro pháp lý phát sinh. Vai trò của luật sư tham gia vào các vụ án lớn, vụ án điểm hay tham vấn, tư vấn cho các dự án lớn của Chính phủ, cơ quan nhà nước còn mờ nhạt[29]. Cùng với việc tăng về số lượng, chất lượng dịch vụ pháp lý của luật sư cũng được nâng cao đáng kể. Tuy nhiên, vẫn có sự mất cân đối trong các lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý của đội ngũ luật sư. Luật sư chủ yếu tham gia trong lĩnh vực tranh tụng, nhưng lại chủ yếu tranh tụng trong lĩnh vực hình sự; chất lượng tranh tụng không đồng đều. Số lượng luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý là tham gia tranh tụng trong lĩnh vực thương mại và đầu tư có yếu tố nước ngoài còn ít trước yêu cầu hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam; rất ít luật sư có thể tham gia tranh tụng quốc tế và hầu như chưa có tổ chức hành nghề luật sư của Việt Nam trực tiếp nhận được vụ việc tham gia tranh tụng quốc tế.

1.2. Thực trạng cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng

Theo số liệu của Liên đoàn Luật sư Việt Nam thì trong giai đoạn từ 2015-2020, đội ngũ luật sư đã thực hiện tư vấn pháp luật đối với 490.570 vụ việc, tham gia đại diện ngoài tố tụng 22.887 vụ việc[30]. Số liệu thống kê cho thấy số vụ việc mà luật sư tham gia đại diện ngoài tố tụng tuy còn ít nhưng đã tăng dần qua các năm. Chất lượng dịch vụ tư vấn pháp luật của luật sư ngày càng được nâng cao ở các lĩnh vực dân sự, hành chính, lao động, hôn nhân và gia đình, các lĩnh vực kinh doanh - thương mại. Một số luật sư và tổ chức hành nghề luật sư đã thực hiện những hợp đồng tư vấn pháp lý trong các lĩnh vực kinh doanh, đầu tư, thương mại có yếu tố nước ngoài có giá trị kinh tế lớn, đóng góp nghĩa vụ thuế cho Nhà nước hàng ngàn tỷ đồng. Các luật sư đã thực hiện có chất lượng nhiều hợp đồng đại diện ngoài tố tụng với khách hàng, kể cả trong lĩnh vực khiếu kiện nhằm giúp cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Có thể nói, cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại tuy đã khởi sắc và có những triển vọng tích cực, nhưng so với hoạt động luật sư của các nước trong khu vực và trên thế giới thì vẫn còn là mảng hạn chế của luật sư Việt Nam. Dịch vụ tư vấn pháp luật do luật sư Việt Nam cung cấp trong việc giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài rất hạn chế, do đội ngũ luật sư Việt Nam còn hạn chế về khả năng sử dụng ngoại ngữ.

Biểu đồ dưới đây cho thấy tỉ lệ số lượng vụ việc mà luật sư cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật so với hình thức đại diện ngoài tố tụng từ năm 2015 – 2020:

 

Việc cung cấp dịch vụ pháp lý trong các lĩnh vực pháp luật dân sự nói chung cho người dân cũng còn nhiều hạn chế. Tuy cũng đã có những bước phát triển nhất định, nhưng đa số người dân Việt Nam vẫn chưa có thói quen sử dụng dịch vụ tư vấn pháp lý trước khi thực hiện một giao dịch hoặc có hoạt động liên quan đến pháp luật. Thói quen chung của người dân Việt Nam, đặc biệt là ở các tỉnh phía bắc, khi có vấn đề pháp lý phát sinh là tìm kiếm người quen có hiểu biết để hỏi hoặc sử dụng tư vấn pháp luật miễn phí qua các kênh khác nhau hoặc tự tìm hiểu hoặc tìm kiếm trên google. Chỉ đến khi phát sinh tranh chấp, họ mới tìm đến các dịch vụ pháp lý của luật sư, luật gia hoặc trợ giúp viên pháp lý... Cùng với việc nhận thức về pháp luật của người dân tăng lên thì hoạt động cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật của luật sư cho người dân cũng tăng theo.

Hình thức đại diện ngoài tố tụng tuy đã có nhưng chưa thực sự phát triển do còn có những rào cản do quy định của pháp luật[31]. Luật sư đại diện cho khách hàng để giải quyết các công việc có liên quan đến việc mà luật sư đã nhận theo phạm vi, nội dung được ghi trong hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc theo sự phân công của cơ quan, tổ chức nơi luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động.

Thực tế hoạt động hành nghề luật sư cho thấy, do thiếu những quy định cụ thể của pháp luật có liên quan nên đã có trường hợp mặc dù luật sư được khách hàng mời làm đại diện cho họ nhưng cơ quan nhà nước có thẩm quyền lại không cho phép luật sư tham gia các cuộc họp, buổi làm việc để giải quyết vấn đề của người dân (là khách hàng của luật sư) mà chỉ làm việc trực tiếp với chính người dân, không làm việc với người đại diện – luật sư (chủ yếu trong các các vụ việc liên quan đến hành chính).

1.3. Các dịch vụ pháp lý khác do luật sư thực hiện

Dịch vụ pháp lý khác của luật sư bao gồm giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính; giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải quyết khiếu nại; dịch thuật, xác nhận giấy tờ, các giao dịch và giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật. Trong giai đoạn từ 2015-2020, đội ngũ luật sư đã tham gia cung cấp các dịch vụ pháp lý khác cho cá nhân, tổ chức là 22.880 vụ việc.

Bên cạnh đó, kể từ ngày 01/01/2021[32], luật sư đủ điều kiện có thể tham gia hoạt động hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

2. Thực trạng cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí (trợ giúp pháp lý)

Kể từ khi có Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, nhất là sau khi có Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, hoạt động trợ giúp pháp lý đã tập trung vào thực hiện các vụ việc trợ giúp pháp lý (cung cấp dịch vụ pháp lý cung cấp dịch vụ pháp lý cho những người thuộc diện chính sách và những người yếu thế), nhất là vụ việc tham gia tố tụng (dịch vụ đại diện pháp lý).

Về tổ chức, tính đến hết năm 2021, toàn quốc có 63 Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, 104 Chi nhánh trợ giúp pháp lý cấp huyện, liên huyện với 1.233 người/1.369 biên chế được giao, trong đó 666 Trợ giúp viên pháp lý, 406 chuyên viên pháp lý, 106 kế toán và nhân viên khác[33]. Như vậy, so với thời điểm trước khi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 có hiệu lực, tổng số biên chế được giao đã giảm 13 người (1.369/1.382), số người làm việc trên thực tế giảm 08 người (do nghỉ hưu, nghỉ việc và chuyển công tác).

Bên cạnh đó công tác trợ giúp pháp lý còn đạt một số kết quả nổi bật khác như: trong thời gian gần đây việc phối hợp trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng có nhiều chuyển biến tích cực, đột phá với việc triển khai cơ chế người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại tòa án nhân dân[34] hoặc cơ quan điều tra và ở nhiều địa phương triển khai phiên tòa trực tuyến có điểm cầu thành phần tại Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước[35]. Cùng với đó, trong năm 2021 và năm 2022 dịch vụ trợ giúp pháp lý đã được ghi nhận trong tất cả Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững[36], xây dựng nông thôn mới[37] và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số[38] và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 và Bộ Tư pháp cũng đã ban hành đầy đủ, kịp thời các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện nội dung trợ giúp pháp lý trong các Chương trình mục tiêu này[39]. Ngoài ra, hoạt động truyền thông về trợ giúp pháp lý không ngừng được đổi mới theo các phương thức khác nhau, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý... qua đó góp phần nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ pháp lý của người dân.

II. VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ

1. Về chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý

Về Luật sư:

Nhìn lại lịch sử, có thể khẳng định, thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam được hình thành kể từ khi Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 về tổ chức đoàn thể luật sư được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, ban hành. Tuy nhiên, do điều kiện thực tiễn của lịch sử, phải đến sau năm 1986 (thời kỳ đổi mới) với Pháp lệnh tổ chức luật sư được ban hành ngày 18/12/1987 đã mở đầu cho quá trình phát triển nghề luật sư ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Ở thời điểm đó (cuối năm 1987) trên cả nước đã có 30 Đoàn bào chữa viên với gần 400 thành viên.

Pháp lệnh luật sư năm 2001 (sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh năm 1987) được ban hành đã nhanh chóng đi vào cuộc sống. Chỉ sau 5 năm thi hành Pháp lệnh, đội ngũ luật sư đã tăng đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, đã thành lập trên 1.000 tổ chức hành nghề là các văn phòng luật sư, các công ty luật hợp danh. Có thể nói Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã tạo một bộ mặt mới với triển vọng phát triển mạnh mẽ nghề luật sư ở nước ta.

Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, cùng với bước phát triển và những yêu cầu mới của xu thế toàn cầu hoá, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế Luật Luật sư được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007 (Luật này đã được sửa đổi, bổ sung năm 2012). Theo Báo cáo của Bộ Tư pháp (Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 08/01/2021), từ năm 2011 đến năm 2020, đội ngũ luật sư cả nước đã tăng từ 6.250 lên hơn 16.000[40],[41]. Số lượng tổ chức hành nghề luật sư tăng từ 2.928 năm 2011 lên hơn 4.400 tổ chức năm 2020, tập trung chủ yếu tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Đến tháng 12/2022 có 17.284 luật sư (10.663 nam; 6.621 nữ) và 5.384 tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động; có 91 tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam: Công ty luật (55), Chi nhánh: 36; khoảng 300 luật sư nước ngoài đăng ký hoạt động tại Việt Nam.

Về trợ giúp viên pháp lý:

Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý được hình thành từ khi có Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý của nhà nước. Đến nay, dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý đang được thực hiện theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH14 (được thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV). Đây là một trong những luật về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được ban hành nhằm triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013.

Theo Bộ Tư pháp, tính đến hết năm 2021, toàn quốc có 63 Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, 104 Chi nhánh trợ giúp pháp lý cấp huyện, liên huyện với 666 Trợ giúp viên pháp lý, 406 chuyên viên pháp lý.

Về Tư vấn viên pháp luật: Tính đến tháng 12/2022, cả nước có 194 Trung tâm tư vấn pháp luật được thành lập với 49 chi nhánh, đăng ký hoạt động tại 62/63 tỉnh, thành phố. Hiện có 2.122 người thực hiện tư vấn pháp luật, trong đó có 816 người được cấp Thẻ tư vấn viên pháp luật, 138 luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động cho Trung tâm, khoảng 1.168 người là cộng tác viên tư vấn pháp luật.

Với các số liệu trên cho thấy, sự phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam. Hiện nay, tổng số chủ thể thực hiện dịch vụ pháp lý ở Việt Nam hiện có là hơn 20.000 người (luật sư, tư vấn viên pháp luật và trợ giúp viên pháp lý) nếu so sánh với số liệu gần 400 luật sư (cuối năm 1987) thì đây là sự phát triển vượt bậc của chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý trong xã hội. Tuy nhiên, nếu so sánh với số lượng các vụ án đã được Tòa án các cấp đưa ra xét xử, chúng ta thấy các số lượng các vụ án có sự tham gia của Luật sư là rất khiêm tốn. Chỉ lấy số liệu của năm 2021 để làm ví dụ so sánh chúng ta thấy: Từ ngày 01/10/2020 đến ngày 30/9/2021, các Tòa án đã thụ lý 537.577 vụ việc, đã giải quyết được 436.660 vụ việc (đạt tỷ lệ 81,2%)[42]; trong khi đó, tổng số vụ việc mà luật sư trên toàn quốc tham gia chỉ là 69.688 vụ việc (chỉ chiếm gần 16%). Nếu tính thêm cả số liệu trợ giúp pháp lý (là 20.868[43] vụ việc) thì cũng mới chỉ phúc đáp được 20,7%.

Theo số liệu đã dẫn ở trên cho thấy từ 2015 đến 2020 (6 năm), đội ngũ luật sư Việt Nam chỉ tham gia vào 81,072 vụ án hình sự trong đó có 37,503 vụ án hình sự chỉ định theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng và 43,569 vụ án hình sự theo hợp đồng do được khách hàng mời cung cấp dịch vụ pháp lý. Hoặc, như số liệu từ Biểu số 3 ở trên cho thấy, tổng số vụ việc mà luật sư đã tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của thân chủ trên các lĩnh vực tố tụng từ 2015 đến 2020 (hình sự, dân sự, kinh doanh - thương mại, hành chính, lao động) là 207.247 vụ việc...  Với các số liệu trên cho thấy, thực tiễn số vụ việc có luật sư tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, công dân là khá nhỏ.

Từ đó cho thấy thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam còm một khoảng trống rất lớn để lấp đầy. Hay nói cách khác, hiện nay quy mô thực tế của thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam còn rất nhỏ bé.

2. Về phạm vi, quy mô của thị trường dịch vụ pháp lý

Như phần lý luận đã phân tích phạm vi, quy mô của thị trường dịch vụ pháp lý có thể được xác định theo số lượng vụ việc, theo doanh thu và số người cung cấp dịch vụ được xác định ở một mốc thời gian cố định.

(i) Với tiêu chí là doanh thu từ dịch vụ pháp lý

Theo số liệu báo cáo thống kê của Bộ Tư pháp[44] thì tổng doanh thu của các tổ chức hành nghề luật sư các năm như sau (Chú ý: đây là số liệu được tổng hợp từ ngồn báo cáo của các Sở Tư pháp tổng hợp từ báo cáo của các tổ chức hành nghề luật sư trên toàn quốc báo cáo hàng năm. Tuy nhiên, có rất nhiều tổ chức hành nghề không có báo cáo với Sở Tư pháp – Nhất là Tp. Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh):

Năm 2017 là khoảng 1.168 tỷ đồng;

Năm 2019 là khoảng 2.166 tỷ đồng;

Năm 2021 là khoảng 2.262 tỷ đồng và

Năm 2022 là khoảng 3.101 tỷ đồng.

Lấy so sánh với số liệu về quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2022 (Theo Tổng thống Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư), năm 2022 quy mô GDP của Việt Nam đạt 9.513 triệu tỷ đồng, tương đương 409 tỷ USD thì doanh thu của thị trường dịch vụ pháp lý trong nền kinh tế là rất nhỏ bé (chiếm khoảng 0,0000326%), chưa tương xứng với tiềm năng thị trường dịch vụ pháp lý Việt Nam hiện nay.

Trên thế giới có một cách tính quy mô thị trường dịch vụ pháp lý theo tỷ lệ GDP của năm. Cách tính này có thể dao động theo thời gian do những thay đổi về điều kiện kinh tế, khung pháp lý và các yếu tố khác. Tuy nhiên, nếu lấy theo tỷ lệ ở mức thấp nhất (lấy theo tỷ lệ thấp nhất tương ứng với quy mô thị trường dịch vụ pháp lý của Ấn Độ là 0,1% GDP) thì ước tính quy mô thị trường dịch vụ pháp lý của Việt Nam năm 2019 là 0,1% của 334,4 tỷ USD tương đương với con số là 334,4 triệu USD (tương ứng với khoảng 7.775 tỷ đồng[45]). So sánh 2 loại số liệu này cho thấy, năm 2019 theo số liệu tổng hợp của Bộ Tư pháp là khoảng 2.166 tỷ đồng và theo cách tính theo tỷ lệ GDP là khoảng 7.775 tỷ đồng. Số liệu này, theo nhóm nghiên cứu là phù hợp.

Dù theo cách tính nào và chấp nhận số liệu nào thì chúng ta cũng thấy quy mô thị trường dịch vụ pháp lý của Việt Nam là rất khiêm tốn.

(ii) Với tiêu chí là tỷ lệ người cung cấp dịch vụ pháp lý trên tổng số dân cư thì:

Với tiêu chí tỷ lệ người cung cấp dịch vụ pháp lý trên tổng số dân cư, chúng ta thấy với khoảng 20.000 người cung cấp dịch vụ pháp lý[46] trên 99,46 triệu người[47] (tỷ lệ xấp xỉ là 01/5.000 người dân) trong khi ở Singapore là 1/1.000, ở Mỹ là 1/250) thì tỷ lệ về người cung cấp dịch vụ pháp lý trên số dân còn rất khiêm tốn so với nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của xã hội.

Về khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý của các chủ thể (luật sư, tư vấn và các tổ chức hành nghề luật sư trong nước và nước ngoài tại Việt Nam), theo LS Chu Thúy Hiền thì hiện nay đội ngũ luật sư Việt Nam đã tham gia, hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý trong tất cả các lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính, lao động, kinh doanh thương mại… với các hình thức như: Tranh tụng; tư vấn pháp luật; đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác. Cùng với hoạt động tham gia tranh tụng, việc cung cấp dịch vụ pháp lý với hình thức tư vấn pháp luật ngày càng phát triển. Hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý là làm đại diện ngoài tố tụng hay cung cấp các dịch vụ pháp lý khác tuy đã hình thành và từng bước phát triển nhưng còn khá khiêm tốn[48].

Với cả 2 tiêu chí trên, chúng ta có thể kết luận quy mô của thị trường dịch vụ pháp lý Việt Nam còn khá khiêm tốn và nhỏ bé, chưa thực sự phúc đáp hết được nhu cầu của tổ chức và công dân.

3. Về chất lượng của dịch vụ pháp lý

Thực tiễn hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn hoặc quy định đánh giá chất lượng của dịch vụ pháp lý của Luật sư. Chỉ có văn bản hướng dẫn đánh giá chất lượng hoạt động trợ giúp pháp lý đối với từng vụ việc.

Theo dự thảo Báo cáo kết quả nghiên cứu, rà soát Luật Luật sư của Bộ Tư pháp tháng 6 năm 2022 khi đánh giá về hoạt động hành nghề luật sư theo quy định của Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành đã khẳng định: “Đội ngũ luật sư đã tham gia tố tụng trong nhiều vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại.... Một số vụ án oan, sai đã được chỉ ra khi có sự tham gia của luật sư[49]. Tại nhiều phiên tòa, thông qua tranh luận của luật sư đã sáng tỏ nhiều tình tiết làm thay đổi nội dung vụ án[50]. Luật sư cũng tham gia ngày càng sâu rộng trong lĩnh vực tư vấn pháp luật, đầu tư, thương mại quốc tế, hàng hải, hàng không, sở hữu trí tuệ. Các luật sư đã tích cực, chủ động tham gia vào việc giải quyết các tranh chấp quốc tế, hỗ trợ có hiệu quả cho Chính phủ, doanh nghiệp trong các vụ, việc liên quan đến phòng vệ thương mại, tham gia giải quyết tranh chấp theo cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trợ giúp cho các hãng luật nước ngoài trong quá trình giải quyết vụ việc”[51]. Hoạt động đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác như dịch vụ liên quan đến thành lập doanh nghiệp, chuyển nhượng bất động sản, xuất nhập cảnh... cũng có chiều hướng gia tăng[52].

Khác với các loại hình dịch vụ thương mại khác, dịch vụ pháp lý nói chung và dịch vụ pháp lý của luật sư nói riêng gắn liền với việc lao động trí tuệ của người thực hiện các dịch vụ pháp lý. Kết quả thực hiện các dịch vụ pháp lý của luật sư ảnh hưởng quan trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Do vậy, pháp luật có quy định việc cung cấp loại hình dịch vụ pháp lý phải được tiến hành bởi “người” có trình chuyên môn và kỹ năng hành nghề luật (có chứng chỉ hành nghề) và họ không được giao lại công việc cho người khác thực hiện nếu không có sự đồng ý của khách hàng. Nhìn vào trình độ, năng lực, chúng ta thấy:

- Năm 2012, tổng số luật sư là 7.420 luật sư, trong đó có 73 tiến sĩ luật, 410 thạc sĩ luật, còn lại là cử nhân luật;

- Năm 2016 tổng số luật sư là 10.914, trong đó có 103 tiến sĩ luật, 619 thạc sĩ luật, còn lại là cử nhân luật;

- Tại thời điểm 30/9/2022 tổng số luật sư là 16.992, trong đó có 167 tiến sĩ luật, 1.076 thạc sĩ luật, còn lại đều là cử nhân luật.

Với đội ngũ luật sư là tiến sĩ, thạc sĩ ngày càng tăng, về mặt lý thuyết có thể cho rằng chất lượng cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư đương nhiên được nâng lên. Tuy nhiên, chất lượng cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư cần được đánh giá theo chỉ số hài lòng của khách hàng, người dân và cộng đồng xã hội khi sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư. Hiện chưa có một tổ chức nào công bố về số liệu thống kê hay điều tra đánh giá chỉ số này. Tuy vậy, qua các phương tiện truyền thông và sự phản ánh của đội ngũ luật sư cho thấy, cùng với việc phát triển về số lượng, chất lượng cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư cũng dần dần được tăng lên. Nhiều luật sư khi tham gia tranh tụng đã chuẩn bị kỹ lưỡng luận cứ bào chữa, chủ động tranh luận, đối đáp với kiểm sát viên tại phiên toà nhằm tìm ra sự thật khách quan, áp dụng đúng đắn pháp luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự. Mặt khác, thông qua việc tham gia tố tụng, các luật sư còn giúp cho các cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ việc tránh và hạn chế được những oan, sai, đem lại sự công bằng cho người dân và xã hội, từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật, bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế XHCN.

Chất lượng dịch vụ tư vấn pháp luật của luật sư ngày càng được nâng cao ở các lĩnh vực hành chính, lao động, hôn nhân và gia đình, các lĩnh vực kinh doanh và thương mại quốc tế. Một số luật sư và tổ chức hành nghề luật sư đã thực hiện các hợp đồng tư vấn pháp lý trong các lĩnh vực kinh doanh, đầu tư, thương mại có yếu tố nước ngoài có giá trị kinh tế lớn. Tuy nhiên, hoạt động cũng cấp dịch vụ tư vấn pháp luật trong các lĩnh vực kinh doanh – thương mại, nhìn chung và so với hoạt động luật sư của các nước trong khu vực và trên thế giới thì vẫn còn là mảng hạn chế của luật sư Việt Nam.

4. Về nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của tổ chức, người dân

Do không có đủ thời gian và nguồn lực để thực hiện hoạt động nghiên cứu, đánh giá, khảo sát thực tiễn để có số liệu cụ thể về nhu cầu sử dụng dịch vụ của người dân và tổ chức; tuy nhiên qua số liệu báo cáo của cơ quan có thẩm quyền, cũng như qua kinh nghiệm của các quốc gia, chúng ta có thể hình dung ra bức tranh về nhu cầu sử dụng dịch vụ của người dân, tổ chức trong thời gian sắp tới như sau:

4.1. Nhu cầu được hình thành từ phát triển kinh tế – xã hội

          Như phân tích về quy mô của thị trường dịch vụ pháp lý ở phần trên cho thấy, hiện nay (năm 2022) đội ngũ “người” cung cấp dịch vụ pháp lý mới chỉ tham gia được hơn 20% số vụ án do Tòa án thụ lý, xét xử. Và cũng chỉ tham gia tư vấn được một tỷ lệ rất nhỏ trong các hợp đồng giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại (cả trong nước và có yếu tố nước ngoài). Cụ thể lấy số liệu năm 2022 để phân tích, cho thấy: (1) Nếu chỉ lấy riêng số liệu về doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2022 đã là 148.533 doanh nghiệp và tính chung năm 2022, cả nước có 208.300 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động thì đã có ít nhất là hơn hai trăm nghìn nhu cầu cần được tư vấn pháp luật (tư vấn thành lập doanh nghiệp, tư vấn tái cơ cấu doanh nghiệp… con số này, chưa tính đến các hợp đồng thương mại được ký kết, thực hiện).           Trong khi đó, theo số liệu báo cáo thông kê của Bộ Tư pháp thì trong số 58.073 số vụ việc luật sư đã thực hiện xong trong năm 2022, có 42.068 việc tư vấn pháp luật và dịch vụ pháp lý khác[53]. Tổng doanh thu đạt được gần 1.885 tỷ đồng (đã gồm số liệu của cả các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam). (2) Về FDI, theo Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2022 tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam: Tính đến ngày 20/12/2022 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài ước đạt gần 27,72 tỷ USD[54]

          Với số liệu trên cho thấy, số lượng vụ việc tư vấn pháp luật và dịch vụ pháp lý khác chiếm một phần rất nhỏ trong hoạt động kinh tế – xã hội.

          Từ thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và bối cảnh trong nước và quốc tế cho thấy:

- Về phát triển kinh tế – xã hội. Việt Nam từ một nền kinh tế có quy mô chỉ khoảng 20 tỷ USD vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986), năm 2020, quy mô nền kinh tế của chúng ta đã đạt mức 342,7 tỷ USD (theo cách tính mới) với thu nhập bình quân đầu người đạt 3.512 USD. Năm 2022, quy mô nền kinh tế đã đạt trên 400 tỷ USD với thu nhập bình quân đầu người trên 4.000 USD. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam vào năm 2020 ở mức trên 540 tỷ USD và năm 2022 là trên 732 tỷ USD. Việt Nam thực sự đã trở thành nền kinh tế có vị thế trong ASEAN và là đối tác thương mại quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới. (i) Về phát triển kinh tế: giai đoạn 2016-2020, trung bình mỗi năm có 128,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp tăng 2,6 lần so với năm 2015. Lũy kế đến hết năm 2020, số doanh nghiệp đã đăng ký (đã trừ các doanh nghiệp giải thể) là 1,4 triệu doanh nghiệp. (ii) Về xã hội, tốc độ đô thị hóa tăng nhanh, tỷ lệ đô thị hóa đạt mục tiêu đề ra, ước đến năm 2020 đạt 40% và bước đầu gắn kết với công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nông thôn. Tầng lớp trung lưu gia tăng nhanh. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của các nước đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020. Đây là thuận lợi lớn cho tiến trình cải cách, đổi mới của đất nước. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhìn nhận rằng, như một quy luật tất yếu, người dân, doanh nghiệp sẽ ngày càng có những đòi hỏi cao và đa dạng về chất lượng dịch vụ công, dịch vụ hành chính công nói chung và dịch vụ pháp lý nói riêng. Nhất là với mục tiêu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó định rõ mục tiêu “Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân” thì nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của cả doanh nghiệp và công dân sẽ ngày càng tăng cao.

Sự hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đó đã đặt ra nhu cầu rất lớn từ các tổ chức kinh tế và người dân về sử dụng dịch vụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như đáp ứng nhu cầu về tuân thủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của mình. Điều này chỉ có thể làm được nếu chúng ta có một hệ thống dịch vụ pháp lý có chất lượng cao. Thêm vào đó, khi các cơ quan công quyền và doanh nghiệp nhà nước có vai trò rất lớn trong hoạt động giao thương và đầu tư quốc tế thì để tránh các cuộc kiện tụng ngoài mong muốn như đã từng xảy ra thì các cơ quan công quyền, các doanh nghiệp nhà nước cần quan tâm hơn nữa trong việc quản trị rủi ro pháp lý trong quá trình ra quyết định và thực thi quyết định.

4.2. Nhu cầu được hình thành từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Trong lĩnh vực Tư pháp, Hiến pháp 2013 xác định Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Quyền tư pháp là quyền xét xử, tức quyền áp dụng pháp luật để ra phán quyết về các vi phạm pháp luật và các tranh chấp xảy ra trong xã hội, phán quyết các vấn đề về quyền nhân thân. Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, là cơ quan xét xử duy nhất của Nhà nước. Vì vậy, xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài Nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực Nhà nước đều phải thuộc thẩm quyền của Tòa án. Mặt khác, với nhiệm vụ xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân thì sự tham gia của luật sư trong tố tụng là yêu cầu cốt lõi của tranh tụng.

Với mục tiêu “Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân” đã được xác định tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đã đặt ra các nhiệm vụ cụ thể cho Nhà nước trong việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.

4.3. Nhu cầu được hình thành từ sự phát triển của khoa học, công nghệ

Tác động rõ ràng nhất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là trí tuệ nhân tạo và sự xuất hiện của robot có thể thay thế con người về khả năng tính toán, ghi nhớ, phân tích cùng hiệu suất công việc cao. Vì vậy một số công việc mà AI có thể làm thay con người trong một số hoạt động nghề nghiệp cụ thể thuộc lĩnh vực tư pháp, đưa ra các phán xử - tự xử lý thông tin và đưa ra phán quyết của mình. Hiện nay đã có sự tham gia của trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) vào thị trường dịch vụ pháp lý.[55] Luật sư trong một số vụ việc đơn giản, không cần phải nghiên cứu từng tình tiết của vụ án, tìm các điều luật liên quan để bào chữa cho thân chủ của mình mà chỉ cần đưa thông tin vụ án vào bộ xử lý dữ liệu để cho ra kết quả giải quyết[56]. Tương tự, Thẩm phán tham gia phiên tòa để phán xử vụ việc cũng dựa vào trí tuệ nhân tạo để phân tích vụ việc, thậm chí đối với những vụ việc đơn giản, dựa trên cơ sở dữ liệu án lệ sẵn có thì AI có thể giúp đưa ra phán quyết cuối cùng.

Hiện nay trên thế giới đã xuất hiện nhiều phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến. Phổ biến nhất là tòa án trực tuyến hay được gọi là tòa án ảo hoặc tòa án trên mạng, bao gồm các thủ tục tương tự như ở tòa án truyền thống. Tại nhiều nước như Mỹ, Australia, Canada, Singapore, luật pháp cho phép các bên giải quyết vụ việc tranh chấp thông qua việc thực hiện thủ tục khởi kiện và tố tụng qua internet. So với tòa án truyền thống, thủ tục tòa án trực tuyến linh hoạt hơn, được thực hiện nhanh chóng nhờ áp dụng công nghệ thông tin. Ngoài ra, hòa giải và trọng tài trực tuyến cũng được sử dụng khá phổ biến. 

Điều này đã góp phần tạo lên nhu cầu ngày một gia tăng về sử dụng dịch vụ pháp lý của các chủ thể trong xã hội; đồng thời cũng tạo ra các phương pháp, cách thức mới trong việc cung cấp dịch vụ. Vì vậy đã tạo ra sức ép đối với cả người, tổ chức cung cấp dịch vụ pháp lý.

4.4. Nhu cầu được hình thành từ sự phát triển dân số

Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2022, dân số Việt Nam ước tính là 99.329.145 người, tăng 784.706 người so với dân số 98.564.407 người năm trước. Tính đến đầu năm 2017 theo ước tính của chúng tôi, Việt Nam có phân bố các độ tuổi như sau: dưới 15 tuổi chiếm 25,2%; từ 15 đến 64 tuổi chiếm 69,3% và trên 64 tuổi chiếm 5,5%. Độ tuổi trung bình ở Việt Nam là 33,7 tuổi. (Nguồn: https://danso.org/viet-nam/).

Dân số Việt Nam trẻ và đang gia tăng nhanh chóng, điều này dẫn đến sự gia tăng nhu cầu về các dịch vụ pháp lý cá nhân; nhất là trong lĩnh vực tư vấn pháp luật dân sự và kinh doanh thương mại.

Tóm lại, từ bức tranh về nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của tổ chức và công dân như trên cho thấy, với các chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý như hiện nay (tỷ lệ trên dân số thấp; tập chung chủ yếu tại các vùng đô thị; số luật sư hành nghề kiêm nhiệm các công việc khác còn khá cao; hạn chế về ngoại ngữ; nhận thức, ý thức và trình độ của một bộ phận người hành nghề chư phù hợp...;. Đa số các tổ chức hành nghề có quy mô nhỏ, chủ yếu hoạt động dưới hình thức văn phòng luật sư, chỉ có từ 1-2 luật sư, cơ sở vật chất thiếu thốn, công tác quản trị, điều hành còn lỏng lẻo, thiếu tính chuyên nghiệp...) là rất khó phúc đáp được một cách đầy đủ nhu cầu của công dân và tổ chức.

III. PHÁP LUẬT VÀ TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ PHÁP LÝ VÀ THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ

Qua rà soát các quy định của hệ thống pháp luật về luật sư, trợ giúp pháp lý và tư vấn pháp luật, chúng ta thấy[57]:

(i) Để điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của luật sư hiện có 02 luật và các văn bản có liên quan gồm 09 Bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội, 06 nghị định, 03 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 12 thông tư.

(ii) Để điều chỉnh về tổ chức và hoạt động Trợ giúp pháp lý hiện có 18 văn bản đang có hiệu lực pháp luật gồm Luật, Nghị định, Quyết định, Thông tư liên tịch, Thông tư. Cùng với đó, nội dung về trợ giúp pháp lý cũng đã được quy định trong các Bộ luật, luật khác có liên quan như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật...

(iii) Điều chỉnh về tư vấp pháp luật hiện có 02 nghị định và 02 thông tư.

Đánh giá một cách khái quát, có thể khẳng định hiện nay về cơ bản đã có đầy đủ các quy định của pháp luật – tạo hành lang pháp lý đồng bộ để quản lý, hỗ trợ và thúc đẩy thị trường dịch vụ pháp lý vận hành và phát triển.

1. Pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật về luật sư

1.1. Các kết quả đạt được

1.1.1. Về xây dựng và hoàn thiện thể chế thị trường dịch vụ pháp lý

Ngay sau khi Luật Luật sư được ban hành (2006), các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật về cơ bản đã được ban hành kịp thời, đúng thời hạn, bảo đảm đúng định hướng, lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, hợp hiến, hợp pháp, khả thi, đưa các quy định của pháp luật về luật sư vào cuộc sống hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thực tế.

Năm 2012, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư với nhiều quy định mới[58] đã góp phần nâng cao chất lượng đầu vào của luật sư; tạo cơ sở pháp lý thực hiện tốt hơn quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của luật sư, góp phần nâng cao hình ảnh của đội ngũ luật sư trong xã hội, nâng cao vai trò của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật s­ư. Các Bộ, ngành, cơ quan tiến hành tố tụng đã chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng, sửa đổi, bổ sung nhiều dự án luật, pháp lệnh, văn bản pháp luật[59], tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động hành nghề luật sư, bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử. Hệ thống các văn bản về cơ bản phù hợp với nhu cầu của tổ chức và hoạt động luật sư, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, tiếp cận với thông lệ hành nghề luật sư quốc tế, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn vào thời điểm ban hành văn bản[60].

Với vai trò là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương và các bộ, ngành có liên quan xây dựng, hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại[61] để tạo hành lang pháp lý cho việc phát triển tổ chức và hoạt động luật sư nói chung và luật sư chuyên sâu trong lĩnh vực thương mại quốc tế nói riêng. Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Ngoại giao, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương ban hành 07 văn bản, đề án liên quan đến phát triển luật sư, luật sư phục vụ hội nhập quốc tế[62].

Công tác xây dựng chính sách khuyến khích, thu hút luật sư tham gia công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng chính sách và các công tác xã hội khác được đẩy mạnh[63]. Hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng chính sách và công tác xã hội khác được các luật sư quan tâm thực hiện. Nhiều Đoàn Luật sư đã phát động phong trào để luật sư tham gia trợ giúp pháp lý miễn phí cho người dân, tạo được tiếng vang trong dư luận, niềm tin đối với người dân[64].

1.1.2. Về đổi mới cơ chế thi hành pháp luật về luật sư, nâng cao nhận thức của công dân, cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp về vị trí, vai trò của luật sư; từng bước xây dựng và hoàn thiện thị trường dịch vụ pháp lý

Bộ Tư pháp đã chỉ đạo tăng cường công tác tuyên truyền về vị trí, vai trò của luật sư và hành nghề luật sư thông qua nhiều hình thức như sách, báo, ấn phẩm bản tin, chuyên đề, chuyên mục trên tạp chí và truyền hình…; xây dựng Trang thông tin Bổ trợ tư pháp, tạo điều kiện cho người dân dễ dàng tiếp cận thông tin về luật sư và hành nghề luật sư[65]; tổ chức các hội thảo, toạ đàm, buổi nói chuyện chuyên đề... để luật sư tiếp xúc với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người dân tạo cầu nối và cơ chế dễ dàng tiếp cận với luật sư và dịch vụ pháp lý của luật sư. Liên đoàn Luật sư Việt Nam thực hiện phổ biến nội dung Chiến lược, vị trí, vai trò của luật sư lồng ghép tại các hội thảo, toạ đàm. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã quán triệt tới các đơn vị, cán bộ, công chức trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia tố tụng, nghiêm túc thực hiện quy định của các Bộ luật về tố tụng, Luật Luật sư, Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của luật sư.

Đến nay, nhận thức của người dân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp về vị trí, vai trò của luật sư và hành nghề luật sư đã được nâng lên, tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của các cấp ủy, chính quyền địa phương và các cơ quan tiến hành tố tụng. Chính quyền nhiều địa phương đã thường xuyên quan tâm và tạo điều kiện để luật sư, tổ chức luật sư thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trong hoạt động tố tụng, nhiều ý kiến tranh luận của luật sư đã được các cơ quan tiến hành tố tụng ghi nhận và đánh giá cao. Vị trí, vai trò của luật sư trong đời sống xã hội được khẳng định.

Đánh giá chung, thể chế pháp luật về tổ chức và hoạt động của luật sư thời gian qua đã từng bước được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý cho luật sư và tổ chức hành nghề luật sư phát triển cả về số lượng và chất lượng, trong đó có đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập quốc tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Vị thế của luật sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ngày càng được nâng cao.

1.1.3.  Về hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư

(i) Về sự phát triển đội ngũ luật sư, Luật Luật sư được triển khai trên thực tiễn với các quy định rõ về tiêu chuẩn để trở thành luật sư cùng với quy trình thủ tục hành chính được đơn giản hóa đã tạo bước phát triển đột phá về số lượng cũng như chất lượng đội ngũ luật sư[66]. Chất lượng đội ngũ luật sư được nâng lên thông qua việc quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn luật sư. Bên cạnh tiêu chuẩn về bằng cứ nhân luật thì thời gian đào tạo nghề luật sư tăng từ 06 tháng lên 12 tháng; quy định về tập sự hành nghề luật sư cũng chặt chẽ hơn, giao quyền giám sát cho các Đoàn Luật sư; quy định về nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng bắt buộc hằng năm đối với luật sư. Đồng thời, để thu hút các luật sư có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, Luật Luật sư quy định về việc công nhận việc đào tạo nghề luật sư ở nước ngoài dẫn đến số lượng đội ngũ luật sư này ngày càng tăng[67].

Với các quy định nêu trên, số lượng luật sư phát triển nhanh, chất lượng đội ngũ luật sư đã từng bước được nâng cao và đáp ứng hiệu quả hơn yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.

(ii) Về tổ chức hành nghề luật sư, bên cạnh quy định về Văn phòng luật sư đã được ghi nhận trong Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư quy định mô hình tổ chức hành nghề luật sư đa dạng hơn gồm: Văn phòng luật sư, Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc hai thành viên trở lên, Công ty luật hợp danh. Quy định về trình tự, thủ tục thành lập tổ chức hành nghề luật sư theo hướng đơn giản hóa, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình hoạt động, chuyển đổi hình thức tổ chức hành nghề nên số lượng tổ chức hành nghề luật sư ngày càng tăng nhanh, trong đó có các tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ[68]. Việc thành lập nhiều tổ chức hành nghề luật sư đã tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với dịch vụ của luật sư. Một số tổ chức hành nghề luật sư bước đầu phát huy được thế mạnh, xây dựng được thương hiệu của mình, cũng như tạo được sự tín nhiệm trên thị trường dịch vụ pháp lý trong khu vực và quốc tế, trở thành “đối tác” cạnh tranh với các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và được các tạp chí uy tín trong khu vực xếp hạng đang ngày một gia tăng với nhiều gương mặt mới[69].

Tổ chức và hoạt động của luật sư nước ngoài tại Việt Nam đã có bước phát triển[70], đóng góp tích cực trong việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi, thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam[71], hỗ trợ tích cực cho các hoạt động kinh doanh, đầu tư, thương mại, giúp các luật sư Việt Nam có thêm cơ hội tiếp nhận, nâng cao kiến thức và kỹ năng hành nghề tư vấn pháp luật đầu tư thương mại quốc tế[72].

(iii) Về tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, Luật Luật sư quy định hệ thống tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư từ trung ương đến các địa phương  là tổ chức luật sư toàn quốc và Đoàn Luật sư ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để Liên đoàn Luật sư Việt Nam được thành lập năm 2009. Từ khi Liên đoàn Luật sư được thành lập, vị trí, vai trò của tổ chức xã hội - nghề nghiệp cũng đã từng bước được nâng lên. Bên cạnh đó, Luật Luật sư cũng đã chuyển giao nhiều nhiệm vụ thuộc quản lý nhà nước sang cho tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư[73]. Luật Luật sư cũng tạo hành lang pháp lý thông thoáng để tổ chức xã hội - nghề nghiệp có thể phát huy tối đa tính tự quản, tự chịu trách nhiệm của mình.

(iv) Luật Luật sư quy định quản lý luật sư và hành nghề luật sư được thực hiện theo nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với chế độ tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Nhà nước thực hiện chức năng định hướng, điều tiết và hỗ trợ phát triển nghề luật sư, không can thiệp vào hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Cơ quan quản lý nhà nước tập trung vào việc xây dựng và hoạch định chính sách phát triển nghề luật sư, hoàn thiện thể chế, đào tạo nghề luật sư, kiểm tra, thanh tra và tranh thủ mọi nguồn lực nhằm hỗ trợ phát triển nghề luật sư[74].

1.1.4. Về nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; tạo nguồn phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập quốc tế; tăng cường tính chuyên môn hoá, chuyên sâu trong hoạt động hành nghề

(i) Về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ luật sư

Về công tác đào tạo nghề luật sư, Bộ Tư pháp đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án “Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp”[75]. Bộ Tư pháp ban hành Đề án thành lập Trung tâm liên kết đào tạo luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế và Chương trình khung đào tạo luật sự phục vụ hội nhập quốc tế; Chương trình chi tiết đào tạo luật sư phục vụ hội nhập quốc tế. Sau khi được thành lập, Trung tâm đã thực hiện nhiều hoạt động thúc đẩy liên kết đào tạo luật sư[76]; xây dựng nội dung giảng dạy tiếng Anh pháp lý[77]; tổ chức các khóa đào tạo luật sư phục vụ hội nhập quốc tế[78] với sự hỗ trợ của công ty luật nước ngoài tại Việt Nam, công ty luật hàng đầu Việt Nam chuyên sâu trong lĩnh vực thương mại quốc tế; bồi dưỡng chuyên sâu về tiếng Anh pháp lý; bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ luật sư thương mại quốc tế[79].

Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp đã xây dựng và triển khai nhiều chương trình đào tạo khác cho luật sư như Chương trình đào tạo nghề luật sư phục vụ hội nhập quốc tế; Chương trình đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, thu hút được hơn 272 lượt học viên tham dự[80]. Các chương trình đào tạo tăng cường sự tương tác giữa giảng viên với học viên, giữa học viên với nhau, tạo không gian sư phạm mở để tạo điều kiện cho học viên chủ động chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, hình thành tư duy, phương pháp luận trong phát triển nghề nghiệp đã nhận được sự đánh giá cao từ phía các học viên, đảm bảo đáp ứng nhu cầu, định hướng chuyên sâu.

Từ năm 2009 đến nay (năm 2020), Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã tổ chức gần 600 lớp bồi dưỡng[81] với các chủ đề khác nhau đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, trong đó có các chuyên đề chuyên sâu trong lĩnh vực hội nhập. Hầu hết các Đoàn Luật sư cũng đã quan tâm tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ luật sư thành viên của Đoàn mình và Đoàn bạn. Bên cạnh đó, Liên đoàn Luật sư Việt Nam xuất bản cuốn Bài bào chữa trong vụ án hình sự[82], xây dựng và xuất bản Bộ Sổ tay luật sư. Đây là những là tài liệu hữu ích để các luật sư có thể tham khảo, rút kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình hành nghề.

(ii) Tạo nguồn phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập quốc tế

Thực hiện nhiệm vụ thí điểm việc đào tạo liên thông trở thành luật sư đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế cho sinh viên luật xuất sắc, trong thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh và Bộ Tư pháp chỉ đạo Trường Đại học Luật Hà Nội thực hiện Đề án xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật, yêu cầu các trường chú trọng đổi mới chương trình đào tạo luật theo hướng tiếp cận với chương trình đào tạo của các nước tiên tiến trên thế giới. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng và đưa vào giảng dạy một số chương trình đào tạo đặc biệt[83], tăng cường các chương trình khảo sát thực tế về hệ thống pháp luật và đào tạo luật của các nước trong khu vực Châu Á, ASEAN nhằm vừa nâng cao kiến thức về hệ thống pháp luật nước ngoài, vừa giúp sinh viên có cơ hội cọ xát, nâng cao trình độ tiếng Anh. Trường Đại học Luật Hà Nội mở mã ngành đào tạo Luật thương mại quốc tế; mã ngành Ngôn ngữ Anh (tiếng Anh pháp lý); rà soát, ban hành mới Chương trình đào tạo ngành luật hệ chính quy, Chương trình đào tạo thạc sỹ luật theo định hướng nghiên cứu và Chương trình đào tạo thạc sỹ theo định hướng ứng dụng, trong đó bổ sung một số môn mới theo yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế, tăng cường các môn giảng dạy bằng tiếng Anh.

(iii) Tăng cường tính chuyên môn hoá, chuyên sâu trong hoạt động hành nghề luật sư

Hoạt động tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp, tổ chức trong các lĩnh vực đầu tư, thương mại quốc tế đã tạo được tín nhiệm trên thị trường dịch vụ pháp lý trong khu vực, trở thành “đối tác” cạnh tranh với các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài[84]. Các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư đã tích cực, chủ động tham gia trợ giúp, hợp tác với các công ty luật nước ngoài trong quá trình giải quyết vụ việc về phòng vệ thương mại của nước ngoài đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, giải quyết tranh chấp theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO mà một bên tham gia là Chính phủ Việt Nam[85].

Hoạt động đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác như dịch vụ liên quan đến thành lập doanh nghiệp, chuyển nhượng bất động sản, xuất nhập cảnh... cũng có chiều hướng gia tăng trong thời gian gần đây[86].

Tổ chức, quy mô và chất lượng hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư đã bài bản, chuyên nghiệp hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Một số tổ chức hành nghề luật sư có xu hướng hoạt động chuyên sâu trong các giao dịch đầu tư, mua bán - tái cấu trúc doanh nghiệp, thị trường vốn, thị trường bất động sản, sở hữu trí tuệ, hàng hải, logistics, tham gia tranh tụng và trọng tài thương mại có yếu tố nước ngoài… và  có xu hướng “quốc tế hóa”[87], phát triển thị trường ra nước ngoài[88]; tuyển dụng luật sư nước ngoài làm việc; quan tâm đào tạo luật sư thông qua việc thuyên chuyển luật sư tới các văn phòng luật sư tại các nước Châu Á, Châu Mỹ; tổ chức hội thảo về kỹ năng hành nghề trong lĩnh vực thương mại quốc tế với sự tham gia của luật sư trong và ngoài nước.

Hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng chính sách và công tác xã hội khác được các luật sư quan tâm thực hiện[89]. Hầu hết các Đoàn Luật sư đều phát động phong trào để luật sư tham gia trợ giúp pháp lý miễn phí, trực tiếp cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người nghèo, người yếu thế bằng các hình thức khác nhau[90].

1.1.5. Về xây dựng đội ngũ luật sư, tổ chức hành nghề luật sư và tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư

Đến nay, 63/63 tỉnh, thành phố đã thành lập được Đoàn Luật sư; Liên đoàn Luật sư Việt Nam được thành lập vào tháng 5/2009 góp phần hoàn thiện hệ thống tổ chức hành nghề luật sư từ trung ương đến địa phương. Ngay sau khi thành lập, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã quan tâm đến việc củng cố, kiện toàn về tổ chức và hoạt động để triển khai nhiệm vụ tự quản theo quy định của pháp luật, tích cực xây dựng các quy chế nội bộ, Quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp luật sư, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của tổ chức hành nghề luật sư.

Công tác phối hợp giữa Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư với cơ quan tiến hành tố tụng ngày càng chặt chẽ, bảo đảm sự tôn trọng, tạo điều kiện hỗ trợ lẫn nhau thực hiện tốt nhiệm vụ chung theo đúng tinh thần cải cách tư pháp[91]. Một số Sở Tư pháp chủ động cùng các Đoàn Luật sư và các cơ quan tiến hành tố tụng ký kết Quy chế phối hợp để trao đổi thông tin và xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của từng cơ quan[92]. Các Đoàn Luật sư đã quan tâm bảo đảm 100% các vụ án chỉ định có luật sư tham gia. Giữa Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã xây dựng Quy chế phối hợp[93].

1.2. Một số bất cập, hạn chế và nguyên nhân

1.2.1. Bất cập, hạn chế

Trong quá trình triển khai thực hiện Luật Luật sư đã thể hiện một số bất cập, hạn chế, cụ thể như sau:

(i) Còn một số chủ trương, chính sách phát triển nghề luật sư chưa được thể chế hóa hay triển khai thực hiện tại các bộ, ngành, địa phương; một số quy định chưa được hướng dẫn cụ thể hoặc không còn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, thực tiễn phát triển nghề luật sư ở Việt Nam, đặc biệt về tiêu chuẩn, điều kiện trở thành luật sư, vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư. Trong hoạt động hành nghề, luật sư vẫn còn gặp một số khó khăn khi tham gia tố tụng.

(ii) Phẩm chất đạo đức, ý thức tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp chưa thực sự trở thành kim chỉ nam cho mọi hành vi ứng xử của luật sư. Còn tình trạng một số luật sư có hành vi tiêu cực trong hành nghề cũng như các hoạt động chính trị, xã hội khác hoặc lợi dụng quyền hành nghề luật sư thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, tác động, lôi kéo người dân thực hiện khiếu nại, khiếu kiện, tụ tập đông người trái pháp luật, gây mất trật tự, an toàn xã hội.

(iii) Đa số các tổ chức hành nghề luật sư có quy mô nhỏ, quản trị, điều hành còn yếu kém, tính chuyên nghiệp chưa cao, chưa thực sự tạo được niềm tin đối với khách hàng, cơ quan, tổ chức.

(iv) Công tác quản lý nhà nước đối với tổ chức, hoạt động hành nghề của luật sư còn một số hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang diễn ra. Chất lượng đầu vào của luật sư chưa có sự kiểm soát chặt chẽ. Cơ quan quản lý nhà nước một số địa phương chưa thực sự sát sao, quan tâm, tạo điều kiện phát triển nghề luật sư. Công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm tại nhiều tỉnh, thành phố chưa được chú trọng, thực hiện thường xuyên, còn hình thức; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền còn chưa quyết liệt, dứt điểm.

 (v) Vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư có điểm còn chưa tương xứng với yêu cầu. Một số nhiệm vụ pháp luật giao cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư thực hiện đã được triển khai nhưng chưa thực sự hiệu quả[94]. Mặc dù được giao nhiều nhiệm vụ và được tăng cường vai trò tự quản, nhưng Đoàn Luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam chưa có biện pháp hữu hiệu để chấn chỉnh, uốn nắn những luật sư có biểu hiện giảm sút về đạo đức, sai về nhận thức chính trị. Công tác chỉ đạo giải quyết các trường hợp luật sư vi phạm đạo đức nghề nghiệp còn chậm, chưa quyết liệt, dứt điểm so với yêu cầu quản lý luật sư theo chế độ tự quản.

(vi) Việc đăng ký kinh doanh hoạt động đại diện, tư vấn pháp luật, một trong nội dung thuộc phạm vi hành nghề luật sư đang có cách hiểu chưa thống nhất dẫn đến tình trạng cho phép những người không đủ tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp luật sư nhưng lại được cung cấp dịch vụ như luật sư. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dịch vụ pháp lý của luật sư trong nước, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định về an ninh, trật tự, gây khó khăn cho công tác quản lý luật sư và việc thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường dịch vụ pháp lý mà Việt Nam tham gia ký kết[95].

1.2.2. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế

a) Nguyên nhân khách quan

- Luật Luật sư, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật được ban hành trong khoảng thời gian khá dài, trước khi Hiến pháp năm 2013 và các bộ luật, luật lớn, quan trọng, liên quan đến tổ chức và hoạt động của luật sư như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, các văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục hành chính… được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện nên một số quy định của Luật Luật sư và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật chưa kịp thời đồng bộ, tương thích, phù hợp với những quy định của pháp luật có liên quan.

- Chất lượng dịch vụ của luật sư chưa đồng đều, chưa tương xứng với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn và tạo lập được niềm tin với người dân, doanh nghiệp và Nhà nước. Chất lượng tham gia tố tụng của luật sư chưa đáp ứng được yêu cầu tranh tụng tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp. Việc phát triển đội ngũ luật sư có trình độ ngoại ngữ, hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực thương mại quốc tế còn chưa tương xứng với yêu cầu của thực tiễn.

- Một số quy định cụ thể của pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư chưa theo kịp sự phát triển của nghề luật sư, tính dự báo chưa cao, chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động luật sư. Một số nhiệm vụ trước đây thuộc về quản lý nhà nước được chuyển giao cho tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư đã và đang bộc lộ những hạn chế, bất cập, cần có sự đánh giá, nghiên cứu điều chỉnh trong thời gian tới.

- Nguyên tắc kết hợp song song giữa quản lý của nhà nước và chế độ tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư còn bất cập, đôi khi có sự chồng lấn, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý.

- Cơ quan quản lý nhà nước hiện nay còn thiếu công cụ pháp lý để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động luật sư; thiếu cơ chế hữu hiệu để đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước với hoạt động tự quản của luật sư.

b) Nguyên nhân chủ quan

- Quy định đầu vào của luật sư chưa chặt chẽ, tiêu chuẩn trở thành luật sư theo quy định của Luật Luật sư chưa tương thích với pháp luật về các nghề bổ trợ tư pháp khác (công chứng, đấu giá...).

- Nhận thức về tư tưởng, chính trị, ý thức tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của một bộ phận luật sư chưa được bảo đảm.

- Trách nhiệm, vai trò quản lý, sự quan tâm của một số cơ quan quản lý nhà nước, nhận thức của cán bộ quản lý trong lĩnh vực luật sư ở địa phương còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý trong tình hình hiện nay dẫn đến hiệu quả triển khai thi hành các văn bản pháp luật còn thấp; công tác quản lý nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các sở, ngành về luật sư có lúc, có nơi còn lúng túng, hiệu lực, hiệu quả chưa cao.

- Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư có lúc, có nơi chưa hiểu đúng về vai trò quản lý nhà nước, còn quá đề cao vai trò tự quản nên có tình trạng chưa nghiêm túc, kịp thời thực hiện yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền, quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của luật sư, thậm chí muốn tách khỏi sự quản lý của Nhà nước.

2. Pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật về trợ giúp pháp lý

2.1. Kết quả đạt được

Trong thời gian qua, việc triển khai Luật trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật, tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý đã đạt được những kết quả đáng khích lệ như sau:

2.1.1. Hệ thống trợ giúp pháp lý được kiện toàn và tăng cường năng lực; người thực hiện trợ giúp pháp lý ngày càng được nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp

Hiện nay, hệ thống trợ giúp pháp lý có 63 Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước với 1.233 viên chức, người lao động, trong đó 730 Trợ giúp viên pháp lý (bao gồm cả số trợ giúp viên pháp lý mới đạt kết quả kiểm tra tập sự năm 2022 đã và đang được bổ nhiệm), 104 Chi nhánh trợ giúp pháp lý cấp huyện, liên huyện. Bên cạnh đó, công tác trợ giúp pháp lý còn huy động 670 luật sư, 38 cộng tác viên ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với Trung tâm trợ giúp pháp lý; 180 tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý và 40 tổ chức ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với Sở Tư pháp[96].

2.1.2. Đáp ứng nhu cầu trợ giúp pháp lý ngày càng nhiều hơn, chất lượng

Thời gian qua, các địa phương đã tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm của công tác trợ giúp pháp lý là thực hiện các vụ việc trợ giúp pháp lý, nhất là vụ việc tham gia tố tụng. Đặc biệt, trong thời gian bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, hệ thống trợ giúp pháp lý đã nỗ lực, chủ động trong tiếp cận vụ việc và triển khai các hoạt động hướng tới mục tiêu cốt lõi là thực hiện vụ việc với chất lượng tốt nhất, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người được trợ giúp pháp lý. Bộ Tư pháp đã thường xuyên theo dõi, chỉ đạo và các Trung tâm trợ giúp pháp lý chủ động, kịp thời tiếp cận nhu cầu trợ giúp pháp lý để cử người thực hiện trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích kịp thời, hiệu quả cho người được trợ giúp pháp lý[97].

Có thể nói, những kết quả trên, hoạt động trợ giúp pháp lý đã phát huy được vai trò của mình thông qua việc thực hiện các vụ việc trợ giúp pháp lý cụ thể, nhất là các vụ việc đem lại thành công, hiệu quả rõ rệt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền công bằng trong tiếp cận công lý, tạo niềm tin của người dân nói chung và người được trợ giúp pháp lý nói riêng vào tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trên toàn quốc.

2.1.3. Công tác phối hợp trợ giúp pháp lý ngày càng chặt chẽ, hiệu quả

Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và Trung tâm trợ giúp pháp lý ngày càng được củng cố, giúp người thuộc diện trợ giúp pháp lý sớm tiếp cận với thông tin về quyền được trợ giúp pháp lý và thụ hưởng khi có nhu cầu. Đa số các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp đã thực hiện đúng việc giải thích, thông tin, thông báo và tạo điều kiện thuận lợi cho người thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện vụ việc theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý và các văn bản pháp luật có liên quan[98].

Nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ký kết Chương trình/Kế hoạch phối hợp giữa Sở Tư pháp với Tòa án nhân dân tỉnh[99] và các địa phương đều đã triển khai thực hiện việc người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại trụ sở Tòa án hoặc Tòa án thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước các thông tin về người thuộc diện trợ giúp pháp lý cho người thực hiện trợ giúp pháp lý qua điện thoại.

Cùng với những kết quả đạt được như trên, trong những năm qua, Bộ Tư pháp, Cục trợ giúp pháp lý và một số địa phương (UBND/Sở Tư pháp/Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước ở các tỉnh, thành phố có nội dung thực hiện trợ giúp pháp lý các Chương trình mục tiêu quốc gia cũng đã ban hành các văn bản triển khai (Kế hoạch/công văn), lập dự toán kinh phí và triển khai các hoạt động khi được cấp kinh phí như: thực hiện truyền thông về trợ giúp pháp lý trên các phương tiện thông tin; tổ chức truyền thông điểm/luân phiên về cơ sở; tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về trợ giúp pháp lý; biên soạn, in ấn tài liệu truyền thông về trợ giúp pháp lý cho các đối tượng và địa bàn… theo đúng quy định pháp luật[100].

2.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

2.2.1. Tồn tại, hạn chế

Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được nêu trên, trong quá trình triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần được khắc phục, cụ thể như sau: 

- Trên thực tế vẫn còn có những đối tượng thực sự có nhu cầu trợ giúp pháp lý, không có đủ điều kiện để sử dụng dịch vụ pháp lý có thu phí nhưng chưa được quy định là người thuộc diện trợ giúp pháp lý như hộ mới thoát nghèo…

- Số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, trong đó có số lượng vụ việc tham gia tố tụng hàng năm vẫn còn thấp so với số người thuộc diện trợ giúp pháp lý[101], số lượng vụ án được xét xử trên trên toàn quốc[102]. Chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý còn chưa đồng đều. Việc kiểm tra, đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý ở một số địa phương chưa được quan tâm đúng mức. Số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý do cơ quan quản lý trợ giúp pháp lý đánh giá chưa được nhiều, công tác quản lý chất lượng, kiểm tra, thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý một số địa phương còn thực hiện thường xuyên; một vài Trung tâm chưa thực hiện việc thẩm định vụ việc, xác định vụ việc trợ giúp pháp lý thành công đầy đủ theo đúng quy định…

- Công tác phối hợp trong hoạt động trợ giúp pháp lý ở một số nơi còn chưa thực sự phát huy hiệu quả. Một số Ủy ban nhân dân cấp xã chưa triển khai đầy đủ, hiệu quả việc giới thiệu người được trợ giúp pháp lý có nhu cầu đến Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.

- Trong khi trợ giúp pháp lý được xác định là dịch vụ công thiết yếu, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước không bị xác định tinh gọn 10% biên chế sự nghiệp[103] thì số lượng  người làm việc tại một số Trung tâm vẫn còn chưa bảo đảm, thậm chí ở một số nơi số lượng Trợ giúp viên pháp lý còn quá ít, ảnh hưởng đến hoạt động trợ giúp pháp lý tại địa phương[104]. Kinh phí dành cho công tác trợ giúp pháp lý ở một số địa phương còn chưa được bảo đảm, nhất là kinh phí dành cho vụ việc trợ giúp pháp lý còn thấp[105]. Kinh phí cấp để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia trong năm 2022 có nơi còn chưa kịp thời để tổ chức triển khai các hoạt động[106]. Việc bố trí cơ sở vật chất ở một số Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước chưa được quan tâm đúng mức, nhất là cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động trợ giúp pháp lý, tham gia phiên tòa trực tuyến...

2.2.2. Nguyên nhân

- Trong tình hình kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay, quy định điều kiện có khó khăn về tài chính tại Nghị định số 144/2017/NĐ-CP chưa bao quát hết các đối tượng khó khăn có nhu cầu trợ giúp pháp lý.

- Nhận thức của một số ít cơ quan, tổ chức, cá nhân về hoạt động trợ giúp pháp lý có lúc còn hạn chế, chưa thật sự đầy đủ (trong chỉ đạo, phối hợp, bố trí kinh phí, nhân lực, tác nghiệp... đối với hoạt động trợ giúp pháp lý).

- Việc truyền thông về trợ giúp pháp lý có nơi chưa đổi mới, chưa phù hợp với thực tiễn phong tục, tập quán của người dân trên địa bàn. Việc triển khai hệ thống quản lý tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý mới ở giai đoạn bước đầu nên vẫn chưa được nhịp nhàng ở tất cả các khâu, hệ thống đôi lúc chưa hoạt động thông suốt.

3. Thực trạng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật về tư vấn pháp luật

Ngoài các công ty luật, văn phòng luật sư được thành lập theo quy định của Luật Luật sư, hiện nay ở Việt Nam còn có các Trung tâm tư vấn pháp luật được thành lập theo quy định của Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 của Chính phủ về tư vấn pháp luật. Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu chuyên ngành luật có quyền thành lập Trung tâm tư vấn pháp luật để tư vấn pháp luật cho thành viên, hội viên, đoàn viên của tổ chức mình và cá nhân, tổ chức khác[107]. Hoạt động tư vấn pháp luật của các tổ chức này chủ yếu chỉ mang tính chất xã hội, không nhằm mục đích thu lợi nhuận, việc nhận thù lao khi cung cấp dịch vụ pháp lý cho các tổ chức, cá nhân không phải là thành viên chỉ nhằm mục đích trang trải chi phí hoạt động của Trung tâm. Theo thống kê, hiện nay, toàn Hội có 128 Trung tâm tư vấn pháp luật, trong đó Trung ương Hội có 10 Trung tâm, 118 Trung tâm, chi nhánh của Trung tâm trực thuộc Hội Luật gia các tỉnh, thành phố, quận, huyện[108].

Bên cạnh hoạt động tư vấn pháp luật miễn phí cho các đối tượng theo quy định của pháp luật, Trung tâm tư vấn pháp luật được cung cấp dịch vụ pháp lý có thu thù lao đối với cá nhân, tổ chức khác có yêu cầu tư vấn pháp luật để bù đắp chi phí cho hoạt động của Trung tâm. Việc thu thù lao của Trung tâm tư vấn pháp luật do tổ chức chủ quản quyết định và có trách nhiệm quy định về mức thù lao (nếu có). Mức thù lao phải được niêm yết công khai tại trụ sở của Trung tâm. Dù Trung tâm tư vấn pháp luật được nhận và thực hiện vụ việc trong tất cả các lĩnh vực pháp luật, nhưng thực tế hiện nay cho thấy các Trung tâm tư vấn pháp luật chủ yếu nhận vụ việc trong lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính và đối tượng chủ yếu vẫn là phụ nữ, trẻ em, người nghèo, người yếu thế. Hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của Trung tâm tư vấn pháp luật tuy không nhiều và chủ yếu được thực hiện dưới hình thức tư vấn pháp luật nhưng cũng chiếm một phần trong thị trường dịch vụ pháp lý nói chung.

Người thực hiện cung cấp dịch vụ pháp lý tại các Trung tâm tư vấn pháp luật có thể là tư vấn viên pháp luật hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động cho Trung tâm tư vấn pháp luật hoặc cộng tác viên tư vấn pháp luật.

Dù theo quy định tại Nghị định 77/2008/NĐ-CP về tư vấn pháp luật thì hoạt động của Trung tâm tư vấn pháp luật pháp luật chỉ mang tính chất xã hội, không nhằm mục đích thu lợi nhuận nhưng với phạm vi hoạt động tương đối rộng và được phép nhận thù lao thì với việc cứ mỗi tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu chuyên ngành luật được thành lập 1 trung tâm tư vấn pháp luật, có thể thấy, nếu hoạt động hiệu quả thì hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của các Trung tâm tư vấn pháp luật cũng chiếm thị phần đáng kể trong thị trường cung cấp dịch vụ pháp lý hiện nay.[109]

 

KẾT LUẬN PHẦN III

 

          Qua đánh giá tổng quan về dịch vụ pháp lý, thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cho thấy:

1. Với mục tiêu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; góp phần giảm thiểu các vụ án oan sai, bảo vệ tốt nhất quyền lợi của khách hàng trên cơ sở các quy định của pháp luật, trong thời gian vừa qua hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý cho người dân, tổ chức đã được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính, lao động, kinh doanh thương mại… với các hình thức như: đại diện pháp lý, tư vấn pháp luật; và dịch vụ pháp lý khác. Cùng với hoạt động tham gia tranh tụng, việc cung cấp dịch vụ pháp lý với hình thức tư vấn pháp luật ngày càng phát triển. Số lượng các vụ việc cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư cho người dân và doanh nghiệp mỗi năm đều tăng, điều đó có thể xuất phát từ chất lượng cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư ngày càng đáp ứng yêu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Trong hơn mười năm qua, hàng năm các tổ chức hành nghề luật sư đã đóng góp hàng ngàn tỷ đồng tiền thuế cho Nhà nước. Hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý là làm đại diện ngoài tố tụng hay cung cấp các dịch vụ pháp lý khác tuy đã hình thành và từng bước phát triển nhưng còn khá khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu của tổ chức và nhân dân.

2. Về thị trường dịch vụ pháp lý của Việt Nam đã hình thành và từng bước phát triển qua các giai đoạn mà dấu mốc từ những năm đầu của thập niên 90 thế kỷ 20 đánh dấu bằng sư hiện diện của luật sư nước ngoài, tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam[110]. Pháp lệnh Luật sư năm 1987, 2001; Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi năm 2012), Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý; cũng như việc vận hành thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam. Tuy nhiên, qua hoạt động đánh giá thực trạng về thị trường dịch vụ pháp lý cho thấy “Thị trường dịch vụ pháp lý Việt Nam” hiện còn rất khiêm tốn cả về phạm vi, quy mô, chất lượng của dịch vụ, như: tỷ lệ người hành nghề cung cấp dịch vụ pháp lý trên dân số thấp (khoảng 1/5000) lại tập chung chủ yếu tại các vùng đô thị; số luật sư hành nghề kiêm nhiệm các công việc khác còn khá cao; đa số còn hạn chế về ngoại ngữ; nhận thức, ý thức và trình độ của một bộ phận người hành nghề chư phù hợp...;. Đa số các tổ chức hành nghề có quy mô nhỏ, chủ yếu hoạt động dưới hình thức văn phòng luật sư  (thường chỉ có từ 1-2 luật sư), cơ sở vật chất thiếu thốn, công tác quản trị, điều hành còn lỏng lẻo, thiếu tính chuyên nghiệp... do vậy, rất khó phúc đáp được một cách đầy đủ nhu cầu của công dân và tổ chức. Mặt khác, với nền kinh tế đang tăng trưởng với tốc độ cao, quy mô dân số trẻ và nhất là với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, đã, đang và sẽ dẫn đến sự gia tăng nhu cầu sử dụng các dịch vụ pháp lý nói chung và dịch vụ pháp lý quốc tế nói riêng. Điều này đòi hỏi phải khẩn trương có chính sách và giải pháp thỏa đáng để khuyên skhichs, thúc đẩy, hỗ trợ dịch vụ pháp lý phát triển để đáp ứng được nhu cầu của tổ chức, công dân.

3. Về quản lý, hỗ trợ, thúc đẩy thị trường dịch vụ pháp lý vận hành và phát triển. Trước yêu cầu đẩy mạnh cải cách tổ chức bộ máy nhà nước, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong thời gian qua “Nhà nước” đã xây dựng và ban hành hệ thống văn bản văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về tổ chức, hoạt động liên quan đến dịch vụ pháp lý tương đối đầy đủ và đồng bộ. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược phát triển nghề Luật sư đến năm 2020 (ban hành kèm theo Quyết định số 1072/QĐ-TTg” với những chủ trương, chính sách lớn, các giải pháp cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm định hướng và hỗ trợ cho việc phát triển nghề Luật sư ở Việt Nam giai đoạn 2011 đến 2020. Tuy nhiên, qua quá trình tổ chức, thực hiện cho thấy: (i) Còn một số chủ trương, chính sách phát triển nghề luật sư chưa được thể chế hóa hay triển khai thực hiện tại các bộ, ngành, địa phương; một số quy định chưa được hướng dẫn cụ thể hoặc không còn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. (ii) Việc tuân thủ quy định về tổ chức, hoạt động của một số tổ chức hành nghề luật sư là rất yếu kém, nhất là trong hoạt động báo cáo, thống kê theo quy định. (iii) Đa số các tổ chức hành nghề luật sư có quy mô nhỏ, quản trị, điều hành còn yếu kém, tính chuyên nghiệp chưa cao. Chất lượng dịch vụ của luật sư chưa đồng đều. Số lượng luật sư có khả năng tham gia tư vấn, giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. (iv) Công tác quản lý nhà nước đối với tổ chức, hoạt động hành nghề của luật sư còn một số hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang diễn ra. (v) Vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư có điểm còn chưa tương xứng với yêu cầu. Một số nhiệm vụ pháp luật giao cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư thực hiện đã được triển khai nhưng chưa thực sự hiệu quả[111]. (vi) Số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, trong đó có số lượng vụ việc tham gia tố tụng hàng năm vẫn còn thấp so với số người thuộc diện trợ giúp pháp lý[112], số lượng vụ án được xét xử trên trên toàn quốc[113]. Chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý còn chưa đồng đều. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trên có cả nguyên nhân từ khách quan và chủ quan. Vì vậy, đặt ra yêu cầu và trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào thị trường dịch vụ pháp lý cần phải có các giải pháp đổi mới căn bản để từng bước hoàn thiện thị trường dịch vụ pháp lý trong thời gian tới.

 

PHẦN IV

ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ

 

I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ TRONG GIAI ĐOẠN TỚI THEO TINH THẦN VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

1. Về bối cảnh

1.1. Bối cảnh quốc tế

Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế.     Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch Covid-19. Các quốc gia, nhất là các nước lớn, điều chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, làm thay đổi các chuỗi cung ứng. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết liệt, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu; đồng thời dẫn tới khả năng làm gia tăng nguy cơ vi phạm hợp đồng, gia lận thượng mại... dân tới các nhu cầu ngày càng cao sử dụng các dịch vụ pháp lý. Mặt khác, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc trong đó sẽ có tác động sâu rộng đến phương pháp, cách thức cung cấp dịch vụ pháp lý trên thế giới và ở bình diện quốc gia.

Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hoà bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. ASEAN có vai trò quan trọng trong duy trì hoà bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn.

1.2. Bối cảnh trong nước

Với tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế vẫn là xu thế lớn, không thể đảo ngược, tiếp tục tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước ta đã và đang tích cực triển khai thực hiện các cam kết với các nước trong Cộng đồng ASEAN, các nước trong Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và đẩy mạnh việc thực hiện các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam (EVFTA). Với việc Việt Nam tham gia và ký kết nhiều hiệp định thương mại với các tổ chức, các nước trên thế giới và khu vực, hàng rào thuế quan từng bước được gỡ bỏ, nhưng hàng rào về kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt ngày càng cao; yêu cầu các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có tham gia hoạt động thương mại quốc tế phải nhận thức được tầm quan trọng của việc hiểu biết pháp luật và sử dụng dịch vụ pháp lý (có thể sử dụng luật sư làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp hoặc thuê luật sư tư vấn thường xuyên). Mặt khác, do mở rộng giao lưu quốc tế, nhu cầu cung cấp các dịch vụ pháp lý cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức về những vấn đề có yếu tố nước ngoài cũng ngày càng gia tăng (hôn nhân có yếu tố nước ngoài, tranh chấp tài sản, hợp đồng có yếu tố nước ngoài…) đòi hỏi cần có một đội ngũ luật sư tham gia bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, lợi ích hợp pháp của nhà nước trong quan hệ quốc tế. Có thể thấy, với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, các yếu tố kinh tế - xã hội của nước ta đang ngày càng tạo điều kiện cho thị trường dịch vụ pháp lý phát triển, từ đó tạo cơ hội cho hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư cũng như các chủ thể khác phát triển.

Tóm lại, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi chúng ta cần phải chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống, nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển đã đạt được, đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững.

Với bối cảnh quốc tế và trong nước như vậy, đã tạo ra những cơ hội và điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế nói chung và thị trường dịch vụ pháp lý nói riêng. Với các định hướng phát triển thị trường dịch vụ pháp lý được ghi nhận trong Văn kiện đại hội lần thứ XIII của Đảng, người cung cấp dịch vụ pháp lý mà trọng tâm là luật sư sẽ ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng, có khả năng đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong nước và quốc tế.

2. Về định hướng

Phát triển dịch vụ pháp lý và thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý là một trong các biện pháp góp phần bảo vệ quyền cơ bản của công dân và là vấn đề chính trị - pháp lý đã được Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội rất quan tâm, đặc biệt đối với Việt Nam khi khẳng định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Trong “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000” đã xác định một trong các giải pháp đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu của Nhà nước là “Phát triển các hình thức dịch vụ pháp lý. Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo các luật gia, nhất là về luật kinh tế”[114]. Thực hiện định hướng này, tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định hai trong bốn phương hướng cải cách tư pháp đó là: (1) Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp. (2) Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ; tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức danh.

Tiếp đó, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới đã nêu rõ một trong những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước là đào tạo, bồi dưỡng để hình thành và phát triển được đội ngũ chuyên gia pháp luật và luật sư am hiểu luật pháp quốc tế, giỏi ngoại ngữ, có đủ khả năng tham gia tranh tụng quốc tế.

Tại Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 30/03/2009 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động luật sư, trong đó đã nêu những chủ trương, giải pháp nhằm nâng cao vị trí, vai trò của luật sư, bảo đảm cơ chế để luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm, kiện toàn tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với tổ chức, hoạt động luật sư, một lần nữa khẳng định chủ trương xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Các chủ trương, định hướng này tiếp tục được kế thừa và khẳng định tại Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.

Trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, khi đánh giá về kết quả thực hiện các đột phá chiến lược đã khẳng định “Hoạt động luật sư, công chứng, trợ giúp pháp lý, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp có bước phát triển mạnh, thị trường dịch vụ pháp lý bước đầu có đóng góp tích cực cho việc quản trị rủi ro pháp lý trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp”[115]. Cũng trong Báo cáo này, một trong các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô là tiếp tục phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp”[116]. Phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý cũng là một trong những giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực kiến tạo phát triển[117].

Các định hướng, nhiệm vụ và giải pháp của Đảng về phát triển thị trường dịch vụ pháp lý trong giai đoạn mới đã được xác định rõ trong Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng như:

Nhóm định hướng thứ nhất: (i) Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp. Phát triển hoạt động dịch vụ pháp lý và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án[118]. (ii) Tiếp tục phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp[119]. (iii) Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý của người dân và doanh nghiệp. Phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, các hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, bổ trợ tư pháp và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài toà án. Nâng cao hiệu quả và bảo đảm thời gian giải quyết tranh chấp, thi hành án trong lĩnh vực dân sự, hành chính, đầu tư, kinh doanh, thương mại và bảo vệ người tiêu dùng theo đúng quy định của pháp luật[120].

Nhóm định hướng thứ hai: Thúc đẩy thị trường dịch vụ pháp lý phát triển, như: (i) Phát triển và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, ưu tiên những ngành có tiềm năng, lợi thế, những loại hình dịch vụ mới mang lại hiệu quả cao; chú trọng các dịch vụ hỗ trợ sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp[121]. (ii) Giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước, nhất là về thể chế, chính sách[122]. (iii) Nghiên cứu giải pháp gia tăng sự hiện diện của chuyên gia pháp luật Việt Nam trong các thiết chế luật pháp quốc tế[123]. (iv) Nâng cao năng lực hội nhập, thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại tự do; lồng ghép với các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy các lợi thế chính trị, đối ngoại để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, nhất là trong các tranh chấp kinh tế, thương mại và đầu tư quốc tế[124].

Nhóm định hướng thứ ba: đào tạo, bồi dưỡng để hình thành và phát triển được đội ngũ chuyên gia pháp luật và luật sư am hiểu luật pháp quốc tế, giỏi ngoại ngữ, có đủ khả năng tham gia tranh tụng quốc tế[125].

Thực hiện định hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới (sau đây gọi là Nghị quyết số 27-NQ/TW). Nghị quyết số 27-NQ/TW đã kế thừa các quan điểm, mục tiêu, nội dung Nghị quyết số 48-NQ/TW[126] và Nghị quyết số 49-NQ/TW[127] của Bộ Chính trị như: khẳng định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và phù hợp với thực tiễn Việt Nam; các định hướng mục tiêu xây dựng hệ thống pháp luật “thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch”, xây dựng nền tư pháp “trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh”)...

Một trong các mục tiêu cụ thể được xác định đến năm 2030 tại Nghị quyết số 27-NQ/TW là “Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”. Theo đó, tại Mục IV – Nhiệm vụ và giải pháp đã xác định rõ nhiệm vụ Hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với luật sư, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động hành nghề luật sư. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, am hiểu pháp luật, giỏi về kỹ năng hành nghề và ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Củng cố hội luật gia các cấp, nâng cao vai trò, trách nhiệm của thành viên hội luật gia trong thực hiện nhiệm vụ đúng quy định pháp luật”.

Đó là các chủ trương, định hướng quan trọng của Đảng về phát triển dịch vụ pháp lý cũng như định hướng xây dựng và phát triển thị trường dịch vụ pháp lý trong thời gian tới.

II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ CỤ THỂ NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ TRONG GIAI ĐOẠN TỚI

          1. Một số giải pháp phát triển thị trường dịch vụ pháp lý

Thực hiện định hướng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới; đồng thời đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế thì việc tiếp tục phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, qua đó tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình là một trong những giải pháp căn cốt. Các chủ trương, định hướng chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong thời gian qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật phát triển. Tuy nhiên, những thuận lợi nêu trên cũng chính là những thách thức, nhất là sự cạnh tranh trên thị trường dịch vụ pháp lý trong nước và quốc tế ngày càng gay gắt đòi hỏi trách nhiệm pháp lý, chất lượng, kỷ luật, kỷ cương trong hành nghề cung cấp dịch vụ pháp lý ngày càng cao; công tác quản lý nhà nước và tự quản của hội nghề nghiệp của cần chặt chẽ, đồng thời cần bảo đảm tạo thuận lợi, tạo môi trường phát triển cho các chủ thể hành nghề phát triển.

Từ thực tiễn và từ kinh nghiệm phát triển dịch vụ pháp lý của một số quốc gia trên thể giới cho thấy, để khuyến khích, thúc đẩy thị trường dịch vụ pháp lý phát triển phục vụ một cách tốt nhất nhu cầu của người dân, doanh nghiệp; cũng như bảo đảm phát triển đúng định hướng thì trong thời gian tới cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

Th nht, sớm hoàn thiện các quy định về phát triển thị trường dịch vụ pháp lý theo hướng:

(i) Xác định rõ dịch vụ pháp lý cần được phát triển theo hướng là hoạt động thương mại dịch vụ đặc biệt nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu hỗ trợ pháp lý cho các chủ thể có yêu cầu[128]; mặt khác dịch vụ pháp lý cũng cần được phát triển theo hướng nhân đạo phục vụ miễn phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách trong xã hội. Phải coi dịch vụ pháp lý là công cụ và phương tiện để bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức; qua đó góp phần nâng cao hơn nữa khả năng tiếp cận công lý của người dân, tổ chức. Đồng thời, dịch vụ pháp lý cũng cần phải phát triển phù hợp với chủ trương về cải cách hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian tới.

Thực tiễn đã khẳng định vai trò hết sức quan trọng của hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý. Chính các hoạt động này đã góp phần tạo lập môi trường pháp lý an toàn, tin cậy cho hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại, các giao lưu dân sự; qua đó góp phần hạn chế các tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh; đồng thời góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của người dân. Theo tổ chức thương mại thế giới thì dịch vụ pháp lý bao gồm các hoạt động tư vấn pháp luật và đại diện pháp lý. Các hoạt động dịch vụ pháp lý được phát triển theo hướng như là các loại dịch vụ thương mại và chú trọng từng bước tự do tự do hóa việc cung cấp dịch vụ. Vì vậy, dịch vụ pháp lý cần được đa dạng hóa không chỉ ở phạm vi hình thức cung cấp dịch vụ mà còn đa dạng hóa chủ thể để tạo sự cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực góp phần phát triển kinh tế xã hội.

Mặt khác, hoạt động dịch vụ pháp lý phải được coi như một công cụ hỗ trợ đắc lực trong việc xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế để nền kinh tế vận hành năng động hiệu quả[129]. Theo chủ trương phát triển đa dạng các loại hình thị trường trong nền kinh tế, trong đó có việc phát triển thị trường dịch vụ pháp lý, các hoạt động dịch vụ pháp lý dần dần được định hướng phát triển như một loại hình thương mại dịch vụ. Trên thực tế, các hoạt động dịch vụ pháp lý cũng đang bị chi phối mạnh mẽ bởi các quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh. Theo các quy định của pháp luật hiện hành, không chỉ có các luật sư ở Việt Nam cung cấp dịch vụ pháp lý mà các tổ chức luật sư nước ngoài cũng đã và đang cung cấp các dịch vụ loại này. Ở chừng mực nhất định trong các quan hệ đầu tư, thương mại có yếu tố nước ngoài, chất lượng cung cấp dịch vụ của các luật sư nước ngoài có phần vượt trội so với các luật sư Việt Nam. Đây là vấn đề cần phải được quan tầm để nâng cao năng lực cạnh tranh của đội ngũ luật sư trong nước.

Nếu các dịch vụ pháp lý được phát triển theo hướng thương mại dịch vụ, xây dựng thị trường riêng, để mở rộng phạm vi và hình thức cung cấp dịch vụ cũng như các chủ thể cung cấp dịch vụ đòi hỏi phải xây dựng thể chế và hành lang pháp lý tương thích với năng lực và xu hướng phát triển của nó, đảm bảo để dịch vụ pháp lý thực sự là đòn bẩy, giá đỡ cho các quan hệ kinh tế - xã hội phát triển. Thể chế và môi trường pháp lý mới cần xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các loại chủ thể kinh doanh dịch vụ này, xoá bỏ những rào cản không cần thiết và bất hợp lý trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý như: chính sách thuế, một số giới hạn phạm vi hành nghề, một số thủ tục pháp lý liên quan đến việc hành nghề và điều kiện cung cấp dịch vụ phải cơ chế quản lý...

(ii) Về mô hình dịch vụ pháp lý. Trước hết, cần sớm hoàn thiện quy định về các loại hình cung cấp dịch vụ pháp lý một cách chi tiết, cụ thể nhằm hỗ trợ cho người cung cấp dịch vụ pháp lý hoạt động một cách đúng đắn và chuyên nghiệp. Đồng thời, sớm hoàn thiện quy định về tiêu chuẩn đội ngũ những người hành nghề dịch vụ pháp lý với yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghề nghiệp gắn với mỗi loại hình cung cấp dịch vụ.

(iii) Về hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý cần được quy định theo hướng đa dạng hơn theo những hình thức được pháp luật quy định. Theo đó, các điều kiện hành nghề (tiêu chuẩn, điều kiện, phạm vi hành nghề) được quy định bởi pháp luật chuyên ngành; còn hình thức hành nghề thì cần theo quy định của luật chung là luật doanh nghiệp. Khi một người có đủ điều kiện hành nghề cung cấp dịch vụ pháp lý lựa chọn một trong các hình thức hành nghề kinh doanh theo quy định của luật doanh nghiệp thì có thể được thực hiện các hoạt động cung cấp dịch vụ theo phạm vi hành nghề mà pháp luật đã quy định.

(iv) Về quản lý đối với dịch vụ pháp lý. Thống nhất nguyên tắc Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tổ chức và hành nghề dịch vụ pháp lý; đồng thời cần hình thành cơ chế quản lý thống nhất toàn diện đối với hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý, khắc phục tình trạng nhiều đầu mối quản lý và nhiều phương thức quản lý như hiện nay. Cần phân định rõ và hợp lý giữa quản lý nhà nước của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chế độ tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp. Cần quán triệt phương châm là giảm thiểu tối đa các biện pháp hành chính và thay vào đó là sử dụng biện pháp điều tiết vĩ mô thông qua các cơ chế của thị trường.

(v) Cần nghiên cứu xây dựng chế độ trách nhiệm chi tiết và cụ thể của người cung cấp dịch vụ pháp lý; kết hợp giữa hệ thống chế tài của nhà nước và chế độ kỷ luật của tổ chức tự quản; đồng thời phát huy tối đa sự kiểm soát của bản thân người hành nghề trong chế độ tự quản mặt khác cần phải tạo môi trường pháp lý thuận lợi và bảo đảm trên thực tế để người cung cấp dịch vụ pháp lý được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Th hai, cần có chương trình tổng thể về tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của người dân và doanh nghiệm trong việc sử dụng dịch vụ pháp lý; đồng thời quy định rõ về trách nhiệm minh bạch hóa các thông tin của các tổ chức hành nghề để người sử dụng dịch vụ hiểu rõ “giá cảchất lượng dịch vụ cung cấp của từng nhà cung cấp.

Tp trung đào to, nâng cao kiến thc cho nhng ngưi cung cp dch v pháp lý mà trc tiếp là đi ngũ lut sư, tư vấn viên pháp luật... Tiếp tc nghiên cu, đi mi phương pháp ging dy, đào to, bi dưng đi ngũ hành ngh lut.

Th ba, cn quan tâm đến th trưng dch v pháp lý có yếu tc ngoài, có nghĩa là đi vi các hãng lut nưc ngoài, lut sư nưc ngoài hành ngh, t chc tư vn ti Vit Nam và ngưc li. Vit Nam đã tr thành thành viên ca CPTPP và mi đây gia nhp các FTA thế h mi. Nhu cu tư vn t các Lut sư hot đng chuyên nghip trong lĩnh vc thương mi và đu tư quc tế s ngày càng tăng. Các Lut sư đã có kinh nghim tư vn theo các cam kết WTO s có li thế trong vic s dng các kinh nghim ca mình vì các cam kết trong CPTPP cũng đưc thiết lp theo cách thc gn như tương t. Tuy nhiên, th trưng dch v pháp lý ti Vit Nam vn thiếu ht rt nhiu Lut sư trong lĩnh vc thương mi và đu tư quc tế. Do đó, bên cnh vic nâng cao cht lưng đi ngũ lut sư đáp ng tiêu chun quc tế thì vic s dng lut sư nưc ngoài ti Vit Nam cũng có th xem là mt phương án thay thế tm thi, đm bo cht lưng công vic cũng như gián tiếp h tr đi ngũ lut sư Vit Nam.

Thứ tư, nm bt xu hưng s giúp th trưng có nhng phát trin vưt bc. i tác đng ca cách mng Công nghip ln th tư, các công vic đã đưc s hóa như giao kết Hp đng trên nn tng công ngh online, hoc nn tng công ngh kết ni người cung cấp dịch vụ và khách hàng thông qua Video Call, hoc nghiên cu ng dng trí tu nhân to vào lĩnh vc dch v pháp lý[130]. Xu hưng này s mang li rt nhiu tin li, tiết kim thi gian, chi phí cho c khách hàng và các người cung cấp dịch vụ pháp lý. Vì vy, cn có nhng nghiên cu kp thi và tn dng xu hưng đ thúc đy th trưng dch v pháp lý ti Vit Nam trong thi gian ti.

2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm phát triển thị trường dịch vụ pháp lý

          2.1. Xây dựng và hoàn thiện thể chế tạo hành lang pháp lý cho thị trường dịch vụ phát lý phát triển

Nghiên cứu, đề xuất Quốc hội xây dựng Luật luật sư thay thể Luật luật sư năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012) với quan điểm chỉ đạo và định hướng tập trung vào những vấn đề cơ bản sau đây:

(i) Tiếp tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về tổ chức và hoạt động luật sư trong đó chú trọng phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Đồng thời, có chính sách để phát triển luật sư hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; quy định cụ thể hơn về luật sư nước ngoài hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý tại Việt Nam. Quy định cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn hành nghề luật sư v.v…

(ii) Quy định cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn trở thành luật sư; đề cao tiêu chuẩn phẩm chất đạo đức, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật; quy định chặt chẽ hơn về điều kiện được miễn đào tạo nghề luật sư, miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư; quy định cụ thể hơn quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của luật sư nhằm tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hành nghề.

(iii) Nâng cao vai trò, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư thông qua việc sửa đổi, bổ sung một số quy định làm rõ hơn nội hàm và mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với tự quản; bảo đảm sự thống nhất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với hoạt động luật sư; quy định rõ hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương. Xác định rõ mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư; nâng kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư thành kỳ thi quốc gia để cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư; tăng cường kiểm tra, thanh tra đối với tổ chức, hoạt động của luật sư bảo đảm hoạt động của luật sư được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

(iv) Phân định rõ ràng hơn vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, chức năng quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư, phát huy hiệu quả nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Nhà nước không can thiệp vào công việc nội bộ của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư nhưng không quá đề cao vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư dẫn đến sự tách rời với sự quản lý nhà nước; bảo đảm hoạt động luật sư và hành nghề luật sư theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

(v) Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách để thu hút công dân Việt Nam có Chứng chỉ hành nghề luật sư của nước ngoài trở thành luật sư Việt Nam; chính sách thu hút người Việt Nam ở nước ngoài là luật sư tham gia vào các hoạt động tư vấn, tranh tụng thương mại quốc tế của Việt Nam; tạo nguồn để phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, có chính sách, cơ chế cụ thể để huy động các tổ chức hành nghề luật sư thực hiện các giao dịch, dự án lớn của Chính phủ, hay huy động sự tham gia của luật sư nước ngoài trong trường hợp cần thiết. Mặt khác, cũng cần cụ thể hóa chính sách hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam tham gia cung cấp dịch vụ qua biên giới ; cũng như khuyến khích các tổ chức hành nghề luật sư tư vấn hoặc tham gia tranh tụng các vấn đề liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế; tham gia tư vấn, giải quyết tranh chấp quốc tế khi Chính phủ yêu cầu.v.v…

(vi) Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách nhằm phát triển nghề luật sư nói riêng và người cung cấp dịch vụ pháp lý nói chung theo hướng xây dựng chương trình đào tạo chung; tổ chức kỳ kiểm tra cấp quốc gia để cấp Chứng chỉ hành nghề, Giấy phép hành nghề nhằm đáp ứng yêu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý của tổ chức, nhân dân. Bảo đảm người hành nghề không chỉ hiểu biết sâu, rộng các quy định của pháp luật mà còn cả kỹ năng hành nghề trong các lĩnh vực.

(vii) Nghiên cứu kiến nghị sửa đổi một số văn bản có liên quan về

          2.2. Tăng cường năng lực của chủ thể quản lý; đẩy mạnh thực hiện các biện pháp quản lý nhà nước về dịch vụ pháp lý

- Tập trung và đẩy mạnh việc chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Luật luật sư và các văn bản hướng dẫn thi hành; tăng cường hiệu quả quản lý của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Liên đoàn luật sư Việt Nam, các Đoàn luật sư; chú trọng công tác hướng dẫn, giải quyết các kiến nghị, khó khăn, vướng mắc của các tổ chức hành nghề; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động luật sư và hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật.

Xác định và phân công rõ quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm giữa cơ quan nhà nước và tổ chức tự quản nghề nghiệp theo chiều dọc và ngang; Đặt ra các nguyên tắc, quy định cụ thể về trách nhiệm pháp lý, đạo đức nghề nghiệp, và các chuẩn mực chất lượng trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý.

- Thường xuyện tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và kỹ năng cho cán bộ làm công tác bổ trợ tư pháp, thanh tra; đẩy mạnh tin học hóa, áp dụng mạnh mẽ và hiệu quả hơn nữa các ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hiệu quả cho hoạt động quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư (đặc biệt trong việc quản lý hồ sơ, dữ liệu điện tử, xử lý thông tin…).

Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật của các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư để bảo đảm hoạt động của luật sư được thực hiện theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, Quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp của luật sư; tham mưu, đề xuất kịp thời với cơ quan có thẩm quyền trong việc hoàn thiện chính sách pháp luật, giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ.

- Tăng cường quản lý nhà nước đối với các hoạt động hợp tác pháp luật hỗ trợ luật sư thông qua việc thẩm định chặt chẽ quy trình, thủ tục, nội dung hoạt động của các Dự án, chương trình hợp tác quốc tế do tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư thực hiện.

- Về đào tạo, bồi dưỡng cần sàng lọc đội ngũ luật sư ngay từ giai đoạn đào tạo nghề, cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư theo hướng (i) rà soát, sửa đổi, bổ sung các chương trình đào tạo cử nhân luật, đào tạo nghề luật sư để lồng ghép giáo dục về chính trị tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp trong chương trình học với thời lượng phù hợp; quy định một trong những tiêu chuẩn đầu vào và đầu ra của khóa đào tạo nghề luật sư phải là người chấp hành tốt pháp luật; (ii) thẩm tra chặt chẽ tiêu chuẩn của người đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư; (iii) tăng cường cơ chế phối hợp, cung cấp thông tin giữa cơ quan quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư, tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư, cơ sở đào tạo nghề luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan liên quan, kịp thời phát hiện, xử lý những hành vi vi phạm pháp luật.

-  Nâng cao trách nhiệm của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc giám sát các luật sư thành viên trong việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư; thực hiện đúng, đầy đủ các nhiệm vụ được giao theo quy định của Luật luật sư, các đề án, chiến lược phát triển nghề luật sư; tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp, chính quyền, người dân và các cơ quan, tổ chức liên quan về vai trò, vị trí của luật sư cũng như hỗ trợ tìm kiếm, thúc đẩy các cơ hội để luật sư tham gia tư vấn, giải quyết các vụ việc cho Chính phủ, chính quyền địa phương…

- Quan tâm phát triển tổ củng cố, kiện toàn tổ chức Đảng trong Đoàn luật sư; tập trung phát triển đảng viên về số lượng và chất lượng trong các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, đặc biệt đối với các luật sư trẻ, thông qua các luật sư là đảng viên để đẩy mạnh công tác đấu tranh trong đảng và trong giới luật sư để ngăn chặn, xử lý các vấn đề nảy sinh ngay từ đầu, tránh các tiêu cực trong tư tưởng và trong phản ứng gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh và uy tín của nghề luật sư; quan tâm thực hiện, chỉ đạo tăng cường bồi dưỡng về tư tưởng, nhận thức chính trị, đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng hành nghề cho đội ngũ luật sư, người tập sự hành nghề luật sư.

- Xây dựng, thống nhất cơ chế thực hiện trên thực tế nhằm bảo đảm quyền hành nghề của luật sư trong hoạt động tố tụng, tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia đầy đủ và thực chất trong các giai đoạn tố tụng.

- Nghiên cứu xây dựng và thực hiện chính sách tạo điều kiện, thúc đẩy phát triển nghề luật sư phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội tại mỗi địa phương; chính sách ưu đãi thuế; chính sách thu hút, khuyến khích, tạo điều kiện cho luật sư tham gia tư vấn tiền dự án, tư vấn triển khai, thực hiện các dự án, công việc của cơ quan nhà nước, giải quyết các vụ việc khiếu nại, khiếu kiện kéo dài của địa phương, cũng như hỗ trợ phát triển nghề luật sư nhằm đạt được những mục tiêu mà Chiến lược phát triển nghề luật sư đã đề ra.

2.3. Tăng cường năng lực quản lý của hiệp hội nghề nghiệp

- Xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Đoàn Luật sư, Liên đoàn Luật sư và các tổ chức hành nghề Luật sư trong việc bảo vệ Luật sư trong quá trình hành nghề. Đoàn Luật sư và Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần thường xuyên tập hợp ý kiến của giới Luật sư về quy định của pháp luật chưa phù hợp đang cản trở hoạt động nghề nghiệp Luật sư để kiến nghị ban hành, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm và nâng cao trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư nhất là trong việc giám sát luật sư, người tập sự hành nghề luật sư, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý kỷ luật đối với luật sư; tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư thực hiện tự quản theo quy định của pháp luật, dưới sự quản lý của nhà nước.

- Cần có cơ chế phối hợp giữa Liên đoàn Luật sư, Đoàn Luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan chức năng trong việc đảm bảo thực hiện quyền hành nghề của Luật sư. Cần phát huy trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư nhất là trong thực hiện tự quản theo quy định của pháp luật và dưới sự quản lý của nhà nước. Nâng cao vai trò của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn Luật sư các địa phương để đảm bảo công tác quản lý Luật sư cũng như là các đầu mối huy động trí tuệ, năng lực của Luật sư phục vụ nhiệm vụ chính trị và xã hội, phát huy vai trò, uy tín của Luật sư đối với xã hội. Hoàn thiện các cơ chế phối hợp, các quy định pháp luật rõ ràng để làm rõ trách nhiệm, xử lý vi phạm đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi có hành vi cản trở hoạt động nghề nghiệp Luật sư. Những vụ việc cụ thể gây cản trở hoạt động nghề nghiệp của Luật sư thì Đoàn Luật sư và Liên đoàn Luật sư Việt Nam phải kịp thời cử cán bộ tham gia giải quyết và kiến nghị đến các cơ quan có thẩm quyền xác minh làm rõ, xử lý nghiêm.

- Nâng cao hiệu quả việc tham gia xây dựng và phản biện cơ chế, chính sách; nâng cao năng lực quản lý, giám sát việc tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp, các chuẩn mực và quy định về đạo đức nghề nghiệp của luật sư; kiểm tra chất lượng dịch vụ và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho người hành nghề luật sư.

Chủ động tham gia, phối hợp với Bộ Tư pháp nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan; phối hợp triển khai thực hiện các văn bản pháp luật trong lĩnh vực luật sư, tư vấn pháp luật theo hướng nâng cao trách nhiệm, vị thế của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư trong hoạt động tự quản như thẩm quyền kiểm tra, phát hiện, xử lý vi phạm của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; thành lập, giải thể tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, trách nhiệm pháp lý của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư trong việc thực hiện các quy định của pháp luật...

- Mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức nghề nghiệp trong khu vực và trên thế giới, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hội nghề nghiệp, góp phần thúc đẩy hội nhập kế toán - kiểm toán. Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức nghề nghiệp quốc tế về kế toán - kiểm toán và các tổ chức phi Chính phủ trong việc nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm vê kế toán - kiểm toán; hỗ trợ kỹ thuật đổi mới mô hình quản lý nghề nghiệp kế toán - kiểm toán cũng như các kỹ thuật chuyên môn nghiệp vụ khác về kế toán - kiểm toán.

2.4. Nâng cao năng lực, trình độ của các tổ chức hành nghề và người hành nghề

- Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số vào hoạt động chuyên môn nhằm tăng năng suất nghề nghiệp; tăng cường hợp tác kinh doanh trong việc cung cấp dịch vụ trọn gói và toàn diện cho khách hàng.

- Nâng cao ý thức kỷ luật, trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp; chủ động tham gia các khóa đào tạo, cập nhật kiến thức trong các lĩnh vực mới (chứng khoán, ngân hàng, sở hữu trí tuệ, trình độ ngoại ngữ...) nhằm nâng cao năng lực, trình độ, kỹ năng hành nghề. Không ngừng đa dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ pháp lý theo nhu cầu của thị trường... cũng như, thực hiện trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng, từ đó nâng cao vị thế và vai trò của Luật sư.

          - Đối với người cung cấp dịch vụ pháp lý (người hành nghề), cần tạo dựng uy tín, tăng cường tuyên truyền, quảng bá về vai trò, hình ảnh của luật sư, hoạt động hành nghề luật sư tới người dân và doanh nghiệp. Chủ động nghiên cứu, học hỏi, kỹ năng hành nghề, trau dổi kiến thức pháp lý trong kinh doanh, thương mại, giải quyết tranhh chấp có yếu tố nước ngoài; tự học và nâng cao khả năng sử dụng ngoại ngữ, tiếng anh pháp lý trong hoạt động hành nghề luật sư.

          Tăng cường trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp của người hành nghề, đặc biệt là việc tuân thủ pháp luật, giữ gìn đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật hành nghề. Nghiên cứu xây dựng quỹ tài năng để thu hút các Luật gia trẻ có cơ hội phát triển nghề nghiệp, tăng cường đào tạo bồi dưỡng chất lượng cho Luật sư đặc biệt là Luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng đội ngũ Luật sư ngày càng chuyên nghiệp, có chuyên môn sâu, có kỹ năng kinh nghiệm tốt, sử dụng thành thạo ngoại ngữ để hội nhập kinh tế quốc tế và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, yêu cầu trong hoạt động tố tụng.

          2.5. Giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghề luật sư

Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng luật sư được xác định là[131]:

 (i) Bảo đảm sự tổng thể, lâu dài, khả thi nhưng vẫn có tính đột phá trong việc phát huy các thế mạnh truyền thống trong đào tạo, bồi dưỡng nghề luật sư. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nghề nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế qua tổng kết thực tiễn thực hiện hoạt động tổ chức đào tạo nghề, đặc biệt tìm ra những điểm còn hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực hiện các chương trình đào tạo nghề luật sư nhằm xác định và lựa chọn giải pháp phù hợp.

 (ii) Thực hiện hiệu quả mục tiêu, chiến lược, tầm nhìn phát triển hệ thống đào tạo nghề luật giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn ở Việt Nam. Giai đoạn 2021 - 2030 là giai đoạn môi trường xã hội - nghề nghiệp của thời đại số hóa, hội nhập quốc tế và xu hướng phát triển giáo dục đào tạo của thế kỷ 21 - thế kỷ của phát triển năng lực học tập suốt đời. Mục tiêu này sẽ được hiện thực hóa bằng việc kết hợp giữa thực hiện nhiệm vụ đào tạo nghề luật sư theo phương pháp truyền thống với việc triển khai một cách thức tổ chức dạy - học mới theo chương trình đào tạo nghề luật sư chất lượng cao, chương trình đào tạo nghề sư kết hợp trực tiếp với từ xa theo phương thức trực tuyến.

 (iii) Bảo đảm sự phát triển hiện đại, hội nhập quốc tế về đào tạo nghề luật sư và cách mạng công nghiệp 4.0, bắt kịp tiến bộ ứng dụng công nghệ thông tin trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển đổi số. Đổi mới chương trình đào tạo nghề luật sư theo định hướng chung của chiến lược hoàn thiện, chuẩn hóa, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đào tạo nghề luật sư của xã hội và yêu cầu hội nhập nền giáo dục đào tạo chung của cả nước trong thời kỳ đẩy mạnh chuyển đổi số. Tổng kết, đúc rút những ưu điểm vượt trội của chương trình đào tạo nghề luật sư chất lượng cao để ứng dụng, cải thiện chất lượng, hiệu quả tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo nghề luật sư truyền thống tại Học viện. Tiếp tục cải thiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện các chương trình đào tạo nghề luật sư kết hợp trực tiếp với từ xa theo phương thức trực tuyến.

Định hướng chất lượng đào tạo được đề cập ở khía cạnh quy hoạch và tuyển dụng các giảng viên, xây dựng triển khai các chương trình, các hình thức đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; đầu tư toàn diện cơ sở vật chất các các điều kiện đặc thù khác đảm bảo thực thi có hiệu quả hoạt động đào tạo. Trong thời gian tới định hướng này đóng góp quan trọng vào tầm nhìn xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn về đào tạo các chức danh tư pháp.

 (iv) Đào tạo nghề luật sư trở thành bộ phận quan trọng thuộc thương hiệu đào tạo chức danh tư pháp của Học viện Tư pháp theo hướng phát triển môi trường giáo dục thân thiện; tôn trọng công lý; sự thượng tôn của pháp luật; hướng vào lợi ích của cộng đồng và toàn xã hội. Để có được nguồn nhân lực chất lượng cao đủ trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới, Học viện Tư pháp cần quan tâm thích đáng đến việc đầu tư cho nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư nói chung, đội ngũ luật sư chất lượng cao nói riêng. Đây là cơ sở để thực hiện thành công mục tiêu Đại hội đảng toàn quốc lần thứ XIII đặt ra, yêu cầu xây dựng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và thực hiện thành công, thắng lợi công cuộc cải cách tư pháp.

- Đổi mới tư duy pháp lý và định hướng đào tạo, bồi dưỡng nghề luật sư đáp ứng yêu cầu phục vụ hội nhập quốc tế mà trước tiên từ tư duy pháp lý. Tư duy pháp lý (legal thinking)[132] với ý nghĩa đó là tư duy[133] cách nghĩ của một người hành nghề tư vấn, áp dụng pháp luật. Tư duy pháp lý theo nghĩa hẹp là tư duy áp dụng pháp luật để giải quyết một vấn đề pháp lý (một yêu cầu thực hiện quyền, một tranh chấp pháp lý, một tình huống vi phạm pháp luật...) nhất định. Tư duy pháp lý theo nghĩa rộng là cách thức tổ chức thi hành pháp luật từ đặc thù của cuộc CMCN 4.0.

(i) Đào tạo nghề luật sư cần theo tư duy pháp lý theo nghĩa rộng. Về nguyên tắc, ở đâu có sự hiện diện của người dân, ở đâu có các giao dịch, tương tác của người dân, thì ở đó cần có sự hiện diện của nhà nước để hỗ trợ, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, thực hiện vai trò “trọng tài” giải quyết tranh chấp khi cần thiết.

(ii) Tư duy đào tạo luật sư phục vụ hội nhập quốc tế trong môi trường công nghệ số. Trong bối cảnh của cuộc CMCN 4.0, việc ứng dụng các công nghệ mới có thể nảy sinh những vấn đề mới chưa được pháp luật hiện hành điều chỉnh. Khi có tranh chấp xảy ra, việc xác định cho đúng bản chất pháp lý của vấn đề và chọn lựa quy phạm pháp luật đã có để điều chỉnh không hề giản đơn. Các tranh chấp liên quan tới mua bán, chuyển nhượng tài sản mã hóa, tài sản kỹ thuật số thời gian qua là những ví dụ điển hình với những “lúng túng” khi áp dụng pháp luật do luật chưa dự liệu được đầy đủ và cụ thể. Điều đó có nghĩa là, sẽ nhiều trường hợp, các chủ thể áp dụng pháp luật, các chủ thể thực hiện pháp luật không thể tìm được quy phạm pháp luật hiện có để giải quyết vụ việc phát sinh mà mình có trách nhiệm giải quyết, trách nhiệm tư vấn. Lúc này, việc thẩm phán hoặc tòa án có cơ hội sáng tạo ra các án lệ sẽ trở nên thường xuyên hơn. Đây sẽ là điểm rất khác biệt so với tư duy pháp lý truyền thống của Việt Nam.

(iii) Đa dạng hóa các hình thức, loại hình đào tạo; nghiên cứu mở rộng phạm vi đối tượng cũng như nội dung đào tạo, bồi dưỡng. Để sau khi được đào tạo, bồi dưỡng các luật sư không chỉ vững vàng, cả về bản lĩnh chính trị và chuyên môn, nghiệp vụ; không chỉ am hiểu sâu sắc pháp luật, thành thục về kỹ năng, nghề nghiệp mà còn trong sáng về phẩm chất đạo đức, có ý thức trách nhiệm cao đối với nghề nghiệp; nêu gương sáng trong ý thức tuân thủ và chấp hành pháp luật, tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật; tổ chức thi hành pháp luật cũng như bảo vệ pháp luật và pháp chế XHCN.

          2.6. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; nâng cao nhận thức về Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm quyền tiếp cận công lý của người dân

Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với hình thức phù hợp, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực của cán bộ, công chức trong thực thi Hiến pháp, pháp luật. Chú trọng nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của người dân.

Đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng lấy người dân làm trung tâm, chú trọng hướng về cơ sở, ưu tiên nguồn lực thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho đối tượng yếu thế, người dân ở miền núi, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.  

Tăng cường sự phối hợp của các Bộ, ngành, địa phương về giải thích, giới thiệu, thông tin về dịch vụ pháp lý pháp lý.... Nhất là phối hợp, kết nối với Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác về việc áp dụng công nghệ điện tử, chuyển đổi số đối với việc thực hiện dịch vụ  pháp lý. Đồng thời, tiếp tục tăng cường sự kết nối với chính quyền cơ sở trong việc giới thiệu dịch vụ pháp lý và sử dụng dịch vụ pháp lý trong việc thực hiện các hợp đồng, giao dịch và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong các quan hệ xã hội.

- Có phương thức truyền thông hiệu quả, phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng vùng, miền; nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật của đội ngũ cán bộ cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng trong việc hỗ trợ người dân tiếp cận dịch vụ pháp lý. Quan đó, góp phần quản trị rủi ro pháp lý trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp./.

 

KẾT LUẬN

1. Với mục tiêu tổng quát được xác định là đề xuất các giải pháp và kiến nghị cụ thể để phát triển thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam trong thời gian tới theo tinh thần Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Đề tài đã tập hợp các chuyên gia, các nhà khoa học và người hoạt động thực tiễn tham gia nghiên cứu. Nội dung nghiên cứu của Đề tài đã hướng tới việc: (1) Giải quyết những vấn đề lý luận về dịch vụ pháp lý, thị trường dịch vụ pháp lý và các khái niệm có liên quan; nhân diện, làm rõ vị trí, vai trò của các chủ thể tham gia vào thị trường dịch vụ pháp lý; về đặc thù và các yếu tố tác động đến sự phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý phát triển; nhận diện rõ các chủ trương, định hướng về phát triển thị trường dịch vụ pháp lý theo Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng. (2) Tham khảo kinh nghiệm ở một số quốc gia về thị trường dịch vụ pháp lý và rút ra bài học cho Việt Nam. (3) Đánh giá tổng quan về thực trạng thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam hiện nay trên các phương diện về: quy mô, mức độ phát triển; nhu cầu và khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý của các chủ thể tham gia thị trường. Chỉ rõ các rào cản, các hạn chế của thị trường dịch vụ pháp lý và xác định các nguyên nhân của những hạn chế đó. (4) Trên cơ sở các quan điểm, định hướng của Đảng về phát triển thị trường dịch vụ pháp lý đề xuất các giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm phát triển thị trường dịch vụ pháp lý trong thời gian tới theo tinh thần Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

2. Nội dung nghiên cứu của Đề tài hướng tới việc trả lời các vấn đề/câu hỏi khoa học như: (i) Thị trường dịch vụ pháp lý gồm các thành tố nào? Các đặc trưng riêng của Thị trường dịch vụ pháp lý là gì? (ii) Quy mô về Thị trường dịch vụ pháp lý hiện nay ở Việt Nam như thế nào? Khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý của các chủ thể (luật sư, tư vấn và các tổ chức hành nghề luật sư trong nước và nước ngoài tại Việt Nam) đã phúc đáp được nhu cầu của xã hội đến đâu? (iii) Nhu cầu, xu hướng sử dụng dịch vụ pháp lý của tổ chức, công dân hiện nay và dự báo trong thời gian tới như thế nào (nhu cầu được biết, được tư vấn hoặc giúp đỡ về mặt pháp lý của các tổ chức, cá nhân)? (iv) Các tác động từ kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế đến sự vận hành của Thị trường dịch vụ pháp lý là gì? Tác động như thế nào đến sự phát triển của Thị trường dịch vụ pháp lý trong thời gian tới? (v) Làm gì và làm như thế nào để thị trường dịch vụ pháp lý phát triển?

Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian và nguồn kinh phí lêm một số nội dung chưa có điều kiện để nghiên cứu sâu và đi đến tận cùng của vấn đề. Hy vọng trong thời gian tới Bộ Tư pháp tiếp tục đầu tư nghiên cứu để có thể giải quyết được vấn đề thực tiễn một cách trọng vẹn hơn.

3. Từ kết quả nghiên cứu bước đầu, kết quả nghiên cứu của Đề tài sẽ góp phần cho: (i) Quá trình đổi mới nhận thức về dịch vụ pháp lý và thị trường dịch vụ pháp lý của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ Lãnh đạo ở Bộ Tư pháp nói riêng tại Việt Nam thời gian tới. (ii) Quá trình xây dựng, hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước tại Việt Nam thời gian tới khi Chính phủ xây dựng và trình dự án Luật Luật sư thay thế cho Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012 và dự thảo các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành. (iii) Góp phần xây dựng các định hướng, giải pháp cụ thể nhằm phát triển thị trường dịch vụ pháp lý đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.

Kết quả nghiên cứu của Đề tài cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho hoạt động nghiên cứu chuyên sâu tiếp; cũng như là tài liệu tham khảo có giá trị cho đào tạo đại học, sau đại học chuyên ngành Luật học; là tài liệu tham khảo, phục vụ trực tiếp quá trình xây dựng chính sách, văn bản quy phạm pháp luật nhằm hỗ trợ, định hướng phát triển thị trường dịch vụ pháp lý trong giai đoạn tới.

4. Đề tài xin trân trọng cảm ơn sự tham gia nhiêt tình, có trách nhiệm của các chuyên gia, các nhà khoa học và người hoạt động thực tiễn đã tham gia nghiên cứu và đóng góp các ý kiến với Nhóm nghiên cứu để hoàn thiện Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài./.

 

 

 

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. Văn kiện, tài liệu

1.1. Văn kiện, tài liệu

- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 1, 2. 

- Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

- Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 05 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật từ nay đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.

- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020.

- Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới.

- Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 30/03/2009 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động luật sư.

- Kết luận số 69-KL/TW ngày 24/02/2020 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TW, ngày 30/3/2009 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư

- Báo cáo của Bộ Tư pháp tổng kết công tác tư pháp các năm 2017 đến 2022

- Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ I (2009-2014) và Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ II (2015-2021) của Liên đoàn Luật sư Việt Nam

- Theo Báo cáo kết quả thực hiện Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 và Đề án phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến năm 2020 (Báo cáo số 05/BC - BTP ngày 08/01/2021 của Bộ Tư pháp);

- Báo cáo số 09/BC-LĐLSVN ngày 04/5/2020 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam

- Báo cáo số 1393/BC-BCSĐ ngày 28/6/2019 của Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao

1.2. Tài liệu nước ngoài và các trang web đã tham khảo

- OECD, Liberaliziation of Trade in Professional Services (giơi hạn, phạm vi của dịch vụ thương mại chuyên nghiệp), OECD Documents, 1995.

- Peter Goldsmith, Globalisation of Law (Luật toàn cầu) – Tearing down the Wall, in Harper, Ros (Ed.), Global Law in Practice (luật toàn cầu trong thực tiễn), Kluwer Law Intenational and International Bar Association (luật quốc tế và hiệp hội luật sư quốc tế), London, 1997.

- “Báo cáo thị trường dịch vụ pháp lý - theo loại hình công ty luật. Nguồn: https://www.thebusinessresearchcompany.com/report/legal-services-market&prev=search&pto=aue (truy cập ngày 8/6/2021).

- Báo cáo “Năm xu hướng hàng đầu trên thị trường dịch vụ pháp lý toàn cầu năm 2021 của Công ty nghiên cứu kinh doanh”. Nguồn: https://www.globenewswire.com/news-release/2021/02/10/2173421/0/en/Top-Five-Trends-In-The-Global-Legal-Services-Market-2021-By-The-Business-Research-Company.html.

     - https://www.thebusinessresearchcompany.com/report/legal-services-market&prev=search&pto=aue

     Truy cập ngày 8/6/2021

- https://pz.wz.uw.edu.pl/resources/html/article/details?id=170214.

Truy cập ngày 16/02/2022.

- https://content.sciendo.com/downloadpdf/journals/wsbjbf/53/1/article-p119.pdf

- https://repository.uchastings.edu/hastings_law_journal/vol67/iss5/2.

Truy cập ngày 16/02/2022.

     - https://www.scribd.com/document/30280626/Liberalising-Legal-Services-in-India-through-the-GATS-A-Preliminary-Analysis-of-Issues-at-Stake.

Truy cập ngày 16/02/2022.

- http://www.tsinghuachinalawreview.org/articles/PDF/TCLR_0501_HUANG.pdf.

Truy cập ngày 16/02/2022.

- http://www.olsc.nsw.gov.au/Documents/innovations_regulation_geo_journal.pdf.

Truy cập ngày 16/02/2022.

     - https://www.oecd.org/competition/reform/Reform-and-modernisation-of%20legal-services-in-England-and-Wales.pdf

- http://hdl.handle.net/10419/155999. Truy cập ngày 16/02/2022.

- https://www.academia.edu/download/38599560/Liu_CQ_2011.pdf.

Truy cập ngày 16/02/2022.

     - https://www.cambridge.org/core/books/abs/public-international-law-of-trade-in-legal-services/public-international-law-of-trade-in-legal-services/44A612F95788189B268C34BBF087FCF3.

Truy cập ngày 16/02/2022.

     - https://cris.maastrichtuniversity.nl/ws/portalfiles/portal/1517934/guid-393da0ab-7a77-4aff-9623-d4624cebdb4a-ASSET1.0.pdf.

Truy cập ngày 16/02/2022.

- https://openaccess.city.ac.uk/id/eprint/6663/.

Truy cập ngày 16/02/2022.

- https://ul.qucosa.de/api/qucosa%3A21217/attachment/ATT-0/

- https://repository.law.umich.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1062&context=mbelr

- https://scholarship.richmond.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1058&context=jolpi

- https://www.tandfonline.com/doi/pdf/10.1080/09695958.2018.1491853

- http://www.avocatsparis.org/Presence_Internationale/droit_homme/PDF/Rapport_Clementi.pdf

2. Đề tài, luận văn, luân án

- Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2003 “Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam: Thực trạng, nhu cầu và định hướng phát triển”. Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Văn Tuân

- Luận án tiến sĩ luật học năm 2003 (Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) của NCS Phan Trung Hoài về “Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam hiện nay”.

- Luận văn thạc sĩ luật học năm 2006 (Đại học Luật Hà Nội) của tác giả Vũ Quỳnh Anh về “Hợp đồng dịch vụ pháp lý trong hành nghề luật sư - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.

- Luận văn thạc sĩ luật học năm 2011 (Đại học Luật Hà Nội) của tác giả Nguyễn Như Chính về “Pháp luật về dịch vụ thương mại pháp lý - những vấn đề lý luận và thực tiễn

- Luận án tiến sĩ luật năm 2019 (Đại học Luật Hà Nội) của NCS Đồng Quang Thái về “Công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý theo pháp luật Việt Nam”.

 - Luận án Tiến sĩ luật năm 2014 (Học viện Khoa học xã hội) của NCS Hoàng Thị Vinh về “Hợp đồng dich vụ pháp lý ở Viêt Nam”.

- Luận văn thạc sĩ luật học năm 2014 (Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội) của tác giả Hoàng Thị Anh Thư về “Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam”.

- Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2016 (Học viện Khoa học xã hội) của tác giả Nguyễn Thị Kim Dung về “Thực hiện pháp luật về TGPL từ thực tiễn thành phố Hà Nội”.

- Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2017 (Học viện Khoa học xã hội) của tác giả Hồ Bích Phương “Quản lý nhà nước đối với hoạt động TGPL ở Việt Nam hiện nay”.

3. Bài viết nghiên cứu, trao đổi và sách đã xuất bản

- Bài viết “Các xu hướng thị trường dịch vụ pháp lý Việt Nam năm 2018”. Nguồn: http://ilawyers.i-law.vn/

- Bài viết “Tư vấn về vấn đề cạnh tranh trong thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam”. Nguồn: https://tlklawfirm.vn/tu-van-ve-chien-luoc-canh-tranh-trong-thi-truong-dich-vu-phap-ly-o-viet-nam

- Bài viết “Tự do hóa thị trường dịch vụ pháp lý trong AEC - thách thức và giải pháp”, Nguyễn Chí Thắng; Tạp chí Pháp luật và thực tiễn số 1 năm 2017 (tr 64-71)

 - Bài viết “Thị trường dịch vụ pháp lý Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng”, Dương Thị Ngân (Investconsult), Tạp chí tài chính online. Nguồn: https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-phap-luat/thi-truong-dich-vu-phap-ly-viet-nam-thoi-ky-hau-khung-hoang-2521.html)

- Bài viết “Từng bước xây dựng quan niệm về dịch vụ pháp lý phù hợp tiến trình hội nhập quốc tế” của TS. Phan Trung Hoài trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2, năm 2007.

 - Bài viết “Dịch vụ pháp lý và nhu cầu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Văn Tuân trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số chuyên đề tháng 10/2005 (tr 8-13).

- Bài viết “Khái niệm, phạm vi dịch vụ pháp lý và hành nghề luật sư” của TS. Nguyễn Văn Tuấn trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề pháp luật về luật sư năm 2011, tr. 59 - 74.

- Bài viết “Phương thức thực hiện dịch vụ pháp lý của luật sư tại giai đoạn điều tra vụ án hình sự” của ThS Hoàng Thị Vịnh trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2013 (tr 56 - 61, 84).

- Giáo trình “Kỹ năng tư vấn pháp luật”, giáo trình “Kỹ năng giải quyết vụ án hình sự” và giáo trình “Kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự” của Học viện Tư pháp, NXB. Công an nhân dân xuất bản năm 2017.

- Cuốn sách “Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển” do TS Nguyễn Văn Tuân Chủ biên, Nhà xuất bản lao động năm 2019.

- TS. Nguyễn Văn Tuấn, “Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển”. Nxb Lao động, Hà Nội năm 2019

- Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp “Từ điển luật học”, Nxb Từ điển Bách khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2006

- Nguyễn Văn Ngọc “Từ điển kinh tế học, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, trang 503

- Nguyễn Hữu Quỳnh (1998), Đại từ điển kinh tế thị trường, Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa, Hà Nội

- Phí Mạnh Hồng (2010), Giáo trình kinh tế vĩ mô, Nhà xuất bản Đại Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

4. Văn bản pháp luật

- Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sugn năm 2012

- Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư

- Thông tư số 17/2011/TT-BTP  ngày 14/10/2011của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số quy định của Luật Luật sư, Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư, Nghị định hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Luật sư về tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư

- Thông tư số 19/2013/TT-BTP ngày 28/11/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn tập sự hành nghề luật sư

- Thông tư liên tịch số 191/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 12/12/2014 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn về thù lao và thanh toán chi phí cho luật sư trong trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng

- Thông tư số 02/2015/TT-BTP ngày 16/01/2015 của Bộ Tư pháp quy định một số mẫu giấy tờ về luật sư và hành nghề luật sư

- Thông tư số 02/2019/TT-BTP  ngày 15/03/2019 của Bộ Tư pháp Quy định nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ của luật sư

- Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 05 tháng 7 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo “Chiến lược phát triển nghề Luật sư đến năm 2020

- Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 07 năm 2008 về tư vấn pháp luật

- Luật trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.

- Thông tư số 05/2022/TT-BTP ngày 05/9/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức trợ giúp viên pháp lý.

 

 


[1] Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 có nhiều quy định liên quan đến người đại diện của cá nhân. Người đại diện của cá nhân có thể là người tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa cho người bị buộc tội, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc cũng có thể với tư cách là người đại diện của người tham gia tố tụng khác. Người đại diện chỉ được đặt ra đối với trường hợp người được đại diện là cá nhân dưới 18 tuổi, mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc là người bị hại đã chết, mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, người làm chứng dưới 18 tuổi.

[2] Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình (khoản 3 Điều 72 BLTTHS 2015).

[3] Tổ chức ở đây được giới hạn là các tổ chức kinh tế; không bao gồm các tổ chức chính trị, tổ chức công quyền…

[4] Điều này có thể suy ra, phạm vi của dịch vụ pháp lý được thực hiện sẽ ngày càng cụ thể, hoàn thiện theo sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống pháp luật – “Nhóm nghiên cứu”.

[5] GDP là viết tắt của Gross Domestic Product hay Tổng sản phẩm trong nước. Theo Nghị định 97/2016/NĐ-CP, tổng sản phẩm trong nước là giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng được tạo ra của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (quý, năm).

[6] Theo số liệu báo cáo thống kê của Bộ Tư pháp thì Tổng doanh thu của các tổ chức hành nghề luật sư các năm như sau: Năm 2017 là khoảng 1.168 tỷ đồng; Năm 2019 là khoảng 2.166 tỷ đồng; Năm 2021 là khoảng 2.262 tỷ đồng và Năm 2022 là khoảng 3.101 tỷ đồng. Nguồn tổng hợp: https://moj.gov.vn/cttk/chuyenmuc/Pages/thong-tin-thong-ke.aspx

[7] Theo Điều 70 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012 thì: Luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam được tư vấn pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế, được thực hiện các dịch vụ pháp lý khác liên quan đến pháp luật nước ngoài, được tư vấn pháp luật Việt Nam trong trường hợp có Bằng cử nhân luật của Việt Nam và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu tương tự như đối với một luật sư Việt Nam, không được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án Việt Nam.

[8] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 1 trang 43, 44, 45

[9] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 2 trang 31, 32.

[10] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 2 trang 98

[11] Tại điểm 10 Mục IV nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 khi xác định các nhiệm vụ, giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực kiến tạo phát triển đã xác định nhiệm vụ: “Phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, các hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, bổ trợ tư pháp và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài toà án”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 2 trang 149, 150.

[12] Quy luật “cung – cầu”, quy luật cạnh trạnh, quy luật giá trị, quy luật giá trị thặng dư…

[13] Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence - AI). Một cách khái quát nhất có thể hiểu trí tuệ nhân tạo là “tập hợp các lý thuyết và kỹ thuật được sử dụng để tạo nên những máy có khả năng mô phỏng trí thông minh của con người”. Xem Từ điển Larousse: https://www.larousse.fr/encyclopedie/divers/intelligence_artificielle/187257, truy cập ngày 15/4/2023

[14] Báo cáo Digital Marketing Việt Nam 2019

[15] Hiện nay trên thế giới đã xuất hiện nhiều phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến. Phổ biến nhất là tòa án trực tuyến hay được gọi là tòa án ảo hoặc tòa án trên mạng, bao gồm các thủ tục tương tự như ở tòa án truyền thống. Tại nhiều nước như Mỹ, Australia, Canada, Singapore, luật pháp cho phép các bên giải quyết vụ việc tranh chấp thông qua việc thực hiện thủ tục khởi kiện và tố tụng qua internet. So với tòa án truyền thống, thủ tục tòa án trực tuyến linh hoạt hơn, được thực hiện nhanh chóng nhờ áp dụng công nghệ thông tin. Ngoài ra, hòa giải và trọng tài trực tuyến cũng được sử dụng khá phổ biến. (Xem thêm bài viết: Chu Thị Hoa: Thị trường dịch vụ pháp lý tại Việt Nam - Một số vấn đề đặt ra trong bối cảnh hội nhập và Cách mạng công nghiệp 4.0).

[16] Xem thêm: Chu Thị Hoa (2000), Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với công tác giảng dạy luật tại Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 05 tháng 3.2020, tr. 17-11

[17] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 1 trang 43.

[18] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 1 trang 44

[19] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 1 trang 44, 45

[20] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 1 trang 287

[21] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 2 trang 98

[22] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 2 trang 149, 150

[23] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 2 trang 155

[24] Xem cụ thể tại điểm 6 Mục IV Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

[25] Xem cụ thể tại điểm 6 Mục IV Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

[26] Theo Báo cáo của Cục trợ giúp pháp lý Các trợ giúp viên pháp lý thực hiện 80% số vụ việc trợ giúp pháp lý (116.614/146.148 vụ việc), trong đó, thực hiện 77% vụ việc tư vấn pháp luật, 83% vụ việc tham gia tố tụng và 85% vụ việc đại diện ngoài tố tụng.

[27] Báo cáo số 1393/BC-BCSĐ ngày 28/6/2019 của Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao tỷ lệ số vụ án có luật sư tham gia tố tụng trong các vụ án tai toà án là 7,34%; tỷ lệ số vụ án có luật sư tham gia tố tụng trong các vụ án tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Quảng Ngãi 39,45%, Hà Nội 28,46%, Cần Thơ 19,71%, Thành phố Hồ Chí Minh 12,75%...; ở một số địa phương có tỷ lệ rất thấp như: Yên Bái 1,65%, Thừa Thiên Huế 1,9%, Thanh Hoá 2,01%, Bắc Kạn 3,31%... Qua đó cho thấy, tỷ lệ các vụ án rất thấp.

[28] . Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ I (2009-2014) và Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ II (2015-2021) của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

[29] Trong các vụ tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài hoặc các dự án có chuyên ngành sâu thì các cơ quan, tổ chức Việt Nam vẫn phải thuê các công ty luật nước ngoài tư vấn, đại diện trong quá trình giải quyết tranh chấp.

[30] Theo Cục trợ giúp pháp lý, từ ngày 1/1/2018 đến ngày 30/6/2022 các tổ chức trợ giúp pháp lý đã thực hiện 77.707 vụ việc tư vấn pháp luật cho các đối tượng được trợ giúp. Các vụ việc trợ giúp pháp lý do các tổ chức, cá nhân tham gia trợ giúp pháp lý thực hiện được thẩm định, đánh giá đều đạt chất lượng trở lên.

[31] Điều 8 Luật Khiếu nại năm 2011 chỉ cho phép người đại diện với điều kiện người đại diện phải là một trong những người khiếu nại.

[32] Ngày Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2019 có hiệu lực.

[33] Theo quy định tại Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý 2017 quy định về 14 diện người được trợ giúp pháp lý (Người có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; trẻ em; người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính (gồm 08 nhóm: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; người nhiễm HIV). Với các quy định này, theo ước tính thống kê số lượng người thuộc diện được trợ giúp pháp lý trên cả nước chiếm khoảng 45% dân số.

[34] Ở Trung ương, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp đã ký Chương trình phối hợp về người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án nhân dân (Chương trình số 1603/CTPH-BTP-TANDTC ngày 19/5/2022)

[35] Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP ngày 15/12/2021 của liên tịch Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành tổ chức phiên tòa trực tuyến thực hiện Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội khóa XV.

[36] Ngày 18/01/2022 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 90/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025.

[37] Ngày 22/02/2022 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 263/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025.

[38] Ngày 14/10/2021 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1719/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I từ năm 2021 – 2025.

[39] Nội dung về trợ giúp pháp lý đã được hướng dẫn triển khai tại các Công văn: Công văn số 3234/BTP-TGPL ngày 28/6/2022, Công văn số 1918/BTP-TGPL ngày 10/6/2022, Công văn số 3234/BTP-TGPL ngày 28/6/2022.

[40] Ví dụ: Năm 2017: 11.942 luật sư; năm 2018: 12.821 luật sư; năm 2019: 13.859 luật sư; năm 2020: 15.162 luật sư; năm 2021: 16.347 luật sư.

[41] Mỗi năm, cả nước phát triển từ 800-1000 luật sư và phấn đấu đạt khoảng 1.000 luật sư phục vụ yêu cầu hội nhập quốc tế. Một số tỉnh, thành phố phát triển số lượng luật sư đã đạt mục tiêu của tỉnh đề ra đến năm 2020 (Quảng Ninh, Đắk Lắk, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đồng Tháp).

[42] Báo cáo tóm tắt Tổng kết công tác năm 2021 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2022 của các Tòa án

https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/tdkt/chitietthongbao?dDocName=TAND199733)

[43] Con số này có thể có tỷ lệ trùng vì các tổ chức hành nghề luật sư khi tham gia trợ giúp pháp lý đã báo cáo

[46] Số liệu gồm cả luật sư, trợ giúp viên pháp lý và tư vấn viên pháp luật

[47] Nguồn: https://dantri.com.vn/an-sinh/dan-so-viet-nam-cham-nguong-100-trieu-nguoi-20230110224945117.htm#:~:text=(D%C3%A2n%20tr%C3%AD)%20%2D%20K%E1%BA%BFt%20th%C3%BAc,ng%C3%A0y%2010%2F1%2F2023.

[48]. Ví dụ: Theo Báo cáo số 1393/BC-BCSĐ ngày 28/6/2019 của Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao tỷ lệ số vụ án có luật sư tham gia tố tụng trong các vụ án tai toà án là 7,34%; tỷ lệ số vụ án có luật sư tham gia tố tụng trong các vụ án tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Quảng Ngãi 39,45%, Hà Nội 28,46%, Cần Thơ 19,71%, Thành phố Hồ Chí Minh 12,75%...; ở một số địa phương có tỷ lệ rất thấp như: Yên Bái 1,65%, Thừa Thiên Huế 1,9%, Thanh Hoá 2,01%, Bắc Kạn 3,31%...

[49] Vụ án ông Nguyễn Thanh Chấn, vụ án Huỳnh Văn Nén, Trần Văn Thêm....

[50] Vụ án Trương Hồ Phương Nga, vụ án VN Pharma tại Tòa án nhân dân thành phố HCM

[51] Vụ Saigon Metropolitan, vụ kiện Dialasie, vụ kiện South Fork, các vụ kiện tôm, cá ba sa....

[52] Trong 5 năm 2007-2012 luật sư thực hiện 22.289 việc về dịch vụ pháp lý khác thì trong giai đoạn 2013-2018 luật sư thực hiện 72.629 việc, tham gia đại diện ngoài tố tụng 20.707 việc.

[53] Số liệu được tổng hợp từ báo cáo chưa đầy đủ của các Sở Tư pháp, ví dụ: tại TP Hồ Chí Minh chỉ có 877/1.891 (đạt 46,4%) tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động tại STP gửi báo cáo (trong đó có 197 tổ chức là số liệu kỳ 6 tháng), TP Hà Nội chỉ có 218/1.509 (đạt 14,4%) tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động tại STP gửi báo cáo

[54] Báo cáo tình hình KT-XH quy IV và năm 2022. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2022-119221229115237264.htm

[55] Xem them: Chu Thị Hoa (2000), Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với công tác giảng dạy pháp luật tại Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 05 tháng 3.2020, tr.11-17.

[56] Vừa qua, 20 luật sư từ các hãng luật hàng đầu Hoa Kỳ đã bị robot đánh bại trong cuộc thi rà soát các lỗi của 5 hợp đồng về bảo mật thông tin. Trong khi các luật sư mất thời gian trung bình là 92 phút và độ chính xác là 84% thì robot chỉ mất 26 giây và độ chính xác là 94% Nguồn: https://fossbytes.com/lawgeex-ai-beats-us-lawyers-nda-high-accuracy/

[57] Nguồn: Bộ pháp điển điện tử https://phapdien.moj.gov.vn/Pages/chi-tiet-bo-phap-dien.aspx

[58] Tăng thời gian đào tạo nghề luật sư từ 06 tháng lên 12 tháng; giao trách nhiệm tổ chức kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư cho LĐLSVN; quy định về nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng bắt buộc hàng năm đối với luật sư, nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý của luật sư, giao LĐLSVN cho ý kiến về đề án tổ chức Đại hội, phương án nhân sự và chỉ đạo Đại hội Đoàn Luật sư; Điều lệ LĐLSVN được thực hiện chung cho tất cả các Đoàn Luật sư....

[59] Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Luật Phá sản năm 2014, Pháp lệnh Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án nhân dân; Thông tư số 46/2019/TT-BCA ngày 10/10/2019 của Bộ Công an liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa; Thông tư số 28/2014/TT-BCA ngày 07/7/2014 của Bộ Công an quy định về công tác điều tra hình sự trong công an nhân dân; Quyết định 4740/QĐ-BCA ngày 17/8/2014 về việc đính chính Thông tư số 28/2014/TT-BCA.

[60] Sau khi Luật Luật sư được ban hành, Bộ Tư pháp đã tham mưu cho Chính phủ ban hành 08 Nghị định (trong đó 02 Nghị định đã được thay thế); ban hành theo thẩm quyền và liên tịch ban hành 12 Thông tư.

[61] Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý ngoại thương, Luật Đầu tư...

[62] Quyết định số 549/QĐ-TTg ngày 04/4/2013 phê duyệt Đề án tổng thể “Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật”; Quyết định số 2083/QĐ-TTg ngày 08/11/2013 phê duyệt Đề án “Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp”; Quyết định số 3147/QĐ-BTP ngày 27/12/2013 phê duyệt Đề án thành lập Trung tâm liên kết đào tạo luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế; Quyết định số 2149/QĐ-BTP ngày 24/7/2012 thành lập Tổ tư vấn xây dựng Đề án thành lập Câu lạc bộ luật sư thương mại quốc tế và chuyển giao cho LĐLSVN theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ (Câu lạc bộ được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 11/12/2015); ban hành Khung tiêu chí đánh giá, phân loại tổ chức hành nghề luật sư chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài; Đề án phòng chống tiêu cực trong hoạt động luật sư; Đề án Xây dựng cơ chế phát triển đội ngũ luật sư, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động luật sư.

[63] Luật Trợ giúp pháp lý năm 2016 đã tạo cơ chế khuyến khích, thu hút luật sư tham gia trợ giúp pháp lý cho người dân.

[64] Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai: chương trình “ngày hội tư vấn pháp luật”; Tổ tư vấn pháp luật - trợ giúp pháp lý miễn phí cho công dân mỗi tuần hai buổi sáng thứ sáu và thứ bảy tại trụ sở Đoàn; Đoàn Luật sư tỉnh Bình Dương: Ngày hội “công nhân với pháp luật”; Đoàn Luật sư tỉnh Tiền Giang: “Ngày tư vấn miễn phí”; Đoàn Luật sư tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai tư vấn miễn phí buộc Công ty Vedan phải bồi thường cho người dân trên địa bàn tỉnh....

[65] Đến nay, đã có hơn 13 triệu lượt người truy cập trang thông tin này.

[66] Từ thời điểm triển khai Luật Luật sư 2006 đến nay, đội ngũ luật sư cả nước đã tăng từ 2.871 lên gần 17.000 luật sư. Các luật sư đều có trình độ cử nhân luật, trong đó hơn 700 luật sư có trình độ trên đại học (chiếm trên 5% tổng số luật sư của cả nước); hơn 1.000 luật sư chuyên sâu trong lĩnh vực thương mại quốc tế.

[67] Có hơn 100 luật sư Việt Nam đã qua khoá đào tạo nghề luật sư ở nước ngoài (Anh, Hoa Kỳ, Úc, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc...) và khoảng 20 luật sư Việt Nam được công nhận là luật sư nước ngoài

[68] Từ thời điểm triển khai Luật Luật sư 2006 đến nay, số lượng tổ chức hành nghề luật sư tăng từ 1.300 tổ chức lên hơn 5.000 tổ chức hành nghề luật sư; các luật sư đã tham gia… vụ, việc. Nhiều tổ chức hành nghề luật sư đã vươn ra khu vực để chiếm lĩnh thị phần liên quan đến hoạt động đầu tư, thương mại quốc tế phục vụ nhu cầu của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Hiện nay, 100% các vụ án chỉ định luật sư theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng đều đã có luật sư tham gia. Nếu như thời điểm tháng 12/2009 có 07 địa phương có 01 - 02 Văn phòng luật sư thì đến nay trên toàn quốc chỉ còn 02 tỉnh có 01 - 02 Văn phòng luật sư (Hà Nam và Lai Châu), 02 tỉnh có dưới 05 tổ chức hành nghề luật sư (Yên Bái, Bắc Kạn).

[69] Các tạp chí Tạp chí IFLR, Legal 500, Asian Mena Counsel đã xếp hạng công ty luật có uy tín trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại: Công ty luật TNHH Quốc Tế Việt Nam (Vilaf - Hồng Đức), Công ty luật TNHH YKVN, Văn phòng luật sư Phạm và Liên danh, Công ty luật TNHH Leadco... đã được một số tạp chí có uy tín của nước ngoài (Tạp chí IFLR tại Châu Á, Tạp chí Legal 500, Tạp chí Asian Mena Counsel) vinh danh.

[70] Tính đến tháng ngày 10/8/2022, có 55 Công ty luật nước ngoài và 36 Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và hơn 300 luật sư nước ngoài đang hành nghề tại Việt Nam.

[71] Việc thành lập thêm nhiều tổ chức hành nghề luật sư Hàn Quốc, Nhật Bản đã kéo theo sự gia tăng đầu tư nước ngoài từ hai quốc gia này, cụ thể (Hàn Quốc: từ 05 tổ chức năm 2014 lên 16 tổ chức năm 2022; Nhật Bản: 01 tổ chức năm 2010 lên 13 tổ chức năm 2022).

[72] Các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài đã tiếp nhận và đào tạo khoảng 50 người tập sự hành nghề luật sư/năm; tham gia đóng góp ý kiến, giảng dạy các lớp bồi dưỡng kiến thức hội nhập quốc tế cho luật sư Việt Nam.

[73] Cho ý kiến về đề án tổ chức Đại hội, phương án nhân sự và chỉ đạo Đại hội Đoàn Luật sư; thực hiện kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư; bồi dưỡng bắt buộc hàng năm cho luật sư; giải quyết khiếu nại tố cáo; tổ chức cho luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý…

[74] Trong 03 năm đầu sau khi Liên đoàn Luật sư Việt Nam được thành lập, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ cấp kinh phí thuê trụ sở, tiền lương và hoạt động thường xuyên của Liên đoàn. Từ năm 2013, hằng năm, Bộ Tài chính đều hỗ trợ kinh phí thuê trụ sở làm việc và thực hiện các nhiệm vụ được Nhà nước giao. Ở địa phương, các tỉnh ủy, thành ủy đã quan tâm, chỉ đạo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc có chính sách hỗ trợ phát triển nghề luật sư, 39/63 Đoàn Luật sư đã được bố trí trụ sở làm việc, hỗ trợ cơ sở vật chất ban đầu, gần 20 Đoàn Luật sư được hỗ trợ kinh phí hoạt động thông qua các nhiệm vụ được giao.

[75]  Quyết định số 2083/QĐ-TTg ngày 08/11/2013.

[76] Ký Biên bản ghi nhớ với Trường Đại học New South Wales về việc đào tạo luật sư thương mại quốc tế; đàm phán với Trường Đại học Nottingham Trend xây dựng chương trình đào tạo; đã nhận được cam kết hỗ trợ của Đại sứ quán các nước Hoa Kỳ, Úc, Ailen trong việc triển khai một số hoạt động của Trung tâm.

[77] Cam kết hỗ trợ từ Đại học RMIT về xây dựng chương trình tiếng Anh pháp lý.

[78] Từ 2017 - 2020 tổ chức 03 khóa đào tạo luật sư thương mại quốc tế tại khu vực phía Bắc và phía Nam với sự tham gia của 125 luật sư, chuyên gia (Báo cáo số 385/BC-HVTP ngày 29/4/2020).

[79] Bồi dưỡng tiếng Anh pháp lý cho 150 chuyên gia, luật sư; bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ luật sư thương mại quốc tế cho 595 người.

[80] Báo cáo số 385/BC-HVTP ngày 29/4/2020 của Học viện Tư pháp.

[81] Báo cáo số 09 /BC-LĐLSVN ngày 04/5/2020 của LĐLSVN.

[82] Gồm 14 bài bào chữa trong các vụ án hình sự đã được xét xử, quyết định có hiệu lực pháp lý.

[83] Chương trình cử nhân luật chất lượng cao, chương trình cử nhân luật tăng cường tiếng Pháp, tăng cường tiếng Nhật…

[84] Công ty luật TNHH Quốc Tế ViệtNam (Vilaf - Hồng Đức), YKVN, Tư vấn độc lập, Bizlink, LNT, Rajah&Tan...

[85] Vụ Saigon Metropolitan, vụ kiện Trịnh Vĩnh Bình, vụ kiện Dialasie, vụ kiện South Fork, các vụ kiện tôm, cá ba sa...

[86] Trong 5 năm 2007-2012 luật sư thực hiện 22.289 việc về dịch vụ pháp lý khác thì trong giai đoạn 2013-2018 luật sư thực hiện 72.629 việc.

[87] Công ty luật YKVN, Quốc tế Việt Nam (Vilaf - Hồng Đức), Phạm và Liên danh, Bizlink, Nam Hà Nội... đã tham gia nhiều giao dịch, vụ kiện có yếu tố nước ngoài, tư vấn cho Chính phủ trong các vấn đề liên quan đến hội nhập quốc tế.

[88] Một số tổ chức hành nghề luật sư đã cung cấp dịch vụ qua biên giới như Công ty luật TNHH YKVN, Công ty luật TNHH Smic có cơ sở hành nghề tại Singapore, Công ty luật TNHH Đào và Đồng nghiệp có cơ sở hành nghề tại Hà Lan...

[89] Từ năm 2009-2018 có 8.245 luật sư tham gia 124.984 vụ việc trợ giúp pháp lý (Báo cáo 237/CTGPL-CS&QLNV ngày 17/6/2019 của Cục trợ giúp pháp lý). Trong 04 năm (từ  năm 2015-2019), LĐLSVN đã cử 761 lượt luật sư tham gia trợ giúp pháp lý tại Trụ sở Văn phòng tiếp dân Trung ương (Báo cáo số 09/BC-LĐLSVN ngày 04/5/2020).

[90] Tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng; trực tiếp tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật.

[91] Ở từng giai đoạn, cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tiếp xúc hồ sơ vụ án khi có yêu cầu, thông báo đầy đủ các hoạt động tố tụng theo quy định, tiếp nhận thông tin, tài liệu thu thập của luật sư; bảo đảm quyền tố tụng của luật sư được thực hiện đầy đủ, kịp thời, khách quan và kết luận chính xác vụ án.

[92] Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Tuyên Quang, Ninh Thuận, Hải Phòng, Long An, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Tiền Giang, Đồng Nai, Hưng Yên, Bắc Giang ....

[93] Quy chế số 01/2011/QCPH/VKSNDTC-LĐLSVN.

[94] như công tác giám sát tập sự hành nghề luật sư, giám sát việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp của luật sư, nội bộ một số Đoàn Luật sư trong một thời gian còn có biểu hiện mất đoàn kết hoặc chưa thực hiện hết trách nhiệm tự quản

[95] Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có hướng dẫn cho phép doanh nghiệp được đăng ký kinh doanh hoạt động đại diện, tư vấn pháp luật mà không cần đáp ứng tiêu chuẩn hành nghề luật sư.

[96] Số liệu tính đến hết ngày 31/12/2021.

[97] Từ đầu năm 2022, Cục TGPL đã Cục TGPL, Bộ Tư pháp theo dõi, chỉ đạo và các Trung tâm TGPL chủ động, kịp thời tiếp cận nhu cầu TGPL để cử người thực hiện TGPL bảo vệ quyền và lợi ích kịp thời, hiệu quả cho người được TGPL trong 183 vụ.

[98] Mới đây, ngày 19/5/2022, Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao đã ký ban hành Chương trình phối hợp người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án (Chương trình phối hợp 1603/CTPH-BTP-TANDTC). Lần đầu tiên có cơ chế người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án nhân dân trong phạm vi toàn quốc, qua đó sẽ giúp bảo đảm tiếp cận và thụ hưởng trợ giúp pháp lý kịp thời trong tố tụng cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thuộc diện được trợ giúp pháp lý, hạn chế việc người dân thuộc diện trợ giúp pháp lý bị bỏ lỡ cơ hội được nhận dịch vụ pháp lý miễn phí

[99] Theo báo cáo hiện có 29 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ký kết chương trình/kế hoạch phối hợp giữa Sở Tư pháp và Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

[100] Theo báo cáo nhanh của các địa phương: Ban hành văn bản triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới có các tỉnh, thành phố: Bạc Liêu, Cần Thơ, Bình Phước, Bình Thuận, Hà Nam, Thái Bình...; ban hành văn bản triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo có các tỉnh, thành phố: Ninh Bình, Nam Định, Huế, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Thanh Hóa, Long An, Thái Bình...; ban hành văn bản triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số có các tỉnh, thành phố: Ninh  Bình, Cà Mau, Lào Cai, tuyên Quang, Lai Châu, Hậu Giang, Lạng Sơn, Yên Bái, Gia Lai, Điện Biên... Một số tỉnh, thành phố đã được cấp kinh phí và tổ chức triển khai thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia như Lào Cai, Cà Mau, Lai Châu, Hậu Giang, Lạng Sơn, Thanh Hóa, Gia Lai, Bắc Kạn, Bình Thuận, Điện Biên, Huế, Vĩnh Phúc, Hà Tĩnh, Nam Định, Thái Bình...

[101] Ước tính số lượng người thuộc diện TGPL ở Việt Nam có khoảng 45% dân số

[102] Số liệu của Tòa án nhân dân tối cao: Trong  năm 2021 (từ ngày 01/10/2020 đến ngày 30/9/2021), Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý 537.577 vụ việc.

[103] Theo Quyết định số 2069/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu thuộc ngành Tư pháp và Quyết định số 2070/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

[104] Theo báo cáo nhanh của địa phương: Lai Châu (4 người), Kon Tum (4 người), Hà Nam (3 người), Sóc Trăng (4 người), Đà Nẵng (3 người)...

[105] Theo số liệu báo cáo sơ kết 05 năm triển khai Luật TGPL của các địa phương, có các tỉnh sau có tỷ lệ kinh phí vụ việc TGPL trên tổng số kinh phí nghiệp vụ còn thấp như: Lào Cai, Hà Nam, Kon Tum, Ninh Bình, Hậu Giang,...

[106] Theo báo cáo nhanh của một số địa phương: Đến tháng 11/2022 chưa được quan tâm bố trí kinh phí Chương trình mục tiêu quốc gia năm 2022 như: Hưng Yên, Hà Nam, Hà Nội, Hà Tĩnh, Hải Dương, Nam Định...

[107] Hoạt động tư vấn pháp luật theo quy định của Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 của Chính phủ về tư vấn pháp luật

[108] Theo dự thảo báo cáo sơ kết thực hiệ Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Luật gia Việt Nam lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2019-2024.

[109]. Theo cập nhật của Sở Tư pháp Hà Nội, tính đến 31/12/2021, trên địa bàn TP Hà Nội có 33 Trung tâm tư vấn pháp luật.

 

[110]  Như: (i) Công ty Luật Baker McKenzie Việt Nam được thành lập năm 1993, là một trong những công ty luật quốc tế lớn nhất và giàu kinh nghiệm nhất tại Việt Nam — và luôn được đánh giá là một trong những công ty luật tốt nhất. (ii) Công ty Mayer Brown thành lập văn phòng tại Việt Nam năm 1994 ở cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. (iii)  Công ty Luật YKVN được thành lập vào năm 1999. YKVN đã phát triển thành hãng luật độc lập với hơn 90 luật sư với cơ cấu hoạt động độc đáo làm việc tại 3 văn phòng tại Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh và Singapore. (iv) Công ty luật thương mại quốc tế Allens đã lập văn phòng tại Hà Nội vào năm 1993…

[111] như công tác giám sát tập sự hành nghề luật sư, giám sát việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp của luật sư, nội bộ một số Đoàn Luật sư trong một thời gian còn có biểu hiện mất đoàn kết hoặc chưa thực hiện hết trách nhiệm tự quản

[112] Ước tính số lượng người thuộc diện TGPL ở Việt Nam có khoảng 45% dân số

[113] Số liệu của Tòa án nhân dân tối cao: Trong  năm 2021 (từ ngày 01/10/2020 đến ngày 30/9/2021), Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý 537.577 vụ việc.

[115] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 2 trang 31, 32

[116] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 2 trang 98

[117] Tại điểm 10 Mục IV nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 khi xác định các nhiệm vụ, giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực kiến tạo phát triển đã xác định nhiệm vụ: “Phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, các hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, bổ trợ tư pháp và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài toà án”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 2 trang 149, 150.

[118] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 1 trang 287

[119] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 2 trang 98.

[120] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 2 trang 149-150

[121] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 1 trang 44.

[122] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 1 trang 44-45

[123] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 2 trang 154

[124] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021, Tập 2 trang 155

[125] Điểm 2.4. Mục II Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới

[126] Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 05 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật từ nay đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.

[127] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020.

[128] Xem thêm: TS. Nguyễn Văn Tuân: Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển, Nxb lao động, Hà Nội, năm 2019. Trang 198

[129] Xem thêm: TS. Nguyễn Văn Tuân: Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển, Nxb lao động, Hà Nội, năm 2019. Trang 199

[130] De Jesus, C. (2017). AI Lawyer “Ross” Has Been Hired By Its First Official Law Firm. Futurism. https://futurism.com/artificially-intelligent-lawyer-ross-hired-first-official-law-firm

[131] Lê Mai Anh, Nguyễn Minh Hằng “Quan điểm nâng cao chất lượng đào tạo nghề luật sư tại Học viện Tư pháp giai đoạn 2021-2030”, Tạp

chí Nghề Luật số 6 năm 2021, tr.52-63.

[132] Ruggero J. Aldisert, Logic for Lawyers: A Guide to Clear Legal Thinking (E-book © 2012 by the National Institute for Trial Advocacy).

[133] Trong tiếng Việt, “tư duy” được hiểu là “giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lý” (xem: Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng và Trung tâm Từ diển học, 2004, tr. 1070).


 [A1]Nếu là quan điểm của tác giả thì chỉ đưa ra một định nghĩa thôi chữ nhỉ? Vì có thể có hai cách định nghĩa (theo hình thức và theo nội dung). Anh nói luôn để kg ai tranh được

 [A2]Nếu là quan điểm của tác giả thì chỉ đưa ra một định nghĩa thôi chữ nhỉ? Vì có thể có hai cách định nghĩa (theo hình thức và theo nội dung). Anh nói luôn để kg ai tranh được

 [t3]Chưa rõ khái niệm này là muốn nhấn mạnh nội dung gì?

 [t4]TT Dịch vụ tư vấn hay TT dịch vụ pháp lý (đang nói chung đến TTDVPL)

 [A5]Nếu là quan điểm của tác giả thì chỉ đưa ra một định nghĩa thôi chữ nhỉ? Vì có thể có hai cách định nghĩa (theo hình thức và theo nội dung). Anh nói luôn để kg ai tranh được

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm ...