Trang chủ > Đề
tài >
Cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế theo yêu cầu cải cách tư pháp và phòng chống tham nhũng ở Việt Nam
Tên đề tài
|
Cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế theo yêu cầu cải cách tư pháp và phòng chống tham nhũng ở Việt Nam
|
Nội dung tóm tắt
|
PHẦN MỞ ĐẦU
I. SỰ CẦN THIẾT, Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế đang là vấn đề “nóng” được dư luận xã hội quan tâm. Việc thu hồi tài sản có ý nghĩa then chốt, là một trong những tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thời gian qua Tỷ lệ thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế tăng lên rõ rệt: năm 2013, tỷ lệ này chỉ đạt dưới 10%, trong giai đoạn 2012-2022, bình quân đạt tỷ lệ 34,7%.
Tuy nhiên, thực tế việc thu hồi tiền và tài sản trong các vụ án này còn nhỏ so với tổng số thiệt hại do các đối tượng chiếm đoạt, thất thoát. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau (cả khách quan và chủ quan), trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu như:
Tội phạm tham nhũng, kinh tế ngày càng tinh vi, phức tạp, ở diện rộng; tài sản để thực hiện nghĩa vụ thi hành án có giá trị ngày càng lớn, nhiều chủng loại, tính đặc thù cao, tình trạng pháp lý phức tạp, gây khó khăn cho việc xử lý. Việc chuyển hóa, hợp pháp hóa, tẩu tán tiền, tài sản tham nhũng diễn ra phức tạp và tinh vi. Tham nhũng ở khu vực ngoài nhà nước có sự cấu kết rất chặt chẽ với khu vực Nhà nước và làm hư hỏng rất nhiều cán bộ, đảng viên mà đã làm tha hóa nhiều cán bộ ở Trung ương và địa phương, với số lượng cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật, xử lý hình sự lên đến hàng trăm người, trong đó có cả cán bộ cấp cao (vụ án tham nhũng, tiêu cực xảy ra tại Công ty Việt Á; vụ AIC, …).
Các quy định của pháp luật về thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế còn mang tính nguyên tắc, thiếu các quy định riêng về thẩm quyền, trách nhiệm, trình tự, thủ tục về thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế; chưa xác định rõ trách nhiệm phối hợp cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh vực có liên quan (như ngân hàng, tài chính, đất đai, xây dựng, giao thông...); cơ chế quản lý tài sản, thu nhập chủ yếu bằng tiền mặt, việc kê khai tài sản của cán bộ, công chức chưa được kiểm tra, xác minh, kiểm chứng dẫn tới khó kiểm soát được thu nhập, tài sản của tổ chức, cá nhân và khó xác định tài sản tham nhũng và tài sản được hình thành từ tham nhũng.
Việc thu hồi tài sản gặp nhiều khó khăn xác định thẩm quyền, trình tự thủ tục, hợp tác quốc tế trong việc thực hiện ủy thác hoặc lệnh của cơ quan có thẩm quyền về việc kê khai tài sản ở nước ngoài, xác minh, phong tỏa, thu giữ, tịch thu tài sản tham nhũng có nguồn gốc từ nước ngoài và cho phép thu hồi tài sản tham nhũng bắt nguồn từ Việt Nam hiện nằm tại nước khác.
Từ thực trạng nêu trên và yêu cầu“ phải xây dựng cho được một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể tham nhũng”; một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để “không dám tham nhũng”; và một cơ chế bảo đảm để "không cần tham nhũng[1]”, đồng thời, để nâng cao hiệu quả công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế đòi hỏi phải có sự rà soát, đánh giá toàn diện, đồng bộ về chính sách, pháp luật có liên quan nhằm đáp ứng yêu cầu của cải cách Tư pháp và phòng chống tham nhũng; đánh giá những bất cập hạn chế về trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; đề xuất hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này, cũng như tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác thu hồi tài sản trên thực tế. Vì vậy, việc thực hiện đề tài: Cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế theo yêu cầu cải cách Tư pháp và phòng chống tham nhũng ở Việt Nam sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm những nội dung nêu trên.
II. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Nhìn chung, đã có nhiều công trình trong và ngoài nước nghiên cứu về thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Những kết quả nghiên cứu đã có là cơ sở, nền tảng để tiếp tục nghiên cứu, phát triển trong Đề tài này. Cụ thể: về quy định pháp luật và thực trạng công tác phát hiện, thu hồi tiền và tài sản tham nhũng; kinh nghiệm quốc tế về thu hồi tài sản; những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thu hồi tài sản cho Nhà nước trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế và các giải pháp tổng thể nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản cho nhà nước trong các vụ án kinh tế, tham nhũng (giải pháp hoàn thiện về chính sách và pháp luật); ... cũng đã được đề cập trong một số bài viết. Tuy nhiên, chưa có công trình nào luận chứng một cách sâu sắc về cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế theo yêu cầu cải cách Tư pháp và PCTN ở Việt Nam, đáp ứng nhu cầu của thực tế trong bối cảnh mới.
Ngoài ra, Đề tài tiếp cận đi sâu nghiên cứu đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước trong công tác thu hồi tài sản trong các vụ án kinh tế, tham nhũng, nhất là dưới góc độ của cơ quan THADS; tiếp tục thể chế hóa các chủ trương đường lối của Đảng về công tác thu hồi tài sản do tham nhũng mà có.
Những kết quả nghiên cứu bước đầu về vấn đề này sẽ được Đề tài kế thừa và phát triển để nghiên cứu một cách hệ thống và đề xuất các giải pháp mới, đồng bộ và quyết liệt hơn để thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
III. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng; những hạn chế, bất cập về trình tự, thủ tục thu hồi tài sản hiện hành và những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn thu hồi tài sản cho Nhà nước trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế cũng như tham khảo kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới để đề xuất sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế theo yêu cầu của cải cách Tư pháp và PCTN.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
(i) Phân tích khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thu hồi tài sản và trình tự, thủ tục thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; các yêu cầu của cải cách Tư pháp và PCTN đối với công tác thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế.
(ii) Phân tích, đánh giá thực trạng cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản và kết quả thu hồi tài sản cho Nhà nước trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
(iii) Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế theo yêu cầu của cải cách Tư pháp và PCTN ở Việt Nam hiện nay.
IV. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế theo yêu cầu của cải cách Tư pháp và PCTN ở Việt Nam hiện nay, trong đó, tập trung vào một số đối tượng sau:
- Chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách Tư pháp và PCTN, tiêu cực; về công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
- Quy định pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế như quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật TTHS, Luật THADS và các văn bản pháp luật khác có liên quan…
- Thực tiễn giải quyết, tổ chức thi hành án các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế dưới góc độ đường lối, chính sách của Đảng, nhất là chủ trương, quan điểm của Đảng về cải cách Tư pháp và PCTN; lý luận chung về nhà nước và pháp luật; nghiên cứu trình tự, thủ tục thu hồi tài sản của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Nghiên cứu kinh nghiệm của của một số nước trên thế giới để từ đó đề xuất, kiến nghị hoàn thiện cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế theo yêu cầu cải cách Tư pháp và PCTN ở Việt Nam hiện nay.
- Về không gian: Các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế trong đề tài này được tiếp cận dưới góc độ thu hồi tài sản của cơ quan THADS, không chỉ là các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế trong các bản án đã có hiệu lực pháp luật mà còn được đặt trong mối quan hệ với công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan có thẩm quyền. Bởi vì, việc nâng cao trách nhiệm trong phát hiện, truy tìm, áp dụng các biện pháp kê biên, phong tỏa của các cơ quan này có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả công tác thu hồi tài sản trong giai đoạn THADS.
- Về thời gian: đề tài nghiên cứu được giới hạn từ năm 2013 đến nay (thời điểm Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được thành lập theo Quyết định số 162-QĐ/TW ngày 01 tháng 02 năm 2013 của Bộ Chính trị).
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Nội dung 1: Những vấn đề lý luận về thu hồi tài sản; trình tự, thủ tục thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; các yêu cầu cải cách Tư pháp và phòng chống tham nhũng hiện nay.
-
Thu hồi tài sản và trình tự, thủ tục thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế: khái niệm, đặc điểm, các yếu tố ảnh hưởng, …
-
Yêu cầu cải cách Tư pháp và phòng chống tham nhũng đối với công tác thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế: (1) Chủ trương, chính sách của Đảng; (2) Yêu cầu của cải cách Tư pháp và phòng chống tham nhũng;
-
Kinh nghiệm quốc tế về thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế và bài học cho Việt Nam.
Nội dung 2: Thực trạng cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế ở Việt Nam.
- Trình tự, thủ tục thu hồi tài sản trong giai đoạn kiểm tra, thanh tra, kiểm toán.
- Những hạn chế, bất cập của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của ngành tư pháp trước yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
- Đánh giá chung.
Nội dung 3: Hoàn thiện pháp luật trình tự, thủ tục thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế theo yêu cầu cải cách Tư pháp và phòng chống tham nhũng ở Việt Nam.
- Trình tự, thủ tục thu hồi tài sản trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử;
- Trình tự, thủ tục thu hồi trong giai đoạn thi hành án dân sự.
- Trình tự, thủ tục thu hồi tài sản thông qua hoạt động tương trợ tư pháp, hợp tác quốc tế.
VI. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Cách tiếp cận
- Cách tiếp cận liên ngành: Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; phối hợp giữa cấp ủy và chính quyền địa phương và các cơ quan có liên quan trong quá trình thi hành án; từ đặc thù văn hóa theo vùng miền...
- Bám sát quy định pháp luật về tố tụng: Trình tự, thủ tục thu hồi tài sản trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
- Bảo đảm quyền con người: Quy định pháp luật và thực thi pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế phải bảo đảm quyền con người.
- Cách tiếp cận lịch sử: Xem xét, đánh giá vấn đề nghiên cứu trong bối cảnh lịch sử, đặc biệt qua các lần sửa đổi, bổ sung pháp luật liên quan đến thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
- Cách tiếp cận thực tiễn:
+ Phân tích các quy định về công tác thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế
+ Đánh giá thực tiễn công tác thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế trên phạm vi toàn quốc
2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu của Đề tài, nhóm nghiên cứu đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu như sau:
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng để tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về thủ tục và cách thức thu hồi tài sản.
- Phương pháp phân tích: Để nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam về vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của Đề tài.
- Phương pháp tổng hợp: Trên cơ sở những nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tổng hợp các kết quả thu được, đưa ra những đề xuất, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế theo yêu cầu cải cách Tư pháp và PCTN.
- Phương pháp hội thảo khoa học: Nhằm tạo ra diễn đàn phân tích khoa học những vấn đề mới, nội dung lớn thuộc phạm vi nghiên cứu của Đề tài.
- Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các chuyên gia tại 02 Hội thảo của đề tài, gồm các nhà lập pháp, các nhà quản lý, nhà nghiên cứu đang công tác tại các cơ quan Trung ương liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài như: Bộ Công an, TADN tối cao, VKSND tối cao, Thanh tra Chính phủ, KTNN, Ban Nội chính Trung ương, các cơ quan, đơn vị thuộc chủ thể bị quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.
- Phương pháp khảo sát: Được khảo sát tại một số cơ quan THADS trên địa bàn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh nhằm thu thập những thông tin về thực trạng công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế để xây dựng các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
VII. KẾT CẤU BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐỀ TÀI
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận chung, Danh mục tài liệu tham khảo, Báo cáo tổng hợp kết quả đề tài được kết cấu gồm 03 chương như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về thu hồi tài sản; trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; các yêu cầu cải cách Tư pháp và phòng chống tham nhũng hiện nay.
- Chương 2: Thực trạng cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế ở Việt Nam.
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế theo yêu cầu cải cách Tư pháp và phòng chống tham nhũng ở Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC THU HỒI
TÀI SẢN BỊ THẤT THOÁT, CHIẾM ĐOẠT TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ THAM NHŨNG, KINH TẾ; CÁC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG HIỆN NAY
1.1. Trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm tài sản tham nhũng, kinh tế
Theo kết quả của các nghiên cứu gần đây cho thấy có thể xác định tài sản tham nhũng, kinh tế là tài sản do phạm tội tham nhũng, kinh tế mà có, bao gồm:
- Tài sản có được trực tiếp từ hành vi phạm tội tham nhũng, kinh tế như: tài sản có được do tham ô; nhận hối lộ; lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản; trong việc quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước; quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; trong lĩnh vực đấu thầu; quản lý đất đai…
- Tài sản có nguồn gốc từ hành vi phạm tội tham nhũng, kinh tế bao gồm: tài sản có được từ hành vi phạm tội tham nhũng, kinh tế, người phạm tội tham nhũng, kinh tế đã lấy tài sản đó để sử dụng vào các mục đích khác nhau. Nói cách khác, tài sản trong trường hợp này có được một cách gián tiếp do hành vi phạm tội tham nhũng, kinh tế. Chẳng hạn người tham nhũng lấy tiền có được từ hành vi tham nhũng để mua nhà, đất (mang tên mình hoặc mang tên người thân thiết như bố, mẹ, con và các anh, chị, em) hoặc đầu tư kinh doanh vào khách sạn, nhà hàng, du lịch, khu vui chơi, giải trí hoặc bán tài sản để gửi ngân hàng, tẩu tán ra nước ngoài…
1.1.1.2. Khái niệm thất thoát, chiếm đoạt tài sản tham nhũng, kinh tế
Kết quả nghiên cứu cho thấy “thất thoát, chiếm đoạt tài sản tham nhũng, kinh tế” là hành vi của người phạm tội làm mất tài sản, lấy tài sản của Nhà nước, của Nhân dân để nhằm mục đích tư lợi, biến tài sản công thành tài sản của cá nhân mình.
1.1.1.3. Khái niệm vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế
Thuật ngữ “các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế” không phải là một khái niệm mới, nhưng từ thực tiễn hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực các cấp trong thời gian qua, nội hàm này được hiểu mở rộng hơn so với các quy định của pháp luật thực định. Đây là khái niệm mang tính chính trị pháp lý nhiều hơn tính pháp lý hình sự thuần túy, bao gồm: các tội phạm trong luật thực định thuộc nhóm tội phạm về kinh tế (chủ yếu là các tội phạm được cụ thể hóa từ Tội Cố ý làm trái quy định về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng - Điều 165 Bộ Luật Hình sự năm 1999), các tội về tham nhũng, chức vụ và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác có liên quan đến người có chức vụ quyền hạn (chủ yếu là người có chức vụ quyền hạn lạm quyền bảo kê, tiếp tay, dung túng cho người phạm tội).
Từ các phân tích trên, vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế được đề cập trong Đề tài này cần được hiểu là vụ việc phạm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tội phạm về tham nhũng, chức vụ và tội phạm khác theo quy định của Bộ luật hình sự do người có chức vụ quyền hạn thực hiện hoặc bảo kê, tiếp tay cho người phạm tội để thực hiện tội phạm.
1.1.1.4. Khái niệm, đặc điểm thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế
Qua nghiên cứu theo nhóm tác giả, thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo một trình tự, thủ tục luật định nhằm thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt do người có hành vi phạm tội tham nhũng, kinh tế gây ra. Tài sản thu hồi có thể có nguồn gốc từ hành vi phạm tội hoặc tài sản thuộc sở hữu của người phạm tội mà cơ quan có thẩm quyền kê biên, xử lý để thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế có những nét đặc thù so với thu hồi tài sản khác ở những điểm sau đây:
Một là, hoạt động thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế được thực hiện bởi nhiều chủ thể có thẩm quyền.
Hai là, đối tượng, tài sản phải thu hồi trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế thường rất phức tạp.
Ba là, hoạt động thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế được điều chỉnh bởi nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau Như vậy, thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế là hoạt động có phạm vi rộng, có sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức, nòng cốt là cơ quan TTHS và cơ quan THADS. Pháp luật về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động thu hồi tài sản hoặc có tác động hỗ trợ hiệu quả công tác thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, hoạt động thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế được phân chia thành các hoạt động khác nhau.
1.1.2. Khái niệm và các yếu tố ảnh hưởng đến trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế
1.1.2.1. Khái niệm
Về bản chất, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế có thể hiểu theo nghĩa rộng đó là một quá trình trải qua nhiều giai đoạn từ thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, trong đó mỗi khâu là một “mắt xích” hoặc theo nghĩa hẹp đó là các bước thực hiện việc thu hồi trong từng giai đoạn cụ thể. Dù được hiểu theo nghĩa nào, việc thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế được thể hiện chủ yếu thông qua các biện pháp phát hiện và xử lý, thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế của các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán; các cơ quan tố tụng (điều tra, truy tố, xét xử) và cơ quan THADS. Do vậy, có thể hiểu: Trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế là các bước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm xác lập (quy định) trình tự về không gian, thời gian, cách thức giải quyết công việc trong quá trình thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế.
1.1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế
Một là, hệ thống quy phạm pháp luật.
Hai là, trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức của những chủ thể tham gia thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
Ba là, ý thức chấp hành pháp luật của đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan.
Bốn là, các điều kiện khác đảm bảo hiệu quả hoạt động thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
1.1.3. Ý nghĩa của công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế
1.1.3.1. Là thước đo hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
1.1.3.2. Góp phần khôi phục lại tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của Nhân dân và các tổ chức, cá nhân
1.1.3.3. Góp phần răn đe, phòng ngừa tội phạm về tham nhũng, kinh tế
1.1.3.4. Kịp thời phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để sửa đổi, bổ sung
1.1.3.5. Lấy lại niềm tin của người dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và bộ máy Nhà nước
1.2. Yêu cầu cải cách Tư pháp và phòng chống tham nhũng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế
1.2.1. Chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách Tư pháp và phòng chống tham nhũng
Trong những năm qua, cải cách Tư pháp và phòng chống tham nhũng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Hội nghị Trung ương 3 (khoá X) đã ban hành Nghị quyết số 04 - NQ/TW, ngày 21/8/2006 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng yêu cầu trong xử lý tội phạm tham nhũng phải “xử lý đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán bộ tham nhũng; tịch thu sung công tài sản tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng”.
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục chỉ đạo “kiên quyết thu hồi tiền, tài sản bị tham nhũng”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII cũng đã có những bước phát triển mới về PCTN, với nhiều biện pháp, như hoàn thiện pháp luật, chính sách, kê khai tài sản, kiên trì, kiên quyết và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, đặc biệt nhấn mạnh vấn đề phòng tham nhũng.
Kết luận số 21- KL/TW của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, Kết luận số 10-KL/TW của Bộ Chính trị yêu cầu phải “áp dụng kịp thời các biện pháp kê biên, phong tỏa, tạm giữ tài sản, thu hồi triệt để tài sản tham nhũng trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án”.
Tiếp đó, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 07/12/2015 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng.
Ngày 03/6/2021, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Kết luận số 05-KL/TW tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng.
Để nâng cao hiệu quả công tác thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, ngày 02/6/2021, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 04 - CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
Nhằm bảo đảm đồng bộ, liên thông, đổi mới gắn kết giữa cải cách Tư pháp và PCTN, ngày 09/11/2022, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam trong giai đoạn mới đã nêu nhiều giải pháp trọng tâm thực hiện.
Như vậy, chủ trương thường xuyên, nhất quán của Đảng đó là chú trọng công tác phòng ngừa tham nhũng; tập trung phát hiện, xử lý nghiêm người có hành vi tham nhũng; xử lý nghiêm minh những cán bộ cản trở hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng.
Thời gian qua nhiều chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách Tư pháp và PCTN được rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới và tổ chức thực hiện nghiêm túc, vừa để giáo dục, phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn, vừa là căn cứ để phát hiện, xử lý sai phạm. Tuy nhiên, so với yêu cầu, một số chủ trương của Đảng chưa được cụ thể hóa hoặc đã được cụ thể hóa nhưng chưa đầy đủ; hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế tuy đã được đầu tư hoàn thiện nhưng vẫn chưa theo kịp yêu cầu. Hiện vẫn chỉ tập trung nhiều vào công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm tham nhũng, kinh tế; chưa chú trọng đúng mức đến hiệu quả công tác thu hồi tài sản nên chưa đồng bộ, còn một số hạn chế, bất cập, dễ bị lợi dụng để tẩu tán tài sản[2].
1.2.2. Những yêu cầu của cải cách Tư pháp và phòng chống tham nhũng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế
1.2.2.1. Yêu cầu đối với việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật
- Xây dựng hệ thống pháp luật về PCTN, tiêu cực nói chung và thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế nói riêng đảm bảo dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
- Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế, bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, "lợi ích nhóm" trong công tác xây dựng pháp luật.
1.2.2.2. Yêu cầu đối với việc tổ chức thực hiện pháp luật
- Nâng cao trách nhiệm và hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
- Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo THADS các cấp trong công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm sát công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
- Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và THADS.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản tham nhũng.
1.2.2.3. Yêu cầu đối với kết quả thu hồi tài sản
- Tỷ lệ thu hồi tài sản được cao nhất.
- Thu hồi tài sản nhanh nhất.
- Thu hồi tài sản bảo toàn được tối đa giá trị tài sản nhất.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế và bài học cho Việt Nam
1.3.1. Kinh nghiệm quốc tế về thu hồi tài sản
Thu hồi tài sản là biện pháp được ghi nhận tại Chương V Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 (UNCAC). Đây là biện pháp hữu hiệu đã và đang được nhiều quốc gia sử dụng trong đấu tranh PCTN.
1.3.1.1. Thủ tục thu hồi tài sản
Hầu hết các thủ tục pháp lý thu hồi tài sản dựa trên các cuộc điều tra tài chính. Đó là quá trình truy tìm tài sản, các khoản thu nhập và chi tiêu của người phạm tội. Mặc dù mỗi trường hợp thu hồi tài sản là duy nhất và có hoàn cảnh cụ thể, tuy nhiên, quá trình này thường bao gồm 05 giai đoạn: Thu thập thông tin, bằng chứng và truy tìm tài sản; bảo quản tài sản; thủ tục Tòa án; thi hành các lệnh (trả lại tài sản). Trong đó, 03 giai đoạn đầu chính là quá trình điều tra, truy tố và xét xử đối với chủ thể có hành vi tham nhũng.
1.3.1.2. Cách thức thu hồi tài sản
Mỗi quốc gia có những cách thức thu hồi tài sản tham nhũng khác nhau, tuy nhiên nhìn chung hiện nay có 04 phương thức phổ biến, bao gồm: (1) Thu hồi tài sản thông qua hình thức kết án (truy tố hình sự); (2) Thu hồi tài sản không qua hình thức kết án (kết tội); (3) Thu hồi tài sản thông qua thủ tục hành chính và (4) Thu hồi tài sản thông qua thủ tục dân sự.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1.3.2.1. Nhận xét chung
Qua kinh nghiệm thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế của một số quốc gia trên thế giới nêu trên cho thấy:
- Hầu hết các quốc gia trên thế giới sử dụng phương thức thu hồi tài sản thông qua kết án (truy tố hình sự), theo đó để thu hồi tài sản tham nhũng thì Cơ quan thực thi pháp luật sẽ bám sát một vụ án hình sự và việc thu hồi sẽ được tiến hành sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, thu hồi tài sản tham nhũng thông qua kết án là có thể tồn tại những rào cản đáng kể cản trở việc kết án hình sự và tịch thu tài sản.
- Trong 04 phương thức phổ biến nêu trên, mỗi phương thức có ưu điểm riêng. Mỗi quốc gia tuỳ vào hoàn cảnh, pháp luật của mỗi nước để áp dụng. Trong đó, phương thức thu hồi tài sản thông qua thủ tục dân sự đang dần chiếm ưu thế bởi những ưu điểm vượt trội hơn so với các phương pháp khác.
- Một số quốc gia đã có văn bản pháp luật quy định riêng, hướng dẫn về trình tự, thủ tục trong việc phát hiện, xử lý và thu hồi tài sản tham nhũng, như: Trình tự, thủ tục điều tra dựa trên việc truy vết, lần theo chuyển động của tài sản bất hợp pháp như các trường hợp tài sản, thu nhập nhưng không chứng minh được nguồn gốc; xác minh tài sản bị nghi ngờ là bất hợp pháp, truy tìm tài sản; sử dụng các biện pháp tạm thời như phong toả, thu giữ tài sản; thực hiện các biện pháp tịch thu tài sản như Hoa Kỳ, Singapore, Thuỵ Sỹ…
1.3.2.2. Bài học kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam
Từ những kinh nghiệm của một số nước trên thế giới có thể rút ra một số bài học áp dụng, nghiên cứu ở Việt Nam như sau:
- Một là, hiện nay, công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế ở nước ta chỉ đặt ra khi có bản án kết tội có hiệu lực của Tòa án. Do đó, việc nghiên cứu, rà soát, bổ sung hoàn thiện phương án thu hồi tài sản dựa trên truy tố hình sự, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong tổ chức thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật hiện hành để thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế là cần thiết và hợp lý, nhất là tăng cường trách nhiệm, phối hợp trong việc xác minh, truy tìm, truy thu, kê biên, phong tỏa tài sản tham nhũng hoặc tài sản do trao đổi, mua bán tài sản tham nhũng mà có.
- Hai là, cần sử dụng tổng hợp và linh hoạt các biện pháp khác nhau (Thu hồi tài sản thông qua hình thức kết án; thu hồi tài sản không qua hình thức kết tội; thu hồi tài sản thông qua thủ tục hành chính; thu hồi tài sản thông qua thủ tục dân sự) để thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế; căn cứ ưu điểm và nhược điểm của từng biện pháp, nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu hồi tài sản tham nhũng, từ đó nâng cao chất lượng công tác đấu tranh PCTN, tiêu cực.
- Ba là, về các biện pháp thu hồi tài sản thông qua thủ tục dân sự, thủ tục hành chính hoặc không qua thủ tục kết án, cần nhiều thời gian để nghiên cứu và hoàn thiện tổng thể các quy định về: trách nhiệm chứng minh vi phạm; hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản và thực hiện nghiêm trách nhiệm kê khai tài sản của cán bộ, công chức; thực hiện triệt để cơ chế không sử dụng tiền mặt đối với các giao dịch có giá trị lớn... nên cần giao cho các cơ quan chủ trì, nghiên cứu đề xuất áp dụng khi có đủ điều kiện.
Chương 2
THỰC TRẠNG CƠ SỞ PHÁP LÝ, TRÌNH TỰ, THỦ TỤC
THU HỒI TÀI SẢN BỊ THẤT THOÁT, CHIẾM ĐOẠT TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ THAM NHŨNG, KINH TẾ Ở VIỆT NAM
2.1. Quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục và kết quả thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế thông qua hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm toán
2.1.1. Quy định của pháp luật
* Công tác kiểm tra của cơ quan, tổ chức, đơn vị:
Luật PCTN xác định rõ hai hình thức là kiểm tra và tự kiểm tra. Hình thức tự kiểm tra bao gồm kiểm tra thường xuyên và đột xuất. Thông qua đó, Luật nhấn mạnh trách nhiệm của các cơ quan quản lý trong hoạt động này, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị. Theo đó, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm thường xuyên tổ chức kiểm tra việc chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình nhằm kịp thời phát hiện hành vi tham nhũng. Khi phát hiện có hành vi tham nhũng, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước phải kịp thời xử lý theo thẩm quyền hoặc thông báo cho cơ quan thanh tra, điều tra, viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền.
Khi thực hiện công tác tự kiểm tra, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm chủ động tổ chức kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên, trực tiếp giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân và cán bộ, công chức, viên chức khác do mình quản lý nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi tham nhũng. Người đứng đầu có trách nhiệm thương xuyên đôn đốc người đứng đầu các đơn vị trực thuộc kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do mình quản lý. Khi phát hiện hành vi tham nhũng, người đứng đầu phải kịp thời xử lý theo thẩm quyền hoặc thông báo cho cơ quan thanh tra, điều tra, viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền.
* Công tác thanh tra, kiểm toán:
Đây là những cơ quan có vai trò chủ yếu trong việc phát hiện hành vi tham nhũng. Hoạt động của các cơ quan này cũng được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật như: Luật Thanh tra, Luật KTNN. Theo quy định tại Điều 60 Luật PCTN thì cơ quan thanh tra, KTNN thông qua hoạt động thanh tra, kiểm toán có trách nhiệm chủ động phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ, Thanh tra tỉnh, KTNN ra quyết định thanh tra, kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng khi có căn cứ theo quy định của Luật Thanh tra, Luật KTNN.
2.1.2. Kết quả đạt được và nguyên nhân của kết quả đạt được
2.1.2.1. Những kết quả đạt được
Thời gia qua, các ngành Thanh tra, Kiểm toán có nhiều cố gắng, công tâm, khách quan, làm rõ các sai phạm; đã xử lý và kiến nghị xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có liên quan, thu hồi nhiều tài sản cho Nhà nước. Nhất là đã tập trung vào các lĩnh vực có nhiều dư luận về tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm và công khai các sai phạm liên quan đến nhiều dự án gây thất thoát, thua lỗ lớn, dư luận xã hội quan tâm. Từ năm 2012 đến nay, qua công tác thanh tra, kiểm toán, đã xử lý, thu hồi được hơn 975 nghìn tỉ đồng, gần 76 nghìn ha đất; xử lý trách nhiệm gần 44.700 tập thể, cá nhân; chuyển cho cơ quan điều tra, xử lý gần 1.200 vụ việc có dấu hiệu phạm tội; kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, thay thế hơn 2.000 văn bản, trong đó có nhiều văn bản quy phạm pháp luật không còn phù hợp[3].
2.1.2.2. Nguyên nhân của kết quả đạt được
- Công tác kiểm tra, thanh tra, KTNN luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Thể chế pháp luật trong lĩnh vực này không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan có liên quan thực hiện việc phát hiện, xử lý hành vi có dấu hiệu tham nhũng, kinh tế ngay từ giai đoạn đầu.
- Các cơ quan chức năng cũng đã chủ động phát hiện và kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời các cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực trong các cơ quan chống tham nhũng, tiêu cực ngay trong việc kiểm tra nội bộ, thanh tra, kiểm toán.
- Các biện pháp phòng ngừa tham nhũng được đẩy mạnh thực hiện, thường xuyên được rà soát, đánh giá, điều chỉnh phù hợp hơn đã ngày càng phát huy hiệu quả. Việc tự phát hiện tham nhũng thông qua công tác kiểm tra và nhất là qua hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo tăng nhiều so với trước. Nhiều vụ án tham nhũng , kinh tế nghiêm trọng, phức tạp được phát hiện, điều tra, xử lý với những bản án nghiêm minh đã có tác dụng răn đe, ngăn chặn hành vi tham nhũng.
2.1.3. Những hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân
2.1.3.1. Những hạn chế và khó khăn, vướng mắc
Một là, về công tác kiểm tra:
(i) Công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế còn chưa chủ động, đồng đều ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực và chưa đáp ứng yêu cầu; việc thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế còn gặp nhiều khó khăn và tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng thấp. Công tác tự kiểm tra, phát hiện tham nhũng trong nội bộ cơ quan còn hạn chế, yếu kém, rất ít vụ việc, vụ án được phát hiện qua công tác tự kiểm tra trong nội bộ. Sự phối hợp giữa các lực lượng ở một số nơi, nhất là các cơ quan có chức năng đấu tranh phòng, chống tham nhũng chưa chặt chẽ;
(ii) Một số cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra chưa thực sự quyết liệt, giữ vững bản lĩnh, tính chiến đấu khi thực hiện kiểm tra, giám sát nhất là trong đấu tranh với các hành vi tham nhũng của cán bộ có chức vụ, quyền hạn. Một số ủy ban kiểm tra chưa mạnh dạn công khai kết quả các kỳ họp ủy ban kiểm tra.
Hai là, về công tác thanh tra:
- Có vướng mắc về mặt thể chế pháp luật:
Luật Thanh tra sửa đổi, bổ sung năm 2022 quy định trong quá trình thực hiện hoạt động thanh tra, người có thẩm quyền ra quyết định thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành được quyền ra quyết định thu hồi thu hồi tiền, tài sản bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép hoặc bị thất thoát do hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra gây ra bằng một quyết định hành chính. Mặc dù thẩm quyền này đã được luật quy định nhưng việc luật cho phép một cơ quan hành chính được quyền ra quyết định thu hồi tiền, tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân có sai phạm (theo Kết luận thanh tra), mà không thông qua trình tự thủ tục tư pháp phần nào ảnh hưởng đến quyền được bảo vệ, xét xử bởi một phiên tòa công bằng, minh bạch theo quy định của pháp luật quốc tế.
- Về việc tổ chức thực hiện:
+ Việc phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án kinh tế tham nhũng qua công tác thanh tra rất khó khăn do tính chất của tham nhũng khó phát hiện.
+ Việc phối hợp, theo dõi kết quả xử lý các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng chuyển đến các cơ quan, tổ chức khác chưa kịp thời, thường xuyên theo quy định tại Thông tư số 03/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP-TTCP.
+ Kết luận thanh tra có nhiều nội dung kết luận, kiến nghị xử lý về trách nhiệm, về kinh tế còn phải xin ý kiến của các cơ quan, Bộ, ngành nên thời gian thực hiện thường kéo dài. Bên cạnh đó, một số trường hợp trong quá trình thanh tra để thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi tham ô tài sản mất nhiều thời gian nên đối tượng vẫn kịp thời tẩu tán tài sản và tìm cách xóa dấu vết vi phạm.
+ Việc theo dõi, đôn đốc, xử lý sau thanh tra hiện nay còn có những khó khăn, chưa chủ động. Tỷ lệ thu hồi tiền, tài sản còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc hướng dẫn, kiểm tra các bộ, ngành địa phương trong việc thực hiện kết luận thanh tra còn hạn chế[4].
Ba là, về công tác KTNN:
- Luật Kiểm toán sửa đổi năm 2019 đã bổ sung các quy định KTNN được truy cập cơ sở dữ liệu của các đơn vị được kiểm toán, được xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính nhưng không có quyền phong tỏa tài khoản, kê biên tài sản, nên tiềm ẩn nhiều việc tẩu tán tài sản của người vi phạm và người thân của họ trước khi cơ quan có thẩm quyền khởi tố điều tra.
- Việc xác minh, điều tra tận gốc nội dung phát hiện và tính hiệu lực của kiến nghị kiểm toán còn hạn chế, tỷ lệ thực hiện kiến nghị kiểm toán mặc dù chuyển biến tích cực song còn tới gần 30% kiến nghị xử lý tài chính chưa được thực hiện kịp thời.
- Vẫn còn việc trùng lắp, chồng chéo trong công tác kiểm toán và thanh tra gây khó khăn cho các đơn vị, địa phương được thanh tra, kiểm toán.
2.1.3.2. Nguyên nhân của hạn chế, khó khăn, vướng mắc
- Nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng và của một bộ phận cán bộ, đảng viên về công tác phòng, chống tham nhũng còn hạn chế, chưa thực sự sâu sắc, quyết tâm chính trị, trách nhiệm trong lãnh đạo tổ chức thực hiện công tác này chưa cao.
- Trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán việc đôn đốc kiểm tra và xử lý sau thanh tra, kiểm tra, kiểm toán gặp không ít khó khăn, tỷ lệ thu hồi tổng hợp chung có chuyển biến tiến bộ hơn trước nhưng tỷ lệ này ở nhiều nơi còn thấp, kiến nghị về xử lý cán bộ còn thực hiện mang tính hình thức, kiến nghị về sửa đổi cơ chế, chính sách thực hiện còn chậm.
- Hiện nay pháp luật TTHS chưa quy định về giá trị chứng minh của các tài liệu trong hồ sơ Thanh tra. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng phát hiện tham nhũng còn hạn chế trong bước Thanh tra.
- Hoạt dộng kiểm toán chủ yếu căn cứ trên hồ sơ do đơn vị cung cấp để kiểm tra, phân tích, đánh giá, xác nhận và kết luận, kiến nghị. Đồng thời việc kiểm toán được thực hiện trên mẫu chọn, không thực hiện xác minh, điều tra, đối chiếu và giám định chất lượng nên việc phát hiện dấu hiệu tham nhũng vẫn còn hạn chế.
2.2. Quy định về trình tự, thủ tục và kết quả thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế giai đoạn giải quyết tin báo tố giác tội phạm, điều tra, truy tố và xét xử
2.2.1. Quy định của pháp luật
Việc thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế trong giai đoạn từ giải quyết tin báo tố giác tội phạm đến điều tra, truy tố và xét xử được quy định trong luật hình sự và Bộ luật TTHS.
Trình tự, thủ tục điều tra, truy tố và xét xử một vụ án hình sự nói chung và vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế nói riêng được quy định tại Bộ luật TTHS 2015, gồm 07 bước:
- Bước 1: Khởi tố vụ án hình sự;
- Bước 2: Điều tra vụ án hình sự;
- Bước 3: Truy tố vụ án hình sự
- Bước 4: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
- Bước 5: Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
- Bước 6: Thi hành bản án và quyết định của Tòa án
- Bước 7: Xét lại các bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm (nếu có).
Như vậy, thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đều là những quy định thẩm quyền chung. Pháp luật về TTHS không có sự phân biệt về thẩm quyền, trình tự thủ tục giữa nhóm tội này với nhóm tội khác. Nên khi điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế là loại tội phạm có chủ thể đặc biệt, việc áp dụng các biện pháp phong tỏa, kê biên tài sản thường không kịp thời nên dẫn đến đương sự đã kịp thời lợi dụng để tẩu tán tài sản.
2.2.2. Kết quả đạt được và nguyên nhân của kết quả đạt được
2.2.2.1. Kết quả đạt được
Trong thời gian qua, việc thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế của các cơ quan tố tụng đạt được nhiều kết quả tích cực:
- Qua hoạt động của cơ quan điều tra: Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân từ năm 2013 đến năm 2018 đã thu hồi 75.840,634 tỷ đồng/130.442.775 tỷ đồng thiệt hại do tội phạm gây ra (đạt tỷ lệ 58,14%). Năm 2019 đã thu hồi 11.209,637 tỷ đồng/17.839,952 tỷ đồng bị thiệt hại (đạt tỷ lệ 62,83%)[5]. Năm 2020, khởi tố 276 vụ với 522 bị cáo, kết luận điều tra 243 vụ với 668 bị cáo đã gây thiệt hại 2.491 tỷ đồng, đã thu hồi được 1.674 tỷ. Năm 2021, khởi tố 328 vụ với 710 bị cáo, kết luận điều tra 332 vụ với 535 bị cáo đã gây thiệt hại 2.017 tỷ đồng, đã thu hồi được 1.605 tỷ. Năm 2022, khởi tố 451 vụ với 973 bị cáo, đã gây thiệt hại 2.882 tỷ đồng, đã thu hồi được 2.666 tỷ. Trong 6 tháng đầu năm 2023, khởi tố 413 vụ với 1.234 bị cáo, đã gây thiệt hại 1.077 tỷ đồng, đã thu hồi được 850 tỷ[6].
- Qua hoạt động kiểm sát: Từ năm 2013 đến năm 2019 số vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế và số tiền, tài sản phải thu hồi là: 8.531vụ/ 90.384 tỷ đồng. Đã áp dụng các biện pháp tịch thu, thu giữ, tạm giữ, kê biên, phong tỏa tài khoản theo quy định của Bộ luật TTHS thu hồi được 51.334 tỷ đồng (đạt tỷ lệ 56,79%). Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã kiểm sát 100% các vụ án được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp thu hồi tài sản theo quy định của pháp luật, kịp thời kiến nghị cơ quan điều tra thực hiện, áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản là vật chứng của các vụ án; yêu cầu kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, tạm giữ tiền, tài sản để bảo đảm thi hành án[7].
- Qua hoạt động xét xử: Trong giai đoạn 2013-2019 TAND các cấp đã xét xử sơ thẩm đối với 7.399/14.044 bị cáo; TAND cấp tỉnh và TAND cấp cao (trước đây là Tòa phúc thẩm TAND tối cao) đã xét xử phúc thẩm đối với 2.164 vụ/3.968 bị cáo. TAND các cấp đã chuyển đến cơ quan thi hành án dân sự các cấp 4.294 bản án, quyết định với tổng giá trị tiền, tài sản phải thu hồi 58.896 tỷ đồng. Riêng năm 2019, khi xét xử các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế các Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định, xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 13 tỷ 152 triệu đồng, tài sản bị thiệt hại là 7 tỷ 317 triệu đồng ngoài các tài sản đã được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân kê biên, xử lý tại giai đoạn điều tra, truy tố[8].
Năm 2020: Các Tòa án đã thụ lý sơ thẩm 2.764 vụ với 5.872 bị cáo phạm các tội kinh tế, tham nhũng; đã đưa ra xét xử sơ thẩm 2.319 vụ với 4.403 bị cáo (chiếm 3,08% số vụ và 3,6% số bị cáo trong tổng số vụ án hình sự đã thụ lý)[9].
Năm 2021: Các Tòa án đã thụ lý sơ thẩm 2.880 vụ với 6.124 bị cáo phạm các tội kinh tế, tham nhũng; đã đưa ra xét xử sơ thẩm 2.263 vụ với 4.125 bị cáo (chiếm 3,06% số vụ và 3,03% số bị cáo trong tổng số vụ án hình sự đã thụ lý)[10].
Năm 2022: các Tòa án đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm đối với 3.147 vụ với 7.409 bị cáo; đã xét xử 2.626 vụ với 5.586 bị cáo (so với năm 2021, thụ lý tăng 213 vụ với 1.005 bị cáo, xét xử tăng 335 vụ với 1.339 bị cáo).
Năm 2023: Các Tòa án đã thụ lý, xét xử các vụ án kinh tế, tham nhũng, chức vụ theo thủ tục sơ thẩm đối với 3.201 vụ với 7.140 bị cáo; đã xét xử 2.378 vụ với 4.731 bị cáo[11] (so với năm 2022, thụ lý tăng 386 vụ với 504 bị cáo, xét xử tăng 323 vụ với 451 bị cáo).
2.2.2.2. Nguyên nhân của kết quả đạt được
Đạt được những kết quả thu hồi tài sản nêu trên là do:
- Hệ thống pháp luật từ giai đoạn giải quyết tin báo tố giác tội phạm, điều tra, khởi tố, truy tố và xét xử không ngừng được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng, kinh tế.
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, toàn diện, bài bản, sự phối hợp hiệu quả của các cơ quan tư pháp, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh, góp phần điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh đối tượng phạm tội.
- Nhận thức tầm quan trọng, ý nghĩa của công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế ngày càng được nâng cao.
- Các cơ quan tố tụng đã tập trung điều tra, xác minh, truy tìm để kịp thời áp dụng các biện pháp kê biên tài sản, phong toả tài khoản của người phạm tội; động viên, khuyến khích người phạm tội tự nguyện khắc phục hậu quả để hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
2.2.3. Hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân
2.2.3.1. Hạn chế, khó khăn, vướng mắc
Một là, về mặt thể chế:
* Quy định của pháp luật hình sự:
Bộ luật hình sự năm 2015 chưa cho phép áp dụng quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt không buộc trong giới hạn trong khung liền kề nhẹ hơn khi người bị kết án phạm tội tham nhũng, kinh tế đã ăn năn hối cải và đã chủ động khắc phục toàn bộ thiệt hại, nên phần nào chưa khuyến khích được người phạm tội giao nộp tài sản.
Thời hạn điều tra đối với các tội phạm tham nhũng cũng không khác thời hạn đối với điều tra các tội phạm khác; điều này cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát hiện và thu hồi tài sản tham nhũng.
Một số quy định của Bộ luật hình sự về tình tiết định tội, tình tiết định khung hình phạt của một số tội còn mang tính định tính, dẫn đến nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau theo chủ quan của người tiến hành tố tụng.
Chưa có quy định thời điểm xác định hậu quả thiệt hại đối với các tội phạm tham nhũng, các tội phạm kinh tế có liên quan đến người có chức vụ cố ý làm trái gây thiệt hại, thất thoát tài sản nhất gây thiệt hại, thất thoát nhà đất công sản…
* Quy định pháp luật về TTHS:
Quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản của các bị can, bị cáo tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử còn mang tính tùy nghi, không bắt buộc áp dụng;
Ở giai đoạn thụ lý tin tố giác tội phạm thì các cơ quan điều tra không có quyền kê biên tài sản và phong tỏa tài khoản. Trong khi đó, hành vi tham nhũng có thể được phát hiện từ hoạt động kiểm tra và tự kiểm tra của các cơ quan; giám sát, thanh tra, kiểm toán và phản ánh, tố cáo của cá nhân, tổ chức. Do đó, tiềm ẩn nguy cơ cao việc tẩu tán tài sản của bản thân người phạm tội và những người thân thích của họ;
Quy định pháp luật về TTHS mới chỉ chú ý đến việc phát hiện, xử lý các hành vi phạm tội; chưa chú trọng nhiều tới việc làm rõ để thu hồi tài sản tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng; chưa quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện, xác minh làm rõ, thu hồi tài sản tham nhũng.
Pháp luật TTHS chưa có quy định riêng về trình tự, thủ tục giải quyết, cũng như thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế từ giai đoạn phát hiện tin báo tố giác tội phạm, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Hiện nay, trình tự, thủ tục này được áp dụng chung không có sự phân biệt giữa các nhóm tội phạm.
Hai là, về việc bảo quản, quản lý tài sản phạm tội:
Hiện nay, chưa có cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ quản lý tài sản phạm tội khi thu giữ được, trong khi tài sản kê biên là bất động sản thường được giao cho chủ tài sản hoặc người thân thích bảo quản. Cơ quan thi hành án gặp nhiều khó khăn khi thực hiện tác nghiệp xác minh, kê biên để thi hành án (do có sự không hợp tác của người trông coi tài sản).
Mặt khác, trường hợp tài sản kê biên là những loại có sự lên xuống theo thị trường hoặc có sự thay đổi theo chiều hướng giảm giá trị theo thời gian (ví dụ như các loại chứng khoán; dây chuyền sản xuất, dự án đầu tư…) là vấn đề lớn hiện nay khi giá trị thu hồi rất lớn, nhưng khi cơ quan thi hành án dân sự xử lý thì các tài sản này bị giảm giá trị. Pháp luật hiện hành quy định muốn xử lý được các tài sản này vẫn phải có bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án. Điều này đặt ra cho các cơ quan chức năng cần nghiên cứu, xây dựng cơ chế xử lý các tài sản nêu trên để bảo toàn giá trị.
Ba là, việc giải quyết vụ án còn kéo dài do quan điểm của các cơ quan tố tụng không thống nhất trong việc xác định tội danh, hoặc phải chờ kết quả giám định tư pháp, hoặc do việc thu thập chứng cứ còn gặp nhiều khó khăn.
Việc giải quyết các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế kéo dài là do sự tác động của nhiều yếu tố; trong đó, một số yếu tố có tính phổ biến là:
- Sự thiếu thống nhất trong việc xác định tội danh giữa các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến phải kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
- Cho đến thời điểm hiện nay, đối với không ít vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế việc giám định tư pháp còn gặp những khó khăn nhất định như thời gian chờ kết quả giám định kéo dài, có những nội dung giám định phải được thực hiện bởi nhiều cơ quan chuyên môn, kết luận giám định về cùng nội dung giữa các cơ quan giám định không có sự thống nhất dẫn đến việc phải giám định lại, hoặc giám định bổ sung.
- Thực tiễn hoạt động giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố, khởi tố, điều tra các vụ án tham nhũng, kinh tế cho thấy, việc thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ các hành vi chiếm đoạt tài sản của người có chức vụ, quyền hạn thường gặp nhiều khó khăn do đã bị tiêu hủy, che giấu, hoặc hợp thức hóa bằng các thủ tục thanh, quyết toán.
- Việc định tội danh trong một số vụ án không chính xác trong một số vụ việc dẫn đến hiệu quả công tác thu hồi tài sản không cao.
Bốn là, trong một số trường hợp, việc xác định mức độ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo còn chưa tương xứng với tính chất của hành vi, mức độ hậu quả gây ra, chưa đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.
2.2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế, khó khăn, vướng mắc
- Theo quy định của Bộ luật hình sự thì tài sản bị tịch thu, thu hồi từ tội phạm phải là tài sản hoặc tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm. Nghĩa là khi số tiền, tài sản đó đã được thay đổi, tách xa ra khỏi tội phạm ban đầu thì việc xử lý, thu hồi sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
- Trong nhiều trường hợp, khi cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp kê biên, phong tỏa tài sản thì đương sự đã kịp thời tẩu tán tài sản. Nhiều trường hợp hành vi tham nhũng xảy ra thời gian khá lâu mới bị phát hiện nên đối tượng đã cất giấu, tẩu tán, hợp pháp hóa tài sản, thậm chí đã sử dụng phần lớn tài sản chiếm đoạt được, nhờ người khác đứng tên, chuyển tiền, tẩu tán ra nước ngoài, tiêu xài hoang phí nên khi bị phát hiện không còn khả năng khắc phục hậu quả, không còn tài sản đề thu hồi hoặc còn nhưng tài sản rất ít[12].
- Khi thi hành án, rất nhiều trường hợp kết quả xác minh trên thực tế của Chấp hành viên không đúng như Lệnh kê biên ban đầu nên không thể thi hành, gây tốn kém về thời gian, làm chậm rất nhiều tiến độ thi hành án.
- Các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế là những vụ án lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau dẫn đến khó khăn cho các cơ quan tố tụng trong việc phát hiện và xử lý tài sản tham nhũng, kinh tế.
2.3. Quy định về trình tự, thủ tục và kết quả thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế giai đoạn thi hành án dân sự
2.3.1. Quy định của pháp luật
Theo quy định của Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành thì việc thu hồi tài sản thông qua công tác thi hành án dân sự có vai trò quan trọng. Thực tế cho thấy trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế quá trình điều tra, truy tố, xét xử để đi đến bản án, quyết định có hiệu lực thi hành có vai trò quan trọng, tuy nhiên, kết quả xét xử có được thực thi hay không thì phụ thuộc nhiều vào công tác thi hành án dân sự.
Hiện nay, Luật THADS quy định các biện pháp thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng bao gồm: các biện pháp bảo đảm và các biện pháp cưỡng chế thi hành án.
- Các biện pháp bảo đảm thi hành án, bao gồm: Phong tỏa tài khoản, tài sản; tạm giữ tài sản, giấy tờ và tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản.
- Các biện pháp cưỡng chế thi hành án bao gồm: Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; khai thác tài sản của người phải thi hành án; buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ và buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định.
Với các biện pháp nêu trên cho thấy mục đích của việc áp dụng các biện pháp thu hồi tài sản cho nhà nước trong các vụ án tham nhũng là nhằm đảm bảo ngăn chặn việc tẩu tán tài sản và xử lý tài sản của người phải thi hành án. Bởi vậy, có thể nói rằng để đảm bảo hiệu quả thu hồi tài sản cho nhà nước trong các vụ án tham nhũng thì các cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng đồng bộ các biện pháp hình sự cũng như tổ chức thi hành bản án, quyết định có hiệu lực thi hành thông qua công tác THADS.
- Ngoài ra, để đảm bảo thu hồi tối đa tài sản, thu hồi ở đồng thời ở nhiều địa phương khác nhau, Bộ Tư pháp tham mưu cho Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số Luật trong đó có Luật thi hành án dân sự[13] theo đó, sửa đổi, bổ sung Điều 55, 56, 57 quy định về uỷ thác xử lý tài sản, góp phần khắc phục những bất cập trong cơ chế uỷ thác hiện hành, đẩy nhanh tiến độ xử lý tài sản đồng thời ở nhiều địa phương để thu hồi tối đa tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế cho Nhà nước. Có thể nói đây là một bước đột phá quan trọng về thể chế bảo đảm thu hồi nhanh, thu hồi tối đa tài sản của Nhà nước bị thất thoát, chiếm đoạt. Kết quả thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế đã có những chuyển biến tích cực được Ban Chỉ đạo Trung ương mà đứng đầu là Tổng Bí thư ghi nhận.
2.3.2. Kết quả đạt được và nguyên nhân của kết quả đạt được
2.3.2.1. Kết quả đạt được
Trong giai đoạn từ 01/7/2012 đến 31/3/2022, tổng số việc giải quyết là 16.322 việc (sau khi trừ số ủy thác thi hành án, thu hồi, hủy quyết định thi hành án, tổng số việc phải thi hành 15.947 việc), tương ứng với số tiền trên 175.608 tỷ đồng (sau khi trừ số ủy thác thi hành án, thu hồi, hủy quyết định thi hành án, tổng số tiền phải thi hành 130.536 tỷ); số việc đã thi hành xong là 13.531 việc, tương ứng với số tiền trên 60.940 tỷ đồng.
Như vậy, trong giai đoạn 2013 - 2019: các cơ quan THADS tổ chức thu hồi được trên 32.379 tỷ đồng (riêng năm 2019 thu hồi được số tiền hơn 16.651 tỷ đồng, bằng 51% tổng số tiền đã thi hành xong giai đoạn 2013 – 2019); Năm 2020 dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Bộ Tư pháp các cơ quan THADS thu được số tiền trên 15.417 tỷ đồng; Năm 2021, mặc dù do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nhưng các cơ quan THADS vẫn thu hồi được trên 4.094 tỷ đồng; năm 2022 thu hồi được số tiền 15.989 tỷ 592 triệu 215 nghìn đồng [14].
2.3.2.2. Nguyên nhân của kết quả đạt được
Việc thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế đạt được những kết quả nêu trên là do:
- Thực hiện Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, Kết luận số 05-KL/TW ngày 03/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW của Bộ Chính trị trong công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng, với sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực và Ban Nội chính Trung ương, nhận thức và hành động của các cấp uỷ, chính quyền, các cơ quan, tổ chức, và người dân về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế đã có những chuyển biến rõ rệt. Lãnh đạo các bộ, ngành, tỉnh/thành ủy đã tích cực chỉ đạo, phối hợp trong việc hoàn thiện thể chế, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
- Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số Luật trong đó có Luật THADS theo đó, sửa đổi, bổ sung Điều 55, 56, 57 quy định về uỷ thác xử lý tài sản, góp phần khắc phục những bất cập trong cơ chế uỷ thác hiện hành, đẩy nhanh tiến độ xử lý tài sản đồng thời ở nhiều địa phương để thu hồi tối đa tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế cho Nhà nước, theo đó, Bộ Tư pháp kịp thời quán triệt, chỉ đạo các cơ quan THADS khẩn trương áp dụng quy định mới của Luật THADS về ủy thác xử lý tài sản thi hành án.
- Bộ Tư pháp thường xuyên đôn đốc, chỉ đạo, kiểm tra sát sao đối với từng vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực theo dõi; chủ động, tích cực, đeo bám phối hợp liên ngành ở cả Trung ương và địa phương để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình xử lý tài sản, bảo đảm sớm thu hồi tài sản của nhà nước bị thất thoát, chiếm đoạt.
2.3.3. Hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân
2.3.3.1. Hạn chế, khó khăn, vướng mắc
Một là, về thể chế pháp luật:
* Đối với pháp luật về THADS:
- Tuy đã được quan tâm, sửa đổi bổ sung trong Luật THADS năm 2014 nhưng pháp luật thi hành án dân sự chưa quy định trình tự, thủ tục riêng đối với việc thi hành án trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế nhất là việc thi hành các biện pháp tư pháp liên quan đến tiền, tài sản, do đó, quy trình, thủ tục thi hành đối với các vụ việc loại này được áp dụng như đối với các vụ việc dân sự thông thường, phần nào đã dẫn đến hạn chế hiệu quả thi hành đối với các vụ việc loại này.
- Thẩm quyền của cơ quan THADS và Chấp hành viên đối với các biện pháp xác minh, xử lý tài sản trong quá trình thi hành án còn khá hạn chế và phụ thuộc chủ yếu vào kết quả của quá trình tố tụng trước đó.
- Việc thi hành án đối với một số loại tài sản đặc thù trong các vụ án tham nhũng, kinh tế như cổ phần, cổ phiếu, phần vốn góp chưa được quy định đầy đủ. Các quy định của pháp luật thi hành án dân sự về trách nhiệm yêu cầu thi hành các khoản thu cho doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước và trách nhiệm của cơ quan quản lý phần vốn góp của Nhà nước trong các vụ việc loại này còn chưa thống nhất với các quy định của pháp luật chuyên ngành như Luật Doanh nghiệp.
- Việc áp dụng quy định về kê biên tài sản được quy định tại Điều 128 Bộ luật TTHS năm 2015 gặp nhiều hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn. Điều 128 quy định “Chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị tịch thu, phạt tiền...” dẫn đến việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản để bảo đảm thu hồi gặp nhiều khó khăn. Quy định về việc chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị tịch thu, phạt tiền cũng dẫn đến việc thi hành án gặp khó khăn nếu phải thi hành phát mại, đấu giá đối với phần tài sản trong tài sản là căn hộ, biệt thự, quyền sử dụng đất.
- Công tác cưỡng chế thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án mặc dù đã được quy định trong pháp luật nhưng thực tiễn áp dụng còn nhiều vướng mắc.
- Việc Luật THADS quy định phạm vi các biện pháp bảo đảm thi hành án của chấp hành viên rộng hơn so với các biện pháp cưỡng chế mà Bộ luật TTHS trao cho các cơ quan tiến hành TTHS cũng là một lỗ hổng để các đương sự lách luật và tẩu tán tài sản do phạm tội mà có.
- Pháp luật THADS chưa quy định về trình tự, thủ tục yêu cầu công nhận và cho thi hành tại nước ngoài bản án, quyết định dân sự (bao gồm phần dân sự trong bản án hình sự) của Tòa án Việt Nam đối với vụ việc thi hành án dân sự chủ động.
- Pháp luật THADS chưa có biện pháp xử lý phù hợp đối với số việc, tiền chưa có điều kiện thi hành nói chung và trong các vụ án về tham nhũng, kinh tế nói riêng, dẫn đến số việc, tiền loại này chiếm tỉ lệ ngày càng lớn trong số việc, tiền chuyển kỳ sau.
Với các quy định trên đây, mặc dù cơ quan THADS đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan để áp dụng mọi biện pháp cần thiết nhưng số việc chưa có điều kiện thi hành án nói chung, trong đó có các vụ án về tham nhũng nói riêng vẫn tồn đọng kéo dài, chiếm tỉ lệ rất lớn trong tổng số việc phải thi hành và tăng lũy kế dần từng năm.
* Đối với pháp luật có liên quan đến thi hành án dân sự:
- Quy định của pháp luật về phá sản: Quy định về căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án (trong đó có cả các vụ việc thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế) còn bất cập nên nhiều doanh nghiệp đang phải thi hành bản án hình sự về tham nhũng, kinh tế lợi dụng quy định này đề nghị mở thủ tục phá sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ, kéo dài thời gian thi hành án.
- Pháp luật về giá, bán đấu giá: chưa quy định cơ chế kiểm soát, xử lý các công ty thẩm định giá thiếu minh bạch; việc sử dụng hợp đồng chuyển nhượng làm cơ sở để thẩm định giá chưa phản ánh được thực tế giá chuyển nhượng. Mặt khác, pháp luật chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết các khiếu nại, tố cáo về thẩm định giá đối với tài sản kê biên nên trong quá trình triển khai thực hiện có nhiều khó khăn, vướng mắc. Đối với hoạt động bán đấu giá: mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự (Chấp hành viên) với các Tổ chức đấu giá là mối quan hệ dân sự, nên nhiều nguy cơ dẫn đến thiếu khách quan, giá trị tài sản đấu giá thấp, thậm chí tài sản của Nhà nước có thể bị thất thoát trong hoạt động bán đấu giá tài sản.
- Pháp luật về đất đai: quy định về khung giá đất tối thiểu, tối đa rất xa nhau gây khó khăn cho việc xác định giá đất tiệm cận với giá chuyển nhượng trên thị trường tiềm ẩn nguy cơ sai phạm khi tài sản kê biên là đất đai; Một số trường hợp tài sản thu hồi là các dự án bất động sản nhưng đang trong quá trình lập hồ sơ, chưa được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, nên gặp nhiều khó khăn trong việc thẩm định giá, bán đấu giá tài sản bởi vì việc xác định mục đích sử dụng vẫn là đất nông nghiệp hoặc là đất ở khu đô thị thì giá thẩm định và giá bán rất khác nhau[15]; Nhiều trường hợp người phạm tội thế chấp tài sản bảo đảm khoản vay là đất nông nghiệp hoặc đất trồng cây lâu năm có thời hạn nên cơ quan thi hành án gặp nhiều khó khăn khi tại thời điểm tổ chức thẩm định giá, bán đấu giá các tài sản này đã hết hạn sử dụng[16]; các điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong thời hạn không áp dụng đối với trường hợp xử lý quyền sử dụng đất đã được bản án tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án…
- Quy định của pháp luật về các tổ chức tín dụng, về phòng, chống rửa tiền: Theo quy định tại Điều 1, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 (Điều 146đ quy định: “2. Khoản vay đặc biệt được ưu tiên hoàn trả trước tất cả các khoản nợ khác, kể cả các khoản nợ có tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng trong trường hợp sau đây: a) Khi đến hạn trả nợ, trừ trường hợp trong thời gian phương án cơ cấu lại chưa được phê duyệt hoặc trường hợp thay đổi phương án cơ cấu lại nhưng chưa được phê duyệt; b) Khi giải thể, phá sản tổ chức tín dụng”. Tuy nhiên, pháp luật không quy định cụ thể thời gian trả nợ của các tổ chức tín dụng cho Ngân hàng Nhà nước; không quy định trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát các khoản mà các tổ chức tín dụng được thanh toán nên dẫn đến tình trạng cơ quan thi hành án dân sự thanh toán tiền cho tổ chức tín dụng (người được thi hành án) thông qua chuyển và tài khoản của tổ chức tín dụng với môt số lượng đủ để trả hết khoản vay đặc biệt nhưng đến khi đề nghị xác nhận thì Ngân hàng Nhà nước có văn bản trả lời tổ chức tín dụng này chưa thanh toán xong khoản vay đặc biệt nên yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục thanh toán cho tổ chức tín dụng này để trả cho khoản vay đặc biệt này.
Pháp luật về phòng, chống rửa tiền chưa quy định bắt buộc việc giao dịch kinh tế, dân sự với số tiền lớn phải thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt cho nên nhiều giao dịch vẫn chủ yếu được thực hiện bằng hình thức thanh toán bằng tiền mặt, do đó khó kiểm soát được thu nhập, tài sản của tổ chức, cá nhân.
Hai là, việc phối hợp giữa các cơ quan trong việc thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế còn chưa kịp thời:
- Phối hợp trong việc chuyển giao hồ sơ, kiến nghị xử lý vi phạm của các cơ quan thanh tra, kiểm toán còn rất ít, có tình trạng xử lý nương nhẹ, nể nang, thiên về xử lý hành chính là việc các cơ quan thanh tra, kiểm toán phát hiện ra nhiều sai sót nhưng chủ yếu là xủa lý hành chính, số vụ việc chuyển cơ quan điều tra rất ít.
Công tác phát hiện, xử lý vi phạm của các cơ quan thanh tra là rất lớn, nhưng cũng chủ yếu là xử phạt vi phạm hành chính, kiến nghị xử lý, số vụ việc chuyển cơ quan điều tra xử lý rất ít.
- Còn có một số vụ việc Tòa án các cấp chưa thống nhất quan điểm trong việc xử lý tài sản (Vụ Phan Văn Anh Vũ).
- Một số vụ việc quá trình tố tụng, việc kê biên, phong tỏa các tài sản chưa được kịp thời nên đến giai đoạn thi hành án tài sản không đủ để thi hành phần nghĩa vụ[17]. Nhiều vụ việc số tiền phải thu hồi về cho Nhà nước là rất lớn, nhưng tài sản được kê biên, phong tỏa là rất ít. Như: Vụ Phạm Thị Bích Lương (Bản án số 716/HSPT ngày 27/12/2016 của TAND cấp cao tại Hà Nội), số tiền phải thi hành trên 2.500 tỷ đồng, bản án chỉ kê biên số tài sản gồm 01 ô tô; 13 triệu đồng và 52 nghìn đô la Mỹ trong tài khoản; hay Nguyễn Thị Lành trong Vụ Huỳnh Thị Huyền Như và đồng phạm (Bản án số 02/2015/HSPT ngày 07/1/2015 của TAND tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh), phải thi hành 9.028 tỷ đồng sung quỹ nhà nước nhưng tài sản đã kê biên chỉ bán được trên 10 tỷ đồng, số tiền còn lại trên 9.018 tỷ đồng chưa có điều kiện thi hành án[18].
- Một số vụ việc gặp khó khăn, phức tạp trong khâu thi hành như dự án Khu phức họp thương mại sân vận động Chi Lăng thành phố Đà Nẵng (như đã phân tích ở trên), công tác phối hợp để giải quyết các vụ việc phức tạp không chỉ dừng lại ở các cơ quan tư pháp mà còn bao gồm cả các cơ quan quản lý Nhà nước khác như: Bộ Tài nguyên và Môi Trường, Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, nên cũng cần có sự nghiên cứu, bổ sung trách nhiệm của các cơ quan này trong phối hợp với cơ quan THADS để xử lý tài sản.
Ba là, về đối tượng tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế thực tiễn đang phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc làm kéo dài quá trình tổ chức thi hành án, cụ thể:
+ Tài sản trong các vụ việc này thường có số lượng rất lớn (đơn cử 98 quyền sử dụng đất trong vụ Hứa Thị Phấn giai đoạn 1, các quyền sử dụng đất này giáp ranh, liền kề thậm chí bao bọc nhau); nhiều tài sản nằm rải rác ở nhiều địa phương khác nhau, thậm chí ở cả nước ngoài, điều này gây khó khăn cho cơ quan THADS trong việc tổ chức thi hành vụ việc (khó khăn về phương thức bán gộp hay tách rời các quyền sử dụng đất giáp ranh, liền kề…);
+ Tính pháp lý của tài sản bản án đã tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án trong rất nhiều trường hợp không rõ ràng;
+ Nhiều tài sản bản án tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án là tài sản chung của người phải thi hành án với vợ/chồng hoặc tổ chức, cá nhân khác, song quan điểm xử lý đối với loại tài sản này trong một số vụ việc Tòa án các cấp là khác nhau gây khó khăn cho công tác thi hành án.
+ Nhiều tài sản có sự khác nhau giữa thực trạng tài sản với biên bản kê biên; cá biệt, có khu đất chênh lệch hàng nghìn m2 so với biên bản kê biên; không có mốc giới cụ thể gây khó khăn cho công tác đo đạc, xử lý tài sản trong giai đoạn thi hành án.
2.3.3.2. Nguyên nhân của hạn chế, khó khăn, vướng mắc
- Đối tượng phạm tội tham nhũng, kinh tế là loại tội phạm có chủ thể đặc biệt, là những người có chức vụ, quyền hạn, có trình độ học vấn, am hiểu pháp luật, có nhiều mối quan hệ nên có khả năng “che chắn”, “bảo vệ” cho hành vi sai phạm. Họ chuẩn bị chu đáo khi phạm tội, khi thực hiện xong xóa hết mọi dấu vết, tiêu hủy giấy tờ, chứng từ, hóa đơn, sổ sách. Khi biết không thể che dấu thì nhanh chóng tẩu tán tài sản.
- Việc xác định thiệt hại trong một số vụ án lớn trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, xây dựng gặp nhiều khó khăn, do chưa nhận được sự hợp tác tích cực từ một số cơ quan được trưng cầu giám định. Mặt khác, trình độ chuyên môn của một số giám định viên chưa đáp ứng yêu cầu, dẫn đến có những kết luận giám định không chính xác, phải quyết định trưng cầu giám định nhiều lần. Quan điểm đánh giá kết quả giám định về thiệt hại do tội phạm tham nhũng gây ra giữa các cơ quan chức năng còn khác nhau.
- Một số bộ phận cán bộ trong các cơ quan có chức năng phát hiện, tố tụng và thi hành án hình sự về tham nhũng, kinh tế còn chưa tích cực chủ động, chưa làm hết trách nhiệm truy nguyên, truy tìm tài sản; năng lực, trình độ còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, dẫn đến những hạn chế trong việc phát hiện, xử lý và thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, chưa đáp ứng được nhiệm vụ. Cá biệt có trường hợp người có thẩm quyền trong hoạt động kiểm toán, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án có vi phạm trong quá trình thực hiện.
- Công tác phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền để thu hồi tài sản tham nhũng còn nhiều bất cập. Vai trò, trách nhiệm của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự tại địa phương đối với công tác thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế chưa được tăng cường.
- Nhiều trường hợp người phải thi hành án cố tình chây ỳ, tìm cách tẩu tán tài sản để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo vượt cấp để kéo dài, gây khó khăn cho việc thi hành án.
2.4. Quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục và kết quả thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế thông qua hoạt động tương trợ tư pháp, hợp tác quốc tế
2.4.1. Quy định của pháp luật
- Luật tương trợ tư pháp liên quan đến thu hồi tài sản tham nhũng chủ yếu là quy định về nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự, hình sự; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Việt Nam trong tương trợ tư pháp. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước, trong đó có các hoạt động liên quan đến việc thu hồi tài sản tham nhũng ở nước ngoài; tạo nền tảng cho các hoạt động hợp tác quốc tế trong thu tài sản do phạm tội tham nhũng.
- Luật PCTN cũng quy định về hợp tác quốc tế về thu hồi tài sản tham nhũng, theo đó, quy định các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hợp tác với các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài trong kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, tịch thu hoặc thu hồi tài sản tham nhũng và trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp. VKSNDTC là cơ quan Trung ương về hợp tác quốc tế thu hồi tài sản tham nhũng trong TTHS; tiếp nhận, xử lý yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự của nước ngoài về thu hồi tài sản tham nhũng và đề nghị nước ngoài thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự về thu hồi tài sản tham nhũng của Việt Nam (Khoản 2 Điều 91).
Thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài cũng được quy định: “Trên cơ sở điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với cácnguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, Chính phủ Việt Nam hợp tác với Chính phủ nước ngoài trong việc thu hồi tài sản của Việt Nam hoặc của nước ngoài bị tham nhũng và trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu hợp pháp”. Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 của Chính phủ cũng đưa ra một số giải pháp sửa đổi pháp luật theo hướng tăng hình thức phạt tiền; hoàn thiện quy định xử lý tài sản tham nhũng; bổ sung quy định nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, bảo đảm cho việc thu hồi tài sản do tham nhũng mà có.
2.4.2. Kết quả đạt được và nguyên nhân của kết quả đạt được
2.4.2.1. Kết quả đạt được
Từ năm 2020 đến năm 2022, Việt Nam đã gửi hơn 1.200 yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự. Tỷ lệ giải quyết các yêu cầu tương trợ tư pháp năm 2022 tăng khoảng 33% so với tỷ lệ trung bình cả giai đoạn. Tuy nhiên, tương trợ tư pháp về thu hồi tài sản mới chỉ đạt được kết quả bước đầu do còn liên quan đến sự tương thích về hệ thống pháp luật[19].
Điển hình cho việc tương trợ tư pháp, hợp tác quốc tế để thu hồi tài sản cho Nhà nước trong các vụ án kinh tế, tham nhũng mà cơ quan chức năng của Việt Nam đã thực hiện đó là vụ Phan Sào Nam. Trên cơ sở phối hợp chặt chẽ của Vụ Hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp về hình sự - VKSNDTC (Vụ 13) và hướng dẫn của Cơ quan Tổng Chưởng lý Singapore, Tổng cục Thi hành án dân sự đã chỉ đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ ban hành các quyết định về thi hành án dân sự và thu thập đầy đủ hồ sơ, tài liệu cung cấp cho phía cơ quan chức năng Singapore theo quy định. Trên cơ sở kết quả phiên điều trần của phía Singapore, số tiền 2.652.164,35 Đô la Mỹ và 126.749,80 Đôla Singapore mà Phan Sào Nam tự nguyện trích nộp đã được chuyển vào tài khoản số 128000085838 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ mở tại Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh tỉnh Phú Thọ.
Có thể khẳng định, đây là lần đầu tiên các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thu hồi được tiền từ nước ngoài về.
2.4.2.2. Nguyên nhân của kết quả đạt được
- Việt Nam đã gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC).
- Kịp thời, chủ động ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, hình sự.
2.4.3. Hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân
2.4.3.1. Hạn chế, khó khăn, vướng mắc
Một là, việc nội luật hóa một số quy định về thu hồi tài sản tham nhũng trong Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng còn mang tính nguyên tắc, thiếu các quy định chi tiết, cụ thể về thẩm quyền, trách nhiệm, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản tham nhũng và chưa hoàn toàn tương thích với Công ước.
Hai là, khó khăn trong việc hợp tác giữa các cơ quan có thẩm quyền để thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế.
2.4.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn, vướng mắc
- Hiện nay, có nhiều cơ chế hợp tác quốc tế phi chính thức rất hiệu quả nhưng Việt Nam chưa thực sự tích cực tham gia như Nhóm hợp tác chống rửa tiền khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APG), Mạng lưới liên cơ quan về thu hồi tài sản do phạm tội mà có thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương (ARIN - AP). Ngoài ra, các giao dịch tiền mặt lớn, báo cáo giao dịch chuyển tiền điện tử, chuyển tiền qua biên giới, chuyển tiền đáng ngờ là cơ sở dữ liệu để Cục phòng chống rửa tiền, Ngân hàng nhà nước có thể khai thác và chuyển cho cơ quan có thẩm quyền vào cuộc điều tra nhưng đến nay, rất hiếm vụ việc về rửa tiền hay tham nhũng được đưa ra điều tra bắt đầu từ những thông tin này.
- Thu hồi tài sản có yếu tố nước ngoài cũng vẫn là một điểm yếu. Nhiều vụ việc bị cáo đã khai báo nhưng vẫn không thu hồi được.
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ SỞ PHÁP LÝ, TRÌNH TỰ, THỦ TỤC THU HỒI TÀI SẢN BỊ THẤT THOÁT, CHIẾM ĐOẠT TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ THAM NHŨNG, KINH TẾ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM[NN1]
3.1. Bối cảnh
3.1.1. Thuận lợi
- Quyết tâm chính trị và đường lối lãnh đạo của Đảng trong công tác cải cách Tư pháp và đấu tranh PCTN, tiêu cực ngày càng quyết liệt, mạnh mẽ và toàn diện. Với phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, Đảng đã ban hành nhiều Nghị quyết, chỉ thị về PCTN, tiêu cực, trong đó, đã quan tâm, chú trọng đến công tác thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, do đó, nhận thức về công tác này ngày càng được nâng cao.
- Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã chú trọng, quan tâm đến cải cách Tư pháp và PCTN, coi đây là nhiệm vụ chính trị cần phải thực hiện quyết liệt, liên tục, không ngừng, không nghỉ; các chủ trương, đường lối mang tính định hướng đó được thể hiện trong các Văn kiện, nghị quyết của Đảng luôn được cập nhật, hoàn thiện đáp ứng tình hình nhiệm vụ công tác phòng chống tham nhũng trong từng giai đoạn. Đây là những quy định thể hiện rõ quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng đối với công tác PCTN, trong đó thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế là một trong những nhiệm vụ, giải pháp cấp bách, quan trọng được đề cập trong các quy định của Đảng về PCTN.
- Công tác thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế đã đạt được những kết quả nhất định, được cơ quan có thẩm quyền ghi nhận và ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Chính phủ; sự quan tâm, phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi của các Ban, Bộ, ngành Trung ương và các cấp uỷ chính quyền địa phương và đặc biệt là sự quan tâm, đồng tình, ủng hộ của Nhân dân và dư luận xã hội.
- Thể chế phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nói chung và phòng, chống tội phạm tham nhũng, kinh tế nói riêng, cũng như thu hồi tài sản trong các vụ việc loại này tiếp tục được hoàn thiện, qua đó từng bước tạo hành lang pháp lý vững chắc, ổn định cho việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát.
- Mô hình tổ chức các cơ quan tư pháp theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi trong công tác chỉ đạo, điều hành, nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Tổ chức bộ máy, đội ngũ công chức, kỷ cương, kỷ luật hành chính không ngừng được tăng cường. Điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc, công cụ hỗ trợ và công nghệ thông tin bước đầu được quan tâm đầu tư.
3.1.2. Khó khăn
- Việc thể chế hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng về thu hồi tài sản tham nhũng thành các văn bản quy phạm pháp luật có lúc còn chưa kịp thời. Trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể, các quy định về thu hồi tài sản tham nhũng còn bộc lộ những hạn chế, thiếu các quy định chi tiết, cụ thể về thẩm quyền, trách nhiệm, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản nên các cơ quan, tổ chức còn lúng túng trong công tác phối hợp, làm chậm tiến độ thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế.
- Tội phạm tham nhũng, kinh tế ngày càng tinh vi, phức tạp, ở diện rộng; tài sản để thực hiện nghĩa vụ thi hành án có giá trị ngày càng lớn, nhiều chủng loại, tính đặc thù cao, tình trạng pháp lý phức tạp, gây khó khăn cho việc xử lý. Việc thực hiện một số quy định liên quan đến quá trình xử lý tài sản bảo đảm thi hành án như thẩm định giá, bán đấu giá tài sản…còn chưa hiệu quả. Việc chuyển hóa, hợp pháp hóa, tẩu tán tiền, tài sản tham nhũng diễn ra phức tạp và tinh vi.
- Trong quá trình hội nhập, Việt Nam tham gia rất nhiều các điều ước quốc tế nên việc tuân thủ các điều ước quốc tế mà ta đã ký kết là điều tất yếu; cho nên nước ta cần phải tham gia phòng chống tham nhũng cả ở khu vực ngoài nhà nước. Tham nhũng ở khu vực ngoài nhà nước có sự cấu kết rất chặt chẽ với khu vực Nhà nước và làm hư hỏng rất nhiều cán bộ, đảng viên mà đã làm tha hóa nhiều cán bộ ở Trung ương và địa phương, với số lượng cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật, xử lý hình sự lên đến hàng trăm người, trong đó có cả cán bộ cấp cao (vụ án tham nhũng, tiêu cực xảy ra tại Công ty Việt Á; vụ AIC, …).
- Các đối tượng đã áp dụng khoa học – kỹ thuật thực hiện hành vi phạm tội với trình độ, kỹ thuật cao và có hệ thống nên việc thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế ngày càng khó khăn hơn.
Bối cảnh nêu trên đặt ra cho công tác thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế nhiều yêu cầu, nhiệm vụ mới cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện thể chế như: xây dựng trình tự, thủ tục riêng về thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; phối hợp liên ngành trong việc truy nguyên, truy thu tài sản tham nhũng ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án... Đồng thời, các cơ quan cần có giải pháp mới, đồng bộ và quyết liệt hơn để thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế theo yêu cầu cải cách Tư pháp và phòng chống tham nhũng ở Việt Nam
3.2.1 Hoàn thiện quy định của pháp luật về phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực[NN2]
- Hoàn thiện cơ chế kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn.
- Hoàn thiện cơ chế kê khai, minh bạch tài sản, thu nhập.
- Nghiên cứu xây dựng Luật đăng ký tài sản.
- Hoàn thiện các quy định tố cáo và giải quyết tố cáo hành vi tham nhũng.
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về thanh tra, kiểm toán[NN3]
- Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực thanh tra.
- Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực kiểm toán.
3.2.3. Hoàn thiện quy định pháp luật trong giai đoạn tin báo, tố giác tội phạm đến điều tra, truy tố và xét xử
- Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự.
- Hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS.
- Hoàn thiện quy định của Bộ luật TTDS:
- Nghiên cứu xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng với các cơ quan chuyên môn.
- Nghiên cứu, xây dựng cơ chế tịch thu, thu hồi tài sản thông qua việc khởi kiện dân sự.
- Nghiên cứu xây dựng cơ chế thu hồi tài sản thông qua thủ tục hành chính.
- Nghiên cứu xây dựng cơ chế thu hồi tài sản không qua thủ tục kết tội:[NN4]
* Hoàn thiện quy định của pháp luật thi hành án dân sự:
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định Luật THADS về việc phân chia tài sản chung.
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự theo hướng bổ sung quy định cơ chế thi hành án đặc thù đối với khoản thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế.
* Xây dựng trình tự, thủ tục riêng cho quá trình xác minh, kê biên, thẩm định giá, bán đấu giá tài sản trong các vụ án kinh tế, tham nhũng:
Hiện nay trong Luật THADS chưa có quy định về trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, theo đó cũng chưa có quy định về trách nhiệm và trách nhiệm phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng trong truy nguyên, truy tìm, kê biên, xử lý tài sản kê biên từ giai đoạn điều tra đến giai đoạn kết thúc thi hành án.
Trước yêu cầu đòi hỏi của tình hình mới, nhằm triển khai thực hiện đầy đủ chủ trương của Đảng về “tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động THADS… Hoàn thiện cơ chế nâng cao chất lượng, hiệu quả THADS, hành chính theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí”, trong thời gian tới Tổng cục THADS cần tổng kết, xây dựng chính sách, xây dựng Luật THADS (sửa đổi), trong đó xây dựng trình tự, thủ tục riêng cho quá trình xác minh, kê biên, thẩm định giá, bán đấu giá tài sản trong các vụ án kinh tế, tham nhũng đối với cơ quan THADS theo hướng:
- Nghiên cứu rút ngắn thời gian xác minh, kê biên, thẩm định giá và bán đấu giá tài sản (theo thủ tục rút gọn).
- Nghiên cứu việc thẩm định giá tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế giao cho Sở Tài chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm chủ trì việc thẩm định giá, giá tài sản do Sở Tài chính thẩm định được xác định là giá khởi điểm để cơ quan THADS tổ chức bán đấu giá. Đồng thời, quy định rõ thời hạn thực hiện việc thẩm định và gắn trách nhiệm của cơ quan Tài chính trong việc thẩm định giá tài sản. Thực hiện được quy định này sẽ rút ngắn được thời hạn thẩm định giá, hạn chế tình trạng Chấp hành viên “móc nối” với tổ chức hành nghề thẩm định giá để thẩm định giá tài sản ở mức thấp hơn giá thị trường.
- Nghiên cứu việc bán đấu giá tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế giao cho Trung tâm bán đấu giá tài sản của Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc bán đấu giá tài sản.
* Nghiên cứu xây dựng trình tự, thủ tục kê biên, xử lý phần vốn góp (cổ phần) và cổ phiếu để thi hành án.
* Hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo toàn tối đa giá trị tài sản từ giai đoạn điều tra (kê biên, phong tỏa), truy tố, xét xử, thi hành án trong các vụ án tham nhũng, kinh tế.
3.2.5. Hoàn thiện trình tự, thủ tục trong pháp luật về tương trợ tư pháp, hợp tác quốc tế [NN6]
Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật và nội luật hóa các quy định của UNCAC về phòng, chống tham nhũng và thu hồi tài sản do phạm tội.
- Hoàn thiện các quy định pháp luật tương trợ tư pháp, dẫn độ tội phạm, chuyển giao người bị kết án, hợp tác điều tra và áp dụng kỹ thuật điều tra đặc biệt đối với tội phạm về tham nhũng.
- Tiếp tục đàm phán để gia nhập hoặc phê chuẩn các công ước quốc tế, tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật của cộng đồng quốc tế.
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế theo yêu cầu cải cách Tư pháp và phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
3.3.1. Tiếp tục cụ thể hóa chủ chương, đường lối của Đảng về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
- Tiếp tục cụ thể hóa các nghị quyết, kết luận, quy định của Đảng trong nhiệm kỳ XII, XIII về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; hoàn thiện pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi tài sản tham nhũng trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
- Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể” tham nhũng, tiêu cực. Đi đôi với việc tập trung chỉ đạo công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực, cần chú trọng xây dựng, hoàn thiện thể chế để bảo đảm “không thể”, “không dám”, “không muốn”, “không cần” tham nhũng, tiêu cực; trước hết là cơ chế “không thể” tham nhũng, tiêu cực.
- Nghiên cứu hoàn thiện thể chế để bịt kín những kẽ hở, lỗ hổng với thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng; giữa tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán để phát hiện tham nhũng, tiêu cực với điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; giữa kỷ luật đảng với kỷ luật hành chính và xử lý hình sự; quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, cơ sở...
- Nghiên cứu, xây dựng cơ chế phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở khu vực ngoài nhà nước và nâng cao hiệu quả hợp tác quôc tế về phòng, chống tham nhũng.
- Nghiên cứu xây dựng cơ chế thưởng phạt phân minh. Cấp ủy, Ban Chỉ đạo và bí thư cấp ủy (đồng thời là Trưởng Ban Chỉ đạo) ở địa phương nào thực hiện tốt, có chất lượng, hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực thì phải kịp thời khen thưởng, tôn vinh xứng đáng. Ngược lại, địa phương nào làm không tốt, làm chiếu lệ, hình thức, thậm chí bao che thì xử lý kỷ luật thật nghiêm cấp ủy, nhất là bí thư cấp ủy.
- Các cấp uỷ, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo của địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức quán triệt và căn cứ tình hình thực tiễn, cụ thể hoá theo thẩm quyền để thực hiện nghiêm Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 của Bộ Chính trị ban hành về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ; thường xuyên kiểm tra, giám sát và hằng năm báo cáo cấp trên trực tiếp kết quả thực hiện.
Uỷ ban Kiểm tra Trung ương: theo dõi, đôn đốc việc xử lý kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ theo Quy định của Bộ Chính trị về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Chỉ đạo uỷ ban kiểm tra cấp uỷ các cấp thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quy định; xử lý kỷ luật theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật những tập thể, cá nhân vi phạm.
3.3.2. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát của cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp trong công tác thu hồi tài sản cho Nhà nước
- Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải chủ động, đi trước, là tiền đề “mở đường” cho xử lý kỷ luật hành chính và xử lý theo pháp luật, góp phần đắc lực cho việc thu hồi tài sản của Nhà nước trong các vụ án tham nhũng, kinh tế. Việc kiểm tra, giám sát phải thực hiện một cách thường xuyên, toàn diện, khách quan; coi trọng phòng ngừa lấy xây là chính nhưng chống phải kiên trì, kiên quyết và hiệu quả.
- Các cấp ủy, tổ chức đảng cần phải xác định nhiệm vụ thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, ngang bằng với nhiệm vụ phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử tội phạm trong các vụ án về tham nhũng, kinh tế.
- Nâng cao vai trò, trách nhiệm, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
- Ủy ban Kiểm tra các cấp cần làm tốt công tác tham mưu giúp cấp ủy kiểm tra, giám sát trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao, dễ xảy ra sai phạm.
3.3.3. Tổ chức thực hiện hiệu quả quy định pháp luật về thanh tra, kiểm toán đối với công tác thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế
* Đối với công tác thanh tra:
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, khắc phục những tồn tại, hạn chế, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, xử lý nghiêm những sai phạm, tiêu cực trong công tác thu hồi tài sản.
- Về việc kiểm soát, minh bạch tài sản: Đề nghị Thanh tra Chính phủ với cương vị là đơn vị đầu mối cần hoàn thiện, bổ sung các quy định về việc kiểm soát, minh bạch tài sản trong hoạt động của cơ quan, tổ chức theo yêu cầu của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, bảo đảm phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam, làm cơ sở để phòng ngừa, truy nguyên, thu hồi tài sản do hành vi tham nhũng gây ra.
- Tăng cường công tác thu hồi tài sản ngay trong quá trình thanh tra.
* Đối với công tác kiểm toán:
- Để nâng cao tính hiệu lực của kiến nghị kiểm toán cần có hướng dẫn cụ thể việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN theo quy định Pháp lệnh số 04/2023/UBTVQH15 ngày 28/02/2023 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN.
- Để xử lý chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra với kiểm toán KTNN cần tiếp tục tăng cường công tác phối hợp nhằm hạn chế tối đa việc chồng chéo với các cơ quan thanh tra, kiểm tra, tránh phiền hà, ảnh hưởng đến đơn vị được kiểm toán.
- Nâng cao trình độ của kiểm toán viên, tăng cường đạo đức công vụ, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ ngành cũng được quán triệt, thực hiện quyết liệt trong Ngành. Đặc biệt, KTNN tăng cường công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán, yêu cầu thực hiện đầy đủ các quy trình, chuẩn mực, các hướng dẫn của ngành, thực hiện đầy đủ các quy định của đoàn kiểm toán; quy định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong thu thập bằng chứng, ghi nhật ký kiểm toán…
- Để gắn trách nhiệm người đứng đầu với kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán đề nghị KTNN thực hiện tốt hơn nữa trách nhiệm của mình trong đôn đốc thực hiện kiến nghị kiểm toán; quyết tâm nâng cao chất lượng báo cáo kiểm toán, đảm bảo các kiến nghị kiểm toán đưa ra rõ ràng, đúng người, đúng việc, từ đó nâng cao tỷ lệ thực hiện kiến nghị.
- Các đơn vị trực tiếp được kiểm toán khắc phục, sửa chữa tồn tại, sai sót, sai phạm trong quản lý nguồn lực tài chính công, tài sản công được Nhà nước giao; các đơn vị được kiểm toán cần áp dụng các biện pháp quản trị hiệu quả, qua đó giúp đơn vị quản lý đạt được mục tiêu kinh tế, hiệu quả, hiệu lực, phòng ngừa và hạn chế lãng phí, thất thoát, thiệt hại.
- Kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm, tiếp tục chỉ đạo các Bộ, cơ quan Trung ương, địa phương, đơn vị được kiểm toán thực hiện đầy đủ, kịp thời các kết luận, kiến nghị kiểm toán chưa thực hiện; nâng cao trách nhiệm giải trình, làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, cá nhân liên quan; đề ra các giải pháp và phối hợp với KTNN để xử lý dứt điểm các kiến nghị, kết luận còn tồn đọng; chỉ đạo kiểm điểm, xử lý nghiêm các trường hợp chậm, kéo dài nhiều năm việc thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị để xảy ra sai phạm.
- Đề nghị lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương, của cấp ủy, chính quyền các cấp tiếp tục quan tâm chỉ đạo, đôn đốc triển khai các kết luận, kiến nghị kiểm toán; giải quyết các vấn đề vướng mắc và kịp thời bổ sung, điều chỉnh, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật nhằm nâng cao tỷ lệ thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán.
Ngoài ra, để khắc chế những thiếu sót trong việc thu hồi tài sản tham nhũng, cần tăng cường trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan giám sát, thanh tra, kiểm toán trong việc áp dụng các biện pháp thu giữ, tạm giữ, kê biên, phong tỏa tài sản của các cá nhân liên quan đến sai phạm về kinh tế, có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực.
3.3.4. Tổ chức thực hiện hiệu quả pháp luật trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án dân sự đối với công tác thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế
* Giải pháp tổ chức thực hiện trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo:
- Thủ trưởng các cơ quan tố tụng và cơ quan THADS cần chủ động, quyết liệt hơn trong công tác thu hồi tài sản bị tham nhũng, chiếm đoạt, thất thoát, coi đây là nhiệm vụ quan trọng, xuyên suốt trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
- Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm góp phần nâng cao hiệu quả công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, nhất là đối với các vụ án trọng điểm về tội phạm tham nhũng, kinh tế, chức vụ.
- Tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan tố tụng, cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan chức năng khác trong công tác quản lý, chỉ đạo điều hành đối với công tác phòng chống tội phạm tham nhũng, kinh tế, chức vụ; công tác thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế, chức vụ.
- Chú trọng truy tìm, kịp thời áp dụng các biện pháp kê biên, tạm giữ tài sản, phong toả tài khoản và các biện pháp phát hiện, xử lý tài sản tham nhũng ngay trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; Khuyến khích người phạm tội tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả trong các vụ án kinh tế, tham nhũng để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
* Giải pháp về công tác tổ chức cán bộ:
- Chú trọng nâng cao chất lượng, bản lĩnh của đội ngũ cán bộ. Đào tạo cán bộ sâu, rộng, không chỉ riêng lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án dân sự mà phải bao trùm các lĩnh vực chuyên môn khác để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
- Bố trí cán bộ có bản lĩnh, trách nhiệm vào những lĩnh vực giải quyết các vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế.
- Lựa chọn, bố trí người đứng đầu các đơn vị mũi nhọn trong nguồn quy hoạch Lãnh đạo cơ quan tố tụng và cơ quan THADS các cấp; công chức có chức danh Tư pháp, Chấp hành viên, Thẩm tra viên ở những đơn vị này trong nguồn lãnh đạo cấp Vụ, địa phương để đào tạo, rèn luyện, thử thách, trưởng thành.
* Giải pháp về công tác phối hợp:
- Tiếp tục phát huy cơ chế phối hợp trong công tác thu hồi tài sản trong các vụ án kinh tế, tham nhũng, các cơ quan tố tụng, ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử cần làm rõ tính pháp lý của tài sản kê biên để bảo đảm thi hành án; xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan liên quan trong việc xác minh tài sản của người phạm tội trong các vụ án kinh tế, tham nhũng; xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan liên quan trong công tác thu hồi tài sản tham nhũng ở nước ngoài; xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng với các cơ quan chuyên môn trong việc: (i) Phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản; (ii) Thu thập các tài liệu, chứng cứ cần thiết, cũng như đưa ra các kết luận đối với từng lĩnh vực chuyên môn (như: Tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng, đấu giá, đấu thầu nhằm đảm bảo tính kịp thời, chính xác của kết luận giám định tư pháp).
- TAND tối cao chỉ đạo các cơ quan Tòa án giải quyết các vụ án hình sự về tham nhũng kinh tế kịp thời xem xét, trả lời các cơ quan THADS liên quan đến các nội dung đề nghị giải thích, đính chính, cung cấp hồ sơ tài liệu vụ việc; thụ lý yêu cầu phân chia tài sản chung của đương sự trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế...
- VKSNDTC tăng cường thực hiện, hướng dẫn thực hiện tương trợ tư pháp trong hình sự ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử bảo đảm thu hồi tài sản phạm tội tẩu tán ở nước ngoài.
KẾT LUẬN CHUNG
Trong bối cảnh cải cách Tư pháp và PCTN, nhất là việc xử lý tội phạm trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế nếu chỉ, đưa ra ánh sáng được nhiều đối tượng, xử lý nghiêm minh, bỏ tù được nhiều kẻ phạm tội mà không thu hồi được tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt thì vụ án vẫn chưa thể được coi là triệt để và toàn diện. Do đó, để công tác thu hồi tài sản đạt hiệu quả cao và toàn diện hơn, bên cạnh việc xử lý nghiêm minh đối với những kẻ phạm tội, thì cần phải thu hồi triệt để tài sản bị tham nhũng, chiếm đoạt trong các vụ án. Đặc biệt là những tài sản đã bị các đối tượng tẩu tán, cất giấu ở nước ngoài.
Mặc dù việc truy vết, chứng minh, phong toả kịp thời để thu hồi những tài sản bị thất thoát chiếm đoạt là vô cùng khó khăn, phức tạp. Dù khó nhưng không phải là không thể. Từ vụ án như vụ buôn lậu 200 triệu lít xăng giả, vụ nâng khống giá kít xét nghiệm Covid-19 của Việt Á hay “Đại án AVG” vụ Nguyễn Duy Linh nhận hối lộ 5 tỉ đồng từ Vũ "nhôm"… chúng ta rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm để vận dụng trong việc truy vết, chứng minh, phong toả kịp thời để thu hồi những tài sản bị thất thoát chiếm đoạt. Để nâng cao được hiệu quả công tác thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế yêu cầu đầu tiên đặt ra đối với các cơ quan tố tụng, đó là sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng (gồm cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án và cơ quan thi hành án) trong cả quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nhằm kịp thời truy vết, phong toả, kê biên thu hồi tài sản có được do các đối tượng phạm tội mà có.
Trong đó, các cán bộ, người được giao nhiệm vụ trong quá trình tham gia tố tụng phải kiên quyết, quyết liệt, vận dụng một cách linh hoạt những biện pháp, cách thức thu thập triệt để những thông tin, tài liệu chứng cứ liên quan chứng minh tài sản bị thất thoát chiếm đoạt để kịp thời phong toả, kê biên…Bên cạnh đó, cơ quan chức năng cần phải có những giải pháp về cơ chế chính sách pháp luật về thu hồi tài sản bị thất thoát chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế như: hoàn thiện về cơ chế thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt không qua thủ tục kết tội; hoàn thiện chính sách hình sự đối với người phạm tội tham nhũng đã chủ động khắc phục hậu quả; rà soát, sửa đổi bổ sung quy định về thi hành án dân sự, xây dựng trình tự, thủ tục riêng về thi hành án các vụ án tham nhũng, kinh tế trong giai đoạn thi hành án dân sự; hoàn thiện quy định về thẩm định giá, bán đấu giá tài sản đã kê biên, phong toả để thi hành án… Và đặc biệt là những cơ chế chính sách pháp luật nhằm phòng ngừa, ngăn chặn ngay từ đầu sự hình thành tài sản, thu nhập bất minh. Hay nói cách khác là làm cho các đối tượng không thể tham ô, chiếm đoạt hay tẩu tán tài sản do phạm tội mà có đáp ứng yêu cầu cải cách Tư pháp và PCTN ở nước ta hiện nay./.
[1] Bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham những, tiêu cực tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012-2022.
[2] Đề án của Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp về “Tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế”, trình Ban Bí thư tháng 06/2021.
[4] Đề án của Thanh tra Chính phủ về chuyển đổi Vụ Giám sát, Thẩm định và Xử lý sau thanh tra sang Cục Giám sát, Thẩm định và Xử lý sau thanh tra.
[5] Báo cáo số 419 – BC/ĐUCA ngày 28/8/2020 tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng từ khi thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, nhất là từ đầu nhiệm kỳ XII đến nay (tr.9).
[6] Phụ lục thống kê số liệu điều tra, xử lý tội phạm tham nhũng 2011-6t/2023 của lực lượng công an (kèm theo chuyên đề của Bộ Công an)
[7] Báo cáo của Ban Nội chính Trung ương về tổng kết công tác phòng chống tham nhũng giai đoạn 2013-2020, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thời gian tới (Tài liệu phục vụ Hội nghị tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng từ khi thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, nhất là từ đầu nhiệm kỳ XII đến nay).
[8] Báo cáo của Ban Nội chính Trung ương về tổng kết công tác phòng chống tham nhũng giai đoạn 2013-2020, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thời gian tới (Tài liệu phục vụ Hội nghị tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng từ khi thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, nhất là từ đầu nhiệm kỳ XII đến nay).
[9] Gồm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế tại Chương XVIII và các tội phạm tham nhũng tại Mục 1 Chương XXIII Bộ luật Hình sự.
[10] Gồm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế tại Chương XVIII và các tội phạm tham nhũng tại Mục 1 Chương XXIII Bộ luật Hình sự.
[11] Trong số 4.731 bị cáo đã xét xử sơ thẩm, các Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt tù chung thân đối với 09 bị cáo; xử phạt tù từ trên 15 năm đến 20 năm đối với 57 bị cáo; tù từ trên 7 năm đến 15 năm đối với 323 bị cáo; tù từ 3 năm đến 7 năm đối với 752 bị cáo; tù từ 3 năm trở xuống đối với 1.505 bị cáo; còn lại là các hình phạt khác.
[12] Vụ Huỳnh Thị Huyền Như: số tiền phải thi hành hơn 15 000 tỷ đồng, nhưng số tài sản kê biên đã xử lý được gần 400 tỷ đồng, số còn phải thu hồi là hơn 14 000 tỷ; vụ Phạm Thị Bích Lương: số tiền phải thi hành hơn 2.500 tỷ đồng nhưng tài sản kê biên, xử lý chưa được 10 tỷ đồng.
[13] Luật số 03/2022/QH15 ngày 11/01/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự.
[14] Xem: Báo cáo số 84-BC/BCSĐ ngày 20/6/2023 của Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp (báo cáo phục vụ tổng kết 10 năm của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng).
[15] Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại 209 Trường Chinh, phường An Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng: Thuộc thửa đất số 71, tờ bản đồ số 14, tại 209 Trường Chinh, phường An Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, được UBND thành phố Đà Nẵng cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BĐ 655355 cấp ngày 13/01/2011. Tuy nhiên, tại thời điểm thi hành án, cơ quan có thẩm quyền dự kiến thay đổi mục đích sử dụng đất làm ảnh hưởng đến kết quả thi hành án, vì giá trị quyền sử dụng đất phụ thuộc vòa mục đích sử dụng đất.
[16] Theo quy định của pháp luật về đất đai, người sử dụng đất khi thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì phải còn trong thời hạn sử dụng đất (điểm d khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013). Đồng thời, tại khoản 3 Điều 210 Luật Đất đai năm 2013 quy định “Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp đã được giao đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, khi hết thời hạn sử dụng đất, nếu có nhu cầu thì được tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 126 Luật này”. Vậy, trường hợp cơ quan THADS phát mại tài sản là quyền sử dụng đất nông nghiệp đã hết hạn sử dụng (nhưng đã được cơ quan tiến hành tố tụng kê biên, mà cá nhân, hộ gia đình không tự giác đề nghị gia hạn thời hạn sử dụng đất) cơ quan THADS có quyền tổ chức thẩm định giá, bán đấu giá tài sản này không và người trúng đấu giá có quyền đề nghị cơ quan quản ký về đất đai cấp Giấy chứng nhận cho mình.
[17] Báo cáo số 80 – BC/BTP ngày 08/4/2020 về Kết quả công tác thi hành án dân sự và việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế (Phục vụ Phiên giải trình của Ủy ban Tư pháp).
[18] Báo cáo số 80 – BC/BTP ngày 08/4/2020 về Kết quả công tác thi hành án dân sự và việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế (Phục vụ Phiên giải trình của Ủy ban Tư pháp).
[19] https://vtv.vn/chinh-tri/hop-tac-quoc-te-trong-thu-hoi-tai-san-tham-nhung-2022121721092697.htm
Đề nghị tác giả nghiên cứu đặt lại tên chương để phù hợp với nội dung của phần viết chỉ là hoàn thiện các quy định pháp luật nên có thể đặt lại theo hướng là: “Hoàn thiện cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản…” hoặc “Hoàn thiện quy định pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi tài sản…”. Em nghiêng về phương án 2 hơn
Sửa theo tên gọi của chương
Tác giả nghiên cứu đặt tên mục là “Hoàn thiện pháp luật về kiểm tra, thanh tra, kiểm toán
Nghiên cứu đề chuyển nội dung này sang mục khác vì trong mục này chỉ là hoàn thiện pháp luật về hình sự, TTHS, tố tụng dân sự
Đổi tên muc: Hoàn thiện pháp luật về thi hành sn dân sự và pháp luật khác có liên quan
Đôi tên mục tương tự như trên
|
Nội dung toàn văn
|
|
File đính kèm
|
...
|
|
|