• Thuộc tính
Tên đề tài Các giải pháp tăng cường năng lực xuất bản sách pháp lý của Nhà xuất bản Tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập và xây dựng nhà nước pháp quyền
Nội dung tóm tắt

Qua hơn mười năm thực hiện các qui định của Luật xuất bản năm 1993 và đặc biệt là Luật xuất bản năm 2004 đã nhanh chóng đi vào thực tế cuộc sống. Các quy định này đã phát huy tác dụng một cách tích cực, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động xuất bản phát triển mạnh cả về tốc độ, qui mô, chất lượng và hiệu quả. Về cơ bản, ngành xuất bản đã đáp ứng được nhu cầu đọc của toàn xã hội. Nhiều bộ sách có giá trị với hình thức đẹp, chất lượng tốt   được dư luận xã hội cũng như độc giả hoan nghênh đón nhận. Nhìn chung, hoạt động xuất bản đã góp phần phục vụ tích cực sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu văn hoá đồng thời nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.

Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, chú trọng đến việc xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật để đáp ứng yêu cầu hội nhập và xây dựng Nhà nước pháp quyền, do vậy, yêu cầu về tuyên truyền pháp luật và nhu cầu về tìm hiểu pháp luật trong xã hội ngày càng cao. Đặc biệt tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, đưa pháp luật đến với người dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Bộ Tư pháp, cùng với Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, Nhà xuất bản Tư pháp cũng có trách nhiệm thực hiện chức năng này. Trong khi đó, Nhà xuất bản mới được tái thành lập cuối năm 2003, đến nay hoạt động của Nhà xuất bản Tư pháp đã từng bước ổn định và đã thu được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, hiện tại xét về mọi phương diện như: Cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm xuất bản, cơ sở vật chất, mạng lưới phát hành, hoạt động in… của Nhà xuất bản trước nhu cầu về sách pháp lý to lớn của xã hội và những yêu cầu đổi mới của sự nghiệp xuất bản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều bất cập. Do vậy, đòi hỏi Nhà xuất bản Tư pháp cần phải tăng cường năng lực xuất bản sách trong đó có sách pháp lý nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của thực tiễn khách quan. Với những lý do trên, Nhà xuất bản Tư pháp đã lựa chọn đề án nghiên cứu: “Các giải pháp tăng cường năng lực xuất bản sách pháp lý của Nhà xuất bản Tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập và xây dựng nhà nước pháp quyền” là một yêu cầu cấp bách và cần thiết, không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn.

Mục tiêu của Đề án là: Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn  của hoạt động xuất bản sách pháp lý, qua đó đề xuất một số giải pháp và lộ trình cụ thể nhằm tăng cường năng lực xuất bản sách pháp lý cho Nhà xuất bản Tư pháp, đồng thời đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập và xây dựng Nhà nước pháp quyền trong tình hình mới.

Để thực hiện mục tiêu này Đề án giải quyết một số vấn đề sau :

- Làm rõ khái niệm, các yếu tố cấu thành năng lực xuất bản, đặc thù của hoạt động xuất bản sách pháp lý.

- Làm rõ các yếu tố tác động, ảnh hưởng cũng như những yêu cầu mới đặt ra đối với công tác xuất bản nói chung và xuất bản sách pháp lý nói riêng.

- Đánh giá thực trạng năng lực xuất bản sách pháp lý hiện nay với những ưu, nhược điểm và các nguyên nhân của nó.

- Tình hình phát triển xuất bản trong nước và nước ngoài

- Đề xuất các giải pháp, lộ trình cụ thể nhằm tăng cường năng lực cho   Nhà xuất bản Tư pháp trong việc xuất bản sách pháp lý.

Nội dung toàn văn

TỔNG THUẬT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ ÁN

 

CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC XUẤT BẢN SÁCH PHÁP LÝ CỦA NHÀ XUẤT BẢN TƯ PHÁP NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

 

            I. PHẦN MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề án

Qua hơn mười năm thực hiện các qui định của Luật xuất bản năm 1993 và đặc biệt là Luật xuất bản năm 2004 đã nhanh chóng đi vào thực tế cuộc sống. Các quy định này đã phát huy tác dụng một cách tích cực, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động xuất bản phát triển mạnh cả về tốc độ, qui mô, chất lượng và hiệu quả. Về cơ bản, ngành xuất bản đã đáp ứng được nhu cầu đọc của toàn xã hội. Nhiều bộ sách có giá trị với hình thức đẹp, chất lượng tốt   được dư luận xã hội cũng như độc giả hoan nghênh đón nhận. Nhìn chung, hoạt động xuất bản đã góp phần phục vụ tích cực sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu văn hoá đồng thời nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.

Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, chú trọng đến việc xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật để đáp ứng yêu cầu hội nhập và xây dựng Nhà nước pháp quyền, do vậy, yêu cầu về tuyên truyền pháp luật và nhu cầu về tìm hiểu pháp luật trong xã hội ngày càng cao. Đặc biệt tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, đưa pháp luật đến với người dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Bộ Tư pháp, cùng với Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, Nhà xuất bản Tư pháp cũng có trách nhiệm thực hiện chức năng này. Trong khi đó, Nhà xuất bản mới được tái thành lập cuối năm 2003, đến nay hoạt động của Nhà xuất bản Tư pháp đã từng bước ổn định và đã thu được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, hiện tại xét về mọi phương diện như: Cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm xuất bản, cơ sở vật chất, mạng lưới phát hành, hoạt động in… của Nhà xuất bản trước nhu cầu về sách pháp lý to lớn của xã hội và những yêu cầu đổi mới của sự nghiệp xuất bản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều bất cập. Do vậy, đòi hỏi Nhà xuất bản Tư pháp cần phải tăng cường năng lực xuất bản sách trong đó có sách pháp lý nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của thực tiễn khách quan. Với những lý do trên, Nhà xuất bản Tư pháp đã lựa chọn đề án nghiên cứu: “Các giải pháp tăng cường năng lực xuất bản sách pháp lý của Nhà xuất bản Tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập và xây dựng nhà nước pháp quyền” là một yêu cầu cấp bách và cần thiết, không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn.

1.2. Tình hình nghiên cứu

          Trong những năm gần đây có một số đơn vị trong Bộ nghiên cứu một số đề án như: Đề án đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; Đề án tăng cường năng lực cho cơ quan Thanh tra Tư pháp… Những đề án này đề cập riêng lẻ đến các lĩnh vực hoạt động của Bộ.

Về đề tài khoa học có một số luận án như: Luận án Tiến sỹ của tác giả Đỗ Mạnh Chu về hoàn thiện pháp luật xuất bản trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, luận án này mới chỉ đề cập đến các quy định hiện hành của pháp luật về công tác xuất bản nói chung.

          Tóm lại, tăng cường năng lực xuất bản sách pháp lý của Nhà xuất bản Tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập và xây dựng nhà nước pháp quyền là một vấn đề mới chưa có công trình nào nghiên cứu khoa học nào.

1.3. Mục đích, yêu cầu của đề án

1. 3.1. Mục đích

Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn  của hoạt động xuất bản sách pháp lý, qua đó đề xuất một số giải pháp và lộ trình cụ thể nhằm tăng cường năng lực xuất bản sách pháp lý cho Nhà xuất bản Tư pháp, đồng thời đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập và xây dựng Nhà nước pháp quyền trong tình hình mới.

1.3.2. Yêu cầu

Để thực hiện mục tiêu này Đề án giải quyết một số vấn đề sau :

- Làm rõ khái niệm, các yếu tố cấu thành năng lực xuất bản, đặc thù của hoạt động xuất bản sách pháp lý.

- Làm rõ các yếu tố tác động, ảnh hưởng cũng như những yêu cầu mới đặt ra đối với công tác xuất bản nói chung và xuất bản sách pháp lý nói riêng.

- Đánh giá thực trạng năng lực xuất bản sách pháp lý hiện nay với những ưu, nhược điểm và các nguyên nhân của nó.

- Tình hình phát triển xuất bản trong nước và nước ngoài

- Đề xuất các giải pháp, lộ trình cụ thể nhằm tăng cường năng lực cho   Nhà xuất bản Tư pháp trong việc xuất bản sách pháp lý.

1.4. Phạm vi nghiên cứu của Đề án.

- Trong thời hạn 12 tháng với kinh phí có hạn nên đề án chỉ tập trung đánh giá năng lực hiện nay nhà xuất bản tư pháp, đồng thời có đánh giá khái quát năng lực của một số nhà xuất bản có thị phần xuất bản sách tương đối lớn.

- Nhu cầu sách pháp lý trong thời gian tới cũng được đề án đánh giá, khảo sát các đối tượng, vùng miền mang tính đại diện chứ không thể triển khai trong toàn quốc.

1.5. Phương pháp nghiên cứu Đề án

Để nghiên cứu Đề án, chúng tôi sử dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật cũng như những quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi cá nhân, phương pháp thống kê toán học… để từ đó làm rõ những yêu cầu, mục đích mà đề án đặt ra.

2. PHẦN NỘI DUNG

2.1. Một số vấn đề chung về năng lực xuất bản và sự cần thiết phải tăng cường năng lực xuất bản sách pháp lý của Nhà xuất bản Tư pháp

2.1.1. Các yếu tố cấu thành năng lực, tiêu chí đánh giá năng lực xuất bản sách pháp lý

Năng lực xuất bản được thể hiện trước hết và tập trung ở giá trị mang lại của xuất bản phẩm trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hay nói một cách khái quát thì năng lực xuất bản là khả năng sản xuất, phát hành các xuất bản phẩm để chuyển tải thông tin, đáp ứng nhu cầu của độc giả, phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu xuất bản và mang lại những lợi ích kinh tế, xã hội nhất định.

Năng lực xuất bản được cấu thành bởi các yếu tố cơ bản sau đây:

- Cơ sở pháp lý của hoạt động xuất bản. Cơ sở pháp lý của hoạt động xuất bản được thể hiện ở tư cách pháp nhân của nhà xuất bản và các cơ sở liên kết trong quá trình tổ chức hoạt động xuất bản. Điều này đòi hỏi nhà xuất bản phải được cơ quan chủ quản đứng tên xin phép thành lập một cách hợp pháp theo những tôn chỉ, mục đích, phương hướng hoạt động xác định;

- Yếu tố con người. Yếu tố này đòi hỏi nhà xuất bản khi được thành lập và trong quá trình hoạt động phải có đủ nguồn lực con người để thực hiện nhiệm vụ

- Yếu tố cơ sở vật chất, điều kiện làm việc. Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của nhà xuất bản phải được cơ quan chủ quan cấp vốn ban đầu và đảm bảo các điều kiện cần thiết khác để đi vào hoạt động. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, để đảm bảo sự phát triển của hoạt động xuất bản, trong hoạt động sản xuất, kinh doanh các xuất bản phẩm, nhà xuất bản còn cần phải có doanh thu, có lãi và tích lũy tài chính để đầu tư lại cho hoạt động xuất bản nhằm thúc đẩy, mở rộng việc sản xuất, đầu tư trang thiết bị, tài sản, mở rộng mạng lưới cơ sở phát hành các xuất bản phẩm, giải quyết các vấn đề phúc lợi xã hội khác.....

- Cơ chế quản lý, cách thức tổ chức hoạt động xuất bản: Yếu tố này đòi hỏi người lãnh đạo nhà xuất bản phải tạo lập được bộ máy tổ chức và nhân lực của nhà xuất bản đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của hoạt động xuất bản.

Từ những vấn đề cơ bản về năng lực xuất bản nói chung, có thể khái quát năng lực xuất bản sách pháp lý là khả năng tạo ra những xuất bản phẩm nội dung pháp lý đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của độc giả về pháp luật, thực tiễn pháp luật, góp phần tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật và thực thi pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức và nhân dân.

Để đánh giá hiệu quả năng lực xuất bản sách pháp lý, cần phải căn cứ vào những tiêu chí nhất định. Cụ thể là:

          Thứ nhất, tiêu chí về số lượng, chất lượng, sự đa dạng của sách pháp lý. Tiêu chí này đòi hỏi xuất bản phẩm là sách pháp lý phải có số lượng phát hành lớn. Cùng với yêu cầu về số lượng, sách pháp lý còn phải đáp ứng yêu cầu cao đối với chất lượng thông tin và sự đa dạng các loại hình xuất bản phẩm.

Thứ hai, khả năng phát hành các xuất bản phẩm pháp lý. Tiêu chí này đòi hỏi nhà xuất bản phải có một cơ chế quản lý và cách thức tổ chức hoạt động một cách khoa học và hiệu quả.

Thứ ba, sự đáp ứng nhu cầu của thị trường và độc giả đối với sách pháp lý. Tiêu chí này đòi hỏi việc sản xuất và phát hành sách pháp lý cần phải tính toán được sự cung cầu của thị trường sách pháp lý cũng như nhu cầu của các độc giả quan tâm.

2.1.2. Các yếu tố chi phối và ảnh hưởng đến năng lực xuất bản sách pháp lý

Trong điều kiện hiện nay, năng lực xuất bản của các nhà xuất bản nói chung và năng lực xuất bản sách pháp lý của Nhà xuất bản Tư pháp nói riêng, chịu sự ảnh hưởng và chi phối bởi hai nhóm yếu tố: Các yếu tố bên ngoài và  các yếu tố bên trong.

2.1.2.1.  Các yếu tố bên ngoài chi phối và ảnh hưởng đến năng lực xuất bản sách pháp lý

*  Những yêu cầu từ đời sống chính trị, kinh tế, xã hội

* Những ảnh hưởng và chi phối từ thị trường xuất bản

Những yếu tố ảnh hưởng và chi phối từ thị trường xuất bản có thể kể đến như khả năng chiếm giữ thị phần, khả năng cạnh tranh, giá cả, khả năng đáp ứng thị hiếu và nhu cầu của độc giả.... Trong điều kiện kinh tế thị trường, những ảnh hưởng của các yếu tố này tác động rất mạnh đến năng lực và hiệu quả của việc xuất bản sách pháp lý.

2.1.2.2.  Các yếu tố bên trong chi phối và ảnh hưởng đến năng lực xuất bản sách pháp lý

* Ảnh hưởng của chiến lược và kế hoạch xuất bản sách pháp lý

Chiến lược phát triển và kế hoạch công tác được coi như kim chỉ nam dẫn đường trong hành động. Bất luận đối với một đơn vị sản xuất, kinh doanh nào, nếu như không xây dựng được chiến lược phát triển và kế hoạch cụ thể trong từng thời kỳ, giai đoạn trước mắt và lâu dài, thì chắc chắn hoạt động sẽ không đạt hiệu quả. Nhà xuất bản và hoạt động xuất bản sách pháp lý không nằm ngoài quy luật trên.

* Chất lượng của đội ngũ cán bộ, biên tập viên, nhân viên kỹ thuật

Yếu tố con người được coi là yếu tố quan trọng nhất của nhóm các yếu tố bên trong. Điều này phụ thuộc cơ cấu tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ, biên tập viên, nhân viên kỹ thuật.

* Cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ đảm bảo để đáp ứng nhu cầu hoạt động

Cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ được coi là nền tảng để đảm bảo cho hoạt động xuất bản được hiệu quả. Các yếu tố về vật chất, kỹ thuật, công nghệ bao hàm: Trụ sở làm việc, các phương tiện, máy móc thiết bị, công nghệ kỹ thuật chế bản, đồ hoạ vi tính và cả vốn để thực hiện quá trình xuất bản...

Nếu các yếu tố này được trang bị đầy đủ, hiện đại sẽ thúc đẩy việc tăng năng suất lao động và chất lượng của các xuất bản phẩm, rút ngắn thời gian, công đoạn xuất bản, đáp ứng được tính thời sự của nội dung các ấn phẩm.

*. Phương pháp quản trị, trình độ quản lý và tổ chức xuất bản   

Phương pháp quản trị, trình độ quản lý và tổ chức xuất bản cũng ảnh hướng và chi phối mạnh mẽ đến năng lực xuất bản của Nhà xuất bản. Nói đến phương pháp quản trị là nói đến tính khoa học, hiệu quả, minh bạch của kế hoạch kinh doanh xuất bản phẩm, trong đó, người ta quan tâm đến việc sử dụng vốn, lưu chuyển vốn trong kinh doanh xuất bản phẩm. Điều này có mối liên hệ chặt chẽ với phương pháp, trình độ quản lý và tổ chức xuất bản các ấn phẩm.

Các vấn đề ở trên được vận hành trong một mối quan hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau. Nếu có chiến lược và kế hoạch tốt, sẽ tạo ra cơ chế quản lý và tổ chức xuất bản khoa học, tạo ra các xuất bản phẩm có chất lượng cao cả về nội dung và hình thức, chiếm lĩnh được thị trường và đưa lại hiệu quả thiết thực trong việc sử dụng vốn đầu tư cho quá trình xuất bản.

2.1.3. Lịch sử hình thành, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà xuất bản Tư pháp

2.1.3.1. Lịch sử hình thành của Nhà xuất bản Tư pháp

Nhà xuất bản Tư pháp (tiền thân là Nhà xuất bản Pháp lý) là một nhà xuất bản chuyên ngành về pháp luật. Năm 1978 Nhà nước ta đã cho phép thành lập Nhà xuất bản chuyên ngành về pháp luật - Nhà xuất bản Pháp lý. Ngày 22/11/1981, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã ký ban hành Nghị định số 143-HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp, trong đó có Nhà xuất bản Pháp lý.

Theo yêu cầu tập trung sức mạnh cho hoạt động xuất bản sách chính trị, lý luận, pháp luật, Ban Bí thứ Trung ương Đảng khoá VII đã ra Quyết định số 50 ngày 20/11/1992 quyết định hợp nhất 4 nhà xuất bản: Nhà xuất bản Sự thật thuộc Ban Bí thư, Nhà xuất bản Thông tin lý luận thuộc Viện Nghiên cứu Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Tư tưởng - Văn hoá thuộc Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương và Nhà xuất bản Pháp lý thuộc Bộ Tư pháp thành Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật.

Trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý của cán bộ, nhân dân tăng lên, việc có một nhà xuất bản chuyên về pháp luật là rất cần thiết. Được sự đồng ý của các cơ quan có thẩm quyền, năm 2003 Nhà xuất bản Tư pháp được thành lập theo Quyết định số 2240/QĐ-BVHTT ngày 08/8/2003 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin và Quyết định số 396/2003/QĐ-BTP ngày 08/9/2003 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

2.1.3.2. Vị trí của Nhà xuất bản Tư pháp

Theo quy định tại Quyết định số 1243/QĐ-BTP, Nhà xuất bản Tư pháp là chủ thể chịu trách nhiệm độc lập về các quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quan hệ với các cơ quan, tổ chức khi thực hiện nhiệm vụ. Nhà xuất bản chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng và Thứ trưởng được phân công phụ trách, có trách nhiệm báo cáo và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng và trước pháp luật về việc thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Nhà xuất bản Tư pháp có mối quan hệ chặt chẽ với một số đơn vị thuộc Bộ trong việc thực hiện nhiệm vụ chung của Bộ, ngành, cụ thể:

- Phối hợp với Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật trong việc giúp Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ quản lý báo chí của Bộ Tư pháp theo quy định của pháp luật.

- Phối hợp với Viện Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp, các cơ sở đào tạo luật và bồi dưỡng nghiệp vụ của ngành Tư pháp trong việc xuất bản các loại sách, giáo trình, tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy.

- Phối hợp với Vụ Hành chính tư pháp, Cục con nuôi trong việc xây dựng các loại sổ, biểu mẫu hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp và chứng thực.

- Chủ trì, phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ trong việc kiện toàn tổ chức, quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của Nhà xuất bản theo quy định của pháp luật.

- Phối hợp với Vụ Kế hoạch – Tài chính trong việc thực hiện các chế độ, chính sách về tài chính, kế toán theo quy định.

2.1.3.3. Vai trò của Nhà xuất bản Tư pháp

*  Vai trò của Nhà xuất bản Tư pháp trong việc thực hiện nhiệm vụ của Bộ,  ngành

Theo quy định tại Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2008 của Chính phủ, Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật; kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; hành chính tư pháp; bổ trợ tư pháp và các công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác hành chính tư pháp của Bộ Tư pháp là quản lý thống nhất các loại biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp[1]. Để thực hiện nhiệm vụ đó, với tư cách là đơn vị giúp Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác quản lý và đăng ký hộ tịch, Vụ Hành chính -Tư pháp là đơn vị chịu trách nhiệm thiết kế biểu mẫu, sổ hộ tịch để áp dụng thống nhất trong cả nước, và với Quyết định số 01/2006/QĐ-BTP ngày 29 tháng 3 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch, Giám đốc Nhà xuất bản Tư pháp được Bộ giao nhiệm vụ “phối hợp với Vụ trưởng Vụ Hành chính tư pháp tổ chức in và phát hành đối với 16 loại biểu mẫu hộ tịch…, đáp ứng đầy đủ yêu cầu về đăng ký và quản lý hộ tịch của địa phương…”[2].

Thực hiện nhiệm vụ được giao, công tác in, phát hành biểu mẫu, sổ hộ tịch đáp ứng nhu cầu của các địa phương đã được Nhà xuất bản Tư pháp nỗ lực cố gắng. Mặc dù vậy, do điều kiện nhân lực, vật lực hạn chế, có thời gian Nhà xuất bản chưa thực sự hoàn thành tốt nhiệm vụ này. Tuy nhiên, dưới sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Bộ, sự đồng lòng, quyết tâm của tập thể cán bộ, viên chức Nhà xuất bản, việc đáp ứng nhu cầu về biểu mẫu, sổ hộ tịch cho 64 tỉnh, thành phố trên cả nước của Nhà xuất bản Tư pháp từ quý II năm 2009 đã đi vào nề nếp. Nhu cầu về biểu mẫu, sổ hộ tịch của địa phương được đáp ứng kịp thời với tỉ lệ gần 100%.

* Vai trò của Nhà xuất bản Tư pháp trong việc phúc đáp nhu cầu của thị trường

Số đầu sách pháp luật thông thường vốn chiếm một tỉ lệ không cao trong thị trường sách Việt Nam: năm 2008, sách chính trị, pháp luật xuất bản được 3.628 cuốn với 8,590 triệu bản/tổng số 25.120 cuốn với 279,913 triệu bản, 6 tháng đầu năm 2009, số sách chính trị pháp lý đạt 1.316 cuốn với 2,752 bản/tổng số 10.677 cuốn với 163,256 triệu bản. Tuy nhiên, hiện nay nó là một mảng sách có tầm quan trọng nhất định đối với cộng đồng xã hội bởi nhiều lý do:

Thứ nhất, Đảng và Nhà nước ta hiện nay rất coi trọng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật của mọi cá nhân, tổ chức.

Thứ hai, cùng với sự phát triển của đời sống vật chất, tinh thần, ý thức pháp luật của người dân cũng đang được nâng lên. Nhu cầu tìm hiểu pháp luật, nắm bắt các quy định pháp luật về mọi mặt đời sống để bảo vệ quyền lợi chính đáng của bản thân mỗi cá nhân đang là một xu thế tất yếu.

Thứ ba, hội nhập kinh tế toàn cầu là một xu thế tất yếu của một thế giới luôn có sự thay đổi để phát triển. Cùng với các cuộc cách mạng về khoa học, thế giới dường như ngày càng nhỏ bé trước sức mạnh của con người. Quá trình hội nhập ngày càng sâu, rộng của Việt Nam vào sân chơi quốc tế đã đặt ra cho các chủ thể tham gia cuộc chơi yêu cầu phải hiểu biết luật chơi - luật pháp quốc tế một cách bài bản. Sách pháp luật là một kênh quan trọng đem đến tri thức cho người đọc về các kiến thức đó.

Thứ tư, nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu tài liệu pháp luật phục vụ công tác giảng dạy, học tập và phục vụ nhiệm vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ giảng viên, sinh viên, các cán bộ chức danh tư pháp ngày càng cao.

Tuy nhiên, về mặt bằng chung, sách pháp lý hiện nay dù nhiều về số lượng, song nội dung sách mới chỉ dừng ở việc sao chép lại các văn bản pháp luật, số đầu sách nghiên cứu mang tính hàn lâm, sách tham khảo kinh nghiệm nước ngoài (sách dịch thuộc tủ sách nước ngoài) còn hạn chế; nội dung sách hướng dẫn nghiệp vụ còn khô cứng, thiếu sinh động; sách phổ biến, hướng dẫn pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số chưa được chú trọng đầu tư đúng mức do hạn chế về kinh phí và gặp khó khăn trong việc dịch nội dung từ tiếng Việt ra tiếng dân tộc thiểu số… Chính vì vậy, trong thời gian tới, Nhà xuất bản Tư pháp cần tập trung nguồn lực cho hoạt động xuất bản sách để đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường, đồng thời, từng bước tựchủ về tài chính, hướng tới sự phát triển bền vững trong tương lai.

2.1.3.4.. Chức năng của Nhà xuất bản Tư pháp

Nhà xuất bản Tư pháp là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Tư pháp,  có trụ sở tại thành phố Hà Nội, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản được mở tại kho bạc và ngân hàng theo quy định của pháp luật, có các chức năng sau đây:

- Tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ; phổ biến kiến thức, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành Tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Xuất bản các xuất bản phẩm phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

2.1.3.5. Nhiệm vụ  của Nhà xuất bản Tư pháp

Điều 2 Quyết định số 1243/QĐ-BTP đã quy định những nhiệm vụ cụ thể của Nhà xuất bản Tư pháp.

2.1.4. Cơ sở pháp lý về công tác xuất bản và các quy định, quy chế hoạt động hiện nay của Nhà xuất bản Tư pháp

2.1.4.1. Các quy định của pháp luật hiện hành về công tác xuất bản và việc thực hiện trong thực tiễn

Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động xuất bản có hiệu quả và đúng pháp luật, Đảng và Nhà nước đã ban hành kịp thời nhiều chủ trương, chính sách, chế độ quy định về hoạt động xuất bản phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho hoạt động xuất bản phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho hoạt động xuất bản phát triển nhanh, đúng hướng trong cơ chế kinh tế mới. Cụ thể, Luật xuất bản đã được Quốc hội nước CHXHCNVN khóa XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2005 đã thể hiện nhiều nội dung mới, tiến bộ hơn Luật xuất bản năm 1997. Đó là cải cách hành chính theo hướng đơn giản hóa thủ tục, phân cấp mạnh cho cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà xuất bản, cơ sở in, phát hành xuất bản phẩm chủ động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh. Đồng thời có cơ chế quản lý chặt chẽ, tăng cường trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản; cho phép tư nhân có thể liên kết cả trong khâu xuất bản, tổ chức biên tập, khai thác bản thảo, mua bản quyền. (Điều 20 Luật xuất bản 2004 quy định cụ thể)

Bên cạnh đó, để có cơ sở thực hiện Luật xuất bản năm 2004 có hiệu quả, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 111/2005/NĐ – CP ngày 26/8/2005 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật xuất bản và Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 21/6/2006 về in các sản phẩm không phải là xuất bản phẩm; Bộ văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Thông tin – truyền thông) ban hành Thông tư số 30/2006/TT-BVHTT ngày 22/02/2006 hướng dẫn thi hành Nghị định 111/2005/NĐ-CP ngày 26/8/2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật xuất bản. Đây chính là hệ thống văn bản pháp luật khá hoàn chỉnh tạo hành lang pháp lý cho hoạt động xuất bản phát triển cả về số lượng và chất lượng, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời hệ thống văn bản pháp lụt này cũng là cơ sở pháp lý cần thiết để xử lý đối với những hành vi vi phạm trong hoạt động xuất bản, in và phát hành.

Sau 5 năm thực hiện Chỉ thị số 42 –CT-TW ngày 25/8/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản, và sau 4 năm thực hiện Luật xuất bản, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động xuất bản vẫn còn một số thiếu sót, bất cập cần được xem xét nghiêm túc để có biện pháp khắc phục kịp thời. Đó là:

          Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xuất bản còn thiếu, chưa đồng bộ, cơ chế chính sách chưa cụ thể; việc thực hiện chức năng định hướng thông qua dự báo, thông tin, gợi ý và xây dựng các mô hình, công nghệ mới đối với hoạt động xuất bản còn yếu.

          Thứ hai, việc chấp hành quy định của pháp luật trong hoạt động xuất bản chưa nghiêm như: quyết định xuất bản không đúng với tên sách và nội dung đề tài đã đăng ký trong kế hoạch xuất bản, không thực hiện đúng “Quy chế liên doanh về in và phát hành xuất bản phẩm”. Tình trạng chưa nộp lưu chiểu đã phát hành hoặc giới thiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng chưa được khắc phục; trong hoạt động xuất bản có biểu hiện đề cao lợi ích kinh tế, chạy theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận bạn đọc; một số nhà xuất bản buông lỏng quản lý, thậm chí giao toàn bộ khâu biên tập bản thỏa cho đối tác liên kết làm ảnh hưởng đến nội dung xuất bản phẩm và cho ra đời những ấn phẩm xa rời tôn chỉ mục đích, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thậm chí còn có nội dung xấu, độc hại.

          Thứ ba, một số cơ quan chủ quản chưa nhận thức và thực hiện đúng nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Cụ thể là: chưa tổ chức được bộ máy tham mưu giúp việc về công tác xuất bản; chưa phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng để tìm ra những biện pháp khắc phục những yếu kém của Nhà xuất bản; có địa phương nhìn nhận Nhà xuất bản như một doanh nghiệp kinh doanh thuần túy, khoản thu cho ngân sách mà ít quan tâm đến việc tạo điều kiện về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt theo luật định...; chưa thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức tư tưởng và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ lãnh đạo và biên tập viên. Đến nay, rất ít cơ quan chủ quản ban hành được quy chế về mối quan hệ giữa cơ quan chủ quản và Nhà xuất bản.

          Thứ tư, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng ở trung ương và địa phương trong việc kiểm tra, thanh tra hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm. Việc kiểm tra thị trường xuất bản phẩm không được tiến hành thường xuyên, xử lý các vụ việc vi phạm cón thiếu tính kiên quyết và thiếu tính răn đe.

  Thứ năm, trình độ cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế, lúng túng trước những vấn đề mới phát sinh trong hoạt động phát hành xuất bản phẩm. Chưa tập trung đầu tư nghiên cứu, đề xuất những giải pháp, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn và giải quyết kịp thời những vấn đề bất cập trong hoạt động, phát hành xuất bản phẩm.

Những hạn chế, tồn tại nêu trên của hoạt động xuất bản nói chung và của một số nhà xuất bản nói riêng, chúng tôi thấy có một số nguyên nhân cơ bản sau đây:

          Thứ nhất, chưa nhận thức rõ vị trí, tính chất và mục đích của hoạt động xuất bản, vẫn còn tình trạng một số cấp ủy Đảng, chính quyền nhất là cơ quan chủ quản chưa thấy rõ hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực tư tưởng văn hóa, thậm chí coi Nhà xuất bản như cơ sở làm kinh tế đơn thuần, thiếu quan tâm lãnh đạo công tác chính trị tư tưởng.

          Thứ hai, việc thể chế hóa các chủ trương, định hướng của Đảng thành những quy định pháp lý, chế độ chính sách còn chậm, còn lúng túng, chưa đáp ứng đòi hỏi của hoạt động xuất bản. Nhiều cơ chế, chính sách về thuế, đầu tư, đất đai, nhân lực chưa được quan tâm đúng mức, gây khó khăn cho việc xây dựng và vận hành các mô hình xuất bản mới. Việc tổ chức và triển khai mô hình xuất bản mới còn lúng túng, bất cập, thậm chí có biểu hiện xa rời nhiệm vụ chính trị4.

          Thứ ba, các nhà xuất bản chưa chủ động tìm biện pháp, cách thức để hướng tới thị trường nước ngoài. Các cơ sở in, phát hành khi tham gia quá trình hội nhập quốc tế chưa được chuẩn bị tích cực, nghiêm túc, khoa học và thiết thực.

          Thứ tư, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý chưa thật nhạy bén về nhiều mặt. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đặc biệt đội ngũ Biên tập viên còn nhiều bất cập và chưa đáp ứng với đòi hỏi của thực tiễn khách quan.

  Thứ năm, sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương với cơ quan chủ quản đối với hoạt động xuất bản chưa chặt chẽ.

2.1.4.2.  Đánh giá các quy định, quy chế hoạt động, quy trình thực hiện các công việc của Nhà xuất bản Tư pháp hiện  nay      

          Nhìn lại chặng đường hơn 5 năm thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư trung ương, các nhà xuất bản nói chung và Nhà xuất bản Tư pháp nói riêng đã nỗ lực nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản, đặc biệt Nhà xuất bản Tư pháp đã bám sát và phục vụ có hiệu quả những nhiệm vụ chính trị trọng tâm của đất nước và của ngành, xuất bản được nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu khoa học và xây dựng được một số tủ sách có giá trị, từng bước thích ứng với cơ chế thị trường, phát triển cả về tiềm lực, năng lực, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về xuất bản phẩm của xã hội, góp phần xứng đáng vào phát triển một nền xuất bản độc lập, tự chủ theo định hướng XHCN. Sau 6 năm hoạt động, Nhà xuất bản Tư pháp đã có bước trưởng thành đáng khích lệ và thu được những kết quả quan trọng trên các mặt công tác, tạo tiền đề cho hoạt động xuất bản phát triển một cách bền vững.

Bên cạnh những kết quả đạt được trong thời gian qua mà chúng tôi đã nêu ở trên là rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2008 một số mặt hoạt động của Nhà xuất bản Tư pháp trên một số lĩnh vực vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, mà những hạn chế này theo chúng tôi có liên quan đến hoạt động xây dựng thể chế, đặc biệt là các quy chế thực hiện dân chủ, quy chế làm việc, quy chế liên kết xuất bản, quy định tạm thời về phân loại và định mức lao động của Nhà xuất bản Tư pháp... chậm được hoàn thiện. Cụ thể nội dung này cvhúng tôi đã trình bày trong đề án.

         

2.2. Thực trạng năng lực xuất bản sách pháp lý hiện nay của Nhà xuất bản Tư pháp

2.2.1. Thực trạng năng lực xuất bản sách pháp lý của Nhà xuất bản Tư pháp trên cơ sở đánh giá nhu cầu của xã hội đối với sách pháp lý

2.2.1.1. Thực trạng hoạt động biên tập và hoạt động thiết kế, chế bản của Nhà xuất bản Tư pháp

* Thực trạng hoạt động biên tập của Nhà xuất bản Tư pháp

       Hiện nay Nhà xuất bản Tư pháp chỉ có 1 Ban biên tập với 10 biên tập viên, phân công biên tập tất cả các loại sách thuộc lĩnh vực xuất bản của Nhà xuất bản, do vậy, nên chưa có sự chuyên sâu đối với từng mảng sách.

Trong thời gian qua Ban biên tập đó giúp Lãnh đạo Nhà xuất bản tổ chức, biên tập bản thảo và quản lý hoạt động biên tập nội dung các ấn phẩm liên kết theo kế hoạch được duyệt nhằm thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phục vụ yêu cầu quản lý của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật của nhân dân.

Kể từ khi thành lập Nhà xuất bản tháng 10 năm 2003 đến hết năm 2008 Nhà xuất bản Tư pháp đã xuất bản được 1050 đầu sách, trong đó: hai tháng cuối năm 2003 : 10 đầu sách; năm 2004: 107 đầu sách; năm 2005: 287 đầu sách; năm 2006: 310 đầu sách; năm 2007: 228 đầu sách; năm 2008: 108 đầu sách; năm 2009: 115 đầu sách.

 Đại đa số các ấn phẩm của Nhà xuất bản Tư pháp được xuất bản đều đảm bảo chất lượng cả về nội dung và hình thức, không để xảy ra những sai phạm dẫn đến phải xử lý kỷ luật như khiển trách, cảnh cáo, buộc thu sách về hay phải có những đính chính lớn về nội dung. Các ấn phẩm của Nhà xuất bản được đánh giá là có hình thức đẹp và nội dung đáp ứng được nhu cầu bạn đọc, thiết thực với cuộc sống. Các năm 2005, 2006, 2008 Nhà xuất bản đều có ấn phẩm đạt giải thưởng sách hay, sách đẹp do Hội xuất bản Việt nam tổ chức. Điều này cũng được thể hiện qua kết quả khảo sát trên 311 người (cán bộ lãnh đạo, quản lý hành chính nhà nước, cộng tác viên của Nhà xuất bản Tư pháp và sinh viên Trường Đại học Luật Hà nội). Cụ thể: 55,6% người được hỏi cho rằng Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản ấn phẩm pháp lý có nội dung tốt nhất so với các nhà xuất bản khác như Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Nhà xuất bản Lao động xã hội, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Nhà xuất bản Lao động. Có  93% số người được hỏi cho rằng Nhà xuất bản Tư pháp quan tâm đến chất lượng nội dung ấn phẩm.

Tuy nhiên, công tác biên tập của Nhà xuất bản Tư pháp còn một số tồn tại và hạn chế sau:

- Trong công tác biên tập còn có lỗi kỹ thuật cần hiệu đính, công tác phát hiện đề tài còn hạn chế.

- Số lượng đầu sách tự in còn hạn chế, chủ yếu là sách đặt hàng, sách liên kết. Qua kết quả khảo sát cho thấy 46,6% số người được hỏi cho rằng chủ đề sách của Nhà xuất bản Tư pháp còn chưa phong phú.

- Tiến độ biên tập đôi khi còn hạn chế.

Nguyên nhân của các hạn chế nêu trên:

- Thiếu đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao và sâu, Biên tập viên chưa được đào tạo chính quy về công tác biên tập

- Biên tập viên còn gặp nhiều khó khăn trong công tác tạo dựng mối quan hệ tổ chức bản thảo, khai thác đề tài.

- Nhà xuất bản chưa có kế hoạch đề tài phù hợp với khả năng biên tập của Ban biên tập và khả năng phát hành của Nhà xuất bản, từ đó nhà xuất bản chưa có kế hoạch sản xuất phù hợp trong từng giai đoạn nên hiệu quả hoạt động không cao.

- Khả năng phát hành của Nhà xuất bản Tư pháp còn hạn chế nên ảnh hưởng đến số lượng xuất bản phẩm.

- Nhu cầu tự tìm hiểu pháp luật, nghiên cứu chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trong nhân dân nhìn chung còn ở mức độ, trong khi các ấn phẩm của Nhà xuất bản chủ yếu là tuyên truyền phổ biến pháp luật, nghiên cứu chính trị pháp lý, hướng dẫn nghiệp vụ tư pháp, văn bản pháp luật ... vì vậy đối tượng chủ yếu là các cơ quan đơn vị trường học....

* Thực trạng công tác thiết kế, chế bản của Nhà xuất bản Tư pháp

Hiện nay công tác thiết kế chế bản của Nhà xuất bản được bố trí nằm trong Phòng Kế hoạch sản xuất, để làm nhiệm vụ Nhà xuất bản có 2 họa sỹ, 2 cán bộ chính thức làm công tác chế bản, đã đạt được những kết quả sau:

- Đã tạo nên phong cách riêng cho ấn phẩm của Nhà xuất bản

- Ruột sách có nhiều kiểu trình bày phù hợp với mọi đối tượng bạn đọc

- Bìa sách đẹp ấn tượng, phù hợp với thể loại sách và phù hợp với nội dung sách.

Tuy nhiên, công thiết kế, chế bản của Nhà xuất bản Tư pháp còn một số tồn tại và hạn chế sau:

- Công tác thiết kế chế bản có cán bộ riêng không kiêm nhiệm việc khác nên thời gian rảnh rỗi còn nhiều.

- Hiện nay cán bộ chế bản chỉ đổ khổ và dàn trang chưa thực hiện việc sửa lỗi trên bông biên tập nên tay nghề không được nâng cao và đồng thời khối lượng công việc lại dồn lên đầu biên tập viên quá lớn nên dẫn đến có sự mất cân đối trong khối lượng công việc mỗi cán bộ Nhà xuất bản phải thực hiện.

- Việc thiết kế chưa chuyên nghiệp và hiện đại do máy móc cũ kỹ lạc hậu.

- Việc thiết kế chưa chủ động sáng tạo còn phụ thuộc và ý tưởng của đối tác bên ngoài.

2.2.1.2. Thực trạng công tác in, phát hành sách pháp lý, công tác xuất bản sách liên kết của Nhà xuất bản Tư pháp

* Thực trạng công tác in của Nhà xuất bản Tư pháp

Nhà xuất bản Tư pháp với xuất phát điểm là một Nhà xuất bản chuyên ngành, phần lớn đội ngũ cán bộ chưa qua chuyên ngành xuất bản mà chủ yếu được đào chuyên ngành Luật, trang thiết bị phục vụ công tác còn thiếu, chưa có xưởng in. Tuy nhiên, qua 6 năm được thành lập và đi vào hoạt động, Nhà xuất bản Tư pháp đã xây dựng được thương hiệu và có vị thế trong ngành xuất bản. Quy trình phối hợp hoạt động của các mảng công tác trong đơn vị đã được xây dựng và hoàn thiện, trong đó có công tác in xuất bản phẩm. Quy trình in được triển khai thực hiện đầy đủ thủ tục theo quy định tại Luật đấu thầu năm 2005 (báo giá cạnh tranh hoặc chào hàng cạnh tranh). Do chưa có nhà in nên trong những năm qua Nhà xuất bản Tư pháp đã tổ chức in các xuất bản phẩm tại rất nhiều đơn vị in khác nhau, nhìn chung đã lựa chọn được các cơ sở in tốt đảm bảo được chất lượng ấn phẩm, chất lượng phục vụ, giá thành và tiến độ, trong đó có các đơn vị như: Công ty in Văn hoá phẩm, Công ty in Ba Đình- Bộ Công An; Công ty Cổ phần in Diên Hồng - Nhà xuất bản giáo dục... Tuy nhiên quá trình thực hiện còn có nhiều khó khăn, do các ấn phẩm được in  tại nhiều đơn vị in khác nhau nên ảnh hưởng đến chất lượng, đặc biệt chưa chủ động về tiến độ đối với những đầu sách in gấp, đồng thời vẫn xảy ra hiện tượng sách bị in lậu với chất lượng không đảm bảo, ảnh hưởng đến uy tín và vấn đề về bản quyền trong công tác nối bản, tái bản của Nhà xuất bản Tư pháp

* Thực trạng công tác phát hành

Trong những năm qua, đặc biệt là năm 2009, mặc dù bị ảnh hưởng của suy thoái kinh tế nhưng Nhà xuất bản Tư pháp vẫn nỗ lực khắc phục khó khăn, bên cạnh việc phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị của cơ quan, của ngành Tư pháp, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra, đạt mức tăng trưởng cao hơn năm trước. So với các mảng công tác khác, công tác phát hành cũng có những chuyển biến tích cực, đó tập trung trong việc đầu tư nắm bắt nhu cầu thị trường, từ đó cung cấp cho thị trường những ấn phẩm vừa đáp ứng nhiệm vụ chính trị, vừa phù hợp với  thị hiếu lành mạnh của bạn đọc. Công tác khai thác, mở rộng mạng lưới khách hàng, tuyên truyền quảng cáo đã được chú trọng. Các thể loại sách đã được quan tâm, đặc biệt là các loại sách tuyên truyền pháp luật, sách thôn, bản, tổ phố dành cho nhân dân và cán bộ cấp cơ sở, sách dành cho đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó sách luật là thể loại phát hành rất hiệu quả, có những đầu luật số lượng bản in lên tới trên 6000 bản (Luật thi hành án Dân sự).

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xuất bản sách pháp lý của Nhà xuất bản Tư pháp vẫn còn không ít hạn chế, nhất là khâu lựa chọn đề tài và công tác phát hành. Thực tế cho thấy một số đầu sách Luật (Song ngữ), sách nghiên cứu do đề tài chưa phù hợp, đồng thời công tác phát hành chưa năng động trong việc tìm kiếm thị trường nên số lượng tồn kho nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh.

Thị trường phát hành phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở các cơ quan Tư pháp, các cơ quan Thi hành án, Viện Kiểm sát, Toà án nhân dân các tỉnh trong khi đó các huyện biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa mạng lưới phát hành còn yếu và nhu cầu tiêu thụ sách pháp luật nói riêng cũng như các loại sách khác đạt tỷ lệ chưa cao.

* Thực trạng công tác xuất bản sách liên kết của Nhà xuất bản Tư pháp

Ngay từ khi thành lập và đặc biệt trong những năm gần đây, được sự quan tâm, tạo điều kiện của Lãnh đạo Bộ Tư pháp, các đơn vị thuộc Bộ, các Sở Tư pháp, cơ quan tư pháp địa phương, công tác xuất bản sách liên kết của Nhà xuất bản Tư pháp ngày được đẩy mạnh. Từ những cuốn sách liên kết đầu tiên với Sở Tư pháp tỉnh Tuyên Quang, Sở Tư pháp tỉnh Bắc Kạn, Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương như Hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh Tuyên Quang, Hải Dương, Bắc Kạn trong các năm 2003, 2004... và đặc biệt phối hợp với một số các Sở Tư pháp thành lập các trung tâm giới thiệu sách pháp luật tại địa phương để phát hành các ấn phẩm sách pháp luật, trong đó có phát hành đến các tủ sách Thôn, bản, tổ phố phục vụ cho nhân dân và cán bộ cấp cơ sở góp phần tạo nên thương hiệu của Nhà xuất bản Tư pháp. Bên cạnh đó, việc phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ như Văn phòng Bộ Tư pháp, Cục Kiểm tra Văn bản quy phạm pháp luật, Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật,... tiến hành làm các sách hướng dẫn nghiệp vụ phục vụ cho ngành Tư pháp như: 101 tình huống pháp luật, Tình huống nghiệp vụ kiểm tra văn bản,... Nhà xuất bản Tư pháp còn phối hợp với các trường đào tạo cử nhân Luật, đào tạo các chức danh tư pháp như Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật - Viện đại học Mở, Học viện Tư pháp, Khoa Luật – Đại học Kinh tế quốc dân... xuất bản các loại giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, học tập, giảng dạy... Liên kết với các Nhà sách, các công ty phát hành sách như Doanh nghiệp sách Thành Nghĩa – TP Hồ Chí Minh, Công ty văn hoá Phương Nam, Nhà sách Đông Tây, Tổng công ty Phát hành sách Việt Nam... xuất bản các sách luật mới, bình luận, chỉ dẫn áp dụng pháp luật...

Trong những năm qua, công tác xuất bản sách liên kết đã góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất bản cũng như tạo nên uy tín, thương hiệu của Nhà xuất bản Tư pháp. Từ một đơn vị mới thành lập với đội ngũ cán bộ và trang thiết bị còn thiếu, đến nay đã  đạt được những kết quả nhất định trong việc xuất bản sách pháp luật. Hơn thế, liên kết trong hoạt động xuất bản là một trong những hình thức quan trọng góp phần đẩy mạnh công tác xã hội hoá trong hoạt động xuất bản. Sự kết hợp này không chỉ mang lại lợi ích cho cả hai bên mà còn mang đến lợi ích cho cả người đọc…

 Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực, NXB vẫn đang gặp phải một số khó khăn đó là không có vốn hoạt động, hệ thống phát hành chưa hiệu quả, cơ quan chủ quản không hỗ trợ vốn kinh doanh... Một vấn đề rất trăn trở là chúng ta vừa tìm lối đi riêng nhưng rất khó khi một mặt phải đảm bảo đời sống cho cán bộ, công chức, viên chức, mặt khác phải đảm bảo về tính tư tưởng, nội dung chính trị xã hội cho xuất bản phẩm và thực hiện nhiệm vụ chính trị do ngành Tư pháp đã giao.

2.2.1.3. Thực trạng cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ của Nhà xuất bản tư pháp

* Thực trạng về cơ cấu tổ chức của Nhà xuất bản Tư pháp

Nhà xuất bản Tư pháp được thành lập theo Quyết định số 396/2003/QĐ-BTP ngày 08/9/2003 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, theo Quyết định này cơ cấu tổ chức của Nhà xuất bản bao gồm:

- Cơ cấu lãnh đạo (cấp Vụ) bao gồm: 01 Giám đốc – Tổng Biên tập và các Phó Giám đốc.

- Các Phòng, ban trực thuộc gồm:  Phòng Tổ chức – Hành chính – Tổng hợp;  Phòng Kế hoạch – Phát hành;  Phòng Thiết kế – Chế bản; Phòng Tài chính – Kế toán;  Ban Biên tập.

Nhìn chung cơ cấu tổ chức bộ máy của Nhà xuất bản Tư pháp từ khi thành lập đến nay, qua từng giai đoạn phát triển khác nhau đã từng bước được đổi mới, kiện toàn và hoàn chỉnh theo hướng hợp lý hơn; chức năng, nhiệm vụ của các phòng, ban được quy định rõ ràng hơn, bước đầu đã hạn chế được những chồng chéo, bất cập, do đó công tác chỉ đạo, điều hành cũng có những thuận lợi nhất định.

Tuy nhiên trước yêu cầu hội nhập, mở cửa và cải cách hành chính, qua một thời gian vận hành, tổ chức bộ máy của Nhà xuất bản đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế như:

- Chức năng, nhiệm vụ của một số đơn vị trực thuộc chưa rõ ràng và còn chồng chéo; cơ chế quản lý còn nhiều kẽ hở; đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp phòng trở lên còn thiếu dẫn đến việc chỉ đạo, điều hành chưa thông suốt và hiệu quả;

- Các quy trình, quy chế hoạt động và phối hợp hợp động của đơn vị còn thiếu và nếu có thì đã lạc hậu, do đó việc phối hợp giữa các khâu công tác phát sinh nhiều vướng mắc, thời gian xử lý công việc do vậy thường bị kéo dài, ảnh hưởng đến kế hoạch chung của đơn vị.

- Vai trò của các tổ chức Đảng, đoàn thể không được phát huy đầy đủ, chức năng giám sát không hiệu quả, thiếu các cơ chế để kiểm tra giám sát lẫn nhau trong nội bộ đơn vị, chẳng hạn như có những việc chỉ do một phòng làm từ khâu đầu đến khâu cuối với quy trình khép kín, không có sự kiểm tra thường xuyên; có hiện tượng không minh bạch, không công khai, thiếu dân chủ trong các hoạt động của cơ quan, đơn vị, do đó đã dẫn đến nhiều sai phạm trong quá trình điều hành và quản lý đơn vị của một số cán bộ lãnh đạo.

Để khắc phục những tồn tại, bất cập nêu trên, đồng thời phát huy những mặt tích cực đã đạt được, ngày 09/6/2009, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 1243/QĐ-BTP quy định lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Nhà xuất bản Tư pháp, theo đó cơ cấu tổ chức của Nhà xuất bản như sau:

- Lãnh đạo Nhà xuất bản Tư pháp gồm có Giám đốc - Tổng Biên tập, các Phó Giám đốc, Phó Tổng Biên tập

- Các Phòng, ban trực thuộc bao gồm: Ban Biên tập;  Phòng Tổ chức – Hành chính;  Phòng Quản lý phát hành;  Phòng Kế hoạch, sản xuất; Phòng Tài chính – Kế toán.

Ngoài ra, căn cứ vào yêu cầu công việc và điều kiện thực tế, Nhà xuất bản Tư pháp có thể thành lập các chi nhánh, văn phòng đại diện tại một số địa phương theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, việc Bộ Tư pháp cho phép Nhà xuất bản được thành lập các đơn vị sự nghiệp trực thuộc là một bước đổi mới rất lớn trong công tác tổ chức bộ máy của đơn vị. Điều này góp phần nâng cao tính tự chủ trong hoạt động của Nhà xuất bản để có thể sớm hoàn thành mục tiêu tự chủ hoàn toàn từ sau năm 2013 theo như lộ trình mà đề án kiện toàn tổ chức, đổi mới hoạt động của Nhà xuất bản Tư pháp đến năm 2020 đã được Bộ trưởng phê duyệt.

Ngay sau khi Quyết định trên có hiệu lực, Nhà xuất bản Tư pháp đã tiến hành rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy của các phòng ban cho phù hợp với tình hình thực tế. Việc thực hiện, về cơ bản là thuận lợi, tuy nhiên cũng nẩy sinh một số vấn đề khó khăn vướng mắc như: do công tác quy hoạch để đào tạo bồi dưỡng nguồn cán bộ lãnh đạo trước đây chưa được chú trọng, do đó khi cần cán bộ để bổ nhiệm từ nguồn tại chỗ gặp rất nhiều khó khăn. Hiện nay, trong 5 Phòng, ban mới có 4 Phòng có cấp trưởng, 01 phòng do cấp phó Phụ trách, các Phòng ban khác mới chỉ có 1 phòng (Tổ chức – Hành chính) có cấp phó giúp việc cho trưởng phòng; chức năng, nhiệm vụ của các Phòng, ban mặc dù đã được điều chỉnh hợp lý hơn những vẫn còn những chồng chéo, bất cập do Nhà xuất bản chưa xây dựng xong quy chế làm việc và phối hợp giữa các Phòng, ban, việc triển khai công việc do vậy vẫn còn những lúng túng, vưỡng mắc.

* Thực trạng về đội ngũ cán bộ của Nhà xuất bản Tư pháp

Đội ngũ cán bộ hiện có của Nhà xuất bản Tư pháp là 42 người, trong đó cán bộ trong biên chế là 28 người (chiếm %), cán bộ hợp đồng là 24 người (chiếm %), cơ cấu cụ thể như sau:

- Về cơ cấu ngạch: có 01 người (chiếm 2,4%) là chuyên viên cao cấp (biên tập viên cao cấp), có 04 người (chiếm 9,5%) là chuyên viên chính, có 33 người chiếm 78,6% là chuyên viên và 04 người (chiếm 9,5%) là cán sự.

- Về trình độ chuyên môn: có 01 người (chiếm 2,4%) là tiến sỹ, có 06 người (chiếm 14,3%) là thạc sỹ, có 32 người (chiếm 76,2%) là đại học, có 03 người (chiếm 7,1%) là từ cao đẳng trở xuống.

- Về trình độ lý luận chính trị: 04 người (chiếm 9,5%) có trình độ cao cấp; 35 người (chiếm 83,4%) có trình độ trung cấp; 03 người (chiếm 7,1%) có trình độ sơ cấp.

- Về cơ cấu lãnh đạo: có 02 người (chiếm 4,8%) là lãnh đạo cấp Vụ, có 06 người (chiếm 14,3%) là lãnh đạo cấp Phòng.

- Về trình độ ngoại ngữ:  04 người (chiếm 9,5%) có trình độ đại học hoặc D trở lên; 05 người (chiếm 11,9%) có trình độ C; 33 người (chiếm 78,6%) có trình độ B trở xuống.

- Về trình độ tin học: 100% cán bộ của Nhà xuất bản Tư pháp đều ít nhất có trình độ từ A trở lên.

-  Về độ tuổi: 10 người (chiếm 23,8%) có độ tuổi dưới 30 tuổi; 31 người (chiếm 73,8%) có độ tuổi từ 30 đến 50 tuổi; 01 người (chiếm 2,4%) có độ tuổi trên 50.

- Về cơ cấu giới: 10 nam (chiếm 23,8%); 32 nữ (chiếm 76,2%).

Nhìn chung thì đội ngũ cán bộ của Nhà xuất bản Tư pháp là có chất lượng (trình độ đại học và trên đại học chiếm tỷ lệ cao; trình độ ngoại ngữ, tin học của cán bộ ở mức khá); về tuổi đời là rất trẻ, do vậy năng động, nhiệt tình và ham học hỏi. Lực lượng cán bộ lãnh đạo Nhà xuất bản Tư pháp không ngừng được củng cố và nâng cao chất lượng, bước đầu đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong thời gian qua. Điều này cũng được khẳng định thông qua kết quả khảo sát 211 người (cán bộ lãnh đạo, quản lý và cộng tác viên của Nhà xuất bản Tư pháp). Có 63,5% số người được hỏi cho rằng đội ngũ cán bộ của Nhà xuất bản Tư pháp nhiệt tình và tâm huyết.

Đội ngũ cán bộ không ngừng được nâng cao chất lượng, số cán bộ của Nhà xuất bản được cử đi đào tạo nâng cao, đào tạo chuyên ngành hàng năm đều tăng; việc cơ cấu lại đội ngũ cán bộ nhằm tinh giảm những vị trí không cần thiết được tiến hành rất triệt để, do vậy số cán bộ hiện nay có thể nói là tương đối tinh gọn. Có những lúc số cán bộ của Nhà xuất bản lên tới hơn 60 người đã gây nên những lãng phí không cần thiết, đến nay số cán bộ còn lại chỉ trên 40 người, với số lượng cán bộ như vậy là phù hợp với điều kiện thực tiễn hiện nay của đơn vị.

Tuy nhiên khi đi sâu đánh giá một cách toàn diện thì đội ngũ cán bộ của Nhà xuất bản Tư pháp trong thời gian qua là chưa thực sự đáp ứng được các yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra:

- Đội ngũ cán bộ được đào tạo về chuyên ngành luật và một số chuyên ngành khác nên còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm về xuất bản, theo thống kê thì hiện tại Nhà xuất bản Tư pháp mới có 03 (chiếm 7,1%)) cán bộ học chuyên ngành xuất bản; 01 (chiếm 2,4%) công chức thuộc ngạch biên tập viên.

- Cán bộ hợp đồng chiếm gần 50% số cán bộ hiện có của Nhà xuất bản, do vậy chưa an tâm công tác và cống hiến, làm ảnh hưởng đến việc phân công và triển khai các kế hoạch công việc, nhất là những công việc có tính chất ổn định, lâu dài.

- Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa được chú trọng, vì vậy, việc bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo khi cần gặp nhiều khó khăn.

- Cơ cấu cán bộ chưa hợp lý cả về cơ cấu ngạch chức danh (cán bộ chủ yếu thuộc ngạch hành chính), cơ cấu giới (80% là nữ) và độ tuổi nên việc triển khai công việc hết sức khó khăn.

- ý thức kỷ luật lao động chưa cao, tính chuyên nghiệp trong công việc còn thấp. Nguyên nhân là do một thời gian dài công tác quản lý bị cán bộ, kỷ luật lao động bị buông lỏng.

2.2.1.4. Thực trạng cơ sở vật chất và các điều kiện đảm bảo khác của Nhà xuất bản tư pháp

* Về trụ sở làm việc

Ngay sau khi được thành lập, Nhà xuất bản Tư pháp được Văn phòng Bộ Tư pháp giao cho một số phòng tại 60 - Trần Phú  để bố trí nơi làm việc, làm kho bảo quản sách, biểu mẫu hộ tịch, tuy nhiên diện tích các phòng làm việc chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của Nhà xuất bản Tư pháp và chưa đủ so với định mức tiêu chuẩn nhà làm việc theo quy định tại Quyết định số 147/1999/QĐ-TTg ngày 5 tháng 7 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ quy định về tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc tại các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp và Quyết định số 260/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 11 năm 2006 về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 147/1999/QĐ-TTg ngày 5/7/1999, điều kiện làm việc của cán bộ, viên chức rất chật chội, làm hạn chế rất nhiều hiệu quả công tác của cán bộ viên chức và hiệu quả kinh doanh của Nhà xuất bản Tư pháp.

Thực hiện kết luận của Bộ trưởng Hà Hùng Cường tại cuộc họp giao ban Lãnh đạo Bộ ngày 18 tháng 03 năm 2008, Nhà xuất bản Tư pháp đã khẩn trương đi tìm địa điểm để thuê làm trụ sở làm việc, bàn giao lại cho Văn phòng Bộ các phòng làm việc tại 60 Trần Phú – Hà Nội. Hiện nay Nhà xuất bản Tư pháp đã trả lại Văn phòng Bộ các phòng làm việc.

Nhà xuất bản Tư pháp hiện nay đang phải bố trí các phòng làm việc, kho sách, thư viện tại nhà đi thuê của cá nhân nằm tại  số 225 tổ 44 phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Thời gian thuê, giá cả thuê  biến động  không ngừng, tạo tâm lý không yên tâm, ổn định công tác trong cán bộ, viên chức.

Về diện tích nhà Nhà xuất bản Tư pháp đang thuê để bố trí văn phòng làm việc thực tế như sau:

Hợp đồng số 20 ngày 30 tháng 10 năm 2009 thuê nhà với diện tích dàn xây dựng là: 157,39 m2 (thuê tầng 1 và tầng 2 của ngôi nhà 5 tầng), thời hạn thuê nhà là 5 năm, giá thuê nhà là tiền Việt Nam tương đương với 1.400 USD/tháng, giá thuê nhà không thay đổi trong thời hạn 16 tháng. Sau thời hạn 16 tháng, trường hợp giá cả thị trường chung có biến động, thì hai bên cùng nhau thoả thuận và thống nhất lại giá cho thuê.

Hợp đồng số 04 ngày 04 tháng 3 năm 2009 thuê nhà với diện tích xây dựng là: 430,17 m2 (nhà 5 tầng và 1 tum), thời hạn thuê nhà là 5 năm, giá thuê nhà là tiền Việt Nam tương đương 2.500 USD/ tháng, giá thuê nhà sẽ không thay đổi trong thời hạn 24 tháng, sau thời hạn 24 tháng, trường hợp giá cả thị trường chung có biến động, thì hai bên cùng nhau thoả thuận và thống nhất lại giá cho thuê.

Việc thuê nhà làm trụ sở làm việc hiện nay là rất khó khăn, rất khó tìm được một căn nhà phù hợp về vị trí địa lý, về giá cả, về thời gian cho thuê, về thoả thuận thời hạn thanh toán. Tuy vậy tổng giá trị tiền thuê nhà, thuê kho Nhà xuất bản Tư pháp phải thanh toán cho các chủ nhà cho thuê là: 3.900 USD/1 tháng (khoảng 78.000.000 đồng/1 tháng), đây cũng không phải là số tiền nhỏ so với khả năng của Nhà xuất bản Tư pháp.

* Về máy móc thiết bị

* Phương tiện vận chuyển

2.2.1.5.      Hệ thống mạng

Nhà xuất bản Tư pháp có trang điện tử - nxbtp.moj.gov.vn

* Thực trạng về cơ chế tài chính, chế độ chính sách tài chính

          Nhà xuất bản Tư pháp phải thực hiện chế độ chính sách tài chính theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, đó là:

- Luật Ngân sách nhà nước số 01/2002/QH11 ngày 16 tháng 12 năm 2002.

- Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

- Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Bộ Tài chính Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

- Thông tư số 113/2007/TT-BTC ngày 24 tháng 9 năm 2007 sửa đổi bổ sung Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 9 tháng 8 năm 2006 của Bộ Tài chính Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

Trên cơ sở các văn bản chế độ tài chính hiện hành, Nhà xuất bản Tư pháp đã triển khai xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ mới cho phù hợp, sau khi đã thảo luận dân chủ, công khai trong đơn vị, ngày 28 tháng 3 năm 2008 Giám đốc Nhà xuất bản Tư pháp đã ban hành Quyết định số 17/QĐ-XBTP về việc ban hành Quy chế chi tiêu nội bộ của Nhà xuất bản Tư pháp, đây là văn bản chế độ chính sách tài chính cụ thể để áp dụng cho các hoạt động thu, chi tài chính của Nhà xuất bản Tư pháp.

Việc chi trả tiền nhuận bút cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm của tác phẩm được thực hiện theo Nghị định của Chính phủ số 61/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2002.

Về việc lựa chọn đơn vị để thuê in sách, biểu mẫu hộ tịch: Nhà xuất bản Tư pháp thực hiện các thủ tục theo quy định tại Nghị định số 111/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ về việc hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu, Nghị định của chính phủ số 58/2008/NĐ-CP ngày 5 tháng 5 năm 2008 Hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo luật xây dựng và Thông tư của Bộ Tài chính số 63/2007/TT-BTC ngày 15 tháng 6 năm 2007 Hướng dẫn thực hiện đấu thầu mua sắm tài sản nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước bằng vốn nhà nước và Thông tư của Bộ Tài chính số 131/2007/TT-BTC ngày 5 tháng 11 năm 2007 sửa đổi, bổ sung  Thông tư của Bộ Tài chính số 63/2007/TT-BTC ngày 15 tháng 6 năm 2007 Hướng dẫn thực hiện đấu thầu mua sắm tài sản nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước bằng vốn nhà nước.

Về giá bán sách tự in: Nhà xuất bản Tư pháp xây dựng dự toán chi phí xuất bản sách trên cơ sở dự kiến các chi phí trực tiếp liên quan, tham khảo giá cả thị trường tại thời điểm xuất bản sách, trên cơ sở đảm bảo cân đối lấy thu bù chi và có lãi. Giá bán sách do Giám đốc Nhà xuất bản Tư pháp quyết định và được in trên bìa sách.

Về giá bán biểu mẫu hộ tịch: Nhà xuất bản Tư pháp tính giá trên cơ sở dự kiến các chi phí thực tế phát sinh đảm bảo cân đối thu chi và có lãi, trình Lãnh đạo Bộ Tư pháp xin ý kiến chỉ đạo, sau khi được Lãnh đạo Bộ phê duyệt, Nhà xuất bản Tư pháp thông báo giá bán biểu mẫu hộ tịch tới các Sở Tư pháp để thực hiện.

Về sách Nhà nước đặt hàng và Bộ Tư pháp đặt hàng: Nhà xuất bản Tư pháp phối hợp với các đơn vị có liên quan để xây dựng dự toán hàng năm trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt, trên cơ sở dự toán được phê duyệt Nhà xuất bản Tư pháp triển khai các công việc theo tiến độ đề ra.

Về tỷ lệ phát hành phí biểu mẫu hộ tịch các Sở Tư pháp được hưởng: Nhà xuất bản Tư pháp đã có Công văn số 44/XBTP ngày 18 tháng 4 năm 2006 gửi Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố, trong đó nêu rõ: Tỷ lệ phát hành phí được áp dụng cho Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố được tiếp tục thực hiện theo hướng dẫn của Bộ tại Công văn số 845/VP ngày 27 tháng 5 năm 2004. Bao gồm các mức: 12%, 17%, 19%, 20%, 27%, 28%, 30%.

Về tỷ lệ phát hành phí sách: Tuỳ theo từng loại sách, tuỳ theo từng thời kỳ, Giám đốc Nhà xuất bản Tư pháp quyết định tỷ lệ phát hành phí đối với từng loại sách.

Hiện tại, Nhà xuất bản Tư pháp đang thực hiện giảm trừ phát hành phí theo tỷ lệ quy định trên hoá đơn GTGT khi viết hoá đơn cho đơn vị mua hàng.

Những hạn chế về chế độ chính sách tài chính:

- Thu nhập của cán bộ, viên chức trong Nhà xuất bản Tư pháp còn thấp trong khi giá cả thị trường tăng đột biến, đời sống của cán bộ, viên chức gặp nhiều khó khăn gây tâm lý không tốt trong một bộ phận cán bộ, viên chức.

- Việc thực hiện đối chiếu số liệu, đóng góp bảo hiểm xã hội, thực hiện các chế độ về bảo hiểm xã hội cho người lao động còn rất chậm, gây tâm lý không tốt cho cán bộ, viên chức trong cơ quan.

- Các khoản nộp lên Bộ Tư pháp như nộp từ lợi nhuận sau thuế của hoạt động xuất bản biễu mẫu hộ tịch, nộp 20% quỹ phúc lợi năm 2007 và sáu tháng đầu năm 2008 chưa xác định được do thay đổi về nhân sự Kế toán trưởng cho nên công tác tài chính kế toán của Nhà xuất bản Tư pháp triển khai chậm. Đến nay việc mở sổ kế toán, lập báo cáo tài chính của năm 2007 và các quý của năm 2008 vẫn chưa hoàn thành.

- Việc vận dụng một số quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật để tổ chức đấu thầu hoặc chào hàng cạnh tranh để in sách, tài liệu, sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch chưa thực sự  phù hợp với đặc thù của Nhà xuất bản Tư pháp, chưa tạo được sự chủ động trong việc in sách, tài liệu, sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch để đáp ứng cho yêu cầu của các địa phương một cách nhanh nhất, chưa thực sự đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, chất lượng sản phẩm tốt, rất có thể các nhà in sẽ in thêm biểu mẫu hộ tịch ngoài sự kiểm soát của Nhà xuất bản Tư pháp. Mặt khác, việc thay đổi các đơn vị in liên tục sẽ tạo tâm lý không yên tâm cho các đơn vị in trong việc thu hồi công nợ, thiếu uan tin trong việc cho Nhà xuất bản Tư pháp nợ tiền in.

- Chưa có chính sách  thưởng hoa hồng môi giới, chi hỗ trợ tiếp thị để khuyến khích đẩy nhanh việc bán các loại sách đã xuất bản đang tồn kho và các loại sách sẽ xuất bản trong tương lai.

- Mối quan hệ giữa Nhà xuất bản Tư pháp và Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trong việc cung cấp biểu mẫu, sổ hộ tịch và thanh toán công nợ chưa thể hiện rõ uan là quan hệ mua bán theo thoả thuận. Ở đây vừa thể hiện là việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Bộ Tư pháp giao, vừa thể hiện là quan hệ đặt hàng và thanh toán trả chậm nhưng chưa có quy định chặt chẽ thời hạn phải thanh toán. Chính vì thế, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố liên tục yêu cầu cung cấp biểu mẫu, sổ hộ tịch nhưng lại thanh toán tiền hàng của các đợt trước rất chậm, cá biệt có Sở Tư pháp số tiền còn nợ Nhà xuất bản Tư pháp hơn 400 triệu đồng, gây rất nhiều khó khăn về vốn cho Nhà xuất bản Tư pháp.

2.2.2. Thực trạng năng lực xuất bản sách pháp lý hiện nay của một số Nhà xuất bản khác

2.2.2.1. Năng lực xuất bản sách pháp lý hiện nay của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia là sự kế tục sự nghiệp của bốn nhà xuất bản đó là: Nhà xuất bản sự thật, Nhà xuất bản sách giáo khoa Mác – Lê nin, Nhà xuất bản thông tin lý luận và Nhà xuất bản pháp lý. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia có chức năng xuất bản các loại sách kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê nin, Hồ Chí Minh, của các đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước khác, sách văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, sách giới thiệu về Đảng bạn, sách nghiên cứu và sách phổ thông lý luận, sách đường lối của Đảng trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, đạo đức, quốc tế… trong đó có mảng sách chính trị pháp lý.

Để thực hiện nhiệm vụ chung, cơ cấu tổ chức của Nhà xuất bản được xây dựng ngoài Ban lãnh đạo và các bộ phận khác thì Nhà xuất bản tổ chức thành các Ban biên tập phụ trách các mảng sách riêng. Ban Nhà nước – Pháp luật được xây dựng để thực hiện nhiệm vụ làm sách pháp luật. Hàng năm, Ban đã xuất bản hàng trăm đầu sách bàn về vai trò quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các loại sách pháp luật gồm nhiều thể loại: sách hỏi đáp pháp luật, sách dịch pháp luật, bình luận khoa học, tập hợp văn bản pháp luật… Theo số liệu thống kê sơ bộ, năm 2007 đề tài sách pháp luật chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số đề tài sách hàng năm của Nxb: 197/429 đề tài, chiếm 47%; năm 2008 là 232/560, chiếm 45%. Trong năm 2009, Ban đã thực hiện được 237 bản thảo. Đây là cố gắng rất lớn và thành tích lớn của Ban . Như vậy, so với các đề tài đăng ký chính thức là 110 bản thảo, đã vượt trên 215% về số lượng bản thảo so với số lượng đề tài bản thảo sách kế hoạch chính thức đã đăng ký đầu năm 2009; so với tổng số đề tài đã đăng ký (cả chính thức lẫn dự phòng: 146 đề tài) thì số bản thảo đã nộp duyệt in trong cả năm vượt trên 162%. So với tổng số bản thảo của cả Nhà xuất bản trong năm 2009 là 628 bản thảo, số bản thảo sách của Ban đạt xấp xỉ 37,74%. Sách pháp luật chiếm doanh số rất lớn trong tổng doanh số sách xuất bản trong cả năm 2009 của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể công tác xuất bản sách pháp luật của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia còn một số hạn chế nhất định. Trước hết, xét về cơ cấu đề tài của Ban sách nhà nước và pháp luật là không cân đối, Nhiều mảng sách còn bỏ trống như mảng về cải cách hành chính và xây dựng bộ máy chính quyền nhà nước. Các đề tài của Nhà xuất bản chủ yếu là sách luật đơn hành và đặc biệt: mảng sách tập hợp văn bản pháp luật, quy định mới… chiếm tỷ lệ rất lớn. Mảng sách nghiên cứu pháp luật, tài liệu tham khảo phục vụ công tác lập pháp; giáo trình; giáo khoa phục vụ học tập, giáo dục môn học pháp luật, nhất là sách hỏi – đáp pháp luật còn khá khiêm tốn. Năm 2007, trong tổng số 197 cuốn sách xuất bản có tới 174 cuốn luật văn bản (15 cuốn luật đơn hành, 159 cuốn tập hợp văn bản), 23 cuốn viêt (14 cuốn hỏi đáp, 9 cuốn nghiên cứu). Năm 2009, trong tổng số 232 cuốn sách có 30 cuốn viết (8 cuốn hỏi đáp, tìm hiểu; 22 cuốn nghiên cứu); 202 cuốn văn bản (có 128 cuốn tập hợp văn bản; 74 cuốn luật đơn hành).

Căn cứ số liệu sách xuất bản và số liệu sách tái bản, in nối năm 2007, 2008, quý I năm 2009 cho thấy đề tài sách được đặt in số lượng lớn, được tái bản nhiều lần hầu hết là sách đơn hành, mà là luật đơn hành, sách hỏi đáp chủ yếu là sách mỏng, giá bán không cao. Hơn nữa, qua khảo sát sơ bộ tại Trung tâm phát hành Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia và số liệu sách tồn không có khả năng tiêu thụ từ năm 2004 đến năm 2008, thì số đầu sách và số lượng sách tập hợp văn bản luật, sách hỏi đáp tồn khá nhều. Đây là vấn đề cần tập trung nghiên cứu một cách tổng thể từ khâu biên tập đến phát hành nhằm tìm ra nguyên nhân chính.

Từ cơ cấu thiếu cân đối nêu trên có thể thấy, việc tổ chức đề tài bản thảo của Ban sách nhà nước và pháp luật chủ yếu dựa vào nguồn văn bản luật. Do vậy, mặc dù số lượng đầu sách nhiều, nhưng loại hình đề tài, bản thảo khá đơn điệu, thiếu tinh sáng tạo và chậm được đổi mới. Các tài liệu hỏi đáp pháp luật cho các ngành nghề chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu bạn đọc. Sách hỏi đáp pháp luật, giảI thích, hướng dẫn, tuyên truyền thực hiện pháp luật có số lượng đầu sách thấp. Qua khảo sát nhu cầu địa phương chỉ thấy, nhu cầu loại sách tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện pháp luật kiểu “cầm tay chỉ việc”, các loại sách hỏi đáp, giảI quyết những vấn đề vướng mắc pháp luật trong cuộc sống là rất lớn, rất cần thiết. Song đây là mảng sách Nhà xuất bản còn thiếu và yếu.

Khâu tổ chức phát hành chưa hiệu quả, chưa thu hút được đông đảo bạn đọc quan tâm, tìm hiểu sách pháp luật. Lượng sách pháp luật tồn kho hàng năm là rất lớn cho thấy giữa khâu dự báo kế hoạch và tìm hiểu thị trường chưa  được thực hiện hiệu quả.

Những yếu kém này xuất phát từ một số nguyên nhân sau:

- Chưa xây dựng được hệ thống tiêu chí chuẩn làm cơ sở giúp lãnh đạo Nhà xuất bản trong việc xét duyệt quyết định xuất bản từng ấn phẩm cụ thể.

- Chưa có một quy trình khoa học trong việc thăm dò nhu cầu của thị trường nhằm đề xuất số lượng in phù hợp cho từng ấn phẩm.

- Lãnh đạo Nhà xuất bản, lãnh đạo Ban biên tập chưa thực sự quan tâm đến việc bố trí, sắp xếp cán bộ biên tập trong Ban theo hướng chuyên trách từng mảng sách nhằm chuyên nghiệp hóa từng cán bộ biên tập.

- Ban sách nhà nước và pháp luật cìn thụ động trong việc nghiên cứu nhu cầu đọc giả và thiếu kế hoạch xuất bản sách hỏi đáp pháp luật dài hạn có tính đột phá và tính khả thi cao.

- Hiện tượng in ấn và phát hành sách lậu trên thị trường sách hiện nay cũng khiến Nhà xuất bản bị thất hu nhiều về ngân sách, ảnh hưởng đến uy tín và thương hiệu của Nhà xuất bản.

- Sự cạnh tranh về việc xuất bản các sách về pháp luật với các Nxb khác cũng khiến việc đầu ra để tiêu thụ sách của Nhà xuất bản bị thu hẹp lại.

- Việc tính định mức biên tập thuần túy về số trang bản thảo, song song với việc thiếu cơ chế ràng buộc các Ban biên tập, các biên tập viên với kết quả tiêu thụ sách là một nguyên nhân của hiệ tượng thiếu những đầu sách có chất lượng tốt, có khả năng cạnh tranh, nhưng thừa các đầu sách có số lượng đạt in thấp, có nguy cơ tồn, ế cao.

- Việc xuất bản sách pháp luật còn phụ thuộc quá nhiều vào các chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội và tiến trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ. Sự lệ thuộc này ảnh hưởng đến tính chủ động của Ban.

2.2.2.2. Năng lực xuất bản sách pháp lý hiện nay của Nhà xuất bản Công an nhân dân

Ngày 10/02/1981, đồng chí Phạm Hùng, ủy viên Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ký Quyết định số 03-QĐ/BNV thành lập Nhà xuất bản Công an nhân dân với nhiệm vụ : biên tập và xuất bản sách tuyên truyền, giáo dục về công tác an ninh chính trị và trật tự xã hội (kể cả thể loại văn học); sách hướng dẫn nghiệp vụ, sách tổng kết nghên cứu, tham khảo về công tác nghiệp vụ công an, xuất bản giáo trình giảng dạy phục vụ cho việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ, chiến sỹ công an.

Mảng sách pháp luật là một trong những mảng sách quan trọng của Nhà xuất bản. Bên cạnh thúc đẩy các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, sáng tác văn học, Nhà xuất bản Công an nhân dân đã coi công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật là một nhiệm vụ, một hướng hoạt động của mình góp phần quan trọng trong việc giáo dục tuyên truyền phổ biến pháp luật nói  chung, pháp luật về an ninh quốc gia – trật tự an toàn xã hội nói riêng vào cuộc sống, đến từng cán bộ chiến sỹ công an, đến từng người dân trong xã hội.

Với sự cộng tác tích cực của các Cục, Vụ, Viện, các trường trong Bộ công an, các nhà khoa học trong và ngoài ngành công an… Nhà xuất bản Công an nhân dân, cụ thể là Ban chính trị – nghiệp vụ – pháp luật đã tổ chức biên tập phát hành nhiều đầu sách pháp luật, số lượng sách không ngừng tăng qua các năm. Năm 2006 có 359 đầu sách, trong đó sách pháp luật có 98 chiếm 27,3%; năm 2007 có 432 đầu sách, trong đó sách pháp luật có 102 chiếm 23,6%; năm 2008 có 459 đầu sách, trong đó sách pháp luật, lý luận chính trị có 215 cuốn sách. Từ số liệu trên cho thấy, sách pháp luật chiếm một số lượng tương đối lớn so với số đầu sách trong kế hoạch của Nhà xuất bản nói chung và của Ban sách chính trị, nghiệp vụ, pháp luật nói riêng. So với các loại sách khác của Nhà xuất bản như sách văn học, sách nghiệp vụ… số lượng sách pháp luật là tương đối đáng kể.

Nhìn một cách tổng thể, công tác xuất bản sách pháp luật tại Nhà xuất bản Công an nhân dân hết sức đa dạng về thể loại, nhiều về số lượng và cũng đánh giá cao trên thị trường sách pháp luật của nước ta. Để có được thành tựu đó phải kể đến sự nỗ lực của cán bộ trong Nhà xuất bản, thể hiện qua các việc làm, những ưu điểm sau:

- Đối với mảng sách pháp luật của Nhà xuất bản Công an nhân dân đã xây dựng được một đội ngũ lực lượng cộng tác viên đông đảo, tâm huyết, có trình độ, chuyên môn cao với những kiến thức sâu sắc về pháp luật. Đó là những chuyên gia đầu ngành về luật học, là những cán bộ nghiên cứu của các Cục, vụ, viện; là những giản viên trực tiếp tham gia vào công tác giảng dạy bộ môn pháp luật ở các trường đại học…

- Đội ngũ biên tập viên sách pháp luật là những người có trình độ, có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, vừa phát huy được năng lực trong công tác khai thác bản thảo, phát hiện nhiều đề tài hay, có giá trị thực tiễn cao.

- Mảng sách pháp luật của Nhà xuất bản được sự quan tâm đặc biệt của lãnh đạo Bộ Công an, và Nhà xuất bản, nhằm thực hiện tốt nhất nhiệm vụ chính trị của mình trong công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật.

Khó khăn hiện nay của Nhà xuất bản tập trung vào một số yếu tố sau:

- Mảng sách pháp luật là một mảng sách “kén” công tác viên, chỉ những người am hiểu pháp luật mới có khả năng bảo đảm sự chính xác của những quy phạm pháp luật. Lực lượng biên tập viên của Nhà xuất bản còn rất ít so với nhu cầu thực tế công tác biên tập. Trong tổng số biên tập viên của Nhà xuất bản còn rất ít, với lượng công việc đòi hỏi cao, thì sẽ khó đáp ứng được yêu cầu vừa có bản thảo chất lượng từ khâu tổ chức bản thảo, tìm kiếm đề tài đến khâu biên tập.

- Khâu phát hành của Nhà xuất bản còn làm một khâu yếu, trong khi phát hành là một khâu hết sức quan trọng của quá trình xuất bản sách, quyết định đến doanh số bán hàng của Nhà xuất bản. Trong khi các Nhà xuất bản khác có sự hỗ trợ của một hệ thống các thư viên, học viện… thì, lực lượng công an nhân dân do chưa có hệ thống thư viện từ Bộ công an (cơ quan Bộ công an, các tổng cục) đến công an các địa phương (trừ một số trường công an) nên việc phát hành sách gặp rất nhiều khó khăn. Mặt khác, Nhà xuất bản lại không có trung tâm phát hành sách của mình, chưa có mạng lưới tiêu thụ như những Nhà xuất bản khác. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực xuất bản sách pháp luật ở Nhà xuất bản.

- Sách pháp luật được xuất bản nhằm mục đích thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành, tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Mục đích kinh doanh không phảI là trọng tâm, Do vậy, doanh số của mảng sách pháp luật không đáng kể. Không tạo động lực thúc đẩy hoạt động xuất bản phát triển.

2.2.2.3. Năng lực xuất bản sách pháp lý hiện nay của Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc

Nhà xuất bản văn hóa dân tộc là doanh nghiệp nhà nước hạng I, trực thuộc Bộ văn hóa thông tin, được thành lập ngày 20/7/1976 tại Thái nguyên. Tiền thân là nhà xuất bản các dân tộc Việt Bắc. Đến năm 1978, Bộ văn hóa thông tin sáp nhập ba nhà xuất bản: Nhà xuất bản văn hóa, Nhà xuất bản phổ thông, Nhà xuất bản văn hóa dân tộc lại. Năm 1986, để phù hợp và đáp ứng tốt hơn yêu cầu về xuất bản phẩm văn hóa dân tộc trong điều kiện mời. Nhà xuất bản văn hóa dân tộc được tái thành lập theo quyết định của Bộ văn hóa thôgn tin trên cơ sở tách ban biên tập miền núi từ nhà xuất bản văn hóa dân tộc và hoạt động đến nay.

Nhà xuất bản văn hóa dân tộc là đơn vị duy nhất có chức năng bảo tồn, phát huy di săn văn hóa dân tộc nâng cao dân trí cho đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, trong đó có kiến thức về pháp luật. Mảng sách về tuyên truyền pháp luật cho đồng bào miền núi, dân tộc thiểu số là một trong những mảng sách quan trọng của Nhà xuất bản văn hóa dân tộc. Đối tượng phục vụ của mảng sách pháp luật của nhà xuất bản văn hóa dân tộc hết sức đặc biệt, mang tính chuyên biệt – đó là các đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam. Khó khăn đặt ra đối với mảng sách pháp luật của nhà xuất bản văn hóa dân tộc là phải làm sao cho đồng bào cả nước đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số hiểu rằng sống và làm việc theo pháp luật là đòi hỏi tất yếu trong một xã hội văn minh. Sách pháp luật của Nhà xuất bản văn hóa dân tộc phải là những ấn phẩm phổ biến những quy định của nhà nước đối với đồng bào các dân tộc thiểu số theo cách phù hợp với dân trí và trình độ của đồng bào. Hầu hết sách pháp luật của nhà xuất bản văn hóa dân tộc chủ yếu tập trung ở mảng sách giải thích pháp luật, loại sách hỏi đáp, tờ gấp, tờ rơi, tranh khuôn khổ lớn.. với nhiều lĩnh vực như đất đai, hôn nhân, luật giáo dục, các lĩnh vực liên quan đến đời sống hàng ngày của đồng bào… Vì đây là sách phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số nên sách pháp luật có số trang mỏng, chữ to và có nhều hình minh họa. Bên cạnh đó Nhà xuất bản còn xuất bản sách pháp luật song ngữ giữa tiếng Kinh và tiếng dân tộc thiểu số, ví dụ: Việt – Bana; Việt – Êđê; Việt – Gia Rai; Việt – Chăm; Việt – Khơ me; Việt – Thái; Việt – Dao; Việt – H’mông…

Theo số liệu Báo cáo tổng kết các năm của Nhà xuất bản văn hóa dân tộc thì số lượng sách pháp luật chiếm tỷ lệ như sau: năm 2007 tổng số sách xuất bản là 247 cuốn sách, sách pháp luật là 36 cuốn sách chiếm tỷ lệ 14,5 %; Năm 2008 tổng số sách xuất bản là 208 cuốn sách, sách pháp luật là 27 cuốn chiếm tỷ lệ 12,9%. Con số này phần nào đã minh chứng cho nỗ lực của cán bộ Nxb văn hóa dân tộc trong việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của mình, mang pháp luật của nhà nước đến với đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, tuy còn rất hạn chế.

Khó khăn lớn nhất trong việc xuất bản sách pháp luật tại Nhà xuất bản văn hóa dân tộc nằm ở khâu biên tập, công tác kế hoạch và cộng tác viên. Nếu như các Nhà xuất bản khác cùng xuất bản sách pháp luật gặp phải trong quá trình xuất bản đó là khâu phát hành thì Nhà xuất bản văn hóa dân tộc lại ngược lại. Bởi lẽ, ở Nhà xuất bản văn hóa dân tộc hiện nay, do đặc trưng là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích, chủ yếu phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số. Vì vậy, sách chủ yếu được phát hành dựa trên chính sách trợ giá và đặt hàng của nhà nước. Thông qua chính sách đặt hàng sản phẩm, trợ giá của nhà nước, Nhà xuất bản gửi đến tổng công ty phát hành sách, gửi công văn đến các thư viện tỉnh, huyện miền núi, các Sở văn hóa tỉnh, Hội văn học nghệ thuật tỉnh… để họ đặt mua và phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Đây là một lợi thế của Nhà xuất bản văn hóa dân tộc. Khó khăn trong việc xuất bản sách pháp luật tại Nhà xuất bản văn hóa dân tộc nằm ở khâu biên tập, khai thác bản thảo và công tác cộng tác viên…, cụ thể:

- Sách pháp luật là loại sách dành cho đồng bào dân tộc thiểu số, ngôn ngữ trong sách cần giản dị, dễ đọc, dễ hiểu. Nội dung câu chuyện tuyên truyền pháp luật phải phù hợp với đồng bào, nên việc biên tập bản thảo từ các cộng tác viên tác giả cần biên tập viên kiên trì, tỉ mỉ từng câu chữ nhằm đảm bảo chất lượng của cuốn sách.

- Khó khăn ngay trong việc dịch sách pháp luật từ tiếng Việt sang tiếng dân tộc. Biên tập viên hay cộng tác viên dịch làm sao vẫn giữ độ chính xác của những điều luật mà lại thật sự phổ cập, dễ hiểu với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Bởi vốn từ pháp luật của một số dân tộc còn hạn chế, không thể dịch hết nghĩa cho đồng bào hiểu.

- Một khó khăn đặt ra cho Nhà xuất bản văn hóa dân tộc là dân trí của đồng bào dân tộc còn hạn chế, có những vùng đồng bào chưa hiểu hết tiếng Việt nói gì đến việc hiểu được những thuật ngữ pháp luật. Vì thế, việc nâng cao dân trí cho đồng bào trong đó nâng cao hiểu biết về pháp luật là việc cấp bách.

2.3. Một số giải pháp tăng cường năng lực xuất bản sách pháp lý cho Nhà xuất bản Tư pháp

2.3.1.Về quy định pháp luật, quy chế, quy trình làm việc

Để khắc phục những hạn chế, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành xuất bản nói chung trong đó có hoạt động xuất bản của Nhà xuất bản Tư pháp nói riêng, chúng tôi xin đưa ra một số đề xuất sau đây:

* Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản

Thứ nhất, thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng về xuất bản thành chính sách, pháp luật của Nhà nước:

- Cần phải nhận thức sâu sắc vai trò của đội ngũ những người làm công tác xây dựng pháp luật, chính sách. Họ phải là những người quán triệt sâu sắc nhất đường lối, quan diểm chỉ đạo của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam từng giai đoạn, và đặc biệt là đối với lĩnh vực tư tưởng, lý luận nói chung, báo chí, xuất bản nói riêng. Cần thiết có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận, chính trị, bảo đảm cho những cán bộ làm công tác lập pháp được trang bị đầy đủ, cập nhật thông tin để làm tốt hơn nữa nhiệm cụ được giao.

- Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan tham gia xây dựng pháp luật, Quốc hội với các cơ quan tham mưu của Đảng để các loại văn bản quy phạm pháp luật về xuất bản được ban hành bảo đảm tiến độ thời gian, không để xảy ra tình trạng văn bản chỉ đạo của Đảng ban hành ra nhưng lại không được thể chế hóa trong các quy định của pháp luật hoặc không ban hành văn bản quy phạm pháp luật nên những nguyên tắc, chỉ đạo trong văn bản của Đảng không đến được với thực tiễn của đời sống xã hội.

- Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho bộ tham mưu, xây dựng các văn bản của Đảng liên quan lĩnh vực có tính chuyên ngành như xuất bản. Bộ phận này có tinh thông nghiệp vụ, bám sát thực tiễn hoạt động và công tác quản lý nhà nước về xuất bản thì mới làm tốt nhiệm cụ tham mưu cho Đảng, góp phần nâng cao hiệu quả văn bản chỉ đọa của Đảng, để từ đó chất lượng và hiệu quả của văn bản pháp luật được ban hành phù hợp và điều chỉnh kịp thời thực tiễn phát triển của hoạt động xuất bản trong xu thế hội nhập sâu rộng với thế giới.

Thứ hai, cần tìm kiếm mô hình phù hợp các Nhà xuất bản. Hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực tư tưởng văn hóa, có tính chất đặc thù, vì vậy, không thể dặt mục tiêu.  Hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực tư tưởng văn hóa, có tính chất đặc thù, vì vậy, không thể đặt mục tiêu lợi nhuận thuần túy như nhiều ngành kinh tế khác. Tuy nhiên, cũng không thể quay trở lại cơ chế bao cấp toàn bộ đối với xuất bản như trước đây mà chúng ta phải căn cứ vào tính chất, quy mô hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan chủ quản để nghiên cứu việc chuyển đổi mô hình tổ chức cho phù hợp. Đặc biệt cần làm rõ trong mô hình doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện thì điều kiện đó là gì.

Thứ ba, Nhà nước cần có chính sách và chế độ ưu đãi đối với hoạt động xuất bản. Nhà nước cần nghiên cứu để điều chỉnh các cơ chế, chính sách thuế, đầu tư có tính ưu đãi, hỗ trợ cho hoạt động xuất bản phù hợp với đòi hỏi của hoạt động xuất bản trong tình hình mới như giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, đưa hoạt động xuất bản vào nhóm hoạt động văn hóa chịu thuế 10% thay vì 25%; kiến nghị chuyển thuế giá trị gia tăng sang thuế suất 0% và áp dụng chung mức thuế suất 5% đối với các nhóm xuất bản phẩm.

Thứ tư, cần cần có cơ chế, chính sách thích hợp thông qua tăng cường đầu tư vốn, cơ sở vật chất, kỹ thuật để tăng cường năng lực và tiềm lực cho hoạt động xuất bản. Một mô hình, một quy hoạch dù hoàn thiện đến đâu cũng chỉ là những bản thiết kế, do vậy, nó cần những vật liệu cần thiết để hiện thực bản thiết kế đó. Vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn nhân lực có chất lượng chính là những vật liệu để xây dựng được một nền xuất bản hiện đại. Trong cơ chế thị trường và trước yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đang đứng trước tác động tiêu cực lên đời sống xuất bản như khuynh hướng tư tưởng phi xã hội chủ nghĩa, khuynh hướng thương mại hoá đơn thuần. Các nhà xuất bản cũng sẽ phải bước vào một cuộc cạnh tranh mới gay gắt hơn, quyết liệt hơn. Trong cuộc cạnh tranh đó, sự hạn chế về cơ sở vật chất kỹ thuật, về quy mô vốn và khả năng thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao…sẽ làm cho các nhà xuất bản khó có thể thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Vì thế, yêu cầu tăng cường năng lực, tiềm lực là những điều kiện cần cho sự phát triển ổn định, đúng định hướng, đúng tôn chỉ mục đích của các nhà xuất bản. Theo chúng tôi, muốn thực hiện nhiệm vụ này cần có sự phối hợp đồng bộ của nhiều cơ quan, ban, ngành nhưng trước hết và mang tính quyết định là vai trò của các cơ quan chủ quản nhà xuất bản. Thông qua đầu tư vốn, cơ sở vật chất, kỹ thuật, trụ sở làm việc, thông qua những chính sách, cơ chế thích hợp như đặt hàng cho nhà xuất bản, tập trung xuất bản sách, tài liệu phục vụ cho hoạt động của ngành về nhà xuất bản để nhà xuất bản tổ chức xuất bản.

2.3.2    Đ ối với Nhà xuất bản Tư pháp

Thứ nhất, thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc xây dựng thể chế. Thường xuyên cập nhật và bám sát đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong việc xây dựng, sửa đổi bổ sung và ban hành nội quy, Quy chế là việc, các quy chế khác cũng như các quy trình tác nghiệp theo từng lĩnh vực chuyên môn, coi đây là hành lang pháp lý quan trọng nhằm tạo ra những điề kiện thuận lợi để hoạt động của Nhà xuất bản đạt hiệu quả cao hơn.

Thứ hai, hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể và chiến lược phát triển Nhà xuất bản. Nhà xuất bản cần tính toán khoa học, chính xác về quy hoạch tổng thể và chiến lược phát triển trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ cũng như đối tượng phục vụ của mình theo định hướng Đề án kiện toàn tổ chức, đổi mới hoạt động của Nhà xuất bản Tư pháp giai đoạn 2009 – 2015, định hướng đến năm 2020 đã được Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt. Chú ý một cách đúng mức tính đặc thù của một Nhà xuất bản chuyên ngành dù trong tương lai Nhà xuất bản có chuyển đổi theo mô hình doanh nghiệp hay vẫn giữ là đơn vị sự nghiệp có thu, chuyên ngành hay tổng hợp thì mục đích cuối cùng của nhà xuất bản không chỉ là lợi nhuận, vì chạy theo lợi nhuận sẽ xa rời chức năng tư tưởng văn hoá, xa rời nhiệm vụ chức năng của ngành. Bên cạnh đó cần quy hoạch đội ngũ cán bộ, chuẩn hoá đội ngũ này theo hướng chuyên nghiệp phù hợp với yêu cầu của nền xuất bản hiện đại.

Thứ ba, hoàn thiện việc sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới tất cả các quy chế, quy trình hoạt động của Nhà xuất bản Tư pháp; áp dụng các tiêu chuẩn ISO vào hoạt động quản lý của Nhà xuất bản

2.3.2.Về tổ chức bộ máy, nhân sự

Từ thực trạng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và yêu cầu của công việc đổi mới và cải cách tư pháp, chúng tôi đề xuất một số giải pháp cụ thể để khắc phục những tồn tại yếu kém, từng bước hoàn thiện bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của Nhà xuất bản Tư pháp như sau:

Thứ nhất, tiếp tục đổi tổ chức, bộ máy theo hướng điều chỉnh lại chức năng của các đơn vị cho hợp lý hơn; xây dựng các quy trình, quy chế phối hợp để đảm bảo việc phối hợp giữa các phòng, ban thông suốt và hiệu quả. Thành lập mới một số đơn vị sự nghiệp thuộc Nhà xuất bản Tư pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển thương hiệu của Nhà xuất bản Tư pháp như: Chi nhánh, Nhà sách, Trung tâm sách tại một số tỉnh, thành phố. Đồng thời, rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức để bố trí sắp xếp lại cho hợp lý; chấm dứt hợp đồng lao động đối với các vị trí không cần thiết và những cán bộ không đáp ứng yêu cầu; tiến hành quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo để đào tạo, bồi dưỡng làm nguồn bổ nhiệm vào các chức danh còn thiếu;

          Thứ hai, cử cán bộ đi đào tạo nghiệp vụ, đặc biệt là cán bộ biên tập để bổ nhiệm vào các ngạch viên chức tương ứng, khắc phục triệt để tình trạng cán bộ làm những công việc trái với chức danh chuyên môn của mình. Xây dựng kế hoạch điều động, luân chuyển cán bộ cho phù hợp với chuyên môn và năng lực công tác; Rà soát, thống kê công việc của tất cả các Phòng, ban trên cơ sở đó xác định số lượng cán bộ cần thiết để triển khai công việc; tiến hành xây dựng định mức công việc và thực hiện việc trả lương, thưởng theo chất lượng và khối lượng công việc;

          Thứ ba, tiến hành quy hoạch và xây dựng chiến lược cán bộ cho từng giai đoạn làm cơ sở cho việc sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, viên chức và xây dựng cơ cấu cán bộ hợp lý hơn; thực hiện luân chuyển đội ngũ cán bộ cấp Phòng thường xuyên để nâng cao năng lực quản lý. Có chính sách thu hút đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực chuyên môn cao vào làm việc cho Nhà xuất bản; mở rộng áp dụng chế độ biên tập viên kiêm chức, đảm bảo tất cả các lĩnh vực, thể loại, đề tài đều có biên tập viên chuyên trách.

           2.3.3. Về công tác biên tập.

Thứ nhất, Biên tập viên cần thường xuyên học tập, trau dồi kiến thức để nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ chuyên môn của mình. Nhà xuất bản hàng năm cần phối hợp với các cơ sở đào tạo chuyên ngành về báo chí, xuất bản để tổ chức những lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu cho đội ngũ cộng tác viên;

Thứ hai,cần làm tốt công tác cộng tác viên, bởi lẽ đây là lực lượng quan trọng góp phần không nhỏ trong việc tạo ra những ấn phẩm tốt, có giá trị làm nên thương hiệu của Nhà xuất bản. Vì vậy, phải tìm, chọn, tổ chức và động viên đội ngũ đông đảo những người cộng tác với nhà xuất bản để cùng nhà xuất bản thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ cũng như tiến độ kế hoạch đề tài đã xây dựng và phát hiện những đề tài mà xã hội có nhu cầu. Với một ý thức tạo điều kiện tối đa trong phạm vi của Nhà xuất bản để cộng tác viên phát huy hết khả năng của mình, cộng tác nhiệt tình với nhà xuất bản góp phần vào kết quả đạt được trong hoạt động xuất bản của Nhà xuất bản Tư pháp.

Thứ ba, cần làm tốt công tác kế hoạch đề tài. Phải tìm, lựa chọn đề tài hay và đúng. Đúng tức là phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng thời kỳ, đúng với chức năng nhiệm vụ của Nhà xuất bản. Hay tức là đề tài  mang tính  nhạy bén trong thể hiện nhiệm vụ chính trị ở từng thời kỳ, đề tài được nhiều người quan tâm, có tính khả thi, phát huy tác dụng trong xã hội. Xây dựng đề tài có tính cân đối cao, vừa mang tính tiên tiến, vừa mang tính hiện thực. Tính cân đối thể hiện ở việc cân đối giữa kế hoạch đề tài và năng lực thực tế của Nhà xuất bản, sự phù hợp, cân đối giữa các chỉ tiêu trong năm và lợi ích Nhà xuất bản. Kế hoạch đề tài có tính cân đối sẽ có tính khả thi cao.

Thứ tư, Để có một đội ngũ cộng tác viên đông đảo có đủ điều kiện đảm bảo chất lượng sách, Nhà xuất bản tư pháp xác định cộng tác viên không chỉ là những chuyên gia nghiên cứu trong các lĩnh vực pháp luật mà còn bao gồm cả những cán bộ thực thi pháp luật giàu kinh nghiệm có trình độ nhất định, có khả năng nắm bắt tình hình pháp luật, có trình độ ngoại ngữ có thể đảm đương mảng sách dịch từ những tài liệu pháp luật nước ngoài để phục vụ cho việc nghiên cứu, xây dựng luật ở nước ta. Một kinh nghiệm cho thấy cán bộ biên tập cần dùng chính đội ngũ cộng tác viên để mở rộng mạng lưới cộng tác viên, làm đông đảo đội ngũ những người viết sách pháp luật từ đó tổ chức được nhiều bản thảo tốt.

2.3.4.Về công tác in, phát hành sách pháp lý và xuất bản sách liên kết

* Về công tác in

Thứ nhất, lựa chọn các đơn vị in có năng lực và trang thiết bị hiện đại với giá thành phù hợp đạt hiệu quả kinh doanh, đồng thời cử cán bộ giám sát chặt chẽ các khâu trong công tác in đảm bảo chất lượng sản phẩm và tiến độ theo yêu cầu.

Thứ hai, quan tâm đến công tác bảo quản và lưu giữ can, các biện pháp chống in lậu, nối bản. Đây là một trong những khâu quan trọng, đòi hỏi phải lựa chọn được những đơn vị in tin cậy, đảm bảo chất lượng, tiến độ cũng như các chế độ bảo mật. Mặt khác việc dán tem chống giả cũng sẽ đảm bảo giảm thiểu các hoạt động in lậu, in nhái.

Thứ ba, để ổn định và phát triển bền vững, Nhà xuất bản Tư pháp cần xây dựng kế hoạch đầu tư kinh phí cũng như cơ sở vật chất thành lập xưởng in để đảm bảo chất lượng, tiến độ và giảm giá thành sản phẩm đạt hiệu quả cao trong kinh doanh.

* Về công tác phát hành

Thứ nhất, hiệu quả của việc thông tin, phổ biến pháp luật qua sách có quan hệ chặt chẽ với chất lượng biên soạn sách. Do đó, Nhà xuất bản Tư pháp cần quan tâm xây dựng đội ngũ biên tập viên sách pháp luật vững vàng về nghiệp vụ; đồng thời thu hút các luật gia, luật sư tham gia vào việc biên soạn, thẩm định sách để các ấn phẩm pháp luật vừa đảm bảo tính chính trị, độ chuẩn xác cao, vừa đáp ứng tính khoa học, tính thời sự và phổ thông đại chúng.

Thứ hai, tiếp tục đa dạng thể loại và nâng cao chất lượng đề tài, cụ thể:

- Quan tâm xuất bản các ấn phẩm pháp luật chuyên sâu có tính khoa học, lý luận và thực tiễn, bao quát được các vấn đề trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật; các loại sách hướng dẫn, tham khảo chuyên ngành; sách tình huống phục vụ đối tượng là cán bộ, công chức nhà nước; học sinh, sinh viên. Thực tế hiện nay nhiều Nhà xuất bản  có thể xuất bản các ấn phẩm sách pháp lý với nhiều đề tài và thể loại khác nhau nhưng hầu hết các ấn phẩm được tập trung ở mảng đề tài tìm hiểu về luật, hỏi đáp pháp luật, những nội dung cơ bản về luật hay tập hợp văn bản pháp luật.... mà ít xuất bản các thể loại như bình luận, tra cứu, chỉ dẫn, áp dụng pháp luật. Các loại ấn phẩm trên không những giúp cho bạn đọc có đầy đủ các văn bản pháp luật mà còn tra cứu nội dung các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành cũng như đối chiếu, so sánh với các văn bản luật được ban hành trước đó. Do vậy, Nhà xuất bản Tư pháp cần mở rộng mạng lưới cộng tác viên, trong đó có những cộng tác viên có kinh nghiệm, năng lực chuyên môn viết các ấn phẩm đáp ứng nhu cầu của bạn đọc cũng như thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao.

- Xuất bản các sách hướng dẫn, cung cấp các quy định pháp luật phục vụ hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế.

- Định kỳ xuất bản danh mục hệ thống hoá văn bản (văn bản hết hiệu lực; văn bản đã sửa đổi, bổ sung, thay thế; văn bản mới ban hành...) theo thời gian hoặc theo chuyên đề từng lĩnh vực quản lý đời sống xã hội phục vụ việc tra cứu của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong thi hành và áp dụng pháp luật.

- Đặc biệt quan tâm mảng sách pháp luật phổ thông phục vụ đông đảo các tầng lớp nhân dân, chú trọng sách, tài liệu hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật phục vụ từng nhóm đối tượng nhân dân ở cơ sở, phù hợp với từng địa bàn. Các sách, tài liệu này phải ngắn gọn, dễ hiểu, chú trọng hướng dẫn thực hiện các quyền, nghĩa vụ cụ thể theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhất là trong các lĩnh vực pháp luật gắn trực tiếp đến sản xuất, kinh doanh, học tập, lao động, sinh hoạt của công dân.

- Quan tâm việc xuất bản sách điện tử và phát hành sách trên mạng.

Thứ ba, cần có quy định cụ thể về việc hỗ trợ sách, tài liệu pháp luật cho nhân dân ở cơ sở đúng như Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã chỉ rõ: “có chính sách trợ giá các loại sách, tài liệu phục vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hoặc phát miễn phí các loại sách và tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, nhất là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”. Các cơ quan chức năng (như Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp...) cần đề xuất với Chính phủ biện pháp cụ thể trong việc trợ giá một phần hoặc toàn bộ kinh phí cho việc biên soạn, in và phát hành rộng rãi các loại sách, báo, tài liệu pháp luật phổ thông, trong đó, ưu tiên cấp sách pháp luật cho xã, phường, thị trấn. Bên cạnh đó, Uỷ ban nhân dân các địa phương cần đảm bảo kinh phí thường xuyên phục vụ việc duy trì, cập nhật sách pháp luật cho tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn. Để tăng cường nguồn tài liệu phong phú hơn cho tủ sách, các địa phương cần nhân rộng mô hình "xã hội hoá" việc xây dựng tủ sách pháp luật, huy động sự đóng góp sách, báo, tài liệu pháp luật của các cơ quan, đoàn thể, doanh nghiệp trên địa bàn, cán bộ và nhân dân ở địa phương.

Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác phát hành ấn phẩm:

- Tiếp tục mở rộng mạng lưới phát hành, triển khai có hiệu quả hoạt động tuyên truyền quảng cáo, tiếp thị xuất bản phẩm giới thiệu đề tài của nhà xuất bản trong phạm vi cả nước .

- Xây dựng đội ngũ cộng tác viên phát hành, chú trọng công tác tuyên truyền và tiếp thị sách, tích cực xây dựng và triển khai mạng lưới phát hành nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới. Mặc khác, Nhà xuất bản cũng cần lưu ý cải tiến về mặt hình thức của sách bởi vì sách không những cần nội dung hay, nội dung tốt, nội dung đúng mà còn phải đẹp, phải có sự thăng hoa về hình thức. Có không ít những cuốn sách nhờ cách thiết kế, minh họa mà cái hay được tôn cao hẳn lên một bậc giá trị. Sách lý luận chính trị tuy cần sự trình bày nghiêm túc, rõ ràng nhưng không nên khô cứng, nặng nề, thiếu tính hấp dẫn đối với người đọc. Cần chú ý khâu thiết kế minh họa sách - đây là một khâu quan trọng, quyết định hình thức của một cuốn sách

- Thành lập các trung tâm sách ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh để tiếp cận mở rộng thị trường, thay đổi sâu sắc tư duy kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh xuất bản phẩm pháp luật, đáp ứng yêu cầu của thị trường, cũng như thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

- Để công tác phát hành sách pháp lý đạt hiệu quả, có thể cạnh tranh với các nhà xuất bản khác thì Nhà xuất bản Tư pháp nên có biểu giá hợp lý phù hợp với người tiêu dùng và có cơ chế tài chính khuyến khích động viên khách hàng.

*Về công tác liên kết xuất bản      

Thứ nhất, hoàn hiện quy chế liên kết xuất bản phẩm. Đây là một trong những văn bản pháp lý cần thiết làm nền tảng cho hoạt động liên kết của Nhà xuất bản Tư pháp. Trên cơ sở đó, cần xây dựng cơ chế cụ thể đối với các cán bộ, biên tập viên của Nhà xuất bản khi tham gia khai thác bản thảo liên kết nói riêng và bản thảo sách tự in nói chung.

Thứ hai, nâng cao chất lượng xây dựng, biên tập bản thảo và năng lực của biên tập viên. Thị trường xuất bản phẩm ngày một sôi động, nhất là thị trường phía Nam. Vì vậy, việc tổ chức được các bản thảo hay, phát hành tốt, đáp ứng được nhu cầu ngày một cao của văn hoá đọc ngày càng đòi hỏi Nhà xuất bản quan tâm, đổi mới và xây dựng được đội ngũ biên tập viên giàu kinh nghiệm, năng động, sáng tạo và nhạy bén với thị trường xuất bản phẩm. Hơn nữa, một trong những vấn đề quan tâm là tiến độ biên tập bản thảo. Thực tế các Nhà xuất bản khác thì đảm bảo cấp phép cho đối tác liên kết trong vòng một tuần. Vì nên trong vòng một tháng và thời gian thực hiện càng ngắn thì càng thu hút đối tác liên kết.

Thứ ba, quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của các bên trong Hợp đồng liên kết xuất bản phẩm như các quy định mà bên liên kết được phép hay không được phép thực hiện vậy, với một quy trình thực hiện khép kín như Nhà xuất bản thì tiến độ tối đa, dặc biệt là vấn đề thời gian thanh quyết toán công nợ. Bên cạnh đó, Nhà xuất bản cũng nên phân cấp một cách đầy đủ cho bên liên kết tổ chức thực hiện bởi muốn họ có trách nhiệm pháp lý thì phải tạo địa vị pháp lý cho họ.

Thứ tư, cần tiếp tục có sự quan tâm sát sao của các cơ quan chủ quản để vừa tạo điều kiện cho Nhà xuất bản hoạt động dễ dàng hơn, không đi sai đường hướng trong hoạt động liên kết với các đối tác tư nhân, nhất là những sai phạm về nội dung xuất bản phẩm.

- Tạm nộp tiền lợi nhuận sau thuế lên Bộ Tư pháp để Bộ Tư pháp có nguồn chi trả tiền ăn trưa cho cán bộ, công chức khối quản lý hành chính nhà nước.

2.3.5.Về cơ sở vật chất

Thứ nhất, Về trụ sở làm việc, các chi nhánh, hệ thống cửa hàng giới thiệu sách. Để giải quyết triệt để vấn đề trụ sở làm việc, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà xuất bản Tư pháp, tạo niềm tin cho các đối tác khi đặt quan hệ kinh doanh với Nhà xuất bản Tư pháp, Nhà xuất bản Tư pháp cần thiết phải có trụ sở tập trung, khang trang, có xưởng in hiện đại. Vì vậy, Nhà xuất bản cần khẩn trương xúc tiến và hoàn thiện những thủ tục cần thiết để có thể khởi công xây dựng trụ sở mới tại 35 phố Trần Quốc Toản, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Thứ hai, Thành lập Trung tâm hỗ trợ xuất bản và phát hành sách pháp luật tại Thành phố Hồ Chí Minh, vừa triển khai vừa tổng kết, rút kinh nghiệm, nếu thí điểm thành công sẽ tiếp tục mở chi nhánh tại các tỉnh, thành phố khác.

Nghiên cứu, triển khai mở thí điểm 01 cửa hàng giới thiệu sách tại Hà Nội, sau một thời gian thực hiện tiến hàng tổng kết, tính toán hiệu quả kinh tế để Lãnh đạo Nhà xuất bản Tư pháp có thể đưa ra các chủ trương tiếp theo.

Thứ ba, Về máy móc thiết bị

- Xác định chuẩn quốc tế về cơ sở vật chất phù hợp với Việt Nam để lập kế hoạch hiện đại hoá cơ sở vật chất - kỹ thuật.

- Hiện đại hoá trang thiết bị phục vụ biên tập, trang thiết bị phục vụ thiết kế chế bản, trang thiết bị in đạt chuẩn khu vực và một số bộ phận đạt chuẩn quốc tế.

- Quản lý tốt, sử dụng có hiệu quả cao nhất các máy móc thiết bị hiện có của Nhà xuất bản Tư pháp.

- Đảm bảo chế độ bảo dưỡng máy móc thiết bị theo đúng thời gian quy định.

- Rà soát, lập tờ trình báo cáo Bộ Tư pháp để thanh lý các máy móc thiết bị đã hư hỏng, không còn sử dụng được nữa, nếu có sửa chữa được để dùng nhưng chi phí sửa chữa lớn hơn cả giá trị của máy mới.

- Lập kế hoạch, dự toán mua sắm thêm những máy móc thiết bị cần thiết cho hoạt động của Nhà xuất bản Tư pháp.

- Thực hiện việc mua sắm máy móc thiết bị mới trên cơ sở tuân thủ các quy trình mua sắm theo quy định của pháp luật, đảm bảo dân chủ, công khai trong mua sắm, mua máy móc thiết bị tốt, hiện đại, dự đoán được tốc độ phát triển của khoa học kỹ thuật trong một số năm tới để các máy móc thiết bị mua về không bị lạc hậu quá nhanh.

- Thực hiện đúng chế độ khấu hao máy móc thiết bị để tính toán đúng hiệu quả sản xuất kinh doanh, mặt khác xây dựng quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp từ khoản tiền trích khâu hao máy móc thiết bị để tạo nguồn kinh phí tái đầu tư sau này.

Thứ tư, Về hệ thống mạng. Hoàn thiện, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, tăng cường hệ thống máy tính, hoàn thiện hệ thống Internet và Internet đạt chuẩn mực quốc tế. Triển khai thí điểm, tổng kết kinh nghiệm, tính toán hiệu quả kinh tế của việc mua bán hàng thông qua internet.

Thứ năm, Về cơ chế tài chính, chế độ chính sách tài chính

- Triển khai việc ký kết hợp đồng nguyên tắc mua bán biểu mẫu, sổ hộ tịch với Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố.

- Quy định số tiền biểu mẫu, sổ hộ tịch Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố được nợ Nhà xuất bản Tư pháp tối đa trước khi có đơn đặt hàng mới.

- Về chế độ chính sách đối với cán bộ, viên chức của Nhà xuất bản Tư pháp: Tiếp tục duy trì tiền ăn giữa ca, tiền hỗ trợ điện thoại đối với cán bộ, viên chức. Phấn đấu cân đối hiệu quả sản xuất kinh doanh để trả thu nhập tăng thêm cho cán bộ, viên chức. Thực hiện nghiêm túc việc đóng góp các khoản theo lương như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho cán bộ viên chức. Thanh toán kịp thời cho cán bộ, viên chức các khoản tiền hưởng từ cơ quan bảo hiểm xã hội.

- Nghiên cứu, làm rõ các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu mua sắm tài sản để có căn cứ giải trình, đề xuất với Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính theo hướng chỉ định một đơn vị in có uy tín, đủ năng lực, có nguồn vốn lớn, có khả năng cho Nhà xuất bản Tư pháp nợ tiền in trong một thời gian dài để ký hợp đồng in biểu mẫu, sổ hộ tịch.

- Nghiên cứu các quy định của pháp luật để đề ra các chính sách thưởng hoa hồng môi giới, chi hỗ trợ tiếp thị, chi quản lý phát hành để khuyến khích đẩy nhanh việc bán sách còn tồn trong kho của Nhà xuất bản Tư pháp và đẩy nhanh việc bán các loại sách sẽ xuất bản trong tương lai. Phấn đấu tăng dần tỷ lệ phần trăm doanh thu từ hoạt động xuất bản sách trong tổng số doanh thu của Nhà xuất bản Tư pháp hàng năm.

2.3.6. Về cơ chế, quản lý phối hợp trong hoạt động xuất bản

Theo quy định tại Quyết định số 1243/QĐ-BTP, Nhà xuất bản Tư pháp là chủ thể chịu trách nhiệm độc lập về các quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quan hệ với các cơ quan, tổ chức khi thực hiện nhiệm vụ. Nhà xuất bản chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng và Thứ trưởng được phân công phụ trách, có trách nhiệm báo cáo và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng và trước pháp luật về việc thực hiện các nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, Nhà xuất bản vẫn là đơn vị trực thuộc Bộ nên trong quá trình hoạt động luôn có mối quan hệ chặt chẽ với một số đơn vị thuộc Bộ trong việc thực hiện nhiệm vụ chung của ngành cũng như hoạt động riêng của Nhà xuất bản. Để mối quan hệ này ngày càng chặt chẽ hơn nữa chúng tôi xin đề xuất một số cơ chế phối hợp như sau:

Thứ nhất, Hàng năm Bộ Tư pháp có dành một khoản kinh phí cho việc tuyên tuyền và phổ biến giáo dục pháp luật, số kinh phí này được giao cho một số đơn vị thuộc Bộ thực hiện, Nhà xuất bản đề nghị Lãnh đạo Bộ chỉ đạo các đơn vị này phối hợp với Nhà xuất bản Tư pháp trong việc xuất bản các ấn phẩm này để thực hiện nhiệm vụ của ngành, mặt khác, tạo điều kiện giúp đỡ Nhà xuất bản có nguồn thu ổn định.

Thứ hai, Số kinh phí hàng năm Bộ giao cho Nhà xuất bản để thực hiện nhiệm vụ của ngành trong việc tuyên truyền pháp luật cho cán bộ và nhân dân, và nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ cấp cơ sở, Nhà xuất bản đề xuất hàng năm Vụ Kế hoạch - Tài chính duyệt sớm để Nhà xuất bản lên kế hoạch sản xuất đồng thời đề nghị các đơn vị khác thuộc Bộ tích cực phối hợp trong việc triển khai các kế hoạch đề tài, kế hoạch xuất bản chuyển cho Nhà xuất bản.

Thứ ba, Nhà xuất bản Tư pháp sớm xây dựng các cơ chế xuất bản phù hợp cho các đơn vị thường xuyên xuất bản các loại sách, giáo trình, tài liệu công tác nghiên cứu, giảng dạy của Viện Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp, các cơ sở đào tạo Luật và bồi dưỡng nghiệp vụ của ngành Tư pháp.

Thứ tư, Đề nghị Vụ Tổ chức cán bộ quan tâm tới công tác cán bộ trong thời gian tới để Nhà xuất bản sớm kiện toàn tổ chức, nhân sự để ổn định hoạt động

Thứ năm, Về phía Bộ Tư pháp, Nhà xuất bản mong nhận được sự quan tâm hơn nữa của Lãnh đạo Bộ cũng như các đơn vị trong Bộ, trong các năm tới Nhà xuất bản mong nhận được nhiều kinh phí hơn trong việc triển khai sách Bộ đặt hàng; các vụ chức năng như: Vụ Kế hoạch - Tài chính; Văn phòng Bộ tạo điều kiện để Nhà xuất bản Tư pháp hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Thứ sáu, Đối với Cục Xuất bản, Cục Xuất bản là cơ quan quản lý về các hoạt động xuất bản của Nhà xuất bản, trong thời gian tới đề nghị Cục Xuất bản vẫn tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn nhằm nâng cao nghiệp vụ xuất bản cho cán bộ làm công tác xuất bản.

 


[1] Khoản 11 Điều 2 Nghị định số 93/2008/NĐ-CP

[2] Khoản 1 Điều 2 Quyết định số 01/2006/QĐ-BTP

4 Xem: Tô Huy Rứa.. (đã dẫn).

 

File đính kèm downloadTải về