LỜI MỞ ĐẦU
Nghị Quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã khẳng định: “Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật”.
Mới đây, năm 2021, Đại hội Đảng lần thứ XIII đã yêu cầu “Nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp. Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp” [1].
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII và các chủ trương của Đảng, ngày 02/6/2021, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 04-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Chỉ thị này ra đời cũng đặt ra nhiều đòi hỏi, thách thức đối với công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, đó là phải nghiên cứu, tìm ra cơ sở lý luận, thực tiễn, giải pháp để nâng cao hiệu quả THADS nói chung, thi hành vụ việc điển hình trong thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự nói riêng. Do đó, việc tập hợp, sưu tầm, nghiên cứu các vụ việc THADS điển hình để từ đó rút kinh nghiệm, tổng hợp lý luận từ thực tiễn, làm cơ sở cho quá trình hoàn thiện pháp luật là phù hợp với chủ trương mới của Đảng.
Từ những đòi hỏi thực tiễn và yêu cầu chính trị, pháp lý đối với công tác THADS, việc thực hiện Đề tài: “Nghiên cứu xây dựng hồ sơ vụ việc điển hình trong công tác Thi hành án dân sự: Lý luận và thực tiễn” là hết sức cần thiết hiện nay. Đề tài này là công trình nghiên cứu hoàn toàn mới ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ được đề xuất áp dụng đối với cơ quan quản lý nhà nước về THADS, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp THADS; đóng góp hoàn thiện lý luận về THADS và gợi mở nhiều hướng nghiên cứu mới trong lĩnh vực THADS, góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng thi hành BA, QĐ của TA ở Việt Nam trong thời gian tới.
Ngoài Phần mở đầu, hệ chuyên đề và sản phẩm dạng II, Đề tài có kết cấu gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Chương 2. Vụ việc thi hành án dân sự điển hình và những vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn thi hành
Chương 3. Đề xuất giải pháp và bài học kinh nghiệm từ thực tiễn thi hành các vụ việc thi hành án dân sự điển hình
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
|
Chữ viết đầy đủ
|
BA, QĐ
|
Bản án, quyết định
|
BLHS
|
Bộ luật Hình sự
|
Bộ luật TTDS
|
Bộ luật Tố tụng dân sự
|
CHV
|
Chấp hành viên
|
KDTM
|
Kinh doanh, thương mại
|
NCKH
|
Nghiên cứu khoa học
|
TA
|
Tòa án
|
TAND
|
Tòa án nhân dân
|
TANDTC
|
Tòa án nhân dân tối cao
|
THADS
|
Thi hành án dân sự
|
THAHC
|
Thi hành án hành chính
|
THAHS
|
Thi hành án hình sự
|
TTHC
|
Tố tụng hành chính
|
TTTM
|
Trọng tài thương mại
|
TPL
|
Thừa phát lại
|
UBND
|
Ủy ban nhân dân
|
VAHC
|
Vụ án hành chính
|
VKS
|
Viện kiểm sát
|
VKSND
|
Viện kiểm sát nhân dân
|
VKSNDTC
|
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
|
XHCN
|
Xã hội chủ nghĩa
|
BÁO CÁO TÓM TẮT
TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Chương 1
Một số vấn đề lý luận về vụ việc thi hành án dân sự điển hình
1.1. Sơ lược lịch sử quy định của pháp luật về thi hành vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Đề tài nghiên cứu một số chủ trương, chính sách của Đảng đối với công tác THADS như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) tháng 01/1995: "Sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án”; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã khẳng định một trong những nhiệm vụ về cải cách tư pháp liên quan đến công tác thi hành án, đó là: “Trên cơ sở tổng kết, đánh giá về công tác thi hành án, cần sớm xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan thi hành án, bảo đảm các quyết định, bản án của toàn án đã có hiệu lực pháp luật phải được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh”. Ngày 02/6/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW và sau này là Kết luận số 92-KL/TW đã khẳng định: “Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của TA có hiệu lực pháp luật phải được thi hành”.
Như vậy, các chủ trương mang tính nguyên tắc, định hướng của Đảng đã được đặt ra từ rất sớm, đó là có cơ chế bảo đảm mọi BA, QĐ của TA có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, làm cơ sở, tiền đề để thể chế hóa thành luật và áp dụng vào thực tiễn công tác thi hành án nói chung, THADS nói riêng.
Về mặt thể chế, qua nghiên cứu cho thấy, mặc dù đã có một số quy định liên quan đến một số khía cạnh thi hành vụ việc THADS điển hình được ban hành từ rất lâu nhưng cho đến nay chưa có văn bản pháp luật nào quy định trực tiếp và đầy đủ về trình tự, thủ tục thi hành việc THADS điển hình. Một số quy định còn sơ sài, chung chung, gián tiếp đề cập đến những mặt, những yếu tố, dấu hiệu nhất định của vụ việc THADS điển hình, cụ thể như:
Thứ nhất, Chỉ thị số 266-TTg ngày 02/06/1993 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai bàn giao và tăng cường công tác THADS, tại điểm b mục 2 đã yêu cầu: “…cần chọn một số vụ điển hình mà đương sự có đủ điều kiện thi hành, nhưng cố tình lẩn tránh, chây ỳ, chống đối, không chịu thi hành, để kiên quyết áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành dứt điểm…”. Chỉ thị này cũng giao cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn, chỉ đạo chặt chẽ, chọn một số địa phương làm thí điểm để rút kinh nghiệm. Có thể nói rằng, đây là văn bản đầu tiên đề cập đến vụ việc THADS điển hình.
Thứ hai, Quyết định số 205-QĐ/THA ngày 02/07/1993 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về kế hoạch triển khai thực hiện chỉ thị số 266-TTg ngày 02/06/1993 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai bàn giao và tăng cường công tác THADS quy định: “Cần lựa chọn một số vụ việc mà đương sự có điều kiện thi hành án nhưng chây ỳ, chống đối việc thi hành án để tập trung chỉ đạo, tổ chức tốt việc cưỡng chế, đồng thời phối hợp với cơ quan điều tra, truy tố, xét xử lưu động một số vụ việc chống đối, cản trở công việc thi hành án và tổ chức tuyên truyền rộng rãi để làm gương cho những đối tượng khác…” (điểm 6 mục III).
Theo Quyết định số 205-QĐ/THA nêu trên thì vụ việc THADS điển hình là việc THADS có những dấu hiệu sau đây:
(i) Đó là vụ việc có điều kiện thi hành án.
(ii) Đương sự có biểu hiện lẩn tránh, chây ỳ, chống đối việc thi hành án.
(iii) Là vụ việc được cơ quan THADS lựa chọn để có sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức việc cưỡng chế một cách chủ động, bài bản, có kế hoạch cụ thể, chu đáo, đảm bảo thành công.
(iv) Có sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả của các ngành, cơ quan hữu quan, nhất là các cơ quan trong khối nội chính.
(v) Được tổ chức tuyên truyền rộng rãi để làm gương cho những đối tượng khác.
Như vậy, từ những năm 1993, quy định của pháp luật đã đề cập ở mức độ nhất định đến các dấu hiệu của vụ việc THADS điển hình. Theo đó, có thể hiểu, vụ việc THADS điển hình theo quan niệm trước đây là những vụ việc tiêu biểu, được lựa chọn trong số các vụ việc THADS có điều kiện thi hành nhưng đương sự có thái độ chây ỳ, chống đối; là vụ việc có sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ, có kế hoạch bài bản, cụ thể để đảm bảo thành công; được tuyên truyền rộng rãi để làm gương cho đối tượng khác. Qua đó cũng có thể coi là hình mẫu, kinh nghiệm tốt để các cơ quan THADS và CHV học hỏi và nhân rộng ra cho các vụ việc, địa bàn khác.
Thứ ba, Quyết định số 359/THA ngày 02/07/1993 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp “về kế hoạch chỉ đạo điểm mở đợt thi hành án trong sáu tháng cuối năm 1993” đã cụ thể hóa thêm nội dung Quyết định số 205-QĐ/THA theo hướng: “Toàn quốc chọn ra một số địa phương tiêu biểu cho vùng, miền, đặc thù dân cư, địa hình để tập trung chỉ đạo điểm; mỗi cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lựa chọn một số vụ việc để tập trung chỉ đạo điểm; mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chọn một số quận, huyện, thị để chỉ đạo điểm; mỗi huyện chọn một số vụ việc để tập trung chỉ đạo điểm”.
Những vụ việc được lựa chọn để tập trung chỉ đạo điểm được coi là những vụ việc THADS điển hình vì nó được cân nhắc, lựa chọn trong số các vụ việc THADS do cơ quan THADS đang thụ lý thi hành; được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, có kế hoạch bài bản, chặt chẽ, tổ chức tốt việc cưỡng chế để bảo đảm thành công, được tuyên truyền rộng rãi, có tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ để làm gương cho các đương sự khác, tạo điều kiện để việc mở đợt thi hành án thu được kết quả tốt.
Thứ tư, Pháp lệnh THADS năm 2004, tại điểm b khoản 1 Điều 58 quy định trách nhiệm của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh về việc quản lý “Chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp ảnh hưởng đến an ninh, chính trị ở địa phương”. Quy định này sau đó được luật hóa tại Điều 173 Luật THADS 2008 về nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp tỉnh trong THADS, đó là: “Chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh” và Điều 174 về nhiệm vụ quyền hạn của UBND cấp huyện trong THADS là: “Chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành án các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện”.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nguyên tắc và tiêu chí lựa chọn vụ việc thi hành án dân sự điển hình
1.2.1. Khái niệm
Từ kết quả nghiên cứu, đề tài đề xuất khái niệm mới về “Việc Thi hành án dân sự” và “Vụ việc thi hành án dân sự điển hình” như sau:
- Việc Thi hành án dân sự là các loại việc được nhà nước trao cho CHV, TPL thực hiện nhằm đảm bảo thi hành đầy đủ, kịp thời BA, QĐ về dân sự có hiệu lực thi hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
- Vụ việc THADS điển hình là loại vụ việc THADS có tính chất tiêu biểu, đặc trưng; có ý nghĩa đặc biệt về mặt lý luận và có giá trị tham khảo thực tiễn trong số các loại vụ việc THADS do CHV, TPL thi hành nhằm đảm bảo thi hành đầy đủ, kịp thời BA, QĐ về dân sự có hiệu lực thi hành theo trình tự, thủ tục luật định.
1.2.2. Đặc điểm của vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Từ khái niệm nêu trên có thể rút ra một số đặc điểm của vụ việc THADS điển hình như sau:
Một là, vụ việc THADS điển hình trước tiên phải có các đặc điểm chung của vụ việc THADS thông thường[2], như:
Thứ nhất, mỗi vụ việc THADS đều được thống kê và bắt nguồn từ mỗi quyết định thi hành án (dù là vụ việc THADS trọng điểm hay vụ việc THADS thông thường hay việc THADS được thống kê theo tiêu chí khác thì theo quy định hiện hành cũng thuộc một trong hai loại quyết định, đó là quyết định thi hành án chủ động và quyết định thi hành án theo yêu cầu[3]);
Thứ hai, các vụ việc THADS này cơ bản đều được thi hành theo một trình tự, thủ tục thống nhất theo quy định của pháp luật THADS, trừ một số loại vụ việc thi hành án ngoài việc tuân theo những thủ tục chung còn phải tuân theo một số quy định riêng, ví dụ: Thi hành quyết định về phá sản[4], thi hành phán quyết của TTTM;
Thứ ba, đều do CHV hoặc TPL tổ chức thi hành;
Thứ tư, đều hướng tới mục đích chung đó là nhằm bảo đảm khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp của các bên theo đúng quyết định của TA hoặc cơ quan tài phán trong BA, QĐ; v.v.
Hai là, vụ việc THADS điển hình là vụ việc có tính chất tiêu biểu, có những đặc điểm đặc trưng so với các vụ việc THADS thông thường, được thể hiện bởi một đặc điểm riêng rẽ hoặc đồng thời có nhiều đặc điểm dưới đây:
Thứ nhất, tiêu biểu về giá trị phải thi hành (có giá trị đặc biệt lớn hoặc giá trị nhỏ nhưng thủ tục thi hành phức tạp, tốn kém):
Ví dụ, vụ Huỳnh Thị H. N., TA tuyên bị cáo sung công 9.000 tỷ đồng, vụ Phạm Công D., tiền thi hành án là hơn 12.000 tỷ đồng. Chỉ riêng hai vụ này, tiền thi hành án đã chiếm 21.000 tỷ đồng[5]... Đối với vụ việc giá trị phải thi hành nhỏ, tính chất đơn giản nhưng thủ tục thi hành phức tạp, kéo dài và tốn kém, ví dụ, trả lại tiền tạm ứng án phí, tài sản có giá trị nhỏ (vài trăm nghìn đồng),…
Thứ hai, tiêu biểu về chủ thể (có số lượng đương sự đông đảo, có thể lên đến hàng trăm người hoặc đương sự là người nước ngoài hoặc là những người có chức vụ, quyền hạn cao trong bộ máy nhà nước hoặc là người thuộc diện chính sách dân tộc, tôn giáo, đối tượng được bảo vệ đặc biệt bởi pháp luật). Ví dụ, Cục THADS tỉnh N.B. có 01 vụ việc thi hành án, trong đó người phải thi hành án là các đối tượng liên quan phải hoàn trả cho Sở Lao động và TBXH tỉnh với số lượng lên đến gần 500 người, như vậy, CHV phải tổ chức thi hành đối với gần 500 người phải thi hành án. Hoặc vụ việc mà khi tổ chức cưỡng chế thi hành án có sự chống đối quyết liệt của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương và việc cưỡng chế phải bị tạm dừng;...
Thứ ba, điển hình về thời gian thi hành (kéo dài trong nhiều năm, thậm chí hàng chục năm).
Thứ tư, BA, QĐ đã được thi hành nhưng sau đó lại bị xử lại nhiều lần theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Thứ năm, vụ việc thi hành chưa từng có tiền lệ hoặc chưa có quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành. Tham khảo trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, Thông tư số 09/2018/TT-BTP ngày 21/6/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định vụ việc trợ giúp pháp lý phức tạp, điển hình cũng đã quy định một trong các tiêu chí được xác định là vụ việc trợ giúp pháp lý phức tạp, điển hình là vụ việc mà quy định của pháp luật về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án chưa rõ ràng, chưa được hướng dẫn áp dụng thống nhất hoặc chưa có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp (khoản 2 Điều 5 Thông tư số 09/2018/TT-BTP).
Do đó, số lượng việc THADS điển hình thường là ít, mang tính chất việc THADS điểm, tiêu biểu, được lựa chọn trong số các loại việc THADS thông thường.
Việc thi hành án chủ động và việc thi hành án theo yêu cầu được thống kê theo 13 nhóm việc THADS[6]; việc THADS trọng điểm, hiện có 09 nhóm tiêu chí ứng với 09 nhóm việc THADS trọng điểm được quy định tại Quyết định số 907/QĐ-TCTHADS.
Vụ việc THADS điển hình là những việc tiêu biểu, đặc trưng được lựa chọn trong số các việc THADS chủ động, việc THADS theo yêu cầu, việc THADS trọng điểm và việc THADS tham nhũng, kinh tế. Xét về số lượng, số việc THADS thông thường được thụ lý hàng năm được thống kê theo Thông tư số 06/2019/TT-BTP chiếm số lượng lớn nhất, hiện nay đang tiến tới con số gần 1.000.000 việc; việc THADS trọng điểm được thống kê theo Quyết định số 907/QĐ-TCTHADS trong những năm gần đây dao động khoản từ 1.000 đến 3.000 việc. Ví dụ, tỷ lệ giữa tổng số việc THADS trọng điểm/tổng số việc THADS thông thường của cả nước trong năm 2018 là khoảng 0,1% (1.300/927.000); năm 2017 là khoảng 0,2% (2.000/882.000); năm 2016 là khoảng 0,3% (2.600/836.000).[7] Như vậy, trong hàng trăm hoặc hàng nghìn việc THADS trọng điểm và trong hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu việc THADS thông thường mới có thể lựa chọn được vài việc THADS điển hình; không phải tất cả các tỉnh, thành phố đều có thể lựa chọn được việc THADS điển hình; không phải mỗi năm đều có việc THADS điển hình mà có thể qua nhiều năm mới có thể lựa chọn được một vài việc THADS điển hình;…
Do đó, số lượng vụ việc THADS điển hình hàng năm có thể chỉ dừng lại con số 1% trên tổng số việc THADS trọng điểm (tức là khoảng từ 10 đến 30 việc), tương đương với 0,1%-0,3% tổng số việc THADS thông thường. Do đó, số lượng việc THADS điển hình chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ, rất ít so với số việc THADS thông thường cũng như so với số việc THADS trọng điểm nhưng có giá trị đặc biệt lớn về kinh tế, có giá trị phổ biến và tính kế thừa, giáo dục cao. Nếu biểu diễn theo sơ đồ hình tháp thì đỉnh tháp là số lượng vụ việc THADS điển hình, phần giữa tháp là việc THADS trọng điểm và chân tháp là việc THADS thông thường.
Thứ sáu, vụ việc còn có nhiều quan điểm trái chiều của các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương về luật áp dụng hoặc biện pháp thi hành; vụ việc THADS bị khiếu nại, tố cáo gay gắt, phức tạp, kéo dài, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Ví dụ: việc thi hành Bản án số 688/HSPT ngày 4, 5/5/1999 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại TP. Hồ Chí Minh (vụ Trịnh Vĩnh B.[8]), có nhiều quyết định rất khó thi hành, như: Áp dụng Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 33 Bộ luật Hình sự: a) Hủy bỏ toàn bộ các quyết định giao đất, các hợp đồng mua bán, chuyển nhượng đất cũng như các giao dịch sang nhượng đất đối với các lô đất Trịnh Vĩnh B. mượn danh nghĩa người khác để mua bán trái phép, giao toàn bộ diện tích đất cho UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu quản lý (...);
Thứ bảy, vụ việc THADS có vi phạm nghiêm trọng của cơ quan nhà nước, cơ quan tố tụng trong THADS. Ví dụ, qua thống kê cho thấy, số liệu về thực trạng công tác kháng nghị, kiến nghị của VKSND trong kiểm sát công tác THADS, THAHC trong thời gian 03 năm (2014, 2015 và 2016) riêng TAND thành phố H có 05 BA, QĐ có thời hạn chuyển giao từ 15 đến dưới 18 năm (vi phạm nghiêm trọng Điều 28 Luật THADS 2008).[9]
Thứ tám, vụ việc đã thi hành để lại hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đối với đương sự hoặc với CHV, công chức, cơ quan nhà nước; v.v.
Thứ chín, tính chất điển hình còn được thể hiện thông qua mức độ phản ánh của dư luận xã hội (được dư luận xã hội và các phương tiện truyền thông đề cập nhiều lần trong một thời gian dài và được đông đảo quần chúng nhân dân quan tâm, biết đến từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, ví dụ: vụ Epco-MP.; vụ Vinashin; vụ Đinh La Th.; v.v.).
Ba là, vụ việc THADS điển hình là những vụ việc có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Về lý luận thì kết quả thi hành vụ việc THADS điển hình sẽ là cơ sở thực tiễn đánh giá tính đúng đắn của khái niệm vụ việc THADS điển hình; hoàn thiện, bổ sung các tiêu chí về vụ việc THADS điển hình và kiến nghị hoàn thiện cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo THADS Trung ương; kiến nghị hoàn thiện thể chế về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tố tụng và các cơ quan có liên quan như ngân hàng, tổ chức tín dụng, cơ quan đăng ký đất đai, cơ quan đăng ký kinh doanh, v.v.
Về mặt thực tiễn, nguyên nhân của những khó khăn, hạn chế, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành các vụ việc THADS điển hình sẽ là cơ sở để đưa ra các khuyến nghị, các bài học kinh nghiệm có giá trị đối với CHV, cơ quan THADS, các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, xã hội, ... đồng thời cũng đề xuất các giải pháp, bài học về áp dụng pháp luật và vận dụng sáng tạo, linh hoạt kinh nghiệm tổ chức thi hành án để tham khảo thi hành những việc tương tự về sau; làm rõ nhu cầu thực tiễn (số lượng, năng lực trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của đội ngũ CHV, đặc biệt là những CHV giỏi được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm thực tiễn và có bản lĩnh) để đáp ứng yêu cầu thi hành những vụ việc THADS điển hình; hồ sơ vụ việc THADS điển hình còn là nguồn tư liệu phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng các chức danh THADS; v.v.
1.2.3. Ý nghĩa của việc xác định vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Một là, lịch sử pháp luật THADS và thực tiễn thực hiện pháp luật THADS gần 30 năm qua (từ năm 1993 đến nay) đã chứng minh rằng trong lịch sử lập pháp đã có một số quy định mặc dù còn sơ sài đề cập đến vụ việc THADS điểm, vụ việc THADS điển hình và thực tiễn công tác THADS đã phát sinh một số vụ việc THADS điển hình. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các vấn vấn đề lý luận, thực tiễn về vụ việc THADS điển hình sẽ góp phần tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật THADS về thi hành vụ việc THADS điển hình và nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành đối với các loại vụ việc THADS này trong tương lai.
Hai là, thực tế đã có nhiều vụ việc THADS được xem là điển hình đã được thi hành thành công[10] nhưng cho đến nay chưa có tài liệu nào tổng kết, đúc rút kinh nghiệm cho việc thi hành các vụ việc THADS điển hình về sau. Các hội thảo khoa học lớn do Bộ Tư pháp, VKSNDTC chủ trì hoặc phối hợp với các tổ chức quốc tế tổ chức trao đổi về công tác THADS như Hội thảo “Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát thi hành án dân sự, hành chính năm 2017” do Viện KSNDTC tổ chức tại Nghệ An ngày 24/7/2017, đã tập trung thảo luận, phân tích nhiều chuyên đề quan trọng như: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát THADS đối với việc thu hồi tài sản về tham nhũng, thu hồi tài sản cho nhà nước, việc thi hành án có liên quan đến tổ chức tín dụng; công tác kiểm sát THADS của VKSNDTC đối với các vụ việc THADS phải áp dụng biện pháp cưỡng chế mà tài sản thi hành án là đất đai, nhà ở; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án. Đồng thời nêu các giải pháp khắc phục, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn công tác kiểm sát THADS, hành chính; Hội thảo “Thực tiễn thi hành Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành: Định hướng hoàn thiện” do Tổng cục THADS phối hợp với Dự án JICA đồng tổ chức tại Hà Nội vào ngày 21/02/2019...
Các diễn đàn khoa học này đã phần nào phân tích, đề cập đến thành công, tồn tại, hạn chế đặc biệt là những vi phạm, sai sót của CHV, cơ quan THADS và các cơ quan khác có liên quan trong quá trình tổ chức thi hành án và đề xuất giải pháp thi hành những vụ việc THADS lớn, đặc biệt lớn, phức tạp, khó khăn. Mặc dù vậy, đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, bài học từ việc thi hành những vụ việc THADS được xem là điển hình nhưng thông qua các ý kiến đề xuất từ các diễn đàn khoa học, Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã có chủ trương và giao cho cơ sở nghiên cứu khoa học của Bộ có công trình nghiên cứu khoa học về vụ việc THADS điển hình để nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn kết quả thi hành vụ việc THADS có tính chất điển hình để rút ra bài học kinh nghiệm, giải pháp. Do đó, việc tập hợp, lựa chọn, nghiên cứu các vụ việc THADS điển hình thông qua thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học này sẽ giúp phát hiện ra những sai sót, những “khoảng trống pháp lý” cần phải bổ sung, hoàn thiện trong quy trình thi hành án, tìm ra những “điểm nghẽn” dẫn đến quy trình thi hành án bị kéo dài, ảnh hưởng đến quyền cơ bản của con người và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Ba là, từ yêu cầu thực tiễn, để nâng cao hiệu quả thi hành các vụ việc THADS điển hình nói riêng cũng như nâng cao hiệu quả thi hành án nói chung cần có sự đánh giá toàn diện, xuyên suốt toàn bộ các việc THADS còn vướng mắc, tồn đọng, kéo dài, để cùng tư duy, nhận định những vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong hệ thống từ tất cả các “mắt xích” trong hoạt động thi hành án, làm cơ sở cho việc xây dựng Luật THADS toàn diện, hiệu quả hơn nữa. Do đó, việc nghiên cứu đề xuất tiêu chí vụ việc THADS điển hình để từ đó đề xuất xây dựng hồ sơ vụ việc THADS điển hình sẽ mang lại ý nghĩa thực tiễn-lý luận cao; đề xuất rút ngắn thời gian, đơn giản hóa trình tự, thủ tục thi hành án, đặc biệt là vụ việc THADS điển hình.
Bốn là, trong THADS có những vụ việc được coi là việc THADS trọng điểm, phức tạp, kéo dài, có giá trị phải thi hành lớn, đặc biệt lớn hoặc mặc dù giá trị không lớn nhưng quá trình tổ chức thi hành rất khó khăn, phức tạp, tốn kém; việc thi hành những việc như vậy là chưa từng có tiền lệ; chưa có văn bản pháp luật quy định về trình tự, thủ tục thi hành BA, QĐ, trong khi về mặt nguyên tắc thì mọi BA, QĐ đã có hiệu lực đều phải được thi hành. Đứng trước thực tế khó khăn này đòi hỏi CHV phải có những kỹ năng, biện pháp nghiệp vụ và áp dụng sáng tạo pháp luật để tổ chức thi hành BA, QĐ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự. Vậy, trong những trường hợp này với những việc như vậy được tổ chức thi hành có hiệu quả có thể trở thành những việc “thi hành án lệ” không là những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Đây là những vấn đề lớn, mới và có tính học thuật cao, việc nghiên cứu việc THADS điển hình sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc đề xuất cơ sở khoa học để sửa đổi, bổ sung Luật THADS, đặc biệt bổ sung trình tự, thủ tục thi hành vụ việc THADS có tính chất đặc thù, điển hình.
Năm là, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp và trách nhiệm của cơ quan TAND đối với công tác THADS. Nhiều BA, QĐ của TA tuyên không rõ ràng, không khả thi nên khó thi hành; một số TA vì một lý do nào đó nên chậm trả lời hoặc không trả lời yêu cầu cơ quan THADS về giải thích bản án đã làm cho việc thi hành án gặp không ít khó khăn[11]. Ngược lại, cũng có quan điểm cho rằng cần phải xác định cụ thể trách nhiệm của cơ quan THADS trong những trường hợp BA, QĐ tuyên đã rõ ràng nhưng có yêu cầu TA giải thích, sửa chữa, bổ sung[12]. Điều này cho thấy cần thiết phải làm rõ tính hiệu quả trong công tác phối hợp liên ngành giữa cơ quan TAND và cơ quan THADS. Thực tế có thể đã có vụ việc THADS điển hình liên quan đến các khái niệm như “bản án tuyên không rõ, án khó thi hành”. Vậy, lý do và giải pháp là gì, liệu có mối liên hệ nào giữa tính chất điển hình trong vụ việc THADS với tính chất điển hình trong cùng BA, QĐ đã được tuyên trước đó? Quy định của pháp luật về vấn đề này như thế nào, trách nhiệm của mỗi cơ quan cũng như cơ chế phối hợp giữa ngành TA và ngành THADS cũng cần phải tiếp tục nghiên cứu để tìm ra giải pháp cho vấn đề này.
Khái niệm “Vụ việc Thi hành án dân sự điển hình” là thuật ngữ hoàn toàn mới nên bước đầu chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu như được nêu trong phần mở đầu. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài, trong thời gian tới cần đầu tư mở rộng nghiên cứu sâu sắc hơn tất cả các khía cạnh pháp lý có liên quan để đề xuất bổ sung, hoàn thiện các quy phạm pháp luật chuyên ngành về THADS. Từ đó đề xuất căn cứ pháp lý xây dựng thành các hồ sơ mẫu về vụ việc THADS điển hình để phổ biến, áp dụng rộng rãi trong hoạt động THADS, góp phần nâng cao hiệu quả công tác THADS nói chung, đặc biệt là hiệu quả thi hành đối với các BA, QĐ về kinh tế, tham nhũng điển hình nhằm bảo đảm sự chắc chắn và hiệu quả của việc áp dụng và thực hiện pháp luật trong thực tiễn phù hợp với các chủ trương lớn của Đảng như Nghị quyết số 49-NQ/TW và Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế...
1.2.4. Nguyên tắc lựa chọn vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Nguyên tắc lựa chọn vụ việc THADS điển hình là những yêu cầu cơ bản đặt ra nhất thiết phải tuân theo trong quá trình lựa chọn để xác định vụ việc THADS điển hình. Lựa chọn vụ việc THADS điển hình phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, lựa chọn vụ việc THADS điển hình phải dựa vào các tiêu chí của vụ việc THADS điển hình. Trong hệ thống TAND, khái niệm “án lệ” và “tiêu chí lựa chọn án lệ” cũng đã được áp dụng từ năm 2015 theo Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ (Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP) và những khái niệm này cũng đã được sửa đổi từ năm 2019 theo Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố, áp dụng án lệ (Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP).
Theo đó, “án lệ” là những lập luận, phán quyết trong BA, QĐ đã có hiệu lực pháp luật của TA về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán TANDTC lựa chọn và được Chánh án TAND công bố là án lệ để các TA nghiên cứu, áp dụng trong xét xử (Điều 1 Nghị Quyết số 04/2019/NQ-HĐTP). Án lệ được lựa chọn phải đáp ứng các tiêu chí sau đây: “1. Có giá trị làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau, phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể hoặc thể hiện lẽ công bằng đối với những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể; 2. Có tính chuẩn mực; 3. Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử” (Điều 2 Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP).
Ở các nước thuộc hệ thống thông luật, tiêu biểu như Anh, Hoa Kỳ, Úc, “án lệ” chiếm vị trí quan trọng, được ví như mạch máu của hệ thống pháp luật “life blood of a legal system”, là nguồn luật chính thức[13]. Với các đặc điểm nêu trên, có thể hiểu rằng để trở thành án lệ thì quyết định đó của TA phải được ban hành từ một tình huống pháp lý tiêu biểu, điển hình, có tính mẫu mực để thẩm phán có thể dựa vào để đưa ra lý do cho quyết định trong vụ việc hiện thời. Do bản chất của hoạt động xét xử và hoạt động THADS là khác nhau nên không phải mọi BA, QĐ được công nhận là án lệ sẽ trở thành những vụ việc THADS điển hình ở giai đoạn thi hành án. Theo quy định của pháp luật hiện hành, đang có nhiều cách phân loại việc THADS khác nhau, tùy thuộc vào mục đích của mỗi cách phân loại. Vụ việc THADS điển hình là khái niệm hoàn toàn mới nên chưa có văn bản quy định về tiêu chí xác định vụ việc THADS điển hình. Sau khi bộ tiêu chí vụ việc THADS điển hình được xác định thống nhất thì nguyên tắc đầu tiên trong việc lựa chọn vụ việc THADS điển hình đó là phải dựa vào các tiêu chí của vụ việc THADS điển hình. Tuy nhiên, BA, QĐ được công nhận là án lệ cũng là một yếu tố cần cân nhắc kỹ hơn khi xem xét, lựa chọn vụ việc THADS điển hình.
Hai là, lựa chọn vụ việc THADS điển hình phải do cơ quan có thẩm quyền quyết định và theo trình tự, thủ tục của pháp luật. Trong giai đoạn xét xử, để việc phát triển án lệ trở thành nhiệm vụ thường xuyên, thiết thực và phát huy được tác dụng của án lệ, trước đây, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP. Có thể nói, đây là văn bản pháp lý đầu tiên của hệ thống TAND Việt Nam về án lệ. Ngày 18/6/2019, Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP thay thế cho Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP. Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/7/2019 đã quy định việc lựa chọn án lệ phải thực hiện qua nhiều bước[14] như: Đề xuất BA, QĐ để phát triển thành án lệ; Lấy ý kiến đối với BA, QĐ được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ; Hội đồng tư vấn án lệ; Áp dụng án lệ trong xét xử và Bãi bỏ án lệ.
Tham khảo nguyên tắc của quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ, quy trình lựa chọn vụ việc THADS điển hình cũng phải tuân theo quy trình, thủ tục chặt chẽ như: xác định đúng chủ thể đề xuất vụ việc THADS điển hình (gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức mà tập trung nhất chủ yếu là cơ quan THADS thông qua đề xuất của CHV, công chức ngành THADS; văn phòng TPL thông qua đề xuất của các TPL; và từ các văn phòng luật sư, công ty luật, các bên đương sự, ...); quy trình lựa chọn (lựa chọn vụ việc THADS điển hình ở cấp Chi cục THADS của mỗi Cục THADS, sau đó lựa chọn vụ việc THADS điển hình giữa các Cục THADS, lựa chọn vụ việc THADS điển hình do TPL thực hiện giữa các văn phòng TPL); Thẩm quyền quyết định vụ việc THADS điển hình (trên cơ sở kết quả thẩm định, lựa chọn của Hội đồng thẩm định vụ việc THADS điển hình của Tổng cục THADS, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành danh sách và nội dung các vụ việc THADS điển hình); Trong quá trình tổ chức thi hành các vụ việc THADS điển hình về sau cần vận dụng những giải pháp, bài học kinh nghiệm từ các vụ việc THADS điển hình đã được công bố để rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án, hạn chế sai sót trong quy trình tổ chức thi hành án và nâng cao hiệu quả công tác THADS đặc biệt là đối với những vụ việc THADS điển hình.
Ba là, vụ việc THADS được lựa chọn là điển hình phải là vụ việc mà BA, QĐ làm căn cứ ban hành quyết định thi hành án chứa đựng những kiến nghị có giá trị của TA hoặc những kiến nghị của cơ quan quản lý nhà nước về THADS, cơ quan THADS trong việc hoàn thiện pháp luật; việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, khắc phục những hạn chế, thiếu sót của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong công tác quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước về thi hành án nói riêng; kiến nghị cá nhân có thẩm quyền trực tiếp khởi tố vụ án án khác, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải thích, đính chính BA, QĐ; v.v.
Bốn là, lựa chọn vụ việc THADS điển hình phải thực hiện theo định kỳ và có tính hệ thống. Hàng năm, trên cơ sở dữ liệu thống kê kết quả thi hành án về việc và về tiền, cần có đề xuất, lựa chọn những việc THADS điển hình theo những tiêu chí của việc THADS điển hình. Việc lựa chọn này cần được thực hiện có hệ thống, từ cấp huyện (thông qua lựa chọn của các Chi cục THADS), đến cấp tỉnh (thông qua lựa chọn của các Cục THADS) và cấp Trung ương (thông qua lựa chọn của Tổng cục THADS).
Năm là, kết quả lựa chọn vụ việc THADS điển hình phải được công bố rộng rãi, ứng dụng trong công tác giáo dục, đào tạo nhằm cung cấp giải pháp, bài học kinh nghiệm thực tiễn cho các khóa đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ THADS cũng như cho cơ quan quản lý nhà nước về THADS, cho CHV và các cán bộ trong thực tiễn tổ chức thi hành án.
Sáu là, có cơ chế sửa đổi, bổ sung tiêu chí vụ việc THADS điển hình, thay đổi tiêu chí vụ việc THADS điển hình. Khi hệ thống pháp luật nói chung, quy định của pháp luật THADS nói chung thay đổi hoặc cùng với sự thay đổi của điều kiện kinh tế, xã hội, hoặc từ thực tiễn công tác quản lý THADS, công tác THADS phát hiện việc THADS không đáp ứng các tiêu chí của vụ việc THADS điển hình thì vụ việc THADS được lựa chọn là điển hình cần xem xét, điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn. Việc sửa đổi, bổ sung, thay thế tiêu chí vụ việc THADS điển hình cần phải được rà soát, thông tin kịp thời, rộng rãi tới đối tượng áp dụng nhằm ngăn chặn sai sót trong công tác THADS.
1.2.5. Tiêu chí lựa chọn vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, trước đây, Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Quyết định số 2662/QĐ-BTP ngày 29/12/2016 về việc ban hành tiêu chí xác định vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình trong hoạt động trợ giúp pháp lý năm 2016 và năm 2017. Mới đây, phù hợp với hình thức và thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và theo quy định mới của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017; Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 09/2018/TT-BTP ngày 21/6/2018 quy định Tiêu chí xác định vụ việc trợ giúp pháp lý phức tạp, điển hình thay thế cho Quyết định số 2662/QĐ-BTP nêu trên.
Theo quy định mới tại Thông tư này, vụ việc trợ giúp pháp lý phức tạp, điển hình là vụ việc đáp ứng các tiêu chí chung đối với vụ việc tham gia tố tụng; tiêu chí đối với vụ việc tham gia tố tụng hình sự; tiêu chí đối với vụ việc tham gia tố tụng dân sự; tiêu chí đối với vụ việc tham gia TTHC; tiêu chí đối với vụ việc đại diện ngoài tố tụng, tư vấn pháp luật. Cùng các lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp nên đây cũng là tiền lệ có giá trị tham khảo để xác định các tiêu chí vụ việc THADS phức tạp, điển hình.
Trong lĩnh vực THADS, các loại vụ việc THADS khác nhau có các tiêu chí phân loại khác nhau. Khác với căn cứ phân loại của việc THADS chủ động, việc THADS theo yêu cầu, việc THADS trọng điểm, cách xác định vụ việc THADS điển hình dựa vào tính chất tiêu biểu, đặc điểm đặc trưng của việc THADS, ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn để lựa chọn một số việc THADS trong tổng số các việc THADS thông thường là việc THADS điển hình.
Vụ việc THADS điển hình là vụ việc THADS thỏa mãn một trong tám nhóm tiêu chí hoặc thỏa mãn đồng thời nhiều nhóm tiêu chí trong số các nhóm tiêu chí dưới đây:
Một là, căn cứ vào thực trạng quy định của pháp luật, vụ việc THADS điển hình là vụ việc THADS có một trong các tiêu chí sau đây:
- Vụ việc THADS có quan điểm khác nhau giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có tình huống pháp lý mà pháp luật chưa quy định, quy định chưa cụ thể hoặc pháp luật có mâu thuẫn, xung đột, đã tổ chức họp liên ngành nhưng chưa thống nhất được quan điểm giải quyết; việc THADS chưa nhận được sự đồng thuận của cấp ủy, chính quyền địa phương về việc xét xử, thi hành án;
- BA, QĐ của TA hoặc TTTM, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh tuyên không rõ, khó thi hành, cơ quan THADS hoặc đương sự đã có yêu cầu giải thích nhưng cơ quan có thẩm quyền chậm trả lời theo quy định tại khoản 2 Điều 179 Luật THADS hoặc đã có văn bản trả lời nhưng chưa rõ.
Hai là, căn cứ vào thực trạng tổ chức thi hành án, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến kết quả thi hành án, vụ việc THADS điển hình là vụ việc THADS có một trong các tiêu chí sau đây:
- Vụ việc THADS đã được tổ chức thi hành thành công mà chưa có tiền lệ hoặc chưa có quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành;
- Khi tổ chức cưỡng chế có sự chống đối quyết liệt của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương và việc cưỡng chế đã được tạm dừng;
- Có vi phạm các quy định của pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án, đã phát sinh hoặc có thể phát sinh hậu quả phức tạp, khó khắc phục;
- Cần giải quyết các quyền lợi của tập thể người lao động trong trường hợp tổ chức cưỡng chế đối với người phải thi hành án là các doanh nghiệp, có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
Ba là, căn cứ vào dấu hiệu là chủ thể đặc biệt của các bên đương sự, vụ việc THADS điển hình là việc THADS thỏa mãn tiêu chí sau đây:
- Vụ việc thi hành các bản án liên quan đến tội phạm về tham nhũng thuộc diện án trọng điểm mà Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng hoặc Thành ủy, Tỉnh ủy theo dõi, chỉ đạo.
- Vụ việc THADS có số lượng đương sự đông đảo hoặc đương sự là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài ở nước ngoài.
Bốn là, căn cứ vào các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, vụ việc THADS điển hình là việc THADS mà khi tổ chức thi hành án phát sinh vấn đề phức tạp liên quan đến chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Năm là, căn cứ vào quyết định của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Lãnh đạo địa phương và Cục trưởng Cục THADS, vụ việc THADS điển hình là vụ việc THADS thỏa mãn một trong các tiêu chí sau đây:
- Các vụ việc THADS mà Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Lãnh đạo địa phương đã có văn bản chỉ đạo giải quyết;
- Các vụ việc THADS khác mà Thủ trưởng cơ quan THADS xét thấy cần đưa vào danh sách vụ việc THADS điển hình.
Sáu là, vụ việc THADS điển hình là vụ việc THADS tiêu biểu về giá trị phải thi hành (có giá trị đặc biệt lớn hoặc giá trị nhỏ nhưng thủ tục thi hành phức tạp, tốn kém);
Bảy là, vụ việc THADS điển hình là vụ việc THADS mà BA, QĐ đã được thi hành nhưng sau đó lại bị xử lại nhiều lần theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
Tám là, vụ việc THADS điển hình là vụ việc THADS mà thời gian tổ chức thi hành án và/hoặc giải quyết khiếu nại, tố cáo liêu quan đến kết quả thi hành án kéo dài từ 10 năm trở lên.
Chín là, vụ việc THADS điển hình là việc mà quá trình tổ chức thi hành án, giải quyết khiếu nại, tố cáo chứa đựng những tình tiết, tình huống, giải pháp cá biệt, đặc thù.
1.3. Đề xuất quy trình xây dựng hồ sơ vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Hồ sơ vụ việc THADS điển hình là hồ sơ mà trong đó vụ việc THADS đáp ứng một trong các tiêu chí của vụ việc THADS điển hình (đã phân tích ở chương 1 nêu trên). Do đó, để lựa chọn và xây dựng hồ sơ vụ việc THADS điển hình trước tiên phải lựa chọn được vụ việc THADS điển hình. Vụ việc THADS điển hình bao gồm vụ việc THADS đã được thi hành xong hoặc đang được thi hành hoặc sẽ được tổ chức thi hành nếu đáp ứng một trong các tiêu chí của vụ việc THADS điển hình. Đối với những vụ việc đã thi hành xong thì lập hồ sơ vụ việc THADS điển hình để phục vụ công tác lưu trữ, nghiên cứu, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng. Đối với những vụ việc THADS điển hình đang thi hành hoặc sẽ tổ chức thi hành sẽ được lập thành hồ sơ vụ việc THADS điển hình sau khi tổ chức thi hành xong.
Hồ sơ vụ việc THADS điển hình là hồ sơ được lựa chọn, đáp ứng các tiêu chí theo quy định. Hàng năm, trên cơ sở dữ liệu thống kê kết quả thi hành án về việc và về tiền, cần có đề xuất, lựa chọn những vụ việc THADS điển hình theo những tiêu chí của vụ việc THADS điển hình để lập hồ sơ vụ việc THADS điển hình. Tiêu chí xác định vụ việc THADS điển hình phải dựa trên căn cứ pháp lý do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành trên cơ sở đề xuất của Tổng cục THADS. Quy định về tiêu chí xác định vụ việc THADS điển hình có thể thay đổi, điều chỉnh tùy thuộc vào sự thay đổi và theo yêu cầu của tình hình thực tiễn công tác THADS. Trong văn bản quy định tiêu chí hồ sơ việc THADS điển hình cần xác định chủ thể có thẩm quyền đề xuất vụ việc THADS điển hình.
1.3.1. Quy trình lựa chọn, công bố, thay đổi tiêu chí vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Quy trình lựa chọn, công bố, thay đổi tiêu chí vụ việc THADS điển hình có thể được thực hiện theo các bước sau đây:
Bước 1: Đề xuất vụ việc THADS đáp ứng tiêu chí vụ việc THADS điển hình để lập hồ sơ và công bố hồ sơ vụ việc THADS điển hình. Chủ thể gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định có thể gửi đề xuất vụ việc THADS đã được thi hành đáp ứng tiêu chí vụ việc THADS điển hình để cơ quan có thẩm quyền xem xét, công bố vụ việc THADS điển hình. Chủ thể đề xuất vụ việc THADS điển hình phải là những cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp tổ chức thi hành BA, QĐ, am hiểu sâu sắc nhất về tính chất phức tạp, khó khăn, tiêu biểu của vụ việc THADS. Cơ quan, tổ chức, cá nhân chủ yếu là Cục THADS, Chi cục THADS và CHV. Ngoài ra, cũng có thể từ văn phòng TPL, TPL; và cũng có thể từ các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực THADS.
Bước 2: Lấy ý kiến đối với vụ việc THADS được đề xuất lựa chọn, lập hồ sơ vụ việc THADS điển hình. Thủ tục này có thể được thực hiện như sau:
- Việc lựa chọn vụ việc THADS được thực hiện bắt đầu từ cấp huyện (thông qua lựa chọn của các Chi cục THADS). Trên cơ sở kết quả lựa chọn vụ việc THADS điển hình của các Chi cục THADS trên địa bàn tỉnh, Cục THADS cấp tỉnh (thông qua lựa chọn của các Cục THADS) sẽ lựa chọn ra hồ sơ vụ việc THADS điển hình trên địa bàn tỉnh (hoặc lựa chọn vụ việc THADS điển hình do TPL thực hiện giữa các văn phòng TPL). Tổng cục THADS ở cấp Trung ương sẽ lựa chọn ra hồ sơ vụ việc THADS điển hình trên phạm vi toàn quốc. Trên cơ sở đề xuất của Tổng cục THADS, Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ xem xét và công bố danh sách hồ sơ vụ việc THADS điển hình.
- Vụ việc THADS được đề xuất lựa chọn để lập hồ sơ vụ việc THADS điển hình, nội dung đề xuất là vụ việc THADS điển hình, dự thảo vụ việc THADS điển hình ở bước xem xét của Tổng cục THADS phải được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục THADS để các cơ quan THADS, chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn, cá nhân, cơ quan, tổ chức quan tâm tham gia ý kiến, trừ trường hợp được tập thể lãnh đạo Tổng cục THADS và lãnh đạo Bộ Tư pháp đề xuất. Ý kiến góp ý được gửi về Tổng cục THADS. Thời gian lấy ý kiến góp ý là 30 ngày kể từ ngày đăng tải.
- Trên cơ sở kết quả lấy ý kiến rộng rãi đối với các việc THADS được đề xuất lựa chọn, xây dựng thành vụ việc THADS điển hình, nội dung đề xuất là vụ việc THADS điển hình, dự thảo vụ việc THADS điển hình, Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định việc lấy ý kiến của Hội đồng tư vấn xác định vụ việc THADS điển hình. Việc lấy ý kiến của Hội đồng tư vấn xác định vụ việc THADS điển hình được thực hiện thông qua phiên họp của Hội đồng.
Bước 3: Hội đồng xác định vụ việc THADS điển hình. Thành phần, nhiệm vụ, phiên họp của Hội đồng xác định vụ việc THADS điển hình có thể bao gồm:
- Hội đồng xác định vụ việc THADS điển hình do Bộ trưởng Bộ Tư pháp thành lập gồm các thành viên như: Chủ tịch Hội đồng là Thứ trưởng Bộ Tư pháp (phụ trách lĩnh vực THADS), 01 Phó Chủ tịch Hội đồng là Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, 01 Phó Chủ tịch Hội đồng là Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS, 01 Phó Chủ tịch Hội đồng là đại diện lãnh đạo Học viện Tư pháp, các thành viên khác là đại diện lãnh đạo Cục THADS thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, VKSNDTC, TANDTC, mỗi đơn vị nghiệp vụ THADS, THAHC của Tổng cục THADS cử 01 lãnh đạo đại diện (01 người đồng thời là Thư ký Hội đồng).
- Hội đồng xác định vụ việc THADS điển hình có trách nhiệm thảo luận cho ý kiến đối với các vụ việc THADS được đề xuất lựa chọn, xây dựng thành hồ sơ vụ việc THADS điển hình, nội dung đề xuất là vụ việc THADS điển hình, dự thảo vụ việc THADS điển hình.
- Việc lấy ý kiến của Hội đồng xác định vụ việc THADS điển hình được thực hiện thông qua phiên họp thảo luận trực tiếp hoặc bằng văn bản. Chủ tịch Hội đồng xác định vụ việc THADS điển hình quyết định phương thức lấy ý kiến của các thành viên Hội đồng và báo cáo Bộ trưởng Bộ Tư pháp kết quả xác định vụ việc THADS điển hình.
Bước 4: Thông qua vụ việc THADS điển hình. Việc thông qua vụ việc THADS điển hình được thực hiện như sau:
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp tổ chức phiên họp toàn thể Hội đồng xác định vụ việc THADS điển hình để thảo luận, biểu quyết thông qua vụ việc THADS điển hình.
- Vụ việc THADS được lựa chọn là điển hình phải là vụ việc mà BA, QĐ làm căn cứ ban hành quyết định thi hành án chứa đựng những kiến nghị có giá trị của TA hoặc những kiến nghị của cơ quan quản lý nhà nước về THADS, cơ quan THADS trong việc hoàn thiện pháp luật; việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, khắc phục những hạn chế, thiếu sót của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong công tác quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước về thi hành án nói riêng; kiến nghị cá nhân có thẩm quyền trực tiếp khởi tố vụ án khác, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải thích, đính chính BA, QĐ; v.v.
- Vụ việc THADS điển hình được xem xét thông qua khi thuộc một trong các trường hợp sau: Được xây dựng từ việc THADS đã được thi hành và đã được lấy ý kiến rộng rãi trên cổng thông tin điện tử của Tổng cục THADS và lấy ý kiến của Hội đồng xác định vụ việc THADS điển hình; Được Lãnh đạo Bộ Tư pháp đề xuất; Được Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS đề xuất; Được tập thể Lãnh đạo Tổng cục THADS đề xuất trong quá trình hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ.
- Phiên họp Hội đồng xác định vụ việc THADS phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết định của Hội đồng xác định việc THADS điển hình phải được quá nửa tổng số thành viên Hội đồng biểu quyết tán thành.
- Kết quả biểu quyết phải được ghi vào biên bản phiên họp lựa chọn, thông qua việc THADS điển hình của Hội đồng và là căn cứ để Bộ trưởng Bộ Tư pháp công bố vụ việc THADS điển hình.
Bước 5: Công bố vụ việc THADS điển hình. Việc công bố vụ việc THADS điển hình được thực hiện theo thủ tục sau đây:
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành quyết định công bố vụ việc THADS điển hình đã được Hội đồng xác định vụ việc THADS điển hình thông qua.
- Nội dung công bố bao gồm: Số, tên vụ việc THADS điển hình; Số, tên vụ việc THADS điển hình của cơ quan THADS có nội dung được xây dựng thành hồ sơ vụ việc THADS điển hình; Tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý và bài học kinh nghiệm của vụ việc THADS điển hình; Quy định của pháp luật có liên quan đến quá trình tổ chức thi hành BA, QĐ; Từ khóa về những tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý, bài học kinh nghiệm trong hồ sơ vụ việc THADS điển hình; Các tình tiết trong hồ sơ vụ việc THADS điển hình và BA, QĐ của TA có liên quan đến vụ việc THADS điển hình và Nội dung của vụ việc THADS điển hình.
- Vụ việc THADS điển hình được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục THADS; được gửi cho các cơ quan THADS, các đơn vị thuộc Tổng cục THADS và được đưa vào Tuyển tập việc THADS điển hình để xuất bản; việc công bố công khai còn để phục vụ trong công tác giáo dục, đào tạo; cung cấp giải pháp, bài học kinh nghiệm thực tiễn cho các khóa đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ THADS cũng như cho cơ quan quản lý nhà nước về THADS, cho CHV và các cán bộ trong thực tiễn tổ chức thi hành án.
Bước 6: Áp dụng vụ việc THADS điển hình trong hoạt động THADS. Việc áp dụng giải pháp, bài học kinh nghiệm từ hồ sơ vụ việc THADS điển hình được thực hiện như sau:
- Vụ việc THADS điển hình được nghiên cứu, vận dụng trong hoạt động THADS sau 30 ngày kể từ ngày công bố.
- Quá trình tổ chức thi hành án, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan THADS, CHV phải nghiên cứu, vận dụng giải pháp, bài học kinh nghiệm từ hồ sơ vụ việc THADS điển hình, bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được vận dụng vào giải quyết như nhau trong quá trình tổ chức thi hành án. Trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng cơ quan THADS không vận dụng giải pháp, bài học kinh nghiệm của vụ việc THADS điển hình thì phải nêu rõ lý do trong quá trình tổ chức thi hành án.
- Trường hợp cơ quan THADS áp dụng một số giải pháp, bài học kinh nghiệm từ vụ việc THADS điển hình để tổ chức thi hành án thì số, tên vụ việc THADS điển hình, tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý, bài học kinh nghiệm trong vụ việc THADS điển hình và tình huống pháp lý của vụ việc THADS đang được tổ chức thi hành phải được viện dẫn, phân tích trong các quyết định, tài liệu của hồ sơ thi hành án; tùy từng trường hợp cụ thể có thể áp dụng toàn bộ hoặc một phần giải pháp, bài học kinh nghiệm trong hồ sơ vụ việc THADS điển hình để làm rõ quan điểm của cơ quan THADS trong việc tổ chức thi hành việc THADS tương tự.
Bước 7: Sửa đổi, bổ sung tiêu chí vụ việc THADS điển hình. Điều kiện, thẩm quyền và thủ tục sửa đổi, bổ sung tiêu chí vụ việc THADS điển hình được thực hiện như sau:
- Vụ việc THADS điển hình được sửa đổi, bổ sung trong trường hợp vụ việc THADS điển hình không còn phù hợp do có sự thay đổi của pháp luật.
- Hội đồng xác định vụ việc THADS điển hình xem xét, quyết định, việc sửa đổi, bổ sung tiêu chí vụ việc THADS điển hình khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Vụ việc THADS điển hình không còn phù hợp do chuyển biến tình hình;
+ Vụ việc THADS điển hình có nội dung được lựa chọn xây dựng thành vụ việc THADS điển hình đúng đã bị phát hiện có sai sót, vi phạm pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án hoặc vụ việc THADS điển hình sai đã được cơ quan có thẩm quyền phát hiện là đúng trong quá trình tổ chức thi hành án;
+ Vụ việc THADS điển hình đã có thay đổi tiêu chí xác định việc THADS điển hình;
- Việc sửa đổi, bổ sung tiêu chí vụ việc THADS điển hình cần phải được thông tin kịp thời, rộng rãi tới đối tượng áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế sai sót trong công tác THADS.
Tóm lại, quy trình lựa chọn, công bố, sửa đổi, bổ sung tiêu chí vụ việc THADS điển hình có thể được thực hiện theo các bước sau đây:
Bước 1: Đề xuất vụ việc THADS đáp ứng tiêu chí vụ việc THADS điển hình để lập hồ sơ và công bố hồ sơ vụ việc THADS điển hình.
Bước 2: Lấy ý kiến đối với vụ việc THADS được đề xuất lựa chọn, lập hồ sơ vụ việc THADS điển hình.
Bước 3: Hội đồng xác định vụ việc THADS điển hình.
Bước 4: Thông qua vụ việc THADS điển hình.
Bước 5: Công bố vụ việc THADS điển hình.
Bước 6: Áp dụng vụ việc THADS điển hình trong hoạt động THADS.
Bước 7: Sửa đổi, bổ sung tiêu chí vụ việc THADS điển hình. Điều kiện, thẩm quyền và thủ tục sửa đổi tiêu chí vụ việc THADS điển hình.
1.3.2. Áp dụng hồ sơ vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Hồ sơ vụ việc THADS điển hình sau khi được lập sẽ chứa đựng đầy đủ thông tin, dữ liệu về tên việc THADS điển hỉnh; tóm tắt nội dung vụ việc THADS; quá trình tổ chức thi hành án (giải quyết khiếu nại, tố cáo, nếu có); kết quả thi hành án (giải quyết khiếu nại, tố cáo, nếu có); những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc; bài học kinh nghiệm; giải pháp.
Hồ sơ vụ việc THADS điển hình là hồ sơ chứa đựng bài học kinh nghiệm, giải pháp hay, có ý nghĩa nên sẽ được nghiên cứu để phục vụ công tác quản lý, công tác THADS; áp dụng bài học kinh nghiệm, giải phảp cho các vụ việc THADS điển hình tương tự về sau; phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành cũng như tổ chức thi hành vụ việc THADS điển hình.
Chương 2
Vụ việc thi hành án dân sự điển hình và những vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn thi hành
Để làm sáng tỏ hơn các vấn đề lý luận về vụ việc THADS điển hình, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đã phân tích đầy đủ một số vụ việc THADS điển hình và những hạn chế, khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn thi hành. Đây là những cơ sở thực tiễn quan trọng để đề xuất xây dựng hồ sơ các vụ việc THADS điển hình cũng như đúc rút ra những giải pháp, bài học kinh nghiệm trong công tác THADS. Với những hạn chế của pháp luật khi quy định về thi hành vụ án lớn, phức tạp, có tính chất điển hình như đã phân tích tại mục 1.1. Chương 1 nêu trên, trong một thời gian dài (gần 30 năm nếu tính từ năm 1993 đến nay) việc thi hành các vụ án loại này đã gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Đề tài đã lựa chọn ra 09 trong số 27 tình huống vụ việc THADS phức tạp, điển hình để thực hiện việc nghiên cứu. Mỗi vụ việc THADS điển hình đã được phân tích đầy đủ trong Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu của đề tài (gồm tóm tắt vụ việc; quá trình tổ chức thi hành án và/hoặc giải quyết khiếu nại, tố cáo; kết quả đạt được; những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc; quan điểm giải quyết của các cơ quan;...). Nội dung tóm tắt dưới đây chỉ nêu tóm tắt vụ việc và chỉ ra các yếu tố điển hình của mỗi vụ việc THADS được lựa chọn.
2.1. Vụ việc điển hình về thi hành phần tài sản trong vụ án Epco-MP
Theo Bản án số 1590/HSST ngày 04/8/1999 của TAND TP. Hồ Chí Minh và Bản án số 05/HSPT ngày 12/01/2000 của Tòa Phúc thẩm TANDTC tại TP. Hồ Chí Minh, tổng số tiền Liên Khui T, Tăng MP và các doanh nghiệp nhóm Epco-MP có nghĩa vụ phải bồi thường cho 06 Ngân hàng (Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Công thương, Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Gia Định) là trên 5.500 tỷ đồng và hơn 33 triệu USD.
Đây là vụ việc có nhiều tiêu chí, đặc điểm của việc THADS điển hình, bao gồm:
Một là, giá trị tài sản phải thi hành lớn (giá trị phải thi hành trên 5.500 tỷ đồng và trên 33 triệu USD; phải xử lý để bảo đảm thi hành án 390 danh mục nằm rải rác trên khắp cả nước, (VD riêng tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã lên tới 169 danh mục với tổng diện tích 2,2 triệu m2 đất), 476 đơn vị sản xuất, kinh doanh);
Hai là, tại thời điểm thi hành án, pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục bán tài sản bảo đảm;
Ba là, án tuyên không rõ, có sai sót;
Bốn là, tài sản liên quan đến nhiều địa phương, trong khi mỗi địa phương, bộ ngành không thể tự giải quyết;
Năm là, đương sự trong vụ án là chủ thể có tư cách pháp lý đặc biệt, cơ quan Đảng, Nhà nước, phần lớn là giám đốc, lãnh đạo doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn, kết quả thi hành án sẽ có tác động lớn đến hoạt động của ngành hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng đến điều tiết chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước;
Sáu là, vụ việc thi hành có liên quan đến giải quyết các quyền lợi của tập thể người lao động trong trường hợp tổ chức cưỡng chế đối với người phải thi hành án là các doanh nghiệp, có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Quá trình thi hành phần tài sản trong vụ án Epco-MP liên quan đến việc giao dây chuyền thiết bị máy may theo bản án tuyên. Nếu giao toàn bộ hơn 2.000 thiết bị may thì sẽ ảnh hưởng tới đời sống hơn 1.000 công nhân, vì số thiết bị này đang tiếp tục vận hành, đặc biệt, một số tài sản phải giao có phát sinh tranh chấp,…
Bảy là, thời gian tổ chức thi hành kéo dài trong nhiều năm, ít nhất là trong 11 năm từ năm 1999 đến năm 2010 và sau đó nhiều tài sản trong BA, QĐ vẫn tiếp tục được thi hành;
Tám là, đây là vụ việc lần đầu tiên phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ và có sự chỉ đạo trực tiếp của Chỉnh phủ: ngày 06/11/2007, VPCP có CV số 6407/VPCP-V.I báo cáo tổng kết hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành án phần tài sản vụ án Epco-MP, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo: "Bộ Tư pháp chủ trì cùng các Bộ, ngành liên quan trên cơ sở tổng kết hoạt động của Ban Chỉ đạo, những nguyên nhân, bài học rút ra, tiếp tục nghiên cứu đề xuất, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan cho phù hợp với thực tế. Đề nghị Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục giải quyết dứt điểm những vấn đề còn tồn tại liên quan đến các quyết định về tài sản trong vụ án Epco-MP hiện còn khiếu nại hoặc tranh chấp";
Chín là, đây là vụ việc lần đầu tiên trong lịch sử phải thành lập Ban chỉ đạo thi hành án Trung ương, với sự vào cuộc chỉ đạo của nhiều cấp bộ, ngành Trung ương và địa phương…
2.2. Vụ bà Phùng Thị Tý (T) ở Hải Phòng, liên quan đến thi hành án tín dụng, ngân hàng
Bản án số 12/DSST ngày 25/5/1998 của TAND huyện An Hải, thành phố Hải Phòng tuyên: Buộc bà Phùng Thị T phải trả 177.819.968 đồng cho Ngân hàng Công thương quận HB, Hải Phòng. Về án phí: bà Phùng Thị T phải chịu 8.890.998 đồng.
Có thể nói, đây là vụ việc THADS rất phức tạp, điển hình, quá trình thi hành án và sau đó là giải quyết khiếu nại liên quan đến kết quả thi hành án kéo dài 24 năm (từ năm 1998 đến nay), áp dụng hầu như tất cả các văn bản pháp luật THADS từ năm 1993 đến nay: Pháp lệnh THADS 1993, Pháp lệnh THADS 2004, Luật THADS 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014; các quy định về giải quyết khiếu nại nói chung, giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực THADS nói riêng qua các thời kỳ; vụ việc được giải quyết phải áp dụng nhiều lĩnh vực pháp luật chuyên ngành như Bộ luật dân sự 1995, 2005, 2015; Nghị định 86/CP ngày 19/12/1996 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế bán đấu giá tài sản, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2020 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản, Luật đấu giá tài sản 2016; Luật Đất đai 2013;...
Việc thi hành án vụ bà Phùng Thị T hội đủ cùng lúc nhiều tiêu chí của vụ việc THADS điển hình như:
Một là, việc thi hành án có nhiều sai phạm dẫn đến phải hủy kết quả bán đấu giá, hủy kết quả cưỡng thế thi hành án;
Hai là, thời gian thi hành án và giải quyết khiếu nại tố cáo kéo dài (gần 24 năm: 1998-2022);
Ba là, thiếu một số quy định cần thiết của pháp luật tại thời điểm thi hành vụ việc (không có quy định về việc hủy kết quả bán đấu giá nên không có cơ sở để hủy hợp đồng bán đấu giá, trong khi người mua trúng đấu giá không vi phạm quy định về mua tài sản đấu giá);
Bốn là, thiếu thống nhất giữa pháp luật THADS với pháp luật chuyên ngành đất đai, ví dụ, đối chiếu với Điều 54 Luật Đất đai năm 2013, phương án giao đất không thu tiền sử dụng đất cho người mua trúng đấu giá trong trường hợp này không thuộc các trường hợp pháp luật đất đai quy định. Do đó, không có cơ sở pháp lý để thực hiện việc giao đất không thu tiền sử dụng đất cho bà HT. Mặt khác, Luật Đất đai năm 2013 cũng không có quy định về các trường hợp ngoại lệ giao đất không thu tiền sử dụng đất thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Việc kiến nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt giao đất không thu tiền sử dụng đất cho bà HT là không có cơ sở.
Thiếu quy định chi tiết, cụ thể của pháp luật đất đai liên quan đến tài sản thi hành án là bất động sản tại thời điểm thi hành án (theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 118 Luật Đất đai năm 2013 thì Thủ tướng có thẩm quyền quyết định giao đất không qua đấu giá quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, pháp luật đất đai không có quy định hướng dẫn chi tiết điểm i khoản 2 Điều 118 Luật Đất đai, mà tùy từng trường hợp cụ thể, trên cơ sở vướng mắc thực tiễn của địa phương, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Trong trường hợp lựa chọn phương thức này, UBND Thành phố Hải Phòng cần xin ý kiến của Bộ Tài nguyên và Môi trường để được hướng dẫn); …
2.3. Vụ án Tuyết-Cường (T-C) ở Nghệ An, liên quan đến nghĩa vụ bồi thường thiệt hại dân sự trong bản án, quyết định hình sự
Bản án hình sự sơ thẩm số 340/HSST ngày 31/10/1998 của TAND tỉnh NA quyết định: Buộc bà Nguyễn Thị T phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị L số tiền 126.868.000 đồng; bồi thường cho bà Ngô Thị P số tiền 11.230.000 đồng; phải nộp 5.228.000 đồng án phí.
Việc thi hành án và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong vụ án T-C cho thấy, đây là vụ việc có nhiều dấu hiệu, tiêu chí của vụ việc THADS điển hình, như:
Một là, có vi phạm nghiêm trọng quy định về trình tự, thủ tục THADS, ví dụ, không có biện pháp thông báo trực tiếp cho người có tài sản thuộc sở hữu chung biết trước khi bán đấu giá; vi phạm thủ tục bán đấu giá tài sản thi hành án, ví dụ, thông báo bán đấu giá một nhà nhưng thực hiện bán đấu giá nhà khác, thời gian từ khi định giá đến khi bán đấu giá là quá dài (12 tháng 10 ngày), không niêm yết Thông báo bán đấu giá và thực hiện thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng đối với ngôi nhà bán đấu giá; những vi phạm này là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến vụ việc bị khiếu nại kéo dài, gây bức xúc trong dư luận nhân dân.
Hai là, người phải thi hành án cố tình chống đối, kéo dài thời gian thi hành án, cụ thể, bà T ngay từ đầu đồng ý để CHV bán đấu giá ngôi nhà mà CHV thực tế đã bán, ngôi nhà còn lại thì tùy cơ quan THADS xử lý, bà T cũng cam kết việc thi hành án không cần báo cho ông C (chồng bà T), bà T tự quyết định được và xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật. Tuy nhiên, sau khi thực hiện đúng yêu cầu của bà T, căn nhà được bán đấu giá thành thì bà T và ông C sau đó xuất hiện khiếu nại cơ quan THADS vi phạm quy định về trình tự, thủ tục thi hành án;
Ba là, việc gặp khó khăn, vướng mắc bởi quy định của pháp luật, cụ thể việc bán đấu giá tài sản để thi hành án đã được thực hiện xong, bà L (người mua trúng đấu giá tài sản thi hành án) đã nộp tiền mua tài sản từ năm 2002, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng lại không được sử dụng tài sản của mình; không có căn cứ pháp lý để hủy kết quả đấu giá vì người mua tài sản đấu giá không vi phạm quy định về mua tài sản đấu giá, không có căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho người mua tài sản ngay tình;
Bốn là, vụ việc có sự vào cuộc chỉ đạo quyết liệt để giải quyết của nhiều bộ, ngành Trung ương và địa phương như của Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực, TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Nghệ An, Ban chỉ đạo THADS tỉnh Nghệ An, Ban chỉ đạo THADS huyện ĐL;
Năm là, thời gian thi hành án và giải quyết khiếu nại kéo dài 22 năm (1998-2020) nhưng vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Lý do, thực hiện quan điểm thống nhất giữa các bộ, ngành, Tổng cục THADS đã có văn bản yêu cầu Cục THADS tỉnh NA chỉ đạo Chi cục THADS huyện ĐL, CHV khởi kiện “tranh chấp về kết quả bán đấu giá”. Tuy nhiên, TAND huyện ĐL đã trả lại đơn khởi kiện. Ngày 06/8/2020, Tổng cục THADS có văn bản số 2555/TCTHADS-GQKNTC ngày 06/8/2020 báo cáo và đề nghị TANDTC chỉ đạo TAND địa phương thực hiện ý kiến của Thủ tướng Chính phủ. TANDTC đã có văn bản chỉ đạo TAND tỉnh NA, TA huyện ĐL.
2.4. Vụ bà Trần Thị Xanh (X) ở Quảng Ngãi, liên quan đến thi hành bản án, quyết định dân sự
Bản án dân sự sơ thẩm số 06/DSST ngày 20/12/1995 của TAND huyện ST tuyên: bà Trần Thị X, ông Nguyễn Hồng P phải trả nợ cho bà Phạm Thị L số tiền 51.444.980 đồng và nộp Ngân sách Nhà nước 2.572.249 đồng tiền án phí. Ngày 16/01/1996, Đội THADS huyện ST (nay là Chi cục THADS huyện ST) ra Quyết định số 50/QĐ-THA cho thi hành các khoản tiền trên. Ngoài ra, năm 1996 theo 05 Quyết định công nhận hoà giải thành của TAND huyện ST thì bà Trần Thị X, ông Nguyễn Hồng P phải có nghĩa vụ thi hành án cho 05 đương sự với tổng số tiền là 21.133.000 đồng và 19 chỉ vàng; đồng thời phải nộp Ngân sách Nhà nước 404.112 đồng tiền án phí.
Tổng cộng bà Trần Thị X, ông Nguyễn Hồng P phải thi hành 01 bản án và 05 Quyết định hoà giải thành với số tiền phải thi hành án là: 75.554.341 đồng và 19 chỉ vàng (trong đó số tiền thi hành án cho các đương sự là: 72.577.980 đồng và 19 chỉ vàng; số tiền nộp Ngân sách nhà nước - tiền án phí là 2.976.361 đồng).
Quá trình tổ chức thi hành án và giải quyết khiếu nại vụ bà Trần Thị X là vụ việc có nhiều dấu hiệu (tiêu chí) của vụ việc THADS điển hình, bao gồm:
Một là, là vụ việc có nhiều vi phạm nghiêm trọng của CHV trong quá trình tổ chức thi hành án (án chưa có hiệu lực nhưng cơ quan thi hành án đã đưa ra thi hành: tính từ khi ra bản án đến khi có quyết định thi hành án thời gian là 27 ngày, tức là chưa hết thời hạn kháng nghị của VKS cấp trên (còn 03 ngày); quá trình tổ chức thi hành án biểu hiện sự nôn nóng, dồn ép ông P, bà X vào tình thế quẫn bách; việc cưỡng chế, kê biên nhà đất của vợ chồng ông P, bà X là không cần thiết; cưỡng chế toàn bộ nhà đất mà không cho gia đình người phải thi hành án ở lại căn nhà cấp 4 phía sau; việc chi tiêu cho cưỡng chế thi hành án có nhiều biểu hiện tùy tiện, quá cao so với điều kiện của gia đình người phải thi hành án);
Hai là, có sự vào cuộc chỉ đạo quyết liệt của nhiều cấp bộ, ngành Trung ương và địa phương, như: Ủy ban Pháp luật Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Ban Nội chính Trung ương, Thủ tướng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ, Bộ Tư pháp, Ban chỉ đạo THADS tỉnh QN, Đài phát thanh, Truyền hình tỉnh QN, Ban chỉ đạo THADS huyện ST, VKSNDTC, TANDTC…. đặc biệt đây là vụ án đầu tiên mà kết quả thi hành phải báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Ba là, có thời gian tổ chức thi hành, giải quyết khiếu nại, tố cáo kéo dài 16 năm (từ năm 1996 đến năm 2012), từ thời điểm Đội thi hành án ST ra Quyết định thi hành án số 50/QĐ-THA ngày 16/01/1996 đến ngày 02/7/2012;
Bốn là, đây là vụ việc mà đương sự chống đối quyết liệt, đương sự cố tình không chấp hành, liên tục đến trụ sở UBND tỉnh, Tỉnh ủy, chặn xe các đồng chí lãnh đạo để khiếu kiện không đúng quy định pháp luật;
Năm là, đương sự là người có tư cách đặc biệt, gia đình người có công với cách mạng;
Sáu là, vụ việc được đưa vào danh sách không thụ lý, xử lý tiếp công dân và thống nhất đưa vụ bà Trần Thị X ra khỏi danh sách các vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, phức tạp, kéo dài. Đây được xem là giải pháp tình huống có tính chất đặc thù trong tổ chức thi hành án và giải quyết khiếu nại, tố cáo trông THADS.
2.5. Vụ việc điển hình liên quan đến người phải thi hành án đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ nuôi con vừa phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng trong bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình
Đây là vụ việc về ra quyết định thi hành án đối với khoản nghĩa vụ trả nợ được xác định theo bản án HN&GĐ; giao hay không giao tài sản bán đấu giá thành.[15]
Vụ việc liên quan đến việc phân chia tài sản chung của vợ chồng theo bản án ly hôn của TA, ngoài nội dung tuyên phân chia tài sản, quyền nuôi con còn có nội dung tuyên về việc người chồng có nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng số tiền gần 100 triệu đồng nên cơ quan THADS đã căn cứ bản án và đơn yêu cầu của ngân hàng ra quyết định thi hành án buộc người chồng phải trả khoản tiền này cho ngân hàng. Tuy nhiên, khó khăn vướng mắc đó là việc xác định tư cách của ngân hàng có phải là người được thi hành án theo bản án hôn nhân này hay không để từ đó có đủ cơ sở pháp lý của việc ra quyết định thi hành án.
Việc THADS nêu trên có các dấu hiệu của vụ việc THADS điển hình sau đây:
Một là, bản án tuyên không rõ ràng, Bản án số 37/2014/HNGĐ-ST ngày 11/9/2014 của TAND huyện L, tỉnh VP đã tuyên nội dung “…Giao anh N có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Triệu Đề 100.000.000 đồng...”. Bản án không tuyên phần xử lý tài sản theo hợp đồng thế chấp, không tuyên Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chi nhánh Triệu Đề có quyền làm đơn đề nghị thi hành án, không tuyên phần án phí là do Ngân hàng không có đơn yêu cầu độc lập theo Điều 61 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.
Hai là, có cách hiểu khác nhau về nội dung của Bản án số 37/2014/HNGĐ-ST, cụ thể có thể hiểu, trong trường hợp này xác định Ngân hàng là tổ chức được hưởng quyền, lợi ích trong BA, QĐ được thi hành án, người phải thi hành án là ông Đào Quang N, khoản nghĩa vụ phải thi hành án là 100.000.000đ. Do vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật THADS thì Ngân hàng có quyền yêu cầu thi hành án và Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện L thụ lý đơn yêu cầu thi hành án của Ngân hàng và ra Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 36/QĐ-CCTHA là đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, cũng có thể hiểu do Bản án số 37/2014/HNGĐ-ST không tuyên phần xử lý tài sản theo hợp đồng thế chấp, không tuyên Ngân hàng có quyền làm đơn đề nghị thi hành án, không tuyên phần án phí là do Ngân hàng không có đơn yêu cầu độc lập theo Điều 61 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004. Theo quy định của pháp luật thì Ngân hàng phải có đơn khởi kiện đến TAND huyện L để được thụ lý giải quyết vụ kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản bằng một bản án và khi án có hiệu lực pháp luật thì Ngân hàng mới có quyền làm đơn đề nghị thi hành án. Do vậy, Ngân hàng chỉ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc thi hành án của ông N. Theo quy định tại Điều 7b Luật Thi hành án dân sự thì Ngân hàng không có quyền yêu cầu thi hành án.
Ba là, kết quả thi hành án để lại hậu quả nghiêm trọng, cụ thể là Quyết định thi hành án bị hủy bỏ, kết quả bán đấu giá tài sản bị hủy bỏ, thông báo bàn giao tài sản cho người trúng đấu giá bị hủy bỏ, cơ quan THADS phải ra Quyết định thu hồi Quyết định thi hành án. Lý do theo giải thích của TA về Bản án số 37/2014/HNGĐ-ST ngày 11/9/2014 thì Ngân hàng không có quyền yêu cầu thi hành án đối với anh N, vì trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Ngân hàng không có đơn khởi kiện yêu cầu độc lập đối với anh N, chị T theo quy định tại Điều 61 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004; tại thời điểm thụ lý vụ án thì hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và vợ chồng anh N, chị T chưa đến hạn thanh toán; Bản án không tuyên Ngân hàng có quyền yêu cầu thi hành án, không tuyên phần xử lý tài sản theo hợp đồng thế chấp và không tuyên Ngân hàng phải chịu án phí.
2.6. Vụ việc điển hình về giao hay không giao tài sản bán đấu giá thành theo Điều 103 Luật Thi hành án dân sự khi có tranh chấp và thông báo thụ lý của Tòa án liên quan đến bản án, quyết định kinh doanh, thương mại
Đây là vụ việc về giao hay không giao tài sản bán đấu giá thành (tài sản thế chấp cho Ngân hàng Agribank) theo Điều 103 của Luật Thi hành án dân sự khi có tranh chấp và thông báo thụ lý của TA; đồng thời, có hoãn hay không hoãn việc thi hành án theo Điều 48 Luật Thi hành án dân sự trong trường hợp này.[16]
Về nguyên tắc, tài sản đã bán đấu giá thành, quá trình tổ chức thi hành án và bán đấu giá nếu không có sai sót, vi phạm về thủ tục thì căn cứ quy định tại Điều 103 Luật Thi hành án dân sự và Điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015 để tổ chức giao tài sản cho người mua trúng đấu giá. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức giao tài sản, nếu có phát sinh tranh chấp liên quan đến tài sản đã bán đấu giá thành và đã được TAND có thẩm quyền thụ lý thì cần phải xác định các nội dung cụ thể như sau:
- Tài sản bán đấu giá thành là tài sản thế chấp hay tài sản do cơ quan THADS xác minh, thực hiện việc cưỡng chế.
- Nội dung TAND có thẩm quyền thụ lý tranh chấp liên quan đến tài sản bán đấu giá thành là về quyền sở hữu, hợp đồng vay tiền mua tài sản hay về nội dung gì khác để xem xét có cơ sở hoãn thi hành án hay không.
- Nội dung BA, QĐ:
Theo nội dung Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 1499/2012/QĐ-PT ngày 14/12/2012 của TAND thành phố A và Bản án số 29/2012/KDTM-ST ngày 19/9/2012 của TAND quận B thì Công ty TNHH MH phải thanh toán cho Ngân hàng Agribank tổng cộng nợ gốc, lãi trong hạn và quá hạn của 05 Hợp đồng tín dụng (tính đến ngày 19/9/2012) là 238.718.619.445 đồng.
Tiếp tục duy trì hiệu lực của các hợp đồng thế chấp tài sản đã ký kết giữa Công ty TNHH MH, ông Lê Phước T, bà Nguyễn Kim C, bà Lê Thị Việt K và Ngân hàng Agribank.
Trong trường hợp Công ty TNHH MH không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ thì Ngân hàng Agribank có quyền yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền phát mãi các tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp gồm: quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại số 05A và quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại số 7 đường HT, phường BN, quận B, thành phố A.
Quá trình thi hành việc THADS nêu trên cho thấy đây là vụ việc có dấu hiệu của vụ việc THADS điển hình, đó là vụ việc có quan điểm áp dụng pháp luật khác nhau về cùng một vấn đề trong quá trình tổ chức thi hành án, cụ thể tài sản trong vụ việc đã bán đấu giá nhưng phát sinh vụ kiện tranh chấp tài sản mà cơ quan THADS đã bán đấu giá, TA đã thụ lý vụ việc và chuẩn bị đưa ra xét xử, cụ thể:
Quá trình tổ chức thi hành vụ việc, Chi cục THADS đã báo cáo xin ý kiến hướng dẫn nghiệp vụ của Cục THADS và đã ban hành quyết định hoãn thi hành án nên việc giao tài sản cho người mua trúng đấu giá không thể thực hiện được. Do đó, vụ việc phát sinh 02 quan điểm khác nhau, quan điểm thứ nhất cho rằng, do vụ việc đã được TA thụ lý và chuẩn bị đưa ra xét xử nên cần phải ra quyết định hoãn thi hành án và chưa giao tài sản bán đấu giá thành mà cần đợi kết quả xét xử của TA. Quan điểm thứ hai cho rằng, mặc dù bà H khởi kiện yêu cầu bà K về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà trước đó và tại thời điểm thi hành án TA đang thụ lý giải quyết vụ việc, chuẩn bị đưa ra xét xử nhưng Hợp đồng thế chấp tài sản ký kết giữa Công ty TNHH MH, ông Lê Phước T, bà Nguyễn Kim C, bà Lê Thị Việt K và Ngân hàng Agribank và Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá vẫn có hiệu lực thi hành nên về nguyên tắc vẫn tiếp tục tổ chức thi hành án, giao tài sản cho người mua trúng đấu giá.
2.7. Vụ việc điển hình về quá trình tổ chức thi hành án mà người phải thi hành án chết, thực hiện sai quy định về thông báo cho những người thừa kế
Đây là vụ việc về ra thông báo cho những người thừa kế của người phải thi hành án về quyền thỏa thuận thực hiện nghĩa vụ thi hành án, quyền phân chia di sản thừa kế; kê biên, xử lý tài sản có thay đổi hiện trạng trên thực tế.[17]
Vụ việc liên quan đến việc trong quá trình tổ chức thi hành án mà người phải thi hành án chết, CHV thực hiện sai quy định về thông báo cho người thừa kế biết về các quyền thỏa thuận việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án, quyền phân chia tài sản thừa kế; đồng thời, quá trình kê biên, xử lý tài sản thi hành án cũng có nhiều vi phạm. Nội dung BA, QĐ như sau:
Bản án số 19/2014/KDTM-ST ngày 22/12/2014 của TAND quận HBT và Quyết định ủy thác số 79/QĐ-CCTHADS ngày 26/7/2016 của Chi cục THADS quận HBT, Chi cục trưởng Chi cục THADS quận TH ban hành Quyết định thi hành án số 17/QĐ-CCTHA-KT ngày 08/3/2017 có nội dung:
Buộc Công ty TNHH Cao C phải trả cho Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB) số tiền giá trị phân bổ theo tài sản thế chấp tại quận TH là 18.624.366.494đ (nợ gốc: 8.213.732.760đ, lãi trong hạn: 681.424.197đ, lãi quá hạn: 9.729.203.537đ) và lãi suất quá hạn từ 23/12/2014 cho đến khi Công ty Cao C thanh toán xong khoản nợ theo quy định tại hợp đồng tín dụng đã ký.
Trường hợp Công ty Cao C không trả được nợ cho VIB thì VIB có quyền yêu cầu cơ quan THADS kê biên, phát mại tài sản là quyền sử dụng đất 398 m2 đất tại số 33C ngõ 603 đường LLQ, quận TH, Hà Nội thuộc sở hữu hợp pháp của ông Trịnh Xuân L, tài sản này đảm bảo số nợ 18.624.366.494đ (nợ gốc: 8.213.732.760đ, lãi trong hạn: 681.424.197đ, lãi quá hạn: 9.729.203.537đ).
Việc THADS nêu trên có nhiều dấu hiệu (tiêu chí) của vụ việc THADS, cụ thể như:
Một là, CHV vi phạm nghiêm trọng thời hạn thông báo về thi hành án. Đoạn 2 điểm b khoản 1 Điều 15 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định: “Trường hợp chưa xác định được người thừa kế thì cơ quan thi hành án dân sự thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết tại nơi có tài sản, trụ sở ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản trong thời gian 03 tháng, kể từ ngày thông báo, niêm yết để người thừa kế biết, liên hệ và thực hiện nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án để lại; hết thời hạn này mà không có người khai nhận thừa kế thì cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản để thi hành án.”. Trong khi đó, CHV ban hành Thông báo như sau: “Căn cứ khoản 2 Điều 54 Luật Thi hành án dân sự thông báo cho những người thuộc hàng thừa kế của ông L trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày đăng báo có quyền tự thỏa thuận nghĩa vụ thi hành án dân sự của ông L để lại và thực hiện quyền khởi kiện phân chia di sản thừa kế. Yêu cầu những người thuộc hàng thừa kế của ông L và đại diện Công ty Cao C trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày đăng thông báo phải có mặt tại Chi cục Thi hành án dân sự quận TH để giải quyết việc thi hành án dân sự”.
CHV thông báo trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày đăng báo là vi phạm khoản 2 Điều 20 Luật THADS về việc không áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, tước đi quyền của những người thừa kế để họ biết, liên hệ và thực hiện nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án.
Hai là, tại thời điểm kê biên, vắng mặt người đang quản lý tài sản là nhà đất nêu trên mặc dù đã được thông báo hợp lệ, CHV không tiến hành lập biên bản mở khóa, phá khóa nên không vào được trong nhà để kê biên và nắm bắt được số lượng tài sản, vật dụng trong nhà; căn nhà không có hồ sơ xin phép xây dựng, diện tích ngôi nhà từ rất lâu, .... là vi phạm quy định tại Điều 88, Điều 93, Điều 111 Luật Thi hành án dân sự.
Ba là, do có nhiều vi phạm nghiêm trọng trong quá trình tổ chức thi hành án, phải kiến nghị yêu cầu hủy toàn bộ quá trình tổ chức thi hành án, hủy kết quả đấu giá, xử lý tiền đặt trước của người trúng đấu giá nộp ngân sách nhà nước.
2.8. Vụ việc điển hình về bồi thường trách nhiệm dân sự trong bản án, quyết định hình sự, liên quan đến thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự
Tháng 4/2014, Tòa phúc thẩm TANDTC đã xét xử phúc thẩm vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại huyện Hóc Môn, TP. HM. Đây là vụ án có tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt rất lớn và có nhiều đối tượng tham gia.
Theo bản án thì nội dung vụ việc có thể tóm tắt như sau: Công ty TNHH Xây dựng, thương mại và kinh doanh nhà TP có trụ sở tại TP. Hồ Chí Minh và (sau đây gọi tắt là Công ty TP) do bà Trần Thị H là Chủ tịch hội đồng quản trị và ông Hà Văn H là Giám đốc và là người đại diện theo pháp luật của Công ty. Trong quá trình hoạt động, Công ty TP đã mua gom đất (nhận chuyển nhượng) của các hộ dân tại địa phương, sau đó bà Trần Thị H và ông Hà Văn H đã lập giả hồ sơ để Công ty TP được UBND TP. HM ra quyết định cho chuyển mục đích sử dụng 72.000 m² đất đầu tư dự án cụm dân cư tại xã ĐT huyện HM, sau đó bà Trần Thị H sử dụng quyết định trên vay 3.000 lượng vàng và 18 tỷ đồng của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chợ Lớn (viết tắt Agribank Chi nhánh Chợ Lớn), qua đó lừa đảo chiếm đoạt hơn 10,5 tỷ đồng).
Để hành vi phạm tội diễn ra trót lọt, vợ chồng Trần Thị H đã đưa tiền "bôi trơn" cho nhiều người có chức vụ, quyền hạn tại huyện Hóc Môn và Agribank Chi nhánh Chợ Lớn. Tổng số tiền Trần Thị H đưa hối lộ là 1.849.000.000 đồng và 5.000 USD, Hà Văn H đưa hối lộ là 600 triệu đồng. Trong đó, riêng Nguyễn Văn K (60 tuổi, nguyên Chủ tịch UBND huyện HM) nhận hối lộ 1,4 tỷ đồng; mượn tiền và nhận tiền, quà của vợ chồng Trần Thị H tổng cộng 830 triệu đồng, 10.000 USD và ½ sừng tê giác (trị giá 10.000 USD)...
Sau khi vụ việc bị phát hiện, Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an TP. HM đã tiến hành điều tra và VKSND TP. HM đã truy tố bà Trần Thị H và ông Hà Văn H và những người có liên quan trước pháp luật.
Tại phiên xử sơ thẩm lại vào tháng 8/2013, TAND TP. HM tuyên phạt: bà Trần Thị H 30 năm tù về hai tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", "Đưa hối lộ", ông Hà Văn H 20 năm tù về hai tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", "Đưa hối lộ" các bị cáo khác cũng bị tuyên án từ 6 đến 18 năm tù về các tội như "Nhận hối lộ", "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ", "Lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi".
Sau phiên xử sơ thẩm, Viện trưởng VKSND TP. HM có quyết định kháng nghị, yêu cầu TA cấp phúc thẩm xét xử theo hướng tăng hình phạt đối với 5 bị cáo Trần Thị H, Hà Văn H, Nguyễn Văn K... vì cho rằng mức án mà TA cấp sơ thẩm đã tuyên chưa nghiêm khắc, chưa phù hợp với tính chất và hành vi phạm tội của các bị cáo. Bị cáo Nguyễn Văn K và các đồng phạm kháng cáo kêu oan hoặc xin giảm nhẹ hình phạt.
Tháng 4/2014, Tòa Phúc thẩm TANDTC đã đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, kết quả Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của VKS, tuyên tăng hình phạt đối với 2 bị cáo và tuyên y án sơ thẩm đối với các bị cáo còn lại.
Riêng về phần dân sự trong bản án hình sự thì không bị kháng cáo, kháng nghị và có nội dung (trích) như sau:
“- Buộc Trần Thị H, Hà Văn H liên đới bồi thường cho Agribank Chi nhánh Chợ Lớn 3.000 lượng vàng SJC và 18.000.000.000 đồng, phân định mỗi người chịu trách nhiệm bồi thường 1/2.
- Kê biên toàn bộ diện tích đất có trong giấy chứng nhận quyền sử dụng của các hộ sau đây để đảm bảo thi hành án:…
Tổng số bản chính 33 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên đang được Agribank Chi nhánh Chợ Lớn lưu giữ.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án nếu Trần Thị H, Hà Văn H không thi hành án sẽ phải chịu lãi tính theo lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với khoản tiền và thời gian chậm thi hành”.
Vụ việc nêu trên hội tụ cùng lúc nhiều dấu hiệu (tiêu chí) của vụ việc THADS điển hình, cụ thể:
Một là, quy định của pháp luật (giữa pháp luật THADS và pháp luật TTDS) không thống nhất về tư cách pháp lý của đương sự, cụ thể:
- Đương sự trong THADS theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự bao gồm người được thi hành án, người phải thi hành án. Như vậy, đương sự trong THADS chỉ có thể là người được thi hành án hoặc người phải thi hành án. Những người này thường được xác định rõ trong BA, QĐ của TA. Trong quá trình thi hành án còn có thể có những người khác mà việc tổ chức thi hành án làm ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ, thì những người này được pháp luật về THADS xác định đó là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Khái niệm đương sự (đương sự trong vụ án dân sự và đương sự trong việc dân sự) trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (khoản 1 Điều 68) được quy định cụ thể như sau: “Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm người yêu cầu giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.
Như vậy, khái niệm “đương sự” trong Luật Thi hành án dân sự hẹp hơn khái niệm “đương sự” trong Bộ luật Tố tụng dân sự, vì đương sự trong TTDS có thêm “người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Việc thu hẹp khái niệm đương sự trong Luật Thi hành án dân sự như hiện nay đang tạo ra một số bất cập trong quá trình tổ chức thi hành án. Ví dụ, một số việc thỏa thuận thi hành án thì chỉ có đương sự mới được tham gia, như thỏa thuận giá tài sản kê biên, thỏa thuận giảm giá… trong khi đó có thể tài sản đang bị kê biên xử lý là tài sản của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trong quá trình giải quyết vụ việc THADS nói chung cũng như trong giải quyết việc thi hành phần dân sự trong BA, QĐ hình sự nói riêng, việc xác định tư cách của những người tham gia có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc xác định đúng tư cách đương sự là cơ sở đầu tiên đảm bảo cho quá trình giải quyết được diễn ra đúng pháp luật, vì trong quá trình giải quyết việc THADS nói chung, CHV sẽ phải thực hiện rất nhiều thủ tục thông báo cho những người tham gia. Do vậy, nếu xác định sai tư cách đương sự sẽ dẫn đến việc thông báo không đúng đối tượng, hoặc thông báo không đầy đủ cho những đối tượng cần được thông báo hoặc xác định sai thời điểm phải thực hiện thông báo. Những sai sót trên sẽ ảnh hướng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia. Đặc biệt, có thể dẫn đến phải hủy bỏ cả quá trình tổ chức thi hành án, CHV trực tiếp tổ chức việc thi hành án có thể phải đối diện với trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, tùy vào mức độ vi phạm còn có thể phải chịu hình thức kỷ luật, thậm chí là bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Việc THADS nêu trên liên quan đến xác định đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ việc thi hành án phần dân sự trong BA, QĐ hình sự. Vụ việc đã nêu ở trên là một điển hình cho việc xác định tư cách chủ thể (đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) trong thi hành phần dân sự trong BA, QĐ hình sự. Đây là một vụ án hình sự liên quan đến pháp nhân, người phạm tội đã thực hiện hành vi vi phạm của mình thông qua tư cách của pháp nhân. Vợ chồng ông H bà H là chủ, đại diện theo pháp luật của Công ty TP, việc phạm tội của họ đều được thực hiện dưới hình thức đại diện cho pháp nhân (tất cả các giấy tờ, hợp đồng, thậm chí là tài sản đều đứng tên của pháp nhân chứ không phải là cá nhân). Tuy nhiên, theo nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự thì những người đã thực hiện hành vi vi phạm đó phải chịu trách nhiệm cá nhân. Chính vì vậy, TA đã tuyên trách nhiệm dân sự trong bản án này thuộc về hai cá nhân cụ thể là ông Hà Văn H và bà Trần Thị H. Đồng thời, Tòa tuyên kê biên quyền sử dụng đất trong 33 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện đang đứng tên các cá nhân khác.
Việc xác định tư pháp pháp lý của Công ty TP và 33 hộ dân đứng tên trong 33 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị kê biên như thế nào, họ là đương sự hay là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong quá trình thi hành án là vấn đề còn có quan điểm khác nhau.
Hai là, quy định của pháp luật (THADS và TTHS) về xử lý tài sản chưa tương thích, cụ thể quy định về xử lý tài sản trong Luật Thi hành án dân sự thì được chia ra nhiều loại tài sản khác nhau với các cơ chế xử lý, biện pháp cưỡng chế khác nhau. Ví dụ như tài sản là tiền thì được áp dụng theo các quy định tại từ Điều 76 đến Điều 81; tài sản là giấy tờ có giá thì áp dụng theo các biện pháp xử lý ở Điều 82, Điều 83; tài sản là quyền sở hữu thì quy định tại các Điều 84 đến Điều 86, ... còn trong TTHS thì việc kê biên tài sản được áp dụng chung cho hầu hết các loại tài sản. Điều này, dẫn đến việc xử lý tài sản rất khó khăn, khi có hai cơ chế xử lý khác nhau ở hai giai đoạn.
Ba là, có quan điểm áp dụng pháp luật khác nhau về cùng một vấn đề, cụ thể:
Căn cứ vào phần dân sự đã được bản án tuyên thì người phải thi hành án trong vụ việc này là bà Trần Thị H và ông Hà Văn H; người được thi hành án là Agribank Chi nhánh Chợ Lớn. Ngoài ra, khi xử lý các tài sản kê biên có thể sẽ phát sinh thêm những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác đó là Công ty TP và những người đứng tên trên 33 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã bị TA tuyên kê biên.
Theo như nội dung vụ án hình sự thì rõ ràng Công ty TP là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, là đương sự trong các giao dịch dân sự do ông Hà Văn H đại diện pháp nhân. Về mặt pháp lý thì trước đó 33 quyền sử dụng đất này là của Công ty TP, ông H và bà H đã lập giả hồ sơ để Công ty TP được UBND TP. HM ra quyết định cho chuyển mục đích sử dụng 72.000 m² đất đầu tư dự án cụm dân cư tại xã ĐT huyện HM, sau đó bà H sử dụng quyết định trên vay 3.000 lượng vàng và 18 tỷ đồng của Agribank Chi nhánh Chợ Lớn. Toàn bộ hồ sơ vay vốn tại Ngân hàng đều đứng tên Công ty TP. Do đó, TA đã tuyên buộc Trần Thị H, Hà Văn H liên đới bồi thường cho Ngân hàng 3.000 lượng vàng SJC và 18.000.000.000 đồng, phân định mỗi người chịu trách nhiệm bồi thường ½. Đồng thời, kê biên tài sản là diện tích đất theo 33 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn đứng tên các hộ nông dân do Ngân hàng thu giữ để đảm bảo thanh toán nợ cho Ngân hàng theo các Hợp đồng tín dụng.
Như vậy, về phần dân sự trong vụ án hình sự này thì Công ty TP là một bên đương sự không thể vô can và đứng ngoài vụ việc được. Khi chuyển sang giai đoạn THADS đối với phần dân sự trong bản án hình sự thì cơ quan THADS chỉ căn cứ vào nội dung bản án đã tuyên để tổ chức thi hành án. Tuy nhiên, trong nội dung án tuyên thì không nhắc đến Công ty TP. Vậy vấn đề đặt ra là cơ quan thi hành án, (CHV) có được xem Công ty TP đương nhiên là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong quá trình THADS không?
Ngoài ra, những hộ nông dân còn đứng tên trên 33 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này có được xem đương nhiên là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc THADS, khi xử lý các quyền sử dụng đất này không? Vì bản án tuyên “Kê biên toàn bộ diện tích đất có trong giấy chứng nhận quyền sử dụng của các hộ sau đây để đảm bảo thi hành án…”. Vậy, các quyền sử dụng đất này có phải là của các hộ dân không?
Để xác định được tư cách của Công ty TP và các hộ dân đang đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà TA đã tuyên kê biên có phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không là công việc rất phức tạp. Đối với tình huống trên hiện nay vẫn có nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất, cho rằng Công ty TP và những hộ dân có đất bị tuyên kê biên đều đương nhiên được xem là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do vậy, trong quá trình xử lý tài sản phải thông báo đầy đủ cho những người này biết. Quan điểm thứ hai, cho rằng chỉ có Công ty TP mới là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người theo quan điểm này cho rằng các hộ dân không phải là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vì việc mua bán chuyển nhượng của họ với Công ty TP đã hoàn thành trên thực tế. Quan điểm khác, lại cho rằng Công ty TP và các hộ dân đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đều không phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vì về bản chất các quyền sử dụng đất trên đều là tài sản của ông H và bà H.
Bốn là, bản án tuyên có nội dung không rõ ràng, khó thi hành, không nhận được văn bản giải thích của TA: ngày 04/5/2015, CHV có Văn bản số 8028/CTHA về việc đề nghị TA giải thích, đính chính bản án, nội dung: giải thích, đính chính số liệu trong bản án chưa khớp với tài liệu hiện có (số giấy chứng nhận, ngày cấp giấy chứng nhận, diện tích đất) và đề nghị TA giải thích rõ việc kê biên một phần diện tích đất có trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các hộ … là phần nào, thửa nào nhưng CHV không nhận được công văn trả lời xác minh của TA.
Năm là, nội dung kê biên tài sản của các cơ quan tố tụng không rõ ràng, dẫn đến CHV không thể tổ chức thi hành hoặc nếu thi hành được cũng mất rất nhiều thời gian. Cụ thể, trong bản án trên TA tuyên kê biên đến 33 quyền sử dụng đất, nhưng lại không xác định rõ đó là tài sản của ai, cụ thể như thế nào? Đồng thời, nội dung kê biên cũng không rõ, ví dụ: tuyên “... Kê biên một phần diện tích đất có trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các hộ sau đây để đảm bảo thi hành án, gồm Giấy chứng nhận số 0417 ngày 16/6/2000 tổng diện tích: 13.024 m2 của ông Trương Văn H, diện tích kê biên: 3.559 m2; Giấy chứng nhận số 141 ngày 27/8/1997 tổng diện tích: 8.514 m2 của bà Huỳnh Thị S, diện tích kê biên: 3.893 m2; Giấy chứng nhận số 522 ngày 27/12/2000 tổng diện tích: 8.719 m2 của ông Nguyễn Đại P, diện tích kê biên: 5.820 m2...”.
Do nội dung kê biên nêu trên không xác định rõ ranh giới đất nên trên thực tế khi tổ chức thi hành án CHV sẽ rất khó để xác định cho được ranh giới của các thửa đất. Thời gian để xác định rõ tính pháp lý cũng như xác định rõ hiện trạng thực tế của các tài sản đã tuyên kê biên trong các bản án hình sự có khi mất hàng năm, thậm chí có những vụ việc phải mất hàng chục năm vẫn không thể giải quyết dứt điểm.
Thực trạng tài sản đã bị TA, cơ quan điều tra kê biên trong giai đoạn tố tụng ở các vụ án hình sự nhưng đến giai đoạn thi hành án thì khó xử lý do không rõ ràng như trên là khá phổ biến. Điều này trước hết là do các quy định của pháp luật liên quan đến việc xác minh, điều tra làm rõ tính pháp lý cũng như hiện trạng tài sản kê biên trong giai đoạn tố tụng hiện nay còn rất hạn chế, chưa có một quy trình chặt chẽ như ở giai đoạn thi hành án. Theo quy định của pháp luật về THADS thì để xử lý, kê biên cưỡng chế thi hành án một tài sản, đặc biệt là bất động sản thì CHV phải tiến hành xác minh làm rõ các căn cứ pháp lý cũng như phải tiến hành xác minh hiện trạng trên thực địa. Hơn nữa, việc xác minh, kê biên trong giai đoạn thi hành án luôn phải gắn với việc xử lý, phát mãi bán đấu giá tài sản và còn liên quan đến việc giao tài sản hoặc cưỡng chế giao tài sản cho người nhận tài sản hoặc người mua trúng đấu giá cho đến khi chuyển giao đầy đủ về mặt pháp lý và thực tế cho người nhận. Do vậy, CHV thường phải làm rất kỹ để tránh sai sót ảnh hưởng đến quá trình tổ chức thi hành án. Còn việc kê biên trong giai đoạn tố tụng thì không trực tiếp gắn liền với các giai đoạn xử lý tài sản nên quy định của pháp luật trong giai đoạn này chưa thực sự rõ ràng, cụ thể và người thực hiện cũng không chú trọng lắm đến hậu quả của việc xử lý tài sản này.
Sáu là, quy định về thỏa thuận giữa các đương sự chưa phù hợp, cụ thể là trong trường hợp một bên đương sự là người đang chấp hành hành hình phạt tù. Luật Thi hành án dân sự đã quy định rất rõ những trường hợp đương sự được thỏa thuận thi hành án như là một thủ tục bắt buộc, ví dụ như các trường hợp thỏa thuận về giá tài sản kê biên, thỏa thuận tổ chức thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá, thỏa thuận mức giảm giá… Do vậy, bắt buộc CHV phải thông báo kịp thời cho các đương sự biết để họ thực hiện quyền của mình. Đối với các vụ việc thông thường hoặc đương sự không phải đang ở trại giam thì việc thông báo triệu tập đương sự đến cơ quan thi hành án để tiến hành việc thỏa thuận là khá dễ dàng, thuận lợi. Trong trường hợp đương sự đã được thông báo mà không đến thì có thể xem là đương sự không hợp tác hoặc không muốn thực hiện quyền thỏa thuận. Tuy nhiên, nếu có đương sự đang chấp hành hình phạt tù thì việc thông báo và để cho các đương sự thực hiện quyền thỏa thuận là cả một thách thức đối với CHV.
Ví dụ, khoản 2 Điều 101 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Đương sự có quyền thỏa thuận về tổ chức bán đấu giá trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày định giá. Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản với tổ chức bán đấu giá do đương sự thỏa thuận. Trường hợp đương sự không thỏa thuận được thì Chấp hành viên lựa chọn tổ chức bán đấu giá để ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản. Việc ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản được tiến hành trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày định giá”. Theo quy định này thì CHV phải trực tiếp đến trại giam để thông báo thì mới có thể kịp thời được. Nhưng vấn đề đặt ra tiếp theo là làm sao để bố trí cho đương sự thỏa thuận với nhau được? Một điều chắc chắn là người được thi hành án họ sẽ không đồng ý đến tận trại giam để thỏa thuận với người phải thi hành án, và người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù cũng sẽ không thể về cơ quan thi hành án để thực hiện việc thỏa thuận được.
Trong những trường hợp này thì CHV thường ghi nhận ý kiến của các bên ở những Biên bản giải quyết thi hành án khác nhau, sau đó sẽ thông báo ý kiến của bên này cho bên kia biết, nếu họ đồng ý với ý kiến của một bên đã đưa ra thì coi như thỏa thuận thi hành án đã được thiết lập và cơ quan thi hành án sẽ căn cứ vào đó để giải quyết. Cách giải quyết linh hoạt như vậy của CHV là có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, hiện nay việc thỏa thuận thi hành án được quy định khá cứng nhắc làm cho CHV rất lúng túng trong những trường hợp có đương sự đang chấp hành hình phạt tù. Cụ thể tại khoản 4 Điều 5 Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định: “Khi đương sự có yêu cầu, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến và ký tên vào văn bản thỏa thuận trong trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 của Điều này. Việc chứng kiến thỏa thuận phải được thực hiện tại trụ sở cơ quan thi hành án dân sự”. Như vậy, nếu đương sự đang chấp hành hình phạt tù thì không thể nào thực hiện được việc thỏa thuận tại trụ sở của cơ quan THADS.
2.9. Vụ việc điển hình về thi hành bản án, quyết định hành chính và yêu cầu bồi thường trách nhiệm dân sự ở nước ngoài: Vụ Hornsby v. Greece[18]
Ông Hornsby và vợ là bà Hornsby lần lượt sinh năm 1937 và 1939 tại Vương quốc Anh. Họ là những giáo viên tiếng Anh. Họ sống trên đảo Rhodes thuộc HL. Ngày 17/01/1984, ông bà nộp đơn tới Bộ Giáo dục và Đào tạo ở Athens để xin thành lập ở Rhodes một trường học tư thục (frontistirion) để giảng dạy tiếng Anh. Ngày 25/01/1984, Bộ Giáo dục và Đào tạo từ chối đơn với lý do chỉ công dân HL với được cơ quan quản lý giáo dục cấp tỉnh cấp phép. Ngày 12/3/1984, bà Hornsby cố gắng trực tiếp gửi đơn lần thứ hai tới Văn phòng của cơ quan giáo dục trung học Dodecamese nhưng người có thẩm quyền của văn phòng này đã từ chối. Sau khi luật sư của bà Hornsby khiếu nại, chính quyền thông báo cho bà vào ngày 05/6/1984 rằng theo luật HL thì công dân nước ngoài không được phép mở trường học tư tại HL.
Bà Hornsby cho rằng, việc coi quốc tịch là điều kiện để được thành lập trường học tư là trái với Hiệp ước Rome ngày 25/3/1957 được áp dụng cho các quốc gia thuộc cộng đồng châu Âu. Sau khi nhận được đơn khiếu nại của ông bà Hornsby, các cơ quan tố tụng (dân sự, hành chính, hình sự) đã xem xét và quyết định như sau:
- Trong phán quyết ngày 15/3/1988 (số 147/86, Ủy ban cộng đồng châu Âu EU kiện nước Cộng hòa HL), TA công lý cho rằng “bằng cách cấm công dân của các quốc gia thành viên khác thành lập trường học tư thục, Cộng hòa HL đã không thực hiện các nghĩa vụ của mình theo Điều 52 và Điều 59 của Hiệp ước EEC 1957”[19].
- Ngày 8/6/1988, ông bà Hornsby đã nộp đơn lên TA Hành chính Tối cao đề nghị bãi bỏ các quyết định của Giám đốc cơ quan quản lý giáo dục tỉnh Dodecanese. Theo hai bản án (số 1337/1989 và 1361/1989), ngày 09, 10 tháng 5 năm 1989, TA Hành chính Tối cao đã tuyên các quyết định nêu trên là không có hiệu lực và TA Hành chính Tối cao hủy bỏ Quyết định của Giám đốc cơ quan quản lý giáo dục Rhodes ngày 12/4/1988. Trước đó, ngày 15/9/1988, Giám đốc cơ quan quản lý giáo dục của tỉnh Dodecanese thông báo với ông bà Hornsby rằng việc cấp phép cho người không phải công dân HL để thành lập trường học tư đang được các cơ quan có thẩm quyền xem xét. Trong thư ngày 23/11/1988, ông bà Hornsby nộp đơn yêu cầu Thủ tướng Chính phủ phải thực hiện các bước cần thiết để đảm bảo tuân thủ phán quyết của TA công lý ngày 15/3/1988 nêu trên.
- Ngày 14/11/1990, ông bà Hornsby nộp đơn tới Tòa án dân sự sơ thẩm Rhodes yêu cầu bồi thường (Điều 914 và Điều 932 của Bộ luật dân sự và các mục 104 và 105 phần giới thiệu của Bộ luật dân sự) vì thành kiến đã gây ra cho họ buộc họ phải giải trình với cơ quan hành chính và việc cơ quan hành chính đã từ chối tuân thủ các phán quyết của TA Hành chính Tối cao. Ông bà Hornsby đã lần lượt yêu cầu bồi thường 30.025.200 drachmas (GRD) đối với thiệt hại về tiền, 41.109.200 GRD do mất thu nhập và 100.000.000 GRD cho thiệt hại không tính được bằng tiền. Ngày 30/01/1992, Tòa án dân sự sơ thẩm Rhodes tuyên bố không chấp nhận đơn (bản án số 32/1992) với lý do tranh chấp được yêu cầu thuộc thẩm quyền của các TA hành chính.
- Ngày 10/8/1994, Tổng thống có Sắc lệnh số 211/1994 đã công nhận quyền của công dân của các quốc gia thành viên của cộng đồng châu Âu được thành lập trường học tư thục ở HL. Tuy nhiên, những người không có chứng chỉ tốt nghiệp trung học tiếng HL phải vượt qua kỳ thi về lịch sử và ngôn ngữ HL. Vào ngày 20/10/1994, Bộ trưởng Bộ Giáo dục đã yêu cầu Giám đốc cơ quan quản lý giáo dục tỉnh Dodecanese tiếp tục xem xét yêu cầu của ông bà Hornsby theo Sắc lệnh số 211/1994 của Tổng thống và thông báo cho Bộ Giáo dục về những bước tiếp theo.
- Ngày 07/01/1990, ông bà Hornsby đã nộp đơn lên Ủy ban nhân quyền châu Âu. Họ cáo buộc các cơ quan hành chính có thẩm quyền của HL đã vi phạm khoản 1 Điều 6 Công ước nhân quyền châu Âu do các cơ quan có thẩm quyền này đã từ chối tuân thủ hai bản án của TA Hành chính Tối cao. Ủy ban nhân quyền châu Âu tuyên bố đơn yêu cầu số 18357/91 được chấp nhận vào ngày 31/8/1994. Ngày 11/4/1995, Ủy ban nhân quyền châu Âu đã từ chối một yêu cầu mới của Chính phủ HL, trong đó Chính phủ yêu cầu Ủy ban nhân quyền châu Âu tuyên bố Đơn không được chấp nhận theo Điều 29 của Công ước. Báo cáo ngày 23/10/1995 (Điều 31) của Ủy ban nhân quyền châu Âu có 27 phiếu tán thành cho rằng cơ quan hành chính có thẩm quyền của HL đã vi phạm khoản 1 Điều 6 của Công ước.
Vụ việc Hornsby v. Greece là một trong những vụ việc thi hành án điển hình nhất, sớm nhất trên thế giới, liên quan đến việc thi hành bản án của TA Hành chính Tối cao Hy Lạp (HL) và từ chối giải quyết yêu cầu bồi thường dân sự. Đây là vụ việc đầu tiên làm cơ sở, nền tảng thực tiễn để TA nhân quyền châu Âu và TA các nước châu Âu viện dẫn là vụ việc điển hình khi đề cập đến các bất cập trong công tác thi hành án. Tính chất điển hình của vụ việc được thể hiện dưới các góc độ sau đây:
Một là, đương sự trong bản án của TA hành chính tối cao HL là người nước ngoài, không có quốc tịch HL, tại thời điểm xảy ra tranh chấp pháp lý họ đang sinh sống và làm việc tại HL;
Hai là, vi phạm nghiêm trọng khoản 1 Điều 6 của Công ước nhân quyền châu Âu về quyền được xét xử trong một thời gian hợp lý. Sự chậm trễ quá mức thi hành bản án của TA Hành chính Tối cao HL của các cơ quan có thẩm quyền: vi phạm thời hạn thi hành bản án, sau hơn 10 năm, kể từ ngày yêu cầu (từ 1984-1994), và sau 6 năm kể từ khi TA nhân quyền châu Âu ra phán quyết (từ 1988-1994) yêu cầu thành lập trường học tư của ông bà Hornsby mới được Chính phủ thừa nhận nhưng có kèm điều kiện mới;
Ba là, ngoài vi phạm quy định về thời hạn thi hành bản án của các cơ quan hành chính ở trong nước, dưới góc độ pháp luật quốc tế thì HL còn vi phạm nghĩa vụ của quốc gia thành viên trong cộng đồng châu Âu. Trong phán quyết ngày 15/3/1988 (số 147/86, Ủy ban cộng đồng châu Âu EU kiện nước Cộng hòa HL), TA công lý cho rằng “bằng cách cấm công dân của các quốc gia thành viên khác thành lập trường học tư thục, Cộng hòa HL đã không thực hiện các nghĩa vụ của mình theo Điều 52 và Điều 59 của Hiệp ước EEC 1957”[20].
Bốn là, pháp luật được áp dụng để giải quyết việc thi hành án và khiếu nại là pháp luật trong nước và các điều ước quốc tế có liên quan, đặc biệt là Công ước nhân quyền châu Âu và Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế.
Năm là, có sự vào cuộc giải quyết của nhiều cơ quan, tổ chức quốc tế lớn và người có thẩm quyền cao nhất cũng như của hầu hết các cơ quan tư pháp, hành chính trong nước của HL. Đối với quốc tế có sự tham gia giải quyết của TA công lý quốc tế; TA nhân quyền châu Âu, Ủy ban cộng đồng châu Âu. Ở trong nước HL có sự tham gia giải quyết của Tổng thống HL, Thủ tướng HL; TA hành chính tối cao HL, TA hình sự Rhodes, TA dân sự sơ thẩm Rhodes, Giám đốc cơ quan quản lý giáo dục Rhodes,…
Đối chiếu với các tiêu chí vụ việc THADS điển hình như đã phân tích ở Chương 1 của Đề tài thì bản thân vụ việc Hornsby đã là vụ việc thi hành án điển hình.
Đối với Việt Nam, giá trị tham khảo lớn nhất từ vụ việc điển hình nêu trên là ở chỗ TA nhân quyền châu Âu cho rằng thời hạn xem xét giải quyết yêu cầu về dân sự, hành chính của người dân thông qua thủ tục tố tụng bao gồm cả thời hạn xét xử và thời hạn thi hành án. Thời gian xét xử và thời gian thi hành án kéo dài sẽ không bảo đảm quyền được tiếp cận công lý công bằng và quyền được bảo vệ bởi TA. Do đó, không nên tách rời thời hạn thi hành án ra khỏi thời hạn xét xử để bảo vệ quyền dân sự thông qua hoạt động xét xử của TA. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến vụ việc Hornsby v. Greece nêu trên, trong đó đáng chú ý là các nguyên nhân ban đầu như việc chậm trễ trả lời, giải quyết yêu cầu hành chính của người dân từ phía các cơ quan hành chính có thẩm quyền; sự chậm trễ thi hành bản án của TA; sự thiếu hiểu biết rõ ràng các quy định của pháp luật quốc tế (quy định của cộng đồng châu Âu) về nghĩa vụ của quốc gia thành viên khi giải quyết các công việc, yêu cầu của công dân nước ngoài thuộc nước là thành viên của châu Âu; còn có sự phân biệt đối xử giữa công dân của nước sở tại với người có quốc tịch nước khác thuộc thành viên của cộng đồng châu Âu; thiếu tôn trọng bản án, đặc biệt là bản án của TA có thẩm quyền cao nhất của quốc gia trong việc giải quyết các tranh chấp hành chính; …
Những nguyên nhân cơ bản nêu trên đã dẫn đến những hậu quả to lớn đó là quyền lợi của người yêu cầu không được bảo đảm, bị trì hoãn trong một thời gian dài, mất cơ hội đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là đối với nhà đầu tư nước ngoài; nhà nước bị thiệt hại cả về kinh tế, chính trị, danh dự: về kinh tế thì người yêu cầu viện dẫn các quy định của Công ước đòi bồi thường thiệt hại với mức tiền yêu cầu bồi thường rất lớn, về chính trị thì bị ảnh hưởng do có sự phân biệt đối xử giữa công dân nước sở tại với công dân có quốc tịch nước ngoài trong cùng cộng đồng châu Âu; hệ thống pháp luật trong nước bị đánh giá là không phù hợp với các chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế khi cùng làquốc gia thành viên; quốc gia bị xem vi phạm nghĩa vụ của quốc gia thành viên công ước, theo Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế. Cụ thể vi phạm Điều 26, Điều 27 về việc tôn trọng các Điều ước quốc tế quy định như sau:
“Điều 26. Pacta sunt servanda
Mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tham gia và phải được các bên thi hành với thiện chí.
Điều 27. Pháp luật trong nước và việc tôn trọng các điều ước
Một bên không thể viện dẫn những quy định của pháp luật trong nước của mình làm lý do cho việc không thi hành một điều ước. Quy tắc này không phương hại gì đến các quy định của Điều 46.”
Hiện nay, ở Việt Nam, THADS nói chung, đôn đốc, theo dõi THAHC nói riêng được xem là giai đoạn tách rời, độc lập với giai đoạn xét xử của TA. Do đó, thời gian thi hành án chưa được tính vào khoảng thời gian hợp lý để giải quyết một vụ kiện dân sự, hành chính. Thực tế có nhiều vụ việc THADS, THAHC kéo dài trong nhiều năm (15 năm, thậm chí 20 năm hoặc dài hơn) mà chưa được thi hành, quyền, và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan, đặc biệt là của người được thi hành án bị vi phạm nghiêm trọng. Do đó, nghiên cứu việc thi hành án vụ việc Hornsby v. Greece rất có ý nghĩa đối với việc hoàn thiện chính sách, pháp luật thi hành án nói chung, THADS, THAHC nói riêng ở Việt Nam trong bối cảnh nước ta đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chương 3
Đề xuất giải pháp và bài học kinh nghiệm từ thực tiễn thi hành các vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành vụ việc THADS điển hình đã được phân tích ở Chương 1, Chương 2; Chương này đề xuất một số giải pháp và bài học kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả thi hành vụ việc THADS điển hình nói riêng, hiệu quả công tác THADS nói chung trong thời gian tới, bao gồm: (1) Đề xuất ban hành bộ tiêu chí xác định vụ việc THADS điển hình; (2) Đề xuất ban hành quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng hồ sơ vụ việc thi hành án dân sự điển hình; (3) Đề xuất thành lập Ban Chỉ đạo THADS Trung ương đối với các vụ việc THADS điển hình; (4) Định hướng đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ thi hành án đối với các vụ việc THADS điển hình; (5) Đề xuất xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu thi hành các vụ việc THADS điển hình; (6) Hệ thống bài học kinh nghiệm quý báu cho công tác quản lý, chỉ đạo và tổ chức thi hành án được rút ra từ thực tiễn thi hành các vụ việc THADS điển hình.
3.1. Đề xuất ban hành bộ tiêu chí xác định vụ việc thi hành án dân sự điển hình
3.1.1. Thẩm quyền ban hành và thể thức văn bản
Đề tài đề xuất thẩm quyền ban hành bộ tiêu chí xác định vụ việc THADS điển hình là Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS. Theo đó, Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS sẽ ban hành Quyết định về việc xác định bộ tiêu chí vụ việc THADS điển hình dựa trên các căn cứ sau đây:
- Theo quy định tại điểm 1 Phụ lục số 01 ban hành kèm theo Quyết định số 1066/QĐ-BTP ngày 11/5/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 2850/QĐ-BTP ngày 11/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp) thì “Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự là chức vụ lãnh đạo, quản lý và là người đứng đầu Tổng cục Thi hành án dân sự; có trách nhiệm giúp Bộ trưởng quản lý, chỉ đạo, điều hành mọi hoạt động của Tổng cục Thi hành án dân sự và tổ chức thực hiện việc hoạch định chính sách, thực hiện quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật thuộc lĩnh vực Thi hành án dân sự và Thi hành án hành chính trong phạm vi cả nước theo quy định của pháp luật và thẩm quyền được Bộ trưởng giao hoặc phân cấp; chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Tổng cục Thi hành án dân sự”.
- Khoản 4 Điều 2 Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp quy định thẩm quyền của Tổng cục THADS: “Ban hành theo thẩm quyền các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về Thi hành án dân sự, Thi hành án hành chính, văn bản cá biệt, văn bản quy phạm nội bộ theo quy định của pháp luật”.
Qua nghiên cứu cho thấy, để phù hợp với hình thức và thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2020 và theo quy định mới của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 09/2018/TT-BTP ngày 21/6/2018 quy định Tiêu chí xác định vụ việc trợ giúp pháp lý phức tạp, điển hình thay thế cho Quyết định số 2662/QĐ-BTP ngày 29/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành tiêu chí xác định vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình trong hoạt động trợ giúp pháp lý năm 2016 và năm 2017. Do đó, cũng có thể tham khảo hình thức pháp lý của văn bản quy định về tiêu chí xác định vụ việc trợ giúp pháp lý phức tạp, điển hình do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành nêu trên để đề xuất Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Thông tư quy định về tiêu chí xác định việc THADS điển hình.
3.1.2. Nội dung Quyết định của Tổng Cục trưởng về việc xác định bộ tiêu chí vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Quyết định về việc xác định bộ tiêu chí vụ việc THADS điển hình bao gồm các nội dung chính như: (1) Những quy định chung, mục đích và phạm vi, đối tượng áp dụng; (2) Nguyên tắc xác định vụ việc THADS điển hình; (3) Nhóm tiêu chí xác định vụ việc THADS điển hình; (3) Tổ chức thực hiện.
3.2. Đề xuất ban hành quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng hồ sơ vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp trong công tác quản lý nhà nước về THADS, quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng hồ sơ vụ việc THADS điển hình do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành là phù hợp. Hình thức pháp lý của văn bản là Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Khoản 1 Điều 167 Luật THADS quy định một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp trong THADS, đó là: “Ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về THADS”. Điểm a khoản 1 Điều 2 Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp quy định Tổng cục THADS thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: “1. Xây dựng để Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình cấp có thẩm quyền hoặc ban hành theo thẩm quyền: a) Dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội; dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị định, nghị quyết của Chính phủ; dự thảo quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; dự thảo thông tư, quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và các văn bản khác về thi hành án dân sự, quản lý thi hành án hành chính”.
Quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng hồ sơ vụ việc THADS điển hình bao gồm các nội dung như đã được phân tích tại Chương 1 của đề tài. Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về lựa chọn, công bố và áp dụng hồ sơ vụ việc THADS điển hình có thể bao gồm các nội dung cơ bản như: (1) Khái niệm vụ việc THADS điển hình; (2) Tiêu chí lựa chọn hồ sơ vụ việc THADS điển hình; (3) Đề xuất lựa chọn vụ việc THADS điển hình; (4) Công bố vụ việc THADS điển hình; (5) Áp dụng vụ việc THADS điển hình; (6) Sửa đổi, bổ sung, thay thế tiêu chí xây dựng hồ sơ vụ việc THADS điển hình.
Đề tài đã thực hiện lựa chọn, nghiên cứu, phân tích 27 vụ việc THADS tiêu biểu, điển hình trong các lĩnh vực THADS. Sau khi so sánh, đối chiếu với các tiêu chí việc THADS, đề tài lựa chọn 9 vụ việc THADS được xem là điển hình nhất, hội tụ đầy đủ nhất các dấu hiệu, tiêu chí của vụ việc THADS điển hình, chứa đựng nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị nhất. Do đó, trên cơ sở nghiên cứu quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng vụ việc THADS điển hình, đề tài đề xuất 09 vụ việc THADS điển hình đã được phân tích ở Chương 2 để tiếp tục nghiên cứu, lựa chọn xây dựng thành hồ sơ vụ việc THADS điển hình nhằm rút ra bài học kinh nghiệm áp dụng cho các việc thi hành án tương tự về sau.
3.3. Nghiên cứu đề xuất thành lập Ban chỉ đạo thi hành án dân sự Trung ương đối với các vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Từ thực trạng công tác THADS hiện nay, những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức THADS nói chung và trong các vụ án kinh tế, tham nhũng nói riêng như đã phân tích ở Chương 2, chúng tôi cho rằng cần phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo thi hành án Trung ương từ bài học kinh nghiệm thi hành án vụ Epco-MP, đề xuất mô hình Ban Chỉ đạo THADS Trung ương nhằm chỉ đạo thi hành dứt điểm và thu hồi tài sản trong một số vụ án lớn, phức tạp, kéo dài, nhất là một số vụ án kinh tế, tham nhũng có tính chất điển hình, cụ thể:
3.3.1. Vai trò của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo THADS để chỉ đạo đối với các việc thi hành án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương; theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan THADS cùng cấp, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo THADS để tham mưu cho Chủ tịch UBND cùng cấp chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong THADS trên địa bàn; giải quyết kịp thời những vướng mắc, khó khăn phát sinh trong việc phối hợp; chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Thông tư liên tịch số 05/2016/TTLT/BTP-BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 19/5/2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, TANDTC và VKSNDTC quy định thành phần; chế độ làm việc; quan hệ công tác; vai trò, trách nhiệm của Ban Chỉ đạo THADS cấp tỉnh, Ban Chỉ đạo THADS cấp huyện.
Trong những năm qua, Ban chỉ đạo THADS tại các địa phương đã thực hiện tốt vai trò tham mưu cho Chủ tịch UBND cùng cấp đưa ra những chỉ đạo sâu sát, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Từ đó góp phần thi hành dứt điểm các vụ án lớn, phức tạp, những vụ việc tồn đọng kéo dài nhiều năm. Một số địa phương có nhiều vụ việc giá trị lớn, phức tạp như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng… luôn chú trọng phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo.
Đối với các vụ án lớn, phức tạp, tiêu biểu, điển hình có mức độ ảnh hưởng, lan tỏa, tác động lớn đến các mặt của đời sống kinh tế, xã hội cần phải được thi hành hiêu quả thì vai trò của Ban Chỉ đạo thi hành án Trung lại càng trở nên vô cùng quan trọng. Đề cập đến vai trò của Ban Chỉ đạo thi hành án Trung ương trong vụ án Epco-MP, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường chia sẻ: “Kinh nghiệm từ những vụ án lớn trước đây ở các địa bàn phức tạp là Chính phủ phải thành lập Ban chỉ đạo như vụ Epco-MP. Chúng tôi thấy rằng một trong những giải pháp tới đây đối với vụ Vinashin là phải đề nghị Thủ tướng cho thành lập Ban chỉ đạo liên ngành thì mới thi hành án được”. Ngoài ra, Bộ trưởng còn cho biết, sẽ phải đề nghị Thủ tướng thành lập ban chỉ đạo liên ngành đối với vụ Vinashin. Khoản phải thu hồi 950 tỷ đồng của vụ Vinashin được đánh giá là khó đòi. Mặt khác, đây là án chủ động không phải chờ yêu cầu thi hành án, nên bất cứ khi nào bản án được chuyển sang cơ quan thi hành án là phải xử lý ngay”.[21]
3.3.2. Đề xuất xây dựng mô hình Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự Trung ương để chỉ đạo thi hành các vụ việc thi hành án dân sự điển hình từ kinh nghiệm thi hành vụ án Epco-MP
a) Sự cần thiết thành lập Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự Trung ương
Việc thành lập Ban Chỉ đạo THADS Trung ương nhằm đáp ứng các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, đáp ứng yêu cầu về chính trị, pháp lý: đó là yêu cầu hoàn thiện đồng bộ, đầy đủ hệ thống pháp luật, đảm bảo sự vận hành thông suốt, thống nhất bộ máy nhà nước và các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó trực tiếp là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tạo môi trường về đầu tư, kinh doanh và thu hút các nguồn lực khác, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Thay đổi căn bản về tổ chức thi hành pháp luật, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả, nghiêm minh, kỷ cương, thượng tôn pháp luật.
- Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục đặt ra yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của ... cơ quan THADS ...”. Đây là chủ trương quan trọng, nhằm góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ pháp chế XHCN trong bối cảnh số lượng thi hành án đối với các vụ việc phức tạp, kéo dài, các khoản bị chiếm đoạt trong vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế có giá trị rất lớn. Đồng thời, tiếp tục khẳng định: “Việc ... xử lý tham nhũng, kinh tế ... vẫn còn hạn chế... Tham nhũng, kinh tế vẫn là một trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta” và đặt ra yêu cầu: “Tăng cường công tác ... thi hành án, phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng; kiên quyết thu hồi tài sản tham nhũng...”[22]. Đảng ta cũng chủ trương: “Trong xử lý tham nhũng, kinh tế phải xác minh rõ, chính xác tài sản của người có hành vi tham nhũng; áp dụng kịp thời các biện pháp thu hồi tối đa tài sản do tham nhũng, kinh tế mà có trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án...”.
- Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, tích cực góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, kinh tế theo Nghị quyết Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Thứ hai, khắc phục tình trạng bất cập, khó khăn trên thực tế:
- Kết quả thu hồi các khoản nợ của các tổ chức tín dụng, kết quả thu hồi tiền, tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế thấp so với yêu cầu (năm 2021 về tiền của toàn hệ thống đạt thấp hơn cùng kỳ năm 2020 (giảm 0,75% so với cùng kỳ), riêng số tiền phải thi hành theo các BA, QĐ trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế chiếm 24,5% về tiền so với tổng số phải thi hành. Nhiều bản án mới có hiệu lực thi hành, có giá trị tiền, số lượng tài sản kê biên phải xử lý nhiều, cơ quan THADS đang tập trung xác minh, xử lý tài sản để thi hành án, đồng thời nhiều vụ việc người phải THADS không có tài sản hoặc có tài sản nhưng giá trị nhỏ hơn nhiều so với nghĩa vụ thi hành án, làm tăng tỷ lệ về tiền chuyển kỳ sau. Đối với các vụ án kinh tế và tham nhũng, thông thường người phải thi hành án có chức vụ, có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đối phó ngay từ đầu khi thực hiện hành vi phạm tội, chủ động xóa dấu vết, tiêu hủy giấy tờ, chứng cứ liên quan đến hành vi phạm tội, tẩu tán, che giấu tài sản ở nước ngoài hoặc chuyển nhượng, sang tên, tặng cho người khác nhằm trốn tránh nghĩa vụ phải thi hành án… tiềm ẩn nguy cơ bất ổn xã hội, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tổ chức và công dân.
- Hiệu quả công tác phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan có liên quan chưa cao; còn chậm, chưa tích cực, nhất là trong các khâu xác minh tài sản thi hành án, đo vẽ, xác định hiện trạng ranh giới tài sản, đất đai (nhiều vụ việc BA, QĐ đã tuyên kê biên, phong tỏa hàng trăm tài sản để bảo đảm thi hành án; tài sản phải xử lý THADS nằm ở nhiều tỉnh, thành phố khác nhau trên địa bàn cả nước; nguồn gốc liên quan đến quyền sở hữu, sử dụng phức tạp, có tranh chấp với người thứ ba...).
Thứ ba, đáp ứng việc nghiên cứu, đề xuất các nội dung liên quan đến THADS theo yêu cầu của Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”: đảm bảo hiệu lực hiệu quả hoạt động của nhà nước pháp quyền, trong đó đề cao vai trò tối thượng của Hiến pháp và pháp luật, mọi hành vi trong xã hội phải đảm bảo tuân thủ pháp luật, mọi phán quyết của TA phải được nghiêm chỉnh chấp hành.
Thứ tư, đáp ứng yêu cầu bảo đảm thực hiện tốt một số quy định mới của Luật THADS về ủy thác THADS, việc thành lập Ban Chỉ đạo THADS Trung ương sẽ hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án tại các địa phương.
Thứ năm, việc thành lập Ban Chỉ đạo THADS Trung ương là cơ quan có tính vụ việc (ad hoc) nhằm đáp ứng yêu cầu thi hành từng vụ việc THADS điển hình. Mỗi vụ việc THADS điển hình có thể sẽ khác nhau về phạm vi, thời gian, đối tượng, tính chất, đặc điểm ... do đó, sẽ rất khó để thành lập Ban Chỉ đạo THADS Trung ương với tư cách là cơ quan thường trực. Vì vậy, việc thành lập Ban Chỉ đạo THADS Trung ương mang tính chất vụ việc sẽ đáp ứng yêu cầu của chủ trương cải cách hành chính, không làm tăng cơ cấu của bộ máy cơ quan hành chính nhà nước, trong đó nhấn mạnh đến vai trò lãnh đạo, chỉ đạo phối hợp giải quyết của Trưởng Ban chỉ đạo (có thể là Thủ tướng hoặc 01 Phó Thủ tướng Chính phủ) và vai trò của bộ phận thường trực Ban Chỉ đạo.
Từ những lý do trên đây, cùng với bài học kinh nghiệm rút ra từ thi hành án vụ Epco-MP thấy rằng, những vấn đề về dân sinh, về bất ổn kinh tế - xã hội phát sinh đòi hỏi phải có sự chỉ đạo trực tiếp, thống nhất của Chính phủ, nhằm chỉ đạo công tác thu hồi tài sản cho nhà nước; thực hiện quyết liệt công tác xác minh, truy tìm tài sản của người phải thi hành án trong giai đoạn thi hành án, nâng cao tỷ lệ thi hành về tiền trong các vụ án phức tạp, điển hình và những vụ án liên quan tham nhũng, kinh tế… Việc nghiên cứu để đề xuất thành lập Ban Chỉ đạo THADS Trung ương là hết sức cần thiết, góp phần thi hành và đảm bảo thi hành tốt các phán quyết của TA, góp phần giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa các bộ, ban ngành ở Trung ương và địa phương trong THADS. Vấn đề cấp bách trước mắt là việc thu hồi tài sản của những vụ án lớn, kéo dài, phức tạp, những vụ án kinh tế, tham nhũng có giá trị rất lớn, tài sản tại nhiều địa phương, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực như vụ Phạm Công D giai đoạn 2, vụ Hứa Thị Ph, vụ Phan Văn Anh V, Vụ Nhật Cường Mobile, vụ Đại án VN Pharma, vụ Cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, vụ Gang thép Thái Nguyên…
b) Thành phần và nhiệm vụ
- Thành phần của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự Trung ương:
Ban Chỉ đạo THADS Trung ương đảm bảo có các thành phần Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài nguyên - Môi trường, Bộ Xây dựng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Giao thông vận tải, Bảo hiểm xã hội, Bộ Quốc phòng, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và một số cơ quan liên quan ở Trung ương; các Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Ban Chỉ đạo THADS Trung ương có Tổ Thư ký giúp việc.
Tổ Thư ký giúp việc của Ban Chỉ đạo đảm bảo có các thành phần: Tổng cục THADS Bộ Tư pháp, Cục trưởng Cục THADS các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có liên quan chính đến việc thi hành án.
- Nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự Trung ương:
Ban Chỉ đạo THADS Trung ương có nhiệm vụ chỉ đạo thi hành án một số vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài, chỉ đạo liên ngành ở Trung ương và địa phương phối hợp hỗ trợ trong THADS; phát huy hiệu quả công tác phối hợp của các cấp, các ngành trong THADS phù hợp với vai trò, trách nhiệm được giao; quyết định một số vấn đề thực tiễn đặt ra cần phải được giải quyết ngay để thu hồi tài sản cho nhà nước, tháo gỡ một số vướng mắc khác mà ở phạm vi một địa phương, một ngành không thể giải quyết được; giải quyết kịp thời những vướng mắc, khó khăn phát sinh có ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Tổ Thư ký có nhiệm vụ giúp Ban Chỉ đạo thực hiện việc xây dựng chương trình, kế hoạch để chỉ đạo các cơ quan có liên quan trong THADS; tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch và ý kiến chỉ đạo Chính phủ về việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong THADS và tổ chức cưỡng chế THADS; chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan, tổ chức hữu quan với cơ quan THADS trong việc tổ chức cưỡng chế thi hành án; tham mưu, đề xuất các biện pháp chỉ đạo giải quyết kịp thời những vướng mắc, khó khăn phát sinh trong việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong THADS; thực hiện một số công việc khác giúp Ban Chỉ đạo.
c) Tổ chức thực hiện
Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan xây dựng Đề án thành lập Ban Chỉ đạo THADS Trung ương (trước mắt Luật THADS chưa quy định vấn đề này thì có thể thành lập Ban chỉ đạo phối hợp liên ngành Trung ương trong triển khai THADS) trình Chính phủ phê duyệt. Lộ trình thực hiện: Hoàn thành Đề án và trình Chính phủ thông qua để có cơ sở pháp lý thực hiện từ năm 2023.
3.4. Định hướng đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ thi hành các vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Từ những vi phạm nghiêm trọng quy trình, thủ tục THADS như đã được phân tích trong thực tiễn thi hành vụ việc THADS điển hình tại Chương 2 của Đề tài, để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn của CHV trong việc thi hành vụ việc THADS điển hình tương tự về sau, phần này sẽ đề xuất định hướng, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo, tồi dưỡng kỹ năng tổ chức thi hành các vụ việc THADS điển hình trong thời gian tới.
Nghị quyết số 48 -NQ/TW đã khẳng định: “Đổi mới công tác đào tạo các chức danh tư pháp đáp ứng yêu cầu sử dụng, luân chuyển các chức danh tư pháp. Chú trọng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho các chức danh tư pháp. Nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, hiện đại hoá trang thiết bị trong các cơ sở đào tạo pháp luật, đào tạo các chức danh tư pháp”. Trong bối cảnh đất nước đang tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, công tác thưc hiện pháp luật nói chung và công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực pháp luật nói riêng cần phải có sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng. Trong đó, một trong những yêu cầu quan trọng đặt ra là nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp tại Học viện Tư pháp nói chung và Khoa đào tạo các chức danh THADS nói riêng.
Đào tạo nghiệp vụ THADS là quá trình trang bị kiến thức nghiệp vụ, kiến thức kỹ năng hành nghề làm cho trở thành người có năng lực, có kỹ năng làm việc theo những tiêu chuẩn nghề nghiệp THADS.
Đào tạo nghiệp vụ THADS là một dạng hoạt động đào tạo nghề nghiệp trong tổng thể của hoạt động đào tạo nghề luật, một trong những nghề có tính chất “đặc biệt” không giống bất kỳ nghề nào trong xã hội. Đào tạo nghề luật nói chung được thực hiện sau khi đã được đào tạo cơ bản về kiến thức pháp luật. Đào tạo nghề luật không phải là hoạt động đào tạo sau đại học như: đào tạo Thạc sỹ, Tiến sỹ luật mặc dù luật Giáo dục Đại học năm 2012 được sửa đổi, bổ sung năm 2018 cũng đã quy định đào tạo trình độ thạc sỹ, tiến sỹ ứng dụng.
Đào tạo nghiệp vụ THADS có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ THADS là một dạng đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật, nhất là kỹ năng áp dụng, vận dụng pháp luật vào thực tiễn đời sống xã hội;
Thứ hai, về chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ THADS liên quan đến công chức nhà nước cho nên phải tuân thủ theo khung chương trình của Chính phủ, của Bộ Nội vụ quy định;
Thứ ba, đặc thù của đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ THADS là kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiến thức pháp luật, kỹ năng áp dụng pháp luật với phương pháp, cách thức tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Hay nói cách khác phương pháp đào tạo, bồi dưỡng là “cầm tay, chỉ việc” thiên về kỹ năng thực hành nghề luật mà cụ thể là nghề THADS.
Thứ tư, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng có đặc điểm khác biệt với nhiều trình độ học vấn khác nhau như: cử nhân, thạc sỹ, thậm chí tiến sỹ chuyên ngành luật; độ tuổi, kinh nghiệm, cương vị công tác khác nhau. Cho nên, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cũng như phương thức triển khai cũng cần phải cân nhắc cẩn trọng vừa bảo đảm được tính dung hòa, vừa bảo đảm được nhu cầu cần thiết về kiến thức kỹ năng hành nghề của đối tượng vốn dĩ khá đa dạng.
3.4.1. Một số định hướng đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng thi hành vụ việc thi hành án dân sự điển hình
a) Mục tiêu
Nhằm trang bị cho người học những kỹ năng thi hành các vụ việc THADS điển hình một cách hiệu quả và thiết thực, nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng đội ngũ công chức THADS chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn cao, thành thạo kỹ năng nghiệp vụ, có năng lực quản lý, điều hành, thực thi công vụ, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho ngành tư pháp trong giai đoạn cải cách tư pháp, cải cách hành chính và hội nhập kinh tế - tư pháp quốc tế ngày càng sâu rộng.
Mục tiêu chiến lược: thông qua các hoạt động của những giai đoạn đầu để xây dựng khái niệm, các tiêu chí của vụ việc THADS điển hình, thực nghiệm trong đào tạo, bồi dưỡng… thông qua các văn bản dưới luật để có cơ sở thực hiện. Trên cơ sở đó sẽ tiến hành tổng kết để đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ, khoa học nhằm hoàn thiện khái niệm, đặc điểm, các tiêu chí và khả năng ứng dụng trong thực tiễn về “Thi hành án lệ” thông qua việc nghiên cứu, xây dựng và áp dụng hồ sơ mẫu về việc THADS điển hình, có giá trị tương tự như “Án lệ” trong hoạt động xét xử hiện nay. Khi đủ điều kiện sẽ nâng cấp quy phạm lên cấp độ luật quy định về: thẩm quyền, quy trình, cách thức tuyển chọn và giá trị pháp lý, giá trị thực tiễn thi hành các vụ việc về THADS điển hình để đáp ứng kịp thời nhu cầu thiết thực của thực tiễn THADS ở nước ta, khắc phục những vướng mắc, sai sót, những vi phạm trong hoạt động thi hành án.
b) Yêu cầu
- Đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng thi hành vụ việc THADS điển hình phải được đặt trong tổng thể các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ THADS. Đồng thời, cần phải được xây dựng và thực hiện một cách có hệ thống, khoa học, tập trung vào kỹ năng, nghiệp vụ chuyên sâu, trên cơ sở năng lực làm việc của cán bộ với nhu cầu, mục tiêu học tập cụ thể, rõ ràng;
- Cần làm rõ và thống nhất khái niệm, các tiêu chí của vụ việc THADS điển hình. Chẳng hạn, thế nào là vụ việc THADS điển hình; các tiêu chí của vụ việc THADS điển hình bao gồm những tiêu chí gì; thẩm quyền, quy trình chọn lọc, xác định những vụ việc THADS điển hình;…
- Xác định kỹ năng thi hành các vụ việc THADS điển hình là một trong những nhiệm vụ cần thiết phải được đưa vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng của Học viện. Bởi vì, nhu cầu thực tiễn của THADS đòi hỏi cần phải được trang bị kiến thức, kỹ năng về thi hành án điển hình. Ở bất kỳ cấp độ đào tạo, bồi dưỡng nào, dù sơ cấp, trung cấp hoặc cao cấp trong lĩnh vực THADS cũng đều cần có nghiệp vụ, kỹ năng này. Vấn đề là ở chỗ, nên xác định mỗi cấp độ đào tạo được cung ứng những mức độ “liều lượng” kiến thức tương ứng và phù hợp.
c) Một số giải pháp bảo đảm công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng tổ chức thi hành các vụ việc điển hình trong thi hành án dân sự
Một là, hoàn thiện thể chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng liên quan đến nghiệp vụ THADS;
Hai là, xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng;
Ba là, đổi mới chương trình, nội dung, giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng, cụ thể hóa với từng chức danh như: CHV sơ cấp, trung cấp, cao cấp; Thư ký thi hành án, Thư ký trung cấp thi hành án; Thẩm tra viên THADS, Thẩm tra viên chính THADS và Thẩm tra viên cao cấp THADS;
Bốn là, đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đối với các chức danh THADS theo hướng đa dạng hóa về phương thức, nhất là đối với việc thi hành các vụ việc THADS điển hình;
Năm là, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên giảng dạy kỹ năng THADS điển hình.
3.4.2. Một số kiến nghị
- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng thi hành các vụ việc điển hình trong THADS;
- Đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu và hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng;
- Tăng cường sự phối hợp giữa Tổng cục THADS với Học viện Tư pháp và Khoa đào tạo các chức danh THADS trong việc đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng thi hành vụ việc THADS điển hình.
3.5. Nghiên cứu đề xuất nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu thi hành các vụ việc điển hình trong công tác thi hành án dân sự
Xuất phát từ thực trạng đội ngũ CHV, công chức làm công tác THADS và tổng quan về số lượng việc, tiền thi hành vụ việc THADS trọng điểm, việc THADS trong BA, QĐ tham nhũng, kinh tế như đã phân tích ở phần Chương 1 nêu trên, đồng thời xét mối quan hệ biện chứng giữa nguồn nhân lực và cơ cấu tổ chức bộ máy, dưới đây là đề xuất một số giải pháp tăng cường nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu thi hành việc THADS điển hình trong thời gian tới:
3.5.1. Tăng cường nguồn nhân lực thi hành án dân sự trên cơ sở phù hợp với chủ trương của Đảng về kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự
Nghị quyết 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” đã đề ra mục tiêu đến năm 2021: (1) Cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, kiện toàn một số tổ chức và các đầu mối bên trong của từng tổ chức theo hướng giảm đầu mối, giảm tối đa cấp trung gian, giảm cấp phó; (2) Thực hiện thí điểm một số mô hình mới về tổ chức bộ máy và kiêm nhiệm chức danh để tinh gọn đầu mối, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, góp phần làm rõ về lý luận và thực tiễn; (3) Giảm tối thiểu 10% biên chế so với năm 2015; ... Thực hiện Nghị quyết nêu trên, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết để triển khai thực hiện.
Đối với Hệ thống THADS, đứng trước những yêu cầu tinh gọn bộ máy, hoạt động hiệu lực, hiệu quả mà Trung ương đề ra, đòi hỏi phải tiếp tục rà soát, đánh giá việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan THADS để đánh giá ưu điểm, hạn chế, tồn tại làm cơ sở đề xuất việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn nhưng vẫn đảm bảo hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Khi vai trò, vị trí, chức năng của các cơ quan THADS không thay đổi nhưng yêu cầu thực tế đã thay đổi thì tổ chức bộ máy cũng phải thay đổi, vận động và phát triển phù hợp với tình hình phát triển và yêu cầu về quản lý.
Qua rà soát kết quả công tác, khối lượng công việc và việc phân bổ biên chế của các phòng chuyên môn thuộc Cục THADS và các Chi cục THADS những năm gần đây, đặc biệt trong bối cảnh từ năm 2016-2021, toàn Hệ thống THADS sẽ phải cắt giảm 10% biên chế so với năm 2015. Đến nay, đã thực hiện cắt giảm 8,8% theo Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Ban chấp hành Trung ương. Tuy nhiên, việc tăng biên chế hoặc giữ nguyên biên chế cho những địa phương đang bị quá tải công việc là không thể thực hiện. Từ đó, dẫn đến sự chênh lệch rất lớn về khối lượng công việc; giữa số việc, tiền phải thi hành/biên chế giữa các Chi cục THADS. Đối với các phòng chuyên môn thuộc Cục, tại nhiều địa phương, một số phòng chuyên môn có khối lượng công việc không nhiều, biên chế giao ít, không đủ để duy trì hoạt động (theo thống kê, có tới 60% phòng thuộc Cục chỉ có từ 1-3 biên chế, trong đó cơ bản là lãnh đạo cấp phòng), do đó, cần sắp xếp lại các phòng chuyên môn thuộc Cục.
Đối với cấp Chi cục THADS, nhiều Chi cục THADS khối lượng công việc không nhiều, tính chất công việc không phức tạp nhưng vẫn phải duy trì một bộ máy với đầy đủ cơ cấu, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng dẫn đến lãng phí, không hiệu quả, không đảm bảo nguồn lực thực hiện nhiệm vụ của toàn hệ thống, cần sắp lại để bảo đảm hoạt động hiệu quả hơn. Hiện nay, TANDTC cũng đang có chủ trương sáp nhập một số TAND cấp huyện có quy mô nhỏ lại với nhau. Do đó, việc sắp xếp lại một số Chi cục THADS cấp huyện có số biên chế, số việc, số tiền phải thi hành hàng năm ít là cần thiết. Nếu thực hiện phương án này thì việc phân định thẩm quyền tổ chức thi hành BA, QĐ của TAND cấp huyện sẽ thuận lợi, không vướng quy định của Luật THADS liên quan về thẩm quyền THADS; số Chi cục THADS thực hiện việc sẽ sắp xếp nhiều hơn so với đề xuất ban đầu. Trường hợp TANDTC xây dựng đề án và được cấp có thẩm quyền phê duyệt, xử lý các vấn đề về thể chế thì sẽ thuận lợi trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ, đồng thời giảm được nhiều thủ tục hành chính như: Báo cáo các cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ trương, trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết...). Việc phối hợp với VKSND, cơ quan điều tra, cấp ủy, chính quyền địa phương sẽ thực hiện tương tự như việc sắp xếp TAND cấp huyện.
Bên cạnh những yêu cầu tinh giản biên chế và tinh gọn bộ máy cơ quan THADS như đã phân tích ở trên, theo các báo cáo công tác tổ chức cán bộ của hệ thống THADS thì trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế về nguồn nhân lực THADS như: việc thực hiện công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo ở một số địa phương chậm, chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế; số lượng công chức là chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp và tương đương còn chiếm tỷ lệ thấp, chưa tương xứng với yêu cầu, tính chất, vị trí công việc. Một trong những nguyên nhân cơ bản là công việc ngày càng tăng, tính chất ngày càng phức tạp, biên chế hiện nay vẫn còn thiếu nên gây ra tình trạng quá tải trong công việc. Nhiều công chức còn kiêm nhiệm nhiều công việc, nhiệm vụ dẫn đến việc hoàn thành việc chậm và không đạt hiệu quả. Việc sắp xếp cơ cấu bộ máy (ví dụ, tổ chức các phòng, ban thuộc Cục, hoặc bố trí các chi cục theo đơn vị hành chính lãnh thổ) ở một số cơ quan THADS cũng chưa phù hợp với số việc THADS phát sinh trong thực tiễn, do đó, dẫn đến tình trạng nhiều cơ quan THADS rơi vào tình trạng quá tải công việc, một số cơ quan THADS ít việc, trong khi vẫn phải bố trí đầy đủ các chức danh THADS. Do đó, cần nghiên cứu, sắp xếp, bố trí lại tổ chức bộ máy cơ quan THADS theo đúng tinh thần cải cách tư pháp, cải cách hành chính một cách khoa học để có cơ sở bố trí nhân sự, giao chỉ tiêu biên chế phù hợp đáp ứng yêu cầu của công tác THADS nói chung, thi hành việc THADS điển hình nói riêng. Từ thực trạng phân tích cơ cấu bộ máy cơ quan THADS nêu trên, cần sáp nhập một số Chi cục THADS trong nhiều năm liền có số lượng việc THADS thụ lý ít, đồng thời nghiên cứu sáp nhập Phòng Tổ chức cán bộ, Phòng Giải quyết khiếu nại-tố cáo ở một số Cục THADS có số biên chế ít hoặc có số lượng đơn khiếu nại, tố cáo ít. Ngoài ra, trên cơ sở Ban chỉ đạo thi hành án Trung ương được thành lập, thành phần tham gia cần có đại diện là một số CHV cao cấp có kinh nghiệm, chuyên môn vững vàng, tùy thuộc vào vụ việc THADS đó được thực hiện chủ yếu ở địa bàn nào có CHV cao cấp.
3.5.2. Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu thi hành vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Để đáp ứng yêu cầu thi hành có hiệu quả vụ việc THADS điển hình trong thời gian tới, chúng tôi đề xuất một số giải pháp liên quan đến nguồn nhân lực THADS như sau:
Một là, bổ sung biên chế làm công tác THADS tương ứng với số việc trung bình tăng trong những năm gần đây. Hiện nay, tỉ lệ số việc/CHV/năm đang ở mức trung bình cao, do đó, áp lực công việc đối với CHV nói riêng, công chức ngành THADS nói chung là rất lớn. Khi quá tải công việc thì nguy cơ dẫn đến sai sót về chuyên môn nghiệp vụ sẽ cao hơn, tỉ lệ CHV bị xem xét kỷ luật hoặc bồi thường trách nhiệm Nhà nước cũng có nguy cơ cao hơn, ảnh hưởng chung đến tâm lý công tác của đội ngũ CHV. Khi thiếu CHV sẽ ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả việc phân công nhiệm vụ cho CHV. Do đó, không tập trung được nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thi hành các vụ việc THADS điển hình. Ngoài ra, việc sắp xếp, sáp nhập một số Chi cục THADS, một số phòng Tổ chức cán bộ và phòng giải quyết khiếu nại-tố cáo nhằm tinh gọn bộ máy hệ thống THADS sẽ dẫn đến dôi dư một số lượng biên chế so với số biên chế đã được giao. Vì biên chế ngành THADS đang rất thiếu, không đủ đáp ứng yêu cầu theo vị trí việc làm, do đó, số biên chế dôi dư này cần bổ sung tăng cường cho những đơn vị hiện đang có số lượng việc THADS có tỷ lệ bình quân CHV đang rất cao như các cơ quan THADS Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội, Tây Ninh, ... Khi số lượng biên chế, CHV nhiều, cần tăng tỷ lệ ngạch CHV cao cấp, CHV trung cấp đối với những đơn vị có số lượng lớn vụ việc THADS điển hình.
Hai là, tăng cường tỷ lệ CHV cao cấp trong tổng số CHV của toàn quốc, đặc biệt là đối với những tỉnh, thành phố, địa bàn thường có nhiều việc THADS điển hình, ví dụ ở thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng, thành phố Hải Phòng, Tây Ninh, ... Tỷ lệ CHV cao cấp ở những tỉnh, thành phố này không những được bố trí đủ về số lượng ở Cục THADS mà còn được bố trí với số lượng phù hợp ở các Chi cục THADS ở những địa bàn này. Tỉ lệ này có thể được điều chỉnh như sau: Tính đến 30/9/2021, cả nước có 3.943 CHV, trong đó có 33 CHV cao cấp (0,8%), 1.306 CHV trung cấp (33%) và 2.604 CHV sơ cấp (66,2%). Do tình trạng quá tải đối với CHV như phân tích ở phần thực trạng, đề tài đề xuất cần điều chỉnh tăng số lượng CHV lên 5.000, trong đó, CHV cao cấp chiếm tỉ lệ 5% (ứng với 250 CHV cao cấp, cần bổ sung 220 CHV cao cấp; CHV trung cấp chiếm tỉ lệ 40% (ứng với 2.000 CHV trung cấp, cần bổ sung tăng khoảng 700 CHV trung cấp); CHV sơ cấp chiếm 55% (ứng với 2.750 CHV sơ cấp, cần bổ sung tăng thêm hơn 100 CHV sơ cấp).
Để thực hiện đề xuất nêu trên cần xây dựng Đề án cơ cấu ngạch công chức, viên chức trong Hệ thống THADS, trong đó đánh giá thực trạng đội ngũ CHV, công chức THADS; thực trạng lượng việc, tiền thi hành án và yêu cầu đặt ra đối với số lượng CHV, công chức THADS; đề xuất tỉ lệ cơ cấu hợp lý giữa các ngạch công chức THADS (CHV, Thẩm tra viên, Thư ký và các ngạch công chức giúp việc, bổ trợ); trong đó cần chi tiết hơn tỉ lệ hợp lý giữa các ngạch công chức chuyên ngành làm công tác THADS (tỉ lệ giữa các ngạch CHV sơ cấp, trung cấp, cao cấp; tỉ lệ giữa các ngạch Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính, Thẩm tra viên cao cấp; tỉ lệ giữa các ngạch Thư ký thi hành án, Thư ký trung cấp thi hành án).
Ba là, cần xây dựng Đề án biệt phái, luân chuyển CHV trong Hệ thống THADS để tăng cường bổ sung nguồn lực CHV (đặc biệt là CHV cao cấp, CHV trung cấp) ở các tỉnh, địa bàn lân cận tới các đơn vị có phát sinh các vụ việc THADS điển hình. Đồng thời trong Đề án này cũng giải quyết bài toán về cơ chế, chính sách đãi ngộ hợp lý về nhà ở công vụ, phương tiện đi lại, phụ cấp và là thành tích, đóng góp để xem xét ưu tiên khi bổ nhiệm, cử đi đào tạo, đưa vào quy hoạch, ...
Bốn là, trên cơ sở hồ sơ vụ việc THADS điển hình được đề xuất xây dựng trong đề tài này, cần nghiên cứu, ứng dụng vào công tác đào tạo, giảng dạy tại các lớp nguồn CHV, đặc biệt là các lớp bồi dưỡng CHV ngạch trung cấp, cao cấp ở Học viện Tư pháp. Việc giảng dạy các hồ sơ việc THADS điển hình sẽ cung cấp cơ sở lý luận, bài học kinh nghiệm thực tiễn giúp học viên có cái nhìn tổng quan về mức độ khó khăn, phương pháp, kỹ năng giải quyết những vấn đề phức tạp, khó khăn phát sinh từ thực tiễn công tác THADS, từ đó sẽ chủ động, sáng tạo và tự tin hơn khi phải trực tiếp thi hành những vụ việc THADS điển hình, gián tiếp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu thi hành vụ việc THADS điển hình.
Năm là, cần mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với nguồn bổ nhiệm vào ngạch CHV cao cấp, trung cấp và sơ cấp, đáp ứng yêu cầu công tác tổ chức cán bộ, đủ nguồn bổ nhiệm vào ngạch, đáp ứng tỉ lệ ngạch CHV tương ứng với tỉ lệ, tính chất vụ việc THADS, trong đó có yêu cầu thi hành vụ việc THADS điển hình.
3.6. Hệ thống bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thi hành các vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Từ thực tiễn lịch sử thi hành 04 vụ việc THADS điển hình (mục 2.1 đến mục 2.4 Chương 2) và thực trạng thi hành 05 vụ việc THADS điển hình còn lại thuộc một số lĩnh vực thi hành án như đã phân tích ở Chương 2, phần này phân tích, tổng hợp bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn thi hành các vụ việc THADS điển hình nêu trên, cụ thể:
3.6.1. Một số bài học kinh nghiệm chung rút ra từ việc thi hành các vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Một là, yêu cầu cao hơn về năng lực trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và bản lĩnh nghề nghiệp đối với CHV
CHV phụ trách các vụ việc thi hành án điển hình trước hết phải nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ thi hành án; bản lĩnh, nhạy bén, thận trọng và vận dụng các phương pháp phù hợp, phát huy các mối quan hệ phối hợp với các cơ quan chức năng để tổ chức thi hành hiệu quả. Bên cạnh đó, cần có quyết tâm cao, tinh thần trách nhiệm và thái độ nghiêm túc trong quá trình tổ chức thi hành. Việc thi hành các vụ việc phức tạp phải lập kế hoạch cụ thể, phân chia các giai đoạn thực hiện v.v... Do đó, quá trình thực hiện, cần bám sát kế hoạch, báo cáo tiến độ, kết quả của từng giai đoạn, trường hợp có khó khăn vướng mắc thì cần báo cáo, đề xuất, kiến nghị Lãnh đạo cơ quan, Tổng cục THADS, Ban chỉ đạo THADS... xem xét, chỉ đạo, giải quyết kịp thời.
Hai là, tiếp cận và nắm bắt thông tin đối với những vụ án lớn, được dư luận xã hội quan tâm ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử
THADS là giai đoạn cuối của quá trình tố tụng, là hoạt động được diễn ra sau khi BA, QĐ của TA có hiệu lực thi hành hoặc thi hành các biện pháp khẩn cấp tạm thời, một số quyết định được thi hành mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, đối với những vụ án lớn, đặc biệt lớn, những vụ “đại án” được dư luận xã hội quan tâm thì việc nắm bắt những thông tin về vụ việc ngay từ giai đoạn đầu sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan THADS nói chung và CHV nói riêng trong quá trình tổ chức thi hành án sau này, trong đó, Thủ trưởng cơ quan THADS giữ vai trò quan trọng, quyết định.
Ví dụ, trong năm 2017, Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã thảo luận, cho ý kiến về kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thanh tra vụ việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử 12 vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm tại một số địa phương[23]. Thời điểm đó, các vụ việc này đang trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, chưa có bản án có hiệu lực pháp luật nên các cơ quan THADS chưa thụ lý, tổ chức thi hành. Trong Kế hoạch số 1723/KH-TCTHADS ngày 17/5/2017 về việc chỉ đạo giải quyết thi hành án thu hồi tiền, tài sản trong các vụ án hình sự về kinh tế, tham nhũng Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp đã yêu cầu các cơ quan THADS địa phương chủ động nắm tình hình, kịp thời thụ lý, tổ chức thi hành án khi tiếp nhận bản án có hiệu lực pháp luật do TA có thẩm quyền chuyển giao, đồng thời quán triệt, yêu cầu các cơ quan thi hành án tập trung chỉ đạo giải quyết đối với các vụ việc thi hành án thu hồi tiền, tài sản trong các vụ án hình sự về kinh tế, tham nhũng phát sinh tại địa bàn; thành lập các Tổ, Nhóm chỉ đạo, giải quyết các vụ án hình sự về kinh tế, tham nhũng phức tạp, có số tiền phải thi hành lớn; tăng cường công tác kiểm tra, chỉ đạo, hướng dẫn, tổng hợp, báo cáo việc tổ chức thi hành án các vụ việc thu hồi tiền, tài sản trong các vụ việc này.
Ba là, nghiên cứu kỹ bản án, ra quyết định thi hành án
Đối với những vụ án lớn, phức tạp, nhất là những vụ án quá trình xét xử, các cấp xét xử có quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau hoặc nhân dân, dư luận xã hội không đồng tình, ủng hộ, để hạn chế khả năng diễn biến phức tạp về sau, các cơ quan THADS địa phương cần lưu ý thực hiện hết trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật đối với các BA, QĐ của TA. Theo đó, cơ quan THADS cần nghiên cứu kỹ BA, QĐ của TA để phát hiện ra những điểm chưa rõ gây khó khăn cho việc thi hành án và yêu cầu bằng văn bản gửi TA đã ra BA, QĐ giải thích, hoặc đính chính, bổ sung. Đây là điều không đơn giản vì có những bản án dài hàng trăm trang, chưa kể phần phụ lục. Trường hợp phát hiện thấy những vấn đề chưa phù hợp, bất thường hoặc phát hiện BA, QĐ có sai lầm hoặc không khả thi và có căn cứ để xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với BA, QĐ đã có hiệu lực pháp luật được thi hành, đặc biệt là những BA, QĐ đã ban hành mà không nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, của các cơ quan thông tấn báo chí thì phải kịp thời kiến nghị với người có thẩm quyền xem xét lại BA, QĐ đó trước khi tổ chức thi hành. Ngoài ra việc nghiên cứu bản án cũng giúp phát hiện những vấn đề thiếu sót hoặc vướng mắc về vấn đề vật chứng, tài sản kê biên, tạm giữ để yêu cầu cơ quan tố tụng hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan chuyển giao đầy đủ, kịp thời hoặc có biện pháp xử lý phù hợp khi có vấn đề phát sinh.
Bốn là, chú trọng giáo dục, thuyết phục đương sự thi hành bản án, quyết định của Tòa án
Tự nguyện, thỏa thuận là một nguyên tắc cơ bản trong giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung và trong THADS nói riêng. Trong các vụ án đặc biệt phức tạp, việc tạo điều kiện để đương sự thỏa thuận nhằm giải quyết việc thi hành án nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả là một trong những lựa chọn tối ưu cho CHV. Bên cạnh đó, để các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thái độ hợp tác, cần phối hợp với các cơ quan hữu quan để đưa ra những biện pháp, phương án hỗ trợ, đảm bảo cho cuộc sống bình thường của họ sau khi thi hành án trong phạm vi pháp luật cho phép (như tạo điều kiện về chỗ ở tạm thời sau khi bị thu hồi nhà, đất; đảm bảo quyền lợi của đồng sở hữu đối với tài sản chung của họ với người phải thi hành án theo quy dịnh của pháp luật…).
Trường hợp đã dùng mọi biện pháp vận động thuyết phục mà người phải thi hành vẫn không hợp tác, hết sức chống đối, chây ỳ thì cần xây dựng kế hoạch cưỡng chế. Kế hoạch cưỡng chế được đưa ra trên cơ sở nghiên cứu, điều tra kỹ tình hình, khả năng chống đối của đương sự; và phải chi tiết, cụ thể, dự liệu hết các tình huống tiêu cực có thể xảy ra như đương sự sử dụng vũ khí, manh động hoặc thậm chí tự sát, tự thiêu, v.v… Đặc biệt, ngay cả trong khi tổ chức cưỡng chế thi hành án, vẫn phải tiếp tục thực hiện công tác vận động, thuyết phục để hạn chế tối đa những xung đột có thể xảy ra.
Năm là, phối hợp chặt chẽ với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương
Việc phối hợp tốt với các cơ quan hữu quan là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của công tác THADS, nhất là trong các vụ án lớn, phức tạp. Trong việc phối hợp với cơ quan hữu quan, cần đặc biệt coi trọng và phát huy vai trò, vị trí của Ban chỉ đạo thi hành án; tranh thủ sự lãnh đạo chỉ đạo của tổ chức Đảng và chính quyền nơi có tài sản hoặc cá nhân, tổ chức liên quan đến việc thi hành án. Thực tế cho thấy, ở địa phương nào cơ quan THADS thực hiện tốt việc tham mưu, tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền và phát huy vai trò của Ban chỉ đạo THADS thì ở đó công tác THADS có nhiều thuận lợi và đạt hiệu quả cao.
Sáu là, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo
Giải quyết những vụ việc khó khăn, phức tạp trong THADS không chỉ là nhiệm vụ của CHV trực tiếp thụ lý hồ sơ mà còn là trách nhiệm của cả cơ quan THADS và người đứng đầu là thủ trưởng cơ quan. Đặc biệt, đối với những vụ án đặc biệt phức tạp thì còn có cả trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền địa phương, các Bộ, ban ngành và cấp lãnh đạo cao hơn. Do đó, trong phạm vi mỗi cơ quan thi hành án, Thủ trưởng cần yêu cầu CHV thực hiện tốt chế độ báo cáo định kỳ hoặc đột xuất đối với những vụ việc phức tạp để có những chỉ đạo kịp thời, linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế.
Bên cạnh đó, Lãnh đạo cơ quan THADS cần thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, họp rút kinh nghiệm chung cho cả cơ quan đối với những vụ việc đặc biệt khó khăn, phức tạp và những vụ án điểm.
Ngoài ra, cơ quan THADS cần phải chú trọng thích đáng đến công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo trong THADS nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của công dân, cơ quan, tổ chức; phát hiện, uốn nắn, khắc phục kịp thời những sai sót của cán bộ, công chức trong quá trình tác nghiệp và áp dụng thống nhất, có hiệu quả các quy định pháp luật về THADS; pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo; pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực THADS.
Trong công tác chỉ đạo cần có biện pháp chỉ đạo phù hợp, quyết liệt để thúc đẩy quá trình giải quyết được nhanh chóng, dứt điểm, nhưng cũng tránh tình trạng để cấp dưới, CHV ỷ lại, dựa dẫm vào chỉ đạo của cấp trên, thiếu chủ động trong giải quyết công việc.
Trong quá trình triển khai, lên kế hoạch tổ chức thi hành những vụ việc đặc biệt phức tạp, cần tăng cường công tác tổ chức và nhân sự phụ trách việc tổ chức thi hành án. Trường hợp cần thiết có thể lập một hoặc một số bộ phận, nhóm phụ trách, chịu trách nhiệm chính; đầu mối phụ trách để đảm bảo sự hiệu quả, phối hợp thống nhất, liên tục và hiệu quả trong suốt quá trình thi hành án
Bảy là, tổng hợp, đúc rút bài học kinh nghiệm
Thông qua thực tiễn thi hành những vụ việc THADS diển hình, nhất là những vụ án lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, CHV nói riêng và cơ quan THADS nói chung có thể có những kinh nghiệm hết sức quý báu trong quá trình tổ chức thi hành án, nhận thức được rõ ràng những vướng mắc pháp luật và định hướng giải quyết, tháo gỡ. Trên cơ sở đó, có thể tổng hợp, tổng kết, phân tích, khái quát, đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành án, tổ chức bộ máy cơ quan THADS, hoàn thiện thể chế.
Tổ chức THADS trong những vụ việc phức tạp, đông người, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành hoặc có yếu tố nước ngoài là một nhiệm vụ khó khăn của ngành THADS. Thực tiễn thi hành những năm qua cho thấy một số vụ việc điển hình đã được tổ chức thi hành khá tốt, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, góp phần giữ vững an ninh kinh tế - chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình tổ chức THADS trong những vụ việc phức tạp, đông người, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành cũng đã bộc lộ không ít hạn chế, thiếu sót của hệ thống pháp luật và hệ thống bộ máy nhà nước. Dự báo trong thời gian tới, với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, sẽ xuất hiện không ít vụ việc có nhiều yếu tố phức tạp, mới mẻ. Chính vì vậy, cần phải rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc từ những gì đã làm được và chưa làm được để nâng cao hơn nữa chất lượng tổ chức THADS nói chung và tổ chức THADS trong các vụ việc phức tạp, đông người, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành nói riêng.
3.6.2. Một số bài học kinh nghiệm cụ thể rút ra từ việc thi hành các vụ việc thi hành án dân sự điển hình
3.6.2.1. Bài học kinh nghiệm từ thực tiễn thi hành vụ Epco-MP
Có thể nói rằng, vụ việc THADS điển hình, nhất là các vụ án lớn, phức tạp, giúp chúng ta rút ra nhiều bài học kinh nghiệm từ nhiều phương diện, đặc biệt việc thi hành vụ án Epco-MP là vụ việc THADS điển hình đầu tiên đã được Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS tổ chức tổng kết vào ngày 09/9/2011 sau quá trình 11 năm tổ chức thi hành quyết liệt. Từ kết quả hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành án phần tài sản vụ án Epco-MP đã cung cấp nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc bảo đảm hiệu lực chỉ đạo thống nhất cao của Chính phủ từ Trung ương xuống địa phương, sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành hữu quan trong việc tổ chức thi hành án, đặc biệt đối với các vụ án lớn, án trọng điểm liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành và nhiều địa phương; muốn giải quyết đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi của các bên thì không thể để tình trạng các địa phương tự giải quyết mà cần phải có cơ chế giải quyết bằng việc chỉ đạo liên ngành từ Trung ương. Cũng từ nhận thức này mà năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 11/9/2001 về việc tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác THADS, giao Bộ Tư pháp phối hợp với TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an và các cơ quan có liên quan tổ chức giao ban, rút kinh nghiệm và có kế hoạch kiểm tra liên ngành về công tác thi hành án trong toàn quốc.
Từ kết quả đã nêu trên, có thể nói các giải pháp của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo trong quá trình thi hành án thời gian qua là nhân tố quyết định bảo đảm hiệu quả thi hành phần tài sản vụ án Epco-MP. Đây cũng là cơ sở để hình thành quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP sau này, đó là: “Trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự để chỉ đạo đối với các việc thi hành án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương...”.
Từ kinh nghiệm thành lập Ban chỉ đạo thi hành vụ Epco-MP, rút ra một số bài học kinh nghiệm lớn trước khi tổ chức thi hành vụ việc THADS điển hình như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu đề xuất thành lập Ban chỉ đạo thi hành án Trung ương đối với các vụ việc THADS có tính chất điển hình.
- Thành lập Ban chỉ đạo ̣̣̣trong những vụ việc thực sự đặc biệt và cần thiết phải có Ban chỉ đạo để đảm bảo thống nhất, tập trung trong chỉ đạo thi hành án giữa các Bộ, ngành, từ Trung ương đến địa phương. Đồng thời, cần phải phân công phân nhiệm hợp lý, cụ thể, đảm bảo Ban chỉ đạo không làm thay, làm hộ mà chỉ chịu trách nhiệm chỉ đạo, định hướng chung, giải quyết những vấn đề khó khăn, phức tạp; đồng thời nâng cao tính chủ động và chịu trách nhiệm của các cơ quan hữu quan có liên quan trong việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
- Việc lựa chọn các thành viên của Ban chỉ đạo phải trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ có liên quan chặt chẽ đến quá trình giải quyết việc thi hành án.
- Ban chỉ đạo phải có Quy chế quy định cụ thể về quyền hạn và nghĩa vụ của các thành viên, việc bổ sung, thay đổi thành viên, chế độ hội họp, trao đổi thông tin, lấy ý kiến và đưa ra quyết định.
- Ban chỉ đạo phải có cơ quan thường trực (Tổ Thư ký) và bộ phận giúp việc hiệu quả, giữ vai trò đầu mối thông tin, triệu tập và chủ tọa các cuộc họp; điều hòa, phối hợp hoạt động của các thành viên Ban chỉ đạo; đôn đốc, kiểm tra, giám sát và báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao của các thành viên Ban chỉ đạo và của Ban chỉ đạo.
Thứ hai, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử và các chính sách, giải pháp mà Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện trong quá trình thi hành phần tài sản vụ án Epco-MP và các vụ án khác là cơ sở để các bộ, ngành hữu quan kịp thời nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về dân sự, kinh doanh-thương mại, tài chính-tín dụng, đất đai và tố tụng v.v.[24]
Thứ ba, quá trình xử lý vụ án Epco-MP có thể đúc rút nhiều bài học kinh nghiệm về quản lý cũng như đường lối xử lý các vụ án lớn, điển hình. Trên cơ sở đó, các cơ quan tư pháp đã kịp thời rút kinh nghiệm trong việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tương tự sau này.
Đối với các cơ quan THADS, việc tổ chức thi hành phần tài sản trong vụ án Epco-MP cũng rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm đối với lãnh đạo cơ quan THADS trong công tác chỉ đạo, điều hành, kiểm tra việc thực hiện; phải đảm bảo thực hiện đúng các quy trình, thủ tục theo quy định của pháp luật trong tổ chức thi hành án, trường hợp có vướng mắc, khó khăn phải kịp thời báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của cấp có thẩm quyền; tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức hữu quan trong quá trình thi hành án; kịp thời giải quyết những thắc mắc, khiếu nại của đương sự; đây cũng là bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý tiền tệ của hệ thống ngân hàng và công tác quản lý bất động sản.
Đối với những vụ việc lớn, phức tạp tương tự, Tổng cục THADS cần tham gia ngay từ đầu để kịp thời chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn cho Cục THADS; đối với các Cục THADS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng phải tham gia ngay từ đầu đối vụ việc lớn, phức tạp của cấp Chi cục để tháo gỡ khó khăn cho các Chi cục.
3.6.2.2. Một số bài học kinh nghiệm cụ thể rút ra từ việc thi hành các vụ việc thi hành án dân sự điển hình tuy giá trị tiền, tài sản không lớn nhưng quá trình thi hành có nhiều sai sót, dẫn đến khiếu nại, tố cáo gay gắt kéo dài
Bên cạnh những vụ việc THADS điển hinh là những vụ án lớn, phức tạp nêu trên, còn có việc THADS tuy giá trị tiền, tài sản không lớn nhưng quá trình thi hành án có nhiều vi phạm, sai sót dẫn đến khiếu nại, tố cáo gay gắt, kéo dài, có việc trên 20 năm chưa giải quyết xong, ví dụ: vụ bà Phùng Thị T (Hải Phòng), vụ bà T-C (Nghệ An), vụ bà Trần Thị X (Quảng Ngãi) đã được phân tích ở Chương 2, phần này sẽ tổng hợp những bài học kinh nghiệm được rút ra từ các vụ việc THADS đó.
Khác với các vụ việc THADS điển hình là các vụ án lớn, phức tạp, có thể được lựa chọn một cách chủ động ngay từ đầu, thì đây là những việc thi hành án chỉ được đúc rút kinh nghiệm sau khi đã thi hành xong. Đó là những việc tuy giá trị tiền, tài sản phải thi hành không lớn nhưng trong quá trình xét xử, thi hành án có những vi phạm, sai sót, nhất là về trình tự, thủ tục thông báo, kê biên, định giá, bán đấu giá, cưỡng chế giao tài sản… Hơn nữa, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo lại không kịp thời, dứt điểm, đúng quy định pháp luật, dẫn đến khiếu nại bức xúc, kéo dài hàng chục năm (vụ bà X hơn 10 năm, vụ bà T, vụ bà T-C hơn 20 năm). Có thể coi đây cũng là những việc THADS điển hình để rút kinh nghiệm cho các cơ quan thi hành án, CHV tránh được nhưng sai phạm tương tự.
a) Bài học về những sai sót, vi phạm thường xảy ra trong các việc thi hành án dân sự khiếu nại phức tạp, bức xúc, kéo dài
- Về việc thụ lý, ra các quyết định thi hành án:
+ Quyết định thi hành án không đủ căn cứ, hoặc sai căn cứ (thiếu bản án, trích dẫn sai bản án...); quyết định thi hành án khi hết thời hiệu yêu cầu thi hành án; chậm ra quyết định thi hành án (có trường hợp chậm nhiều tháng, hàng năm) hoặc ra quyết định thi hành án khi BA, QĐ chưa có hiệu lực pháp luật...
+ Ngoài ra, còn có những sai sót khác như ra quyết định thi hành án chưa đúng, đủ nội dung quyết định của bản án, thiếu thời gian tự nguyện thi hành án, thiếu phần lãi suất chậm thi hành theo bản án đã tuyên hoặc thừa phần lãi suất chậm thi hành án (không có trong yêu cầu thi hành án).
Hậu quả có trường hợp bị xem xét trách nhiệm hành chính, bồi thường Nhà nước, thậm chí còn bị xem xét trách nhiệm hình sự...
- Về việc thông báo, tống đạt các văn bản, quyết định về thi hành án:
CHV không thông báo cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan các văn bản, quyết định về thi hành án. Điều này khiến các đương sự không biết nghĩa vụ mình phải thực hiện; không biết được quyền lợi của mình để bảo vệ, không biết để thực hiện quyền được khiếu nại đối với các quyết định và có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của người được thi hành án, người phải thi hành án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tiếc rằng đây lại là vi phạm rất phổ biến, nhất là giai đoạn trước khi có Luật THADS, có thể dẫn đến việc phải hủy kết quả kê biên, đấu giá tài sản...
Ví dụ, Thông báo này đã được niêm yết tại trụ sở UBND thị trấn ĐL (qua bản giải trình của CHV có xác nhận của Chủ tịch UBND thị trấn) và đã chuyển thông báo cho Đài phát thanh và truyền hình huyện ĐL để thực hiện thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, Đài phát thanh và truyền hình huyện ĐL không thực hiện việc thông báo và Chi cục THADS huyện ĐL không đôn đốc, kiểm tra.
Vụ bà Phùng Thị T, CHV đã vi phạm quy định của pháp luật về thông báo, niêm yết theo quy định tại khoản 1 Điều 11, khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 16 của Quy chế bán đấu giá tài sản ban hành kèm theo Nghị định số 86/CP ngày 19/12/1996 của Chính phủ về niêm yết bán đấu giá, thông báo công khai và thủ tục tiến hành bán đấu giá, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người phải thi hành án.
Có trường hợp CHV không giao Thông báo bán đấu giá tài sản cho người phải thi hành án mà chỉ đưa cho trưởng khu phố, song trưởng khu phố không giao cho người phải thi hành án, sau khi bán đấu giá thành người phải thi hành án khiếu nại không được thông báo về bán đấu giá để thực hiện quyền chuộc lại tài sản trước thời điểm bán đấu giá tài sản.
- Về việc xác minh điều kiện thi hành án:
+ CHV vi phạm về thời hạn xác minh điều kiện thi hành án, chậm nhiều tháng, nhiều năm, cá biệt có trường hợp chậm cả chục năm chưa xác minh dẫn đến việc đương sự tẩu tán tài sản. Về nội dung xác minh, nhiều trường hợp nội dung còn chung chung chưa rõ ràng, chưa đầy đủ, chưa chính xác, chưa phản ánh được điều kiện thi hành án của đương sự;
+ Không tiến hành xác minh tài sản của người phải thi hành án trước khi kê biên nên đã kê biên cả tài sản chung, gây thiệt hại cho người phải thi hành án;
+ Không tiến hành xác minh hiện trạng sử dụng đất, làm rõ về quyền sở hữu đất, không làm việc với các cơ quan tổ chức để làm rõ nguồn gốc đất.
- Về việc chậm kê biên; sai sót trong xác định tài sản để kê biên; xác định phần tài sản để kê biên
+ Không thông báo các văn bản về cưỡng chế cho các bên đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; không niêm yết thông báo cưỡng chế. Người phải thi hành án có điều kiện, có tài sản để thi hành án nhưng CHV chậm kê biên, xử lý tài sản;
+ Kê biên tài sản chung của người phải thi hành án với người khác nhưng không thông báo hoặc hướng dẫn cho người có tài sản chung khởi kiện ra TA để phân chia tài sản hoặc không kê biên tài sản chung của người phải thi hành án với người khác;
+ Không thông báo cho người được thi hành án để yêu cầu TA xác định phần tài sản thuộc sở hữu chung, mà thực hiện ngay việc kê biên và đưa ra định giá, tổ chức bán đấu giá làm ảnh hưởng quyền lợi của những người có chung quyền sử dụng đất nên họ không đồng ý giao tài sản cho người mua;
+ Kê biên giá trị tài sản vượt quá nghĩa vụ thi hàn án, mặc dù tài sản tách biệt hoặc có thể phân chia được (kê biên cả hai căn nhà của vợ chồng bà T là vượt quá nghĩa vụ thi hành án (số tiền phải thi hành của bà T chỉ là 138.098.000 đồng nhưng Chi cục THADS huyện ĐL tiến hành kê biên, định giá cả hai ngôi nhà ở của gia đình bà T có giá trị 427.950.000 đồng), vi phạm khoản 3 Điều 29 Pháp lệnh THADS năm 1993, khoản 2 Điều 15 Nghị định số 69/CP ngày 18/10/1993 của Chính phủ quy định về thủ tục THADS. Tuy nhiên, sau đó CHV chỉ xử lý một căn nhà nên chưa gây ra hậu quả.
+ Xác định không chính xác diện tích đất thuộc quyền sử dụng của người phải thi hành án, ví dụ, gia đình ông P, bà X, diện tích khai thác sử dụng của bà X là 337m2, diện tích được công nhận là 157m2, 180m2 đất lấn chiếm của HTX, các cơ quan hữu quan ở địa phương (cơ quan thi hành án, địa chính, công nghiệp) khi tiến hành cưỡng chế đo đạc lại xác định 271m2. Sau khi bán đấu giá thành, khi làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, sử dụng cho người mua, thì Đội thi hành án lại đề nghị cho chuyển toàn bộ 337m2 cho người mua nhà, do vậy hiện việc chuyển dịch đăng ký sở hữu, sử dụng chưa thực hiện được. Việc xác định không đúng diện tích nhà, đất khi cưỡng chế cơ quan thi hành án phải chịu trách nhiệm, tuy nhiên, việc xem xét có cho phép người mua tài sản được sử dụng toàn bộ diện tích hay không thuộc thẩm quyền của UBND địa phương.
+ Việc kê biên các đồ dùng thông thường ngoài nhà ở (giường, bàn ghế) là không cần thiết (vì giá trị không đáng kể) và không đúng với quy định của pháp lệnh THADS. Tuy nhiên, trên thực tế, cơ quan vẫn kê biên những tài sản này nhưng không xử lý nên các tài sản này mà vẫn đang bảo quản, vừa vi phạm quy định của pháp luật về tài sản không được kê biên vừa lãng phí thời gian, công sức cho cơ quan THADS.
Ngoài ra, còn có các sai phạm cũng khá phổ biến như: ra quyết định cưỡng chế khi đương sự chưa hết thời hạn tự nguyện thi hành án; ra quyết định cưỡng chế kê biên tài sản nhưng không kê biên trên thực tế; không tiến hành lập biên bản kê biên tài sản của người phải thi hành án theo quy định mà đã tổ chức thẩm định giá và bán đấu giá tài sản; không tổ chức thi hành án (dừng xử lý tài sản đã kê biên, tài sản bảo đảm) khi người phải thi hành án ốm hoặc điều trị các triệu chứng rối loạn tâm thần), vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 48; khoản 1 Điều 14 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP; không lập biên bản giao bảo quản tài sản kê biên...
- Về thủ tục thẩm định giá, ký hợp đồng bán đấu giá
+ Trước khi đưa ra Hội đồng định giá để tiến hành định giá tài sản không mời hai bên đương sự để các bên tự thỏa thuận với nhau về giá. Biên bản định giá tài sản kê biên rất sơ sài, không cụ thể, chi tiết các nội dung cần định giá. Hội đồng định giá áp dụng giá không đúng theo Quyết định số 208/QĐ/UB ngày 11/02/1998 của UBND thành phố HP. Tuy nhiên, tại thời điểm đó pháp luật về THADS không quy định việc định giá phải theo giá thị trường; thực tiễn thi hành án tại giai đoạn đó rất nhiều nơi định giá thấp hơn giá quy định của UBND, vì vậy mà ngày 26/6/2001, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 161/TP-THA gửi Phòng THADS các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo thống nhất việc định giá tài sản thi hành án (vụ bà Phùng Thị T).
+ Không tổ chức cho các đương sự tự thỏa thuận trước khi ký hợp đồng thẩm định giá, bán đấu giá tài sản; chậm tổ chức bán đấu giá hoặc ký hợp đồng thẩm định giá, bán đấu giá.
+ Lựa chọn tổ chức thẩm định giá năng lực thấp; ký hợp đồng thẩm định giá với tổ chức thẩm định giá không có giấy phép hoạt động tại địa bàn có tài sản (vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 98 Luật Thi hành án dân sự); doanh nghiệp không có giấy phép thẩm định giá...
- Về thủ tục bán đấu giá
+ Không niêm yết thông báo bán đấu giá, vi phạm thời hạn bán đấu giá (vụ bà T-C);
+ CHV căn cứ lý do người phải thi hành án không đồng ý bán tài sản đã được đưa ra bán đấu giá sau khi tài sản giảm giá lần thứ 3 để quyết định không bán tài sản cho người tham gia bán đấu giá;
+ Không sát sao, quan tâm việc thực hiện quy trình bán đấu giá của tổ chức bán đấu giá như thông báo bán đấu giá, niêm yết công khai, bán hồ sơ... dẫn đến tình trạng nhiều trường hợp bán đấu giá thành nhưng người phải thi hành án khiếu nại về thủ tục thông báo hoặc có khiếu nại về việc đến mua hồ sơ nhưng tổ chức bán đấu giá đóng cửa.. dẫn đến việc không thể giao tài sản cho người mua trúng đấu giá...;
+ Không thực hiện giảm giá theo quy định về bán đấu giá để bán được tài sản đã kê biên;
+ Để cho người phải thi hành án tự bán tài sản kê biên dẫn đến khi bán được tài sản nhưng không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thi hành án (Chi cục THADS Tp ĐL, LĐ).
+ Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định “Người mua được tài sản bán đấu giá phải nộp tiền vào tài khoản của cơ quan Thi hành án dân sự”, tuy nhiên, hợp đồng mẫu vẫn ghi là nộp tiền tại tổ chức bán đấu giá. Điều này dẫn đến nhiều trường hợp cơ quan bán đấu giá đã thu tiền mua tài sản nhưng không chuyển cho cơ quan THADS dẫn đến nguy cơ cơ quan THADS phải bồi thường hàng chục tỷ đồng (Vụ ở Chi cục THADS huyện BB, tỉnh BD)...
+ Theo biên bản định giá ngày 22/6/1996, trị giá tài sản kê biên là 129 triệu đồng, nhưng khi tổ chức bán đấu giá, Hội đồng bán đấu giá tài sản lại công bố giá bán tối thiểu là 140 triệu đồng. Một trong hai người tham gia đấu giá đã rút vì cho là giá quá cao, nhưng Hội đồng bán đấu giá vẫn quyết định bán cho bà Xi với giá 140 triệu đồng.
+ Sau khi mua được nhà bà Xi nộp 70 triệu, nhưng 08 tháng sau mới nộp tiếp 70 triệu đồng.
+ Trong 04 lần tổ chức cưỡng chế, có lần cưỡng chế thứ 3 là cơ quan THADS có sai sót là chưa bố trí chỗ ở cho gia đình người phải thi hành án mà vẫn tổ chức cưỡng chế nhưng liền sau đó ngày 14/8/1997, gia đình ông P, bà X phá niêm phong, chuyển tài sản trở lại và tiếp tục ở tại nhà đã cưỡng chế.
- Về thủ tục giao tài sản
+ Chưa giao được tài sản cho đương sự, nhưng tiền thu được từ bán đấu giá không gửi tiết kiệm hoặc gửi ngân hàng theo quy định (vụ bà T, vụ bà Phùng Thị T...);
+ Chậm giao tài sản cho người mua trúng đấu giá tại một số cơ quan THA DS gây thiệt hại cho người mua trúng đấu giá;
+ Tài sản thế chấp được bán đấu giá thành từ 2014, người mua tài sản là ngân hàng; tuy nhiên, CHV không thực hiện giao vì không thống nhất trong việc tính lãi dẫn đến việc ngân hàng khiếu nại yêu cầu bồi thường (Bà Rịa-Vũng Tàu).
- Về giải quyết khiếu nại, tố cáo
+ Chưa thực hiện đúng, đầy đủ các trình tự, thủ tục giải quyết theo quy định của pháp luật như: Không nghiên cứu đầy đủ, toàn diện hồ sơ thi hành án và các tài liệu có liên quan; không tổ chức xác minh, đối thoại hoặc trưng cầu giám định khi cần thiết dẫn đến kết quả giải quyết khiếu nại không khách quan, chưa đúng pháp luật. Hồ sơ thi hành án thể hiện việc giải quyết khiếu nại chưa theo đúng các quy định của pháp luật cả về thẩm quyền cũng như nội dung giải quyết khiếu nại, chậm giải quyết khiếu nại, tố cáo; giải quyết khiếu nại không đúng thẩm quyền. Không ra quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo mà ban hành công văn giải quyết khiếu nại, tố cáo.
+ Có biểu hiện ngại tiếp công dân, ngại đối thoại với công dân, không tiếp công dân theo định kỳ; một số cán bộ tiếp công dân chưa tận tình giải thích, hướng dẫn cho công dân hiểu về pháp luật THADS; có thái độ hách dịch, cửa quyền đối với công dân đến khiếu nại, tố cáo, phản ánh nên công dân bức xúc, tiếp tục khiếu nại, tố cáo vượt cấp, kéo dài.
+ Không ra thông báo thụ lý đối với đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết. Thụ lý giải quyết khiếu nại khi đã hết thời hiệu khiếu nại; thụ lý giải quyết đối với khiếu nại của người không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án.
+ Quyết định giải quyết khiếu nại không xác định việc bồi thường thiệt hại, biện pháp khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi trái pháp luật gây ra, hoặc ngược lại, xác định luôn trách nhiệm bồi thường của cá nhân có sai phạm trong quyết định giải quyết khiếu nại.
+ Thủ trưởng một số cơ quan THADS còn có biểu hiện bao che cho những sai phạm của cán bộ, CHV và công chức trong quá trình tổ chức thi hành án dẫn đến tình trạng công dân bức xúc, khiếu nại, tố cáo gay gắt, kéo dài, vượt cấp.
+ Áp dụng pháp luật để giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi đã thực hiện trước khi văn bản pháp luật đó có hiệu lực. Ra quyết định giải quyết khiếu nại lần hai đối với khiếu nại kết luận nội dung tố cáo của cơ quan THADS cấp dưới...
- Về thu, chi tiền thi hành án
Hồ sơ thi hành án không lưu đầy đủ các chứng từ thu, chi, bản sao giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước qua xem xét hồ sơ thi hành án cũng cho thấy có nhiều vi phạm về thu, chi thi hành án.
- Tình trạng tiêu cực, nhũng nhiễu trong thi hành án
+ Hiện tượng tiêu cực, nhũng nhiễu trong THADS vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ cùng với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra ở nhiều khâu của quá trình thi hành án.
+ Vi phạm ngày càng tăng nặng về mức độ, nguy hiểm về tính chất (hàng tỷ đồng), bị xử lý hình sự.
b) Những bài học kinh nghiệm rút ra từ những vụ việc thi hành án có khiếu nại phức tạp, bức xúc, kéo dài
Một là, những vụ việc THADS có khiếu nại phức tạp, bức xúc, kéo dài có nguyên nhân trực tiếp từ những sai sót, vi phạm của cơ quan THADS, CHV trong việc thực hiện trình tự, thủ tục THADS như đã nêu ở phần trên. Do đó, điều căn bản đầu tiên là cơ quan THADS và CHV cần tuân thủ đúng và đầy đủ quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, từ các khâu: tiếp nhận bản án, yêu cầu thi hành án; ra quyết định thi hành án; thông báo thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án; giải thích, thuyết phục tự nguyện, thỏa thuận thi hành án; kê biên, định giá tài sản, bán đấu giá tài sản; giao tài sản thi hành án … không coi nhẹ bất cứ khâu nào trong quá trình thi hành án. Khắc phục cho được tình trạng coi nhẹ việc thông báo thi hành án, chỉ làm qua loa, chiếu lệ; không quan tâm đầy đủ đến quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; xác minh không đầy đủ, chính xác; vi phạm trong kê biên, định giá, bán đấu giá tài sản …
Bên cạnh đó cũng cần phải có quan điểm lịch sử, cụ thể, toàn diện, khách quan khi xem xét, đánh giá các quyết định, hành vi mà Thủ trưởng cơ quan THADS, CHV đã ban hành hoặc thực hiện. Phải căn cứ vào các văn bản pháp luật có hiệu lực ở thời điểm sự việc diễn ra để xem xét, chứ không phải đối chiếu với quy định pháp luật hiện hành để làm căn cứ xử lý vụ việc. Ví dụ, thời điểm thi hành án vụ bà T-C hay vụ bà Phùng Thị T chưa có quy định về việc định giá tài sản phải theo giá thị trường nên không thể căn cứ quy định hiện hành để quy kết CHV vi phạm vì đã định giá thấp, không theo giá thị trường. Hoặc trong vụ bà Trần Thị X có sự đánh giá không thống nhất giữa cơ quan giám sát (Uỷ ban Pháp luật Quốc hội) và cơ quan chuyên môn (Cục Quản lý THADS và cơ quan THADS) về cơ sở, sự cần thiết hay không cần thiết kê biên, xử lý toàn bộ tài sản (nhà, đất) của người phải thi hành án; hoặc vụ Hornsby, TA nhân quyền châu Âu đã khẳng định từ ngày 9, 10/5/1989, (khi TA Hành chính Tối cao đưa ra phán quyết về khiếu nại của ông bà Hornsby) cho đến khi Sắc lệnh số 211/1994 của Tổng thống được thông qua (ngày 10/8/1994), trong thời gian này luật pháp HL có hiệu lực không đặt ra điều kiện cụ thể nào đối với công dân của các quốc gia thành viên cộng đồng châu Âu muốn mở cơ sở dạy học tư ở HL. Sắc lệnh số 211/1994 của Tổng thống công nhận quyền của công dân của các quốc gia thành viên của cộng đồng châu Âu được thành lập trường học tư thục ở HL. Tuy nhiên, những người không có chứng chỉ tốt nghiệp trung học tiếng HL phải vượt qua kỳ thi về lịch sử và ngôn ngữ HL. Đây là những quy định mới mà tại thời điểm ông bà Hornsby yêu cầu mở trường dạy tiếng Anh, pháp luật HL chưa quy định. Do đó, TA nhân quyền châu Âu cho rằng sự viện dẫn của Chính phủ HL về các quy định mới để từ chối cho phép ông bà Hornsby mở trường là không phù hợp.
Hai là, một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thi hành án bị khiếu nại phức tạp, bức xúc, kéo dài nêu trên chính là do có thiếu sót, vi phạm, ý thức trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan THADS, CHV trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo không được thực hiện dứt điểm ngay tại cơ sở, để đương sự khiếu nại kéo dài, khiếu nại vượt cấp, thậm chí nhiều lần chặn xe lãnh đạo Bộ, lãnh đạo Đảng, Nhà nước (vụ bà Phùng Thị T: Bộ trưởng Bộ tư pháp và Bí thư Thành ủy HP phải nhiều lần trao đổi, họp giải quyết; vụ bà T phải báo cáo và có ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ; vụ bà Trần Thị X là vụ đầu tiên phải báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và có Kết luận của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc này…). Do đó, các cơ quan THADS, CHV cần chú trọng công tác tiếp dân; lắng nghe đương sự, người khiếu nại, tố cáo; giải thích pháp luật cặn kẽ, phải công tâm, khách quan; không nể nang hoặc bao che sai phạm của CHV hoặc cơ quan THADS cấp dưới với phương châm phấn đấu giải quyết khiếu nại, tố cáo dứt điểm ngay từ cơ sở, hạn chế thấp nhất tình trạng khiếu nại phức tạp, bức xúc, kéo dài, khiếu nại vượt cấp.
Tuy nhiên, cần thấy rằng: việc chỉ đạo quyết liệt, sát sao của cấp trên là cần thiết, giúp cho việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được thuận lợi, nhanh chóng, hiệu quả, nhưng bên cạnh đó cũng có thể gây ra hiệu ứng không mong đợi. Đó là thay vì chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc cấp dưới thực hiện thì cấp trên lại trực tiếp giải quyết vụ việc, làm phá vỡ nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo khiến cơ quan THADS cấp dưới, CHV gặp bị động, lúng túng trong việc thực hiện.
Ba là, quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo những vụ khiếu nại, tố cáo bức xúc, kéo dài, đặc biệt là các việc THADS điển hình nêu trên, có sự vào cuộc, chỉ đạo quyết liệt, sát sao của lãnh đạo Bộ Tư pháp, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương và sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, cơ quan hữu quan ở Trung ương và địa phương.
Bốn là, quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các việc THADS phức tạp, kéo dài cần có các giải pháp linh hoạt, đồng bộ, không máy móc cứng nhắc, pháp lý đơn thuần. Các phương án đưa ra phải có cơ sở pháp lý chặt chẽ, khả thi, lường hết cả mặt thuận lợi cũng như khó khăn.
Năm là, cần chủ động kiên trì phối hợp với cơ quan, tổ chức cá nhân hữu quan giáo dục, thuyết phục các bên đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (kể cả người mua được tài sản đấu giá) để họ chấp nhận các phương án thỏa thuận, khắc phục thiệt hại nhằm giải quyết dứt điểm việc khiếu nại, tố cáo.
Sáu là, về công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành:
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành tổ chức thi hành án phải có sự kiên trì, áp dụng triệt để các quy định của pháp luật liên ngành; sự phối hợp, vào cuộc của chính quyền địa phương; sự chỉ đạo quyết liệt của trung ương; quá trình tổ chức thi hành án và giải quyết khiếu nại phải có quan điểm lịch sử cụ thể, rõ ràng,...
- Đối với cơ quan quản lý nhà nước về THADS mà cụ thể là đối với Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS:
Tăng cường và nâng cao hiêu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất, kiểm tra toàn diện hoặc theo chuyên đề về tổ chức, hoạt động THADS, trong đó có công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Xây dựng chiến lược, dự báo, nắm bắt kịp thời, đầy đủ các thông tin về các vụ việc điển hình mà các cơ quan tố tụng đang điều tra, truy tố, xét xử để có kế hoạch bảo đảm thi hành án ngay sau khi BA, QĐ được xét xử và có hiệu lực pháp luật. Xây dựng giải pháp, biện pháp đồng bộ để khắc phục cơ bản những tồn tại, hạn chế, yếu kém, sai phạm trong toàn ngành.
- Đối với các cơ quan THADS:
+ Thủ trưởng cơ quan THADS cần tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về công thi hành án nói chung và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong THADS nói riêng. Tăng cường công tác kiểm tra, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm các vi phạm trong THADS (lỗi nhẹ thì bố trí công tác khác; vi phạm nghiêm trọng phải xử lý nghiêm); thực hiện công tác hậu kiểm việc thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo, kết luận kiểm tra của Tổng cục THADS, kết luận thanh tra của Thanh tra Bộ, kiến nghị, kháng nghị của VKSND các cấp đối với các việc THADS điển hình.
+ Thủ trưởng cơ quan THADS nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, chịu trách nhiệm và bị xử lý nếu có vi phạm hoặc để đơn vị có nhiều yếu kém, vi phạm trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; không chấp hành báo cáo về Tổng cục THADS đúng yêu cầu về nội dung, báo cáo không trung thực, không đảm bảo thời hạn.
+ Cục trưởng Cục THADS các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đáp ứng yêu cầu công tác trong tình hình hiện nay; Chỉ đạo công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo giải quyết dứt điểm, kịp thời các vụ việc có đơn thư khiếu nại, tố cáo theo yêu cầu, kiến nghị của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Ủy ban Tư pháp và các Đoàn Đại biểu Quốc hội, hạn chế đến mức thấp nhất các vụ việc đương sự đề nghị Lãnh đạo Bộ Tư pháp tiếp dân do vụ việc không được giải quyết thỏa đáng; Thủ trưởng cơ quan THADS phải trực tiếp tiếp dân, hạn chế việc ủy quyền cho cấp dưới; Phối hợp với các cơ quan, ban ngành Trung ương, địa phương thống nhất hướng giải quyết những vụ việc có khó khăn, vướng mắc; Kịp thời báo cáo Ban chỉ đạo thi hành án, đề nghị cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm, chỉ đạo phát huy sức mạnh tổng hợp của Hệ thống chính trị ở địa phương trong giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài; Báo cáo xin ý kiến chỉ đạo nghiệp vụ của Tổng cục THADS những vụ việc có vướng mắc về nghiệp vụ thi hành án; Tăng cường tuyên truyền phổ biến pháp luật nói chung và pháp luật về THADS nói riêng để người dân hiểu và chấp hành pháp luật.
+ Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong THADS. Tăng cường kỷ cương hành chính, kỷ luật công vụ trong nội bộ Ngành THADS về công tác quản lý giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nghiên cứu quy định cụ thể hơn về chế độ quản lý cán bộ của Ngành THADS và cơ chế xử lý kiên quyết đối với những trường hợp cố tình vi phạm pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đồng thời, động viên khuyến khích, khen thưởng kịp thời đối với những cơ quan, cá nhân thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong THADS; nhân rộng những cách làm hay, sáng tạo để áp dụng chung. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý giải quyết khiếu nại, tố cáo phù hợp với chủ trương cải cách hành chính.
+ Tăng cường công tác phối hợp trong giải quyết khiếu nại, tố cáo trong THADS. Thực tế cho thấy, để giải quyết dứt điểm, thấu tình, đạt lý một số vụ khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài trong thời gian qua luôn cần phải có sự phối hợp giải quyết của nhiều ban, ngành, đoàn thể. Trong thời gian tới, vấn đề tăng cường sự phối hợp liên ngành trong quá trình giải quyết khiếu nại là một giải pháp quan trọng và rất cần thiết. Trong mối quan hệ phối hợp ấy, các cơ quan THADS phải giữ vai trò chủ động. Về lâu dài cần phải nghiên cứu xây dựng các Quy chế phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan, ban ngành, đoàn thể theo cấp hành chính trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài.
3.6.2.3. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ việc thi hành vụ việc điển hình liên quan đến thi hành án về hôn nhân và gia đình; kinh doanh, thương mại; việc thi hành án dân sự; thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự và thi hành bản án, quyết định ở nước ngoài
Từ kết quả phân tích các vụ việc THADS điển hình thuộc các lĩnh vực THADS tại các mục 2.5, 2.6, 2.7, 2.8 và 2.9 Chương 2, phần này sẽ là tổng hợp các bài học kinh nghiệm đúc rút ra từ thực tiễn thi hành các vụ việc THADS điển hình đó, cụ thể:
Một là, bài học kinh nghiệm rút ra từ vụ việc thi hành án điển hình trong thi hành các bản án, quyết định về hôn nhân-gia đình
Từ kết quả phân tích vụ việc THADS điển hình liên quan đến án HN&GĐ ở mục 2.5 Chương 2 cho thấy, về nguyên tắc, cơ quan THADS phải tổ chức thi hành theo đúng nội dung BA, QĐ đã có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, việc nghiên cứu bản án để xác định người được thi hành án, người phải thi hành án, khoản phải thi hành án trong vụ án tranh chấp HN&GĐ khi Tòa xác định công nợ chung của vợ chồng để từ đó xác định trách nhiệm trả nợ của anh N, chị T đối với Ngân hàng. Tại thời điểm thụ lý, giải quyết vụ án, Ngân hàng không có đơn khởi kiện yêu cầu độc lập đối với anh N, chị T đối với khoản vay này theo quy định tại Điều 61 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bản án không tuyên ngân hàng có quyền yêu cầu thi hành án và không tuyên ngân hàng phải chịu án phí, do đó khi nhận được đơn đề nghị yêu cầu thi hành án của ngân hàng, cơ quan THADS phải nghiên cứu các quy định của pháp luật liên quan, nghiên cứu bản án, nghiên cứu quy định của pháp luật THADS, Bộ luật Tố tụng dân sự để xác định người phải thi hành án, người được thi hành án, khoản nghĩa vụ phải thi hành án trong trường hợp cụ thể này để từ đó ra quyết định thi hành án theo đúng quy định của pháp luật. Trường hợp thấy bản án tuyên nội dung khoản nghĩa vụ của anh N với ngân hàng chưa thật sự rõ ràng và chính xác dẫn đến cách hiểu khác nhau thì cần có văn bản đề nghị TA giải thích trước khi ra quyết định thi hành án.
Hai là, bài học kinh nghiệm rút ra từ vụ việc thi hành án dân sự điển hình liên quan đến án kinh doanh, thương mại, ngân hàng
Từ kết quả phân tích việc THADS điển hình liên quan đến án kinh doanh, thương mại, ngân hàng tại mục 2.6 Chương 2, có thể rút ra một số bài học sau đây:
- Tài sản thế chấp đã được TA tuyên xử lý để đảm bảo việc thi hành án, cơ quan THADS đã xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo việc thi hành án theo đúng nôi dung án tuyên nếu quá trình tổ chức đấu giá không có sai sót thì cơ quan THADS phải tổ chức giao tài sản cho người mua trúng đấu giá.
- Bên cạnh đó, khi vụ việc có vướng mắc, CHV, cơ quan THADS cần kịp thời báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên trước khi triển khai thực hiện để có thể tháo gỡ, tránh phát sinh những tình huống phức tạp.
Ba là, bài học kinh nghiệm rút ra từ việc tổ chức thi hành án mà người phải thi hành án chết, CHV thực hiện sai quy định về thông báo cho những người thừa kế liên quan đến vụ việc thi hành án dân sự điển hình
Từ tình huống thi hành án mà người phải thi hành án chết đã được phân tích tại mục 2.7 Chương 2, có thể rút ra một số bài học sau đây:
- Trong quá trình tổ chức thi hành vụ việc mà người phải thi hành án chết, CHV cần rà soát, nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các quy định pháp luật liên quan để đảm bảo việc áp dụng chính xác, không ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kế tài sản, đồng thời, đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ thi hành của người phải thi hành án;
- Đối với những vụ việc cần tiến hành mở khóa, mở gói để thực hiện kê biên tài sản mà đương sự chống đối, có nguy cơ ảnh hưởng đến trật tự xã hội, CHV phải chuẩn bị đầy đủ các biên bản, giấy tờ theo quy định, đồng thời cần kịp thời báo cáo Thủ trưởng cơ quan THADS để xem xét, báo cáo Ban Chỉ đạo THADS chỉ đạo có biện pháp giải quyết, tránh việc khiếu nại, tố cáo của đương sự.
Bốn là, bài học kinh nghiệm và đề xuất rút ra từ việc thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự
Từ kết quả phân tích vụ việc điển hình về thi hành phần dân sự trong BA, QĐ hình sự đã được phân tích tại mục 2.8 Chương 2, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:
- Nghiên cứu kỹ BA, QĐ, xác định đúng và đầy đủ các chủ thể tham gia vào quá trình tổ chức thi hành án;
- Xác định đúng khoản phải thi hành án, nghĩa vụ phải thi hành án của mỗi đương sự và tài sản thi hành án;
- Tuân thủ và áp dụng đúng các quy định pháp luật mang tính đặc thù;
- Hoàn thiện quy định về điều tra, xác minh, mở rộng thẩm quyền, phạm vi áp dụng các biện pháp xử lý tài sản của cơ quan tiến hành tố tụng;
- Phần dân sự trong BA, QĐ hình sự cần được tuyên rõ ràng cụ thể để đảm bảo tính khả thi;
- Pháp luật về thi hành án cần có những hướng dẫn cụ thể hơn về thủ tục thực hiện việc thỏa thuận thi hành án và xử lý tài sản đã được tuyên kê biên trong BA, QĐ hình sự.
Năm là, bài học kinh nghiệm rút ra từ kết quả thi hành vụ việc Hornsby
Kết quả thi hành bản án hành chính trong vụ Hornsby v. Greece có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm hay đối với Việt Nam trong công tác thi hành án, đó là:
- Trước khi giải quyết vụ việc có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là đối với công dân các nước trong khối mà Việt Nam có quan hệ gần gũi, ràng buộc chặt chẽ nhất, ví dụ trong khuôn khổ ASEAN, cần nghiên cứu các quy định của các điều ước quốc tế, quy định của khu vực có liên quan, trong đó Việt Nam là thành viên đã ký kết hoặc gia nhập công ước. Tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của quốc gia thành viên công ước quốc tế. Nghiên cứu các quy định pháp luật quốc tế để bảo vệ quyền lợi chính đáng của Chính phủ Việt Nam trước nguy cơ bị kiện bởi các quốc gia, công dân hoặc các tổ chức quốc tế trong các tranh chấp dân sự, hành chính, kinh tế, thương mại...
- Cải cách thủ tục hành chính, tập huấn, tuyên truyền nghĩa vụ pháp lý quốc tế cho các cơ quan hành chính, công chức nhà nước, bảo đảm sự am hiểu và áp dụng đúng các quy định của các điều ước quốc tế có liên quan khi giải quyết các công việc, yêu cầu có yếu tố nước ngoài.
- Cần nghiêm chỉnh chấp hành BA, QĐ của TA, đặc biệt là phán quyết của các TA có thẩm quyền xét xử cao nhất của Nhà nước, vì phán quyết của các TA này là hiện thân công lý của chế độ. Trong trường hợp vì những lý do khách quan khác nhau, hoặc có mâu thuẫn, xung đột pháp luật thì cần kịp thời trao đổi, tìm ra nguyên nhân, có giải pháp giải quyết nhanh chóng, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu bị xâm phạm và sớm khôi phục lại tình trạng ban đầu của những hành vi vi phạm theo phán quyết của cơ quan tài phán.
- Cần nghiên cứu thêm nhiều án lệ, tiền lệ về thi hành án có tính chất điển hình trên thế giới để củng cố, bổ sung kinh nghiệm thi hành các vụ việc có tính chất điển hình, phức tạp ở Việt Nam.
- Trên cơ sở tiền lệ vụ việc Honrsby v. Greece, Việt Nam cần rà soát lại tổng thể các quy định của pháp luật có liên quan về thời hạn thi hành, hiệu quả thi hành các BA, QĐ của các TA hành chính ở Việt Nam nhằm giải quyết dứt điểm các BA, QĐ hành chính dưới góc độ THADS và công tác đôn đốc, theo dõi THAHC nhằm đem lại niềm tin của nhân dân đối với chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
- Một trong những giải pháp để tăng cường thu hút đầu tư, đặc biệt là đối với đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đó là Việt Nam phải có hệ thống pháp luật thống nhất, ổn định, cơ chế thực thi hiệu quả. Do đó, Việt Nam cần nghiên cứu, kịp thời sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật trong nước còn mâu thuẫn, chưa phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên để giải quyết, xét xử các tranh chấp, thi hành nhanh chóng, hiệu quả các BA, QĐ của TA, đặc biệt là các tranh chấp có yếu tố nước ngoài liên quan đến vụ kiện dân sự, hành chính.
Kết luận
Đề tài “Nghiên cứu xây dựng hồ sơ vụ việc thi hành án dân sự điển hình trong công tác Thi hành án dân sự: Lý luận và Thực tiễn” là một công trình nghiên cứu hoàn toàn mới ở Việt Nam về các khía cạnh pháp lý cũng như thực tiễn liên quan đến việc THADS điển hình. Đề tài tiếp cận ban đầu từ góc độ lịch sử thông qua nghiên cứu các quy định của pháp luật về thi hành vụ việc THADS điển hình từ những năm 1993 (thời điểm chuyển giao công tác THADS từ TAND các cấp sang cơ quan thuộc Chính phủ do Bộ Tư pháp quản lý) và thực tiễn thi hành vụ việc THADS có tính chất điển hình từ thời điểm đó đến nay.
Sau gần 30 năm nhìn lại, nhiều vướng mắc, khó khăn từ thực tiễn công tác THADS và một số vi phạm quy trình, thủ tục THADS trong quá trình thi hành các vụ việc THADS điển hình vẫn còn lặp lại với các mức độ khác nhau ở các vụ việc tương tự khác; một số vướng mắc, bất cập, thiếu thống nhất từ các quy định của pháp luật vẫn còn tồn tại, chưa được sửa đổi, bổ sung; một số quy định của pháp luật hay chưa được thực hiện trên thực tế, ví dụ quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP về việc đề xuất Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban chỉ đạo THADS Trung ương; nhiều bài học kinh nghiệm quý, nhiều giải pháp hay từ thực tiễn công tác THADS chưa được tổng kết hoặc đã được tổng kết nhưng chưa tổng hợp, đúc rút thành những bài học kinh nghiệm quý để nhân rộng, áp dụng đối với các vụ việc khác về sau trong toàn hệ thống THADS. Do đó, kết quả nghiên cứu của đề tài rất có ý nghĩa và có nhiều đóng góp cho công tác THADS cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn.
Về lý luận, đề tài làm sáng tỏ khái niệm “Vụ việc Thi hành án dân sự điển hình”, phân tích đặc điểm, ý nghĩa và tiêu chí của vụ việc THADS điển hình; đề xuất cơ quan có thẩm quyền ban hành Bộ tiêu chí xác định vụ việc THADS điển hình; đề xuất ban hành quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng hồ sơ vụ việc THADS điển hình; đề xuất thành lập Ban chỉ đạo THADS Trung ương (ad hoc) để chỉ đạo thi hành vụ việc THADS điển hình; đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật THADS và các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành có liên quan đến công tác THADS.
Về thực tiễn, đề tài phân tích, đánh giá quá trình thi hành, kết quả thi hành 09 vụ việc THADS điển hình, từ đó đề xuất tiếp tục nghiên cứu để xây dựng thành các hồ sơ vụ việc THADS điển hình. Đây là những vụ việc THADS điển hình chứa đựng đồng thời nhiều tiêu chí, đặc điểm của vụ việc THADS điển hình, chứa đựng nhiều bài học kinh nghiệm hay, rất có ý nghĩa đối với công tác THADS. 09 vụ việc này cũng rất bổ ích cho công tác đào tạo, bồi dưỡng của các cơ sở đào tạo chuyên sâu nghiệp vụ THADS. Từ những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn thi hành vụ việc THADS điển hình, đề tài đề xuất bổ sung vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng thi hành vụ việc THADS điển hình ở Học viện Tư pháp; đề xuất bổ sung nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công tác THADS nói chung, thi hành vụ việc THADS điển hình nói riêng, ví dụ đề xuất tăng số lượng CHV, đặc biệt là tăng tỷ lệ CHV cao cấp đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của các vụ việc THADS điển hình.
Từ những hạn chế, bất cập, vướng mắc, khó khăn cũng như một số kết quả đạt được từ quá trình thi hành, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với 09 vụ việc THADS điển hình, đề tài đề xuất hệ các bài học kinh nghiệm quý (bài học kinh nghiệm chung và các nhóm bài học kinh nghiệm cụ thể) đối với cơ quan quản lý nhà nước và đối với CHV, cơ quan THADS trong thực tiễn tổ chức thi hành án trong thời gian tới./.
[1] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. CTQGST, H. 2021.
[2] Căn cứ theo loại BA, QĐ, theo Thông tư số 06/2019/TT-BTP ngày 21/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chế độ báo cáo thống kê THADS, theo dõi THAHC; việc thi hành án được phân loại thành 13 loại, bao gồm: (1) dân sự; (2) kinh doanh, thương mại; (3) tín dụng; (4) dân sự trong hình sự (tội phạm chức vụ); (5) dân sự trong hình sự (các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế); (6) dân sự trong hình sự (khác); (7) dân sự trong hành chính; (8) hôn nhân và gia đình; (9) lao động; (10) phá sản; (11) TTTM; (12) vụ việc cạnh tranh; (13) loại khác.
[3] Ví dụ, Mẫu số B: 01-THADS hoặc Mẫu số B: 01a-THADS (Ban hành theo Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp).
[4] Điều 137 Luật THADS.
[5] Tài liệu Hội nghị triển khai công tác THADS năm 2018 của Bộ Tư pháp ngày 25/11/2018.
[6] Biểu số 01/KT-THA ban hành kèm theo Thông tư số 06/2019/TT-BTP ngày 21/11/2019.
[8] Vụ án Trịnh Vĩnh B.: khoảng 2,6 triệu m2; 02 nhà xưởng; 11 căn nhà; 01 lô đất 2.400 m2; 120 héc-ta đất rừng được giao khoán bảo vệ, gây trồng rừng theo Chương trình 327 của Chính phủ được giao cho UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tỉnh Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh quản lý, xử lý theo thẩm quyền. Trịnh Vĩnh B. và các cá nhân có liên quan có nghĩa vụ nộp 567 lượng vàng 24k loại 96%; 1.005.000 USD, 6.450.000.000 đồng. Bản án còn tuyên tạm giữ một số loài tàn sản của Trịnh Vĩnh B. để đảm bảo thi hành án.
[9] VKSNDTC, Tài liệu Hội nghị “Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát THADS , hành chính năm 2017”, Nghệ An, tháng 7/2017, tr. 58-60.
[10] Ví dụ, vụ Epco - MP phải thi hành trên 4000 tỷ đồng, vụ Tân Trường S. phải thi hành trên 1000 tỷ đồng.
[11] Hương Bằng, “Chật vật“ với các bản án tuyên không rõ”; https://baophapluat.vn/tu-phap/chat-vat-voi-cac-ban-an-tuyen-khong-ro-353683.html; ngày đăng 19/11/2017 (truy cập ngày 01/11/2020).
[12] Ths. Chu Thành Quang & Phùng Thị Hoàn, tlđd, tr. 134.
[13] Nguyễn Bá Bình, Án lệ và sử dụng án lệ trong đào tạo luật ở Việt Nam hiện nay, NXB. Tư pháp, 2019, tr. 7, chú thích 1.
[14] Từ Điều 3 đến Điều 9 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP.
[15] Nguồn thu thập vụ việc: Hồ sơ hướng dẫn nghiệp vụ của Tổng cục THADS (Vụ Đào Quang N - Vĩnh Phúc).
[16] Nguồn thu thập vụ việc: Hồ sơ hướng dẫn nghiệp vụ của Tổng cục THADS (Vụ việc Công ty TNHH Minh Hà và Ngân hàng Agribank).
[17] Nguồn thu thập vụ việc: Hồ sơ hướng dẫn nghiệp vụ của Tổng cục THADS (Vụ Cao Cường - Hà Nội).
[18] Vụ Hornsby v. Greece, số bản án: 18357/91, Strasbourg, 19/3/1997.
[19] Treaty establishing the European Economic Community
[20] Treaty establishing the European Economic Community
[21] Lập ban chỉ đạo thi hành án vụ Vinashin như vụ EPCO Minh Phụnghttps://zingnews.vn/lap-ban-chi-dao-thi-hanh-an-vu-vinashin-nhu-vu-epco-minh-phung-post282722.html, đăng ngày 02/11/2012, tr.c 15/8/2022.
[22] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
[23] Các vụ gồm:
(1) Vụ án xảy ra tại Ngân hàng TMCP XD VN, Ngân hàng TMCP Sài Gòn TT, Ngân hàng TMCP TP, Ngân hàng TMCP ĐT và PT VN.
(2) Vụ án “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Ngân hàng NN VN.
(3) Vụ án “cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” liên quan đến hành vi của Phạm Thị Tr.
(4) Vụ án “vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” liên quan đến hành vi của nhóm Hội đồng tín dụng NH ĐT gồm Hoàng Văn T và các thành viên khác.
(5) Vụ án “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, “vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” xảy ra tại Ngân hàng TMCP ĐT liên quan đến hành vi của Hứa Thị Ph.
(6) Vụ án “vi phạm các quy định về xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Tổng công ty Cổ phần XNK XD VN.
(7) Vụ án “tham ô tài sản”, “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Công ty TNHH MTV đầu tư và phát triển NN HN.
(8) Vụ án “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Công ty cổ phần Tập đoàn đầu tư XD NĐ.
(9) Vụ án “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Công ty cho thuê TC, Ngân hàng ĐT và PT VN.
(10) Vụ án “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” xảy ra tại Ngân hàng ĐT và PT VN, chi nhánh Tây SG và Công ty TNHH đầu tư thương mại giao dịch xuất nhập khẩu Th.L.
(11) Vụ án “lạm quyền trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Ngân hàng NN và PTNT, chi nhánh Y Tp HCM.
(12) Vụ án “đưa hối lộ” và “nhận hối lộ” xảy ra tại Ngân hàng NN và PTNT VN, chi nhánh X Tp HCM.
[24] “Điều có ý nghĩa nhất trong các sai lầm của MP là cách thức điều hành, tổ chức hệ thống kinh doanh của MP là đã cung cấp trong thực tế kinh nghiệm về mô hình "công ty mẹ - công ty con" khá hoàn chỉnh, mô hình mà sau đó ít lâu nước ta vận dụng. Còn việc MP cùng cán bộ ngân hàng tự định giá tài sản thế chấp, phải chăng từ đây đã hình thành cơ chế thỏa thuận về giá trị tài sản thế chấp giữa tổ chức tín dụng và bên thế chấp, trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức tín dụng mà hiện đang được các ngân hàng thương mại áp dụng?”
https://cand.com.vn/Kinh-te/Bai-hoc-thoi-su-tu-vu-an-Minh-Phung---Epco-10-nam-truoc-i120692/