• Thuộc tính
Tên đề tài Nghiên cứu xây dựng những định hướng chính sách lớn phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự.
Nội dung tóm tắt

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỊNH HƯỚNG

CHÍNH SÁCH LỚN PHỤC VỤ VIỆC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG

LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

 

1.1. Khái niệm, đặc trưng, bản chất, ý nghĩa của thi hành án dân sự

1.1.1. Khái niệm, đặc trưng, bản chất thi hành án dân sự

Trên thế giới, THADS đã xuất hiện từ khi có sự tồn tại của nghĩa vụ; nghĩa vụ chính là nguồn gốc, là xuất phát điểm của hoạt động THADS. Khi một người phải gánh chịu một nghĩa vụ thì phải có trách nhiệm thi hành nghĩa vụ đó.

Mặc dù xuất phát điểm của hoạt động THADS là nghĩa vụ nhưng bản chất của hoạt động thi hành án chính là sự cưỡng bức của chủ nợ đối với con nợ để thoả mãn quyền của chủ nợ đối với khoản nợ. Tuy nhiên, để đảm bảo sự ổn định của trật tự xã hội, cũng như tránh bạo lực và tình trạng lạm quyền của chủ nợ, hoạt động thi hành nghĩa vụ đã chuyển từ hoạt động hoàn toàn mang tính chất cá nhân sang hoạt động có sự đảm bảo bằng quyền lực Nhà nước.

Theo từ điển tiếng Việt, "thi hành" có nghĩa là làm cho thành hiện thực điều đã được chính thức quyết định[1]. Như vậy, khi có xung đột về lợi ích, các cá nhân có quyền đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền phán quyết bằng bản án, quyết định. Và “thi hành án” là việc làm cho các phán quyết tại bản án, quyết định đó trở thành hiện thực trên thực tế. Hoạt động này vừa bảo đảm quyền tư pháp của Nhà nước, vừa là công cụ hữu hiệu khôi phục lại quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khi bị xâm hại.

Như đã được nêu tại phần “Tổng quan nghiên cứu”, nhiều học giả trong nước và quốc tế đã có những nghiên cứu về khái niệm và bản chất THADS với nhiều cách tiếp cận (cách tiếp cận mục tiêu, cách tiếp cận chủ thể hay cách tiếp cận phân loại hoạt động...) thì còn nhiều quan điểm khoa học khác nhau về bản chất THADS là hoạt động tư pháp, hành chính hay hành chính - tư pháp. Tuy nhiên, dù được nhìn nhận là hoạt động tư pháp hay hoạt động hành chính, hay là hoạt động có tính hành chính - tư pháp thì THADS vẫn mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản sau đây:

- Một là, thi hành án là hoạt động diễn ra sau quá trình xét xử, giải quyết vụ việc và sau khi có bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh.... Mọi bản án, quyết định của những cơ quan này chỉ là những phán quyết trên giấy nếu không được tổ chức thi hành trên thực tế.

- Hai là, đối tượng đặc trưng của THADS là nghĩa vụ về tài sản: Trong thực tế phần lớn các bản án, quyết định dân sự được đưa ra thi hành đều quyết định các vấn đề về tài sản như chia thừa kế, trách nhiệm thanh toán, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,…Thông qua THADS người phải thi hành án phải thực hiện các nghĩa vụ về tài sản và người được thi hành án sẽ được nhận quyền và lợi ích về tài sản. Vì vậy, nếu người phải thi hành án không thoả mãn với nội dung bản án, quyết định, thiếu ý thức tôn trọng pháp luật thì sự chống đối với mọi hoạt động của cơ quan THADS luôn hiện hữu.

- Ba là, THADS là hoạt động liên quan đến quyền tư pháp: Theo đó, quyền tư pháp là một bộ phận cấu thành của quyền lực Nhà nước, nhân danh quyền lực Nhà nước xét xử và ra phán quyết. Quyền tư pháp có một số dấu hiệu như: (1) là quyền tài phán Nhà nước được thực hiện thông qua xét xử; (2) phán quyết về những trường hợp cụ thể; (3) phán quyết của quyền tư pháp mang tính quyền lực Nhà nước do đó có hiệu lực bắt buộc thi hành với các chủ thể liên quan. Để Tòa án thực hiện quyền tư pháp, trước đó cần có hoạt động điều tra, truy tố (đối với vụ án hình sự); thu thập chứng cứ, chứng minh (vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, lao động…); để bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được tổ chức hiệu quả trên thực tế cần có hoạt động thi hành án. Do đó, quá trình Tòa án thực hiện quyền tư pháp còn có sự tham gia của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan THADS.

Về bản chất, hoạt động tư pháp chính là hoạt động của các cơ quan, người có thẩm quyền tham gia thực hiện quyền tư pháp. Hoạt động tư pháp phải là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước; các hoạt động của các chủ thể tham gia tố tụng không phải nhân danh quyền lực Nhà nước mà nhân danh quyền, lợi ích của cá nhân hoặc chỉ góp phần bảo vệ công lý, thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình thì không phải là hoạt động tư pháp. Đồng thời, hoạt động tư pháp là hoạt động áp dụng pháp luật hoặc bảo đảm cho hoạt động áp dụng pháp luật, làm phát sinh, thay đổi các quan hệ xã hội, phát sinh các hậu quả pháp lý đối với người bị áp dụng, do đó phải được thực hiện theo trình tự, thủ tục chặt chẽ, nghiêm ngặt để bảo đảm cho hoạt động đó công bằng, vô tư, khách quan, đúng pháp luật, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Trên cơ sở đó, hoạt động tư pháp gồm: Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

- Bốn là, THADS chỉ được tiến hành trên cơ sở các bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật và được tổ chức thực hiện trong khuôn khổ luật định. Toàn bộ quá trình thi hành án với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định và theo các quy định cụ thể của pháp luật.

Bên cạnh đó, hiện nay tổ chức và tác nghiệp của hệ thống THADS thuộc sự quản lý, điều hành của cơ quan thực hiện quyền hành pháp là Chính phủ (cơ quan tham mưu thực hiện là Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng).

- Năm là, hoạt động THADS có sự tham gia của nhiều chủ thể: Hoạt động THADS không phải là hoạt động của riêng cơ quan có nhiệm vụ tổ chức THADS mà là hoạt động của nhiều chủ thể khác nhau, có tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau. Không chỉ cơ quan tư pháp, hành chính Nhà nước, cấp Ủy, chính quyền địa phương các cấp và các cơ quan, tổ chức mà có cả người có nghĩa vụ thi hành án và các cá nhân liên quan. Thực tế cho thấy, ở địa phương nào có sự quan tâm, vào cuộc của cấp ủy, chính quyền địa phương thì công tác thi hành án ở địa phương đó đạt được những kết quả tốt và ngược lại.

- Sáu là, hoạt động THADS luôn có sự đan xen giữa hai phương pháp điều chỉnh là tôn trọng, ưu tiên quyền tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của đương sự, nếu đương sự không thực hiện thì sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế bởi quyền lực của Nhà nước để buộc thực hiện nghĩa vụ.

- Bảy là, việc THADS được thực hiện độc lập, trình tự, thủ tục chặt chẽ theo quy định của pháp luật để bảo đảm hiệu lực bản án quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền đạt được hiệu quả trên thực tế.

Trên cơ sở làm rõ bản chất, đặc trưng trong THADS nêu trên, có thể đưa ra khái niệm: THADS là tổng thể các hoạt động của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định nhằm thực thi trên thực tế các bản án, quyết định hoặc các văn bản có giá trị thi hành của cơ quan, người có thẩm quyền.

1.1.2. Ý nghĩa của thi hành án dân sự

THADS có ý nghĩa quan trọng góp phần tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Nhà nước, thể hiện ở các khía cạnh:

Thứ nhất, THADS đảm bảo hiệu lực thi hành của bản án, quyết định trên thực tế.

Tại Điều 106 Hiến pháp 2013 đã khẳng định “Bản án, quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Mọi bản án, quyết định của Toà án, cơ quan có thẩm quyền chỉ thực sự có giá trị khi thực hiện trên thực tế. Do xuất phát từ việc phải thực hiện nghĩa vụ, nhất là về tài sản thì việc trông chờ sự tự nguyện thi hành của các chủ thể thực sự khó khăn. Do đó nếu hoạt động thi hành án không được thực hiện bằng sự cưỡng chế nhà nước thì việc đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định khó được thực hiện.

Thứ hai, THADS là công cụ quan trọng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước; góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật; tăng cường pháp chế XHCN, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Pháp luật là công cụ điều chỉnh mối quan hệ xã hội, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Về nguyên tắc, người có nghĩa vụ phải chấp hành, nếu không tự nguyện sẽ bị cưỡng chế thực hiện. Việc tổ chức thi hành án xong thông qua thực hiện các trình tự thủ tục thi hành án đối với các chủ thể phải thi hành góp phần đảm bảo công bằng, bình đẳng, giữ vững trật tự xã hội, thể hiện bản chất nghiêm minh, khách quan của pháp luật và của hoạt động áp dụng pháp luật.

Thứ ba, THADS là thước đo hiệu quả hoạt động xét xử của Toà án và hoạt động tư pháp khác

Thông qua kết quả thi hành án, bản án, quyết định của Tòa án được đảm bảo thi hành trong thực tế, đồng thời thông qua việc áp dụng các biện pháp thi hành án, nếu có sai sót trong bản án, quyết định được thi hành, cơ quan thi hành án sẽ có những kiến nghị thích hợp, giúp cho cơ quan ra bản án, quyết định có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm trong việc áp dụng pháp luật, nâng cao chất lượng của bản án, quyết định. Mặt khác, từ việc kiến nghị, đề nghị giải thích nhận thấy việc xét xử có thực sự hiệu quả hay không, việc giải quyết quyền và nghĩa vụ của các đương sự có tính khả thi hay không.

Thứ tư, THADS đạt hiệu quả sẽ mang lại niềm tin cho nhân dân, góp phần giáo dục ý thức cho công dân.

Việc tổ chức THADS đúng nội dung bản án, quyết định của Tòa án và quy định của pháp luật sẽ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cá nhân, tổ chức có liên quan dẫn đến người dân tin vào công lý, pháp luật, cơ quan thực hiện pháp luật. Điều này sẽ thúc đẩy các đương sự ý thức tự nguyện trong việc thi hành án, cũng như thái độ, ý thức khi thỏa thuận với nhau trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong bản án, quyết định, đồng thời nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân.

Bên cạnh đó, thông qua hoạt động THADS, đương sự một lần nữa được hướng dẫn, giải thích quy định pháp luật dân sự, pháp luật THADS, qua đó nâng cao hiểu biết của công dân về pháp luật.

Thứ năm, THADS hiệu quả góp phần tạo sự an tâm ký kết các giao dịch dân sự kinh tế, khơi thông tiềm lực kinh tế, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội; thu hút đầu tư nước ngoài

Do phần lớn nội dung tổ chức THADS là về tài sản, việc tổ chức nhanh chóng, đúng pháp luật sẽ giúp cá nhân, tổ chức được thi hành án tiếp tục có nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế, xã hội; đồng thời, việc tổ chức thi hành đối với các doanh nghiệp theo phương châm tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội để duy trì, phát triển cũng tác động không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Mặt khác, việc tổ chức thi hành án kịp thời tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn vào Việt Nam và góp phần nâng cao chỉ số cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế.

1.2. Khái niệm, yêu cầu khi xây dựng định hướng chính sách lớn phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự

1.2.1. Khái niệm

Theo từ điển tiếng Việt thì định hướng là xác định phương hướng; chính sách được hiểu là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt được mục tiêu nhất định dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế của chính sách.

- Một số nhà khoa học có định nghĩa “Chính sách thường được thể chế hóa trong các quyết định, hệ thống pháp luật, các quy chuẩn hành vi và những quy định khác”; “Chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay các nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình”; “Chính sách là một quá trình hành động có mục đích được theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm”. Như vậy có thể hiểu rằng: Chính sách là hình thức tác động qua lại giữa các nhóm, tập đoàn xã hội gắn trực tiếp hoặc gián tiếp với tổ chức, hoạt động của Nhà nước, của các đảng phái, thiết chế khác nhau của hệ thống chính trị nhằm thực hiện các lợi ích, các mục tiêu, nhiệm vụ của các nhóm, tập đoàn xã hội ấy.

Nhà nước với tư cách là chủ thể hoạch định chính sách, luôn ở vị thế dẫn dắt, chỉ đạo quá trình hoạch định, thực thi chính sách. Bên cạnh đó, công chúng (nhân dân, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp) là những chủ thể có vai trò đồng hành không thể thiếu trong suốt quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Do vậy, để phục vụ công chúng và quản lý nhà nước một cách hiệu quả vì sự phát triển, Nhà nước không thể hoạch định, thực thi Chính sách mà không có sự tham gia của công chúng. Sự tham gia của công chúng trong hoạch định Chính sách – có thể được coi là nguồn thông tin, chất liệu thực tiễn chủ yếu, giúp cho Chính sách được hoạch định gắn với thực tiễn, từ thực tiễn định ra những giải pháp giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra, giảm thiểu những nguyên nhân, hành vi không mong muốn, khuyến khích những thiết chế, hành vi tích cực, qua đó đạt được mục tiêu Phát triển của Chính sách.

Nội dung và mục tiêu của “chính sách” phải luôn gắn liền với thực tiễn. Chính sách xa rời thực tiễn, được xác định một cách chủ quan, duy y chí sẽ dẫn đến một mong muốn viển vông. Với một chính sách như vậy, con đường và biện pháp để biến chính sách thành hiện thực rất khó đạt được mức độ khả thi khi triển khai thực hiện. Để đạt được rất cần có sự phối hợp, hợp tác giữa chủ thể hoạch định chính sách (Nhà nước) với chủ thể tham gia hoạch định chính sách (công chúng). Chính sách phải được xác định và luật hóa, để trở thành “cốt lõi”, là “tinh thần” xuyên suốt của một dự án Luật. Làm luật mà không bám sát theo chính sách đã định thì sẽ mất phương hướng.

 Với vai trò được ủy quyền quản lý xã hội vì sự phát triển của quốc gia, việc hoạch định và thực thi chính sách phải luôn được coi là một chức năng, nhiệm vụ quan trọng và chủ yếu nhất của Nhà nước. Nhà nước dẫn dắt quốc gia phát triển phải bằng Chính sách. Nội dung Chính sách bao hàm các định hướng, mục tiêu phát triển với những giải pháp chính sách cụ thể (chính sách chung với chính sách cụ thể). Tuy nhiên, Chính sách chỉ mới dừng lại ở những định hướng và giải pháp mang tính nội dung mà Nhà nước xác định vì sự phát triển. Để chính sách có thể thực thi, áp dụng đối với toàn thể xã hội, thì pháp luật chính là một công cụ không thể thiếu, được sự đảm bảo của quyền lực nhà nước, đủ khả năng đảm bảo tính thực thi của chính sách trong đời sống xã hội.

 Chính sách là nội dung can thiệp của Nhà nước đối với xã hội, là mục tiêu hướng tới giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội phát sinh từ thực tiễn cuộc sống, vì sự phát triển. Chính sách không thể tự nó được thực thi. Chính sách phải được đảm bảo thi hành bởi các văn bản pháp luật, được luật hóa. Chính sách có vai trò quan trọng như sợi chỉ xuyên suốt nội dung của văn bản pháp luật. Tính nhất quán về mục tiêu điều chỉnh của văn bản pháp luật phụ thuộc vào mức độ rành mạch và rõ ràng của chính sách được thể hiện qua các quy định của pháp luật.

 Có thể nhận dạng các loại Chính sách như sau: (1) Loại chính sách là đường lối, mục tiêu phát triển của Quốc gia, của địa phương. Đây là những chính sách vĩ mô, thường được hoạch định ở tầm quốc gia hoặc địa phương. Loại chính sách này ở nước ta thường được thể hiện ở các văn kiện của Đảng, các Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia; Chiến lược, tầm nhìn phát triển ngành, lĩnh vực; Chương trình mục tiêu quốc gia. Những văn kiện chính sách này chứa đựng những mục tiêu cần đạt được, chỉ mang tính định hướng về những nội dung cần phải triển khai trong một khoảng thời gian nhất định. Những văn kiện này mang tính chất chính trị hơn là văn bản quy phạm pháp luật. (2) Loại chính sách là định hướng/giải pháp cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng đã hoặc mới phát sinh từ đời sống thực tiễn. Loại chính sách này chỉ có thể được thực thi với điều kiện được chuyển tải vào các văn bản pháp luật. Hiện nay, trong nhiều luật, pháp lệnh đã phần nào và ở một mức độ nhất định, thể hiện được những chính sách loại này. Tuy nhiên, mức độ thể hiện và sự nhất quán về nội dung chính sách/giải pháp chính sách qua các quy định của điều luật trong từng luật, pháp lệnh cụ thể - vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, không đảm bảo được chất lượng của hệ thống văn bản pháp luật hiện nay.

- Dưới góc độ xây dựng và hoạch định chính sách pháp luật, căn cứ khoản 1 Điều 2 Nghị định 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì: Chính sách được hiểu là định hướng, giải pháp của Nhà nước để giải quyết vấn đề của thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu nhất định.

Theo đó, một chính sách gồm 03 yếu tố cấu thành chính: (1) Vấn đề thực tiễn cần giải quyết; (2) Định hướng, mục tiêu giải quyết vấn đề (hay còn gọi là mục tiêu của chính sách); (3) Các giải pháp của Nhà nước (giải pháp thực hiện chính sách) để giải quyết vấn đề theo mục tiêu đã xác định. Đây là cách tiếp cận xây dựng, hoạch định chính sách dựa trên nhu cầu thực tiễn và nhằm giải quyết vấn đề thực tiễn. Do đó, điều quan trọng đầu tiên là phải nhận diện đúng vấn đề thực tiễn cần giải quyết.

Vấn đề thực tiễn cần giải quyết là một hiện trạng xã hội đã và đang xảy ra (hoặc có thể được dự báo sẽ xảy ra) có ảnh hưởng, tác động đến đời sống, hoạt động của một hoặc một số nhóm đối tượng trong xã hội, đến tổ chức, hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, một vấn đề thực tiễn đòi hỏi phải được giải quyết bằng chính sách, pháp luật chỉ khi vấn đề đó có nội dung tác động và phạm vi tác động nhất định về thời gian, không gian cho các đối tượng chịu ảnh hưởng.

Mục tiêu chính sách là mức độ giải quyết vấn đề thực tiễn mà Nhà nước hướng tới trong thời gian trước mắt hoặc lâu dài (mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu dài hạn) nhằm hạn chế, giảm thiểu các tác động tiêu cực đối với các đối tượng chịu tác động hoặc chịu trách nhiệm tổ chức thi hành chính sách pháp luật. Một vấn đề có thể phát sinh do nhiều nguyên nhân gây ra và có thể tác động tiêu cực đến các đối tượng trên các khía cạnh khác nhau như kinh tế, xã hội, môi trường… Do đó, mục tiêu chính sách trước tiên cần hướng tới giải quyết những nguyên nhân chính tác động tiêu cực cho các đối tượng.

Giải pháp thực hiện chính sách là các phương án khác nhau để giải quyết vấn đề thực tiễn theo mục tiêu đã xác định. Giải pháp phải phù hợp, cân xứng với vấn đề về quy mô, phạm vi, đối tượng tác động, khắc phục được trúng và đúng các nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp gây ra vấn đề; đồng thời giải pháp phải hiệu quả nghĩa là đạt được mục tiêu đặt ra với chi phí hợp lý, khả thi đối với các đối tượng phải thực hiện, tuân thủ. Thông thường, mỗi giải pháp thực hiện chính sách sử dụng một công cụ thể hiện cách thức mà Nhà nước có thể can thiệp để giải quyết vấn đề thực tiễn.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu “định hướng chính sách lớn phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Luật THADS” là việc nghiên cứu, đánh giá lý luận và thực tiễn của công tác THADS, từ đó đưa ra những định hướng là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền hoạch định chính sách nghiên cứu, tham khảo, sử dụng và xây dựng chính sách trong Dự án Luật THADS (sửa đổi).

1.2.2. Yêu cầu khi xây dựng định hướng chính sách lớn

Trong quá trình xây dựng định hướng chính sách để phục vụ cho việc sửa đổi Luật THADS cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:

- Đảm bảo đầy đủ về thông tin: Thông tin là cơ sở và căn cứ của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách; do đó, người thiết kế chính sách cần thông qua nhiều phương thức khác nhau để có được thông tin toàn diện và chính xác;

- Có tính hệ thống: Khi xây dựng và đề xuất phương án chính sách, người thiết kế chính sách cần xuất phát từ quan điểm hệ thống để phân tích tổng hợp đối với phương án chính sách, cần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích chỉnh thể và lợi ích bộ phận, giữa điều kiện bên trong và điều kiện bên ngoài, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa mục tiêu chủ yếu và mục tiêu thứ yếu. Đặc biệt, nguyên tắc hệ thống còn yêu cầu, người thiết kế chính sách cần thấy được mối quan hệ và sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các chính sách, hạn chế tình trạng xung đột chính sách;

- Đảm bảo đồng bộ: Với chính sách chung khi xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp[2]; thống nhất của hệ thống pháp luật hiện hành; phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế;

- Đảm bảo dự báo khoa học và phù hợp với điều kiện phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước: Việc thiết kế và đề xuất phương án chính sách cần phù hợp với thực tế hiện tại và đặt nó trong xu thế vận động, nhu cầu của tương lai và hội nhập quốc tế;

- Đảm bảo tính khả thi: Việc đề xuất và thiết kế phương án chính sách cần phân tích một cách toàn diện để xác định có khả thi hay không, nhất là với điều kiện và nguồn lực hiện tại, có thực hiện được hay không, hiệu quả có đảm bảo hay không;

-  Đảm bảo dân chủ: Việc thiết kế và đề xuất bất cứ phương án chính sách nào cần phải xem liệu có lợi cho lợi ích công hay không, có phản ánh thật sự nhu cầu và lợi ích của người dân hay không. Nguyên tắc dân chủ còn yêu cầu việc thiết kế phương án chính sách cần công khai, minh bạch, cần đảm bảo sự tham gia của những đối tượng liên quan đối với quá trình này, nhất là phát huy vai trò và sự tham gia của các tổ chức tư vấn chính sách;

- Đảm bảo sự lãnh đạo và đúng với đường lối chính, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.

1.3. Tiêu chí đánh giá, các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và hiệu quả công tác thi hành án dân sự

1.3.1. Tiêu chí đánh giá, các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự

1.3.1.1. Tiêu chí đánh giá

Theo Từ điển tiếng Việt, tiêu chí là “tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật, một khái niệm[3]. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa hiệu quả là “kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ đợi và hướng tới[4]. Theo đó, có thể cho rằng tiêu chí đánh giá việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về THADS là những tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết mức độ đạt được mục tiêu, mục đích của việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về THADS. Các tiêu chí này bao gồm:

- Sự phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước

Xây dựng pháp luật là một trong những nhiệm vụ thực hiện 3 đột phá chiến lược được Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra, trong đó có đột phá về thể chế. Việc xây dựng pháp luật phải căn cứ các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và căn cứ, bám sát thực tiễn. Pháp luật phải phát huy được dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

- Tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật; tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên

Nội dung này đòi hỏi hệ thống pháp luật THADS không được trái Hiến pháp cũng như không được mâu thuẫn với các văn bản pháp luật có liên quan, với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Sự tương thích giữa các văn bản pháp luật sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong việc thực hiện và áp dụng pháp luật, ngược lại sự không tương thích, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật sẽ gây khó khăn cho quá trình thực hiện, áp dụng pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, pháp nhân không được bảo vệ.

- Sự cần thiết, tính hợp lý, khả thi

Các quy định của pháp luật được ban hành phải thực sự cần thiết, hợp lý, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước, với thực tiễn đời sống và phải có khả năng thực hiện được trên thực tế. Đây là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thiện về pháp luật về THADS.

 1.3.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng

- Bản chất của THADS

Xác định đúng bản chất của THADS sẽ là cơ sở, là nguyên tắc xuyên suốt, chỉ đạo cho việc xây dựng pháp luật về THADS, xác định được đúng vị trí, vai trò của Chấp hành viên, cơ quan THADS, các đương sự và mối quan hệ của những chủ thể này trong hoạt động THADS.

- Tổ chức bộ máy của hệ thống THADS

Hiện nay trên thế giới, tuỳ theo đặc điểm chính trị, môi trường pháp lý, điều kiện kinh tế – xã hội mà mỗi quốc gia có mô hình tổ chức THADS khác nhau; có thể là hình thức thi hành án công, thi hành án bán công và thi hành án tư nhân. Hiện nay, Việt Nam đang tồn tại song song hai mô hình THADS, đó là hệ thống cơ quan THADS và Thừa phát lại cùng thực hiện nhiệm vụ tổ chức THADS. Với xu thế của thế giới là xã hội hóa THADS thì 2 mô hình của nước ta cần có nghiên cứu, đánh giá toàn diện để lựa chọn theo mô hình nào. Việc lựa chọn mô hình tổ chức THADS sẽ quyết định đến việc tổ chức bộ máy. Nếu lựa chọn đúng và ban hành các quy định, quy tắc phù hợp được thiết lập đồng bộ sẽ ảnh hưởng đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về THADS.

1.3.2. Tiêu chí đánh giá, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác thi hành án dân sự

1.3.2.1. Tiêu chí đánh giá

Hiệu quả công tác THADS là thước đo quan trọng đánh giá tính nghiêm minh của pháp luật; sự công bằng, kịp thời, khách quan của cơ quan nhà nước, cá nhân, tổ chức liên quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Nhà nước. Để đánh giá toàn diện, khách quan hiệu quả công tác THADS cần phải dựa trên những tiêu chí cụ thể.

- Số lượng bản án, quyết định của Tòa án được thi hành xong thông qua cơ quan THADS

Do phần lớn đối tượng của THADS là nghĩa vụ về tài sản nên hoạt động THADS không thể coi là hiệu quả khi số lượng bản án, quyết định của Tòa án được tổ chức thi hành xong đạt thấp. Số lượng này liên quan đến số “lượng việc” và “lượng tiền” đã thu được đạt tỷ lệ bao nhiêu. Có thể số việc thi hành xong đạt cao nhưng số tiền thu được theo bản án, quyết định lại đạt thấp thì hiệu quả cũng chưa đạt yêu cầu. Đây là tiêu chí định lượng quan trọng khi đánh giá hiệu quả hoạt động THADS. Thực tiễn cho thấy, tiêu chí này còn phụ thuộc vào việc đương sự có điều kiện thi hành án hay không? Khi người phải thi hành án không còn bất kỳ tài sản nào khác thì việc đánh giá hiệu quả trên cơ sở số lượng thu hồi tài sản cần cân nhắc.

- Chi phí để tổ chức thi hành xong vụ việc thấp

Khi nói đến chi phí để tổ chức thi hành án gồm: về nguồn lực (con người, cơ sở vật chất), kinh phí tổ chức thi hành án (chi phí xác minh, xác định tài sản, cưỡng chế). Để hạn chế các chi phí thấp nhất liên quan đến việc giáo dục, thuyết phục để đương sự tự nguyện thi hành án tránh việc phải bỏ ra lượng kinh phí lớn để cưỡng chế buộc thực hiện; xác minh điều kiện về tài sản của đương sự nhanh chóng, thuận lợi… Như vậy, để xác định việc THADS đạt hiệu quả hay không phụ thuộc vào việc chi phí thấp để tổ chức thi hành án. Một việc thi hành án thu tài sản đạt thấp nhưng số kinh phí bỏ ra lớn hơn số thu được là chưa hiệu quả. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận ở khía cạnh để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật thì khi cần phải chi phí lớn để buộc đương sự thực hiện nghĩa vụ cũng là việc phải thực hiện.

- Thời gian tổ chức thi hành án ngắn

Khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực thi hành, về nguyên tắc các bên đương sự có trách nhiệm thi hành trong thời hạn do pháp luật quy định. Thời hạn đó bao gồm thời hạn tự nguyện thi hành án và thời hạn thực hiện các trình tự, thủ tục trong quá trình tổ chức thi hành án do Luật THADS và pháp luật khác liên quan quy định.

 Việc bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực được thi hành kịp thời, trong thời hạn pháp luật quy định không chỉ thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật mà còn kịp thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cá nhân, tổ chức, Nhà nước trên thực tế. Vì vậy, đây là tiêu chí quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động THADS trên thực tế.

- Mức độ hài lòng của người dân đối với kết quả thi hành bản án, quyết định của Tòa án

Việc Tòa án ban hành các bản án, quyết định là kết quả giải quyết xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ của đương sự. Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được tổ chức thi hành dứt điểm, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cá nhân, tổ chức, nhà nước có liên quan sẽ mang đến sự hài lòng của họ đối với cơ quan, đơn vị tổ chức thi hành bán án, quyết định đó. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thi hành án, khi đương sự không tự nguyện thi hành thì phải sử dụng quyền lực nhà nước để cưỡng chế thi hành dẫn đến xung đột trực tiếp về lợi ích nên thường phát sinh khiếu nại, tố cáo. Khiếu nại, tố cáo có thể đúng có thể sai. Tuy nhiên, về mặt định tính, mức độ hài lòng của người dân về kết quả THADS một phần thể hiện thông qua việc ít có khiếu nại, tố cáo; đồng thời, còn phụ thuộc vào nhận thức, trình độ hiểu biết pháp luật của tổ chức, cá nhân, công dân.

1.3.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng

- Chất lượng xét xử của Tòa án

Thi hành án là hoạt động đưa các phán quyết của bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành trên thực tế; đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, công lý được thực thi; đồng thời, còn kiểm tra tính chính xác, có căn cứ, phù hợp với thực tế khách quan của vụ án. Do đó, chất lượng của hoạt động xét xử là yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả hoạt động THADS. Một bản án khi xét xử được xem xét khách quan, toàn diện; nội dung tuyên rõ ràng, đúng pháp luật, thấu lý, đạt tình và bảo đảm tính khả thi là những điều kiện bảo đảm cho việc tổ chức thi hành bản án được thuận lợi và hiệu quả. Ngược lại, một bản án, quyết định nếu tuyên không rõ (về quyền và nghĩa vụ, đặc điểm tài sản, những vấn đề liên quan đến đối tượng tranh chấp...), hoặc tuyên không khả thi, khó tổ chức thi hành trên thực tiễn sẽ dẫn đến không thể tổ chức thi hành án hoặc kéo dài thời gian tổ chức thi hành án (do phải làm rõ những vướng mắc tại bản án, quyết định hoặc đương sự do chưa đảm bảo quyền lợi dẫn đến có hành vi chống đối quyết liệt...).

- Nguồn lực bảo đảm cho công tác THADS

Nguồn lực bảo đảm cho công tác THADS là các yếu tố, điều kiện cần thiết cho tổ chức và hoạt động THADS. Nguồn lực đó bao gồm: Nguồn lực chính trị, tài chính (vật lực), thể chế, con người (nguồn nhân lực), thông tin... Nguồn lực bảo đảm cho các hoạt động THADS có đầy đủ hay không cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác THADS. Ngay cả khi các quy định của pháp luật về công tác THADS được ban hành rất phù hợp, rõ ràng, cụ thể, nhưng nếu cơ quan đơn vị tổ chức THADS, thiếu nguồn lực cần thiết để thực thi thì kết quả của công tác THADS khó đạt được mục tiêu như mong muốn. Vì thế, bảo đảm nguồn lực cho công tác THADS là yếu tố không thể thiếu để thực hiện có hiệu quả công tác THADS.

- Sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan

Công tác THADS là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền về tài sản và nhân thân của các bên đương sự. Để giải quyết việc thi hành án, cơ quan THADS phải tiến hành nhiều thủ tục như: tống đạt, xác minh, áp dụng các biện pháp đảm bảo, biện pháp cưỡng chế thi hành án… Vì thế, cơ quan THADS không thể tự mình thực hiện được các công việc thi hành án, mà cần có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan. Đặc biệt, trong trường hợp tiến hành cưỡng chế thi hành án, thì tùy vào tính chất và mức độ phức tạp của vụ việc mà có thể phải cần đến sự phối hợp, hỗ trợ cùng một lúc của nhiều cơ quan, tổ chức như VKSND, cơ quan Công an, UBND cùng cấp, các cơ quan chuyên môn khác... Do đó, việc phối hợp tốt với các cơ quan, tổ chức, ban, ngành liên quan trong THADS là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của công tác THADS.

- Nhận thức của cá nhân, cơ quan, tổ chức, xã hội về hoạt động THADS

Nhận thức của cá nhân, cơ quan, tổ chức, xã hội về hoạt động THADS là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động THADS. Ý thức này không chỉ của các đương sự (bao gồm người được thi hành án, người phải thi hành án), những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, mà còn của cả những cơ quan, tổ chức có trách nhiệm cung cấp thông tin, phối hợp với cơ quan THADS trong quá trình tổ chức thi hành án; của các cơ quan báo chí, truyền thông... Chỉ khi nâng cao được nhận thức của tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân và của cả xã hội đối với công tác THADS thì mới đảm bảo chất lượng, hiệu quả của công tác này.

1.4. Kinh nghiệm quốc tế về thi hành án dân sự và một số vấn đề gợi mở cho Việt Nam

Trong phạm vi Đề tài, Ban chủ nhiệm nghiên cứu, phân tích một số mô hình và trình tự, thủ tục THADS tiêu biểu, qua đó nhằm gợi mở, tham khảo cho Việt Nam trong tiến trình cải cách tư pháp nói chung và tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tổ chức THADS ở Việt Nam trong thời gian tới.

1.4.1. Về mô hình tổ chức thi hành án

Hiện nay, trên thế giới, tuỳ theo đặc điểm truyền thống, môi trường pháp lý, điều kiện kinh tế - xã hội ở từng nước, mà cơ quan THADS có thể được tổ chức theo các mô hình khác nhau.

1.4.1.1. Mô hình thi hành án dân sự công

Mô hình THADS công là mô hình tổ chức thi hành án bao gồm hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, các Chấp hành viên là công chức, viên chức, hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.

Mô hình THADS công này được tổ chức ở hầu hết các quốc gia thuộc khu vực CIS và hai quốc gia thuộc khu vực SEE (Croatia, Bosnia và Herzegovina). Đây là mô hình THADS thường tạo được niềm tin ở công chúng, tổ chức thống nhất và chi phí dịch vụ thấp. Ngoài ra, xét về khía cạnh lịch sử, quyền lực thi hành án thường được trao cho cơ quan nhà nước, chủ yếu là hệ thống tòa án với tư cách là cơ quan xét xử, sau đó tổ chức thi hành bản án, quyết định do mình ban hành là nhiệm vụ vốn có trước đây của hệ thống tòa án khi mà công tác chuyên môn hóa công việc của tòa án chưa được phát triển. Ưu điểm khác nữa đó là hệ thống THADS công có mặt tích cực, tạo nên sự hấp dẫn đối với những nhà hoạch định chính sách. Mô hình THADS công phổ biến ở hai hình thức: do cơ quan hành chính thuộc nhánh hành pháp của chính phủ đảm nhiệm hoặc do tòa án thuộc nhánh cơ quan tư pháp đảm nhiệm[5].

Cơ quan thi hành án nằm trong cơ cấu tổ chức của Toà án như Indonesia, Singapore, Đức,…: Chấp hành viên là công chức đặt tại Toà án do Chánh án hoặc Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Toàn bộ hoạt động thi hành án đặt dưới sự giám sát, chỉ đạo của Chánh án Toà án địa phương hoặc Thẩm phán thi hành án. Mặc dù vậy, hoạt động thi hành án được tiến hành theo một thủ tục chặt chẽ và chỉ do Chấp hành viên tiến hành theo quy định của pháp luật.

Các cơ quan thi hành án thuộc cơ quan hành pháp như là Nga, Thụy Điển, Thái Lan,…mô hình tổ chức THADS công, độc lập, tạo thành một hệ thống từ trung ương đến khu vực đặt dưới quản lý của Hội đồng thuế quốc gia (Thụy Điển); hoặc Cục thi hành án thuộc Bộ Tư pháp Liên bang (Nga - quản lý cả THADS và thi hành ánHS);...

a) Thi hành án dân sự do Tòa án đảm nhiệm

- Indonesia: Luật Indonesia không quy định bất kỳ cơ quan thi hành án cụ thể hoặc riêng biệt nào. Việc thi hành các quyết định của tòa án thuộc trách nhiệm của tòa án trong các vụ án dân sự. Indonesia có hai Bộ luật Tố tụng Dân sự - Herziene Indonesisch Reglement (HIR, áp dụng ở Java và Madura) và Reglement Buitengewesten (RBg, có hiệu lực trong phần còn lại của Indonesia)[6]. Theo luật pháp Indonesia, sau khi ra bản án/quyết định, Tòa án sẽ thực hiện quá trình thi hành án. Trong các vụ án dân sự, chánh án tòa án quận đã xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm có trách nhiệm thi hành bản án. Do đó, một Tòa án quận cụ thể sẽ có trách nhiệm thi hành bất kỳ bản án phúc thẩm hay phá án của tòa án tối cao (đối với phán quyết của mình). Bên thắng kiện trong một vụ án có thể đến tòa án quận và đề nghị tòa ra lệnh thi hành án. Thư ký tòa án (panitera) hoặc Chấp hành viên (juru sita) phải bảo đảm việc tuân thủ đúng lệnh thi hành án của chánh án. Ở mỗi tòa án cấp huyện đều có Chấp hành viên là người chịu trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án/quyết định của tòa án. Khi cần thiết thì Chấp hành viên có thể tổ chức cưỡng chế (với sự hỗ trợ của cảnh sát)[7].

Mặc dù từ năm 2001, xã hội hóa hoạt động THADS với xu hướng thành lập tổ chức thi hành án tư nhân đã được giới thiệu ở Inđônêxia - kinh nghiệm của Phần Lan và Hungary, tuy nhiên đề xuất này chưa được chấp nhận[8].

- Singapore: Hệ thống tổ chức Tòa án ở Singapore gồm Tòa án tối cao và Tòa cấp dưới. Ở Tòa án tối cao và Tòa cấp dưới có bộ phận thi hành án[9]. Nhân viên thi hành án vừa có nhiệm vụ thi hành án, vừa có nhiệm vụ tống đạt giấy tờ, thực hiện các lệnh bắt giữ. Nhân viên thi hành án của Tòa án nào thì thi hành bản án của Tòa án đó. Nhân viên thi hành án của Toà cấp dưới không có quyền bắt giữ tàu biển và thi hành các bản án mà giá trị lên đến 250.000 đô la Singapore; những bản án loại này do nhân viên thi hành án Toà Tối cao thi hành. Nhân viên thi hành án phải thi hành đúng luật, công khai, không được tham nhũng. Trường hợp có hành vi tiêu cực sẽ bị xử lý theo pháp luật, bị chuyển làm việc khác. Ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ một phần cho hoạt động thi hành án, chủ yếu là việc trả lương cho Chấp hành viên, Thẩm phán thi hành án nếu đó là thiết chế thuộc bộ máy nhà nước. Các chi phí cưỡng chế thi hành án thì người phải thi hành án phải chịu, trường hợp tài sản của người phải thi hành án không đủ thì có thể do người được thi hành án chịu.

Về thủ tục THADS: khi có bản án, người được thi hành đến gặp người phải thi hành để xem xét khả năng thi hành của họ và yêu cầu họ phải thi hành. Nếu người phải thi hành án không thi hành, người được thi hành án muốn được thi hành phải có đơn yêu cầu thi hành án (theo mẫu in sẵn) gửi Toà án. Bên cạnh đó, người được thi hành án hoặc luật sư đại diện phải trực tiếp chỉ cho nhân viên thi hành án những tài sản mà người phải thi hành án phải trả cho người được thi hành án, hoặc trong trường hợp thi hành các bản án về trả tiền thì chỉ cho nhân viên thi hành án những tài sản của người phải thi hành án để nhân viên thi hành án kiểm kê, dán niêm phong hoặc chuyển giao tài sản cho người khác giữ.[10]

- Tây Ban Nha: Thẩm phán Tòa án với tư cách là người ra quyết định, bản án có trách nhiệm tổ chức thi hành bản án, quyết định do mình ban hành. Theo đó, thẩm quyền thi hành án của Tòa án Tây Ban Nha không được quyết định bởi nơi cư trú của người phải thi hành án cũng như nơi có tài sản của người phải thi hành án mà nhìn chung bởi thẩm quyền của người đứng đầu cơ quan tài phán. Vì vậy, hệ thống THADS ở Tây Ban Nha phụ thuộc vào sự phối hợp về mặt tư pháp giữa các Cơ quan Tòa án khác nhau. Ở đây, thẩm phán là người có trách nhiệm chính và đầu tiên trong việc thi hành bản án trên cơ sở yêu cầu của người được thi hành án. Ở các hệ thống theo khuynh hướng Tòa án phụ trách việc thi hành án thì việc thu giữ tài sản là động sản được thực hiện bởi Chấp hành viên là công chức nhà nước được tuyển dụng bởi Tòa án. Những người này liên hệ trực tiếp với người phải thi hành án để thực hiện việc đàm phán, thỏa thuận hòa giải về các khoản phải thi hành án và việc đàm phán này có thể đặt dưới sự giám sát của Tòa án. Tuy nhiên, hoạt động này của Chấp hành viên được kiểm soát rất chặt chẽ và khắt khe bởi Tòa án[11].

b) Thi hành án dân sự do cơ quan hành pháp đảm nhiệm

- Thái Lan:

THADS của Thái Lan do Vụ thi hành án (Legal Execution Department) – trực thuộc Bộ Tư pháp quản lý và đảm bảo sự hoạt động hữu hiệu của tất cả các Tòa án (kể cả Tòa án tối cao). Ngoài ra, Bộ tư pháp còn chịu trách nhiệm về cải cách pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực thực tiễn pháp luật và thủ tục tố tụng. Về chức năng nhiệm vụ, Vụ thi hành án chịu trách nhiệm thi hành các bản án và quyết định của trọng tài trong các vụ kiện dân sự và phá sản.

- Thụy Điển:

Hệ thống THADS đặt dưới sự quản lý, điều hành của cơ quan hành pháp, hoạt động độc lập ngoài hệ thống của Tòa án. Cơ sở pháp lý chính cho hoạt động thi hành án là Bộ luật thi hành án có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1982. Từ năm 2006, tổ chức hệ thống thi hành án đã thay đổi, các cơ quan thi hành án đã sáp nhập làm một và đặt dưới sự quản lý của Hội đồng thuế của nhà nước. Đến năm 2008, cơ quan thi hành án đã trở thành cơ quan độc lập. Kể từ thời điểm đó, Hội đồng thuế quốc gia là cơ quan trung ương có thẩm quyền quản lý thi hành án với một cơ quan đặc biệt quản lý hoạt động thi hành án. Cơ quan này còn có chức năng giám sát quản lý việc phá sản. Họ bảo đảm rằng việc quản lý tài sản phá sản được thực hiện một cách hợp lý và phù hợp với luật phá sản và những luật khác[12]. Cơ quan quản lý thi hành án ở Thụy Điển có tên gọi “Kronofogdemyndigheten” là một cơ quan thuộc Chính phủ giải quyết tất cả các hoạt động thi hành án ở Thụy Điển. Cơ quan quản lý thi hành án ở Thụy Điển là một tổ chức duy nhất ở Thụy Điển được trao quyền rút tiền từ tài khoản ngân hàng của người phải thi hành án và nếu cần thiết có thể vào nhà và công ty của người phải thi hành án để thi hành các yêu cầu về tài sản. Cơ quan này cũng có quyền khấu trừ trực tiếp tiền từ thu nhập của người phải thi hành án.

Các khoản nộp thuế có thủ tục đặc biệt, đó là người phải thi hành án phải thanh toán trong một khoảng thời gian đã ấn định cho dù người phải thi hành án cho rằng số thuế họ phải nộp là chưa chính xác. Cơ quan quản lý thi hành án sẽ xác nhận số tiền, theo đó, nếu những yêu cầu về thuế không chính xác, tiền đã nộp sẽ được hoàn lại. Cơ quan quản lý thi hành án cho phép người phải thi hành án được giữ lại một số tiền cần thiết để hỗ trợ người phải thi hành án và bất kỳ người phụ thuộc nào. Nhà ở của người phải thi hành án cũng có thể được bán bởi cơ quan quản lý thi hành án. Tất cả người phải thi hành án được ghi chép lại tại bộ phận đăng ký công của cơ quan quản lý thi hành án trong thời hạn 3 năm sau khi các khoản phải thi hành đã được thực hiện. Điều này gây bất lợi cho người phải thi hành án để có thể tiếp cận bất kỳ khoản tín dụng nào trong khoảng thời gian này[13]. Thụy Điển không có đạo luật riêng quy định về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống thi hành án. Do đó, về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý thi hành án và nhân viên thi hành án được tổng hợp từ các quy định tại các điều của Bộ luật thi hành án Thụy Điển năm 1982[14].

- Cộng hòa Liên bang Nga[15]:

Cục thi hành án liên bang được tổ chức theo Luật liên bang về Chấp hành viên tòa án ngày 21/7/1997 và Quy chế Cục thi hành án liên bang được phê chuẩn theo sắc lệnh của Tổng thống Liên bang Nga ngày 13/10/2004 (đã được sửa đổi, bổ sung). Ở địa phương có các Cơ quan thi hành án địa phương (có 83 cơ quan).

Cục thi hành án liên bang do Chấp hành viên trưởng Liên bang Nga đứng đầu, là người được Tổng thống Liên bang Nga bổ nhiệm và miễn nhiệm. Chấp hành viên trưởng cũng quy định trình tự thủ tục bổ nhiệm và miễn nhiệm các Chấp hành viên khác.

Cục thi hành án liên bang được giao nhiệm vụ bảo đảm trật tự tại Tòa án, thi hành văn bản thi hành án, áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác theo quy định của pháp luật và quyết định thi hành án; tổ chức việc kê biên và bán tài sản kê biên; truy tìm con nợ và tài sản của họ; tham gia vào việc bảo vệ lợi ích của Liên bang Nga với tư cách chủ nợ trong các vụ việc và vụ kiện phá sản; tham gia thực hiện quyết định của các ủy ban giải quyết tranh chấp lao động; hướng dẫn và giám sát hoạt động của các cơ quan thi hành án địa phương thuộc Cục thi hành án liên bang; lập và duy trì ngân hàng dữ liệu về công tác thi hành án và các nhiệm vụ tương tự khác.

Đội ngũ Chấp hành viên được tổ chức thành hai bộ phận: Bộ phận thứ nhất thực hiện chức năng bảo đảm an ninh trật tự tại Tòa án và bộ phận thứ hai chịu trách nhiệm thi hành bản án và quyết định khác của Tòa án (Luật liên bang về Chấp hành viên).

Để thực thi các quyền hạn được giao, Cục thi hành án liên bang có quyền yêu cầu các cơ quan quyền lực nhà nước liên bang, các cơ quan quyền lực nhà nước của các chủ thể thuộc Liên bang Nga, các cơ quan tự quản địa phương và các tổ chức bất kể có hình thức tổ chức về pháp lý như thế nào cung cấp (cũng như nhận lại) chứng từ, tài liệu, hồ sơ khác cần thiết để giúp quyết định các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của mình. Cục thi hành án liên bang thực hiện việc phối hợp hoạt động liên ngành với các cơ quan và tổ chức thi hành các yêu cầu của bản án và quyết định các cơ quan và công chức khác trong các trường hợp do luật pháp Nga quy định. Khi thực hiện chức năng bảo vệ tại trụ sở Tòa án, Cục thi hành án liên bang có thể yêu cầu sự hỗ trợ của cán bộ các cơ quan nội vụ, cơ quan quản lý di trú, các cơ quan của Cục an ninh liên bang, cơ quan ứng phó tình trạng khẩn cấp và các cơ quan khác.

Cục thi hành án liên bang có quyền phối hợp hành động với các cơ quan quyền lực nhà nước của nước ngoài và các tổ chức quốc tế về những vấn đề thuộc thẩm quyền của Cục thi hành án liên bang.

Bộ Tư pháp Liên bang Nga chịu trách nhiệm về việc phối hợp và giám sát hoạt động của Cụ thi hành án liên bang và thực hiện các chức năng liên quan đến việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động của Cục thi hành án liên bang. Đối với lực lượng Chấp hành viên làm nhiệm vụ bảo vệ thì cơ quan giám sát là tòa án mà các Chấp hành viên đó trực thuộc. Khiếu nại về hành vi của Chấp hành viên do tòa án giải quyết trong các trường hợp do pháp luật quy định.

1.4.1.2. Mô hình thi hành án dân sự bán công

Đây là mô hình vừa do công chức thực hiện đối với một số việc thi hành án nhất định như thu thuế, thi hành án đối với bất động sản và quyền tài sản, tịch thu tài sản sung công quỹ, phạt tiền…, vừa do viên chức thừa hành đảm nhiệm phần lớn các công việc THADS trên nguyên tắc tự lấy thu bù đắp chi phí thi hành án. Tương tự như tổ chức thi hành án công, tổ chức thi hành án bán công cũng có thể nằm trong cơ cấu tổ chức của Toà án hoặc thuộc các cơ quan hành chính. Điển hình như Áo, Thuỵ Sỹ…

Tại Áo, các trợ lý tòa án là một trụ cột quan trọng của hệ thống tư pháp. Có khoảng 700 trợ lý toà án đăng ký, và hiện nay họ chịu trách nhiệm tổ chức thi hành khoảng ba phần tư các bản án, quyết định của tòa án.

Trợ lý tòa án là các công chức tòa án được đào tạo đặc biệt và được giao việc xử lý các công việc cụ thể trong phạm vi các vấn đề dân sự sơ thẩm trên cơ sở Đạo luật Hiến pháp Áo và Luật Trợ lý Tòa án Áo. Ở chức năng này, trợ lý tòa án chỉ bị ràng buộc bởi sự quản lý và hướng dẫn của thẩm phán.

Phần lớn các vấn đề thi hành cũng được xử lý bởi các Trợ lý tòa án; chỉ có các thủ tục tố tụng đặc biệt khó khăn (như thi hành đối với bất động sản hoặc các thủ tục xử lý nợ nêu trên liên quan đến tài sản hơn €50000) được dành riêng cho các thẩm phán.

Trong các vấn đề bất động sản và giám hộ tài sản hình thành nên một phần của thủ tục không gây tranh cãi, trong thủ tục tố tụng rút gọn cho lệnh yêu cầu trả nợ và cuối cùng cũng trong các vấn đề đăng ký công ty, phạm vi hoạt động của trợ lý tòa án cũng rất rộng. Theo đó, các vấn đề bất động sản, trong đó tài sản không vượt quá €100000 được xử lý bởi trợ lý tòa án, cũng như các thủ tục tố tụng người giám hộ tài sản trong đó tài sản đặt dưới sự giám hộ không vượt quá €100000. Ngoài ra, trợ lý toà án còn thực hiện các nhiệm vụ khác như đăng ký đất đai, tầu biển…

Trợ lý Toà án do Chánh án toà án khu vực cấp cao bổ nhiệm với các điều kiện bổ nhiệm chặt chẽ (thời gian kinh nghiệm, tốt nghiệp khoá đào tạo do Bộ Tư pháp tổ chức….).

1.4.1.3. Mô hình thi hành án do Thừa phát lại thực hiện

Thừa phát lại do Nhà nước bổ nhiệm, là người hành nghề theo quy chế tự do, nhà nước không trả lương mà hưởng thù lao do luật định. Thừa phát lại vừa thực hiện chức năng công quyền theo luật định (chức năng độc quyền), vừa thực hiện chức năng không độc quyền (lập các văn bản, thu hồi nợ, làm đại diện…) và chức năng trợ giúp khác cho người được thi hành án. Các nước có tổ chức thi hành án tư nhân như: Canada, Bỉ, Hà Lan, Lux-Xem-bourg, Hungary...

- Hungary:

Các biện pháp thi hành án được thực hiện bởi Thừa phát lại (Thừa phát lại tòa án độc lập và Thừa phát lại tòa án hạt[16]).

Theo nguyên tắc chung, các yêu cầu trong các quyết định của Tòa án (bírósági határozat) trong các vụ dân sự được thi hành bởi Thừa phát lại tòa án độc lập. Thừa phát lại tòa án độc lập được chỉ định bởi Bộ trưởng Tư pháp để tham gia vào một tòa án địa phương (helyi bíróság) trong phạm vi thẩm quyền nhất định.

Thừa phát lại tòa án độc lập không làm việc cho Nhà Nước; thu nhập của họ do các khách hàng trả như là sự xem xét cho công việc của họ.

Phạm vi các hoạt động của họ như sau: Việc thi hành dựa trên một giấy chứng nhận thi hành (végrehajtási lap) do tòa án cấp; Việc thi hành dựa trên một lệnh thi hành (végrehajtási záradék) do tòa án ban hành; Việc thi hành dựa trên một lệnh tư pháp hoặc hạn chế thực thi, hoặc lệnh chuyển giao (végrehajtást elrendelő, letiltó, átutalási végzés), hoặc hơn nữa, một sắc lệnh thông báo tư pháp trực tiếp (közvetlen bírósági felhívás).

Thừa phát lại tòa án hạt hoạt động tại các tòa án hạt và tòa án thủ đô (Fővárosi Bíróság). Một Thừa phát lại tòa án hạt sẽ được bổ nhiệm bởi Chánh án tòa án hạt cho một khoảng thời gian không xác định, nhằm phục vụ cho một tòa án hạt cụ thể. Một đề nghị cho vị trí Thừa phát lại tòa án hạt sẽ được chánh tòa án hạt công bố. Thừa phát lại tòa án hạt là một vị trí ở tòa án làm việc cho tòa án hạt, nhận lợi ích dựa trên mối quan hệ lao động này.

Thừa phát lại tòa án hạt sẽ thi hành “các yêu cầu tư pháp” (khi người có yêu cầu hợp pháp là Nhà nước); các yêu cầu tư pháp là các chi phí của các thủ tục tố tụng hình dân sự hoặc hình sự được nhà nước trả trước. Việc thu hồi các chi phí của một thủ tục hình sự, việc tịch thu tài sản và các hình phạt có tính chất bằng tiền là công việc của thừ phát lại tòa án hạt. Khoản hỗ trợ trẻ em được tòa án ứng trước cũng đủ điều kiện là các yêu cầu tư pháp và việc thi hành chúng cũng thuộc phạm vi của các Thừa phát lại tòa án hạt. Ngoài ra, các Thừa phát lại tòa án hạt cũng thi hành, nếu người có yêu cầu hợp pháp là tòa án, Hội đồng Tư pháp Quốc gia, Văn phòng Hội đồng Tư pháp Quốc gia, Bộ Tư pháp và Thi hành Pháp luật Nhà nước.

- Macedonia[17]

Trước đây, hệ thống THADS ở nước Cộng hòa Macedonia theo mô hình công trực thuộc sự quản lý và tổ chức thi hành bởi tòa án, do thẩm phán và thư ký tòa án thực hiện. Sau một vài lần thực hiện cải cách trong trong lĩnh vực THADS thì hiệu quả, chất lượng không được cải thiện, số việc phải thi hành càng ngày càng tăng, gây áp lực lên hệ thống tòa án, trình tự, thủ tục thì phức tạp, kéo dài. Trước thực tiễn đó, Chính phủ nước Cộng hòa Macedonia đã quyết định thực hiện cuộc cải cách lớn, chuyển đổi từ mô hình thi hành án công do tòa án đảm nhiệm sang mô hình thi hành án tư nhân do Thừa phát lại đảm nhiệm theo quy định của Luật thi hành án năm 2006. Đây cũng là khuynh hướng chuyển đổi chung về mô hình THADS ở nhiều nước châu Âu.

Ở Macedonia, Thừa phát lại có vai trò đặc biệt quan trọng và quyết định trong hệ thống THADS. Thừa phát lại được bổ nhiệm bởi Bộ trưởng Bộ Tư pháp để hành nghề ở tòa án sơ thẩm cấp quận và thi hành những bản án trong phạm vi lãnh thổ xét xử của tòa án này và các bản án của các tòa án khác trên địa bàn. Tuy nhiên, thẩm quyền của nhân viên thi hành án không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ của tòa án nơi họ được bổ nhiệm mà trong quá trình thi hành án họ được hoạt động trên toàn phạm vi lãnh thổ Macedonia[18]. Số lượng Thừa phát lại tùy thuộc vào số lượng việc thi hành án. Thừa phát lại được xem như là một nghề pháp lý với địa vị xã hội cao. Họ là người được đào tạo bài bản, có bằng cử nhân luật, có kinh nghiệm thi hành án phù hợp và được lựa chọn khắt khe thông qua kỳ thi lựa chọn Thừa phát lại, có sức khỏe tốt, đã tốt nghiệp khóa đào tạo luật sư với 04 năm nghiên cứu pháp luật, có ít nhất 5 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật hoặc ít nhất 3 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thi hành án… 

Thừa phát lại có nhiệm vụ tổ chức thi hành bản án, quyết định của tòa án được quy định tại Luật thi hành án 2006 và tại Quyết định số 185/2006 ngày 17/01/2007 của Giám đốc Tòa án Hiến pháp nước Cộng hòa Macedonia. Thừa phát lại có quyền thực hiện các hành động nhằm buộc phải thi hành quyết định của tòa án để buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ của họ. Quy định của luật này cũng áp dụng đối với việc cưỡng chế thi hành quyết định được ban hành trong thủ tục hành chính được ban hành để thực hiện nghĩa vụ bằng tiền, trừ khi có quy định khác của luật khác, và cũng được áp dụng trong việc thi hành đối với tàu biển và máy bay. Thực hiện việc cưỡng chế với sự cho phép của Chánh án tòa án sơ thẩm cấp huyện trên phạm vi lãnh thổ thuộc thẩm quyền cưỡng chế được thực hiện của Thừa phát lại.

1.4.1.4. Mô hình hỗn hợp

- Việt Nam

Việt Nam là một trong số ít quốc gia duy trì mô hình này, mô hình có sự đan xen giữa mô hình tổ chức thi hành án công và chế định Thừa phát lại[19].

Mô hình tổ chức THADS tại Việt Nam là mô hình công, độc lập, tạo thành một hệ thống từ Trung ương đến địa phương. Chấp hành viên cơ quan thi hành án đều hưởng lương như công chức, tổ chức và hoạt động thi hành án bằng nguồn ngân sách nhà nước.

Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, việc tái lập thành công chế định Thừa phát lại tại Việt Nam trong những năm qua cho thấy chủ trương xã hội hóa các hoạt động bổ trợ tư pháp, THADS theo các mục tiêu cải cách tư pháp ở nước ta là đúng đắn, phù hợp với xu hướng chung trên thế giới về phát triển nghề Thừa phát lại, đặc biệt là xu hướng của các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Thừa phát lại còn có tác dụng hỗ trợ hoạt động cho các cơ quan tư pháp nhằm bảo đảm thực thi công lý và những phán quyết của tòa án được thi hành đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật.

Tại Việt Nam hiện nay, Thừa phát lại thực hiện việc tống đạt hồ sơ, giấy tờ theo quy định của Tòa án phải đảm bảo thực hiện một cách nghiêm ngặt, tuân theo các biểu mẫu pháp luật quy định và sẽ do thư ký nghiệp vụ của văn phòng Thừa phát lại trực tiếp thực hiện để giao tận tay cho các đương sự. Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong trường hợp các đương sự có gửi yêu cầu đến Thừa phát lại về việc kiểm tra điều kiện thi hành án, chủ yếu là các đối tượng liên quan đến tài sản như: Nhà, đất, ô tô, xe máy, các loại giấy tờ có giá như cổ phiếu, trái phiếu…. Đồng thời, tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự theo quy định.

- Georgia[20]

Georgia là quốc gia Đông Âu, có mô hình THADS hỗn hợp tiêu biểu với sự kết hợp giữa Cục thi hành án quốc gia là cơ quan nhà nước và Thừa phát lại tư nhân đảm nhiệm công việc thi hành án. Cục thi hành án quốc gia Georgia được thành lập vào năm 2000, tiền thân là Vụ thi hành án[21]. Trước khi thành lập đã có Thừa phát lại (nay là nhân viên thi hành án). Thừa phát lại thi hành quyết định của Tòa án. Các vụ việc thi hành án giữa các Thừa phát lại được phân bổ cho các Cục thi hành án ở các quận. Georgia có 8 Cục thi hành án trên phạm vi cả nước.

Đối với các nhân viên thi hành án, họ vẫn được gọi là Thừa phát lại, nhưng địa điểm làm việc của họ là ở các Cục thi hành án. Các vụ việc thi hành án không được phân theo các loại việc khác nhau. Ngày nay, mỗi nhân viên thi hành án quản lý một số vụ việc thuộc tất cả các lĩnh vực thi hành án.

Mỗi Cục thi hành án có một người đứng đầu do Bộ Tư pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm theo giới thiệu của Cục trưởng Cục thi hành án quốc gia (trước đây là Vụ trưởng Vụ thi hành án). Để hỗ trợ cho công việc thi hành án, cảnh sát thi hành án cũng được thành lập trực thuộc Cục thi hành án quốc gia. Có một nhóm nhân viên điều tra được lựa chọn làm việc cho cơ quan cảnh sát thi hành án, chức năng của cơ quan này do Văn phòng Công tố Georgia trao cho theo quy định của pháp luật.

Vụ thi hành án được chuyển giao và đổi tên thành Cục thi hành án quốc gia từ ngày 01/10/2008 và đã trở thành một tổ chức thi hành luật công. Những thay đổi đáng kể đã bắt đầu trong hệ thống thi hành án và ngày càng trở nên minh bạch hơn. Đáp ứng yêu cầu được bảo đảm của mỗi người dân trở thành mối quan tâm và động lực trực tiếp của Cục Thi án quốc gia và các cán bộ của cơ quan này. Hệ thống được chuyển sang chế độ trả phí, cung cấp dịch vụ thi hành án nhanh chóng và hiệu quả cho khách hàng.

Vấn đề về nơi làm việc của nhân viên thi hành án cũng đã được giải quyết một phần - các văn phòng đã được sắp xếp ở Cục thi hành án quốc gia và Cục thi hành án Tbilisi (thủ đô của Georgia).

Vào tháng 6 năm 2009, các văn phòng thi hành án tư nhân được thành lập. Các hoạt động của họ được kiểm soát bởi Bộ Tư pháp như cấp giấy phép cho các cá nhân là Thừa phát lại hoạt động độc lập, với thẩm quyền và phương tiện hành nghề giống với công chức thi hành án của nhà nước, thi hành các quyết định của tòa án (chủ yếu là về các vụ việc dân sự). Các văn phòng Thừa phát lại đang phát triển và đạt được những thành công nhất định.

Từ ngày 01/10/2009, Cục thi hành án quốc gia bắt đầu sử dụng phần mềm để quản lý hồ sơ thi hành án. Kết quả là, Cục thi hành án quốc gia đã vận hành hoạt động trực tuyến. Hơn nữa, người phải thi hành án và người được thi hành án có thể nhận được thông tin chi tiết về thủ tục thi hành án trực tuyến mà không cần đến văn phòng thi hành án. Theo Luật tố tụng thi hành án của Georgia năm 2000 thì cơ quan THADS ở Georgia gồm Cục thi hành án quốc gia và các Cục thi hành án trực thuộc Bộ Tư pháp và Thừa phát lại tư nhân.

1.4.2. Về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự

1.4.2.1. Ban hành Lệnh hoặc quyết định tổ chức thi hành án

Về nguyên lý, các bản án, quyết định của Tòa án hoặc các cơ quan có thẩm quyền được ban hành mới thể hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm của bên phải thi hành án và bảo đảm quyền lợi của bên được thi hành án trong giai đoạn xét xử. Để những quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm được tuyên thực sự được đảm bảo, cần chuyển từ giai đoạn xét xử sang giai đoạn tổ chức thi hành án thông qua việc cơ quan có thẩm quyền ban hành lệnh/quyết định đưa các phán quyết ra tổ chức thi hành, đây là công cụ hữu hiệu để khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân khi bị xâm hại.

Cơ quan có thẩm quyền ban hành lệnh/quyết định thi hành án ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào mô hình tổ chức THADS tại quốc gia đó. Tuy nhiên, nhìn chung Lệnh/quyết định thi hành án có thể được phân loại thành 02 dạng do chính Tòa án xét xử hoặc do cơ quan độc lập với cơ quan xét xử trong bộ máy Nhà nước ban hành. Ví dụ:

- Tại một số quốc gia cơ quan THADS nằm trong tổ chức của Tòa án (cơ quan xét xử) như Indonesia, Singapore, sau khi ban hành các phán quyết, Tòa án sẽ ban hành các lệnh thi hành án nhằm tổ chức thi hành vụ việc và được thực hiện trực tiếp bởi bộ phận thi hành án trực thuộc Tòa. Hay Tại một số quốc gia mặc dù cơ quan THADS không nằm trong Tòa án nhưng thẩm quyền ban hành Lệnh/quyết định thi hành án vẫn do Tòa án xét xử vụ việc thực hiện, ví dụ: tại Thái Lan, trên cơ sở yêu cầu của đương sự, Tòa án sẽ ban hành lệnh thi hành án hoặc lệnh của tòa chỉ định cán bộ thi hành phụ trách việc thi hành án hoặc lệnh của tòa. Sau đó, lệnh thi hành sẽ được gửi đến Cục thi hành án trực thuộc Bộ Tư pháp Thái Lan để thi hành. Tại một số nước theo mô hình thi hành án bán công (Pháp, Cộng hòa Áo,...) hay mô hình tư nhân (Cộng Hòa Séc, Hungary,...) việc ban hành lệnh/quyết định thi hành án đều do Tòa án thực hiện.

- Tại rất ít quốc gia, thẩm quyền ban hành lệnh/quyết định thi hành án không do Tòa án mà do một cơ quan THADS độc lập với Tòa thực hiện.

Tại Việt Nam, hệ thống cơ quan THADS không nằm trong Tòa án mà được quản lý bởi Bộ Tư pháp. Trên cơ sở yêu cầu của đương sự, Thủ trưởng cơ quan THADS ban hành quyết định thi hành án mà không phải do Tòa án thực hiện. Pháp luật không quy định Tòa án có trách nhiệm ban hành quyết định thi hành án và không thể hiện sự tiếp nối để Tòa án thực thi quyền lực tư pháp như vốn có đã dẫn đến nhiều khó khăn, bất cập trong quá trình tổ chức thi hành án, bởi:

(i) Thực tế hiện nay, nhiều vụ việc Tòa án không có trách nhiệm rõ ràng theo dõi việc thi hành các bản án, quyết định của mình nên đã không thực hiện được vai trò trung tâm của hoạt động tư pháp, không nắm được các bản án, quyết định mà Tòa án đã tuyên có được chấp hành đầy đủ hay không. Pháp luật hiện hành quy định cơ quan THADS khi ra quyết định về thi hành án phải “gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp” chứ không gửi cho TAND;

(ii) Nhiều bản án, quyết định của Tòa án tuyên nội dung chưa đảm bảo khả thi, rõ ràng, dẫn đến các cách hiểu khác nhau nên khó thi hành; một số Tòa án do không thấy hết trách nhiệm của mình nên chậm trả lời hoặc không trả lời yêu cầu cơ quan THADS về giải thích bản án,...;

(iii) Các cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, truy tố, xét xử) với cơ quan thi hành án dân sự chưa có sự phối hợp tốt, nhất là trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như kê biên, phong tỏa, tạm giữ tài sản của người phạm tội, ngăn ngừa việc tẩu tán tài sản, nhất là đối với các vụ án về kinh tế, tham nhũng, buôn lậu có  giá trị lớn, nên đến giai đoạn thi hành án người phải thi hành án đã tẩu tán hết tài sản, làm cho số vụ việc này trở nên không có điều kiện thi hành, hoặc do tài sản không được chuyển giao đầy đủ, kịp thời theo hồ sơ cho cơ quan thi hành án, gây khó khăn cho việc xử lý tài sản để thi hành án.

Thực tế nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hiện nay tại đa số các quốc gia, việc ra quyết định thi hành án là do tòa án (thẩm phán) thực hiện bởi Tòa án phải có trách nhiệm đến cùng với bản án, quyết định mà mình ban hành; không để tình trạng cắt khúc, tách rời các giai đoạn tố tụng làm hạn chế mối quan hệ giữa hoạt động xét xử với hoạt động THADS, giữa Tòa án với cơ quan thi hành án. Do đó, trong quá trình hoàn thiện pháp luật THADS tại Việt Nam, cần nghiên cứu, cân nhắc quy định Tòa án là cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định thi hành án.

1.4.2.2. Về phạm vi các việc thuộc thẩm quyền tổ chức của cơ quan thi hành án dân sự

 Nhìn chung pháp luật các nước đều quy định cơ quan THADS có chức năng thi hành các bản án, quyết định về dân sự hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế thương mại, lao động… Bên cạnh đó, cơ quan THADS còn thi hành một số quyết định của các cơ quan hành chính hoặc các chứng từ có giá trị thanh toán; các cam kết, thoả thuận giữa các bên đương sự,…

Như tại Nhật Bản, Luật THADS Nhật Bản quy định chủ yếu về cưỡng chế thi hành, bán đấu giá để thực hiện quyền bảo đảm, bán đấu giá để chuyển thành tiền và việc công khai tài sản của bên có nghĩa vụ (gọi chung là THADS). Cưỡng chế thi hành được thực hiện dựa trên các "chứng thư nghĩa vụ dân sự". Các chứng thư nghĩa vụ dân sự được thi hành theo Luật THADS Nhật Bản, bên cạnh các bản án, quyết định của Toà án thì cơ quan THADS còn có thẩm quyền thi hành các chứng thư nghĩa vụ với hình thức không phải là quyết định, bản án hoặc các chứng thư nghĩa vụ không có sự can dự của Thẩm phán, như: Chứng thư thi hành do công Chứng viên lập, Văn bản hối thúc thanh toán do Thư ký Tòa án lập hoặc Biên bản hòa giải, Biên bản điều đình được lập như là kết quả của việc thỏa thuận giữa các đương sự. Việt Nam cũng nên nghiên cứu để mở rộng phạm vi thi hành các loại tương tự chứng thư nghĩa vụ này.

Ở Việt Nam, có thể xem xét mở rộng phạm vi hoạt động thi hành án. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển ngày càng đa dạng, phong phú, qua kinh nghiệm các nước và cũng nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân, khái niệm THADS ở nước ta cần được mở rộng đối với việc thi hành các cam kết hợp pháp giữa các bên đương sự trong hợp đồng dân sự cũng như một số quyết định khác mà không phải là bản án, quyết định của Toà án.

1.4.2.3. Về quyền hạn, nhiệm vụ của Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án

Pháp luật các nước đều trao cho Chấp hành viên những quyền hạn khá lớn để có thể thực thi nhiệm vụ. Chẳng hạn, ở Thụy Điển, Chấp hành viên có quyền áp dụng biện pháp phạt tiền, nếu đã phạt tiền mà người phải thi hành án vẫn không đến thì cơ quan thi hành án có quyền yêu cầu cảnh sát bắt người phải thi hành án. Cơ quan thi hành án cũng có quyền yều cầu cảnh sát tạm giữ con nợ, khi con nợ cố tình trì hoãn không lập danh sách kê khai tài sản của mình theo yêu cầu của cơ quan thi hành án. Ở Pháp, Thừa phát lại có quyền kê biên các phương tiện cơ giới của người mắc nợ bằng cách khoá lại không cho sử dụng…

Ở Đức, Chấp hành viên có quyền yêu cầu cảnh sát áp giải đương sự theo giấy triệu tập đến cơ quan thi hành án nếu đương sự cố tình trốn tránh được báo gọi nhiều lần không đến. Chấp hành viên có quyền khám nhà và những nơi cất giữ tài sản của con nợ, có quyền cho mở khoá nhà, khoá phòng hoặc ngăn có chứa đồ đạc bị khoá nếu thấy việc đó cần thiết cho việc thi hành án. Trong trường hợp con nợ chống đối hoặc phản kháng lại, Chấp hành viên có quyền dùng vũ lực và yêu cầu cảnh sát hỗ trợ. 

Ở Việt Nam, Chấp hành viên hiện chưa được pháp luật trao đầy đủ quyền năng để thực thi nhiệm vụ. Qua kinh nghiệm của các nước và xuất phát từ yêu cầu của công tác thi hành án, cần có các quy định của pháp luật cho phép Chấp hành viên được quyền yêu cầu dẫn giải đương sự trong trường hợp đã triệu tập hợp lệ nhiều lần mà cố tình không đến; có quyền yêu cầu bắt giữ trong trường hợp đương sự chống đối, cản trở việc thi hành án; có quyền khám nhà, khám đồ vật trong trường hợp cần thiết…

1.4.2.4. Xác minh điều kiện thi hành án

Theo khuyến nghị về THADS của Hội đồng châu Âu năm 2003, mô hình THADS hiệu quả bao gồm 02 thành tố chủ đạo là thủ tục thi hành án và con người-cán bộ trực tiếp thi hành án. Đối với thủ tục thi hành án, một trong những yếu tố quan trọng, quyết định phần lớn tới hiệu quả hoạt động thi hành án đó chính là cơ chế xác minh điều kiện thi hành án hưu hiệu. Bởi xác minh điều kiện thi hành án là hoạt động trung tâm, quan trọng nhất nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc tiếp cận các thông tin về người phải thi hành án, làm rõ người phải thi hành án có điều kiện thi hành hay không, bao gồm việc thu thập thông tin về tài sản, thu nhập của người phải thi hành án, về đối tượng thi hành án (như vật, giấy tờ, nhà phải trả...) và các thông tin khác phục vụ cho quá trình tổ chức thi hành án như nhân thân, hoàn cảnh gia đình,....

Tại mỗi một quốc gia trên thế giới, pháp luật về cơ chế xác minh khác nhau tùy thuộc vào bộ máy nhà nước, đặc điểm kinh tế - xã hội  riêng biệt. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu và khuyến nghị của Hội đồng châu Âu năm 2003 đã chỉ ra, một cơ chế xác minh điều kiện THADS hữu hiệu cần bảo đảm rằng người phải thi hành án cung cấp thông tin thường xuyên về tài sản, thu nhập và các thông tin khác có liên quan để phục vụ quá trình tổ chức thi hành án. Đồng thời, cần có cơ chế thu thập thông tin cần thiết về tài sản của người phải thi hành án một cách nhanh chóng và hiệu quả thông qua việc tiếp cận thông tin tại các cơ quan hữu quan và buộc người phải thi hành án phải khai báo về tài sản của họ. Tuy nhiên, cần phải đảm bảo hài hòa với các quy định về bảo vệ quyền con người, quyền riêng tư đối với dữ liệu cá nhân. Như vậy là có 02 yếu tố quan trọng trong nội dung này là (1) nghĩa vụ khai báo về điều kiện thi hành của người phải thi hành án và (2) cơ chế tiếp cận nhanh chóng của người được thi hành án/cán bộ thi hành án đối với điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Có thể thấy thông qua một số kinh nghiệm tại một số quốc gia như sau:

Tại Thụy Điển, cơ quan thi hành án có quyền hạn lớn trong việc thu thập thông tin về tài sản của người phải thi hành án. Chấp hành viên được phép truy cập mạng máy tính có kết nối với mạng dữ liệu của cơ quan thuế, trong đó, chứa đựng thông tin chi tiết về tình trạng sở hữu tài sản và việc làm của người phải thi hành án.

Tại Hàn quốc, trong trường hợp con nợ không hoàn thành nghĩa vụ bằng tiền và khó xác định được tài sản của con nợ, chủ nợ có quyền yêu cầu thi hành án có thể yêu cầu tòa án ra lệnh con nợ cung cấp danh mục tài sản, trong đó nêu rõ tài sản nào thuộc sở hữu con nợ. Nếu con nợ không tuân thủ lệnh của tòa hoặc cung cấp danh mục giả, con nợ có thể bị phạt tù, phạt tiền hoặc bị giam giữ.

Tại nhiều nước Châu Âu, người phải thi hành án buộc khai báo trong các vụ việc THADS và chịu hậu quả pháp lý nghiêm trọng nếu không khai báo hoặc cố tình khai báo sai, ví dụ: Tại Thụy Điển hay Đan Mạch, nếu Chấp hành viên cần thu thập thêm thông tin về tài sản của người phải thi hành án ngoài thông tin đã thu thập từ dữ liệu của cơ quan nhà nước, người phải thi hành án có thể bị yêu cầu đến trình diện tại cơ quan THADS để khai báo và sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế, xử phạt nếu không tuân thủ, trong đó có việc bị cảnh sát bắt và dẫn giải đến cơ quan THADS. Tại Đức, pháp luật có quy định chi tiết về trình tự, thủ tục buộc người phải thi hành án trình diện trước tòa án để khai báo về tài sản của họ. Theo yêu cầu của người được thi hành án hoặc Chấp hành viên do tòa án chỉ định, người phải thi hành án có mặt tại tòa để khai báo, nếu không trình diện hoặc không cung cấp thông tin, người phải thi hành án có thể bị phạt dưới hình thức giam giữ trong một thời hạn nhất định. Ngoài ra, tòa án Đức lập danh sách những người phải thi hành án đã tự nguyện cung cấp thông tin và những người đã bị giam do không cung cấp thông tin và danh sách này có thể được tiếp cận bởi các chủ nợ người người phải thi hành án giống như tín dụng, góp phần giúp các chủ nợ, đối tác tương lai của người phải thi hành án đánh giá mức độ tín nhiệm của người đó để cấp tín dụng sau này.

Tại Hoa kỳ, pháp luật các bang quy định hỗ trợ người được thi hành án trong việc xác định điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thông qua 02 công cụ: Công cụ thứ nhất là có quyền gửi yêu cầu trả lời hoặc yêu cầu cung cấp tài sản cho người phải thi hành án theo quy định của pháp luật về thu thập chứng cứ. Người phải thi hành án có nghĩa vụ trả lời các yêu cầu này và cung cấp các tài liệu liên quan như tờ khai thuế, báo cáo tài chính, sổ tiết kiện, trái phiếu,...Công cụ thức hai cho phép người được thi hành án yêu cầu tòa án ban hành một lệch buộc người phải thi hành án trình diện trước tòa để cung cấp các thông tin có thể hỗ trợ việc tổ chức thi hành án. Tại phiên trình diện, người được thi hành án có quyền đặt ra các câu hỏi đối với người phải thi hành án,...Trường hợp người phải thi hành án không đến, người được thi hành án có thể yêu cầu Tòa án ban hành lệnh bắt và nộp lệ phí áp dụng lệnh này. Tại Anh cũng tương tự như Hoa kỳ về cơ chế hỗ trợ người được thi hành án trong việc xác minh điều kiện thi hành án.

Hay tại Canada, người được thi hành án còn có quyền nộp đơn yêu cầu tòa án ban hành một lệnh buộc người phải thi hành án phải lập văn bản ủy quyền cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin về tài sản của người phải thi hành án cung cấp thông tin đó cho người được thi hành án hoặc Chấp hành viên.

Tại một số quốc gia, trách nhiệm xác minh điều kiện THADS hoàn toàn thuộc về người được thi hành án như tại Singapore, trường hợp người phải thi hành án từ chối hoặc không có khả năng THADS thì người được thi hành án giữ quyền kiểm soát và có trách nhiệm xác định tài sản của người phải thi hành án để thi hành án. Quyền này của họ được đảm bảo bằng cơ chế cho phép người được thi hành án yêu cầu mở phiên tòa và buộc người phải thi hành án có mặt tại tòa để chứng thực về tài sản của họ sau khi đọc lời thề và cam đoan chịu trách nhiệm nếu có bất kỳ khai man nào. Việc sai phạm trong việc chứng thực tài sản thể hiện sự không tôn trọng tòa án và có thể bị phạt tiền và phạt tù.

1.4.2.5. Kê biên, bán đấu giá tài sản

Sau khi xác định được tài sản của người phải thi hành án, áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế là khâu tiếp theo nhằm đưa tài sản của người phải thi hành án ra xử lý. Hầu hết các quốc gia, biện pháp thi hành phổ biến nhất là yêu cầu Tòa án/cơ quan có thẩm quyền ban hành Lệnh kê biên và bán tài sản và sử dụng khoản tiền thu được để thực hiện nghĩa vụ và chi trả các chi phí liên quan đến việc kê biên và bán đấu giá. Tuy nhiên, trách nhiệm, quyền hạn của người được thi hành án, Chấp hành viên, cơ quan THADS trong việc áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án lại khác nhau ở mỗi quốc gia khác nhau, ví dụ:

Tại Singapore, người phải thi hành án từ chối hoặc không có khả năng THADS thì người được thi hành án giữ quyền kiểm soát và có trách nhiệm xác định tài sản của người phải thi hành án. Sau khi xác định được tài sản của người phải thi hành án, người được thi hành án có thể áp dụng bất kỳ biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án. Và hầu như là thông qua biện pháp kê biên, bán đấu giá công khai và sử dụng khoản tiền thu được để thực hiện nghĩa vụ và chi trả các chi phí liên quan đến việc kê biên, bán đấu giá. Biện pháp này được áp dụng cho cả động sản, bất động sản. Việc kê biên và bán tài sản được thực hiện bởi Tòa án và các cơ quan trực thuộc mà không có sự tham gia của Chính phủ hoặc cơ quan hành pháp.

Tại Bru-nây, người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án ban hành lệnh kê biên và bán tài sản. Tuy nhiên, việc bán tài sản là động sản hay bất động sản đó thuộc về người phải thi hành án để lấy tiền thi hành nghĩa vụ.

Tại các quốc gia có hệ thống THADS trực thuộc Bộ Tư pháp như Thái Lan, Việt Nam, việc kê biên, bán đấu giá tài sản thường do các cán bộ của cơ quan này phối hợp với người được thi hành án thực hiện.

Tại Liên bang Nga, việc bán các tài sản có giá trị thấp sẽ được thực hiện bởi các tổ chức chuyên môn do Cục thi hành án Liên bang Nga lựa chọn. Bên cạnh đó, hình thức chính của việc bán các tài sản của người phải thi hành án trong quá trình thi hành án là hình thức đấu giá điện tử. Các cuộc đấu giá điện tử thu hút nhiều khách hàng hơn, đơn giản hóa quá trình bán tài sản và cho phép loại trừ các trường hợp tham nhũng. Cuối cùng, mục tiêu chính của cuộc đấu giá đã đạt được. Các tài sản kê biên đã được bán với giá cao nhất. Chắc chắn điều này đã góp phần đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong quá trình thi hành án.

- Tại Nhật Bản: trong quá trình bán đấu giá tài sản thi hành án, thông tin về tài sản sẽ được cung cấp cho những người muốn tham gia đấu giá thông qua hệ thống ba tài liệu (Hệ thống BIT) gồm: (1) Mô tả về tài sản (mô tải các quyền liên quan đến bất động sản,...); (2) Báo cáo thẩm định tình trạng hiện tại của tài sản (tình hình hiện tại của tài sản); (3) Báo cáo định giá (đánh giá môi trường xung quanh, giá được được và các vấn đề liên quan đến bất động sản). Ngoài ra, các số liệu khác liên quan về tài sản nào được bán, giá bao nhiêu, thời gian của phiên đấu thầu đều có thể tra cứu trên hệ thống.

Trong trường hợp đưa tài sản ra bán đấu giá nhưng không bản được thì cần nghĩ đến việc có tiếp tục bán tài sản hay không. Trường hợp, bán không thành công do giá bán cơ sở không phù hợp thì sẽ xem lại giá bán cơ sở và sau khi hạ xuống thì thử bán lại. “Tòa thi hành xem xét hiện trạng bất động sản, tình trạng sử dụng, quá trình thủ tục và các tình hình khác”, khi thấy rằng không có triển vọng bán được cho dù có thực hiện bán lần nữa với giá bán cơ sở” ban đầu thì “có quyền thay đổi giá bán cơ sở” (Điều 30.3 Quy tắc) và bán lần nữa. Để thúc đẩy sự tự lực của người có quyền lợi kê biên trong việc bán bất động sản, Luật Thi hành dân sự quy định rằng “trường hợp đã thực hiện bán 3 lần bằng cách bỏ giá hay đấu giá mà vẫn không có đề nghị mua, sau khi xem xét hình dạng bất động sản, công dụng, các quy chế về việc sử dụng theo quy định pháp luật và các tình hình khác, nếu thấy rằng cho dù có bán lần nữa cũng không có triển vọng bán được thì có quyền đình chỉ thủ tục cưỡng chế đấu giá”, và “khi người có quyền lợi kê biên…đề xuất với Tòa thi hành về việc cho bán với lý do là có người định đề nghị mua…thì sẽ thực hiện bán”, “khi người có quyền lợi kê biên… không đề xuất thực hiện bán thì…có quyền hủy thủ tục cưỡng chế bán”.

1.4.2.6. Ứng dụng công nghệ thông tin trong trình tự, thủ tục thi hành án

- Tại Indonesia: Tham khảo việc triển khai hệ thống tố tụng điện tử của Tòa án tối cao, bao gồm nộp đơn điện tử, thanh toán điện tử và triệu tập điện tử, xét xử điện tử. Việc triển khai các hệ thống quản lý và xét xử điện tử thể hiện sự thành công của Tòa án tối cao trong việc triển khai hệ thống tòa án trực tuyến. Hệ thống này đòi hỏi phải đổi mới thường xuyên trong đó: Giới thiệu hệ thống cư trú điện tử: Cư trú điện tử là nơi cư trú của bất kỳ bên nào dưới dạng một địa chỉ thư điện tử đã được xác minh, là địa chỉ của người nhận lệnh triệu tập, thông báo và bản sao quyết định của tòa án. Nơi cư trú điện tử của nguyên đơn được cấp tại thời điểm đăng ký vụ án, còn đối với bị đơn, nơi cư trú điện tử được cấp vào thời điểm họ tuyên bố đồng ý với một phiên tòa điện tử. Nơi cư trú điện tử về bản chất là ảo nên không liên quan tới phạm vi thẩm quyền xét xử của tòa án. Việc áp dụng nơi cư trú điện tử cho phép Thừa phát lại tòa án có thể triệu tập đương sự đang cư trú ở khu vực ngoài thẩm quyền của họ mà không cần phải ủy quyền cho tòa án địa phương, do đó, tiết kiệm thời gian và tiền bạc. Các quyết định của Tòa án chỉ có giá trị và hiệu lực pháp lý nếu được tuyên trong một phiên tòa công khai. Quyết định được coi là đã được tuyên trong một phiên toàn công khai và có sự tham gia của các đương sự khi bản sao của quyết định có chữ ký điện tử, được chuyển cho các bên thông qua hệ thống thông tin điện tử của tòa án. Nhằm hỗ trợ quyết định điện tử của Tòa án, Tòa án tối cao đã phối hợp với cơ quan mã hóa và mạng quốc gia cấp chữ ký điện tử để việc ký quyết định của tòa án có thể thực hiện bằng điện tử và mỗi bản sao của quyết định có chữ ký điện tử của thư ký đều có giá trị và hiệu lực pháp lý. Cũng tại nước này, Tòa án tối cao đã tối ưu hóa việc sử dụng công nghệ trong quy trình quản lý vụ án như: bắt kịp với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin thông qua việc xây dựng một thư mục điện tử để công bố các quyết định của Tòa án tối cao và cơ quan tư pháp. Ngày nay, công chúng, đương sự, sinh viên, học giả và những người hành nghề pháp lý đã có thể tiếp cận với hàng triệu các quyết định của tòa. Để tạo điều kiện cho các bên tiếp cận quá trình thụ lý vụ án đang diễn ra, Tòa án tối cao đã phát triển ứng dụng CTS (Hệ thống theo dõi vụ việc), theo đó, hiện nay, các bên có thể theo dõi trực tuyến sự tiến triển của vụ án. Để thúc đẩy tiến độ giải quyết các vụ án trong nội bộ Tòa án tối cao, hội đồng thẩm phán áp dụng hệ thống cùng đọc thông qua việc gửi các tài liệu điện tử đến chủ tịch hội đồng thẩm phán tối cao và các thành viên. Việc chuyển các tài liệu điện tử tại Tòa án tối cao được thực hiện thông qua tính năng Hệ thống quản lý tài liệu trong ứng dụng Hệ thống thông tin quản lý vụ án (SIAP). Việc thực hiện chính sách này có tác động tích cực đến hiệu quả xử lý vụ án tại Tòa án tối cao bao gồm giảm thời gian giải quyết vụ án và chuyển hồ sơ vụ án từ các Cơ quan đăng ký sơ cấp đến Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao  

- Tại Thái Lan: Ngoài việc đấu giá công khai thông thường tại phòng đấu giá trung tâm của LED (cán bộ thi hành án được bán) hoặc các văn phòng thi hành pháp luật khác, Cục thực thi pháp luật Thái Lan LED đã phát triển ứng dụng Đấu thầu điện tử thông qua hệ thống “Đấu giá mời thầu điện tử”, trong đó, cho phép những người mua tiềm năng tham gia phiên đấu giá công khai từ một số văn phòng cụ thể gần đó. Ngoài ra, tại Thái Lan từ đầu năm 2020 đã áp dụng Hệ thống nộp hồ sơ điện tử, đây là một phương thức mới về nộp đơn xin thi hành án. Đến tháng 01/2021, hệ thống này sẽ được áp dụng cho hình thức phong tỏa tài khoản ngân hàng mới trên toàn quốc. Các hồ sơ tịch biên tài sản mới sẽ có thể được nộp bằng phương thức điện tử từ tháng 04/2021 tại văn phòng tự nguyện. Ngoài ra sẽ có các phương thức mới áp dụng công nghệ vào quy trình thi hành phán quyết nhằm giảm áp lực khối lượng công việc., bao gồm đăng ký mua trực tuyến đối với loại hình đấu giá công khai, nộp đơn trực tuyến xin hòa giải hậu phán quyế, thanh toán chi phí tạm ứng qua ứng dụng Internet Banking và thanh toán tiền thu về từ quá trình thi hành án thông qua Hệ thống doanh nghiệp trực tuyến. Ngoài ra, Phòng quản trị nguồn nhân lực cũng lập kế hoạch xem xét lại cơ cấu tổ chức theo khối lượng nhiệm vụ và công việc phù hợp.

- Tại Phần Lan: Gần 90% các vấn đề của việc thi hành án hiện nay được nhận bằng điện tử. Đơn yêu cầu thi hành án có thể được nộp thông qua dịch vụ điện tử của cơ quan quản lý tư pháp (trên trang web), nếu bản án đã được nộp trong sổ đăng ký phán quyết. Các đơn yêu cầu cưỡng chế thi hành các khoản phải thu trực tiếp có thể thu được cũng có thể được gửi qua dịch vụ điện tử sau khi người nộp đơn đăng ký là người nộp đơn trực tuyến. Các chủ nợ (người được thi hành án) cũng có thể nộp trực tuyến yêu cầu thi hành án trực tiếp thông qua cơ sở dữ liệu thực thi nếu Văn phòng Hành chính Quốc gia về thi hành án đã cho phép. Việc cho phép nộp yêu cầu theo cách này có thể được đưa ra trong cả hai trường hợp dân sự và công cộng. Yêu cầu thi hành án thông qua cơ sở dữ liệu thường là phương pháp thiết thực nhất trong các trường hợp công, vì các khoản nợ đó thường có thể được định giá trực tiếp và chủ nợ thường có rất nhiều vấn đề yêu cầu thi hành để gửi cho cơ quan có thẩm quyền.

Nhân viên thi hành án sẽ tìm kiếm, trong phạm vi được bảo đảm trong hoàn cảnh, đối với tài sản thuộc về người đòi nợ để có được khoản thanh toán cho người nộp đơn. Nhân viên cưỡng chế có quyền, bất kể các quy định về bí mật, được cung cấp miễn phí thông tin, tài liệu và tài liệu do các cơ quan có thẩm quyền và bên thứ ba cung cấp nếu họ cần thiết cho việc thi hành trong một vấn đề thực thi nhất định. Hầu hết các thông tin được cung cấp bằng cách của một giao diện điện tử. Thông tin về các khoản nợ và tài khoản ngân hàng của người nợ đang được chuyển đến hệ thống thông tin thực thi trong vòng 24 giờ kể từ khi yêu cầu thông qua hệ thống. Tương tự áp dụng cho các thông tin cơ bản về thu nhập và tài sản của người nợ (người phải thi hành án) do cơ quan thuế cung cấp. Thông tin chi tiết hơn về pháp nhân thuế và các nghĩa vụ tùy theo trường hợp được chuyển đến hệ thống thông tin thực thi dưới hình thức báo cáo tuân thủ của cơ quan thông tin kinh tế tích hợp (Gray Economy Information Unit). Cơ quan này thu thập thông tin về thu nhập và tài sản của khách hàng và cung cấp cho các cơ quan chức năng như cảnh sát, cơ quan hải quan, cơ quan thuế và thực thi. Hiện tại, cơ quan thi hành luật có quyền truy cập riêng vào sổ địa chính, sổ đăng ký xe và sổ đăng ký kinh doanh. Trong tương lai thông tin trong sổ đăng ký cũng sẽ được cung cấp qua giao diện điện tử trực tiếp tới hệ thống thông tin thực thi. Hệ thống thông tin thực thi hiện đang chuyển sang hệ thống dựa trên trình duyệt web và các lệnh của nhân viên thi hành án sẽ được chuyển đến các ngân hàng, đăng ký đất đai, đăng ký xe .v.v.

Hệ thống công nghệ thông tin sẽ thống nhất công việc hàng ngày của nhân viên thi hành án khi sắp xếp người đòi nợ vào thứ tự công việc khác nhau và khi chuyển trả lời các yêu cầu trong một ngày thông qua giao diện điện tử. Trong tương lai, trọng tâm là phát triển báo cáo theo thời gian thực sẽ làm giảm bớt sự phân bổ và theo dõi đóng góp công việc. Hệ thống hồ sơ sẽ được điện tử, trong đó các tài liệu sẽ được dễ dàng tìm thấy sau đó.

- Tại Thụy Điển: Một trong những ưu điểm của Hệ thống thi hành án ở Thụy Điển là quyền truy cập thông tin về tài sản thi hành án và trách nhiệm cung cấp thông tin tài sản thi hành án ở Thụy Điển được quy định tại Bộ luật thi hành án được thực hiện rất hiệu quả.

Sử dụng công nghệ máy tính kết nối để thu thập thông tin tài sản thi hành án của người phải thi hành án từ các cơ quan có thẩm quyền lưu giữ là phương tiện được áp dụng phổ biến ở Thụy Điển. Sổ đăng ký thi hành án sẽ lưu trữ tất cả thông tin người phải thi hành án đã đăng ký ở một máy tính trung tâm được sử dụng bởi cơ quan thi hành án. Sổ đăng ký này chứa các yêu cầu thi hành án cho tư nhân và cho nhà nước. Tất cả các khoản thanh toán và nghĩa vụ được thực hiện liên quan đến người phải thi hành án đều được ghi vào sổ đăng ký. Với sự trợ giúp của số nhận dạng cá nhân hoặc số đăng ký tổ chức của một công ty, những người quan tâm có thể tìm hiểu để biết một cá nhân hoặc công ty có phải là người phải thi hành án hay không, loại nghĩa vụ phải thi hành án của cá nhân hoặc công ty và biện pháp thi hành án mà cơ quan thi hành án áp dụng. Đối với người nộp đơn đề nghị thi hành án với giá trị lớn và nhiều tài liệu gửi kèm, đơn có thể được chuyển trực tiếp qua máy tính từ người nộp đơn đến cơ quan thi hành án. Phán quyết của tòa án và các tài liệu khác được gửi qua email. Các quy định về việc giải quyết các vấn đề về đăng ký có thể được tìm thấy trong luật đăng ký thi hành án của Thụy Điển.

Cơ quan thi hành án phải hành động nhanh chóng nhất có thể để xác minh vụ việc khi người phải thi hành án khiếu nại về các lỗi ở bộ phận đăng ký liên quan đến các khoản phải thi hành của họ. Thông tin liên quan đến tài sản của người phải thi hành án luôn có sẵn ở cơ quan thi hành án nhằm phục vụ mục đích thi hành án thông qua việc tìm kiếm ở những nơi đăng ký công cộng, vì mục đích đó, cơ quan thi hành án có quyền truy cập trực tiếp bằng máy tính. Chấp hành viên, cơ quan thi hành án có quyền truy cập vào Sổ đăng ký thuế, Sổ đăng ký của các công ty trách nhiệm hữu hạn, Sổ đăng ký thương mại và hiệp hội, Sổ đăng ký phương tiện giao thông, Sổ đăng ký bất động sản...do các cơ quan Nhà nước khác lưu trữ và quản lý.

- Để thực hiện tốt hơn bản khuyến nghị về thi hành án năm 2003, Ủy ban châu Âu về hiệu quả của tư pháp đã ban hành một bản hướng dẫn chi tiết. Bản hướng dẫn đã đưa ra các yêu cầu cụ thể khi thu thập thông tin về người phải thi hành án và tài sản của họ với các hướng dẫn về quyền truy cập thông tin của người được thi hành án, quyền truy cập thông tin của cơ quan thi hành án, nhiệm vụ cung cấp thông tin và vấn đề bảo vệ dữ liệu.

Đối với quyền truy cập thông tin của người được thi hành án, bản hướng dẫn yêu cầu: để đảm bảo quyền được hỗ trợ đầy đủ cho các thủ tục tố tụng, người được thi hành án nên được phép truy cập vào các sổ đăng ký công khai để họ có thể xác nhận thông tin cần thiết về người phải thi hành án, như thông tin xác định về người phải thi hành án và nơi ở của anh ta cho mục đích thi hành án và dữ liệu có thể truy cập được thông qua sổ đăng ký công cộng (ví dụ: sổ đăng ký đất đai, sổ đăng ký toà án của các công ty…) tuân theo quyền tự do thông tin và luật bảo vệ dữ liệu của quốc gia thành viên.

Đối với quyền truy cập thông tin của cơ quan thi hành án, bản hướng dẫn yêu cầu: các quốc gia thành viên nên cho phép các cơ quan thi hành án truy cập nhanh chóng và tốt nhất là truy cập một cách trực tiếp thông tin về tài sản của người phải thi hành án. Các quốc gia thành viên được khuyến khích xem xét cung cấp thông tin về tài sản cho cơ quan thi hành án bằng Internet thông qua truy cập bảo mật, nếu có thể. Để ngăn chặn tình trạng tẩu tán tài sản của người phải thi hành án, các quốc gia thành viên được khuyến khích thiết lập một cơ sở dữ liệu truy cập hạn chế đa nguồn duy nhất về tài sản gắn liền của người phải thi hành án (nghĩa là quyền sở hữu đối với phương tiện, quyền bất động sản, các khoản nợ phải trả, khai thuế…). Các quốc gia thành viên nên cung cấp cơ sở dữ liệu với mức độ bảo mật chấp nhận được. Quyền truy cập của các cơ quan thi hành án vào các cơ sở dữ liệu phải chịu sự kiểm soát kỹ lưỡng. Sự hợp tác của các cơ quan khác nhau của nhà nước và tư nhân, tuân thủ luật bảo vệ dữ liệu là điều cần thiết để cho phép truy cập nhanh chóng vào thông tin đa nguồn trên tài sản của người phải thi hành án.

1.4.3. Một số vấn đề gợi mở cho Việt Nam

Mỗi mô hình tổ chức THADS đều có những ưu, nhược điểm nhất định mặc dù cùng chung một mô hình thi hành án nhưng phân tích chi tiết tổ chức bộ máy THADS ở các nước khác nhau lại có sự khác nhau về phương pháp tổ chức thi hành án, nhiệm vụ, quyền hạn của người làm công tác THADS và của các cơ quan THADS…

Có thể thấy mô hình công tạo ra sự tin tưởng của người dân vì đảm bảo sức mạnh cưỡng chế trực tiếp từ Nhà nước. Với mô hình THADS công do Tòa án đảm nhiệm thì việc thi hành án thường là chậm vì Tòa án bị quá tải (vừa xét xử vừa tổ chức thi hành án với số lượng vụ việc lớn). Đồng thời, mô hình THADS công đòi hỏi phải đầu tư nguồn lực lớn (ban đầu và đầu tư bổ sung thường niên), nhà nước phải trả lương và các chế độ khác cho nhân viên thi hành án; trong khi đó, ở mô hình THADS tư nhân thì nhà nước không những không phải thanh toán tiền lương từ ngân sách nhà nước mà còn có thể thu được thuế từ dịch vụ thi hành án tư nhân. Điều này giúp giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước để đầu tư cho những lĩnh vực ưu tiên khác[22].

Đối với mô hình tư nhân nếu được tổ chức tốt sẽ mang lại nhân tố cạnh tranh giữa các nhân viên thi hành án, cho phép người yêu cầu thi hành án lựa chọn được những người có thẩm quyền thi hành án tốt nhất và từ chối dịch vụ thi hành án kém hiệu quả. Ưu thế của Thừa phát lại là tính minh bạch thông tin cao. Hình thức phí được trả cho nhân viên thi hành án tư nhân tương ứng với kết quả công việc của họ sẽ cải thiện chất lượng dịch vụ thi hành án ở các mô hình THADS tư nhân. Thêm vào đó, các khoản phí thi hành án cũng có thể được tính toán theo cách phù hợp giữa lợi ích của người yêu cầu và quyền lợi của nhân viên thi hành án. Mức phí được tính trên giá trị tài sản được thu hồi hoặc giá trị yêu cầu (tỉ lệ với khoản thu hồi) là một thành công ở các mô hình THADS tư nhân.

Từ việc phân tích nêu trên, nhận thấy việc lựa chọn đồng thời hai hệ thống THADS (thi hành án công và thi hành án tư) theo mô hình THADS hỗn hợp để từ đó lựa chọn một mô hình phù hợp nhất cho quốc gia là một trong những lựa chọn của các nhà hoạch định chính sách. Cả hai hệ thống cho phép nhà hoạch định chính sách phân tích được những đặc điểm tốt nhất của mỗi hệ thống; là yếu tố quan trọng để điều chỉnh hai nhánh của dịch vụ THADS và giữ chúng trong sự cạnh tranh lành mạnh. Việc song song hai mô hình thi hành án khắc phục những nhược điểm của từng mô hình và kế thừa được những ưu điểm, vừa giúp Nhà nước sắp xếp hợp lý tổ chức THADS, đồng thời triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa một số loại hình dịch vụ. Bên cạnh đó cũng giúp giảm nhẹ đáng kể chi phí nhà nước đối với hoạt động thi hành án, hạn chế khắc phục tình trạng án tồn đọng, kéo dài do quá tải vì thiếu nhân lực…

Tại Việt Nam, mặc dù hiện nay đã theo mô hình thi hành án hỗn hợp. Tuy nhiên, theo Nghị định 08/2020/NĐ-CP ngày 8-1-2020 về tổ chức và hoạt động của thừa phát thì Thừa phát lại chỉ được làm những công việc gồm: tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu; xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; tổ chức thi hành các bản án, quyết định của tòa án theo yêu cầu của đương sự theo quy định của nghị định này và pháp luật có liên quan. Trên thực tế, Thừa phát lại hoạt động gặp nhiều khó khăn vì khi hoạt động trên thực tế công tác phối hợp còn hạn chế, không ít trường hợp cán bộ, công chức đã từ chối, không cung cấp yêu cầu xác minh của Thừa phát lại, kéo dài thời gian thực hiện yêu cầu của Thừa phát lại trong phối hợp thi hành án. Bên cạnh đó, hiểu biết và tiếp cận của người dân còn hạn chế, e ngại chưa đủ tin tưởng để sử dụng dịch vụ Thừa phát lại. Do đó, hiện nay tại Việt Nam, thách thức lớn nhất của hoạt động Thừa phát lại là về thể chế, cần có một hệ thống thể chế đồng bộ, thống nhất nhưng mang tính độc lập giữa Thừa phát lại và hệ thống cơ quan THADS.

Kinh nghiệm từ những nước chuyển đổi mô hình THADS từ THADS công do cơ quan nhà nước tổ chức thực hiện sang mô hình tư hoặc kết hợp giữa mô hình công và mô hình tư đã chỉ ra một số kinh nghiệm quý báu như: Việc lựa chọn mô hình thi hành án như thế nào cho hiệu quả là hoàn toàn phụ thuộc vào thể chế chính trị, truyền thống pháp luật, hệ thống luật pháp hiện hành và đặc điểm văn hóa của mỗi nước. Chưa có kết luận rõ ràng, đầy đủ về mô hình thi hành án tư nhân hoặc nhà nước hoặc mô hình hỗn hợp là có ưu điểm hoàn toàn nổi trội hơn mô hình kia. Tuy nhiên, qua kinh nghiệm từ những nước đã thực hiện việc chuyển đổi, cải cách lĩnh vực THADS cho thấy có rất nhiều khó khăn, vướng mắc phát sinh từ mô hình THADS tư nhân, thậm chí có những nước đã thất bại khi thí điểm mô hình này. Ví dụ liên quan đến vấn đề cung cấp thông tin tài sản thi hành án; phí thi hành án như thế nào cho hợp lý để bảo vệ quyền lợi của các bên đương sự, của nhà nước. Các vấn đề tham nhũng mới phát sinh liên quan đến việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thừa phát lại là những bạn bè, người thân quen, người cùng liên minh, đảng phái chính trị... nên chất lượng, hiệu quả công việc thi hành án không cao; khách hàng yêu cầu thi hành án là nhà nước hoặc cơ quan đại diện cho nhà nước... Mặc dù tư nhân hóa THADS nhưng chắc chắn một số lĩnh vực, quy trình, thủ tục, công việc thi hành án phải thuộc độc quyền do nhà nước thực hiện, ví dụ thi hành án cho nhà nước ...

1.4.3.1. Về mô hình tổ chức

Nhìn chung mỗi mô hình tổ chức THADS đều có mặt tích cực và mặt hạn chế nhất định. Với mô hình tổ chức thi hành án bán công, một mặt tạo ra sự tin tưởng đối với công chúng là người được thi hành án cũng như người có quyền lợi ích liên quan và bảo đảm hiệu lực cưỡng chế thi hành án bằng sức mạnh cưỡng chế trực tiếp của Nhà nước, song mặt khác lại rất tốn kém và dễ phát sinh tệ quan liêu, sách nhiễu, tiêu cực trong công tác thi hành án. Còn đối với mô hình tổ chức thi hành án tư nhân thì mức độ xã hội hoá hoạt động THADS rất cao, ngân sách Nhà nước đỡ tốn kém, nhưng các điều kiện pháp lý đảm bảo cho mô hình này hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải rất chặt chẽ, toàn diện về nhiều mặt, thích hợp với truyền thống, môi trường pháp lý và điều kiện kinh tế - xã hội của quốc gia áp dụng mô hình này. Trong khi đó, mô hình tổ chức thi hành án bán công lại mang nhiều đặc điểm của cả hai mô hình thi hành án công lẫn tư nhân.

Qua xem xét, đánh giá kinh nghiệm của các nước về mô hình thi hành án có thể thấy rằng:

- Trong ngắn hạn, Việt Nam chưa thể vận dụng hoàn toàn mô hình Thừa phát lại đảm nhiệm thi hành 100% các bản án dân sự theo đơn yêu cầu do chúng ta đang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Theo đó, bên cạnh việc tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, còn phải thực hiện nhiều chính sách xã hội khác (chính sách đối với người có công; gia đình thương binh, liệt sĩ, trẻ mồ côi, người tàn tật, người già không nơi nương tựa, chính sách đối với đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa; chính sách xoá đói giảm nghèo…) nhằm đảm bảo tính nhân đạo, công bằng, dân chủ và văn minh.

- Việt Nam cũng khó có thể chuyển ngay từ mô hình thi hành án công sang mô hình thi hành án tư mà bỏ qua các bước tạo tiền đề về các mặt kinh tế - xã hội, tâm lý, thời gian và các yếu tố cần thiết khác để tạo lập lòng tin trong Nhân dân.

1.4.3.2. Về Chấp hành viên

Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nhìn chung các nước có các loại hình Chấp hành viên sau đây:

Thứ nhất, Chấp hành viên là công chức nhà nước, có trình độ cử nhân luật và phải được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm có thời hạn hoặc bổ nhiệm suốt đời, như ở Đức, Nhật Bản, Thụy Điển, Trung Quốc… Ở  Đức, Chấp hành viên được bổ nhiệm suốt đời, hưởng lương tương đương Thẩm phán.  Ở  Thụy Điển, trước khi được bổ nhiệm theo chế độ thuê, mướn lao động, Chấp hành viên phải thực hành tại cơ quan thi hành án một năm và phải qua sát hạch thực hành về lý thuyết và thực tiễn. Ở Đức, Nhật Bản... Chấp hành viên phải qua lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ bắt buộc.

Thứ hai, Chấp hành viên là viên chức tư thừa hành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và quy chế hiệp hội Chấp hành viên; hưởng thù lao theo biểu giá dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng và nộp thuế theo quy định của pháp luật, ví dụ: Pháp, Bỉ, Hà Lan, Lux-xăm-bourg...

Thứ ba, Chấp hành viên là công chức thuộc biên chế của Tòa án và Chấp hành viên tư nằm trong Tòa án như là một bộ phận độc lập, không thuộc biên chế Tòa án, họ thực hiện các công việc thi hành án theo yêu cầu của khách hàng, hưởng thù lao theo kết quả dịch vụ cho khách hàng dựa theo quy định của pháp luật. Đặc biệt là Chấp hành viên tư có thể thực hiện một số việc thi hành án công và được hưởng tỷ lệ % số tiền thu được qua kết quả thực hiện dịch vụ (Đức, Nhật Bản).

Thứ tư, Chấp hành viên, cán bộ, chuyên gia thi hành án và nhân viên tạp vụ đều là công chức ngành thuế (Thụy Điển). Ở nước này, trừ chức danh giám đốc 10 cơ quan thi hành án khu vực đều do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, còn cả 3 loại cán bộ thi hành án trên đều làm việc theo hợp đồng thuê, mướn lao động do Giám đốc cơ quan thi hành án chủ động quyết định căn cứ vào 2 tiêu chí, một là, khối lượng công việc thi hành án phải thực hiện; hai là, ngân sách do Cục quản lý thi hành án thuộc Hội đồng thuế quốc gia phân bổ hàng năm.

Qua xem xét, đánh giá kinh nghiệm của các nước theo các loại hình Chấp hành viên như vừa nêu trên, có thể thấy rằng: Để thực hiện triệt để cho các Thừa phát lại thực hiện tại Việt Nam còn phải có thời gian để tạo các tiền đề về các mặt kinh tế - xã hội, tâm lý, thời gian và các yếu tố cần thiết khác bảo đảm cho nhân dân tự giác thi hành các bản án, quyết định của Toà án. Do đó, giải pháp hợp lý ở Việt Nam là có thể vận dụng quy chế Chấp hành viên theo hướng: vừa tách riêng chế độ Chấp hành viên là công chức thi hành án để thi hành các khoản tịch thu tài sản, truy thu thuế, truy thu lợi bất chính, phạt tiền, án phí, thực hiện các quyết định khẩn cấp tạm thời, bảo đảm thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi cần thiết… đồng thời áp dụng chế độ thi hành án do Thừa phát lại tổ chức thực hiện đối với một số loại việc thi hành án theo đơn yêu cầu. Tuy nhiên, cũng như khi bàn về lựa chọn mô hình, cần phải có bước tạo tiền đề để cho Thừa phát lại hoạt động và đánh giá hiệu quả trước khi quyết định giao hẳn cho Thừa phát lại tổ chức thi hành đối với các vụ việc chủ động.

Kết luận chương 1: Ban chủ nhiệm đã tiến hành nghiên cứu THADS có 7 đặc trưng cơ bản; 05 ý nghĩa; các tiêu chí đánh giá, các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và hoạt động THADS và đưa ra khái niệm: THADS là tổng thể các hoạt động của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định nhằm thực thi trên thực tế các bản án, quyết định hoặc các văn bản có giá trị thi hành.

Đồng thời, Ban chủ nhiệm nghiên cứu, tham khảo về mô hình THADS, trình tự thủ tục THADS của một số nước đại diện cho thi hành án công, bán công, tư nhân, hỗn hợp. Thông qua việc nghiên cứu rút ra những ưu điểm, tồn tại của từng mô hình và kinh nghiệm có thể áp dụng cho Việt Nam.

Các nội dung nghiên cứu nêu trên đã giúp Ban Chủ nhiệm có những cơ sở lý luận để phục vụ việc nghiên cứu, đề xuất các định hướng chính sách cho phù hợp với những đặc trưng của THADS.

 

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM

 

2.1. Thực trạng pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam

2.1.1. Việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam từ 30/6/2009 đến nay

Trên cơ sở các quy định của Luật THADS năm 2008, việc tổ chức thi hành Luật đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, cụ thể là: nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và các tầng lớp nhân dân về ý nghĩa, vai trò của công tác THADS được nâng lên rõ rệt; hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật cơ bản đã đầy đủ; việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác THADS theo quy định của Luật đã cơ bản được hoàn thành; vị thế cơ quan THADS được nâng lên và nhận được sự quan tâm hơn của cấp ủy, chính quyền địa phương thông qua việc các cơ quan THADS có trách nhiệm trực tiếp báo cáo công tác THADS trước Hội đồng nhân dân cùng cấp; cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan THADS đã được cải thiện một bước, việc xây dựng trụ sở, kho vật chứng các cơ quan THADS cũng đã được quan tâm thực hiện, cơ bản hoàn thành ở cấp tỉnh; công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp ngày càng được tăng cường và triển khai ngày càng bài bản, nhờ đó kết quả công tác THADS đã có những chuyển biến tích cực và đạt kết quả khả quan: việc phân loại án ngày càng chính xác, tỷ lệ số việc và tiền có điều kiện thi hành trên tổng số việc và tiền phải thi hành của các năm tăng đáng kể; trình tự, thủ tục giải quyết các việc THADS được đơn giản hóa một bước quan trọng, cơ bản bảo đảm tuân thủ chặt chẽ; các mặt công tác khác như thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã dần đi vào nề nếp, góp phần hỗ trợ tích cực để hoàn thành các chỉ tiêu thi hành án được giao.

Năm 2009, Chính phủ đã xây dựng Đề án tổ chức Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 24/7/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong Nghị định này, những vấn đề quan trọng như Văn phòng Thừa phát lại, phạm vi, thủ tục, quyền hạn....đều đã được quy định cụ thể. Tuy nhiên, do chỉ được tiến hành thíú điểm nên quyền hạn của Thừa phát lại còn khác hạn hẹp. Theo đó, Thừa phát lại chỉ được quyền tiến hành các hoạt động: tống đạt văn bản của cơ quan THADS và của Tòa án; lập vi bằng; xác minh điều kiện THADS; và trực tiếp thi hành bản án, quyết định theo yêu cầu của đương sự.

Tiếp đó, năm 2012, tiếp tục thực hiện thí điểm và mở rộng việc thực hiện chế định Thừa phát lại ra 13 tỉnh, thành phố trên cả nước đến hết ngày 31/12/2015. Đồng thời, sau một thời gian triển khai thí điểm, nhận thấy Nghị định số 61/2009/NĐ-CP bộc lộ không ít hạn chế, bất cập nên Chính phủ đã ban hành Nghị định 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh. Tuy vậy, Nghị định 135/2013/NĐ-CP vẫn tiếp tục duy trì 4 nhóm quyền hạn của Thừa phát lại trên tinh thần của Nghị định 61/2009/NĐ-CP trước đây. Kết quả thực hiện các nhiệm vụ của Thừa phát lại cũng đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được xã hội đón nhận. Ngày 26/11/2015, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 107/2015/QH13 về việc chấm dứt thực hiện thí điểm và cho phép thực hiện chế định Thừa phát lại trên phạm vi cả nước kể từ ngày 01/01/2016. Ngày 14/6/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 102/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 107/2015/QH13 của Quốc hội về thực hiện chế định Thừa phát lại. Ngày 08/01/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 08/2020/NĐ-CP thay thế Nghị định số 61/2009/NĐ-CP và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP. Theo đó, Thừa phát lại tiếp tục được thực hiện những công việc: Tống đạt văn bản theo yêu cầu của Tòa án và cơ quan THADS; lập vi bằng; xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành án, tuy nhiên quy định mới đã có nhiều thay đổi khiến cho hoạt động của Thừa phát lại, nhất là hoạt động THADS bị hạn chế hơn trước.

Trong giai đoạn từ năm 2009 đến trước 25/11/2014, công tác THADS đã đạt được nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, thậm chí yếu kém, trong đó nổi lên là: kết quả THADS có tăng lên so với trước khi có Luật nhưng chưa thật bền vững (năm 2013 đạt thấp hơn so với năm 2012 và chưa hoàn thành chỉ tiêu theo Nghị quyết số 37/2012/QH13 của Quốc hội); lượng án tồn đọng tuy có giảm nhưng số việc và tiền chuyển kỳ sau vẫn còn rất lớn và có xu hướng tăng lên (năm 2013 còn tồn 239.144 việc và trên 41.597 đồng, tăng so với năm 2012); việc phân loại án ở một số cơ quan THADS vẫn chưa thật chính xác, vẫn còn tình trạng chuyển từ án có điều kiện sang án không có điều kiện, trong khi Tòa án không nắm được bản án, quyết định đã tuyên có được chấp hành đầy đủ hay không; việc tổ chức thi hành án trong nhiều vụ việc còn chưa kịp thời, gặp khó khăn, vướng mắc, trong đó có những trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ ràng, thiếu khả thi nhưng việc trả lời của Tòa án đối với yêu cầu của cơ quan thi hành án về giải thích bản án còn chậm, nhiều trường hợp dẫn đến khiếu nại, tố cáo gay gắt, kéo dài; công tác phối hợp trong THADS tuy đã có chuyển biến nhưng vẫn còn bất cập, một số cấp uỷ, chính quyền địa phương có lúc, có nơi chưa thực sự quan tâm, chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện cho công tác THADS...

Những hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là những nguyên nhân xuất phát từ quy định của Luật THADS năm 2008. Có thể kể đến một số nguyên nhân: Luật THADS xác định vai trò, trách nhiệm của Tòa án đối với việc thi hành các bản án, quyết định của mình còn hạn chế; một số quy định về quyền, trách nhiệm của các bên trong thi hành án còn bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn; một số quy định của Luật THADS về trình tự, thủ tục thi hành án còn bất cập, thiếu thống nhất, chưa đồng bộ với pháp luật có liên quan trong các lĩnh vực đất đai, nhà ở, tài chính, ngân hàng, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính;  mặc dù đã có quy định về miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước, tuy nhiên, quy định này còn chưa sát với thực tiễn; việc xác định trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc phối hợp thực hiện một số nhiệm vụ công tác THADS trên địa bàn trong các quy định của Luật còn chưa cụ thể; một số quy định của Luật THADS nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc xã hội hóa công tác THADS theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp chưa cụ thể, rõ ràng. Đặc biệt là trong quá trình xây dựng Luật THADS năm 2008, Chính phủ đã trình Quốc hội cho ý kiến về vấn đề này nhưng chưa được đưa vào Luật mà mới chỉ ban hành Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 cho thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số địa phương. Do đó, việc thực hiện thí điểm Thừa phát lại mới chỉ được điều chỉnh bằng Nghị định của Chính phủ và các Thông tư liên tịch giữa các bộ với TANDTC, Viện KSNDTC, thiếu các quy định ở tầm luật định bảo đảm hiệu lực của việc xã hội hóa hoạt động thi hành án.

Để khắc phục nguyên nhân gây ra những bất cập, hạn chế trên, bảo đảm thực hiện nghiêm quy định của Hiến pháp năm 2013, theo đó, bản án, quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng, việc sửa đổi, bổ sung Luật THADS là rất cần thiết. Ngày 25/11/2014, tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS năm 2008 có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2015.

Bên cạnh đó, nhằm khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong quy định về ủy thác thi hành án đối với trường hợp người phải thi hành án có tài sản ở nhiều địa phương khác nhau, ngày 11/01/2022, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật số 03/2022/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của 09 Luật, trong đó có Luật THADS. Bên cạnh việc cơ bản giữ lại các quy định về ủy thác thi hành án theo quy định hiện hành, Luật đã sửa đổi, bổ sung Điều 55, 56 và 57 Luật THADS và bổ sung thêm một cơ chế mới- cơ chế ủy thác xử lý tài sản.

2.1.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật thi hành án dân sự hiện hành

Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về THADS, những vấn đề cơ bản được pháp luật quy định cụ thể như sau:

2.1.2.1. Về chủ thể của thi hành án dân sự

Chủ thể của THADS là những đối tượng tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình tổ chức thi hành án, bao gồm: Người được thi hành án; người phải thi hành án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; cơ quan quản lý nhà nước về THADS; cơ quan THADS; Chấp hành viên; các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác liên quan, cụ thể:

- Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền lợi trong bản án, quyết định được thi hành. Người được thi hành án có 09 quyền và 03 nghĩa vụ cụ thể quy định tại Điều 7 Luật THADS.

- Người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành. Người phải thi hành án có 08 quyền và 04 nghĩa vụ cụ thể quy định tại Điều 7a Luật THADS.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của đương sự được quy định tại Điều 7b Luật THADS.

- Các chủ thể khác tham gia vào hoạt động THADS: Ngoài các chủ thể nêu trên, pháp luật THADS còn quy định sự tham gia của một số chủ thể khác với vai trò là chủ thể thứ ba tham gia thúc đẩy quá trình thi hành các bản án, quyết định để quá trình này được thực hiện một cách hiệu quả. Cơ sở của các mối quan hệ phối hợp, hỗ trợ này được thiết lập dựa trên các quy định của pháp luật và được pháp luật điều chỉnh. Tại Điều 11 Luật THADS quy định về trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân với Cơ quan THADS, Chấp hành viên. Bên cạnh đó, để nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức cá nhân trong việc phối hợp THADS, Điều 10 Luật THADS quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại “Cơ quan, tổ chức và cá nhân vi phạm quy định của Luật này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”.

Đặc biệt, Luật THADS dành 01 chương (Chương VIII) quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức trong thi hành án, trong đó quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan ở Trung ương như: Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Công an... (từ Điều 166 đến Điều 172); Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức ở địa phương như: UBND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã... (từ Điều 173 đến Điều 180). Nhiệm vụ, quyền hạn các cơ quan Nhà nước trong THADS cụ thể như sau: Bộ Công an phối hợp với Bộ Tư pháp (Điều 169), TANDTC có nhiệm vụ, quyền hạn (Điều 170); VKSNDTC có nhiệm vụ, quyền hạn (Điều 171), UBND cấp tỉnh thực hiện các nhiệm vụ (Điều 173), UBND cấp huyện có nhiệm vụ (Điều 174), Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã (Điều 175), Kho bạc nhà nước, ngân hàng và tổ chức tín dụng khác (Điều 176), Bảo hiểm xã hội có trách nhiệm (Điều 177), Cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm có trách nhiệm (Điều 178), Cơ quan ra bản án, quyết định trong thi hành án có trách nhiệm (Điều 179).

- Chủ thể quản lý nhà nước về THADS

Chính phủ là cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về THADS trong phạm vi cả nước. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về THADS (khoản 1 Điều 167). Cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp (Tổng Cục THADS) giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác THADS và thực hiện quản lý chuyên ngành về THADS theo quy định của Chính phủ (khoản 2 Điều 167). Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về THADS trong quân đội (Điều 168).

- Chủ thể trực tiếp tổ chức THADS

+ Chấp hành viên thuộc cơ quan THADS: Theo quy định tại Điều 17 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014, thì: Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại Điều 2 của Luật THADS. Chấp hành viên có ba ngạch là: Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp. Nhiệm vụ, quyền hạn được quy định cụ thể tại Điều 20 của Luật (theo đó, Chấp hành viên có 10 nhiệm vụ, quyền hạn). Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín.

+ Thừa phát lại: Theo quy định, Thừa phát lại được thực hiện các công việc: Tống đạt văn bản theo yêu cầu của Tòa án và cơ quan THADS; lập vi bằng; xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành án. Sau khi Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 107/2015/QH13, Chính phủ ban hành Nghị định số 08/2020/NĐ-CP thay thế Nghị định số 61/2009/NĐ-CP và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP. Theo đó, Thừa phát lại tiếp tục được thực hiện những công việc nêu trên, tuy nhiên quy định mới đã có nhiều thay đổi: (1) Về xác minh điều kiện thi hành án, Thừa phát lại có quyền xác minh điều kiện thi hành án mà vụ việc đó thuộc thẩm quyền thi hành của các cơ quan THADS trên địa bàn cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở; (2) Quy định việc tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu hoàn toàn thực hiện thông qua thỏa thuận giữa Văn phòng Thừa phát lại với các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát và THADS; (3) Về tổ chức thi hành án theo yêu cầu của đương sự, Thừa phát lại không còn thẩm quyền ra quyết định thi hành án, áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án và cưỡng chế thi hành án.

2.1.2.2. Đối tượng của thi hành án dân sự

Theo Điều 2 Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì đối tượng của THADS là những bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Hội đồng giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại.Thẩm quyền thi hành án cụ thể được quy định cụ thể tại Điều 35 Luật THADS.

2.1.2.3. Trình tự, thủ tục thi hành án dân sự[23]

Quy trình tổ chức thi hành án tại Việt Nam được quy định cụ thể tại Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành, có thể khái quát bao gồm 03 bước chính cụ thể như sau:

Bước 1: Thụ lý thi hành án, đây là giai đoạn đầu tiên trong quy trình tổ chức thi hành án, bao gồm việc tiếp nhận yêu cầu thi hành án, bản án, quyết định do Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh chuyển (sau đây gọi là bản án), hồ sơ ủy thác thi hành án; sau khi xem xét nội dung yêu cầu thi hành án đảm bảo đúng thẩm quyền, thủ tục...theo quy định của pháp luật, cơ quan thi hành án sẽ tiến hành soạn thảo, ký, phát hành quyết định thi hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành án; thực hiện các công việc cần thiết khác theo quy định.

Bước 2: Tổ chức thi hành án, là giai đoạn quan trọng nhất trong quy trình tổ chức thi hành quyết định thi hành án đã ban hành, do Phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án, Chấp hành viên (Phó Chi cục trưởng, Chấp hành viên Chi cục) chịu trách nhiệm chính. Các phòng thuộc Cục, công chức liên quan phối hợp thực hiện.

Tổ chức thi hành án bao gồm: Lập hồ sơ thi hành án; thông báo về thi hành án; xác minh điều kiện thi hành án; xác định việc chưa có điều kiện thi hành, công khai thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành; tạm đình chỉ thi hành án; đình chỉ thi hành án; ủy thác thi hành án; miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước; kiến nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án; ra quyết định cưỡng chế thi hành án; tổ chức cưỡng chế thi hành án; thực hiện thẩm định giá tài sản; thực hiện bán đấu giá tài sản; tiêu hủy vật chứng; xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ bị tuyên tịch thu, sung quỹ nhà nước; trả lại tiền, tài sản tạm giữ cho đương sự; thu tiền, thanh toán tiền thi hành án; thu phí thi hành án; xác nhận kết quả thi hành án; rà soát hồ sơ thi hành án.

Đối với những nội dung trên, tùy vào từng trường hợp cụ thể, Chấp hành viên chủ động lựa chọn phương án triển khai phù hợp với tình hình thực tế. Ví dụ: sau khi nhận được Quyết định thi hành án, nếu người phải thi hành án tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên sẽ tiếp tục thực hiện các nội dung trong quy trình như trả lại tiền, tài sản tạm giữ cho đương sự; thu tiền, thanh toán tiền thi hành án; thu phí thi hành án; xác nhận kết quả thi hành án; rà soát hồ sơ thi hành án. Nhưng nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án mà không có thỏa thuận khác giữa các bên đương sự thì khi phát hiện người phải thi hành án có tài sản hay điều kiện thi hành án, Chấp hành viên được quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án để thi hành án như áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án; ra quyết định cưỡng chế thi hành án; tổ chức cưỡng chế thi hành án; thực hiện thẩm định giá tài sản; thực hiện bán đấu giá tài sản....

Bước 3: Thẩm tra, lưu giữ hồ sơ (kết thúc thi hành án), đây là bước cuối cùng của quy trình tổ chức thi hành quyết định thi hành án, cơ quan THADS thực hiện việc thẩm tra, đưa hồ sơ thi hành án vào lưu trữ.

2.1.2.4. Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thi hành án dân sự

Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức trong THADS được quy định rải rác trong Luật THADS, cụ thể như: (1) các quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xác minh điều kiện thi hành án; (2) trách nhiệm của cơ quan công an trong việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế; (3) cơ quan có thẩm quyền quản lý, đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản trong việc cấp Giấy chứng nhận cho người mua được tài sản hoặc liên quan đến việc khai thác tài sản; (4) cơ quan kiểm sát trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS và kháng nghị, kiến nghị về THADS…

Bên cạnh đó, Luật có quy định hẳn một Chương VIII (từ Điều 166 đến Điều 180) về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong THADS. Trong đó, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; Bộ Tư pháp; Bộ Quốc phòng; Bộ Công an; Tòa án; VKSNDTC; Tư lệnh quân khu và tương đương; UBND cấp tỉnh, huyện, xã; Kho bạc nhà nước, ngân hàng và tổ chức tín dụng; Bảo hiểm xã hội; cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm; cơ quan ra bản án, quyết định; cơ quan, tổ chức được giao theo dõi, quản lý người đang chấp hành án hình sự. 

2.1.3. Thực trạng hệ thống pháp luật thi hành án dân sự hiện hành

2.1.3.1. Ưu điểm

 Đến nay, hệ thống văn bản pháp luật đang có hiệu lực pháp luật điều chỉnh lĩnh vực THADS bao gồm tổng số 41 văn bản, gồm 03 Luật, 02 Nghị quyết, 06 Nghị định; 30 Quyết định, Thông tư, Thông tư liên tịch đã cơ bản đầy đủ, đồng bộ, công khai, minh bạch, khả thi; quy định toàn diện trình tự, thủ tục trong quá trình tổ chức thi hành án; đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu thực tiễn; vị thế cơ quan THADS ngày càng được khẳng định, đóng góp tích cực và quan trọng, hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố lòng tin trong Nhân dân, cụ thể:

Thứ nhất, Luật THADS đã tạo được hành lang pháp lý cơ bản bảo đảm cho công tác THADS hiệu quả hơn: Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành điều chỉnh cơ bản đầy đủ các lĩnh vực của công tác THADS, từ tổ chức bộ máy, trình tự, thủ tục thi hành án, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong công tác THADS, kiểm sát, giám sát hoạt động THADS...

Thứ hai, trình tự, thủ tục THADS được quy định đầy đủ, cụ thể, chặt chẽ hơn, tạo điều kiện cho hoạt động thi hành dân sự được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả: Nhiều quy định mới thể hiện sự phù hợp trong nghiệp vụ THADS, như: quy định về việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn tình trạng người phải thi hành án tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Cơ chế định giá tài sản qua tổ chức thẩm định giá đã minh bạch hơn so với  giá tài sản do Hội đồng định giá thực hiện mà Chủ tịch Hội đồng là Chấp hành viên như trước đây. Biện pháp cưỡng chế thi hành án được xây dựng chặt chẽ, mở rộng hơn so với Pháp lệnh THADS năm 2004 là cơ pháp lý đầy đủ để cơ quan THADS thực hiện hiệu quả. Quy định về thi hành án trong một số trường hợp cụ thể để giải quyết khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành án đối với một số trường hợp cụ thể như thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự, thủ tục thi hành quyết định khẩn cấp tạm thời, biện pháp xử lý trong trường hợp bản án đã thi hành xong, nhưng bị huỷ do quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Toà án và thủ tục thi hành bản án về phá sản…

Thứ ba, xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong THADS, phát huy hiệu quả mối quan hệ phối hợp trong THADS, nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về THADS của cá nhân, tổ chức được nâng lên: Từ việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan, tổ chức trong THADS, các cơ quan, tổ chức đã chủ động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình và thực hiện tốt hơn mối quan hệ phối hợp trong THADS. Nhiều địa phương đã ban hành Quy chế phối hợp trong THADS. Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, Bảo hiểm xã hội đã thực hiện kịp thời hơn các yêu cầu của Chấp hành viên, cơ quan THADS, nhất là thực hiện quyết định cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án. Nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về THADS của cá nhân, tổ chức được nâng lên. Nhiều trường hợp người phải thi hành án tự nguyện thi hành nghĩa vụ THADS của mình, nhất là trong các đợt đặc xá. Người được thi hành án đã xác định được trách nhiệm của mình trong thi hành án, như chấp hành tốt việc xác minh điều kiện thi hành án, hạn chế tâm lý trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước...

Thứ tư, Thừa phát lại đạt được nhiều kết quả tích cực đã giúp giảm tải công việc cho các cơ quan THADS, từ đó nâng cao hiệu quả, chất lượng của hoạt động này:

Chế định Thừa phát lại với thời gian hoạt động thí điểm từ năm 2009 đến năm 2014 và chính thức được công nhận từ năm 2015, với số lượng Văn phòng Thừa phát lại không nhiều, nhân lực mỏng, nhưng có thể thấy, Thừa phát lại đã bắt đầu khẳng định được vị trí của mình trong đời sống pháp luật của thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh thành trong cả nước, cụ thể là tạo lập một nghề mới trong thị trường cung cấp dịch vụ pháp lý, dịch vụ hành chính - tư pháp.

Thông qua xã hội hoá một số hoạt động tư pháp (tống đạt văn bản tư pháp, THADS) góp phần thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế hành chính các cơ quan thi hành án theo yêu cầu cải cách hành chính, nâng cao ý thức, trách nhiệm, huy động sự đóng góp nguồn lực của người dân, xã hội đối với hoạt động THADS. Đồng thời, tạo cơ chế vừa phối hợp, hỗ trợ vừa cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực thi hành án, bước đầu góp phần hạn chế một số tiêu cực trong hoạt động thi hành án.

Hoạt động Thừa phát lại tạo thêm cho người dân khả năng chủ động lựa chọn phương thức thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nhất là trong công tác THADS. Hoạt động xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại đã giúp người dân có thêm công cụ hỗ trợ tích cực để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình tổ chức thi hành án, góp phần nâng cao hiệu quả công tác THADS. Mặc dù pháp luật quy định trách nhiệm xác minh thuộc về Chấp hành viên, nhưng việc người dân có quyền yêu cầu Thừa phát lại xác minh tài sản để thi hành án vẫn là một kênh hữu hiệu để các bên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao trách nhiệm của các bên cũng như hạn chế tối đa tiêu cực trong quá trình tổ chức thi hành án. Đây là hoạt động bổ trợ tích cực cho hoạt động của cơ quan THADS. Hoạt động trực tiếp tổ chức thi hành án của Thừa phát lại đã tạo điều kiện để người dân có thêm sự lựa chọn phù hợp với mong muốn, niềm tin của mình khi yêu cầu THADS; góp phần giảm tải cho cơ quan THADS, từ đó nâng cao hiệu quả, chất lượng của hoạt động này.

Thực tiễn trong thời gian qua đã khẳng định chủ trương tái lập chế định Thừa phát lại theo Chiến lược Cải cách tư pháp của Đảng với việc thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh và sau đó được công nhận trên phạm vi toàn quốc là đúng đắn, có hiệu quả và bước đầu thành công.

Có thể thấy, trong thời gian qua, một số nhiệm vụ để triển khai Nghị quyết số 107/2015/QH13 đã được các Bộ, ngành và địa phương quan tâm, tích cực triển khai thực hiện và đã thu được một số kết quả, đặc biệt là tiếp tục có thêm địa phương thành lập được Văn phòng Thừa phát lại, số lượng Thừa phát lại được bổ nhiệm và Văn phòng Thừa phát lại được thành lập tiếp tục tăng so với cùng kỳ năm trước điều này thể hiện nhu cầu về hoạt động của Thừa phát lại tăng, bước đầu Thừa phát lại đã phát huy được vai trò của mình trong đời sống xã hội. Nhận thức về chế định Thừa phát lại được nâng cao, đội ngũ Thừa phát lại ngày càng được chuẩn hóa và cải thiện về trình độ, năng lực và kinh nghiệm công tác.

2.1.3.2. Hạn chế, bất cập

a) Một số nội dung của Luật thi hành án dân sự chưa phù hợp, đầy đủ với yêu cầu của thực tiễn

- Quy định liên quan đến quyền, nghĩa vụ của đương sự, Chấp hành viên chưa phù hợp: Có những quyền, nghĩa vụ của đương sự về bản chất đương sự phải thực hiện để bảo vệ quyền lợi của mình trong quá trình thi hành án, tuy nhiên, Luật lại quy định là nhiệm vụ của Chấp hành viên; quy định một số nhiệm vụ của Chấp hành viên chưa phù hợp[24] hoặc quy định cho đương sự một số quyền thỏa thuận trong khi không tự nguyện thi hành bị cưỡng chế thi hành án là không phù hợp[25] dẫn đến kéo dài quá trình tổ chức thi hành án.

- Quy định một số trường hợp thuộc diện chưa có điều kiện thi hành án là chưa phù hợp, chưa đúng với bản chất sự việc[26].

- Quy định về điều kiện để được xem xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách Nhà nước còn chưa phù hợp về thời gian, số tiền đã nộp...

- Về trình tự thủ tục thi hành án:

+ Một số quy định về trình tự, thủ tục trong thi hành án chưa có tính dự báo lâu dài cho tương lai (như áp dụng công nghệ thông tin trong việc thông báo văn bản thi hành án cho đương sự, rút gọn phạm vi loại văn bản phải giao cho đương sự (một số văn bản đương sự phải tự theo dõi trên cổng thông tin điện tử)) để phù hợp với sự phát triển của xã hội, đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành các hoạt động liên quan. Một số quy định của Luật gây khó khăn cho người được thi hành án (quy định giảm giá nhiều lần đối với tài sản bán đấu giá không thành...)

+ Nhiều quy định còn chưa phù hợp (như chưa quy định rõ về trường hợp kê biên tài sản gắn liền với QSDĐ của người khác và trường hợp kê biên tài sản thế chấp trên đất không thế chấp; Thời hạn quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án, thời hạn Tòa án chuyển giao bản án sang cơ quan thi hành án còn dài; Quy định về từ chối yêu cầu thi hành án; Quy định về thứ tự thanh toán tiền thi hành án (trừ các khoản nghĩa vụ tài chính liên quan) còn chưa cụ thể...)

- Về phối hợp trong công tác THADS: Chưa rõ chế tài quy định trách nhiệm đối với các cơ quan liên quan trong việc giải quyết đối với loại bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành hoặc có sai sót nghiêm trọng; giải quyết vướng mắc về trình tự, thủ tục THADS; việc phối hợp xác minh, xử lý tài sản của đương sự; chưa rõ trách nhiệm của VKSND đối với hồ sơ đã được kiểm sát sau đó phát hiện có sai phạm...

b) Luật thi hành án dân sự thiếu sự đồng bộ, còn có các quy định mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp với pháp luật chuyên ngành khác

- Đối với Luật Đất đai: chưa thống nhất phương án xử lý đối với khoản chi phí đầu tư vào đất (là chi phí san lấp mặt bằng, cột chống lún, chống sạt lở...) trong trường hợp cưỡng chế tài sản trên đất thuê trả tiền hàng năm[27]; chưa thống nhất trong cấp lại Giấy chứng nhận QSDĐ trong trường hợp không thu hồi được giấy cũ và yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSDĐ[28]; quy định khác nhau về đối tượng được nhận chuyển nhượng QSDĐ trồng lúa[29]; thời điểm có hiệu lực của giao dịch hợp đồng chuyển nhượng tài sản là QSDĐ, nhà ở trên đất (tại Khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai, Luật Công chứng và Luật Nhà ở)...

- Đối với Luật Công chứng: Về hợp đồng công chứng mua bán tài sản và quy định về việc xử lý đối với tài sản đã bán đấu giá nhưng chưa sang tên: Theo khoản 2, Điều 110 Luật THADS thì cơ quan THADS được quyền kê biên, bán đấu giá tài sản là QSDĐ của người phải thi hành án chưa được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ nhưng thuộc trường hợp được cấp Giấy theo quy định của pháp luật về đất đai. Tuy nhiên, điểm d, khoản 1 Điều 40 Luật Công chứng năm 2014 quy định không được công chứng đối với các giao dịch khi không có Giấy chứng nhận QSDĐ nên việc bán đấu giá tài sản thi hành án trong trường hợp này không thể thực hiện được.

- Đối với áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Luật Trọng tài thương mại: Luật THADS chưa quy định thi hành đối với các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài theo quy định tại khoản 2 Điều 8 và Chương VII Luật Trọng tài thương mại dẫn đến chưa phù hợp trong hệ thống pháp luật.

- Đối với Luật Phá sản: Nhiều nội dung còn khoảng trống chưa có quy định điều chỉnh hay đã có quy định những chưa phù hợp, thống nhất như chưa có sự thống nhất về thông báo và chuyển giao quyết định tuyên bố phá sản và thời gian ra quyết định thi hành án của cơ quan THADS; Không quy định việc giải thích, sửa đổi, bổ sung quyết định giải quyết phá sản; Chưa phân định thẩm quyền tổ chức thi hành quyết định tuyên bố phá sản; Quyết định phá sản không được xem xét theo trình tự thủ tục kháng cáo như các bản án quyết định khác; không quy định rõ việc “không thanh lý được tài sản” và chưa có quy định căn cứ để tính các chi phí chi trả cho Quản tài viên và người phải chi trả những chi phí này; Quy định bù trừ nghĩa vụ trong Luật Phá sản chưa phù hợp với loại việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng liên quan đến quyền lợi ích hợp pháp của người thứ ba, tạo kẽ hở để đương sự lợi dụng bù trừ nghĩa vụ, kể cả nghĩa vụ thi hành án đã được tuyên trong bản án hình sự (tham nhũng, kinh tế); Quy trình về ủy thác thi hành án phá sản còn bị kéo dài, ảnh hưởng đến việc thu hồi tài sản (đặc biệt đối với những tài sản như nhà xưởng, máy móc nếu thời gian xử lý bị kéo dài thì tài sản sẽ bị hỏng hóc, giảm giá trị  hoặc không còn sử dụng được)…  

- Đối với quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm: Theo Điều 21 Nghị định số 102/2017/NĐ- CP quy định các trường hợp xóa đăng ký biện pháp bảo đảm, trong đó quy định trường hợp cơ quan THADS hoặc Văn phòng Thừa phát lại đã kê biên xử lý xong tài sản bảo đảm thì người yêu cầu đăng ký nộp hồ sơ xóa đăng ký biện pháp bảo đảm. Việc quy định này dẫn đến bất cập trong trường hợp các bên không chủ động yêu cầu xóa đăng ký biện pháp bảo đảm sẽ gây khó khăn cho việc chuyển quyền sở hữu cho người mua trúng đấu giá tài sản thi hành án.

c) Thời gian tổ chức thi hành án còn dài, chưa có “điểm dừng” của hoạt động thi hành án

Một số trình tự, thủ tục về THADS chưa quy định cụ thể về thời điểm, thời hạn. Cụ thể như:

- Chưa xác định thời hạn ra quyết định cưỡng chế thi hành án kể từ khi có căn cứ. Theo quy định của Luật THADS, đối với những tài sản bị áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án thì trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có căn cứ, Chấp hành viên phải ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, đối với những tài sản không bị áp dụng biện pháp bảo đảm thì không có quy định về thời hạn Chấp hành viên phải ban hành quyết định cưỡng chế.

- Chưa quy định giới hạn tối đa thời hạn tổ chức cưỡng chế thi hành án; quy định những trường hợp được gia hạn thời gian tổ chức cưỡng chế (như chưa có sự thống nhất của các cơ quan, tổ chức hữu quan, chưa xây dựng được kế hoạch bảo về cưỡng chế,…); thời gian tiến hành thẩm định giá/ xác định giá; quy định bán đấu giá tài sản nhiều lần (có vụ việc bán đấu giá 20 lần vẫn không có người tham gia đấu giá, trả giá và vẫn phải tiếp tục tổ chức bán đấu giá tiếp)…dẫn đến kéo dài thời gian tổ chức thi hành nhiều năm

- Việc trả lại đơn yêu cầu thi hành án theo quy định Luật THADS năm 2008 đã bị bãi bỏ bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS năm 2014. Theo đó thì những trường hợp trước đây thuộc diện trả lại đơn yêu cầu thì hiện nay đang được xếp vào diện việc chưa có điều kiện thi hành. Tuy nhiên, bản chất của vụ việc là đương sự chưa có điều kiện thi hành án nếu xếp vào diện chưa có điều kiện thì sẽ xuất hiện rất nhiều vụ việc tồn từ năm này sang năm khác khiến cho lượng việc tồn rất lớn.

Trên thực tế, việc trả lại đơn không làm mất đi hiệu lực của bản án và quyền của đương sự, bởi lẽ sau khi ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thì trách nhiệm của người phải thi hành án phải theo dõi, phát hiện người phải thi hành án có tài sản, điều kiện thi hành án thì tiếp tục yêu cầu cơ quan THADS tổ chức thi hành án để đảm bảo quyền và lợi ích của mình. Việc yêu cầu cơ quan THADS sử dụng kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước để thực hiện thay đương sự về việc này là không hợp lý.

d) Chưa có quy định riêng đối với một số hoạt động đặc thù trong THADS

- Đối với bán giá tài sản

Hiện nay trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản thi hành án được thực hiện theo quy định của Luật Đấu giá tài sản 2016. Tuy nhiên, về bản chất, việc đấu giá tài sản thi hành án có tính chất cưỡng chế, bắt buộc để thực hiện bản án, quyết định của Tòa, khác với tính chất đấu giá tài sản tự nguyện trong quan hệ pháp luật dân sự. Do đó, khi bán đấu giá nếu áp dụng trình tự thông thường sẽ chưa đáp ứng được yếu tố đặc thù trong THADS.

Ngoài ra, nội tại của Luật Đấu giá còn nhiều tồn tại hay khoảng trống chưa điều chỉnh như: Về lựa chọn tổ chức đấu giá, thông báo công khai và bước giá (Luật THADS chưa quy định trong khi Luật Đấu giá tài sản còn quy định chung chung, chưa rõ ràng); Luật Đấu giá tài sản đã quy định các trường hợp thực hiện đấu giá theo thủ tục rút gọn trong 2 trường hợp đấu giá tài sản THADS. Tuy nhiên, Luật THADS chưa có quy định, hướng dẫn về việc đấu giá tài sản THADS là bất động sản theo thủ tục rút gọn[30]; Nghị định số 33/2020/NĐ-CP hướng dẫn Luật THADS đã bổ sung quy định Trường hợp số tiền thu được đã đủ để thi hành nghĩa vụ và các chi phí theo quy định thì không tiếp tục đấu giá các tài sản còn lại. Tuy nhiên, chưa có quy định về thủ tục dừng cuộc bán đấu giá, xử lý đối với số tiền đặt trước trong trường hợp này của người tham gia mua tài sản bán đấu giá như thế nào; chưa có sự thống nhất giữa Luật THADS và Luật đấu giá tài sản năm 2016 về khái niệm bán đấu giá không thành”.

- Đối với các khoản thi hành án cho Nhà nước nhất là đối với các vụ án kinh tế, tham nhũng phát sinh trong quá trình thực hiện Luật Phòng chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta.

Hiện nay, pháp luật THADS chưa quy định trình tự, thủ tục riêng để áp dụng cho loại việc này để phù hợp với đối tượng phải thi hành án là người thường giữ chức vụ cao trong cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, đối tượng là tài sản nằm ở trong và ngoài nước; truy tìm tài sản (giải quyết tài sản chung của vợ chồng nhưng do vợ/chồng phạm tội mà có...); Chưa xác định chủ thể đại diện cho nhà nước để thực hiện các "quyền của người được thi hành án" và trình tự, thủ tục THADS theo quy định của Luật THADS.

đ) Một số quy định chưa theo kịp và đáp ứng yêu cầu với xu thế hội nhập quốc tế

- Về thi hành án có yếu tố nước ngoài:

Trong khi việc mở cửa, hội nhập của Việt Nam với các nước khác trên thế giới đang ngày càng được tăng cường dẫn đến loại việc này phát sinh ngày càng nhiều. Tuy nhiên, chưa có quy định trình tự, thủ tục riêng để áp dụng cho những việc THADS có yếu tố nước ngoài. Đồng thời, hiện nay, việc tổ chức thi hành đối với loại việc này mới chỉ có quy định tại Điều 181 Luật THADS dẫn đến còn khó khăn vướng mắc nên việc tổ chức thi hành các loại việc này chưa đạt hiệu quả, cụ thể: Nếu áp dụng theo quy định về thi hành án hiện hành về việc thông báo, tống đạt các văn bản về THADS và những quy định của pháp luật về việc thực hiện UTTP (theo đó, thời gian tống đạt đối với 01 văn bản thông thường là mất 06 tháng, có những trường hợp đặc biệt thì mất tới 01 năm) thì thời gian chỉ dùng để thực hiện việc thông báo khoảng 20 văn bản về thi hành án mất 10-20 năm. Đây là khoảng thời gian bất hợp lý, cần được nghiên cứu để sửa đổi. 

- Quy định và thực tiễn ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đối số trong THADS tại Việt Nam còn hạn chế:

Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS được quy định về nguyên tắc tại Điều 24 Luật THADS. Theo đó: Nhà nước bảo đảm biên chế, kinh phí, trụ sở làm việc, công cụ hỗ trợ thi hành án, ứng dụng công nghệ thông tin và phương tiện, trang thiết bị cần thiết khác cho cơ quan THADS. Việc triển khai thực hiện mới chỉ được quy định trong Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/2/2016 hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong THADS. Cụ thể: “1. Tổng cục THADS, các cơ quan THADS địa phương thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong việc công khai thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án bảo đảm đúng nguyên tắc, hình thức, trình tự, thủ tục quy định tại Điều 3, 4, 5 và 6 của Thông tư này. 2. Tổng cục THADS chủ trì, phối hợp với Cục Công nghệ thông tin nghiên cứu, xây dựng đề án, xác định cụ thể lộ trình ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính trong hoạt động THADS và quản lý, sử dụng sổ sách, hồ sơ, biểu mẫu THADS”.

Chính vì còn quá ít quy định về nội dung này, mặc dù Nhà nước đã có nhiều giải pháp tăng cường và đạt được một số kết quả nhất định, tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS tại Việt Nam thời gian qua cũng còn gặp một số khó khăn, hạn chế như: (1) Nguồn lực đầu tư cho công nghệ thông tin còn hạn chế; (2) Việc đầu tư hạ tầng kỹ thuật trong toàn hệ thống THADS chưa được thực hiện đồng bộ; công tác đảm bảo an toán an ninh thông trin ở các cơ quan THADS địa phương chưa được chú trọng; (3) việc xây dựng triển khai một số phần mềm, ứng dụng công nghệ thông tin mặc dù đã được thực hiện nhưng còn chậm so với yêu cầu; (4) Chưa có nhiều chính sách khuyến khích, đãi ngộ, chưa thu hút được nguồn nhân lực công nghệ thông tin có trình độ cao làm việc tại các cơ quan THADS địa phương; (5) việc ứng dụng công nghệ thông tin mới chỉ áp dụng chủ yếu về hỗ trợ, cung cấp thông tin cho người dân, doanh nghiệp chứ chưa có những chính sách pháp luật về ứng dụng công nghệ thông tin trực tiếp trong quá trình thực hiện các trình tự, thủ tục thi hành án dẫn tới ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, thời gian tổ chức thi hành án bị kéo dài trên thực tế,....

e) Vướng mắc về nhiệm vụ tổ chức thi hành án dân sự của Thừa phát lại

Về tổ chức thi hành án theo yêu cầu của đương sự, hiện nay, tại khoản 2 Điều 52 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP quy định, khi tổ chức thi hành án, Thừa phát lại không được ra Quyết định thi hành án, không được áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án, xử phạt vi phạm hành chính; không được thực hiện yêu cầu Tòa án xác định người có quyền sở hữu, sử dụng tài sản, giấy tờ tạm giữ; xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi hành án, giải quyết tranh chấp tài sản; yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản; giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản... Điều này càng làm hạn chế người dân sử dụng dịch vụ THADS của Thừa phát lại về THADS.

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam

2.2.1. Công tác thi hành án do cơ quan thi hành án dân sự thực hiện

2.2.1.1. Kết quả đạt được

- Tổ chức, cán bộ được củng cố, kiện toàn

 + Theo quy định của Luật THADS, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về THADS; phối hợp với TANDTC trong THADS và báo cáo Quốc hội về công tác THADS. Từ nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật THADS, Chính phủ đã giao Bộ Tư pháp là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong hoạt động THADS, có trách nhiệm giúp Chính phủ quản lý toàn diện các mặt của hoạt động THADS, từ ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản điều chỉnh hoạt động THADS đến quản lý hệ thống tổ chức, biên chế và hoạt động của cơ quan THADS; hướng dẫn, chỉ đạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Chấp hành viên và công chức khác làm công tác THADS; đảm bảo cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động cho cơ quan THADS. Để Bộ Tư pháp thực hiện chức năng, nhiệm vụ trên, Chính phủ đã thành lập Tổng cục THADS là cơ quan trực thuộc Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác THADS và THAHC trong phạm vi cả nước; thực hiện quản lý chuyên ngành về THADS và THAHC theo quy định của pháp luật.

Tổng cục THADS được tổ chức thành hệ thống dọc từ Trung ương đến cấp huyện, bảo đảm nguyên tắc tập trung thống nhất, gồm 03 cấp: Cơ quan quản lý THADS (Lãnh đạo Tổng cục và các đơn vị trực thuộc Tổng cục ở Trung ương); cơ quan THADS ở địa phương có Cục THADS cấp tỉnh, Chi cục THADS cấp huyện.

+ Đội ngũ Chấp hành viên, công chức làm công tác THADS ngày càng được quan tâm, kiện toàn, nâng cao chất lượng: Cùng với số lượng biên chế được bổ sung, đội ngũ Chấp hành viên cũng không ngừng được tăng cường, lớn mạnh cả về số lượng, chất lượng. Đến năm 2021[31], toàn hệ thống có 3.943 Chấp hành viên, tăng 3.243 Chấp hành viên so với năm 1993, tăng 1.100 Chấp hành viên so với năm 2008, tương ứng với mức tăng lần lượt là 463% và 39%.

Chất lượng, trình độ đào tạo của đội ngũ Chấp hành viên, công chức THADS được cải thiện và nâng lên một cách rõ rệt, từ chỗ phần lớn công chức THADS chưa bảo đảm trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tại thời điểm bàn giao công tác THADS (tháng 6/1993) đến nay, cơ bản đội ngũ công chức THADS đã được đào tạo nâng cao, đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với cơ cấu ngạch của vị trí việc làm theo hướng chuyên môn hóa.

 - Kết quả THADS không ngừng nâng cao, năm sau luôn cao hơn năm trước và cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ THADS Quốc hội giao hàng năm.

+ Kết quả thi hành án về việc và về tiền liên tục tăng mặc dù tổng số thụ lý hàng năm tăng, trong đó có những năm tăng đột biến. So với thời điểm công tác THADS được chuyển cho Chính phủ quản lý (năm 1993) với năm 2020, số việc thi hành xong tăng 10,63 lần[32]. Bên cạnh đó, chất lượng THADS cũng không ngừng được nâng cao thông qua việc bảo đảm các quyền của người được thi hành án, người phải thi hành án trong THADS và việc hạn chế, khắc phục những sai sót, vi phạm trong THADS. Do đó, số lượng các khiếu nại, tố cáo của đương sự đối với hành vi, quyết định của Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan THADS do có vi phạm đúng, đúng một phần được cơ quan THADS chấp nhận ngày càng giảm; số lượng vi phạm trong THADS tới mức bị cơ quan Kiểm sát kiến nghị, kháng nghị khắc phục vi phạm ngày càng cũng có xu hướng giảm.

 

 

+ Quyền khiếu nại, tố cáo của người dân được đảm bảo thực hiện nghiêm túc: Cơ quan THADS đã tạo điều kiện thuận lợi để người dân phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo đối với những quyết định, hành vi vi phạm pháp luật của Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan THADS. Đồng thời giải quyết triệt để các khiếu nại, tố cáo của đương sự. Kết quả giải quyết khiếu nại cho thấy, số lượng khiếu nại, tố cáo của đương sự đúng, đúng một phần được cơ quan THADS chấp nhận ngày giảm hàng năm. Nhất là sau khi Quốc hội ban hành Luật THADS thì công tác này ngày càng được chú trọng. Nếu như trước đây số lượng công dân đến các cơ quan Trung ương để khiếu nại, tố cáo về THADS thường rất đông, phức tạp thì nay con số này đã giảm hẳn. Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo được theo dõi, chỉ đạo thực hiện sâu sát, có hệ thống. Bộ Tư pháp đã chỉ đạo giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng lâu năm. Có thể nói, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS đã được kiểm soát tốt hơn, bước đầu đi vào nền nếp; giải quyết bảo đảm đúng trình tự, thời hạn, có chất lượng; số lượng đơn tồn đọng giảm so với cùng kỳ, nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp được quan tâm tập trung giải quyết dứt điểm, qua đó đã góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan THADS, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành án.

 

- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát được bảo đảm: Công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện, xử lý sai phạm được tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện một cách bài bản, liên tục, bắt đầu từ công tác xây dựng thể chế, phổ biến, quán triệt, thực hiện tự kiểm tra, rà soát phát hiện, xử lý vi phạm. Hệ thống THADS phối hợp, chấp hành nghiêm túc việc thực hiện thanh tra, kiểm tra, kiểm sát và giám sát đối với công tác THADS của các cơ quan có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật, đặc biệt là hoạt động kiểm sát của VKSND các cấp theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này.

+ Số vụ việc bị cơ quan kiểm sát kháng nghị, kiến nghị hàng năm giảm: Nhằm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong THADS, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo quyết liệt việc thanh tra, kiểm tra, đảm bảo nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính, kỷ luật công vụ, phối hợp chặt chẽ với Viện Kiểm sát nhân dân các cấp, kiểm sát chặt chẽ việc tuân theo pháp luật trong THADS, nhờ đó, các sai phạm bị Viện Kiểm sát kiến nghị, kháng nghị hàng năm nhìn chung có xu hướng giảm. Đặc biệt kể từ năm 2013 trở lại đây:

+ Cùng với việc tăng cường chấn chỉnh, kiểm tra của Hệ thống THADS, hoạt động giám sát, kiểm sát của cơ quan có thẩm quyền đã kịp thời phát hiện các sai sót vi phạm trong thi hành án để có biện pháp xử lý và phòng ngừa chung phù hợp.

- Về cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí, phương tiện hoạt động

Nhìn chung, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của hệ thống THADS trong thời gian qua được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo Bộ Tư pháp phối hợp với các Bộ, ngành, cấp ủy, Ủy ban nhân dân các cấp quan tâm, bố trí ngày càng tốt hơn cho công tác THADS.

- Mức độ hài lòng, đánh giá của các doanh nghiệp đối với công tác THADS nói chung, thi hành các bản án kinh doanh thương mại nói riêng ngày càng tăng: Theo Báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2020 được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố, trong 05 năm từ năm 2016 đến 2020, chỉ số về công tác THADS được đánh giá tại mục Thiết chế pháp lý (là mục đánh giá về chất lượng giải quyết các vụ việc thông qua tòa án và tình hình an ninh trật tự tại các địa phương) đã tăng 16,3% (từ mức 62,8% của năm 2016 lên mức 79,1% của năm 2020), cụ thể “79,1% doanh nghiệp cho biết: Phán quyết của tòa án được thi hành nhanh chóng trong khảo sát năm 2020, tăng 16,3% so với 62,8% của năm 2016”. Đây là chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của doanh nghiệp đối với công tác THADS theo số liệu điều tra tại 63 tỉnh, thành phố.

Về cơ bản, các cơ quan THADS đã thực hiện tốt chỉ tiêu về việc, về tiền cũng như chỉ tiêu khắc phục sai sót, vi phạm về THADS được Quốc hội giao. Qua đó quyền và lợi ích của các bên trong thi hành bản án, quyết định dân sự đã được đảm bảo tốt hơn.

2.2.1.2. Hạn chế, khó khăn, vướng mắc

- Tổng số việc còn phải thi hành chuyển sang kỳ sau qua các năm tuy có giảm nhưng vẫn còn cao. Lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo về THADS vẫn còn nhiều; một số vụ việc phức tạp kéo dài, được dư luận quan tâm chưa được giải quyết dứt điểm.

- Thời gian tổ chức thi hành án vẫn còn dài; trung bình để thi hành một bản án là 150 ngày trên tổng thời gian giải quyết một vụ việc là 400 ngày. Đây cũng là một nguyên nhân khiến cho xếp hạng về môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh của Việt Nam mới chỉ ở mức trung bình khá trên bình diện quốc tế (xếp thứ 69/190 về môi trường kinh doanh, thứ 77/140 về năng lực cạnh tranh); trong khu vực ASEAN, vẫn chưa vào nhóm 4 nước dẫn đầu (đứng thứ 5 về môi trường kinh doanh, thứ 7 về năng lực cạnh tranh)[33].

- Cơ cấu tổ chức tại một số cơ quan trong hệ thống tổ chức THADS còn chưa được sắp xếp hợp lý[34], biên chế chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ[35] trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức, kể cả cán bộ lãnh đạo quản lý còn chưa đồng đều, chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ[36], thậm chí là còn yếu kém trong chỉ đạo, điều hành; đội ngũ công chức ngành THADS còn thiếu, đặc biệt là số lượng Chấp hành viên, Thẩm tra viên THADS chưa đủ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; những sai sót, vi phạm trong quá trình quá trình tổ chức thi hành án tuy có giảm nhưng hàng năm vẫn còn một số trường hợp Chấp hành viên vi phạm về chuyên môn nghiệp vụ bị xử lý kỷ luật.

- Chưa có cơ chế hữu hiệu để bảo đảm sự an toàn cho tính mạng, sức khỏe của Chấp hành viên và gia đình trong khi thi hành công vụ, đặc biệt là đối với những vụ cưỡng chế khó khăn, phức tạp.

- Sự phối hợp của các cơ quan có liên quan trong hoạt động THADS còn chưa tích cực, thường xuyên và kịp thời; một số cơ quan, tổ chức còn cho rằng THADS là việc của cơ quan THADS nên không chủ động phối hợp, phối hợp không tích cực dẫn đến hiệu quả không cao. Cơ quan kiểm sát chủ yếu mới chú trọng kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của cơ quan THADS, Chấp hành viên mà chưa quan tâm đúng mức đến thực hiện kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình tổ chức thi hành án. Đối với Tòa án, mặc dù cơ quan kiểm sát đã thực hiện kiểm sát nhưng vẫn còn tình trạng Tòa án chậm chuyển giao bản án, vật chứng, tài liệu có liên quan cho cơ quan THADS; chưa kịp thời đính chính, giải thích bản án và các kiến nghị của cơ quan THADS theo thẩm quyền. Sự phối hợp của cơ quan công an trong việc hỗ trợ, bảo vệ cưỡng chế thi hành án có lúc có nơi còn chưa thực sự hiệu quả, kịp thời. Trên thực tế, cơ quan THADS chưa nhận được sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các cơ quan liên quan: Ngân hàng, tổ chức tín dụng, văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan kế hoạch và đầu tư, cơ quan thuế… trong việc xác minh điều kiện thi hành án, xác minh tình trạng hoạt động của doanh nghiệp, nguồn gốc, tình trạng pháp lý của tài sản, tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án nên có trường hợp đương sự đã tẩu tán tài sản; cơ quan công an trong việc tham gia phối hợp bảo vệ cưỡng chế THADS.

- Cơ sở vật chất, trang thiết bị, trụ sở làm việc của các cơ quan THADS trong thời gian qua đã được quan tâm đầu tư, nhưng vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đối với nhiều vụ việc có giá trị tài sản tranh chấp lớn, tài sản ở nhiều nơi khiến cho việc quản lý, xử lý tài sản để thi hành án gặp nhiều khó khăn, mất nhiều thời gian, chi phí lớn nhưng kinh phí tạm ứng cưỡng chế của cơ quan THADS được giao thấp, không đáp ứng yêu cầu và chưa có cơ chế bảo đảm, kinh phí đặc thù.

- Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động THADS vẫn còn hạn chế. Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ Chấp hành viên, công chức làm công tác THADS còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ công chức, người lao động làm công tác THADS chưa hợp lý, tương xứng với tính chất khó khăn, phức tạp của công tác THADS; nhất là đối với công chức luân chuyển, điều động, biệt phái về những địa bàn trọng điểm, địa bàn có kiều khó khăn, hoặc đặc biệt khó khăn..., do đó chưa thực sự khuyến khích, động viên đội ngũ công chức yên tâm công tác.

2.2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn, vướng mắc

a) Nguyên nhân khách quan

- Một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng THADS chưa cao là do còn nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể, đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập xuất phát từ trong nội tại các quy định của Luật THADS hoặc chưa theo kịp để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong thực tiễn phát triển của đất nước; mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp với các pháp luật khác liên quan. Theo Báo cáo rà soát số 246/TCTHADS-NV1 ngày 23/7/2021 của Tổng cục THADS thì có 56 nội dung tương ứng với 39 Điều pháp luật quy định chưa đầy đủ, chưa phù hợp; có 41 nội dung (40 nội dung nghiên cứu có thể được đưa vào 27 Điều đã được quy định tại Luật THADS) pháp luật còn khoảng trống chưa quy định; có 35 nội dung tại 26 Điều của các Luật chuyên ngành khác liên quan có nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp với thực tiễn các quy định của Luật THADS.

Những vướng mắc thể hiện ở tất cả các giai đoạn tổ chức thi hành án, tập trung chủ yếu về quyền, nghĩa vụ của đương sự; nhiệm vụ quyền hạn của Chấp hành viên; về tài sản cưỡng chế, các trường hợp cưỡng chế cụ thể; thủ tục cưỡng chế tài sản chung; thủ tục thi hành án có yếu tố nước ngoài và UTTP,... Bên cạnh các vướng mắc cụ thể trên thì còn những nội dung vướng mắc, lúng túng khi xác định Nhà nước “bao cấp hành chính”  dẫn đến các định hướng chính sách còn chưa rõ ràng, chưa phù hợp.

- Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh, các vụ việc tranh chấp kinh tế, dân sự có biểu hiện ngày càng nhiều, dẫn đến số lượng vụ việc cơ quan THADS phải thụ lý ngày một tăng và ngày càng có tính chất phức tạp hơn trong khi đó công tác THADS đang ngày càng được dư luận và xã hội quan tâm đã tạo áp lực không nhỏ cho đội ngũ Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án.

- Áp lực công việc của Chấp hành viên trong công tác THADS ngày càng gia tăng. Hàng năm, số lượng việc và tiền phải thi hành lớn (trong 2 năm 2019, 2020, các cơ quan THADS phải thi hành trung bình mỗi năm gần 900.000 việc, tương ứng với số tiền trên 280.000 tỷ đồng), tính chất phức tạp, trong khi số lượng Chấp hành viên còn hạn chế. Do đó, nếu tính tỷ lệ bình quân, năm 2020, một Chấp hành viên sẽ phải thi hành 221 việc với số tiền gần 70 tỷ đồng, trong khi pháp luật quy định rất nhiều trình tự, thủ tục phải thực hiện trong quá trình tổ chức thi hành án. Cùng với áp lực về gia tăng công việc, Chấp hành viên còn phải đối mặt với những nguy cơ từ phía người phải thi hành án, từ phía người được thi hành án (bên được thì yêu cầu, hối thúc thực hiện; bên phải thì cố tình trốn tránh, gây sức ép, chống đối, trì hoãn thi hành án...); đối mặt với những khó khăn khi tác nghiệp tại cơ sở, nhất là những địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng sông nước (phải thuê ghe, xuồng để đi lại với chi phí đắt hơn nhiều so với phương tiện giao thông đường bộ; phải tìm hiểu phong tục tập quán, ngôn ngữ khi đương sự là người dân tộc thiểu số...).

- Bên cạnh đó, trách nhiệm và sự phối hợp của một số cơ quan, đơn vị có liên quan trong công tác THADS ở một số địa phương chưa thật sự hiệu quả. Ban Chỉ đạo THADS một số nơi chưa phát huy được hết vai trò trong chỉ đạo công tác phối hợp trong THADS, chưa giải quyết kịp thời các trường hợp vi phạm trong công tác phối hợp nên chưa nâng cao được trách nhiệm của cơ quan, tổ chức cũng như của cá nhân được phân công phối hợp. Ngoài ra, sự phối hợp của một số cơ quan THADS với các cơ quan liên quan như VKSND, TAND, Công an… có nơi còn chưa chặt chẽ, thường xuyên; chưa chủ động, tích cực đề xuất tham mưu cho cấp ủy và chính quyền địa phương, Ban Chỉ đạo THADS trong chỉ đạo, lãnh đạo công tác THADS, nhất là tập trung chỉ đạo thi hành các bản án kinh doanh thương mại có giá trị lớn, tính chất phức tạp.

b) Nguyên nhân chủ quan

- Một số nơi, Thủ trưởng cơ quan THADS và Chấp hành viên chưa nhận thức đầy đủ về trách nhiệm được giao, chưa tích cực, chủ động trong việc tổ chức thi hành án. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Thủ trưởng một số cơ quan THADS chưa thực sự sâu sát, hiệu quả; công tác kiểm soát công việc chưa được thường xuyên, còn hiện tượng “khoán trắng” cho Chấp hành viên; công tác kiểm tra, tự kiểm tra chưa được chú trọng, việc thực hiện có nơi vẫn còn mang tính hình thức, chưa thật sự chất lượng.

- Một số công chức, Chấp hành viên thiếu rèn luyện, tu dưỡng, chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm, chưa tích cực học tập, nghiên cứu, nhất là các văn bản pháp luật về THADS và văn bản liên quan, dẫn đến việc vận dụng, áp dụng trong thực tiễn còn lúng túng, sai sót làm phát sinh khiếu nại tố cáo của đương sự, dẫn đến việc thi hành án bị kéo dài.

- Ý thức tuân thủ pháp luật, ý thức chấp hành bản án của nhiều người phải thi hành án, người được thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn chưa cao, cá biệt có trường hợp người được thi hành án cũng thiếu tinh thần phối hợp và chấp hành pháp luật trong quá trình thi hành án. Đa số người phải thi hành thường có tâm lý chống đối, không tự nguyện thi hành án; một số trường hợp doanh nghiệp thiếu hợp tác, trốn tránh, không nhận quyết định thi hành án, cản trở việc xác minh, kê biên, định giá, bán đấu giá tài sản để thi hành án nhằm gây khó khăn cho việc xử lý tài sản... Bên cạnh đó, nhiều trường hợp, người phải thi hành án cố tình khiếu nại, tố cáo hoặc khiếu nại vượt cấp; một số vụ việc đã qua nhiều cấp, nhiều lần giải quyết đúng pháp luật, nhưng họ vẫn tiếp tục khiếu nại nhằm mục đích kéo dài, cản trở việc tổ chức thi hành án.

2.2.2. Kết quả hoạt động do Thừa phát lại thực hiện

Mặc dù có sự khác nhau theo từng giai đoạn, tuy nhiên, có thể nói Thừa phát lại thực hiện 04 nhóm nhiệm vụ chính là tống đạt, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án và tổ chức THADS. Kết quả xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức THADS của các Văn phòng Thừa phát lại như sau: đến hết thời gian thí điểm 31/12/2015 xác minh gần 1 ngàn việc, tổ chức thi hành án gần 500 việc; từ ngày 01/10/2017 đến ngày 31/07/2018 xác minh gần 11 việc, tổ chức thi hành án 24 việc; từ ngày 01/10/2018 đến ngày 30/9/2019, xác minh 15 việc, tổ chức thi hành án 21 việc; từ ngày 01/10/2019 đến ngày 30/9/2020, xác minh 05 việc; tổ chức thi hành án 14 việc; từ ngày 01/10/2020 đến ngày 30/9/2021, xác minh 05 việc, tổ chức thi hành án 08 việc.

Sau khi có Nghị quyết số 107/2015/QH13, hoạt động của Thừa phát lại tuy đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn, vướng mắc như:

- Việc triển khai Nghị quyết số 107/2015/QH13 vẫn còn chậm ở một số địa phương: có địa phương chưa ban hành Đề án phát triển Văn phòng Thừa phát lại, có địa phương đã ban hành được Đề án phát triển Văn phòng Thừa phát lại nhưng chưa thành lập được Văn phòng Thừa phát lại, có địa phương đã thành lập được Văn phòng Thừa phát lại nhưng chưa hoạt động được trên thực tế...

- So với cùng kỳ năm trước, kết quả hoạt động nhìn chung giảm cả về lượng việc lẫn doanh thu (số lượng vi bằng có tăng nhưng doanh thu lập vi bằng lại giảm nhẹ) trong khi số lượng Văn phòng Thừa phát lại, địa phương thực hiện chế định Thừa phát lại đã tăng lên. Kết quả hoạt động chưa đồng đều ở các địa phương và ở từng hoạt động cụ thể (trong số 4 hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thì hoạt động tống đạt văn bản và lập vi bằng chiếm 99,87% tổng doanh thu, còn lại là tỷ lệ rất nhỏ (0,13%)  doanh thu từ hoạt động xác minh điều kiện thi hành án và tổ chức THADS). Hoạt động tống đạt đem lại nguồn thu chính của nhiều Văn phòng Thừa phát lại nhưng trên thực tế vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhất là về kinh phí thực hiện tống đạt của các cơ quan yêu cầu (thường không đủ so với nhu cầu) cũng như số lượng văn bản chuyển giao cho Thừa phát lại thực hiện tống đạt (số lượng văn bản tống đạt do cơ quan THADS chuyển giao ngày càng giảm, chỉ bằng 20% cùng kỳ năm trước và qua hơn 1,5 năm triển khai Nghị định số 08/2020/NĐ-CP chưa tống đạt văn bản nào của VKSND).

Hoạt động xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức THADS của Văn phòng Thừa phát lại ngày càng giảm, nhiều nơi gần như không thực hiện được dẫn đến mất cân đối trong hoạt động của Văn phòng và chưa hỗ trợ được người dân, doanh nghiệp, tổ chức trong việc tổ chức THADS cùng với cơ quan THADS các cấp.

- Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế và khó khăn thách thức nêu trên phải kể đến như sau:

+ Do quy định của pháp luật có nhiều thay đổi ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động Thừa phát lại, như: Quy định về việc tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu hoàn toàn thực hiện thông qua thỏa thuận giữa Văn phòng Thừa phát lại với cơ quan THADS, tức là theo nhu cầu của các cơ quan giao văn bản tống đạt chứ không phải là bắt buộc chuyển giao như trước đây; Nghị định số 08/2020/NĐ-CP quy định Thừa phát lại không còn thẩm quyền ra quyết định thi hành án, áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án và cưỡng chế thi hành án; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS quy định người được thi hành án không phải chịu chi phí xác minh điều kiện thi hành án do Chấp hành viên thực hiện.

+ Đội ngũ Thừa phát lại vẫn còn mỏng về số lượng, hạn chế về kỹ năng, kinh nghiệm, có dấu hiệu chạy theo số lượng việc để thu hút người yêu cầu, chưa thật sự quan tâm đến việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp của Thừa phát lại dẫn đến sai sót trong hoạt động hành nghề đến mức phải miễn nhiệm Thừa phát lại, đình chỉ hoạt động có thời hạn Văn phòng Thừa phát lại, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng, uy tín nghề Thừa phát lại trong xã hội.

+ Nhận thức của người dân, doanh nghiệp và cả các cơ quan, ban, ngành ở địa phương về Thừa phát lại, Văn phòng Thừa phát lại còn hạn chế, nhất là ở những địa phương mới triển khai thực hiện chế định Thừa phát lại dẫn đến việc người dân, cơ quan, tổ chức biết và sử dụng dịch vụ của Thừa phát lại còn ít, có tâm lý e ngại khi sử dụng dịch vụ của Thừa phát lại.

+ Cán bộ làm công tác quản lý hoạt động Thừa phát lại ở một số địa phương còn ít kinh nghiệm thực tiễn, định kỳ lại luân chuyển vị trí công tác nên còn lúng túng khi triển khai thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương...

Kết luận chương 2: Ban chủ nhiệm nghiên cứu về việc hoàn thiện pháp luật THADS ở Việt Nam để hiểu rõ các quy định về THADS. Đồng thời, nghiên cứu nội dung cơ bản của Luật THADS năm 2008 được sửa đổi năm 2014, 2022 cũng như pháp luật về Thừa phát lại. Trên cơ sở đó, đánh giá về ưu điểm, tồn tại, nguyên nhân của pháp luật THADS và Thừa phát lại theo từng giai đoạn cũng như kết quả tổ chức thực hiện pháp luật THADS và Thừa phát lại.

Kết quả nghiên cứu giúp cho Ban chủ nhiệm nắm rõ về quá trình hình thành và quy định hiện tại của Luật, xác định rõ vị trí của THADS Việt Nam có ưu điểm tồn tại như thế nào trong nước cũng như xu thế của thế giới nói chung để từ đó nghiên cứu, đề xuất về định hướng chính sách chung cho phù hợp.

 

 

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH LỚN PHỤC VỤ VIỆC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

 

3.1. Bối cảnh khi xây dựng định hướng chính sách lớn để phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự

Thứ nhất, cùng với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập với thế giới làm phát sinh nhiều các tranh chấp trong nước cũng như nước ngoài. Đồng thời, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã làm tha hóa cán bộ dẫn đến có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại là nguyên nhân dẫn đến số việc phải thi hành án liên quan đến tội phạm về kinh tế, tham nhũng có chiều hướng gia tăng. Đây là nguyên nhân những năm gần đây, số lượng việc và tiền năm sau luôn cao hơn năm trước; tuy nhiên, cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước và các cá nhân, tổ chức có liên quan đã cùng quyết tâm, chấp hành nghiêm các bản án, quyết định của Tòa án, thể hiện kết quả THADS không ngừng nâng cao, năm sau luôn cao hơn năm trước và cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ THADS Quốc hội giao hàng năm. Qua đó quyền và lợi ích của các bên trong thi hành bản án, quyết định dân sự đã được đảm bảo tốt hơn.

Thứ hai, bên cạnh kết quả đạt được, công tác THADS vẫn còn không ít tồn tại, hạn chế. Mặc dù kết quả THADS luôn năm sau cao hơn năm trước nhưng số lượng việc tồn kỳ sau còn cao với số lượng tiền lớn. Một trong những nguyên nhân được chỉ ra đó là những bất cập, khó khăn về thể chế pháp luật THADS. Sự phân định nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan THADS và Thừa phát lại còn chưa rõ, có sự chồng lấn, đan xen trách nhiệm dẫn đến khó tổ chức thực hiện trên thực tế… Tất cả những vấn đề trên cần phải được nghiên cứu và có giải pháp tổng thể để xử lý.

Thứ ba, Đảng và Nhà nước Việt Nam đang trong sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân với nhiệm vụ cải cách tư pháp là một chủ trương lớn. Để đạt được mục tiêu đề ra, Đảng và Nhà nước đang nghiên cứu và hoàn thiện về “Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền tư pháp và giữa các cơ quan, tổ chức trong hoạt động tư pháp để đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam”. Trong đó, cơ quan THADS được cho rằng là cơ quan liên quan đến hoạt động tư pháp trong hệ thống chung.

Thứ tư, pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực thi hành án ở Việt Nam không ngừng được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, yêu cầu hội nhập quốc tế, đồng thời khắc phục những nguyên nhân của hạn chế, bất cập trong công tác thi hành án, ngay từ năm 1995, Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) tháng 01/1995 đã chủ trương: “Sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án theo hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án vào Bộ Tư pháp”. Từ đó đến nay, chủ trương thống nhất quản lý công tác thi hành án luôn được đặt ra trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX khẳng định: “Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án”. Trong phần tổ chức thực hiện, Nghị quyết đề ra yêu cầu đề án trên phải thực hiện xong trước năm 2010. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 xác định: “xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng chiến lược cải cách tư pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ quan, chức danh tư pháp”.

- Trên cơ sở đánh giá 08 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12-3-2014 của Bộ Chính trị thể hiện rõ định hướng phân công về quản lý công tác thi hành án: “Dừng việc thực hiện chủ trương “chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án” nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW. Tiếp tục thực hiện mô hình tổ chức các cơ quan thi hành án như hiện nay. Tăng cường trách nhiệm, quyền hạn của tòa án nhân dân và ủy ban nhân dân địa phương trong công tác thi hành án”[37].

- Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đã chỉ rõ một số yêu cầu, nhiệm vụ đối với hệ thống tổ chức của Nhà nước ở Trung ương như: (i) Chính phủ, các bộ, ngành tiếp tục thực hiện đổi mới, kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy theo hướng tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, luật pháp, cơ chế, chính sách; nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành và hiệu quả tổ chức thực hiện; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành; (ii) Các bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ chủ động rà soát, sắp xếp, tinh gọn đầu mối bên trong, giảm cơ bản số lượng tổng cục, cục, vụ, phòng; không thành lập tổ chức mới, không thành lập phòng trong vụ, trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền quyết định”.

Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập đã chỉ rõ một số quan điểm liên quan đến kiện toàn tổ chức bộ máy như sau:“Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; ...”

- Năm 2020, căn cứ kết quả tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX, Bộ Chính trị đã có Kết luận số 83-KL/TW ngày 29/7/2020 về tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) và Kết luận 84-KL/TW ngày 29/7/2020, trong đó đã đề ra nhiều nhiệm vụ để nâng cao hiệu nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và cải cách tư pháp trong thời gian tới.

- Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII, các chủ trương của Đảng, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Đây là nội dung thể hiện rõ định hướng phân công, phối hợp, kiểm soát của các cấp, các ngành, nhất là trách nhiệm của các cơ quan tư pháp, tổ chức có liên quan trong công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.

- Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra yêu cầu “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”(5); “Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, gắn với kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền”(6). Điều này thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng nhằm xây dựng, phát triển một cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả, ngăn chặn tình trạng lạm quyền, lộng quyền, “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực.

Ngày 20/01/2022, tại Phiên họp thứ 21 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, tiêu cực, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã kết luận, yêu cầu tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện thể chế để "không thể tham nhũng"; cụ thể hoá, thể chế hoá đầy đủ, kịp thời các chủ trương, giải pháp về phòng chống tham nhũng, tiêu cực theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực để phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực. Tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc; xử lý nghiêm các sai phạm, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, đột phá hơn nữa trong công tác giám định, định giá và thu hồi tài sản tham nhũng....

3.2. Định hướng chính sách lớn phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự

Trên cơ sở nghiên cứu một số cơ sở lý luận (khái niệm, đặc trưng, bản chất, ý nghĩa của THADS; khái niệm, yêu cầu khi xây dựng định hướng chính sách lớn; tiêu chí đánh giá, các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và hiệu quả công tác THADS; kinh nghiệm quốc tế về THADS và một số vấn đề gợi mở cho Việt Nam) cũng như cơ sở thực tiễn (bao gồm thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật THADS), Ban Chủ nhiệm đề xuất 06 định hướng chính sách lớn phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Luật THADS:

3.2.1. Định hướng 1: Quy định trách nhiệm và mối quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động thi hành án dân sự một cách hợp lý; xác định rõ các công việc, thời gian phải hoàn thành và “điểm dừng” trong thi hành án

3.2.1.1. Đề cao hơn nữa trách nhiệm của đương sự; quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên phù hợp để đúng với bản chất quan hệ dân sự

Qua nghiên cứu pháp luật THADS hiện nay, nhận thấy một số quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan THADS đang được xây dựng theo hướng không phù hợp với bản chất của quan hệ dân sự là tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm[38]. Luật chưa có chế tài điều chỉnh đối với trường hợp khi cưỡng chế đối với tài sản chung, tài sản còn tranh chấp mà đương sự không thực hiện quyền khởi kiện ra Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình[39]. Trong khi đó, Luật lại chuyển thành nhiệm vụ của Chấp hành viên phải thực hiện dẫn đến việc Chấp hành viên không thể cung cấp Giấy tờ pháp lý cũng như các chứng cứ khác liên quan đến tài sản cho Tòa án (theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự) gây khó khăn trong quá trình thực hiện cũng như kéo dài thời gian tổ chức thi hành đối với một vụ việc.

Bên cạnh đó, về chi phí tổ chức thi hành án, hiện nay, một số quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan THADS đang được xây dựng theo hướng “bao cấp” không phù hợp dẫn đến Nhà nước phải chi trả toàn bộ các các khoản chi phí liên quan đến việc xác minh[40]; cơ quan THADS có nghĩa vụ theo dõi và tổ chức thi hành án "đến cùng" đối với vụ việc đương sự không còn tài sản hay không có điều kiện thi hành[41]. Đồng thời, như phân tích trên, Chấp hành viên phải khởi kiện ra Tòa để xác định tài sản riêng trong khối tài sản chung, giải quyết tranh chấp đối với tài sản đã bị cưỡng chế đã dẫn đến việc Chấp hành viên phải nộp các chi phí liên quan trong quá trình tố tụng như: phí thẩm định giá, trưng cầu giám định… là chưa phù hợp. Bởi lẽ, đây là việc làm để bảo vệ quyền lợi của các cá nhân, bản chất là cá nhân phải khởi kiện và nộp các chi phí tố tụng. Nhà nước không thể chi trả phần chi phí này cho những việc không phải là lợi ích tập thể, cộng đồng, lợi ích chung của xã hội.

Do đó, cần thiết phải xác định và tuân thủ đúng nguyên tắc dân sự để đề ra các quy định cho phù hợp, nâng cao trách nhiệm, tính chủ động của đương sự, thúc đẩy tiến độ tổ chức thi hành án cũng như đạt hiệu quả cao hơn trên thực tiễn.

3.2.1.2. Xác định “điểm dừng”, rõ khâu, công việc phải hoàn thành, rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án

Theo Báo cáo đánh giá thường niên của Ngân hàng thế giới về môi trường đầu tư kinh doanh, thời gian giải quyết tranh chấp hợp đồng cũng như thời gian trung bình thi hành án một bản án ở Việt Nam hiện vẫn còn khá dài. Theo đó, thời gian trung bình để thi hành một bản án là 150 ngày trên tổng thời gian giải quyết một vụ việc là 400 ngày; xếp hạng 6/10 về thời gian thi hành án trong khối ASEAN. Trong “thế giới phẳng” hiện nay thì việc nâng cao chất lượng, hiệu quả, đặc biệt là rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án trung bình là một trong những yếu tố góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Khi nghiên cứu, Ban chủ nhiệm nhận thấy có những nội dung công việc chiếm rất nhiều thời gian; chưa có cơ chế xác định rõ thời hạn phải hoàn thành cũng như kết thúc thực hiện ở từng khâu, giai đoạn, công việc. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc kéo dài thời gian tổ chức thi hành án, cụ thể:

- Quá trình xác minh điều kiện thi hành án gặp khó khăn, kéo dài do địa bàn xác minh phức tạp, ở vùng sâu vùng xa, đi lại khó khăn; hoặc do một số cơ quan, tổ chức chưa kịp thời phối hợp, cung cấp thông tin cho Chấp hành viên theo yêu cầu.

- Pháp luật THADS quy định đương sự có quyền thỏa thuận trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tổ chức thi hành án và không giới hạn số lần. Quy định này nhằm đảm bảo nguyên tắc tự định đoạt của đương sự. Tuy nhiên, trên thực tế việc đạt được thỏa thuận giữa người được thi hành án và người phải thi hành án (đặc biệt là các nội dung mà pháp luật quy định bắt buộc Chấp hành viên phải cho các đương sự thỏa thuận như về giá, lựa chọn tổ chức thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá; về mức giảm giá…) rất ít khi đạt được do 2 bên có mâu thuẫn, xung đột về quyền lợi. Bởi lẽ, khi có xung đột về lợi ích, ý thức các đương sự không thể thống nhất được mới đề nghị Tòa án giải quyết. Đến giai đoạn thi hành án, hết thời hạn tự nguyện thi hành án, đương sự cố tình không thực hiện nghĩa vụ, lúc này Chấp hành viên mới buộc phải sử dụng quyền lực Nhà nước áp dụng biện pháp cưỡng chế thực hiện. Lúc này, tâm lý người phải thi hành án thường cố tình chống đối làm chậm quá trình thi hành án hoặc mong muốn không phải thực hiện nghĩa vụ[42]. Do đó, việc quy định cho các đương sự thỏa thuận tại giai đoạn này là chưa phù hợp dẫn đến kéo dài thời gian tổ chức thi hành án hoặc nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba…

- Việc cơ quan THADS tống đạt tất cả các văn bản về thi hành án cho đương sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Với khoảng 20 văn bản cần tống đạt cho đương sự (có những văn bản phải tống đạt nhiều lần do đương sự cố tình vắng mặt; có trường hợp không tống đạt được trực tiếp hoặc pháp luật quy định phải đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng thì phải thực hiện trên 2 số liên tiếp..) thì thời gian Chấp hành viên phải bỏ ra để thực hiện công việc này là không hề nhỏ.

- Mặc dù quy định về quyền của người phải thi hành án được yêu cầu Tòa án xác định, phân chia quyền sở hữu, sử dụng tài sản; khởi kiện dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có tranh chấp về tài sản liên quan đến thi hành án là một quyền lợi chính đáng, giúp quá trình xử lý tài sản được thuận lợi, đúng pháp luật. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp người phải thi hành án cố tình lợi dụng quyền này để liên tục khởi kiện yêu cầu Tòa giải quyết tranh chấp, nhằm làm trì hoãn, kéo dài thời gian tổ chức thi hành án. Hiện nay, chưa có cơ chế để hạn chế tình trạng này.

- Chưa có quy định về thời hạn cơ quan THADS bắt buộc phải tổ chức cưỡng chế thi hành án trên thực tế. Do đó, có những vụ việc thời gian tổ chức cưỡng chế thi hành án kéo rất dài, do cả lý do khách quan và chủ quan.

- Việc bán đấu giá tài sản nhưng không có người tham gia đấu giá, trả giá, dẫn đến việc phải tổ chức bán đấu giá nhiều lần, giảm giá nhiều lần (có những việc bán đấu giá trên 20 lần), làm kéo dài thời gian tổ chức thi hành án, tăng chi phí mà người phải thi hành án phải chịu (trường hợp tài sản khi bán còn có giá trị chưa đủ chi phí cưỡng chế lúc này mới dừng thì ngân sách nhà nước vẫn phải bỏ ra khoản chi phí thanh toán cho tất cả các lần bán liên quan). Tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể hóa Điều 53 Luật Đấu giá tài sản về việc đấu giá tài sản thi hành án theo thủ tục rút gọn[43]. Đồng thời, chưa có cơ chế để dừng việc bán vừa khắc phục được tình trạng trên vừa đảm bảo quyền lợi của người được thi hành án.

Ngoài ra, như đã phân tích tại phần trên, việc trả lại đơn yêu cầu thi hành án theo quy định Luật THADS năm 2008 đã bị bãi bỏ bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS năm 2014 cũng dẫn đến hàng năm cơ quan THADS phải theo dõi lượng việc tồn lớn. Trong khi Chấp hành viên vẫn phải theo dõi, ngân sách nhà nước bỏ chi phí để phục vụ cho việc này là bất hợp lý, không đúng với bản chất của vụ việc chưa có điều kiện thi hành, gây chồng chéo, khó hiểu khi thống kê dẫn đến hiểu nhầm trong nhân dân.

Do đó, cần thiết phải xác định “điểm dừng”, rõ khâu, công việc phải hoàn thành, rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án khi sửa Luật THADS.

3.2.2. Định hướng 2: Quy định về một số nội dung thi hành án “đặc thù” trong thi hành án dân sự

3.2.2.1. Quy định trình tự, thủ tục xử lý tài sản để thu hồi tiền cho nhà nước trong các vụ án kinh tế, tham nhũng; tài sản là quyền sở hữu trí tuệ, cổ phần, cổ phiếu, tài sản hình thành trong tương lai

Thời gian gần đây, công tác thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế được Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo triển khai quyết liệt. Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Đây là nội dung thể hiện rõ định hướng phân công, phối hợp, kiểm soát của các cấp, các ngành, nhất là trách nhiệm của các cơ quan tư pháp, tổ chức có liên quan trong công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.

Một trong những giải pháp quan trọng mà Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng thực hiện tốt đó là “Rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, nhất là các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt; về cơ chế thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt không qua thủ tục kết tội; cơ chế xử lý tài sản bị kê biên, phong toả; sớm khắc phục những bất cập, vướng mắc trong kê biên tài sản, phong toả tài khoản, thẩm định giá, bán đấu giá tài sản, thành lập, giải thể, phá sản doanh nghiệp”.

Trong công tác THADS, thu hồi tài sản tham nhũng là quá trình cơ quan THADS thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự xét xử về tội phạm tham nhũng. Để đảm bảo việc thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng sau khi có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành thì cơ quan THADS phải xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án và áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án để ngăn chặn việc tẩu tán tài sản, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản và xử lý tài sản để thu hồi tiền cho nhà nước. Với đặc thù đối với loại việc này có đối tượng phải thi hành án là những người trước đó thường giữ chức vụ lãnh đạo của cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp nên việc xác minh điều kiện về tài sản và áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế là rất khó khăn. Tuy nhiên, pháp luật về THADS chưa có quy định trình tự, thủ tục riêng đối với việc thi hành.

Ngoài ra, thẩm quyền của cơ quan THADS, Chấp hành viên trong quá trình THADS còn hạn chế, đặc biệt là trong việc truy tìm tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát, đồng thời phụ thuộc nhiều vào kết quả của quá trình tố tụng trước đó. Việc thi hành án đối với một số loại tài sản đặc thù trong các vụ án tham nhũng, kinh tế như cổ phần, cổ phiếu, phần vốn góp, tài sản là quyền sở hữu trí tuệ, tài sản hình thành trong tương lai chưa được quy định đầy đủ. Do đó hạn chế hiệu quả thi hành đối với các vụ việc loại này. Vì vậy, quá trình sửa đổi, bổ sung Luật THADS sửa đổi cần quy định rõ vấn đề này.

3.2.2.2.  Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự

Liên quan đến tính đặc thù trong hoạt động bán đấu giá trong THADS Ban chủ nhiệm nhận thấy: Trong bán đấu giá tài sản thông thường thì người có tài sản bán đấu giá có thể là chủ sở hữu của tài sản bán đấu giá, người được chủ sở hữu ủy quyền, người nhận bảo đảm tài sản…Tuy nhiên, trong bán đấu giá tài sản thi hành án, do người phải thi hành án không tự nguyện thi hành nên cơ quan THADS buộc phải áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt buộc để thực hiện nghĩa vụ. Lúc này, Chấp hành viên ban hành quyết định cưỡng chế tài sản và đưa tài sản ra bán đấu giá nên người có tài sản đấu giá thời điểm này là Chấp hành viên, cơ quan THADS chứ không phải là chủ sở hữu của tài sản bán đấu giá. thông thường người chủ sở hữu tài sản thường chống đối, cản trở việc bán đấu giá tài sản cũng như giao tài sản cho người mua trúng đấu giá.

Nhằm minh bạch hóa hoạt động bán đấu giá tài sản thi hành án; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người có liên quan (bao gồm cả người được thi hành án, người phải thi hành án, người mua được tài sản trúng đấu giá); bảo vệ cũng như hạn chế việc Chấp hành viên và tổ chức bán đấu giá tài sản “lạm dụng quyền lực” để tiêu cực trong hoạt động bán đấu giá tài sản thi hành án thì cần có quy định riêng (chương riêng trong Luật THADS) về trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản thi hành án, theo đó:

Tiếp cận góc độ khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành, Chấp hành viên phải sử dụng quyền lực nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện, lúc này người phải thi hành án đã bị hạn chế tối đa quyền tài sản của mình. Như vậy, đồng nghĩa với đó là không còn quyền thỏa thuận trong giai đoạn này (thỏa thuận về giá, tổ chức thẩm định giá, bán đấu giá…). Lúc này, người có tài sản là Chấp hành viên (là người được pháp luật giao cho quyền thực hiện) và hàng loạt các yếu tố để đảm bảo cho Chấp hành viên thực hiện công tâm, khách quan, đảm bảo tối đa giá trị cao nhất của tài sản được đưa ra bán đúng pháp luật. Như vậy, để phù hợp về bản chất trong việc bán đấu giá trong THADS và khắc phục những vướng mắc bất cập trên thực tiễn cần có một quy định riêng về trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản thi hành án.

3.2.3. Định hướng 3: Tiếp tục thực hiện mô hình tổ chức thi hành án song song giữa cơ quan thi hành án dân sự trực thuộc bộ máy Nhà nước và tổ chức Thừa phát lại; hoàn thiện hành lang pháp lý để Thừa phát lại tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật được hiệu quả

Những năm gần đây, thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020, trong các Chương trình hành động của ngành tư pháp và Chương trình công tác trọng tâm trong lĩnh vực THADS, theo dõi THAHC đều đặt nhiệm vụ hoàn thiện thể chế lên làm nhiệm vụ hàng đầu. Gần đây nhất, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1804/QĐ-BTP ngày 02/12/2021 của Bộ Tư pháp ban hành Chương trình công tác trọng tâm trong lĩnh vực THADS, theo dõi THAHC năm 2022, trong đó có nhiệm vụ hoàn thiện thể chế và tổ chức thi hành hiệu quả các văn bản pháp luật về THADS, THAHC: “Nghiên cứu, đề xuất các nội dung liên quan đến THADS, THAHC, chế định Thừa phát lại phục vụ xây dựng Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

Quyết định số 77/QĐ-BTP ngày 19/01/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Chương trình hành động của ngành tư pháp, trong đó nhiệm vụ chủ yếu và đầu tiên là “Tập trung tham mưu thể chế hoá những định hướng chính sách trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, các kết luận, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Tiếp tục tham gia hiệu quả trong việc xây dựng, trình Ban Chấp hành Trung ương xem xét, ban hành và tập trung triển khai hiệu quả Nghị quyết về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”.

Trong bối cảnh hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang quyết tâm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020; Kết luận số 34-NQ/TW ngày 07/8/2018 của Bộ Chính trị về thực hiện một số mô hình thí điểm theo Nghị quyết số 18-NQ/TW; Nghị định số 101/2020/NĐ-CP nhằm từng bước thể chế hóa các yêu cầu của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Do đó, việc kiện toàn, sắp xếp lại hệ thống THADS để hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn theo các chủ trương mới của Đảng về cải cách tổ chức bộ máy nhà nước là hết sức cần thiết.

Hiện nay, trên thế giới có 04 loại mô hình THADS: đó là mô hình THADS công, mô hình THADS tư nhân, mô hình THADS bán công, mô hình THADS song song giữa công và tư. Tuy nhiên, dù là lựa chọn mô hình thi hành án nào thì đều tuân theo nguyên tắc bảo đảm việc việc kiểm tra, giám sát chặt chẽ của Nhân dân và các cơ quan, tổ chức; quá trình tổ chức thi hành án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

Chế độ chính trị ở nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo, do nhân dân làm chủ; mục đích hướng tới là xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính vì vậy, việc đổi mới nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu cho công cuộc đổi mới và phát triển đất nước là nhiệm vụ quan trọng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Hoạt động của Thừa phát lại đối với xã hội chính là “Xã hội hóa hoạt động tư pháp” mà chủ trương của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội đã đề ra và phù hợp với xu thế của các nước trên thế giới. Với mục tiêu hướng tới người dân, việc thực hiện các hoạt động của Thừa phát lại đã tạo cơ chế để người dân tăng cường tính chủ động, tích cực của công dân trong các quan hệ dân sự, tố tụng dân sự, hành chính. Thừa phát lại tạo một thị trường cung cấp dịch vụ pháp lý, dịch vụ hành chính tư pháp, bổ trợ tích cực cho cơ cấu hoạt động của ngành tư pháp đáp ứng ngày càng cao yêu cầu của xã hội. Quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức được bảo vệ trước tòa án đặt ra những yêu cầu và sự đảm bảo cho các hoạt động giao dịch dân sự, hạn chế tiêu cực, phát huy hiệu quả tích cực, thúc đẩy các hoạt động trong công tác THADS.

Thực tế, từ ngày 01/01/2016, tại Việt Nam tồn tại 2 mô hình thi hành án độc lập, song song giữa cơ quan THADS trực thuộc bộ máy nhà nước và tổ chức Thừa phát lại. Hiện nay, có nhiều quan điểm đề xuất về mô hình thi hành án, có quan điểm cho rằng nên bỏ chế độ quy định Thừa phát lại tổ chức THADS vì trên thực tế Thừa phát lại tổ chức thi hành án không đạt hiệu quả. Ngược lại, có quan điểm cho rằng nên chuyển toàn bộ hoạt động THADS sang Thừa phát lại tổ chức thi hành cho phù hợp với xu thế trên thế giới. Theo Ban chủ nhiệm, nhận thấy, với hạn chế, bất cập, thực lực của Thừa phát lại (về pháp lý, điều kiện nhân lực, vật lực) hiện nay thì việc chuyển toàn bộ hoạt động THADS hoặc chuyển toàn bộ phần thi hành án theo đơn yêu cầu sang cho Thừa phát lại đảm nhiệm toàn bộ là chưa thực sự phù hợp.

Trên cơ sở đánh giá hiệu quả của từng mô hình THADS, thấy kết quả hoạt động của Thừa phát lại liên quan đến tổ chức THADS còn rất hạn chế về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, nếu đánh giá Thừa Phát lại hoạt động không hiệu quả là chưa đủ cơ sở, bởi lẽ: Thực tế thời gian qua, các cơ quan tham mưu xây dựng pháp luật đã tham mưu để cơ quan có thẩm quyền ban hành các quy định ngày càng bó hẹp nên Thừa phát lại không thể cạnh tranh và phát triển trên thực tế dẫn đến người dân chưa thực sự tin tưởng vào Thừa phát lại. Muốn đánh giá có hiệu quả hay không phải quy định bình đẳng về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên và Thừa phát lại.

Như vậy, Ban Chủ nhiệm đề xuất mô hình THADS ở Việt Nam hiện nay nên giữ nguyên là THADS công song song tồn tại với Thừa phát lại. Để tạo điều kiện cho Thừa phát lại hoạt động cần trao đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn để tạo hành lang pháp lý cụ thể, môi trường bình đẳng để Thừa phát lại từng bước tổ chức thi hành án. Trên cơ sở kết quả đạt được về tổ chức THADS của Thừa phát lại sẽ được tổng kết, đánh giá và có giải pháp tiếp theo liên quan đến mô hình THADS tại Việt Nam.

Theo định hướng này, Nhà nước sẽ vẫn đứng ra để đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án được thi hành, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đã được Tòa án, cơ quan có thẩm quyền ghi nhận, đồng thời duy trì nguồn thu cho ngân sách Nhà nước từ khoản phí THADS. Nhưng đồng thời, vẫn tạo cơ hội cho tổ chức, cá nhân trong việc lựa chọn “người” sẽ bảo vệ quyền và lợi ích của mình.

3.2.4. Định hướng 4: Phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, chế tài đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong kiểm sát, kiểm tra, quản lý thi hành án dân sự

Để tổ chức thi hành bản án, quyết định có hiệu quả, cơ quan THADS không thể “một mình” thực hiện được các công việc thi hành án, mà cần có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong quá trình tổ chức thi hành. Tại Chương VIII Luật THADS đã quy định rõ về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong THADS như Bộ Công an, Tòa án, VKSNDTC, UBND các cấp, Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, Bảo hiểm xã hội, cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm,…Theo đó, hầu hết các cơ quan sẽ có nhiệm vụ phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, theo phạm vi chức năng của mình, mỗi cơ quan, tổ chức sẽ phối hợp với vai trò khác nhau. Cơ quan Công an thì phối hợp trong bảo vệ cưỡng chế thi hành án, bảo vệ kho vật chứng, thu các khoản tiền, tài sản mà người phải thi hành, thân nhân của người phải thi hành án nộp để thi hành án, đề nghị Tòa án xét, miễn giảm hình phạt cho những người phải thi hành án có đủ điều kiện. Tòa án có vai trò phối hợp trong việc chuyển giao bản án, quyết định, giải quyết tranh chấp tài sản kê biên…VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát việc tuân thủ theo pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án, kiểm sát các hoạt động của Chấp hành viên, cơ quan công an, các cơ quan đơn vị, đương sự và cá nhân có liên quan. Các cơ quan, đơn vị khác có liên quan phối hợp giúp cơ quan THADS xác định tính chất pháp lý của tài sản, thực hiện các thủ tục có liên quan khác…

Mặc dù pháp luật đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan trong quá trình tổ chức THADS nhưng thực tế, việc phối hợp có lúc, có nơi còn phát sinh một số vấn đề như:

- Đối với TAND: Trên thực tế, một số bản án, quyết định được ban hành chậm được chuyển giao cho cơ quan THADS; trường hợp kiến nghị xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm cũng mất nhiều thời gian, khi xét xử lại không xử lý toàn diện kết quả thi hành án trước đó. Liên quan đến việc Chấp hành viên có yêu cầu Tòa án thụ lý giải quyết về vấn đề xác định tài sản riêng trong khối tài sản chung, giải quyết tranh chấp đối với tài sản khi bị kê biên thì có nơi Tòa án đã trả lại đơn yêu cầu vì cho rằng không thuộc thẩm quyền được giải quyết theo khoản 12 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự (tài sản đã bị cưỡng chế mới thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án) hoặc vì Chấp hành viên không cung cấp được chứng cứ theo yêu cầu (như đã thể hiện tại phần trên) dẫn đến khó khăn, kéo dài thời gian để cưỡng chế đối với một tài sản.

Đồng thời, trong những năm qua, có nhiều bản án, quyết định của TAND các cấp tuyên không rõ, khó thi hành án dẫn cơ quan THADS gặp khó khăn rất lớn trong quá trình tổ chức thi hành án, nhất là khi cưỡng chế tài sản. Theo số liệu thống kê của Tổng cục THADS cho thấy, năm 2020 (từ 01/10/2019 đến 30/9/2020), toàn quốc có 392 bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật tuyên không rõ, có sai sót, khó thi hành, tương ứng với 421 quyết định thi hành, số tiền phải thi hành là 2.839 tỷ 595 triệu 144 nghìn đồng. Năm 2021 (từ ngày 01/10/2020 đến 30/9/2021) có 99 bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành, tương ứng 107 quyết định thi hành án, số tiền phải thi hành là 302 tỷ 894 triệu 391 nghìn đồng. Cùng với đó, một số Tòa án còn chậm hoặc không trả lời văn bản yêu cầu giải thích bản án, xem xét lại bản án của cơ quan THADS dẫn đến chậm quá trình tổ chức thi hành án hoặc việc tổ chức cưỡng chế đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của bản án, quyết định của Tòa án bị hạn chế. Trong khi đó, pháp luật hiện nay chưa có chế tài cụ thể để xử lý đối với trường hợp này.

Thực trạng trên là nguyên nhân dẫn đến khiếu nại, tố cáo của đương sự đối với cơ quan THADS, làm kéo dài đáng kể hoạt động THADS, gây khó khăn cho hoạt động THADS, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án và tính nghiêm minh của pháp luật.

- Đối với VKSND: VKSND chú trọng trong việc kiểm sát trực tiếp, thường xuyên, đột xuất đối với các vụ việc thi hành án; tuy nhiên, còn chưa chú trọng đến kiểm sát đối với các hoạt động liên quan đến hoạt động thi hành án để có kiến nghị, kháng nghị đối với TAND (liên quan đến các bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành và chậm trả lời yêu cầu của cơ quan THADS) và các cơ quan phối hợp khác khi chậm hoặc không phối hợp tích cực theo đề nghị của cơ quan THADS.

Một trong những bất cập chưa phù hợp với thực tiễn đó là chưa có quy định để ràng buộc trách nhiệm của Viện kiểm sát và kiểm sát viên khi kiểm sát hoạt động THADS (mặc dù Viện kiểm sát đã tiến hành kiểm sát nhưng khi xảy ra sai sót trong quá trình thi hành án lại không rõ phải chịu trách nhiệm như thế nào, trách nhiệm chỉ đặt ra với Chấp hành viên). Đồng thời, chưa có quy định trách nhiệm đối với kết quả kiểm sát của Viện kiểm sát (đối với vụ việc, kiểm sát toàn diện, kiểm sát theo chuyên đề) khi kết quả đó không chính xác gây ảnh hưởng trong quá trình tổ chức thi hành án.

Bên cạnh đó, vẫn có sự chồng chéo về vị trí, chức năng nhiệm vụ liên quan đến hoạt động đấu giá tài sản thi hành án của các tổ chức đấu giá. Hoạt động đấu giá tài sản thi hành án vừa được cơ quan quản lý nhà nước về đấu giá tài sản kiểm tra, thanh tra theo thẩm quyền, vừa được VKSND thực hiện kiểm sát. Dẫn đến một vụ việc THADS có thể đồng thời bị thanh tra bởi cơ quan nhà nước; bị kiểm sát và bị giám sát. Mỗi cơ quan khi thực hiện nhiệm vụ của mình đều có kết luận, yêu cầu cụ thể đối với cơ quan THADS. Trên thực tế, có trường hợp kết luận kiểm tra, thanh tra, kiến nghị, kháng nghị có nội dung không thống nhất, thậm chí là trái ngược nhau dẫn đến Chấp hành viên, cơ quan THADS gặp khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.

- Đối với cơ quan Công an: Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày 30/3/2012 quy định cụ thể việc cơ quan công an phối hợp trong việc xây dựng kế hoạch, phương án bảo vệ cưỡng chế THADS; phối hợp giải quyết các tình huống phát sinh trong quá trình bảo vệ cưỡng chế. Tuy nhiên, thực tế không phải trường hợp nào cơ quan công an cũng phối hợp nhanh chóng, đúng thời hạn quy định; có trường hợp yêu cầu cơ quan THADS nhiều thủ tục làm ảnh hưởng đến thời gian tổ chức cưỡng chế, chậm quá trình tổ chức thi hành án. Pháp luật hiện nay chưa có quy định chế tài đối với những trường hợp có vi phạm nêu trên.

- Đối với các cơ quan khác có liên quan: Mặc dù Luật THADS đã có một chương riêng về công tác phối hợp của các cơ quan có liên quan trong việc tổ chức thi hành án nói chung và cưỡng chế nói riêng. Tuy nhiên, trên thực tế còn có những cơ quan, đơn vị không phối hợp hoặc chậm phối hợp với cơ quan THADS trong việc xác minh tài sản thi hành án (Văn phòng đăng ký QSDĐ còn chậm, không trả lời hoặc cung cấp sai thông tin tài sản theo yêu cầu xác minh của cơ quan THADS), chậm phong tỏa tài khoản, khấu trừ tiền trong tài khoản dẫn đến đương sự tẩu tán thành công tài sản… mà chưa thể quy trách nhiệm cũng như chế tài trong các trường hợp này dẫn đến khó khăn trong quá trình tổ chức thi hành án.

 Như vậy, để công tác THADS đạt hiệu quả, đáp ứng yêu cầu cao hơn trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN cần thiết phải phân định rõ mối quan hệ phối hợp, xác định rõ trách nhiệm cũng như chế tài cụ thể đối với các cơ quan phối hợp trong công tác THADS. Trên cơ sở đó, góp phần đảm bảo việc tổ chức thi hành án được thuận lợi, nhanh chóng; nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động THADS; tạo cơ sở pháp lý rõ ràng để đảm bảo khắc phục và trách nhiệm của các cơ quan đã ban hành bản án, quyết định; củng cố hành lang pháp lý an toàn cho Chấp hành viên, cơ quan THADS trong quá trình tổ chức thi hành án.

3.2.5. Định hướng 5: Xây dựng pháp luật về thi hành án dân sự có lộ trình phù hợp để hội nhập quốc tế, gắn với yếu tố chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội của đất nước

Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng sâu rộng và đi vào thực chất, liên tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện. Trong những năm qua, cùng với quá trình tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản, chính sách pháp luật về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng XHCN khẳng định, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng và hoàn thiện là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế; có môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, mức độ minh bạch, ổn định cao; quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản được tôn trọng và bảo vệ hiệu quả, phù hợp với thông lệ, nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế[44].

Hàng năm, Chính phủ ban hành các Nghị quyết nhằm thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thông qua đó, Chính phủ đã thể hiện rõ quyết tâm không ngừng nỗ lực cải thiện các chỉ số nói trên để tạo ra một môi trường kinh doanh năng động, bình đẳng, hiệu quả. Trong đó, công tác THADS được xác định là một trong các hoạt động, lĩnh vực luôn được đề cao và coi trọng không chỉ như một biện pháp bảo đảm thực thi công lý, hiện thực hóa các phán quyết của Tòa án trong thực tế cuộc sống, từ đó góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. THADS được xác định là một thành tố quan trọng cần phải được cải thiện trong chỉ số thực thi hợp đồng (chỉ số thực thi hợp đồng là 01 trong 10 chỉ số đo lường mức độ cạnh tranh của các nền kinh tế toàn cầu trong Báo cáo môi trường kinh doanh của Ngân hàng thế giới).

Song song quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngày càng nhiều tổ chức, cá nhân, nước ngoài đến làm việc, đầu tư, kinh doanh và cư trú tại Việt Nam; số lượng các tổ chức, cá nhân người Việt ra nước ngoài học tập, lao động, sinh sống cũng không ngừng gia tăng. Điều này đã làm phát sinh các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động, kể cả tình trạng phạm tội của người nước ngoài tại Việt Nam cũng như của người Việt Nam ở nước ngoài từ đó phát sinh nhiều các tranh chấp được giải quyết tại Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền, các vụ việc thi hành án có yếu tố nước ngoài ngày càng có xu hướng tăng cao.

Mặc dù có tính chất đặc thù riêng, tuy nhiên, hiện nay việc THADS có yếu tố nước ngoài chủ yếu vẫn được thực hiện theo trình tự, thủ tục chung để giải quyết trong khi đó, trong quá trình tổ chức thực hiện, cơ quan THADS phát sinh rất nhiều thủ tục đòi hỏi phải yêu cầu về TTTP. Trong công tác THADS, vấn đề TTTP được pháp luật THADS quy định tại Điều 181 của Luật THADS và Điều 50 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/5/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP).

Về cơ bản, Luật THADS, Luật TTTP và các văn bản hướng dẫn đã tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan THADS thực hiện UTTP đối với các vụ việc thi hành án có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, quá trình thực hiện, cơ quan THADS gặp rất nhiều khó khăn, cụ thể:

 (1) Chưa xác định rõ “khái niệm” THADS có yếu tố nước ngoài mà cơ bản các cơ quan THADS phải vận dụng các quy định của pháp luật hiện hành (khoản 2 Điều 663 BLDS 2015 về khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài);

(2) Chưa quy định trách nhiệm vụ thể của cơ quan THADS trong hoạt động TTTP[45].

(3) Chưa phân biệt và quy định các phương thức tống đạt, thông báo cho đương sự ở nước ngoài đối với những trường hợp cụ thể.

(4) Thời hạn thực hiện UTTP kéo dài làm ảnh hưởng đến việc thực hiện các trình tự, thủ tục khác về thi hành án: Theo quy định hiện nay, để thực hiện tống đạt tất cả các văn bản thi hành án (trên dưới 20 văn bản) thì có thể có trường hợp sẽ mất khoảng 20 năm để thực hiện. Đồng thời, qua thực tiễn theo dõi hoạt động UTTP cho thấy, tỷ lệ không có trả lời đối với yêu cầu UTTP trong hoạt động THADS vẫn ở mức cao.

(5) Khó khăn trong việc thi hành nghĩa vụ gắn với nhân thân trong khi đó người phải thi hành án đang ở nước ngoài; trường hợp thi hành nghĩa vụ liên quan đến tiền, tài sản trong khi người phải thi hành án ở nước ngoài, không có tài sản ở Việt Nam; xác minh địa chỉ, nơi cư trú của đương sự ở nước ngoài (cơ quan THADS không có thẩm quyền yêu cầu phía nước ngoài cung cấp thông tin về địa chỉ của đương sự ở nước ngoài)...

Như vậy, vấn đề xây dựng pháp luật THADS phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế, có lộ trình, gắn với yếu tố chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội của đất nước cần được nghiên cứu, đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Luật THADS. Trước mắt, đó là việc cần phải thiết kế một chương riêng trong Luật THADS quy định về THADS có yếu tố nước ngoài, làm cơ sở cho cơ quan THADS thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả, rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

3.2.6. Định hướng 6: Xác định công nghệ thông tin, số hóa trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án là khâu đột phá để tăng cường hiệu quả thi hành án dân sự

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0) đang mở ra một thời kỳ mới trong tiến trình phát triển của nhân loại. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Thời gian qua, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Trong công tác THADS, thực hiện chủ trương của Đảng, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước, thời gian qua, Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS, các cơ quan THADS địa phương đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp, biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS và đạt được một số kết quả đáng ghi nhận.

- Thứ nhất, ban hành nhiều kế hoạch, đề án về ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống THADS, trong đó xác định rõ mục đích, yêu cầu, các nhiệm vụ cụ thể, có lộ trình, giải pháp thực hiện;

- Thứ hai, tăng cường, trang bị hạ tầng kỹ thuật cho công chức, viên chức, người lao động trong hệ thống như trang thiết bị làm việc (máy tính, máy in, máy fax, scan, photocopy, điện thoại,...), hệ thống hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin (hệ thống máy chủ, đường truyền, lưu trữ, an ninh, an toàn thông tin...), đào tạo, tập huấn nâng cao kỹ năng trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác;

- Thứ ba, xây dựng, hoàn thiện và đưa vào triển khai một số ứng dụng nội bộ cho công chức, viên chức, người lao động hệ thống THADS nhằm phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo, hỗ trợ tích cực cho hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ góp phần giải quyết, xử lý công việc được nhanh chóng, thuận tiện: (1) Phần mềm Quản lý quá trình thụ lý, tổ chức thi hành án và báo cáo thống kê THADS với trên 7 nghìn tài khoản người dùng và hơn 1,9 triệu hồ sơ vụ việc thi hành án; (2) Hệ thống quản lý văn bản điều hành kết nối với trục liên thông văn bản quốc gia; (3) Phần mềm Kế toán nghiệp vụ THADS và Kế toán Hành chính sự nghiệp THADS; (4) Phần mềm lưu trữ dùng chung; (5) Hệ thống hộp thư điện tử cá nhân, đơn vị nội bộ với hơn 9 nghìn tài khoản, áp dụng chữ ký số cho lãnh đạo Tổng cục, Lãnh đạo các đơn vị thuộc Tổng cục, các Cục THADS địa phương và một số trưởng phòng chuyên môn của Cục THADS, một số Chi cục THADS; (6) Đầu tư hệ thống giao ban trực tuyến 64 điểm cầu (Tổng cục THADS và 63 cơ quan THADS địa phương); (7) Triển khai thử nghiệm phần mềm cơ sở dữ liệu điện tử thông tin người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án,... Đặc biệt, xây dựng, triển khai một số ứng dụng phục vụ người dân, doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu cung cấp, công khai thông tin, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong việc hoàn thiện các giấy tờ, thủ tục, đồng thời, phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành trong hoạt động THADS cũng như góp phần đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của người dân, doanh nghiệp như: (1) Xây dựng Cổng thông tin điện tử THADS; (2) Triển khai phần mềm Hỗ trợ trực tuyến THADS với nội dung hỗ trợ trực tuyến yêu cầu THADS, hỗ trợ trực tuyến tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp về THADS, hỗ trợ trực tuyến xác nhận kết quả THADS; (3) Đăng tải công khai danh sách người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành, quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 trên Cổng/Trang Thông tin điện tử THADS và tích hợp trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS tại Việt Nam thời gian qua cũng còn gặp một số khó khăn, hạn chế như:

- Nguồn lực đầu tư cho công nghệ thông tin còn hạn chế;

- Việc đầu tư hạ tầng kỹ thuật trong toàn hệ thống THADS chưa được thực hiện đồng bộ; công tác đảm bảo an toán an ninh thông trin ở các cơ quan THADS địa phương chưa được chú trọng;

- Việc xây dựng triển khai một số phần mềm, ứng dụng công nghệ thông tin mặc dù đã được thực hiện nhưng còn chậm so với yêu cầu;

- Chưa có nhiều chính sách khuyến khích, đãi ngộ, chưa thu hút được nguồn nhân lực công nghệ thông tin có trình độ cao làm việc tại các cơ quan THADS địa phương;

- Việc ứng dụng công nghệ thông tin mới chỉ áp dụng chủ yếu về hỗ trợ, cung cấp thông tin cho người dân, doanh nghiệp chứ chưa có những chính sách pháp luật về ứng dụng công nghệ thông tin trực tiếp trong quá trình thực hiện các trình tự, thủ tục thi hành án dẫn tới ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, thời gian tổ chức thi hành án bị kéo dài trên thực tế...

Do đó, trong bối cảnh hội nhập, sự bùng nổ và tham gia vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, xây dựng Chính phủ điện tử và tạo thuận tiện cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong THADS thì cần Xác định công nghệ thông tin, số hóa trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án là khâu đột phá để tăng cường hiệu quả THADS, thông qua việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước số hóa các hoạt động trong công tác THADS.

3.3. Giải pháp thực hiện

Để “hiện thực hóa” những định hướng chính sách nêu trên, cần thực hiện các giải pháp cụ thể sau đây:

3.3.1. Đối với Luật Thi hành án dân sự

Cơ quan có thẩm quyền, cần nghiên cứu, tổng kết toàn diện Luật THADS, thực hiện việc đánh giá tác động của các chính sách nêu trên làm căn cứ để đề xuất Quốc hội ban hành Luật THADS mới, thay thế Luật THADS hiện hành theo hướng:

Thứ nhất, đối với đề xuất: Quy định trách nhiệm và mối quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động thi hành án dân sự một cách hợp lý; xác định rõ các công việc, thời gian phải hoàn thành và điểm dừng trong thi hành án

- Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên và quyền, nghĩa vụ của đương sự:

+ Quy định giảm bớt các nhiệm vụ, quyền hạn không phù hợp của Chấp hành viên; nâng cao vị trí, vai trò của Chấp hành viên trong hoạt động THADS.

+ Đề cao hơn nữa trách nhiệm của đương sự (tự quyết định và định đoạt, có nghĩa vụ chứng minh liên quan đến lợi ích của mình): đương sự phải thực hiện quyền và nghĩa vụ để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nhà nước chỉ “hỗ trợ” bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ đó của họ. Đối với những việc mà cơ quan THADS đã hướng dẫn, yêu cầu đương sự thực hiện quyền của mình để bảo vệ quyền lợi mà cố tình không thực hiện[46] thì có biện pháp xử lý dứt điểm, tạo điểm dừng trong thi hành án. Có như vậy mới khắc phục được tình trạng đương sự cố tình tạo mọi tình huống nhằm không hoặc kéo dài thời gian thi hành án.

- Đối với trường hợp thi hành án các khoản thu cho ngân sách Nhà nước thì ngân sách Nhà nước sẽ chi trả để xác minh điều kiện thi hành án, theo dõi và tổ chức thi hành án. Đối với trường hợp THADS  theo đơn yêu cầu, khi bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành, chi phí xác minh thuộc trách nhiệm của đương sự. Đồng thời, có hướng xử lý dứt điểm đối với những việc chưa có hoặc không có điều kiện thi hành án mà vẫn đảm bảo quyền lợi của người được thi hành án khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành[47].

- Quy định chặt chẽ hơn những trường hợp bắt buộc Chấp hành viên phải cho đương sự thỏa thuận và trách nhiệm nếu không thực hiện thỏa thuận.

- Nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin liên quan đến việc thông báo, tống đạt các văn bản về thi hành án cho đương sự. Đồng thời, thay thế việc tống đạt từng văn bản bằng việc có thể nghiên cứu một văn bản ghi tóm tắt những quyền và nghĩa vụ của đương sự để họ biết và thực hiện trong toàn bộ quá trình tổ chức thi hành án (trừ quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế, biện pháp bảo đảm thi hành án)…

- Quy định cụ thể hóa Điều 53 Luật Đấu giá tài sản về thủ tục đấu giá rút gọn trong THADS và có cơ chế thay thế việc bán đấu giá nhiều lần.

Thứ hai, đối với đề xuất quy định trình tự, thủ tục xử lý tài sản để thu hồi tiền cho nhà nước trong các vụ án kinh tế, tham nhũng; tài sản là quyền sở hữu trí tuệ, cổ phần, cổ phiếu, tài sản hình thành trong tương lai:

- Bổ sung quy định cơ chế thi hành án đặc thù đối với khoản thu hồi tài sản trong các vụ án trong các vụ án tham nhũng, kinh tế;

- Bổ sung quy định trình tự, thủ tục về yêu cầu công nhận và cho thi hành tại nước ngoài phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Việt Nam đối với các vụ việc thi hành án chủ động;

- Quy định rõ trình tự, thủ tục thực hiện việc xử lý cổ phần, cổ phiếu, phần vốn góp, tài sản là quyền sở hữu trí tuệ, tài sản hình thành trong tương lai;

- Quy định cơ chế xử lý riêng khi xử lý tài sản chung (Điều 74 luật THADS) của vợ chồng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế (giải quyết tình trạng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân mặc dù có được do phạm tội mà có nhưng 1 bên vợ/chồng vẫn có quyền tài sản).

Thứ ba, đối với đề xuất quy định riêng đối với bán đấu giá tài sản trong THADS. Để thực hiện chính sách này thì cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cả quy định của Luật Đấu giá tài sản và Luật THADS.

* Đối với Luật Đấu giá tài sản cần có một chương riêng, quy định về bán đấu giá tài sản thi hành án. Trong đó, có những quy định để khắc phục những vấn đề còn mâu thuẫn, chưa rõ, chưa phù hợp, còn khoảng trống chưa quy định của Luật Đấu giá tài sản: Về quy định trình tự đấu giá theo thủ tục rút gọn trong THADS; Quy định “bước giá” là một trong những nội dung chính của Quy chế cuộc đấu giá; khắc phục tình trạng lợi dụng quy định chưa chặt chẽ về thời hạn nộp tiền đặt trước để những người tham gia đấu giá thông đồng, thỏa thuận với nhau; quy định rõ việc xác định người trúng đấu giá trong hình thức đấu giá trực tiếp bằng lời nói và đấu giá bằng bỏ phiếu trực tiếp; làm rõ vấn đề liên quan đến quy định về bán đấu giá không thành; số tiền đặt trước…

* Đối với Luật THADS cần lưu ý một số vấn đề:

- Đương sự không còn quyền thỏa thuận kể từ khi Chấp hành viên ban hành quyết định cưỡng chế và xử lý tài sản.

- Quy định cơ chế kiểm soát việc tổ chức cưỡng chế của Chấp hành viên; theo đó, trước khi cưỡng chế, cần có Hội đồng cùng cấp phê duyệt[48], chấp thuận việc đưa tài sản đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện để cưỡng chế. Hội đồng này và Chấp hành viên cùng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với quyết định và hành vi liên quan. Đây cũng là một cơ chế để hạn chế sai sót của Chấp hành viên trong quá trình tổ chức cưỡng chế cũng như bảo vệ Chấp hành viên trong quá trình tổ chức THADS.

- Cơ chế kiểm sát của VKSND cần được tăng cường hơn nữa đối với các vụ việc phải cưỡng chế thi hành án. Có ý kiến cho rằng, hoạt động tổ chức THADS không phải là hoạt động tố tụng nên không thể quy định bắt buộc Viện kiểm sát phải kiểm sát hồ sơ trước khi cưỡng chế THADS. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, khi cưỡng chế tài sản của người phải thi hành án tức là tước đi quyền tài sản của họ để thực hiện nghĩa vụ đã được bản án, quyết định của Tòa án tuyên là công việc quyết định đến quyền lớn, cơ bản của công dân nên phải được xem xét cẩn trọng và được tiến hành theo trình tự thủ tục chặt chẽ. Do đó, cần phải tăng cường hơn nữa trách nhiệm của VKSND trong giai đoạn này.

Thứ tư, đối với đề xuất xây dựng pháp luật THADS có lộ trình để hội nhập quốc tế gắn với yếu tố chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội của đất nước: Thiết kế một chương riêng trong Luật THADS quy định về THADS có yếu tố nước ngoài, làm cơ sở cho cơ quan THADS thực hiện. Trong đó, đối với một số quy định cụ thể, cần nghiên cứu:

- Xác định rõ các khái niệm việc thi hành án có yếu tố nước ngoài và quy định về thẩm quyền thi hành án cho phù hợp.

- Quy định rõ phương thức thực hiện thông báo đối với các trường hợp cụ thể như phân tích ở trên, bao gồm: (1) thi hành án có yếu tố nước ngoài nhưng các đương sự đều đang ở Việt Nam; (2) đương sự là cá nhân/pháp nhân Việt Nam và đang cư trú hoặc có trụ sở ở nước ngoài; (3) thi hành án có yếu tố nước ngoài nhưng đương sự là cá nhân/pháp nhân nước ngoài và đang ở nước ngoài (cư trú hoặc có trụ sở ở nước ngoài).

- Đối với việc xác định địa chỉ, nơi cư trú của đương sự ở nước ngoài và thẩm quyền tổ chức thi hành án, cần cân nhắc quy định về việc cơ quan THADS có văn bản đề nghị Tòa án xem xét xác định đương sự ở nước ngoài hay ở Việt Nam trong giai đoạn xét xử để xác định cơ quan nào tổ chức thi hành đối với vụ việc.

Đồng thời, ngoài việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về việc quản lý người Việt Nam đã thực hiện việc xuất cảnh; cơ chế phối hợp giữa các cơ quan THADS và cơ quan quản lý nhà nước về xuất, nhập cảnh thì cần cân nhắc quy định về việc người yêu cầu thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin về nhân thân, xác định địa chỉ của đương sự ở nước ngoài để đảm bảo việc thi hành án đạt hiệu quả.

- Giảm bớt thời hạn thực hiện UTTP và quy định rõ thời hạn thực hiện các trình tự, thủ tục khác về thi hành án trong trường hợp cần phải UTTP. Theo đó, cần nghiên cứu, sửa Luật THADS theo hướng: Cơ quan THADS sẽ có văn bản thông báo về toàn bộ các quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong toàn bộ quá trình tổ chức thi hành án cho đương sự ngay sau khi ra quyết định thi hành án (trường hợp khi ra quyết định thi hành án, đương sự đã ở nước ngoài) hoặc ngay sau khi biết được thông tin đương sự đã xuất cảnh sang nước ngoài. Đồng thời, cân nhắc quy định chỉ một số văn bản, quyết định quan trọng nhất định, ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự mới thực hiện việc thông báo. Đối với các văn bản còn lại sẽ thực hiện việc đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của cơ quan THADS tổ chức thi hành (hoặc yêu cầu đương sự cung cấp địa chỉ mail, fax để thực hiện việc thông báo đối với những văn bản này).

- Quy định đối với trường hợp người phải thi hành án đang ở nước ngoài (trong thi hành nghĩa vụ gắn với nhân thân) và người phải thi hành án ở nước ngoài và không có tài sản ở Việt Nam (trong thi hành nghĩa vụ liên quan đến tiền, tài sản) thì cơ quan THADS hướng dẫn người được thi hành án thực hiện việc yêu cầu Tòa án nước ngoài công nhận và cho thi hành bản án, quyết định ở nước đó.

Thứ năm, đối với đề xuất phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, chế tài đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong kiểm sát, kiểm tra, quản lý THADS, khi xây dựng Luật THADS sửa đổi cần xác định rõ:

- Xác định rõ chế tài phải chịu trách nhiệm đối với những cá nhân, cơ quan khi không nghiêm túc thực hiện quy định của pháp luật về phối hợp trong việc tổ chức THADS nhất là việc chuyển giao bản án, quyết định, bảo vệ cưỡng chế; các bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành và chậm trả lời yêu cầu của cơ quan THADS của TAND; các cơ quan liên quan trong việc xác minh tài sản và thực hiện các yêu cầu của Chấp hành viên…

- Quy định rõ và ràng buộc trách nhiệm của kiểm sát viên, Viện kiểm sát khi kiểm sát hoạt động THADS, nhất là đối với những hồ sơ đã được kiểm sát hoặc đối với những tác nghiệp của Chấp hành viên, cơ quan THADS đã có sự tham gia của Viện kiểm sát nhưng sau đó lại phát hiện có thiếu sót, vi phạm. Đồng thời, phân định rõ đối tượng được kiểm sát trong hoạt động thẩm định giá, bán đấu giá khi cơ quan THADS ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá, đấu giá tài sản.

- Tạo cơ chế để nâng cao hơn nữa trách nhiệm của Tòa án nhất là việc chuyển giao bản án, nội dung bản án tuyên không rõ, khó thi hành, giải quyết các yêu cầu, kiến nghị của cơ quan THADS..., tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động xét xử và thi hành án, chịu trách nhiệm “đến cùng” với cơ quan THADS trong quá trình tổ chức thi hành án, nhằm thúc đẩy tiến trình thi hành án, hạn chế tình trạng khiếu nại, tố cáo về thi hành án, đảm bảo hiệu quả hoạt động THADS, mang lại niềm tin cho đương sự vào hoạt động của cơ quan Nhà nước.

Thứ sáu, đối với đề xuất xác định công nghệ thông tin, số hóa trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án là một trong những nhiệm vụ quan trọng để tăng cường hiệu quả công tác THADS.

Hoàn thiện thể chế pháp luật nhằm triển khai thực hiện có lộ trình các nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS phù hợp với các chủ trương, chính sách về ứng dụng công nghệ thông tin của Đảng, Chính phủ trong bối cảnh tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, theo đó:

- Tiếp tục quan tâm hiện đại hóa hạ tầng kỹ thuật, xây dựng và phát triển các phần mềm, ứng dụng, trong đó cần quan tâm về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, chú trọng hệ thống máy chủ, máy trạm, đường truyền kết nối, lưu trữ, thiết bị an ninh, bảo mật… Các giải pháp kỹ thuật đưa ra phải phù hợp và phát huy được hạ tầng kỹ thuật hiện có, bắt kịp xu thế công nghệ hiện đại.

- Ban hành các chính sách thu hút, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nền tảng công nghệ thông tin đủ về số lượng và chất lượng.

- Chú trọng xây dựng và phát triển các phần mềm ứng dụng, cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và chuyên môn nghiệp vụ, trong đó tập trung thực hiện việc xây dựng Hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử quốc gia về THADS có khả năng tích hợp, kết nối, chia sẻ dữ liệu với các phần mềm, cơ sở dữ liệu liên quan như:

 + TAND các cấp (trong việc liên thông kết quả xét xử),

 + Các cơ quan thi hành án hình sự trong việc thi hành án đối với phạm nhân;

 + Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, cơ sở dữ liệu về đất đai, cơ sở điện tử về thuế, về đăng ký doanh nghiệp… (trong việc xác minh nhân thân, điều kiện về tài sản…);

 + Phần mềm trong THADS để thực hiện thủ tục thi hành án (nộp đơn yêu cầu, thông báo thi hành án, chi trả tiền, tài sản…).

3.3.2. Đối với pháp luật về Thừa phát lại

Hiện nay, mô hình THADS công (cơ quan THADS) đang có các quy định tạo hành lang pháp lý ổn định, rõ ràng là Luật THADS năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014, năm 2022 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đối với Thừa phát lại, hiện nay chức năng, nhiệm vụ, hoạt động của Thừa phát lại mới chỉ được điều chỉnh bằng văn bản dưới Luật nên tạo ra rất nhiều khó khăn, rào cản pháp lý làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Thừa phát lại cũng như quá trình triển khai, thực thi chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa công tác THADS.

Về nội dung này, có ý kiến cho rằng cần xây dựng Luật THADS mới thay thế Luật THADS hiện hành, trong đó có quy định về thẩm quyền tổ chức thi hành án của Thừa phát lại để tạo môi trường bình đẳng với Chấp hành viên và cơ quan THADS. Tuy nhiên, Ban Chủ nhiệm nhận thấy ý kiến này là chưa phù hợp, bởi lẽ bên cạnh nhiệm vụ trực tiếp tổ chức thi hành án thì Thừa phát lại còn có 03 nhiệm vụ, quyền hạn khác (lập vi bằng, tống đạt văn bản, xác minh điều kiện thi hành án). Do đó, cần có Luật Thừa phát lại riêng để điều chỉnh bao quát cả 4 nhóm nhiệm vụ Thừa phát lại đang thực hiện. Khi sửa đổi Luật THADS, sẽ quy định các trình tự, thủ tục mang tính nguyên tắc chung áp dụng cho cả Chấp hành viên và Thừa phát lại. Khi xây dựng Luật Thừa phát lại cần xem xét đến các yếu tố sau:

Thứ nhất, đối với sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động kiểm sát, giám sát: Tiếp cận dưới góc độ bản chất của THADS là hoạt động hành chính tư pháp, cơ quan THADS chịu sự lãnh đạo, giám sát trực tiếp của các cấp ủy Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, “Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, của công luận và của nhân dân đối với hoạt động tư pháp” là một trong những phương hướng cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong khi đó, về bản chất, Thừa phát lại là doanh nghiệp nên việc đảm bảo sự lãnh đạo và giám sát của Đảng đối với Thừa phát lại sẽ được thực hiện như thế nào là vấn đề cần lưu ý.

Bên cạnh đó, việc Viện kiểm sát có quyền kiểm sát các hoạt động này hay không còn có nhiều ý kiến trái chiều. Có ý kiến cho rằng đây là các hoạt động bổ trợ tư pháp mà không phải là hoạt động tư pháp nên không thuộc phạm vi kiểm sát của VKSND. Như vậy, đồng nghĩa với việc Viện kiểm sát không có quyền kiểm sát đối với hoạt động của Thừa phát lại khi tổ chức thi hành án. Đây là vấn đề cần làm rõ khi xây dựng Luật Thừa phát lại để quy định về hoạt động kiểm sát cho phù hợp.

Thứ hai, về vấn đề bồi thường thiệt hại, nếu trong quá trình tổ chức thi hành án, những vi phạm của Chấp hành viên gây thiệt hại cho đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, chịu sự điều chỉnh của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Tuy nhiên, Thừa phát lại không phải là công chức nên nếu vi phạm gây thiệt hại cho các bên đương sự hoặc cho bên thứ ba thì cơ chế xử lý sẽ như thế nào, chế tài nào sẽ được áp dụng, với mức bồi thường, xử phạt ra sao để vừa bảo đảm phát triển quyền hành nghề hợp pháp cho Thừa phát lại, vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên.

Kết luận chương 3: Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, Ban chủ nhiệm đã phân tích và đưa ra các định hướng chính sách lớn để đề xuất sửa đổi Luật THADS. Trước khi đề xuất định hướng lớn, Ban chủ nhiệm đã nghiên cứu về chính sách lớn, đưa ra khái niệm chính sách lớn để sửa Luật THADS và các yêu cầu khi xây dựng chính sách. Theo đó, có thể hiểu “định hướng chính sách lớn phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Luật THADS” là việc nghiên cứu, đánh giá lý luận và thực tiễn của công tác THADS, từ đó đưa ra những định hướng là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền hoạch định chính sách nghiên cứu, tham khảo, sử dụng và xây dựng chính sách trong Dự án Luật THADS (sửa đổi). Ban chủ nhiệm đã đề xuất 06 định hướng, đó là: (1) Quy định trách nhiệm và mối quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động thi hành án dân sự một cách hợp lý; xác định rõ các công việc, thời gian phải hoàn thành và điểm dừng trong thi hành án; (2) Quy định cơ chế đặc thù trong THADS; (3) Tiếp tục thực hiện mô hình tổ chức thi hành án song song giữa cơ quan THADS trực thuộc bộ máy Nhà nước và tổ chức Thừa phát lại; hoàn thiện hành lang pháp lý để Thừa phát lại tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật được hiệu quả; (4) Phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, chế tài đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong kiểm sát, kiểm tra, quản lý THADS; (5) Xây dựng pháp luật THADS có lộ trình để hội nhập quốc tế gắn với yếu tố chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội của đất nước; (6) Xác định công nghệ thông tin, số hóa trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án là một trong những nhiệm vụ quan trọng để tăng cường hiệu quả công tác THADS.

Đồng thời, đề xuất giải pháp, theo đó (1) sửa Luật THADS với đề xuất hướng cụ thể kèm theo từng định hướng lớn, (2) xây dựng Luật Thừa phát lại theo hướng tạo hành lang pháp lý cụ thể, môi trường bình đẳng với Chấp hành viên để Thừa phát lại từng bước tổ chức thi hành án. Trên cơ sở kết quả đạt được về tổ chức THADS của Thừa Phát lại sẽ được tổng kết, đánh giá và có giải pháp tiếp theo liên quan đến mô hình THADS tại Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu giúp khi sửa Luật THADS sẽ xây dựng được trình tự, thủ tục chặt chẽ. Thông qua đó, xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên; quyền và nghĩa vụ của đương sự phù hợp, đúng bản chất của quan hệ dân sự, nhà nước tạo mọi điều kiện để đương sự thực hiện các quyền và đảm bảo thực hiện bởi quyền lực nhà nước chứ không làm thay dẫn đến tâm lý ỷ lại hay lợi dụng để kéo dài thời gian tổ chức thi hành án. Việc rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án còn thể hiện ở đề xuất các quy định bổ sung về quyền thỏa thuận của đương sự, trình tự bán đấu giá tài sản thi hành án… Ngoài ra, với đề xuất liên quan đến thu hồi tài sản cho Nhà nước trong các vụ án tham nhũng, kinh tế; thi hành án có yếu tố nước ngoài, chuyển đổi số trong THADS đã hoàn thiện các khoảng trống chưa được pháp luật quy định để nâng cao hiệu quả công tác THADS, đảm bảo tối đa quyền lợi của đương sự cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong thi hành án. Đây cũng là những tiền đề quan trọng để các nước trên thế giới nhìn nhận, đánh giá về môi trường đầu tư kinh doanh, pháp luật minh bạch của Việt Nam để quan hệ, hợp tác, hội nhập với Việt Nam và ngược lại.

 

 

 

KẾT LUẬN CHUNG CỦA ĐỀ TÀI

Hoạt động THADS nhằm bảo đảm cho bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án được chấp hành, có hiệu quả thực thi trên thực tiễn; góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật XHCN; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước; góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Do đó, việc xây dựng thể chế pháp luật về THADS luôn được Đảng và nhà nước quan tâm. Từ 01/6/1993, Pháp lệnh THADS năm 1993 có hiệu lực, công tác THADS từ Tòa án nhân dân các cấp được chuyển giao sang cơ quan thuộc Chính phủ đến nay đã có Luật THADS năm 2008 được ban hành và được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và 2022. Cùng với 83 văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật đã đưa công tác THADS ngày càng hoàn thiện và đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đã đạt được thì Luật THADS đã bộc lộ những vướng mắc, hạn chế bất cập làm giảm hiệu quả công tác thi hành án. Để đáp ứng với tình hình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước cũng như hội nhập thế giới; thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách pháp luật, việc nghiên cứu những định hướng chính sách lớn để phục vụ cho việc sửa đổi Luật THADS là cần thiết nhằm hoàn thiện pháp luật THADS nhằm nâng cao hiệu quả công tác THADS trong thời gian tới.

Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận chung về THADS, trong đó làm rõ, đặc trưng, bản chất, tiêu chí đánh giá, các yếu tố ảnh hưởng, ý nghĩa của THADS để đưa ra khái niệm:  Thi hành án dân sự là tổng thể các hoạt động của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước và các chủ thể khác nhằm thực thi trên thực tế các phán quyết của Tòa án có hiệu lực thi hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật THADS, pháp luật khác liên quan của nhà nước quy định. Đồng thời, nghiên cứu về chính sách lớn, đưa ra khái niệm chính sách lớn để sửa Luật THADS và các yêu cầu khi xây dựng chính sách. Theo đó, có thể hiểu “định hướng chính sách lớn phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự” là việc nghiên cứu, đánh giá lý luận và thực tiễn của công tác THADS, từ đó đưa ra những định hướng là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền hoạch định chính sách nghiên cứu, tham khảo, sử dụng và xây dựng chính sách trong Dự án Luật THADS (sửa đổi).

Ban chủ nhiệm nghiên cứu về lịch sử hình thành và hoàn thiện pháp luật THADS ở Việt Nam từ giai đoạn trước cách mạng tháng 8/1945 đến nay. Nghiên cứu nội dung cơ bản của Luật THADS năm 2008 được sửa đổi năm 2014, 2022 cũng như pháp luật về Thừa phát lại. Trên cơ sở đó, đánh giá về ưu điểm, tồn tại, nguyên nhân của pháp luật THADS và Thừa phát lại theo từng giai đoạn cũng như kết quả tổ chức thực hiện pháp luật THADS và Thừa phát lại. Cùng với đó, nghiên cứu các mô hình THADS trên thế giới như THADS công, bán công, tư nhân, hỗn hợp. Thông qua việc nghiên cứu rút ra những ưu điểm, tồn tại của từng mô hình và kinh nghiệm có thể áp dụng cho Việt Nam. Đề tài đã đề ra: 06 định hướng chính sách lớn để đề xuất nghiên cứu khi sửa Luật THADS: (1) Quy định trách nhiệm và mối quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động thi hành án dân sự một cách hợp lý; xác định rõ các công việc, thời gian phải hoàn thành và điểm dừng trong thi hành án; (2) Quy định cơ chế đặc thù trong THADS; (3) Tiếp tục thực hiện mô hình tổ chức thi hành án song song giữa cơ quan THADS trực thuộc bộ máy Nhà nước và tổ chức Thừa phát lại; hoàn thiện hành lang pháp lý để Thừa phát lại tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật được hiệu quả; (4) Phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, chế tài đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong kiểm sát, kiểm tra, quản lý THADS; (5) Xây dựng pháp luật THADS có lộ trình để hội nhập quốc tế gắn với yếu tố chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội của đất nước; (6) Xác định công nghệ thông tin, số hóa trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án là một trong những nhiệm vụ quan trọng để tăng cường hiệu quả công tác THADS. Trên cơ sở đó, đã đề xuất các giải pháp cụ thể liên quan khi sửa Luật THADS cũng như xây dựng Luật Thừa phát lại.

Ban chủ nhiệm hy vọng kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là một trong những cơ sở quan trọng để cơ quan có thẩm quyền tham khảo, đề xuất chính sách trong quá trình lập đề nghị xây dựng Luật THADS sửa đổi./.

 



 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm ...