• Thuộc tính
Tên đề tài Tổng hợp các kiến nghị trong các đề tài, đề án khoa học cấp Bộ và cấp Nhà nước thuộc lĩnh vực tư pháp, hình sự
Nội dung tóm tắt

PHẦN TỔNG QUAN

I. TỔNG QUAN VỀ BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG GIAI ĐOẠN TỪ 2001 - 2021

1. Các dấu mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp nói chung trong giai đoạn từ 2001 - 2021

1.1. Sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013

Trước hết, giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2013, để thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng trong giai đoạn mới, Bộ chính trị đã chủ trương nghiên cứu và sửa đổi Hiến pháp 1992 đặt cơ sở pháp lý ở tầm hiến định cho việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách kinh tế; đổi mới tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước một cách đồng bộ theo tư tưởng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân. Từ năm 2011 đến 2021 là giai đoạn gắn liền với việc xây dựng và tổ chức triển khai Hiến pháp năm 2013 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện và đồng bộ đất nước. Đặc biệt, sự phát triển của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân thể hiện sự đổi mới tư duy nhận thức trong việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện các quyền này của người dân trên thực tế. Với những dấu mốc nói trên, việc hoàn thiện pháp luật và cơ chế tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước, thiết chế trong lĩnh vực tư pháp, hình sự giai đoạn 2001 - 2021 luôn được quan tâm nhằm đáp ứng các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặc biệt, nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

1.2. Sự ra đời của Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp

Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi là Nghị quyết số 49-NQ/TW). Theo đó, chiến lược cải cách tư pháp được triển khai theo 4 định hướng cơ bản: Hoàn thiện thể chế hình sự, dân sự, thủ tục tư pháp; Cải cách tổ chức các cơ quan tư pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp mà trung tâm là Tòa án và khâu đột phá là tăng cường tranh tụng dân chủ; Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp; Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của Nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Điều này đòi hỏi tất cả các lĩnh vực thuộc về tư pháp, hình sự như chính sách, pháp luật hình sự, cơ chế tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, thi hành án và bổ trợ tư pháp cần có sự thay đổi, hoàn thiện hơn nhằm thực hiện chiến lược cải cách tư pháp.

2. Những thay đổi cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội tác động đến lĩnh vực tư pháp, hình sự giai đoạn từ 2001 - 2021

Năm 2001, Việt Nam bắt đầu thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng, theo đó, đã có sự thay đổi trong nhận thức, tư duy và thực tiễn hành động của đất nước ta nhằm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, từ “hội nhập kinh tế quốc tế” của các kỳ đại hội trước, chuyển sang “hội nhập quốc tế” một cách toàn diện là một phát triển quan trọng về tư duy đối ngoại của Đảng ta tại Đại hội XI.

Ngoài ra, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đất nước.

Như vậy, trong giai đoạn 2001 - 2021, đất nước ta đã có những thay đổi căn bản về kinh tế - xã hội, đặc biệt là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và việc hội nhập quốc tế sâu rộng. Điều này đòi hỏi sự thay đổi trong pháp luật và cơ chế liên quan tới lĩnh vực tư pháp, hình sự nhằm theo kịp với bối cảnh phát triển kinh tế, khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế sâu rộng. Trong đó, cần giải quyết các vấn đề phát sinh trong bối cảnh mới và thực hiện nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế.

II. KHÁI QUÁT CÁC ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP, HÌNH SỰ GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2021

Trong giai đoạn từ 2001 - 2021, có 37 đề tài nghiên cứu trong lĩnh vực tư pháp, hình sự, bao gồm:

- Có 15 đề tài và 01 đề án khoa học cấp Bộ nghiên cứu về pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và tội phạm học, trong đó đưa ra các giải pháp nhằm tập trung vào việc hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và tố tụng hình sự (đặc biệt là đối với pháp luật hình sự).

- Có 06 đề tài khoa học cấp Bộ nghiên cứu về quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp và tổ chức, hoạt động của cơ quan thực hiện quyền tư pháp, cơ quan tiến hành tố tụng.

- Có 07 đề tài trong lĩnh vực thi hành án.

- Có 05 đề tài, đề án trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp.

- Có 04 đề tài nghiên cứu nhằm thực hiện chiến lược cải cách tư pháp. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, nội dung của các đề tài này bao quát nhiều kiến nghĩ ở các lĩnh vực khác nhau, gồm cả hoàn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình sự; hoàn thiện cơ chế tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, cơ quan tiến hành tố tụng; hoàn thiện chế định thi hành án; hoàn thiện chế định bổ trợ tư pháp và một số kiến nghị khác nhằm nâng cáo hiệu quả cải cách tư pháp.

 

 

PHẦN NỘI DUNG

 

Chương 1. NỘI DUNG NHÓM KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Các nhóm kiến nghị trong Chương 1 chủ yếu tập trung vào việc hoàn thiện Bộ luật hình sự, đặc biệt là Bộ luật hình sự năm 1999 do hầu hết các đề tài được thực hiện từ năm 2001 đến năm 2015, là giai đoạn mà bối cảnh đất nước có nhiều biến chuyển cả về mặt chính trị, kinh tế, xã hội và yêu cầu sửa đổi nhằm hoàn thiện các chế định tội phạm và hình phạt Bộ luật hình sự luôn được đặt ra. Một số đề tài cũng đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các luật chuyên ngành có liên quan đến tội phạm và hình phạt. Tuy nhiên, số kiến nghị này không nhiều, và xuất phát từ một số lý do như: (i) Văn bản pháp luật được áp dụng chủ yếu trong công tác phòng, chống tội phạm là Bộ luật hình sự (BLHS) - nguồn duy nhất trực tiếp quy định về tội phạm và hình phạt; (ii) Đối với Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), việc hoàn thiện các chế định cụ thể của bộ luật này nhìn chung không được kiến nghị nhiều, một phần là do các đề tài nghiên cứu cấp Bộ, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp không tập trung nhiều vào việc đề xuất, kiến nghị liên quan đến pháp luật tố tụng hình sự.

I. BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU CỦA CÁC ĐỀ TÀI LIÊN QUAN ĐẾN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2001 - 2021

1. Bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đặt ra yêu cầu sửa đổi, bổ sung BLHS làm cho BLHS phải thực sự trở thành công cụ pháp lý sắc bén để bảo vệ và thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển đúng hướng. Trong bối cảnh đó, chính sách, pháp luật hình sự, tố tụng hình sự - công cụ để đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm - cần thay đổi, ngày một hoàn thiện hơn để thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu công bằng, dân chủ, văn minh và góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững cho nền kinh tế của đất nước.

2. Bối cảnh hội nhập quốc tế

Xu thế chủ động hội nhập quốc tế đã trở thành nhu cầu nội tại của Việt Nam. Trên thực tế, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực và đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa phương, trong đó có các công ước về phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, trong quan hệ hợp tác song phương với các quốc gia, Việt Nam đã đàm phán và ký kết nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự và hiệp định dẫn độ với các nước trên thế giới. Điều này đòi hỏi việc hoàn thiện cả pháp luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam.

Bên cạnh đó, bối cảnh hội nhập quốc tế đòi hỏi phải tiếp tục rà soát, kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLHS để nội luật hóa các quy định trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên liên quan đến lĩnh vực hình sự nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của quốc gia thành viên, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.

3. Bối cảnh thúc đẩy việc bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013

Sự phát triển của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân thể hiện sự đổi mới tư duy nhận thức trong việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện các quyền này của người dân trên thực tế. Bên cạnh đó, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, có lúc, có nơi việc tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, nhất là đối với các đối tượng yếu thế trong xã hội vẫn chưa được tôn trọng một cách đầy đủ và toàn diện. Vì vậy, chính sách, pháp luật hình sự và tố tụng hình sự phải được tiếp tục hoàn thiện để góp phần tạo ra một khung pháp lý để bảo vệ một môi trường sống an lành cho người dân; bảo vệ tốt hơn các quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân.

4. Bối cảnh thực hiện chiến lược cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật

Từ sau năm 2001, Nhà nước ta thực hiện chủ trương Cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng và các Nghị quyết của Bộ Chính trị. Đối với lĩnh vực luật hình sự, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW) chỉ rõ cần phải “coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hương chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế”. Đồng thời, cần “xử lý nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác”. Đây là những quan điểm mới của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình sự.

Đối với lĩnh vực tố tụng hình sự, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp từ nay đến năm 2020 đã xác định một số yêu cầu như: cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dẫn chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp, bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại toà làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của toà hành chính đối với tất cả các loại khiếu kiện hành chính.

5. Thực tiễn các lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự

Kể từ sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tình hình đất nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt, làm cho BLHS năm 1999 trở nên bất cập không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn bấy giờ. Mặc dù năm 2009, Quốc hội khoá XII đã sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, nhưng do phạm vi sửa đổi chỉ giới hạn trong một số điều, nên chưa thể khắc phục được đầy đủ, toàn diện những bất cập của BLHS trong thực tiễn.

Sau lần sửa đổi toàn diện năm 2015, về cơ bản, phần lớn các khuyết thiếu, hạn chế trong BLHS năm 1999 đã được giải quyết. Theo đó, BLHS năm 2015 đã được ban hành thay thế cho BLHS năm 1999. Tuy nhiên, một số vấn đề về tội phạm và hình phạt trong BLHS năm 2015 vẫn chưa thực sự hoàn thiện, như vấn đề mở rộng nguồn của pháp luật hình sự, vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và kỹ thuật lập pháp còn gây nhiều tranh cãi. Do vậy, một số Đề tài được thực hiện sau năm 2015 tiếp tục nghiên cứu và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện BLHS năm 2015 và các luật chuyên ngành khác có liên quan.

II. CÁC NHÓM KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999

1. Nhóm kiến nghị về chính sách hình sự nói chung

Chính sách hình sự là “kim chỉ nam” cho việc sửa đổi từng chế định cụ thể. Trong những năm 2001 - 2021, bối cảnh đất nước có nhiều thay đổi, cả về kinh tế, xã hội và văn hoá, chính trị. Do vậy, việc đưa ra những kiến nghị về chính sách hình sự để làm định hướng hoàn thiện pháp luật hình sự trong thời gian này là hết sức cần thiết.

Qua việc nghiên cứu, tổng hợp tất cả các đề tài liên quan đến chính sách, pháp luật hình sự trong giai đoạn này cho thấy các kiến nghị lớn về chính sách hình sự đều dựa trên các cơ sở sau đây: (i) Về cơ sở chính trị - pháp lý: Thực hiện các chủ trượng của Nghị quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW; (ii) Về cơ sở thực tiễn: Nghiên cứu một số vấn đề thật sự cấp bách nhất nhằm góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trên thực tế thường xuyên thay đổi, phát sinh các hành vi nguy hiểm mới; (iii) Nghiên cứu hoàn thiện chính sách hình sự nhằm theo kịp xu hướng quốc tế, đáp ứng các yêu cầu của các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết và hoàn thiện pháp luật hình sự dựa trên cơ sở kinh nghiệm lập pháp hình sự của các quốc gia khác.

Cụ thể các kiến nghị về chính sách hình sự như sau:

[1] Tiếp tục nhân đạo hoá chính sách hình sự, trong đó, tập trung thu hẹp hình phạt tử hình[1]

[2] Nghiên cứu việc hình sự hoá những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế[2]

[3] Hoàn thiện các quy định về tội phạm và hình phạt nhằm góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm[3]

[4] Nghiên cứu hoàn thiện các quy định của BLHS nhằm chuẩn bị các điều kiện pháp lý hình sự thực hiện các nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam đã cam kết[4]

2. Nhóm kiến nghị nhằm hoàn thiện một số chế định cơ bản thuộc Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999

2.1. Nhóm kiến nghị hoàn thiện các quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 về trách nhiệm hình sự[5]

[1] Hoàn thiện quy định của BLHS năm 1999 về phòng vệ chính đáng theo hướng theo hướng đề cao lợi ích cá nhân người phòng vệ: Kiến nghị sửa đổi này xuất phát từ yêu thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm, với mục đích thúc đẩy, động viên được người dân trong công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm và sự cần thiết phải trao quyền phòng vệ cho người thi hành công vụ, nhất là tội phạm ma túy. Đây cũng là kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới.

[2] Bổ sung trường hợp gây thiệt hại trong khi bắt người phạm pháp là trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự: Đây là hành vi phù hợp với lợi ích của xã hội, giúp phát huy tinh thần chủ động đấu tranh ngăn chặn hành vi phạm tội và bắt giữ kịp thời những người đang lẩn trốn sự trừng trị của pháp luật.

[3] Bổ sung trường hợp gây thiệt hại do rủi ro trong sản xuất, nghiên cứu khoa học là trường hợp loại trừ TNHS: Để khuyến khích những ý tưởng mới, sáng tạo, cải tiến chân chính, khoa học, động viên sự sáng tạo của các nhà khoa học, nhà sản xuất và khi họ đã áp dụng đúng các quy trình, yêu cầu ngặt nghèo về an toàn nhưng do những sự cố, xác suất rủi ro ngoài mong muốn, ngoài tiên liệu và khả năng nhận thức, phòng ngừa của mình, thì dưới góc độ pháp lý, cần có hàng lang an toàn cho họ yên tâm thử nghiệm, ứng dụng, song mục đích của các thử nghiệm này chỉ duy nhất là đem lại lợi ích cho xã hội. Vì thế, nhóm tác giả của các Đề tài nghiên cứu đã kiến nghị nên quy định Rủi ro trong sản xuất, nghiên cứu khoa học là một trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong BLHS.

[4] Bổ sung trường hợp gây thiệt hại trong khi thi hành quyết định, chỉ thị của cấp trên là trường hợp loại trừ TNHS: Kiến nghị này xuất phát từ yêu cầu bảo đảm tính thống nhất giữa các văn bản pháp luật và góp phần bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công chức, đặc biệt là người thi hành mệnh lệnh trong lực lượng vũ trang, quân sự.

[5] Quy định cụ thể trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội thái quá của người thực hành: Kiến nghị này xuất phát từ bất cập trong thực tiễn và trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài, nhằm giải quyết rõ ràng TNHS của người có hành vi thái quá, mà còn loại trừ TNHS đối với những người khác khi họ không đồng phạm với người thực hành về hành vi này,

[6] Đối với chế định miễn TNHS, cần sửa đổi các quy định của BLHS theo hướng bổ sung biện pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa đối với người được miễn trách nhiệm hình sự: Kiến nghị này nhằm bảo đảm tính nhân đạo của pháp luật hình sự nước ta, đồng thời, mặc dù không trừng trị nghiêm khắc những vẫn bảo đảm tính giáo dục đối với người phạm tội, giúp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp miễn TNHS nói riêng và hiệu quả phòng, ngừa tội phạm nói chung.

2.2. Nhóm kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về chế định hình phạt

[1] Hoàn thiện quy định về hình phạt tù có thời hạn và tù chung thân theo hướng thu hẹp phạm vi quy định về hai loại hình phạt này[6]: Kiến nghị này xuất phát từ chính sách hình sự nhân đạo của nhà nước ta, chủ trương tăng cường tính hướng thiện của hình phạt, giảm hình phạt tù, tăng cường các hình phạt không phải tù, quan điểm như theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW về cải cách tư pháp.

[2] Đổi tên hình phạt tù chung thân thành tù không thời hạn[7]: Kiến nghị này trước hết xuất phát từ cơ sở lý luận, theo đó, bản chất của hình phạt này là tù không có thời hạn. Bên cạnh đó, việc đổi tên hình phạt tù chung thân thành tù không có thời hạn mở ra cho người bị kết án khả năng cải tạo, giáo dục nhằm được trả tự do sau một thời gian nhất định.

[3] Tiếp tục duy trì hình phạt tử hình trong BLHS Việt Nam, tuy nhiên cần thu hẹp hình phạt tử hình và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình khi điều kiện cho phép[8]: Việc tiếp tục duy trì hình phạt tử hình trong BLHS Việt Nam vẫn là cần thiết, bởi nếu loại bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình chúng ta sẽ mất một công cụ pháp lý đắc lực để đấu tranh phòng, chống tội phạm đặc biệt nguy hiểm. Hơn nữa, hình phạt tử hình không trái với nguyên tắc nhân đạo, không trái với pháp luật quốc tế và không vi phạm nhân quyền. Tuy nhiên, pháp luật hình sự nước ta cũng cần đi theo hướng thu hẹp dần phạm vi và đối tượng áp dụng hình phạt tử hình, tiến tới loại bỏ hoàn toàn hình phạt này. Điều này xuất phát từ yêu cầu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW và yêu cầu nhân đạo hoá trong pháp luật hình sự, nhằm bảo đảm hơn nữa quyền con người, quyền công dân. Ngoài ra, chính sách hình sự của đa số quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới là loại bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình.

Việc thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tử hình và thể chế hoá tinh thần này trong quy định của BLHS được thực hiện trên các khía cạnh như sau: Thu hẹp phạm vi các tội có quy định hình phạt tử hình; Thu hẹp phạm vi đối tượng bị áp dụng hình phạt tử hình; Quy định chặt chẽ hơn điều kiện áp dụng hình phạt tử hình; Bổ sung trong BLHS trường hợp hoãn thi hành hình phạt tử hình và chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù nếu đáp ứng một số yêu cầu chặt chẽ[9].

[4] Mở rộng phạm vi áp dụng các hình phạt không tước tự do với tư cách là hình phạt chính, đặc biệt là hình phạt tiền[10]: Thực hiện các yêu cầu được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW, đồng thời, thể hiện xu hướng ngày một nhân đạo hơn trong pháp luật hình sự, nhiều đề tài nghiên cứu đã kiến nghị sửa đổi BLHS năm 1999 theo hướng mở rộng các hình phạt không tước tự do (song song với việc thu hẹp hình phạt tù) đối với một số tội rất nghiêm trọng thuộc các nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tội phạm về môi trường, tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính.

[5] Bổ sung vào BLHS năm 1999 một chế định miễn chấp hành phần còn lại hình phạt tù có điều kiện hay trả tự do có điều kiện[11]: Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số quốc gia trên thế giới, cùng một số yêu cầu từ thực tiễn phòng, chống tội phạm ở Việt Nam, một số đề tài đã kiến nghị bổ sung thêm vào BLHS một chế định miễn chấp hành phần còn lại hình phạt tù có điều kiện hay trả tự do có điều kiện.

2.3. Nhóm kiến nghị hoàn thiện chế định các biện pháp tư pháp

Nhóm này bao gồm các kiến nghị cụ thể như sau:

[1] Bổ sung các biện pháp tư pháp áp dụng đối với thể nhân trong BLHS năm 1999[12]: Kiến nghị này được đưa trong bối cảnh mở rộng hội nhập quốc tế, theo đó các tội phạm có tổ chức với tính chất xuyên quốc gia ngày một gia tăng. Do vậy, cần bổ sung một số biện pháp tư pháp áp dụng đối với thể nhân trong BLHS năm 1999 như trục xuất có thời hạn, hoặc trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam; cấm nhập cảnh vào Việt Nam; áp dụng biện pháp kiểm soát bằng thiết bị điện tử.

[2] Bổ sung các biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân trong BLHS năm 1999[13]: Theo đó, cần bổ sung các biện pháp sau: Hạn chế phạm vi hoạt động; đình chỉ có thời hạn hoặc đình chỉ vĩnh viễn (tước giấy phép hoạt động) của pháp nhân; Bổ sung các biện pháp buộc sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, tịch thu tài sản tương tự như đối với thể nhân khi mà pháp nhân có hành vi gây thiệt hại cho cá nhân hay tổ chức khác; Cấm phát hành séc hoặc cấm niêm yết cố phiếu trên sàn chứng khoán; Cấm hay hạn chế các khoản vay ngân hàng; Công khai các quyết định của Tòa án…

[3] Thay đổi quan điểm về bản chất pháp lý của biện pháp tịch thu tài sản “theo cơ chế dân sự”[14]: Kiến nghị này xuất phát từ yêu cầu được đề cập đến trong Công ước phòng chống tham nhũng. Quy định này cho phép cơ quan có thẩm quyền có quyền tịch thu tài sản của đối tượng bị tình nghi là có hành vi tham nhũng, khi họ không thể tự chứng minh nguồn gốc hợp pháp của số tài sản đáng ngờ này. Theo quan điểm hiện nay, cơ chế tịch thu tài sản phải được thông qua hoạt động tố tụng hình sự và phải bằng bản án kết tội có hiệu lực của Tòa án. Tuy nhiên, kiến nghị này cũng cần phải được nghiên cứu hết sức kỹ lưỡng, trên cơ sở nghiên cứu cơ sở pháp lý về việc hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp.

[4] Nghiên cứu xây dựng cơ chế Nhà nước sẽ đứng ra bồi thường trong trường hợp người phạm tội không thể thực hiện các nghĩa vụ bồi thường cho người bị hại[15]: Kiến nghị này xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà bản thân người phạm tội không thể và không đủ điều kiện để bồi thường kịp thời cho người bị hại, nên không biết đến bao giờ có thể bồi thường. Tham khảo kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia thì thấy rằng, trong những trường hợp như vậy, Nhà nước sẽ đứng ra bồi thường cho người bị hại. Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu cụ thể đối với việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và điều kiện áp dụng.

3. Các kiến nghị liên quan tới tổ chức tội phạm

Để đáp ứng yêu cầu chủ động tấn công, ngăn chặn những băng, nhóm tội phạm có dấu hiệu của tổ chức tội phạm, đáp ứng yêu cầu của Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, cũng như xu thế phát triển của pháp luật hình sự quốc tế hiện nay, góp phần thực hiện yêu cầu của Chiến lược cải cách tư pháp mà Đảng đã đề ra, cần hoàn thiện các quy định về tổ chức tội phạm trong BLHS năm 1999, tập trung vào những nội dung cơ bản sau:

[1] Bổ sung quy định trong phần chung của BLHS năm 1999 nhằm tội phạm hoá tổ chức tội phạm[16]: Theo đó, BLHS năm 1999 cần bổ sung quy định về “tổ chức tội phạm” không chỉ trong Phần chung mà còn phải tội phạm hóa đối với hành vi thành lập, lãnh đạo hoặc tham gia tổ chức tội phạm trong Phần các tội phạm.

[2] Bổ sung vào BLHS khái niệm “nhóm tội phạm có tổ chức” và hành vi tham gia vào nhóm tội phạm có tổ chức[17]: Kiến nghị thứ hai đưa ra một giải pháp khác thay cho việc tội phạm hoá “tội phạm có tổ chức”. Theo đó, có thể bổ sung vào BLHS năm 1999 một điều luật riêng về khái niệm “nhóm tội phạm có tổ chức” và bổ sung hành vi phạm tội (tham gia vào nhóm tội phạm có tổ chức) tương tự quy định tại khoản 1(i) Điều 5 Công ước TOC.

4. Kiến nghị bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

Kiến nghị bổ sung trách nhiệm hình sự của tổ chức/pháp nhân thương mại được đưa ra trong hầu hết các đề tài nghiên cứu trong lĩnh vực tư pháp, hình sự ở giai đoạn trước khi ban hành BLHS năm 2015[18]. Kiến nghị này dựa trên các cơ sở đó là: Về phương diện chính trị - pháp lý, cụ thể là các chủ trương hoàn thiện pháp luật hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam và quá trình hội nhập; Về phương diện kinh nghiệm quốc tế: Trên phương diện pháp luật quốc tế, khoản 1 Điều 10 Công ước TOC yêu cầu tất cả các Quốc gia Thành viên có biện pháp nhằm xác định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân trong việc tham gia vào các nhóm tội phạm nghiêm trọng liên quan đến nhóm tội phạm có tổ chức và trong việc thực hiện các hành vi phạm tội. Trên phương diện pháp luật hình sự của các quốc gia khác, vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân đã được ghi nhận phổ biến, có 119 nước quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân[19], trong đó, khu vực ASEAN có 06 nước. Đặc biệt, Trung Quốc là nước có nhiều nét tương đồng về truyền thống lập pháp với nước ta cũng đã có quy định TNHS đối với pháp nhân; Về phương diện thực tiễn: Các hành vi gây thiệt hại đáng kể cho xã hội do tổ chức thực hiện ngày càng trở nên phổ biến, đặc biệt là các hành vi gây thiệt hại về kinh tế, về môi trường. Việc núp bóng dưới danh nghĩa pháp nhân để phạm tội ngày càng tăng, tính chất nguy hiểm ngày càng cao. Trong những trường hợp này, việc xử lý vi phạm bằng pháp luật dân sự, hành chính đối với tổ chức và chỉ truy cứu TNHS một số cá nhân là chưa đủ để đạt được mục đích răn đe, phòng ngừa ngăn chặn tái phạm, vi phạm pháp luật và không bảo đảm công bằng.

Từ những cơ sở nêu trên, các đề tài đều thống nhất bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân khi sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999. Trước mắt, nên quy định trách nhiệm hình sự đối với các pháp nhân tham gia hoạt động kinh tế và xem xét giới hạn lĩnh vực hoặc loại hành vi vi phạm mà các pháp nhân này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

5. Nhóm kiến nghị hoàn thiện quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 đối với một số nhóm tội phạm cụ thể

5.1. Nhóm kiến nghị hoàn thiện quy định về các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự

[1] Bổ sung tội mua bán người Tội mua bán người, mua bán trẻ em thay cho quy định tại Điều 119 BLHS năm 1999 (Tội mua bán phụ nữ) và Điều 120 BLHS năm 1999 (Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em)[20]: Kiến nghị này được đưa ra nhằm khắc phục những khiếm khuyết nội tại của các điều luật nói trên và làm hài hòa giữa pháp luật Việt Nam với các chuẩn mực quốc tế về chống buôn bán người là hết sức cần thiết nhằm tạo điều kiện thuật lợi cho việc hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống loại tội xâm phạm nghiêm trọng quyền con người này.

[2] Sửa đổi quy định về Tội hiếp dâm và Tội hiếp dâm trẻ em nhằm mở rộng đối tượng là nạn nhân của tội này[21]: Kiến nghị này xuất phát từ cơ sở thực tiễn - đã có những trường hợp nạn nhân là nam giới nhưng không thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm hoặc tội hiếp dâm trẻ em, do hành vi “giao cấu” như quy định trong BLHS năm 1999 chỉ được hiểu là hành vi được thực hiện đối với nữ giới. Quy định này cũng nhằm bảo đảm quyền con người, quyền bình đẳng giới của các nạn nhân. Từ đó, đề tài kiến nghị cần sửa đổi quy định về hành vi “giao cấu” trong Điều 111 và 112 BLHS năm 1999.

5.2. Nhóm kiến nghị hoàn thiện quy định về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế

Đây là nhóm tội được kiến nghị sửa đổi nhiều nhất trong các đề tài, đề án khoa học cấp bộ từ năm 2001 - 2021. Các kiến nghị được đưa ra dựa trên các cơ sở: (i) Về cơ sở chính trị - pháp lý: Theo yêu cầu được đưa ra tại Nghị quyết số 49-NQ/TW, cần tránh việc hình sự hoá các tranh chấp dân sự, kinh tế và giảm hình phạt tù, mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền; (ii) Về cơ sở thực tiễn: Thực tiễn xét xử cho thấy các quy định tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong BLHS năm 1999 còn chưa theo kịp thực tiễn, dẫn đến khó khăn trong điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này, do vậy, chưa đáp ứng kịp thời các yêu cầu phòng, chống tội phạm; (iii) Trong bối cảnh hợp tác quốc tế giữa Việt Nam và các nước đang ngày càng sâu rộng, thì việc sửa đổi pháp luật hình sự nói chung và các quy định của BLHS về các tội phạm kinh tế nói riêng để đáp ứng các yêu cầu của các cam kết quốc tế là điều hết sức cần thiết.

Do vậy, các đề tài đã đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của BLHS năm 1999 về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế như sau:

[1] Khắc phục tình trạng hình sự hoá các tranh chấp dân sự, kinh tế[22]. Kiến nghị này đòi hỏi những thay đổi cả về mặt quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật.

[2] Quy định bổ sung một số tội phạm mới trong lĩnh vực quản lý kinh tế[23]: Trước mắt, khi sửa đổi BLHS năm 1999, phải hình sự hoá một số hành vi nguy hiểm đã xuất hiện trong lĩnh vực kinh tế, xâm phạm đến sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, sự an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ; một số vi phạm liên quan đến việc mua bán, sử dụng trái phép hoá đơn chứng từ thu nộp ngân sách; hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán, đất đai;...

[3] Sửa đổi các quy định về tội phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ để phù hợp với các yêu cầu của các cam kết quốc tế[24]: Trong bối cảnh Việt Nam tham gia ký kết và trở thành thành viên của nhiều công ước quốc tế liên quan đến sở hữu trí tuệ, BLHS năm 1999 cần được sửa đổi về yếu tố cấu thành và nâng khung hình phạt của các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

[4] Tăng cường chế tài vật chất, đặc biệt là hình phạt tiền đối với tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế[25]: Theo kiến nghị này, đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cần mở rộng phạm vi quy định hình phạt tiền hơn nữa. Đặc biệt, cần nghiên cứu để có thể quy định hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính duy nhất đối với một số tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ít nghiêm trọng.

5.3. Nhóm kiến nghị hoàn thiện quy định đối với các tội phạm về môi trường

Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, đối với Việt Nam - một nước đang phát triển và trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, việc đẩy mạnh bảo vệ môi trường nói chung và hoàn thiện pháp luật hình sự nhằm xử lý tội phạm về môi trường nói riêng là cần thiết, nhằm tránh sự suy kiệt về tài nguyên, huỷ hoại môi trường. Các đề tài nghiên cứu từ năm 2001 - 2021 đã đưa ra nhiều kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định liên quan tới tội phạm môi trường trong BLHS năm 1999, cụ thể như sau:

[1] Bổ sung điều luật về khái niệm các tội phạm về môi trường[26]: Theo đó, “Các tội phạm về môi trường là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do các cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức thực hiện, xâm phạm an toàn sinh thái của xã hội và gây thiệt hại đáng kể cho môi trường thiên nhiên xung quanh và sức khoẻ của con người và các lợi ích khác của trật tự pháp luật môi trường đã quy định.”

[2] Điều chỉnh cấu thành các tội phạm môi trường theo hướng mở rộng khả năng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về môi trường[27]: Theo đó, cần phải loại bỏ các điều kiện nói trên để mở rộng khả năng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm môi trường, tạo điều kiện tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc khi áp dụng pháp luật cho các cơ quan tiến hành tố tụng.

[3] Tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về môi trường và bảo đảm sự tương xứng giữa các chế tài của các tội phạm về môi trường[28].

[4] Tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực môi trường[29], như: Tội vi phạm các quy định về phòng ngừa sự cố môi trường; Tội vi phạm các quy định về quản lý các chất thải nguy hiểm cho môi trường; tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại; Tội phạm về vũ khí sinh học; Tội vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường xung quanh khi tiến hành sản xuất; Tội vi phạm các quy định về an toàn khi tiếp xúc với các độc tố vi sinh hay độc tố sinh học khác...

5.4. Nhóm kiến nghị hoàn thiện quy định đối với các tội phạm về ma tuý

[1] Thống nhất định lượng về ma tuý trong các điều luật quy định về các tội phạm về ma tuý trong BLHS năm 1999[30]: Quy định về các chất ma túy nói chung, định lượng chất ma túy nói riêng cần đảm bảo tính khoa học và tính khái quát, dự liệu cho sự phát triển các loại chất ma túy. Điều này là cần thiết nhằm giải quyết những hạn chế, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm nguy hiểm này.

[2] Tách một số tội danh được quy định trong BLHS năm 1999 nhằm bảo đảm phân hoá TNHS[31]: Kiến nghị này nhằm xác định rpx tính chất và mức độ nguy hiểm (khác nhau) của các hành vi, khả năng chứng minh trên thực tế và yêu cầu đảm bảo phân hoá TNHS, qua đó, góp phần thể hiện tinh thần nhân đạo của pháp luật hình sự. Việc tách thành các điều luật độc lập với nội dung bỏ hình phạt tử hình cho tội tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy.

5.5. Nhóm kiến nghị hoàn thiện quy định đối với các tội phạm xâm phạm trật tự công cộng

[1] Bổ sung tội danh rửa tiền trong BLHS năm 1999[32]: Để tiếp tục hoàn thiện các quy định về tội rửa tiền, tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh có hiệu quả với tội phạm rửa tiền ở nước ta, đồng thời tạo thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống rửa tiền, việc nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Điều 251 BLHS năm 1999 theo hướng bao quát các hành vi rửa tiền được đề cập trong Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (TOC) và các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) là một đòi hỏi khách quan.

[2] Sửa đổi, bổ sung tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet (Điều 226 BLHS năm 1999) theo hướng bổ sung thêm hành vi “thu thập bất hợp pháp thông tin riêng của tổ chức, cá nhân”[33].

[3] Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số hành vi phạm tội mới đối với tội môi giới mại dâm (Điều 255 BLHS)[34]: Ngoài hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt thì cần bổ sung một số hành vi khác cũng là hành vi của tội môi giới mại dâm như: làm trung gian, môi giới giữa người mua dâm và người bán dâm và bổ sung một số tình tiết tăng nặng như môi giới mại dâm đối với người chưa thành niên…

5.6. Nhóm kiến nghị hoàn thiện quy định đối với các tội phạm về chức vụ

Tình hình tội phạm về chức vụ và cuộc đấu tranh phòng, chống các tội phạm về chức vụ tội phạm về chức vụ và cuộc đấu tranh phòng, chống các tội phạm về chức vụ trên thực tế diễn biến phức tạp. Trước bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta cũng thể hiện rõ quan điểm tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Ngoài ra, so với Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng, quy định tội phạm về chức vụ trong BLHS năm 1999 còn nhiều nội dung chưa tương thích. Xuất phát từ những yêu cầu về chính trị, pháp lý, thực tiễn pháp lý quốc tế và trong nước nói trên, các đề tài đã đặt ra kiến nghị sửa đổi quy định tội phạm về chức vụ trong BLHS năm 1999 theo hướng sau:

[1] Đổi tên gọi của Chương XXI của BLHS năm 1999 “Các tội phạm về chức vụ” thành “Các tội phạm về tham nhũng” và chỉ quy định trong chương này các tội phạm về tham nhũng, còn các tội phạm khác có dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì đưa về các chương khác tuỳ theo khách thể bị xâm phạm[35]

[2] Bổ sung các tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực tư vào Chương các tội phạm về chức vụ[36].

[3] Nghiên cứu sửa đổi quy định tại Điều 277 BLHS năm 1999 về khái niệm các tội phạm về chức vụ[37]. Theo đó, khái niệm các tội phạm về chức vụ có thể là: “Các tội phạm về chức vụ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Chương XXI (Các tội phạm về chức vụ) của Bộ luật hình sự do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện trong khi thi hành công vụ hoặc bất kể người nào thực hiện nhưng liên quan tới việc thi hành công vụ của người có chức vụ, quyền hạn một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đơn vị”.

[4] Nội luật hóa các hành vi tham nhũng theo quy định tại Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng[38]. Theo đó, cần bổ sung các hành vi phạm tội trong BLHS năm 1999 như: Lạm dụng chức năng; Làm giàu bất hợp pháp; Biển thủ tài sản trong khu vực tư... để đáp ứng các yêu cầu mà Việt Nam đã cam kết.

5.7. Nhóm kiến nghị hoàn thiện quy định đối với các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

Đấu tranh phòng, chống các tội phạm hoạt động tư pháp là một bộ phận hợp thành của Chương trình quốc gia về phòng, chống tội phạm và nó có một vai trò rất to lớn. Nghị quyết số 49-NQ/TW đã chỉ ra những hạn chế trong giai đoạn bấy giờ như tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý, đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn yếu, thậm trí còn sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Tình trạng oan, sai trong điều tra, truy tố, xét xử, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Bên cạnh đó, thực tiễn xử lý các vụ án về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong giai đoạn nghiên cứu bấy giờ cũng cho thấy một số hạn chế, bất cập của BLHS năm 1999. Do vậy, cần một số kiến nghị sau:

[1] Sửa đổi quy định tại Điều 292 BLHS năm 1999 về khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp[39]. Theo đó, khái niệm mới về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp phải thể hiện được các đặc điểm của các tội phạm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Luật hình sự, do người có chức vụ, quyền hạn thuộc Cơ quan điều tra, cơ quan được giao một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành án, hoặc những người khác thực hiện xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan này trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

[2] Sửa đổi, bổ sung một số điều luật cụ thể của Chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp để giải quyết vướng mắc trên thực tiễn, đồng thời, tuân thủ các yêu cầu của Công ước về việc hình sự hoá các hành vi cản trở công lý và tăng cường hiệu quả đấu tranh chống các hành vi cản trở công lý[40].

[3] Để kịp thời đấu tranh phòng, chống đối với các hành vi nguy hiểm xâm phạm hoạt động tư pháp, cần tội phạm hóa những hành vi nguy hiểm sau trong BLHS năm 1999[41]: Bao gồm hành vi vi phạm chế độ bảo lĩnh; hành vi tiết lộ tài liệu bí mật tài liệu tư pháp; hành vi cố ý để cho bị can thông cung với nhau gây hậu quả nghiêm trọng.

5.8. Nhóm kiến nghị đối với tội khủng bố[42]

Đấu tranh phòng, chống tội phạm khủng bố là một vấn đề được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. Tính đến nay nước ta đã là thành viên của 8/13 Công ước và Nghị định thư liên quan đến chống khủng bố. Các điều ước quốc tế liên quan đến chống khủng bố mà nước ta là thành viên, các Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về chống khủng bố cũng như 9 khuyến nghị đặc biệt của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) yêu cầu phải hình sự hoá hành vi khủng bố, các tổ chức khủng bố và hành vi tài trợ cho khủng bố. Quy định tại Điều 84 BLHS năm 1999 mới chỉ đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia của Việt Nam mà chưa tính đến yêu cầu đấu tranh với các hành vi khủng bố mang tính quốc tế.

Do vậy, nhiều đề tài nghiên cứu đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 84 BLHS năm 1999 một cách cơ bản cả về mặt hành vi cấu thành lẫn về tính chất tội phạm cho phù hợp với các điều ước quốc tế và các văn kiện pháp lý quốc tế khác liên quan đến chống khủng bố là hết sức cần thiết. Cụ thể:

[1] Sửa đổi vị trí điều luật về tội khủng bố trong BLHS nhằm xác định lại khách thể tội này: Theo đó, cần nghiên cứu chuyển Điều 84 BLHS năm 1999 quy định về tội khủng bố từ Chương XI - “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia” về Chương XIX - “Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng”. Việc sửa đổi như vậy góp phần thể hiện rõ tính chất của tội khủng bố, đồng thời, phù hợp với xu hướng chung trong pháp luật hình sự của các quốc gia khác trên thế giới.

[2] Sửa đổi, bổ sung nội dung cấu thành tội khủng bố về dấu hiệu mục đích phạm tội, về hành vi khách quan và về dấu hiệu hậu quả.

[3] Tội phạm hoá hành vi tài trợ khủng bố, nhằm xử lý trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi huy động, hỗ trợ tiền, tài sản cho cá nhân, tổ chức khủng bố hoặc để thực hiện hành vi khủng bố.

6. Nhóm kiến nghị hoàn thiện các quy định về biện pháp xử lý trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội

Với quan điểm xử lý người chưa thành niên phạm tội là nhằm giáo dục, giúp đỡ các em sửa chữa sai lầm, trở thành người có ích cho xã hội, hệ thống chế tài áp dụng đối với người chưa thành niên theo quy định của BLHS năm 1999 tương đối đa dạng và chủ yếu là các chế tài không mang tính giam giữ. Điều này thể hiện sự khoan dung và tin tưởng của Nhà nước vào khả năng tự cải tạo của người chưa thành niên phạm tội. Tuy nhiên, so sánh với các yêu cầu của Công ước về quyền trẻ em thì thấy rằng, các quy định về chế tài của BLHS vẫn còn một số điểm chưa phù hợp với yêu cầu của Công ước. Đặc biệt, Công ước này đặt ra yêu cầu đối với quốc gia thành viên về việc tăng cường áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất của đối tượng yếu thế này.

Để khắc phục các bất cập trên, các đề tài kiến nghị nghiên cứu hoàn thiện các quy định của BLHS năm 1999 nhằm xử lý người chưa thành niên phạm tội như sau:

[1] Hoàn thiện các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội[43]: Cụ thể hoá nguyên tắc chuyển hướng, các đề tài cũng đề xuất xây dựng các biện pháp xử lý chuyển hướng trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm các quốc gia khác trên thế giới (như Australia, Nga, Philippines...).

[2] Sửa đổi BLHS năm 1999 theo hướng hạn chế phạm vi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội[44]. Cụ thể: Hạn chế phạm vi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; Hạn chế khả năng áp dụng hình phạt tù trên cơ sở quy định chặt chẽ hơn điều kiện áp dụng hình phạt này đối với người chưa thành niên; tăng cường áp dụng các hình phạt không tước tự do đối với người chưa thành niên.

[3] Nghiên cứu khả năng chuyển biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hiện nay thành một hình phạt mới - hình phạt giáo dục tại xã, phường, thị trấn - áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội[45].

[4] Nghiên cứu bổ sung biện pháp miễn chấp hành có điều kiện phần còn lại của hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội[46]: Cùng với các chế định miễn, giảm hình phạt hiện nay, biện pháp miễn chấp hành có điều kiện thời hạn còn lại của hình phạt tù sẽ cho phép mở rộng phạm vi người chưa thành niên được sớm quay trở về với cộng đồng, đồng thời, vẫn bảo đảm hiệu quả giáo dục, phục hồi, phòng ngừa tái phạm với những đối tượng này.

7. Nhóm kiến nghị về kỹ thuật lập pháp hình sự

7.1. Các kiến nghị liên quan đến việc mở rộng nguồn của pháp luật hình sự

[1] Kiến nghị mở rộng nguồn của pháp luật hình sự[47]

Kiến nghị này xuất hiện trong hầu hết các đề tài nghiên cứu nhằm phục vụ hiệc hoàn thiện pháp luật hình sự trong giai đoạn từ năm 2001 - 2021. Theo đó, cần thay đổi tư duy và sửa đổi BLHS năm 1999 theo hướng không chỉ có BLHS mà các luật chuyên ngành cũng có thể quy định về tội phạm và hình phạt, và thể hiện quan điểm này ngay trong quy định tại Điều 8 của BLHS về Khái niệm tội phạm.

Việc đề xuất mở rộng nguồn của pháp luật hình sự được đưa ra trong các đề tài này dựa trên nhiều cơ sở chặt chẽ, bao gồm cả cơ sở lý luận, cơ sở chính trị và cơ sở thực tiễn. Đặc biệt, khi cho phép mở rộng nguồn được quy định tội phạm sẽ đem lại nhiều lợi ích cho thực tiễn lập pháp: đảm bảo tính ổn định của BLHS; đảm bảo tính phù hợp kịp thời, tính toàn diện của ngành Luật hình sự; đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; đảm bảo điều kiện cho việc pháp điển hoá. Thêm vào đó, kinh nghiệm lập pháp hình sự của các quốc gia cho thấy hầu hết các nước trên thế giới, nhất là các quốc gia có nhiều kinh nghiệm trong xây dựng và thực thi pháp luật hình sự trong đó có cả các nước phát triển hàng đầu thế giới, nguồn của pháp luật hình sự không chỉ là BLHS mà còn có các văn bản pháp luật chuyên ngành.

[2] Cần khắc phục sự chậm trễ khi vẫn giữ nguyên vị trí của Bộ luật hình sự là nguồn duy nhất được quy định tội phạm[48]: Kiến nghị này được đưa ra với tính chất là phương án dự phòng khi kiến nghị mở rộng nguồn của pháp luật hình sự chưa được chấp nhận. Phương án này chỉ đòi hỏi ban soạn thảo các luật khác (bao gồm cả luật sửa đổi các luật khác) thêm phần việc là dự thảo cả nội dung cần sửa đổi, bổ sung BLHS cho phù hợp với luật đang được soạn thảo. Đây là công việc hoàn toàn có tính khả thi. Tuy nhiên, phương án này có hạn chế là không đảm bảo được tính ổn định của BLHS.

7.2. Nhóm kiến nghị sửa đổi và giải thích các thuật ngữ, khái niệm trong Bộ luật hình sự

Nhóm kiến nghị này được các đề tài, đề án đưa ra đều dựa trên cơ sở: Đánh giá những vướng mắc, sự không thống nhất trong thực tiễn áp dụng quy định của BLHS; Đánh giá tính thống nhất giữa BLHS và các luật chuyên ngành có liên quan đến tội phạm và trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế. Nội dung cụ thể như sau:

[1] Rà soát, sửa đổi các thuật ngữ, tội danh trong BLHS năm 1999[49], bao gồm:

- Nhóm các thuật ngữ trùng với thuật ngữ của ngành luật hành chính; nhóm các thuật ngữ phản ánh chưa rõ, không đúng khái niệm; nhóm thuật ngữ phản ánh chưa chuẩn xác khái niệm, bao gồm: trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, đưa vào trường giáo dưỡng; nhóm thuật ngữ không bảo đảm tính hệ thống, logic; nhóm thuật ngữ chưa đảm bảo tính ngắn gọn; nhóm thuật ngữ chưa chuẩn về ngữ học.

- Rà soát, sửa đổi các tội danh dài do ghép nhiều hành vi, nhiều đối tượng; các tội danh không đúng loại lỗi; các tội danh chưa phù hợp về ngôn ngữ; các tội danh cho tương thích với cách sử dụng trong pháp luật quốc tế.

[2] Giải thích một số thuật ngữ được lặp lại nhiều lần trong BLHS năm 1999[50]

Trong BLHS năm 1999, có nhiều thuật ngữ được lặp lại nhiều lần trong các cấu thành tội phạm khác nhau. Tuy nhiên, một số thuật ngữ mặc dù xuất hiện nhiều lần nhưng lại không bảo đảm tính định lượng, hoặc là thuật ngữ còn chung chung, mơ hồ, dẫn tới việc nhận thức và áp dụng các tình tiết này trong thực tiễn cũng không thống nhất. Cụ thể: Làm rõ dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này” trong quy định của BLHS[51]; Hướng dẫn chi tiết đối với dấu hiệu hậu quả, hậu quả nghiêm trọng, hậu quả rất nghiêm trọng, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng trong các điều luật có cấu thành tội phạm vật chất.

[3] Giải thích thuật ngữ trong một số tội danh cụ thể trong BLHS năm 1999[52]: Cần có văn bản hướng dẫn để phân biệt cụ thể trường hợp giết người (chưa đạt) với “cố ý gây thương tích”; giết người (hoàn thành) với cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người; Làm rõ thế nào là “phạm tội nhiều lần” và “đối với nhiều người” về tội hiếp dâm và hiếp dâm trẻ em quy định tại Điều 111 và Điều 112 và một số điều luật khác của BLHS năm 1999; Hướng dẫn chi tiết đối với các tình tiết “hàng cấm có số lượng lớn, “hàng cấm có số lượng rất lớn”, các tình tiết “hàng phạm pháp”, “hàng giả”, “hàng đầu cơ” có số lượng lớn, rất lớn, đặc biệt lớn; tình tiết “Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ”…

*Nhận xét, đánh giá chung về các nhóm kiến nghị hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 1999

Các nhóm kiến nghị trong các đề tài nói trên đã đặt ra những yêu cầu và định hướng để sửa đổi, bổ sung các quy định trong BLHS năm 1999, bao gồm tất cả các cả quy định trong Phần chung và Phần các tội phạm của BLHS năm 1999. Những kiến nghị này góp phần quan trọng vào việc sửa đổi, bổ sung toàn diện BLHS năm 1999 và thực tế, hầu hết các kiến nghị sửa đổi, bổ sung này đã được ghi nhận trong BLHS năm 2015. Tuy nhiên, một số nhóm kiến nghị lớn vẫn chưa được ghi nhận, hoặc ghi nhận chưa đầy đủ trong Bộ luật mới này (như vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, về nguồn quy định tội phạm và hình phạt, về một số tội phạm cụ thể và vấn đề kỹ thuật lập pháp…). Điều này đặt ra vấn đề tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện BLHS năm 2015.

III. CÁC NHÓM KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015

[1] Hoàn thiện quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại[53]

Việc hoàn thiện các quy định của BLHS năm 2015 về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại là nhằm loại trừ mâu thuẫn giữa các điều luật cũng như giữa các nội dung của điều luật về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Đồng thời việc hoàn thiện này cũng nhằm gắn kết các điều luật về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại với nhau. Theo đó, tất cả các nội dung trong các điều luật thuộc Phần những quy định chung cũng như thuộc Phần các tội phạm thể hiện có tội phạm thứ hai - tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện đều phải được sửa đổi để thể hiện không có tội phạm thứ hai này. Các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Phần các tội phạm phải được sửa đổi để thể hiện sự gắn kết của các điều luật này với điều kiện phải chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại được quy định trong Phần chung. Ngoài ra, nội dung quy định về điều kiện phải chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại cũng cần được sửa đổi để có đảm bảo tính thống nhất. Cụ thể:

- Thứ nhất, sửa khoản 2 Điều 2 BLHS năm 2015 như sau: “Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi các điều kiện phải chịu trách nhiệm hình sự được quy định trong Bộ luật này thỏa mãn”.

- Thứ hai, sửa khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 theo hướng bỏ các từ “hoặc pháp nhân thương mại” để qua đó, khẳng định không có tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện.

- Thứ ba, sửa các khoản quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong 33 điều luật Phần các tội phạm của BLHS năm 2015.

[2] Hoàn thiện quy định trong Chương các tội phạm về môi trường[54]: Để tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS năm 2015, cần nghiên cứu, bổ sung các vấn đề sau: (i) Cần tội phạm hoá một số hành vi nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực môi trường; (ii) Cần tiếp tục hoàn thiện một số quy định về tội phạm môi trường trong BLHS năm 2015 như Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại (Điều 236), Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 239), Tội vi phạm quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 245 BLHS năm 2015)…

[3] Tiếp tục hình sự hóa, phi hình sự hóa một số tội khác[55]: Cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung một sô tội danh cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm như quy định thêm Tội “Xiết nợ”; Tội quấy rối tình dục… Bên cạnh đó, cần bỏ tội lừa dối khách hàng quy định tại Điều 162 BLHS năm 2015; sửa đổi Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 BLHS năm 2015; Điều chỉnh các điều luật: nghiên cứu đưa “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” được quy định tại Điều 226b BLHS năm 2015 vào chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” cho phù hợp với bản chất của tội phạm này là chiếm đoạt tài sản...

[4] Tiếp tục rà soát BLHS năm 2015 nhằm đảm bảo với các Hiệp định quốc tế mà Việt Nam mới gia nhập[56]: Cụ thể, Quốc hội đã phê chuẩn Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định CPTPP), điều này đặt ra các yêu cầu về việc rà soát pháp luật Viêt Nam, trong đó có BLHS năm 2015 nhằm đảm bảo tương thích đối với các yêu cầu của Hiệp định. Qua nghiên cứu pháp luật các nước cho thấy, giữa BLHS năm 2015 và pháp luật hình sự các nước đang còn có những khoảng cách nhất định trong việc áp dụng pháp luật hình sự, trong đó có TNHS của pháp nhân thương mại. Pháp luật hình sự các nước đều quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân nói chung mà không có sự phân biệt đối với pháp nhân thương mại.

[5] Rà soát để giải thích, hướng dẫn đối với một số thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong BLHS năm 2015 mà chưa được hiểu thống nhất như[57]: Các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng,gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, “trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng”, “phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”,  “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”; Các tình tiết: “Số lượng lớn, số lượng rất lớn; số lượng đặc biệt lớn", được quy định tại 09 khoản, trong 4 điều; Các tình tiết “hành vi khác”, “thủ đoạn khác”, “dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt”; Một số tình tiết khác: như tình tiết “hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân”; tình tiết “xúc phạm nghiêm trọng”; tình tiết “ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe”…

IV. CÁC NHÓM KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CHUYÊN NGÀNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CÁC CHẾ ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ

1. Hoàn thiện pháp luật về môi trường

Để góp phần phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi trường, bên cạnh hoàn thiện pháp luật hình sự quy định tội phạm về môi trường, Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp luật về môi trường” (năm 2001) đã đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về môi trường theo hướng bảo đảm tính thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Các kiến nghị cụ thể như sau:

[1] Quy định cụ thể về các trách nhiệm phi hình sự: Theo đó, cần quy định rõ ràng hơn đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như trách nhiệm khôi phục môi trường. Đồng thời, cần bổ sung quy định cụ thể về quyền khởi kiện của tổ chức, cá nhân đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về môi trường.

[2] Quy định rõ về thủ tục giải quyết tranh chấp dân sự trong lĩnh vực môi trường, bao gồm: Quy định các nguyên tắc giải quyết tranh chấp, trình tự, thủ tục, hình thức giải quyết tranh chấp, cách xác định bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường và quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi gây hại tới môi trường.

2. Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống rửa tiền

Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các hình thức rửa tiền sử dụng công nghệ cao ngày càng phổ biến, nên việc hoàn thiện pháp luật nhằm ứng phó với tội phạm rửa tiền công nghệ cao là cần thiết. Hơn nữa, Việt Nam đang trong bối cảnh đẩy mạnh hợp tác quốc tế, điều này đặt ra yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về phòng, chống rửa tiền nhằm đáp ứng yêu cầu của các Công ước quốc tế liên quan đến tội phạm rửa tiền và kịp thời đấu tranh với tội phạm rửa tiền có tính chất xuyên quốc gia.

Xuất phát từ bối cảnh và những yêu cầu đó, Đề tài “Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0” (năm 2019) đã đưa ra một số nhóm kiến nghị sau:

[1] Bổ sung đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012 tại Điều 2 gồm cả “các cá nhân, tổ chức nước ngoài không cư trú, không hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, nhưng có giao dịch hoặc cung ứng dịch vụ liên quan đến giao dịch tiền tệ hay tài sản khác tại Việt Nam”.

[2] Sửa đổi, bổ sung Khoản 3 Điều 4 Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012 về tổ chức tài chính: Theo đó, cần quy định “tổ chức tài chính” là những tổ chức thực hiện hoặc cung cấp dịch vụ cho những hoạt động liên quan đến rửa tiền (không chỉ bao gồm những tổ chức được cấp phép); đồng thời đưa hoạt động “thanh toán, cung ứng dịch vụ liên quan tiền điện tử, tiền kỹ thuật số, tiền ảo, tài sản ảo” vào trong điểm đ của khoản này.

[3] Bổ sung về khái niệm “giao dịch chuyển tiền điện tử” trong Điều 4 Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012.

Ngoài ra, đề tài này cũng đưa ra kiến nghị nghiên cứu, ban hành mới Nghị định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và chống phổ biến vũ khí để áp dụng thống nhất trong tất cả các ngành, tránh tình trạng mỗi ngành quy định hành vi khác nhau và mức xử phạt khác nhau đối với cùng một hành vi. Bên cạnh đó, bổ sung điều khoản phạt liên quan đến hành vi không đảm bảo có các biện pháp nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng khi giao dịch có liên quan đến công nghệ mới mà không gặp mặt trực tiếp khách hàng.

V. CÁC NHÓM KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Nhìn chung, các kiến nghị thuộc nhóm này đưa ra dựa trên những cơ sở đó là:

- Về cơ sở chính trị - pháp lý: Nghị quyết số 49-NQ/TW về cải cách tư pháp và bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt ra những yêu cầu đối với hoàn thiện các thủ tục tố tụng hình sự nhằm thúc đẩy việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

- Về cơ sở thực tiễn: Quá trình thi hành các quy định của BLTTHS năm 2003 cũng cho thấy một số hạn chế, vướng mắc phát sinh, mà nguyên nhân của thực tế này một phần từ việc các quy định pháp luật còn thiếu thống nhất, chưa rõ ràng.

Ngoài ra, quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng cũng đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nhằm thực hiện các cam kết trong công ước mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về phòng, chống tham nhũng.

1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự theo các yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp

- Quy định chặt chẽ và hợp lý các thủ tục tố tụng, các hành vi tố tụng của những người tiến hành và những người tham gia tố tụng[58]: Điều này vừa góp phần bảo vệ quyền con người, đồng thời, sẽ là biện pháp phòng ngừa quan trọng vì đó tránh được những kẽ hở mà người phạm tội có thể lợi dụng để thực hiện các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp.

- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ quy trình tố tụng theo hướng cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, bình đẳng, chặt chẽ nhưng thuận tiện, dễ tiếp cận, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp[59]. Kiến nghị này nhằm đảm bảo thực hiện các yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp, đồng thời, nhằm nâng cao chất lượng của thủ tục tố tụng tư pháp ở nước ta để theo kịp xu hướng các quốc gia khác trên thế giới.

- Mở rộng tranh tụng trong tất cả các phiên toà hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp[60]. Theo đó, cần bảo đảm cho luật sư được phép tham gia tố tụng ngay khi khởi tố bị can, bị tạm giữ, thậm chí là ngay khi cá nhân bị coi là nghi phạm và bị cơ quan điều tra tiếp xúc, thẩm vấn. Các quy định về tố tụng phải bảo đảm cho luật sư được tranh tụng bình đẳng với cơ quan công tố.

- Hoàn thiện quy định về các biện pháp ngăn chặn[61]: Trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cần xác định rõ hơn các căn cứ tạm giam; hạn chế áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm và chủ thể phạm tội (như người chưa thành niên, người già yếu, người có hoàn cảnh đặc biệt...)…

- Hoàn thiện chế định Hội thẩm nhân dân[62]: Chế định này cần được tiếp tục sửa đổi nhằm hoàn thiện theo hướng Hội thẩm phải là người đại diện cho tiếng nói của người dân, thể hiện quan điểm, thái độ của người dân trong việc xem xét, phán quyết các vụ án hình sự trên cơ sở quy định của pháp luật, tránh việc chuyên nghiệp hoá Hội thẩm, “thẩm phán hoá Hội thẩm”.

2. Quy định cụ thể chế định minh oan cho người vô tội, chế định bồi thường thiệt hại do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng gây ra

Một trong các nhiệm vụ của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền là bảo đảm công bằng tránh oan, sai. Song song với đó, cần xây dựng một cơ chế nhằm minh oan một cách nhanh chóng và hoàn toàn cho người vô tội. Kiến nghị này được đưa ra với những nội dung cụ thể sau:

- Khẳng định minh oan là một trong các nguyên tắc của luật tố tụng hình sự;

- Các căn cứ để cho người bị tình nghi là phạm tội hoặc bị cáo không bị coi là người có tội và phải được minh oan: (i) Không có sự kiện phạm tội mà vụ án hình sự vẫn được khởi tố, điều tra hoặc xét xử; (ii) Hành vi mà họ đã thực hiện không phải là tội phạm; (iii) Họ không có liên quan gì đến việc thực hiện tội phạm; (iv) Kiểm sát viên rút cáo trạng buộc tội bị cáo tại phiên tòa; Các căn cứ và những hậu quả của sự minh oan, cũng như trình tự bồi thường thiệt hại và phục hồi các quyền lợi cho người được minh oan...

3. Hoàn thiện và hướng dẫn thi hành các thủ tục quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên

- Xây dựng một chương riêng trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định riêng đối với đối tượng là người chưa thành niên[63]: Theo đó, chương này quy định rõ những vấn đề liên quan đến họ, quyền và lợi ích, nghĩa vụ của họ trong quá trình tố tụng bao gồm cả việc thông báo về các quyền và vai trò của họ, phạm vi, thời gian và tiến trình của các thủ tục tố tụng.

- Hướng dẫn cụ thể các quy định liên quan đến người chưa thành niên: Trong quá trình ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành BLTTHS năm 2003 cần phải cân nhắc để quy định về việc gửi bản sao, quyết định đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ vụ án cho nạn nhân, cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp trong trường hợp nạn nhân là người chưa thành niên, các quy định về bảo vệ nạn nhân và nhận dạng của nạn nhân cũng cần phải được cụ thể hoá và hoàn thiện.

- Tăng cường hơn nữa việc bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của trẻ em là nạn nhân trong quá trình tố tụng: Việc bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của nạn nhân bị lạm dụng là trẻ em có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc bảo đảm rằng các em sẽ không bị kẻ phạm tội đe doạ hay trả thù; đồng thời, đối với một số tội phạm có tính nhạy cảm thì việc bảo vệ bí mật đời tư và nhận dạng của các em trong quá trình tố tụng là một biện pháp hết sức có ý nghĩa trong việc giúp các em  xoá bỏ mặc cảm, tái hoà nhập cộng đồng và từ đó đảm bảo rằng các em đó sẽ được phát triển một cách lành mạnh, toàn diện cả về thể lực và trí lực.

- Nghiên cứu khả năng thiết lập một Chương trình hỗ trợ nạn nhân để hỗ trợ nạn nhân là người chưa thành niên: Nhân viên của Chương trình này có thể bao gồm những người làm công tác xã hội và các nhà tâm lý học. Họ sẽ hỗ trợ Kiểm sát viên và cảnh sát trong việc chuẩn bị cho nhân chứng và tiến hành các hoạt động tư vấn. Ở nhiều nước, Chương trình này hoạt động phối hợp với các tổ chức phi chính phủ có kinh nghiệm trong việc hoạt động trong lĩnh vực trẻ em khó khăn.

4. Bổ sung các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 nhằm nâng cao khả năng tiếp cận của người tham gia tố tụng đối với các cơ quan tố tụng hình sự

[1] Bổ sung quy định về người giám định, người phiên dịch được quyền nhận các biên bản, quyết định tố tụng, bản án liên quan đến vụ việc được tham gia; quyền tranh luận tại phiên toà; được quyền kháng cáo, khiếu nại, tố cáo đối với các quyết định, hành vi của cơ quan, người tiến hành tố tụng hình sự; quyền được mời người bào chữa hay được hưởng sự trợ giúp của luật sư; quyền được yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng nếu có căn cứ cho rằng người đó không vô tư khách quan trong khi làm nhiệm vụ; quyền được xem biên bản phiên toà, được bổ sung, sửa đổi biên bản làm việc với các cơ quan tiến hành tố tụng.

[2] Bổ sung quy định cho người làm chứng “quyền được trở thành người làm chứng” trong vụ án hình sự và được đảm bảo bởi các biện pháp tương ứng để khuyến khích công dân tiếp cận với các cơ quan tiến hành tố tụng, coi việc ra tòa làm chứng là nghĩa vụ đồng thời cũng là quyền của công dân, hạn chế việc phải triệu tập công dân với tư cách nhân chứng như hiện nay.

[3] Bổ sung quyền của bị can và những người tham gia tố tụng được cung cấp kết luận giám định nhằm xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan trưng cầu giám định; quy định quyền của người làm chứng hoặc người bị hại được đưa ra yêu cầu giám định, lựa chọn cơ quan giám định, đề nghị giám định bổ sung hoặc giám định lại nhằm tránh cho người làm chứng, người bị hại phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 và Điều 308 của BLTTHS năm 2003.

[4] Quy định quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng khi thực hiện Điều 227 BLTTHS năm 2003. Cụ thể là theo Điều 227 BLTTHS năm 2003 thì Hội đồng xét xử phải tuyên bố trả tự do ngay tại phiên toà cho bị cáo đang bị tạm giam khi bị cáo không có tội, nếu bị cáo không phạm tội khác. Vì vậy, trong trường hợp này nếu người bị hại yêu cầu khởi tố vụ án không đồng tình với bản án sơ thẩm thì họ có quyền kháng cáo không? Những bị cáo được tuyên bố trả tự do tại phiên toà sơ thẩm khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian bị cáo bị tạm giam thì tư cách của họ là gì khi tham gia phiên toà phúc thẩm, họ có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm không? (bởi vì về nguyên tắc họ đã chấp hành xong hình phạt tù nên không thể là bị cáo, cũng không phải là người bị kết án). Những điều này cần được làm rõ trong quy định về quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng.

5. Hoàn thiện thể chế nhằm bảo vệ người làm chứng trong các vụ án hình sự[64]

Việc hoàn thiện cơ chế bảo vệ người làm chứng có vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt trước yêu cầu của công tác đấu tranh chống các tổ chức tội phạm và tội phạm tham nhũng. Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, trước sự đe dọa và sức ép từ phía các tổ chức tội phạm, nhiều người dù biết hoạt động phạm pháp nhưng không dám đứng ra tố cáo vì sợ bị trả thù. Ngoài ra, kiến nghị này còn nhằm đáp ứng yêu cầu tại Điều 33 Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng, trong đó quy định về bảo vệ người tố giác. Nội dung cụ thể bao gồm:

[1] Trước mắt, bổ sung quy định về cơ chế bảo vệ người làm chứng trong các vụ án hình sự trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

[2] Về lâu dài, nghiên cứu xây dựng Luật Bảo vệ nhân chứng: Luật này cần làm rõ một số nội dung như người thân thích của nhân chứng gồm những ai, các biện pháp cụ thể để bảo vệ nhân chứng là gì, thực hiện như thế nào... với mục đích bảo vệ quyền lợi, tính mạng, sức khỏe cho những người dân khi họ phối hợp, cộng tác, giúp đỡ các cơ quan pháp luật trong đấu tranh chống tội phạm.

VI. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ NHÓM KIẾN NGHỊ VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

Các đề tài về chính sách, pháp luật hình sự, tố tụng hình sự trong giai đoạn 2001 - 2021 đã đặt ra nhiều kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình sự trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và góp phần bảo đảm quyền con người theo yêu cầu của Hiến pháp năm 2013. Đặc biệt, trong quá trình sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2009 và ban hành BLHS năm 2015, phần lớn các kiến nghị trong các đề tài nghiên cứu đã được ghi nhận và thể chế hoá. Tuy nhiên, một số kiến nghị vẫn còn chưa được ghi nhận, hoặc ghi nhận chưa đầy đủ trong BLHS năm 2015.

Đồng thời, bối cảnh kinh tế - xã hội luôn vận động từng ngày tiếp tục đặt ra những yêu cầu nghiên cứu hoàn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình sự. Trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình sự theo một số định hướng sau: Nghiên cứu mở rộng nguồn của pháp luật hình sự, theo đó, tội phạm không chỉ được quy định trong BLHS mà cả các luật chuyên ngành. Điều này cũng góp phần tội phạm hoá kịp thời những hành vi nguy hiểm cho xã hội; Nghiên cứu các giải pháp nhằm phòng, tránh hình sự hoá các quan hệ dân sự, kinh tế; Hoàn thiện chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và chế định tổ chức tội phạm; Hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hình sự; Tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự và tố tụng hình sự nhằm nội luật hoá những yêu cầu trong công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã là thành viên; Nghiên cứu xây dựng cơ chế bảo vệ nhân chứng trong các vụ án hình sự, đặc biệt là án tham nhũng…

 

 

Chương 2. NỘI DUNG NHÓM KIẾN NGHỊ LIÊN QUAN ĐẾN LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TƯ PHÁP, THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN ĐỔI MỚI TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYN TƯ PHÁP, CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG

 

I. BỐI CẢNH CỦA CÁC ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU TỪ NĂM 2001 - 2021

1. Bối cảnh thực hiện các quan điểm của Hiến pháp năm 1992 (trong thời gian từ năm 2001 đến trước khi ban hành Chiến lược cải cách tư pháp) và những năm đầu thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp

Ở giai đoạn này, việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện trên tinh thần của Hiến pháp năm 1992. Tuy nhiên, các quy định của Hiến pháp năm 1992 vẫn còn dấu ấn, tàn dư của cơ chế tập trung, hành chính, bao cấp; các quan điểm về nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các quan điểm về hội nhập quốc tế… vẫn còn ở giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới. Do vậy, việc sửa đổi Hiến pháp đã được đặt ra, trong đó, có yêu cầu sửa đổi Hiến pháp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ từ cuối năm 2000. Điều này đặt ra yêu cầu nghiên cứu, điều chỉnh tổng thể đối với hệ thống pháp luật và tư pháp trước những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế.

Nghị quyết số 49-NQ/TW xác định lấy Toà án là trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Đây là một trong những mục tiêu và cách tiếp cận đúng và phù hợp với thông lệ chung trên thế giới. Tuy nhiên, Nghị quyết số 49-NQ/TW ra đời trong bối cảnh thể chế và thiết chế các cơ quan tư pháp đã được định hình và vận hành trong một thời gian dài. Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992, cơ sở hiến định cho tổ chức và hoạt động tư pháp nói riêng và tổ chức bộ máy nhà nước nói chung còn chưa có sự đổi mới, nên chưa thể giải quyết được một cách triệt để vấn đề cải cách tư pháp.

2. Bối cảnh thực hiện Hiến pháp năm 2013 và thúc đẩy thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp

Giai đoạn này đánh dấu bước tiến lớn trong việc nghiên cứu hoàn thiện lý luận về quyền tư pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp và đổi mới tổ chức, hoạt động của cơ quan thực hiện quyền tư pháp, cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Toà án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp

Thứ hai, các yêu cầu về cải cách tư pháp trong Nghị quyết 49-NQ/TW tiếp tục được triển khai mạnh mẽ, theo đó, cần thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính.

- Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra.

- Trước mắt, tiếp tục thực hiện mô hình tổ chức cơ quan điều tra theo pháp luật hiện hành; nghiên cứu và chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới tổ chức lại các cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động điều tra tố tụng hình sự.

II. NHÓM KIẾN NGHỊ LIÊN QUAN ĐẾN LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TƯ PHÁP VÀ THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP

1. Kiến nghị liên quan đến lý luận về quyền tư pháp

[1] Quyền tư pháp cần được ghi nhận trong Hiến pháp và trong mối quan hệ với các nhánh quyền lực khác như sau[65]: Theo đó, cần quán triệt nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Nguyên tắc này nhằm khắc phục tình trạng lẫn lộn, chồng chéo giữa ba quyền có thể làm suy yếu quyền lực nhà nước nói chung. Tuy nhiên, đây là kiến nghị được đưa ra vào năm 2001. Hiện nay, nguyên tắc này đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013.

[2] Xây dựng hệ thống lý luận hoàn chỉnh về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền[66]. Kiến nghị này kế thừa những quan điểm, định hướng cơ bản của Nghị quyết số 49-NQ/TW, và đề xuất những điều chỉnh cần thiết về:

- Mục tiêu cải cách tư pháp phải hướng tới xác định rõ Tòa án - cơ quan thực hiện quyền tư pháp, phải thực sự trở thành biểu tượng của công lý, lẽ phải, công bằng, là công cụ dễ tiếp cận, đáng tin cậy và hiệu quả để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mọi cá nhân, tổ chức, của Nhà nước.

- Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án đã được quy định tại Hiến pháp năm 2013 phải được tiếp tục hoàn thiện và được cụ thể hóa nhất quán, đồng bộ xuyên suốt trong các luật về tổ chức và tố tụng tư pháp, đặc biệt là nguyên tắc “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tổ chức và hoạt động của Tòa án.

- Việc cải cách các thủ tục tố tụng tư pháp (hình sự, dân sự, hành chính…) và cơ chế vận hành của nền tư pháp là khâu đột phá của cải cách tư pháp.

2. Các kiến nghị liên quan đến việc thực hiện quyền tư pháp

Kiến nghị này tập trung vào việc khẳng định Toà án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Tuy nhiên, cần hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết số 49-NQ/TW về cải cách tư pháp. Đặc biệt, kiểm soát các việc thực hiện quyền tư pháp cũng là hoạt động phòng ngừa có hiệu quả nhất đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Nội dụng cụ thể của các kiến nghị liên quan đến việc thực hiện quyền tư pháp như sau:

[1] Xác định rõ cơ quan thực hiện quyền tư pháp[67]: Theo đó, cần xác định và khẳng định rõ Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đồng thời, phải xác định lại cho rõ tính chất quyền lực, vị trí (phân công) trong tổ chức quyền lực nhà nước của từng thiết chế tham gia vào quá trình thực hiện quyền tư pháp (như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án) trong mối quan hệ với Tòa án. Bên cạnh đó, cần loại bỏ mọi sự can thiệp của các cơ quan, tổ chức và cá nhân vào hoạt động tư pháp.

[2] Kiến nghị đối với giải pháp trước mắt nhằm hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp như sau[68]:

- Về phân công thực hiện quyền tư pháp: nghiên cứu giao thẩm quyền xử lý các vi phạm hành chính cho Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng tư pháp và quy định rõ về chức năng bảo vệ Hiến pháp của Tòa án.

- Về phối hợp thực hiện quyền tư pháp: Cần xây dựng tiêu chí xác định các loại vụ việc đưa vào chương trình giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội, và duy trì cơ chế giải quyết khiếu nại của công dân đối với các quyết định, hành vi hành chính.

- Về kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp: Cần xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng một đạo luật với việc hình thành một thiết chế bảo vệ Hiến pháp như nêu trên.

[3] Kiến nghị đối với giải pháp lâu dài nhằm hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp như sau[69]:

- Về phân công thực hiện quyền tư pháp: Cần khẳng định lại rằng Toà án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Tòa án có chức năng giải quyết mọi tranh chấp trong xã hội (giữa cá nhân, tổ chức với nhân; giữa Nhà nước với cá nhân và tổ chức). Toà án có quyền tuyên bố không áp dụng một văn bản và trên cơ sở Hiến pháp, giải thích Hiến pháp áp dụng trực tiếp trong các vụ việc của mình.

- Về phối hợp thực hiện quyền tư pháp: Theo đó, cần sửa đổi các quy định về việc thực hiện các vụ việc xem xét tư pháp theo hướng phải do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định, các cơ quan của Quốc hội không có quyền xem xét trực tiếp các vụ án đã có hiệu lực pháp luật.

- Về kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp: Cần xây dựng cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với việc thực hiện quyền tư pháp. Cụ thể, cần nghiên cứu xây dựng mô hình thanh tra Quốc hội là thiết chế độc lập được thành lập theo Hiến pháp để thực hiện xem xét các phán quyết Toà án. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu xây dựng cơ chế tăng cường chức năng kiểm soát của Chính phủ đối với cơ quan thực hiện quyền tư pháp thông qua việc chuyển Viện kiểm sát nhân dân theo Viện công tố thuộc hệ thống hành pháp.

III. NHÓM KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP, CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG

1. Nhóm kiến nghị đối với Toà án nhân dân

[1] Tổ chức lại hệ thống tòa án theo cấp xét xử[70]: Theo đó, cần tiếp tục nghiên cứu thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về  xây dựng Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực có thẩm quyền xét xử như của Tòa án nhân dân cấp huyện, được thành lập ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện trong cùng một tỉnh, trong đó đảm bảo tính độc lập và nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực; cơ chế đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của cơ quan dân cử đối với hoạt động của Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực; quan hệ phối họp giữa Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực và Viện kiểm sát nhân dân khu vực với cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án.

[2] Trong tố tụng hình sự phải hình thành cơ chế kiềm chế và đối trọng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng để hoạt động tư pháp bảo đảm tính độc lập, khách quan, thực thi đúng pháp luật[71]: Theo đó, một số quan điểm, chủ trương lớn, quan trọng cần được khẳng định ở tầm quyết sách cao nhất của Đảng, trong đó có xác lập cơ chế kiểm soát quyền lực cân bằng, hiệu lực, hiệu quả giữa cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cụ thể hóa cơ chế này trong hoạt động tố tụng tư pháp, nhất là trong tố tụng hình sự phải hình thành cơ chế kiềm chế và đối trọng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, để hoạt động tư pháp bảo đảm tính độc lập, khách quan, thực thi đúng pháp luật.

[3] Đổi mới phương thức, hình thức lãnh đạo của Đảng với cơ quan tư pháp phù hợp với đặc thù tổ chức và hoạt động của Tòa án và các thiết chế liên quan trong điều kiện cải cách tư pháp[72]: Muốn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa “sự lãnh đạo của Đảng” với “tư pháp độc lập” cần vận dụng sáng tạo, hợp lý vào lĩnh vực tư pháp trong điều kiện tiếp tục cải cách tư pháp các nguyên tắc, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong các văn kiện cao nhất của Đảng và Nhà nước, đó là Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013.

[4] Tăng cường vai trò của Toà án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự theo hướng trong giai đoạn điều tra, truy tố, hoạt động tố tụng hoàn toàn thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát[73]. Toà án không can thiệp vào bất cứ hoạt động nào được tiến hành trong các giai đoạn này. Tuy nhiên, kể từ khi hồ sơ vụ án cùng quyết định truy tố tội phạm được chuyển sang Toà án, Toà án có quyền tuyên bố tính vô hiệu của chứng cứ, không chấp nhận các kết quả tố tụng đã được thực hiện trong các giai đoạn này nếu phát hiện quá trình thực hiện vi phạm nghiêm trọng các thủ tục tố tụng, vi phạm các quyền con người đã được luật định.

[5] Khẳng định địa vị và vị thế đặc biệt của Thẩm phán[74]: Một số đề tài kiến nghị không nên coi Thẩm phán là công chức mà cần coi đây là một ngạch quan chức tư pháp riêng. Giải pháp này sẽ tạo được vị thế riêng và cao quý của Thẩm phán không bị phụ thuộc vào các quy định áp dụng đối với công chức (như về công tác cán bộ, khen thưởng, kỷ luật, chế độ lương…).

[6] Cần phải quán triệt nội dung của nguyên tắc Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật[75]: Theo đó, “độc lập” là “quyền” của Thẩm phán, từ đó chú trọng tới việc quy định các biện pháp trong luật để bảo đảm đảm cho Thẩm phán được độc lập. Đồng thời không xem xét vấn đề “độc lập thẩm phán một cách biệt lập” mà cần phải đặt nó trong mối quan hệ với trách nhiệm phải khách quan của Thẩm phán. Bất kỳ biện pháp nào được áp dụng cần phải vừa bảo đảm sự độc lập vừa bảo đảm có thể ràng buộc được trách nhiệm của Thẩm phán.

2. Nhóm kiến nghị đối với Viện kiểm sát nhân dân

[1] Xác định chức năng của Viện kiểm sát theo đúng chủ trương của Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng: “Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”[76]. Đây là kiến nghị nằm trong đề tài được nghiên cứu vào năm 2001, đến nay, vấn đề này đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013.

[2] Về lâu dài tiếp tục nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố đối với hoạt động điều tra[77]: Kiến nghị này nhằm thực hiện nhiệm vụ được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp. Theo mô hình này thì Viện công tố chỉ có chức năng duy nhất là thực hành quyền công tố, là cơ quan thuộc nhánh hành pháp tham gia thực hiện quyền tư pháp đồng thời kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án thông qua thủ tục kháng cáo bản án, quyết định của Hội đồng xét xử. Cùng với Viện Công tố, các cơ quan thi hành án hình sự, thi hành án dân sự thuộc Chính phủ sẽ tạo thành các công cụ và cơ chế kiểm soát của hành pháp đối với việc thực hiện quyền tư pháp, khắc phục một bất cập lớn hiện nay là sự biệt lập hoàn toàn giữ hai nhánh quyền lực này.

3. Nhóm kiến nghị đối với cơ quan điều tra[78]

Nhóm kiến nghị này được đưa ra trong Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035” (năm 2019). Theo đó, nhằm thực hiện các yêu cầu của Nghị quyết số 49-NQ/TW về cải cách tư pháp, nhóm kiến nghị này được nghiên cứu, đề xuất với các nội dung cụ thể như sau:

[1] Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức, hoạt động cơ quan điều tra hình sự: Theo đó, cần tổ chức sắp xếp các cơ quan điều tra theo hướng gọn nhẹ, chỉ đạo thông suốt, hoạt động độc lập, tuân thủ pháp luật, hiệu lực, hiệu quả không phụ thuộc vào đơn vị hành chính.

[2] Nghiên cứu những giải pháp đồng bộ về cơ chế phối hợp giữa các lực lượng trong công tác điều tra hình sự: Tiếp tục nghiên cứu để đưa ra những giải pháp đồng bộ, cả về tăng cường cơ sở pháp lý, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các lực lượng trong công tác điều tra hình sự nhằm khắc phục những khó khăn, bất cập nảy sinh, đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn công tác điều tra hình sự.

[3] Nghiên cứu đánh giá việc tổ chức Cơ quan điều tra thuộc Viển kiểm sát nhân dân tối cao. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra, do vậy, cần phải có nghiên cứu để đánh giá lại và làm rõ hơn về mặt lý luận cũng như thực tiễn việc tổ chức Cơ quan điều tra thuộc VKSNDTC để đánh giá sự phù hợp của việc tổ chức đó, trong đó, cần phải đánh giá được với cơ chế giám sát như hiện nay thì hoạt động của Cơ quan điều tra VKSNDTC có đảm bảo tính khách quan hay không. Từ đó, có đề xuất kiến nghị, đề xuất về nội dung này.

[4] Nghiên cứu để chuẩn hoá đội ngũ điều tra viên thuộc Cơ quan điều tra các cấp: Tiếp tục nghiên cứu để chuẩn hoá đội ngũ điều tra viên thuộc Cơ quan điều tra các cấp theo quy định của pháp luật; khẩn trương tiến hành để bảo đảm đủ số lượng cán bộ đạt tiêu chuẩn luật định và đáp ứng yêu cầu công tác điều tra hình sự trong tình hình mới.

IV. NHÓM KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ TƯ PHÁP, CHỨC DANH TƯ PHÁP[79]

Để nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ tư pháp, chức danh tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có đủ phẩm chất, đạo đức, tự trọng, có lương tâm nghề nghiệp, có tinh thần phục vụ nhân dân, có kiến thức sâu rộng, bao gồm cả kiến thức luật pháp quốc tế, tinh thông về nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ trên các lĩnh vực công tác tư pháp - một lĩnh vực rất nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:

[1] Nâng cao nhận thức về sự cần thiết, tầm quan trọng của công tác xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ tư pháp, chức danh tư pháp: Để nâng cao nhận thức, cần chú trọng công tác tuyên truyền, thông tin rộng rãi để toàn xã hội, đặc biệt là đối với các cơ quan quản lý, người đứng đầu các đơn vị và bản thân mỗi cán bộ hiểu rõ hơn về sự cần thiết cũng như trách nhiệm của mình đối với công tác xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ tư pháp, chức danh tư pháp.

[2] Rà soát sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các văn bản về quản lý, xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ tư pháp, chức danh tư pháp: Theo đó, cần hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng công chức cần tập trung vào một số nội dung cụ thể như: tiêu chuẩn chức danh; tuyển dụng; thi tuyển; cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc ở các cơ quan tư pháp; đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp; cơ chế loại bỏ, miễn nhiệm những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật...

[3] Đổi mới công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ tư pháp, theo đó: Cần chủ động tạo nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm bổ sung cho đội ngũ cán bộ tư pháp, chức danh tư pháp; Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển cạnh tranh vào các chức danh tư pháp như Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra

[4] Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tư pháp, chức danh tư pháp: Cần chú trọng công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Đổi mới mạnh mẽ, toàn diện nội dung, phương pháp đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, bảo đảm cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao. Nâng cao chất lượng cơ sở đào tạo chuyên ngành luật hiện nay, triển khai hiệu quả các đề án xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật, có đội ngũ cán bộ, giảng viên vững mạnh...

[5] Đổi mới chế độ đánh giá cán bộ hàng năm theo hướng gắn với kết quả hoàn thành nhiệm vụ.

[6] Đổi mới chế độ, chính sách về tiền lương và các chế độ đãi ngộ khác nhằm động viên, khuyến khích đội ngũ cán bộ tư pháp yên tâm, tận tụy với công việc.

[7] Đổi mới và hoàn thiện tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ, phát huy và đề cao vai trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác quản lý, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, chức danh tư pháp.

V. NHẬN XÉT CHUNG VỀ CÁC NHÓM KIẾN NGHỊ VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

Nhìn chung, các nhóm kiến nghị trong Chương 2 đã cụ thể hoá một cách đầy đủ các yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Theo đó, các đề tài đã tập trung vào các kiến nghị hoàn thiện lý luận về quyền tư pháp; khẳng định Toà án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp; hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền tư pháp.

Qua nghiên cứu cho thấy phần lớn kiến nghị trong các đề tài trước giai đoạn ban hành Hiến pháp năm 2013 cũng đã được ghi nhận và thể chế hoá. Các kiến nghị trong các đề tài giai đoạn sau Hiến pháp năm 2013 về cơ bản cũng thể hiện quan điểm thống nhất nhằm tiếp tục thực hiện Chiến lược cải tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu thực hiện các kiến nghị nêu trên để đạt được các mục tiêu đề ra. Đặc biệt, trong thời gian trước mắt, cần đẩy mạnh việc nghiên cứu và đề xuất đối với một số nội dung sau: Thống nhất lý luận về quyền tư pháp chỉ là quyền xét xử của Toà án; Xác định rõ Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp; Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp (Tòa án) đã được quy định tại Hiến pháp năm 2013 phải được tiếp tục hoàn thiện và được cụ thể hóa nhất quán, đồng bộ xuyên suốt trong các luật về tổ chức và tố tụng tư pháp, đặc biệt là nguyên tắc “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tổ chức và hoạt động của Tòa án; Tiếp tục nghiên cứu việc tổ chức lại hệ thống Toà án theo cấp xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; Tiếp tục nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố đối với hoạt động điều tra.

 

 

Chương 3. NỘI DUNG NHÓM KIẾN NGHỊ VỀ LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN

Các đề tài cấp Bộ thuộc nhóm này bao gồm cả các lĩnh vực thi hành án dân sự, thi hành án hành chính và thi hành án hình sự. Tuy nhiên, các chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp có nội dung quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, thi hành án hành chính nên các đề tài này cũng tập trung vào công tác thi hành án dân sự và thi hành án hành chính. Chỉ có một số ít đề tài nghiên cứu về chính sách, pháp luật hình sự và tố tụng hình sự vẫn bao quát cả nhóm kiến nghị liên quan đến thi hành án hình sự, nhưng số kiến nghị này không nhiều.

I. BỐI CẢNH CỦA CÁC ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU VỀ LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2001 - 2021

1. Bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và yêu cầu về bảo vệ quyền con người, quyền công dân

Thi hành án là giai đoạn tiếp theo hoạt động xét xử của Toà án, là một giai đoạn quan trọng của quá trình tố tụng. Dù là tự nguyện hay cưỡng chế thì hoạt động thi hành án cũng thường xuyên phải đụng chạm đến các quyền và lợi ích của các bên. Do vậy, hoạt động thi hành án có thể tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm tới các quyền cơ bản của con người đã được pháp luật bảo vệ.

Các yêu cầu về bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động thi hành án cũng đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013”. Như vậy, trong giai đoạn từ năm 2001 - 2021, việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong thi hành án là một trong những định hướng, yêu cầu cần thiết đối với các đề xuất, kiến nghị trong các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ ở lĩnh vực này.

2. Bối cảnh thực hiện chiến lược cải cách tư pháp và cải cách hành chính và các yêu cầu đặt ra đối với công tác thi hành án

Các đề tài nghiên cứu về lĩnh vực thi hành án dân sự được thực hiện hầu hết từ sau năm 2005, trong bối cảnh đó, Nghị quyết 49-NQ/TW đã được ban hành và chiến lược cải cách tư pháp được triển khai mạnh mẽ. Nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án cũng là một trong những nội dung cần hoàn thiện theo tinh thần của chiến lược cải cách tư pháp. Cụ thể: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã quy định: “Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành”, vàchuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án…”.

3. Bối cảnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng và các yêu cầu đặt ra đối với công tác thi hành án

Tham nhũng là một vấn đề thời sự, là trở lực rất lớn đối với sự ổn định và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Bởi vậy, ở bình diện quốc tế, Liên Hợp Quốc thông qua Công ước về chống tham nhũng vào ngày 31/10/2003 (Việt Nam phê chuẩn ngày 03/7/2009). Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta cũng đã có nhiều chủ trương, biện pháp để đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Thu hồi tài sản tham nhũng không những khắc phục được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi tham nhũng, trả lại nguồn lực cho đất nước mà còn có ý nghĩa cảnh báo, ngăn chặn hành vi tham nhũng, triệt tiêu động cơ kinh tế của người phạm tội. Nhận thức đầy đủ vai trò của công tác thu hồi tài sản tham nhũng, Đảng ta đã đề ra và thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp tích cực nhằm phòng, chống tham nhũng; thu hồi tài sản tham nhũng. Vì vậy, các đề xuất, kiến nghị trong giai đoạn nghiên cứu cũng cần đáp ứng các yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, đặc biệt là nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng.

4. Thực tiễn thi hành pháp luật thi hành án dân sự, thi hành án hành chính và các yêu cầu đặt ra đối với các đề tài nghiên cứu

*Đối với công tác thi hành án dân sự, trong quá trình triển khai thi hành Luật Thi hành án dân sự năm 2008, công tác thi hành Luật thi hành án dân sự cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, đòi hỏi việc hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy, đội ngũ thực hiện công tác thi hành án dân sự ở giai đoạn trước năm 2014. Còn kể từ sau năm 2014, Luật Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014 được thông qua với nhiều điểm mới, trong đó sửa đổi các nội dung liên quan đến thủ tục thi hành án dân sự, bổ nhiệm chấp hành viên không qua thi tuyển, vai trò và trách nhiệm của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp trong thi hành án dân sự…, qua đó, đáp ứng được các yêu cầu mà thực tiễn đã đặt ra.

*Đối với công tác thi hành án hành chính, Luật Thi hành án hành chính năm 2015 về cơ bản đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực thi nội dung này. Bên cạnh những kết quả đạt được, thi hành án hành chính ở Việt Nam vẫn còn không ít tồn tại, hạn chế, trong đó phải kể đến: Số lượng bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước là bên phải thi hành án ngày càng gia tăng, tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội; tỷ lệ bản án, quyết định được cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thi hành xong trên tổng số bản án, quyết định phải thi hành hàng năm đạt kết quả ở mức khiêm tốn. Trong khi đó, cơ chế thi hành án hành chính theo quy định của pháp luật hiện hành vẫn là cơ chế “tự thi hành”, ngay cả khi Tòa án đã ra quyết định buộc thi hành án hành chính. Thực tiễn này đặt ra yêu cầu hoàn thiện pháp luật thi hành án hành chính nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hành chính.

II. NHÓM KIẾN NGHỊ VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Kể từ sau khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được ban hành, các quy định trong luật này đã được triển khai tích cực trên thực tế. Song song với đó, một số đề án nghiên cứu khoa học cấp Bộ đã được triển khai để góp phần thực hiện có hiệu quả các quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Sau năm 2014, như đã đề cập, Luật Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014 được thông qua với nhiều điểm mới đã khắc phục nhiều nội dung còn hạn chế trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Do vậy, các đề tài nghiên cứu ở giai đoạn từ 2014 - 2021 không tập trung vào các nội dung hoàn thiện pháp luật về thủ tục, cơ cấu tổ chức của các cơ quan thi hành án nữa mà chủ yếu đưa ra đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật, các biện pháp bảo đảm cho công tác thi hành án dân sự và góp phần đấu tranh phòng, chống tham nhũng theo các chủ trương của Đảng và Nhà nước.

1. Nhóm kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự

1.1. Nhóm kiến nghị hoàn thiện Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành

[1] Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành về quy trình, thủ tục thi hành các bản án có tài sản thi hành là bất động sản[80]:

Nhóm kiến nghị này được đưa ra nhằm thực hiện các yêu cầu về bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong công tác thi hành án dân sự. Đề tài nghiên cứu trong năm 2010 đã đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật có liên quan theo các nội dung chính như: Hoàn thiện quy định trong Luật thi hành án dân sự năm 2008 về thời hạn ra quyết định và thời hạn xác minh, theo hướng sửa đổi theo hướng thời hạn xác minh điều kiện thi hành án dài hơn thời hạn ra quyết định thi hành án; Hoàn thiện quy định trong Luật thi hành án dân sự năm 2008 về quyền yêu cầu xác minh, theo hướng mở rộng hơn nữa quyền yêu cầu xác minh của đương sự; Ban hành thông tư hướng dẫn chi tiết về thủ tục thi hành án dân sự đối với tài sản phải thi hành là bất động sản

[2] Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự[81]:

Kiến nghị này cũng xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động thi hành án đặt trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực hiện chiến lược cải các tư pháp. Đặc biệt, quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền tự do cơ bản của công dân đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận. Dựa trên các cơ sở pháp lý và thực tiễn nói trên, kết hợp với việc nghiên cứu kinh nghiệm một số quốc gia như Pháp, Thuỵ Điển, các tác giả đề tài nghiên cứu đã đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, trong đó tập trung sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) theo hướng: Nghiên cứu, bổ sung quy định về tiêu chí phân biệt rõ khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự; Sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định đối với những vấn đề pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự chưa quy định,

1.2. Nhóm kiến nghị hoàn thiện các luật khác có liên quan đến thi hành án

[1] Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực liên quan đến tài sản là bất động sản[82]: Kiến nghị này được đưa ra cùng với kiến nghị về hoàn thiện các quy định về thi hành các bản án có tài sản là bất động sản trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008 nhằm bảo đảm tính thống nhất trong các quy định pháp luật, qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Kiến nghị này tập trung vào việc sửa đổi, bổ sung một số đạo luật và ban hành các văn bản hướng dẫn như sau:

- Sửa đổi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004: Bổ sung thẩm quyền Chấp hành viên có quyền khởi kiện trong việc yêu cầu hủy bỏ giao dịch, xác định tài sản thuộc sở hữu chung… trong Bộ luật này để bảo đảm thống nhất với quy định Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

- Xây dựng Luật đăng ký bất động sản: Qua nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc về Luật Bất động sản năm 2006, nhóm tác giả đã kiến nghị cần xây dựng một đạo Luật về Bất động sản trong đó quy định một cách chung, thống nhất quy định về các vấn đề xác lập, thay đổi, chuyển giao, chấm dứt quyền; đăng ký, chuyển dịch, bảo vệ, quyền và nghĩa vụ các chủ thể, quy hoạch, xây dựng, thế chấp, sở hữu… liên quan đến tài sản bất động sản…

[2] Hoàn thiện các quy định pháp luật tạo cơ sở cho việc thu hồi tài sản cho nhà nước trong các vụ án tham nhũng[83]: Nhóm kiến nghị này được thực hiện với mục tiêu tạo sơ sở pháp lý cho việc thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, qua đó góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta. Nội dung của kiến nghị này bao gồm:

- Quy định cụ thể việc áp dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn việc tẩu tán tài sản tham nhũng (kê biên, tạm giữ, ngăn chặn việc chuyển dịch tài sản bị nghi có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng); xem xét tài sản của những người bị kết luận là có hành vi tham nhũng để tìm ra tài sản bất minh sung công quỹ; quy định các biện pháp để kịp thời thu giữ tài sản nghi ngờ liên quan đến tham nhũng và nghiên cứu ban hành luật sung công tài sản.

- Nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về công khai, minh bạch mà trước hết là các quy định trong Luật phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó, hoàn thiện pháp luật về công khai, minh bạch phải gắn liền với hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước; các quy định về nội dung trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước trong thực hiện pháp luật về PCTN; các quy định bảo đảm pháp lý đối với việc thực hiện chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan nhà nước trong đấu tranh PCTN; quy định về hình thức trách nhiệm đối với người đứng đầu.

- Nghiên cứu và ban hành Thông tư về công tác thu hồi tài sản tham nhũng, trong đó cân nhắc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời tương tự như trong pháp luật tố tụng dân sự.

- Hoàn thiện chính sách pháp luật về đăng ký tài sản; công khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự, đặc xá, tha tù trước thời hạn có điều kiện, tương trợ tư pháp về hình sự, thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài.

2. Nhóm kiến nghị hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự

2.1. Nhóm kiến nghị về kiện toàn mô hình tổ chức ngành thi hành án dân sự và phát triển đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự trong đề tài, đề án khoa học ở giai đoạn trước năm 2014[84]

Ở giai đoạn trước năm 2014, như đã đề cập, Luật Thi hành dân sự năm 2008 được triển khai thực hiện và đã phát sinh một số hạn chế, bất cập, trong đó có hạn chế trong việc quy định về cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự. Do vậy, ở giai đoạn này, các đề tài, đề án đã được thực hiện nhằm đưa ra giải pháp, kiến nghị về kiện toàn mô hình tổ chức ngành thi hành án dân sự và phát triển đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự.

Nhìn chung, nhóm kiến nghị về kiện toàn mô hình tổ chức ngành thi hành án dân sự và phát triển đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự đã góp phần giải quyết các yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện cơ chế trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Tuy nhiên, các kiến nghị này đã được tiếp thu và ghi nhận trong quá trình sửa đổi, bổ sung (vào năm 2014) Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Những kiến nghị đã được đặt ra trước năm 2014 cụ thể như sau:

[1] Nâng Cục Thi hành án dân sự thành Tổng cục Thi hành án dân sự kiện toàn tổ chức các đơn vị bên trong Tổng cục: Kiến nghị này nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý, chỉ đạo thống nhất trong cả nước hoạt động thi hành án dân sự vốn rất đa dạng, phức tạp và bảo đảm để cơ quan này có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trong đó, thay đổi tổ chức, nhiệm vụ cơ quan giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp theo hướng quy định cơ quan này có Thanh tra riêng và thành lập mới các đơn vị thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự theo 02 giai đoạn cụ thể (từ năm 2009 - 2011 và từ năm 2012 - 2015).

[2] Quy định mô hình tổ chức, tên gọi các cơ quan thi hành án dân sự địa phương: Theo đó, cần đổi tên của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện để bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống đó là: Tổng cục, Cục và Chi cục và nghiên cứu để củng cố, kiện toàn các đơn vị chuyên môn thuộc Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh.

[3] Hoàn thiện đội ngũ chấp hành viên: Theo kiến nghị này, cần tham mưu xây dựng khung pháp lý về đội ngũ chấp hành viên với những nội dung quan trọng như: Xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục các cơ quan thi hành án dân sự tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo được tuyển chọn người có trình độ cử nhân luật làm chấp hành viên không qua thi tuyển; Cần xác định rõ việc bổ nhiệm vào ngạch chấp hành viên sơ cấp, chấp hành viên trung cấp và chấp hành viên cao cấp (sau đây gọi chung là chấp hành viên) phải qua kỳ thi tuyển, trừ các trường hợp được xét tuyển theo quy đinh; Xác định tiêu chuẩn và bổ nhiệm chấp hành viên trong một số trường hợp đặc biệt; Quy định cụ thể về Thẩm tra viên thi hành án; Quy định rõ tiêu chuẩn Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện; Quy định cụ thể chức danh tiêu chuẩn, mã số đối với từng ngạch chấp hành viên và Thư ký thi hành án[85].

[4] Xây dựng lộ trình kiện toàn đội ngũ công chức, công chức lãnh đạo của hệ thống thi hành án dân sự[86]:

- Giai đoạn 2009 - 2010: Kiện toàn các đơn vị chuyên môn thuộc Cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp và cơ quan thi hành án dân sự địa phương.

- Giai đoạn 2011 - 2015: Tổ chức triển khai có hiệu quả Đề án quy hoạch phát triển nguồn nhân lực cán bộ ngành Tư pháp nói chung và ngành thi hành án dân sự nói riêng giai đoạn 2011 - 2015 định hướng năm 2020; Kiện toàn đội ngũ cán lãnh đạo các cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự…

[6] Xây dựng chương trình đào tạo nghề chấp hành viên đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt[87]: Theo đó, nội dung chương trình khung đào tạo cần một số vấn đề lớn như: Phần chung về cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên; Phần II về kỹ năng chung và kỹ năng cưỡng chế; và Phần III về kỹ năng chuyên sâu. Bên cạnh đó, chương trình học cũng cần bao gồm phương pháp thực hành tình huống, tăng cường triển khai phương pháp quan sát và bình luận.

2.2. Kiến nghị về mô hình Toà Thi hành án và Thẩm phán Thi hành án trong đề tài khoa học ở giai đoạn sau năm 2014[88]

Ở giai đoạn này, cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án sân sự ở Việt Nam cơ bản đã được kiện toàn. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành án cho thấy có vướng mắc phát sinh trong quá trình thi hành án cần có sự can thiệp trực tiếp, kịp thời của Toà án như vấn đề: Giải thích Bản án, xác định kỷ phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung, xác định quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án… Đặc biệt, kinh nghiệm của một số quốc gia (Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản, Thuỵ Điển, Đức…) về thi hành án dân sự cho thấy các nước này đều có thiết chế Toà thi hành án và Thẩm phán Thi hành án.

Từ những phân tích trên, Đề tài khoa học cấp Bộ “Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong Thi hành án dân sự” (năm 2019) đã kiến nghị: Nghiên cứu bổ sung quy định về Thẩm phán Thi hành án dân sự. Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức tòa án nhân dân, trong đó có thiết chế Thẩm phán thi hành án, và sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trong đó, quy định thủ tục rút gọn liên quan đến hoạt động của Thẩm phán Thi hành án.

3. Nhóm kiến nghị về các biện pháp khác nhằm bảo đảm cho công tác thi hành án dân sự

[1] Nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự[89]: Theo đó, cần tập trung vào các nội dung chính như kiên quyết xử lý nghiêm những trường hợp phát hiện nể nang, lòng vòng khi giải quyết giải quyết khiếu nại, tố cáo; xác định công tác giải quyết giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những công tác trọng tâm của Bộ, ngành và các địa phương theo đúng tinh thần chỉ đạo tại Chỉ thị 14/CT- TTg ngày 18/05/2012 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thi hành án dân sự và trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo ngay từ khâu thụ lý đơn, phân loại, xác minh, và ra quyết định…

[2] Nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng[90], tập trung các nội dung sau: Xây dựng, hoàn thiện các quy định về cơ chế phối hợp trong công tác thu hồi tài sản tham nhũng; Tăng cường hoạt động kiểm tra, theo dõi của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng đối với hoạt động phối hợp giữa các cơ quan có chức năng thu hồi tài sản tham nhũng để đôn đốc việc thực hiện; Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra phải đề cao tinh thần trách nhiệm, kiểm sát chặt chẽ ngay từ giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố và theo sát quá trình giải quyết vụ án của Cơ quan điều tra từ khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can đến khi kết thúc điều tra; Tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng để khắc phục những bất cập trong hoạt động giám định, định giá theo vụ việc phục vụ công tác phòng chống tham nhũng, giúp xác định rõ hơn và nhanh hơn những tài sản bị thiệt hại, tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng…

III. NHÓM KIẾN NGHỊ VỀ THI HÀNH ÁN HÀNH CHÍNH[91]

[1] Mở rộng thẩm quyền tài phán hành chính của Toà án trong pháp luật tố tụng hành chính bảo đảm cho tranh chấp hành chính khi kiện ra Tòa án được giải quyết dứt điểm: Về lâu dài, pháp luật tố tụng hành chính cần quy định mở rộng quyền tài phán hành chính, theo đó, tài phán hành chính không chỉ dừng lại ở thẩm quyền xem xét, kết luận về tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính mà cần được trao quyền giải quyết dứt điểm tranh chấp hành chính giữa người khởi kiện và người bị kiện trong vụ án hành chính.

[2] Duy trì cơ chế “tự thi hành án” song song với việc tăng cường hơn nữa các biện pháp có tính “cưỡng chế” trong thi hành án hành chính và tăng cường hơn những những biện pháp có tính chất “cưỡng chế” trong thi hành án hành chính: Kiến nghị này nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính trong trường hợp chưa thể sửa đổi căn bản nội dung về thẩm quyền của Toà án trong xét xử vụ án hành chính.

[3] Tăng cường thẩm quyền của Tòa án, UBND trong công tác thi hành án hành chính: Kiến nghị này xuất phát từ chủ trương trong Nghị quyết số 49-TW/NQ về chiến lược cải cách tư pháp và Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW  đặt ra yêu cầu về: “Tăng cường trách nhiệm, quyền hạn của TAND và UBND địa phương trong công tác thi hành án” trong quản lý công tác thi hành án.

Như vậy, cần tăng cường thẩm quyền của Tòa án, UBND trong công tác thi hành án hành chính theo một số nội dung cụ thể sau:

- Trao quyền cho Tòa án xét xử vụ án hành chính quyết định mức phạt tiền áp dụng đối với người phải thi hành án vi phạm nghĩa vụ thi hành án nhằm ngăn chặn việc không thi hành án của bên phải thi hành án và là chế tài áp dụng khi các chủ thể này vi phạm nghĩa vụ thi hành án hành chính.

- Trách nhiệm của UBND các cấp trong hoạt động quản lý thi hành án hành chính ở địa phương cũng cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện trong pháp luật thi hành án hành chính trên cơ sở phù hợp với vai trò của UBND là cơ quan có thẩm quyền quản lý chung ở địa phương đồng thời là người phải thi hành án chủ yếu trong các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính.

[4] Phân định trình tự, thủ tục thi hành giữa bản án, quyết định có nội dung bác/không chấp nhận yêu cầu khởi kiện và bản án, quyết định có nội dung chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện trong pháp luật tố tụng hành chính

Kiến nghị này dựa trên nguyên tắc đơn giản hóa thủ tục thi hành đối với bản án, quyết định tuyên bác đơn yêu cầu khởi kiện. Thực tiễn thi hành pháp luật về thi hành án hành chính đã cho thấy những bất cập do đồng nhất trình tự, thủ tục thi hành giữa bản án hành chính có nội dung bác/không chấp nhận yêu cầu khởi kiện và bản án hành chính có nội dung chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện.

IV. NHÓM KIẾN NGHỊ VỀ THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ

1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình sự

[1] Cần xem xét lại những quy định hạn chế quyền con người mà Luật Thi hành án hình sự năm 2019, đặc biệt là đối với phạm nhân[92]. Cụ thể, đối với các quy định về: Quyền hiến mô của người thi hành án tử hình; Quyền bầu cử của phạm nhân không bị Toà án tước quyền bầu cử; Mở rộng chế độ thăm gặp, giao tiếp với xã hội, người thân, nhất là phạm nhân là người chưa thành niên…

[2] Áp dụng khoa học, công nghệ vào các quy định về thi hành hình phạt tước tự do[93]: Các tác giả đề tài đã kiến nghị cho thấy cần nghiên cứu, bổ sung vào hệ thống hình phạt các biện pháp, hình phạt có tính chất giám sát xã hội đối với cá nhân phạm tội mà không cần tước tự do như phạt tù tại gia đình, giám sát xã hội đối với cá nhân phạm tội…

2. Kiến nghị hoàn thiện cơ chế tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án hình sự

[1] Nghiên cứu mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án: Nội dung của đề xuất này đó là: nghiên cứu mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án và giao cho một cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án[94]. Đề xuất này xuất phát từ cả cơ sở chính trị - pháp lý, cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế. Đặc biệt, Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị (sau đây gọi là Nghị quyết 49-NQ/TW) về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ đạo: "Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án", theo góc nhìn khoa học, thì chủ trương này có giá trị lớn và tiến bộ.

[2] Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thi hành án hình sự[95]: Việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thi hành án hình sự có vai trò rất quan trọng, bởi đây là những người trực tiếp thực hiện, áp dụng các hình phạt mà Toà án đã tuyên – là biện pháp xử lý nghiêm khắc nhất, tác động không nhỏ đến việc thụ hưởng các quyền con người, quyền công dân cảu phạm nhân. Trên cơ sở đó, đề tài đưa ra các kiến nghị nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng cán bộ thi hành án hình sự. Các kiến nghị này tập trung vào việc xây dựng chính sách giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ thi hành án tham gia vào công tác phân loại, giáo dục cho phạm nhân.

3. Kiến nghị nâng cao hiệu quả tái hoà nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù[96]

Nội dung cụ thể của kiến nghị nâng cao hiệu quả tái hoà nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù được các đề tài kiến nghị tập trung vào các giải pháp cụ thể sau:

- Chuẩn bị tái hoà nhập cộng đồng cho những phạm nhân sắp được trả tự do.

- Tạo cơ chế pháp lý để huy động sự tham gia tích cực của gia đình, người thân của người bị kết án, của các đoàn thể xã hội và cộng đồng dân cư vào việc giám sát, giáo dục người bị kết án.

- Tăng cường công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật tại cơ sở, cần hướng vào các mục tiêu: xoá bỏ mặc cảm về tâm lý của đối tượng đối với cộng đồng.

- Việc dạy nghề, dạy văn hoá cho người đang chấp hành hình phạt tù, trẻ em tại trường giáo dưỡng cần được quan tâm, quán triệt và chỉ đạo thường xuyên.

- Thiết lập mối quan hệ giữa cộng đồng xã hội với trại giam ngay từ giai đoạn người phạm tội vào các cơ sở cải tạo. Việc giữ các mối liên hệ giữa phạm nhân và gia đình, tổ chức xã hội ở địa phương, việc tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của từng phạm nhân để từ đó kiến nghị các phương thức giáo dục thích hợp là những công việc nên được giao cho xã hội nếu chúng ta thực sự muốn xã hội hóa công tác này.

V. NHẬN XÉT CHUNG VỀ CÁC KIẾN NGHỊ VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

Các đề tài nghiên cứu khoa học từ năm 2001 đến nay đã cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn, kinh nghiệm quốc tế… góp phần không nhỏ vào việc hoàn thiện thể chế, pháp luật, cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật trong lĩnh vực thi hành án, đặc biệt là thi hành án dân sự.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự trong thời gian vừa qua cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế. Do vậy, trong thời gian tới, việc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về thi hành án, đặc biệt đối với thi hành án dân sự, và hoàn thiện cơ chế tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án nói chung là cần thiết. Theo đó, cần tập trung nghiên cứu và đưa ra đề xuất, kiến nghị với một số định hướng sau:

- Rà soát, đánh giá tổng thể quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, các văn bản hướng dẫn thi hành và đề xuất giải pháp hoàn thiện, trong đó tập trung vào một số nội dung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thi hành thi hành án dân sự, nhằm đơn giản hóa trình tự, thủ tục, rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án đáp ứng được yêu cầu nâng cao hiệu quả, chất lượng tổ chức thi hành án dân sự. Đặc biệt, cần quy định trách nhiệm và mối quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động thi hành án dân sự một cách hợp lý, xác định rõ các công việc thời gian phải hoàn thành và điểm dừng trong thi hành án; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, chế tài đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong kiểm sát, kiểm tra, quản lý thi hành án dân sự.

- Tiếp tục nghiên cứu ban hành Bộ luật thi hành án thống nhất điều chỉnh tất cả các lĩnh vực thi hành án và nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức thi hành án thống nhất, do một cơ quan dân sự (cơ quan thuộc Chính phủ) thực hiện.

- Tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về thi hành án hành chính theo hướng mở rộng thẩm quyền tài phán hành chính của Toà án nhằm bảo đảm cho tranh chấp hành chính khi kiện ra Tòa án được giải quyết dứt điểm.

- Tiếp tục có giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tái hoà nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù. Đồng thời, cần nghiên cứu, bổ sung vào hệ thống hình phạt các biện pháp, hình phạt có tính chất giám sát xã hội mà không cần tước tự do như phạt tù tại gia đình, giám sát xã hội…

 

 

 

Chương 4. NỘI DUNG NHÓM KIẾN NGHỊ VỀ LĨNH VỰC BỔ TRỢ TƯ PHÁP

 

I. BỐI CẢNH CỦA CÁC ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU VỀ LĨNH VỰC BỔ TRỢ TƯ PHÁP GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2001 - 2021

1. Bối cảnh thực hiện chiến lược cải cách tư pháp và hoàn thiện pháp luật

Nghị quyết số 48-NQ/TW đưa ra định hướng: “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng, giám định, cảnh sát tư pháp...) theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện xã hội hoá mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp quản lý nhà nước với tự quản của các tổ chức xã hội nghề nghiệp”; Nghị quyết số 49-NQ/TW đặt ra phương hướng: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp.”

Do vậy, các đề tài trong giai đoạn này tập trung nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về luật sư, giám định tư pháp công chứng và nghiên cứu ban hành một luật riêng về thừa phát lại. Đồng thời, các đề tài cũng đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các chế định bổ trợ tư pháp và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác này.

2. Bối cảnh thực hiện yêu cầu trong Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người, quyền công dân

Chế định bổ trợ tư pháp - một trong những công cụ hỗ trợ đắc lực, bảo đảm cho hoạt động tư pháp được tiến hành quan trọng, nhanh chóng, đúng pháp luật, góp phần bảo đảm công lý, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân - cần được nghiên cứu, hoàn thiện theo các yêu cầu về bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp năm 2013.

Đặc biệt, sự ra đời của Hiến pháp năm 2013 làm cho công tác TGPL có sự thay đổi lớn về mặt thể chế và yêu cầu thực tiễn. Trong đó, quyền con người, quyền cơ bản của công dân được đặc biệt quan tâm. Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa được ghi nhận là một trong những quyền cơ bản của công dân.

Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, theo đó, phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Do vậy, vai trò của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân nói chung, nhất là người được TGPL trước các cơ quan tiến hành tố tụng ngày càng quan trọng trong việc bảo đảm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử khách quan, công bằng, đúng người, đúng tội.

II. NHÓM KIẾN NGHỊ VỀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN BỔ TRỢ TƯ PHÁP

1. Kiến nghị ban hành và hoàn thiện pháp luật về giám định tư pháp

1.1. Kiến nghị đối với việc xây dựng và ban hành Luật Giám định tư pháp

Nhóm kiến nghị này được đặt ra trong giai đoạn trước năm 2011. Để thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp của chiến lược cải cách tư pháp, các đề tài kiến nghị ban hành Luật Giám định tư pháp theo tinh thần và chủ trương đẩy mạnh cải cách tư pháp, tập trung vào các nội dung sau:

[1] Nội dung của Luật Giám định tư pháp cần thể hóa hơn nữa chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp theo tinh thần của các Nghị quyết của Đảng[97]: Theo đó, cần mở rộng phạm vi chủ thể thực hiện giám định, chủ thể trưng cầu, yêu cầu giám định; quy định rõ về tổ chức và hoạt động giám định tư pháp theo hướng xã hội hóa; về điều kiện, tiêu chuẩn, quy trình bổ nhiệm giám định viên tư pháp; về quyền, nghĩa vụ của người giám định tư pháp; xác định cơ chế quản lý giám định tư pháp (quản lý nhà nước kết hợp với quản lý của tổ chức xã hội nghề nghiệp); qui định pháp nhân là chủ thể thực hiện giám định tư pháp; cơ chế, chính sách thu hút các chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm tham gia vào hoạt động giám định tư pháp...

[2] Bên cạnh việc ban hành Luật Giám định tư pháp, cần sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật liên quan như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự... để cụ thể hoá một số nội dung làm cơ sở cho việc thực hiện xã hội hoá hoạt động giám định tư pháp[98]. Cụ thể, đối với BLTTHS năm 2003 cần sửa đổi, bổ sung: (i) Điều 155 quy định về trưng cầu giám định theo hướng: “Khi cần có kết luận về mặt chuyên môn những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định” nhằm phù hợp với Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự về “thu thập chứng cứ” và khái niệm về giám định tư pháp trong Pháp lệnh giám định tư pháp; (ii) Nghiên cứu bổ sung Điều 125 BLTTHS năm 2003: “Giám định có thể được thực hiện trước khi khởi tố vụ án” để có thể sử dụng kết quả giám định “tiền tố tụng” làm căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

[3] Cần quy định rõ vai trò của cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác giám định tư pháp; vai trò, trách nhiệm của các bộ, ngành chủ quản và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với công tác giám định tư pháp, cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành và giữa các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh[99].

 [4] Nghiên cứu, xây dựng và ban hành quy chuẩn chuyên môn và quy trình giám định theo yêu cầu và đặc thù của từng lĩnh vực giám định để nâng cao chất lượng và giảm thiểu xung đột về kết luận giám định tư pháp trong quá trình xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp[100]. Các quy chuẩn này cần được sử dụng làm căn cứ cho việc đánh giá chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng; phạm vi cần bao quát các lĩnh vực giám định pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự, tài chính, văn hóa, xây dựng, tài nguyên, môi trường, giao thông vận tải, thông tin và truyền thông, sở hữu trí tuệ theo yêu cầu và đặc thù của từng lĩnh vực giám định.

1.2. Kiến nghị đối với việc hoàn thiện Luật Giám định tư pháp năm 2012

Sau khi Luật Giám định tư pháp năm 2012 được ban hành, quá trình triển khai công tác giám định tư pháp đã đạt được nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục nghiên cứu và đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước, trách nhiệm của các bộ, ngành đối với hoạt động giám định tư pháp; đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động giám định tư pháp đối với các lĩnh vực xã hội có nhu cầu theo lộ trình thích hợp, giảm áp lực cho các bộ, ngành, cơ quan nhà nước cũng như bảo đảm đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố tụng trước bối cảnh tăng cường dân chủ trong hoạt động tố tụng và tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp. Nội dung các kiến nghị đã được đặt ra trong các đề tài nghiên cứu đó là:

[1] Bổ sung quy định mang tính nguyên tắc về thời hạn giám định, quy định trách nhiệm của các bộ, ngành chuyên quản lĩnh vực giám định trong việc ấn định thời hạn giám định cụ thể đối với từng loại việc giám định trong quy trình giám định để bảo đảm tính đồng bộ, tương thích với quy định của pháp luật tố tụng.

[2] Bổ sung một số quy định về căn cứ, cách thức trưng cầu giám định, đánh giá, sử dụng kết luận của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như trách nhiệm của các cơ quan trưng cầu giám định để khắc phục những tồn tại hiện nay về giám định tư pháp mà nguyên nhân xuất phát từ chính các cơ quan tố tụng.

[3] Bổ sung quy định mang tính phân cấp trong tiếp nhận trưng cầu và thực hiện giám định ở cấp Trung ương và cấp tỉnh để khắc phục tình trạng đùn đẩy, né tránh trong tiếp nhận và thực hiện giám định ở nhiều địa phương và bộ, ngành chủ quản.

[4] Mở rộng phạm vi hoạt động giám định tư pháp thông qua việc sửa đổi, mở rộng quyền tự yêu cầu giám định của người tham gia tố tụng để bảo đảm điều kiện, phương tiện tìm kiếm chứng cứ phục vụ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích của họ khi tham gia tố tụng theo tinh thần mở rộng dân chủ, tăng cường tranh tụng tại tòa.

2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật công chứng, chứng thực và các quy định pháp luật dân sự, đất đai có liên quan đến hoạt động công chứng, chứng thực[101]

Công chứng, chứng thực nói chung và công chứng, chứng thực các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, việc công chứng, chứng thực các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình lại chưa có cơ sở pháp lý thống nhất. Do vậy, các đề tài kiến nghị:

[1] Sửa đổi một số quy định trong Luật Đất đai năm 2003: Quy định các giao dịch về chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình bắt buộc phải có công chứng, chứng thực, điều này xuất phát từ quan điểm đất đai là tài sản đặc biệt có giá trị lớn, giao dịch về chuyển quyền sử dụng đất là các giao dịch diễn ra thường xuyên hàng ngày trong cuộc sống xã hội có nguy cơ xảy ra tranh chấp cao.

[2] Sửa đổi Bộ luật dân sự năm 2005: Sửa đổi, bổ sung một số chế định liên quan đến công chứng, chứng thực để thống nhất, đồng bộ với Luật Công chứng do Bộ luật dân sự ban hành trước Luật công chứng; Làm rõ nội hàm “hộ gia đình” một mặt để tháo gỡ vướng mắc cho đội ngũ công chứng viên và người thực hiện chứng thực khi công chứng, chứng thực giao dịch chuyển quyền sử dụng đất, mặt khác để bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của người có tài sản khi tham gia giao dịch.

[3] Cần rà soát để hoàn thiện pháp luật công chứng, chứng thực theo tinh thần thực hiện chủ trương đơn giản hóa thủ tục hành chính nhưng cần phải bảo đảm tính chặt chẽ theo quy định, tránh việc tạo kẽ hở để cá nhân, tổ chức không trung thực lợi dụng thực hiện các giao dịch không hợp pháp.

[4] Nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Công chứng để khắc phục những hạn chế, bất cập đã nảy sinh trong quá trình thực thi trong thực tiễn, tiếp tục đổi mới cải cách các thủ tục công chứng, chứng thực phù hợp với xã hội hóa hoạt động công chứng, với chủ trương cải cách tư pháp, cơ chế một cửa, phù hợp với hoạt động công chứng trong khu vực và thu hút đầu tư nước ngoài.

3. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006[102]

Trong bối cảnh Hiến pháp năm 2013 ra đời với việc khẳng định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, vai trò của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân nói chung, nhất là người được TGPL trước các cơ quan tiến hành tố tụng ngày càng quan trọng, nhằm bảo đảm việc bảo đảm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử khách quan, công bằng, đúng người, đúng tội.  Do vậy, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo các kiến nghị cơ bản như sau:

 [1] Sửa đổi khái niệm trợ giúp pháp lý: Ban chủ nhiệm đề xuất khái niệm TGPL quy định trong Luật TGPL (sửa đổi) như sau: “Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý do Nhà nước bảo đảm cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này”.

[2] Bổ sung nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý: đề nghị bổ sung cụm từ “độc lập” vào nguyên tắc “trung thực, tôn trọng sự thực khách quan” cho phù hợp với quy định của Luật TGPL mẫu về tính chất độc lập của cơ quan TGPL và người thực hiện TGPL: “Cơ quan TGPL là một tổ chức độc lập không phụ thuộc vào sự chỉ đạo hay kiểm soát của bất cứ cơ quan hay cá nhân nào khi thực hiện chức năng của mình”; “Quyền cung cấp dịch vụ TGPL là độc lập, không bị đe dọa, cản trở, sách nhiễu, hoặc can thiệp không đúng cách”.

[3] Sửa đổi mô hình tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước: đề xuất nghiên cứu sửa đổi các quy định về tổ chức thực hiện TGPL theo hướng tinh gọn tổ chức bộ máy, bảo đảm tính chuyên nghiệp và độc lập của hệ thống TGPL. Các nguồn lực dành cho TGPL do Nhà nước trả tiền cần được tập trung thống nhất quản lý ở Trung ương bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, không phụ thuộc vào chính quyền địa phương về biên chế, kinh phí hoạt động như hiện nay.

[4] Sửa đổi quy định về người thực hiện trợ giúp pháp lý: đề xuất quy định người thực hiện TGPL do Nhà nước bảo đảm là luật sư, trợ giúp viên pháp lý và người đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện khác theo luật định (luật gia, chuyên gia pháp luật...).

[5] Thu hẹp phạm vi lĩnh vực và hình thức thực hiện TGPL: Trong đó, TGPL chỉ tập trung vào 02 lĩnh vực chính gồm: hình sự, dân sự và 02 hình thức TGPL là tham gia tố tụng và tư vấn pháp luật tiền tố tụng. Đối với hình thức TGPL tham gia tố tụng nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng và bào chữa của Hiến pháp năm 2013 và bảo đảm tính tương thích với các Bộ luật tố tụng. Đối với các hình thức khác như tư vấn pháp luật, hòa giải sẽ do các tổ chức của xã hội đảm nhận.

[6] Sửa đổi, bổ sung các đối tượng được TGPL: Tập trung vào việc sửa đổi người tàn tật, người già cô đơn và trẻ em không nơi nương tựa thành người khuyết tật, người cao tuổi, người dưới 18 tuổi cho phù hợp với Luật Người khuyết tật, Luật Người cao tuổi và tương thích yêu cầu thực tế với Công ước quốc tế về quyền trẻ em; bổ sung người là nạn nhân theo quy định của pháp luật phòng, chống mua bán người cho phù hợp với Luật Phòng, chống mua bán người; Bổ sung người thuộc hộ cận nghèo nhằm thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững của Đảng và Nhà nước; Bổ sung nạn nhân bạo lực gia đình, người nhiễm HIV và người có hoàn cảnh khó khăn khác không có khả năng thuê luật sư.

[7] Sửa đổi quy định về quy trình thực hiện trợ giúp pháp lý: Theo đó, cần nghiên cứu sửa đổi các quy định về quy trình thực hiện TGPL trong Luật TGPL (sửa đổi) theo hướng cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc nộp đơn, xử lý đơn yêu cầu TGPL; Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan, tổ chức trong từng giai đoạn thực hiện TGPL; Bổ sung quy định về đánh giá chất lượng TGPL trong Luật TGPL (sửa đổi) bảo đảm các tiêu chí đánh giá chất lượng TGPL cụ thể, khả thi, phù hợp; tạo cơ chế để thu hút được các luật sư, các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý thực hiện đánh giá chất lượng độc lập.

4. Kiến nghị xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thừa phát lại

Mục tiêu của việc thực hiện chế định thừa phát lại là nhằm xã hội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự. Nhóm kiến nghị liên quan đến công tác xây dựng Luật Thừa phát lại xuất phát từ cơ sở chính trị - pháp lý và cả cơ sở thực tiến. Cụ thể:

- Nghị quyết số 49-NQ/TW xác định: “Nghiên cứu từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án dân sự”; “Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (thừa hành viên); trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”.

- Thực hiện chủ trương thí điểm Thừa phát lại tại Nghị quyết số 49-NQ/TW, trên cơ sở Nghị quyết số 107/2015/QH13 của Quốc hội và Kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thẩm định, phê duyệt Đề án triển khai chế định Thừa phát lại của các địa phương. Tính đến năm 2019, Bộ Tư pháp đã phê duyệt Đề án thực hiện chế định Thừa phát lại của 34 địa phương, trong đó có 31 địa phương đã thành lập được Văn phòng Thừa phát lại (bao gồm 13 địa phương thực hiện thí điểm).

Trong thời gian thí điểm, hoạt động của Thừa phát lại đã mang lại nhiều tác động tích cực và góp phần khẳng định việc thực hiện thí điểm chế định này là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với bối cảnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, trong thời gian thí điểm thừa phát lại tại các địa phương, đã có những bất cập xuất phát từ sự không đồng bộ, chưa hoàn thiện của thể chế về thừa phát lại[103]. Những bất cập về thể chế này ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của thừa phát lại, chưa phù hợp với quy định của Hiến pháp và tạo ra sự xung đột về pháp luật. Do vậy, để tạo hành lang pháp lý cho việc triển khai chính thức chế định thừa phát lại trong cả nước, cũng như khắc phục những bất cập nêu trên, cần thiết phải xây dựng Luật Thừa phát lại.

4.1. Kiến nghị đối với việc xây dựng Luật Thừa phát lại[104]

[1] Kiến nghị về lộ trình phát triển nghề thừa phát lại

Nghề thừa phát lại ở Việt Nam cần được xây dựng và phát triển theo từng giai đoạn nhất định, gồm: giai đoạn thí điểm và giai đoạn thực hiện chính thức chế định thừa phát lại với việc ban hành Luật Thừa phát lại để điều chỉnh tổ chức và hoạt động của chế định này.

[2] Tăng cường thẩm quyền thi hành án dân sự của thừa phát lại để đảm bảo thi hành án là hoạt động chủ yếu, cơ bản của thừa phát lại theo hướng: (i) quy định thừa phát lại có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ trong quá trình tổ chức thi hành án, bao gồm cả việc yêu cầu hỗ trợ, huy động lực lượng của cơ quan công quyền trong cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 71 và Điều 72 Luật Thi hành án dân sự để đảm bảo thừa phát lại có thể trực tiếp tổ chức thi hành án dân sự hiệu quả, đến cùng[105]; (ii) Nghiên cứu phân định phạm vi tổ chức thi hành án theo việc của thừa phát lại và Chấp hành viên; (iii) Quy định thẩm quyền của thừa phát lại thi hành phán quyết của Trọng tài thương mại và quyền ủy thác, nhận uỷ thác các việc thi hành án dân sự, đồng thời, cần mở rộng quyền của Văn phòng Thừa phát lại được ủy thác và nhận ủy thác theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, tạo điều kiện để tòa án hay cơ quan thi hành án dân sự có thể chủ động yêu cầu thừa phát lại thực hiện việc xác minh điều kiện thi hành án hoặc trực tiếp thi hành án trong bối cảnh người dân chưa có nhiều hiểu biết về thừa phát lại; (iv) Quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ khác của thừa phát lại, nhất là trong hoạt động thi hành án dân sự.

[3] Xây dựng và phát triển đội ngũ thừa phát lại chuyên nghiệp theo hướng tăng cường công tác đào tạo chính quy, bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, có kinh nghiệm thực tiễn trong công tác pháp luật, tư pháp cho đội ngũ thừa phát lại, đồng thời cần cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút những người có trình độ, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ về thi hành án dân sự và các chuyên môn, nghiệp vụ khác thuộc trách nhiệm, quyền hạn của thừa phát lại tham gia hành nghề thừa phát lại, đầu tư xây dựng các tổ chức hành nghề thừa phát lại.

[4] Xây dựng chính sách và giải pháp thúc đẩy thành lập tổ chức xã hội nghề nghiệp của thừa phát lại và ban hành quy chế đạo đức nghề nghiệp thừa phát lại. Theo đó: Cần có quy định về điều kiện, quy trình, thủ tục thành lập tổ chức xã hội - nghề nghiệp của thừa phát lại ở từng địa phương tiến tới thành lập tổ chức xã hội nghề nghiệp của thừa phát lại toàn quốc để thực hiện chức năng tự quản và đại diện cho tiếng nói của thừa phát lại trong việc hoàn thiện thể chế và giải quyết mối quan hệ giữa thừa phát lại với các cơ quan, tổ chức, nâng cao vị thế của thừa phát lại; Cần sớm ban hành quy chế đạo đức nghề nghiệp thừa phát lại, giao cho tổ chức xã hội - nghề nghiệp của thừa phát lại toàn quyền quản lý, phát triển đội ngũ và xử lý kỷ luật nghề nghiệp đối với các thành viên, đưa hoạt động của thừa phát lại ngày càng phát triển theo hướng tự chủ, chuyên nghiệp, tuân thủ pháp luật, uy tín đối với Nhà nước và xã hội.

4.2. Kiến nghị đối với việc hoàn thiện các văn bản pháp luật về thừa phát lại hiện hành[106]

Hiện nay và trong vài năm tới, trong bối cảnh tổ chức và hoạt động của thừa phát lại mới được quy định ở tầm Nghị định của Chính phủ thì song song với việc nghiên cứu ban hành Luật Thừa phát lại, cần nghiên cứu hoàn thiện Nghị định 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh). Các kiến nghị trong nhóm này được đưa ra trên cơ sở các yêu cầu của Nghị quyết số 49-NQ/TW về cải cách tư pháp, yêu cầu về bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 và thực tiễn sự phát triển hoạt động của thừa phát lại gắn với việc phát triển hệ thống của hệ thống thi hành án dân sự. Cụ thể như sau:

[1] Đối với hoạt động tống đạt văn bản: Thực tế phát sinh nhiều nhu cầu tống đạt văn bản của cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp. Vì vậy, trong thời gian tới, ngoài việc tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu của cơ quan Tòa án, cơ quan thi hành án nên mở rộng phạm vi tống đạt của thừa phát lại.

[2] Về chi phí tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu của Tòa án, cơ quan thi hành án: Cần quy định cụ thể nội dung này theo hướng: ngân sách nhà nước cấp riêng kinh phí cho Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự thuê thừa phát lại tống đạt văn bản, giảm tải kinh phí cấp chi thường xuyên cho các cơ quan này do đã được giảm tải về công việc. Đối với những khoản đương sự chịu thì cũng cần có cơ chế để thu hồi được khoản tiền này nhanh nhất, không để tình trạng nợ đọng kéo dài.

[3] Đối với việc lập vi bằng: Sau thời gian thực hiện chế định Thừa phát lại tại 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thì hoạt động Thừa phát lại không ngừng phát triển mà hiệu quả nhất chính là việc lập vi bằng. Do vậy, Nghị quyết 107/2015/QH13 đã cho phép chính thức thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi cả nước nên cũng cần xem xét việc mở rộng phạm vi địa hạt lập vi bằng của các Văn phòng Thừa phát lại từ phạm vi tỉnh, nơi đặt Văn phòng ra phạm vi toàn quốc nhằm tạo điều kiện cho Văn phòng Thừa phát lại phát triển và đáp ứng yêu cầu của người dân. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ giúp Chính phủ tổ chức đào tạo nghề Thừa phát lại một cách bài bản; các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề cũng sẽ được nâng cao nên năng lực, trình độ của Thừa phát lại sẽ ngày càng đáp ứng được yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ. Bên cạnh đó, cũng cần quy định rỗ ràng, cụ thể hơn đối với thẩm quyền lập vi bằng, giá trị pháp lý của vi bằng, việc đăng ký vi bằng.

III. KIẾN NGHỊ VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CHẾ ĐỊNH BỔ TRỢ TƯ PHÁP

Đây là một trong những định hướng quan trọng trong phát triển lĩnh vực bổ trợ tư pháp trong các nghị quyết của Đảng, do đó, các đề tài ít nhiều đều đề cập đến việc hoàn thiện bộ máy, mô hình tổ chức theo lĩnh vực nghiên cứu.

1. Hoàn thiện cơ chế tổ chức và hoạt động của chế định giám định tư pháp

[1] Củng cố, phát triển các tổ chức giám định tư pháp ở trung ương thành các trung tâm đầu ngành[107]: Theo đó, cần có giải pháp củng cố, nâng tầm hoạt động của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an và một số tổ chức giám định pháp y thành các Trung tâm giám định mang tầm khu vực. Bên cạnh đó, để phát huy hết hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám định tư pháp, các đề tài đã kiến nghị đổi mới cơ chế quản lý giám định tư pháp đáp ứng tiến trình xã hội hóa hoạt động này thì cần nghiên cứu để có thể cho phép thành lập Hiệp hội Giám định tư pháp ở Việt Nam. Hiệp hội Giám định tư pháp có vai trò rất lớn trong việc lựa chọn giám định viên tư pháp, đào tạo, bồi dưỡng giám định viên tư pháp, bảo vệ giám định việc tư pháp[108].

[2] Sửa đổi quy định về cơ chế quản lý nhà nước đối với giám định tư pháp, cụ thể như sau[109]: Để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giám định tư pháp thì cần giao nhiệm vụ quản lý cho trực tiếp cho các bộ, ngành quản lý ở từng lĩnh vực giám định và các cơ quan này chịu trách nhiệm trước Chính phủ về bảo đảm (nguồn nhân lực và các điều kiện cần thiết khác phù hợp với đặc thù lĩnh vực chuyên môn của mình) đáp ứng tốt yêu cầu giám định của hoạt động tố tụng vì bản chất hoạt động giám định là hoạt động chuyên môn phục vụ cho tố tụng, mà không nên giao cho Bộ Tư pháp quản lý chung như hiện nay.

[3] Các cơ quan tiến hành tố tụng cần có chủ trương, hướng dẫn liên quan đến hoạt động của giám định tư pháp[110]: (1) Tổ chức thực hiện hướng dẫn của liên ngành (do Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì) về cơ chế trưng cầu, yêu cầu giám định, đánh giá kết luận giám định theo nguyên tắc coi trọng yếu tố năng lực, chất lượng giám định, sự độc lập của tổ chức, cá nhân được trưng cầu, yêu cầu và thực hiện giám định và bảo đảm sự bình đẳng của các bên tố tụng trong việc thu thập, xác lập, cung cấp các kết luận giám định; (2) Có cơ chế bảo vệ người giám định trong quá trình thực hiện giám định và tham dự phiên tòa trình bày, giải thích kết luận giám định; (3) Rà soát, chỉ đạo dự toán, cấp phát, bảo đảm nguồn kinh phí, bảo đảm nguồn kinh phí cho các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và thực hiện chi trả kịp thời, đầy đủ tiền bồi dưỡng và chi phí giám định tư pháp, bồi dưỡng phiên tòa và chi phí cần thiết cho việc tham dự phiên tòa cho các tổ chức, cá nhân thực hiện giám định tư pháp.

2. Hoàn thiện cơ chế tổ chức và hoạt động của chế định công chứng[111]

[1] Quan tâm phát triển mạnh Văn phòng công chứng theo đúng quy hoạch, đặc biệt tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn[112]: Theo đó, các địa phương chỉ đạo thực hiện việc chuyển các Văn phòng công chứng do một công chứng viên thành Văn phòng công chứng có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên theo quy định của Luật Công chứng 2014 đúng thời hạn; thực hiện đúng lộ trình chuyển các Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng tiến tới chỉ còn một mặt bằng chung về hình thức tổ chức hành nghề công chứng trên cả nước là Văn phòng công chứng.

[2] Xây dựng và thực hiện Quy hoạch tổng thể tổ chức hành nghề công chứng của quốc gia[113]. Đồng thời, xây dựng việc hoàn thiện cơ chế quản lý công chứng theo hướng bảo đảm nguyên tắc quản lý về mặt nhà nước, nâng cao tính độc lập và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên. Kiến nghị này nhằm tạo điều kiện phù hợp phát triển mạnh các tổ chức hành nghề công chứng, tiến tới tổ chức hành nghề công chứng đảm đương toàn bộ việc chứng nhận các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình mà UBND cấp xã đang thực hiện.

3. Hoàn thiện cơ chế tổ chức và hoạt động của chế định trợ giúp pháp lý

Để khắc phục tình trạng cồng kềnh của tổ chức TGPL hiện này, Đề tài “Luận cứ khoa học và thực tiễn sửa đổi, bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý” (năm 2014) đã đề xuất nghiên cứu sửa đổi các quy định về tổ chức thực hiện TGPL theo hướng tinh gọn tổ chức bộ máy, bảo đảm tính chuyên nghiệp và độc lập của hệ thống TGPL. Theo đó:

- Trước mắt, Nhà nước vẫn tiếp tục thực hiện chức năng trực tiếp cung cấp dịch vụ TGPL đối với những địa phương có điều kiện kinh tế và đội ngũ luật sư còn hạn chế.

- Sau năm 2025, hệ thống TGPL Nhà nước vận hành theo mô hình bao gồm: (1) Cơ quan TGPL ở Trung ương có chức năng quản lý; (2) Cơ quan TGPL ở các tỉnh, thành phố trực thuộc cơ quan TGPL ở Trung ương có chức năng quản lý và ký hợp đồng với tổ chức thực hiện, người thực hiện TGPL (Luật sư và Trợ giúp viên pháp lý).

4. Hoàn thiện cơ chế tổ chức và hoạt động của chế định thừa phát lại

[1] Cần sớm ban hành quy chế đạo đức nghề nghiệp thừa phát lại, giao cho tổ chức xã hội - nghề nghiệp của thừa phát lại toàn quyền quản lý, phát triển đội ngũ và xử lý kỷ luật nghề nghiệp đối với các thành viên, đưa hoạt động của thừa phát lại ngày càng phát triển theo hướng tự chủ, chuyên nghiệp, tuân thủ pháp luật, uy tín đối với Nhà nước và xã hội.[114].

[2] Thành lập Văn phòng Thừa phát lại phải căn cứ vào các tiêu chí điều kiện về kinh tế - xã hội cụ thể của địa phương[115]: Thực tiễn trong thời gian qua cho thấy, các Văn phòng ở địa phương có điều kiện kinh tế phát triển hoạt động khá ổn định, đối với các địa phương khác, hoạt động của các Văn phòng còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. Vì vậy, việc thành lập Văn phòng Thừa phát lại phải căn cứ vào các tiêu chí điều kiện về kinh tế - xã hội; số lượng vụ việc thụ lý của Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự; mật độ dân cư và nhu cầu của người dân; không quá 02 Văn phòng Thừa phát lại tại 01 đơn vị hành chính cấp huyện là quận, thành phố, thị xã; không quá 01 Văn phòng Thừa phát lại tại 01 đơn vị hành chính huyện; đồng thời, sẽ phê duyệt Đề án thành lập Văn phòng Thừa phát lại của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào các tiêu chí nêu trên đảm bảo yêu cầu quản lý của Nhà nước và có lộ trình phù hợp.

5. Hoàn thiện cơ chế tổ chức và hoạt động của chế định luật sư[116]

[1] Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách điều chỉnh hoạt động luật sư và hành nghề luật sư, nhất là việc bảo đảm quyền của luật sư trong tố tụng để tiến tới các vụ án hình sự đều có luật sư tham gia, đồng thời thiết lập cơ chế không chỉ thu hút, khuyến khích mà còn bảo đảm nghĩa vụ tham gia trợ giúp pháp lý của luật sư. Nghiên cứu, xây dựng các chính sách để các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ của mình; các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được củng cố, kiện toàn để thực hiện tốt chức năng tự quản.

[2] Tiếp tục phát huy vai trò của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở địa phương, nhất là trong việc thực hiện Chiến lược phát triển nghề luật sư ở Việt Nam đến năm 2020, nâng cao số lượng và chất lượng luật sư, chất lượng hành nghề của luật sư, xây dựng đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập quốc tế, vai trò của luật sư trong tham gia tố tụng, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, phát huy vai trò của luật sư trong xây dựng và bảo vệ đất nước.

[3] Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý về luật sư và hành nghề luật sư, nâng cao năng lực bộ máy cơ quan quản lý nhà nước, đội ngũ cán bộ tư pháp thực hiện công tác quản lý luật sư và hành nghề luật sư, đặc biệt là ở các địa phương; tăng cường kiểm tra, thanh tra để nắm bắt tình hình về tổ chức và hoạt động luật sư, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư.

6. Một số kiến nghị khác

[1] Tăng cường phổ biến, quán triệt các chủ trương, các quy định của Đảng, nhà nước về giám định tư pháp, về việc xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp, trong đó, tập trung nội dung đẩy mạnh việc thu hút các cơ quan, tổ chức chuyên môn và chuyên gia giỏi tham gia hoạt động giám định tư pháp cho các cơ quan quản lý có thẩm quyền (Bộ, ngành chủ quản, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) và các cơ quan tiến hành tố tụng.

[2] Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giám định tư pháp nhằm trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau về hoạt động giám định. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, đầu tư công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật cho hoạt động giám định tư pháp để từng bước đưa hoạt động giám định của nước ta sớm đạt trình độ tiến tiến trong khu vực và quốc tế.

IV. NHÓM KIẾN NGHỊ VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BỔ TRỢ TƯ PHÁP

Chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp đã được thể hiện trong nhiều Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW. Các đề tài đã đưa ra giải pháp nhằm đổi mới nhận thức và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về giám định tư pháp, xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp như:

[1] Tăng cường phổ biến, quán triệt các chủ trương, các quy định của Đảng, nhà nước về giám định tư pháp, về việc xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp, trong đó, tập trung nội dung đẩy mạnh việc thu hút các cơ quan, tổ chức chuyên môn và chuyên gia giỏi tham gia hoạt động giám định tư pháp cho các cơ quan quản lý có thẩm quyền (Bộ, ngành chủ quản, UBND cấp tỉnh) và các cơ quan tiến hành tố tụng.

[2] Xây dựng chuyên đề về giám định tư pháp (trong đó có phần xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp) vào nội dung giảng dạy, đào tạo các chức danh tư pháp, bồi dưỡng dưỡng nghiệp vụ điều tra, kiểm sát và thẩm phán với một thời lượng thích hợp.

V. NHÓM KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG CỦA ĐỘI NGŨ BỔ TRỢ TƯ PHÁP

Thực hiện phương hướng, nhiệm vụ nêu ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW, các đề tài, đề án trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp tập trung kiến nghị:

[1] Đối với chế định giám định tư pháp[117]: Xây dựng và củng cố, phát triển đội ngũ giám định tư pháp đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng, trình độ chuyên môn cao; có nghiệp vụ giám định và kiến thức pháp lý cần thiết để phục vụ đắc lực hoạt động tố tụng.

[2] Đối với lĩnh vực công chứng[118]: Tăng cường về số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên. Nâng cao chất lượng đào tạo công chứng viên theo hướng tăng cường kỹ năng, kinh nghiệm hành nghề; lựa chọn đầu vào cho phù hợp.

[3] Đối với lĩnh vực thừa phát lại: Cần sớm ban hành chính sách chuyển đổi, thu hút đội ngũ chấp hành viên sang làm thừa phát lại, hoặc xã hội hóa từ ngay chính hệ thống cơ quan Thi hành án dân sự để đáp ứng yêu cầu phát triển nghề thừa phát lại.

VI. NHẬN XÉT CHUNG VỀ CÁC NHÓM KIẾN NGHỊ VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

Từ năm 2001 đến nay công tác hoạt hoàn thể chế đối với các lĩnh vực bổ trợ tư pháp luôn được quan tâm, đến nay hầu hết các lĩnh vực bổ trợ tư pháp đã được điều chỉnh bằng văn bản luật (trừ lĩnh vực thừa phát lại). Thông qua việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật đã từng bước khẳng định được vị trí vai trong của các lĩnh vực bổ trợ tư pháp ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, kinh tế số, cũng như các chủ trương cải cách tư pháp, một số hoạt động bổ trợ tư pháp (xã hội hóa hoạt động công chứng…) đã phát triển nhanh chóng, gây ra nhiều khó khăn trong hoạt động quản lý của nhà nước nói chung và ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân nói riêng; một số lĩnh vực bổ trợ (thừa phát lại, giám định tư pháp..) lại chưa đáp ứng được tốt nhu cầu của người dân. Do đó, trong thời gian tới, cần tiếp tục hoàn thiện các lĩnh vực bổ trợ tư pháp theo hướng:

- Tiếp tục nghiên cứu việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm thể chế hoá đầy đủ nội dung, tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do kinh doanh, đặc biệt quan tâm đến việc hoàn thiện các quy định liên quan đến luật sư, công chứng, giám định tư pháp… và cải cách các quy định về tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và quy định pháp luật liên quan khác để các chế định bổ trợ tư pháp có thể phát huy một cách thực chất trong cải cách tư pháp

- Tiếp tục nghiên cứu các giải pháp nâng cao chất lượng các dịch vụ công trong lĩnh vực luật sư, công chứng, thừa phát lại... Đẩy mạnh việc xã hội hóa các lĩnh vực này theo tinh thần Chiến lược cải cách tư pháp.

- Tiếp tục nghiên cứu cơ chế quản lý nhằm huy mạnh mẽ vai trò tự quản các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, nhất là các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, công chứng viên từ Trung ương tới địa phương là yêu cầu cần thiết và cấp bách để phát huy vai trò tự quản của những tổ chức này, tăng cường giao lưu và hội nhập quốc tế.

- Tăng cường công tác quản lý nhà nước, đặc biệt là công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về các lĩnh vực bổ trợ tư pháp.

Chương 5. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ KHÁC NHẰM THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG TƯ PHÁP, HÌNH SỰ

 

1. Kiến nghị về hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật[119]

[1] Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quan hệ hợp tác với nước ngoài về pháp luật và tư pháp.

[2] Nâng cao nhận thức, quán triệt, bảo đảm tuân thủ nghiêm và đầy đủ các quy định có liên quan trong thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp; chia sẻ thông tin, kết quả hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật; thường xuyên rà soát, đánh giá để có giải pháp bảo đảm hiệu quả, chủ động, kế thừa bền vững trong hợp tác quốc tế về pháp luật.

[3] Xây dựng định hướng chiến lược, dài hạn trong hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả, tránh trùng lặp các nguồn lực hỗ trợ cho hoạt động hợp tác.

[4] Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về tư pháp hình sự; chủ động đàm phán, ký kết gia nhập các điều ước quốc tế về phòng, chống tội phạm, tương trợ tư pháp hình sự, dẫn độ, chuyển giao người bị kết án phạt tù.

[5] Triển khai thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận, chương trình, dự án đã được ký kết; sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực tài chính, hỗ trợ kỹ thuật của nhà tài trợ; chia sẻ thông tin, kết quả hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp; tuyển chọn người có đủ năng lực, trình độ tham gia triển khai thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp.

[6] Nâng cao chất lượng công tác thông tin đối ngoại, tuyên truyền, phổ biến về chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; duy trì và phát huy hình ảnh, vị thế của các cơ quan pháp luật, tư pháp Việt Nam trong mối quan hệ với bạn bè quốc tế.

[7] Chú trọng công tác nắm bắt, dự báo tình hình để xác định đúng định hướng, nội dung, đối tác hợp tác phù hợp với nhu cầu của các cơ quan pháp luật và tư pháp.

[8] Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế theo tinh thần Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài.

2. Nghiên cứu thành lập Hội đồng tư pháp quốc gia[120]

Từ kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia có nền tư pháp phát triển cho thấy đề xuất thành lập Hội đồng tư pháp quốc gia là có căn cứ. Cơ chế này bảo đảm tăng cường sự phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp trong việc bảo đảm tính độc lập của các cơ quan xét xử, tính kết nối trong việc đào tạo nguồn và luân chuyển sử dụng hiệu quả các chức danh tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp mà Tòa án là khâu trung tâm. Do vậy, các đề tài nghiên cứu đã đưa ra kiến nghị về mô hình Hội đồng tư pháp quốc gia do Chủ tịch nước đứng đầu nhằm phát huy vai trò của Chủ tịch nước trong việc điều hòa, phối hợp hoạt động hành pháp, tư pháp. Hội đồng tư pháp quốc gia có sự tham gia của lãnh đạo các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như các hiệp hội nghề nghiệp luật (luật sư, luật gia) là phù hợp với xu hướng chung của thế giới trong việc bảo đảm, thúc đẩy tư pháp độc lập.

3. Đảm bảo điều kiện hoạt động cho các cơ quan tham gia thực hiện hoạt động tư pháp[121]

[1] Thiết lập cơ chế xử lý đối với các vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Theo đó, nên có một đạo luật quy định về quy trình, thủ tục đề xuất, soạn thảo, thông qua Hiến pháp (bao gồm cả thủ tục trưng cầu ý dân về Hiến pháp theo quyết định của Quốc hội như Hiến pháp 2013 quy định) và cơ chế tài phán, xử lý các vi phạm hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.

[2] Đảm bảo điều kiện hoạt động cho các cơ quan tham gia thực hiện hoạt động tư pháp. Cụ thể như sau: (i) Trên cơ sở rà soát tổng thể, trong giai đoạn tới, kiến nghị với Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ đầu tư xây dựng trụ sở các cơ quan tư pháp hiện chưa có trụ sở hoặc trụ sở không đảm bảo điều kiện làm việc theo định mức chung[122]; (ii) Nghiên cứu có cơ chế ưu tiên đối với việc phân bổ ngân sách đối với các cơ quan tư pháp trong việc giữ lại một phần thu ngân sách để đầu tư cho cơ sở vật chất và bổ sung kinh phí hoạt động thường xuyên (tương tự cơ chế đối với Kiểm toán Nhà nước); (iii) Tăng cường đầu tư về máy móc, trang thiết bị, công cụ hỗ trợ, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ và cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin theo từng Đề án cụ thể; (iv) Tiếp tục quan tâm, chỉ đạo nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết 49-NQ/TW đã đề ra, nhất là cần sớm xác định mô hình của các cơ quan tư pháp trong giai đoạn tới, đặc biệt là mô hình tổ chức hệ thống TAND theo cấp xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính…

4. Kiến nghị về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp nói chung nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp[123]

4.1. Thi tuyển tư pháp quốc gia - giải pháp nâng cao chất lượng đầu vào để đào tạo cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp

Thi tuyển tư pháp quốc gia đào tạo nguồn các chức danh tư pháp là công việc cần thiết, cấp bách để hiện thực hoá quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về đào tạo cán bộ tư pháp phục vụ cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực trạng chất lượng nhân lực bộ máy tư pháp và thực tế đào tạo nguồn các chức danh tư pháp ở Việt Nam trong thời gian qua đòi hỏi phải xúc tiến nhanh việc nghiên cứu tổ chức áp dụng mô hình Thi tuyển Tư pháp Quốc gia đào tạo chung. Kiến nghị này cũng dựa trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về kỳ thi tư pháp quốc gia. Nội dung của kiến nghị này như sau:

[1] Với quy mô cấp quốc gia, Thi tuyển Tư pháp Quốc gia được xác định là kỳ thi dành cho tất cả những người có trình độ cử nhân luật trở lên, có phẩm chất đạo đức tốt, thuộc mọi thành phần, nghề nghiệp trong xã hội, nhằm tuyển chọn những cá nhân thực sự có chuyên môn, đạo đức, tố chất phù hợp để đào tạo theo chương trình chung về nghiệp vụ xét xử, kiểm sát và Luật sư, sau khi tốt nghiệp được xét bổ nhiệm Thẩm phán, Kiểm sát viên hoặc cấp chứng chỉ hành nghề Luật sư.

[2] Việc tổ chức thi tuyển quốc gia để lựa chọn những người xứng đáng vào đào tạo nghề nhằm tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp là vấn đề lớn, cần được thực hiện theo lộ trình.

[3] Kỳ thi tư pháp quốc gia do một Hội đồng Thi tuyển Quốc gia tổ chức và thực hiện. Hội đồng Thi tuyển Tư pháp Quốc gia có sự tham gia của nhiều cơ quan ban ngành gồm: Đại diện Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

[4] Hội đồng Thi tuyển tư pháp quốc gia có nhiệm vụ: (i) Xây dựng Quy chế Thi tuyển tư pháp quốc gia, các văn bản tài liệu và biểu mẫu thống nhất phục vụ công tác thi tuyển; (ii) Chỉ đạo việc tổ chức kỳ thi tư pháp quốc gia (gồm 04 khâu chính trong công tác tuyển sinh: ra đề thi, tổ chức kỳ thi, chấm thi, xét tuyển và triệu tập thí sinh trúng tuyển) theo Quy chế Thi tuyển tư pháp quốc gia; (iii) Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc và giám sát việc thực hiện các quy định về thi tuyển tư pháp quốc gia; (vi) Đánh giá tình hình thực hiện kỳ thi tuyển tư pháp quốc gia; kiến nghị, đề xuất với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc xây dựng, ban hành và sửa đổi, bổ sung các chính sách và quy định pháp luật có liên quan đến việc đào tạo, tuyển dụng và sử dụng cán bộ được đào tạo theo chương trình chung Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư.

4.2. Đào tạo chung nguồn bổ nhiệm Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư - giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tư pháp

Một chủ trương rất lớn của Chiến lược cải cách tư pháp là mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán, Kiểm sát viên từ những Luật sư giỏi và luân chuyển giữa các chức danh này. Chủ trương này đặt ra yêu cầu đào tạo chung nguồn bổ nhiệm Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư. Bên cạnh đó, xu hướng của nhiều nước trên thế giới là xây dựng khung đào tạo chung các chức danh tư pháp. Do vậy, đề tài kiến nghị những nội dung sau:

[1] Chương trình đào tạo chung nhằm đến đối tượng đã tốt nghiệp cử nhân luật, có thể đang làm việc tại các cơ quan tư pháp (như Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố...) hoặc đang hành nghề tự do nhưng có nguyện vọng được làm việc tại các cơ quan tư pháp của nhà nước. Chương trình đào tạo chung được tổ chức dưới hình thức học tập trung, chính quy.

[2] Nội dung chương trình đào tạo chung trang bị kỹ năng nghề nghiệp cơ bản ban đầu cho những người sẽ được bổ nhiệm làm Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư, tăng cường tính chuyên nghiệp cho hoạt động tố tụng tại Tòa án, góp phần giải quyết các vụ án nhanh hơn, hạn chế các bản án bị kháng cáo, kháng nghị, giảm chi phí, thời gian cho những người tham gia tố tụng cũng như cho các cơ quan tiến hành tố tụng.

[3] Dự kiến thời gian đào tạo chung Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư là 18 tháng, trong đó 09 tháng học tại Học viện; 03 tháng đi thực tế tại cơ quan tòa án; 03 tháng đi thực tế tại cơ quan kiểm sát; 03 tháng đi thực tế tại các văn phòng Luật sư.

[4] Về lộ trình, trước mắt cần xây dựng Đề án thí điểm thi tuyển đào tạo chung nguồn Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư; triển khai khoá đào tạo chung; tổng kết, đánh giá hiệu quả để thực hiện trên diện rộng. Với mô hình mới này, sau khi tổ chức thí điểm thành công, hàng năm sẽ tiến hành kỳ thi tuyển rộng rãi trong phạm vi toàn quốc để lựa chọn trong số các cử nhân luật (chưa trong biên chế nhà nước) những người có phẩm chất nghề nghiệp, trình độ chuyên môn giỏi vào đào tạo nghiệp vụ chức danh tư pháp.

5. Tăng cường năng lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp, hình sự[124]

Nghị quyết 49-NQ/TW cũng nhấn mạnh mối quan hệ giữa tăng cường khả năng tiếp cận của công dân đối với hệ thống tư pháp hình sự và hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp. Nghị quyết nêu rõ: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật; không ngừng nâng cao trình độ dân trí pháp lý, ý thức sống làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Để đạt được mục đích tăng cường năng lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự, đề tài nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị sau:

[1] Nâng cao chất lượng và hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật tư pháp hình sự

[2] Cần khẩn trương tạo cơ sở pháp lý để thực hiện cơ chế tiếp cận thông tin cởi mở và minh bạch, chính xác, thuận lợi và rõ ràng cho quần chúng nhân dân, nhất là đối tượng tham gia tố tụng.

[3] Cần nâng cao năng lực tiếp cận của nhóm thương nhân đối với hệ thống tư pháp hình sự, đặc biệt là đối với nhóm tội mà thương nhân thường mắc phải như các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế[125]. Theo đó, nếu có sự hiểu biết nhất định về hệ thống tư pháp hình sự thì ngoài chức năng giám sát và kiểm tra chéo thương nhân còn tự bảo vệ được quyền của mình mỗi khi bị xâm phạm. Nội dung cụ thể như sau: Các hình thức nâng cao sự hiểu biết của giới thương nhân về các nhóm tội mà thương nhân thường mắc phải và các cơ quan tiến hành tố tụng cần hết sức thận trọng khi tiến hành các hoạt động nghiệp vụ đối với các vụ án điển hình về kinh tế trong giới thương nhân; Nhà nước nên quan tâm để có chương trình hỗ trợ pháp luật cho các doanh nghiệp, tạo ra một sự phối hợp chặt chẽ giữa các thương nhân và các cơ quan công quyền; Huy động sự tham gia tích cực của các thương nhân tham gia vào quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

[4] Cần nâng cao năng lực tiếp cận của nhóm đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa đối với hệ thống tư pháp hình sự. Các giải pháp cụ thể cần thực hiện đó là: Xây dựng lực lượng cán bộ làm công tác truyền thông ở cơ sở, đội ngũ báo cáo viên trực tiếp phổ biến đến bà con dân tộc; Cần biên soạn tài liệu phổ biến giáo dục pháp luật phù hợp với đối tượng, theo hướng “đơn giản, dễ hiểu”, thậm chí phải dịch sang tiếng dân tộc ở một số vùng đồng bào ít biết tiếng phổ thông; Phối hợp lồng ghép công tác phổ biến giáo dục pháp luật tư pháp hình sự với các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể thao trong các dịp lễ hội, phiên chợ vùng cao, sinh hoạt văn hoá nhà Rông Tây Nguyên, văn hoá Nhà Chùa ở vùng đồng bào dân tộc Khmer...

[5] Bổ sung một số quy định về khiếu nại, tố cáo: Một số quy định cụ thể cần được bổ sung như quy định cho phép công dân không phải trả lời khi cơ quan công quyền hỏi, mà chưa có luật sư, người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình ở bên cạnh. Hoặc quy định cụ thể hơn về các biện pháp xử lý đối với cán bộ, công chức làm việc trong hệ thống cơ quan tư pháp hình sự không trả lời các khiếu nại, tố cáo của công dân.

[6] Tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ quan trong hệ thống tư pháp hình sự: Xây dựng các cơ sở vật chất để tạo điều kiện trong việc tiếp xúc, làm việc hay tuyên truyền phổ biến các chính sách quan điểm của Đảng về khả năng tiếp cận hệ thống tư pháp hình sự cho công dân.

 

 

Chương 6. MỘT SỐ NHÓM KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT

 

1. Nhóm kiến nghị về việc tư pháp hóa về thẩm quyền và thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính[126]

Nhóm kiến nghị này xuất phát từ cả cơ sở chính trị - pháp lý, cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn. Xét về cơ sở lý luận: Việc tư pháp hoá việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính xuất phát từ bản chất của các biện pháp này là những biện pháp mang tính cưỡng chế nhà nước, trực tiếp đụng chạm đến quyền cơ bản của công dân. Do vậy, việc áp dụng các biện pháp này cần phải được thực hiện theo một trình tự, thủ tục tư pháp chặt chẽ, bảo đảm khách quan, chính xác. Xét về cơ sở chính trị - pháp lý: Ở giai đoạn năm 2012, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW đã định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật phục vụ mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó đề cao yêu cầu bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Xét về cơ sở thực tiễn: Việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đã bộc lộ một số khó khăn khi các quy định xử lý vi phạm hành chính còn nằm ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau; trong khi các thủ tục tố tụng hình sự được thực hiện tại Toà án với quy định chặt chẽ về thủ tục, thì các biện pháp xử lý hành chính do Chủ tịch UBND quyết định và chưa đảm bảo tính chặt chẽ, còn gặp khó khăn về cả nguồn lực và cơ sở vật chất.

Bên cạnh đó, việc tư pháp hoá thẩm quyền và thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính là cần thiết nhằm thực hiện nghĩa vụ mà một số Công ước quốc tế đặt ra đối với Việt Nam - quốc gia thành viên Công ước.

Theo đó, nhóm kiến nghị về việc tư pháp hóa về thẩm quyền và thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tập trung vào các nội dung sau:

[1] Chuyển giao thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính từ Uỷ ban nhân dân sang cho Toà án nhân dân. Kiến nghị này nhằm hướng tới việc bảo đảm tính công khai, minh bạch, bình đẳng trong quá trình xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tạo cho các đương sự có nhiều cơ hội để bảo vệ quyền lợi của mình.

[2] Song song với việc giao Toà án là cơ quan có thẩm quyền áp dụng một số biện pháp xử lý hành chính, cần xây dựng văn bản hướng dẫn về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án. Theo đó, đề tài kiến nghị xây dựng Pháp lệnh về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND. Điều này là cần thiết, xuất phát từ cả cơ sở chính trị - pháp lý, cơ sở lý luận và thực tiễn.

Những kiến nghị này được đưa ra vào năm 2012 và đến nay đã được thể chế hoá trong các văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể là Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và Pháp lệnh 09/2014/UBTVQH13 về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành.

2. Nhóm kiến nghị về hoàn thiện cơ chế đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước

Để nâng cao chất lượng hoạt động đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước, việc hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực này cùng với việc xây dựng, thiết kế bộ công cụ đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước là rất quan trọng và có ý nghĩa then chốt.

Xét về cơ sở chính trị - pháp lý của nhóm kiến nghị: Trong giai đoạn 2001 - 2021, với bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành hàng loạt các cuộc cải cách quan trọng, trong đó có việc cải cách hệ thống pháp luật theo tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW, Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010,[127] Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Quyết định số 30/QĐ-TTg ngày 10/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 - 2010; Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ về kiểm soát thủ tục hành chính; Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 8/11/2011 ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020… Đặc biệt, theo Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 8/11/2011, việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước cần bám sát vào 4 giá trị cốt lõi trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước trong nhà nước pháp quyền đó là: hiệu lực, hiệu quả, dân chủ và pháp quyền.

Xét về cơ sở thực tiễn: Thực tiễn Việt Nam cho thấy do nhiều nguyên nhân khác nhau, các đánh giá của Đảng và Chính phủ thường mang tính khái quát, tổng thể và định tính, việc xây dựng các bộ chỉ số đánh giá có tính chất định lượng và so sánh còn chưa được quan tâm đúng mức.

Bên cạnh đó, qua nghiên cứu kinh nghiệm một số quốc gia (Anh, Úc, Hoa Kỳ, Phần Lan…) cho thấy đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc sử dụng các bộ tiêu chí hoặc bộ chỉ số là hoạt động khá phổ biến. Hoạt động đánh giá này thường gắn liền với các phong trào cải cách hành chính và thường phục vụ cho các chương trình cải cách hành chính cụ thể. Việc đánh giá hiệu quả này được thực hiện chính thức từ các cơ quan có thẩm quyền và cả nhiều cơ sở nghiên cứu, nhất là các cơ sở nghiên cứu về chính sách công

Nhóm kiến nghị về hoàn thiện cơ chế đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước tập trung vào những kiến nghị sau:

[1] Xây dựng bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam[128]: Theo đó, Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam nếu xây dựng được thành công phải là bộ chỉ số mang tính tổng hợp, bao gồm nhiều chỉ số thành phần và các tiểu chỉ số ở cấp thấp hơn.

[2] Xây dựng và ban hành Nghị định về thí điểm tổ chức công tác đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các Bộ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh[129]: Để công tác đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các Bộ quản lý ngành và các Ủy ban nhân dân đi vào nề nếp, nhóm tác giả của Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2012 đưa ra kiến nghị đối với Chính phủ trong việc ban hành Nghị định về thí điểm tổ chức công tác đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các Bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

[3] Xây dựng Khung tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay[130]

Trên cơ sở kinh nghiệm của các nước và điều kiện thực tế Việt Nam, nhóm nghiên cứu của Đề tài khoa học cấp bộ năm 2019 bước đầu đề xuất Khung tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam bao gồm 9 tiêu chí cụ thể, ví dụ tiêu chí hiệu quả trong điều hành nội bộ cơ quan hành chính nhà nước; tiêu chí mức độ hài lòng của đối tượng thụ hưởng, đối tượng tác động và nguồn nhân lực trong nội bộ; tiêu chí về hiệu quả cung ứng dịch vụ công; tiêu chí về số hóa và ứng dụng công nghệ thông tin…

[4] Hoàn thiện các biện pháp bảo đảm thực hiện cho hoạt động đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước[131], cụ thể: Tăng cường ứng dụng công nghệ trong hoạt động đánh giá; Thu hút và tạo điều kiện cho các đối tượng khác nhau tham gia vào đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.

3. Nhóm kiến nghị nâng cao hiệu quả cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến của nhân dân về một số hoạt động của Bộ Tư pháp[132]

Thực hiện chủ trương cải cách nền hành chính theo hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính và xây dựng nền hành chính gần dân, phục vụ nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ chương, chính sách,liên quan đến việc thúc đẩy sự tích cực của các cơ quan công quyền trong việc tiếp thu các phản ánh, kiến nghị của nhân dân trong hoạt động quản lý nhà nước và thực thi pháp luật

Trên cơ sở đó, Đề tài “Cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến của nhân dân về những hoạt động trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp mà Ngành Tư pháp chịu trách nhiệm thực hiện hoặc quản lý” (năm 2015) đã đưa ra một số kiến nghị như sau:

[1] Tham mưu, đề xuất hoặc trình ban hành các văn bản mang tính quy phạm pháp luật để nhằm chế định hóa để nâng cao hiệu quả việc tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến nhân dân

Theo đó, với tư cách là “người gác cổng” cho Chính phủ về mặt xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp cần tiếp tục tham mưu, đề xuất hoặc trình ban hành các văn bản mang tính quy phạm pháp luật để nhằm chế định hóa để nâng cao hiệu quả việc tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến nhân dân của hệ thống các cơ quan nhà nước nói chung và Bộ Tư pháp nói riêng, bao gồm:

- Trình Quốc hội ban hành Luật Tiếp cận thông tin nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân, tổ chức; tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan nhà nước.

- Xây dựng và trình Quốc hội thông qua Luật Trưng cầu ý dân. Theo đó, trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ trực tiếp ở mức cao, vì vậy để việc thực hiện quyền lực trực tiếp của nhân dân ở nước ta tiếp tục “mở” hơn nữa, nhóm tác giả Đề tài nghiên cứu đã đề xuất luật hóa vấn đề này.

Đối với kiến nghị này, hiện nay, Luật Trưng cầu dân ý đã được ban hành năm 2015, còn Luật Tiếp cận thông tin được ban hành năm 2016 để kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013.

[2] Lập kế hoạch lấy ý kiến trong quá trình xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật

Theo kiến nghị này, để việc lấy ý kiến được hiệu quả, cơ quan tổ chức lấy ý kiến cần làm tốt công tác tuyên truyền phổ biến, cung cấp đầy đủ, chi tiết và đa chiều thông tin về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức các điểm cung cấp thông tin, sử dụng các phương tiện truyền thông phù hợp; Tổ chức các điểm và các kênh thu thập ý kiến phản hồi của người dân. Ý kiến đóng góp phải được tập hợp và xử lý, phân loại một cách đầy đủ. Phụ thuộc vào phạm vi và quy mô lấy ý kiến mà việc tiếp nhận và tổng hợp có thể được thực hiện bởi một hoặc nhiều chủ thể, nhưng vẫn phải có một chủ thể chịu trách nhiệm chính trong hoạt động này.

[3] Mở rộng các hình thức tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với các lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp: Bên cạnh việc tiếp thu ý kiến trên Cổng thông tin của Bộ Tư pháp thì cần đầu tư nâng cấp trang thiết bị và con người nhằm tăng cường hiệu quả việc tiếp thu và phản hồi ý kiến nhân dân thông qua các Trang thông tin của các đơn vị thuộc Bộ thực sự trở thành diễn đàn rộng rãi cho mọi tầng lớp nhân dân đóng góp ý kiến cho công tác của Bộ Tư pháp đặc biệt là trong việc xây dựng và thi hành pháp luật.

 

 

LỜI KẾT

Trong những năm qua, có thể đánh giá công tác nghiên cứu khoa học pháp lý nói chung và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực tư pháp, hình sự đã đem lại giá trị lý luận và thực tiễn cao, phục vụ việc xây dựng các Nghị quyết quan trọng của đất nước; cũng như sửa đổi, bổ sung nhiều dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật quan trọng. Bên cạnh đó, nhiều kết quả nghiên cứu của các nhiệm vụ khoa học đã đưa ra những đề xuất, kiến nghị với giá trị lý luận và thực tiễn cao, phục vụ tích cực việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phục vụ chiến lược cải cách tư pháp, cũng như hoạt động xây dựng và phát triển ngành tư pháp. Kết quả nghiên cứu của các nhiệm vụ khoa học này còn là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho đội ngũ cán bộ, giảng viên và đội ngũ sinh viên, học viên đang quản lý, giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo trong và ngoài ngành Tư pháp cũng như các tổ chức, cá nhân quan tâm.

Về cơ bản, các nhóm kiến nghị trong các đề tài, đề án khoa học từ năm 2001 - 2021 trong lĩnh vực tư pháp, hình sự tập trung vào những nội dung cơ bản sau:

(1) Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và tố tụng hình sự;

(2) Hoàn thiện lý luận về quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp và kiến nghị góp phần đổi mới tổ chức, hoạt động của cơ quan thực hiện quyền tư pháp, cơ quan tiến hành tố tụng;

(3) Hoàn thiện chế định thi hành án;

(4) Hoàn thiện chế định bổ trợ tư pháp;

(5) Nâng cao hiệu quả việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống tư pháp, hình sự.

Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, Đảng ta đã đặt ra mục tiêu phát triển đất nước, trong đó có yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Điều đó đòi hỏi công tác nghiên cứu khoa học của Bộ, ngành Tư pháp nói chung và nghiên cứu trong lĩnh vực tư pháp, hình sự nói riêng cần tiếp tục nâng lên tầm cao mới nhằm kiến nghị được các kiến nghị xử lý ở tầm tổng thể, toàn cục dựa trên các phân tích, dự báo có tính dài hạn. Thêm vào đó, trong bối cảnh hội nhập quốc tế mạnh mẽ, công tác nghiên cứu pháp lý cần phải thể hiện rõ nét hơn nữa khả năng hội nhập, khẳng định được uy tín, vị thế của mình không chỉ trong nền khoa học pháp lý nước nhà mà cần trở thành địa chỉ nghiên cứu khoa học pháp lý có uy tín trong khu vực và từng bước vươn ra với thế giới./.

 


[1] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); (4) Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[2] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); (4) Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014); Đề tài “Tổ chức tội phạm ở Việt Nam - Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật hình sự” (năm 2013).

[3] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); (4) Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014); Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp luật về môi trường” (năm 2001); Đề tài “Quy định tội phạm và hình phạt trong các văn bản pháp luật chuyên ngành - Kinh nghiệm nước ngoài và phương hướng đổi mới nguồn văn bản pháp luật hình sự” (năm 2009); Đề tài “Nghiên cứu so sánh các cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức” (năm 2010).

[4] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); (4) Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014); Đề tài “Tổ chức tội phạm ở Việt Nam - Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật hình sự” (năm 2013); Đề tài “So sánh pháp luật hình sự một số nước ASEAN” (năm 2008).

[5] Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014); Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005).

[6] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014);

[7] Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007).

[8] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[9] Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007).

[10] Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[11] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[12] Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[13] Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[14] Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[15] Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[16] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài “Tổ chức tội phạm ở Việt Nam - Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật hình sự” (năm 2013); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[17] Đề tài “Tổ chức tội phạm ở Việt Nam - Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật hình sự” (năm 2013); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[18] Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp luật về môi trường” (năm 2001); Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài “So sánh pháp luật hình sự một số nước ASEAN” (năm 2008); Đề tài “Nghiên cứu so sánh các cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức” (năm 2010); Đề tài “Tổ chức tội phạm ở Việt Nam - Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật hình sự” (năm 2013); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[19] Ví dụ: Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ, Canada, Australia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Phần Lan, Vương quốc Bỉ, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Slovakia, Hungari, Lavia, Estonia, Croatia…

[20] Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007).

[21] Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[22] Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[23] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007).

[24] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007).

[25] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[26] Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp luật về môi trường” (năm 2001); Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007).

[27] Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp luật về môi trường” (năm 2001); Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007).

[28] Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp luật về môi trường” (năm 2001); Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007).

[29] Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp luật về môi trường” (năm 2001); Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[30] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[31] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[32] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề tài “Tổ chức tội phạm ở Việt Nam - Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật hình sự” (năm 2013); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[33] Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[34] Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[35] Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007).

[36] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[37] Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[38] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[39] Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[40] Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014); Đề tài “Đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong điều kiện cải cách tư pháp” (năm 2010).

[41] Đề tài “Đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong điều kiện cải cách tư pháp” (năm 2010).

[42] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[43] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[44] Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[45] Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007).

[46] Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007).

[47] Bao gồm 10/13 đề tài: Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp luật về môi trường” (năm 2001); Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề tài “So sánh pháp luật hình sự một số nước ASEAN” (năm 2008); Đề tài “Quy định tội phạm và hình phạt trong các văn bản pháp luật chuyên ngành - Kinh nghiệm nước ngoài và phương hướng đổi mới nguồn văn bản pháp luật hình sự” (năm 2009); Đề tài “Tổ chức tội phạm ở Việt Nam - Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật hình sự” (năm 2013); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014); Đề tài “Nghiên cứu tính thống nhất giữa Bộ luật hình sự trong việc quy định các tội phạm với các luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam” (năm 2015); Đề tài “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015” (năm 2017).

[48] Đề tài “Nghiên cứu tính thống nhất giữa Bộ luật hình sự trong việc quy định các tội phạm với các luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam” (năm 2015).

[49] Đề tài “Xây dựng và chuẩn hoá các thuật ngữ luật hình sự phục vụ việc sửa đổi cơ bản, toàn diện Bộ luật hình sự Việt Nam” (năm 2013).

[50] Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề tài “Xây dựng và chuẩn hoá các thuật ngữ luật hình sự phục vụ việc sửa đổi cơ bản, toàn diện Bộ luật hình sự Việt Nam” (năm 2013); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[51] Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp luật về môi trường” (năm 2001).

[52] Đề tài “Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” (năm 2007); Đề tài “Xây dựng và chuẩn hoá các thuật ngữ luật hình sự phục vụ việc sửa đổi cơ bản, toàn diện Bộ luật hình sự Việt Nam” (năm 2013); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014).

[53] Đề tài “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015” (năm 2017); Đề tài “Lập pháp hình sự về trách nhiệm của pháp nhân thương mại dưới góc độ so sánh luật” (năm 2018).

[54] Đề tài “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015” (năm 2017).

[55] Đề tài “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015” (năm 2017).

[56] Đề tài “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015” (năm 2017).

[57] Đề tài “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015” (năm 2017).

[58] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” (năm 2007).

[59] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài Các giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự trong việc bảo vệ quyền con người (năm 2006); Đề tài Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và tư pháp Việt Nam (năm 2006).

[60] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” (năm 2007).

[61] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” (năm 2007).

[62] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề án “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” (năm 2014); Đề tài “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” (năm 2007).

[63] Đề tài “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” (năm 2007); Đề tài “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và tư pháp Việt Nam” (năm 2006).

[64] Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (năm 2005); Đề tài “Tổ chức tội phạm ở Việt Nam - Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật hình sự” (năm 2013); Đề tài “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và tư pháp Việt Nam” (năm 2006); Đề tài “Các giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự trong việc bảo vệ quyền con người” (năm 2006).

[65] Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tư pháp (góp phần sửa đổi Hiến pháp 1992)” (năm 2001).

[66] Đề án “Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả cải cách tư pháp từ thực tiễn thực hiện vai trò, chức năng của Chính phủ” (năm 2016); Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035” (năm 2019).

[67] Đề án “Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả cải cách tư pháp từ thực tiễn thực hiện vai trò, chức năng của Chính phủ” (năm 2016); Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035” (năm 2019).

[68] Đề tài Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền tư pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013” (năm 2019).

[69] Đề tài Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền tư pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013” (năm 2019).

[70] Đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản trị tòa án để đảm bảo độc lập theo tinh thần Hiến pháp năm 2003” (năm 2016); Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tư pháp (góp phần sửa đổi Hiến pháp 1992)” (năm 2001).

[71] Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035” (năm 2019).

[72] Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035” (năm 2019).

[73] Đề tài “Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền tư pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013” (năm 2018).

[74] Đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản trị tòa án để đảm bảo độc lập theo tinh thần Hiến pháp năm 2003” (năm 2016); Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tư pháp (góp phần sửa đổi Hiến pháp 1992)” (năm 2001).

[75] Đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản trị tòa án để đảm bảo độc lập theo tinh thần Hiến pháp năm 2003” (năm 2016); Đề tài Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền tư pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013” (năm 2019).

[76] Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tư pháp (góp phần sửa đổi Hiến pháp 1992)” (năm 2001).

[77] Đề án “Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả cải cách tư pháp từ thực tiễn thực hiện vai trò, chức năng của Chính phủ” (năm 2016); Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035” (năm 2019), Đề tài Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền tư pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013” (năm 2019).

[78] Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035” (năm 2019).

[79] Đề án “Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả cải cách tư pháp từ thực tiễn thực hiện vai trò, chức năng của Chính phủ” (năm 2016); Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035” (năm 2019).

[80] Đề án khoa học năm 2010: Khảo sát khoa học về quy trình, thủ tục thi hành án các bản án có tài sản thi hành là bất động sản và các giải pháp nhằm đảm bảo tính thống nhất cho các quy trình này

[81] Đề tài khoa học cấp bộ (năm 2019) Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong Thi hành án dân sự

[82] Đề án Khảo sát khoa học về quy trình, thủ tục thi hành án các bản án có tài sản thi hành là bất động sản và các giải pháp nhằm đảm bảo tính thống nhất cho các quy trình này (năm 2010).

[83] Đề tài khoa học cấp bộ năm 2018 “Các biện pháp nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản cho nhà nƣớc trong các vụ án tham nhũng”

[84] Đề án khoa học năm 2009 “Kiện toàn mô hình tổ chức và đội ngũ cán bộ thi hành án để thực hiện có hiệu quả Luật Thi hành án dân sự năm 2008” và Đề tài khoa học năm 2007Nghiên cứu thực trạng, nhu cầu phát triển đội ngũ chấp hành viên và xây dựng chương trình đào tạo theo yêu cầu cải cách tư pháp”.

[85] Đề tài khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu thực trạng, nhu cầu phát triển đội ngũ chấp hành viên và xây dựng chương trình đào tạo theo yêu cầu cải cách tư pháp” (năm 2007)

[86] Đề án khoa học năm 2009 “Kiện toàn mô hình tổ chức và đội ngũ cán bộ thi hành án để thực hiện có hiệu quả Luật Thi hành án dân sự năm 2008”

[87] Đề tài khoa học cấp Bộ Nghiên cứu thực trạng, nhu cầu phát triển đội ngũ chấp hành viên và xây dựng chương trình đào tạo theo yêu cầu cải cách tư pháp (năm 2007).

[88] Đề tài khoa học cấp Bộ “Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong Thi hành án dân sự” (năm 2019).

[89] Đề tài khoa học cấp Bộ “Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong Thi hành án dân sự” (năm 2019).

[90] Đề tài khoa học cấp bộ năm 2018 “Các biện pháp nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản cho nhà nước trong các vụ án tham nhũng”.

[91] Đề tài khoa học cấp bộ“Thực trạng công tác thi hành án hành chính và định hướng hoàn thiện pháp luật về thi hành án hành chính ở Việt Nam” (năm 2020).

[92] Đề tài khoa học cấp Bộ: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035(năm 2019).

[93] Đề tài khoa học cấp Bộ: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035(năm 2019); Đề tài khoa học cấp Bộ: Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (năm 2005).

[94] Đề tài khoa học cấp Bộ: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035(năm 2019).

[95] Đề tài khoa học cấp Bộ: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035(năm 2019).

[96] Đề tài khoa học cấp Bộ: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035(năm 2019); Đề tài khoa học cấp Bộ: Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (năm 2005).

[97] Đề tài “Xã hội hoá hoạt động giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” (năm 2008).

[98] Đề tài “Xã hội hoá hoạt động giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” (năm 2008), Đề án“Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” (năm 2009).

[99] Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” (năm 2009).

[100] Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” (năm 2009).

[101] Đề án “Nghiên cứu thực trạng, nhu cầu phát triển đội ngũ chấp hành viên và xây dựng chương trình đào tạo theo yêu cầu cải cách tư pháp” (năm 2008).

[102] Đề tài “Luận cứ khoa học và thực tiễn sửa đổi, bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý” (năm 2014).

[103] Cụ thể là tổ chức và hoạt động của thừa phát lại chỉ được điều chỉnh bằng Nghị định của Chính phủ, trong khi đó, các lĩnh vực hoạt động chính của thừa phát lại liên quan đến quyền con người, quyền công dân đều được điều chỉnh bằng Luật (Luật thi hành án dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự...).

[104] Đề tài “Xác định những định hướng chính sách lớn phục vụ cho việc xây dựng Luật Thừa phát lại” (năm 2016).

[105] Tham khảo kinh nghiệm của Cộng hoà Pháp, sau khi đã có lệnh của toà án về cưỡng chế trả lại nhà ở, thừa phát lại phải tống đạt lệnh buộc rời khỏi nơi ở cho người bị cưỡng chế và lệnh này cho phép người đó có một thời hạn 02 tháng để rời đi.Nếu hết thời hạn đó mà người bị cưỡng chế vẫn không thực hiện lệnh, thừa phát lại có quyền yêu cầu lực lượng công trợ giúp tiến hành cưỡng chế trả nhà. Nếu cơ quan công quyền không trả lời trong thời hạn 02 tháng thì phải chịu trách nhiệm và người được thi hành án có quyền khởi kiện trước Tòa án hành chính đối với cơ quan công quyền đã không thực thi yêu cầu của thừa phát lại để bảo vệ quyền lợi của đương sự. Nguyên tắc này được hình thành từ một bản án rất nổi tiếng của Tham chính viện (Tòa án hành chính tối cao) (Vụ kiện COUITEAS năm 1923).

                                                                                                    

 

 

[106] Đề án “Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả cải cách tư pháp từ thực tiễn thực hiện vai trò, chức năng của Chính phủ” (năm 2016); Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035” (năm 2019).

[107] Đề tài “Xã hội hoá hoạt động giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” (năm 2008); Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” (năm 2009).

[108] Đề tài “Xã hội hoá hoạt động giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” (năm 2008).

[109] Đề án “Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả cải cách tư pháp từ thực tiễn thực hiện vai trò, chức năng của Chính phủ” (năm 2016); Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035” (năm 2019).

[110] Đề tài “Xã hội hoá hoạt động giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” (năm 2008).

[111] Đề án “Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả công chứng, chứng thực các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình” (năm 2009).

[112] Đề án “Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả cải cách tư pháp từ thực tiễn thực hiện vai trò, chức năng của Chính phủ” (năm 2016); Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035” (năm 2019).

[113] Đề án “Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả công chứng, chứng thực các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình” (năm 2009).

[114] Đề tài Xác định những định hướng chính sách lớn phục vụ cho việc xây dựng Luật Thừa phát lại” (năm 2018).

[115] Đề án “Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả cải cách tư pháp từ thực tiễn thực hiện vai trò, chức năng của Chính phủ” (năm 2016); Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035” (năm 2019).

[116] Đề án “Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả cải cách tư pháp từ thực tiễn thực hiện vai trò, chức năng của Chính phủ” (năm 2016); Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035” (năm 2019).

[117] Đề tài “Xã hội hoá hoạt động giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” (năm 2008); Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” (năm 2009).

[118] Đề án “Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả công chứng, chứng thực các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình” (năm 2009).

[119] Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035” (năm 2019).

[120] Đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản trị tòa án để đảm bảo độc lập theo tinh thần Hiến pháp năm 2003” (năm 2016); Đề tài “Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền tư pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013” (năm 2018); Đề án “Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả cải cách tư pháp từ thực tiễn thực hiện vai trò, chức năng của Chính phủ” (năm 2016); Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035” (năm 2019).

[121] Đề án “Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả cải cách tư pháp từ thực tiễn thực hiện vai trò, chức năng của Chính phủ” (năm 2016); Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng định hướng cải cách tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ giai đoạn 2021 - 2035” (năm 2019).

[122] Bao gồm: 35 TAND cấp huyện, 33 VKSND cấp huyện và VKSND cấp cao tại Hà Nội, 35 trụ sở làm việc và 512 kho vật chứng cho cơ quan thi hành án dân sự đang phải thuê trụ sở là một nhiệm vụ cần thiết, cấp bách và ưu tiên tạm ứng vốn đầu tư trung hạn giai đoạn 2016 -2020 cho các cơ quan này để hoàn thành trong thời gian sớm nhất. Đồng thời, có cơ chế tháo gỡ về nguồn vốn để triển khai các chương trình dự án đầu tư xây dựng, nâng cấp các cơ sở giam giữ trên cả nước.

[123] Đề án “Những luận cứ khoa học cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam đến năm 2020” (năm 2011).

[124] Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền giám sát của nhân dân đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tư pháp” (năm 2002); Đề tài “Các giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự trong việc bảo vệ quyền con người” (năm 2006); Đề tài “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và tư pháp Việt Nam” (năm 2006).

[125] Đề tài “Các giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống tư pháp hình sự trong việc bảo vệ quyền con người” (năm 2006); Đề tài “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và tư pháp Việt Nam” (năm 2006).

[126] Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tư pháp hoá về thẩm quyền và thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính” (năm 2012).

[127] Ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ.

[128] Đề tài Nghiên cứu xây dựng bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước (năm 2012).

[129] Đề tài Nghiên cứu xây dựng bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước (năm 2012).

[130] Đề tài Cơ chế đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước - Kinh nghiệm quốc tế và giá trị tham khảo cho Việt Nam(năm 2019).

[131] Đề tài Cơ chế đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước - Kinh nghiệm quốc tế và giá trị tham khảo cho Việt Nam (năm 2019).

[132] Đề tài “Cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến của nhân dân về những hoạt động trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp mà Ngành Tư pháp chịu trách nhiệm thực hiện hoặc quản lý” (năm 2015).

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm ...