• Thuộc tính
Tên đề tài Hoàn thiện pháp luật về dân chủ trực tiếp theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Nội dung tóm tắt

Chương I

Những vấn đề Chung về dân chủ trực tiếp VÀ PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ TRỰC TIẾP

 

1.1.Quan niệm về dân chủ, dân chủ trực tiếp

1.1.1. Quan niệm về dân chủ

Về mặt học thuật, thuật ngữ “dân chủ” lần đầu tiên được nêu ra bởi nhà hiền triết Hy Lạp cổ đại Herodote [1]. Trong tác phẩm Lịch sử, ông đã giải thích dân chủ là “quyền lực của nhân dân”. Cả Herodote, và sau này Platon và Aristotle, đều sử dụng thuật ngữ dân chủ hàm ý chỉ chính thể của nhân dân và chia sẻ luận điểm quyền lực thuộc về nhân dân vốn xuất phát từ tiếng Hy Lạp, dân (demo) và quyền lực (cratos). Từ một khái niệm còn sơ khai thời cổ đại, theo tiến trình phát triển của xã hội, khái niệm dân chủ được nhận thức ngày càng đa dạng, được xem xét ở nhiều phương diện, nhiều góc độ[2]: 1‐ Dân chủ có thể là một dòng triết học ‐ chính trị; 2‐ dân chủ là một chỉnh thể hiện thực thâu tóm mọi khía cạnh vật chất và tinh thần của dân chủ; 3‐ dân chủ là một khái niệm chính trị ‐ pháp lý; 4‐ dân chủ là một hiện thực kinh tế; 5‐ dân chủ là một hiện thực xã hội; 6‐ dân chủ là trạng thái của hệ thống quan hệ quốc tế. Căn cứ vào phạm vi, có thể hiểu dân chủ ở nghĩa phổ quát: ở tầm quốc tế, ở mỗi khu vực; mỗi quốc gia; từng cộng đồng dân cư; và ở sự cảm nhận về dân chủ của từng người dân.

Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, song các lý thuyết về dân chủ hiện nay vẫn có những điểm tương đối thống nhất[3]. Đó là: (1) Vấn đề trung tâm của các lý thuyết về dân chủ đều đặt mục đích vì con người và cho rằng nhân dân có quyền tự chủ, tự quyết định số phận của mình và chính nhân dân biết rõ nhất những gì là cần thiết cho chính họ; (2) Một trong những nội dung trọng tâm của những lý thuyết về dân chủ là vấn đề về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước mà quyền lực này có nguồn gốc từ nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vì dân chủ có nội dung trọng tâm là về quyền lực nhà nước cho nên nội hàm của dân chủ cần được xem xét tập trung trong lĩnh vực tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Theo đó, dân chủ như là những quyền của cá nhân trong việc tham gia vào công việc nhà nước và những cơ chế, cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực vì con người.

1.1.2. Quan niệm về dân chủ trực tiếp

Dân chủ trực tiếp (DCTT) là khái niệm xuất hiện khá sớm trong lịch sử tư tưởng chính trị thế giới và được xem là một trong hai hình thức chính để thực hiện dân chủ. Theo cách hiểu truyền thống và cổ điển, DCTT là hình thức người dân tự mình quyết định các luật lệ và chính sách quan trọng của cộng đồng và đất nước. Theo lý thuyết hiện đại trên thế giới, “dân chủ trực tiếp (còn gọi là “dân chủ thuần túy”)[4] là một hình thức dân chủ trong đó người dân quyết định (ví dụ như biểu quyết, với đa số thống nhất) các sáng kiến ​​xây dựng chính sách một cách trực tiếp”[5]. Tùy thuộc vào từng nơi áp dụng cụ thể, DCTT có thể dẫn đến việc thông qua một quyết định hành pháp, bỏ phiếu chọn ra người làm chính sách, tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật, trực tiếp bầu hoặc miễn nhiệm cán bộ…

Ở Việt Nam, hiện nay tồn tại nhiều cách hiểu rộng, hẹp khác nhau về “dân chủ trực tiếp”. Theo nghĩa rộng, DCTT được hiểu là một yêu cầu của chế độ chính trị, trong đó Nhân dân - chủ thể của quyền lực nhà nước - không chỉ có quyền trực tiếp quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và cộng đồng, mà còn có quyền kiểm tra, giám sát bộ máy nhà nước do chính mình lập nên[6]Theo nghĩa hẹp, DCTT được hiểu là một hình thức thực thi quyền lực của Nhân dân, trong đó Nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình thông qua hình thức bỏ phiếu hay biểu quyết, để quyết định một vấn đề nào đó của đất nước hay của cộng đồng mà không thông qua một cơ quan hay cá nhân đại diện trung gian nào[7]. Quan niệm này được đa số các nhà nghiên cứu pháp lý ở Việt Nam thừa nhận. Mặc dù hai cách hiểu về DCTT có mức độ rộng hẹp khác nhau, nhưng đều gắn liền với nguồn gốc bản chất của khái niệm dân chủ, đó là “quyền lực/sự cai trị của nhân dân”, khẳng định Nhân dân là người chủ đích thực.

Từ những phân tích trên, nhóm nghiên cứu ủng hộ quan niệm (theo nghĩa hẹp) cho rằng, DCTT là hình thức nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình để quyết định (theo đa số) các vấn đề, các công việc quan trọng của quốc gia hay của cộng đồng mà không thông qua một thiết chế trung gian nào. Từ quan niệm này, có thể nêu hai đặc điểm quan trọng của DCTT như sau: Thứ nhất, là yếu tố trực tiếp - người dân phải tự mình bày tỏ ý chí của mình về các vấn đề quan trọng của quốc gia, của cộng đồng mà không phải thông qua bất kỳ một chủ thể trung gian nào; Thứ hai là yếu tố hiệu lực thi hành - sự bày tỏ đó phải mang ý nghĩa là được quyết định thi hành (theo đa số), có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý, chứ không chỉ là ý kiến tham khảo (bằng các hình thức lá phiếu, chữ ký cử tri...). Bộ máy quyền lực có vai trò ghi nhận ý chí và đảm bảo thực hiện ý chí của tập thể. Với đặc điểm này, DCTT được thực hiện một cách đầy đủ, đúng đắn và bản chất nhất. Tuy nhiên, ở nhiều nước khác nhau thì yếu tố này cũng được biểu hiện khá đa dạng và linh hoạt. Kết quả biểu quyết của người dân trong một số trường hợp có tính chất quyết định nhưng trong một số trường hợp chỉ có tính chất tham khảo để cơ quan có thẩm quyền quyết định.

1.2. Các phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp

1.2.1. Quan niệm về các phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp

Hiện nay, quan niệm về các phương thức DCTT khá đa dạng và ngày một mở rộng hơn do nhu cầu về dân chủ của con người cũng có nhiều thay đổi theo hướng ngày càng tiến bộ hơn, nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Theo quan niệm phổ biến trên thế giới, IDEA[8] cho rằng có 4 phương thức (hay công cụ) DCTT, bao gồm: TCYD (referendums); sáng kiến của công dân (Citizens’ initiatives); sáng kiến chương trình nghị sự (Agenda initiatives); và bãi miễn (Recall).[9] Ở Việt Nam, mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về DCTT, nhưng về cơ bản đều thừa nhận trưng cầu ý dân; bầu cử; bãi miễn đại biểu dân cử và lấy ý kiến nhân dân ở cơ sở là các phương thức DCTT điển hình và mang đầy đủ các yếu tố đặc trưng của DCTT.

Bên cạnh các phương thức thực hiện DCTT điển hình đã được thừa nhận rộng rãi, pháp luật Việt Nam còn ghi nhận khá nhiều các phương thức thực hiện dân chủ khác cũng có một số đặc trưng mang tính bản chất của DCTT ở các mức độ khác nhau như: Lấy ý kiến nhân dân góp ý xây dựng chính sách, pháp luật; phản biện xã hội; giám sát trực tiếp của người dân thông qua hoạt động khiếu nại, tố cáo,... Các phương thức này tự nó không đóng vai trò quyết định trong việc ra quyết định của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền nhưng có thể được xem là các phương thức đứng trung gian để thực hiện quyền của người dân, vừa mang yếu tố của DCTT (xét về tính chất và mục tiêu), vừa mang yếu tố của DCĐD (xét về kỹ thuật thực hiện).

1.2.2. Nội dung của các phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp

Từ những phân tích trên, nhóm nghiên cứu cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, các phương thức thực hiện DCTT đã được mở rộng mà không chỉ được tiếp cận theo tư duy truyền thống như trước đây. Vì vậy, trong phần này nhóm nghiên cứu sẽ tập trung vào nội dung của 02 nhóm phương thức thực hiện DCTT: (1) Các phương thức thực hiện DCTT điển hình trên thế giới; (2): Các phương thức thực hiện DCTT khác phổ biến ở Việt Nam.

(1): Các phương thức thực hiện DCTT điển hình trên thế giới

1.2.2.1. Trưng cầu ý dân

Trên thế giới, TCYD được hiểu là việc cử tri (cả nước hay một địa phương) bỏ phiếu tán thành hay không tán thành khi được hỏi về một vấn đề cụ thể và được chia thành hai loại: Trưng cầu ý dân bắt buộc; và TCYD có tính chất tư vấn. Trưng cầu ý dân bắt buộc dẫn tới hệ quả là chính quyền phải thực hiện theo đúng kết quả bỏ phiếu của cuộc TCYD. Trưng cầu ý dân có tính chất tư vấn dẫn tới hệ quả là chính quyền có thể ra quyết định cuối cùng sau khi suy xét tới kết quả của cuộc bỏ phiếu. Trưng cầu ý dân thường chỉ được thực hiện đối với các vấn đề trọng đại của quốc gia (chẳng hạn, ban hành, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp; tham gia các điều ước quốc tế…) hoặc của địa phương. Trưng cầu ý dân phải được thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu và thường được tiến hành một cách độc lập, riêng rẽ với các hoạt động khác.

1.2.2.2. Bãi miễn/bãi nhiệm đại biểu dân cử

Bãi miễn đại biểu dân cử của cử tri được hiểu là cử tri bỏ phiếu để thể hiện sự không tín nhiệm của mình đối với những đại biểu dân cử, buộc các đại biểu dân cử thôi giữ nhiệm vụ đại biểu trong khi nhiệm kỳ vẫn còn. Việc cử tri bãi miễn đại biểu dân cử có ý nghĩa hết sức quan trọng trong bất cứ một nền dân chủ nào. Mặc dù là một chế định chính trị ‐ pháp lý quan trọng nhưng chế định bãi miễn thường ít được thực hiện trong thực tiễn bởi những quy định pháp lý hết sức phức tạp mà trước hết là yêu cầu về số lượng chữ ký của cử tri đề xuất bãi nhiệm một đại biểu.

1.2.2.3. Sáng kiến công dân (sáng kiến nhân dân)

Sáng kiến của công dân là việc công dân đề xuất và bỏ phiếu quyết định về một vấn đề chung của đất nước hay của cộng đồng. Điều kiện để thực hiện cuộc bỏ phiếu là những người đề xuất phải thu thập đủ một số lượng chữ ký ủng hộ theo luật định. Các sáng kiến ​​của công dân có thể là những đề xuất mới hoặc đề xuất sửa đổi một văn bản pháp luật hiện hành, hoặc các vấn đề quan trọng khác được quy định trong hiến pháp. Tương tự như TCYD, kết quả của một cuộc bỏ phiếu do sáng kiến của công dân ​​có thể có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý hoặc chỉ có tính chất tham vấn với cơ quan lập pháp, tùy quy định trong pháp luật của các quốc gia.

1.2.2.4. Sáng kiến chương trình nghị sự

Sáng kiến chương trình nghị sự “là việc người dân đưa ra một vấn đề trong chương trình nghị sự chính trị và đòi hỏi một cơ quan có thẩm quyền nhất định – thường là cơ quan lập pháp – xem xét và/hoặc hành động đối với đề xuất đó”[10]. Đôi khi hành động này có thể bao gồm khả năng là cơ quan lập pháp sẽ đưa vấn đề ra bỏ phiếu TCYD. Các sáng kiến chương trình nghị sự chịu sự chi phối của những quy định nhất định: số lượng chữ ký theo yêu cầu, lượng thời gian cho phép để thu thập chữ ký, và những hạn chế về các loại vấn đề có thể là chủ đề của một sáng kiến chương trình nghị sự.

(2): Các phương thức DCTT khác, phổ biến ở Việt Nam.

Như trên đã nêu, tại Việt Nam, bên cạnh một số phương thức DCTT điển hình được thừa nhận như: TCYD, bãi miễn (đã phân tích ở trên)  thì bầu cử,  Nhân dân bàn và quyết định một số vấn đề ở cơ sở là hai phương thức mang đầy đủ yếu tố của DCTT được thừa nhận phổ biến ở Việt Nam.

1.2.2.5. Bầu cử đại biểu dân cử

Bầu cử là việc công dân của một nước lựa chọn những người đại diện để trao quyền cho họ thay mặt mình giải quyết các vấn đề trọng đại của đất nước. Thủ tục này được thực hiện bởi sự biểu quyết của cử tri (đại cử tri, đại diện cử tri) nhằm bầu ra một đại biểu (chức danh) với điều kiện phải có từ hai ứng cử viên trở lên. Thông qua bầu cử, cử tri vừa lựa chọn, vừa ủy thác quyền lực cho người đại diện. Bên cạnh đó, bầu cử dân chủ không chỉ là hình thức thể hiện ý chí của nhân dân mà còn là phương thức kiểm tra, kiểm soát quyền lực. Nhìn chung, bầu cử ở các nước dân chủ đều được tiến hành dựa trên một số nguyên tắc cơ bản như[11]: nguyên tắc phổ thông; nguyên tắc bình đẳng; nguyên tắc tự do; nguyên tắc bầu cử trực tiếp và bầu cử gián tiếp và nguyên tắc bỏ phiếu kín.

1.2.2.6.  Nhân dân bàn và quyết định một số vấn đề ở cơ sở.

Dân chủ có ý nghĩa cao nhất chính là quyền con người được thực hiện trước hết ở cơ sở, nhân dân có quyền được biết, được bàn, được kiểm tra giám sát mọi hoạt động diễn ra ở cơ sở (xã, phường, cơ quan, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp…) là nơi trực tiếp thực hiện mọi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, là địa bàn nhân dân sinh sống, lao động, sản xuất, công tác và học tập. Nhận thức được vai trò đó, việc phát huy sức mạnh dân chủ ở cơ sở, việc tăng cường, hoàn thiện quyền DCCS ở nước ta luôn được coi là một khâu quan trọng, đặc biệt là việc thực hiện dân chủ ở cấp xã (xã, phường, thị trấn).

Dân chủ ở cấp xã được thực hiện dưới nhiều hình thức, bao gồm cả hình thức gián tiếp và trực tiếp, trong đó, DCTT là hình thức khá phổ biến tại cấp xã. Các nội dung “dân bàn và quyết định trực tiếp” chính là những biểu hiện của DCTT theo nghĩa hẹp, cổ điển nhất. Bên cạnh đó, các nội dung “dân bàn, biểu quyết, tham gia ý kiến để cấp có thẩm quyền quyết định” và “dân tham gia kiểm tra, giám sát” là những biểu hiện của DCTT theo nghĩa rộng và được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam từ trước đến nay.

1.3. Mối quan hệ giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện[WU1]

 DCTT và DCĐD là hai hình thức biểu hiện của cùng thực thể dân chủ, cả hai hình thức này đều đóng một vai trò quan trọng bảo đảm cho việc thực hiện dân chủ, là hai hình thức không thể thiếu được của việc quản lý, điều hành, kiểm soát và thực thi quyền lực của nhân dân. Việc thực hiện các phương thức này sẽ bổ sung, hỗ trợ một cách hiệu quả cho nhau, cụ thể: Thứ nhất, để thực hiện được DCĐD thì phải cần đến DCTT; Thứ hai, hình thức DCTT là nội dung, là cái quyết định đối với DCĐD; Thứ ba, DCTT chính là thước đo và là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm, giám sát và đánh giá DCĐD; Thứ tư, DCĐD góp phần khắc phục được những nhược điểm của DCTT.

Mặc dù trái ngược về nguyên lý, DCTT và DCĐD không loại trừ mà gắn bó hữu cơ, hỗ trợ, bổ sung cho nhau cùng phát triển. Dân chủ đại diện ngay từ lúc mới ra đời cũng là nhằm khắc phục các nhược điểm của DCTT. Dân chủ trực tiếp lại tạo nên cơ chế đối trọng, kiểm tra, giám sát đối với hình thức DCĐD, với bộ máy Nhà nước, giảm bớt sự tuỳ tiện, lộng quyền, phát huy được tính tự giác, tích cực của mỗi thành viên trong một tập thể, một cộng đồng.

Trong thực tế, không có quốc gia nào hiện chỉ áp dụng DCĐD mà loại trừ DCTT và ngược lại.

Ở nước ta hiện nay, để kết hợp tốt DCTT và DCĐD chúng ta cần lưu ý một số điểm sau[12]: (1) Mối quan hệ giữa DCTT và DCĐD không phải là mối quan hệ đứng yên mà luôn luôn vận động, phát triển theo hướng khi đạt tới sự chín muồi về trình độ nhận thức và thực hành dân chủ của đông đảo nhân dân thì hình thức dân chủ gián tiếp sẽ dần dần được chuyển giao cho DCTT; (2) Phải đặt việc giải quyết mối quan hệ giữa DCTT và DCĐD trong mối quan hệ biện chứng với nhau, chứ không phải loại trừ nhau. (3) Để xây dựng nền dân chủ XHCN cần phát huy đồng thời cả hình thức DCTT và DCĐD; (4) Kết quả của việc giải quyết mối quan hệ giữa DCTT và DCĐD phụ thuộc vào trình độ nhận thức và trình độ thực hành dân chủ của cả chủ thể của quyền lực (nhân dân) và chủ thể được trao quyền (nhà nước).

1.4. Pháp luật về dân chủ trực tiếp

1.4.1. Khái niệm pháp luật về dân chủ trực tiếp

Dân chủ trực tiếp luôn gắn liền với pháp luật, bởi lẽ pháp luật là con đường, cách thức qua đó dân chủ nói chung và DCTT nói riêng đi vào cuộc sống. Giá trị của pháp luật đối với việc thực hiện DCTT chính là khả năng thực hiện và sự bảo đảm thực hiện DCTT với phạm vi rộng hơn, tính hiện thực cao hơn so với phong tục tập quán hoặc các quy tắc chính trị xã hội khác. Pháp luật cũng là phương tiện hạn chế sự lạm dụng quyền lực để đảm bảo quyền lực thực sự có tính chất dân chủ. Mặt khác, trong chế độ pháp quyền dân chủ thì mọi quyền đều do luật định. Chính vì vậy, để có thể thực thi được DCTT trong một quốc gia thì việc xây dựng hệ thống pháp luật về DCTT là yêu cầu không thể thiếu.

Theo nhận thức chung, nội hàm của pháp luật được thể hiện bằng các yếu tố đặc trưng sau đây: Thứ nhất, pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung; Thứ hai, pháp luật chỉ có thể do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận; Thứ ba, Nhà nước đảm bảo các quy phạm pháp luật được thực hiện trong thực tiễn đời sống. Pháp luật về DCTT là một bộ phận hợp thành của hệ thống pháp luật nói chung, vì vậy nó mang đầy đủ những đặc trưng của pháp luật. Theo đó, có thể hiểu pháp luật về DCTT là một tập hợp các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình người dân được trực tiếp quyết định những vấn đề của đất nước và cộng đồng, thông qua những cách thức tổ chức cơ bản khác nhau như TCYD, bầu cử, bãi nhiệm đại biểu dân cử hay quyết định một số vấn đề ở cơ sở.

1.4.2. Các đặc điểm của pháp luật về dân chủ trực tiếp

Trên cơ sở quan niệm về DCTT, các phương thức thực hiện DCTT và khái niệm pháp luật DCTT, nhóm nghiên cứu có thể khái quát một số đặc điểm của pháp luật về DCTT như sau:

Thứ nhất, là về đối tượng điều chỉnh của pháp luật DCTT. Thực thi DCTT với tất cả các quyết định quan trọng của đất nước là điều không tưởng. Ngay cả những nhà nước hiện đại ngày nay cũng không nhà nước nào thực hiện được việc này. Việc thực thi DCTT thông thường gắn liền với việc nhân dân trực tiếp quyết định những vấn đề quan trọng của quốc gia hay của cộng đồng như lập hiến - lập pháp, tổ chức bộ máy, vấn đề đặc biệt quan trọng về chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của quốc gia; vấn đề đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước hoặc những vấn đề quan trọng của địa phương.

Thứ hai, về cấu trúc của pháp luật về dân chủ trực tiếp. Dân chủ trực tiếp là một trong các hình thức cao nhất thể hiện quyền làm chủ của công dân và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nên vấn đề này thường được ghi nhận trong Hiến pháp và các luật, bởi lẽ “chỉ bằng Hiến pháp và luật, các quyền và nghĩa vụ trên mới mang đủ ý nghĩa long trọng và hiện thực”[13]. Khung pháp luật đó thường bao gồm những nguyên tắc chung của pháp luật về DCTT (được thể hiện trong Hiến pháp – văn bản có giá trị pháp lý cao nhất), đến các luật cụ thể, trong đó quy định cụ thể về các phương thức thực hiện (trình tự, thủ tục), các điều kiện bảo đảm, chế tài xử lý vi phạm... để áp dụng các phương thức thực hiện DCTT.

Thứ ba, về nội dung pháp luật DCTT. Nội dung pháp luật DCTT thường gồm các nội dung cơ bản sau: nguyên tắc thực thi DCTT; ghi nhận các quyền, các phương thức thực hiện DCTT; điều chỉnh các quy tắc, trình tự, thủ tục thực thi DCTT; quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước và các thiết chế khác; quy định các điều kiện bảo đảm thực thi DCTT.

1.4.3. Vai trò của pháp luật về dân chủ trực tiếp

Từ những đặc điểm trên của pháp luật về DCTT có thể rút ra một số vai trò quan trọng của pháp luật về DCTT như sau:

Thứ nhất, thông qua pháp luật về DCTT nhân dân thể hiện trực tiếp ý chí của mình: Người dân có thể tự mình ra quyết định về các chính sách, pháp luật cụ thể và không cần ủy thác quá trình ra quyết định cho đại diện dân cử của mình.

Thứ hai, pháp luật về DCTT tạo điều kiện cho nhân dân tích cực tham gia vào thực hiện các phương thức DCTT, thực hiện các quyền dân chủ.  Việc tạo điều kiện để người dân tiếp cận với các phương thức thực hiện DCTT nhiều hơn giúp họ nâng cao nhận thức về dân chủ, về các quyền của mình cũng như ý nghĩa của việc tham gia thực hiện dân chủ, từ đó có thêm niềm tin và hứng thú để thực hành DCTT.

Thứ ba, thông qua pháp luật về DCTT, nhân dân có cơ sở pháp lý để thực hiện DCTT song song với DCĐD: Rất nhiều học giả cho rằng DCTT là một phương thức hữu hiệu tác động lên hành vi của các đại biểu dân cử, để đảm bảo rằng họ phải xem xét đầy đủ các quan điểm của cử tri khi đưa ra quyết định, giúp tạo nên sự tương ứng lớn giữa quan điểm của cử tri với người đại diện.

Thứ tư, pháp luật về dân chủ nói chung và DCTT nói riêng có vai trò quan trọng trong việc thể chế hóa đường lối, quan điểm của đảng cầm quyền về thực thi dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Thứ năm, pháp luật về DCTT góp phần tạo ra sự đồng thuận, sự đoàn kết và nhất trí cả về chính trị và tinh thần trong xã hội. Nếu các cá nhân tin rằng, họ vừa tham gia một cách có ý nghĩa vào các quyết định ảnh hưởng đến bản thân mình thì họ sẽ sẵn sàng chấp nhận những thay đổi đó hơn. “Quá trình tham gia mang lại cho cá nhân tiếng nói để định hình một đổi thay, cho nên những thay đổi đó có khả năng dễ được chấp nhận hơn và ít bị đảo ngược hơn khi cơ hội đầu tiên xuất hiện”[14]. Sự tham gia của dân còn là yếu tố căn bản của chủ thuyết “quản lý nhà nước tốt” (Good Government). “Quản lý nhà nước tốt” có nghĩa là một Chính phủ hoạt động có hiệu quả cùng với việc ban hành các quyết định của mình đúng trình tự, quy định: quản lý nhà nước bằng pháp luật; trách nhiệm giải trình; minh bạch và đảm bảo sự tham gia của công chúng. Việc bảo đảm sự tham gia của dân chính là việc tạo cơ hội cho những người chịu tác động (trực tiếp hoặc gián tiếp) của một quyết sách sắp ban hành có cơ hội khả thi tối đa để đóng góp ý kiến hoặc tham gia vào quá trình ra quyết định.

Thứ sáu, pháp luật về DCTT có tác dụng kiểm soát tệ quan liêu, cục bộ, lợi ích nhóm, tham nhũng. Các cơ quan nhà nước vốn mang sẵn trong mình ít nhiều bản chất “quan liêu”, cho dù đó là Nhà nước tiến bộ và phát triển. Bởi vậy, sự tham gia của người dân sẽ tạo sự cân bằng và khoa học: có bảo vệ và có phản biện, có nêu vấn đề và có phản bác vấn đề, có vai trò của quản lý và bị quản lý, có quyền tự do kinh doanh và có trật tự công cộng…

1.4.4. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về dân chủ trực tiếp

Có nhiều tiêu chí để xác định chất lượng của hệ thống pháp luật. Đối với việc hoàn thiện pháp luật về DCTT có thể xem xét dưới các tiêu chí cơ bản sau: tính toàn diện; tính thống nhất, đồng bộ; tính phù hợp, khả thi và trình độ kỹ thuật lập pháp. Những tiêu chí này – xét về mặt lý thuyết, là những yếu tố làm nên giá trị của hệ thống; xét về mặt thực tiễn, là những điều kiện đòi hỏi công tác xây dựng pháp luật phải đáp ứng để bảo đảm và phát huy vai trò to lớn của pháp luật về DCTT.

Một là, về tính toàn diện: Tính toàn diện của hệ thống pháp luật phản ánh mức độ đầy đủ của hệ thống quy phạm, nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật; là tiêu chuẩn đầu tiên để đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật nói chung cũng như pháp luật về DCTT vì nó là tiêu chuẩn có ý nghĩa “định lượng”[15]. Tính toàn diện của pháp luật về DCTT bao gồm sự toàn diện về cấu trúc và sự đầy đủ về nội dung. Về cấu trúc, tính toàn diện của pháp luật DCTT đặt ra yêu cầu về mức độ bao phủ của pháp luật đối với các thành tố của nó. Yêu cầu đặt ra là các thành tố phải được ghi nhận đầy đủ, phải hợp thành hệ thống, tạo thành một chỉnh thể hướng tới thực hiện mục tiêu hiện thực hóa các phương thức thực hiện DCTT của người dân. Thiếu sự điều chỉnh của pháp luật đối với bất kỳ thành tố cơ bản nào, pháp luật về DCTT cũng có thể sẽ rơi vào tình trạng khiếm khuyết, rất khó vận hành hoặc vận hành không đạt hiệu quả mong muốn. Về nội dung, tính toàn diện của pháp luật về DCTT đặt ra yêu cầu về mức độ ghi nhận đầy đủ các nguyên tắc, các quyền và phương thức thực hiện quyền của người dân, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của các thiết chế tham gia thực hiện, các điều kiện đảm bảo và cách thức tạo lập, sử dụng các điều kiện đảm bảo trong quá trình thực hiện DCTT.

Hai là, về tính thống nhất, đồng bộ: Pháp luật về DCTT cần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ ở hai mức độ: bên trong và bên ngoài. Về tính thống nhất, đồng bộ bên ngoài:  Hệ thống pháp luật và toàn bộ quá trình thực thi pháp luật phải xuất phát từ tinh thần dân chủ. Theo đó, các quy định của Hiến pháp năm 2013 là cơ sở của sự đồng bộ đó. Trên nền của Hiến pháp, quá trình xây dựng pháp luật phải cụ thể hóa được tinh thần nguyên lý chủ quyền nhân dân trong tất cả các lĩnh vực pháp luật. Về tính thống nhất, đồng bộ bên trong: Sự thống nhất và đồng bộ của pháp luật về DCTT là điều kiện cần thiết bảo đảm cho tính thống nhất về mục đích của pháp luật và sự triệt để trong việc thực hiện pháp luật về DCTT. Tính thống nhất và đồng bộ của pháp luật về DCTT phải được thể hiện trong cả thể chế cũng như trong từng bộ phận hợp thành của pháp luật về DCTT. Không có các hiện tượng trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau của các quy định của pháp luật về DCTT trong mỗi bộ phận và trong các bộ phận khác nhau của thể chế. Điều này đòi hỏi các quy định của pháp luật về DCTT được ban hành không chỉ bảo đảm sự thống nhất, hài hoà về nội dung mà còn phải bảo đảm sự đồng bộ, tính thứ bậc của chúng về giá trị. Ở Việt Nam về nguyên tắc thì các chủ trương, định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam có giá trị cao nhất, tiếp đến là các quy định của Hiến pháp và luật, các quy định khác của pháp luật về DCTT khác phải phù hợp với các quy định của Đảng, của Hiến pháp và luật. Tính đồng bộ của pháp luật về DCTT còn thể hiện ở việc ban hành đầy đủ các quy định chi tiết đối với các văn bản, quy định của các thể chế, nhất là pháp luật trong những trường hợp cần có sự quy định chi tiết, để có đủ các điều kiện tổ chức thực hiện trên thực tế. Theo đó, cần tính đến yêu cầu thống nhất, đồng bộ về mặt hình thức của các văn bản pháp luật quy định chi tiết các phương thức DCTT đã được Hiến pháp ghi nhận, có thể là luật hoặc bộ luật chứ không phải có phương thức thì được quy định ở tầm văn bản luật, có phương thức được quy định trong pháp lệnh, có phương thức lại chỉ được quy định trong quy chế, quyết định. Sự thống nhất, đồng bộ về mặt hình thức là yếu tố khẳng định tầm quan trọng và hiệu quả thực thi DCTT trên thực tế.

Thứ ba, về tính phù hợp, khả thi: Tính phù hợp của pháp luật về DCTT thể hiện ở nội dung của thể chế luôn có sự tương quan với trình độ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, pháp luật về DCTT phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế, xã hội, dân chủ của đất nước, nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó.

Tính phù hợp và tính khả thi của các quy định pháp luật luôn đi song hành với nhau. Pháp luật có phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thì mới được xã hội tiếp nhận, đồng thuận và có khả năng thực hiện trên thực tế.

Thứ tư, về kỹ thuật xây dựng văn bản pháp luật: Điều này đòi hỏi quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về DCTT phải đưa ra được những nguyên tắc, những trình tự thủ tục tối ưu để tiến hành có hiệu quả quá trình đó nhằm tạo ra được những quy định, những văn bản tốt nhất, đồng thời phù hợp với các quy định đã có; xác định chính xác, khoa học cơ cấu của thể chế phù hợp với các điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước; ngôn ngữ được sử dụng phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu, đảm bảo tính cô đọng, lôgíc và một nghĩa.

Các tiêu chí này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, trở thành những yêu cầu cơ bản và bắt buộc trong việc hoàn thiện pháp luật về DCTT trong trật tự nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

1.4.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về dân chủ trực tiếp

Việc thực hiện dân chủ nói chung, DCTT nói riêng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau bao gồm: yếu tố kinh tế; yếu tố chính trị, yếu tố văn hóa, nhận thức của xã hội; trình độ dân chủ và truyền thống dân chủ của nhân dân... Các yếu tố này với các mức độ khác nhau đều có sự chi phối ít nhiều đến quá trình hoàn thiện pháp luật cũng như việc thực thi DCTT của mỗi quốc gia nói chung và trong nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. Có thể kể ra một số yếu tố quan trọng sau:

(1) Yếu tố kinh tế

Đối với DCTT, yếu tố kinh tế cũng có mối liên hệ khá mật thiết và sự ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật về DCTT, thể hiện cụ thể ở một số vấn đề: Thứ nhất, sự chuyển đổi về mô hình kinh tế là cơ sở, là nền tảng để chuyển đổi tư duy, nhận thức hoàn thiện pháp luật về DCTT. Thứ hai, yếu tố kinh tế là một trong những tiền đề quan trọng bảo đảm cho việc triển khai thực hiện pháp luật về DCTT trong thực tiễn. Việc này đòi hỏi nguồn kinh phí không nhỏ cả về mặt vật chất và thời gian, công sức, nguồn nhân lực. Thứ ba, lợi ích về kinh tế sẽ đảm bảo sức mạnh cho quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền vì mục đích tự thân của đấu tranh chính trị thực chất là phương thức, là con đường, phương tiện để đạt lợi ích kinh tế và củng cố lợi ích kinh tế và ngược lại khi giai cấp cầm quyền tạo lập thể chế chính trị - xã hội ổn định, đưa ra các quyết sách chính trị hợp lý sẽ tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển. Như vậy, điều kiện kinh tế là sự bảo đảm có tính chất nền tảng, là điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện tốt pháp luật về DCTT.

(2) Yếu tố chính trị

Đối với DCTT, sự tác động của yếu tố chính trị được thể hiện rất rõ nét. Nếu một đất nước duy trì được sự ổn định về thể chế chính trị cùng với sự cân bằng về mặt lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội sẽ tạo nên môi trường chính trị - xã hội thuận lợi cho việc phát huy DCTT, pháp luật về DCTT sẽ được quan tâm, coi trọng, tạo điều kiện thực thi. Nếu Đảng cầm quyền có xu hướng ủng hộ dân chủ, tạo cơ hội cho người dân cùng tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, cùng hướng đến sự đồng thuận trong xã hội thì các chính sách, pháp luật sẽ thể hiện đầy đủ quan điểm này. Ngược lại nếu Đảng chính trị có quan điểm không cởi mở với dân chủ thì đó sẽ là rào cản, người dân quốc gia đó dù có mong muốn cũng không thể thực hiện quyền tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động của bộ máy Nhà nước khi pháp luật quốc gia không ghi nhận các quyền này. Mặt khác, đây hoàn toàn cũng chính là sự đòi hỏi của bản thân hệ thống chính trị, từ nội tại hệ thống chính trị để bảo đảm việc lãnh đạo quản lý xã hội được hiệu quả.

(3) Yếu tố văn hóa – xã hội

Trình độ văn hóa, nhận thức của các chủ thể tham gia vào việc thực hiện DCTT (mà quan trọng nhất ở đây là người dân và cán bộ trong các cơ quan nhà nước) là yếu tố tác động trực tiếp đến việc xây dựng các quy phạm pháp luật và hiệu quả thực thi pháp luật về DCTT. Trình độ dân trí cao là điều kiện đầu tiên, cơ bản để có những hành vi xử sự hợp pháp.  Đối với một số phương thức DCTT trình độ dân trí có thể được xem là yếu tố quyết định giá trị thực chất của phương thức đó. Bên cạnh yếu tố về trình độ văn hóa và nhận thức thì các giá trị văn hóa truyền thống cũng có những tác động không nhỏ đến pháp luật về DCTT. Dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hóa là chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc, sự đoàn kết, tính cộng đồng... Những yếu tố văn hóa này nếu biết cách khơi gợi, khích lệ hợp lý sẽ có tác dụng tích cực đối với việc thực thi pháp luật về DCTT trên thực tế.

Cùng với các điều kiện về kinh tế, văn hóa các điều kiện xã hội cũng là những bảo đảm không kém phần quan trọng cho hiệu quả thực thi của pháp luật về DCTT. Sự phát triển của một xã hội dân chủ với sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân, sự phát triển của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các hiệp hội, các nhóm cộng đồng xã hội tạo ra nền tảng xã hội tốt để nhân dân thực thi hiệu quả các phương thức DCTT.

(4) Yêu cầu của toàn cầu hóa, quốc tế hóa

Yêu cầu của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, yếu tố này tác động một cách tích cực và mạnh mẽ đến nhiều khía cạnh của pháp luật về DCTT như phạm vi, mức độ, nội dung, cách thức tiến hành đồng thời chia sẻ nhiều kinh nghiệm, bài học thực tiễn của các quốc gia trên thế giới để Việt Nam có thể áp dụng phù hợp với bối cảnh trong nước. Đặc biệt, bối cảnh quốc tế hiện nay ngày càng phức tạp và chuyển biến khó lường đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc hoàn thiện pháp luật về DCTT. Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế. Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao... giữa các nước ngày càng gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Những điều kiện quốc tế không mấy thuận lợi như nêu trên sẽ làm cho quá trình hoàn thiện pháp luật về DCTT ở nước ta ít nhiều bị chậm lại.

Bên cạnh các yếu tố có tính chất chi phối lớn kể trên, việc xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật về DCTT còn chịu sự ảnh hưởng, tác động của các yếu tố khác như: Điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội, sự tác động của yêu cầu toàn cầu quá, quốc tế hóa… Chính vì vậy, việc nhận diện được các yếu tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng đến pháp luật DCTT là yêu cầu quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về DCTT nhằm đảm bảo tính khả thi, phù hợp, thống nhất và toàn diện.

1.5. Pháp luật về dân chủ trực tiếp của một số quốc gia và những giá trị tham khảo cho Việt Nam (nội dung chi tiết đề nghị xem trong Báo cáo tổng hợp kết quả của Đề tài).

 

 

CHƯƠNG II

thực trạng pháp luật về dân chủ trực tiếp với yêu cầu thể chế hóa quan điểm của Đại hội Đảng XIII về dân chủ trực tiếp

2.1. Sự phát triển quan điểm của Đảng về dân chủ trực tiếp

2.1.1. Quan điểm của Đảng về dân chủ trực tiếp trước Đại hội lần thứ XIII

Từ Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 – văn bản lần đầu tiên ghi nhận về dân chủ trực tiếp đến Văn kiện Đại hội lần thứ XIII gần đây, quan niệm của Đảng ta về DCTT ngày càng được nhận thức sâu sắc và cụ thể hơn: bắt đầu bằng việc ghi nhận DCTT là một hình thức thực hiện dân chủ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991, đến việc nhấn mạnh sự song hành như nhau giữa DCĐD và dân chủ trực tiếp trong Văn kiện Đại hội lần thứ IX, X. Đến Đại hội lần thứ XII, Văn kiện đã đặt ra yêu cầu cao hơn về việc phải thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và DCĐD. Và hiện nay, nhận thức về dân chủ, dân chủ trực tiếp trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII đã được ghi nhận ở tầm cao hơn, toàn diện hơn, đi vào thực chất hơn.

2.1.2. Quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ XIII về dân chủ trực tiếp và yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về DCTT

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ XHCN, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân; tăng cường tạo đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”.[16] Xuất phát từ định hướng này, Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục nhấn mạnh quan điểm về thực hành và phát huy dân chủ XHCN, trong đó có bổ sung, phát triển thêm một số luận điểm mới có liên quan đến dân chủ trực tiếp như sau:

Thứ nhất, Đại hội lần thứ XIII nhấn mạnh cần“Thực hiện đúng đắn, hiệu quả DCTT, DCĐD, nhất là dân chủ ở cơ sở”.[17]

Thứ hai, xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt” để nhân dân làm chủ.

Thứ ba, khẳng định đầy đủ hơn, rõ nét hơn vị thế của chủ thể quyền lực nhà nước - “nhân dân là trung tâm” hay “lấy nhân dân làm trung tâm”.

Thứ tư, bổ sung thêm nội dung “dân giám sát, dân thụ hưởng” trong phương châm mới lần này là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng

 Thứ năm, bổ sung mối quan hệ giữa “thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”[18].

Bên cạnh đó, định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền, hoàn thiện pháp luật trong Văn kiện Đại hội XIII cũng đặt ra một số yêu cầu có liên quan đến thực hành dân chủ cũng như DCTT, cụ thể như: tiếp tục thể chế hóa Nghị quyết của Đảng thành pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, trọng tâm là hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân; tiếp tục cụ thể hóa quyền và trách nhiệm của công dân; xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc duy trì, bảo đảm kỷ cương, trật tự công cộng, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh hành vi lợi dụng quyền tự do, dân chủ để xâm hại an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Các quan điểm trên là tiền đề chính trị và là yếu tố mang tính dẫn dắt quá trình hoàn thiện pháp luật và thực thi có hiệu quả pháp luật về DCTT trong thời gian tới.

2.2. Quá trình phát triển pháp luật về dân chủ trực tiếp qua các bản Hiến pháp Việt Nam

Pháp luật Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lí để nhân dân thể hiện ý chí, phát huy quyền làm chủ của mình, trực tiếp tham gia quản lí và quyết định những công việc trọng đại của nhà nước và xã hội trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương… Điều này được thể hiện qua hầu hết các bản Hiến pháp của Việt Nam.

2.2.1. Hiến pháp năm 1946

Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam, là một bản Hiến pháp thể hiện các nguyên tắc và nội dung của một chính thể dân chủ rộng rãi. Hiến pháp năm 1946 khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể Nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, tôn giáo” (Điều thứ 1). Các nội dung cụ thể về DCTT được ghi nhận trong nhiều điều luật như: Điều thứ 7 về bầu cử; Điều thứ 21, Điều thứ 32 và Điều thứ 70 về quyền phúc quyết Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia; Điều thứ 41 và Điều thứ 54 về bãi miễn đại biểu dân cử; Điều thứ 61 về bãi miễn nhân viên HĐND và Ủy ban hành chính…

2.2.2. Hiến pháp năm 1959

Tiếp tục kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 quy định về các phương thức DCTT như: Trưng cầu ý dân, bầu cử, bãi miễn đại biểu dân cử và một số phương thức có yếu tố của DCTT như khiếu nại, tố cáo (điều 29) và giám sát của nhân dân (điều 6). So với Hiến pháp 1946, nội dung Hiến pháp 1959 chưa có sự kế thừa các quy định tiến bộ của Hiến pháp cũ, thể hiện ở việc hạn chế và lược bỏ nhiều điều khoản về dân chủ: bỏ quyền phúc quyết hiến pháp, bỏ nguyên tắc bầu cử tự do, quy định không rõ ràng về quyền bãi miễn. Các quy định này gây ảnh hưởng khá lớn đến việc thiết lập, duy trì và phát huy dân chủ trong đời sống xã hội, hạn chế cơ hội tiếp cận và thực thi dân chủ trực tiếp cho người dân.

2.2.3. Hiến pháp năm 1980

Bản Hiến pháp này tiếp tục kế thừa những quy định về các phương thức DCTT trong cả Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, bao gồm: trưng cầu ý dân (điều 100); bầu cử đại biểu dân cử (Điều 7 và Điều 57); bãi miễn đại biểu dân cử (Điều 7). Cũng tương tự như Hiến pháp năm 1959, quyền khiếu nại, tố cáo và quyền giám sát của người dân tiếp tục được quy định trong Hiến pháp năm 1980 tại điều 73 và điều 8. Về cơ bản không có sự thay đổi lớn, chỉ có một số sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với bối cảnh chính trị - xã hội giai đoạn này.

2.2.4. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)

Hiến pháp 1992 tiếp tục kế thừa các quy định về những phương thức thực hiện DCTT trong các Hiến pháp trước đó, song có một số sửa đổi, bổ sung khá quan trọng. Về TCYD, Hiến pháp năm 1992 dành 3 điều quy định về vấn đề TCYD (Điều 53, Điều 84, Điều 91). Bên cạnh việc tiếp tục duy trì chế định TCYD như Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 đã quy định chi tiết hơn một số nội dung quan trọng liên quan chế định này như: (i) Thuật ngữ trưng cầu ý kiến Nhân dân (dùng trong các bản Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980) được sửa thành TCYD. (ii) Xác lập quyền biểu quyết của Nhân dân khi Nhà nước tổ chức TCYD như là một trong những quyền cơ bản của công dân; (iii) Trả lại Quốc hội thẩm quyền quyết định việc TCYD như quy định trong Hiến pháp năm 1946. Về bầu cử đại biểu dân cử, Hiến pháp năm 1992 đã khôi phục lại quyền tự ứng cử của công dân. Về bãi nhiệm đại biểu dân cử, quy định này có một số điểm khác biệt so với các bản hiến pháp trước đó, cụ thể: (i) Hiến pháp 1992 đã sử dụng thuật ngữ “bãi nhiệm” thay cho thuật ngữ “bãi miễn” trong các bản Hiến pháp trước; (ii) Chủ thể thực hiện quyền bãi miễn được mở rộng hơn, có thể là cử tri hoặc Quốc hội, HĐND. Ngoài ra, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) vẫn tiếp tục ghi nhận các phương thức dân chủ khác có yếu tố của DCTT như: khiếu nại, tố cáo tại điều 74; giám sát của nhân dân tại điều 8. Đặc biệt, bên cạnh việc ghi nhận phương thức TCYD, Điều 53 Hiến pháp năm 2013 còn quy định “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước…”. Nội dung điều này đã trực tiếp ghi nhận phương thức tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật của công dân. Đây là cơ sở quan trọng để cụ thể hóa phương thức dân chủ này tại Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008.

2.2.5. Hiến pháp năm 2013

Hiến pháp 2013 đã quán triệt và khẳng định nhất quán quan điểm nhân văn sâu sắc về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Nhiều quyền mới được quy định bổ sung, các quyền tự do, dân chủ được hiến định đầy đủ hơn. Xuất phát từ nhu cầu thực hành dân chủ và quán triệt nguyên tắc dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, vấn đề dân chủ nói chung và DCTT nói riêng là một nội dung quan trọng của Hiến pháp năm 2013, được thể hiện cụ thể như sau:

Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận nguyên tắc DCTT trong việc thực hiện quyền lực của nhân dân. Đây không phải là sự bổ sung đơn thuần về mặt từ ngữ, kỹ thuật lập pháp, mà lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, Điều 6 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận về nguyên tắc DCTT trong việc thực hiện quyền lực của nhân dân. Theo đó, “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng DCTT, bằng DCĐD thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”.

Thứ hai, các nội dung về DCTT đã được quy định chi tiết tại nhiều điều luật khác và có những sửa đổi, bổ sung quan trọng. Nguyên tắc DCTT được trao cho nhân dân không phải là sự ghi nhận mang tính hình thức, đơn lẻ trong Điều 6 Hiến pháp. Việc phát triển nguyên tắc này được thể hiện nhất quán trong toàn bộ Hiến pháp năm 2013, từ chế độ chính trị, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đến các thiết chế trong bộ máy nhà nước cũng như trong việc sửa đổi Hiến pháp - đạo luật cơ bản nhất, quan trọng nhất trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, dân tộc.

 Đặc biệt, các phương thức thực hiện DCTT cũng được ghi nhận chi tiết tại nhiều điều luật và có những sửa đổi, bổ sung quan trọng: TCYD đã được thể hiện thành một điều riêng, quy định mang tính nguyên tắc thể hiện tư duy mới của nhà nước về quyền cơ bản của công dân. Về bầu cử đại biểu dân cử, bên cạnh quy định về bầu cử, lần đầu tiên Hiến pháp có quy định về HĐBCQG nhằm bảo đảm tính khách quan trong tổ chức bầu cử ĐBQH, đại biểu HĐND. Về bãi nhiệm đại biểu dân cử,  quy định này trong Hiến pháp năm 2013 có nội dung tương tự Hiến pháp năm 1992 (Điều 7) nhưng ngắn gọn và khoa học hơn.

Nhìn chung, Hiến pháp năm 2013 được ban hành đã đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng và Nhà nước ta khi đề cao chủ quyền nhân dân, đặc biệt việc hiến định nguyên tắc “nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng DCTT” (tại Điều 6) và nhiều quy định khác có đề cập đến các phương thức thực hiện DCTT cụ thể. Có thể nói rằng, Hiến pháp năm 2013 đã mở ra một giai đoạn mới với yêu cầu hoàn thiện pháp luật mang tính tổng thể về phương thức nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng DCTT chứ không còn là những định hướng riêng lẻ theo vấn đề cụ thể nữa.

2.3. Thực trạng pháp luật về dân chủ trực tiếp tại Việt Nam hiện nay

2.3.1. Đánh giá chung

Như trên đã nêu, để có thể thực thi được DCTT trong một quốc gia thì việc xây dựng hệ thống pháp luật về DCTT là yêu cầu không thể thiếu. Nhận thức được vấn đề đó, hệ thống pháp luật về DCTT của nước ta thời gian qua đã ngày càng được coi trọng và không ngừng hoàn thiện cả về nội dung và hình thức, thể hiện qua một số kết quả như sau:

Thứ nhất, dân chủ, DCTT luôn được ghi nhận, được xem là một nguyên tắc nền tảng trong chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Từ Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 – văn bản lần đầu tiên ghi nhận về DCTT đến Văn kiện Đại hội lần thứ XIII gần đây, quan niệm của Đảng ta về DCTT ngày càng được nhận thức sâu sắc và cụ thể hơn: bắt đầu bằng việc ghi nhận DCTT là một hình thức thực hiện dân chủ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991, đến việc nhấn mạnh sự song hành như nhau giữa DCĐD và DCTT trong Văn kiện Đại hội lần thứ IX, X. Đến Đại hội lần thứ XII, Văn kiện đã đặt ra yêu cầu cao hơn về việc phải thể chế hóa và nâng cao chất lượng các phương thức thực hiện DCTT và DCĐD. Và hiện nay, nhận thức về dân chủ nói chung và DCTT nói riêng trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII đã được ghi nhận ở tầm cao hơn, toàn diện hơn, đi vào thực chất hơn. Trong đó, việc thực hiện DCTT một cách đúng đắn, hiệu quả được xem là yêu cầu mới, trọng tâm của Đại hội lần này, cùng với đó là việc ghi nhận thêm nội dung “dân giám sát, dân thụ hưởng” trong phương châm mới lần này là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[19] đối với việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở.

Thứ hai, khung pháp luật DCTT về cơ bản đã bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ cả về mặt cấu trúc và nội dung. Pháp luật DCTT tại Việt Nam hiện nay được ghi nhận cả trong Hiến pháp, các luật, cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành tạo thành hệ thống các quy phạm pháp luật khá toàn diện, đồng bộ điều chỉnh các mối quan hệ trong quá trình thực thi DCTT, điều này được thể hiện qua những nội dung cơ bản sau: Hiến pháp đã khẳng định nhân dân có quyền thực hiện quyền lực nhà nước bằng DCTT; các phương thức thực hiện DCTT điển hình cũng đã được ghi nhận trong Hiến pháp và được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao; các quy trình, thủ tục và các điều kiện bảo đảm thực hiện các phương thức DCTT cũng đã được ghi nhận khá cụ thể dù vẫn còn ở các mức độ khác nhau;

Thứ ba, bên cạnh các phương thức DCTT điển hình, các phương thức khác có liên quan mật thiết đến việc phát huy DCTT cũng được ghi nhận rộng rãi và góp phần làm gia tăng tính hiệu quả cho việc bảo đảm thực thi DCTT. Ngoài các phương thức DCTT điển hình như TCYD, bầu cử, bãi nhiệm,  nhân dân bàn và quyết định một số vấn đề ở cơ sở, Hiến pháp năm 2013 và pháp luật hiện hành còn ghi nhận một số phương thức thực hiện dân chủ khác như: khiếu nại, tố cáo (Điều 30); giám sát của công dân (Điều 4, điều 8); giám sát, phản biện xã hội (Điều 9), lấy ý kiến nhân dân tham gia xây dựng chính sách, pháp luật (Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015).

Bên cạnh những mặt tích cực ở trên, có thể nói, hệ thống pháp luật về DCTT chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu về tính toàn diện, thống nhất, đồng bộ, phù hợp và khả thi: Chưa ghi nhận đầy đủ các phương thức DCTT phổ biến hiện nay; các văn bản pháp luật quy định chi tiết chưa đồng bộ; một số quy trình, thủ tục chưa được cụ thể hóa; nhiều quy định còn chung chung, chưa phù hợp;... Điều này được thể hiện qua những nội dung cụ thể như sau:

Thứ nhất, pháp luật về DCTT vẫn chưa đảm bảo được tính toàn diện khi chưa ghi nhận được đầy đủ các phương thức DCTT, chưa xác lập được đầy đủ các quy trình để bảo đảm cho việc thực hiện DCTT, chưa thể chế hóa được đẩy đủ quyền làm chủ cũng như thể hiện rõ được chủ trương “lấy dân làm gốc” “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của người dân.

Thứ hai, pháp luật về DCTT vẫn còn thiếu tính đồng bộ, thống nhất. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 2013, đã có hai đạo luật được ban hành là Luật Trưng cầu ý dân năm 2016 và Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND năm 2015 quy định khá cụ thể về quy trình, trình tự, thủ tục và các điều kiện cần thiết để thực hiện bầu cử và TCYD. Trong khi đó, phương thức bãi nhiệm mới chỉ dừng ở quy định có tính nguyên tắc chung mà chưa được cụ thể hóa trong văn bản Luật, việc lấy ý kiến nhân dân ở cơ sở hiện nay cũng đang được quy định tại Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã phường, thị trấn. Xét về thứ bậc pháp luật, việc ghi nhận quyền và tạo cơ chế thực hiện quyền trong một văn bản là Pháp lệnh cũng sẽ không đảm bảo được tính đồng bộ và sự tương quan về mặt hiệu lực pháp lý trong hệ thống pháp luật hiện hành.

Thứ ba, pháp luật DCTT vẫn còn nhiều quy định có tính chất chung chung, chưa phù hợp nên khó có thể đảm bảo tính hiệu quả, khả thi khi áp dụng trong thực tế.

- Việc ghi nhận quyền cũng như quy trình, thủ tục thực hiện DCTT còn nhiều quy định có tính chất chung chung, chưa đầy đủ, phù hợp. Những vấn đề cần TCYD chưa được quy định rõ ràng, cụ thể thế nào được xem là “đặc biệt quan trọng của đất nước”; phạm vi tổ chức TCYD cũng chưa đầy đủ, chỉ quy định việc TCYD trên phạm vi cả nước mà không áp dụng đối với các vấn đề quan trọngchỉ tác động đến một địa phương, một khu vực; quy định về bỏ phiếu trong TCYD chưa đầy đủ, chưa hợp lý… Luật Bầu cử Đại biểu quốc hội và đại biểu HĐND qua một số lần chỉnh sửa, hoàn thiện nhưng vẫn chưa tạo ra một cơ chế hữu hiệu và thực chất để người dân có thể sử dụng quyền của mình một cách có hiệu quả. Pháp luật về bãi nhiệm mới chỉ được quy định rải rác trong một số văn bản pháp luật và chưa được cụ thể hóa nên không thể triển khai trên thực tế, nhiều vấn đề cốt lõi chỉ được quy định chung chung, chưa rõ ràng nên khó áp dụng trên thực tế. Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn dù đã có quy định về những việc dân bàn, biểu quyết và quyết định nhưng phạm vi còn hạn hẹp; tỷ lệ bỏ phiếu tán thành thiếu tính khả thi; ...

- Pháp luật DCTT hiện hành còn chưa quy định đầy đủ, cụ thể trách nhiệm từ phía các cơ quan nhà nước trong việc tạo cơ chế bảo đảm, bảo vệ cho người dân thực hiện DCTT. Đối với phương thức TCYD, Luật chưa xác định những hành vi vi phạm cụ thể, mức độ vi phạm, trách nhiệm pháp lý liên quan như trường hợp nào thì áp dụng hình thức xử lý kỷ luật, trường hợp nào sẽ xử phạt vi phạm hành chính. Quy định về trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan có thẩm quyền chưa xác định cụ thể đối với từng loại vụ việc và từng cấp có thẩm quyền xử lý;... Đối với pháp luật bầu cử, chưa có sự phân biệt rõ giữa chủ thể có quyền khiếu nại với chủ thể tố cáo trong hoạt động bầu cử; chỉ quy định về thời hạn, thời hiệu trong giải quyết khiếu nại, tố cáo mà hầu như không quy định cụ thể, trực tiếp về thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo… Pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay cũng chưa quy định đầy đủ, cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan trong việc đảm bảo quyền tham gia thảo luận, quyết định các vấn đề ở cơ sở; chưa rõ trách nhiệm và chưa cụ thể về sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước ở địa phương với cơ quan nhà nước cấp trên trong thực hiện dân chủ ở cơ sở; thiếu chế tài xử lý trong trường hợp các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nội dung để nhân dân bàn, quyết định hoặc lấy ý kiến.

2.3.2. Thực trạng pháp luật về dân chủ trực tiếp hiện nay qua một số phương thức điển hình.

2.3.2.1. Thực trạng pháp luật về trưng cầu ý dân

Tại Việt Nam, trưng cầu dân ý kiến nhân dân/TCYD là phương thức thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của công dân và đã được hiến định tại các bản Hiến pháp. Đồng thời, TCYD cũng được quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Luật TCYD năm 2015 và một số các văn bản khác. Đặc biệt, Luật Trưng cầu ý dân ra đời là một bước tiến đặc biệt quan trọng, thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân, tạo lập khuôn khổ pháp lý cho người dân tham gia chủ động, tích cực vào việc quyết định các công việc của Nhà nước và xã hội. Luật đã quy định cụ thể về những nguyên tắc TCYD; các chủ thể tham gia thực hiện; phạm vi TCYD; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong TCYD; trình tự, thủ tục quyết định việc TCYD và tổ chức TCYD; kết quả và hiệu lực của kết quả TCYD… Về cơ bản, Luật TCYD đã bước đầu kế thừa tư tưởng tôn trọng nhân dân, “lấy dân làm gốc” của Đảng ta, có sự chọn lọc, thừa hưởng các quy định pháp luật cụ thể liên quan đến dân chủ và chủ quyền nhân dân nằm rải rác ở một số văn bản quy phạm pháp luật ra đời trước như Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã phường, thị trấn; đặc biệt là việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quyền hiến định tại chương II Hiến pháp 2013. Với các quy định trên, Luật Trưng cầu ý dân được xem là cơ sở pháp lý cụ thể và vững chắc để từng bước đưa vấn đề TCYD vào thực tiễn, nhân dân có căn cứ để yêu cầu Nhà nước tạo điều kiện và cơ hội thực hiện chủ quyền của mình.

b) Hạn chế, bất cập của pháp luật trưng cầu ý dân

Luật TCYD được ban hành từ năm 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Mặc dù nước ta đã trải qua nhiều sự kiện quan trọng nhưng chưa có một lần nào việc TCYD trên phạm vi toàn quốc được tổ chức. Thực trạng này có nhiều nguyên nhân, trong đó có yếu tố về pháp luật. Luật TCYD năm 2015 quy định khá chi tiết các vấn đề liên quan đến việc tổ chức TCYD nhưng vẫn còn có một số hạn chế, bất cập về: chủ thể có thẩm quyền đề xuất TCYD (người dân không có quyền đề xuất TCYD, chỉ có quyền thụ động là biểu quyết khi Nhà nước tổ chức TCYD); chủ thể có quyền bỏ phiếu TCYD chưa đầy đủ, chưa bảo đảm quyền con người, quyền công dân (bỏ sót những cử tri đang sinh sống, học tập, làm việc ở nước ngoài); những vấn đề cần TCYD chưa được quy định rõ ràng, cụ thể; phạm vi tổ chức TCYD chưa đầy đủ (không TCYD ở phạm vi địa phương); Một số vấn đề về trình tự, thủ tục tổ chức TCYD chưa phù hợp (Về thủ tục, quy trình thẩm tra, xem xét và quyết định TCYD; về bỏ phiếu trong TCYD;  về căn cứ xác định kết quả TCYD; về thẩm quyền quyết định và hiệu lực của TCYD); Về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong TCYD; Việc xác định vai trò của tư pháp đối với hoạt động TCYD chưa đầy đủ, hợp lý; Chế tài xử lý các hành vi vi phạm quy định Luật Trưng cầu ý dân còn thiếu và chưa triệt để, toàn diện. Đây cũng có thể xem là một trong những nguyên nhân dẫn đến thực tế là từ năm 2013 (thời điểm ban hành Hiến pháp năm 2013) đến nay, mặc dù pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung đáng kể, song việc TCYD vẫn chưa được áp dụng ở nước ta.

2.3.2.2. Thực trạng pháp luật về bầu cử

Hiện nay, cơ sở pháp pháp lý về bầu cử được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND năm 2015 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). Trong đó, Luật bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND năm 2015 là văn bản pháp lý quan trọng quy định về bầu cử, ứng cử. Mỗi kỳ bầu cử, UBTVQH, MTTQ, Chính phủ, HĐBCQG đều ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành[20]. Hiến pháp năm 2013 và Luật bầu cử ĐBQH và HĐND năm 2015 tiếp tục giữ nguyên các nguyên tắc của bầu cử, gồm: “Việc bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”. Trong các nhiệm kỳ gần đây, việc bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND được tổ chức một cách thực chất, đảm bảo quyền dân chủ, nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín được thực hiện một cách nghiêm túc và triệt để. Kết quả bầu được ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp ngày càng có chất lượng, năng lực, trình độ.

Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, pháp luật về bầu cử vẫn còn một số quy định chưa thực sự rõ ràng và hợp lý, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và kết quả bầu cử. Thực tế cho thấy, mặc dù tỷ lệ cử tri tham gia bỏ phiếu cao nhưng còn thiếu thực chất. Nhiều cử tri không quan tâm đến việc đi bầu cử cũng như kết quả bầu cử, thực hiện việc đi bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND chỉ như là một “nghĩa vụ” chính trị. Điều này ngoài lý do ý thức chính trị của người dân còn chưa cao, còn có nguyên nhân từ những hạn chế về mặt pháp luật bầu cử của nước ta, cụ thể:  Quyền bầu cử của công dân chưa được bảo đảm đầy đủ (chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện quyền bầu cử của cử tri là công dân Việt Nam ở nước ngoài; chưa có cơ chế để cử tri có đầy đủ thông tin về người ứng cử trước khi quyết định bỏ phiếu lựa chọn người đại diện cho mình; cơ hội lựa chọn của cử tri còn hạn chế; quy định về việc lập danh sách cử tri còn một số điểm chưa rõ ràng; quyền bầu cử thêm, bầu cử bổ sung ĐBQH không có tính khả thi); Tiêu chuẩn, cơ cấu đại biểu Quốc hội chưa hợp lý; Quy định pháp luật chưa tạo được sự bình đẳng giữa ứng cử viên được đề cử giới thiệu và ứng cử viên tự ứng cử; Chế định HĐBCQG chưa có được vị trí pháp lý phù hợp.

2.3.2.3. Thực trạng pháp luật về bãi nhiệm

Hiện nay, bên cạnh quy định tại Hiến pháp năm 2013, việc bãi nhiệm ĐBQH, đại biểu HĐND còn được cụ thể hoá trong Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). Khoản 1 Điều 40 Luật Tổ chức Quốc hội quy định: “ĐBQH không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân thì bị Quốc hội hoặc cử tri bãi nhiệm”. Tương tự, đối với đại biểu HĐND, Khoản 1 Điều 102 Luật Tổ chức Chính quyền địa phương cũng quy định: “Đại biểu HĐND không đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu HĐND, không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân thì bị HĐND hoặc cử tri bãi nhiệm”. Như vậy, có hai cách thức để bãi nhiệm đại biểu gồm: Quốc hội/HĐND tiến hành bãi nhiệm; Cử tri bãi nhiệm ĐBQH (được tiến hành theo trình tự do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định). Trường hợp Quốc hội/HĐND bãi nhiệm đại biểu đã có quy định về trình tự, thủ tục tiến hành (UBTVQH quyết định việc đưa ra để Quốc hội bãi nhiệm hoặc cử tri nơi bầu ra đại biểu bãi nhiệm ĐBQH theo đề nghị của Ủy ban trung ương MTTQ Việt Nam, Ủy ban MTTQ tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; việc bãi nhiệm phải được ít nhất hai phần ba tổng số ĐBQH/HĐND biểu quyết tán thành). Tuy nhiên, trình tự, thủ tục để cử tri bãi nhiệm đại biểu lại chưa được UBTVQH quy định. Thực tiễn tổ chức thi hành các quy định về bãi nhiệm cho thấy một số hạn chế, bất cập khiến cho việc tiến hành bãi nhiệm đại biểu dân cử của cử tri rất khó khả thi trên thực tế, cụ thể: Căn cứ để cử tri bỏ phiếu bãi nhiệm đại biểu dân cử chưa được quy định rõ ràng; cử tri không có quyền trực tiếp bãi nhiệm đại biểu do mình bầu ra. Điều đó cũng có nghĩa là Nhân dân (cử tri) “mất đi quyền lực trực tiếp” đề nghị bãi nhiệm ĐBQH, đại biểu HĐND.[21]

2.3.2.4. Thực trạng pháp luật về nhân dân bàn và quyết định một số vấn đề ở cơ sở

Trong giai đoạn từ năm 2013 đến nay, pháp luật về DCCS ở nước ta không có thay đổi lớn. Hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất điều chỉnh việc thực hiện dân chủ ở cơ sở vẫn là Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn do UBTVQH ban hành năm 2007. Tuy nhiên, với việc Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên ghi nhận và nhấn mạnh hình thức làm chủ của Nhân dân là DCTT, việc thực hiện các quy định của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007, đặc biệt là việc thực hiện các quy định về nhân dân bàn và quyết định một số vấn đề ở cơ sở đã mang một sắc thái và sức sống mới.

Nội dung thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo quy định của Pháp lệnh là rất rộng lớn, có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân nơi cư trú, được thực hiện theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, trong đó các việc biết, bàn, làm, kiểm tra có mối quan hệ chặt chẽ và chất lượng thực hiện nội dung này ảnh hưởng quyết định đối với việc thực hiện nội dung tiếp theo. Tuy nhiên, cần lưu ý không phải mọi nội dung trong dân chủ tại cơ sở đều là phương thức dân chủ trực tiếp, mà có sự phân biệt các nội dung giữa dân chủ trực tiếp, DCĐD. Trong đó, các nội dung “nhân dân bàn và quyết định trực tiếp”[22] chính là những biểu hiện của dân chủ trực tiếp theo nghĩa hẹp, cổ điển nhất. Bên cạnh đó, các nội dung “nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định[23] và “nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định[24]” là những biểu hiện của dân chủ trực tiếp theo nghĩa rộng và được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam lâu nay.

Pháp lệnh đã phân định rõ nội dung, hình thức tổ chức thực hiện đối với mỗi phương thức dân chủ trực tiếp trên. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành pháp luật về các nội dung nhân dân bàn và quyết định một số vấn đề ở cơ sở cho thấy, pháp luật hiện hành đang bộc lộ những hạn chế nhất định, cần phải nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế cho phù hợp, nhất là những bất cập, hạn chế trong Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11, cụ thể: nội dung hoạt động của chính quyền cấp xã phải được công khai cho nhân dân chưa cụ thể, minh bạch; các nội dung quy định về việc dân bàn, biểu quyết và quyết định còn khá ít[25]; thiếu quy định cụ thể về quy trình thực hiện việc lấy ý kiến nhân dân trong lập quy hoạch, kế hoạch phát triển của các địa phương; nhiều quy định của Pháp lệnh không còn phù hợp với thực tiễn, chưa đồng bộ, thống nhất với một số quy định trong hệ thống pháp luật, nhất là các luật được ban hành sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII được ban hành; chưa quy định cụ thể về chủ thể có thẩm quyền đề xuất những nội dung đưa ra nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; các hình thức để nhân dân bàn, quyết định trực tiếp (chủ yếu qua hình thức họp và phát phiếu) không đa dạng, không phù hợp với các địa bàn vùng sâu, vùng xa, mật độ dân cư thưa thớt hoặc những địa bàn mà có nhiều cử tri đi làm ăn xa; Pháp lệnh chưa quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan trong việc đảm bảo quyền tham gia thảo luận, quyết định các vấn đề ở cơ sở.

            2.4. Thực tiễn thực hiện pháp luật về dân chủ trực tiếp tại Việt Nam thời gian qua

2.4.1. Một số thành tựu đạt được

Kể từ khi công cuộc đổi mới toàn diện bắt đầu cho đến nay, Việt Nam đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn trên mọi phương diện. Trong đó, quá trình dân chủ hoá, tôn trọng và bảo đảm quyền dân chủ (trong đó có DCTT) ngày càng được mở rộng và phát triển không ngừng, nhất là trong vòng hơn 10 năm trở lại đây. Người dân đã cảm nhận được bầu không khí dân chủ hơn, cởi mở hơn trong xã hội. Việc thực hành DCTT thời gian qua ngày càng được củng cố, mở rộng và thiết thực, huy động được sự tham gia đông đảo của nhân dân.

Về bầu cử đại biểu dân cử: Trong các nhiệm kỳ gần đây, việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tổ chức một cách nghiêm túc, đảm bảo quyền dân chủ, nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín được thực hiện triệt để. Các bước tiến hành từ khâu chuẩn bị, tổ chức triển khai thực hiện cho đến khi kết thúc cuộc bầu cử bảo đảm dân chủ, đúng luật, an toàn và tiết kiệm. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo tập trung của các cơ quan Trung ương, sự nỗ lực, tích cực, sát sao trong tổ chức thực hiện của các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương và sự tham gia tích cực của cử tri cả nước. Cử tri tham gia ngày càng trách nhiệm vào các cuộc bầu cử. Quyền tự ứng cử của người dân được đảm bảo, nhiều khóa Quốc hội, Hội đồng nhân dân đều có đại biểu tự ứng cử.

Về TCYD, mặc dù Việt Nam chưa thực hiện được cuộc TCYD nào trên thực tế nhưng việc lấy ý kiến nhân dân đã dần dần trở thành một phương thức dân chủ quan trọng, quen thuộc và phù hợp với đời sống chính trị ở nước ta. Hành lang pháp lý cho việc lấy ý kiến nhân dân khá đầy đủ, đồng bộ, từ Hiến pháp đến luật và các văn bản dưới luật. Hoạt động lấy ý kiến nhân dân trong các đề nghị xây dựng luật, các dự thảo luật đã dần trở thành hoạt động thường xuyên của các cơ quan nhà nước, tạo ra môi trường thuận lợi cho nhân dân tham gia vào hoạt động lập pháp. Đặc biệt, hoạt động lấy ý kiến nhân dân thời gian qua đã thu hút được sự quan tâm góp ý của nhiều chủ thể trong xã hội, bao gồm cả các cá nhân người dân, cơ quan cũng như các tổ chức với nhiều đóng góp có chất lượng.

Đối với việc nhân dân bàn và quyết định một số vấn đề ở cơ sở: Người dân đã chủ động bàn bạc, tham gia ý kiến, thực hiện quyền làm chủ, bày tỏ chính kiến của mình về các vấn đề được lấy ý kiến của địa phương. Các nội dung về mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, lập và thu chi các loại quỹ, quy ước, hương ước làng xã văn hóa, dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp, thành lập Ban giám sát công trình do dân tự nguyện đóng góp và bảo vệ sản xuất v.v… đều được đưa ra để nhân dân bàn và quyết định bằng cách họp thôn, làng, tổ dân phố hoặc phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình. Qua đó đã tạo được sự thống nhất cao trong nhân dân và thực hiện có kết quả trên thực tế.

Bên cạnh đó, việc thực thi dân chủ còn được mở rộng và có nhiều khởi sắc đối với các phương thức thực hiện dân chủ có yếu tố của DCTT như: việc giải quyết khiếu nại, tố cáo ngày một có hiệu quả hơn; các hoạt động phản biện xã hội, tư vấn xã hội, giám sát xã hội được xúc tiến; đẩy mạnh hoạt động tiếp xúc cử tri, chất vấn đại biểu cơ quan dân cử, đối thoại trực tiếp giữa người dân với các cấp lãnh đạo cơ quan Đảng và chính quyền nhà nước... Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức và xã hội được mở rộng, nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật được coi trọng.

Không chỉ dân chủ XHCN có tiến bộ, mà sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc cũng được nâng cao. Công tác dân vận của hệ thống chính trị có một số đổi mới, tôn trọng các loại ý kiến khác. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được mở rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu quả thiết thực...; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tích cực vào những thành tựu của đất nước.

2.4.2. Một số hạn chế, bất cập

Bên cạnh những thành tựu, thực tiễn thi hành pháp luật về dân chủ nói chung và DCTT nói riêng tại Việt Nam thời gian qua vẫn bộc lộ không ít bất cập, đã và đang làm cản trở tiến trình phát triển bền vững của đất nước, tiến bộ xã hội và việc tôn trọng, hiện thực hoá đầy đủ các quyền con người, quyền công dân, thể hiện qua một số nội dung như:

Thứ nhất, việc thực hiện DCTT còn hình thức, chưa thực sự đúng đắn, hiệu quả. Chẳng hạn, trong hoạt động bầu cử, vấn đề nổi cộm nhất ở Việt Nam hiện nay là tình trạng “bỏ phiếu đại diện”, tình trạng bắt ép người dân phải đi bỏ phiếu để bảo đảm tỷ lệ cử tri tham gia bầu cử cao, vẫn còn tình trạng “quân xanh, quân đỏ” trong bầu cử. TCYD và bãi nhiệm thì vẫn chỉ được quy định trong các văn bản pháp luật mà chưa được thực hiện trên thực tế. Bên cạnh đó là tình trạng “còn xem nhẹ việc thực hành dân chủ”; có lúc, có nơi vẫn xảy ra hiện tượng mất dân chủ và ở chiều ngược lại là dân chủ quá trớn, cực đoan, vô chính phủ; chưa coi trọng đúng mức việc thực hành DCTT; nhiều vấn đề “quốc nạn” xảy ra và bùng phát từ cơ sở như nạn tham ô, tham nhũng, quan liêu, nhũng nhiễu, ức hiếp nhân dân diễn ra tràn lan, kéo dài và gây hậu quả đáng lo ngại; thiếu cơ chế giám sát thực chất và hiệu quả của người dân, tổ chức xã hội đối với các cơ quan nhà nước khi thực thi quyền lực được nhân dân ủy thác...

Thứ hai, người dân chưa thực sự chủ động, tích cực tham gia vào việc thực hiện DCTT. Hiện nay có một số ý kiến cho rằng người dân thụ động và không mong muốn tham gia tích cực vào công tác quản lý ở địa phương; cho rằng do tác động của kinh tế thị trường khiến nhiều người chỉ lo bươn trải kiếm tiền, thoái thác, không tham gia vào các công việc chung. Việc tổ chức các buổi họp dân cư tại cơ sở không thu hút được sự tham gia đông đảo của người dân, đa số các thành phần tham gia là các cán bộ thôn, tổ dân phố, ban công tác MTTQ và hội… Ngay cả đối với việc bầu cử 5 năm mới tổ chức một lần, tuy nhiên, không ít cử tri không tham gia hoặc không muốn tham gia bỏ phiếu lựa chọn ra người đại diện cho mình. Tại cơ sở, một số người dân khi được hỏi không biết Hương ước, Quy ước là gì?[26]. Ở khu vực đô thị, thực chất thành phần người dân cũng là từ các nơi khác đổ về sinh sống, làm ăn nên không có những tâm lý làng xã họ hàng dòng tộc và đời sống phát triển hơn nên họ quan tâm đến những vấn đề phát triển cuộc sống hơn (quyên góp xây dựng công trình công cộng, xây dựng Quy ước chung cho cộng đồng khu phố,…). Chính vì vậy, người dân ít hoặc không quan tâm, không tham gia một cách tích cực vào các hoạt động quản lý của chính quyền địa phương.

Thứ ba, trách nhiệm của cơ quan Nhà nước trong việc công khai thông tin chưa được thực hiện nghiêm túc. Trong công tác bầu cử, việc kê khai tài sản đối với người được giới thiệu ứng không được công khai tại hội nghị nhận xét và tín nhiệm nơi công tác nơi cư trú của người ứng cử mà chỉ để lưu hồ sơ ứng cử, khi có đơn tố cáo mới xem xét. Đây là một hạn chế lớn làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hiệp thương của MTTQ Việt Nam. Tại cơ sở, những nội dung công khai để nhân dân biết đôi khi còn chưa đến được với mọi người dân. Nhiều nơi xem việc công khai thông tin không phải là nghĩa vụ của chính quyền cấp xã, đôi khi thông tin bị bưng bít, khi mọi thứ đã xong xuôi thì người dân mới là người nắm thông tin cuối cùng, ví dụ: các vấn đề về địa giới hành chính, quy hoạch, dự án đầu tư xây dựng, thông tin về các vấn đề về dịch bệnh… Một số hình thức công khai chưa thực sự hiệu quả.

Thứ tư, các thiết chế xã hội cũng chưa thực sự phát huy vai trò là tổ chức đại diện, cầu nối cho các tầng lớp nhân dân và chính quyền. MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thành viên là tổ chức chính trị của nhân dân nhưng lại hoạt động như một CQNN. Trong nhiều trường hợp, các ý kiến đóng góp của MTTQVN và các tổ chức thành viên chưa thực sự đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Một số tổ chức xã hội khác không hoặc ít quan tâm đến việc tham gia vào các hoạt động của cơ sở; hơn nữa không phải TCXH nào cũng có đủ nguồn lực (thời gian, vật chất, con người) để có thể tham gia sâu, rộng và các hoạt động quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, nhiều tổ chức e ngại, không tin tưởng vào sự tiếp thu của Nhà nước nên sự tham gia còn hạn chế.

2.4.3. Nguyên nhân

Thứ nhấtvấn đề dân chủ ở nước ta còn chưa được giải quyết tốt cả về lý luận lẫn thực tiễn, nhiều vấn đề đặt ra chưa được giải quyết rõ ràng. Điều đó gây khó khăn cho việc thực hành dân chủ. Cụ thể như việc chúng ta chưa làm sáng tỏ cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Mặc dù Đảng đề ra cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ nhưng chưa phân rõ chức năng lãnh đạo với chức năng quản lý nên vẫn có sự chồng chéo lên nhau; nhân dân làm chủ như thế nào vẫn chưa rõ và chưa có cơ chế rõ ràng. Bên cạnh đó, chúng ta cũng chưa có nhận thức đầy đủ về mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ cương nên cả hai đều thực hiện chưa tốt, dân chủ chưa được phát huy, kỷ cương không được xiết chặt, cả dân chủ lẫn kỷ cương đều vừa thiếu lại vừa yếu[27]

Thứ hai, pháp luật về DCTT còn nhiều hạn chế, bất cập chưa tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện hiệu quả DCTT trên thực tế. Như trên đã nêupháp luật về DCTT còn nhiều hạn chế, bất cập chưa    toàn diện, đồng bộ, rõ ràng, cụ thể để các cơ quan nhà nước thực hiện một cách nghiêm minh, cũng như để nhân dân tham gia nhiều hơn, thực chất hơn vào các công việc của Nhà nước. Pháp luật DCTT chưa thể hiện được đầy đủ, thực chất vai trò làm chủ, vị trí trung tâm của người dân, cũng như trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền dân chủ của người dân.

Thứ ba, là từ nhận thức của xã hội, của những người quản lý. Mặc dù hiện nay tư tưởng xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân và vì dân đã được phổ biến trong xã hội, nhưng việc nhận thức đúng về tư tưởng này vẫn còn khoảng cách. Những người quản lý vẫn còn thiếu tin tưởng ở người dân, vẫn coi việc quản lý nhà nước là công việc riêng vốn có của Nhà nước mà không phải là nhiệm vụ của chính nhân dân trong việc quản lý xã hội. Ngược lại, chính người dân cũng coi đó chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, mà không phải là của mình.

Thứ tư, trình độ dân trí, nhất là trình độ về pháp luật của người dân còn rất hạn chế. Hiện nay không chỉ kiến thức pháp luật của người dân còn thấp mà sự chấp hành, ý thức, tinh thần pháp luật của người dân không cao. Chính vì vậy, khi tham gia vào các công việc quản lý nhà nước nói chung và DCTT nói riêng, người dân rất lúng túng. Nhiều trường hợp người dân không biết được mình có những quyền gì. 

Thứ năm, một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới. Bản thân nhiều cán bộ, công chức, đảng viên chưa nhận thấy đầy đủ tầm quan trọng của thực hiện dân chủ tại cơ sở nên chưa thật sự tận tâm. Một số cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở còn xem nhẹ vai trò của việc thực hiện DCTT nên công tác lãnh đạo chưa sâu sát, sự chỉ đạo còn mang tính hình thức, đối phó.

Thứ sáu, một phần nguyên nhân của tính hình thức và thiếu khoa học, hiệu quả trong việc thực hiện DCTT là do thiếu kinh phí, cơ sở vật chất và nguồn lực.

 

CHƯƠNG III

Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm cơ chế thực thi pháp luật về dân chủ trực tiếp theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng

 

3.1. Nhu cầu tiếp tục phát huy DCTT trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam (nội dung chi tiết đề nghi xem trong Báo cáo tổng hợp kết quả Đề tài)

3.2. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi có hiệu quả dân chủ trực tiếp theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng

Việc mở rộng dân chủ trên các lĩnh vực, trong đó có việc hoàn thiện pháp luật về DCTT ở nước ta là cần thiết, song mở rộng, hoàn thiện như thế nào là vấn đề cần nhận thức và cân nhắc thật kĩ đến các điều kiện để thực hiện. Không nên và không thể áp đặt một số quyền tự do dân chủ của các nước khác vào điều kiện Việt Nam, song cũng không nên vin vào các lý do không chính đáng để cản trở việc mở rộng và thực thi dân chủ, nhất là DCTT của nhân dân. Theo đó, việc hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi có hiệu quả DCTT tại Việt Nam trong thời gian tới cần phải bám sát các yêu cầu sau:

Thứ nhất, việc hoàn thiện pháp luật về DCTT phải thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đại hội Đảng lần thứ XIII về dân chủ nói chung và DCTT nói riêng. Theo đó, việc hoàn thiện pháp luật về dân chủ nói chung, DCTT nói riêng cần bám sát các yêu cầu sau[28]: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện DCTT phải gắn liền với phát huy dân chủ trong Đảng và đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; Tiếp tục đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; Thể chế hóa và thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; Trong quá trình hoàn thiện pháp luật về DCTT phải bảo đảm thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quản lý nhà nước và xã hội;

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về DCTT phải đặt trong tổng thể mối liên hệ với quá trình xây dựng NNPQ XHCN. Một trong những đặc điểm của NNPQ đó là yêu cầu thực hành dân chủ trong một nhà nước bảo đảm được tính chính đáng của mình, dựa trên cơ sở tuân thủ và tự giới hạn các quyền của mình bằng pháp luật - một thứ pháp luật mang tính hợp lý, công bằng. Có nghĩa là trong mọi hoạt động của mình, nhà nước phải thể hiện được bản chất của dân, do dân và vì dân, luôn hướng tới việc chăm lo, bảo vệ, phục vụ lợi ích của nhân dân. Bên cạnh việc củng cố tổ chức bộ máy vững mạnh, thân thiện, hợp tác với người dân, cần phải tạo lập các kênh, các thiết chế phản ánh được nguyện vọng, ý chí của nhân dân một cách hiệu quả, trong đó có cơ chế để thực thi DCTT.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về DCTT phải góp phần phát huy tính tính cực, chủ động và có trách nhiệm của Nhân dân. Muốn vậy, cần phải nâng cao nhận thức và năng lực thực hành dân chủ của người dân. Đồng thời, bảo đảm tính chính đáng trong các cơ chế, chính sách, nhiệm vụ quản lý của Nhà nước. Pháp luật, chính sách phải phải xuất phát từ chính nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Bên cạnh đó, việc phát huy tính tính cực, chủ động, có trách nhiệm của nhân dân/cử tri trong việc tham gia xây dựng, thực hiện DCTT còn góp phần nâng cao tính khả thi của hệ thống pháp luật, đồng thời còn bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật đó. Mặt khác, việc tạo điều kiện để người dân tiếp cận với các phương thức thực hiện DCTT nhiều hơn còn giúp họ nâng cao nhận thức về dân chủ, về các quyền của mình cũng như ý nghĩa của việc tham gia thực hiện dân chủ, từ đó có thêm niềm tin và hứng thú để thực hành DCTT.

Thứ tư, việc hoàn thiện pháp luật về DCTT cần xử lý tốt mối quan hệ giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Thực hành dân chủ XHCN và tăng cường pháp chế XHCN, bảo đảm kỷ cương xã hội có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ, nương tựa và làm tiền đề tồn tại cho nhau. Vì thế, không ngừng mở rộng nền dân chủ XHCN là nhiệm vụ cơ bản, thiết yếu của nhà nước pháp quyền XHCN; sẽ là sai lầm nếu cho rằng có thể xây dựng nhà nước pháp quyền chỉ bằng siết chặt pháp chế, không cần thiết mở rộng dân chủ, thực hiện dân chủ hóa xã hội. Tuy nhiên, việc thực hành những quyền trên cần có sự tính toán đầy đủ và chín muồi trong tương thích với trình độ phát triển kinh tế, trình độ dân trí, văn hóa dân chủ và văn hóa pháp luật, năng lực thực hành dân chủ... của nhân dân, cùng sự đồng bộ với pháp chế XHCN - vốn cũng không sinh ra và tồn tại một cách tự nhiên, mà là sản phẩm dựa trên những tiền đề chính trị, kinh tế, xã hội nhất định.

Mặt khác, trong xem xét mối quan hệ biện chứng giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, cần “nhìn ra” để thấy sự liên hệ tổng thể với các mối quan hệ lớn khác; nhưng đồng thời cũng cần “nhìn vào” để thấy mối liên hệ bên trong của các yếu tố nội tại cấu thành từng thành tố dân chủ và pháp chế, để xử lý hài hòa, nổi bật là mối quan hệ giữa nhận thức lý luận về dân chủ và thực hành dân chủ; giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thực hiện pháp luật.

Thứ năm, hoàn thiện pháp luật về DCTT phải đạt được sự tương thích với các cơ chế thực hiện DCĐD. Cần phải khẳng định rằng các hình thức dân chủ đều cần thiết và có vai trò quan trọng như nhau. Phân chia các hình thức dân chủ không nhằm đặt DCTT cao hơn dân chủ gián tiếp hay ngược lại, mà chỉ nhằm phản ánh tính đa dạng của các hình thức dân chủ mà thôi. DCTT và DCĐD thực chất là hai hình thức dân chủ bổ sung cho nhau. Hình thức này tạo điều kiện bổ sung những hạn chế của hình thức kia và ngược lại. Đồng thời, DCTT và DCĐD nằm trong tổng thể các hình thức dân chủ đa dạng, phản ánh chủ thuyết quyền lực gốc của Nhà nước thuộc về nhân dân. Vì vậy, hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện DCCS phải đảm bảo độ tương thích với các cơ chế thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay. Tương thích không có nghĩa là không có sự khác biệt. Vấn đề chỉ nằm ở chỗ là sự khác biệt đó không đi tới chỗ mâu thuẫn, chồng chéo, phủ nhận lẫn nhau.

Thứ sáu, hoàn thiện pháp luật về DCTT phải đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ, thống nhất giữa các thành tố và sự vận hành khoa học, hiệu quả của toàn cơ chế. Theo đó, việc hoàn thiện pháp luật về DCTT không chỉ thuần túy yêu cầu có sự hiện diện và hoàn thiện của mỗi thành tố trong cơ chế mà còn phải có sự gắn kết chặt chẽ, sự tác động qua lại nhịp nhàng và sự thống nhất giữa các thành tố. Muốn vậy, cấu trúc và vận hành của cơ chế phải bảo đảm tính khoa học, không quá phức tạp đến mức có thể không thực hiện được trên thực tế. Tất cả các thành tố thuộc cơ chế phải bảo đảm tính hợp pháp, nghĩa là các thể chế quy định về DCTT phải phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, các thiết chế thực thi DCTT phải được nhà nước cho phép thành lập, cho phép tồn tại, hoạt động, các điều kiện cho việc thực hiện DCTT phải được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Pháp luật về DCTT sẽ hiệu quả khi nó được xây dựng và vận hành phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa truyền thống của đất nước. Những chi phí cho việc thực thi pháp luật về DCTT không quá cao, có khả năng thực hiện được trên thực tế. Hay nói cách khác, việc hoàn thiện pháp luật trong bất cứ lĩnh vực gì cũng cần phải bảo đảm các tiêu chí cơ bản về tính toàn diện; tính thống nhất, đồng bộ; tính phù hợp, khả thi và tiêu chí về hình thức là trình độ, kỹ thuật lập pháp kết hợp lại sẽ tạo nên một hệ thống pháp luật về DCTT hoàn thiện.

3.3. Giải pháp hoàn thiện

Trong thời gian tới, để có thể thực thi hiệu quả pháp luật về DCTT có nhiều giải pháp, mỗi giải pháp có vai trò khác nhau và chúng cũng có ảnh hưởng đến vai trò của các giải pháp khác. Có thể kể ra một số giải pháp quan trọng sau:

3.3.1. Đổi mới nhận thức lý luận về dân chủ trực tiếp và thực hành DCTT trong quá trình xây dựng NNPQ tại Việt Nam

Việc thực hiện dân chủ trực tiếp được triển khai nhiều nội dung, trên nhiều phương diện, với sự tham gia của nhiều chủ thể, trong đó mỗi chủ thể có vị trí, vai trò, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm khác nhau. Mỗi chủ thể cần phải nhận thức đúng vai trò, vị trí của mình trong mối quan đó thì mới phát huy được đúng vai trò và việc thực thi mới đạt hiệu quả cao[29].

Trước hết, phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ hai, cần phải nhận thức được “dân chủ” theo nghĩa chủ động. Dân chủ cũng như quyền dân chủ của người dân được cộng đồng quốc tế xác nhận là quyền vốn có của người dân, không do ai ban phát. Như vậy, Nhân dân là chủ thể chủ động trong việc thực thi các hình thức dân chủ, bao gồm hình thức DCTT. Nhà nước không những phải “thu hút” mà trước hết phải tôn trọng và bảo đảm thực hiện dân chủ. DCTT đóng vai trò quan trọng, không chỉ là sự tham gia, đóng góp trí tuệ tập thể, các nguồn lực của nhân dân vào vận hành của bộ máy Nhà nước, mà còn phải xem đây là phương thức để người dân kiểm soát quyền lực của Nhà nước

Thứ ba, dân chủ không phải tự nhiên có mà phải qua rèn luyện và đấu tranh trong thực tế. Không một xã hội nào mà dân chủ có thể “nhảy cóc” từ số không đến nền dân chủ văn minh, mà phải theo quy luật lượng đổi chất đổi. Như vậy, nếu muốn có dân chủ thật sự thì Nhà nước phải tạo điều kiện để người dân thường xuyên thực hành các hình thức dân chủ, đặc biệt là DCTT trong đời sống chính trị - xã hội. Xã hội sẽ biết điều chỉnh dân chủ như thế nào[30].

Thứ tư, quán triệt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” vào hoạt động chủ đạo thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ năm, người dân hoàn toàn có thể thực hiện được quyền dân chủ cho dù có thể dân trí chưa cao.

Thứ sáu, gắn mật thiết với yêu cầu nâng cao nhận thức về dân chủ, dân chủ trực tiếp là nhu cầu cần thiết đổi mới tư duy lý luận về NNPQ Việt Nam và về nền chính trị Việt Nam hiện nay

Tóm lại, DCTT trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước phải là dân chủ chủ động, là quyền của Nhân dân, quyền của công dân. DCTT không chỉ là sự tham gia, đóng góp trí tuệ tập thể, các nguồn lực của Nhân dân vào vận hành của bộ máy Nhà nước, mà còn phải xem đây là phương thức tránh các sai lầm của người lãnh đạo, của Nhà nước. DCTT là yêu cầu nội tại của mỗi quốc gia và là xu hướng có tính chất toàn cầu, nhưng DCTT chỉ là đích thực khi được thực hiện một cách tự do. Đây cũng chính là thước đo đánh giá mức độ phát triển một chế độ chính trị, mức độ tự do của con người. Đương nhiên, không có dân chủ tự do không có giới hạn. Tự do phải là tất yếu được nhận thức và thực hiện. Giới hạn của tự do của mỗi người là tự do của người khác. Nền dân chủ càng phát triển cao thì các quyền DCTT của công dân càng được mở rộng và thực chất.

3.3.2. Giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về dân chủ trực tiếp theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.

3.3.2.1. Hoàn thiện pháp luật chung về DCTT

(1) Nghiên cứu ghi nhận, bổ sung một số phương thức thực thi DCTT

- Nghiên cứu bổ sung quy định về “sáng kiến công dân”.

Hiện nay, sáng kiến công dân được khá nhiều các quốc gia trên thế giới ghi nhận và sử dụng hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước. Ở Việt Nam, mặc dù Hiến pháp năm 2013 không quy định cụ thể về sáng kiến công dân, nhưng Điều 28 của Hiến pháp đã quy định công dân có thể trực tiếp tham gia quản lý, thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về những vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Đây sẽ là cơ sở quan trọng để quy định về quyền “sáng kiến nhân dân”. Vấn đề quan trọng đó là cần phải hiện thực hóa quyền này, tạo ra cơ chế để thực hiện quyền này trên thực tế. Trước mắt, có thể cân nhắc việc ghi nhận người dân có đưa ra sáng kiến xây dựng pháp luật thông qua cơ quan, tổ chức, người đại diện (đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân), cụ thể: Người dân có quyền đưa ra đề xuất về một quy định, một chính sách hoặc đề xuất việc xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể. Đề xuất đó cần nêu được vấn đề cần giải quyết và mục tiêu để giải quyết vấn đề, phương án có thể đề xuất. Đề xuất này sẽ gửi đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định  hoặc những người đại diện cho họ (đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Quốc hội). Cơ quan, tổ chức, những người đại diện có trách nhiệm nghiên cứu đề xuất của người dân. Trong trường hợp xét thấy việc ban hành văn bản là cần thiết và có đầy đủ cơ sở cho việc xây dựng và ban hành văn bản, cơ quan, tổ chức, người đại diện đó có trách nhiệm nghiên cứu, hoàn thiện đề xuất đó theo đúng yêu cầu đối với một sáng kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để gửi đến cơ quan có thẩm quyền lập dự kiến chương trình xây dựng pháp luật. Liên quan đến vấn đề này, cũng có thể tham khảo kinh nghiệm của Đức trong việc thu thập chữ ký điện tử.

Gần đây, cùng với việc quy định quyền của các chủ thể có thẩm quyền và trách nhiệm đưa vấn đề, nội dung để nhân dân bàn và quyết định thì Dự thảo Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng đã quy định quyền của người dân (với tư cách cá nhân công dân) đề xuất sáng kiến về những nội dung để nhân dân bàn, quyết định và cách thức thực hiện phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh ở cơ sở. Đây sẽ là tiền đề cho việc ghi nhận và hiện thực hóa quyền “sáng kiến công dân” tại Việt nam trong thời gian tới.

- Nghiên cứu, cân nhắc trong thời gian sắp tới, có thể bổ sung quy định về việc nhân dân có quyền phúc quyết Hiến pháp. Hiện nay, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29). Nhưng Điều 120 cũng quy định rõ việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định. Quy định này có điểm khác biệt so với quyền phúc quyết Hiến pháp đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946. Đó là: theo Hiến pháp năm 1946, bất cứ sửa đổi Hiến pháp nào cũng đều phải được đưa ra toàn dân để phúc quyết. Hiến pháp là đạo luật gốc quy định những vấn đề cơ bản nhất. Việc ban hành Hiến pháp và sửa Hiến pháp luôn được xem là một trong các vấn đề hệ trọng nhất của đất nước. Cho nên Hiến pháp phải do nhân dân làm ra và quyết định. Hiến pháp do nhân dân phúc quyết mới là Hiến pháp thật sự của dân, do dân, vì dân, thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Trên thế giới, hiện đã có hơn 100 nước quy định quyền phúc quyết của nhân dân đối với Hiến pháp. Quyền phúc quyết Hiến pháp của người dân chính là dân chủ trực tiếp, là sự thể hiện phương thức cao nhất của dân chủ, là một minh chứng rõ ràng nhất để khẳng định nguyên lý: Nhân dân mới là chủ thể của quyền lập hiến.

- Nghiên cứu quy định việc “người dân trực tiếp bầu Chủ tịch UBND cấp xã”. Lợi ích của việc bầu trực tiếp chủ tịch UBND có thể thấy rất rõ đó là khi được dân bầu, Chủ tịch UBND xã sẽ tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân nhiều hơn, và đương nhiên trách nhiệm đối với nhân dân cũng cao hơn. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, trình độ phát triển kinh tế, trình độ nhận thức xã hội và ý thức chính trị của người dân chưa đạt đến trình độ bầu trực tiếp sẽ có kết quả tốt. Vì vậy, để người dân có thể trực tiếp đi bầu chủ tịch UBND xã, dứt khoát phải có lộ trình thì mới thành công: lộ trình xây dựng khung pháp lý, lộ trình tăng cường DCCS, tháo gỡ vướng mắc về mặt xã hội... Để xây dựng được khung pháp lý phù hợp cần phải nghiên cứu thực tế tại Việt Nam và một số quốc gia lân cận, các điển hình pháp luật tiêu biểu để lựa chọn những giá trị hợp lý, phù hợp với bối cảnh của Việt Nam hiện nay.

(2) Thể chế hóa đầy đủ các phương thức thực hiện DCTT bảo đảm tính đồng bộ của khung pháp luật về DCTT

- Sớm ban hành văn bản cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về quyền của cử tri bãi nhiệm đại biểu dân cử. Để bảo đảm quyền bãi nhiệm của cử tri, cần nghiên cứu xây dựng ban hành một văn bản luật riêng quy định về bãi nhiệm ĐBQH, đại biểu HĐND và các chức danh khác do bầu cử (nếu có), trong đó có quy định cụ thể về việc thực hiện bãi nhiệm đại biểu của cử tri. Hoặc phương án khả thi và hợp lý nhất hiện nay là quy định về quy trình, thủ tục bãi nhiệm ĐBQH và đại biểu HĐND thành một phần trong Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND do tính tương đồng giữa bầu cử và bãi nhiệm, gắn bãi nhiệm với bầu cử.

- Nâng Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 lên thành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở[31] . Để bảo đảm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, trị trấn nói chung và phương thức nhân dân bàn và quyết định một số vấn đề ở cơ sở nói riêng (các phương thức DCTT) được đầy đủ, thống nhất thì cần sớm ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở thay thế cho Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Việc ban hành luật sẽ bảo đảm giá trị pháp lý, hiệu lực và hiệu quả cao hơn của hoạt động này ở cấp cơ sở. Đây là việc làm cần thiết để thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng, trực tiếp và gần nhất là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với yêu cầu thể chế hóa đầy đủ phương châm “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”. Trong đó cần chú trọng nghiên cứu quy định nội dung nhân dân thụ hưởng sao cho phù hợp để bảo đảm mục tiêu xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì nhân dân. Mặt khác, đây cũng là yêu cầu khách quan để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về xây dựng “Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Ở đó, vai trò chủ thể chủ đạo trung tâm là nhân dân phải được coi trọng.

3.3.2.2. Hoàn thiện pháp luật cụ thể về các phương thức thực thi DCTT

(1) Hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân

Để Luật TCYD được áp dụng trong thực tiễn, cần sớm ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành về các trình tự, thủ tục thực hiện TCYD. Ở góc độ rộng hơn, để hoàn thiện pháp luật về TCYD, cần sửa đổi, bổ sung các quy định cụ thể sau đây:

Thứ nhất, bổ sung chủ thể có thẩm quyền đề nghị TCYD bao gồm có người dân, để người dân là một trong những chủ thể có thẩm quyền đề xuất và trực tiếp bỏ phiếu quyết định. Đồng thời, cân nhắc bổ sung MTTQ Việt Nam vào nhóm chủ thể có quyền đề nghị TCYD.

Thứ hai, cần mở rộng chủ thể có quyền bỏ phiếu TCYD đối với cử tri đang sinh sống, học tập, làm việc ở nước ngoài.

Thứ ba, làm rõ các vấn đề cần TCYD. Phạm vi những vấn đề cụ thể cần TCYD hiện vẫn còn để ngỏ: chưa rõ thế nào là những vấn đề đặc biệt quan trọng về chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của quốc gia? Thế nào là những vấn đề đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước? Thế nào là những vấn đề đặc biệt quan trọng khác? Nếu chưa minh định được những vấn đề này thì khó có đủ cơ sở để đề nghị tổ chức TCYD. Vì vậy, Ủy ban thường vụ Quốc hội cần ban hành nghị quyết giải thích Điều 6 Luật TCYD năm 2015 (về một số vấn đề TCYD).

Thứ tư, bổ sung phạm vi TCYD ở địa phương.

Thứ năm, về trình tự, thủ tục. Đề nghị sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến trình tự, thủ tục đề nghị, xem xét đề nghị TCYD; ghi nhận phương thức bỏ phiếu qua thư điện tử; về điều kiện để công nhận kết quả TCYD, nên thay đổi quy định này theo hướng chỉ yêu cầu tỷ lệ tham gia bỏ phiếu và biểu quyết đồng ý với nội dung TCYD quá bán; làm rõ thẩm quyền quyết định và hiệu lực của TCYD;

Thứ sáu, công tác giải quyết khiếu nại trong TCYD. Cần bổ sung quy định việc giải quyết công tác khiếu nại, tố cáo trong TCYD thuộc thẩm quyền của các cơ quan tổ chức TCYD, trước hết là UBND nơi tổ chức TCYD. Đồng thời, quy định rõ những nội dung, hoạt động nào của TCYD có thể khiếu nại và thời hiệu, thời hạn giải quyết, từ đó, quy định về cơ chế giám sát hoạt động TCYD trong thực tiễn.

Thứ bảy, bổ sung các quy định pháp luật theo hướng mở rộng phạm vi xét xử của tòa án đối với tất cả các tranh chấp liên quan đến toàn bộ quá trình tổ chức TCYD, không phải duy nhất việc giải quyết tranh chấp về danh sách cử tri như hiện nay.

Thứ tám, bên cạnh việc xác định thẩm quyền giám sát của các chủ thể được quy định tại Điều 10 Luật TCYD năm 2015, cần phải bổ sung thêm một số chủ thể khác (như Chính phủ). Bởi về mặt thẩm quyền, Chính phủ là cơ quan cao nhất trong hoạt động tổ chức thực thi pháp luật. Đồng thời, trong tất cả các công đoạn của TCYD, nhất là hoạt động kiểm phiếu, cần phải được quản trị bởi các tổ chức trung lập, không thiên vị. Đó là yêu cầu và là tiêu chí nhằm đánh giá mức độ minh bạch và công khai, dân chủ của hoạt động TCYD trong thực tiễn.

(2) Hoàn thiện pháp luật về bầu cử

Trước tiên, cần tập trung đổi mới nhận thức, lý luận về vai trò, chức năng của chế độ bầu cử. Trải qua hơn 35 năm đổi mới, nhận thức lý luận về dân chủ và nhà nước pháp quyền có bước phát triển, nhiều giá trị phổ quát được tiếp cận nghiên cứu và tiếp thu để vận dụng phù hợp với điều kiện đất nước. Tuy vậy, quan niệm, nhận thức về vai trò, chức năng của bầu cử còn chưa đầy đủ. Do đó, quá trình đổi mới chế độ bầu cử ở nước ta chưa tạo được những bước đột phá. Đổi mới tư duy, nhận thức là yếu tố khởi đầu, có tính quyết định đến kết quả quá trình tiếp tục đổi mới chế độ bầu cử ở nước ta.

Thứ hai, sửa đổi quy định pháp luật và bảo đảm thực thi đầy đủ, thực chất các quy định pháp luật về bầu cử đại biểu dân cử của công dân. Hiện nay, xu thế chung của các nước trên thế giới là hướng tới hoàn thiện chế độ bầu cử phổ thông, bình đẳng, dễ tiếp cận. Theo đó, bầu cử phải được thể hiện đầy đủ trên cả ba phương diện: quyền giới thiệu người ứng cử, quyền tham gia hoạt động bầu cử và quyền bỏ phiếu. Do đó, theo nhóm nghiên cứu, việc hoàn thiện pháp luật về bầu cử ở Việt Nam trong thời gian tới cần tập trung vào các nội dung sau: (1) Cần nghiên cứu để bảo đảm quyền bầu cử của công dân Việt Nam đang sinh sống, lao động, học tập ở nước ngoài; (2) Cần quy định một cơ chế hợp lý để người tự ứng cử có điều kiện thuận lợi thực hiện quyền của mình nhằm thể hiện rõ chủ trương mở rộng dân chủ trong bầu cử ở Việt Nam, nhất là những người tự ứng cử là đảng viên; (3) Tăng cường cơ hội để cử tri lựa chọn, quyết định đến khả năng trúng cử của các ứng cử viên thông qua việc nâng số lượng người ứng cử ở các đơn vị bầu cử; tăng số dư người ứng cử (cần quy định số người ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn hai lần so với số đại biểu được bầu nhằm tạo ra hạn mức tối thiểu.); (4) Quy định tiêu chuẩn đại biểu và cơ cấu đại biểu sao cho bảo đảm sự hài hoà giữa yêu cầu về tiêu chuẩn đại biểu với yêu cầu về cơ cấu, thành phần đại biểu; (5) Hoàn thiện các quy định về giới thiệu ứng cử viên, hiệp thương, vận động tranh cử, thông tin về các ứng cử viên... nhằm tạo điều kiện cho cử tri tích cực tham gia vào quá trình bầu cử; (6) Xây dựng khuôn khổ pháp lý đầy đủ về tổ chức và hoạt động của HĐBCQG với tính chất là một thiết chế hiến định độc lập, bảo đảm tổ chức các cuộc bầu cử ĐBQH một cách trung thực, khách quan, vô tư, công bằng và minh bạch.

(3) Hoàn thiện pháp luật về bãi nhiệm đại biểu dân cử.

- Ban hành văn bản QPPL để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 2013 về bãi nhiệm. Như trên đã nêu, trong thời gian tới cần nghiên cứu, ban hành văn bản QPPL phù hợp để cụ thể hóa các quy định của Hiên pháp 2013 về bãi nhiệm nhằm tạo cơ sở pháp lý để việc thực thi quyền bãi nhiệm của nhân dân đạt hiệu quả. Trong đó, cần xác định rõ thế nào là bãi nhiệm ĐBQH, đại biểu HĐND của cử tri; chủ thể có quyền bãi nhiệm, đề nghị bãi nhiệm (chú trọng đến quyền trực tiếp bãi nhiệm của cử tri); nguyên tắc, trình tự, thủ tục tổ chức bãi nhiệm; thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có liên quan đến quá trình bãi nhiệm; mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức với cử tri trong quá trình bãi nhiệm ĐBQH, đại biểu HĐND…[32]

-  Xác định rõ chế độ trách nhiệm của ĐBQH, đại biểu HĐND đối với cử tri: Để có thể thực hiện được chế độ cử tri bãi miễn đại biểu dân cử khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân, cũng cần quy định cụ thể, rõ hơn trong Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương về nhiệm vụ, trách nhiệm của đại biểu và những việc đại biểu không được làm. Có như vậy, cử tri mới có cơ sở để đánh giá mức độ tín nhiệm của mình đối với đại biểu dân cử.

Đồng thời, cần quy định cơ chế thích hợp để đánh giá kết quả và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đại biểu, làm cơ sở để cử tri giám sát hoạt động của đại biểu. Nên chăng, trong công tác đánh giá đại biểu dân cử hàng năm, cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức là ĐBQH, đại biểu HĐND cần có văn bản lấy ý kiến Trưởng, Phó đoàn về quá trình thực hiện nhiệm vụ của đại biểu trong năm. UBTVQH cần có quy định và hướng dẫn cụ thể để các Đoàn ĐBQH đánh giá hoạt động của ĐBQH thông qua việc tham gia các hoạt động tại Đoàn.

(4) Hoàn thiện pháp luật về nhân dân bàn và quyết định một số vấn đề ở cơ sở

Nếu ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, thì việc nhân dân bàn và quyết định một số vấn đề ở cơ sở cần tập trung vào các vấn đề sau[33]:

 - Liên quan đến vấn đề công khai và cung cấp thông tin: Cần rà soát, so sánh, đối chiếu giữa Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 với Luật tiếp cận thông tin, Luật TCYD, Luật an ninh mạng, các dự thảo Luật Tổ chức thi hành pháp luật, Luật Ban hành quyết định hành chính,… để quy định rõ những vấn đề, nội dung cấm công khai, cấm cung cấp thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật quốc gia, liên quan đến an toàn, an ninh, chủ quyền quốc gia; các vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích của người dân cần được công khai, cung cấp thông tin kịp thời bằng các phương thức khác nhau để người dân được biết, được kiểm tra, được bàn. Cần nghiên cứu quy định trong Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở về một số hình thức công khai bắt buộc đang thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn để có cơ sở tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát đối với trách nhiệm công khai, minh bạch thông tin của cơ quan, đơn vị.

- Về nội dung nhân dân bàn và quyết định: Trước tiên, Luật cần nêu cụ thể, rõ ràng những nội dung nhân dân được bàn và quyết định. Đồng thời, cũng cần có quy định mở để đáp ứng nhu cầu phát sinh trong quá trình thực hiện. Thứ hai, cần quy định cụ thể các chủ thể có quyền đề xuất những vấn đề để nhân dân bàn, biểu quyết; chủ thể có quyền đề xuất việc bãi miễn Tổ trưởng tổ dân phố, Trưởng Thôn, thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng... Thứ ba, những quy định về quy trình, thủ tục, hình thức và phương pháp tổ chức các hoạt động thực hiện dân chủ ở cơ sở cần rõ ràng, cụ thể, dễ thực hiện. Thứ tư, cần có những quy định về hiệu lực của các quyết định dân chủ của nhân dân để khắc phục tính hình thức hiện nay.

- Xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của từng chủ thể trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Trong Luật cần có quy định đầy đủ về trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở như: HĐND, Uỷ ban nhân dân, MTTQ Việt Nam và các thành viên của Mặt trận ở cấp xã, các tổ chức và cá nhân có liên quan trong việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở và giám sát việc tổ chức thực hành dân chủ ở cơ sở. Trong đó, cần quy định cụ thể về việc phối hợp giữa các cơ quan với nhau, đặc biệt là quan hệ của chính quyền cấp xã với cơ quan cấp trên cho phù hợp với thực tế hiện nay. Bên cạnh đó, cần chú trọng đến việc bổ sung, làm rõ vai trò của MTTQ Việt Nam ở cấp xã với tư cách là đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân.

- Cần có các quy định xử lý các trường hợp nếu không thực hiện các quy định về việc dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Quy định rõ trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm của người đứng đầu trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Theo đó, khi thực hiện không đúng quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở, có sai phạm, để xảy ra sai phạm thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật, trước nhân dân về những sai phạm của mình. 

- Cần quy định cụ thể các biện pháp, cơ chế bảo đảm thực hiện. Biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở bao gồm các yếu tố: sự cởi mở của cơ quan công quyền, bao gồm tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của chính quyền cơ sở; bảo đảm về điều kiện vật chất và phương tiện kỹ thuật, bao gồm chế độ, chính sách và điều kiện hoạt động của các tổ chức tự quản của cộng đồng dân cư, cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật công khai thông tin, thảo luận, bàn bạc tại cộng đồng dân cư; ...

3.3.2.3. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về các phương thức có yếu tố của DCTT

(1) Hoàn thiện pháp luật về lấy ý kiến người dân trong quá trình xây dựng pháp luật.

Để việc lấy ý kiến người dân vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật  thực chất và hiệu quả, các cơ quan có trách nhiệm xây dựng pháp luật khi thực hiện việc lấy ý kiến nhân dân nói chung và các đối tượng cụ thể nói riêng, cần phải bảo đảm các yếu tố sau: (1) Các nội dung (ý tưởng xây dựng chính sách, quy định pháp luật và các vấn đề liên quan) đưa ra lấy ý kiến phải được thuyết minh và giải trình rõ ràng về mục tiêu, quan điểm, nội dung, các tác động của chính sách, dự thảo văn bản; (2) Mở rộng cơ hội tiếp cận thông tin cho người dân, công khai thông tin nhiều chiều, đồng thời khuyến khích người dân chủ động tìm kiếm thông tin; (3) Với các đối tượng khác nhau cần có cách thức và phương pháp thu hút sự tham gia khác nhau, trong đó, đặc biệt chú trọng huy động sự tham gia của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản và các chuyên gia, các nhà khoa học; (4) Tạo ra cơ chế nghe, tiếp thu và phản hồi ý kiến một cách thường xuyên và có trách nhiệm; (5)  Nghiên cứu cơ chế giám sát hoạt động tổ chức lấy ý kiến và tiếp thu, giải trình ý kiến của cơ quan chủ trì soạn thảo; (6)  Xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, trong đó nghiên cứu cơ sở dữ liệu về lịch sử lập pháp để đảm bảo lưu trữ, khai thác các thông tin liên quan đến quá trình xây dựng, ban hành các đạo luật.

(2) Nghiên cứu xây dựng pháp luật về phản biện xã hội.

Phản biện xã hội không chỉ là việc phát huy quyền dân chủ của người dân mà thực chất còn là sự huy động và tập trung trí tuệ của toàn dân vào giải quyết công việc chung của hệ thống công quyền trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Do vậy, cần bảo đảm hành lang pháp lý để nhân dân có thể thực hiện đầy đủ quyền phản biện của mình. Nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động phản biện xã hội, tạo ra cơ chế phản biện xã hội sao cho bảo đảm tính xã hội rộng rãi, tính đa dạng, linh hoạt và mềm dẻo khi thực hiện các hình thức phản biện xã hội. Bởi trong xã hội có nhiều lực lượng tham gia phản biện xã hội, thích ứng với các lực lượng đó là các nội dung, hình thức, công cụ... khác nhau được áp dụng và mang lại những sản phẩm phản biện khác nhau. Một chủ thể phản biện có thể áp dụng nhiều hình thức khác nhau đối với một nội dung, một đối tượng, tùy theo điều kiện mỗi lúc, mỗi nơi. Tính linh hoạt, mềm dẻo sẽ giúp cho hoạt động phản biện trở nên phong phú, dễ thích nghi trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, tạo cơ hội thuân lợi cho các chủ thể tham gia thực hiện.

Trước tiêncần ghi nhận một điều khoản riêng về phản biện xã hội trong Hiến pháp. Hiến pháp 2013 mới chỉ quy định giám sát và phản biện xã hội dưới góc độ là một chức năng của MTTQ Việt Nam bên cạnh nhiều chức năng khác (khoản 1, điều 9); là trách nhiệm của Đảng, các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức, viên chức phải lắng nghe ý kiến, chịu sự giám sát của nhân dân (Điều 4, Điều 8) mà chưa ghi nhận phản biện xã hội thành một quyền cơ bản của công dân. Có thể nhận thấy theo các Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị thì quyền phản biện được coi trọng và đề cao. Hiện nay chủ trương của Đảng và Nhà nước cũng đang hướng đến việc tăng cường các hoạt động giám sát, phản biện, đặc biệt là giám sát, phản biện của công dân, thực chất trong thực tế hoạt động giám sát và phản biện thường đi đôi, gắn bó mật thiết với nhau. Phản biện xã hội cũng chính là hình thức phát triển cao nhất xuất phát từ quyền tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân vào các hoạt động của Nhà nước. Từ đó, nhóm nghiên cứu cho rằng rất cần thiết phải có một điều khoản riêng về phản biện xã hội được ghi nhận trong Hiến pháp.

Thứ hai, ban hành Luật Về phản biện xã hộiPháp luật hiện hành quy định còn tản mạn, thiếu tính thống nhất, đồng bộ về hoạt động PBXH. Chính vì vậy, cần thiết phải có một đạo luật nhằm quy định các vấn đề có tính nguyên tắc chung để tạo cơ sở pháp lý rõ ràng thống nhất cho việc thực hiện PBXH, trong đó chú trọng các vấn đề như: Chủ thể thực hiện PBXH, đối tượng phản biện, hình thức, nội dung, trình tự thủ tục tiến hành hoạt động phản biện, các điều kiện bảo đảm...

 (3) Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

- Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về khiếu nại. Việc sửa đổi Luật theo hướng quy định rõ, đầy đủ, cụ thể, chi tiết hơn về trình tự, thủ tục giải quyết theo hướng dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch; đảm bảo quyết định giải quyết khiếu nại được thực hiện đầy đủ, kịp thời, nghiêm minh; đảm bảo xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, tăng cường hiệu quả giải quyết khiếu nại. Bên cạnh đó, việc sửa đổi Luật Khiếu nại cần bảo đảm sự thống nhất, phù hợp với Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Theo đó, việc sửa đổi, bổ sung cần tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau: cần giải thích và quy định rõ về đối tượng bị khiếu nại (quyết định hành chính, hành vi hành chính) theo hướng mở rộng chủ thể, thẩm quyền ban hành các QĐHC; bổ sung quyền khiếu nại đối với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trực tiếp đến lợi ích của người dân như: quyết định về khung giá đất, phương án thu hồi, bồi thường, giải phóng mặt bằng… ; quy định thống nhất về chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại; nghiên cứu điều chỉnh cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính theo hướng đảm bảo đầy đủ tính khách quan, công khai, dân chủ trong quá trình giải quyết; quy định rõ hơn về quyền, nghĩa của người khiếu nại, của luật sư, trợ giúp viên pháp lý trong việc tham gia quá trình khiếu nại; cần quy định thống nhất về thời hiệu khiếu nại; quy định hợp lý hơn về thời hạn giải quyết khiếu nại.

- Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về tố cáo. Để bảo đảm thực hiện hiệu quả quyền tố cáo của công dân, theo nhóm nghiên cứu việc hoàn thiện cần tập trung vào một số quy định sau: quy định đa dạng các hình thức tố cáo; mở rộng các chủ thể được bảo vệ; cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ người tố cáo.

(4) Nghiên cứu và xây dựng pháp luật về biểu tình.

Thực chất, để triển khai Hiến pháp 2013, việc xây dựng Luật Biểu tình đã được đưa vào chương trình lập pháp của Quốc hội (Nghị quyết số 70/2014/QH13, ngày 30/5/2014, về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014 và 2015). Tuy nhiên, cho đến gấn đây, việc xây dựng luật này đang tiếp tục bị trì hoãn. Tuy chưa có Luật Biểu tình nhưng không có nghĩa là công dân muốn biểu tình thế nào cũng được. Các cơ quan nhà nước thường viện dẫn Nghị định 38/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 3 năm 2005 quy định về một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng để điều chỉnh, quản lý các cuộc biểu tình. Nghị định này không hề nhắc đến “biểu tình”, mà chỉ có các quy định về “tập trung đông người ở nơi công cộng”. Với những công cụ luật pháp đã có, Nhà nước có thể có đủ biện pháp đảm bảo cho các cuộc biểu tình diễn ra theo một trật tự nhất định (pháp luật về việc xử lý những hành vi gây rối trật tự công cộng, phá hoại của công, ...). Tuy nhiên, trong xu hướng mở rộng và phát triển dân chủ hiện nay, cần sớm triển khai soạn thảo và ban hành Luật Biểu tình, tạo cơ sở pháp lý cho nhân dân thực hiện quyền tự do hiến định của mình.

Yêu cầu về nội dung pháp luật bảo đảm quyền biểu tình phải thể hiện chính xác các nguyên tắc dân chủ, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Các quy định về trình tự, thủ tục, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể liên quan đến việc tổ chức và quản lý biểu tình, cũng như xử lý khiếu nại, tố cáo và vi phạm quyền biểu tình phải đồng bộ, thống nhất, khả thi, bao gồm đầy đủ các căn cứ pháp lý để điều chính các quan hệ về biểu tình, tạo cơ sở để công dân có thể hiểu đầy đủ, đúng đắn về quyền, trách nhiệm của mình khi tổ chức, tham gia biểu tình. Hơn nữa, nội dung của pháp luật bảo đảm quyền biểu tình cũng cần bao gồm hệ thống quy phạm có hiệu lực bắt buộc nhà nước phải tạo các điều kiện cần thiết cho việc thực thi quyền biểu tình và ngăn ngừa sự tuỳ tiện khi thi hành công vụ trong quản lý biểu tình của các cơ quan nhà nước.

3.3.2.4. Hoàn thiện các văn bản pháp luật khác tạo công cụ, môi trường thúc đẩy dân chủ trực tiếp

(1) Sửa đổi, hoàn thiện Luật Tiếp cận thông tin và văn bản hướng dẫn thi hành.

Luật Tiếp cận thông tin đã được Quốc hội thông qua hơn 4 năm và có hiệu lực thi hành được gần 3 năm. Tuy nhiên, Luật Tiếp cận thông tin của Việt Nam vẫn còn một số vấn đề cần được xem xét, điều chỉnh hợp lý hơn. Chẳng hạn, vẫn còn thiếu các quy định về phương thức, điều kiện và nội dung kiểm tra việc thi hành Luật này; tần suất xây dựng báo cáo 03 năm một lần là khá thưa thớt; chưa quy định một cơ chế độc lập, riêng biệt để giám sát và xử lý vi phạm trong thực thi luật theo thông lệ tốt của một số quốc gia trên thế giới. Theo một kết quả nghiên cứu đánh giá việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin do một số tổ chức phi Chính phủ thực hiện[34] vẫn còn hơn 50% cơ quan nhà nước cấp trung ương, 80% Sở Tư pháp các địa phương, trên 90% Văn phòng UBND cấp tỉnh chưa lập chuyên mục tiếp cận thông tin, chưa lập và cập nhật danh mục những thông tin phải công khai trên cổng/trang thông tin điện tử. Rà soát trên cổng thông tin điện tử và bảng niêm yết của các cơ quan này, cũng không tìm thấy các thông tin về đầu mối cung cấp thông tin, quy chế và quy trình cung cấp thông tin, danh mục thông tin bắt buộc phải công khai theo quy định của luật. Như vậy, để có được thông tin, người dân vẫn phải tiếp cận công chức chuyên môn để xin thông tin. Luật cũng chưa có quy định giải thích, hoặc xác định cụ thể về các tiêu chí, điều kiện được coi là “thông tin gây nguy hại hoặc ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác” hoặc thông tin nào là “cần thiết vì lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng”. Do đó việc xác định những yếu tố cần thiết hoặc gây ảnh hưởng, nguy hại đều do cán bộ cung cấp thông tin tự xác định căn cứ vào nhận định chủ quan của mình. Vì vậy dễ dẫn đến việc áp dụng không thống nhất và hạn chế quyền yêu cầu cung cấp thông tin của công dân nếu cán bộ không nhận thức đúng đắn về các quy định nêu trên. Chính vì vậy, trong thời gian tới, theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL, cần thiết phải có hoạt động sơ kết việc triển khai thi hành Luật Tiếp cận thông tin để từ đó hoàn thiện luật, đảm bảo luật được thực thi có hiệu quả.

  1. Ban hành Luật về Hội

Xây dựng Luật về Hội là một bước cụ thể hóa quy định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013 “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”, đồng thời đáp ứng yêu cầu sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản pháp luật hiện hành liên quan đến quyền lập hội hay quyền tự do hiệp hội, như Luật quy định về Quyền lập hội năm 1957, Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội… Xây dựng Luật về Hội cũng là một bước đảm bảo quyền tự do hiệp hội của người dân theo chuẩn mực quốc tế về quyền tự do hiệp hội trong Công ước quốc tế về các Quyền dân sự, chính trị (ICCPR) mà Việt Nam đã gia nhập. Để thực sự phát huy được vai trò của hội có một số vấn đề đặt ra khi ban hành Luật về Hội như sau:

Một là, cần minh định khái niệm về hội. Cho đến nay, ở Việt Nam, xét về khía cạnh học thuật và pháp lý, chưa có khái niệm “hội” theo một cách nhìn toàn diện, thống nhất. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, khái niệm về “hội” là chủ đề tranh luận sôi nổi ở nhiều diễn đàn, có nhiều quan điểm trái chiều với những cách thức tiếp cận đa diện. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu và các nhà quản lý đều đồng tình rằng, hội có những đặc điểm như: là tổ chức tự nguyện của quần chúng; tập hợp của những người có cùng ngành nghề, cùng giới, cùng sở thích...; hoạt động thường xuyên, liên tục; không vì mục đích lợi nhuận; mục đích hoạt động không trái với lợi ích dân tộc, tổ quốc và trong khuôn khổ pháp luật.

Hai là, trao quyền độc lập, tự chủ cho các hội[35] theo hướng bỏ cơ chế bộ chủ quản, thống nhất quản lý các hội vào Bộ Nội vụ; đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, tự lập của các hội và nhà nước không nên can thiệp sâu vào hoạt động của các hội mà quản lý theo điều lệ được đăng ký; đối xử bình đẳng giữa các hội và các tổ chức chính trị - xã hội. Riêng MTTQ là một định chế đặc biệt có thể tách riêng và được điều chỉnh theo Luật MTTQ, còn lại các tổ chức xã hội khác cần điều chỉnh bằng một luật. Cũng có thể cân nhắc việc dành một chương trong Luật về Hội để quy định vị trí, quyền và nghĩa vụ đặc thù của MTTQ Việt Nam.

3.3.3. Giải pháp bảo đảm thực thi pháp luật về dân chủ trực tiếp

Ngày nay, chúng ta đang sống trong một giai đoạn mà nhà nước tồn tại như một tất yếu, làm thế nào để có dân chủ, tức là dân là chủ và dân làm chủ. Mức độ dân chủ ít hay nhiều là phụ thuộc vào sự tham gia của dân vào công việc của Nhà nước nhiều hay ít. Để người dân có thể tham gia vào các công việc quản lý nhà nước, cần hai điều kiện: Một là, Nhà nước bảo đảm điều kiện tốt nhất, thuận tiện nhất để nhân dân tham gia công việc của Nhà nước; Hai là, nhân dân phải có “vốn”, nghĩa là phải có năng lực thực hiện vai trò làm chủ của mình. Theo đó, để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về DCTT tại Việt Nam trong thời gian tới cần tập trung vào các giải pháp sau đây:

3.3.3.1. Tăng cường năng lực thực thi pháp luật về DCTT của người dân

Khó khăn hơn gấp nhiều lần việc xây dựng thể chế và thiết kế hệ thống thiết chế thực hiện DCCS chính là vấn đề xây dựng nếp sống dân chủ, tạo lập khả năng thực hiện dân chủ của chủ thể mang quyền dân chủ. Nói cách khác, năng lực thực hành dân chủ của người dân là yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt đối với hiệu quả thực thi các phương thức DCTT. Để tăng cường năng lực thực hành dân chủ trực tiếp của người dân, cần phải chú trọng thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhấtnâng cao dân trí và ý thức pháp luật cho người dân. Giải pháp căn bản nhất để nâng cao dân trí và ý thức pháp luật cho người dân là đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng pháp luật nói chung, pháp luật về dân chủ trực tiếp nói riêng. Kiến thức, hiểu biết pháp luật là tiền đề, nền tảng để nhân dân phát huy các quyền dân chủ của mình theo luật định. Thông qua công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về DCTT sẽ cung cấp, trang bị cho mỗi người dân những kiến thức, hiểu biết pháp luật về DCTT, bao gồm các quyền dân chủ của nhân dân, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của nhân dân trong việc thực hiện DCTT, từ đó, làm hình thành trong nhân dân thái độ, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật, tạo dựng thói quen, lối sống, hành vi xử xự tích cực theo các quy định của pháp luật về dân chủ, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Thứ haităng cường vai trò tích cực, chủ động của công dân trong việc thực hiện các phương thức DCTT. Trong xã hội hiện đại, yêu cầu về tính chính đáng của Nhà nước ngày càng trở nên mạnh mẽ và thiết yếu. Ở đó, Nhà nước phải đáp ứng được các kỳ vọng và tiêu chuẩn của người dân đối với chính quyền của mình. Ngược lại, phía công dân cũng cần có thái độ hợp tác tích cực trong ý thức về trách nhiệm và nghĩa vụ công dân, đồng thời, đòi hỏi được thực thi, bảo vệ các quyền hợp pháp của mình một cách chủ động và hữu hiệu nhất.

Thứ babảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân. Có thể nói, thông tin là một nền tảng thiết yếu của nền dân chủ ở mọi cấp độ. Việc người dân tham gia vào quá trình ra quyết định đạt hiệu quả ở mức độ nào phụ thuộc vào quyền tiếp cận thông tin, mà một phần quan trọng là các thông tin được nắm giữ từ các cơ quan công quyền. Quyền tự do thông tin hay quyền tiếp cận thông tin là một quyền đặc biệt quan trọng của con người. Trong một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, các cơ quan công quyền không được phép nắm giữ thông tin cho riêng mình, mà “những thông tin này phải được các thành viên của cộng đồng tiếp cận và nắm rõ nếu họ có mong muốn, trừ khi có một lợi ích công cộng khác quan trọng hơn buộc chúng phải được giữ bí mật”[36]. Nội dung này không chỉ đòi hỏi việc bảo đảm cho người dân được chủ động tiếp cận và được đáp ứng các yêu cầu chính đáng về thông tin, mà còn đòi hỏi sự chủ động minh bạch, công khai hóa các thông tin từ phía các cơ quan công quyền, trừ khi có một lợi ích công cộng khác quan trọng hơn buộc phải được giữ bí mật.

3.3.3.2. Phát huy vai trò của các thiết chế trong hệ thống chính trị và các thiết chế khác trong việc xây dựng và thực thi pháp luật về DCTT

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đảo của Đảng trong xây dựng và thực hiện pháp luật về DCTT. Đảng đối với việc thực hiện pháp luật về DCTT lại càng phải được đề cao. Cần bảo đảm sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng trong chỉnh thể quá trình xây dựng NNPQ XHCN, trong đó có tập trung xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật, thu hút và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng nhà nước. Quán triệt quan điểm Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp[37]. Bên cạnh đó, mỗi đảng viên là tế bào của Đảng phải thực sự gương mẫu là tấm gương sáng cho quần chúng noi theo, Đảng viên phải có trách nhiệm gần gũi nhân dân, lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng nhân dân..

Thứ hai, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật về DCTT. Với chức năng, nhiệm vụ được giao, mỗi cấp chính quyền cần chủ động trong việc triển khai thực hiện pháp luật về DCTT. Điều cơ bản và cốt yếu là, phải lôi cuốn được sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân trên địa bàn quản lý vào việc thực hiện các phương thức DCTT. Bên cạnh đó, cần phải tăng cường nhận thức về DCTT cho các cán bộ công chức, viên chức các cấp. Cần quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc... Đặc biệt, mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự gắn bó máu thịt với Nhân dân, tôn trọng Nhân dân, phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân.

Thứ ba, tăng cường vai trò của MTTQ và các đoàn thể trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật về DCTT. Trong thời gian tới cần tập trung vào việc đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ và các tổ chức thành viên, cụ thể như: Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của MTTQ Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trước Đảng, trước nhân dân trong việc phát huy DCTT; thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hội của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân; đổi mới phương thức phối hợp giữa MTTQ Việt Nam với các đoàn thể Nhân dân, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận và giữa MTTQ Việt Nam với các cơ quan nhà nước; nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân và ban Giám sát đầu tư của cộng đồng; bảo đảm tính độc lập, tự chủ của MTTQ Việt Nam trong hệ thống chính trị.  

3.3.3.3. Đa dạng hóa cách thức thực hiện các phương thức DCTT

Một trong những giải pháp cần thiết hiện nay để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện quyền làm chủ của mình đó là cần phải đa dạng hóa các cách thức thực hiện DCTT. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển công nghệ thông tin và mạng internet đang tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để người dân tương tác với chính quyền. Việc xây dựng chính quyền điện tử giúp cho việc cung cấp thông tin cho người dân được nhanh chóng, cũng như thực hiện “dân chủ điện tử”[38]. Theo đó, người dân có thể thông qua mạng internet, cổng thông tin điện tử để tiếp xúc với chính quyền, gửi ý kiến, phản ánh, tham gia thảo luận, tranh luận, phản biện và cho ý kiến đối với chính sách, dự án cũng như các vấn đề có liên quan đến cuộc sống của người dân. Người dân cũng có thể thông qua mạng internet, cổng thông tin điện tử để giám sát hoạt động của chính quyền, đánh giá hiệu quả và chất lượng phục vụ công của chính quyền.

Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh việc công khai thông tin của cơ quan hành chính nhà nước. Cơ quan hành chính nhà nước và cơ quan có liên quan công khai cho người dân và xã hội về thông tin mà mình có được cũng như những thông tin liên quan đến hoạt động của chính quyền. Công khai, minh bạch trong hoạt động của chính quyền cũng như công khai thông tin trong quản lý công là cơ sở để bảo đảm “quyền được biết” của người dân, một mặt phát huy vai trò giám sát của người dân, góp phần ngăn ngừa tham nhũng và lợi ích nhóm; mặt khác, giúp người dân nắm bắt kịp thời các thông tin liên quan đến hoạt động của chính quyền, từ đó tham gia có hiệu quả vào quá trình quản lý nhà nước cũng như việc thực hiện các phương thức DCTT.

3.3.3.4. Tạo ra môi trường tự do ngôn luận, hình thành văn hóa phản biện.

Môi trường tự do ngôn luận sẽ có tác động rất lớn đến việc thực hiện DCTT. Ở Việt Nam, việc thực thi quyền tự do ngôn luận, trên thực tế vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập (cả về nhận thức, thể chế và thực thi). Vì vậy, cần có sự cải thiện môi trường tự do ngôn luận để nâng cao chất lượng thực hiện các phương thức DCTT trong thời gian tới. Cần quan niệm tự do ngôn luận không phải là sự cho phép người dân được nói mà tạo khuôn khổ luật pháp để nhân dân thực hiện quyền bày tỏ chính kiến nhờ đó chính quyền có điều kiện nắm bắt, đo đạc phản hồi xã hội. Tạo môi trường tự do dân chủ, minh bạch thông tin là cần thiết nhưng cũng rất cần coi trọng xây dựng được môi trường văn hóa nhằm xây dựng được phong cách, đạo đức, văn hóa phản biện. Biết lắng nghe những ý kiến trái ngược với ý kiến của mình, điều đó mới có thể tạo nên được những ý kiến phản biện có giá trị, có ảnh hưởng và tác động tích cực đến việc ban hành chính sách, pháp luật.

3.3.3.5. Tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý Nhà nước.

Có thể nói công khai, minh bạch là “chìa khoá” thực hiện dân chủ cũng như DCTT, đây cũng là yêu cầu hàng đầu trong hoạt động quản lý nhà nước hiện đại. . Gần đây nhất, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII nhấn mạnh “Bảo đảm công khai, minh bạch thông tin, quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của mọi tầng lớp nhân dân”. Trên tinh thần dân chủ, nhân quyền và từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ ràng “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân". Do đó, để thực thi DCTT được hiệu quả trong thời gian tới thì cần phải tăng cường hơn nữa việc công khai, minh bạch thông tin hoạt động của cơ quan quản lý.

Trước tiên, các thông tin công khai cần phải đầy đủ và dễ dàng tiếp cận. Nhà nước cần phải thực hiện các biện pháp hữu hiện để tăng cường lượng truyền tải thông tin đến người dân bằng việc đa dạng hóa hình thức công khai. Đặc biệt, cần xác định rõ danh mục bí mật của các bộ, ngành, địa phương; trên cơ sở đó hạn chế tình trạng phổ biến hiện nay là các bộ, ngành, địa phương thường lấy lý do thuộc danh mục bí mật nhà nước để từ chối cung cấp thông tin khi có yêu cầu. Đồng thời, đó là cơ sở pháp lý để ngăn chặn tình trạng lạm dụng hay lách quy định để từ chối quyền chính đáng trong thực hiện quyền dân chủ của mình. Mặt khác, cần phải minh bạch hóa hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó điều quan trọng là tăng cường sự minh bạch trong mối quan hệ với công dân, tổ chức, doanh nghiệp và các đối tượng khác.  

3.3.3.6. Phát huy vai trò của truyền thông đại chúng trong việc thực thi dân chủ trực tiếp.

Thông qua, truyền thông đại chúng có thể phổ biến, tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước; công khai các chế độ, chính sách liên quan trực tiếp đến nhân dân; công khai các đề án quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, quy hoạch đô thị, kết cấu hạ tầng, quy hoạch sử dụng đất đai… Tuy nhiên, truyền thông đại chúng có tính hai mặt, bên cạnh tính tích cực thì nếu thông tin truyền đi mang tính tiêu cực, thì nó cũng tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với người dân. Chính vì vậy, Nhà nước cần làm tốt vai trò định hướng, thông qua các phương tiện truyền thông chính thống đưa tin kịp thời, chính xác, sâu rộng đúng với thực tế, đúng quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật. Kịp thời chấn chỉnh tư tưởng trước những thông tin đa chiều, thiếu chính xác, tránh gây hoang mang, tránh nguy cơ dẫn đến những suy nghĩ, những bình luận và hành động tiêu cực ở một vài cá nhân, gây hiệu ứng không tốt trong cộng đồng.

Để phát huy có hiệu quả vai trò của truyền thông đại chúng đối với DCTT cần lưu ý một số vấn đề sau: Các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cấp cơ sở cần thông qua truyền thông đại chúng đưa tin nhanh chóng, chính xác, đầy đủ với nhiều hình thức đa dạng, đáp ứng nhu cầu được biết thông tin của nhân dân. Bên cạnh đó, nhân dân hãy tìm cho bản thân những nguồn cung cấp thông tin có thể tin tưởng được qua những loại hình truyền thông đại chúng truyền thống, còn đối với truyền thông đại chúng hiện đại, có thể tìm những trang tin điện tử có xuất bản từ báo in, báo mạng, trang đã được kiểm duyệt hoặc của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cấp cơ sở để có được một thông tin chính xác. Các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cấp cơ sở cũng cần thúc đẩy nhiều diễn đàn trao đổi, thảo luận, thiết lập nhiều kênh để tiếp nhận thông tin phản ánh của nhân dân trên không gian mạng đặc biệt là mạng xã hội. Nhân dân cần phải tham gia tích cực vào những diễn đàn này và phản hồi kịp thời những thông tin từ thực tế giúp phát huy vai trò của mình trong khâu dân bàn theo một phương thức mới. Thực tế cho thấy, truyền thông đại chúng ngày càng thể hiện rõ vai trò của mình trong việc phát huy DCTT. Do đó, hệ thống chính trị ở nước ta cần có những bước đi mang tính đột phá về ứng dụng những công cụ của truyền thông đại chúng hiện đại nhằm phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Trong đó, trọng tâm xây dựng một nền hành chính công được số hóa hiện đại, giúp khẳng định vị thế, vai trò là chủ của nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

3.3.3.7. Bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật cho việc xây dựng và thực hiện dân chủ trực tiếp

Trong bối cảnh hiện nay ở nước ta, việc bảo đảm các điều kiện về vật chất - kỹ thuật để Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng DCTT là vấn đề rất quan trọng, không được coi nhẹ trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong toàn hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Không chỉ trong việc tổ chức thực hiện DCTT, mà ngay trong việc xây dựng, sửa đổi để hoàn thiện pháp luật về vấn đề này thì cơ sở vật chất, kỹ thuật cũng rất cần thiết. Yếu tố vật chất, kỹ thuật ở đây không chỉ để phục vụ giải quyết các hoạt động mang tính chất nội bộ của cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mà còn là phương tiện giải quyết công việc có liên quan giữa các cơ quan có thẩm quyền với các cơ quan hữu quan, các tổ chức và công dân.

Liên quan đến khía cạnh này, trong những năm tới để phục vụ một cách hiệu quả cho quá trình hoàn thiện pháp luật và giải pháp thực tiễn nhằm đảm bảo vận hành cơ chế, các cơ quan có thẩm quyền cần phát huy tối đa khả năng khai thác, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin, hệ thống mạng điện tử để giải quyết các mối quan hệ nội bộ, cũng như giải quyết các quan hệ với công dân, tổ chức nhằm đổi mới phương pháp, tiến độ, chất lượng, hiệu quả của quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật về DCTT./.

 


[1] Trong phần này nhóm nghiên cứu có tiếp thu một số kết quả nghiên cứu từ tài liệu: Hội đồng Lý luận Trung ương (2011), Dân chủ, quyền lực nhân dân và việc thể hiện dân chủ, quyền lực nhân dân trong Hiến pháp, Chuyên đề phục vụ hoạt động sửa đổi Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001).

[2] Nguyễn Minh Tuấn(2014), Bàn về các hình thức dân chủ và việc mở rộng dân chủ ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cở sở trên thế giới và ở Việt Nam”, Hà Nội, 2014, tr.125.

[3] TS. Đỗ Minh Khôi, Vai trò của dân chủ đối với việc bảo đảm thực hiện quyền con người, Tạp chí Khoa học pháp lý số 5/2009, tr. 13.

[4] A. Democracy in World Book Encyclopedia, World Book Inc., 2006. B. Pure democracy entry in Merriam-Webster Dictionary. C. Pure democracy entry in American Heritage Dictionary"

[5] Budge, Ian (2001). "Direct democracy". In Clarke, Paul A.B. & Foweraker, Joe. Encyclopedia of Political Thought. Taylor & Francis. ISBN 9780415193962.

[6] Hoàng Thị Thu Thủy, Hoàn thiện pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam hiện nay, LATS Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2020, tr. 38-39.

[7] Hoàng Thị Thu Thủy, LATS Luật học, tlđd, tr. 38-39.

[8] Viện quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cửc ủa Thụy Điển

[9] Xem IDEA, Direct Democracy: The International IDEA Handbook, 2008, tr. 12, tại http://www.idea.int/publications/direct_democracy/. Ở Việt Nam, có quan điểm cho rằng bầu cử cũng là một hìnbh thức dân chủ trực tiếp. Tuy nhiên, theo quan điểm phổ biến trên thế giới, bầu cử là khái niệm gắn với DCĐD, là cách thức dân chủ để người dân ở một quốc gia thiết lập ra bộ máy nhà nước của mình trong thời hiện đại.

[10] Sổ tay IDEA quốc tế (bản dịch tiếng Việt do GS,TSKH. Đào Trí Úc-TS.Vũ Công Giao chủ biên). Dân chủ trực tiếp. NXB ĐHQG Hà Nội. Hà Nội, 2014. Tr.89.

[11] Trần Nho Thìn, Chế độ bầu cử dân chủ, Kỷ yếu hội thảo “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cở sở trên thế giới và ở Việt Nam”, Hà Nội, 2014, tr.290.

[12] Mai Thị Thanh Tâm, Kết hợp dân chủ trực tếp và dân chủ đại diện trong xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta, tham luận trong Kỷ yếu hội thảo “Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, DCCS trên thế giới và ở Việt Nam”, tlđd, tr.269-270.

[13] Bùi Xuân Đức (2004), Giáo trình Luật Hiến Pháp, Nxb. Tư pháp, tr.185.

[14] Joseph Stiglitz (2002), Tham gia và Phát triển: Quan điểm từ mô hình phát triển toàn diện, World Bank xuất bản.

[15] Nguyễn Minh Đoan: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng NNPQ XHCN, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011

[16] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, Tập I, tr.118.

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, Tập I, tr. 51.

[18] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr.39.

[19] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, Tập I, tr. 27, 96.

[20] Nghị quyết 1186/2021/UBTVQH14 ngày 11/01/2021 hướng dẫn về việc tổ chức hội nghị cử tri; việc giới thiệu người ứng cử đại biểu HĐND cấp xã ở thôn, tổ dân phố; việc hiệp thương, giới thiệu người ứng cử, lập danh sách người ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND trong bầu cử bổ sung do UBTVQH ban hành

Nghị quyết 1187/NQ-UBTVQH14 ngày 11/01/2021 hướng dẫn việc xác định dự kiến cơ cấu, thành phần và phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 do UBTVQH ban hành

Nghị quyết liên tịch 09/2021/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 15/01/2021 hướng dẫn quy trình hiệp thương, giới thiệu người ứng cử ĐBQH khóa XV, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 do UBTVQH - Chính phủ - MTTQ Việt Nam ban hành

Nghị quyết 41/NQ-HĐBCQG ngày 18/01/2021 hướng dẫn mẫu hồ sơ ứng cử, mẫu phiếu bầu cử, nội quy phòng bỏ phiếu và các mẫu văn bản sử dụng trong công tác bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV và Đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 do Hội đồng bầu cử Quốc hội ban hành

Thông tri 13/TT-MTTW-BTT ngày 19/01/2021 hướng dẫn MTTQ Việt Nam tham gia công tác bầu cử ĐBQH khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 do Ban thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam ban hành

[21] Viện Nghiên cứu lập pháp (Ủy ban thường vụ Quốc hội), Chuyên đề “Định hướng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng”, Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng”, Bộ Tư pháp và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức, thành phố Hà Nội, ngày 29/11/2021.

[22] Điều 10, Pháp lệnh năm 2007.

[23] Điều 13, Pháp lệnh năm 2007.

[24] Điều 19, Pháp lệnh năm 2007.

[25] Trần Bá Hùng, Hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Tạp chí Khoa học xã hội, số 10 (266) 2020.

[26] Thông tin do Ban chủ nhiệm Dự án điều tra cơ bản “Thực trạng thi hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn” (Bộ Tư pháp) cung cấp.

[27] Phạm Văn Đức, Bùi Nguyên Khánh, Dân chủ và thực trạng thực hiện dân chủ những năm qua, nguồn: https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/dan-chu-va-thuc-trang-thuc-hien-dan-chu-nhung-nam-qua.html

[28] Trương Hồng Quang, Hòa Thị Thủy, Dân chủ trực tiếp và yêu cầu hoàn thiện pháp luật về dân chủ trực tiếp theo Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật dố 9 (366) - 2022, tr.8-12.

[29] GS Nguyễn Minh Đoan, Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực thi dân chủ trực tiếp trong NNPQ XHCN Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo “Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, DCCS trên thế giới và ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2014, tr104-111.

[30] PGS.TS. Vũ Thư, Các quy định về quyền tự do dân chủ của công dân trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 và kiến nghị, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03/2013 (76)/2013 – 2013, Trang 03-10.

[31] Ngày 10/11/2022, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở đã được Quốc hội biểu quyết thông qua và sẽ có hiệu lực từ ngày 01/07/2023.

[32] PGS.TS Trịnh Đức Thảo, Hoàn thiện pháp luật vè quyền bãi nhiệm đại biểu dân cử của cử tri theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, tham luận Kỷ yếu hội thảo, tldd, tr.153.

[33] Về cơ bản, các đề xuất, kiến nghị trong phần này đều đã được thể hiện tương đối đầy đủ trong Dự thảo Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở vừa được Quốc hội biểu quyết thông qua ngày 10/11/2022.

[34] Tóm tắt báo cáo đánh giá việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin (Lần thứ 2), tháng 2/2020, Nguồn: https://www.care.org.vn/wp-content/uploads/2020/02/Luat-TCTT-tom-tat-danh-gia-trien-khai-2.2020.pdf, truy cập ngày 03/3/2021

[35] Bộ Khoa học công nghệ (2009), Các hình thức và giải pháp thực hiện giám sát xã hội và phản biện xã hội đối với các tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, Chương trình khoa học và công nghệ KX10.06 – 10, Đề tài cấp nhà nước (mã số KX.10.06/06-10), chủ nhiệm: PGS.TS. Trần Hậu, tr.205.

[36] Thái Vĩnh Thắng (2011), Lịch sử hình thành và phát triển của quyền tiếp cận thông tin, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, tr.539.

[37] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

[38] Dân chủ điện tử được định nghĩa như là việc sử dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ các quá trình ra quyết định dân chủ. Nguồn: https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/09/28/vai-net-ve-mo-hinh-dan-chu-dien-tu-trong-hoat-dong-tham-van-cong-dan-o-vuong-quoc-anh/


 [WU1]Có thể nói, chủ quyền nhân dân (quyền lực nhân dân) là bản chất và là đặc trưng của các nhà nước và xã hội dân chủ. Tuy nhiên, việc thực thi chủ quyền nhân dân thì lại không đơn giản. Nếu căn cứ vào tính chất và khả năng đạt được mục đích của việc thực hiện quyền lực nhà nước bởi nhân dân thì dân chủ ở mức độ cao nhất là nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, để tất cả mọi người dân đều có thể trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước là điều không thể và không hiệu quả. Bên cạnh đó, rất nhiều các học giả, chính khách cho rằng chính trị là những công việc phức tạp, không phải và không nên dành cho tất cả dân chúng. Vì vậy, hình thức dân chủ đại diện (DCĐD) ra đời để khắc phục những nhược điểm đó của DCTT. Cách mạng tư sản và sự ra đời của thiết chế nghị viện nhân dân đã tạo những bước ngoặt lớn về sự phát triển dân chủ cũng như đánh dấu thời kỳ lên ngôi của hình thức DCĐD.

Tuy nhiên, dần dần người ta cũng nhận ra những hạn chế của hình thức dân chủ gián tiếp và khả năng khắc phục những hạn chế đó từ hình thức DCTT. Và cho đến nay, quan điểm hiện đại đã có một số thay đổi, phát triển, mở rộng hơn nội hàm của DCTT.

 

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm ...