• Thuộc tính
Tên đề tài Các giải pháp tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Nội dung tóm tắt

I. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Thực hiện chủ trương của Đảng về tăng cường hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp tại Nghị quyết số 48-NQ/TW[1], Nghị quyết số 49-NQ/TW[2], Chỉ thị số 39-CT/TW[3], trong những năm qua, Bộ Tư pháp và các cơ quan pháp luật, tư pháp của Việt Nam đã quan tâm, chú trọng đẩy mạnh công tác hợp tác quốc tế nói chung và hợp tác trong lĩnh vực THADS nói riêng. Cụ thể, trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về THADS, Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia các hoạt động  như: nghiên cứu và từng bước tiếp cận các cơ chế, mô hình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này; tham gia tích cực vào các hội nghị thường niên toàn cầu/khu vực trong lĩnh vực THADS; khảo sát, học tập kinh nghiệm của một số quốc gia trong công tác THADS; tổ chức một số hội thảo quốc tế với sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài về THADS để nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế… Những kiến thức, kinh nghiệm tham khảo được trong quá trình thực hiện hợp tác quốc tế về THADS đã có tác dụng nhất định đối với Việt Nam trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về THADS (Luật THADS 2008, Luật THADS sửa đổi năm 2014, năm 2022, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật THADS, Nghị quyết 107/2015/QH13 của Quốc hội về thực hiện chế định thừa phát lại, Nghị định 08/2020/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại…); đổi mới mô hình tổ chức các cơ quan THADS từ trung ương đến địa phương, củng cố và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác THADS, qua đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác này.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS của Việt Nam còn hạn chế, chưa có tầm nhìn mang tính định hướng chiến lược lâu dài. Phạm vi hợp tác cũng mới chủ yếu tập trung trên bình diện song phương mà chưa chú trọng nhiều đến bình diện đa phương và khu vực.

Trải qua hơn 35 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tiếp thu có chọn lọc những giá trị phổ quát của nhân loại về Nhà nước pháp quyền để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Bước vào giai đoạn phát triển mới, trước những yêu cầu và nhiệm vụ mới, Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định sự cần thiết phải “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; coi đây “là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị” ở nước ta; đồng thời, đề ra nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó có xác định những nhiệm vụ trọng tâm đến năm 2030, tập trung ưu tiên xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhấn mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vấn đề rất cơ bản, rộng lớn, phức tạp, nhạy cảm, hệ trọng, liên quan đến sự tồn vong của chế độ, sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn[4]. Việc tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế sẽ phục vụ hữu ích cho công tác cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, trong đó có lĩnh vực THADS.

Mặt khác, bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ cùng với sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng 4.0 đã và đang đặt ra những thách thức lớn đối với nền kinh tế của Việt Nam, đòi hòi Việt Nam ngày càng phải cải thiện môi trường kinh doanh minh bạch, ổn định cao; quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản được tôn trọng và bảo vệ hiệu quả, phù hợp với thông lệ, nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, cơ chế thực thi pháp luật, trong đó có lĩnh vực THADS hiện hành của Việt Nam vẫn còn những điểm hạn chế, bất cập. Trên thực tế, các quy định pháp luật về THADS hiện nay còn chưa đầy đủ, thậm chí còn chồng chéo, chưa thực sự theo kịp với điều kiện thực tế, dẫn đến khó khăn trong hoạt động thi hành ; năng lực của các cán bộ làm công tác thi hành án mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn bất cập so với mức độ phức tạp ngày càng gia tăng của các vụ việc THADS (nhiều vụ tồn đọng, kéo dài, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan làm phát sinh khiếu nại, tố cáo trong THADS). Nhận thức và trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng về công tác THADS, đặc biệt là công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế vẫn còn hạn chế. Cơ chế, chính sách, pháp luật trong công tác này còn bất cập. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ làm công tác thi hành án dân sự chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng và cơ quan thi hành án có lúc, có việc chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao; hợp tác quốc tế trong THADS, đặc biệt là thu hồi tài sản tham nhũng bị tẩu tán ra nước ngoài còn khó khăn, vướng mắc; tỉ lệ thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt còn thấp...Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh, quyền và lợi ích của các nhà đầu tư, người dân và doanh nghiệp, làm giảm năng lực cạnh tranh và khả năng thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam.

Để giải quyết tình trạng này, việc khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực thi hiệu quả pháp luật về THADS của Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu, học hỏi và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế được xem là nhiệm vụ trọng tâm và cấp thiết trong thời gian tới, đòi hỏi Việt Nam phải có những bước đi chiến lược, bài bản để phát huy hiệu quả thực sự của các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS, đặc biệt là thúc đẩy hợp tác trên bình diện đa phương và khu vực.

Ngày 29/3/2022, Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/BCSĐ về lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm THADS, THAHC giai đoạn 2022-2026[5], trong đó nêu rõ yêu cầu về tăng cường hợp tác quốc tế, chủ động, tích cực, tranh thủ hiệu quả kinh nghiệm của một số quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển và các chuẩn mực quốc tế góp phần hoàn thiện chính sách pháp luật về THADS, thi hành án hành chính. Tại Nghị quyết này, Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp cũng đã giao Vụ Hợp tác quốc tế xúc tiến các hoạt động hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm về hoàn thiện thể chế về THADS thông qua các kế hoạch hoạt động đối ngoại hàng năm/kế hoạch hoạt động của các chương trình, dự án của Bộ và nghiên cứu Đề án về khả năng của Việt Nam gia nhập Liên minh Thừa phát lại quốc tế (UIHJ). Ngoài ra, trong khuôn khổ hợp tác pháp luật ASEAN thông qua cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp ASEAN (ALAWMM) và Hội nghị quan chức pháp luật cao cấp ASEAN (ASLOM), nhiều chủ đề liên quan đến THADS cũng được thường xuyên thảo luận (như tăng cường tương trợ tư pháp về dân sự; thực tiễn tốt trong thu hồi nợ xuyên quốc gia; kinh nghiệm trong thu hồi tài sản tham nhũng…). Thời gian vừa qua, việc tham gia của Việt Nam tại diễn đàn khu vực ASEAN về chủ đề này còn nhiều hạn chế, do đó việc tăng cường sự hiện diện của Việt Nam trong khuôn khổ này là cần thiết trong bối cảnh vị thế của nước ta trong ASEAN ngày càng được tăng cường.

Với tính chất là một trong những hoạt động tư pháp, lĩnh vực THADS còn có rất nhiều dư địa có thể hợp tác thông qua các cơ chế đa phương/khu vực (ví dụ như công nhận, thi hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án, trọng tài nước ngoài; xác minh, kê biên, thu hồi tài sản ở nước ngoài trong các vụ việc dân sự - đặc biệt là thi hành phần tài sản đang ở nước ngoài; thực hiện quyền cấp dưỡng, nuôi con có yếu tố nước ngoài)... Do đó, việc tham gia cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa hết sức quan trọng, một mặt góp phần tăng cường hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa các cơ quan THADS của Việt Nam và các nước, mặt khác tạo cơ sở pháp lý giúp Việt Nam giải quyết vấn đề xung đột pháp luật về THADS với các nước thành viên, đẩy nhanh quy trình THADS, góp phần tích cực để giải quyết các tranh chấp và yêu cầu khác phát sinh trong quan hệ giữa công dân, pháp nhân của Việt Nam với các nước, đồng thời bảo đảm lợi ích của các đương sự trong tố tụng dân sự quốc tế.

Nói tóm lại, việc tăng cường sự tham gia vào các cơ chế đa phương và khu vực được xem là biện pháp có tính lâu dài, bền vững và hữu hiệu trong việc hỗ trợ Việt Nam hoàn thiện thể chế về THADS, tổ chức thi hành một cách có hiệu quả trên thực tế công tác này cũng như tăng cường vị thế/uy tín của thiết chế THADS Việt Nam tại các cơ chế đa phương và khu vực. Mục tiêu này cũng phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 như yêu cầu tại Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Trên cơ sở đó, việc nghiên cứu đề tài “Tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS” là cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm nghiên cứu tổng thể về các cơ chế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS hiện nay; đánh giá tính tương thích và khả năng gia nhập của Việt Nam vào các cơ chế này, đồng thời đưa ra được các giải pháp đồng bộ, hiệu quả nhằm tăng cường sự hiện diện của Việt Nam vào các thiết chế đa phương và khu vực về THADS, qua đó, góp phần đẩy mạnh công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS, tăng cường quảng bá hình ảnh và vai trò của chế định THADS của Việt Nam ra trường quốc tế cũng như tranh thủ được kinh nghiệm, thực tiễn tốt trong THADS tại các quốc gia trên thế giới để tham khảo có chọn lọc và vận dụng vào bối cảnh, điều kiện của Việt Nam.

2. Mục tiêu nghiên cứu của Đề tài

2.1. Mục tiêu tổng quát

Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp tác quốc tế, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS, cơ chế hợp tác đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS, Đề tài đưa ra các kiến nghị khoa học và giải pháp nhằm tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS, bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước và các cam kết quốc tế của nước ta.

2.2. Mục tiêu cụ thể

Đề tài nghiên cứu khoa học về “Các giải pháp tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS” sẽ tập trung nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS trên bình diện đa phương với mục tiêu chung là xây dựng được hệ thống luận cứ lý luận và thực tiễn để từ đó đề xuất các giải pháp tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS. Các nhiệm vụ cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu chung bao gồm:

- Xây dựng được hệ thống luận điểm khoa học về vai trò, bản chất của cơ chế hợp tác đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS;

- Xây dựng được hệ thống luận điểm khoa học về thực trạng sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS;

- Xác định được hệ thống giải pháp tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS.

3. Nội dung, đối tượng nghiên cứu chính của Đề tài

Trong phạm vi nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng thuật ngữ “hợp tác quốc tế đa phương” để chỉ hình thức hợp tác quốc tế đa phương nhiều bên/toàn cầu và thuật ngữ “hợp tác quốc tế khu vực” để chỉ hình thức hợp tác quốc tế đa phương khu vực châu Á hoặc hẹp hơn là Đông Nam Á.

Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, Đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung sau đây:

Thứ nhất, Đề tài nghiên cứu vai trò của việc tham gia các điều ước quốc tế, tổ chức quốc tế đối với việc cải thiện hệ thống thi hành án ở một số quốc gia; kinh nghiệm hợp tác đa phương và khu vực của một số quốc gia và khu vực như Nga, Thái Lan, Liên minh châu Âu, các quốc gia châu Mỹ… để làm cơ sở đề xuất các giải pháp tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS;

Thứ hai, Đề tài đánh giá thực trạng sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS;

Thứ ba, Đề tài đưa ra các giải pháp tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS.

4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, sử dụng phép biện chứng duy vật và duy vật lịch sử trong việc giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu;

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để làm rõ bản chất các khái niệm, vấn đề nghiên cứu, đồng thời xây dựng được các giải pháp về chính sách và pháp luật từ những nội dung đã triển khai;

- Phương pháp luật học so sánh: Đề tài sử dụng phương pháp luật học so sánh làm rõ những điểm tương đồng hoặc khác biệt của pháp luật Việt Nam so với pháp luật một số quốc gia trên thế giới.

- Phương pháp nghiên cứu khoa học dựa trên bằng chứng: thông qua các bằng chứng cụ thể (con số, dữ liệu…) về những kết quả tích cực thu được từ hợp tác quốc tế trong THADS nhằm đưa ra các luận điểm khoa học lý giải sự cần thiết của hợp tác quốc tế trong THADS, qua đó đưa ra các giải pháp/khuyến nghị có tính thuyết phục nhằm tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào cơ chế hợp tác đa phương/khu vực về THADS.

5. Tình hình nghiên cứu và ý nghĩa khoa học của Đề tài

5.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của Đề tài

* Công trình nghiên cứu bằng tiếng Việt

- Bài viết “THADS trong bối cảnh hội nhập quốc tế” của tác giả Lê Thị Thu Hiền[6] đã bước đầu nêu ra thực trạng công tác THADS trong bối cảnh hội nhập và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả THADS trong bối cảnh hội nhập. Thông qua việc phân tích vai trò của THADS trong đánh giá môi trường đầu tư, kinh doanh quốc gia, cũng như tình hình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS, bài viết đã cho thấy Việt Nam chưa tham gia đàm phán, ký kết bất kỳ một điều ước, thỏa thuận quốc tế hoặc tham gia bất cứ một tổ chức quốc tế nào. Do vậy, việc tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS là một yêu cầu tất yếu, khách quan và phù hợp với yêu cầu hội nhập chung của đất nước cũng như lĩnh vực tư pháp và pháp luật riêng của Bộ Tư pháp. Các giải pháp được đưa ra bao gồm (1) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong THADS theo các hình thức hợp tác quốc tế đặc trưng là đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực THADS; tham gia các chương trình, dự án hợp tác với nước ngoài; tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm khoa học, tập huấn chuyên sâu có sự tham gia của các chuyên gia, cơ quan, tổ chức nước ngoài; tổ chức các đoàn khảo sát để nghiên cứu học tập kinh nghiệm của nước ngoài; tăng cường phối hợp với một số nước có nhiều hoạt động thi hành dân sự với Việt Nam hoặc nước có nhiều bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài và quyết định của trọng tài nước ngoài yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; (2) Tiếp tục hoàn thiện thể chế về THADS theo hướng hội nhập, hài hòa hóa với pháp luật quốc tế về THADS; (3) Nghiên cứu các biện pháp rút ngắn thời gian THADS; (4) Nâng cao năng lực cho đội ngũ công chức, viên chức, chấp hành viên, thẩm tra viên, người làm công tác THADS;

- Bài viết “Vai trò của THADS qua lăng kính của học giả quốc tế” của ThS. Nguyễn Văn Nghĩa[7] đã chỉ rõ sự tương tác qua lại giữa công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế với pháp luật về THADS ngày càng chặt chẽ và cùng hướng tới nhiều mục đích điều chỉnh chung, đặc biệt là những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc bảo vệ quyền con người và những quyền cơ bản của công dân;

- Bài viết “Nâng cao hiệu quả thi hành án kinh doanh, thương mại là yêu cầu cấp thiết trong xu thế hội nhập, nhìn từ góc độ xét xử” của tác giả Tưởng Duy Lượng - Nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cũng góp phần làm rõ cơ sở thực tiễn của việc nâng cao hiệu quả thi hành án kinh doanh, thương mại trong xu thế hội nhập, đảm bảo hiệu lực thực tế của bản án/quyết định của Tòa án với vai trò là trung tâm của hệ thống tư pháp.

- Đề tài NCKH cấp Bộ “Nội luật hóa các điều ước quốc tế Việt Nam ký kết và tham gia phục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc”[8] làm rõ cơ sở khoa học pháp lý về điều ước quốc tế và nội luật hóa điều ước quốc tế, đánh giá thực trạng khuôn khổ pháp luật Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xác định các yêu cầu và sự cần thiết đối với việc nội luật hóa các điều ước quốc tế nhằm phục vụ hội nhập quốc tế.

- Đề tài NCKH cấp Bộ “HccH: Giá trị pháp lý của các điều ước quốc tế, thực tiễn nội luật hóa và áp dụng tại các quốc gia thành viên”[9] đã nghiên cứu giá trị pháp lý của các công ước của Hội nghị La Hay trong hệ thống pháp luật các quốc gia, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi gia nhập các Công ước trong khuôn khổ Hội nghị La Hay. Trong số những Công ước được đề tài nghiên cứu, Công ước La Hay năm 1970 về thu thập chứng cứ ở nước ngoài trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại và Công ước La Hay năm 1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại là hai Công ước trực tiếp liên quan đến lĩnh vực THADS.

* Cuốn sách “Bối cảnh quốc tế về công tác THADS” của Giáo sư Luật học Konstantinos D. Kerameus[10] đã chỉ ra rằng các nhà nghiên cứu pháp luật THADS trên thế giới đã nhận thức được vai trò ngày càng quan trọng của công tác THADS cũng như mối quan hệ và đóng góp của nó đối với sự phát triển của pháp luật quốc tế và nền kinh tế quốc tế.

- Cuốn sách “Khi khu vực công dừng lại, khu vực tư hành động: Các vụ kiện dân sự nhằm phục hồi tài sản bị đánh cắp từ tham nhũng” của tác giả Brun, Jean Pierre[11] đã tổng kết tình hình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS hiện nay trên thế giới trong lĩnh vực THADS nhằm phục hồi tài sản tham nhũng. Các Công ước và điều ước quốc tế phổ biến trong lĩnh vực này bao gồm Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC), Công ước La Hay về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại và một số Công ước khác.

- Cuốn sách “Công nhận và cho thi hành phán quyết trong vụ việc dân sự và thương mại” của tác giả Anselmo Reyes[12] đã chỉ ra rằng thế giới đang có nhu cầu bức thiết trong việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phát triển và sử dụng công nghệ trong việc công nhận và cho thi hành bản án của Toà án nước ngoài thông qua biên giới, đồng thời cung cấp thông tin về việc công nhận và cho thi hành trong lĩnh vực dân sự và thương mại của 15 hệ thống pháp luật khác nhau tại châu Á, trong đó có Việt Nam.

- Tài liệu THADS ở Việt Nam của Tổng cục Thi hành án Thái Lan[13] đã cung cấp tổng quan về khuôn khổ pháp luật về THADS, hệ thống và quá trình THADS Việt Nam, việc tăng cường năng lực và đào tạo cho thừa phát lại và các chức danh tư pháp, những thử nghiệm, sáng kiến gần đây trong lĩnh vực THADS cũng như đánh giá khách quan về công tác hợp tác quốc tế song phương/đa phương của Việt Nam.

- Tài liệu Hướng dẫn cho người hành nghề luật – Hợp tác tư pháp trong lĩnh vực dân sự[14] tại Liên minh châu Âu đã cung cấp tổng quan về tình hình hợp tác giữa các quốc gia trong Liên minh châu Âu trong nhiều khía cạnh tư pháp, trong đó có THADS. Qua đó, tài liệu đã giới thiệu tổng quan tình hình, luật áp dụng, thẩm quyền và thủ tục thi hành án tại châu Âu. Đồng thời, tài liệu cũng cung cấp thêm về Mạng lưới Tư pháp châu Âu – cơ chế đặc thù về hợp tác quốc tế nhằm tăng cường hợp tác và tiếp cận thông tin trên thực tế về các vấn đề dân sự và thương mại tại châu Âu.

- Tài liệu Cung cấp khuôn khổ hợp tác quốc tế về tư pháp dân sự do Chính phủ Anh[15] soạn thảo đã cung cấp những thông tin tổng quan về các điều ước quốc tế mà Vương quốc Anh dự định tham gia khi rời khỏi Liên minh châu Âu cũng như quan điểm của Vương quốc Anh đối với các điều ước này.

- Luận văn tiến sỹ “Nguyên tắc tự do di chuyển của bản án dân sự tại Liên minh châu Âu và quyền xét xử công bằng” của Ông Monique Hazelhorst[16] đã đưa ra những thông tin chi tiết về các khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc công nhận và cho thi hành bản án tại các quốc gia Liên minh châu Âu.

* Công trình nghiên cứu bằng tiếng Pháp:

- Cuốn sách “Les huissiers de justice” (Thừa phát lại) của tác giả Alexandre Mathieu – Fritz[17] (2005) mô tả đầy đủ mô hình THADS ở các nước trên thế giới cũng như giới thiệu về cơ chế tăng cường hợp tác quốc tế trong THADS nhằm đảm bảo cho bản án/quyết định của tòa án/trọng tài được thực thi kể cả ở nước ngoài; cung cấp kinh nghiệm quốc tế về mô hình tổ chức và hoạt động của THADS trên thế giới để các quốc gia chọn lọc, tham khảo;

- Cuốn sách “Les moyens modernes de transmission des actes judiciaires et extrajudiciaires en Europe” (Các phương thức hiện đại về chuyển giao các văn bản tư pháp và ngoài tư pháp tại  Châu Âu) của Hội đồng thừa phát lại quốc gia Pháp[18] cũng giới thiệu về cơ chế hợp tác quốc tế trong THADS tại các quốc gia châu Âu, qua đó làm rõ các vấn đề như nội luật hóa/chuyển hóa các điều ước quốc tế của liên minh Châu Âu vào pháp luật các quốc gia thành viên cũng như tăng cường hiệu lực thi hành các bản án dân sự của cơ quan tài phán (tòa án/trọng tài) trong khuôn khổ liên minh châu Âu;

- Cuốn sách “Huissier de justice – Les codes thématiques” (Thừa phát lại – các bộ luật chuyên ngành)[19] tập trung giới thiệu kinh nghiệm pháp luật của các nước trên thế giới về THADS/thừa phát lại, cung cấp kinh nghiệm để các quốc gia tham khảo trong quá trình hoàn thiện pháp luật cũng như tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.

5.2. Ý nghĩa khoa học của Đề tài

Đề tài đề xuất những giải pháp tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS, góp phần định hướng công tác hợp tác quốc tế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS trong thời gian tới thông qua phân tích, đánh giá tổng thể thực trạng công tác hợp tác quốc tế qua phương thức đa phương và khu vực hiện tại, cũng như nghiên cứu, tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm quốc tế để đề xuất giải pháp cho hệ thống THADS nhằm tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS.

Kết quả nghiên cứu của Đề tài phục vụ cho các cơ quan nhà nước nói chung, Bộ Tư pháp, các đơn vị thuộc Bộ như hệ thống THADS (Tổng cục THADS và các Cục THADS các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Chi cục THADS cấp huyện), Cục Bổ trợ tư pháp, trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp, Vụ Hợp tác quốc tế, các trường Cao đẳng Luật; các cơ quan/đơn vị ngoài Bộ như Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các cơ quan lập pháp và các cơ sở đào tạo luật/đào tạo nghề luật khác không thuộc Bộ Tư pháp tham khảo, sử dụng.

Việc thực hiện Đề tài góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu của Vụ Hợp tác quốc tế, Học viện Tư pháp và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích cho hoạt động đào tạo đại học, sau đại học chuyên ngành luật và chuyên ngành quan hệ quốc tế.

6. Các hoạt động chính của Đề tài

6.1. Hoạt động viết chuyên đề

Hoạt động viết chuyên đề tập trung vào các nhóm cơ bản: Xây dựng thuyết minh, thu thập tài liệu của Đề tài; Tổng quan chung về lý luận và định hướng trong công tác hợp tác quốc tế nói chung và cơ chế hợp tác đa phương và khu vực nói riêng trong lĩnh vực THADS; nghiên cứu thực trạng sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS; đề xuất các biện pháp tăng cường vai trò của cơ quan Việt Nam tại các diễn đàn, cơ chế hợp tác đa phương và khu vực.

6.2. Xây dựng, hoàn thiện Báo cáo tổng hợp kết quả Đề tài

- Xây dựng báo cáo tổng hợp kết quả Đề tài trên cơ sở các chuyên đề;

- Tổ chức hội thảo lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học về kết quả nghiên cứu Đề tài (02 hội thảo);

- Tổ chức nghiệm thu Đề tài (bảo vệ sơ bộ và bảo vệ chính thức); hoàn thiện báo cáo tổng hợp kết quả Đề tài, đóng quyển và nộp Viện Khoa học pháp lý theo quy định.

Kết luận: Ban chủ nhiệm đã nêu tính cấp thiết; mục tiêu nghiên cứu; tình hình nghiên cứu trong nước cũng như thế giới về để kết luận việc “Các giải pháp tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS” là cấp thiết và thiết thực. Đồng thời, xác định rõ nội dung nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu để nhằm hoàn thiện Đề tài. Kết quả nghiên cứu đối với phần này để Ban chủ nhiệm Đề tài xác định rõ nhiệm vụ, yêu cầu, nội dung phải hoàn thành.

 

II. KẾT QUẢ ĐỀ TÀI ĐẠT ĐƯỢC

1. Đặt vấn đề

Theo từ điển tiếng Việt, “hợp tác” là cùng nhau chung sức, góp sức để cùng phát triển một công việc, lĩnh vực nào đó với cùng chung một mục đích. Hợp tác quốc tế hoặc hợp tác giữa các quốc gia là việc các quốc gia trên toàn thế giới cùng nhau chung sức, góp sức để cùng phát triển một lĩnh vực nào đó với cùng chung một mục đích, không chống phá hoặc phá hoại lợi ích của nhau.

Ý tưởng về sự hợp tác giữa các quốc gia lần đầu tiên được thể hiện trong khoản 3 điều 1 Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, rằng một trong những mục đích của tổ chức là “Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo và khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Mặc dù Hiến chương Liên hợp quốc không ghi nhận nghĩa vụ các quốc gia phải hợp tác với nhau như một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, nhưng trong nhiều điều khoản của Hiến chương lại nhắc đến sự hợp tác giữa các quốc gia như là nguyên tắc tồn tại của cộng đồng quốc tế.

Sự ra đời của Công ước Viên năm 1969 và Công ước Viên năm 1986 về luật điều ước quốc tế đã đặt nền móng, cơ sở xây dựng những quy phạm pháp luật liên quan đến quá trình ký kết, gia nhập thực hiện điều ước quốc tế thống nhất trên phạm vi toàn cầu. Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1970 về các nguyên tắc của Luật quốc tế đã mở rộng nội dung pháp lý của nguyên tắc của Công ước Viên năm 1969, theo đó “Mọi quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với các Quốc hội khác trong các lĩnh vực của quan hệ quốc tế để gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế, khuyến khích sự ổn định và tiến bộ, lợi ích chung của các dân tộc và hợp tác quốc tế mà không có sự phân biệt về sự khác nhau về chế độ chính trị, kinh tế và văn hóa”.

Phân loại các hình thức hợp tác quốc tế, theo số lượng đối tượng hợp tác ta có thể phân loại thành hợp tác quốc tế song phương (giữa 2 quốc gia), hợp tác quốc tế đa phương (gồm hợp tác đa phương nhiều bên/toàn cầu và hợp tác đa phương khu vực). Trong phạm vi nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng thuật ngữ “hợp tác quốc tế đa phương” để chỉ hình thức hợp tác quốc tế đa phương nhiều bên/toàn cầu và thuật ngữ “hợp tác quốc tế khu vực” để chỉ hình thức hợp tác quốc tế đa phương khu vực.

Trong bối cảnh Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định phương hướng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị[20] thì cần thiết phải mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp. Chủ trương hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp đã được thể hiện trong nhiều văn bản của Đảng, trong đó có Chỉ thị số 57-CT/TW[21], Nghị quyết số 48-NQ/TW[22] và Nghị quyết số 49-NQ/TW[23]. Trên cơ sở đánh giá những kết quả thực hiện Chỉ thị số 57-CT/TW, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 39-CT/TW[24] và gần đây là Kết luận số 73-KL/TW[25]. Chỉ thị số 39-CT/TW xác định các nguyên tắc, định hướng, nhiệm vụ và giải pháp hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp theo hướng: “...thực hiện phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa, tăng cường ký kết và thực hiện các thỏa thuận hợp tác song phương với các nước theo nguyên tắc có đi có lại; lựa chọn nội dung, đối tác và hình thức hợp tác hợp lý, thiết thực; việc tiếp thu những tri thức và kinh nghiệm tốt của các nước phải có chọn lọc, phù hợp với truyền thống và thực tiễn của Việt Nam, đồng thời bảo đảm sự tương thích của pháp luật trong nước với các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”.

Thể chế hóa những chủ trương, định hướng của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 113/2014/NĐ-CP ngày 26/11/2014 về quản lý hợp tác với nước ngoài về pháp luật, trong đó quy định nguyên tắc thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật là “Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đảm bảo độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Bảo đảm tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật; Bình đẳng và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; Bảo đảm tính hiệu quả, thiết thực và không trùng lặp...”.

Ngoài Nghị định số 113/2014/NĐ-CP, một số văn bản quy phạm pháp luật khác cũng trực tiếp hoặc gián tiếp quy định về công tác hợp tác quốc tế về pháp luật như: Luật Điều ước quốc tế năm 2016, Luật Thỏa thuận quốc tế năm 2020, Nghị định số 80/2020/NĐ-CP ngày 08/7/2020 của Chính phủ quản lý và sử dụng viện trợ không hoàn lại không thuộc hỗ trợ phát triển chính thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài dành cho Việt Nam, Nghị định số 114/2021/NĐ-CP ngày 16/12/2021 của Chính phủ về quản lý, sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài. Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng ban hành một số văn bản nội bộ như: Quyết định số 2638/QĐ-BTP ngày 30/12/2020 ban hành Quy chế quản lý hoạt động  đối ngoại của Bộ Tư pháp, Quyết định số 1680/QĐ-BTP ngày 16/10/2017 ban hành Đề án định hướng tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế về pháp luật của Bộ Tư pháp giai đoạn 2017-2021, Quyết định số 115/QĐ-BTP ngày 22/3/2022 ban hành Đề án định hướng tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế về pháp luật của Bộ Tư pháp giai đoạn 2022-2026.

Việc tham gia vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS là nhằm thiết lập một cơ chế hợp tác quốc tế chung giữa Việt Nam với các quốc gia thành viên khác. Qua đó, Việt Nam có thể áp dụng những quy tắc chuẩn mực cho các cơ quan và người làm công tác THADS của Việt Nam khi thực hiện nhiệm vụ cũng như thực hiện các vụ việc có yếu tố nước ngoài phù hợp với các quy tắc của tổ chức quốc tế đó. Trong thực tiễn pháp luật, dù được nhìn nhận dưới góc độ pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế thì vai trò của công tác THADS luôn được đề cao và coi trọng không chỉ như một trong những biện pháp đảm bảo thực thi công lý, hiện thực hóa các phán quyết của Tòa án trong thực tiễn của cuộc sống mà còn có một vai trò quan trọng trong hội nhập quốc tế. Đồng thời, thông qua công tác hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ thu nhận được những thông tin, kinh nghiệm cần thiết để tham khảo trong quá trình thực hiện các hoạt động về thi hành án, nâng cao năng lực trình độ cho đội ngũ chấp hành viên, thẩm tra viên, và người làm công tác THADS. Qua hoạt động hợp tác quốc tế, chúng ta cũng giới thiệu cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của THADS của Việt Nam. Việc mở rộng quan hệ với các nước và tổ chức quốc tế sẽ đánh dấu sự hội nhập của THADS Việt Nam vào đời sống pháp lý quốc tế, minh chứng cho tinh thần sẵn sàng hợp tác của Việt Nam với các nước, và góp phần khẳng định vai trò, vị thế của hệ thống THADS trên trường quốc tế.

2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia về hợp tác quốc tế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS

Trên cơ sở nghiên cứu một số kinh nghiệm tiêu biểu về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS của Liên minh châu Âu và các quốc gia (Liên bang Nga, Thái Lan, Macedonia), có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS như sau:

Thứ nhất, kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, việc gia nhập Tổ chức nghề nghiệp quốc tế (UIHJ) là cần thiết, phổ quát đối với việc hoàn thiện pháp luật, mô hình tổ chức, hoạt động THADS, nâng cao hiệu quả thi hành án và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thi hành án. Việc gia nhập tổ chức UIHJ có khả năng dẫn đến sự tác động, chuyển hóa vào mô hình tổ chức, hoạt động THADS (như trường hợp của Macedonia). Tuy nhiên, đối với các quốc gia kiên định trong việc xác định mô hình tổ chức thi hành án công (như Nga, Thái Lan), bên cạnh sự chủ động, tích cực của các quốc gia này trong triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế, việc gia nhập tổ chức UIHJ là biện pháp, giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường giao lưu, học hỏi, trao đổi với các quốc gia khác về chuyên môn, nghiệp vụ thi hành án, nghiên cứu từ phương thức tổ chức, hoạt động khác biệt của từng quốc gia thành viên UIHJ nhằm đúc kết, học hỏi cho quá trình tổ chức thi hành án ở quốc gia mình. Như vậy, các quốc gia có quyền tự chủ trong việc xác định định hướng tổ chức, hoạt động THADS của quốc gia mình và việc gia nhập UIHJ hoàn toàn không là lý do chính dẫn đến sự thay đổi về mô hình tổ chức thi hành án của quốc gia đó. Đây là bài học kinh nghiệm, cũng là lưu ý khi ta triển khai các hoạt động hợp tác với UIHJ trong thời gian tới.

Thứ hai, các quốc gia tích cực tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về THADS có sự tiếp cận khác nhau trong việc ký kết các điều ước quốc tế về THADS, ngay cả khi các quốc gia này cùng có mô hình thi hành án công. Liên bang Nga kế thừa tất cả các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Liên Xô là thành viên, đồng thời là thành viên của HccH, trong khi Thái Lan cũng là thành viên của HccH nhưng không tham dự bất kỳ Công ước nào của Hội nghị. Khuôn khổ pháp lý về THADS của Thái Lan cũng có cách tiếp cận bảo thủ đối với việc ủy thác và tiếp nhận ủy thác THADS.

Thứ ba, kinh nghiệm hợp tác khu vực của Liên minh châu Âu cho thấy nhằm tiến tới thành lập Tổ chức khu vực về THADS, trước hết các quốc gia trong khu vực cần tăng cường tổ chức các hội nghị, hội thảo, toạ đàm ở quy mô khu vực để trao đổi, tham vấn ý kiến; nghiên cứu, xuất bản các sách báo, tài liệu; xây dựng, khai thác các cơ sở dữ liệu để minh bạch các thể chế, quy định, thủ tục thi hành án nhằm tăng cường sự hiểu biết, thúc đẩy cải cách, thu hẹp sự khác biệt giữa các quốc gia hướng tới xây dựng hệ thống thể chế thi hành án hài hoà và công nhận kết quả hoạt động của các quan tư pháp giữa các nước thành viên. Đồng thời, các quốc gia cần ký kết, ban hành các hiệp định, hiệp ước, quy định, thoả thuận ở quy mô khu vực để thống nhất thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy việc ủy thác thi hành án giữa các quốc gia. Các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu có những mô hình tổ chức hoạt động THADS rất khác nhau, như mô hình thi hành án tư của Pháp, mô hình xoay quanh Chấp hành viên của Đức, mô hình thi hành án công của Phần Lan… nhưng quy trình, thủ tục thi hành án được hài hòa hóa ở mức tối đa nhằm tạo thuận lợi cho việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án của các quốc gia nội khối. Hiệu quả của công tác thi hành án không được quyết định bởi mô hình tổ chức thi hành án mà ở quy trình, thủ tục cũng như phụ thuộc rất lớn vào công tác điều tra, truy tố, xét xử ở giai đoạn trước.

3. Thực trạng công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS

Do tác động của quá trình hội nhập, ngày càng nhiều tổ chức, cá nhân, nước ngoài đến làm việc, đầu tư, kinh doanh và cư trú tại Việt Nam; số lượng các tổ chức, cá nhân người Việt ra nước ngoài học tập, lao động, sinh sống cũng không ngừng được gia tăng. Điều này đã làm phát sinh các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động, kể cả tình trạng phạm tội của người nước ngoài tại Việt Nam cũng như của người Việt Nam ở nước ngoài. Cùng với việc gia tăng các quan hệ kinh tế, dân sự có yếu tố nước ngoài thì việc tổ chức THADS đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài phải thực hiện tương trợ tư pháp cũng không ngừng tăng lên theo từng năm.

Thời gian qua, Việt Nam cũng đã tham gia một số tổ chức và điều ước quốc tế đa phương có nội dung liên quan đến công tác THADS như: Công ước New York 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế (HCCH); Công ước La Hay 1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp;  Công ước La Hay năm 1980 về thu thập chứng cứ trong lĩnh vực dân sự và thương mại... Đây là các điều ước về tư pháp quốc tế nói chung, lĩnh vực THADS là một nội dung liên quan trong các công ước đó. Những năm qua, Bộ Tư pháp (Tổng cục THADS) cũng đã có một số hoạt động hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực THADS như, tham gia các hội nghị thường niên về THADS do Liên minh Thừa phát lại quốc tế (UIHJ) tổ chức; tổ chức các đoàn khảo sát, học tập kinh nghiệm tại một số quốc gia; tổ chức hội thảo với sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài về THADS…nhưng chưa chủ trì tham gia đàm phán, ký kết điều ước, thỏa thuận quốc tế hoặc tham gia tổ chức quốc tế, công tác hợp tác quốc tế nói chung chưa có một kế hoạch tổng thể lâu dài. Điều này, dẫn đến một số hạn chế cho lĩnh vực THADS trong việc hợp tác, trao đổi thông tin, học tập kinh nghiệm của các nước trong lĩnh vực THADS.

* Ưu điểm

Công tác hợp tác quốc tế về THADS, THAHC đã được triển khai thực hiện từ nhiều năm trước - nhất là giai đoạn xây dựng Luật THADS năm 2008 (dự án SIDA của Thụy Điển tài trợ) và giai đoạn xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS năm 2014. Trong thời gian qua, công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS có một số ưu điểm đáng chú ý sau:

Thứ nhất, thời gian qua, Việt Nam, và cụ thể là Bộ Tư pháp đã tích cực mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế thông qua tham gia một số tổ chức và điều ước quốc tế đa phương có nội dung liên quan đến công tác THADS như: Công ước New York 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế (HCCH); Công ước La Hay năm 1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp; Công ước La Hay năm 1980 về thu thập chứng cứ trong lĩnh vực dân sự và thương mại... Đây là các điều ước về tư pháp quốc tế nói chung, lĩnh vực THADS là một nội dung liên quan trong các công ước đó. Đồng thời, nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban cán sự đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp và Lãnh đạo Tổng cục THADS, Tổng cục THADS từng bước phát huy tích cực sự chủ động tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế, bao gồm cả việc thực hiện các chương trình, dự án do Bộ Tư pháp là cơ quan chủ quản; tổ chức/tham gia các hội nghị, hội thảo quốc tế về THADS; thực hiện các đoàn ra, đoàn vào có nội dung về/liên quan đến công tác THADS nhằm trao đổi kiến thức và kinh nghiệm trong hoạt động THADS, phục vụ yêu cầu nhiệm vụ cũng như tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật về THADS, THAHC, trong đó đã chủ động, kịp thời điều chỉnh cách thức thực hiện để phù hợp với tình hình dịch bệnh và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác được phân công[26].

Thứ hai, thông qua các hoạt động hợp tác đa phương như, tham gia các hội nghị thường niên về THADS do Liên minh Thừa phát lại quốc tế (UIHJ) tổ chức; tổ chức các đoàn khảo sát, học tập kinh nghiệm tại một số quốc gia; tổ chức hội thảo với sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài về THADS, tham gia, tổ chức các Diễn đàn Pháp luật ASEAN với chủ đề thi hành án dân sự, Hệ thống THADS có cơ hội được tiếp xúc với các quốc gia, bắt kịp với xu hướng phát triển chung của công tác THADS trên thế giới, tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế trong THADS. Qua đó, công tác hợp tác quốc tế đa phương đã tạo cơ hội học hỏi kinh nghiệm cho Hệ thống THADS, góp phần hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực THADS, đào tạo cán bộ, nguồn nhân lực trong Hệ thống.

Thứ ba, các hoạt động hợp tác đa phương của Hệ thống THADS đã phần nào quảng bá hiệu quả công tác THADS, giúp thế giới hiểu rõ hơn về công tác THADS ở Việt Nam, qua đó thu hút những chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực này trên thế giới đóng góp, đề xuất, kiến nghị những biện pháp, giải pháp, kinh nghiệm tốt để tăng cường hiệu quả công tác THADS, góp phần thực thi quyền của người được và người phải thi hành án, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quá trình THADS.

* Tồn tại, hạn chế

Thứ nhất, trong lĩnh vực THADS, Việt Nam (Bộ Tư pháp) chưa tham gia đàm phán, ký kết bất kỳ một điều ước, thỏa thuận quốc tế hoặc tham gia bất cứ một tổ chức quốc tế nào. Những năm qua, Bộ Tư pháp (Tổng cục THADS) cũng đã có một số hoạt động hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực THADS như, tham gia các hội nghị thường niên về THADS do Liên minh Thừa phát lại quốc tế (UIHJ) tổ chức; tổ chức các đoàn khảo sát, học tập kinh nghiệm tại một số quốc gia; tổ chức hội thảo với sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài về THADS…nhưng hầu hết các hoạt động này đều mang tính nhỏ lẻ, vụ việc mà chưa theo một kế hoạch tổng thể lâu dài. Điều này, dẫn đến một số hạn chế cho lĩnh vực THADS trong việc hợp tác, trao đổi thông tin, học tập kinh nghiệm của các nước trong lĩnh vực THADS.

Thứ hai, theo thống kê của Bộ Tư pháp, tỷ lệ yêu cầu uỷ thác tư pháp trong các vụ việc THADS có yếu tố nước ngoài không có trả lời mặc dù đã giảm so với những năm trước nhưng vẫn ở mức cao (như trong lĩnh vực dân sự là gần 40%); thời gian thực hiện uỷ thác tư pháp vẫn kéo dài; uỷ thác tư pháp cho công dân Việt Nam ở nước ngoài không đáp ứng được yêu cầu của cơ quan tố tụng trong nước . Việc không có hoặc chậm có kết quả thực hiện uỷ thác tư pháp đã ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hình sự, một số trường hợp có thể ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của Nhà nước và uy tín của các cơ quan tư pháp Việt Nam cũng như góp phần kéo dài quá trình tổ chức thi hành án và ảnh hưởng đến chất lượng tổ chức thi hành án.

Thứ ba, vướng mắc trong việc đảm bảo thi hành nghĩa vụ dân sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 50 Luật Tương trợ tư pháp, người đang chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam có thể được chuyển giao cho nước ngoài để thi hành hình phạt tù khi đã thực hiện xong phần trách nhiệm dân sự, hình phạt bổ sung là phạt tiền, tịch thu tài sản và các trách nhiệm pháp lý khác trong bản án v.v… Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện cho thấy, người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam thường không có tài sản, không có việc làm, hoàn cảnh gia đình ở nước họ mang quốc tịch cũng khó khăn nên không có khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự. Ngay cả trường hợp đã chấp hành xong hình phạt tù cũng ít có khả năng tìm việc làm, có thu nhập tại Việt Nam để thi hành nghĩa vụ dân sự. Do đó, nếu tiếp tục quy định theo hướng này thì khó có thể thực hiện việc chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù.

Thứ tư, phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự hẹp hơn so với một số điều ước mà Việt Nam đã ký kết. Theo quy định tại Điều 10 Luật Tương trợ tư pháp, phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự chỉ gồm: (i) tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự; (ii) triệu tập người làm chứng, người giám định; (iii) thu thập, cung cấp chứng cứ và (iv) các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về dân sự. Phạm vi này hẹp hơn nhiều so với các nội dung mà một số điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết với các nước. Trong khi đó, đối với lĩnh vực THADS, việc tương trợ tư pháp của Việt Nam ra nước ngoài rất cần thiết để thực hiện các việc như: (i) Xác minh địa chỉ, nơi làm việc và thu nhập của người phải thi hành án; (ii) Tạm giữ, kê biên tài sản; (iii) Công nhận và cho thi hành tại nước ngoài bản án, phán quyết, quyết định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh của Việt Nam đối với công dân, tổ chức nước ngoài… Ngược lại, tại Việt Nam, do phạm vi tương trợ tư pháp chưa bao gồm những nội dung này, nên việc theo dõi, đánh giá, tổng kết tình hình thi hành các điều ước quốc tế trong lĩnh vực THADS thường bị bỏ sót. Ngoài ra, việc theo dõi, đánh giá, thống kê tình hình công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của Tòa án, trọng tài nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức.

Thứ năm, do điều kiện về nguồn nhân lực, vật lực còn có hạn, khả năng, nhận thức về tầm quan trọng của việc thi hành các bản án có yếu tố nước ngoài còn hạn chế, hiện nay, Việt Nam chưa chủ động, tích cực đưa ra sáng kiến về hợp tác quốc tế trong THADS. Bước chủ động đầu tiên và duy nhất cho đến thời điểm hiện tại chỉ là tổ chức một Diễn đàn Pháp luật trong khuôn khổ ASEAN để trao đổi về mô hình tổ chức, hoạt động, quy trình thi hành các bản án của các quốc gia. Vì vậy, thực hiện chủ trương nâng tầm đối ngoại đa phương của Đảng và góp phần xây dựng luật chơi quốc tế, cũng như thiết lập mối quan hệ với các quốc gia trên thế giới, Hệ thống THADS và Thừa phát lại cần tích cực, chủ động đề xuất các sáng kiến, biện pháp chủ động hơn nữa trong lĩnh vực hợp tác quốc tế đa phương.

4. Sự cần thiết tăng cường công tác hợp tác quốc tế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS

Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng sâu rộng và đi vào thực chất, liên tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức hợp tác. Do tác động của quá trình hội nhập, ngày càng nhiều tổ chức, cá nhân, nước ngoài đến làm việc, đầu tư, kinh doanh và cư trú tại Việt Nam; số lượng các tổ chức, cá nhân người Việt ra nước ngoài học tập, lao động, sinh sống cũng không ngừng được gia tăng. Điều này đã làm phát sinh các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động, kể cả tình trạng phạm tội của người nước ngoài tại Việt Nam cũng như của người Việt Nam ở nước ngoài. Cùng với việc gia tăng các quan hệ kinh tế, dân sự có yếu tố nước ngoài thì việc tổ chức THADS đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài phải thực hiện tương trợ tư pháp cũng không ngừng tăng lên theo từng năm.

THADS là khâu cuối cùng của hoạt động tư pháp, do cơ quan THADS tiến hành theo những thủ tục, trình tự nhất định, nhằm đưa các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực thi hành của cơ quan có thẩm quyền ra thực thi. Các bản án, quyết định dân sự không chỉ bao gồm các bản án, quyết định của Tòa án và trọng tài Việt Nam mà cả các bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Thực hiện định hướng của Đảng và Nhà nước về tăng cường hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp tại Nghị quyết số 48-NQ/TW[27], Nghị quyết số 49-NQ/TW[28], Chỉ thị số 39-CT/TW[29], trong những năm qua, Bộ Tư pháp và các cơ quan pháp luật, tư pháp của Việt Nam đã quan tâm, chú trọng đẩy mạnh công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS.

Trong điều kiện toàn cầu hoá, các thiết chế đa phương và khu vực có vai trò to lớn, góp phần quan trọng vào việc giải quyết hiệu quả nhất nhu cầu hợp tác quốc tế trong công tác THADS. Điều này xuất phát mục tiêu của các cơ chế hợp tác đa phương là cùng giải quyết các vấn đề quan tâm chung, đưa ra các phương thức hợp tác để tập hợp nguồn lực. Thông qua hợp tác đa phương, các nước thành viên sẽ vượt qua những điểm khác biệt và đứng trên nguyên tắc toàn diện, đồng thuận, tự nguyện, cùng có lợi, không phân biệt đối xử, phù hợp với các nguyên tắc chung của thiết chế để cùng mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau, thương thảo các vấn đề hợp tác chung cùng quan tâm, cùng có lợi.

Lĩnh vực THADS là một lĩnh vực có liên quan nhiều đến hợp tác với nước ngoài và có yếu tố liên quan đến nước ngoài như thi hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án, trọng tài nước ngoài; xác minh, kê biên, thu hồi tài sản ở nước ngoài trong các vụ việc dân sự - đặc biệt là thi hành phần tài sản đang ở nước ngoài; thực hiện quyền cấp dưỡng, nuôi con có yếu tố nước ngoài; xác minh quyền nhân thân...

Việc tham gia cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa hết sức quan trọng, một mặt góp phần tăng cường hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa các cơ quan THADS của Việt Nam và các nước, mặt khác tạo cơ sở pháp lý giúp Việt Nam giải quyết vấn đề xung đột pháp luật về THADS với các nước thành viên, đẩy nhanh quy trình THADS, góp phần tích cực để giải quyết các tranh chấp và yêu cầu khác phát sinh trong quan hệ giữa công dân, pháp nhân của Việt Nam và các nước, đồng thời bảo đảm lợi ích của các đương sự trong tố tụng dân sự quốc tế.

Việc thúc đẩy hợp tác quốc tế, nhất là hợp tác quốc tế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS sẽ góp phần giúp Hệ thống THADS áp dụng những quy tắc chuẩn mực cho các cơ quan và người làm công tác THADS của Việt Nam khi thực hiện nhiệm vụ cũng như thực hiện các vụ việc có yếu tố nước ngoài. Đồng thời, thông qua công tác hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ thu nhận được những thông tin, kinh nghiệm cần thiết để tham khảo trong quá trình thực hiện các hoạt động về thi hành án, nâng cao năng lực trình độ cho đội ngũ chấp hành viên, thẩm tra viên, và người làm công tác THADS, giới thiệu cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hệ thống THADS của Việt Nam. Sự chuyển động tích cực của công tác THADS được các tổ chức quốc tế ghi nhận sẽ giúp Việt Nam cải thiện uy tín, hình ảnh về một đất nước có môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã luôn đồng hành, mong muốn và tiếp tục kỳ vọng công tác THADS có những cải cách mạnh mẽ và thực chất hơn nữa để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp trong quá trình giải quyết các tranh chấp; đảm bảo bản án, quyết định của tòa án liên quan đến doanh nghiệp được thực thi nhanh chóng, thuận lợi từ đó góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam ngày càng sâu hơn vào môi trường kinh tế toàn cầu.

4.1. Tăng cường công tác hợp tác quốc tế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS nhằm hoàn thiện thể chế, pháp luật về THADS

           Trong điều kiện toàn cầu hóa như hiện nay, việc tham gia vào các thiết chế đa phương có vai trò to lớn trong việc giải quyết nhu cầu hỗ trợ hoàn thiện thể chế của mỗi quốc gia, mỗi lĩnh vực trong đó bao gồm cả lĩnh vực THADS. Điều này xuất phát từ việc chức năng và mục tiêu của các tổ chức quốc tế đa phương là thường thiết lập một cơ chế pháp lý quốc tế chung nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các nước tham gia ký kết. Các thiết chế này cũng xây dựng những quy tắc chuẩn mực cho các bên tham gia để giải quyết các vấn đề chung hoặc khi có xảy ra tranh chấp thì có phương cách giải quyết phù hợp với điều ước quốc tế  cũng như pháp luật của quốc gia thành  viên.

           Từ mục đích và ý nghĩa đó, việc tham gia vào các tổ chức quốc tế đa phương về THADS sẽ giúp Việt Nam được tiếp cận với pháp luật quốc tế nói chung và các chuẩn mực pháp lý trong lĩnh vực THADS nói riêng, từ đó chắt lọc những tinh hoa pháp lý quốc tế của các thành viên để hoàn thiện pháp luật trong nước. Từ đó, giúp cho pháp luật về thi hành hành trong nước xác định và thực hiện phù hợp với thông lệ, nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế phổ biến.

Trong bối cảnh hiện nay, Bộ Tư pháp đang đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật THADS và các văn bản liên quan, việc tham khảo các kinh nghiệm quốc tế trong Bộ Luật toàn cầu về Thi hành án hay kinh nghiệm của các quốc gia thành viên của UIHJ là rất quan trọng nhằm hoàn thiện pháp luật THADS trong nước. Bên cạnh đó cùng với việc hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam thì phát sinh ngày càng nhiều các vấn đề THADS có yếu tố nước ngoài là thực tế ngày càng phổ biến. Việc chỉ quy định dẫn chiếu tới Luật Tương trợ tư pháp mà không tính đến điều kiện đặc thù của lĩnh vực THADS ở Việt Nam sẽ dẫn đến hiệu quả hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS chưa phát huy được đúng vị trí, vai trò của công tác này.

4.2. Tăng cường công tác hợp tác quốc tế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS nhằm tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm và bài học từ các quốc gia trên thế giới về hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy về THADS, góp phần cải cách pháp luật và tư pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Thông thường trong các cơ chế hợp tác đa phương có sự tham gia của rất nhiều các quốc gia thành viên với sự đa dạng về mô hình tổ chức bộ máy. Đặc biệt trong lĩnh vực THADS hiện nay đang có 2 mô hình điển hình là – thi hành án công và thi hành án tư nhân (thừa phát lại). Ngoài ra còn có các mô hình khác như mô hình hỗn hợp (vừa công vừa tư) hoặc mô hình do cơ quan hành chính đàm nhiệm[30]. Mỗi mô hình có những ưu điểm và nhược điểm riêng tùy thuộc vào mô hình tổ chức bộ máy nhà nước của mỗi quốc gia. Ví dụ, cùng trong Liên minh Châu Âu, Pháp và Bỉ theo mô hình thi hành án tư, thực hiện bởi các Thừa phát lại. Còn ở Đức và ở Anh thủ tục THADS một phần được thực hiện bởi Chấp hành viên hoặc Thủ trưởng cơ quan thi hành án (đặc biệt là trong việc thu giữ tài sản là động sản), việc thu giữ tài khoản của người phải thi hành án đang do người thứ ba nắm giữ lại được thực hiện bởi Tòa án.

Tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế, tiếp thu ưu điểm của các mô hình tổ chức THADS tiên tiến trên thế giới nhằm xây dựng mô hình tổ chức THADS hiệu quả ở Việt Nam, thời gian qua, Bộ Tư pháp cũng đã nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của nhiều nước trên giới, đặc biệt là Cộng hòa Pháp để thực hiện xã hội hóa một phần công tác THADS thông qua chế định Thừa phát lại. Đây là đề xuất do Bộ Tư pháp khởi xướng và cũng là chủ trương của Đảng và Chính phủ. Sau thời gian dài thực hiện thí điểm thừa phát lại, Chính phủ đã ban hành Nghị định 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 về tổ chức và hoạt động Thừa phát lại. Trong đó, trao quyền cho các Văn phòng Thừa phát lại được thực hiện các trình tự, thủ tục thi hành án như: xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức THADS. Trong 10 năm qua chế định Thừa phát lại cũng đã đạt được một số bước phát triển nhất định, tuy nhiên, phải thừa nhận rằng hiệu quả của công tác thừa phát lại không được như mong đợi. Về nguyên nhân khách quan, đó là sự chấp nhận của xã hội đối với hoạt động thừa phát lại chưa cao. Nhiều người dân, doanh nghiệp chưa nhận thức được tính tích cực của hoạt động của Thừa phát lại; vẫn còn tâm lý e ngại khi sử dụng dịch vụ này. Về nguyên nhân chủ quan: khả năng, năng lực, nguồn lực của Thừa phát lại vẫn còn hạn chế, chưa thể đảm đương được các vụ việc thi hành án phức tạp.

Vì vậy, để tăng cường hiệu quả của hoat động thừa phát lại, tiến tới san sẻ bớt gánh nặng cho công tác THADS thì cần phải nâng cao nhận thức cho người dân, doanh nghiệp trong sử dụng các dịch vụ thừa phát lại. Những người làm công tác thừa phát lại cũng phải không ngừng nâng cao năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng được yêu cầu của người dân, doanh nghiệp. Mặt khác, Bộ Tư pháp tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu các mô hình tổ chức THADS phù hợp trong mối quan hệ hợp tác đa phương để có thể học tập và áp dụng tại Việt Nam.

Ngoài ra, trong quá trình phát triển của điều kiện kinh tế-xã hội và pháp luật mô hình tổ chức bộ máy của các cơ quan thực hiện nhiệm vụ THADS cũng liên tục có sự thay đổi và phát triển ở mỗi quốc gia. Việc tăng cường hợp tác với các nước cũng là một hình thức để Việt Nam cập nhật, bổ sung và hoàn thiện tổ chức bộ máy công tác THADS của mình theo yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

4.3. Mở rộng hợp tác quốc tế để tăng cường hiệu quả hoạt động của công tác THADS

Để thi hành một bản án, quyết định của Tòa án, trọng tài ở nước ngoài hoặc thi hành bản án, quyết định của trọng tài nước ngoài ở Việt Nam cần rất nhiều đến sự can thiệp, hỗ trợ của các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia nơi bản án hoặc quyết định của tòa án, trọng tài cần được thi hành (nơi cư trú của bị đơn, nơi có tài sản tranh chấp). Trong trường hợp bên phải thi hành không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thì cần có biện pháp cưỡng chế thi hành bằng việc trước hết là quốc gia nơi bản án, quyết định trọng tài cần được thi hành tiến hành thủ tục công nhận để đảm bảo giá trị pháp lý của bản án, quyết định trọng tài trên lãnh thổ nước mình, sau đó ra quyết định cho thi hành và áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành theo thủ tục THADS của pháp luật nước mình (nếu cần thiết).

Việc thi hành bản án, quyết định của tòa án, trọng tài của nước này ở một quốc gia khác có mối quan hệ biện chứng, ràng buộc chặt chẽ với các vấn đề của tư pháp quốc tế trong đó có các vấn đề tố tụng dân sự quốc tế, bắt đầu từ việc xác định và giải quyết xung đột pháp luật trong mọi lĩnh vực của đời sống dân sự quốc tế, sau nữa là việc xác định thẩm quyền quốc tế giải quyết các tranh chấp nảy sinh, đến việc xét xử, ủy thác tư pháp và sau cùng là việc công nhận và cho thi hành quyết định của tòa án nước ngoài. Quá trình tố tụng dân sự quốc tế không thể kết thúc một cách hoàn chỉnh nếu thiếu một trong các giai đoạn quan trọng của nó là công nhận và thi hành – giai đoạn cuối cùng khép lại toàn bộ quá trình tố tụng dân sự quốc tế.

Nếu bản án, quyết định của Tòa án Việt Nam không được công nhận và thực thi với các điều kiện và trình tự hợp lý thì kết quả của các giai đoạn tố tụng trước đó sẽ trở nên không có tác dụng. Hậu quả tất yếu là các quan hệ mang tính chất dân sự, thương mại được giải quyết theo trình tự trọng tài sẽ bị kìm hãm. Do vậy việc tham gia vào các thiết chế quốc tế đa phương nhằm tìm kiếm sự hỗ trợ về mặt pháp lý với các quốc gia thành viên sẽ có ý nghĩa to lớn trên cả phương diện chính trị, kinh tế và pháp luật.

Việc Luật THADS “thiếu vắng” các quy định về THADS có yếu tố nước ngoài, không có các quy định cụ thể về hợp tác quốc tế trong thi hành án nếu phát sinh các vụ việc có yếu tố nước ngoài đã gây khó khăn cho các cơ quan THADS, chấp hành viên trong thực thi nhiệm vụ. Vì vậy, thời gian tới Bộ Tư pháp cần có những nghiên cứu để bổ sung các nội dung liên quan đến THADS có yếu tố nước ngoài hoặc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động THADS khi phát sinh yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Do đó, trong quá trình sửa đổi Luật THADS theo hướng, cần nghiên cứu bổ sung các nội dung liên quan đến THADS có yếu tố nước ngoài; mở rộng phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự trong lĩnh vực THADS; đảm bảo nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết với các nước; tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan thi hành án có thể ủy thác tư pháp cho nước ngoài thực hiện các việc liên quan đến xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức thi hành án; đồng thời, tạo cơ chế theo dõi, đánh giá, tổng kết toàn diện và thường xuyên đối với công tác thực hiện tương trợ tư pháp cho nước ngoài tại Việt Nam. Đặc biệt, cần có cơ chế tương trợ tư pháp đặc thù trong phạm vi khu vực nhằm xử lý những vụ việc có yếu tố nước ngoài nhưng số tiền phải thi hành nhỏ.

4.4. Tăng cường công tác hợp tác quốc tế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS nhằm thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế

Kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, với quyết tâm chính trị cao của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, sự chỉ đạo quyết liệt, trực tiếp của đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Công tác phối hợp được triển khai sớm, dưới nhiều hình thức, nhiều cấp độ, một cách hệ thống, bài bản. Sự phối hợp của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, các cơ quan tố tụng, các bộ, ngành, địa phương có liên quan đã hình thành cơ chế chặt chẽ, nhịp nhàng, đồng bộ. Kịp thời lựa chọn những vụ án, vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, dư luận quan tâm đưa vào diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo; đồng thời tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thanh tra, kiểm tra, điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc.

Tuy nhiên, thực tiễn phát hiện, xử lý tội phạm tham nhũng thời gian qua nổi lên việc các đối tượng có liên quan bỏ trốn, tẩu tán tài sản ra nước ngoài, gây khó khăn cho quá trình điều tra, giải quyết vụ việc, vụ án. Vụ án điển hình gặp khó khăn trong thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài là vụ Giang Kim Ðạt tham ô tài sản với số tiền 18,6 triệu USD[31]. Phần lớn trong số đó đã bị tẩu tán ra nước ngoài. Tuy nhiên, khi Việt Nam yêu cầu tương trợ tư pháp, phía nước ngoài đã đặt ra những yêu cầu gây khó khăn cho quá trình kê biên, tịch thu tài sản tham nhũng. Đối với vấn đề thu hồi tài sản có yếu tố nước ngoài, Điều 71 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định: “Trên cơ sở điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên và phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, Chính phủ Việt Nam hợp tác với Chính phủ nước ngoài trong việc thu hồi tài sản của Việt Nam hoặc của nước ngoài bị tham nhũng và trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu hợp pháp”.

Công tác thu hồi tài sản tham nhũng là khâu quan trọng, đóng góp vào hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Ðó không chỉ là nhiệm vụ riêng của các cơ quan có chức năng thu hồi tài sản tham nhũng, mà là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị; là trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp; trách nhiệm giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân.

Một trong những biện pháp nhằm thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế là tăng cường hợp tác quốc tế đa phương và khu vực, đặc biệt là qua cơ chế của UNCAC. UNCAC yêu cầu các quốc gia thành viên hỗ trợ các quốc gia nạn nhân của tham nhũng thông qua việc phong tỏa, tịch thu và trả lại bất kỳ tài sản có nguồn gốc tham nhũng nào trên lãnh thổ của mình. Bên cạnh sự ghi nhận mang tính nguyên tắc như trên, các quốc gia vẫn có thể khấu trừ vào tài sản hoàn trả những khoản chi phí phát sinh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến việc hoàn trả và xử lý tài sản tịch thu phù hợp với các quy định của UNCAC. Các nghĩa vụ trong công ước bao gồm việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xử lý hình sự các hành vi tham nhũng, thực hiện các nỗ lực hợp tác quốc tế bao gồm cả việc trao đổi thông tin, xây dựng nên khuôn khổ thu hồi tài sản được tiêu chuẩn hóa toàn cầu và cuối cùng đòi hỏi tất cả các bên phải tuân thủ cơ chế thực hiện Công ước (cụ thể trong Chương VII).

4.5. Tăng cường hợp tác quốc tế đa phương và khu vực nhằm tham gia sân chơi quốc tế, góp phần định hình luật chơi chung giữa các quốc gia, nâng cao vị thế trên trường quốc tế trong lĩnh vực THADS

Thế giới đang bước vào thời kỳ phát triển mới với nhiều chuyển biến sâu rộng. Hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế lớn, cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm dần được định hình rõ nét, song các thách thức toàn cầu, thách thức phi truyền thống ngày càng gay gắt, diễn biến nhanh, phức tạp, buộc các quốc gia, khu vực phải chung tay cùng giải quyết thông qua các cơ chế hợp tác đa phương, trước hết là Liên hợp quốc. Các thể chế hợp tác đa phương đa lĩnh vực, đa tầng nấc vẫn tiếp tục phát triển, tạo nền tảng quan trọng cho quan hệ quốc tế. Cơ chế hợp tác đa phương đang là sự lựa chọn ưu tiên của nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nước nhỏ. Việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế đa phương cũng dần dần thay thế cho các điều ước song phương trong nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. Điều này xuất phát từ việc, xét về phương diện tổng thể các cơ chế hợp tác đa phương thường hiệu quả hơn hợp tác song phương do các quy phạm của các thiết chế đa phương được áp dụng và thực hiện cùng lúc cho nhiều quốc gia thành viên thay vì áp dụng giữa từng quốc gia thành viên với nhau như cơ chế song phương.

Đối ngoại đa phương có vai trò quan trọng trong việc nâng cao vị thế trên trường quốc tế của một quốc gia. Nâng cao vị thế vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để thực hiện lợi ích dân tộc, đồng thời có quan hệ nhân quả với các mục tiêu đối ngoại khác và thúc đẩy quá trình thực thi ở cấp quốc gia. Về đối ngoại, một quốc gia cần thể hiện mong muốn và nỗ lực góp phần và có tiếng nói cao hơn trong các vấn đề quốc tế và khu vực. Về đối nội, cần phấn đấu thực hiện các mục tiêu đã cam kết, phát ngôn để thực hiện trách nhiệm chung nhằm bảo vệ tốt hơn và tranh thủ được nhiều hơn các lợi ích phục vụ phát triển đất nước[32].

Tại Việt Nam, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 8/8/2018 về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030. Đây là văn bản chỉ đạo đầu tiên của Đảng ta về công tác đối ngoại đa phương của đất nước, đưa đối ngoại đa phương thành một nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là một định hướng chiến lược quan trọng hàng đầu và là một phương thức hiệu quả thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược - xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc ta vươn lên giữ vai trò quan trọng hơn tại các cơ chế đa phương then chốt sẽ góp phần nâng cao vị thế, tạo điều kiện cho Việt Nam có thể lồng ghép các ưu tiên, thúc đẩy những lợi ích của đất nước.

Việc mở rộng, tăng cường cơ chế hợp tác đa phương của mỗi quốc gia, mỗi lĩnh vực là nhằm tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế, học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia thành viên đồng thời thụ hưởng các giá trị, quyền lợi từ các tổ chức đó. Bên cạnh đó, việc tham gia các cơ chế hợp tác đa phương không chỉ là nhu cầu nội tại thiết thực của bản thân mỗi quốc gia, mỗi lĩnh vực nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước, mà còn là trách nhiệm và nghĩa vụ của các quốc gia, của tổ chức xét dưới góc độ pháp luật quốc tế. Việc tham gia vào các cơ chế hợp tác đa phương trong lĩnh vực thi hành án dân sự cũng không nằm ngoài nguyên tắc cơ bản đó. Thay vì dựa vào một Bộ luật Toàn cầu về Thi hành án có sẵn của UIHJ, việc tham gia sớm vào tổ chức này sẽ giúp ta tham gia vào quá trình xây dựng và hoàn thiện những chuẩn mực phổ quát mà tổ chức xây dựng, góp phần nâng cao vị thế của lĩnh vực THADS trên trường quốc tế, phù hợp với chủ trương, đường lối nâng tầm đối ngoại đa phương của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.

5. Bối cảnh, tình hình và những yêu cầu đặt ra cho công tác hợp tác quốc tế đa phương và khu vực trong thời gian tới

Trải qua hơn 35 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tiếp thu có chọn lọc những giá trị phổ quát của nhân loại về Nhà nước pháp quyền để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị nhằm thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của quốc gia nhận định nước ta đã trở thành một nước có mức thu nhập trung bình và đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nước ta hiện nay là thực hiện thành công các mục tiêu phát triển đất nước, nhanh chóng nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, đồng thời đáp ứng những yêu cầu mới về bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) đã xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”.

 Bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ cùng với sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng 4.0 đã và đang đặt ra những thách thức lớn đối với nền kinh tế của Việt Nam, đòi hòi Việt Nam ngày càng phải cải thiện môi trường kinh doanh minh bạch, ổn định cao; quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản được tôn trọng và bảo vệ hiệu quả, phù hợp với thông lệ, nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, cơ chế thực thi pháp luật, trong đó có lĩnh vực THADS hiện hành của Việt Nam vẫn còn những điểm hạn chế, bất cập.

Để giải quyết tình trạng này, việc khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực thi hiệu quả pháp luật về THADS của Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu, học hỏi và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế được xem là nhiệm vụ trọng tâm và cấp thiết trong thời gian tới, đòi hỏi Việt Nam phải có những bước đi chiến lược, bài bản để tăng cường hơn nữa các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS, đặc biệt là thúc đẩy hợp tác trên bình diện đa phương và khu vực.

Trong lĩnh vực THADS, có rất nhiều dư địa có thể hợp tác thông qua các cơ chế đa phương đó là thi hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án, trọng tài nước ngoài; xác minh, kê biên, thu hồi tài sản ở nước ngoài trong các vụ việc dân sự - đặc biệt là thi hành phần tài sản đang ở nước ngoài; thực hiện quyền cấp dưỡng, nuôi con có yếu tố nước ngoài; xác minh quyền nhân thân... Do đó, việc tham gia cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa hết sức quan trọng, một mặt góp phần tăng cường hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa các cơ quan THADS của Việt Nam và các nước, mặt khác tạo cơ sở pháp lý giúp Việt Nam giải quyết vấn đề xung đột pháp luật về THADS với các nước thành viên, đẩy nhanh quy trình THADS, góp phần tích cực để giải quyết các tranh chấp và yêu cầu khác phát sinh trong quan hệ giữa công dân, pháp nhân của Việt Nam và các nước, đồng thời bảo đảm lợi ích của các đương sự trong tố tụng dân sự quốc tế.

Trong bối cảnh, tình hình quốc tế và trong nước đặt ra với lĩnh vực THADS, công tác hợp tác quốc tế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS cần đáp ứng một số yêu cầu cụ thể như sau:

Thứ nhất, tăng cường giao lưu, tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm và bài học từ các quốc gia trên thế giới với phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, phát huy vai trò tại các tổ chức, diễn đàn, cơ chế hợp tác mà nước ta là thành viên, xây dựng và triển khai kế hoạch gia nhập các tổ chức, diễn đàn khác, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[33]. Hiện nay, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện nhưng đồng thời, cũng đòi hỏi ta phải cải cách mạnh mẽ và thực chất hơn nữa để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp trong quá trình giải quyết các tranh chấp; đảm bảo bản án, quyết định của tòa án liên quan đến doanh nghiệp được thực thi nhanh chóng, thuận lợi từ đó góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam ngày càng sâu hơn vào môi trường kinh tế toàn cầu, đặc biệt là Hệ thống THADS. Nhiều khó khăn, vướng mắc về mặt thể chế, pháp luật THADS, cũng như các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan như dân sự, đất đai, đấu giá… cần được quan tâm hoàn thiện để rút ngắn thời gian và nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án, đáp ứng kỳ vọng và nhu cầu của xã hội và cộng đồng doanh nghiệp đối với đảm bảo việc thực thi công lý.

Thứ hai, tiếp thu những tri thức và kinh nghiệm tốt của các nước phải có chọn lọc phù hợp với truyền thống và thực tiễn của Việt Nam, giữ vững nguyên tắc độc lập, chủ quyền quốc gia, cảnh giác với âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch[34]. Yêu cầu đặt ra về việc nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm quốc tế và các quốc gia trên thế giới phục vụ công tác cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo định hướng của Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đòi hỏi các cơ quan pháp luật và tư pháp, trong đó có các cơ quan THADS phải nghiên cứu hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy về THADS, tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm và bài học từ các quốc gia trên thế giới về thi hành án hành chính và các biện pháp, giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án hành chính và tăng cường hiệu quả hoạt động của công tác THADS. Tuy nhiên, việc tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế và các quốc gia cần được thực hiện một cách bài bản, có chọn lọc, tránh bị tác động, chuyển hóa trong quá trình hợp tác quốc tế. Cần giữ vững quan điểm, lập trường về các vấn đề cốt lõi, đặc biệt là bảo vệ sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với các mặt công tác.

Thứ ba, công tác hợp tác quốc tế nói chung và sự tham gia vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực nói riêng cần phục vụ và phát huy hiệu quả cho các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của Hệ thống các cơ quan THADS và đội ngũ Thừa phát lại trong bối cảnh nguồn vật lực còn hạn chế, năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác hợp tác quốc tế trong Hệ thống THADS còn chưa hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu hội nhập.

6. Giải pháp tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào cơ chế hợp tác quốc tế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS

Trong phạm vi nghiên cứu của Đề tài, trước bối cảnh, tình hình quốc tế và trong nước và những yêu cầu đặt ra đối với công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS, để triển khai có hiệu quả những định hướng, chủ trương về tăng cường hợp tác quốc tế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS, Hệ thống cơ quan THADS cũng như đội ngũ Thừa phát lại cần nghiên cứu, rà soát, phối hợp triển khai đồng bộ một số giải pháp cụ thể như sau:

6.1. Tăng cường hợp tác quốc tế đa phương trong lĩnh vực THADS thông qua Liên minh Thừa phát lại quốc tế

Việc gia nhập UIHJ có đầy đủ cơ sở pháp lý và hoàn toàn phù hợp với chủ trương hội nhập quốc tế sâu, rộng của Đảng và Nhà nước ta trong điều kiện hiện nay. Việc gia nhập UIHJ sẽ mang lại những tác động tích cực đối với Việt Nam nói chung và Bộ Tư pháp nói riêng trên 04 phương diện cơ bản sau:

Thứ nhất, góp phần tăng cường hợp tác đa phương, tăng cường hội nhập quốc tế trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp. Việc nghiên cứu gia nhập UIHJ sẽ góp phần hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tăng cường hợp tác trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp, đặc biệt trong việc hài hòa hóa hệ thống pháp luật trong nước với pháp luật quốc tế dựa trên những thực tiễn tốt nhất. Việc gia nhập cũng thể hiện sự chủ động, tích cực và sẵn sàng hợp tác của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới để cùng nhau khẳng định và nâng cao vị thế của thừa phát lại nói riêng và góp phần đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam một cách toàn diện, sâu, rộng trên mọi lĩnh vực, thực hiện  “phương châm là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam sẽ mở rộng tham gia và đóng góp ngày càng tích cực, chủ động, trách nhiệm vào các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu…” như Nghị quyết Đại hội biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra.

Thứ hai, nâng cao vai trò, vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. UIHJ tạo ra các diễn đàn để các thành viên thể hiện quan điểm, lập trường, hoàn thiện cơ sở pháp lý chung về vị trí, vai trò và hoạt động của thừa phát lại từ các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới. Khi gia nhập tổ chức này, Việt Nam sẽ được tham gia trực tiếp vào quá trình nghiên cứu, đề xuất và hoàn thiện các nền tảng pháp lý quốc tế trong nỗ lực hài hoà hoá thủ tục thi hành án giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ, các khu vực và trên toàn cầu, qua đó đưa được quan điểm, tiếng nói của Việt Nam đến với bạn bè quốc tế, góp phần tạo dựng và thúc đẩy vai trò, vị trí của Việt Nam trong các hoạt động về thi hành án, thừa phát lại ở cấp độ toàn cầu. 

Thứ ba, tăng cường cải cách pháp luật, cải cách tư pháp tại Việt Nam. Với mục tiêu hướng tới sự hài hoà hoá pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế, đặc biệt là thủ tục thi hành án giữa các quốc gia, nhằm xác lập các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc chung, UIHJ rất phù hợp với quan điểm chỉ đạo về xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về việc “tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật [trong đó có pháp luật về thi hành án, thừa phát lại]; kết hợp hài hoà bản sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật”, cũng như quan điểm cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay “Cải cách tư pháp phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam: tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế; đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai”. Trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực tiến hành cải cách tư pháp và cải cách pháp luật, việc gia nhập UIHJ sẽ góp phần giúp Việt Nam hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan về thủ tục tố tụng và hoạt động bổ trợ tư pháp thông qua việc tiếp thu có chọn lọc các quy định pháp luật tiên tiến mà UIHJ đã xây dựng thành công và chuyển tải một cách phù hợp vào hệ thống pháp luật trong nước để có được những quy định mới, hiện đại nhưng vẫn đảm bảo phù hợp thực tiễn Việt Nam, đưa hệ thống pháp luật về thi hành án và thừa phát lại của Việt Nam đến gần hơn với các chuẩn mực pháp luật quốc tế.

Thứ tư, nâng cao hiệu quả đào tạo đội ngũ thừa phát lại và cán bộ pháp luật hội nhập quốc tế. Thực hiện các hoạt động nhằm thúc đẩy đào tạo nghiệp vụ cho các thừa phát lại, kể cả các thư ký và những người phối hợp thực hiện nhiệm vụ với thừa phát lại là một trong các mục tiêu hoạt động của UIHJ. Do đó, tổ chức này luôn quân tâm thực hiện các hoạt động đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ dưới nhiều hình thức nhằm nâng kiến thức, kỹ năng cho thừa phát lại, coi đây là một trong những nhân tố chính trong việc đạt được các mục tiêu về nâng cao và khẳng định vị thế độc lập của thừa phát lại. Gia nhập UIHJ sẽ là một cơ hội tốt để thừa phát lại Việt Nam được tham gia các khoá tập huấn, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ của UIHJ. Đồng thời, các tổ chức chịu trách nhiệm đào tạo thừa phát lại của Việt Nam cũng có cơ hội học hỏi kinh nghiệm xây dựng chương trình giảng dạy của UIHJ và các cơ quan có liên quan với nội dung, hình thức phong phú, làm cơ sở cho việc xây dựng chương trình đào tạo bài bản ở Việt Nam, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao khi chế định thừa phát lại được phát triển trong thời gian tới.

Tuy nhiên, gia nhập UIHJ vào thời điểm này, Việt Nam có thể gặp phải một số những khó khăn, thách thức sau đây:

- Về tổ chức, đây là khó khăn lớn của Việt Nam khi tham gia UIHJ.

Việt Nam mới đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển chế định thừa phát lại. Cả quy định pháp luật và thực tế hoạt động đối với thừa phát lại đều chưa có sự ổn định. Trong bối cảnh hiện nay, việc thành lập một hiệp hội thừa phát lại toàn quốc không phải là yêu cầu cấp bách và mục tiêu ưu tiên trong tương lai gần mà thay vào đó là yêu cầu về việc hoàn thiện các văn bản thể chế về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại cũng như tăng cường đào tạo, nâng cao chất lượng của đội ngũ thừa phát lại. Gia nhập UIHJ trong thời điểm này chắc chắc sẽ tạo thêm áp lực cho việc Việt Nam phải khẩn trương thành lập hiệp hội thừa phát lại quốc gia khi điều kiện chưa chín muồi.

Tuy nhiên, điều kiện này có thể khắc phục thông qua việc cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thừa phát lại là Cục Bổ trợ tư pháp hoặc Tổng cục Thi hành án dân sự đại diện tham gia Tổ chức UIHJ. Điều này là khả thi do hiện tại, có nhiều thành viên của UIHJ là cơ quan quản lý nhà nước tương tự.

- Về nguồn nhân lực, để có thể tận dụng được những lợi ích như đã phân tích ở trên và phát huy được vai trò thành viên chính thức, Việt Nam phải có một ngũ cán bộ pháp lý (bao gồm cả cán bộ thi hành án và đội ngũ thừa phát lại) có trình độ ngoại ngữ, năng lực chuyên môn, có kinh nghiệm hợp tác quốc tế tốt để tham gia vào các hoạt động của UIHJ, đặc biệt là tham gia vào quá trình nghiên cứu pháp lý, trao đổi “sòng phẳng” và có chất lượng tại các hội nghị, hội thảo, diễn đàn do UIHJ và các thành viên của UIHJ tổ chức.

- Về kinh phí hàng năm thực hiện nghĩa vụ thành viên: Khi tham gia tổ chức này, Việt Nam sẽ có trách nhiệm đóng góp mức kinh phí hàng năm tính trên bình quân số lượng thừa phát lại và chấp hành viên trong cả nước. Với tổng số biên chế của hệ thống THADS thuộc Tổng cục THADS là 8.935 người (bao gồm chấp hành viên, thẩm tra viên và thư ký thi hành án), cùng với khoảng 587 thừa phát lại, thì ước tính phí thường niên cũng đã là 571.320 USD, tương đương khoảng 1,3 tỷ VNĐ. Vào thời điểm hiện nay, khi nguồn lực tài chính của nước ta còn hạn hẹp, mức phí thường niên này là thách thức không nhỏ, đặc biệt là khi chúng ta cùng một lúc phải chi trả phí thường niên và chi phí cho các hoạt động cần thiết thực hiện với tư cách là thành viên của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam đang là thành viên. Hữa nữa, do chưa có hiệp hội thừa phát lại quốc gia đại diện cho những người hành nghề thừa phát lại, việc thu phí từ những thừa phát lại trong cả nước cũng đặt ra những khó khăn cho cơ quan được giao nhiệm vụ thu phí.

- Về việc thực hiện các mục tiêu của UIHJ: một trong các mục tiêu mà UIHJ theo đuổi là “thúc đẩy và bảo vệ các nguyên tắc được nêu trong điều 6 Công ước châu Âu về bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cơ bản được ký kết tại Rome ngày 04/11/1950”. Việt Nam chưa là thành viên của Công ước này, do đó, việc thực hiện mục tiêu của tổ chức UIHJ sẽ đặt ra những thách thức nhất định cho Việt Nam.

Do đó, xét thấy UIHJ là tổ chức phi Chính phủ được thành lập để thúc đẩy, điều phối và phát triển hoạt động của các chức danh tư pháp quốc tế, cụ thể là thừa phát lại và chấp hành viên, Việt Nam có khả năng gia nhập UIHJ với danh nghĩa cơ quan hoặc đơn vị có thẩm quyền quản lý về thừa phát lại, thi hành án và đội ngũ thừa phát lại, chấp hành viên trong cả nước. Gia nhập UIHJ với danh nghĩa Tổng cục THADS hoặc Cục Bổ trợ tư pháp đều có thể chấp nhận được theo Điều lệ của UIHJ và việc tính phí thường niên (trong trường hợp có mong muốn trở thành thành viên thông thường) có thể có lợi hơn do chỉ cần tính trên tổng số thừa phát lại hoặc chấp hành viên mà một trong hai đơn vị này có trách nhiệm quản lý nhà nước.

Việc đề xuất gia nhập tổ chức UIHJ cần được nghiên cứu kỹ và tính toán thời điểm phù hợp để đảm bảo khai thác được nhiều lợi ích từ việc gia nhập tổ chức này trong điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam. Các nghiên cứu bước đầu cho thấy Việt Nam có thể lựa chọn một lộ trình hợp lý để gia nhập UIHJ trong thời gian tới. Về địa vị pháp lý của tổ chức UIHJ, đây là tổ chức quốc tế phi chính phủ được thành lập để thúc đẩy, điều phối và phát triển hoạt động của các chức danh tư pháp quốc tế, cụ thể là thừa phát lại và chấp hành viên. Bản thân tổ chức UIHJ không đòi hỏi phải gia nhập với danh nghĩa Chính phủ. UIHJ ưu tiên các quốc gia thành viên gia nhập UIHJ trên danh nghĩa tổ chức nghề nghiệp quốc gia đại diện cho các Thừa phát lại. Tuy nhiên, do hiện nay Việt Nam chưa thành lập tổ chức này, nên sẽ tính đến khả năng gia nhập UIHJ với danh nghĩa cơ quan hoặc đơn vị có thẩm quyền quản lý về thừa phát lại, thi hành án và đội ngũ thừa phát lại, chấp hành viên trong cả nước. Gia nhập UIHJ với danh nghĩa Tổng cục THADS hoặc Cục Bổ trợ tư pháp đều có thể chấp nhận được theo Điều lệ của UIHJ và việc tính phí thường niên (trong trường hợp có mong muốn trở thành thành viên thông thường) có thể có lợi hơn do chỉ cần tính trên tổng số thừa phát lại hoặc chấp hành viên mà một trong hai đơn vị này đang chịu trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước. Đồng thời, UIHJ cũng không giới hạn số lượng tổ chức của một quốc gia gia nhập UIHJ, ví dụ như trong trường hợp của Hoa Kỳ có tới 3 tổ chức nghề tham gia UIHJ.

Trên cơ sở đó, có 3 phương án khả thi trong việc gia nhập UIHJ có thể giải quyết được những khó khăn vướng mắc nêu trên, cụ thể là:

Thứ nhất là, gia nhập UIHJ với tư cách thành viên cá nhân. Những lợi ích, khả năng hợp tác trong khuôn khổ UIHJ vẫn chưa hoàn toàn được khẳng định do Việt Nam chưa tham gia tổ chức này. Do đó, để tranh thủ kinh nghiệm, cũng như tìm hiểu các hoạt động của tổ chức này, chuẩn bị cho việc gia nhập UIHJ trong tương lai nếu khả thi, căn cứ Điều 3.5 Điều lệ UIHJ năm 2021, Bộ Tư pháp hoàn toàn có thể cho phép một số công chức tham gia tổ chức với tư cách là thành viên cá nhân. Tuy nhiên, biện pháp này cũng có những hạn chế là không thể khai thác toàn diện những lợi ích khi là thành viên của UIHJ như không thể cử đoàn công tác chính thức tham gia các hội thảo, sự kiện của UIHJ.

Thứ hai là, gia nhập UIHJ với tư cách quan sát viên vĩnh viễn. Đây là hình thức gia nhập tương đối phù hợp với Hệ thống cơ quan THADS vì điều kiện nguồn lực có hạn nên ta không thể chi trả mức phí thành viên chính thức như đã nêu ở trên. Đồng thời, việc gia nhập với tư cách quan sát viên sẽ góp phần tăng cường hợp tác giữa Hệ thống cơ quan THADS với tổ chức UIHJ, có thể được triển khai cụ thể thông qua các Biên bản ghi nhớ, thỏa thuận hợp tác song phương để tranh thủ kinh nghiệm, kiến thức của các thành viên UIHJ.

Thứ ba là, gia nhập UIHJ với tư cách thành viên chính thức. Đây là hình thức gia nhập tương đối phù hợp với tổ chức nghề Thừa phát lại. Thực tiễn kinh nghiệm từ một tổ chức nghề khác là nghề công chứng viên cho thấy, việc gia nhập Liên minh Công chứng viên quốc tế đã góp phần rất lớn vào việc thành lập Hiệp hội Công chứng viên Việt Nam, giúp nghề Công chứng viên được phát triển trên thực tiễn, tăng cường trao đổi nghiệp vụ và học thuật giữa công chứng viên Việt Nam và Liên minh Công chứng viên quốc tế. Qua trao đổi trực tiếp với đại diện của UIHJ tại Hội thảo của Đề tài, đại diện UIHJ khẳng định sẽ hỗ trợ đại diện của Việt Nam tham gia tổ chức này, trong đó trước tiên Việt Nam có thể cử cơ quan quản lý nhà nước về thừa phát lại tham gia tổ chức UIHJ trong khi chưa thành lập Hiệp hội nghề Thừa phát lại. Việc tham gia UIHJ với mức phí hiện tại (theo UIHJ, Việt Nam thuộc nhóm 2 gồm các quốc gia đang phát triển hoặc có mô hình tổ chức THADS kết hợp công tư sẽ có mức phí thành viên hàng năm là 30 euro/người/năm) sẽ không là rào cản lớn với các Thừa phát lại đang hành nghề.

Ba phương án nêu trên có thể được thực hiện đồng thời, và trước hết là phương án 1 để ta có thể ngay lập tức tham khảo, nghiên cứu cụ thể quyền và nghĩa vụ khi là thành viên của tổ chức, cũng như thiết lập những mối quan hệ bước đầu với các thành viên của tổ chức UIHJ, làm cơ sở cho việc tương trợ tư pháp đối với những vụ việc có yếu tố nước ngoài phát sinh.

Đối với phương án thứ 2, việc phê duyệt tư cách thành viên là quan sát viên vĩnh viễn khá hãn hữu, chưa có tiền lệ do đây là tư cách thành viên mới được thêm vào tại Điều lệ UIHJ 2021. Do đó, với phương án này, cần tiếp tục nghiên cứu, trao đổi với đại diện của UIHJ để tìm hiểu khả năng thực hiện. Nếu việc gia nhập với tư cách quan sát viên vĩnh viễn là khả thi, đây là tư cách thành viên phù hợp cho Hệ thống cơ quan THADS, và đặc biệt là Tổng cục THADS vì tư cách này không phát sinh nghĩa vụ đóng góp kinh phí thường niên cho Nhà nước ta. Bên cạnh đó, nếu kết hợp với việc ký kết một thỏa thuận hợp tác quốc tế với UIHJ (tương tự như Thái Lan), đây dự kiến là phương án khả thi nhất cho sự gia nhập UIHJ của mô hình thi hành án công tại Việt Nam.

Đối với phương án thứ 3, việc gia nhập một tổ chức quốc tế (cho dù là phi chính phủ) đều đem lại những tác động nhất định về mặt ngoại giao đa phương. Do đó, cần nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng, đồng thời tham vấn ý kiến của chính những Thừa phát lại đang hành nghề để có thể đánh giá tính khả thi của phương án này. Tuy nhiên, lợi ích của việc gia nhập UIHJ theo hình thức thành viên tương đối đáng kể ở một số khía cạnh sau.

Thứ nhất, kinh nghiệm quốc tế và bài học kinh nghiệm khi Việt Nam gia nhập Liên minh Công chứng viên quốc tế cho thấy việc gia nhập một tổ chức nghề nghiệp sẽ đóng vai trò thúc đẩy sự tổ chức, hoạt động của nghề tư pháp đó thông qua việc thành lập một tổ chức nghề nghiệp quốc gia. Đây là yếu tố không bắt buộc khi tham gia UIHJ (như đã phân tích đối với kinh nghiệm của Liên bang Nga và Thái Lan) nhưng là thực tế trong khối các quốc gia có mô hình thi hành án kết hợp công tư.

Thứ hai, việc gia nhập UIHJ sẽ tạo điều kiện trao đổi, giao lưu, học hỏi về kinh nghiệm tổ chức thi hành án ở các quốc gia, qua đó tạo điều kiện để dần dần xã hội hóa một số khâu, bước của quá trình thi hành án giao cho Thừa phát lại thực hiện, góp phần thực hiện chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đến năm 2030.

6.2. Tăng cường hợp tác quốc tế đa phương trong lĩnh vực THADS thông qua Tổ chức quốc tế về Luật phát triển IDLO

Với các hình thức hợp tác của các quốc gia với IDLO rất đa dạng, phong phú như trao đổi chuyên gia giữa các nước thành viên của IDLO và tổ chức quốc tế khác; tiến hành các nghiên cứu chung giữa chuyên gia quốc tế và chuyên gia nước thành viên; hỗ trợ kỹ thuật cho các hội thảo, các khoá đào tạo, tập huấn pháp luật ngắn và dài hạn; hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm quốc tế (chuyên gia tư vấn, tài liệu, sách báo nước ngoài, cung cấp tài chính…) cho các hoạt động xây dựng, hoàn thiện thể chế và tăng cường năng lực thiết chế thực thi pháp luật của các nước thành viên.

IDLO cũng đóng vai trò là tổ chức phối hợp, quản lý nguồn viện trợ của nhiều tổ chức quốc tế, do IDLO có ưu thế trong việc đóng vai trò là tổ chức quốc tế duy nhất trên thế giới có mạng lưới các chuyên gia hỗ trợ các quốc gia trong lĩnh vực thể chế nhằm phát triển một cách bền vững theo tất cả các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.

Trong thời gian tới, đối với lĩnh vực THADS, một trong những trọng tâm của công tác THADS là nâng cao hiệu quả công tác THADS, rút ngắn thời gian thi hành án và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác THADS. Do đó, Việt Nam hoàn toàn có thể tăng cường hợp tác với IDLO trong vai trò là một tổ chức có nhiều kinh nghiệm xây dựng các dự án hỗ trợ chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực tư pháp để hỗ trợ cho ngành THADS trong quá trình chuyển đổi số. Với các chuyên gia giàu kinh nghiệm trên thế giới và khả năng huy động nguồn tài trợ của IDLO, đây là một trong những khả năng tăng cường công tác hợp tác quốc tế đa phương của Việt Nam.

Việc mở rộng quan hệ với tổ chức quốc tế IDLO cũng là cơ hội để Việt Nam quảng bá hiệu quả công tác THADS của mình, giúp thế giới hiểu rõ hơn về công tác THADS ở Việt Nam, qua đó thu hút những chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực này trên thế giới đóng góp, đề xuất, kiến nghị những biện pháp, giải pháp, kinh nghiệm tốt để tăng cường hiệu quả công tác THADS, góp phần thực thi quyền của người được và người phải thi hành án, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quá trình THADS.

6.3. Tăng cường hợp tác quốc tế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS thông qua Công ước Liên hợp quốc về phòng chống tham nhũng UNCAC

Ðể góp phần nâng cao hiệu quả phát hiện, xử lý tham nhũng, Ðảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng đã tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Hiện nay, các quốc gia sử dụng bốn phương thức cơ bản để thu hồi tài sản tham nhũng là thu hồi tài sản dựa trên truy tố hình sự; thu hồi tài sản không dựa trên bản án hình sự (thu hồi tài sản không qua thủ tục kết tội); thu hồi tài sản thông qua quyết định hành chính; khởi kiện dân sự để thu hồi tài sản. Trong đó, phương thức thu hồi tài sản dựa trên quy trình khởi kiện dân sự được UNCAC khuyến nghị các quốc gia nghiên cứu để áp dụng: "Mỗi quốc gia thành viên, căn cứ vào pháp luật quốc gia sẽ tiến hành các biện pháp cần thiết cho phép quốc gia thành viên khác khởi kiện vụ án dân sự tại toà án để xác định quyền hay quyền sở hữu đối với tài sản có được qua việc thực hiện các tội được quy định trong Công ước này".

Để thực hiện được nội dung này, cần hoàn thiện các quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự theo hướng sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức được giao quản lý tài sản thuộc sở hữu nhà nước trong việc khởi kiện vụ án dân sự, phù hợp với nhiệm vụ cụ thể là thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế để đòi lại những tài sản thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nhưng bị hành vi tham nhũng xâm phạm; trong trường hợp cơ quan, tổ chức sở hữu tài sản nhà nước bị tham nhũng không khởi kiện vụ án, cho phép bên thứ ba khởi kiện vụ án dân sự đòi lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại tài sản này. Bên thứ ba khởi kiện có thể được giao cho đơn vị phụ trách pháp luật quốc tế thuộc Bộ Tư pháp (Vụ Pháp luật quốc tế), tương tự như đối với các vụ tranh chấp đầu tư quốc tế, hoặc tiếp tục giao cho cơ quan THADS trực thuộc Bộ Tư pháp. Đồng thời, cơ chế khởi kiện dân sự cũng đòi hỏi cơ quan đầu mối được giao thực hiện nhiệm vụ này phải có sự nghiên cứu, rà soát thủ tục tố tụng dân sự ở các quốc gia trên thế giới, cũng như cập nhật thường xuyên để làm căn cứ tham mưu các cấp có thẩm quyền phê duyệt khi có vụ việc phát sinh.

Trong thời gian tới, nhằm thu hồi tối đa tài sản tham nhũng, nhất là ở những vụ án có yếu tố nước ngoài, việc vận dụng, tăng cường áp dụng các phương thức hợp tác quốc tế về thu hồi tài sản tham nhũng của UNCAC là giải pháp cần thiết cho các cơ quan THADS Việt Nam. Cùng với việc hoàn thiện pháp luật trong nước và nghiên cứu về cơ chế khởi kiện dân sự, Việt Nam cần tăng cường thực hiện việc ký kết, tham gia các điều ước quốc tế về thu hồi tài sản tham nhũng theo Điều 59 UNCAC, nhất là cơ chế tương trợ tư pháp về hình sự giữa các quốc gia trong việc phong tỏa, thu hồi tài sản của người phạm tội đã tẩu tán ở nước ngoài. Ngoài ra, do tính chất quan trọng của vấn đề thu hồi tài sản có được do tham nhũng, cùng với các quy định tương đối chi tiết và toàn diện, mang tính kỹ thuật cao về hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản, Công ước cũng quy định khuyến khích các quốc gia thành viên phải xem xét việc ký kết các thoả thuận hoặc dàn xếp song phương hoặc đa phương nhằm nâng cao hiệu quả của hợp tác quốc tế theo quy định của Công ước. Trong bổi cảnh Việt Nam đã tham gia hợp tác thông qua nhiều cơ chế khu vực như Sáng kiến Chống Tham nhũng cho Châu Á - Thái Bình Dương, Các Bên ASEAN Chống Tham nhũng (ASEAN-PAC), Sáng kiến Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương và hợp tác với Ngân hàng Thế giới, việc tiếp tục đẩy mạnh việc tham gia các cơ chế đa phương và khu vực khác trong lĩnh vực này là một giải pháp hữu hiệu để hợp tác có hiệu quả với các quốc gia nhằm thu hồi tối đa tài sản tham nhũng cho Nhà nước.

6.4. Tăng cường hợp tác quốc tế khu vực trong lĩnh vực THADS thông qua Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

Sau gần 5 thập kỷ xây dựng và phát triển, kết quả hợp tác về lĩnh vực THADS nói riêng và thi hành pháp luật nói chung giữa các quốc gia ASEAN đã chứng minh một thực tiễn đầy sinh động, đó là ASEAN đã và đang là một tổ chức hợp tác khu vực có sức sống mạnh mẽ, có khả năng thích ứng nhanh chóng với tiến trình hội nhập khu vực, ngoại khối và toàn cầu. Xét về hợp tác đa phương và quan hệ song phương với các quốc gia nội khối, ASEAN luôn được xác định là một bộ phận quan trọng trong tổng thể chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của từng thành viên ASEAN, trong đó có Việt Nam. Hiện diện tại một ASEAN liên kết chặt chẽ, đoàn kết và thống nhất, có vai trò và vị thế quốc tế quan trọng là lợi ích cơ bản, lâu dài của tất cả các quốc gia thành viên hiệp hội. Thời gian Việt Nam nói chung và các cơ quan tư pháp Việt Nam nói riêng tham gia ASEAN tuy chưa phải là dài, song chúng ta có thể tự hào về những đóng góp quan trọng và có dấu ấn Việt Nam với từng thành viên cũng như cả hiệp hội.

Qua thực tiễn hợp tác quốc tế về THADS tại ASEAN, việc áp dụng các điều ước quốc tế đa phương, lâu đời trên thế giới với cộng đồng các nước ASEAN chưa hẳn đã đem lại kết quả như mong đợi do có sự khác biệt lớn trong quan điểm của các nước, cũng như thực tế triển khai. Do vậy, cộng đồng ASEAN cần thiết lập các thiết chế riêng đễ hỗ trợ THADS có yếu tố nước ngoài, song song với các thiết chế đa phương khác để khai thác tối đa lợi thế về địa lý, văn hóa, xã hội giữa các nước trong khu vực, cũng như đóng góp tích cực hơn cho các trụ cột trong ASEAN.

Với định hướng phát huy vị thế của Việt Nam trong xây dựng Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN 2025, tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực và nâng cao vị thế, sự hiện diện của Cộng đồng trên trường quốc tế, Việt Nam có thể đóng vai trò là trung tâm thúc đẩy sự hợp tác quốc tế khu vực về THADS. Theo đó, có 03 khuyến nghị các nước ASEAN có thể nghiên cứu, thực hiện để thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực này:

* Thiết lập bản khuyến nghị cho các nước thành viên ASEAN trong lĩnh vực THADS

Bản khuyến nghị này không có giá trị bắt buộc thi hành đối với các nước thành viên mà chỉ mang tính chất tham khảo, khuyến khích các quốc gia áp dụng. Cách thức này được áp dụng phổ biết trong pháp luật quốc tế khi các nước cố gắng thiết lập nên một bộ tiêu chí, quy tắc tối thiểu để các nước áp dụng thống nhất hoặc áp dụng tốt hơn. Bộ tiêu chí, quy tắc này phải đảm bảo cho việc các nước kém phát triển nhất trong ASEAN có thể chấp nhận và áp dụng được.

Ý tưởng này bắt nguồn từ việc hoạt động ủy thác tư pháp giữa các nước ASEAN không có nhiều hiệu quả. Do vậy, thay vì nước này phải ủy thác cho nước khác thực hiện một số nhiệm vụ đơn giản nhưng tốn nhiều thời gian và chi phí, ta có thể đưa ra một bộ tiêu chí để mỗi nước lồng ghép trong quy trình tố tụng của họ (ví dụ: thông báo yêu cầu thi hành án đến đương sự ở nước ngoài, xác minh nhân thân …). Theo đó, các hồ sơ cần thiết cho việc thi hành án đã được bao gồm trong hồ sơ, bản án của tòa thụ lý. Điều này vẫn đảm bảo quyền tài phán của tòa án mỗi nước nhưng có tác dụng lớn trong việc đảm bảo bản án được thi hành hiệu quả tại quốc gia khác. Bản án cũng cần dự liệu, xử lý các vấn đề vướng mắc có thể xảy ra đối với hệ thống pháp luật của quốc gia thi hành án để lồng ghép tối đa các nội dung trong bản án.

* Thiết lập cơ chế công nhận, cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài giữa các thành viên ASEAN

Theo như phân tích ở trên, độ cởi mở giữa các quốc gia ASEAN với nhau trong lĩnh vực này tương đối khả quan. Có thể qua cách hình thức khác nhau như hiệp định tương trợ tư pháp hoặc nội luật. Riêng Singapore tương đối cởi mở với nhiều quốc gia trong và ngoài ASEAN. Do vậy, việc thiết lập cơ chế công nhận, cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài giữa các thành viên ASEAN là khả thi.

Tuy nhiên với các quốc gia như Thái Lan, hầu như không công nhận bản án của tòa nước ngoài thì cần sự đồng lòng, thuyết phục của các nước. Trong vấn đề này, ASEAN dường như có lợi thế hơn khi thuyết phục Thái Lan cho phép công nhận bản án của tòa nước ngoài từ 9 nước thành viên còn lại, thay vì phải chấp nhận các công ước đa phương có rất nhiều thành viên khác nhau trên thế giới. Việc thiết lập riêng một cơ chế giữa các quốc gia ASEAN có thể giúp quy trình tố tụng của các quốc gia thành viên có nhiều nét tương đồng hơn, tạo thuận lợi cho thi hành án, từ đó tạo lợi thế cạnh tranh cho khu vực.

Nếu như cơ chế công nhận, cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài giữa các thành viên ASEAN được thiết lập thì phán quyết trọng tài và kết quả hòa giải thành cũng có thêm một phương án để thực thi trên thực tế thông qua bước khởi đầu là một bản án của tòa từ một trong các nước ASEAN. Tuy nhiên, xét trên khía cạnh hiệu quả kinh tế thì cơ chế này vẫn tạo ra một thủ tục tương đối rườm rà khi cần ít nhất hai bản án của tòa. Một là bản án của tòa nơi phiên xét xử của trọng tài hoặc cuộc hòa giải diễn ra để công nhận phán quyết trọng tài hay kết quả hòa giải thành. Hai là bản án của tòa nơi THADS nhằm công nhận và cho thi hành tại nước sở tạy bản án của tòa án đầu tiên. Ta không xét tới trường hợp phiên trọng tài, hòa giải diễn ra ngay tại quốc gia thi hành án vì hoàn toàn có thể giải quyết bằng pháp luật nội địa của quốc gia đó. Do vậy, vấn đề ngày dẫn đến ý tưởng thứ ba được đề cập ở phần dưới đây để giải quyết triệt để vấn đề.

* Thiết lập trung tâm trọng tài, hòa giải ASEAN

Các nước ASEAN có thể thiết lập nên một trung tâm trọng tài, hòa giải sử dụng phần lớn các trọng tài viên, hòa giải viên đến từ các nước trong khu vực. Ngoài ra, tòa án các nước có thể cho phép trung tâm trọng tài, hòa giải và các đương sự được nộp đơn công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài, kết quả hòa giải thành tại các quốc gia thi hành án. Điều này tạo một cơ chế thông thoáng đảm bảo việc thi hành án được thực hiện ngay sau khi có bản án công nhận của tòa, đảm bảo tính khả thi, hiệu quả và tránh các vấn đề về xung đột pháp luật. Cơ chế này có thể phát huy tính ưu việt trong các vụ việc cần thực hiện thi hành án ở nhiều quốc gia ASEAN, theo đó trung tâm trọng tài, hòa giải và các đương sự có thể nộp đơn cho phép thi hành án từng phần tại nhiều quốc gia khác nhau.

Giải pháp này có thể thu hút thêm các doanh nghiệp, nguồn vốn đầu tư ngoài khu vực có hoạt động kinh doanh ở nhiều nước ASEAN, từ đó tạo ra sức mạnh khu vực, tăng tính cạnh tranh và đủ sức làm đối trọng với các cường quốc khác trong lĩnh vực này.

6.5. Tăng cường hợp tác quốc tế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS thông qua cơ chế học thuật quốc tế

Trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam ngày càng chủ động, tích cực tham gia sâu vào các thể chế toàn cầu, khu vực, tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào cơ chế đa phương và khu vực thông qua phương thức nghiên cứu học thuật quốc tế về thi hành án đã trở thành mũi nhọn của chính sách đối ngoại trong việc góp phần thúc đẩy lợi ích quốc gia, củng cố, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào cơ chế đa phương và khu vực thông qua nghiên cứu học thuật quốc tế về THADS sẽ giúp Việt Nam khẳng định và bảo vệ tốt chính sách đối ngoại đa phương[35]. Bên cạnh đó, nghiên cứu học thuật quốc tế về THADS tăng cường sự tham gia hiệu quả của Việt Nam vào cơ chế đa phương và khu vực trên thế giới, giúp Việt Nam xác định rõ hơn về lựa chọn mô hình thi hành án phù hợp. Từ việc đánh giá ưu nhược điểm của từng mô hình thi hành án, quy trình thi hành án hiệu quả, ứng dụng phương pháp luận nghiên cứu, đánh giá toàn diện về thực trạng hiện hành pháp luật THADS Việt Nam để có những sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật theo lộ trình khả thi. Đồng thời, nghiên cứu học thuật quốc tế về THADS góp phần duy trì, tiếp tục củng cố môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. 

Trên cơ sở yêu cầu của việc tăng cường sự tham gia vào cơ chế đa phương và khu vực trên thế giới qua nghiên cứu học thuật của các quốc gia trên thế giới có thể tổng hợp các kinh nghiệm rút ra cần thiết ứng dụng ở Việt Nam như sau:

Một là, về mô hình thi hành án. Xu hướng các nước tùy thuộc vào mức độ cải thiện mô hình THADS ở các nước khác nhau cũng khác nhau, có những nước chuyển đổi hẳn mô hình THADS, ví dụ từ mô hình THADS công sang mô hình THADS tư nhân hoặc mô hình THADS hỗn hợp, cũng có những nước vẫn giữ nguyên mô hình THADS, chỉ sửa đổi quy định của pháp luật về THADS hoặc chỉ sửa đổi một số biện pháp thi hành án..., để nâng cao chất lượng công tác thi hành án. Trên thế giới có hai trường phái chính đề cập đến thứ bậc của pháp luật quốc tế trong hệ thống pháp luật quốc gia là quan điểm nhất nguyên luận và quan điểm nhị nguyên luận. Các quan điểm này và quy định của Hiến pháp đã chi phối việc sửa đổi Pháp luật THADS khi cải cách, chuyển đổi mô hình THADS ở các quốc gia. Việt Nam nên có những hoạch định chính sách xem xét đồng thời hai hệ thống THADS công và THADS tư để lựa chọn một mô hình phù hợp nhất cho quốc gia với cách tiếp cận từng bước phù hợp với điều kiện của thực tiễn thi hành án ở Việt Nam.

Hai là, Nghiên cứu học thuật quốc tế về THADS từ việc vận dụng các phương pháp luận hiệu quả để tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào cơ chế đa phương và khu vực trên thế giới xuất phát từ lợi ích và khả năng của Việt Nam để xác định rõ và triển khai tốt các trọng tâm ưu tiên. Đó là phải bảo đảm hòa bình, an ninh của đất nước và khu vực, bảo đảm phát triển bền vững đất nước, trên cơ sở phát huy năng lực, khả năng, điều kiện tham gia. Cụ thể là: 1- Lựa chọn các cơ chế, phương thức, cách thức mà Việt Nam sẽ tham gia, với các lộ trình và nội dung trọng tâm trong các giai đoạn cụ thể, phù hợp với lợi ích của đất nước. Xác định các vấn đề, lĩnh vực mà ta có thế mạnh và có khả năng tham gia, thể hiện chất lượng, hiệu quả của việc tham gia các định chế đó có tác động đến sự bứt phá, đi lên của đất nước cũng như góp phần vào sự phát triển chung của hợp tác khu vực và thế giới. 2- Xác định những đối tác trọng tâm của Việt Nam. Trong quá trình triển khai hợp tác, xác định rõ đối tác - đối tượng theo từng thời điểm, lĩnh vực cần đầu tư, ưu tiên, cả trước mắt cũng như lâu dài.

Ba là, kiện toàn mô hình tổ chức THADS nói chung, đổi mới quy trình, thủ tục THADS ở Việt Nam nói riêng cũng có tham khảo kinh nghiệm THADS ở một số nước. Việc tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia được thực hiện thông qua nhiều hình thức như tổ chức hội thảo quốc tế, tổ chức các đoàn đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài, thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học, … Ảnh hưởng đến việc cải thiện hệ thống THADS ở Việt Nam chủ yếu xuất phát từ yêu cầu và đòi hỏi tất yếu trong nước như tình trạng yếu kém của công tác THADS, số lượng bản án, quyết định tồn đọng ngày càng nhiều, quy trình, thủ tục thi hành án phức tạp, tốn kém, … trước yêu cầu phải thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Ngoài ra, thông qua các cơ chế hợp tác song phương hoặc sự hỗ trợ, giúp đỡ của các tổ chức quốc tế đã giúp Việt Nam tổ chức các cuộc hội thảo quốc tế quan trọng để cung cấp thêm kinh nghiệm pháp luật nước ngoài về THADS để tham khảo, hoàn thiện hệ thống THADS và quy trình, thủ tục THADS.

Bốn là, khuyến nghị về những kinh nghiệm quốc tế về cơ chế quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án được nghiên cứu, phân tích trên các diễn đàn khoa học.

Nghiên cứu học thuật quốc tế của một số quốc gia trên thế giới pháp luật của các quốc gia có sự phong phú trong cách tiếp cận về trao quyền xác minh điều kiện thi hành án cho các chủ thể khác nhau. Qua nghiên cứu điển hình, các quốc gia dù theo mô hình THADS nào đều có một điểm chung là dù trao quyền cho chủ thể nào thì cũng phải có hành lang pháp lý tương ứng để đảm bảo tính quyền lực cũng như đảm bảo cho sự hiệu quả trong hoạt động xác minh của chủ thể đó.

Nghiên cứu học thuật quốc tế cũng sẽ giúp hoàn thiện các quy định Pháp luật THADS về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào hoạt động thi hành án, đặc biệt là chủ thể được pháp luật giao quyền tổ chức thi hành án. Về nguyên tắc, khi được giao quyền tổ chức thi hành án, họ đã được giao một phần quyền lực nhà nước để tác động đến các chủ thể, các đối tượng có liên quan nhằm thu kết quả là xác định được tài sản thuộc sở hữu của người phải thi hành án. Bên cạnh ghi nhận quyền thì cần có những ghi nhận nghĩa vụ của chủ thể phải tính đến sự cân bằng quyền lợi của người phải thi hành án:

- Quyền yêu cầu các chủ thể có liên quan cung cấp thông tin về tài sản của người phải thi hành án

- Quyền truy cập trực tiếp các thông tin dưới dạng dữ liệu điện tử.

- Nghĩa vụ tuân thủ quy định về thời hạn thi hành án: việc tổ chức thi hành án chậm chễ làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án nên pháp luật cần quy định cụ thể về thời hạn thi hành án với những chế tài đủ mạnh để bảo đảm thực thi.

Năm là, hoàn thiện Pháp luật THADS Việt Nam trong sự tương thích với Pháp luật chuyên ngành có liên quan, đặc biệt là Pháp luật tố tụng dân sự và chú trọng tham gia ký kết một số công ước quốc tế phổ biến của La Haye

Do Việt Nam là thành viên của Công ước New York 1958 và hầu hết các quốc gia là đối tác đầu tư hoặc thương mại của Việt Nam đều là thành viên của Công ước này nên việc công nhận và cho thi hành trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại ít quan trọng hơn đối với các phán quyết của trọng tài nước ngoài. Việc công nhận và cho thi hành đối với bản án, quyết định của tòa án nước ngoài hoặc phán quyết của trọng tài nước ngoài được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 ở Việt Nam trong thời gian qua cũng gặp không ít khó khăn, phần vì Việt Nam chưa phải thành viên của nhiều công ước quốc tế phổ biến của La Hay[36], Quá trình kiện toàn mô hình THADS ở Việt Nam cần bảo đảm sự tương thích và đồng bộ của trong hoàn thiện hệ thống pháp luật THADS và Pháp luật tố tụng dân sự bên cạnh việc chú trọng gia nhập, ký kết một số điều ước quốc tế. Đây là giải pháp toàn diện để định hướng cho việc hoàn thiện chính sách pháp luật Việt Nam theo những thông lệ quốc tế phổ biến về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người và bảo đảm hiệu lực thi hành của các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

 

III. Kết luận chung của đề tài

Hoạt động THADS nhằm bảo đảm cho bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án được chấp hành, có hiệu quả thực thi trên thực tiễn; góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước; góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chủ động tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng là những định hướng chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua và những năm tới đây. Thực tiễn cho thấy việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế có mối quan hệ tương hỗ, thúc đẩy lẫn nhau. Những kết quả tích cực của cải cách pháp luật, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là yếu tố quan trọng nâng cao vị thế, hình ảnh để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Một trong các nhiệm vụ trọng tâm THADS, THAHC giai đoạn 2022-2026[37], trong đó nêu rõ yêu cầu về tăng cường hợp tác quốc tế, chủ động, tích cực, tranh thủ hiệu quả kinh nghiệm của một số quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển và các chuẩn mực quốc tế góp phần hoàn thiện chính sách pháp luật về THADS, thi hành án hành chính. Việc tham gia tích cực, chủ động vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực có ý nghĩa hết sức quan trọng, một mặt góp phần tăng cường hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa các cơ quan THADS của Việt Nam và các nước, mặt khác tạo cơ sở pháp lý giúp Việt Nam giải quyết vấn đề xung đột pháp luật về THADS với các nước thành viên, đẩy nhanh quy trình THADS, góp phần tích cực để giải quyết các tranh chấp và yêu cầu khác phát sinh trong quan hệ giữa công dân, pháp nhân của Việt Nam và các nước, đồng thời bảo đảm lợi ích của các đương sự trong tố tụng dân sự quốc tế.

Để đáp ứng với tình hình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước cũng như hội nhập thế giới; thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa theo định hướng của Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách pháp luật, công tác hợp tác quốc tế nói chung và sự tham gia vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực nói riêng cần phục vụ và phát huy hiệu quả cho các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của Hệ thống các cơ quan THADS và đội ngũ Thừa phát lại. Việc giao lưu, tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm và bài học từ các quốc gia trên thế giới với phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương đòi hỏi các cơ quan pháp luật và tư pháp, trong đó có các cơ quan THADS phải nghiên cứu hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy về THADS, tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm và bài học từ các quốc gia trên thế giới về các biện pháp, giải pháp nâng cao hiệu quả THAHC và tăng cường hiệu quả hoạt động của công tác THADS.

Để triển khai có hiệu quả những định hướng, chủ trương về tăng cường hợp tác quốc tế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS, Ban chủ nhiệm hy vọng kết quả nghiên cứu của đề tài, nhất là 5 giải pháp trong công tác hợp tác quốc tế đa phương và khu vực: (i) Tăng cường hợp tác quốc tế đa phương trong lĩnh vực THADS thông qua Liên minh Thừa phát lại quốc tế UIHJ; (ii) Tăng cường hợp tác quốc tế khu vực trong lĩnh vực THADS thông qua Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN; (iii) Tăng cường hợp tác quốc tế đa phương trong lĩnh vực THADS thông qua Tổ chức quốc tế về Luật phát triển IDLO; (iv) Tăng cường hợp tác quốc tế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS thông qua Công ước Liên hợp quốc về phòng chống tham nhũng UNCAC; (v) Tăng cường hợp tác quốc tế đa phương và khu vực trong lĩnh vực THADS thông qua cơ chế học thuật quốc tế, sẽ là một trong những cơ sở quan trọng để cơ quan có thẩm quyền tham khảo, đánh giá tính khả thi để triển khai thực hiện trên thực tế, góp phần vào sự thắng lợi phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian tới./.

 

 


[1] Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật từ nay đến năm 2010, định hướng đến năm 2020

[2] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

[3] Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 9/12/2009 của Ban Bí thư về hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp

[4] Mai Hà (2022) - Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền là vấn đề rất cơ bản, hệ trọng https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thong-tin-khac.aspx?ItemID=3576

[5] Nghị quyết số 23-NQ/BCSĐ ngày 29/3/2022 của Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp về lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm THADS, theo dõi THAHC giai đoạn 2022 – 2026

[6] Bài viết Thi hành án dân sự trong bối cảnh hội nhập quốc tế được tác giả Lê Thị Thu Hiền đăng trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp vào năm 2017 tại https://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/lists/thongtinchung/view_detail.aspx?itemid=1212, thời gian truy cập: 08/7/2020

[7] Bài viết Vai trò của Thi hành án dân sự qua lăng kính của học giả quốc tế của TS. Nguyễn Văn Nghĩa (http://baophapluat.vn/hoi-dap-phap-luat/vai-tro-cua-thi-hanh-an-dan-su-qua-lang-kinh-cua-cac-hoc-gia-quoc-te-345348.html, thời gian truy cập: 08/7/2020)

[8] Đề tài NCKH cấp Bộ “Nội luật hóa các điều ước quốc tế Việt Nam ký kết và tham gia phục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc” do TS. Hoàng Phước Hiệp làm chủ nhiệm năm 2007

[9] Đề tài NCKH cấp Bộ “HccH: Giá trị pháp lý của các điều ước quốc tế, thực tiễn nội luật hóa và áp dụng tại các quốc gia thành viên” do ThS. Cao Xuân Phong làm chủ nhiệm năm 2019

[10] Cuốn sách “Bối cảnh quốc tế về công tác thi hành án dân sự” của Giáo sư Luật học Konstantinos D. Kerameus (Chủ tịch Hiệp hội hợp tác khoa học của Bỉ) được xuất bản năm 1996

[11] Cuốn sách “Khi khu vực công dừng lại, khu vực tư hành động: Các vụ kiện dân sự nhằm phục hồi tài sản bị đánh cắp từ tham nhũng” của tác giả Brun, Jean Pierre và cộng sự được xuất bản năm 2015

[12] Cuốn sách Công nhận và cho thi hành phán quyết trong vụ việc dân sự và thương mại của tác giả Anselmo Reyes xuất bản năm 2019

[13] Tài liệu Thi hành án dân sự ở Việt Nam của Tổng cục Thi hành án Thái Lan (http://www.led.go.th/inter/pdf/1_Vietnam.pdf, thời gian truy cập: 08/7/2020)

[14] Tài liệu Hướng dẫn cho người hành nghề luật – Hợp tác tư pháp trong lĩnh vực dân sự tại Liên minh châu Âu (https://e-justice.europa.eu/fileDownload.do?id=3512675e-75e8-4d94-972a-be2558fd7229, thời gian truy cập: 08/7/2020)

[15] Tài liệu Cung cấp khuôn khổ hợp tác quốc tế về tư pháp dân sự do Chính phủ Anh soạn thảo (https://assets.publishing.service.gov.uk/government/uploads/system/uploads/attachment_data/file/639271/Providing_a_cross-border_civil_judicial_cooperation_framework.pdf, thời gian truy cập: 08/7/2020)

[16] Luận văn Nguyên tắc tự do di chuyển của bản án dân sự tại Liên minh châu Âu và quyền xét xử công bằng của Ông Monique Hazelhorst (https://repub.eur.nl/pub/93518/Hazelhorst-Free-movement-of-civil-judgments-and-the-right-to-a-fair-trial-final-v3.pdf, thời gian truy cập: 08/7/2020)

[17] Cuốn sách “Les huissiers de justice” (Thừa phát lại) của tác giả Alexandre Mathieu – Fritz (2005)

[18] Cuốn sách “Les moyens modernes de transmission des actes judiciaires et extrajudiciaires en Europe” (Các phương thức hiện đại về chuyển giao các văn bản tư pháp và ngoài tư pháp tại  Châu Âu) của Hội đồng thừa phát lại quốc gia Pháp xuất bản năm 2001

[19] Cuốn sách “Huissier de justice – Les codes thématiques” (Thừa phát lại – các bộ luật chuyên ngành) của các tác giả Patrick Gielen, Bert Nelissen, Pascal Lombardi, Karolien Dockers, Philippe Grumbers, Francois – Michel Huwart xuất bản 2010.

[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia sự thật, tập I, trang 174.

[21] Chỉ thị số 57-CT/TW ngày 08/08/1995 về hợp tác với nước ngoài trong về pháp luật, cải cách hành chính

[22] Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020

[23] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

[24] Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 09/12/2009 về hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp

[25] Kết luận số 73-KL/TW ngày 20/5/2020 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW

[26] Báo cáo của Bộ Tư pháp tổng kết thực hiện Nghị quyết số 31-NQ/BCSĐ ngày 05/4/2018 của Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp về lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm THADS, THAHC giai đoạn 2018-2021

[27] Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật từ nay đến năm 2010, định hướng đến năm 2020

[28] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

[29] Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 9/12/2009 của Ban Bí thư về hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp

[30] Yêu cầu cải cách, xây dựng mô hình THADS hiệu quả ở Việt Nam trong tình hình mới – Tiến sỹ Nguyễn Văn Nghĩa https://thads.moj.gov.vn/noidung/kyniem70nam/lists/tintucsukien/view_detail.aspx?itemid=194

[31] https://nhandan.vn/bai-3-tang-cuong-phoi-hop-trong-nuoc-va-hop-tac-quoc-te-ve-thu-hoi-tai-san-tham-nhung-post706649.html

[32] Phạm Bình Minh (2011), Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến năm 2020

[33] Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị nhằm thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của quốc gia

[34] Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị nhằm thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của quốc gia; Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 09/12/2009 về hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp

[36] Tính đến ngày 18/01/2021, Việt Nam vẫn chưa phải là một trong số 120 quốc gia thành viên của Công ước La Hay (The Hague Apostille Convention: https://hopphaphoa.vn/thanh-vien-cong-uoc-lahay).

Ngày 18/7/2011, Chủ tịch nước Việt Nam đã có Quyết định số 1103/2011/QĐ-CTN về việc phê chuẩn Công ước Lahay số 33 ngày 29/5/1993 (Công ước Lahay số 33) về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế (http://sotuphapqnam.gov.vn/index.php/tin-tc-s-kin/216-vit-nam-a-phe-chun-cong-c-lahay-s-33-ngay-2951993-v-bo-v-tr-em-va-hp-tac-trong-lnh-vc-nuoi-con-nuoi-quc-t).

Ngoài ra, ngày 30/9/2019 (ngày 1/10/2019, giờ Việt Nam), tại trụ sở Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), Việt Nam đã trao Văn kiện gia nhập Thỏa ước La Haye về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp (Văn kiện Geneva 1999) cho Tổng Giám đốc WIPO Francis Gurry. Thỏa ước sẽ chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam sau 03 tháng tính từ ngày nộp Văn kiện (https://vtv.vn/cong-nghe/viet-nam-gia-nhap-thoa-uoc-la-haye-ve-dang-ky-quoc-te-kieu-dang-cong-nghiep-20191001144940003.htm).

[37] Nghị quyết số 23-NQ/BCSĐ ngày 29/3/2022 của Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp về lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm THADS, theo dõi THAHC giai đoạn 2022 – 2026

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm ...