• Thuộc tính
Tên đề tài Đề án đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp
Nội dung tóm tắt

LỜI MỞ ĐẦU

I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ ÁN

l. Cơ sở chính trị

Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, việc đổi mới và hoàn thiện các tổ chức bổ trợ tư pháp nói chung và giám định tư pháp nói riêng là một trong những nội dung quan trọng được đề cập trong nhiều Nghị quyết của Đảng (Nghị quyết Trung ương 8 Khoá VII, Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX). Đặc biệt, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Hoàn thiện chế định giám định tư pháp. Nhà nước cần đầu tư cho một số lĩnh vực giám định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng. Thực hiện xã hội hoá đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên. Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực hiện giám định. Ban hành quy chuẩn giám định phù hợp với từng lĩnh vực giám định. Xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm đúng đắn, khách quan đế làm căn cứ giải quyết vụ việc”.

“... Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình..”

2. Yêu cầu của thực tiễn

Sau khi Pháp lệnh giám định tư pháp được ban hành, công tác giám định tư pháp trong thời gian cũng đã có những thay đổi, ở mức độ nhất định, hoạt động giám định tư pháp đã đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố tụng, tuy nhiên, trước yêu cầu tình hình mới của cải cách tư pháp thì giám định tư pháp có nhiều bất cập, hạn chế cần giải quyết sau đây:

Một là, một số quy định của pháp luật hiện hành về giám định tư pháp (Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Pháp lệnh giám định tư pháp, Pháp lệnh phí và lệ phí...) chưa cụ thể, đầy đủ, thống nhất và có những điểm không còn phù hợp với thực tế hiện nay. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về Giám định tư pháp còn thiếu đồng bộ do các văn bản được ban hành bởi nhiều cấp, ngành, nội dung điều chỉnh về các mối quan hệ trong lĩnh vực Giám định tư pháp thiếu thống nhất, chưa đầy đủ và còn chồng chéo.

Khái niệm và phạm vi dịch vụ Giám định tư pháp còn bị bó hẹp, không còn phù hợp với sự phát triển của đời sống xã hội nói chung, yêu cầu của đổi mới, cải cách tư pháp, pháp luật nói riêng làm ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng, quyền lợi hợp pháp của người tham gia tố tụng và khó khăn trong quá trình hội nhập quốc tế về tư pháp và pháp luật.

Chủ thể thực hiện giám định tư pháp là các tổ chức giám định tư pháp, tổ chức chuyên môn chưa được quy định rõ; chưa có các quy định về quyền, nghĩa vụ của các tổ chức thực hiện giám định cũng như những trường hợp các tổ chức này không được thực hiện giám định, phải từ chối thực hiện giám định để bảo đảm tính vô tư, khách quan; vấn đề chi phí giám định tư pháp trong tô tụng dân sự chưa hợp lý và chưa phù hợp với các quy định có liên quan với Pháp lệnh giám định tư pháp, Pháp lệnh phí và lệ phí; Chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp chưa được thể hiện đầy đủ còn thiếu các quy định cụ thể về điều kiện, giải pháp thực hiện; thiếu chính sách đãi ngộ và thu hút các tổ chức chuyên môn có năng lực, các chuyên gia giỏi vào hoạt động giám định tư pháp một cách đồng bộ và toàn diện; chưa có quy chế tổ chức, hoạt động giám định tư pháp của các tổ chức chuyên môn; chưa có cơ chế chặt chẽ, rõ ràng về việc đánh giá kết luận giám định làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng; vai trò, trách nhiệm của các Bộ, ngành chuyên môn chủ quản chưa được phát huy...

Nhiều việc giám định được thực hiện trước khi khởi tố điều tra hoặc trong quá trình thi hành án hình sự nhưng chưa được tính đến và quy định cụ thể trong Pháp lệnh giám định tư pháp. Trên thực tế, nhiều vụ việc kết quả giám định (xác định mức độ thiệt hại tài sản, mức độ thương tích hoặc tổn hại sức khỏe) là căn cứ có khởi tố hay không khởi tố, như vậy, trong trường hợp này, cơ quan điều tra đã trưng cầu thực hiện giám định trước khi có quyết định khởi tố vụ án và kết luận giám định này được sử dụng làm căn cứ trong quá trình giải quyết vụ án.

Nhìn chung, hoạt động giám định tư pháp vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của hoạt động tố tụng.

Hai là, hệ thống tổ chức giám định tư pháp trong một số lĩnh vực còn dàn trải, chưa có trọng tâm, trọng điểm, chưa thực sự tinh gọn và hiệu quả. Phạm vi hoạt động của một số tổ chức giám định pháp y còn chồng chéo nhau, chưa có sự phối hợp hiệu quả do chưa có sự phân định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ giữa các tổ chức giám định pháp y trong ngành công an và ngành y tế. Việc quản lý các giám định viên kiêm nhiệm không thuộc biên chế các tổ chức giám định tư pháp còn bỏ ngỏ.

Ba là, đội ngũ giám định viên tư pháp còn thiếu về số lượng và hạn chế về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Cho đến nay, đội ngũ giám định viên tư pháp ở nước ta mới chỉ có ở lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự, kế toán - tài chính, văn hoá, xây dựng với số lượng tương đối hạn chế. Các lĩnh vực khác chưa có giám định viên, trong khi nhu cầu về giám định ở những lĩnh vực này ngày càng lớn. Phần lớn đội ngũ giám định viên tư pháp ở

nước ta hoạt động kiêm nhiệm và chưa được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ giám định, kiến thức pháp luật cần thiết.

Việc bổ nhiệm giám định viên cũng như lập và công bố danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc còn mang nặng tính hình thức, chưa thực sự căn cứ vào nhu cầu giám định của hoạt động tố tụng, thiếu sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan tiến hành tố tụng với tư cách là người sử dụng, đánh giá kết luận giám định tư pháp. Việc xã hội hoá đội ngũ giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp chưa thực sự được thực hiện trên thực tế, nhiều nhà chuyên môn giỏi ở nhiều đơn vị, tổ chức như các Viện, Trung tâm nghiên cứu khoa học, các trường Đại học và tổ chức chuyên môn khác chưa được tính đến để bổ nhiệm làm giám định viên, cũng như đưa vào danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc.

Các tài liệu, giáo trình phục vụ cho việc đào tạo chuyên ngành giám định, bồi dưỡng nghiệp vụ giám định, kiến thức pháp lý còn chắp vá, thiếu tính hệ thống và đồng bộ.

Bốn là, trang thiết bị, phương tiện và điều kiện vật chất cần thiết khác cho hoạt động giám định còn quá thiếu thốn và lạc hậu. Thực tế cho thấy, ngoài một số ít tổ chức giám định kỹ thuật hình sự và pháp y thuộc ngành Công an và thuộc Bộ Quốc phòng được bảo đảm tương đối tốt về cơ sở vật chất, hầu hết các tổ chức giám định tư pháp đều ở tình trạng không có đủ trang thiết bị, phương tiện thực hiện giám định hoặc nếu có thì cũng chưa đáp ứng được yêu cầu công việc giám định đặt ra. Nhìn vào thực tế cho thấy trang thiết bị, phương tiện thực hiện giám định của hầu hết các tổ chức giám định tư pháp, nhất là các tổ chức giám định tư pháp ở địa phương, là vô cùng thiếu thốn, thậm chí cả những phương tiện tối thiểu cũng không có, không bảo đảm. Trong khi đó trang thiết bị, phương tiện thực hiện giám định là yếu tố rất quan trọng, góp phần tạo nên hiệu quả và chất lượng giám định.

Năm là, hầu hết các lĩnh vực giám định còn thiếu quy chuẩn chuyên môn, quy định trình tự, thủ tục giám định chưa rõ trong nhiều lĩnh vực giám định để áp dụng thống nhất. Từ đó, dẫn đến tình trạng mỗi nơi, mỗi lúc thực hiện giám định một kiểu khác nhau, không thống nhất, tuỳ tiện, chất lượng giám định khó được bảo đảm, đây cũng là một trong những nguyên nhân gây xung đột kết luận giám định giữa các tổ chức, cá nhân thực hiện giám định diễn ra nhiều, gây phức tạp cho hoạt động tố tụng.

Sáu là, quy định pháp luật về quản lý nhà nước đối với tổ chức, hoạt động giám định tư pháp chưa phù hợp, dẫn đến trên thực tiễn, công tác quản lý nhà nước có lúc còn buông lỏng hoặc chồng chéo, nhiều Bộ, ngành, ủy ban nhân dân cấp tỉnh chưa thực sự quan tâm, chăm lo đến tổ chức, hoạt động giám định tư pháp thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ, ngành và địa phương mình. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc thực hiện quản lý nhà nước về giám định tư pháp nhưng quyền hạn của Bộ Tư pháp chưa xứng tầm; công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động giám định tư pháp hầu như còn bỏ ngỏ. Các cơ quan tiến hành tố tụng có vai trò rất quan trọng trong việc thống kê số lượng, đánh giá chất lượng giám định góp phần quan trọng trong hoạch định chính sách về giám định tư pháp nhưng chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm này dẫn đến việc thiếu sự phối hợp cần thiết giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với cơ quan quản lý nhà nước về giám định tư pháp.

Chính vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu, xây dựng "Đề án đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giám định tư pháp" nhằm tạo cơ sở cho bước phát triển mới trong tổ chức, hoạt động và quản lý giám định tư pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động giám định tư pháp phục vụ đắc lực cho hoạt động điều tra, truy tố và xét xử trước yêu cầu ngày càng cao của cải cách tư pháp.

  1. MỤC TIÊU, PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ ÁN

  1. Mục tiêu nghiên cứu

Xác định các căn cứ lý luận và thực tiễn của việc đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giám định tư pháp nhằm phục vụ đắc lực cho hoạt động tố tụng trước yêu cầu ngày càng cao của cải cách tư pháp. Cụ thể như sau:

  • Thứ nhất, làm rõ về lý luận đối với các vấn đề chủ yếu như: xác định bản chất của giám định tư pháp, vai trò, ảnh hưởng của hoạt động này đối với hoạt động tố tụng, đối với việc bảo đảm và nâng cao chất lượng của hoạt động điều tra, truy tố và xét xử, đặc biệt là góp phần vào việc nâng cao dân chủ, tăng cường tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp.

  • Thứ hai, làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về giám định tư pháp ở Việt Nam.

  • Thứ ba, đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới tổ chức, hoạt động, quản lý giám định tư pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám định tư pháp, đáp ứng kịp thời, chất lượng các yêu cầu của hoạt động tố tụng, phục vụ đắc lực hoạt động tố tụng, góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vụ án được chính xác, khách quan và đúng pháp luật.

2. Phạm vi nghiên cứu của Đề án

  1. Đề án nghiên cứu quan niệm khoa học về giám định tư pháp, vai trò của giám định tư pháp đối với hoạt động tố tụng, đặc biệt là trong việc nâng cao chất lượng hoạt động điều tra, truy tố và xét xử.

  2. Đề án nghiên cứu, làm rõ thực trạng tổ chức, hoạt động, quản lý giám định tư pháp: mô hình tổ chức, hệ thống tổ chức giám định tư pháp trong các lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự, thực trạng và các giải pháp huy động các cơ quan, tổ chức chuyên môn và chuyên gia giỏi tham gia vào hoạt động giám định tư pháp; hoạt động, quản lý giám định tư pháp. Khó khăn, vướng mắc và những yêu cầu đặt ra cần phải đổi mới tổ chức, hoạt động, quản lý giám định tư pháp.

  3. Đề án nghiên cứu, làm rõ các vấn đề về tổ chức, hoạt động, quản lý giám định tư pháp trước yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính: đề xuất hướng đổi mới hệ thống tổ chức giám định tư pháp, hoàn thiện cho tinh gọn, hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu cải cách tư pháp; phương thức hoạt động giám định tư pháp, trong đó chủ thể trưng cầu, yêu cầu giám định phải thay đổi cho phù hợp với định hướng cải cách mô hình tố tụng theo hướng tăng cường tính tranh tụng, đặc biệt là tranh tụng tại phiên toà, dân chủ trong tố tụng được tăng cường và đảm bảo thực hiện trên thực tế; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giám định tư pháp theo hướng phát huy tối đa lợi thế cũng như vai trò và trách nhiệm của các Bộ, ngành chủ quản trong việc chăm lo tổ chức, hoạt động giám định tư pháp ở từng lĩnh vực.

  4. Một số vấn đề lớn liên quan đến tổ chức, hoạt động, quản lý giám định tư pháp cũng được đề án quan tâm nghiên cứu, làm sáng tỏ, cụ thể là:

  • Lý luận và thực tiễn về khái niệm giám định tư pháp, giám định tư pháp trong mối quan hệ mật thiết với mô hình tố tụng, nguyên tắc tố tụng (xét hỏi kết hợp tranh tụng), vai trò của giám định tư pháp đối với hoạt động tố tụng nói chung, hoạt động tiến hành tố tụng nói riêng cũng như hoạt động tham gia tố tụng; vấn đề đánh giá kết luận giám định trên nền tảng nguyên tắc đánh giá chứng cứ.

  • Lý luận và thực tiễn về người giám định tư pháp (cả cá nhân và tổ chức) theo hướng đề xuất nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện về trình độ chuyên môn, khả năng nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tế nhằm bảo đảm những tổ chức, cá nhân thực hiện giám định phải thực sự là các tổ chức chuyên môn có năng lực, những cá nhân phải là những chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực cần giám định. Đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm thực thi chính sách thu hút, đãi ngộ cả về vật chất và phi vật chất đối với các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giám định tư pháp. Làm rõ hơn trách nhiệm pháp lý của tổ chức, cá nhân thực hiện giám định đối với kết luận giám định do họ đưa ra.

  • Lý luận và thực tiễn về chủ thể trưng cầu, yêu cầu giám định; quyền và nghĩa vụ của người trưng cầu, yêu cầu giám định; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân thực hiện giám định, kế cả nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi giám định sai gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân có liên quan; trình tự, thủ tục giám định; giám định lại; đánh giá kết luận giám định; giá trị pháp lý của bản kết luận giám định được thực hiện theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức khi được người tham gia tố tụng xuất trình, mối tương quan giữa kết luận giám định này với kết luận giám định do cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu; việc tham gia phiên toà của người giám định tư pháp với tư cách là nhân chứng chuyên môn bảo đảm tăng cường và thực thi tranh tụng tại phiên tòa.

Quy chuẩn chuyên môn, quy trình giám định và vấn đề phí giám định tư pháp trong các lĩnh vực giám định.

đ) Nghiên cứu, đề xuất phương hướng và các giải pháp đồng bộ nhằm hoàn thiện pháp luật về giám định tư pháp, đổi mới căn bản và hoàn thiện công tác tổ chức, hoạt động và quản lý giám định tư pháp nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động giám định tư pháp để đáp ứng tốt yêu cầu ngày càng cao, phức tạp của hoạt động tố tụng trong điều kiện cải cách tư pháp, cải cách hành chính, cải cách hoạt động xây dựng pháp luật.

  1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ ÁN

  1. Cơ sở lý luận:

Đề án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân, cải cách tư pháp, cải cách hành chính. Những cơ sở lý luận này được vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam hiện nay trong điều kiện nước ta đã và đang đổi mới toàn diện đời sống kinh tế xã hội của đất nước, đặc biệt những cải cách về hành chính, cải cách tư pháp. Toàn bộ cơ sở hạ tầng xã hội đã và đang có những thay đổi lớn lao. Nen kinh tế đất nước đã và đang trên đà phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tất cả những điều này có ảnh hưởng, tác động sâu rộng đến sự nhìn nhận và đánh giá về mặt lý luận các vấn đề có liên quan đến mô hình tổ chức, phương thức hoạt động và cơ chế quản lý giám định tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là văn kiện quan trọng trong việc định hướng về mặt lý luận đối với việc cải cách hệ thống tư pháp ở Việt Nam nói chung và các hoạt động bổ trợ tư pháp, trong đó có giám định tư pháp nói riêng trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới.

  1. Phương pháp nghiên cứu:

  • Phương pháp lịch sử;

  • Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh;

  • Phương pháp lôgic, phương pháp thống kê...

  1. QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ ÁN

l. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến Đề án

Liên quan đến hoạt động giám định tư pháp, ở trong nước, có khá nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố như Đề án cấp bộ: “Một số cơ sở ỉý luận và thực tiên xây dựng và hoàn thiện tổ chức giám định tư pháp” (1991) của Bộ Tư pháp - Chủ nhiệm Đề án: Nguyễn Văn Yểu; Đề án cấp Bộ: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giám định kỹ thuật hình sự phục vụ các yêu cẩu điều tra, xử lý tội phạm” (2004) của Bộ Công an - Chủ nhiệm Đề án: PGS, TS Ngô Tiến Quý… Các công trình này đã khái quát quá trình phát triển của hoạt động giám định và tổ chức giám định trong một số lĩnh vực của Việt Nam từ năm 1945 đến thời điểm trước khi có Pháp lệnh giám định tư pháp năm 2004; đã nêu được các khái niệm về giám định tư pháp và hoạt động tư pháp và cũng đánh giá khái quát được thực trạng các quy định pháp luật về giám định tư pháp và việc áp dụng các quy định đó trên thực tiễn đến thời điểm trước khi có Pháp lệnh giám định tư pháp năm 2004;

Một số công trình đã đưa ra được những bất cập của hoạt động giám định tư pháp và bước đầu đưa ra những kiến nghị để khắc phục như Đổi mới tổ chức, hoạt động giám định tư pháp (2004) Nxb. Tư pháp; Đổi mới tổ chức và hoạt động giám định tư pháp trong quá trình cải cách tư pháp - PGS, TS. Nguyễn Tất Viễn (trong Sách Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - GS,TSKH. Đào Trí úc (Chủ biên) - H, NXb. Khoa học xã hội, 2002); Giám định tư pháp, TS. Nguyễn Tất Viễn (trong Sách Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền - TSKH, PGS. Lê Cảm và TS. Nguyễn Ngọc Chí (đồng chủ biên) - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004); Những quy định mới về giám định tư pháp, Nguyễn Hương Nhung - Tạp chí kiểm sát số 2/2005; Giám định tư pháp và công cuộc cải cách tư pháp, Nguyễn Văn Thảo - Dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 5/2006; Những khó khăn, vướng mắc của hoạt động giám định tư pháp trong việc phục vụ hoạt động tố tụng hình sự, Nguyễn Thị Thụy - Kiếm sát số 4 (02-2007); Bàn về giám định tư pháp trong tố tụng dân sự, Tưởng Duy Lượng - Kiểm sát Số 7 (4-2007) Pháp lệnh Giám định tư pháp sau ba năm đi vào cuộc sống, Nguyễn Văn Thảo - Tạp chí dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 9/2007;...

Đề tài khoa học cấp cơ sở: “Hoạt động giám định tư pháp ở thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và khả năng xã hội hóa” do Sở Tư pháp thành phố Đà Nẵng chủ trì năm 2008; Đề án khoa học cấp Bộ: “Xã hội hoá giám định tư pháp” do Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp chủ trì năm 2010.

Báo cáo “Đánh giá thực trạng thu hút các cơ quan, tổ chức chuyên môn và chuyên gia giỏi tham gia vào hoạt động giám định tư pháp” năm 2008, do Vụ Bổ trợ tư pháp xây dựng trong quá trình triển khai thực hiện Đề án "Xây dựng cơ chế và tổ chức thí điểm thực hiện việc thu hút các cơ quan, tổ chức chuyên môn và chuyên gia giỏi tham gia vào hoạt động giám định tư pháp". Đề án này được thực hiện theo Quyết định số 986/QĐ-BTP ngày 04/7/2007 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, Ban Chủ nhiệm Đề án củng tham khảo các công trình nghiên cứu khác có liên quan đến công cuộc cải cách tư pháp của Việt Nam đã và đang được tiến hành tại Việt Nam.

Các công trình nghiên cứu trên đây (cả ngoài nước và trong nước) đều là những công trình có giá trị khoa học và thực tiễn cao. Tuy nhiên, do mục tiêu đặt ra cũng như do bị chi phối bởi các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể .. nên mỗi công trình thường chỉ khai thác sâu về một khía cạnh nhất định của vấn đề giám định tư pháp mà chưa có công trình nào đề cập một cách đầy đủ, toàn diện về vấn đề đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp một cách tổng thể như Đề án này.

2. Quá trình thực hiện Đề án

Sau khi nhận nhiệm vụ của Đề án, đã thành lập Ban Chủ nhiệm Đề án, Thư ký Đề án, mời các Cộng tác viên của Đề án; hoàn chỉnh Đề cương, tổ chức bảo vệ Đề án trước Hội đồng Tư vấn xét duyệt Đề cương nghiên cứu của Đề án và tổ chức nghiên cứu, tiếp thu kiến nghị của Hội đồng về những nội dung cần bổ sung, sửa đổi trong thuyết minh Đề án; thực hiện ký hợp đồng với Viện Khoa học pháp lý; phân công chuyên đề nghiên cứu khoa học phục vụ Đề án; tổ chức Tọa đàm khoa học theo chuyên đề; Ban Chủ nhiệm nghiên cứu, yêu cầu Cộng tác viên tiếp tục nghiên cứu, chỉnh sửa nội dung các chuyên đề; tổ chức nghiệm thu chuyên đề; chuẩn bị Báo cáo phúc trình về Đề án; họp Hội nghị Cộng tác viên đóng góp xây dựng và hoàn thiện Báo cáo phúc trình; tiếp tục nghiên cứu, chỉnh sửa để hoàn thiện Đề án trên cơ sở các ý kiến tham gia của Hội đồng nghiệm thu Đề án và các chuyên gia phản biện độc lập.

V. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ ÁN

  1. Về mặt lý luận:

  • Yêu cầu đầu tiên và trực tiếp về kết quả của Đề án nghiên cứu là phải có giá trị áp dụng thiết thực trong việc đổi mới và nâng cao hiệu quả giám định tư pháp ở nước ta trước yêu cầu của cải cách tư pháp. Đồng thời, dưới giác độ lý luận chung thì kết quả nghiên cứu của Đề án còn là nguồn tham khảo thật sự hữu ích cho việc nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện về cải cách tư pháp nói chung.

  • Kết quả nghiên cứu của Đề án còn đóng góp cho các hoạt động nghiên cứu có tính định hướng phát triển và hoàn thiện công tác giám định tư pháp ở Việt Nam hiện tại và trong tương lai.

  • Kết quả nghiên cứu của Đề án còn là nguồn tài liệu hữu ích phục vụ cho việc đào tạo, giảng dạy và tham khảo về chuyên môn sâu trong việc nghiên cứu lý luận về giám định tư pháp với tư cách là một hoạt động bổ trợ tư pháp trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam.

  1. Về mặt thực tiễn

Dự kiến kết quả nghiên cứu của Đề án sẽ góp phần hữu ích thật sự và là nền tảng, khung của Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” mà Bộ Tư pháp được Chính phủ giao chủ trì, xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, làm cơ sở quan trọng cho việc đổi mới toàn diện công tác giám định tư pháp, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp, đáp ứng tốt các yêu cầu của hoạt động tố tụng (cả tiến hành tố tụng và tham gia gia tố tụng) trong điều kiện cải cách tư pháp.

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm ...