• Thuộc tính
Tên đề tài Kỹ thuật lập pháp ở Việt Nam hiện nay lý luận, thực trạng và kiến nghị
Nội dung tóm tắt

LỜI MỞ ĐẦU

Kỹ thuật lập pháp gồm kỹ thuật lập pháp về nội dung, kỹ thuật lập pháp về hình thức và quy trình vận hành hai bộ phận hợp thành này. Tất cả có quan hệ mật thiết với nhau và cùng để đảm bảo chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, có thể nghiên cứu kỹ thuật lập pháp một cách đầy đủ, đồng thời cả hai bộ phận hợp thành và quy trình kèm theo. Tuy nhiện, Đề tài này tập trung nghiên cứu bộ phận hợp thành thứ hai của kỹ thuật lập pháp. Đó là kỹ thuật lập pháp về hình thức và thường được gọi là kỹ thuật văn bản. Đây là bộ phận hợp thành có ý nghĩa không kém so với bộ phận kỹ thuật lập pháp về nội dung nhưng chưa nhận được sự quan tâm tương xứng, được chú ý ít nhất nếu không nói là bị xem nhẹ trong thực tiễn xây dựng pháp luật cũng như trong nghiên cứu, giảng dạy pháp luật. Để thấy được ý nghĩa quan trọng của kỹ thuật văn bản, Đề tài bắt đầu bằng việc nghiên cứu khái quát kỹ thuật lập pháp, làm rõ mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành của kỹ thuật lập pháp. Tiếp theo, Đề tài nghiên cứu cơ sở pháp lý của kỹ thuật lập pháp và nội dung lý luận của kỹ thuật văn bản để lấy đó làm cơ sở đánh giá kỹ thuật văn bản của 04 bộ luật và 07 luật chuyên ngành thuộc các lĩnh vực khác nhau. Kết quả nghiên cứu này mà trọng tâm là các yêu cầu của kỹ thuật văn bản được Đề tài chuyển hóa thành Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản là chỉ dẫn kỹ thuật khi xây dựng và cũng là chỉ tiêu kỹ thuật khi đánh giá kỹ thuật văn bản của bộ luật/luật. Cùng với đó, Đề tài cũng xác định các hạn chế về kỹ thuật văn bản của các bộ luật/luật được nghiên cứu và đề xuất hướng khắc phục các hạn chế này cũng như các định hướng đảm bảo chất lượng về kỹ thuật văn bản của các bộ luật/luật nói chung.

Đề tài đã đạt được các kết quả nghiên cứu:

Đề tài đã đạt được các kết quả nghiên cứu:

- Thứ nhất, làm rõ khái niệm kỹ thuật lập pháp, đặc biệt là mối quan hệ giữa ba bộ phận hợp thành của kỹ thuật lập pháp.

- Thứ hai, làm rõ các nguyên tắc và các yêu cầu của kỹ thuật văn bản.

- Thứ ba, xây dựng được Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản đối với bộ luật/luật.

- Thứ tư, đánh giá thực trạng kỹ thuật văn bản của các bộ luật và luật được nghiên cứu để đề xuất việc hoàn thiện các văn bản này về mặt kỹ thuật văn bản.

- Thứ năm, kiến nghị giải pháp để đảm bảo chất lượng về kỹ thuật văn bản của các bộ luật/luật

Đến thời điểm này, kết quả nghiên cứu trên đã được công bố một phần qua 05 bài báo khoa học trên các tạp chí có uy tín của Việt Nam (các tạp chí Luật học, Khoa học pháp lý, Nhà nước và pháp luật và Nghiên cứu lập pháp). Ngoài ra còn có 01 bài báo khoa học đã được tạp chí Khoa học của ĐHQGHN xác nhận sẽ đăng trong số 8/2023 và một số bài báo khác đã được gửi đăng.

I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN - PHÁP LÝ VỀ KỸ THUẬT LẬP PHÁP

1.1. Kỹ thuật lập pháp - Những vấn đề chung

1.1.1. Các quan niệm khác nhau về kỹ thuật lập pháp

Kỹ thuật lập pháp là khái niệm mà hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau và các quan niệm này có thể nhóm thành 3 nhóm với 3 phạm vi hiểu rộng hẹp khác nhau. Theo cách hiểu rộng nhất và cũng là cách hiểu của nhóm nghiên cứu Đề tài, kỹ thuật lập pháp là tổng hợp các phương pháp và phương thức được sử dụng để tạo ra văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có văn bản luật. Đây là cách hiểu theo đúng nghĩa của từ “kỹ thuật” và từ “lập pháp”.[1] Theo cách hiểu này, kỹ thuật lập pháp gồm:

- Kỹ thuật lập pháp về nội dung;

- Kỹ thuật lập pháp về hình thức; và

- Quy trình vận hành hai kỹ thuật nói trên.

Ở phạm vi hẹp hơn, kỹ thuật lập pháp được hiểu không gồm bộ phận hợp thành thứ ba - Quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ gồm kỹ thuật lập pháp về nội dung và kỹ thuật lập pháp về hình thức. Tuy hiểu ở phạm vi hẹp hơn như vậy nhưng đây vẫn là cách hiểu kỹ thuật lập pháp theo nghĩa rộng.

Khác với hai cách hiểu trên, cách hiểu theo nghĩa hẹp cho rằng, kỹ thuật lập pháp chỉ đơn thuần là sự thể hiện ý tưởng/nội dung của pháp luật trên văn bản nên được hiểu đồng nhất với khái niệm kỹ thuật văn bản hay kỹ thuật trình bày văn bản về nội dung.[2] Đây là hướng hiểu và sử dụng khái niệm kỹ thuật lập pháp có tính phổ biến hơn cả ở Việt Nam trong nghiên cứu, đào tạo.[3]

1.1.2. Kỹ thuật lập pháp và các bộ phận hợp thành

Khi nói đến kỹ thuật lập pháp với nghĩa là phương pháp tạo ra luật thì rõ ràng phải đề cập phương pháp tạo ra phần “nội dung”/“ý tưởng” của luật, phương pháp chuyển tải “nội dung”/“ý tưởng” đã được tạo ra thành văn bản quy phạm pháp luật và quy trình mà trong đó các phương pháp này được triển khai. Theo đó, có thể cho rằng, kỹ thuật lập pháp gồm ba bộ phận hợp thành nếu chỉ đơn thuần xét về số lượng được liệt kê. Tuy nhiên, ở góc độ này cũng có thể xác định kỹ thuật lập pháp gồm bốn bộ phận hợp thành vì quy trình mà trong đó các phương pháp tạo ra luật có thể được hiểu gồm hai quy trình khác nhau - quy trình tạo ra “nội dung” và quy trình tạo ra “hình thức” của luật. 

Khi nói kỹ thuật lập pháp có ba hay bốn bộ phận hợp thành như được trình bày trên cần phải hiểu, ba hay bốn bộ phận hợp thành đó không phải ngang hàng và độc lập với nhau. Đó chỉ là cách gọi theo số lượng. Về thực chất, cần phải hiểu, kỹ thuật lập pháp được hợp thành chỉ bởi hai bộ phận có quan hệ biện chứng với nhau là kỹ thuật lập pháp về nội dung và kỹ thuật thuật lập pháp về hình thức. Đó là:

- Kỹ thuật định ra/tạo ra/xây dựng “nội dung” của pháp luật để đảm bảo nội dung của pháp luật phải đáp ứng được tốt nhất yêu cầu của xã hội và

- Kỹ thuật định ra/tạo ra/xây dựng “văn bản” để đảm bảo văn bản phản ánh chính xác, rõ ràng nội dung của pháp luật, góp phần để pháp luật đáp ứng được tốt nhất yêu cầu của xã hội.

Như vậy, kỹ thuật lập pháp gồm kỹ thuật lập pháp về nội dung và kỹ thuật lập pháp về hình thức của văn bản quy phạm pháp luật. Hai “kỹ thuật” này tương ứng với hai mặt của văn bản quy phạm pháp luật - mặt nội dung và mặt hình thức. Từ đây có thể thấy rõ ý nghĩa của từng bộ phận hợp thành của kỹ thuật lập pháp và mối quan hệ gắn kết giữa các bộ phận hợp thành này. Cụ thể:

- Kỹ thuật lập pháp về nội dung là để tạo ra “ý tưởng” của luật nên có ý nghĩa có tính tiên quyết. Kỹ thuật văn bản chỉ có ý nghĩa khi “ý tưởng” của luật đã được tạo ra là đúng. Chính vì có ý nghĩa như vậy mà có thể kỹ thuật văn bản bị xem nhẹ và quá trình xây dựng luật tập trung chủ yếu vào hoạt động tạo ra “ý tưởng” cũng như mặt “nội dung” của sản phẩm. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, “ý tưởng” đúng mới chỉ là “điều kiện cần” mà chưa phải là “điều kiện đủ” để đảm bảo chất lượng của luật. Để có “điều kiện đủ” cần phải có kỹ thuật văn bản. Theo đó:

- Kỹ thuật văn bản là để truyền tải “ý tưởng” thành văn bản nên có ý nghĩa quan trọng. “Ý tưởng” đúng chỉ có giá trị thực tế khi được truyền tải chính xác, rõ ràng. “Ý tưởng” đó còn có thể được làm cho “dễ hiểu”, “dễ thực hiện” qua kỹ thuật văn bản. Không có kỹ thuật văn bản đúng thì cũng không có luật đúng dù cho có “ý tưởng” đúng.

- Kỹ thuật văn bản còn có thể giúp phát hiện “ý tưởng” không đúng khi “ý tưởng” đó không thể truyền tải đúng được. Ví dụ: Khi truyền tải một “ý tưởng” thành một bố cục nhưng không thể xếp bố cục đó vào bất cứ vị trí nào trong luật để đảm bảo tính lô gic thì có nghĩa “ý tưởng” đó cần phải được xem xét lại.[4]

Như vậy, có thể khẳng định, hai bộ phận hợp thành của kỹ thuật văn bản đều quan trọng theo hai góc độ khác nhau. Do vậy, không được xem nhẹ bộ phận hợp thành này hay bộ phận hợp thành kia.[5]

Để đảm bảo tính hiệu quả, các kỹ thuật này cần được vận hành theo các quy trình phù hợp nhất định và các quy trình này cũng được coi là một phần không thể thiếu của kỹ thuật lập pháp.

Như vậy, cách hiểu kỹ thuật lập pháp ở đây đề cập tổng thể các nội dung thuộc kĩ thuật lập pháp, trong đó không chỉ đề cập cách thức xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (kỹ thuật lập pháp về hình thức hay còn được gọi là kỹ thuật văn bản), mà còn cả cách thức xây dựng nội dung của chính văn bản này (kỹ thuật lập pháp về nội dung) cũng như còn nhấn mạnh đến các yếu tố bảo đảm vận hành của nó là các quy trình triển khai kỹ thuật nội dung và kỹ thuật hình thức. Cụ thể:

Thứ nhất, kỹ thuật lập pháp về nội dung

Kỹ thuật lập pháp về nội dung là kỹ thuật xây dựng nội dung của quy phạm pháp luật nói riêng cũng như của pháp luật nói chung để đảm bảo pháp luật có tính toàn diện, thống nhất, đồng bộ, phù hợp, khả thi và hiệu quả.[6] Các đặc điểm này cũng là các tiêu chí đánh giá chất lượng về nội dung của từng văn bản quy phạm pháp luật cũng như của cả hệ thống pháp luật nói chung.

Thứ hai, kỹ thuật lập pháp về hình thức

Kỹ thuật lập pháp về hình thức (kỹ thuật văn bản) là kỹ thuật thể hiện chính xác, rõ ràng ý tưởng/nội dung của quy phạm pháp luật nói riêng cũng như của pháp luật nói chung trên văn bản để người đọc dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện.

Thứ ba, quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nói riêng cũng như pháp luật nói chung

Đây là quy trình được xác định cho quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nói riêng cũng như pháp luật nói chung để đảm bảo quá trình này diễn ra theo đúng các nguyên tắc của hoạt động xây dựng pháp luật để đảm bảo hiệu quả của hoạt động này. Đó là các nguyên tắc khoa học, khách quan, dân chủ và hợp hiến.[7] Theo đó, quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật góp phần đảm bảo cho văn bản đạt được chất lượng cao nhất về nội dung cũng như về hình thức thể hiện. Do kỹ thuật văn bản về nội dung và kỹ thuật văn bản về hình thức có sự khác nhau, đặc biệt là khác nhau về yêu cầu đối với chủ thể thực hiện. Yêu cầu đặt ra trước hết cho chủ thể thực hiện kỹ thuật lập pháp về nội dung là trình độ chuyên môn và hiểu biết tầm chính sách thuộc lĩnh vực của luật được xây dựng, trong khi chủ thể thực hiện kỹ thuật lập pháp về hình thức đòi hỏi trước hết là kiến thức và kỹ năng về kỹ thuật văn bản nói chung và kèm theo là kiến thức chuyên ngành về luật được xây dựng. Theo đó, hai quy trình này cần được tách bạch để vừa phù hợp với tính chất công việc và tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau để đảm bảo hiệu quả. Hơn nữa, việc nhập hai quy trình này còn có thể dẫn đến tình trạng kỹ thuật lập pháp về hình thức bị xem nhẹ.

Kỹ thuật lập pháp, theo đúng nghĩa phải hiểu không chỉ bó gọn là kỹ thuật văn bản mà kỹ thuật văn bản chỉ là một bộ phận hợp thành của kỹ thuật lập pháp. Việc sử dụng thuật ngữ kỹ thuật lập pháp để chỉ vấn đề về kỹ thuật văn bản có thể do ngẫu nhiên, không chú ý trong khi các văn bản quy phạm pháp luật không sử dụng thuật ngữ này[8] và nó cũng ít được bàn đến một cách đầy đủ như các thuật ngữ khác. Khi khảo sát, nhóm nghiên cứu đã đưa ra câu hỏi: Theo Anh/Chị, kỹ thuật lập pháp và kỹ thuật văn bản có quan hệ với nhau như thế nào? Kết quả: 89% người được hỏi chọn câu trả lời: Kỹ thuật văn bản là một bộ phận hợp thành của kỹ thuật lập pháp. Điều này cho thấy, việc nhóm nghiên cứu Đề tài xác định cách hiểu kỹ thuật lập pháp là phù hợp với xu hướng chung.

1.2. Cơ sở pháp lý của kỹ thuật lập pháp

1.2.1. Khái quát về cơ sở pháp lý của kỹ thuật lập pháp

Do kỹ thuật lập pháp có ý nghĩa đặc biệt nên ở Việt Nam, vấn đề kỹ thuật lập pháp đã được luật hóa. Theo đó, kỹ thuật lập pháp không chỉ là vấn đề khoa học mà còn là vấn đề pháp lý. Các yêu cầu về kỹ thuật lập pháp được xác định trong Luật là cơ sở xác định trách nhiệm pháp lý của các chủ thể tham gia xây dựng pháp luật.

Đến thời điểm hiện nay (năm 2022), Việt Nam đã ban hành 03 luật có nội dung về kỹ thuật văn bản. Đó là: Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, được sửa đổi, bổ sung năm 2002; Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Các luật này đều đề cập các nội dung thuộc về kỹ thuật lập pháp ở các mức độ đầy đủ, cụ thể khác nhau và theo xu hướng ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, các luật này đều không sử dụng thuật ngữ kỹ thuật lập pháp. Thuật ngữ kỹ thuật văn bản (kỹ thuật lập pháp về hình thức) cũng chỉ được sử dụng trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Trong Luật này, Điều 5 (quy định về các nguyên tắc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật) có nội dung khái quát về kỹ thuật lập pháp gồm kỹ thuật lập pháp về nội dung, kỹ thuật lập pháp về hình thức và quy trình của hai kỹ thuật (thẩm quyền, trình tự, thủ tục).[9] Tuy nhiên, diễn đạt của điều này chưa thể hiện được thật rõ ràng, rành mạch giữa các nội dung của kỹ thuật văn bản. Tiếp theo Điều 5 là các điều luật có nội dung cụ thể hóa, làm rõ các nội dung về kỹ thuật lập pháp đã được thể hiện trong các nguyên tắc về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, các điều luật này chủ yếu là về quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật mà trong đó có đan xen một số quy định thuộc kỹ thuật lập pháp về nội dung[10] và chỉ có 1 Điều riêng (Điêu 8) về kỹ thuật lập pháp về hình thức với nội dung  xác định các yêu cầu về kỹ thuật văn bản. 

2.2.2. Kỹ thuật văn bản theo yêu cầu của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Khái niệm kỹ thuật văn bản chỉ được sử dụng từ Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.[11] Trước đó, trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 chỉ nói đến Ngôn ngữ của văn bản quy phạm pháp luật” (Điều 5) và “Bố cục của luật, pháp lệnh” (Điều 27).

Khái niệm kỹ thuật văn bản trong các luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được sử dụng cùng với từ “ngôn ngữ” khi đặt tên cho điều luật “Ngôn ngữ, kỹ thuật văn bản quy phạm pháp luật” nên có thể có ý kiến cho rằng kỹ thuật văn bản không bao gồm vấn đề ngôn ngữ. Tuy nhiên, vấn đề không phải như vậy. Vấn đề ngôn ngữ ở đây gắn với hai câu hỏi: Ngôn ngữ được sử dụng và sử dụng ngôn ngữ đó như thế nào? Theo đó, nội dung quy định “1. Ngôn ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật là tiếng Việt”[12] không thuộc kỹ thuật văn bản nhưng nội dung quy định “Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu”[13] là thuộc kỹ thuật văn bản (kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ).

Như vậy, theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật,[14] kỹ thuật văn bản gồm: Kỹ thuật bố cục văn bản (khoản 3), kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ (khoản 1) và kỹ thuật về thông tin trong văn bản (khoản 2).

Trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, yêu cầu về kỹ thuật văn bản còn được đề cập trong điều luật quy định về thẩm định dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình. Cụ thể: Khoản 3 Điều 58 xác định kỹ thuật văn bản là một trong những nội dung cần được tập trung thẩm định.[15] Tuy nhiên, khi quy định về “Nhiệm vụ của Ban soạn thảo, Trưởng Ban soạn thảo, thành viên Ban soạn thảo” tại Điều 54, Điều luật chỉ đề cập trách nhiệm đối với nội dung của văn bản mà không đề cập trách nhiệm đối với kỹ thuật văn bản và không có chủ thể nào được xác định có trách nhiệm này.[16]

Các kỹ thuật - Kỹ thuật bố cục văn bản, kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ và kỹ thuật về thông tin trong văn bản trên đây mới chỉ được Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật nêu một cách khái quát. Do vậy, khoản 4 Điều 5 của Luật này quy định trách nhiệm của Ủy ban thường vụ Quốc hội, của Chính phủ trong việc cụ thể hóa các kỹ thuật văn bản.[17]

Theo đó, ngày 14/3/2017, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV ban hành Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH14 Quy định thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.[18] Văn bản này sử dụng các khái niệm: Thể thức văn bản (“… cách thức trình bày các phần của văn bản gồm phần mở đầu, phần nội dung và phần kết thúc”) và kỹ thuật trình bày văn bản (gồm kỹ thuật trình bày nội dung văn bảnkỹ thuật trình bày hình thức văn bản). Trong đó, “kỹ thuật trình bày nội dung văn bản gồm kỹ thuật trình bày bố cục của văn bản và kỹ thuật trình bày các yếu tố cấu thành nội dung văn bản, sử dụng ngôn ngữ, số, đơn vị đo lường, ký hiệu, công thức, thời hạn, thời điểm trong văn bản, kỹ thuật viện dẫn văn bản”. (Điều 2 Nghị quyết số 351)

Trong đó, kỹ thuật trình bày nội dung văn bản được coi là tương đương với khái niệm kỹ thuật văn bản mà Đề tài sử dụng. Tuy nhiên, Đề tài giới hạn không nghiên cứu nội dung “số, đơn vị đo lường, ký hiệu, công thức, thời hạn, thời điểm trong văn bản, kỹ thuật viện dẫn văn bản”.

Kỹ thuật bố cục văn bản, kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ được Nghị quyết cụ thể hóa như sau:

- Thứ nhất, về kỹ thuật bố cục, đòi hỏi:[19]

+ Nội dung các phần phải độc lập với nhau; nội dung các chương, mục, tiểu mục phải tương đối độc lập, có tính hệ thống và lô-gich với nhau.

+ Nội dung của điều phải thể hiện đầy đủ, trọn ý, trọn câu, đúng ngữ pháp.

+ Nội dung các khoản trong điều, các điểm trong khoản phải tương đối độc lập với nhau và thể hiện đầy đủ một ý.

+ Trong mỗi bố cục, các nội dung được sắp xếp theo nguyên tắc từ “chung” đến “cụ thể”, từ “nội dung” đến “thủ tục”, từ “quyền và nghĩa vụ” đến “chế tài”, từ “phổ biến” đến “đặc thù”, từ “chung” đến “ngoại lệ”.

- Thứ hai, về kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ, đòi hỏi:[20]

+ Từ ngữ được sử dụng phải thể hiện chính xác nội dung cần truyền tải, không làm phát sinh nhiều cách hiểu; trường hợp có thể hiểu theo nhiều nghĩa thì phải giải thích rõ nghĩa được sử dụng.

+ Từ ngữ chuyên môn (mà cần phải làm rõ nội dung) phải được giải thích.

Ngoài ra, kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ còn đòi hỏi: Tên gọi của văn bản phải ngắn gọn, phản ánh khái quát nội dung chủ yếu của văn bản; tiêu đề phần, chương, mục, tiểu mục, điều là cụm từ chỉ nội dung chính của bố cục.[21]

1.3. Các nguyên tắc của kỹ thuật văn bản

Các yêu cầu đối với kỹ thuật văn bản tuy đã được xác định trong các văn bản có tính pháp lý như được trình bày trên nhưng đòi hỏi cần phải được làm rõ hơn để có thể triển khai có hiệu quả trên thực tế xây dựng pháp luật. Theo đó, kỹ thuật văn bản đòi hỏi đáp ứng các yêu cầu cụ thể.

- Thứ nhất, kỹ thuật văn bản phải đảm bảo tính chính xác, rõ ràng của văn bản:

Nguyên tắc này đòi hỏi ý tưởng của nhà lập pháp phải được thể hiện qua ngôn ngữ viết một cách trung thực, không có sự sai lệch giữa đối tượng được phản ánh - ý tưởng và kết quả phản ánh - nội dung văn bản. Đó là tính chính xác. Đồng thời, tính chính xác cũng đòi hỏi tính rõ ràng của văn bản - văn bản chỉ có thể được hiểu theo một nghĩa.

- Thứ hai, kỹ thuật văn bản phải đảm bảo tính dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện của văn bản:

Nguyên tắc này đòi hỏi trước hết, nội dung của văn bản phải “dễ hiểu”. Theo đó, người đọc có thể hiểu nội dung văn bản một cách không khó khăn mà không cần có sự trợ giúp của nhà chuyên môn. Từ “dễ hiểu” người đọc có thể “dễ nhớ” và “dễ thực hiện”.

- Thứ ba, kỹ thuật văn bản phải đảm bảo tính thống nhất của văn bản:

Nguyên tắc này đòi hỏi việc chọn sử dụng từ, xác lập câu, xây dựng điểm, khoản, điều cũng như việc đặt tiêu đề cho các bố cục và sắp xếp các bố cục phải có sự thống nhất trong toàn văn bản.

- Thứ tư, kỹ thuật văn bản phải đảm bảo tính “thực”không trùng lặp của văn bản. Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi phát ngôn của văn bản (điểm, khoản, điều) đều phải truyền tải nội dung nhất định và nội dung này không được trùng lặp với nội dung đã có ở các phát ngôn khác của văn bản cũng như ở các văn bản khác.[22]

1.4. Các yêu cầu của kỹ thuật văn bản

Để đảm bảo các nguyên tắc trên đây, các yêu cầu cụ thể của kỹ thuật văn bản được đặt ra gồm:  

- Yêu cầu về tính logic trong bố cục; và

- Yêu cầu về tính khoa học trong sử dụng ngôn ngữ.

1.4.1. Yêu cầu về tính logic trong bố cục:

Các bố cục trong bộ luật/luật có thể gồm: Phần-Chương-Mục-Tiểu mục-Điều-Khoản-Điểm. Trong đó, điều là bố cục cơ bản; chương là bố cục không thể thiếu của Bộ luật; các bố cục khác có thể có hoặc không, trừ trường hợp có bố cục tiểu mục thì không thể bỏ qua bố cục mục; có bố cục mục thì phải có bố cục chương cũng như có bố cục phần thì phải có bố cục chương. Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 351 thì bố cục điểm chỉ có thể thuộc khoản[23] và đây là vấn đề cần được xem xét lại.[24] Yêu cầu về tính logic của các bố cục thể hiện ở 3 nội dung sau:

Thứ nhất, yêu cầu về tính liên kết chủ đề/nội dung giữa các bố cục[25]

Đây là yêu cầu đầu tiên đối với các bố cục. Theo đó, chủ đề của bố cục lớn phải “bao hàm” hết các chủ đề của bố cục nhỏ hơn và chủ đề của các bố cục nhỏ hơn này đều “ngang hàng” với nhau. Đó là hai mối liên kết chủ đề của mỗi bố cục. Để có được tính tính “bao hàm” và tính “ngang hàng” như vậy, chủ đề của mỗi bố cục trong bố cục lớn hơn phải là kết quả của sự phân loại chủ đề chung của bố cục lớn hơn theo cùng tiêu chí. Do vậy, chủ đề của mỗi bố cục trong bố cục lớn hơn đều là chủ đề bộ phận thuộc chủ đề chung của bố cục lớn hơn. Mỗi chủ đề bộ phận vừa có cái riêng để phân biệt với chủ đề bộ phận khác và vừa có cái chung để cùng thuộc chủ đề chung.

Theo đó, mỗi bố cục đều có hai mối quan hệ - quan hệ ngang hàng và quan hệ bao hàm.[26] Trong quan hệ ngang hàng, mỗi bố cục phải có chủ đề riêng nhưng chủ đề riêng này vẫn có điểm chung với các chủ đề riêng của các bố cục ngang hàng khác mà không phải là khác hoàn toàn. Tính “riêng” và tính “chung” của chủ đề đảm bảo chủ đề của một bố cục có tính chất là chủ đề bộ phận thuộc chủ đề chung của bố cục lớn hơn. Khi chủ đề của các bố cục đều là chủ đề bộ phận thuộc chủ đề chung của bố cục lớn hơn thì các bố cục đó mới có tính “ngang hàng” với nhau và có tính “bao hàm” với bố cục lớn hơn.

Thứ hai, yêu cầu về tính liên kết lô gic giữa các bố cục ngang hàng[27]

Yêu cầu này đòi hỏi các bố cục trong bố cục lớn hơn phải được sắp xếp lô gic để đảm bảo dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện. Theo đó, có 3 loại quy tắc sắp xếp: Quy tắc trước sau; quy tắc cạnh nhau và quy tắc liền nhau. Trong đó, quy tắc trước sau đã được Nghị quyết 351 xác định tương đối cụ thể như “Quy định về nội dung phải trước quy định về thủ tục”; “Quy định chung phải trước quy định riêng’; v.v.. (xem Điều 17). Tuy nhiên, trong điều luật này còn thiếu quy tắc “quy định định nghĩa phải trước quy định điều chỉnh”. Bên cạnh quy tắc trước sau như vậy, quy tắc cạnh nhau được đặt ra cho hai bố cục điều có sự kết hợp với nhau để điều chỉnh một nội dung (để dễ hiểu, dễ thực hiện) hoặc điều chỉnh hai nội dung có thể nhầm lẫn với nhau (để dễ so sánh, phân biệt với nhau); và quy tắc liền nhau được đặt ra cho các bố cục điều có liên quan với nhau.

 Thứ ba, yêu cầu về tính đầy đủ của các bố cục

Yêu cầu này đòi hỏi bố cục phần phải có các bố cục chương; bố cục điều và khoản phải “trọn câu”, “trọn ý”; bố cục điểm phải “có ý”. Tuy nhiên, theo Nghị quyết 351, chỉ có bố cục điều đòi hỏi phải “trọn câu”, “trọn ý”còn bố cục khoản không đòi hỏi như vậy.[28] Đây là vấn đề thứ hai cần được xem xét lại cùng với vấn đề thứ nhất đã được nêu trên (theo Nghị quyết 351, bố cục điểm chỉ có trong khoản).

Về hai vấn đề này, Đề tài khẳng định: Bố cục khoản chắc chắn phải “trọn câu” thì mới đảm bảo bố cục điều “trọn câu”. Nếu các bố cục trong điều đều không “trọn câu” thì điều cũng sẽ không “trọn câu”. Trên thực tế, bố cục khoản hầu hết đã được xây dựng “trọn câu” vì muốn truyền tải một nội dung “độc lập” thì phải qua cấu trúc ngữ pháp là câu mà không thể khác.[29] Tuy nhiên, do Nghị quyết 351 không đòi hỏi bố cục khoản phải“trọn câu” nên trong một số bố cục điều, các khoản đã được xây dựng không “trọn câu” và từ đó làm phát sinh nhiều bất cập khác về kỹ thuật văn bản. Ví dụ như Điều 20 Luật Doanh nghiệp năm 2020:

           Điều 20. Hồ sơ đăng ký công ty hợp danh

1. Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp.

2. Điều lệ công ty.

3. Danh sách thành viên.

4. Bản sao giấy tờ pháp lý của cá nhân đối với thành viên.

5. Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật Đầu tư.

Ở điều luật này, có thể thấy:

- Bố cục điều không đáp ứng yêu cầu “trọn câu” như Nghị quyết 351 đòi hỏi.

- Mỗi dòng trên đây không đủ tính chất là của một khoản (không phải là một “… ý (nội dung) tương đối độc lập” như Nghị quyết 351 đòi hỏi).

Do diễn đạt của Điều luật này không đáp ứng yêu cầu “trọn câu” nên người đọc có cảm giác thông tin không đầy đủ và việc hiểu nội dung là do “suy luận” mà không phải từ phân tích cấu trúc ngữ pháp của 4 dòng của điều luật. Bốn dòng đó không phải là bốn khoản (mặc dù gắn với các số thứ tự từ 1 đến 4 là 4 số thứ tự cuả khoản) vì thông tin của mỗi dòng đều không truyền tải trọn vẹn một nội dung.

Như vậy, về lý luận, bố cục khoản phải “trọn câu” thì mới có thể thể hiện được nội dung tương đối độc lập và trên thực tế, hầu hết các khoản đã được xây dựng đều là “trọn câu” theo đúng lý luận nên không có bất cập như ở các điều có khoản không “trọn câu” được nêu trên. Việc xác định bố cục khoản phải “trọn câu” không chỉ đúng về lý luận, phù hợp với thực tế đang triển khai mà còn chấm dứt  hiện tượng có những điều luật có bất cập như Điều 20 nói trên.

Để khắc phục các bất cập của Điều 20 trên đây, có thể có 3 phương án  khác nhau nhưng chỉ có 1 phương án có thể chấp nhận được nhưng phải cho phép bố cục điểm có thể được xây dựng trong bố cục điều mà không nhất thiết phải trong bố cục khoản. Đó là phương án:  

                      Điều 20. Hồ sơ đăng ký công ty hợp danh

Hồ sơ đăng ký công ty hợp danh gồm:  

a) Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp;

b) Điều lệ công ty;

c) Danh sách thành viên;

d) Bản sao giấy tờ pháp lý của cá nhân đối với thành viên; và

đ) Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật Đầu tư.[30]

Như vậy, sẽ tránh được sai sót tương tự như Điều 20 Luật Doanh nghiệp nếu Nghị quyết 351 khẳng định rõ bố cục khoản phải “trọn câu” và đồng thời cho phép bố cục điểm có thể được xây dựng trong bố cục điều khi cần thiết.

1.4.2. Yêu cầu về tính khoa học trong sử dụng ngôn ngữ

Ngoài các yêu cầu về bố cục như đã trình bày, kỹ thuật văn bản còn đòi hỏi việc sử dụng ngôn ngữ phải khoa học để đảm bảo tính chính xác, rõ ràng, dễ hiểu và ngắn gọn.  Theo đó:

- Thứ nhất, ưu tiên sử dụng từ phổ thông, đơn giản, một nghĩa nhưng phải chính xác, “... phải trang trọng, lịch sự, phi cá tính; vừa thể hiện rõ sự uy nghiêm của pháp luật đồng thời thể hiện sự tôn trọng đối với các đối tượng chịu sự tác động của văn bản”.[31] Trong trường bắt buộc phải sử dụng từ chuyên môn (thuật ngữ) vì từ  phổ thông không đảm bảo tính chính xác, cần có sự giải thích rõ ràng dưới dạng quy phạm định nghĩa. Việc giải thích này có thể được thể hiện ngay trong điều luật khi thuật ngữ thuộc tiêu đề của điều và cũng là vấn đề được điều chỉnh. Khi đó, điều luật sẽ định nghĩa để giải thích thuật ngữ trước và sau đó sẽ quy định việc điều chỉnh.[32] Trong trường hợp khác, nội dung giải thích thuật ngữ có thể được thực hiện trong điều luật riêng - Điều giải thích từ ngữ.[33] Ở đây, cần có sự phân biệt giữa việc giải thích thuật ngữ và giải thích từ phổ thông. Thuật ngữ được sử dụng để phản ánh nội dung pháp lý cần được điều chỉnh và nội dung này cần được “giải thích” trước khi được “điều chỉnh” còn từ phổ thông thường không phản ánh nội dung pháp lý mà chỉ được sử dụng trong khi thể hiện nội dung điều chỉnh và để có sự hiểu thống nhất về từ đó đòi hỏi phải có sự giải thích.[34] Về nguyên tắc, từ phổ thông được giải thích trong điều luật chung, còn thuật ngữ được giải thích trong điều luật trước nội dung điều chỉnh hoặc trước điều/các điều luật có nội dung điều chỉnh vấn đề được thuật ngữ phản ánh.

Việc sử dụng từ/thuật ngữ đã được chọn cần được thực hiện cho cả văn bản để đảm bảo tính thống nhất, tránh tình trạng sử dụng các từ/thuật ngữ khác nhau để truyền tải cùng thông tin.

- Thứ hai, từ, cụm từ được sử dụng để đặt tiêu đề cho văn bản cũng như cho các bố cục - phần, chương, mục, tiểu mục, điều phải đảm bảo phản ánh chính xác, rõ ràng chủ đề của văn bản hoặc chủ đề bộ phận của các bố cục thuộc văn bản nhưng cần đúng cấu trúc ngữ pháp, dễ hiểu và ngắn gọn,. Theo đó, về nội dung, tiêu đề phải bao quát được nội dung của văn bản/của bố cục thuộc văn bản (chính xác) và chỉ có thể được hiểu theo một cách (rõ ràng) còn về hình thức, tiêu đề phải đúng về cấu trúc ngữ pháp, dễ hiểu và ngắn gọn. Trước hết, đối với tiêu đề của văn bản, tiêu đề của văn bản gồm từ thể hiện loại văn bản (Bộ luật/Luật/...) và từ thể hiện chủ đề chung của văn bản như Dân sự, Hình sự, Đất đai,... Theo đó, tiêu đề của văn bản thường là danh từ hoặc cụm danh từ. Ví dụ: Luật Doanh nghiệp, Luật Hôn nhân và gia đình; … Ở đây, cần có sự phân biệt chủ đề chung của văn bản với phạm vi điều chỉnh của văn bản. Phạm vi điều chỉnh của văn bản là sự cụ thể hóa chủ đề chung của văn bản và cũng có thể là sự giới hạn phạm vi của chủ đề chung. Do vậy, không thể lấy một phạm vi điều chỉnh nào đó dù là phạm vi điều chỉnh chính làm tên gọi của văn bản.[35] Tương tự như vậy, tiêu đề của các bố cục trong văn bản phải thể hiện được chính xác, rõ ràng chủ đề bộ phận của bố cục, dễ hiểu và ngắn gọn,. Theo đó, tiêu đề của các bố cục trong văn bản có thể là danh từ, cụm danh từ hoặc động từ, cụm động từ. Ví dụ: Chương 1. Những quy định chung (BLDS), Điều 8. Giải thích từ ngữ (Luật Hôn nhân và gia đình),… mà không được sử dụng các tiêu đề được xác lập theo kiểu liệt kê.[36]

- Thứ ba, các câu được xác lập để hình thành điều, khoản (trong đó có thể có điểm) phải truyền tải chính xác, rõ ràng nội dung cần quy định nhưng trước hết đòi hỏi phải đúng ngữ pháp. Đồng thời, kỹ thuật văn bản còn đòi hỏi cấu trúc câu phải đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu. Theo đó, cần sử dụng câu đơn, đặc biệt cần tránh ghép nội dung định nghĩa và nội dung điều chỉnh vào cùng một câu.[37] Các câu được diễn đạt phải thể hiện tính nghiêm túc và dứt khoát. Đó là chuẩn mực cần thiết của quy phạm pháp luật.

Trong xác lập câu, xây dựng định nghĩa khái niệm là hoạt động cần được đặc biệt chú ý. Kỹ thuật văn bản đòi hỏi khi định nghĩa khái niệm phải chú ý yêu cầu và các quy tắc định nghĩa. Để đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch, định nghĩa khái niệm (quy phạm định nghĩa) cần được xây dựng là định nghĩa thực (định nghĩa mô tả)[38] và hạn chế tối đa định nghĩa liệt kê. Các quy tắc định nghĩa cần tuân theo là: Cân đối (không quá rộng, không quá hẹp); không vòng quanh; chính xác, rõ ràng, ngắn gọn.[39]

- Thứ tư, cùng với yêu cầu về sử dụng từ và xác lập câu như trình bày trên, kỹ thuật văn bản còn đòi hỏi có liên kết văn bản trong từng điều, khoản của văn bản vì “liên kết văn bản”  đóng vai trò quyết định tới việc biến một chuỗi câu trở thành một văn bản và vì vậy là một trong các yếu tố quyết định sự chính xác, rõ ràng trong văn bản pháp luật. Tính liên kết văn bản ở đây được hiểu gồm: Liên kết nội dung và liên kết hình thức. Trong đó, liên kết nội dung đòi hỏi sự hướng tới cùng chủ đề (liên kết chủ đề) và sự sắp xếp theo trật tự hợp lí (liên kết logic). Theo đó, đòi hỏi các câu, đoạn trong khoản hoặc điều phải hướng tới cùng chủ đề của khoản hoặc điều; phải được sắp xếp theo trật tự hợp lí và phải có sự kết nối với nhau bằng phương thức nhất định.[40]

II. BỘ TIÊU CHUẨN KỸ THUẬT VĂN BẢN

Kỹ thuật văn bản đòi hỏi các chủ thể tham gia xây dựng dự thảo bộ luật/luật hoặc tham gia đánh giá bộ luật/luật đều phải dựa vào các yêu cầu về kỹ thuật văn bản có tính lý luận cũng như có tính pháp lý như đã được trình bày. Tuy nhiên, sẽ thuận lợi hơn cho các chủ thể này khi các yêu cầu về kỹ thuật văn bản được chuyển hóa thành Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản.

Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản trước hết được coi là các chỉ dẫn kỹ thuật cụ thể, đầy đủ và có tính hệ thống được dùng làm chuẩn mực, khuôn mẫu khi xây dựng các dự thảo bộ luật/luật nhằm đảm bảo, nâng cao chất lượng về kỹ thuật văn bản cho các bộ luật/luật để các văn bản này trở nên hiệu quả hơn do được phản ánh chính xác, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện. Với các chỉ dẫn kỹ thuật cụ thể, đầy đủ và có tính hệ thống như vậy, Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản sẽ giúp hoạt động xây dựng dự thảo bộ luật/luật có sự thống nhất về kỹ thuật văn bản cũng như hạn chế sai sót ở góc độ này.

Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản cũng được được coi là các chỉ tiêu kỹ thuật cụ thể, đầy đủ và có tính hệ thống được dùng làm thước đo chung khi đánh giá kỹ thuật văn bản của các dự thảo bộ luật/luật cũng như của các bộ luật/luật để đảm bảo sự đánh giá được thống nhất, cụ thể và đầy đủ.

Dựa trên lý luận về kỹ thuật văn bản, kết quả đánh giá kỹ thuật văn bản của một số bộ luật và luật cũng như căn cứ vào các quy định của pháp luật về kỹ thuật văn bản, Đề tài xây dựng Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản để chuyển hóa các yêu cầu về kỹ thuật văn bản thành 50 tiêu chí cụ thể và nhóm các tiêu chí này thành 6 tiêu chuẩn.[41] Trong đó, tiêu chuẩn 1 cụ thể hóa yêu cầu về tính “bao hàm” và tính “ngang hàng” của các bố cục; tiêu chuẩn 2 cụ thể hóa yêu cầu về tính “đầy đủ” của các bố cục; tiêu chuẩn 3 cụ thể hóa yêu cầu về tính lô gic của các bố cục; tiêu chuẩn 4 cụ thể hóa yêu cầu về sử dụng từ, thuật ngữ; tiêu chuẩn 5 cụ thể hóa yêu cầu về tiêu đề của văn bản và các bố cục; tiêu chuẩn 6 cụ thể hóa yêu cầu về diễn đạt câu, điều, khoản, điểm. Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản này cũng là kết quả nghiên cứu được đề xuất để cơ quan nhà nước có trách nhiệm tham khảo khi xây dựng Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản chính thức.

Ngoài ra, cũng cần khẳng định hầu hết các tiêu chí chỉ là kết quả của cụ thể hóa và chuyển hóa các yêu cầu của Nghị quyết 351 mà không phải là sự áp đặt của Đề tài, trừ một số ý  đã được trình bày (khoản phải trọn câu; điểm có thể thuộc điều; quy tắc cạnh nhau và quy tắc liền nhau).

III. ĐÁNH GIÁ KỸ THUẬT VĂN BẢN CỦA MỘT SỐ BỘ LUẬT VÀ LUẬT

Kết quả đánh giá cho thấy, các lỗi kỹ thuật văn bản được phát hiện trong 11 bộ luật và luật liên quan đến 45 trên tổng số 50 tiêu chỉ của Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản. Trong đó, có 19 tiêu chí về bố cục và 26 tiêu chí về sử dụng ngôn ngữ. [42] Từ các đánh giá cụ thể về kỹ thuật văn bản trong 4 bộ luật và 7 luật có thể rút ra kết luận:

- Tất cả các bộ luật/luật được khảo sát đều có không ít hạn chế về kỹ thuật văn bản;

- Các hạn chế thuộc cả hai yêu cầu của kỹ thuật văn bản dưới nhiều dạng cụ thể;

- Các hạn chế nhìn chung đều không khó để nhận biết và dễ khắc phục.

3.1. Các lỗi kỹ thuật văn bản liên quan đến bố cục

Thứ nhất, còn bố cục chương/điều không có tính bị “bao hàm” bởi bố cục lớn hơn;

Thứ hai, còn bố cục phần/chương/mục/điều không “ngang hàng” với các bố cục tương ứng còn lại;

Thứ ba, còn bố cục điều có chủ đề ghép nhưng không được tách thành các khoản tương ứng nên không đảm bảo tính rõ ràng;

Thứ tư, còn bố cục chương/mục/điều được xếp không lô gic; còn các bố cục điều có quan hệ kết hợp với nhau hoặc có liên quan trực tiếp với nhau không được xếp cạnh nhau hoặc liền nhau;

Thứ năm, còn bố cục phần không có bố cục chương; bố cục điều không “trọn câu”/“trọn ý” nên không đảm bảo tính “đầy đủ”.

3.2. Lỗi kỹ thuật văn bản liên quan đến sử dụng ngôn ngữ

Thứ nhất, còn từ/thuật ngữ không chính xác, chưa được giải thích hoặc được giải thích chưa chính xác, chưa thống nhất;

Thứ hai, còn tiêu đề chưa rõ ràng, chưa chính xác, chưa ngắn gọn, chưa đúng cấu trúc ngữ pháp hoặc chưa phù hợp với nội dung của điều; còn có sự trùng lặp tiêu đề của các bố cục.

Thứ hai, còn câu không đúng cấu trúc ngữ pháp; còn trường hợp thiếu liên kết giữa các câu hoặc giữa tiêu đề và câu đầu tiên trong điều; còn câu truyền tải đồng thời cả nội dung định nghĩa và nội dung điều chỉnh.

Thứ ba, còn có điều, khoản chưa chính xác, không có tính khái quát (liệt kê không xác định), nhắc lại nội dung đã có hoặc không thể hiện tính dứt khoát. 

IV. KIẾN NGHỊ

4.1. Kiến nghị các biện pháp đảm bảo kỹ thuật văn bản có tính tổng thể

Thứ nhất, cần chuyển hóa hai yêu cầu chính của kỹ thuật văn bản (hay còn được gọi là kỹ thuật trình bày văn bản về nội dung) là yêu cầu về bố cục và yêu cầu về sử dụng ngôn ngữ trong văn bản thành các tiêu chí cụ thể để có Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản.[43]

Để có cơ  sở cho việc chuyển hóa này, trước hết cần hoàn thiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng

- Cụ thể hóa hơn các yêu cầu về kỹ thuật văn bản;

- Đảm bảo các quy định của Luật này hoàn toàn đúng kỹ thuật văn bản.

Tiếp đó, cần hoàn thiện Nghị quyết số 351 theo hướng

- Xác định lại một cách chính xác các yêu cầu đối với bố cục khoản để đảm bảo có sự tương đồng với  bố cục điều và sự khác biệt với bố cục điểm;

- Cân nhắc lại để cho phép bố cục điểm có thể thuộc bố cục điều trong trường hợp cần thiết; và

- Đảm bảo các quy định của Nghị quyết hoàn toàn đúng kỹ thuật văn bản.

- Bổ sung phụ lục là Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản.

Trên cơ sở đã hoàn thiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị quyết số 351, Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản sẽ được xây dựng và được đưa vào phần phụ lục của Nghị quyết số 351. Cơ cấu và nội dung của Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản có thể được xây dựng trên cơ sở hoàn thiện Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản đã được Đề tài đưa ra.

Thứ hai, cần bổ sung quy định về quy trình thẩm định kỹ thuật văn bản dự thảo bộ luật/luật theo Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản đã được ban hành.

Thứ ba, cần bổ sung nội dung rà soát kỹ thuật văn bản theo Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản khi tiến hành việc sửa đổi, bổ sung các bộ luật/luật.

Thứ tư, cần tách quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thành 2 quy trình riêng với chủ thể riêng phù hợp với tính chất của kỹ thuật lập pháp về nội dung và kỹ thuật văn bản để đảm bảo cả hai quy trình được chú ý như nhau và hỗ trợ lẫn nhau.

Thứ năm, đề nghị các cơ sở nghiên cứu, đào tạo thuộc lĩnh vực luật học cần tăng cường nghiên cứu lý luận kỹ thuật văn bản nói riêng cũng như kỹ thuật lập pháp nói chung, đồng thời, cũng cần tăng cường nghiên cứu đánh giá các bộ luật/luật về kỹ thuật văn bản để có thêm cơ sở lý luận và thực tiễn cho cơ quan lập pháp trong việc xây dựng Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản cũng như trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật dưới góc độ kỹ thuật văn bản. Cùng với đó, các cơ sở đào tạo trong lĩnh vực luật học cũng cần xem xét điều chỉnh chương trình đào tạo theo hướng coi trọng hơn kiến thức về kỹ thuật văn bản. Đồng thời, các cơ sở đào tạo này có thể xây dựng trung tâm về kỹ thuật văn bản để áp dụng lý luận kỹ thuật văn bản vào thực tiễn phục vụ cộng đồng.

4.2. Kiến nghị các biện pháp đảm bảo kỹ thuật văn bản có tính cục bộ

Trong khi chờ đợi Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản chính thức và các thay đổi kèm theo, Đề tài kiến nghị một số biện pháp đảm bảo kỹ thuật văn bản có tính cục bộ sau:

Thứ nhất, cơ quan có trách nhiệm có thể tham khảo các đề xuất được trình bày trong các chuyên đề của Đề tài về hướng khắc phục các hạn chế về kỹ thuật văn bản trong 4 bộ luật và 7 luật được khảo sát để có kế hoạch hoàn thiện các bộ luật và luật này về kỹ thuật văn bản khi có điều kiện nhất là khi tiến hành sửa đổi các luật này.

Thứ hai, cơ quan có trách nhiệm có thể tham khảo Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản của Đề tài để phát hiện các hạn chế về kỹ thuật văn bản của các bộ luật/luật khi tiến hành sửa đổi để có kế hoạch khắc phục các hạn chế này.

Thứ ba, cơ quan có trách nhiệm có thể tham khảo Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản của Đề tài để có kế hoạch đảm bảo kỹ thuật văn bản cho dự thảo bộ luật/luật trong quá trình được xây dựng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHỤ LỤC

BỘ TIÊU CHUẨN KỸ THUẬT VĂN BẢN

(Kèm ví dụ minh họa các hạn chế)

 

Tiêu chuẩn 1. Tính bao hàm và tính ngang hàng[44] của các bố cục

Tiêu chí 1.1. Nội dung (thành phần) của các phần đều thuộc nội dung (tổng thể) của văn bản[45] (“bao hàm”) và đều “ngang hàng” với nhau.

Trong BLTTHS, nội dung của Phần thứ bảy (Thủ tục đặc biệt) không “ngang hàng” với nội dung của 5 phần trước đó (Thủ tục tố tụng) vì Phần thứ bảy là về thủ tục (nói chung) còn các phần từ thứ hai đến thứ sáu là về thủ tục tố tụng hình sự. Do vậy, Phần thứ bảy phải là Thủ tục tố tụng đặc biệt và trong phần này chỉ có các chương về thủ tục tố tụng (đặc biệt).

Tiêu chí 1.2. Nội dung (thành phần) của các chương đều thuộc nội dung (tổng thể) của phần/văn bản và đều“ngang hàng” với nhau.

Trong Luật Doanh nghiệp, nội dung của Chương IV (Doanh nghiệp nhà nước) không “ngang hàng” với nội dung của 4 chương III, V, VI và VII (Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân) vì chương IV theo tiêu chí phân loại khác so với tiêu chí phân loại của các chương III, V, VI và VII.

Tiêu chí 1.3. Trong các phần/chương có tiêu đề ghép,[46] đều có các chương/mục tương ứng để đảm bảo tính rõ ràng.

Trong Luật Doanh nghiệp, Chương IX (Tổ chức lại, giải thể và phá sản) là chương có chủ đề ghép từ 3 chủ đề nhưng không có mục.

Tiêu chí 1.4. Nội dung (thành phần) của các mục đều thuộc nội dung (tổng thể) của chương và đều “ngang hàng” với nhau.

Trong BLHS, Chương XXI. Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng có 4 mục. Nội dung của 3 mục đầu (các tội xâm phạm an toàn giao thông; tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông và các tội phạm khác xâm phạm an toàn công cộng) không “ngang hàng” với nội dung của mục thứ tư (các tội xâm phạm trật tự công cộng) vì nội dung chung của cả 3 mục này (các tội xâm phạm an toàn công cộng) mới “ngang hàng” với nội dung của mục thứ tư.

Tiêu chí 1.5. Trong các mục có tiêu đề ghép, đều có các tiểu mục tương ứng để đảm bảo tính rõ ràng.

 

Tiêu chí 1.6. Nội dung (thành phần) của các tiểu mục đều thuộc nội dung (tổng thể) của mục và đều “ngang hàng” với nhau.

 

Tiêu chí 1.7. Nội dung (thành phần) của các điều đều thuộc nội dung (tổng thể) của tiểu mục/mục/chương và đều “ngang hàng” với nhau.

Trong Luật Quốc tịch, nội dung của các điều 15, 16 và 17 (Điều 15. Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha mẹ là công dân Việt Nam; Điều 16. Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam; Điều 17. Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha mẹ là người không quốc tịch) không thuộc nội dung chung của mục 1. Chương II (Quy định chung) mà thuộc nội dung chung (Có quốc tịch Việt Nam do sinh ra).

Tiêu chí 1.8. Đối với các điều có tiêu đề ghép, đều có các khoản tương ứng để đảm bảo tính rõ ràng.

Trong BLDS, Điều 263 có tiêu đề ghép - Quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu tài sản nhưng không có 02 khoản tương ứng. Trong đó, một khoản sẽ liệt kê các quyền theo các điểm và một khoản liệt kê các nghĩa vụ theo các điểm.

Tiêu chí 1.9. Nội dung (thành phần) của các khoản đều thuộc nội dung (tổng thể) của điều và đều “ngang hàng” với nhau.

Trong BLTTHS, các khoản của Điều 298 có nội dung không “ngang hàng” với nhau vì nội dung của khoản 1 (xác định không được xét xử bị cáo về tội danh khác với tội danh Viện kiểm sát truy tố) đã loại trừ nội dung của khoản 2 (xác định có thể xét xử bị cáo “về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố”) cũng như của khoản 3 (xác định “Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại…”). Ở đây có sự phân loại không đúng nội dung chung của điều (Giới hạn xét xử). Đúng ra, phải phân loại nội dung chung này thành 3 nội dung “ngang hàng” (Giới hạn về hành vi/giới hạn về tội danh/giới hạn về khoản…) và mỗi nội dung đó được xây dựng thành một khoản.

Tiêu chí 1.10. Nội dung của các khoản đều độc lập với nhau.

Trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương, nội dung của 04 khoản trong Điều 7 không độc lập với nhau vì xác định 4 tiêu chuẩn cùng phải có của đại biểu Hội đồng nhân dân. Cụ thể:

Điều 7. Tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân

1. Trung thành với Tổ quốc,

2. Có phẩm chất đạo đức tốt,...

3. Có trình độ văn hóa, chuyên môn,...

4. Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm.

Tiêu chí 1.11. Nội dung (thành phần) của các điểm đều thuộc nội dung (tổng thể) của khoản/điều và đều“ngang hàng” với nhau.

Trong BLDS, nội dung của khoản 2 Điều 229 là về xác định quyền sở hữu (đối với tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy mà không có hoặc không xác định được ai là chủ sở hữu). Trong khi đó, điểm a) (ý thứ hai) lại có nội dung đề về tiền thưởng (cho người tìm thấy tài sản đó…khi tài sản được tìm thấy là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hoá). Như vậy, nội dung này của điểm a) không thuộc nội dung của khoản 2.

Tiêu chuẩn 2. Tính đầy đủ của các bố cục

Tiêu chí 2.1. Các phần đều có bố cục chương.

Trong BLHS, Phần thứ ba không có bố cục chương mà chỉ có 01 điều.

Tiêu chí 2.2. Các điều đều “trọn câu” (để “trọn ý”). [47]

Trong Luật Doanh nghiệp, Điều 20 không “trọn câu” nên cũng không “trọn ý” mà chỉ là 5 cụm danh từ độc lập với nhau. Cụ thể:

Điều 20. Hồ sơ đăng ký công ty hợp danh

1. Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp.

2. Điều lệ công ty.

3. Danh sách thành viên.

4. Bản sao giấy tờ pháp lý của cá nhân đối với thành viên.

5. Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật Đầu tư.

Tiêu chí 2.3. Các khoản đều “trọn câu” (để “trọn ý”).

Trong Luật Doanh nghiệp, các khoản trong Điều 20 đều không “trọn câu” nên cũng không “trọn ý”.

Tiêu chuẩn 3. Trật tự của các bố cục

Tiêu chí 3.1. Các phần trong văn bản đều được sắp xếp lô gic.[48]

 

Tiêu chí 3.2. Các chương trong phần/văn bản đều được sắp xếp lô gic.

- Trong BLHS, chương về người phạm tội dưới 18 tuổi xếp sau chương về pháp nhân thương mại (phạm tội) là chưa đúng quy tắc “trước-sau” vì chương về pháp nhân thương mại (phạm tội) là quy định đặc biệt so với quy định về người phạm tội và trong đó gồm cả người phạm tội dưới 18 tuổi.

- Trong Luật Điều ước quốc tế, chương về trình tự, thủ tục rút gọn trong đàm phán, ký, sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế (chương VII) được xếp không đúng quy tắc “liền nhau” vì không được xếp liền sau các chương về về trình tự, thủ tục (bình thường) trong đàm phán, ký, sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế (các chương từ I đến IV). Trong khi các chương V và VI xen ở giữa không bị tác động bởi quy định của Chương VII.

Tiêu chí 3.3. Các mục trong chương đều được sắp xếp lô gic.

Trong Luật Hôn nhân và Gia đình (chương V), mục Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con được xếp trước mục Xác định cha, mẹ, con là chưa đúng nguyên tắc “trước-sau” vì phải có quan hệ cha, mẹ và con thì mới phát sinh quyền và nghĩa vụ…

Tiêu chí 3.4. Các tiểu mục trong mục đều được sắp xếp lô gic.

 

Tiêu chí 3.5. Các điều trong tiểu mục/mục/chương đều được sắp xếp lô gic.

Trong Luật Hôn nhân và Gia đình, Điều về (Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu) được xếp sau Điều về (Chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân) (Điều 42 và Điều 41) là không đúng quy tắc “trước-sau” vì khi (chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu) thì sẽ không cần đặt ra việc (chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân).

Tiêu chí 3.6. Các điều có quan hệ kết hợp với nhau về một vấn đề đều được xếp cạnh nhau theo đúng trật tự. 

Trong BLHS, Điều về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và Điều về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự được xếp xa nhau (Điều 12 và Điều 21) là không đúng quy tắc “cạnh nhau” vì hai điều này kết hợp với nhau để xác định chủ thể của tội phạm.

Tiêu chí 3.7. Các điều có liên quan với nhau đều được xếp liền nhau.

Trong Luật Quốc tịch, Quyền đối với quốc tịch được quy định tại Điều 2 nhưng 2 nội dung khác có liên quan trực tiếp với Điều 2 lại được quy định tại Điều 9 (Giữ quốc tịch khi kết hôn, ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật) và Điều 10 (Giữ quốc tịch khi quốc tịch của vợ hoặc chồng thay đổi). Xếp như vậy là không đúng quy tắc “liền nhau”.

Tiêu chí 3.8. Các khoản đều được sắp xếp lô gic.

Trong BLHS (Điều 123), khoản quy định trường hợp giết người tăng nặng (khoản 1) được xếp trước khoản  quy định về trường hợp giết người thông thường (khoản 2). Xếp như vậy là không đúng quy tắc “trước sau”.

Tiêu chí 3.9. Các điểm trong khoản/điều đều được sắp xếp lô gic.

Trong BLHS (khoản 3 Điều 142. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi), việc xếp điểm đ) “biết mình bị HIV mà vẫn phạm tội”  vào giữa điểm d) “gây thương tích… (cho nạn nhân) ” và điểm e) “làm nạn nhân chết…” là không đúng quy tắc “liền nhau” vì hai điểm d) và e) đều phản ánh hậu quả gây ra cho nạn nhân nên cần được xếp liền nhau.

Tiêu chuẩn 4. Sử dụng từ và thuật ngữ[49]

Tiêu chí 4.1. Các từ được sử dụng đều là từ phổ thông và chính xác.[50]

Trong Luật Doanh nghiệp, từ “góp vốn” được sử dụng trong Điều 75 là không chính xác vì góp vốn” chỉ được sử dụng khi có nhiều thành viên cùng tham gia bỏ vốn đầu tư… trong khi Điều luật này quy định về công ty TNHH một thành viên. Do vậy, từ được sử dụng ở đây phải là “bỏ vốn”.

Tiêu chí 4.2. Các từ được sử dụng có khả năng hiểu không thống nhất đều được giải thích chính xác, rõ ràng,[51] dễ hiểu.

Trong Luật tổ chức chính quyền địa phương, các từ “phân cấp”, “phân quyền” được sử dụng trong rất nhiều điều luật nhưng không được giải thích.

Tiêu chí 4.3. Các thuật ngữ được sử dụng đều chính xác.

Trong BLDS, thuật ngữ “tài sản tiêu hao” được sử dụng trong Điều 495 là không chính xác vì chỉ có tài sản dưới dạng vật mới có tính chất “tiêu hao” hay “không tiêu hao”. Do vậy, thuật ngữ đúng phải là “vật không tiêu hao”.

Tiêu chí 4.4. Các thuật ngữ đều được định nghĩa.

Trong Luật Điều ước quốc tế, thuật ngữ “Bên Việt Nam” không được giải thích.

Tiêu chí 4.5. Các định nghĩa thuật ngữ đều chính xác, rõ ràng, dễ hiểu.

Trong Luật Hôn nhân và gia đình, thuật ngữ “mang thai hộ vì mục đích thương mại” được định nghĩa tại khoản 23 Điều 3 chưa chính xác vì nội dung giải thích về mang thai hộ chưa đầy đủ như đã được giải thích tại khoản 22 của Điều này nên có thể dẫn đến hiểu sai.

Tiêu chí 4.6. Các thuật ngữ đều được định nghĩa theo cùng cách thống nhất.

Trong BLTTHS, có thuật ngữ được định nghĩa theo cả dấu hiệu nội dung và dấu hiệu hình thức như thuật ngữ “người làm chứng”, có thuật ngữ chỉ được định nghĩa theo dấu hiệu nội dung như thuật ngữ “bị hại” và có thuật ngữ chỉ được định nghĩa theo dấu hiệu hình thức như thuật ngữ “bị can”…

Tiêu chí 4.7. Sử dụng thống nhất một từ/thuật ngữ cho cùng nội dung trong toàn văn bản.

Trong Luật Điều ước quốc tế, “Bên Việt Nam”, “Việt Nam” và “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” được sử dụng thay thế nhau.

Tiêu chí 4.8. Có sự thống nhất trong sử dụng thuật ngữ giữa văn bản luật nội dung và văn bản luật hình thức.

Trong BLHS, thuật ngữ được sử dụng là pháp nhân thương mại phạm tội còn BLTTHS lại sử dụng thuật ngữ pháp nhân phạm tội.

Tiêu chuẩn 5. Tiêu đề của văn bản và của các bố cục

Tiêu chí 5.1. Tiêu đề của văn bản phản ánh chính xác, rõ ràng nội dung chung của văn bản; đúng cấu trúc ngữ pháp và ngắn gọn.

Luật Tổ chức chính quyền địa phương có tiêu đề văn bản chưa rõ ràng vì có thể gây hiểu nhầm Luật này chỉ điều chỉnh về cơ cấu, tổ chức chính quyền địa phương.

Tiêu chí 5.2. Tiêu đề của các phần đều phản ánh chính xác, rõ ràng nội dung chung của phần; đúng cấu trúc ngữ pháp và ngắn gọn.

Trong BLTTDS, tiêu đề Phần thứ mười (Xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự; khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự) chưa chính xác vì không bao quát Chương XLII có tiêu đề: Điều khoản thi hành.

Tiêu chí 5.3. Tiêu đề của các chương đều phản ánh chính xác, rõ ràng nội dung chung của chương; đúng cấu trúc ngữ pháp và ngắn gọn.

Trong BLTTHS, tiêu đề của chương VII. Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế là không chính xác vì biện pháp ngăn chặn cũng là biện pháp cưỡng chế. Do vậy, tiêu đề của chương này phải là Biện pháp cưỡng chế. Theo đó, 2 mục của chương là: Mục 1. Biện pháp ngăn chặn; và mục 2. Biện pháp cưỡng chế khác.

Tiêu chí 5.4. Tiêu đề của các mục đều phản ánh chính xác, rõ ràng nội dung chung của mục; đúng cấu trúc ngữ pháp và ngắn gọn.

Trong BLHS,

- Tiêu đề của Mục 1 Chương XVIII (Các tội phạm thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại) chưa chính xác vì chính xác phải là “Các tội xâm phạm trật tự quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại”. (như vậy cũng sẽ phù hợp với tiêu đề của chương: Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế).

- Tiêu đề của Mục 3 Chương XVIII (Các tội phạm khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế) chưa đúng cấu trúc ngữ pháp vì chữ “khác” phải được để ở vị trí cuối cùng thì mới thể hiện mục này cũng là về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nhưng không phải là 2 nhóm tội có tiêu đề riêng được quy định ở Mục 1 và Mục 2.

Tiêu chí 5.5. Tiêu đề của các tiểu mục đều phản ánh chính xác, rõ ràng nội dung chung của tiểu mục; đúng cấu trúc ngữ pháp và ngắn gọn.

 

Tiêu chí 5.6. Tiêu đề của các điều đều phản ánh chính xác, rõ ràng nội dung chung của điều.

Trong Luật Quốc tịch, tiêu đề của Điều 4 (nguyên tắc quốc tịch) chưa chính xác vì chính xác phải là “Nguyên tắc một quốc tịch” (Nôi dung của điều luật này chỉ là: Công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”).   

Tiêu chí 5.7. Tiêu đề của các điều đều đúng cấu trúc ngữ pháp và ngắn gọn.

Trong Luật Hôn nhân và gia đình, tiêu đề Điều 32 quá dài: Điều 32. Giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng.

Tiêu chí 5.8. Tiêu đề và nội dung của các điều đều phù hợp với nhau.

Trong Luật Các điều ước quốc tế, tiêu đề của Điều 47 Bảo lưu của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Namkhông phù hợp với nội dung của điều vì nội dung chỉ là về thẩm quyền quyết định bảo lưu của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (“Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định ký, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước quốc tế có quyền quyết định việc bảo lưu của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với điều ước quốc tế đó).

Tiêu chí 5.9. Tiêu đề của các bố cục đều không trùng nhau.

Trong Luật Doanh nghiệp, tiêu đề của Mục 1 Chương III và tiêu đề của Điều 46 trùng nhau hoàn toàn (Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên).

Tiêu chuẩn 6. Diễn đạt câu, điều, khoản, điểm

Tiêu chí 6.1. Các câu đều đúng ngữ pháp.

Trong Luật xử lý vi phạm hành chính, cấu trúc ngữ pháp của khoản 1 Điều 5 không đúng dẫn đến sai nội dung và khó hiểu. Cụ thể: Khoản 1 Điều 5 quy định:

1. Các đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:

a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính…

 Điểm a trên đây được xây dựng thành câu trong khi chỉ được phép là một mệnh đề (thể hiện một loại đối tượng bị xử phạt…) thì mới có thể kết nối với mệnh đề trước (qua từ bao gồm) để thành câu hoàn chỉnh của khoản 1.

Tiêu chí 6.2. Giữa các câu/đoạn đều có liên kết chủ đề, liên kết logic và liên kết hình thức.[52]

Trong Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, câu thứ hai của khoản 2 Điều 19 không có các liên kết với câu thứ nhất. Cụ thể:

Điều 19. Điều kiện nhập khẩu, xuất khẩu tàu bay, động cơ tàu bay, cánh quạt tàu bay và phụ tùng tàu bay

2. Việc xuất khẩu, nhập khẩu tàu bay, động cơ tàu bay, cánh quạt tàu bay và phụ tùng tàu bay phải bảo đảm an toàn hàng không, an ninh hàng không, an ninh quốc gia, phù hợp với nhu cầu khai thác kinh doanh.

Tuổi tàu bay đã qua sử dụng nhập khẩu vào Việt Nam do Chính phủ quy định.

Tiêu chí 6.3. Không có câu truyền tải đồng thời cả nội dung định nghĩa và nội dung điều chỉnh.

Trong BLDS, khoản 1 Điều 23 truyền tải đồng thời cả nội dung định nghĩa và nội dung điều chỉnh nên rất khó hiểu. Cụ thể:

Điều 23. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

Tiêu chí 6.4. Có liên kết hình thức giữa câu đầu tiên và tiêu đề của điều.

Trong BLHS, tiêu đề của Điều 6 không có liên kết hình thức với câu đầu tiên của điều. Cụ thể:

Điều 5. Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1. Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (phải thay “được áp dụng” bằng “có hiệu lực”)

Tiêu chí 6.5. Các điều đều phản ánh chính xác, rõ ràng nội dung cần truyền tải và dễ hiểu

Trong BLHS, Điều 30 phản ánh chưa chính xác nội dung cần truyền tải vì thuộc tính của hình phạt lại được thể hiện thành mục đích của hình phạt vì sử dụng nhầm chữ “nhằm”. Cụ thể:

Điều 30. Khái niệm hình phạt

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.

Tiêu chí 6.6. Các khoản đều phản ánh chính xác, rõ ràng nội dung cần truyền tải và dễ hiểu.

- Trong BLHS, khoản 2 Điều 346 phản ánh không chính xác nội dung cần truyền tải. Do không có sự liên kết với khoản 1 nên phạm vi các trường hợp của khoản 2 rất rộng mà không được giới hạn trong phạm vi của tội được quy định tại khoản 1. Cụ thể:

Điều 346. Tội vi phạm quy chế về khu vực biên giới

2. Tái phạm hoặc phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội khu vực biên giới, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

- Trong BLDS, khoản 2 Điều 26 phản ánh chưa rõ ràng nội dung cần truyền tải vì cụm từ “theo tập quán” chưa rõ vì tập quán thường gắn với địa phương, gắn với dân tộc mà bố và mẹ có thể thuộc các dân tộc, sống ở các địa phương khác nhau… Cụ thể:

Điều 26. Quyền có họ, tên

...

2. Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ...

Tiêu chí 6.7. Các điểm đều phản ánh chính xác, rõ ràng nội dung cần truyền tải và dễ hiểu.

Trong BLTTHS, điểm a của khoản 2 Điều 451 chưa rõ ràng vì có thể được hiểu theo hai cách khác nhau. Cụ thể:

2. Căn cứ vào kết luận giám định, tòa án có thể ra một trong những quyết định:

a. Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

Quy định này có thể được hiểu: Tòa án có thể quyết định tạm đình chỉ vụ án hoặc quyết định đình chỉ vụ án và trong trường hợp đình chỉ vụ án thì áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh nhưng cũng có thể được hiểu: Tòa án có thể quyết định tạm đình chỉ vụ án hoặc quyết định đình chỉ vụ án và trong cả hai trường hợp đều áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Trong đó, cách hiểu thứ hai là cách hiểu đúng.

Tiêu chí 6.8. Nội dung mô tả của các điều, khoản đều có tính khái quát (không mang tính liệt kê không có giới hạn).

Trong BLTTDS, Điều 26 mô tả những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo cách liệt kê mà không khái quát được tính chất chung của các tranh chấp này nên gây khó cho người thực hiện khi gặp trường hợp không thuộc trường hợp đã được liệt kê mà phải tự xác định “tranh chấp khác…” được liệt kê ở khoản cuối cùng. Cụ thể:

Điều 26. Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

1. Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân.

2. Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.

...

14. Các tranh chấp khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.

Tiêu chí 6.9. Nội dung các điều, khoản  đều không nhắc lại nội dung đã có trong văn bản để đảm bảo tính ngắn gọn.

Trong Luật Quốc tịch, khoản 5 Điều 23 lặp lại nội dung  các điểm a, b và c trong khoản 2 Điều 19 trong khi có thể dùng phương pháp “chỉ dẫn” đến các điểm này. Cụ thể:

Điều 19. Điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam

2. Người xin nhập quốc tịch Việt Nam có thể được nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải có các điều kiện quy định tại các điểm c, d và đ khoản 1 Điều này, nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:

a) Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam;

b) Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam;

c) Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

Điều 23. Các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam

5. Người được trở lại quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ những người sau đây, trong trường hợp đặc biệt, nếu được Chủ tịch nước cho phép:

a) Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam;

b) Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam;

c) Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tiêu chí 6.10. Nội dung các điều, khoản đều được diễn đạt đúng chuẩn mực của quy phạm pháp luật (nghiêm túc, dứt khoát).

Trong Luật Điều ước quốc tế, , cách diễn đạt khoản 1 Điều 74 không thể hiện tính mệnh lệnh pháp lý khi sử dụng cụm từ “không nhất thiết”. Cụ thể:

Điều 73. Sửa đổi, bổ sung điều ước quốc tế theo trình tự, thủ tục rút gọn

1. Đối với những sửa đổi, bổ sung điều ước quốc tế chỉ mang tính kỹ thuật và trong trường hợp không ký kết điều ước quốc tế mới để sửa đổi, bổ sung, cơ quan đề xuất không nhất thiết phải lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức có liên quan quy định tại điểm a khoản 5 Điều 54 của Luật này trước khi trình Chính phủ...

 

 

 

 


[1] Theo Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội - Trung tâm từ điển học, 1994, kỹ thuật là “tổng thể nói chung những phương pháp, phương thức sử dụng trong một lĩnh vực hoạt động nào đó…” (tr. 501); lập pháp là “Định ra pháp luật”. (tr. 534).

[2] Khái niệm kỹ thuật văn bản được sử dụng trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 của Việt Nam; còn kỹ thuật trình bày văn bản về nội dung được sử dụng trong Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH14 ngày 14/3/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về “Quy định thể thức và kĩ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”.

[3] Ví dụ: Trong bài báo khoa học “Một số vấn đề chung về kĩ thuật lập pháp”, tác giả khẳng định, kỹ thuật lập pháp “… chỉ bao gồm những yếu tố, bộ phận mang tính kĩ thuật của việc chuẩn bị và soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh mà không đề cập nội dung của các dự án được chuẩn bị soạn thảo; những yếu tố, bộ phận đó chỉ mang tính ứng dụng và chỉ đề cập việc trình bày về hình thức của các dự án đó và các phương pháp diễn đạt chúng” (Võ Khánh Vinh, Một số vấn đề chung về kĩ thuật lập pháp, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2001, tr. 30). Trong Giáo trình của một chương trình đào tạo cử nhân luật, khái niệm kỹ thuật lập pháp cũng được hiểu theo nghĩa hẹp khi tác giả khẳng định ““Kỹ thuật lập pháp…, thông thường biểu hiện thông qua hai yếu tố sau:

+ Sử dụng đúng quy tắc ngôn ngữ (tiếng Việt)…

+ Phân chia, sắp xếp nội dung văn bản logic, chặt chẽ. (Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật, Nxb. Tư pháp, 2015, tr. 33). Tương tự như vậy, trong các bài viết về hoàn thiện pháp luật, các tác giả cũng thường sử dụng khái niêm kỹ thuật lập pháp theo nghĩa hẹp. Ví dụ: Phùng Văn Tài, Một số hạn chế về kỹ thuật lập pháp trong quy định của một số tội xâm phạm an ninh quốc gia của BLHS hiện hành, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8(304)/2013; Nguyễn Ngọc Hòa, Quy định của BLHS năm 2015 về các tội phạm tham nhũng dưới góc độ kỹ thuật lập pháp, Tạp chí Luật học số 10/2021; Nguyễn Văn Hương, Kỹ thuật lập pháp và việc hoàn thiện BLHS năm 2015 trong Luật học Việt Nam – Những vấn đề đương đại, Nxb. Tư pháp, 2019; v.v..

[4] Khi đánh giá kỹ thuật văn bản trong Luật doanh nghiệp, Đề tài đã phát hiện nội dung của Chương IV (Doanh nghiệp nhà nước) không “ngang hàng” với nội dung của 4 chương III, V, VI và VII (Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân) vì chương IV theo tiêu chí phân loại khác so với tiêu chí phân loại của các chương III, V, VI và VII nên đã xác định bố cục này không lô gic và không thể khắc phục được nên đã đề xuất loại bỏ vì “ý tưởng” này không phù hợp (xem chuyên đề 9 của Đề tài).

[5] Nếu được phép so sánh, Đề tài có thể ví kỹ thuật lập pháp như là hoạt động thiết kế còn kỹ thuật văn bản như là hoạt động thi công một ngôi nhà và như vậy, chất lượng ngôi nhà về các mặt phụ thuộc trước hết vào chất lượng của thiết kế. Tuy nhiên, để có ngôi nhà trên thực đúng như ngôi nhà trên bản vẽ còn cần đến thi công đúng. Trái lại, nếu có phần nào đó không thi công đúng được thì có nghĩa thiết kế có vấn đề.

[6] Về các yêu cầu về nội dung này, có thể tham khảo: - Nguyễn Minh Đoan, Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2014, tr. 367-371; - Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, 2019, tr. 354 - 357.

[7] Về các nguyên tắc xây dựng pháp luật, xem: Nguyễn Minh Đoan, Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2014, tr. 354-356.

[8] Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật tuy đề cập cả ba vấn đề thuộc về kỹ thuật lập pháp nhưng trong Luật này, không có sự xuất hiện của thuật ngữ kỹ thuật lập pháp mà chỉ có sự xuất hiện của thuật ngữ “kỹ thuật văn bản”. Tương tự như vậy,  Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH14 ngày 14/3/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Quy định thể thức và kĩ thuật trình bày văn bản QPPL của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước cũng chỉ sử dụng thuật “kỹ thuật trình bày văn bản”...

[9] Điều 5. Nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

1. Bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.

2. Tuân thủ đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

3. Bảo đảm tính minh bạch trong quy định của văn bản quy phạm pháp luật.

4. Bảo đảm tính khả thi, tiết kiệm, hiệu quả, kịp thời, dễ tiếp cận, dễ thực hiện của văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.

5. Bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

6. Bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

[10] Ví dụ: Điều 58. Thẩm định dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình

3. Nội dung thẩm định tập trung vào các vấn đề sau đây:

a) Sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với mục đích, yêu cầu, phạm vi điều chỉnh, chính sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh đã được thông qua;

b) Tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật; tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;..

[11] Điều 5. Ngôn ngữ, kỹ thuật văn bản quy phạm pháp luật (Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008); Điều 8. Ngôn ngữ, kỹ thuật văn bản quy phạm pháp luật (Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015).

[12] Điều 5 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Điều 8 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.

[13] Tlđd.

[14] Điều 8. Ngôn ngữ, kỹ thuật văn bản quy phạm pháp luật

1. Ngôn ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật là tiếng Việt.

Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu.

2. Văn bản quy phạm pháp luật phải quy định cụ thể nội dung cần điều chỉnh, không quy định chung chung, không quy định lại các nội dung đã được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật khác.

3. Tùy theo nội dung, văn bản quy phạm pháp luật có thể được bố cục theo phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm; các phần, chương, mục, tiểu mục, điều trong văn bản quy phạm pháp luật phải có tên...

[15] Điều 58 khoản 3: “3. Nội dung thẩm định tập trung vào các vấn đề sau đây: ..; e) Ngôn ngữ, kỹ thuật và trình tự, thủ tục soạn thảo văn bản”.

[16] Điều này có thể phần nào thể hiện, vấn đề kỹ thuật văn bản chưa thực sự được quan tâm đúng mức.

[17]4. Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Chính phủ quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan, người có thẩm quyền khác được quy định trong Luật này”.

[18] Dưới đây được viết tắt là Nghị quyết số 351.

[19] Xem: Điều 17 của Nghị quyết số 351.                                        

[20] Xem: Điều 18 của Nghị quyết số 351.

[21] Điều 10 của Nghị quyết số 351.

[22] Về các nguyên tắc này, có thể tham khảo: Võ Khánh Vinh, Một số vấn đề chung về kỹ thuật lập pháp, tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8 năm 2001, tr. 30 và các trang tiếp theo.

[23] Xem: Khoản 1 Điều 10 Nghị quyết 351.

[24] Vấn đề này sẽ được trình bày trong phần tiếp theo. Trước đây, Nghị quyết số 1139 1139/2007/UBTVQH11 ngày 03/7/2007 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về Ban hành Quy chế về kỹ thuật trình bày dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội lại cho phép bố cục điều có thể chỉ có bố cục điểm. Xem: Khoản 2 Điều 24 của Nghị quyết này.

[25] Liên kết chủ đề đòi hỏi các bố cục phải hướng tới cùng chủ đề. Về vấn đề này, xem: Trần Ngọc Thêm, Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006 (tái bản lần thứ ba).

[26] Về vấn đề này xem nội dung viết về quan hệ giữa các khái niệm tronng Đại học Quốc gia Hà Nội, Lôgic học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020, tr. 71 và các trang tiếp theo.

[27] Liên kết logic đòi hỏi sự sắp xếp các bố cục theo trật tự hợp lí. Về vấn đề này, xem:  Trần Ngọc Thêm, Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006 (tái bản lần thứ ba).

[28] Khoản 2 Điều 17 Nghị quyết 351 quy định: đ) Điều là bố cục cơ bản của văn bản. Nội dung của điều phải thể hiện đầy đủ, trọn ý và trọn câu, đúng ngữ pháp; trong điều có thể có khoản, điểm;

e) Khoản được trình bày trong điều khi nội dung của điều có các ý tương đối độc lập với nhau. Nội dung mỗi khoản phải được thể hiện đầy đủ một ý;”…

[29] Điều này không chỉ đúng trên thực tế như vậy mà còn được xác nhận trong văn bản quy phạm pháp luật khác. Đó là Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biên pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể điểm e) khoản 2. Điều 68 qy định: e) Khoản được sử dụng trong trường hợp nội dung của điều có các ý tương đối độc lập với nhau, nội dung mỗi khoản phải được thể hiện đầy đủ một ý; mỗi khoản phải viết đầy đủ thành câu;. Quy định này tương tự như quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 17 Nghị quyết 351 nhưng có thêm khẳng định “mỗi khoản phải viết đầy đủ thành câu”.

 

 

 

 

[30] Hai phương án khác là:             Điều 20. Hồ sơ đăng ký công ty hợp danh

Hồ sơ đăng ký công ty hợp danh gồm: Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp; Điều lệ công ty; Danh sách thành viên và Bản sao giấy tờ pháp lý của cá nhân đối với thành viên và bản sao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật Đầu tư. (phương án này tuy chính xác, rõ ràng nhưng khó cho thực hiện).                       Điều 20. Hồ sơ đăng ký công ty hợp danh

Hồ sơ đăng ký công ty hợp danh gồm:  

1. Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp;

2. Điều lệ công ty;

3. Danh sách thành viên;

4. Bản sao giấy tờ pháp lý của cá nhân đối với thành viên; và

5. Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật Đầu tư. (ở phương án này, các khoản đều không đáp ứng tính chất của khoản).

[31] Lê minh Trường, Ngôn ngữ trong văn bản pháp luật là gì ? Yêu cầu đối với ngôn ngữ trong văn bản pháp luật, https://luatminhkhue.vn/ngon-ngu-trong-van-ban-phap-luat-la-gi-yeu-cau-doi-voi-ngon-ngu-trong-van-ban-phap-luat.aspx, truy cập ngày 10/10/2022

[32] Ví dụ: Điều 23 BLHS có tiêu đề là Tình thế cấp thiết. Tiêu đề này là một thuật ngữ và thuật ngữ này được giải thích ngay tại khoản 1 của điều này (đoạn thứ nhất), còn đoạn thứ hai của khoản 1 và khoản 2 có nội dung điều chỉnh. Cụ thể, Điều 23. Tình thế cấp thiết quy định: “1. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm…”.

[33] Ví dụ: Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình giải thích thuật ngữ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo tại khoản 22 và thuật ngữ này được sử dụng trong đặt tiêu đề cho các điều từ Điều 94 đến Điều 99 của Luật này.

[34] Ví dụ: “Người thân thích” là một từ được giải thích tại Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình. Từ này được sử dụng trong một số điều luật và có thể được hiểu khác nhau. Do vậy, đòi hỏi phải có sự giải thích để đảm bảo hiểu thống nhất.

[35] Điều 1 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định phạm vi điều chỉnh của Luật này như sau:

“Luật này quy định nguyên tắc, thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật…”.

Luật này đã lấy một phạm vi điều chỉnh được quy định tại Điều 1 làm tên gọi của văn bản và phạm vi này (“ban hành”) cũng không phải là nội dung chủ yếu trong sự so sánh với “xây dựng”.

[36] Ví dụ: Điều 309BLHS có tiêu đề: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, phát tán, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ, vật liệu hạt nhân. Đây là tiêu đề được xác lập theo kiểu liệt kê.

[37] Ví dụ về trường hợp nội dung định nghĩa và nội dung điều chỉnh cùng được “trộn” trong một câu:

Điều 21. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Đúng ra, điêuf luật này cần được trình bày như sau:

Điều 21. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

1. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự của một người là tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác.

2. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng này, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

[38] Định nghĩa thực được hiểu là “định nghĩa ... bằng cách chỉ ra những dấu hiệu cơ bản nhất trong nội hàm của khái niệm được định nghĩa”, Đại học Quốc gia Hà Nội, trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Lôgíc học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H, 2020, tr. 79.

[39] Về vấn đề này, có thể tham khảo: Lê Duy Ninh, Khái niệm và định nghĩa khái niêm trong luật tại:

https://phapluatdansu.edu.vn/2008/02/28/09/03/134/, truy cập ngày 17/10/2022.

[40] Về “liên kết văn bản” cũng như “phương thức liên kết”, xem: Trần Ngọc Thêm, sđd. Về “liên kết văn bản” trong văn bản quy phạm pháo luật, tham khảo chuyên đề 2 của Đề tài.

[41] Xem: Phụ lục.

[42] Xem: Phụ lục.

[43] Bộ tiêu chuẩn kỹ thuật văn bản không cần đề cập vấn đề thể thứccủa văn bản  cũng như kỹ thuật trình bày văn bản về hình thức vì những vấn đề này tương đối rõ ràng, không quá phức tạp nên không cần thiết phải được chuyển hóa thành tiêu chí cụ thể.

[44] Các nội dung (thành phần) “ngang hàng” với nhau khi được phân loại từ nội dung (tổng thể) theo cùng tiêu chí.

[45] Văn bản có thể là bộ luật hoặc luật.

[46] Tiêu đề ghép: Tiêu đề được xây dựng dưới hình thức liệt kê các nội dung khác nhau.

[47] “Trọn câu”: Ít nhất phải là một câu đầy đủ;  “trọn ý”: Truyền tải tương đối trọn vẹn một nội dung.

[48] “Lô gic”: Phù hợp với tư duy chung để đảm bảo tính khoa học, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện. Trong đó, cần tuân thủ các quy tắc “trước sau”, “liền nhau”“cạnh nhau”.

[49] Thuật ngữ là từ hoặc cụm từ thể hiện một nội dung pháp lý chuyên ngành cụ thể. Ví dụ: Kết hôn là thuật ngữ của pháp luật hôn nhân và gia đình; còn từ không có tính chất như vậy mà chỉ được sử dụng khi xác lập các câu. Ví dụ: Người thân thích là một từ nhưng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa nên cần được giải thích để có sự thống nhất trong cách hiểu.

[50] “Chính xác”: Phản ánh đúng ý tưởng;

[51] “Rõ ràng”: Không làm phát sinh nhiều cách hiểu.

[52]“liên kết chủ đề”: Các câu đều hướng tới cùng nội dung; có “liên kết logic”: Các câu được sắp xếp lô gic; có “liên kết hình thức”: Các câu phải được gắn kết với nhau theo phương thức nhất định.

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm ...