• Thuộc tính
Tên đề tài Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế và việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong quá trình hội nhập
Nội dung tóm tắt

NỘI DUNG ĐỀ TÀI

Từ năm 1986, Việt Nam thực hiện chủ trương đổi mới kinh tế, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế. Chúng ta đã và đang tham gia tích cực vào hoạt động của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và Tổ chức thương mại thế giới (WTO), học hỏi và sử dụng các “luật chơi” chung của thế giới, trong đó có cả các cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Thực tiễn cho thấy phía Nhà nước cũng như các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn nhiều bỡ ngỡ trong vấn đề này. Cùng với chính sách mở cửa của Việt Nam, quan hệ kinh tế phát triển, trở nên sống động, đa dạng nhưng không kém phần phức tạp, đặc biệt là các quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài. Vì thế, tranh chấp xảy ra không những là vấn đề khó tránh khỏi mà ngày càng phức tạp về nội dung, gay gắt về mức độ tranh chấp. Nhà nước ta đã cố gắng cải thiện, đổi mới hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại nhằm tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau. Tuy nhiên, phải thừa nhận một thực tế là hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động thương mại quốc tế ở Việt Nam nói riêng phát triển nhanh chóng, làm nảy sinh nhiều vấn đề pháp luật khác cần được nghiên cứu điều chỉnh kịp thời. Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế luôn là vấn đề phức tạp, nhạy cảm, có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh tế, thương mại quốc tế, của các cơ quan tổ chức, cá nhân kinh doanh quốc tế.

Do đó, việc triển khai Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về “Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế và việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong quá trình hội nhập” là hết sức cần thiết, nhằm góp phần giải đáp những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn đang đặt ra cho nước ta trong quá trình hội nhập sâu rộng vào WTO và hội nhập kinh tế quốc tế.

Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản cơ bản thích ứng với điều kiện Việt Nam của cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế; phân tích cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế được áp dụng rộng rãi hiện nay trên thế giới mà Vệt Nam cần lưu ý trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; nghiên cứu một số vấn đề “nóng” của pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, Đề tài đưa ra những khuyến nghị góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

I. CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

1. Tranh chấp thương mại quốc tế

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế

Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của hoạt động thương mại quốc tế. Có thể nói, hoạt động thương mại quốc tế đã tạo tiền đề xuất hiện và phát triển các cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Trong đó, khởi đầu của hoạt động thương mại quốc tế chủ yếu là hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá giữa các tổ chức, cá nhân có quốc tịch khác nhau hoặc có trụ sở được thành lập tại các quốc gia khác nhau, nhằm mục đích thu lợi nhuận. Sau đó, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, hoạt động thương mại quốc tế đã mở rộng ra đối với quan hệ đầu tư quốc tế. Pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế cũng nhờ vậy mà không ngừng hoàn thiện và ngày càng phức tạp. Đã xuất hiện nhiều lý thuyết khác nhau, các án lệ thương mại quốc tế ngày càng được tăng lên. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế cũng nhờ vậy mà càng ngày càng đa dạng, phong phú. Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế khá đồ sộ bao gồm các hệ thống pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế toàn cầu (của WTO, của hệ thống Liên Hợp quốc), khu vực (ví dụ của ASEAN, EU, NAFTA...), song phương (trên cơ sở các điều ước quốc tế song phương) và của từng quốc gia.

1.2. Khái niệm tranh chấp thương mại quốc tế

Bằng cách nghiên cứu để làm rõ nội hàm của các khái niệm: tranh chấp; thương mại; và quốc tế theo pháp luật và thực tiễn các nước cũng như quan điểm của các luật gia rất khác nhau, trong một mức độ nào đó, tranh chấp thương mại quốc tế, một mặt, được hiểu là tranh chấp giữa các quốc gia, chủ thể khác nhau của pháp luật quốc tế về các vấn đề quan hệ thương mại, kinh tế quốc tế. Mặt khác, “tranh chấp thương mại quốc tế” cũng còn thường được hiểu đồng nghĩa với “tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài”. Theo Điều 2 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại Việt Nam, tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài là “tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại mà một bên hoặc các bên là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ có tranh chấp phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến tranh chấp đó ở nước ngoài”.

Như vậy, theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài hay tranh chấp thương mại quốc tế được xác định khi có một trong các yếu tố sau: Thứ nhất, có một trong các chủ thể tham gia quan hệ tranh chấp là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Thứ hai, căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ dân sự, thương mại có tranh chấp là phát luật nước ngoài, phát sinh ở nước ngoài; Thứ ba, đối tượng của Vụ tranh chấp dân sự, thương mại là tài sản ở nước ngoài. Đối với Việt Nam, việc xác định một tài sản trong vụ tranh chấp phải tuân theo các quy định của Bộ luật dân sự, các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan của Việt Nam cũng như điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

1.3. Phân loại tranh chấp thương mại quốc tế

Dựa vào pháp luật áp dụng giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế, có thể phân tranh chấp thương mại quốc tế thành hai nhóm chủ yếu sau:

- Tranh chấp thương mại quốc tế theo công pháp quốc tế: là tranh chấp giữa các quốc gia, các chủ thể khác của công pháp quốc tế về các vấn đề quan hệ thương mại, kinh tế quốc tế.

- Tranh chấp thương mại quốc tế theo tư pháp quốc tế: là loại tranh chấp giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân các nước khác nhau về các vấn đề quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài.

2. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế

2.1.  Khái niệm cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế

Cơ chế giải quyết tranh chấp là một trong biện pháp hay cách thức, nhằm giải quyết các bất đồng của các chủ thể tham gia vào các hoạt động thương mại quốc tế. Cơ chế giải quyết tranh chấp có thể được xây dựng và hình thành trên cơ sở pháp luật trong nước (toà án) hay được các bên xây dựng (trọng tài) hoặc được xây dựng trên cơ sở sự thoả thuận giữa các quốc gia (cơ chế giải quyết tranh chấp trong ASEAN, WTO, APEC).

Cơ chế giải quyết tranh chấp có thể được định nghĩa hoặc hiểu như sau:

“Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế đó là những quy định về trình tự, thủ tục và bộ máy giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể tham gia quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế do pháp luật quốc gia quy định hoặc do các quốc gia thoả thuận”.

2.2. Phân loại cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế

Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế được phân loại như sau:

- Cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua toà án tư pháp;

- Cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài thương mại;

- Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế thông cơ quan bán tư pháp.

2.3. Nguồn luật áp dụng theo các cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế

Nguồn luật áp dụng theo các cơ chế giải quyết các tranh chấp trong thương mại quốc tế bao gồm: các nguồn pháp luật quốc tế nếu đó là loại cơ chế giải quyết tranh chấp theo pháp luật quốc tế, và các nguồn của tư pháp quốc tế nếu đó là loại cơ chế giải quyết tranh chấp theo tư pháp quốc tế1.

II. MỘT SỐ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ĐƯỢC ÁP DỤNG PHỔ BIẾN TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

1. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tuỳ nghi ngoài tài phán

1.1. Giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng trực tiếp

Khi đánh giá về hiệu quả của việc thương lượng trực tiếp trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp thương mại tại Việt Nam, các nhà kinh doanh cũng như các luật gia đều cho rằng: “Thương lượng trực tiếp là hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh không cần đến vai trò của chủ thể thứ ba. Đặc điểm cơ bản của thương lượng trực tiếp là các bên cùng nhau trình bày, phát biểu quan điểm, chính kiến, bàn bạc tìm biện pháp thích hợp và đi đến thống nhất thỏa thuận các biện pháp thích hợp để giải quyết bất đồng”.

Việc thương lượng có thể tiến hành độc lập trước khi tiến hành các cơ chế tài phán, hoặc tiến hành cùng với quá trình tố tụng tại tòa án hoặc trọng tài.

Để việc thương lượng có thể đạt được kết quả, các bên trong quá trình thương lượng có thể chọn một cơ chế thương lượng đã được định sẵn trong thực tiễn thương mại quốc tế hoặc cùng nhau định lập ra một cơ chế thích hợp dạng adhoc trên cơ sở thực tiễn thương mại quốc tế về các loại vụ việc tương tự.

1.2. Giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải, trung gian, môi giới

Môi giới, trung gian, hòa giải được hiểu “là hình thức giải quyết tranh chấp tiếp theo, trong đó các bên trong quá trình thương lượng có sự tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ định làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột nhằm chấm dứt các tranh chấp, bất hòa”. Nhìn chung môi giới, trung gian, hòa giải có nhiều điểm giống thương lượng, điểm khác biệt cơ bản giữa chúng là môi giới, trung gian, hòa giải và thương lượng có sự tham gia của bên thứ ba trung gian giúp các bên tìm ra giải pháp giải quyết tranh chấp. Khi tiến hành môi giới, trung gian, hòa giải đòi hỏi các bên tự do thể hiện ý chí, bình đẳng trong giải quyết tranh chấp của mình. Môi giới, trung gian, hoàn giải luôn đảm bảo bí mật về chứng cứ, tài liệu có liên quan và các vấn đề nội dung cụ thể. Cơ chế này đòi hỏi người thứ ba này phải là người có uy tín với các bên tranh chấp, khách quan vô tư, độc lập trong xử lý các vấn đề liên quan tranh chấp, có sự am hiểu và trình độ chuyên môn sâu rộng về lĩnh vực tranh chấp (người đó có thể là các luật gia, nhà kinh tế học, các thương gia có uy tín) và phải có điều kiện cần thiết để giúp các bên tìm ra giải pháp thích hợp nhất.

Riêng về vấn đề hoà giải, trong khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn giải quyết tranh chấp thường đề cập đến hai loại cơ chế hòa giải: cơ chế hòa giải không theo thủ tục tố tụng và cơ chế hòa giải trong thủ tục tố tụng. Về bản chất, cơ chế hòa giải dù được tiến hành theo thủ tục tố tụng hoặc tiến hành độc lập, ngoài thủ tục tố tụng đều phải tôn trọng tính tự nguyện, tự do ý chí của các bên.

Xét trong mối quan hệ với các cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế khác, thì việc giải quyết tranh chấp bằng môi giới, trung gian, hoà giải cũng có những ưu điểm nhất định, đó là sự tồn tại có tác động định hướng của người thứ ba trung gian trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế giúp các bên tranh chấp nhanh chóng tháo gỡ các bất đồng. Đồng thời, so với hình thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án hoặc trọng tài, thì môi giới, trung gian, hòa giải được tiến hành nhanh chóng, ít tốn kém, nhiều trường hợp chính nhờ việc môi giới, trung gian, hòa giải mà các bên có thêm sự hiểu biết lẫn nhau và thiết lập được những mối quan hệ thương mại tốt hơn.

Tuy nhiên trên thực tế cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng môi giới, trung gian, hòa giải cũng có những hạn chế nhất định. Điểm rõ nhất là kết quả môi giới, trung gian, hòa giải thành không có được sức mạnh bắt buộc thi hành như phán quyết của tòa án hay trọng tài.

2. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng Toà án tư pháp

2.1. Tổng quan về cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Toà án tư pháp

Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng con đường tòa án theo thủ tục tư pháp là giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của các cơ quan tài phán nhà nước. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên lựa chọn để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi đã sử dụng không thành công cơ chế giải quyết tranh chấp tuỳ nghi ngoài tài phán hoặc không lựa chọn cơ chế trọng tài để giải quyết tranh chấp. Quyết định của cơ quan tài phán nhà nước (tòa án tư pháp) là quyết định có giá trị pháp lý cao, có tính cưỡng chế, buộc các bên trong tranh chấp phải thi hành. Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng tòa án tư pháp của các nước có các đặc điểm sau:

Thứ nhất, về tổ chức, hệ thống toà án tư pháp của các quốc gia trên thế giới thường được tổ chức theo nguyên tắc hai cấp xét xử. Ngoài ra, một số nước như Cộng hoà Pháp, Cộng hoà Liên Bang Đức, Italia, Hoa Kỳ, Canada... hệ thống toà án tư pháp còn được tổ chức theo thẩm quyền chuyên biệt, có các toà án chuyên trách giải quyết các vụ việc thương mại, dân sự kinh tế quốc tế.

Thứ hai, tòa án là cơ quan tài phán nhân danh quyền lực nhà nước để giải quyết tranh chấp và phán quyết của tòa án được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.

Thứ ba, Tòa án giải quyết các tranh chấp theo nguyên tắc xét xử công khai, qua nhiều cấp xét xử và tuân thủ theo một cơ chế giải quyết tranh chấp nghiêm ngặt, cứng nhắc của luật lệ tố tụng và quy tắc lex fori.

Thứ tư, chi phí tiến hành tố tụng ở toà án khá tốn kém, kéo dài và thông thường các bên tham gia tranh chấp không có hiểu biết cụ thể về hệ thống pháp luật tố tụng của nước mà bên đó phải chịu quyền tài phán theo tranh chấp thương mại quốc tế.

2.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng toà án tư pháp của một số nước

a) Cộng hòa Pháp

Toà án thương mại chỉ làm nhiệm vụ xét xử sơ thẩm. Mỗi toà thường có một chánh án và hai thẩm phán. Chánh án và thẩm phán phải là thương gia và được bầu theo quy chế riêng khác với toà án thường. Các thẩm phán này được bầu không trực tiếp từ các thương gia khác. Đặc biệt trong quy chế hoạt động của toà đó là các thẩm phán làm việc tự nguyện và không hưởng lương. Nhiệm kỳ của Chánh án là 3 năm còn của Thẩm phán là 2 năm. Ngoài ra còn có những người phục vụ công lý như: luật sư, cố vấn pháp luật, trợ lý thanh toán tư pháp và thanh lý tài sản, những người tạm thời quản lý công ty, lục sư… Là cơ quan tài phán chuyên biệt, Toà thương mại có thẩm quyền chỉ xét xử những vụ việc được pháp luật quy định. Đó là bốn loại tranh chấp chính sau:

- Tranh chấp về hợp đồng và chuyển nhượng giữa các thương gia với nhau.

- Tranh chấp giữa các thành viên của một công ty với nhau và giữa họ với công ty.

- Tranh chấp liên quan đến một hành vi thương mại nói chung.

- Tuyên bố phá sản, giải thể hay đình chỉ hoạt động của một doanh nghiệp.

Ngoài ra, theo Bộ luật về tổ chức tư pháp của Pháp, bất kỳ nơi nào Toà án có thẩm quyền chung mà không có Toà thương mại, thì Toà án có thẩm quyền chung sẽ giải quyết tranh chấp thương mại.

Đương sự có thể tự bào chữa, có thể tự do chọn người giúp đỡ như luật sư hoặc hội đồng tư vấn pháp lý. Đối với các tranh chấp thương mại có giá trị không quá 13.000Fr thì toà án thương mại xét xử sơ thẩm đồng thời với chung thẩm. Đối với các tranh chấp có giá trị lớn hơn thì việc xét xử phúc thẩm sẽ được tiến hành theo các thủ tục tố tụng dân sự thông thường trước Toà án phúc thẩm (Toà án dân sự của Toà án cấp trên). Bản án phúc thẩm nếu có kháng nghị sẽ được xem xét lại ở Toà phá án (Toà án tối cao).

b) Cộng hòa liên bang Đức

Ở Đức, tổ chức tòa án được chia thành tòa án cấp huyện, tòa án cấp tỉnh và tòa án liên bang. Tòa án cấp huyện không xét xử những vụ việc lớn, do vậy có những thẩm phán hoạt động độc lập; Tòa án cấp huyện có thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự trong quận huyện quản hạt có giá trị đến 6.000 DM; Tòa án cấp tỉnh có chánh án, thẩm phán chính và các thẩm phán. Tòa án cấp tỉnh gồm có tòa án dân sự và trong tòa dân sự có phân tòa thương mại. Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền xử phúc thẩm các vụ việc đã được tòa án cấp huyện xét xử, xử sơ thẩm dân sự các vụ việc có giá trị trên 6.000 DM; Tòa án liên bang có thẩm quyền bình luận Hiến pháp, mối quan hệ giữa luật liên bang và luật các bang (xung đột pháp luật nội bộ); các vấn đề thuộc quyền và nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước các cấp, giải quyết các đơn vị liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân, đơn kiện của các địa phương liên quan đến Hiến pháp liên bang.

c) Liên bang Nga

Liên bang Nga quan niệm về tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng, do đó, thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại của Toà án gồm những loại vụ việc cụ thể như sau:

- Các tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự, hành chính và các quan hệ pháp luật khác có liên quan đến hoạt động kinh doanh giữa các pháp nhân, cá nhân thực hiện hoạt động kinh doanh mà không thành lập một pháp nhân giữa Liên bang Nga và các chủ thể liên bang giữa các chủ thể liên bang với nhau;

- Các tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh giữa các chủ thể;

- Các tranh chấp về quyền sở hữu;

- Các tranh chấp về bồi thường thiệt hại;

- Các tranh chấp về uy tín kinh doanh;

- Các tranh chấp về đăng ký kinh doanh; về thành lập, tổ chức lại các pháp nhân kinh tế;

- Các tranh chấp liên quan đến các quyết định xử phạt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các chủ thể kinh doanh.

Về thủ tục tố tụng, thủ tục tố tụng của Toà án được quy định riêng biệt trong Bộ luật Tố tụng trọng tài do Đuma quốc gia Nga thông qua ngày 01/3/1992. Bộ luật này đã được sửa đổi vào các năm 1995 và năm 2002.

d) Anh

Tại Anh, mỗi toà án có các toà chuyên ngành đối với các lĩnh vực kinh doanh cụ thể. Việc giải quyết tranh chấp thương mại ở Anh không được quy định theo một thủ tục tố tụng riêng mà áp dụng thủ tục tố tụng dân sự. Mặc dù không có những quy định cứng nhắc về việc xác định những loại vụ việc nào được xếp thành luật dân sự, nhưng thông thường các luật sau đây thường được coi là luật dân sự: Luật hợp đồng, Luật về sự tổn hại, Luật thương mại, Luật công ty, Luật doanh thu.

Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp, tùy thuộc vào tòa án ở các cấp khác nhau mà tòa án có thẩm quyền khác nhau. Dưới đây là thẩm quyền của một số tòa án cụ thể.

- Thẩm quyền của Toà án Quản hạt

Theo quy định của Luật Toà án Quản hạt năm 1984, thẩm quyền của Toà án Quản hạt bao gồm:

+ Các vụ kiện trong trường hợp vi phạm hợp đồng hay gây thiệt hại, những món nợ phải thu hồi theo luật pháp, khi số tiền hay giá trị thiệt hại đòi bồi thường không vượt quá 5.000 bảng Anh. Trong trường hợp số tiền vượt quá 5.000 bảng Anh, Toà án Quản hạt có thẩm quyền xét xử nếu các bên đương sự đồng ý về thẩm quyền tài phán của Toà án Quản hạt hoặc Toà án đệ nhất cấp đồng ý chuyển vụ án xuống giải quyết tại Toà án Quản hạt.

+ Thẩm quyền tài phán đối với tố quyền đòi thu hồi đất đai.

+ Thẩm quyền tài phán về “công lý”, chẳng hạn trong các vụ án về quản lý tài sản, tịch thu tài sản cầm cố, thi hành hợp đồng mua bán đất không quá 30.000 bảng Anh.

+ Thẩm quyền khác: Phá sản, giải thể doanh nghiệp đã góp vốn cổ phần không quá 120.000 bảng Anh, các vấn đề liên quan đến luật tín dụng và nhà cửa.

- Thẩm quyền của Toà án đệ nhị cấp (High Court of Justice)

Luật Toà án tối cao quy định một số vấn đề thuộc phạm vi sơ thẩm của Tòa án đệ nhị cấp liên quan đến giải quyết tranh chấp kinh tế bao gồm: các vụ kiện tụng liên quan đến các hội buôn hợp doanh, vấn đề phá sản, đất đai, các vấn đề liên quan đến Luật Công ty, vụ tranh chấp phát sinh từ giao dịch giữa các thương nhân liên quan đến việc xây dựng các văn bản thương mại; xuất nhập khẩu hàng hoá, vận tải, bảo hiểm, đại lý ngân hàng thương mại, tập quán thương mại…

e) Hoa Kỳ

Hoa Kỳ là Nhà nước theo thuộc Chính thể Nhà nước liên bang. Hệ thống Toà án ở Hoa Kỳ được phân làm hai loại chính: Các toà án liên bang và các Toà án bang.

Thứ nhất, Toà án liên bang là những Toà án có thẩm quyền về những vấn đề quan trọng và phải được Toà án bang chấp nhận. Toà án liên bang có thẩm quyền giải quyết các vụ việc liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá, bản quyền tác giả, độc quyền, chứng khoán. Ngoài ra, Toà án liên bang có thẩm quyền giải quyết các vụ việc giữa công dân của các tiểu bang khác nhau hoặc giữa công dân Hoa Kỳ với các công dân nước ngoài không định cư ở Hoa Kỳ. Điều kiện cần thiết cuối cùng đối với quyền tài phán của Toà án liên bang là ở chỗ giá trị tranh chấp vượt quá 50.000 đô la Mỹ, trong một số trường hợp đặc biệt, vụ kiện được khởi đầu ở Toà án tiểu bang sẽ được chuyển tới Toà án liên bang thích hợp để giải quyết.

Thứ hai, Toà án tiểu bang xem xét tất cả các loại tranh chấp, trừ một vài loại tranh chấp thuộc thẩm quyền của Toà án liên bang. Toà án một bang sẽ có thẩm quyền nếu một cá nhân hoặc tổ chức hoạt động kinh doanh ở bang đó.

Ở Hoa Kỳ không có Toà án thương mại độc lập hay Toà thương mại nằm trong Toà án tư pháp. Các tranh chấp kinh tế nếu không thuộc thẩm quyền của các Toà án chuyên biệt sẽ do Toà án dân sự thụ lý giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Các Toà án sơ thẩm liên bang được gọi là Toà án đệ nhị cấp (hay Toà án Quận hạt) của Hoa Kỳ.

Vai trò của cơ quan tư pháp Hoa Kỳ trong hoạt động thương mại quốc tế có thể thấy trên ba lĩnh vực chủ yếu sau:

+ Luật pháp của bang nào ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa các bang hoặc đến hoạt động thương mại quốc tế có thể bị xác định là trái Hiến pháp và bị toà án liên bang huỷ bỏ;

+ Các khiếu nại từ các cơ quan Nhà nước và các quyết định khác của Chính phủ được trình lên cơ quan tư pháp liên bang;

+ Cơ quan tư pháp có trách nhiệm giải thích các Luật và các quy định của Hoa Kỳ, công bố các quyết định của thẩm phán về vi phạm và cách hiểu các Luật này.

f) Các nước ASEAN

Có thể thấy rõ mô hình hệ thống pháp luật của các nước ASEAN theo 4 mô hình sau: Mô hình pháp luật án lệ (Common Law System) của các nước Bruney, Singapore; mô hình pháp luật lục địa Âu châu (Civil Law System) của Indonesia, Lào và Myanma; mô hình pháp luật hỗn hợp (Common Law - Civil Law System) của Philippine và mô hình pháp luật XHCN của Việt Nam. Tuy có sự khác nhau về mô hình pháp lý giải quyết tranh chấp, nhưng các nước ASEAN vẫn là những nước có chú ý nhiều đến phương thức giải quyết tranh chấp ngoài hệ thống cơ quan tài phán tư pháp quốc gia (Toà án lập pháp). Hệ thống các biện pháp hoà bình giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế ở các nước ASEAN khá phát triển, từ thương lượng hoà giải, trọng tài đến tố tụng tại các toà án Tư pháp.

Thứ nhất, về thẩm quyền của cơ quan Tòa án tư pháp: Toà án tư pháp các nước ASEAN giữ vai trò quan trọng trong giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế theo pháp luật mỗi nước. Thông thường, hệ thống các cơ quan Tòa án và thẩm quyền giải quyết tranh chấp của các Tòa án được quy định cụ thể trong các Hiến pháp hoặc các Luật về Tòa án và các luật liên quan. Các tranh chấp thương mại quốc tế được giải quyết tại Toà án dân sự, không thấy sự tồn tại, hoạt động của Tòa án Kinh tế hoặc Tòa thương mại như ở Việt Nam và một số nước Châu Âu.

Thứ hai, về thể lệ tố tụng tại Toà án dân sự: các quy tắc, thể lệ tố tụng dân sự tại Tòa án các nước ASEAN đều được quy định chi tiết trong các luật về tố tụng dân sự tại các Toà án cụ thể.

3. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài

3. 1. Tổng quan về cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài

a) Về quan niệm về trọng tài

Về bản chất, trọng tài là phương thức phổ biến trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng thoả thuận tư quyền. Quyết định của trọng tài là chung thẩm, buộc các bên trong tranh chấp phải chấp hành, được nhà nước bảo đảm thi hành thông qua hệ thống cơ quan thi hành án. Quyết định của trọng tài không giống với quyết định do các bên đưa ra qua cơ chế giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hoặc trung gian, hoà giải ở điểm quyết định của trọng tài ràng buộc (binding) các bên trong tranh chấp, còn quyết định qua thương lượng hoặc trung gian, hòa giải thì không có tính ràng buộc các bên về mặt pháp lý (non-binding) mạnh mẽ như quyết định của trọng tài. Quyết định của trọng tài là do các trọng tài viên đưa ra, trong khi đó trọng tài viên thường không phải là người của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó. Việc lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế giữa các bên phải dựa trên sự thỏa thuận tự nguyện của các bên, không xuất phát từ quyền lực nhà nước.

Như vậy, có thể được định nghĩa trọng tài như sau: “Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các bên với nhau, được thực hiện thông qua một hội đồng do các bên thống nhất lựa chọn dựa trên cơ sở những thủ tục hay những quy tắc tổ chức nhất định”.

b) Về một số đặc điểm cơ bản của trọng tài

- Về thời gian, thủ tục tố tụng trọng tài có thể tiến hành xong trong một thời gian ngắn so với thủ tục tố tụng tại toà án.

- Về tính trung lập, hình thức trọng tài sẽ giúp cho các bên tranh chấp có tính độc lập cao, được tự do và bình đẳng trong lựa chọn địa điểm xét xử (tại một nước trung gian chẳng hạn), ngôn ngữ sử dụng trong quá trình trọng tài, các quy tắc tố tụng, quốc tịch của các trọng tài viên và người đại diện... Đây là ưu điểm của trọng tài so với tòa án.

- Về tính bí mật, hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp được thành lập để xem xét tranh chấp tiến hành họp kín. Theo yêu cầu của các bên, phiên họp giải quyết tranh chấp chỉ tiến hành với sự có mặt của các bên; thậm chí việc xem xét giải quyết tranh chấp có thể chỉ dựa trên những tài liệu, chứng cứ được cung cấp bởi các bên mà không cần phải mở phiên họp để tranh luận vấn đề.

- Về tính chuyên nghiệp, các trọng tài viên đều là những chuyên gia có trình độ về từng lĩnh vực. Họ có thể là những luật sư chuyên sâu về một lĩnh vực nào đó, trong khi đó không phải tất cả các thẩm phán đều là những chuyên gia có trình độ cao trong tất cả các lĩnh vực thương mại.

- Về kết quả phán quyết trọng tài, quyết định của trọng tài là chung thẩm, là kết quả cuối cùng ngay khi giải quyết xong tranh chấp, buộc các bên phải chấp hành. Trong khi đó các quyết định sơ thẩm của tòa án thường chưa phải là kết quả cuối cùng và có thể bị kháng cáo lên nhiều cấp độ xét xử phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm.

c) Về tính chất quốc tế của trọng tài thương mại quốc tế

Các bên trong tranh chấp thương mại quốc tế có thể lựa chọn một trong hai loại hình trọng tài đó là trọng tài quy chế (institution) và trọng tài vụ việc (ad hoc). Trọng tài vụ việc là loại hình trọng tài mà các bên trong tranh chấp tự thành lập để giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, tự quyết định số lượng trọng tài viên và thủ tục tố tụng trọng tài, không có sự trợ giúp của một cơ chế ổn định được lập từ trước để giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Trọng tài quy chế là loại thủ tục trọng tài được thành lập ổn định từ trước để giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, có thủ tục tố tụng trọng tài được xác lập từ trước để áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế theo quy định của một tổ chức trọng tài.

Trọng tài thương mại quốc tế, ngoài việc là một trọng tài thương mại được hiểu theo nghĩa rộng như đã trình bày, thì nó còn được hiểu theo nghĩa trọng tài có cơ cấu tổ chức và hoạt động vượt ra ngoài ranh giới một quốc gia. Tiêu chí khẳng định tính chất quốc tế này của trọng tài quốc tế thể hiện ít nhất ở một trong ba điểm sau đây: (i) Khi tranh chấp thương mại có một hoặc các bên có quốc tịch nước ngoài; (ii) Khách thể hoặc đối tượng của vụ tranh chấp nằm ở nước ngoài; (iii) Sự kiện pháp lý làm phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp xảy ra ở nước ngoài.

3.2. Một số vấn đề pháp lý cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài

a) Thoả thuận trọng tài

Theo Điều 7.1. của Luật mẫu UNCITRAL về Trọng tài thương mại quốc tế thì Thoả thuận trọng tài được xác định như sau: “Thoả thuận trọng tài là thoả thuận theo đó các bên đưa ra trọng tài bất kỳ một hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng. Thoả thuận trọng tài có thể dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thoả thuận riêng”.

Theo Khoản 1 Điều II của Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài (Công ước New York) thì thỏa thuận trọng tài được xác định như sau: “Mỗi quốc gia thành viên sẽ công nhận một văn bản thoả thuận theo đó các bên cam kết đưa ra xét xử trọng tài mọi tranh chấp đã hoặc có thể sẽ nảy sinh giữa các bên từ một quan hệ pháp lý xác định, có quan hệ hợp đồng hay không, liên quan tới nội dung tranh chấp có khả năng giải quyết được bằng trọng tài”.

b) Nội dung hoặc đối tượng của vụ tranh chấp có thể được giải quyết bằng trọng tài

Vụ việc được giải quyết bằng trọng tài không được trái với lợi ích công cộng, trái với quy định pháp luật nơi có trọng tài giải quyết vụ việc hoặc không thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt của toà án. Khoản 1 Điều 2 của Công ước New York quy định đối tượng của vụ tranh chấp có thể được giải quyết bằng trọng tài phải là những đối tượng không thuộc thẩm quyền riêng biệt của toà án quốc gia. Pháp luật một số nước quy định trọng tài không được giải quyết các vụ kiện liên quan đến chống độc quyền hoặc về luật cạnh tranh hoặc chứng khoán hoặc những vấn đề liên quan đến chính sách của một quốc gia.

c) Thẩm quyền của trọng tài

Để đảm bảo được các sai sót cũng như chi phí cho các bên, pháp luật trọng tài các nước thường quy định xem xét thẩm quyền của hội đồng trọng tài trước khi hội đồng tiến hành xem xét vụ tranh chấp. Theo Bản Quy tắc Trọng tài UNCITRAL, hội đồng trọng tài có quyền quyết định về thẩm quyền của mình khi có sự phản đối thẩm quyền đó (khoản 1 Điều 21). Bản Quy tắc không quy định việc các bên có thể kháng cáo quyết định này của Hội đồng trọng tài ra toà án, tuy nhiên, việc trọng tài không có thẩm quyền có thể sẽ ảnh hưởng tới việc cho công nhận và thi hành quyết định của trọng tài trong tương lai và bên phản đối vẫn còn cơ hội để làm việc đó sau này.

Bị đơn có quyền phản đối thẩm quyền trọng tài ngay khi nhận được thông báo trọng tài nếu có cơ sở. Cơ sở hợp pháp ở đây tập trung vào lập luận vấn đề vô hiệu của thoả thuận trọng tài, thẩm quyền của trọng tài... Theo quy định của Quy tắc Trọng tài UNCITRAL, việc phản đối thẩm quyền trọng tài phải được đưa ra trước khi gửi đơn phản yêu cầu. Hội đồng trọng tài có thẩm quyền giải quyết việc khiếu kiện phản đối thẩm quyền trọng tài. Trong trường hợp bác đơn phản đối, hội đồng trọng tài có quyền tiếp tục tiến hành tố tụng trọng tài để ra phán quyết cuối cùng.

d) Thành phần trọng tài

Số lượng trọng tài viên của Hội đồng trọng tài do các bên thoả thuận. Tuy nhiên, các bản quy tắc trọng tài thường quy định một số phương án nhất định để các bên lựa chọn: 1, 3 hoặc 5 trọng tài viên.

Điều 8 Quy tắc trọng tài của Phòng thương mại quốc tế có quy định tranh chấp có thể được xét xử bằng một trọng tài duy nhất hoặc bằng hội đồng có 3 trọng tài viên.

Điều 5 Quy tắc trọng tài UNCITRAL có quy định: “Nếu các bên trước đó không thỏa thuận được về số lượng trọng tài (đó là một hoặc ba) và nếu trong vòng 15 ngày sau khi nhận được thông báo của bị đơn về việc đưa vụ việc ra giải quyết bằng trọng tài mà các bên vẫn chưa đồng ý rằng vụ việc sẽ được xét xử bằng một trọng tài thì hội đồng giải quyết tranh chấp gồm 3 trọng tài viên sẽ được thành lập”.

Đa số các quy chế của các trọng tài thương mại quốc tế quy định thành phần của hội đồng trọng tài gồm ba trọng tài viên. Trong đó, mỗi bên tranh chấp chọn một trọng tài viên, còn trọng tài viên thứ ba do hai trọng tài viên được chọn đó sẽ cùng bầu ra, nếu như­ họ không thể thoả thuận được thì sẽ do một cá nhân hoặc tổ chức quốc tế có uy tín như phòng thương mại quốc tế hoặc toà án quốc tế của Liên Hợp quốc sẽ tuyển chọn. Thực tiễn cho thấy không có một hạn chế gì về quốc tịch của các trọng tài viên.

e) Thủ tục tố tụng và trọng tài phí

- Về thủ tục tố tụng: Thủ tục tố tụng trọng tài vụ việc (ad hoc) có thể được quy định cụ thể trong Thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài cũng có thể dẫn chiếu đến việc áp dụng một quy tắc tố tụng nào đó như: Quy tắc tố tụng của trọng tài UNCITRAL hoặc Quy tắc tố tụng của ICC.

Thủ tục tố tụng của trọng tài quy chế được quy định theo Quy tắc tố tụng và được Ban Thư ký của trung tâm trọng tài hỗ trợ.

- Về chi phí trọng tài: Chi phí trọng tài là các khoản chi phí cần thiết trong quá trình tố tụng trọng tài, thường bao gồm: tiền thù lao cho các trọng tài viên; các chi phí đi lại và chi phí khác cho trọng tài viên; các chi phí cho chuyên gia và các trợ giúp khác do Hội đồng trọng tài yêu cầu; các chi phí đi lại và chi phí khác cho những nhân chứng ở mức độ hội đồng trọng tài có thể chấp nhận; các chi phí cho đại diện và sự trợ giúp hợp pháp của bên khiếu kiện ở mức độ hội đồng trọng tài có thể chấp nhận; các khoản chi phí khác; thù lao cho trọng tài thường trực.

Mức độ của các khoản chi phí này cần do hội đồng trọng tài xác định. Theo Bản Quy tắc Trọng tài UNCITRAL (khoản 1 Điều 30), để tính các khoản thù lao, hội đồng trọng tài căn cứ vào số lượng tranh chấp, tính phức tạp của tranh chấp, thời gian đã sử dụng của các trọng tài viên và các vấn đề liên quan khác trong từng trường hợp cụ thể. Người gánh chịu phí trọng tài là bên thua kiện. Tuy nhiên, trong từng điều kiện cụ thể, hội đồng trọng tài có quyền quyết định tỷ lệ các phí đó cho các bên.

Các phí trọng tài cần phải được đặt trước khi tiến hành tố tụng. Theo nguyên tắc bên nguyên là người phải ứng trước phí trọng tài nếu các bên không thỏa thuận khác. Song cũng cần có quy định về việc bổ sung tiền đặt trước. Trong trường hợp bên phải đặt tiền trước không thực hiện nghĩa vụ của mình, tùy theo từng trường hợp, hội đồng trọng tài có quyền quyết định dừng hoặc kết thúc quá trình tố tụng.

f) Địa điểm và ngôn ngữ giải quyết tranh chấp

Trong số các địa điểm mà trọng tài tiến hành họp nghe trình bày của các bên, địa điểm nơi trọng tài đưa ra phán quyết được gọi là địa điểm trọng tài. Đối với trọng tài sự vụ, địa điểm trọng tài thường được xác định trên cơ sở thỏa thuận của các bên. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận về điều đó, hội đồng trọng tài sẽ xác định địa điểm trọng tài trên cơ sở tính đến các hoàn cảnh của các bên và vụ việc tranh chấp. Đối với trọng tài thường trực, địa điểm trọng tài thường được xác định là trụ sở của trọng tài. Tuy nhiên, trong những trường hợp cần thiết hội đồng trọng tài có thể tiến hành họp tại các địa điểm khác mà hội đồng cho là thích hợp với sự đồng ý của các bên (thậm chí ở quốc gia khác).

Ngôn ngữ tiến hành tố tụng trọng tài là ngôn ngữ mà các bên thỏa thuận (đối với trọng tài vụ việc) hoặc ngôn ngữ mà quy tắc trọng tài quy định (đối với trọng tài thường trực). Ngôn ngữ trọng tài ở đây là ngôn ngữ được dùng để viết đơn yêu cầu, đơn phản kiện tài liệu về các vấn đề tranh chấp, hồ sơ vụ tranh chấp, ngôn ngữ tranh luận. Những văn bản bằng ngôn ngữ gốc của chúng hoặc các bên hoặc nhân chứng sử dụng không phải là ngôn ngữ trọng tài thì phải được dịch ra ngôn ngữ trọng tài.

g) Chứng cứ và trình bày

Trong tố tụng trọng tài cũng như tòa án, các bên có trách nhiệm chứng minh các vấn đề là cơ sở cho đơn kiện hoặc đơn phản kiện của mình. Ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng, hội đồng trọng tài đều có thể yêu cầu các bên xuất trình các tài liệu, tang vật hay chứng cứ khác trong thời hạn do hội đồng trọng tài quyết định trên cơ sở phù hợp với thời gian biểu tiến hành tố tụng trọng tài. Trong trường hợp cần nghe các bên trình bày, hội đồng trọng tài cần thông báo trước cho các bên về thời gian và địa điểm nghe các bên trình bày.

Nếu cần nghe nhân chứng trình bày theo yêu cầu của các bên, với sự đồng ý của hội đồng trọng tài, bên yêu cầu cần gửi cho hội đồng danh sách ghi tên địa chỉ các nhân chứng, đối tượng và ngôn ngữ mà các nhân chứng sẽ trình bày. Hội đồng trọng tài cần tổ chức việc phiên dịch các báo cáo miệng tại buổi nghe trình bày và tổ chức ghi chép tại buổi nghe nếu thấy điều đó là cần thiết. Hội đồng trọng tài quyết định về giá trị và độ tin cậy của các lời khai của các nhân chứng và các chứng cứ, chứng minh khác.

h) Các biện pháp ngăn ngừa tạm thời

Để đảm bảo cho quyết định trọng tài được thực thi và lợi ích hợp pháp của các bên được bảo đảm, trong quy trình tố tụng trọng tài cần có quy định về việc áp dụng biện pháp tạm thời nhằm ngăn chặn việc tẩu tán tài sản, hủy hoại các chứng cứ…

Thẩm quyền ra quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là thẩm quyền của các cơ quan nhà nước (thường là tòa án nơi có trọng tài giải quyết tranh chấp hoặc nơi có bất động sản...). Hội đồng trọng tài không có quyền quyết định việc đó. Theo quy định của Điều 9 Luật Mẫu UNCITRAL, thì tòa án tư pháp nơi có trọng tài giải quyết tranh chấp là toà án có thẩm quyền ban hành hoặc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời (interim measures). Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là hội đồng trọng tài có vai trò gì ở đây trong việc áp dụng các biện pháp trên. Về điều này có hai dòng ý kiến khác nhau: dòng ý kiến thứ nhất cho rằng công việc này không liên quan tới hội đồng trọng tài; dòng ý kiến thứ hai thì cho rằng, mặc dù hội đồng trọng tài không có thẩm quyền quyết định có áp dụng hay không, song ý kiến của hội đồng trọng tài cần được coi là ý kiến có ý nghĩa tham khảo đối với cơ quan toà án tư pháp có thẩm quyền. Bởi chính hội đồng trọng tài là người am hiểu vụ việc chứ không phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định việc trên. Theo nhóm nghiên cứu, ý kiến thứ hai là xác đáng và có cơ sở hơn.

i) Sự vắng mặt của các bên

Nếu trong khoảng thời gian được phép khởi kiện theo pháp luật quy định mà bên nguyên không gửi đơn kiện thì không thể tiến hành tố tụng trọng tài. Nếu trong khoảng thời gian luật định, bên bị đơn không gửi đơn phản kiện mà không có lý do chính đáng thì hội đồng trọng tài vẫn tiếp tục quá trình tố tụng theo lịch trình đã định.

Nếu một bên hoặc các bên đã được thông báo đầy đủ theo luật định mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng thì hội đồng trọng tài vẫn tiến hành giải quyết.

j) Kết thúc các buổi nghe trình bày

Nếu các bên có chứng cứ mới thì hội đồng trọng tài có thể tiếp tục yêu cầu họ trình bày. Nếu không thì hội đồng trọng tài sẽ tuyên bố kết thúc các buổi nghe. Ở bất kỳ thời gian nào trước khi ra quyết định, hội đồng trọng tài có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của một bên, ra quyết định tổ chức lại buổi nghe trình bày nếu xét thấy cần thiết. Tuy nhiên, đó chỉ là những trường hợp ngoại lệ.

Các bản sao các lệnh kết thúc quá trình tố tụng hay các quyết định trọng tài theo các điều khoản đã thỏa thuận phải do các trọng tài viên ký và được hội đồng trọng tài gửi cho các bên.

k) Giải thích quyết định

Theo Bản Quy tắc Trọng tài UNCITRAL (Điều 35), trong vòng ba mươi ngày sau khi nhận được quyết định, cùng với việc thông báo cho bên kia, mỗi bên có thể yêu cầu hội đồng trọng tài giải thích về quyết định đó. Việc giải thích sẽ phải lập bằng văn bản và trong vòng bốn lăm ngày sau khi nhận được yêu cầu. Văn bản giải thích là một phần quyết định trọng tài. Ngoài các quyết định trọng tài chính, hội đồng trọng tài có thể ra quyết định bổ sung.

3.3. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại một số trung tâm trọng tài quốc tế trên thế giới

a) Trung tâm trọng tài quốc tế được thành lập sớm nhất là Tòa trọng tài quốc tế Luân Đôn (LCIA - London Court of International Arbitration). Tổ chức này được thành lập vào năm 1892 với tên gọi ban đầu là “The new City of London Chamber of Arbitration) và trở thành LCIA năm 1986. Nhiệm vụ chủ yếu của trung tâm là cung cấp dịch vụ trọng tài để giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại, không phụ thuộc vào quốc tịch của các bên trong tranh chấp. Trọng tài viên của Trung tâm gồm các thành viên có kiến thức và kinh nghiệm từ các nước phát triển, kể các các trọng tài viên từ Trung Quốc và Nhật Bản. Trung tâm cũng có Quy tắc trọng tài riêng và đã được sửa đổi năm 1998. Hội đồng trọng tài được thiết kế và cơ chế hoạt động dựa trên quy định của Luật mẫu UNCITRAL.

b) Trung tâm trọng tài thuộc Phòng Thương mại Stockholm (Arbitration Institute of the Stockholm Chamber of Commerce) được thành lập vào năm 1917. Trong những năm 1970, trung tâm này đã được Hoa Kỳ và Liên Xô công nhận là một trung tâm trung lập, chuyên giải quyết các tranh chấp thương mại Đông - Tây.

c) Tòa trọng tài thuộc Phòng Thương mại quốc tế (ICC International Court of Arbitration) được thành lập vào năm 1923, tại Paris (Pháp) với chức năng “giải quyết các tranh chấp thương mại có tính chất quốc tế bằng thủ tục trọng tài phù hợp với các Quy tắc trọng tài của ICC”. Trọng tài viên của ICC sẽ tham gia giải quyết các vụ tranh chấp thông qua việc thành lập các hội đồng trọng tài. Công việc hàng ngày của ICC sẽ do Ban thư ký thực hiện. Ban thư ký giải quyết các vụ việc liên quan đến hướng dẫn, thủ tục về mặt hành chính và hỗ trợ hội đồng trọng tài. Quy tắc trọng tài gần đây nhất (đã được sửa đổi) của ICC có hiệu lực kể từ ngày 01/1/1998. Quy tắc này đóng vai trò quan trọng trong việc quy định trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại quốc tế nhưng bên cạnh đó đã để ngỏ việc tự chủ của các bên trong tranh chấp, quyết định những vấn đề mà họ cho là cần thiết.

d) Trung tâm giải quyết tranh chấp quốc tế của Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ được thành lập vào năm 1926. Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ (AAA-American Arbitration Association) cung cấp hàng loạt các dịch vụ khác nhau, trong đó có việc giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế, không phụ thuộc vào bản chất của hoạt động thương mại, địa lý hoặc bản chất của vụ việc. Năm 1997, AAA đã đưa ra Bản Quy tắc trọng tài trên cơ sở Luật mẫu UNCITRAL.

đ) Uỷ ban trọng tài Thương mại và Kinh tế quốc tế của Trung Quốc (CIETAC- China International Economic and Trade Arbitration Commission) được thành lập vào năm 1955. Uỷ ban này có nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp giữa các công ty nước ngoài và các doanh nghiệp Trung Quốc, các liên doanh và các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Uỷ ban có cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế cơ bản dựa vào Luật mẫu UNCITRAL.

e) Trung tâm trọng tài khu vực Kuala Lumpur (KLRCA- Kuala Lumpur Regional Centre for Arbitration ) được thành lập vào năm 1978, dưới sự bảo trợ của Uỷ ban Tư vấn Pháp luật Á - Phi và sự giúp đỡ của Chính phủ Malaysia. Cũng trong năm này, Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế khu vực Cairo (CRCICA - Cairo Regional Centre for International Commercial Arbitration) đã ra đời dưới sự bảo trợ của Uỷ ban tư vấn pháp luật Á - Phi và sự giúp đỡ của Chính phủ Ai Cập.

g) Trung tâm hòa giải và trọng tài thuộc Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (Arbitration and Mediation Centre of the World Intellectual Property Organization) được thành lập vào năm 1994, giới thiệu các phương thức hòa giải và trọng tài để giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế giữa các bên thuộc lĩnh vực tư nhân.

h) Ở Việt Nam, năm 1963 và 1964, hai Hội đồng trọng tài quốc tế là Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải đã ra đời, đặt bên cạnh Phòng thương mại và đây là các tổ chức trọng tài phi chính phủ quy chế đầu tiên tại Việt Nam. Từ năm 1993, hai Hội đồng trọng tài này đã được hợp nhất lại thành Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC).

3.4. Cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài ICSID

Năm 1965, Trung tâm giải quyết các tranh chấp đầu tư quốc tế (ICSID - International Centre for Settlement of Investment Dispute) được thành lập trên cơ sở Công ước Washington năm 1965. Cơ cấu tổ chức, trình tự và thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại và đầu tư quốc tế của ICSID cơ bản như sau:

a) Tổ chức bộ máy của Trung tâm ICSID

Theo Công ước ICSID, Trung tâm ICSID đặt trụ sở chính tại Ngân hàng Thế giới với tổ chức bộ máy gồm: Hội đồng điều hành, Ban Thư ký, Uỷ ban hoà giải và Uỷ ban Trọng tài.

- Thứ nhất, Hội đồng điều hành: Theo các Điều 4, 5, 6, 7 và 8 của Công ước ICSID, mỗi quốc gia thành viên được quyền cử một thành viên tham gia Hội đồng này. Chủ tịch Ngân hàng thế giới đương nhiên là chủ tịch Hội đồng điều hành nhưng không có quyền biểu quyết. Hội đồng điều hành có thẩm quyền thông qua các quy định về hành chính, tài chính, các quy tắc về thủ tục tố tụng hoà giải và trọng tài; ngân sách các khoản thu - chi hàng năm; phê chuẩn các thoả thuận với Ngân hàng Thế giới để sử dụng các cơ sở vật chất, dịch vụ và hành chính của Ngân hàng, các báo cáo hoạt động hàng năm của Trung tâm và quyết định điều kiện làm việc của Tổng thư ký và từng Phó Tổng thư ký. Hội đồng điều hành có thể thành lập các Uỷ ban nếu thấy cần thiết, tổ chức họp hàng năm và các cuộc họp khác theo quyết định của Hội đồng hoặc theo yêu cầu của Chủ tịch, Tổng thư ký hoặc theo đề nghị của ít nhất năm thành viên Hội đồng. Mỗi thành viên của Hội đồng được quyền có một phiếu và tất cả các vấn đề được đưa ra trước Hội đồng sẽ được quyết định theo đa số phiếu.

- Thứ hai, Ban thư ký: Theo quy định tại các Điều 9, 10 và 11 của Công ước ICSID, Ban thư ký bao gồm một Tổng thư ký, một hoặc nhiều Phó Tổng thư ký và các nhân viên. Tổng thư ký và Phó Tổng thư ký phải do Chủ tịch đề cử và được hai phần ba thành viên Hội đồng biểu quyết lựa chọn. Tổng Thư ký và Phó Tổng thư ký có nhiệm kỳ không quá 6 năm và có thể được bầu lại. Tổng thư ký và Phó Tổng thư ký không được thực hiện bất kỳ hoạt động chính trị nào cũng như không tham gia bất kỳ quan hệ lao động nào khác. Tổng thư ký là đại diện hợp pháp và là người lãnh đạo Trung tâm ICSID và chịu trách nhiệm đối với hoạt động quản lý, kể cả việc bổ nhiệm nhân viên. Tổng Thư ký thực hiện chức năng là cơ quan đăng ký và có quyền chứng thực các phán quyết trọng tài được đưa ra theo Công ước và xác nhận bản sao của các phán quyết đó.

- Thứ ba, Uỷ ban Trọng tài và Uỷ ban hoà giải: Theo các Điều 12, 13, 14, 15 và 16 của Công ước ICSID, Uỷ ban trọng tài và Uỷ ban hoà giải bao gồm những người có đủ năng lực, đạo đức, có chuyên môn về pháp luật, thương mại, tài chính và có khả năng đưa ra các phán quyết một cách độc lập. Mỗi quốc gia ký kết có thể đề cử 4 người vào mỗi uỷ ban. Những người này không bắt buộc phải là công dân của quốc gia đó. Chủ tịch Hội đồng điều hành có thể cử 10 người vào mỗi Hội đồng song những người này phải có quốc tịch khác nhau. Thành viên của Uỷ ban này có nhiệm kỳ sáu năm và có thể được gia hạn. Một người có thể là thành viên của cả hai uỷ ban.

b) Thẩm quyền của Trung tâm ICSID

Thẩm quyền của Trung tâm ICSID được xác định rõ trong các điều 25, 26, 27 và các điều khoản có liên quan của Công ước ICSID. Cụ thể, theo Điều 25 "Trung tâm có thẩm quyền xét xử bất kỳ tranh chấp pháp lý nào phát sinh từ hoạt động đầu tư giữa một quốc gia ký kết (hoặc bất kỳ cơ quan hoặc tổ chức trực thuộc hợp hiến nào mà quốc gia đó báo cho Trung tâm) và công dân của một quốc gia ký kết khác và được các bên tranh chấp đồng ý giải quyết tại Trung tâm bằng văn bản".

Ngoài ra, một vụ tranh chấp đầu tư được đưa ra giải quyết theo thủ tục của Công ước ICSID, phụ thuộc vào một trong các yếu tố sau: (i) Chính phủ nước nhận đầu tư và nhà đầu tư phải có thoả thuận về việc đưa vụ tranh chấp cụ thể đang tồn tại ra giải quyết tại Trung tâm ICSID; (ii) Các Chính phủ đã hoặc chưa phải là thành viên của Công ước ICSID phải có thoả thuận trong một điều ước quốc tế đầu tư song phương về việc đưa vụ tranh chấp với nhà đầu tư của Chính phủ nước ký kết kia ra giải quyết tại Trung tâm ICSID; (iii) Pháp luật của quốc gia thành viên có quy định cho phép đưa vụ tranh chấp giữa chính phủ nước nhận đầu tư và nhà đầu tư ra giải quyết tại Trung tâm ICSID.

Với tinh thần nêu trên cho thấy, thẩm quyền giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế của Trung tâm ICSID không phải là đương nhiên mà hoàn toàn do sự thoả thuận lựa chọn của Chính phủ nước ký kết Công ước và nhà đầu tư của nước ký kết khác.

c) Thủ tục giải quyết tranh chấp theo Công ước ICSID

Theo quy định của Công ước ICSID, Trung tâm ICSID giải quyết tranh chấp đầu tư theo thủ tục hoà giải hoặc thủ tục trọng tài. Thủ tục hoà giải được quy định tại Chương III, từ Điều 28 đến Điều 35, còn thủ tục trọng tài được quy định tại Chương IV từ Điều 36 đến Điều 52 của Công ước. Cả hai thủ tục này còn được cụ thể hoá trong Quy tắc về thủ tục hoà giải và Quy tắc về thủ tục trọng tài do Hội đồng điều hành thông qua ngày 25/9/1967, có hiệu lực ngày 01/01/1968 và được sửa đổi, bổ sung ngày 26/9/1984.

d)  Quyết định của hội đồng trọng tài và việc thi hành quyết định đó

Thứ nhất, quyết định của hội đồng trọng tài

Theo Điều 48 của Công ước ICSID, hội đồng trọng tài giải quyết các vụ tranh chấp theo đa số phiếu của tất cả các thành viên. Phán quyết của hội đồng trọng tài phải được lập thành văn bản và được các thành viên tham gia biểu quyết ký. Thành viên của hội đồng trọng tài có thể ghi vào phán quyết ý kiến của mình về việc đồng ý hoặc không đồng ý với quyết định đa số của các thành viên khác. Phán quyết của hội đồng trọng tài chỉ được công bố khi có sự đồng ý của các bên tranh chấp.

Thứ hai, thi hành phán quyết của hội đồng trọng tài

Theo Điều 53 của Công ước ICSID, phán quyết của trọng tài là chung thẩm, có giá trị ràng buộc với các bên tranh chấp và không thể bị kháng cáo. Các bên phải tôn trọng và tuân thủ phán quyết trừ trường hợp phán quyết bị đình chỉ thi hành theo các điều kiện quy định tại công ước này.

e) Cơ chế phụ trợ của Công ước ICSID

Cơ chế phụ trợ của Công ước ICSID được viết tắt là AF (Additional Facility). Cơ chế này được xây dựng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng các điều kiện của Trung tâm ICSID mở rộng trong các trường hợp khi nước chủ nhà hoặc nước của nhà đầu tư không phải là thành viên của Công ước ICSID. Quy chế trọng tài phụ trợ của Công ước ICSID gồm có 11 chương với 60 điều. Hầu hết các quy định của quy chế này đều giống với các quy định của trọng tài trong Công ước ICSID.

Theo quy định của cơ chế phụ, các bên sẽ không được phép gửi yêu cầu bãi bỏ quyết định trọng tài lên Uỷ ban bãi bỏ của Trung tâm ICSID. Đây chính là sự khác biệt của cơ chế phụ với cơ chế trọng tài ICSID. Tuy nhiên, cơ chế phụ cho phép các bên có thể gửi yêu cầu bãi bỏ quyết định trọng tài tới các Toà án để phân xử. Quy định này cũng tương tự như Quy tắc trọng tài UNCITRAL tức là cơ chế phụ của Công ước ICSID và Quy tắc trọng tài UNCITRAL đều cho phép toà án các nước có liên quan được quyền xem xét lại quyết định của trọng tài, mặc dù toà án của các nước này không thường xuyên đóng vai trò trọng tài đối với các quyết định này.

4. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới

4. 1. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại trong WTO

a) Thoả thuận giải quyết tranh chấp

Thoả thuận ghi nhận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU) là một văn kiện pháp lý quan trọng trong tổng thể tất cả các hiệp định và thoả thuận mà bất kỳ nước thành viên WTO nào cũng phải cam kết tham gia và thực hiện, mặc dù nó không có tên gọi là hiệp định. DSU được đưa vào WTO với tư cách là Phụ lục 2 của Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO giống như là “điều khoản về giải quyết tranh chấp của WTO” (tương tự như điều khoản trọng tài trong hợp đồng thương mại). DSU được xây dựng trên cơ sở các quy định và thực tiễn của GATT với những sửa đổi thích hợp làm cho các quy định này dễ dàng áp dụng một cách hiệu quả hơn. “Các nước thành viên khẳng định việc tuân theo những nguyên tắc giải quyết tranh chấp từ trước tới nay được áp dụng theo Điều XXII và XXIII của GATT 1947, và những quy tắc và thủ tục được tiếp tục sửa đổi trong thoả thuận này.” (Điều 3.1 DSU). Các căn cứ khởi kiện vẫn là 3 căn cứ được quy định tại Điều XXIII của GATT 1994: (i) Khi nước thành viên WTO vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ trong một hiệp định nào đó của WTO; (ii) Khi có một biện pháp của một thành viên được cho là xâm hại quyền lợi của nước khác nhưng không có vi phạm hiệp định nào của WTO; (iii) Khi có các tình huống bất kỳ đem lại thiệt hại về quyền lợi.

Một nguyên tắc rất quan trọng đã được đưa vào DSU để chấm dứt tình trạng các nước tự đơn phương giải quyết các bất đồng với các nước thành viên khác “Khi các nước thành viên muốn xử lý một [tranh chấp]... thì những nước thành viên này phải dựa vào và tuân thủ theo... [DSU]” (Điều 23.1). Điều 23 của DSU cũng cấm việc các nước thành viên tự cho là nước thành viên khác có vi phạm một quy định của WTO khi chưa có quyết định của Cơ quan giải quyết tranh chấp WTO (DSB). Thông qua DSU các nước thành viên WTO đã thiết lập nên Cơ quan giải quyết tranh chấp WTO, mà thực tế là Hội đồng chung của WTO được triệu tập để thực hiện chức năng về giải quyết tranh chấp.

Cơ quan tiến hành tố tụng có vai trò lớn trong việc giải quyết tranh chấp là Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm, là hai cấp tố tụng giống như ở toà án các nước: sơ thẩm và phúc thẩm. Đây là bước tiến bộ lớn để vừa bảo đảm là quy trình tố tụng được tiến hành một cách “tự động” mà lại vừa bảo đảm có thể hạn chế và loại bỏ các sai sót có thể của cấp sơ thẩm. Sau hơn 10 năm thực hiện DSU, cho thấy các quy định về Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm đã vận hành tốt và các kết luật phúc thẩm của Cơ quan phúc thẩm WTO đã tạo lập được sự tin tưởng của các nước thành viên WTO.

Quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp và bên thứ ba cũng được đề cập cụ thể tại DSU bảo đảm cho các bên có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình một cách hiệu quả. DSU cũng đưa ra một số giải pháp thay thế cho việc theo kiện là trung gian, hoà giải và trọng tài. WTO cũng có một số quy định dành ưu đãi cho các nước đang phát triển khi tham gia vào giải quyết tranh chấp.

b) Các quy tắc và thủ tục đặc biệt hay bổ sung được nêu trong các hiệp định liên quan

DSU có 4 phụ lục kèm theo: Phụ lục 1 liệt kê các hiệp định có liên quan mà các khiếu kiện có thể được giải quyết theo DSU; Phụ lục 2 đưa ra danh sách các quy tắc và thủ tục đặc biệt hay bổ sung được nêu trong các hiệp định liên quan; Phụ lục 3 quy định về thủ tục làm việc của Ban hội thẩm với các mốc thời hạn cụ thể; Phụ lục 4 quy định về thủ tục thành lập nhóm chuyên gia giám định theo Điều 13.2 DSU.

Các quy tắc và thủ tục đặc biệt hay bổ sung được nêu trong các hiệp định liên quan là các quy định được ưu tiên áp dụng trong trường hợp có sự khác nhau hay mâu thuẫn với các quy định của DSU.

c) Những điểm còn tồn tại của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO

Bên cạnh các ưu điểm, cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế trong khuôn khổ WTO vẫn còn những điểm hạn chế sau đây:

- Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO không có cơ quan hay một cách thức cưỡng chế hữu hiệu nào để thực thi phán quyết giải quyết tranh chấp. Chế tài duy nhất cho việc cưỡng chế thực thi mà quy trình giải quyết tranh chấp trong WTO cho phép là trả đũa thương mại, tức là áp đặt những biện pháp thương mại phân biệt đối xử của nước khiếu nại đối với thương mại của nước vi phạm.

- Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại trong WTO ngày càng trở nên phức tạp, kéo dài và tốn kém hơn. Quy trình tố tụng có xu thế phân thành hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Các tranh chấp chứa đựng nhiều vấn đề pháp lý phức tạp và việc giải quyết được dựa vào các quy tắc giải thích điều ước quốc tế được quy định trong Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế. Đây thực sự là những trở ngại cho các nước có các nguồn lực hạn chế khi theo đuổi các vụ kiện.

- Vòng Uruguay đã đem lại những tiến bộ lớn cho thể chế thương mại đa phương, nhưng nhiều quy định, nhất là các quy định có tính nguyên tắc bắt nguồn từ các quy định của GATT được đàm phán trong giai đoạn 1947-1948. Điều này đúng với cả các quy định về giải quyết tranh chấp và các quy định khác liên quan đến các lĩnh vực thương mại hàng hoá. Hệ quả đem lại là chúng ta phải đương đầu với việc giải thích, áp dụng các quy định được đàm phán cách đây nửa thế kỷ vào những tình huống, phát triển hiện đại.

4.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của ASEAN

Ngày 20/11/1996, sau một thời gian dài làm việc, Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN (Nghị định thư DSM 1996) đã được ký. Nhìn chung, cấu trúc pháp lý của Nghị định thư DSM 1996 gồm hai phần: phần giải quyết tranh chấp theo kênh tài phán và phần giải quyết tranh chấp theo kênh ngoài tài phán.

a) Phạm vi giải quyết tranh chấp.

Nghị định thư DSM 1996 được áp dụng cho mọi tranh chấp phát sinh từ hoạt động hợp tác kinh tế của các nước ASEAN theo các quy định của Hiệp định khung năm 1992 của ASEAN (được bổ sung 1995) về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN. Nghị định thư DSM 1996 cũng được áp dụng cho mọi tranh chấp phát sinh từ hoạt động hợp tác kinh tế của các nước ASEAN theo các quy định của 47 hiệp định kinh tế cụ thể của ASEAN đã có và các hiệp định khác sẽ được ký kết trong tương lai.

b) Quy trình giải quyết tranh chấp theo Nghị định thư DSM 1996

Nghị định thư DSM 1996 ký ngày 20/11/1996 giữa các nước ASEAN, gồm Bruney, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Nghị định thư DSM 1996 gồm 12 điều và 2 phụ lục quy định khá chi tiết quy trình giải quyết tranh chấp thương mại - đầu tư của ASEAN. Các giai đoạn chính của quy trình giải quyết tranh chấp thương mại - đầu tư của ASEAN là: thương lượng (Điều 2); Môi giới (good offices), Hoà giải (conciliation), Trung gian (Mediation) (Điều 3); Tố tụng tại Panel (Điều 6 và Phụ lục 2); Thủ tục phúc thẩm quyết định của SEOM (Điều 8); Thi hành các quyết định (Điều 9, Điều 11).

c) Nghị định thư DSM 2004

Nghị định thư DSM 2004 được ký ngày 29/11/2004 sửa đổi Nghị định thư DSM 1996. Nghị định thư DSM 2004 gồm 21 điều 02 phụ lục. Về cơ bản, Nghị định thư DSM 2004 được xây dựng trên cơ sở Nghị định thư DSM 1996, có tính đến các tác động của quá trình hài hoà hoá pháp luật về cơ chế giải quyết tranh chấp bán tư pháp được áp dụng khá thành công trong khuôn khổ WTO và một số nước và những nhược điểm về tính thiếu hiệu quả do quy định thiếu cụ thể về một số vấn đề trong Nghị định thư DSM 1996. Nghị định thư DSM 2004 quy định rõ cơ quan quản lý việc thực hiện Nghị định thư DSM 2004; quy định rõ hơn về quy trình thành lập Panels, về chức năng, nhiệm vụ, quy chế hoạt động, thủ tục tố tụng của Panels; quy định rõ hơn về việc thực hiện các quyết định hoặc khuyến nghị của cơ quan giải quyết tranh chấp; quy định về việc bồi thường, tạm ngừng các quyền lợi, về khung thời gian tối đa để giải quyết một vụ tranh chấp; quy định rõ hơn về Quỹ của DSM, về chi phí cho việc giải quyết tranh chấp. Cho dù trên thực tế, cả hai Nghị định thư DSM đều chưa được áp dụng nhưng đây đã là thành công trong quá trình hài hoà hoá các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại, đầu tư của các nước ASEAN.

4.3. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của EU

Liên minh Châu Âu (European Union-EU) đã có quá trình hình thành và phát triển trên 50 năm. Trong đó, Tòa án Châu Âu (European Court of Justice-ECJ) là một trong những thiết chế quan trọng. Để giảm bớt công việc xét xử của ECJ, Liên minh Châu Âu còn có Tòa án sơ thẩm (Court of First Instance-CFI) cùng ECJ hình thành nên hệ thống tư pháp của Liên minh Châu Âu.

a) Về cơ cấu tổ chức của Tòa án Liên minh Châu Âu

Cơ cấu tổ chức của ECJ và CFI được quy định tại Hiệp ước EC, trong đó ECJ gồm có mỗi một thẩm phán và công tố viên đại diện cho quốc gia của mình2. Tiêu chí cho việc bổ nhiệm thẩm phán và công tố viên được quy định tại Điều 223 của Hiệp ước EC, trong đó thẩm phán và công tố viên phải là chuyên gia độc lập, có trình độ tương đương với thẩm phán ở tòa án tối cao của quốc gia đó và sẽ được bổ nhiệm bởi chính phủ của quốc gia thành viên đó trong vòng 6 năm. Các thẩm phán sau khi được bổ nhiệm sẽ bầu ra Chánh án của ECJ và có thể được tái cử. Để hỗ trợ cho việc xét xử của thẩm phán, Ban thư ký tòa án (Registrar) được thành lập với chức năng hoạt động độc lập và giữ gìn bí mật khi xét xử.

b) Thẩm quyền của Tòa án Liên minh Châu Âu

Thẩm quyền của tòa án ECJ và chủ yếu được quy định tại Điều 226 đến Điều 243 của Hiệp ước EC. Về thẩm quyền chung thì ECJ và CFI3 có thẩm quyền bảo đảm việc giải thích và áp dụng Hiệp ước EC được thực thi trên thực tiễn, như sau:

- Có thẩm quyền giải thích các quy định của Hiệp ước EC;

- Có thẩm quyền đưa ra phán quyết về tính phù hợp về mặt pháp lý hoặc giải thích các văn bản do cơ quan của Cộng đồng Châu Âu ban hành hoặc văn bản do Ngân hàng Châu Âu ban hành;

- Có thẩm quyền giải thích các văn bản do Ủy ban Châu Âu ban hành.

c) Thủ tục tố tụng của tòa án Liên minh Châu Âu

Thủ tục tố tụng của ECJ và CFI được quy định tại Phần III của Nghị định thư về Tổ chức tòa án ECJ. Thủ tục tố tụng được chia thành 2 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là đệ trình các giấy tờ có liên quan giữa các bên các cơ quan của Cộng đồng Châu Âu như: đơn khởi kiện, bản tự bảo vệ và các giấy tờ có liên quan; Giai đoạn thứ hai là tranh luận trực tiếp tại phiên toà (oral stage).

Đề tài đã đưa ra một số vụ kiện điển hình được tòa án ECJ xét xử như: Hội đồng điện lực Italia kiện Costa; Rene kiện Cơ quan quản lý độc quyền liên bang về rượu của Cộng hoà Liên bang Đức; Eunomia di Porro và Co. kiện Bộ Giáo dục nước Italia.

4.4. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của APEC

APEC không xây dựng riêng một bộ quy tắc về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên như Thỏa thuận về quy tắc và thủ tục điều chỉnh giải quyết tranh chấp của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) hay Cơ chế giải quyết tranh chấp trong ASEAN (DSM) hoặc cơ chế giải quyết tranh chấp của NAFTA. Một trong những lý do chủ yếu về việc này là do APEC hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện và không ràng buộc. Do đó, những cam kết của các nước thành viên đối với quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư tại Diễn đàn này đều mang tính tự nguyện, không bị ép buộc phải thực hiện nên trên thực tế, hầu như sẽ không có vụ tranh chấp nào xẩy ra giữa các quốc gia thành viên. Bên cạnh đó, các nước thành viên của APEC hoặc là thành viên của một tổ chức kinh tế khu vực (ASEAN) hay tổ chức kinh tế thế giới (WTO) mà những tổ chức này đều có các quy tắc riêng quy định chi tiết về trình tự, thủ tục và phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các nước thành viên.

a) Phương thức giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên.

Việc giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên APEC được thực hiện theo phương thức hòa giải và tăng cường đối thoại. Đối thoại được thực hiện tại giai đoạn đầu khi xẩy ra tranh chấp. Đoạn a, Phần 12 của Kế hoạch hành động OSAKA4 quy định “APEC khuyến khích các nước thành viên giải quyết tranh chấp trên cơ sở hợp tác ở giai đoạn đầu nhằm giảm sự đối đầu và căng thẳng giữa các bên”. Việc khuyến khích đối thoại trong quá trình giải quyết tranh chấp còn được thể hiện tại Mục Kế hoạch hành động tập thể của Phần 12 Kế hoạch hành động OSAKA. Mục này có quy định như sau: “a. Liên quan đến vấn đề giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên APEC: (i) Khuyến khích đối thoại và tăng cường hiểu biết lẫn nhau, bao gồm trao đổi thông tin về những vấn đề có thể phát sinh tranh chấp và hợp tác xem xét lại trên cơ sở tự nguyện những tranh chấp phát sinh, sử dụng chính sách đối thoại như “Đối thoại chính sách thương mại” của Ủy ban thương mại và đầu tư (CTI); (ii) Cân nhắc thêm về việc làm sao các nước thành viên APEC có thể sử dụng Diễn đàn “Đối thoại chính sách thương mại” hoặc chức năng tương tự của các Diễn đàn khác để trao đổi thông tin, tăng cường đối thoại và trung hòa giải; (iii) Xem xét khả năng xây dựng một thủ tục giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên APEC khi quá trình tự do hóa phát triển.”

Biện pháp hạn chế tranh chấp xẩy ra

APEC cũng đề ra mục tiêu hạn chế các vụ tranh chấp có thể xảy ra thông qua việc khuyến nghị các nước thành viên bảo đảm tính minh bạch đối với hệ thống văn bản pháp luật, các quy định có liên quan đến thủ tục hành chính và tạo ra môi trường đầu tư minh bạch và dễ dự đoán5. Về tính minh bạch của hệ thống pháp luật, các nước thành viên của APEC có nghĩa vụ đăng tải tất cả các văn bản luật, quy định, thủ tục hành chính và chính sách liên quan đến thương mại và đầu tư để các doanh nghiệp, nhà đầu tư của các nước thành viên khác có thể tiếp cận được; khuyến khích phát triển hoặc hình thành cơ chế rà soát độc lập để điều chỉnh thủ tục và hành vi hành chính liên quan đến thương mại và đầu tư.

b) Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các doanh nghiệp của từng nước thành viên

APEC không xây dựng một Quy tắc giải quyết tranh chấp giữa doanh nghiệp của một quốc gia thành viên với doanh nghiệp của quốc gia thành viên khác hoặc giữa doanh nghiệp, nhà đầu tư của một nước thành viên với Quốc gia thành viên APEC (sau đây gọi là tranh chấp tư) hay hình thành tại Diễn đàn này một cơ quan tài phán (trọng tài) để giải quyết tranh chấp tư giữa các doanh nghiệp này. Mặc dù không có cơ quan tài phán và quy trình tố tụng về giải quyết tranh chấp tư nhưng APEC khuyến nghị các nước thành viên cung cấp cho Ủy ban thương mại và đầu tư danh sách cơ quan trọng tài, cơ chế hòa giải hoặc trung gian hòa giải đối với việc giải quyết tranh chấp tư, kể cả việc cung cấp thông tin hay đưa ra một mô hình giải quyết tranh chấp tư (chủ yếu tranh chấp giữa doanh nghiệp với chính phủ của quốc gia thành viên). Thông tin hay mô hình này sẽ được đăng tải công khai, minh bạch hay được coi là bài học để các quốc gia thành viên khác học tập.6

APEC cũng yêu cầu các quốc gia thành viên gia nhập một số công ước quốc tế về giải quyết tranh chấp giữa chính phủ và các nhà đầu tư như Công ước về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa Nhà nước và Công dân của nước thành viên khác (Công ước ICSID)7 hoặc gia nhập Công ước công nhận và cho thi hành Quyết định của trọng tài nước ngoài (Công ước New York). Về tính minh bạch của quy định pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp tư, APEC yêu cầu các quốc gia thành viên xuất bản hoặc đăng tải các tài liệu hoặc văn bản cần thiết như hướng dẫn về trọng tài, hòa giải hoặc trung gian hòa giải; tiếp tục thông tin cho các nước thành viên APEC về thay đổi hệ thống pháp luật có liên quan đến giải quyết tranh chấp.

4.5. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại trong các Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN và các nước đối tác (Trung quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn độ và Australia/New Zealand)

Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ dừng lại quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư giữa các nước trong khu vực. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã ngày càng mở rộng mối quan hệ thương mại và đầu tư thông qua quá trình đàm phán ký kết một số Hiệp định Hợp tác toàn diện với các đối tác như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ và Australia và New Zealand, và hiện nay đang khởi động vòng đàm phán với EU (sau đây gọi là các “nước đối tác”). ASEAN bắt đầu đàm phán với các đối tác vào năm 2001. Phạm vi đàm phán giữa ASEAN và các nước đối tác là tương đối rộng, nhằm xây dựng khu vực thương mại tự do (FTA) giữa ASEAN và các nước đối tác trên các lĩnh vực thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Cơ chế giải quyết tranh chấp cũng là một trong những nội dung mà ASEAN và các nước đối tác thương lượng, nhằm giải quyết tranh chấp giữa ASEAN (với tư cách là một khối) với nước đối tác hay giữa một nước thành viên của ASEAN với nước đối tác liên quan đến việc giải thích và áp dụng các Hiệp định Hợp tác toàn diện.

Do giải quyết tranh chấp là một phần quan trọng trong quá trình đàm phán FTA giữa ASEAN và các nước đối tác nên cơ chế giải quyết tranh chấp (DSM) được thiết kế thành một phần riêng, quy định phạm vi, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp giữa ASEAN với nước đối tác hoặc giữa một nước thành viên của ASEAN với nước đối tác. Sau đây là những nội dung chính của cơ chế giải quyết tranh chấp này.

a) Phạm vi giải quyết tranh chấp

Phạm vi giải quyết tranh chấp giữa ASEAN và nước đối tác hay giữa một nước thành viên ASEAN với nước đối tác gồm những tranh chấp dưới đây:

Thứ nhất, tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng các Hiệp định khung (Hiệp định hợp tác toàn diện) và các phụ lục của Hiệp định khung (các Hiệp định về thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, quy tắc xuất xứ, kiểm dịnh động thực vật).

Thứ hai, tranh chấp liên quan đến việc không tuân thủ của một nước thành viên, đó là các nước thành viên mặc dù đã ký kết Hiệp định khung và các phụ lục nhưng bằng các biện pháp thương mại và đầu tư (luật, quy định dưới luật hoặc các văn bản hành chính có tính áp dụng chung) đã không thực hiện hoặc tuân thủ các cam kết.

Thứ ba, về xung đột thẩm quyền, do các nước thành viên ASEAN với các nước đối tác có thể đã ký kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương trong đó có cả việc cam kết giải quyết tranh chấp theo quy chế của những Hiệp định này.

b) Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp

Mọi tranh chấp phát sinh giữa ASEAN và các nước đối tác hay giữa một nước thành viên ASEAN và nước đối tác được giải quyết bằng các phương thức sau: tham vấn, thương lượng, trung gian hòa giải, và giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.

Thứ nhất, tham vấn là bước đầu tiên trong quá trình giải quyết tranh chấp khi một nước thành viên (Bên khiếu nại) nhận thấy nước thành viên khác (Bên bị khiếu nại) vi phạm các quy định của Hiệp định FTA và các phụ lục kèm theo. Tham vấn được lập thành văn bản, nêu rõ hành động cụ thể bị khiếu nại, cơ sở thực tiễn và pháp lý của việc khiếu nại (bao gồm những điều khoản của Hiệp định khung được cho là đã bị vi phạm và các quy định liên quan khác). Bên khiếu nại phải gửi yêu cầu tham vấn đó tới bên bị khiếu nại và các nước ký kết khác. Khi nhận được yêu cầu tham vấn, bên bị khiếu nại phải ngay lập tức thông báo cho bên khiếu nại và các nước ký kết khác về việc đã nhận được yêu cầu. Trách nhiệm của bên bị khiếu nại phải cung cấp đầy đủ thông tin để có sự xem xét toàn diện về những ảnh hưởng của hành động đó đối với việc thực hiện Hiệp định khung; và giữ bí mật những thông tin được trao đổi trong quá trình tham vấn mà các bên liên quan coi là bí mật.

Thứ hai, giải quyết tranh chấp thông qua trung gian hòa giải, các bên tranh chấp có thể đồng ý tiến hành trung gian hòa giải vào bất kỳ thời điểm nào và có thể bắt đầu, kết thúc trung gian hòa giải vào bất kỳ lúc nào; Nếu các bên tranh chấp đồng ý, thủ tục trung gian hòa giải thông qua cá nhân hoặc tổ chức được các bên trong vụ tranh chấp nhất trí có thể được tiến hành song song với thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Hội đồng Trọng tài.

Thứ ba, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp cuối cùng khi các bên không đạt được thỏa thuận về giải quyết tranh chấp nêu trên. Khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì cũng phải nêu rõ hành động cụ thể bị khiếu nại; và cơ sở thực tiễn và pháp lý cho việc khiếu nại (bao gồm những điều khoản của Hiệp định khung bị cho là đã bị vi phạm và các quy định liên quan khác) đủ để xác định rõ vấn đề. Hội đồng trọng tài sẽ được thành lập trên cơ sở 3 trọng tài viên, trừ trường hợp Hiệp định khung FTA hoặc các phụ lục quy định khác (có thể là một trọng tài) hoặc các bên có thỏa thuận khác. Mỗi bên trong tranh chấp sẽ chỉ định một trọng tài viên. Nếu một bên trong tranh chấp không chỉ định được trọng tài viên trong thời hạn quy định thì trọng tài viên do bên kia chỉ định sẽ là trọng tài viên duy nhất của Hội đồng Trọng tài.

Trong trường hợp, khi bên khiếu nại và bên bị khiếu nại đã chỉ định được trọng tài viên của mình, các bên liên quan sẽ cố gắng thoả thuận để chọn một trọng tài viên nữa làm chủ tịch Hội đồng Trọng tài. Nếu các bên tranh chấp không thể thoả thuận được chủ tịch Hội đồng Trọng tài, các bên sẽ yêu cầu Tổng Giám đốc của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) chỉ định chủ tịch cho Hội đồng Trọng tài và sự chỉ định đó sẽ được các bên chấp thuận. Tiêu chuẩn của trọng tài viên là người độc lập và phải có kiến thức hay kinh nghiệm trong lĩnh vực luật pháp, thương mại quốc tế, những vấn đề khác thuộc phạm vi của Hiệp định khung hay kinh nghiệm giải quyết tranh chấp phát sinh theo các hiệp định thương mại quốc tế; và sẽ được lựa chọn nghiêm ngặt dựa trên tính khách quan, độ tin cậy, công tâm và độc lập. Ngoài ra, chủ tịch Hội đồng Trọng tài không được là công dân của một trong các bên tranh chấp và không cư trú thường xuyên trên lãnh thổ hay làm việc cho bất cứ bên nào.

Về chức năng và quy chế làm việc, Hội đồng trọng tài có nghĩa vụ xem xét, căn cứ vào quy định của điều khoản liên quan trong Hiệp định khung, vấn đề được bên… (tên bên khiếu nại) khiếu nại lên Hội đồng Trọng tài và đưa ra các kết luận, phán quyết và khuyến nghị theo quy định trong Hiệp định khung; xem xét căn cứ vào các điều khoản liên quan trong Hiệp định khung do các bên tranh chấp viện dẫn.

Về phán quyết, Hội đồng trọng tài ra phán quyết dựa trên nguyên tắc đồng thuận; trường hợp không thể đạt được quyết định đồng thuận thì Hội đồng có thể ra phán quyết trên nguyên tắc đa số. Phán quyết của Hội đồng Trọng tài có tính chung thẩm và ràng buộc đối với các bên tranh chấp.

c) Thi hành phán quyết của trọng tài

Sau khi Hội đồng trọng tài ra phán quyết thì các bên bị khiếu nại phải có nghĩa vụ thực thi khuyến nghị của Hội đồng trọng tài. Bên bị khiếu nại có thể thực thi trong thời hạn hợp lý. Nếu bên bị khiếu nại không thể tuân thủ ngay lập tức với các khuyến nghị và phán quyết của Hội đồng Trọng tài, bên đó sẽ có một thời hạn hợp lý để tuân thủ. Thời hạn hợp lý này sẽ do các bên tranh chấp thỏa thuận, hoặc trong trường hợp các bên không thể thoả thuận được về thời hạn hợp lý, các bên tranh chấp có thể yêu cầu Hội đồng Trọng tài đầu tiên giải quyết vấn đề đó nếu có thể. Sau khi tham khảo ý kiến của các bên tranh chấp, Hội đồng Trọng tài sẽ xác định thời hạn hợp lý.

Nếu bên bị khiếu nại không thực hiện trong thời hạn hợp lý thì sẽ phải có trách nhiệm đền bù và bị đình chỉ các nhượng bộ hoặc lợi ích là các biện pháp tạm thời. Tuy nhiên, cả đền bù lẫn tạm ngừng các nhượng bộ hoặc lợi ích đều không được khuyến khích áp dụng so với việc thực hiện đầy đủ khuyến nghị sửa đổi hành động vi phạm để tuân thủ với Hiệp định khung. Đền bù là tự nguyện và nếu có phải phù hợp với Hiệp định khung.

III. PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM

1. Pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế thông qua thương lượng hoặc hòa giải ở Việt Nam

Pháp luật Việt Nam tương tự như pháp luật của các nước trên thế giới đều có quy định cho phép các bên trong tranh chấp lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp với ý chí, nguyện vọng và tình hình thực tiễn của các bên. Tranh chấp thương mại quốc tế có thể được giải quyết thông qua đàm phán, trực tiếp, môi giới, trung gian hòa giải hoặc được giải quyết bằng trọng tài hoặc tòa án. Tranh chấp trước hết có thể được các bên giải quyết thông qua các cơ chế ngoài tài phán trước.

Thứ nhất, đối với việc giải quyết tranh chấp thương mại và đầu tư quốc tế thông qua cơ chế ngoài tài phán độc lập và không nằm trong thủ tục tố tụng của tòa án hoặc trọng tài, pháp luật chuyên ngành có quy định khá cụ thể thường theo công thức: Điều 259 của Bộ luật Hàng hải năm 2005 và Điều 12 của Luật Đầu tư năm 2005 quy định “các bên liên quan có thể giải quyết tranh chấp hàng hải bằng thương lượng, hoà giải”.

Thứ hai, đối với việc giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng hòa giải với tư cách là một công đoạn của quy trình tố tụng, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã dành một chương (Chương XIII) để quy định về thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử.

Trong tố tụng trọng tài, Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 (Pháp lệnh trọng tài) có quy định về giải quyết tranh chấp bằng hòa giải như là một giai đoạn của thủ tục tố tụng trọng tài. Điều 37 của Pháp lệnh trọng tài có quy định “trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên có thể tự hoà giải. Trong trường hợp hoà giải thành thì theo yêu cầu của các bên, Hội đồng trọng tài sẽ đình chỉ tố tụng”.

2. Pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại tòa án Việt Nam

2.1. Vài nét về quá trình giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại tòa án Việt Nam

Trước khi Bộ luật tố tụng dân sự được ban hành, vấn đề tố tụng thương mại - dân sự được quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994. Các Pháp lệnh này quy định những vấn đề cần thiết liên quan đến giải quyết tranh chấp như nguyên tắc tố tụng, thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ của các Bên tranh chấp cũng như trình tự, thủ tục tố tụng. Bên cạnh đó một loạt các văn bản pháp luật khác có quy định về việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại tòa án như: Luật thương mại năm 1997, Bộ luật hàng hải năm 1990, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996...

Bên cạnh việc có hệ thống pháp luật tố tụng hoàn chỉnh để giải quyết các vụ án kinh tế nói chung và tranh chấp thương mại quốc tế nói riêng thì một trong những bước đi quan trọng trong quá trình cải cách cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước - chính là việc xác định đúng hơn, đầy đủ hơn vị trí, vai trò của Toà án nhân dân trong hệ thống các cơ quan Nhà nước Việt Nam, trong đó giao cho Toà án thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế. Điểm mốc của bước đi quan trọng này là việc Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoá IX, kỳ họp thứ tư) đã thông qua "Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân" ngày 28/12/1993. Năm 2002 đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình cải cách hệ thống tòa án đó là việc Quốc hội thông qua Luật tổ chức tòa án nhân dân, nhằm xây dựng hệ thống các tòa án chuyên trách, trong đó có hệ thống tòa án kinh tế để giải quyết các vụ án kinh tế cũng như các tranh chấp thương mại quốc tế8. Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử9.

Năm 2005, Quốc hội Việt Nam thông qua Bộ luật tố tụng dân sự trên cơ sở pháp điển hóa các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, hôn nhân gia đình, dân sự và Pháp lệnh về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của trọng tài nước ngoài, một bước tiến lớn trong pháp luật tố tụng của Việt Nam.

2.2. Pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án

Pháp luật Việt Nam có quy định cụ thể về việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, kể cả cho phép công dân nước ngoài, người không quốc tịch, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế (sau đây gọi chung là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài) có quyền khởi kiện đến Toà án Việt Nam để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm hoặc có tranh chấp10. Các quy định pháp luật chuyên ngành như: Bộ luật hàng hải, Luật thương mại, Luật đầu tư..., đều có quy định cho phép các bên tranh chấp lựa chọn toà án để giải quyết tranh chấp. pháp luật chuyên ngành đều dẫn chiếu tranh chấp thương mại và đầu tư quốc tế có thể được giải quyết tại tòa án Việt Nam theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài tại Chương XXXIV và Chương XXXV (từ Điều 405 đến Điều 413).

a) Quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức và cá nhân nước ngoài

Tranh chấp thương mại quốc tế có thể được cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài khởi kiện ra tòa án Việt Nam để yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng dân sự còn bảo đảm nguyên tắc đối xử quốc gia (national treatment), theo đó nhà nước Việt Nam dành cho cơ quan, tổ chức cá nhân nước ngoài quyền tố tụng dân sự không kém phần thuận lợi hơn các quyền tố tụng dân sự mà nhà nước Việt Nam dành cho cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam trong các vấn đề tố tụng dân sự11. Nguyên tắc đối xử quốc gia này đã được ghi nhận trong nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký với nhiều quốc gia trên thế giới12. Tuy vậy, BLTTDS cũng đặt ra những ngoại lệ nhất định trong việc áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia nếu cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam ở nước ngoài bị phân biệt đối xử, hạn chế các quyền tố tụng dân sự. Các biện pháp này được áp dụng trên cơ sở các nguyên tắc có đi có lại13. Ngoài ra, BLTTDS cũng cho phép cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền nhờ luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình theo quy định của pháp luật Việt Nam (Điều 409).

b) Thẩm quyền của tòa án Việt Nam

Do tranh chấp thương mại quốc tế là những vụ việc có liên quan ít nhất hai quốc gia, cơ quan tài phán của nhiều quốc gia đều có thể có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự đó. BLTTDS không chỉ quy định cụ thể thẩm quyền của tòa án Việt Nam đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài còn quy định quy tắc giải quyết xung đột thẩm quyền giữa tòa án Việt Nam và tòa án nước ngoài trong việc xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài14. BLTTDS quy định tòa án Việt Nam có thẩm quyền chung (Điều 410 BLTTDS) và thẩm quyền riêng biệt (Điều 411 BLTTDS).

c) Thủ tục giải quyết tranh chấp tại tòa án

Trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự được quy định tại Phần thứ hai của BLTTDS, bao gồm: khởi kiện và thụ lý vụ án; hòa giải và chuẩn bị xét xử; xét xử sơ thẩm; xét xử phúc thẩm.

d) Thời hiệu khởi kiện

Bộ luật tố tụng dân sự, Luật thương mại, Bộ luật hàng hải đều quy định thời hiệu khởi kiện giải quyết vụ án dân sự là 2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan tổ chức bị xâm hại.

2.3. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại tòa án

Về thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại tòa án trước khi Bộ luật tố tụng dân sự ban hành, nhóm tác giả đã đưa ra các số liệu theo Báo cáo tổng kết công tác Tòa án năm 1998 và số liệu thống kê ở Toà án nhân dân tối cao năm 1999. Kể từ khi Bộ luật tố tụng dân sự được ban hành, theo số liệu thống kê của ngành tòa án, trong năm 2007, toàn ngành Toà án thụ lý 3804 vụ việc, so với năm 2006 tăng 571 vụ bằng 25%; Toà án nhân dân cấp huyện thụ lý 2168 vụ việc, so với năm 2006 tăng 1477 vụ bằng 313,7%; Toà án nhân dân cấp tỉnh thụ lý mới 1636 vụ, so với năm 2006 tăng 94 vụ bằng 6%. Do sự tăng thẩm quyền cấp huyện nên án của Toà án tỉnh chỉ tăng ít và của Toà án cấp huyện đã tăng rất nhiều và tính theo đầu vụ thì án của Toà án cấp huyện đã nhiều hơn Toà án cấp tỉnh. Đây là lần đầu tiên án kinh doanh thương mại của Toà án huyện đã vượt số lượng án kinh doanh thương mại của Toà án tỉnh. Năm 2006, án của Toà án cấp huyện 691 vụ/1542 vụ án của Toà án tỉnh. Năm 2007 án của Toà án cấp huyện 2168 vụ/1636 vụ án của toà án cấp tỉnh. Việc tăng này đã được dự báo và trong tương lai án sơ thẩm kinh doanh thương mại chủ yếu là của toà án cấp huyện.15

Qua tổng kết công tác xét xử tranh chấp thương mại quốc tế bằng con đường tòa án, trên bình diện chung của ngành tòa án thì có thể nhận thấy những điểm quan trọng sau:

Thứ nhất, các vụ án được xét xử cơ bản bảo đảm theo quy định của pháp luật. Qua con số thống kê của ngành tòa án, tổng kết xét xử trong năm 2007, đối với các loại án kinh doanh thương mại nói chung chủ yếu diễn ra ở cấp huyện, xét xử sơ thẩm đạt tỷ lệ 87,7%, cấp tỉnh đạt: 88,9% và cấp phúc thẩm bình quân đạt 84,7%. Tỷ lệ án bị hủy so với tổng số những vụ án đã xét xử trong toàn ngành là 1,4%. Mặc dù đã có những cố gắng trong công tác xét xử trong thời gia qua nhưng nhìn chung đội ngũ thẩm phán vẫn chưa có kiến thức về pháp luật thương mại quốc tế đáp ứng yêu cầu tình hình, có nhiều hạn chế về ngoại ngữ, về kinh tế thị trường, thương mại quốc tế.

Thứ hai, chưa chú trọng thường xuyên cập nhật các văn bản pháp luật tại các cấp toà án. Bên cạnh đó, các thẩm phán vẫn chưa cập nhật về các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Thứ ba, việc đánh giá chứng cứ ở một số thẩm phán chưa thực sự bám sát vào hợp đồng các bên đã thoả thuận, chưa bám sát vào quy định của pháp luật còn bị xa vào những sự kiện không căn bản nên có những quyết định không phù hợp với tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Thứ tư, các cấp toà án chưa chú trọng nhiều đến hình thức của bản án, mặc dù đã qua nhiều năm sau khi có hướng dẫn viết bản án của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao nhưng còn nhiều bản án cả ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm có thiếu sót như: không theo đúng quy định nhưng tiêu đề chia đoạn xét thấy, nhận thấy; án viết còn dài nhưng vấn đề chính không thể hiện được, thậm chí có bản án không viện dẫn được điều luật vận dụng về nội dung đã xét xử trừ điều luật tố tụng về thẩm quyền.

Thứ năm, tòa các cấp còn nhiều sai sót về xác định lỗi và áp dụng chế tài phạt; sai sót về việc không xem xét đầy đủ các yêu cầu của đương sự hoặc ngược lại là xem xét vượt quá yêu cầu của đương sự đã được khắc phục; xác định sai người tham gia tố tụng; áp dụng pháp luật không đúng; xác định thời hiệu sai; xét xử chưa đủ căn cứ. Ngoài ra, còn phát sinh những sai sót mới như: xét xử vắng mặt bị đơn không đúng với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Thứ sáu, việc tống đạt giấy tờ đối với các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn trong thực tiễn.

Thứ bảy, về vấn đề hình sự hoá các quan hệ kinh tế, hình sự hoá quan hệ kinh tế là tình trạng cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, xét xử cả những người chỉ có hành vi vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng kinh tế. Quan hệ kinh tế không thể bị hình sự hoá (trừ khi có hành vi vi phạm pháp luật của các chủ thể quan hệ kinh tế mới có thể trở thành đối tượng của quá trình tội phạm hoá)16 . Trong thời gian qua, ở nước ta đã tồn tại thực trạng này và bị dư luận bàn tán. Không ít người bị xét xử qua nhiều cấp, bị tuyên là có tội nhưng đến cấp giám đốc thẩm đã được minh oan, Hội đồng xét xử tuyên không phạm tội, hồ sơ vụ án được chuyển sang thủ tục tố tụng dân sự hoặc kinh tế. Việc xử lý bằng Luật hình sự cả các vi phạm nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng đã có những ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ tới nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Khi một người mới chỉ vi phạm các nghĩa vụ theo hợp đồng mà bị khởi tố về mặt hình sự, bị bắt, tạm giam thì hoạt động sản xuất kinh doanh của họ bị ảnh hưởng rất lớn, uy tín của họ cũng bị mất, làm ảnh hưởng đến các quan hệ với các bạn hàng. Thực tế này cho thấy việc áp dụng pháp luật của một số cơ quan, cán bộ có liên quan trong quá trình tố tụng, không có sự liên hệ với thực tế đời sống kinh tế -xã hội, không dựa vào cơ sở lý luận và thực tiễn pháp lý.

Cuối cùng, về tuyên truyền, phổ biến pháp luật còn nhiều điểm hạn chế, đối với một nền kinh tế thị trường, việc dự báo các hậu quả pháp lý của các giao dịch kinh tế là hết sức quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển và vận hành lành mạnh của khu vực kinh doanh. Việc dự báo lại phụ thuộc vào việc những người chịu tác động có thể dễ dàng có được các văn bản pháp luật và các phán quyết của toà án hay không. Vì không xuất bản tất cả các bản án của toà án nên khó có thể xác định được là các toà án áp dụng luật như thế nào. Các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà tài trợ nước ngoài và quốc tế thường phàn nàn rằng ở Việt Nam thiếu sự "rõ ràng minh bạch" hoặc hệ thống pháp luật kinh tế cũng như các thủ tục tố tụng Việt Nam không "rõ ràng"17.

3. Pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại theo cơ chế trọng tài ở Việt Nam

Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, tranh chấp thương mại quốc tế được các bên lựa chọn giải quyết thông qua trọng tài ngày càng có xu hướng ngày càng tăng với những ưu điểm là: quyết định mang tính chung thẩm ràng buộc các bên phải thi hành, trọng tài viên có chuyên môn trong từng lĩnh vực, phạm vi công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài rộng (theo Công ước New York 1958). Cũng tương tự như phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng tòa án, các quy định của pháp luật chuyên ngành đều có dẫn chiếu đến tranh chấp có thể giải quyết bằng trọng tài.

Về trình tự, thủ tục tố tụng trọng tài, Pháp lệnh trọng tài thương mại (Pháp lệnh trọng tài) được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 25/02/2003 và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2003 quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tố tụng trọng tài.

3.1. Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài thương mại Việt Nam

a) Thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài

Theo quy định tại Điều 1 của Pháp lệnh trọng tài, phạm vi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại theo sự thỏa thuận của các bên. Pháp lệnh trọng tài cũng quy định một trong những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đó là “tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài”. Như vậy, trọng tài chỉ có thẩm quyền khi các bên tự nguyện theo ý chí và nguyện vọng của mình bằng thỏa thuận trọng tài để đưa vụ việc ra giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nếu không vụ việc sẽ được giải quyết bằng cơ quan tài phán khác theo quy định của pháp luật.

Về xung đột thẩm quyền giữa tòa án và trọng tài, Điều 5 Pháp lệnh trọng tài quy định: “Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại toà án thì toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu”. Thẩm quyền của trọng tài có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vấn đề trọng tài hay toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Nếu trọng tài không có thẩm quyền, thì một trong các bên có thể đưa vụ tranh chấp ra toà án có thẩm quyền. Nếu trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp thì nếu một trong các bên đưa vụ tranh chấp ra toà án có thẩm quyền thì toà án đó phải từ chối thụ ký đơn kiện với lý do vụ việc thuộc thẩm quyền trọng tài.

Ngoài ra, việc xác định thẩm quyền trọng tài còn có ý nghĩa cho việc công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài. Nếu trọng tài không có thẩm quyền thì bên phải thi hành quyết định của trọng tài có quyền yêu cầu toà án ra quyết định huỷ quyết định của trọng tài.

b) Thỏa thuận trọng tài

Một thoả thuận trọng tài được coi là hợp pháp khi thoả thuận đó đáp ứng các yêu cầu của pháp luật về hình thức, nội dung và tư cách pháp lý của các bên. Về mặt hình thức, pháp luật quốc nội của các quốc gia cũng như các điều ước quốc tế mà các quốc gia đã ký kết và gia nhập đều có quy định rằng thoả thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản. Theo khoản 1 Điều 9 Pháp lệnh trọng tài, thoả thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài được coi là thoả thuận trọng tài cụ thể giữa các bên; thỏa thuận trọng tài có thể là điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc là một thỏa thuận riêng.

Về nội dung của thoả thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài mặc dù phù hợp về hình thức nhưng cũng không được coi là có giá trị pháp lý hay nói cách khác là vô hiệu khi nội dung của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định của pháp luật. Điều 10 Pháp lệnh trọng tài quy định một số trường hợp thỏa thuận trọng tài là vô hiệu, đó là: (i) Tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại; (ii) Người ký thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp luật; (iii) Một bên ký kết thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; (iv) Thoả thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thoả thuận bổ sung; (v) Thoả thuận trọng tài không được lập theo hình thức phù hợp với quy định của pháp luật (Điều 9 Pháp lệnh trọng tài); (vi) bên ký kết thoả thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe doạ và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu; thời hiệu yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu là sáu tháng, kể từ ngày ký kết thoả thuận trọng tài, nhưng phải trước ngày Hội đồng Trọng tài mở phiên họp đầu tiên giải quyết vụ tranh chấp. Đối với từng trường hợp, nhóm tác giả đã đưa ra các ví dụ và giải thích cụ thể.

c) Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài

Pháp lệnh trọng tài thương mại quy định các bên có quyền lựa chọn Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài do các bên thành lập để giải quyết vụ tranh chấp theo quy định về tố tụng trọng tài (Điều 19 của Pháp lệnh trọng tài). Đối với việc giải quyết tranh chấp thông qua Trung tâm trọng tài, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp liên quan đến thành lập Hội đồng trọng tài tại Trung tâm trọng tài được quy định tại Điều 25 của Pháp lệnh trọng tài. Đối với vụ tranh chấp thương mại quốc tế được giải quyết bởi Hội đồng trọng tài do các bên thành lập, trình tự, thủ tục thành lập Hội đồng trọng tài này được quy định tại Điều 26. Pháp lệnh trọng tài cũng quy định đến các vấn đề liên quan đến đơn kiện, thụ lý đơn kiện (Điều 20), sửa đổi, bổ sung rút đơn kiện (Điều 28) hoặc đơn kiện lại (Điều 29), bản tự bảo vệ (Điều 24), thay đổi trọng tài viên (Điều 27), xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp của hội đồng trọng tài (Điều 30), thu thập chứng cứ (Điều 32), áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 34, Điều 35 và Điều 36), phiên họp giải quyết vụ tranh chấp (Điều 38), tham dự phiên họp (Điều 39), nguyên tắc ra quyết định trọng tài (Điều 42) và hủy quyết định trọng tài và thi hành quyết định trọng tài (Chương VI).

d) Vai trò hỗ trợ của tòa án trong tố tụng trọng tài

Trước đây theo quy định tại Nghị định số 116/CP của Chính phủ thì tòa án chỉ hỗ trợ trọng tài trong trường hợp quyết định trọng tài không được một bên chấp hành thì bên kia có quyền yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Pháp lệnh trọng tài được thông qua, đã mở rộng mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài thương mại, trong đó tòa án chỉ can thiệp vào quá trình tố tụng ở một số trường hợp nhất định. Theo quy định của Pháp lệnh trọng tài, tòa án hỗ trợ trọng tài trong một số trường hợp sau: (i) Tòa án chỉ định trọng tài viên trong trường hợp các bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại Hội đồng trọng tài do các bên thành lập (Điều 26 Pháp lệnh trọng tài); (ii) Thay đổi trọng tài viên (điểm b Khoản 4 Điều 27 Pháp lệnh trọng tài); (iii) Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 34, Điều 35 và Điều 36 Pháp lệnh trọng tài); (iv) Hủy bỏ quyết định trọng tài (Điều 54 Pháp lệnh trọng tài).

Tuy nhiên, trên thực tế, sự hỗ trợ của tòa án là chưa đáng kể, đặc biệt còn một số hạn chế trong việc xử lý việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và hủy quyết định trọng tài18. Hiện nay số lượng các trung tâm trọng tài còn ít (chủ yếu tập trung tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh), trong khi đó bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì có thể ở nhiều địa phương khác nhau nhưng lại chọn Trung tâm trọng tài để giải quyết tranh chấp ở một địa phương khác, dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Đối với yêu cầu hủy quyết định trọng tài (Điều 54 Pháp lệnh trọng tài), hầu hết các trường hợp hủy quyết định trọng tài là do thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Sở dĩ như vậy vì: (i) Thực tế, có nhiều thỏa thuận trọng tài không rõ như: các bên chỉ thỏa thuận chung chung là khi có tranh chấp xảy ra sẽ được giải quyết bằng trọng tài thương mại quốc tế mà không chỉ rõ đó là Trung tâm trọng tài nào, có trụ sở ở đâu hoặc chỉ thỏa thuận là giải quyết bằng trọng tài kinh tế Hà Nội, trong khi đó ở Hà Nội có nhiều trung tâm trọng tài thương mại do vậy những thỏa thuận này đều bị vô hiệu; (ii) Thẩm quyền của người ký thỏa thuận trọng tài không rõ, dẫn đến đương sự yêu cầu tòa án hủy quyết định trọng tài.

3.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài trong thời gian qua

Trước khi Pháp lệnh trọng tài được thông qua năm 2003, số vụ tranh chấp thương mại quốc tế được giải quyết bằng trọng tài rất hạn chế. Theo báo cáo của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam, tổ chức này kể từ khi thành lập, mỗi năm xét xử trên dưới 20 vụ, trong đó một nửa số vụ giải quyết thông qua thương lượng hoà giải. Các tranh chấp có yếu tố nước ngoài chủ yếu liên quan đến các nhà đầu tư từ những nước có quan hệ đầu tư, kinh doanh lớn với Việt Nam như Singapore, Đài Loan, Hồng Công. Nhìn chung trong thời kỳ 1993 -1997, VIAC đã thụ lý 83 vụ, trong đó xét xử và ra phán quyết 53 vụ, hoà giải 7 vụ, 14 vụ các bên tự hoà giải và rút đơn kiện. Các vụ trả đơn kiện chủ yếu do điều khoản trọng tài không hợp lệ.

Sau khi Pháp lệnh trọng tài được thông qua, số vụ tranh chấp đã tăng lên đáng kể trong năm 2004 là 30 vụ/năm, năm 2005 là: 20 vụ/năm; năm 2006 là 36 vụ/năm (Trung Quốc chiếm 4 vụ (11%); Hàn Quốc 2 Vụ (6%); Anh 2 vụ (6%); Đức 2 vụ (6%); Malaysia 2 vụ (6%)) và năm 2007 là: 30/năm (Hoa Kỳ 5 vụ (17%); British Virgin Islands            2 Vụ (7%); Malaysia 2 vụ (7%); Trung Quốc 2 vụ (7%); Hàn Quốc 2 vụ (7%))19.

Hợp đồng mua bán ngoại thương chiếm hơn 80% số lượng giải quyết tranh chấp trong năm 2006 và 2007, bên cạnh các lĩnh vực khác như: xây dựng, công nghệ thông tin, đại lý, phân phối, liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh... Cũng trong thời gian qua, kể từ khi Pháp lệnh Trọng tài có hiệu lực vào năm 2003, theo thống kê của VIAC thì Trung tâm đã yêu cầu tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời qua các năm như sau: Năm 2004: 3/32 vụ (trị giá 462.562 USD); Năm 2005: 2/27 vụ (trị giá146.071 USD); Năm 2006: 1/36 vụ (trị giá 17.300 USD); Năm 2007: 6/30 vụ (trị giá 643.408 USD);

3.3. Đánh giá về tình hình thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài trong thời gian qua

Qua số liệu thống kê trên tại VIAC, một trong những trung tâm trọng tài quốc tế có uy tín tại Việt Nam, số lượng các vụ giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tuy có tăng qua các năm, kể cả những nước có hệ thống pháp luật và luật sư phát triển như Hoa Kỳ cũng đã sử dụng dịch vụ của VIAC và số vụ áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng tăng qua các năm, nhưng việc tăng số vụ giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài tại VIAC cho thấy chưa ngang tầm với khả năng của Trung tâm này. Bởi vì, hiện nay tại VIAC có 123 trọng tài viên trong khi đó số vụ kiện trung bình là 25/năm tức là bình quân một người tham gia xét xử là 4 vụ/năm. Đây là con số còn khiêm tốn so với khả năng xét xử của các trọng tài viên nếu như không so với các Trung tâm trọng tài quốc tế trong khu vực như Malaysia hoặc Singapore hoặc so với các Trung tâm trọng tài của Hoa Kỳ20. Bên cạnh đó, so với con số thống kê của ngành tòa án, chỉ tính riêng Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội năm 2006 đã thụ lý và giải quyết: 159 vụ và năm 2007 đã thụ lý và giải quyết 226 vụ.

Như vậy, thực tiễn cho thấy doanh nghiệp vẫn còn e ngại khi chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nguyên nhân của tình trạng này là do:

Thứ nhất, khung pháp luật về trọng tài trước đây còn chưa được hoàn thiện nên tạo tâm lý e ngại cho doanh nghiệp và nhiều người cũng vẫn còn nặng tư tưởng là phán quyết của trọng tài là không có giá trị ràng buộc như quyết định của tòa án và khó thi hành trên thực tiễn;

Thứ hai, hầu hết các thương gia ở Việt Nam vẫn chưa hiểu được những lợi thế hay lợi ích giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đem lại như: phán quyết trọng tài là chung thẩm và được tòa án công nhận và cho thi hành tương tự như bản án, quyết định của tòa án.

3. 4. Pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại theo cơ chế bán tư pháp ở Việt Nam và theo các Hiệp định thương mại và đầu tư mà Việt Nam là thành viên

Tài phán hành chính - tư pháp (bán tư pháp) là thủ tục giải quyết một vụ việc cụ thể tại cơ quan hành chính theo thủ tục tương tự như thủ tục tư pháp giải quyết các vụ kiện.

Hiện nay cơ chế bán tư pháp là cơ chế rất mới đối với Việt Nam. Các thủ tục tố tụng này được áp dụng để giải quyết các vụ kiện về bán phá giá và chống cạnh tranh không lành mạnh được điều chỉnh bởi các văn bản: Pháp lệnh 20/2004/PL-UBTVQH 11 ngày 29/4/2004 về việc chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; Nghị định 90/2005/NĐ-CP ngày 11/07/2005 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam; Pháp lệnh trợ cấp; Luật cạnh tranh; Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh; Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh; Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 về việc Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh; Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh; Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp; Thông tư số 19/2005/TT-BTM ngày 08/11/2005 hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định số 110/2005/NĐ-CP.

Pháp luật hiện hành quy định có hai cơ quan liên quan đến việc giải quyết các vụ việc về bán phá giá, chống trợ cấp và cạnh tranh đó là: Cơ quan chống bán phá giá và Cơ quan quản lý cạnh tranh. Hiện nay, hai Cơ quan này đều thuộc Bộ Thương mại trước đây, nay là Bộ Công Thương. Trong Cơ quan chống bán phá giá có Cơ quan điều tra chống bán phá giá và Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá.

Liên quan đến các vụ việc về cạnh tranh ngoài Cơ quan quản lý cạnh tranh còn có Hội đồng cạnh tranh cũng tham gia giải quyết các vụ việc về cạnh tranh.

IV. KẾT LUẬN

1. Quan điểm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế

Quan điểm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế được khẳng định trong Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến 2020. Theo đó, việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế cần đảm bảo các quan điểm cơ bản sau: (i) Phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, kế thừa và phát triển những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua của nước ta; (ii) Phải tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, về các vấn đề liên quan, có tính đến yêu cầu thực thi các cam kết quốc tế và chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam; đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai; (iii) Phải dựa trên sự hoàn thiện về lý luận hệ thống pháp luật, trong đó đặc biệt chú ý đến bốn trụ cột cơ bản của hệ thống đó là hệ thống nguồn pháp luật, hệ thống thiết chế pháp luật, hệ thống nghề luật, và hệ thống thông tin pháp luật. Ngoài ra, phải quán triệt quan điểm hệ thống pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế - bộ phận không thể tách rời của hệ thống pháp luật hoàn thiện của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; (iv) Phải gấp rút đào tạo mới, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ đội ngũ cán bộ, công chức, luật sư trực tiếp tham gia giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế ngang tầm yêu cầu của quốc tế. 

2. Các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế

2.1. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống nguồn pháp luật phục vụ giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế

Việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nên tập trung vào các văn bản dưới đây: (i) Sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTDS đối với phần liên quan đến hoàn thiện các văn bản pháp luật điều chỉnh quy định về trình tự, thủ tục tố tụng tại tòa án Việt Nam đối với các tranh chấp thương mại quốc tế; (ii) Đánh giá và tổng kết tình hình thực thi Pháp lệnh Trọng tài thương mại; tiến tới pháp điển hóa các quy định về trọng tài thương mại, nhằm ban hành Luật Trọng tài thương mại thay thế Pháp lệnh trọng tài thương mại, phù hợp với thông lệ quốc tế, nhất là phù hợp với quy định của Luật mẫu UNCITRAL về trọng tài thương mại; (iii) Đánh giá và tổng kết về cơ chế giải quyết tranh chấp bán tư pháp được quy định trong Luật Cạnh tranh, Pháp lệnh Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, Pháp lệnh Chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và Pháp lệnh Tự vệ trong trường hợp khẩn cấp đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.

2.2. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống thiết chế của các cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế

a) Toà án

Để bảo đảm tính hiệu quả của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng tòa án cần phải làm tốt các công tác sau:

Thứ nhất, tăng cường năng lực cho đội ngũ thẩm phán và cán bộ làm công tác giải quyết tranh chấp, đội ngũ thẩm phán xét xử các vụ việc dân sự theo đánh giá chung hiện nay vẫn còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng chuyên môn21. Cùng với việc cập nhật các văn bản hiện hành, các thông tin chuyên ngành về thương mại quốc tế cũng như điều ước quốc tế về thương mại, cần tạo điều kiện để các thẩm phán được nghiên cứu và được đào tạo chuyên sâu theo từng lĩnh vực trong công tác xét xử của mình. Việc đào tạo chuyên sâu như vậy sẽ nâng cao chất lượng xét xử các vụ việc dân dự, nhất là các vụ việc liên quan án kinh tế, thương mại có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra, đội ngũ thẩm phán cần được đào tạo về ngoại ngữ, nhằm nâng cao trình độ ngoại ngữ của các thẩm phán.

Thứ hai, việc tăng cường thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện là cần thiết, nhằm tránh lượng công việc xét xử được dồn lên tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án nhân dân tối cao. BLTTDS quy định thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân cấp huyện trên cơ sở các quy định trước đây và có mở rộng thẩm quyền cho tòa án nhân dân cấp huyện (Điều 33 của Bộ luật). Như vậy, tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự mang tính phức tạp, kể cả những vụ việc có yếu tố nước ngoài. Tuy vậy, theo Nghị quyết số 32/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Quốc hội (Nghị quyết số 32/2004/QH11) về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Chính phủ đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định những tòa án nhân dân cấp huyện thực hiện Điều 33 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do vậy, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số 32/2004/QH11, để nghiên cứu xem xét khả năng tiếp tục mở rộng số lượng tòa án nhân dân cấp huyện được thực hiện theo Điều 33 của Bộ luật tố tụng dân sự, hay nói cách khác là tăng thêm thẩm quyền xét xử cho tòa án nhân dân cấp huyện.

b) Trọng tài

Để hạn chế những mặt chưa đạt được trong công tác xét xử bằng công tác trọng tài cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao năng lực xét xử của trọng tài viên thông qua việc nâng cao trình độ ngoại ngữ và các kiến thức chuyên môn về pháp luật quốc tế, nhất là các kiến thức pháp luật chuyên ngành về hàng hải, xây dựng, thương mại; tổ chức tuyên truyền hoặc mở các khóa đào tạo pháp luật quốc tế cho các trọng tài viên, tập trung vào các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên như: các điều ước quốc tế về đầu tư, thương mại hoặc khu vực mậu dịch tự do.

Thứ hai, cần củng cố về mặt tổ chức và hoạt động của trọng tài quy chế (các trung tâm trọng tài); cần tăng cường mối liên hệ giữa tòa án và hội đồng trọng tài trong quá trình tiến hành các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc nghiên cứu rút gọn về thủ tục xem xét hủy quyết định trọng tài, trong trường hợp căn cứ hủy quyết định không phù hợp với Điều 54 của Pháp lệnh Trọng tài, nhằm bảo đảm thời gian thi hành quyết định giữa các bên được tiến hành nhanh.

Đối với trọng tài vụ việc (ad hoc) cần tham gia các điều ước quốc tế, trên cơ sở đó nghiên cứu sửa đổi các quy định pháp luật hiện hành về cách thức thành lập trọng tài ad hoc.

Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài như tổ chức các diễn đàn, hội thảo có sự tham dự của các doanh nghiệp để thấy rõ những lợi ích khi xét xử tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài.

c) Cơ quan tài phán bán tư pháp

Trên thực tế, kể từ khi có các quy định về việc giải quyết các vụ việc bán phá giá, cũng như cạnh tranh chúng ta chưa có một vụ việc nào được giải quyết. Mặc dù, chúng ta chưa có sự kiểm nghiệm về thực tiễn hoạt động của loại cơ quan tài phán này nhưng qua kinh nghiệm của các nước có hệ thống tố tụng bán tư pháp phát triển thì có một số vấn đề mà chúng ta cần lưu ý, Cụ thể:

- Các thủ tục tố tụng bán tư pháp cần đảm bảo sự minh bạch, công khai, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên liên quan có thể bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của mình, đồng thời phải đảm bảo được tính độc lập của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc giải quyết các vụ việc thuộc quy trình tố tụng bán tư pháp.

- Tố tụng bán tư pháp là một khái niệm và quy trình mới không chỉ trong hệ thống pháp luật mà cả trong khoa học pháp lý của Việt Nam. Vì vậy, trình độ của đội ngũ cán bộ liên quan đến quy trình tố tụng bán tư pháp là một khó khăn lớn cần được giải quyết; phải xây dựng cơ chế tố tụng bán tư pháp (từ khâu điều tra, thu thập chứng cứ, giải quyết...) thích hợp; bảo đảm thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước như công an, tòa án và thi hành án trong quá trình tố tụng.

- Kiện toàn các thiết chế ở Bộ Công thương, nghiên cứu các mô hình cơ quan tài phán bán tư pháp của Hoa Kỳ và Canada, theo hướng thiết lập cơ quan độc lập và không nằm trong Bộ Công thương.

- Để đảm bảo và nâng cao hiệu quả của tố tụng bán tư pháp thì công tác tuyên truyền cần được chú trọng như: xây dựng tài liệu hướng dẫn xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan có liên quan; Xây dựng cơ chế hợp tác và phối hợp có hiệu quả và hiệu lực; Đẩy mạnh tuyên truyền và quảng bá kiến thức về cạnh tranh và chống bán phá giá; Tăng cường công tác nghiên cứu và đào tạo.

d) Các thiết chế về thương lượng, hòa giải, trung gian môi giới

Thương lượng, hòa giải và trung gian môi giới là cơ chế giải quyết thương mại quốc tế tranh chấp khá hiệu quả, giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí và thời gian so với việc đưa vụ việc ra giải quyết tại tòa án hoặc trọng tài hoặc cơ quan tài phán bán tư pháp. Do vậy, cần tăng cường công tác phổ biến về cơ chế này đối với các doanh nghiệp, nhằm giúp các doanh nghiệp hiểu rõ và áp dụng cơ chế này một cách có hiệu quả. Ngoài ra, cần xây dựng một đội ngũ chuyên gia chuyên ngành trong các lĩnh vực thương mại quốc tế, đầu tư, hàng hải... những người có thể được sử dụng là các trung gian để giúp các doanh nghiệp giải quyết tranh chấp.

e) Các thiết chế khác

Cần tăng cường hoạt động của các cơ quan Quốc hội, Chính phủ, Đảng và các đoàn thể trong việc tuyên truyền phổ biến các cơ chế giải quyết tranh chấp cho các doanh nghiệp.

2.3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống nghề luật thuộc phần giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế

a) Tăng cường đào tạo nghề tại các cơ sở đào tạo nghề luật

Số liệu thực tế tại thời điểm nghiên cứu đề tài cho thấy, cả nước hiện này có 61 đoàn luật sư với tổng số 5.300 luật sư trên dân số trên dưới 80 triệu, tức trung bình 80.000 dân thì có 1 luật sư. Như vậy số lượng của đội ngũ luật sư là còn quá ít so với dân số nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài những hạn chế về mặt số lượng thì chất lượng của đội ngũ luật sư trong giai đoạn hiện nay còn yếu, nhất là trong lĩnh vực pháp luật thương mại quốc tế, chính những lý do này đã hạn chế năng lực tham gia của các luật sư trong giai đoạn tố tụng tại tòa án hoặc trọng tài tại Việt Nam. Ngoài ra, đội ngũ thẩm phán, như phân tích nêu trên, cần được tăng cường năng lực. Trước nhu cầu đào tạo đội ngũ thẩm phán và luật sư cũng như các chức danh tư pháp khác thì cần kiện toàn và củng cố vai trò của các cơ sở đào tạo nghề luật (Học viện tư pháp và các trường đại học). Việc củng cố và nâng cao các cơ sở đào tạo nghề luật này đã được quy định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW).

b) Cán bộ pháp luật và tư pháp phải có đạo đức nghề nghiệp

Theo Mục 2.6 Nghị quyết số 49-NQ/TW nói trên, cần đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và khu vực. Bên cạnh việc đào tạo về mặt chuyên môn thì cần tăng cường giáo dục và tuyên truyền đạo đức nghề nghiệp cho các cán bộ pháp luật và tư pháp, nhằm bảo đảo đội ngũ cán bộ và tư pháp trong sạch.

c) Chế độ đãi ngộ và chính sách cán bộ

Giải pháp này đã được Nghị quyết số 49-NQ/TW đặt ra, đó là cần có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc ở các cơ quan tư pháp; tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn; có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp; tăng cường kiểm tra và có cơ chế thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài đối với hoạt động của các chức danh tư pháp.

2.4. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống thông tin pháp luật phục vụ việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.

Hiện nay, Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tham gia nhiều diễn đàn kinh tế thế giới như: WTO, ASEAN, ASEAN-Hàn Quốc, ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Nhật Bản và ASEAN-EU, nên nhiều quy định của các điều ước quốc tế nói trên chưa được phổ biến cho các doanh nghiệp. Để nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về các quyền và nghĩa vụ của mình khi Việt Nam là thành viên của các điều ước quốc tế nói trên thì cần phải áp dụng các biện pháp sau:

Thứ nhất, xây dựng cơ sở dữ liệu pháp luật và điều ước quốc tế có liên quan đến lĩnh vực thương mại quốc tế. Cơ sở dữ liệu này sẽ được các doanh nghiệp khai thác và sử dụng, nhằm mục đích ngăn chặn các tranh chấp thương mại bất lợi có thể xảy ra hoặc sẽ được các luật sư và các cán bộ pháp luật và tư pháp sử dụng trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế.

Thứ hai, bên cạnh việc xây dựng các dữ liệu về pháp luật thương mại quốc tế cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật cũng như các điều ước quốc tế về thương mại.



1 Xem Giáo trình Luật Quốc tế, và Giáo trình Tư pháp quốc tế, Đại học Luật Hà Nội, NXB Công An nhân dân

2 Xem Điều 221 của Hiệp ước EC

3 Việc thành lập CFI chủ yếu làm giải bớt công việc xét xử của ECJ.

4 Kế hoạch hành động OSAKA được Hội nghị Bộ trưởng thông qua vào tháng 10 năm 1994 để thực hiện Tuyên bố Bogor.

5 Kế hoạch hành động OSAKA, Phần 12 điểm c (Mục mục tiêu).

6 Kế hoạch hành động OSAKA, Phần 12 điểm d,c (Mục “mục tiêu”).

7 Công ước ICSID hỗ trợ giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia thành viên gia nhập Công ước.

8 Xem điểm b Khoản 2 Điều 18-Tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao thì tòa chuyên trách gồm có: Toà án quân sự trung ương, Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính và các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; trong trường hợp cần thiết, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Toà chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao;

9 Xem Điều 11 Luật tổ chức tòa án năm 2000.

10 Xem Khoản 1 Điều 406 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2005.

11 Khoản 2 của Điều 406 của BLTTDS quy định: “Khi tham gia tố tụng dân sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài có quyền, nghĩa vụ tố tụng như công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam”

12 Hiện nay Việt Nam đã ký kết hơn 16 Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại với các quốc gia trên thế giới.

13 Khoản 3 của Điều 406 BLTTDS quy định: “Nhà nước Việt Nam có thể áp dụng nguyên tắc có đi có lại để hạn chế quyền tố tụng dân sự tương ứng của công dân nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài mà Toà án của nước đó đã hạn chế quyền tố tụng đối với công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam”

14 Đây là một trong những nội dung của tư pháp quốc tế, bao gồm: xung đột về thẩm quyền xét xử, luật áp dụng và thi hành phán quyết.

15 Tòa án nhân dân tối cao, Tài liệu tham khảo Hội nghị triển khai công tác năm 2008 của ngành tòa án nhân dân.

16 TS. Phạm Hồng Hải, ThS. Nguyễn Văn Quảng, Về một tình trạng được gọi là “hình sự hoá các quan hệ dân sự và kinh tế"  ở nước ta hiện nay, Tạp chí Kiểm sát số 3/2001. Tr.38.

17 Tài liệu thảo luận số 2 của UNDP về Hoàn thiện khung pháp luật của Việt nam cho phát triển kinh tế, Tháng 3.2000. Tr. 70.

18 Xem Phạm Tuấn Anh, Vai trò hỗ trợ của tòa án trong tố tụng trọng tài, thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Hội thảo Doanh nghiệp hội nhập: Kinh nghiệm giải quyết tranh chấp thương mại và đầu tư” do Báo đầu tư và Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam tổ chức, tháng 4 năm 2008

19 Theo số thống kê của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, số lượng quốc gia có tranh chấp nhiều nhất qua năm 2006 và 2007, Ibid, trang 4

20 Hiệp hội Trọng tài Mỹ năm 1981 giải quyết 38.421 vụ; năm 1999 giải quyết 140.000 vụ; Hội đồng trọng tài thương mại và kinh tế quốc tế của Trung quốc xét xử trên 700 vụ kiện năm 1999.

21 Trần Đức Lương, Đẩy mạnh cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Cộng sản số 639. Tr.6.

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm downloadTải về