• Thuộc tính
Tên đề tài Chủ nghĩa xã hội và nhân quyền
Nội dung tóm tắt
 
Tập hợp 22 báo cáo tham luận tại Hội nghị khoa học trong khuôn khổ Đề tài "Chủ nghĩa xã hội và nhân quyền", các báo cáo tham luận tập trung phân tích những vấn đề cụ thể của nhân quyền trong thực tế xã hội Việt Nam hiện nay và nêu ra những kiến nghị cần thiết. Chúng tôi xin công bố một số bài viết chọn lọc trong khuôn khổ của hội nghị này.

 

 

Nội dung toàn văn

 

Con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ của nước ta

và những tư tưởng nhân quyền tiên tiến

 

-------***-------

PTS. Đỗ Nguyễn Phương

 

Bản chất của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là: tất cả vì con người, tất cả vì hạnh phúc của con người. Điều đó đã được Mác và Ang-ghen nêu lên trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản: "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người". Chủ nghĩa xã hội có sứ mệnh lịch sử tạo ra tính chất mới của quyền con người. Nó khẳng định quyền của người lao động, quyền của người sáng tạo tích cực và tự giác một xã hội mới. Ngày nay khi xã hội xã hội chủ nghĩa đang diễn ra những tính chất phức tạp, mâu thuẫn, khủng hoảng thì việc nhân thức nguyên lý chủ nghĩa xã hội đã mở ra con đường đi đến tính chất mới của quyền con người là rất quan trọng. Quán triệt sâu sắc tư tưởng nhân quyền cao đẹp ấy, dự thảo Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ của Đảng ta vừa công bố đã thể hiện một cách rõ ràng, cụ thể các quan điểm về chiến lược con người và quyền con người, thể hiện những tư tưởng nhân quyền tiên tiến, mang tính thời đại, tính dân tộc sâu sắc.

1. Tư tưởng chủ đạo của Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ là: vì mục tiêu con người và quyền con người.

Một trong 5 bài học rút ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam: "Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân", đã nói lên tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là giải phóng con người, lấy con người làm mục đích cao nhất của sự phát triển xã hội. Con người – giá trị chủ yếu nhất, cao nhất của xã hội mới. Phải thực sự đặt con người vào vị trí trung tâm của những khát vọng xã hội trong xã hội chủ nghĩa vì ngay từ khi Mác viết tuyên ngôn Đảng cộng sản thì tư tưởng chủ đạo đã là sự phát triển toàn diện và tự do của cá nhân con người, chính là mục đích của phong trào cộng sản là mục tiêu của Đảng ta. Toàn bộ hoạt động của Đảng không ngoài lợi ích chân chính của nhân dân. Sự nghiệp cách mạng của Đảng ta chỉ có mục tiêu duy nhất là vì con người và các quyền của họ, vì quyền sống và hạnh phúc của con người. Đây cũng là cội nguồn của mọi thắng lợi của Đảng và nhân dân ta trong mấy chục năm vừa qua, cội nguồn của sự phát triển năng động và sáng tạo của xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng.

Tư tưởng nhân quyền tiên tiến đó còn được thể hiện cụ thể trong toàn bộ Cương lĩnh và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội của nước ta đến năm 2000. Mục tiêu chiến lược là vì con người: "ổn định và phát triển kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân, thoát khỏi tình trạng "nước nghèo và kém phát triển"... Tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa tư tưởng nhân quyền tiên tiến còn được thể hiện trong mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng, ở đó: "Con người được giải phóng, nhân dân lao động làm chủ đất nước: có nền kinh tế phát triển cao vì nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo; các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau có quan hệ hữu nghị với các dân tộc khác trên thế giới". Dự thảo Cương lĩnh và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đã khẳng định vị trí cao nhất và bao trùm của vấn đề con người, vấn đề nhân quyền trong chủ nghĩa xã hội ở nước ta khẳng định và thực hiện đầy đủ tư tưởng đó vừa nhằm tạo ra động lực để tiến hành công cuộc đổi mới, vừa là mục tiêu định hướng cho mọi hoạt động thực tiễn của tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta.

Như vậy trong dự thảo đã đề cập đến vấn đề phát triển toàn diện cá nhân với một ý nghĩa mới. Sự khuyến khích từ phía xã hội và sự phát triển một cách tự giác những khả năng và năng khiếu cá nhân những đặc điểm cá biệt của cá nhân, những khả năng sáng tạo riêng biệt, tính tích cực của từng công dân ngày càng đóng vai trò to lớn trong chủ nghĩa xã hội.

Dự thảo cương lĩnh đã gắn liền quyền con người với quyền của dân tộc, với chủ quyền, độc lập của dân tộc. Không thể có nhân quyền nếu không "Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và an ninh của Tổ quốc". Đó cũng là quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Một dân tộc nô lệ không thể có con người tự do". Tư tưởng nhân quyền tiên tiến còn được thể hiện ở quan điểm cơ bản chỉ đạo toàn bộ chính sách dân tộc của Đảng và Nhà Nước ta là: "Đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc". Thực chất của "chính sách đoàn kết dân tộc trên cơ sở tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ và tập quán của các dân tộc…" điều đó chính là biểu hiện tư tưởng nhân quyền tiến bộ nhất của thời đại.

2. Chủ nghĩa xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền con người.

Vấn đề phát triển quyền con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa phải đặt trong mối liên quan chặt chẽ với việc phát triển thực sự nền dân chủ xã hội chủ nghĩa về chất. Điều đó lại liên quan đến mở rộng các quyền cơ bản của công dân.

Dự thảo Cương lĩnh nêu lên: "Thực chất của đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho mọi công dân thực sự là người chủ trong công cuộc xây dựng xã hội mới; có nghĩa vụ và lợi ích trong lao động, có quyền tham gia quản lý Nhà Nước, có nghĩa vụ bảo vệ đất nước và các thành quả của cách mạng". Dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhân quyền gắn bó hữu cơ với nhau. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, xét về căn bản, là sự nghiệp tạo lập dân chủ, đưa các thuộc tính, giá trị của dân chủ vào cuộc sống vì con người và hạnh phúc của con người. Do vậy, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa xét đến cùng là thực hiện vấn đề con người, quyền con người, tôn trọng và bảo vệ lợi ích của con người, đồng thời thực hiện mọi biện pháp để khẳng định quyền lực và nâng cao vị trí con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Vì thế, dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Đó là một nền dân chủ xuất phát từ con người, vì quyền sống và hạnh phúc của con người. Mác là người đầu tiên đã nêu lên tư tưởng nền dân chủ là sản phẩm tự quyết của nhân dân, phản ánh sự tồn tại khách quan của con người với tất cả ý chí, tài năng và lợi ích của họ. Trình độ, khả năng và khối lượng các quyền của con người được xác định bởi chế độ kinh tế và tình trạng phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chính trên cơ sở này Đảng ta quan niệm, đi đôi với việc xây dựng một nền kinh tế mới phải từng bước xây dựng một nền dân chủ thực sự – dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó là động lực to lớn để tiến hành sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong xã hội có giai cấp, dân chủ bao giờ cũng có nội dung giai cấp, không có và tuyệt đối không thể có một nền dân chủ chung chung, phi giai cấp, siêu giai cấp. Do vậy, những quan điểm về nhân quyền tiên tiến một mặt mang tính kế thừa những tư tưởng nhân đạo của nền văn minh nhân loại, mặt khác lại mang tính giai cấp. Trên cơ sở đó, Cương lĩnh khẳng định Nhà Nước mà chúng ta xây dựng là "Nhà Nước xã hội chủ nghĩa, Nhà Nước của dân, vì dân, do dân, lấy liên minh công nhân-nông dân-trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng". Thực chất Nhà Nước chuyên chính vô sản đó với tư cách là hệ thống quyền lợi chính trị của giai cấp công nhân, biểu hiện ý chí lợi ích của giai cấp công nhân. Nhưng về căn bản, lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích của những người lao động khác. Do vây, vấn đề nhân quyền và dân chủ ở đây thực chất là vấn đề nhân quyền và dân chủ của nhân dân lao động. Để bảo vệ quyền của nhân dân lao động, Nhà Nước ta "chuyên chính với mọi hành động phá hoại của kẻ thù". Quyền con người gắn liền với pháp luật. Phải có pháp luật qui định và bảo đảm quyền con người. Dự thảo Cương lĩnh nêu lên: "Nhà Nước ta quản lý xã hội bằng pháp luật". Nếu không có pháp luật bảo vệ thì quyền con người không thể thực hiện được. Như vậy, pháp luật không nằm ngoài dân chủ mà là thuộc tính, không thể thiếu được cấu thành nội dung của dân chủ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là thành quả của đấu tranh giai cấp, vừa là công cụ để bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động. Vì vậy, để có dân chủ thực sự, phải đấu tranh để bảo vệ dân chủ, phải có pháp luật qui định và bảo vệ. Nếu không các quyền con người sẽ bị vi phạm.

3. Chính sách phát triển kinh tế – xã hội văn hoá và quyền con người.

Hiệu lực trong chính sách kinh tế - xã hội - văn hoá của Nhà Nước xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực nhân quyền và uy tín của chủ nghĩa xã hội phụ thuộc trước hết vào sự năng động trong phát triển nội tại và sự đúng đắn của các chính sách đó.

Dưới chủ nghĩa xã hội, sự phát triển quyền con người còn được thể hiện thông qua sự tác động lẫn nhau giữa các quyền công dân cơ bản, đặc biệt là quyền kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị ngày một sâu sắc hơn. Như vậy, quyền của con người chỉ có thể được đảm bảo và phát huy được hiệu quả khi nó được gắn với chính sách kinh tế – xã hội – văn hoá đúng đắn. Với quan điểm "thực hiện dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức và bất công, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc". Như vậy, mục tiêu cao nhất của chính sách kinh tế – xã hội – văn hoá là vì hạnh phúc của con người, vì nhân quyền, nâng con người lên một tầm cao mới đặt con người vào vị trí trung tâm và gắn con người (dân giàu) với đất nước (nước mạnh). ở đây, con người là mục đích tối cao của mọi chính sách kinh tế – xã hội – văn hoá, chứ không phải là phương tiện. Đó là tư tưởng trung tâm, xuyên suốt cương lĩnh và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta đến năm 2000.

Nếu trước đây, trong việc xây dựng con người mới, trong nhận thức và hành động chúng ta có những biểu hiện lệch lạc: tuyệt đối hoá lợi ích chung, bao giờ cũng đặt lợi ích chung cao hơn lợi ích riêng, do vậy trên thực tế lợi ích riêng của con người đã không thừa nhận. Mọi sự quan tâm đến lợi ích riêng và cá nhân con người đã bị phủ định…thì nay, trong dự thảo và cương lĩnh và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đã có quan điểm đúng đắn về vấn đề xây dựng con người mới, về lợi ích chung và lợi ích của mỗi người: "Lợi ích của mỗi người, của từng tập thể và toàn xã hội đều được quan tâm bằng một hệ thống chính sách, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp, tạo cơ sở đáp ứng ngày càng nhiều lợi ích tập thể và toàn xã hội. Lợi ích kinh tế không tách rời động lực tinh thần". Quan điểm ấy đã thể hiện rõ tư tưởng của Mác và Ang-ghen: lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của bản thân mình. Con người ta bao giờ cũng hành động theo tiếng gọi của lợi ích. Lợi ích càng lớn thì động cơ thúc đẩy con người ta hành động càng lớn. Các động lực phát triển xã hội luôn luôn là những động lực thúc đẩy hành động con người là một trong những động lực phát triển xã hội. đó là những hoạt động tự giác của con người được tổ chức và chỉ đạo một cách có kế hoạch, đem lại lợi ích cho từng con người và toàn xã hội. Việc phát huy động lực con người được qui định bởi quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Vì thế Đảng ta chủ trương: "phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hoá, xã hội, tạo sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa mức sống và lối sống" nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân tố con người. Và, qua đó quyền con người sẽ được thể hiện cùng với sự phát triển của kinh tế – văn hoá - xã hội.

Quan điểm giải phóng sức sản xuất của các thành phần kinh tế gắn liền với quan điểm giải phóng mọi con người lao động, quan điểm dân chủ trong chính sách kinh tế gắn liền với quan điểm dân chủ, bình đẳng trước pháp luật trong quan hệ giữa các thành phần kinh tế. Và do đó, dẫn đến quan điểm thừa nhận về một cơ cấu xã hội – giai cấp mới trong thời kỳ quá độ. Tư tưởng nhân quyền tiên tiến của Đảng ta thể hiện trên lĩnh vực này ở chỗ; một mặt, khẳng định vai trò tiên phong của giai cấp công nhân, vai trò to lớn của giai cấp nông dân và vị trí quan trọng của trí thức – tài sản quí báu và một nguồn động lực phát triển của đất nước – mặt khác, có quan điểm rõ ràng trong việc phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng, quan điểm bồi dưỡng đời sống vật chất và tinh thần giai cấp nông dân và chú trọng "xây dựng đội ngũ trí thức, đào tạo nhân tài, bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả tiềm năng trí tuệ; ngoài ra, Đảng ta chủ trương "Quan tâm thích đáng lợi ích và phát huy tiềm năng của các tầng lớp dân cư khác nhau". Đây là sự phát triển mới về chính sách xã hội của Đảng ta. Chính sách "đoàn kết các dân tộc, bình đẳng tương trợ, giữ gìn bản sắc dân tộc". Chính sách tôn giáo trên nguyên tắc "tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng"; chủ trương "xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa hướng tới sự hình thành con người mới, lối sống mới"…Thực chất là chính sách về con người, là bảo đảm và thực hiện quyền con người, lấy con người làm mục đích cao nhất của mọi chính sách xã hội.

4. Những vấn đề toàn cầu và quyền con người.

Trên thực tế đã hình thành những mối quan hệ qua lại giữa vấn đề nhân quyền và những vấn đề toàn cầu của nhân loại. Bước tiến về nhân quyền liên quan đến giải quyết vấn đề toàn cầu.

Những vấn đề toàn cầu như: chiến tranh và hoà bình, môi trường, dân số, bệnh tật…có liên quan và thực chất cũng là vấn đề nhân quyền. Những vấn đề toàn cầu tất yếu trở thành những vấn đề cá nhân, đòi quyền sống của cá nhân, quyền lao động trong điều kiện hoà bình, trong môi trường trong sạch v.v…

Trong thời đại ngày nay, nếu chiến tranh hạt nhân nổ ra, nền văn minh của loài người sẽ bị huỷ diệt, do vậy, quyền con người ngày nay không chỉ là quyền sống, mà phải là quyền được sống trong hoà bình. Mục tiêu ngày nay là phải đấu tranh đòi thủ tiêu chiến tranh hạt nhân huỷ diệt. Quyền con người, quyền sống và được sống trong hoà bình phải trải qua đấu tranh bền bỉ, lâu dài mới có được. Chừng nào còn chủ nghĩa đế quốc thì còn tồn tại nguy cơ nổ ra chiến tranh. Từ thực tiễn ấy, Đảng ta chủ trương "thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hữu nghị với tất cả các dân tộc, trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới". Trên thế giới hiện nay, vẫn còn có chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa. Chiến tranh chính nghĩa xét đến cùng là vì nhân quyền chân chính. Do vậy, Đảng ta chủ trương ủng hộ những cuộc đấu tranh giành và bảo vệ được độc lập dân tộc.

Quyền của con người sẽ không thể được thực hiện nếu môi trường sống bị phá hoại. Ngày nay, thế giới đang đứng trước nguy cơ môi trường sống bị huỷ hoại. Phải coi việc bảo mật môi trường sống như sự quan tâm trực tiếp tới con người, không chỉ môi trường xã hội mà phải quan tâm, giữ gìn cả môi trường thiên nhiên mà trong đó con người đang sống. Từ quan điểm ấy, Đảng ta đã nêu lên phải tuân thủ nghiêm ngặt việc bảo vệ môi trường sống. Giữ gìn cân bằng sinh thái cho thế hệ hiện tại và mai sau, khai thác và tái tạo, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên hợp lý.

Sự bùng nổ của dân số nếu không được ngăn chặn thì quyền con người cũng sẽ bị ảnh hưởng. Vì vậy, chính sách dân số nêu lên trong dự thảo chiến lược: "Thực hiện đồng bộ chiến lược dân số trên cả ba mặt: qui mô dân số, cơ cấu dân số, giảm tỷ lệ phát triển dân số" thực chất cũng xuất phát từ vấn đề con người, bảo vệ quyền con người.

Chính sách bảo vệ sức khoẻ, nâng cao thể lực của nhân dân, thực hiện y học dự phòng, ngăn chặn bệnh SIDA… là sự thể hiện rõ ràng và cụ thể việc bảo vệ con người, bảo vệ nhân quyền.

Những vấn đề trên đây thực chất là bảo đảm nhân phẩm, tự do và phát triển tự do cá nhân, là khả năng thoả mãn nhu cầu và lợi ích cá nhân và cả sự tác động của cá nhân vào những vấn đề toàn cầu vào quá trình phát triển xã hội. Cũng như vậy, nói đến vấn đề toàn cầu và nhân quyền cần phải nêu lên rằng quyền con người cần phải trở thành đối tượng rộng rãi của đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng xã hội và thi đua hoà bình, đối thoại chính trị, hợp tác cùng có lợi và tranh luận chính trị với trình độ cao của kiến thức văn hoá và nền văn minh. Mặt khác, cần phải chống lại những lực lượng phản động thù địch của chủ nghĩa đế quốc đang sử dụng vấn đề nhân quyền với tính cách là vũ khí chính trị nhằm chống lại các quốc gia dân tộc đi vào con đường giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội.

5. Đảng và quyền con người

Quyền làm chủ của nhân dân và nhân quyền nói chung chỉ có thể được thực hiện đầy đủ, đúng đắn khi có sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân được nâng lên ngang tầm với nhiệm vụ của cách mạng, đáp ứng nguyện vọng, quyền lợi chính đáng của nhân dân. Đấu tranh cho lợi ích của nhân dân, đã và đang là mục tiêu của những người cộng sản chân chính. Điều này chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: Đảng ta không có lợi ích nào khác là phục vụ nhân dân, là mang lại lợi ích cho nhân dân. Vì vậy, trong dự thảo cương lĩnh lần này Đảng ta khẳng định: "Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong chính trị của toàn xã hội, đại biểu lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc".

Sự khẳng định như trên xuất phát từ sự thống nhất giữa lợi ích của Đảng và lợi ích của nhân dân. Dự thảo cương lĩnh ghi rõ: "Toàn bộ hoạt động của Đảng xuất phát từ tư tưởng cơ bản". "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân…Đảng lấy việc phục vụ Tổ quốc, phục vụ giai cấp và nhân dân là mục đích cao nhất của mình, ngoài ra, Đảng không có lợi ích nào khác". Như vậy, mục đích hoạt động của Đảng là vì con người và nhân quyền chân chính. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ có thể tồn tại và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và do đó nhân quyền mới được thực hiện. Sự lãnh đạo của Đảng và việc triển khai một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sâu rộng thực hiện toàn bộ quyền thực hiện về tay nhân dân hoàn toàn không có gì mâu thuẫn, loại trừ nhau. Trái lại, nó làm điều kiện cho nhau. Không có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thì sẽ không có nền dân chủ thực sự, không có nhân quyền. Ngược lại, không có nền dân chủ như vậy, không thực hiện được nhân quyền thì sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cũng không thể giữ vững được.

Có thể nói, toàn bộ nội dung Cương lĩnh đều thấm nhuần và thể hiện một cách sâu sắc tư tưởng nhân quyền tiên tiến và góp phần làm giàu thêm về mặt lý luận và thực tiễn kinh nghiệm phát triển quyền con người trong chủ nghĩa cộng sản.

Cũng như trong Cương lĩnh, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đã nêu lên: "Mỗi người Việt Nam tìm thấy trong chiến lược lợi ích và tương lai của mình gắn liền với lợi ích và tương lai của Tổ quốc, coi chiến lược là của mình và quyết tâm thực hiện". Bởi ở đó tư tưởng nhân quyền tiên tiến đã được thể hiện một cách rõ ràng nhất, đầy đủ nhất. Song những vấn đề nhân quyền không chỉ dừng lại ở tư tưởng tiến bộ, tiên tiến. Vấn đề là phải biến những tư tưởng nhân quyền tiên tiến thành hiện thực, vào cuộc sống cần dựa vào những phân tích thực tế, không những thành tích, ý tưởng tốt đẹp mà cả những mâu thuẫn, sai lầm, khó khăn để phân tích và thực hiện quyền con người. Quyền con người, quyền công dân là những quyền cụ thể gắn bó với từng con người, được từng con người nhận biết, vận dụng, sử dụng và bảo vệ nó./.

 

 

Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người

-------***-------

 

Nguyễn Trọng Phúc

Phó khoa Lịch sử Đảng.

Thật bất ngờ khi mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, người cộng sản kiệt xuất Hồ Chí Minh lại dẫn lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Liền đó Người lại dẫn lời trong bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi , và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Điều đó hẳn không phải là ngẫu nhiên mà chứng tỏ nhà yêu nước vĩ đại, nhà văn hoá lớn Hồ Chí Minh đã quan tâm như thế nào đến vấn đề quyền con người.

Ngay từ khi bắt đầu dẫn dắt dân tộc Việt Nam vào "Đường cách mệnh" Bác đã chỉ rõ: "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc". Như vậy, cả khi dân tộc còn trong vòng nô lệ cũng như khi đất nước đã giành được độc lập, mục tiêu đấu tranh phấn đấu của Bác không gì khác hơn là quyền lợi của nhân dân, vì quyền sống của dân tộc và cả mỗi con người.

Trong các quyền con người điều Bác lưu tâm trước hết là quyền tự do, dân chủ. Dưới chế độ phong kiến, thực dân, các thế lực thống trị "Tuyệt đối không cho nhân dân ta một chất tự do dân chủ nào". "Chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ". Vì thế ngay trong ngày đầu tiên, trong phiên họp đầu tiên của chính phủ cách mạng Bác đã yêu cầu "Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ". Người đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu "Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu, nghèo, tôn giáo, dòng giống v.v…". Hơn ai hết Bác đã từng nói lên tiếng nói tha thiết nhất của khát vọng tự do dân chủ "trên đời ngàn vạn điều cay đắng. Cay đắng chi bằng mất tự do".

Tự do dân chủ là thành quả đấu tranh bền bỉ của loài người trải qua nhiều chế độ xã hội và trở thành thước đo cao nhất của sự giải phóng con người. Đối với các dân tộc bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, trong quan niệm của Bác Hồ không thể có tự do dân chủ chừng nào chưa giành được độc lập thật sự. Tự do dân chủ không bao giờ và không thể tách rời độc lập. Mác đã từng nói giai cấp vô sản phải "giành lấy dân chủ". Với các dân tộc thuộc địa thì giành lấy dân chủ trước hết là giành lấy độc lập tự do. Tuy nhiên không phải cứ có độc lập là tự khắc mọi người có ngay được quyền dân chủ , tự do, hạnh phúc. Độc lập chỉ có ý nghĩa, chỉ thực sự gọi là độc lập khi mọi người dân được hưởng hạnh phúc tự do "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì"1. Một lần nữa Bác lại nhấn mạnh quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người, mà những quyền đó không chỉ là thành quả của cuộc đấu tranh giành độc lập mà chính nó nói lên bản chất đích thực của độc lập.

Quyền dân chủ theo Bác nghĩa là quyền làm chủ của nhân dân "Nước ta là dân chủ". Quyền con người, quyền của mỗi con người không tách rời quyền chung của dân chúng, của cộng đồng. Khi toàn dân, cả cộng đồng dân tộc chưa có được quyền tự do dân chủ cơ bản và bền vững trong cuộc sống thực tế thì cũng không thể nói đến quyền con người trong thực tế. Nhưng trong phấn đấu xây dựng xã hội mới thì lại không thể dừng lại ở những khái niệm, khẩu hiệu tự do dân chủ chung chung, mà càng quan tâm giải quyết đúng đắn quyền cụ thể của con người với tư cách cá nhân bao nhiêu thì quyền của cộng đồng càng thực chất bấy nhiêu. "Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại với tư cách cá nhân, vừa là thành viên của gia đình, của cộng đồng dân tộc. Con người vừa là mục tiêu của sự giải phóng của cách mạng, vừa là động lực của sự giải phóng, của cách mạng"2. Điều đó cho thấy vì sao suốt cuộc đời hoạt động và đấu tranh Bác "chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"3.

Trong quan niệm của Bác, quyền con người không chỉ là những quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật thừa nhận mà còn là những điều cụ thể, rất cụ thể của cuộc sống con người. Làm sao cho con người được sống đúng là một kiếp người. Lịch sử loài ngườiđã đi qua những chặng đường dài và cũng đã trải qua biết bao cuộc giải phóng khỏi những thế lực tự nhiên và xã hội. Sự nghiệp giải phóng lớn lao nhất, bình dị nhất và vẫn là mục tiêu phía trước của nhân loại là làm sao thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đói khổ và dốt nát. Bác Hồ chẳng bao giờ quan niệm chủ nghĩa xã hội là một cái gì cao siêu mà là cơm no, áo ấm, học hành. Là mọi người sống trong tự do hạnh phúc, quyền của con người là được hưởng những nhu cầu tối thiểu ấy. Nếu để dân đói, dân rét, dân dốt, dân bệnh là Đảng và Chính phủ có lỗi". Trẻ em có quyền được vui chơi, học hành được chăm sóc. Người lao động có quyền có việc làm, quyền lao động và phát triển sức lực, tài năng. Ngoài các quyền khác, phụ nữ phải có quyền bình đẳng với nam giới. Người già có quyền được chăm sóc phụng dưỡng. Trẻ mồ côi, người tàn tật cô đơn có quyền được xã hội và chính quyền chăm nom v.v…Tất cả là những quyền cụ thể được những người và cơ quan có trách nhiệm chăm nom cụ thể. Vì vậy Bác luôn yêu cầu "Cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân".

Nói quyền con người dưới chế độ xã hội chủ nghĩa tức là hơn ở đâu hết con người được tôn trọng, không bị khinh rẻ hoặc phân biệt đối xử, không bị chà đạp nhân phẩm. Sinh thời Bác đã từng lên án gay gắt và xử phạt nghiêm những kẻ cậy thế, cậy quyền vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, sách nhiễu, ức hiếp dân lành. Bác phê phán nghiêm khắc tệ đánh vợ, ngược đãi phụ nữ, trẻ em, thiếu trách nhiệm với người già, coi đó không chỉ là những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quyền con người mà còn trái với đạo đức xã hội chủ nghĩa. Theo Bác xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết là vì con người. "Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa"1.

Bác Hồ nhà yêu nước, người cộng sản, chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, làm hàng chục nghề khác nhau, đi nhiều nước trên thế giới, tất cả chỉ vì một công việc cách mạng: giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Người không hề mưu lợi cho việc riêng hay muốn giành quyền lực cho riêng mình. Nếu bắt đầu quá trình cách mạng Người đã xác định khi cách mạng thành công quyền lực sẽ thuộc về nhân dân, thì khi cách mạng giành được chính quyền Bác đã nghĩ và làm đúng như thế. "Bây giờ phải gánh chức chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tôi phải gắng làm, cũng như người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận". Với Bác, người có lực, quyền hành thật sự là nhân dân còn Bác dù giữ cương vị chủ tịch nước cũng chỉ là đầy tớ của dân "Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào". Không nên hiểu những ý niệm đó của Bác chỉ là vấn đề đạo đức. Phải là một lãnh tụ ý thức đầy đủ và sâu sắc về vai trò của quần chúng, về quyền con người và tôn trọng con người mới có được quan niệm như thế. Bắt đầu sự nghiệp cách mạng Bác đã chú trọng "vấn đề con người và giải phóng con người" và đến cuối đời trong "Di chúc" Bác căn dặn lại sau khi chiến tranh kết thúc "đầu tiên là công việc đối với con người". Trọn đời trái tim của Bác "ôm cả non sông, mọi kiếp người".

 

Từ khi chủ nghĩa xã hội ra đời đến nay, chủ nghĩa đế quốc không ngớt tuyên truyền bôi nhọ chủ nghĩa xã hội xung quanh vấn đề nhân quyền. Bác Hồ viết: "Bọn tư bản thường bịa đặt rằng: chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta không tôn trọng quyền lợi cá nhân của người công dân. Nhưng thực tế chỉ có chế độ của chúng ta mới thật sự phục vụ lợi ích của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, bảo đảm quyền lợi của nhân dân, mở rộng dân chủ để nhân dân thật sự tham gia quản lý Nhà Nước"2. Theo Bác mọi công dân của nước Việt Nam mới đều có quyền làm việc, quyền nghỉ ngơi, quyền học tập, quyền tự do thân thể, quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng theo hoặc không theo tôn giáo nào, quyền bầu cử, ứng cử v.v…

 

Quyền con người phản ánh trình độ phát triển về xã hội và kinh tế, phản ánh bản chất của chế độ chính trị và luôn luôn gắn liền với điều kiện lịch sử cụ thể. Vả chăng quyền không thể cao hơn khả năng và trình độ phát triển hiện thực của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Nhà Nước ta ngày nay là của tất cả những người lao động. Vậy công nhân, nông dân, trí thức cách mạng cần nhận rõ rằng: hiện nay nhân dân lao động ta là những người làm chủ nước ta, chứ không phải là những người làm thuê cho giai cấp bóc lột như thời cũ nữa. Chúng ta có quyền và có đủ điều kiện để tự tay mình xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc cho mình"1. Người cho rằng: "Do tính chất của Nhà Nước ta, do chế độ kinh tế và xã hội của chúng ta, Nhà Nước chẳng những công nhận những quyền lợi của công dân mà còn đảm bảo những điều kiện vật chất cần thiết để cho công dân thực sự hưởng các quyền lợi đó". Nhà Nước bảo đảm quyền tự do dân chủ cho công dân, nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà Nước, của nhân dân". Bác cũng lưu ý rằng: "Trong khi hưởng những quyền lợi do Nhà Nước và tập thể mang lại cho mình thì mọi công dân phải tự giác làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà Nước, đối với tập thể".

Thấm nhuần di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh trong đó có tư tưởng về quyền con người, Đảng và Nhà Nước ta kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa do Bác lựa chọn, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện vì chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu không có gì khác là xây dựng một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, dân giàu nước mạnh, mọi người đều ấm no hạnh phúc, xoá bỏ bớt bất công.

Không có điều kiện thực hiện vẫn còn khá phổ biến. Chẳng hạn quyền làm việc, quyền tự do cư trú, học không mất tiền, chữa bệnh không mất tiền v.v…Mặt khác cũng có tình trạng quyền có khả năng thực hiện nhưng lại bị rằng buộc, cấm đoán bởi rất nhiều những qui định, luật lệ, "cấm kỵ" của cơ chế tập trung quan liêu.

Tệ quan liêu tham nhũng là biểu hiện tệ hại nếu không nói là tệ hại nhất của sự thiếu tôn trọng con người và quyền con người. Tệ nạn đó là trở ngại lớn của việc thực hiện mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội là công bằng xã hội. Căn bệnh đó làm cho sự bất bình đẳng thêm trầm trọng. Hiện nay ta đang thật sự tuyên chiến với tệ quan liêu, tham nhũng mà như quan niệm của Bác Hồ đó là "kẻ thù bên trong" của cách mạng. Quyền con người được thực hiện như thế nào không thể không phụ thuộc phần lớn vào thắng lợi của cuộc đấu tranh đầy gian khổ và phức tạp.

Quyền con người phải được đảm bảo bằng pháp luật. Tình trạng kỷ cương pháp luật không nghiêm, trật tự an toàn xã hội không được đảm bảo, kẻ thù ác chưa bị nghiêm trị, người lương thiện chưa được bảo vệ thật sự, phải chăng cũng là điều đáng nói về việc thực hiện quyền con người. Một viện sĩ của Liên Xô cho rằng: "Tự do cá nhân phải được che chở chắc chắn khỏi mọi sự xâm phạm tội lỗi, dù đó là bạo lực, hay trộm cắp, sự xúc phạm hay cưỡng đoạt". Cuộc sống bình yên, an toàn của mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi cơ quan, đơn vị, làng xóm, đường phố trong hoạt động cũng như trong sinh hoạt đời thường đang là yêu cầu khẩn thiết vì quyền con người. Một xã hội không có trộm cắp, cướp giật, không có lưu manh càn quấy, mọi người sống trong trật tự an toàn ở nhà cũng như nơi công cộng, phải chăng không thể nào thực hiện được ? Những năm 60 xã hội miền Bắc nước ta đã là một xã hội như vậy. Hiện nay không phải không có những điều kiện để thực hiện những yêu cầu tối thiểu đó của quyền con người.

Từ việc khẳng định mọi người đều có quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, theo Bác suy rộng ra còn có nghĩa là: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra và bình đẳng: dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Như vậy xuất phát điểm cho thực hiện quyền bình đẳng dân tộc, giải phóng xã hội phải là thực hiện quyền bình đẳng giữa con người, giải phóng con người. Ta càng hiểu sâu thêm quan điểm của Bác, nếu mới độc lập (nghĩa là đòi được giải phóng) mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do (nghĩa là con người chưa được giải phóng) thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì (nghĩa là đất nước chưa được giải phóng thật sự). Xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng cho mỗi cá nhân riêng biệt.

"Hai thế kỷ trước nhân loại chào đón Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp. Thế giới cũng đã có Tuyên ngôn chung về quyền con người (1948) và Công ước về quyền con người (1966). Nhưng sự nghiệp giải phóng con người vẫn còn là nhiệm vụ nặng nề và lâu dài. Loài người mãi mãi biết ơn những vĩ nhân đã tác động vào sự phát triển tiến bộ của lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta là một trong những nhân vật vĩ đại đã in dấu ấn sâu sắc vào thế kỷ 20. Những tư tưởng vĩ đại của Người về quyền bình đẳng giữa các dân tộc, quyền sống, quyền tự do cho mỗi con người, lý tưởng công bằng, dân chủ, bắc ái, hoà bình, hữu nghị cho các dân tộc, sự thúc đẩy mối quan hệ nhân văn giữa người với người v.v…là những giá trị có ý nghĩa thế giới, đóng góp vào kho tàng văn hoá của nhân loại"1.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Một số vấn đề về quyền con người trong di sản tư tưởng của chủ tịch hồ chí minh

-------***-------

Phạm Hồng Chương

 

Có thể khẳng định rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên và suốt đời đấu tranh cho quyền con người theo quan niệm hiện đại của thế kỷ chúng ta.

 

Điều này được dễ dàng minh chứng bằng nội dung của bản yêu sách 8 điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh – khi lần đầu xuất hiện trên võ đài chính trị quốc tế - đã đưa ra ở Hội nghị hoà bình Véc-xây năm 1919. Về sau này – suốt đời mình – cho tới lời di huấn cuối cùng để lại cho toàn Đảng, toàn dân và bạn bè năm châu. Người vẫn nhắc lại điều quan tâm lớn nhất của mình đối với những kế sách lâu bền là đem lại quyền con người cho tất cả nhân dân. ở đây, quyền con người trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một nội dung căn bản trong quyền của dân tộc Việt Nam.

 

 

Nhưng cũng là đồng thời và điều này đã tôn vinh sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tầm thế giới là, trong đấu tranh cho quyền lợi của nhân dân ta. Người đã tố cáo sự tàn bạo của chế độ thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa, tố cáo sự phân biệt chủng tộc ở ngay cả những nước có tuyên ngôn về nhân quyền như Mỹ và Pháp thông qua báo "Le Paria" và tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp". và Người đã kêu gọi, tổ chức, đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng khỏi sự áp bức dân tộc, chủng tộc, khỏi sự trà đạp lên thể chất và tinh thần của nhân dân bị áp bức ở mọi nơi trên hành tinh này. Đấu tranh cho quyền con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở phạm vi dân tộc mình mà cho mọi dân tộc, mọi chủng tộc. Người là chiến sĩ tiên phong đấu tranh cho nhân quyền của các dân tộc bị áp bức. ở đây cũng thể hiện, trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền con người là giá trị chung của mọi dân tộc, chủng tộc, là nội dung căn bản trong quyền các dân tộc, là hướng đích của mọi dân tộc.

 

 

Cách mạng tháng Tám thành công, với bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh Nhà Nước dân chủ cộng hoà - bằng việc ghi nhận những "lời bất hủ" và "chân lý không thể chối cãi được" về "quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc" (trong tuyên ngôn độc lập Mỹ) và sự "tự do và bình đẳng về quyền lợi và luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi" (trong tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp). Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ ràng: "Suy rộng ra:…có nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng. Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do".

 

Sự ghi nhận trên trước hết là sự thừa nhận giá trị tư tưởng chung của nhân loại về quyền con người và quyền đó là của mọi dân tộc, chủng tộc, sau nữa, và điều quan trọng là, quyền con người – trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh – nằm trong quyền dân tộc và phụ thuộc vào quyền dân tộc trong quá trình tiến hoá của từng dân tộc. Điều này lý giải tại sao, trong khi tiến tới mục tiêu là chủ nghĩa cộng sản với mục đích cao nhất vì con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, lại hướng tới và dẫn dắt cuộc đấu tranh nhằm biến các thuộc dân (của các thuộc địa) thành công dân (của quốc gia tự do, độc lập) mà nội dung là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập cho tổ quốc.

 

Nhưng khi tổ quốc được độc lập, dân tộc được tự do, chương trình hành động đầu tiên của nội các do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo lại là chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Thứ tự đó nói lên điều gì? Phải chăng đây là lúc "quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc" được đặt lên vị trí cao nhất? Phải chăng câu nói "nếu nước độc lập nhưng dân không được tự do, ấm no, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì", mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói sau ngày giành độc lập, là sự minh hoạ cho thứ tự trên? ở đây, quyền con người được đặt trong tương quan mới với quyền dân tộc, thật có ý nghĩa.

 

Chỉ xin trình bày vắn tắt như trên nhưng đã thật rõ ràng, trong tư tưởng cũng như hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện rất rõ những vấn đề sau đây:

 

Một là, mối quan hệ giữa quyền con người và quyền dân tộc là mối quan hệ biện chứng bảo đảm sự tồn tại và phát triển của các quyền trên. Mối quan hệ này chỉ rõ rằng: nó đem lại nội dung cho nhau chứ không chỉ là những khái niệm trống rỗng, trừu tượng. Điều này chỉ rõ rằng phải giải quyết một cách thoả đáng mối quan hệ đó trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nếu giải quyết không thoả đáng mối quan hệ này thì tự nó chống lại mục đích của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là vì con người. Những chuyển biến của tình hình chính trị – xã hội ở một số nước gần đây đủ chứng minh rằng ở nơi nào giải quyết tốt vấn đề trên thì tình hình chính trị – xã hội ổn định và ngược lại. Cần lưu ý rằng, trong lúc chủ nghĩa đế quốc không thể dùng chiến tranh để xoá bỏ một nước xã hội chủ nghĩa này hay nước xã hội chủ nghĩa khác và phá hoại quyền dân tộc của những nước đó, chúng lại chuyển sang chiến dịch "nhân quyền" rùm beng chưa từng thấy ở cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ này để nhằm mục đích trên. Vấn đề "nhân quyền" trở thành vật kích nổ cho những đòi hỏi "đa nguyên" dưới chiêu bài "dân chủ" để tập hợp lực lượng làm suy vong chủ nghĩa xã hội tự trong chính bản thân nó. Bước đi trên là quá rõ ràng theo những thời gian và kế hoạch cụ thể. Những sự kiện đó cho thấy khi quyền dân tộc đã đạt được thì vấn đề quyền con người cần phải đặt ở vị trí thích đáng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta từ ngay ngày lập nước bằng bài học đã nêu ở trên trong thứ tự của chương trình hành động cho chính phủ mới, trong việc tiến hành cuộc bầu cử tự do đầu tiên (1945) trong bối cảnh lịch sử vô cùng phức tạp sau cách mạng. Việc nêu cao và phát huy quyền con người lúc đó thực sự là bài học lớn mà Người đã để lại cho chúng ta. Và ngày nay chúng ta càng thấu hiểu hơn ý nghĩa của lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", trên góc độ quyền dân tộc và quyền con người.

 

Hai là, giải quyết mối quan hệ trên cần thiết phải đặt trong điều kiện lịch sử của từng dân tộc và xu thế chung của thời đại. Tính thời đoạn trong giải quyết mối quan hệ trong hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như trong các di sản tư tưởng của Người đã thể hiện rõ như đã phân tích khái lược ở trên. Trong lịch sử của nhân loại cũng vậy. Trên khía cạnh quyền con người, chúng ta có thể nói rằng lịch sử tiến hoá của loài người là lịch sử của quá trình giải phóng dần dần con người, trên tất cả các phương diện, cho tới sự giải phóng hoàn toàn mà chúng ta đang hướng đến là chủ nghĩa cộng sản. Vượt ra khỏi cộng đồng nguyên thuỷ sang chế độ nô lệ, từ chế độ nô lệ đi lên chế độ phong kiến, từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ tư bản và từ chế độ tư bản tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản, đó là tiến trình đi lên của loài người, trong đó là sự hoàn chỉnh mãi quyền con người dẫn tới sự giải phóng hoàn toàn con người ở chủ nghĩa cộng sản. Điều đó chỉ rõ rằng, quyền con người phụ thuộc vào và không khi nào tách rời khỏi tiến trình phát triển của các hình thái kinh tế xã hội của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại. Đây chính là giới hạnquyền con người đạt tới ở mỗi thời đoạn trong lịch sử. Dân tộc mạnh và phát triển, quyền con người được mở rộng và ngược lại. Cho nên việc giải quyết mối quan hệ về quyền con người với dân tộc phải tính tới:

 

1, Trình độ phát triển và đặc điểm cụ thể của mỗi dân tộc.

2, Yếu tố thời đại (trình độ chung của nhân loại)

 

Giải quyết vấn đề quyền con người vượt quá giới hạn của trình độ và đặc điểm phát triển của mỗi dân tộc hoặc quá nhấn mạnh tới những vấn đề này đều dẫn tới sự mất cân bằng trong xã hội, không sớm thì muộn sẽ đi tới sự khủng hoảng chính trị – xã hội. ở đâu đó đã tuyên bố ở giai đoạn này hay giai đoạn kia của chủ nghĩa xã hội hoặc chủ nghĩa cộng sản vượt qua thực tế lịch sử để duy ý chí trong giải quyết quyền con người thì ở đó lại dẫn đến bùng nổ rối loạn xã hội. Mặt khác nơi nào ở trong tình hình giải quyết ngược lại cũng dẫn đến tình hình tương tự. Nhưng nếu chỉ có vấn đề dân tộc mà không tính tới trình độ chung của các dân tộc và xu hướng phát triển của nhân loại thì sự bình ổn xã hội cũng không được bảo đảm. Bởi vậy khi nghiên cứu vấn đề quyền con người trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần hiểu một cách sâu sắc câu nói của Người: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa" và lý giải một cách đầy đủ mối quan tâm toàn diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng con người mới cho chế độ mới. Nhìn ở góc độ nhân quyền, với sự quyết định của các yếu tố nên trân trọng mối liên hệ và phát triển của các yếu tố đó, rõ ràng là, sự đòi hỏi khách quan phải không ngừng đổi mới luật pháp, tổ chức xã hội và chế độ, chính sách…nhằm đáp ứng sự phát triển tất yếu trong nội dung của quyền con người ở mỗi thời kỳ và sự đòi hỏi của tương lai.

 

Nhưng không chỉ trên bình diện xã hội – chính trị phải căn cứ vào những yếu tố trên mà ngay việc nghiên cứu lịch sử và phê phán nó cũng phải hiểu thấu đáo những yếu tố đó. Sự tách rời quyền con người có tính lịch sử với ba yếu tố đã nêu là nguyên nhân sai lầm, không khách quan, trong việc phê phán lịch sử, tất yếu sẽ dẫn đến việc đào bới lịch sử và sử dụng nó cho những thủ đoạn chính trị mà ngày nay chúng ta đã từng thấy không ít trên báo chí nước ngoài. Sự tách rời quyền con người khỏi các điều kiện tồn tại của nó trong lịch sử (bản thân nó) đã là sự tầm thường đối với quyền con người trong mối thời kỳ văn minh mà loài người đạt được. Sự phê phán đó tất yếu sẽ bị lịch sử phê phán, còn bằng vũ khí nào thì đó không phải là phạm vi nghiên cứu ở đây.

 

Ba là, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới đem lại đời sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân. Sự khẳng định này không phải là khẩu hiệu, cũng không phải là lời động viên, mà là một chân lý được chứng minh khoa học. Sự thăng hoa của con người từ giới hạn bởi "quyền" để trở thành con người được tự do chỉ có thể diễn ra ở chế độ cộng sản chủ nghĩa. Vì lẽ đó ngọn cờ của chủ nghĩa cộng sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phất lên ở Việt Nam và được nhân dân ta tin tưởng và đi theo trong suốt thế kỷ này. Đó là sự vươn tới sự hoàn thiện con người của mỗi con người Việt Nam, của cả dân tộc Việt Nam hôm nay và tương lai. Lịch sử luôn tiến lên phía trước, tuy có lúc quanh co, nhưng cái hướng đúng mà con người đi tới, lịch sử sẽ tiến tới, là tất yếu đó là chủ nghĩa cộng sản trong đó con người được tự do. Nhìn nhận thật toàn diện theo quá trình lịch sử, trong sự liên hệ, phát triển như vậy để bình tĩnh giải quyết các vấn đề đặt ra cho hôm nay về vấn đề quyền con người, để tin tưởng và góp phần vào quá trình đổi mới mà Đảng ta đang tiến hành hiện nay.

 

Có kẻ nào đó đang vỗ tay và gào thét về sự đổ vỡ ở chỗ này, chỗ kia của chủ nghĩa xã hội và tự vứt bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, cần phải nhớ lại rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết về con người và vì con người nhất trong mọi thứ học thuyết tôn giáo. Cũng vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong khi chịu tác động của mọi trào lưu tư tưởng, tôn giáo…và ở trong một thời kỳ tăm tối nhất của lịch sử dân tộc vẫn khẳng định rằng "Ngày nay học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều học thuyết chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin".

 

Đi theo và tin tưởng vào con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn và học tập, hiểu hết tác dụng những giá trị tư tưởng của Người để góp phần vào sự nghiệp đổi mới hiện nay và cũng là để tự hoàn thiện quyền con người của mỗi chúng ta vậy.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Khắc phục "chủ nghĩa xã hội Nhà Nước"

Một phương diện của cuộc đấu tranh cho quyền con người trong chủ nghĩa xã hội.

 

 

Phạm Ngọc Quang

Phó giáo sư, PTS Triết học.

 

 

Dù trong chủ nghĩa xã hội không tưởng hay trong chủ nghĩa xã hội khoa học, tiêu chuẩn về tính xã hội chủ nghĩa của xã hội bao giờ cũng là thái độ đối với con người, trước hết đối với người lao động, với nhu cầu và lợi ích của họ. Chủ nghĩa xã hội - đó là chế độ có khả năng giải phóng người lao động khỏi áp bức và bóc lột. Con người được đặt vào trung tâm của đời sống xã hội, được xem là chủ thể chân chính của mọi quá trình xã hội. chủ nghĩa xã hội là xã hội sẽ tạo ra được điều kiện để tiến tới thực hiện trong thực tế nguyên tắc: "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người".

 

Ngay từ khi mới ra đời, các Đảng Mác xít nói chung, nhân dân cả nước đang bắt tay trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng, đều cố gắng mang hết nỗ lực của mình để thực hiện trong thực tế nguyên tắc nhân bản cao cả đó. Và trong thực tế những năm qua, chủ nghĩa xã hội thế giới đã giành được không ít thắng lợi trong lĩnh vực quan trọng này: hàng ngàn triệu người lao động dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác-Lênin đã đứng lên lật đổ sự thống trị của đế quốc-thực dân, phong kiến, tư sản giành lại quyền lực chính trị về tay mình; sử dụng quyền lực chính trị đó như là công cụ đắc lực để phát triển kinh tế và - tuỳ theo sự phát triển của sức sản xuất - đã từng bước xoá bỏ chế độ người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất mang lại; bộ mặt văn hoá mới từng bước được khẳng định. Không ít quyền con người mà nhân dân lao động đã đạt được ngay trong các nước tư bản chủ nghĩa cũng nhờ áp lực của chủ nghĩa xã hội phát triển.

 

Những thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong việc giải quyết vấn đề con người quả thật là đáng tự hào. Nhưng từ đó ngay trong những người cộng sản đang lãnh đạo quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng xuất hiện một sự ngộ nhận: dường như vấn đề quyền con người, trước hết là quyền của những người lao động, đã được giải quyết căn bản nhờ việc xác lập Nhà Nước chuyên chính vô sản và nền kinh tế dựa trên chế độ sở hữu xã hội dưới hai hình thức cơ bản (toàn dân và tập thể) đối với tư liệu sản xuất. Do vậy, vấn đề đấu tranh cho quyền con người trước hết là quyền của người lao động, như là một vấn đề xa lạ đối với chủ nghĩa xã hội. Diễn biến lịch sử của chủ nghĩa xã hội trong những năm gần đây làm bộc lộ rõ sự ngộ nhận đó. Sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở một số nước Đông Âu vừa qua có nhiều nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân của tình trạng đó là không chú ý thoả đáng tới việc bảo đảm quyền công dân của những thành viên trong xã hội, trước hết là những thành viên trong nhân dân lao động.

 

Vì sao ngay trong chủ nghĩa xã hội, nơi mà - về mặt hình thức - quyền lực chính trị đã thuộc về nhân dân; sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và - cùng với nó - các giai cấp bóc lột về cơ bản đã được xoá bỏ, mà không ít quyền cơ bản của con người vẫn chưa được thực hiện.

 

Trả lời câu hỏi đó cho thật chuẩn xác và đầy đủ là điều rất không đơn giản. Theo tôi, một trong những nguyên nhân – nếu không phải là nguyên nhân cơ bản nhất – là sự biến dạng của chủ nghĩa xã hội hiện thực thành cái gọi là "chủ nghĩa xã hội Nhà Nước".

 

Cách đây hàng thế kỷ Mác đã kịch kiệt phê phán "chủ nghĩa xã hội trại lính", là một thứ chủ nghĩa xã hội xuất hiện khi chủ nghĩa xã hội chưa phát triển tới mức phải loại trừ tư hữu, loại trừ tư bản. sau khi xoá bỏ tư bản một cách hình thức, chủ nghĩa xã hội ấy sẽ trở thành xã hội phủ nhận nhân cách con người. Trong xã hội đó, theo tư tưởng của Mác, bằng nỗ lực của mỗi người sẽ sản xuất ra càng nhiều càng tốt cho xã hội và tiêu dùng cho nhận càng ít càng hay; cuộc sống của thế hệ trước mắt sẽ là sự hy sinh cho thế hệ tương lai; và, "toàn bộ sự hãnh diện, toàn bộ sự háo danh của các nhà hoạt động lúc đó là sự nhận thức như vậy về lợi ích của mình đối với xã hội"1.

 

Là một nhà Mác –xít vĩ đại, Mác đồng thời cũng là một nhà nhân đạo chân chính. ông luôn luôn đặt lên hàng đầu vấn đề đấu tranh cho quyền con người, xoá bỏ mọi sự tha hoá của con người do chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất sinh ra. Toàn bộ cuộc đời hoạt động lý luận và thực tiễn của mình, Mác đều hướng vào việc hiện thực hoá lý tưởng cao đẹp đó. Do vậy, ngay từ năm 1844 Mác đã viết: "Chủ nghĩa cộng sản coi như sự xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu – sự tha hoá ấy của con người – và do đó coi như chiếm hữu một cách thực sự bản chất con người bởi con người và vì con người, do đó coi như việc con người hoàn toàn quay trở lại con người với tính cách là con người xã hội chủ nghĩa là có tính chất người"2.

 

Nhưng việc xoá bỏ tư hữu lại không tuỳ thuộc vào ý muốn của một ai. Nếu như sự ra đời của chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và, kèm theo đó, là sự tha hoá của quyền con người (trước hết là người lao động) được qui định một cách tất yếu khách quan bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thì việc thủ tiêu chế độ tư hữu và giải quyết triệt để quyền con người cũng do sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất và của xã hội nói chung qui định. Do không ý thức được điều đó, trong những năm qua ở một loạt nước xã hội chủ nghĩa trong đó có nước ta, phạm phải một loạt những sai lầm nghiêm trọng ngay trong quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh cho quyền chân chính của con người.

 

Việc xã hội hoá một cách hình thức hầu như toàn bộ những tư liệu sản xuất trong khi không ít nơi lực lượng sản xuất có dừng lại ở trình độ tiền tư bản, đầu tư bản. Sự xã hội hoá đó, do không dựa trên tính tất yếu khách quan, thực ra chỉ biến sở hữu tư liệu sản xuất từ chỗ của một số giai cấp, tập đoàn xã hội thành sở hữu của một số những người nằm trong cơ quan quyền lực của xã hội. Tuy về mặt hình thức họ không chỉ sở hữu trực tiếp các tư liệu sản xuất, do đó – cũng về mặt hình thức – họ chẳng bóc lột ai. Nhưng thực tiễn những năm qua cho thấy chính những người nằm trong cơ quan quyền lực xã hội đã chi phối hoàn toàn việc sử dụng những tư liệu sản xuất mà họ nhân danh xã hội để quản lý. Họ không bóc lột ai, nhưng không ít người trong số đó có cuộc sống vượt xa khả năng cống hiến của họ cho xã hội. Chẳng những thế, một bộ phận trong số đó mang lại cho cả anh em, họ hàng những quyền lợi vật chất và tinh thần mà những người lao động bình thường khó có thể nghĩ tới. Xã hội hoá hình thức càng được đẩy mạnh bao nhiêu, kinh tế Nhà Nước càng được bành trướng bấy nhiêu. Do chưa có cơ sở tấy yếu khách quan từ chính trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nên sở hữu Nhà Nước, kinh tế Nhà Nước không mấy mang lại một năng suất, một chất lượng, một hiệu quả cao hơn. Hình thức sở hữu đó, nền kinh tế Nhà Nước đó đã góp phần hình thành và củng cố "chủ nghĩa xã hội Nhà Nước". Trong thứ "chủ nghĩa xã hội Nhà Nước" thuộc lĩnh vực kinh tế đó, loại hình sở hữu nào càng gần với sở hữu Nhà Nước bao nhiêu càng được xem trọng, càng được ưu ái bấy nhiêu.

 

Quan điểm trên đây về nền kinh tế Nhà Nước dần dần được phản ánh trong quan điểm chính trị, tư tưởng không chỉ khi đánh giá các thành phần kinh tế, mà cả trong việc đánh giá những người lao động trong các thành phần kinh tế khác nhau đó. Đã có thời kỳ trong nhân dân xuất hiện ý niệm: những người làm trong khu vực Nhà Nước mới là "công dân loại một"; những người làm việc trong khu vực hợp tác xã là "công dân loại hai"; những người làm ăn cá thể là "công dân loại ba"…Tuy không có một văn bản nào của Đảng và Nhà Nước xác định rõ rệt điều đó, nhưng qua một số chủ trương, chính sách cụ thể, khi xử lý những quan hệ xã hội, khi sắp xếp con em học hành v.v…cho phép một người đi tới một ý niệm như vậy.

 

Thiếu sót trên đây kéo dài hàng chục năm, từ chỗ không giác mà quảng đại quần chúng nhân dân đã tiếp nhận sự đánh giá đó như một điều tự nhiên của chính mình. Cho đến nay không ít người vẫn cho rằng chưa tìm được việc trong Nhà Nước coi như chưa có việc làm. Định hướng giá trị méo mó đó dẫn tới hậu quả: người làm trong khu vực Nhà Nước ngày càng tăng lên mặc dù công việc không tất yếu đòi hỏi một lượng người như vậy.

 

"Nền kinh tế Nhà Nước" góp phần mạnh mẽ thúc đẩy việc hình thành và củng cố cái gọi là "tư tưởng, tư duy Nhà Nước". Trong quan niệm đó, chỉ những tư tưởng, những ý niệm được Nhà Nước phát ra, do Nhà Nước "đóng dấu" mới được xem là đúng đắn. Mọi sự tìm tòi sáng tạo vượt ra khỏi khuôn khổ đó đều được chấp nhận một cách hết sức khó khăn. Do thiếu không khí tranh luận, thiếu sự đa dạng trong các ý kiến nên đã làm cho bộ mặt tinh thần của xã hội kém sống động. Quyền của những công dân được trình bày ý kiến của mình trước một số chủ trương của Nhà Nước đặc biệt khi những ý kiến đó không thuận chiều với ý kiến của Nhà Nước, thường có một khuôn khổ hết sức hạn hẹp.

 

"Chủ nghĩa xã hội Nhà Nước" không chỉ hạn chế quyền của người lao động với tư cách là một chủ thể kinh tế, một chủ thể tư tưởng tinh thần, còn hạn chế cả quyền của người lao động với tư cách là những thực thể tự ý thức, tự giáo dục.

 

Thật vậy, trong thứ "chủ nghĩa xã hội Nhà Nước" đó, vị trí xã hội của công dân thường được đo bằng vị trí quyền lực người đó chiếm giữ. Do đó, người có quyền lực xã hội cao dường như đương nhiên trở thành người có quyền dạy bảo, giáo huấn người có quyền lực thấp, là người có quyền nói cho nhân dân nghe mà ít cần nghe nhân dân nói. ở đây nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, (với ý nghĩa là những người không giữ những vị trí nào trong hệ thống quyền lực xã hội) luôn được xem là đối tượng quản lý, giáo dục của Nhà Nước, của người có quyền lực. Mặt tự giáo dục, mặt giáo dục từ phía nhân dân, mà "nhân dân là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội"- trong đó quá trình giáo dục – thường không được xem trọng…

 

Như vậy, "chủ nghĩa xã hội Nhà Nước" có cơ sở vật chất cho sự tồn tại của mình là "nền kinh tế Nhà Nước"; có cơ sở tư tưởng của mình là "tư tưởng Nhà Nước"; có cơ sở xã hội của mình là "con người Nhà Nước". Những cơ sở ấy càng được hoàn thiện bao nhiêu thì quyền con người, trước hết quyền của người lao động càng giảm đi bấy nhiêu.

 

Để khắc phục việc vi phạm quyền con người trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong thời kỳ quá độ hiện nay ở nước ta, chúng ta phải làm nhiều việc và trong một thời gian dài. Một trong những vấn đề đó là từng bước khắc phục có hiệu quả sự biến dạng của chủ nghĩa xã hội thành "chủ nghĩa xã hội Nhà Nước".

Đại hội lần thứ VI của Đảng ta mặc dù không dùng khái niệm "chủ nghĩa xã hội Nhà Nước" nhưng bằng việc phân tích và phê phán nghiêm khắc những thiếu sót trong lĩnh vực kinh tế, tư tưởng và văn hoá cũng như phương hướng cơ bản nhằm khắc phục những sai sót đó cho phép ta khẳng định rằng tư tưởng về "chủ nghĩa xã hội Nhà Nước" đã được đề cập; và trong những năm gần đây việc khắc phục nó không chỉ dừng lại ở những phương hướng chung mà đã và đang trở thành những hành động thực tế trong quá trình đổi mới. Điều đó có thể thấy qua đổi mới cả trong lĩnh vực kinh tế lẫn trong lĩnh vực chính trị, văn hoá.

 

Trong lĩnh vực kinh tế: Ngay trong văn kiện Đại hội lần thứ VI của Đảng đã khẳng định tính đa dạng của các hình thức sở hữu, và tương ứng với chúng, là tính đa dạng của các thành phần kinh tế, của phương thức thu nhập, phương thức phân phối. Thực tiễn 5 năm qua không chỉ xác nhận tính đúng đắn của chủ trương đó, nó còn được phát triển, được làm phong phú bằng những kinh nghiệm từ những thành công và những thiếu sót trong quá trình hiện thực hoá nó. Hơn nữa, tình trạng các nước Đông Âu, tình hình cải tổ kinh tế ở Liên xô, một số kinh nghiệm bước đầu thu được qua cái làm được và cả cái chưa làm được từ một số nước xã hội chủ nghĩa khác cũng góp phần củng cố, phát triển hơn nữa quan niệm đúng đắn về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ mà Đại hội VI đề ra. Thành quả tư duy mới trong lĩnh vực kinh tế đã được ghi nhận đậm nét trong bản Dự thảo cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như chiến lược kinh tế – xã hội mà Đảng ta vừa công bố. Điểm trung tâm nhất mà các văn kiện đó nêu lên là nhấn mạnh sự cần thiết phải giải phóng mạnh mẽ hơn nữa những lực lượng sản xuất hiện có. Và như ta biết người lao động là nhân tố cơ bản quan trọng nhất của lực lượng sản xuất. Giải phóng lực lượng sản xuất, do đó, trước hết là giải phóng người lao động, là tạo ra mọi điều kiện để người lao động thực hiện tối đa quyền được làm việc, quyền được lao động của mình. Song như Ăng-ghen nói, bất kỳ hoạt động nào của con người đều nhằm theo đuổi một lợi ích nhất định. Do vậy, việc thực hiện quyền lao động của mọi tầng lớp trong dân cư tất yếu phải thừa nhận tính hợp pháp của những lợi ích chân chính mà mỗi người lao động theo đuổi.

 

Mặt khác, không thể không nhấn mạnh rằng chúng ta mới ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Cơ cấu giai cấp xã hội còn hết sức phức tạp. Tính phức tạp đó được qui định trực tiếp bởi tính phức tạp của cơ cấu kinh tế. Trong cơ cấu giai cấp – xã hội đó không chỉ có sự khác nhau, mà có cả sự đối lập, thậm chí có cả đối kháng. Sự khác biệt và mâu thuẫn trong kinh tế, trong cơ cấu giai cấp – xã hội qui định sự khác biệt và mâu thuẫn trong cơ cấu lợi ích. Những sự khác biệt và mâu thuẫn đó mang tính tất yếu khách quan. Sự tác động qua lại, sự đấu tranh giữa chúng tạo thành nguồn gốc và động lực của phát triển xã hội trong thời kỳ quá độ. Do vậy, việc bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực kinh tế, trong lĩnh vực lợi ích đòi hỏi không chỉ phải thừa nhận quyền lao động của những người lao động và quyền của họ được thực hiện những lợi ích chính đáng của mình mà còn phải thừa nhận quyền của những tầng lớp xã hội khác được sử dụng và phát huy tối đa năng lực sản xuất có trong tay cũng như lợi ích chính đáng do việc sử dụng nó mang lại. Chính vì vậy, việc thừa nhận hàng hoá sức lao động, quyền mua và bán hàng hoá đặc biệt đó cũng như quyền được hưởng lợi nhuận do việc mua và bán hàng hoá sức lao động tạo ra cũng là một biểu hiện của việc bảo đảm quyền con người…

 

Tất cả những điều nói trên chỉ có thể đạt được khi thực sự từ bỏ quan niệm về "chủ nghĩa xã hội Nhà Nước" trong lĩnh vực kinh tế. Thành phần kinh tế Nhà Nước, nói đúng hơn là thành phần kinh tế quốc doanh, được phát triển tới mức độ nào điều đó trước hết và chủ yếu được quyết định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, khả năng tổ chức và quản lý việc sử dụng nó, và nhờ vậy, mang lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn so với các thành phần kinh tế khác. Bên cạnh thành phần kinh tế dứt khoát phải vươn lên chủ đạo đó, nhất định còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác. do đó trong xã hội tất yếu còn tồn tại nhiều chủ thể kinh tế khác nhau, tồn tại những người lao động trong các thành phần kinh tế khác nhau. Luận điểm: "Mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật" cần được hiểu không chỉ đối với những người lao động làm trong các thành phần kinh tế khác nhau và cả, và trước hết là, đối với chủ thể của các thành phần kinh tế khác nhau đó.

 

Về chính trị: trong khuôn khổ của chế độ nhất nguyên, của việc bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất thuộc đảng Mác-Lênin, đã và đang mở rộng sự tranh luận, sự phản biện từ phía các cơ quan dân cử, các tổ chức Nhà Nước và xã hội cũng như của mỗi người công dân đối với mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà Nước. Không khí thảo luận sôi nổi ở khắp nơi hiện nay với các dự thảo văn kiện được chuẩn bị để trình bày trước Đại hội lần thứ VII của Đảng là một minh chứng cho điều đó.

 

Song, quyền của mọi công dân trong việc biểu hiện thái độ của mình trước những vấn đề trọng đại của đất nước chỉ thực sự có ý nghĩa tích cực khi nó mang sẵn trong mình một động cơ xây dựng có trách nhiệm trước vận mệnh của dân tộc. Trong tình hình phức tạp hiện nay càng cần phải nhấn mạnh điều đó. Bởi vì khi các lực lượng thù địch đang kích động và đòi hỏi chúng ta thực hiện đa nguyên chính trị, khi mà cuộc tấn công đó đã tạm thời giành được thắng lợi ở một bộ phận các nước xã hội chủ nghĩa, thì bất cứ sự quá trớn nào trong việc đấu tranh cho quyền lực chính trị của công dân đều có thể dẫn tới những hậu quả không thể lường được, mà rốt cuộc không chỉ quyền chính trị mà cả quyền về kinh tế của người lao động cũng khó bề được bảo đảm. Tình cảnh hiện nay của nhân dân vốn thuộc cộng hoà dân chủ Đức trước đây là một bằng chứng về điều đó.

 

Về văn hoá: Điểm quan trọng nhất là bảo đảm quyền của mọi người dân trong lĩnh vực sáng tạo những thành quả văn hoá và hưởng những thành quả đó. Trong tình hình hiện nay, bảo đảm quyền sáng tạo và hưởng thụ thành quả văn hoá của đồng bào các dân tộc ít người; quyền được xóa nạn mù chữ ở trung du, miền núi, đặc biệt ở những vùng rẻo cao…trở thành yêu cầu bức xúc. ở đây sự phát triển đa dạng nền văn hoá lành mạnh của các dân tộc trong cộng đồng người Việt Nam là một yêu cầu chính đáng về quyền con người trong lĩnh vực văn hoá.

 

Cả về kinh tế lẫn chính trị và văn hoá, nước Việt Nam không tồn tại một cách biệt lập với thế giới. Do vậy, việc khắc phục "chủ nghĩa xã hội Nhà Nước" trong tất cả các lĩnh vực đó cũng đòi hỏi quyền của tất cả mọi người với tư cách là những chủ thể kinh tế, chính trị, văn hoá được mở rộng giao lưu và tiếp nhận có phê phán, có chọn lọc những thành quả của thời đại trong các lĩnh vực. ở đây, một mặt, cần hoàn thiện hơn nữa tính chất đại diện của Nhà Nước cho những nhu cầu đa dạng của mọi tầng lớp dân cư trong mối quan hệ với nước ngoài; mặt khác, cần kết hợp hài hoà giữa việc mở rộng mối quan hệ giữa các nước, giữa các tổ chức mang tính Nhà Nước với những tổ chức phi chính phủ, và - trong chừng mực có thể - cả quan hệ trực tiếp giữa những cá nhân.

 

Sự thay đổi như vậy trong việc bảo đảm quyền con người lao động với tư cách là những chủ thể kinh tế, chính trị, văn hoá…sẽ dẫn đến thay đổi quan điểm về thang giá trị của con người trong xã hội. Vị trí, danh giá của con người sẽ không còn được đo chủ yếu bằng nấc thang quyền lực xã hội mà họ chiếm giữ, mà bằng những sản phẩm thực có giá trị về mặt xã hội mà người đó cống hiến cho xã hội.

 

Cố nhiên những sự thay đổi như vậy không thể thực hiện một sớm một chiều. Nó cũng không diễn ra một cách tự động, mà là kết quả đấu tranh của chính nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã được đổi mới. Song, theo tính tất yếu của nó, "chủ nghĩa xã hội Nhà Nước" nhất định sẽ được thay thế bằng một thứ chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên quan điểm Mác-xít chân chính đáp ứng được nhu cầu bảo đảm ngày càng tốt hơn những quyền cơ bản của con người./.

 

 

13/ 12/ 1990.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hiến pháp sửa đổi và những bảo đảm pháp lý về

Quyền con người

----

 

 

Ngô Đức Mạnh – PTS Luật học

Văn phòng QH và HĐNN

 

 

- I -

Trong lịch sử lập hiến của mình, chúng ta đã có 3 bản Hiến pháp, đánh dấu ba chặng đường quan trọng trong quá trình đấu tranh và xây dựng Tổ quốc. Hiến pháp 1980 kế tục và phát huy những thành tựu mà Hiến pháp 1946 và 1959 đã mở đầu trong việc làm phong phú thêm nhận thức về vai trò của Hiến pháp, của pháp luật với việc bảo vệ quyền công dân, trong việc thực hiện cơ chế "Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà Nước quản lý". Vai trò của Hiến pháp như một công cụ đa năng để tạo ra cơ chế điều hành, quản lý xã hội trong phạm vi cả nước mà đối với mỗi công dân ngày càng được khẳng định. Nguyên tắc "sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật" không chỉ là một trong những phương thức điều hành và hoạt động của bộ máy Nhà Nước, các tổ chức xã hội được ghi nhận ở điều 12 Hiến pháp 1980 mà nó còn được đi vào cuộc sống, vào sinh hoạt hàng ngày của mỗi cá nhân. Hiến pháp 1980 khẳng định nguyên tắc cơ bản của chế độ Nhà Nước ta, đã được ghi nhận ở Hiến pháp 1946 và 1959: "Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân"; "Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà Nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân" - điều 6 Hiến pháp 1980.

 

Từ Quốc hội khoá 8 (1987) đến nay chúng ta đã ban hành được 22 đạo luật, 31 pháp lệnh để cụ thể hoá các quyền của công dân, trong số đó có Bộ luật tố tụng hình sự, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các luật về thuế, pháp lệnh về Ngân hàng, pháp lệnh về tổ chức đoàn luật sư v.v…là những văn bản pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích của công dân trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội; mặt khác, các văn bản pháp lý ấy đều có chung mục đích làm ổn định tình hình trật tự an ninh trong cả nước, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, lập lại ổn định trong các lĩnh vực sản xuất, tạo cơ sở vật chất để bảo đảm thực hiện quyền công dân. Do vậy, vai trò của Hiến pháp không chỉ thể hiện ý chí của toàn thể nhân dân lao động trong việc quản lý và điều hành đất nước mà còn là nguồn gốc pháp lý cao nhất để xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Như vậy, Hiến pháp có tác dụng thúc đẩy; khuyến khích phát triển các lực lượng sản xuất trong xã hội thông qua các "đòn bẩy" pháp luật. Mặt khác, Hiến pháp lại chịu sự tác động ngược lại của chính cuộc sống. Cho nên, thiết lập được sự hài hoà, xác định mối liên quan giữa Hiến pháp và thực tế luôn luôn là vấn đề lý luận có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Ngay từ buổi đầu của thời kỳ xây dựng chính quyền Xô viết, V.I.Lênin đã nhắc nhở: "Tính chất của Hiến pháp là ở chỗ, những đạo luật cơ bản của Nhà Nước nói chung và những đạo luật có liên quan đến quyền bầu cử và các cơ quan đại nghị, đến quyền hạn của các cơ quan đại nghị đó, v.v…thể hiện được sự so sánh thực tế các lực lượng trong cuộc đấu tranh giai cấp. Hiến pháp sẽ là giả tưởng khi mà luật pháp và thực tế không phù hợp nhau. Nếu luật pháp và thực tế phù hợp với nhau thì Hiến pháp sẽ không phải là giả tưởng"1. Trong xã hội chúng ta, khi mà người dân lao động là người chủ đất nước, giai cấp thống trị bị lật đổ, không còn mâu thuẫn giai cấp đối kháng thì Hiến pháp không còn là sự thể hiện tương quan giữa các lực lượng trong cuộc đấu tranh giai cấp mà, như đã trình bày, là sự thể chế hoá quyền lực của nhân dân, xác định vị trí người chủ là nhân dân trong xã hội. Nhiệm vụ của chúng ta là trình bày, phân tích có cơ sở sự liên quan mật thiết giữa Hiến pháp và cuộc sống, giữa hình thức và nội dung của Hiến pháp để loại bỏ những quy phạm xa rời cuộc sống, mang nặng tính hình thức và "khẩu hiệu" của Hiến pháp. Với ý nghĩa đó, để phát huy dân chủ xã hội và chủ nghĩa, tôn trọng và bảo vệ quyền công dân không chỉ dừng lại ở cấp độ thừa nhận các quyền và nghĩa vụ của công dân, nâng nó thành nguyên tắc của Hiến pháp, vấn đề quan trọng hơn là xây dựng cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền của công dân để những qui định của Hiến pháp không phải là "giả tưởng". Đó cũng là một trong những nội dung sửa đổi Hiến pháp 1980 để làm cơ sở pháp lý thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước trong giai đoạn mới.

 

- II -

"Kể từ đại hội Đảng lần thứ VI đến nay, quan niệm về đường lối và phương thức xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta đã có những thay đổi cơ bản. Trọng tâm của những thay đổi ấy có mục đích đặt con người vào vị trí trung tâm của đổi mới, tôn trọng lợi ích cá nhân, pháy huy năng lực cá nhân và nâng cao trách nhiệm cá nhân. nhận thức mới về quyền công dân, về mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng cho phép chúng ta nhận thấy những ưu điểm và khiếm khuyết trong việc thể hiện quyền công dân ở Hiến pháp 1980 và bảo đảm thực hiện các quyền công dân ấy. Có nhận biết được những thiếu sót, hạn chế ấy, chúng ta mới có cơ sở khoa học để luận chứng cho những nội dung mới cần được thể chế hoá ở Hiến pháp sửa đổi. Những vấp váp thể hiện ở những qui phạm về quyền công dân ở Hiến pháp 1980 đều có nguyên nhân là sự vi phạm nặng nề những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin"2.

 

Về mặt lập hiến, đó là sự thể hiện nhiều quyền của công dân, ví dụ: quyền có nhà ở; quyền được khám bệnh và chữa bệnh không mất tiền; chế độ giáo dục phổ thông bắt buộc và không phải trả tiền…nhưng trong điều kiện kinh tế kém phát triển, chúng ta đã không thực hiện đầy đủ các quyền ấy. Hiến pháp ghi nhận quyền rất cơ bản: công dân được khiếu nại, tố cáo đối với bất cứ cơ quan nào nhưng trong cuộc sống, không có cơ chế thích hợp để thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đã dẫn đến tình trạng đơn từ của công dân gửi các cơ quan thẩm quyền không được giải quyết hoặc giải quyết không kịp thời thoả đáng. Về mặt kinh tế, quan niệm sở hữu chủ yếu có hai hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, không thừa nhận sở hữu cá thể trong thời gian dài đã kéo dần những quan hệ dân sự, tạo ra tâm lý ngại bỏ vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh trong nhân dân đã làm thiệt hại cho Nhà Nước và cho lợi ích của người lao động. Do vậy, sửa đổi Hiến pháp 1980 trước hết là việc khẳng định lại vị trí làm chủ của nhân dân, là việc làm phong phú và đầy đủ hơn địa vị pháp lý của người dân bằng những quan hệ xã hội mới trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội. Điều này không nêu mâu thuẫn với bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nó còn có mục đích đặt chế độ vì con người trong khuôn khổ pháp luật, được bảo vệ bằng pháp luật theo đúng nghĩa của nó.

 

Sửa đổi Hiến pháp 1980, theo ý chúng tôi, cần được tiến hành theo những phương hướng cơ bản như sau:

 

1- Kế thừa những thành tựu pháp lý của Hiến pháp 1980 trong việc bảo đảm quyền con người. Mở đầu chương V – quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, điều 53 ghi nhận: công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam theo luật định, tiếp theo đó, trong tất cả các điều từ điều 54 đến điều 81, chúng ta dùng khái niệm "công dân có quyền" mà không dùng khái niệm "quyền con người". Hiện nay, có nhiều ý kiến cho rằng chúng ta quá nhấn mạnh đến "quyền công dân" mà coi nhẹ "quyền con người" hoặc không thừa nhận "quyền con người". Theo ý chúng tôi, thực chất của các điểm ghi ở chương V Hiến pháp 1980 đều có nội dung quyền con người: quyền con người không nằm ngoài quyền công dân vì với tư cách công dân, cá nhân mới có quyền hưởng các quyền và tự do được Hiến pháp thừa nhận. Dưới chế độ thực dân cướp nước, tất cả người dân Việt Nam là những "vong quốc nô", không có quyền công dân nên cũng không có quyền con người. Thực tế chiến đấu giành độc lập, tự do của chúng ta hơn 30 năm qua cũng là để bảo vệ quyền con người, mang lại cho mỗi người Việt Nam quyền làm công dân của một nước độc lập. Như vậy, trong khái niệm "quyền công dân" có nhân tố "con người", "quyền công dân" là bước phát triển mới trong nhận thức về "quyền con người". Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, ban hành các chế độ, chính sách, chúng ta cần chú ý đến công dân với tư cách "con người", có những đặc điểm riêng, không thể đồng nhất giữa những cá nhân riêng biệt, không chú ý đến "cái tôi" đúng mức thì kết quả là chúng ta đã không tạo ra được động lực phát triển của cá nhân và của toàn xã hội.

 

Hiến pháp 1980 cũng đã ghi nhận những nguyên tắc cơ bản để bảo vệ quyền công dân: nguyên tắc kết hợp hài hoà những yêu cầu của cuộc sống xã hội với tự do chân chính của cá nhân; nguyên tắc mỗi người vì mọi người; mọi người vì mỗi người; quyền lợi không tách rời khỏi nghĩa vụ (điều 54).

 

2- Con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội. Do đó, phạm vi của những thay đổi về quyền công dân không chỉ giới hạn ở chương về quyền và nghĩa vụ của công dân. nội dung của Hiến pháp sửa đổi phải thấm nhuần nguyên tắc: "tất cả quyền lực thuộc về nhân dân". Những tư tưởng lớn của Đảng ta về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan dân cử là tiền đề để bảo vệ và thực hiện quyền công dân. Những tư tưởng đó là sợi chỉ đó xuyên suốt trong tất cả các hình thức tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý Nhà Nước. Về mặt chính trị, đó là quyền của công dân trong việc tham gia điều hành Nhà Nước. ý chí và nguyện vọng của nhân dân phải được phản ánh và thể hiện đầy đủ ở các cơ quan dân cử; lòng tin và tiếng nói của cử tri là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hoạt động của các đại biểu nhân dân; là quyền của công dân được bày tỏ nguyện vọng qua các cuộc trưng cầu dân ý về những vấn đề quan trọng nhất của đất nước.

 

Trong lĩnh vực kinh tế, Hiến pháp sửa đổi phải ghi nhận quyền của công dân được tự chủ sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức liên doanh, liên kết, góp cổ phần; sở hữu cá nhân phải được ghi nhận đối với tài sản, tiền vốn của công dân, có cơ chế thích hợp để công dân được sử dụng đất đai và các tài nguyên thiên nhiên khác.

 

Trong lĩnh vực văn hoá, những quy định của Hiến pháp sửa đổi sẽ là động lực phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng đồng, tạo mọi điều kiện hưởng thụ văn hoá cho nhân dân, góp phần xây dựng những nhân cách hoàn thiện có bản lĩnh đủ sức tiếp thu và nâng cao những giá trị tư tưởng, đạo đức, văn hoá truyền thống và có khả năng hoà nhập vào nền văn minh nhân loại.

 

3- Để tạo cơ sở pháp lý bảo vệ quyền công dân, Hiến pháp sửa đổi phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà Nước và công dân, trong đó sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân là động lực cho sự phát triển của xã hội, là sự phồn thịnh của đất nước. Có xác định được mối quan hệ giữa nhân dân và Nhà Nước, chúng ta mới có cơ sở để loại bỏ thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Thực tế cho thấy, những hiện tượng tham nhũng, xuất nhập khẩu bừa bãi mà các phương tiện thông tin đại chúng lên án vẫn chưa bị nghiêm trị đều có nguyên nhân ở chỗ coi thường pháp luật, thiếu cơ chế giám sát thực hiện Hiến pháp, pháp luật. Do đó, nội dung của Hiến pháp sửa đổi phải chứa đựng cơ chế giám sát và bảo vệ quyền công dân một cách có hiệu quả. Phải chăng, đó là việc cụ thể hoá quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan hành pháp, điều tra và xét sử, là cơ chế bảo đảm cho Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực Nhà Nước thực sự.

 

4- Trong thời đại ngày nay, nhân dân trên toàn thế giới đều có chung nguyện vọng được sống trong hoà bình, trong môi trường thiên nhiên trong sạch. Do đó, bảo vệ môi trường, chốn chiến tranh là vấn đề chiến lược và cấp bách của mỗi Nhà Nước, của cả cộng đồng quốc tế vì sự phồn vinh và hạnh phúc của mỗi con người, mỗi dân tộc và cả loài người trên hành tinh chúng ta. Việc Việt Nam tham gia ngày càng nhiều các công ước quốc tế đặt ra cho chúng ta trách nhiệm bảo đảm thực hiện các điều khoản quốc tế đã ký kết. Hiện tại, một số nguyên tắc của công ước quốc tế về quyền con người đã được cụ thể hoá ở các văn bản pháp lý: quyền được bào chữa của công dân, quyền thừa kế, nguyên tắc vô tội. Bổ sung các quy định về quyền của công dân cho phù hợp với những công ước quốc tế phải được xuất phát từ chủ quyền của chúng ta thừa nhận hay không thừa nhận các công ước ấy; Mặt khác, tạo ra sự hài hoà nhất quán giữa nội luật và luật pháp quốc tế trong đạo luật cơ bản của đất nước khẳng định quyết tâm của Nhà Nước ta bảo vệ và tôn trọng quyền con người, coi vấn đề quyền công dân ở Việt Nam cũng là một bộ phận không tách rời khỏi vấn đề quyền con người trên thế giới.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Một số suy nghĩ về vai trò của Nhà Nước trong việc bảo vệ quyền con người ở nước ta hiện nay

-----

 

 

Chu Văn Thành

NCS khoa Nhà Nước và pháp luật

 

1- Phản ánh bản chất của kiểu Nhà Nước xã hội chủ nghĩa các nhà kinh điển đã đưa ra khái niệm "Nhà Nước nửa Nhà Nước". Điều đó thể hiện tính biện chứng, chuyển hoá của Nhà Nước từ xã hội có giai cấp sang xã hội không có giai cấp. Phù hợp với thời kỳ lịch sử đó là sự tồn tại của một Nhà Nước đặc thù, thực chất là một Nhà Nước chính trị quá độ.

 

Về mặt lý luận, có ba khái niệm cùng chỉ Nhà Nước chính trị quá độ kể trên: chuyên chính vô sản, Nhà Nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ xã hội chủ nghĩa (với tính cách là một chế độ Nhà Nước). Tuy cùng phản ánh một sự vật – Tổ chức quyền lực chính trị trong chủ nghĩa xã hội, nhưng mỗi khái niệm trong khi phản ánh không thể không nhấn mạnh một phương diện đặc thù. Khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa nhấn mạnh yếu tố dân chủ, yếu tố nhân dân của Nhà Nước, nhấn mạnh mối liên hệ đặc thù giữa Nhà Nước với nhân dân. Cần phân biệt rằng, các kiểu Nhà Nước của giai cấp bóc lột, điển hình là các chế độ chuyên chế, độc tài vẫn có mối liên hệ với nhân dân, nhưng đó là mối liên hệ bên ngoài do các Nhà Nước đó tách ra, đứng lên trên xã hội, đối lập với nhân dân. ở đó nhân dân chỉ tồn tại với tư cách là khách thể của sự thống trị và quản lý. Ngược lại, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một chế độ Nhà Nước có mối liên hệ nội tại bên trong với nhân dân do nhân dân là chủ thể quyết định Nhà Nước, Nhà Nước tồn tại với tính cách là tổ chức quyền lực do nhân dân tự tổ chức ra.

 

Xét về lịch sử lẫn logic, hình thái dân chủ của Nhà Nước được phục hưng, phát triển phản ánh khát vọng của nhân dân mong muốn có một công cụ hiệu nghiệm để thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ các quyền lợi và lợi ích của con người. Nhà khai sáng Rút nô cho rằng, cùng với việc tiêu diệt chế độ chuyên chế, thay thế bằng Nhà Nước cộng hoà dân chủ thì tình trạng người bóc lột người và sự bất bình đẳng cũng không còn nữa. trong thực tế Nhà Nước dân chủ tư sản đã không làm được điều đó. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bậc thang cao nhất của các kiểu Nhà Nước dân chủ, do đó phải biến được mục đích nói trên thành hiện thực.

 

ở nước ta, khi lật đổ chính quyền thực dân phong phú thiết lập Nhà Nước công nông thì Nhà Nước đó mang phẩm chất của dân, do dân, vì dân. Tuy vậy, trong quá trình tồn tại, Nhà Nước kiểu mới ở nước ta cũng đã bộc lộ những khuyết tật có xu hướng tách rời nhân dân. điều đó đòi hỏi phải đấu tranh, khắc phục. Về nhận thức trước hết phải quan niệm Nhà Nước là do dân, nhân dân là chủ thể tổ chức và quyết định Nhà Nước. Đó chính là sự cô đọng nhất của khái niệm dân chủ. Chỉ khi nào Nhà Nước thật sự do dân thì lúc đó Nhà Nước mới có cơ sở vững chắc để không đi chệch mục đích của nó là vì dân. và chỉ khi nào đủ cả hai yếu tố do dân, vì dân thì Nhà Nước mới thật sự trở thành của dân, được nhân dân thừa nhận là của họ; khái niệm "của dân" mới thoát ra khỏi sự trừu tượng, không còn là một khái niệm trống rỗng, mang tính hình thức. Cũng chỉ khi đó Nhà Nước mới tồn tại với tính cách là công bộc của nhân dân, công cụ bảo vệ các quyền và lợi ích của họ.

 

2- Trong đời sống tinh thần của dân tộc ta, khái niệm quyền con người và quyền công dân là những khái niệm còn rất mới. Do điều kiện lịch sử, trong tiềm thức, nhân dân vẫn quan niệm chỉ có Nhà Nước là người có quyền, Nhà Nước "ban" các quyền cho công dân. chưa có khái niệm những quyền hiển nhiên của con người không thể tước đoạt. Cần thấy rằng, giữa nhân dân với Nhà Nước, giữa nhân dân với nhau còn khách quan tồn tại những mâu thuẫn; đó chính là cơ sở của sự nảy sinh sự vi phạm quyền con người.

 

Thứ nhất. Sự vi phạm nhân quyền nảy sinh từ phía Nhà Nước. hai căn bệnh có tính chất cố hữu của Nhà Nước là quan liêu và đặc quyền tham nhũng. Chính chúng tạo ra xu hướng tách khỏi nhân dân của Nhà Nước; và là nguyên nhân để tạo ra sự vi phạm quyền con người từ phía Nhà Nước. Một mặt một bộ phận cán bộ nhân viên lợi dụng chức vụ để mưu lợi riêng, tham nhũng tài sản của Nhà Nước và công dân. Để làm điều đó không thể tránh khỏi những hành vi hà hiếp, sách nhiễu đồng loại. Mặt khác, bệnh quan liêu gây ra sự oan ức cho không ít công dân, dung túng cho những hành động vi phạm nhân quyền.

 

Thứ hai. Giữa các thành viên trong nhân dân cũng luôn chứa đựng những mâu thuẫn. Những mâu thuẫn này bắt nguồn từ sự tranh chấp lợi ích, từ sự lạc hậu của nền văn hoá thể hiện ở những tập tục, tâm lý và quan niệm cổ hủ. Sự thấp kém về văn hoá cũng là nguyên nhân khiến cho con người không chế ngự được bản thân. Tình trạng nói trên là điều kiện thuận lợi cho sự vi phạm các quyền của nhau khi có sự tranh chấp, xung đột giữa các họ tộc, làng xã, giữa bố mẹ và con cái, giữa vợ và chồng, giữa anh em với nhau, giữa làng xóm láng giềng…, trong nhiều trường hợp dẫn đến vi phạm hình sự. Cả hai loại vi phạm quyền con người nói trên, Nhà Nước đều phải chịu trách nhiệm và có thẩm quyền giải quyết. Trường hợp thứ nhất, Nhà Nước phải đấu tranh với bản thân nó, ngăn chặn xu hướng quan liêu, trừng phạt những kẻ đàn áp, sách nhiễu nhân dân, trả lại danh dự và bồi thường cho những người bị oan vô tội. ở trường hợp thứ hai, Nhà Nước có trách nhiệm ngăn chặn những xung đột giữa các thành viên trong cộng đồng và đóng vai trò trọng tài phân sử phân minh những sự vi phạm nhân quyền do xung đột gây nên.

 

3- Trong điều kiện hiện nay, để đấu tranh với những vi phạm các quyền của con người, bảo vệ quyền và tự do của công dân, Nhà Nước cần thực hiện một số biện pháp.

 

Thứ nhất. Pháp luật hoá mối quan hệ giữa nhân dân với Nhà Nước, thể hiện trong các đạo luật và việc quy định quyền và nghĩa vụ của Nhà Nước, cũng như quyền và nghĩa vụ của công dân. Pháp luật phải thể hiện được nguyên tắc bình đẳng giữa cơ quan, nhân viên Nhà Nước với công dân; ngăn chặn được xu hướng lạm dụng quyền lực, quan liêu vô trách nhiệm của phía Nhà Nước; mặt khác ngăn chặn được nguyên nhân nảy sinh tình trạng vi phạm nhân quyền do lạc hậu về văn hoá, không chế ngự được bản thân của công dân dẫn đến vi phạm quyền và tự do của người khác. Công tác lập pháp phải thấm nhuần tư duy pháp lý mới: Pháp luật có hiệu lực, khi pháp luật công minh chứ không phải cứng rắn, hà khắc1.

 

Thứ hai. Cùng vơi việc xây dựng và hoàn chỉnh cơ sở pháp lý bảo vệ quyền con người là việc khẩn trương cải cách bộ máy Nhà Nước, xây dựng các bộ phận Nhà Nước hợp lý, loại bỏ được những sơ hở cho phép xu hướng quan liêu; lạm dụng quyền lực tồn tại. Cần củng cố và tăng cường hệ thống cơ quan tư pháp, nhất là cơ quan xét xử. Bảo đảm tính độc lập xét xử và chịu trách nhiệm của toà án trước pháp luật.

 

Thứ ba. Nhà Nước chú trọng việc giáo dục công dân, tạo điều kiện để nhân dân nâng cao được đời sống văn hoá, đặc biệt là văn hoá chính trị pháp lý. Trên cơ sở đó nhân dân tự giác bảo vệ các quyền của mình, đấu tranh chống sự vi phạm, đồng thời chế ngự được hành vi của mình theo tiêu chuẩn của xã hội văn minh là sống tuân thủ theo pháp luật.

 

Thứ tư. Báo chí là phương tiện hết sức quan trọng qua đó Nhà Nước nhận biết được tình trạng vi phạm nhân quyền xảy ra trong xã hội. Mặt khác báo chí cũng có vai trò như một thứ quyền lực tinh thần ngăn ngừa, cảnh tình những hành vi dẫn đến vi phạm nhân quyền. Do vậy Nhà Nước cần tạo điều kiện để báo chí phản ánh công khai nhanh nhậy về thực trạng quyền con người. Trên cơ sở đó mà Nhà Nước xử lý kịp thời những sự vi phạm, bảo đảm tốt hơn các quyền và tự do của nhân dân.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Một số ý kiến về những nhân tố bảo đảm thực hiện quyền con người trong chủ nghĩa xã hội

-------

 

 

Nguyễn Mạnh

Khoa Nhà Nước và pháp luật

 

Về lý luận, chủ nghĩa xã hội là chế độ vì con người và có đủ điều kiện thực hiện quyền con người. Cho đến nay, chưa có học thuyết này, lý luận nào xét đến cùng quan tâm toàn diện đến vấn đề quyền con người như học thuyết Mác-Lênin. Những người cộng sản chân chính đặt cho mình mục đích cuối cùng là xây dựng một xã hội trong đó con người được tự do, bình đẳng; có cuộc sống vật chất tinh thần ngày càng đầy đủ, văn minh; con người được phát triển toàn diện. Có lẽ cũng vì thế mà lý luận Mác-Lênin và hiện thực chế độ xã hội hơn bảy thập kỷ qua trong các nước xã hội chủ nghĩa – mặc dù còn yếu kém và khuyết tật nhất định - vẫn có sức hấp dẫn hơn đối với hàng trăm triệu người trên trái đất. Ngay cả hiện nay, trong lúc chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô đang khủng hoảng nghiêm trọng, nhiều đảng cộng sản và lực lượng tiến bộ dao động, loay hoay tìm con đường khác – thì từ chính các nước tư bản vẫn có những tiếng nói, thừa nhận nhiều điều tốt đẹp mà chủ nghĩa xã hội đã làm được và đang vươn tới vì hạnh phúc của con người. Và cũng vì thế, cho nên khi bọn đế quốc và phản động quốc tế giương ngọn cờ nhân quyền đề chống chủ nghĩa xã hội chúng ta đã quá coi thường và chậm triển khai việc nghiên cứu vấn đề này.

 

Nhiệm vụ đặt ra cho chúng ta khi nghiên cứu vấn đề quyền con người không chỉ là vạch trần những tội ác chống loài người vi phạm quyền sống của các dân tộc, vi phạm quyền con người của chủ nghĩa tư bản, mà còn vạch trần những bất lực của chủ nghĩa tư bản trong vấn đề bảo đảm quyền con người. Những tội ác và sự bất lực đó bắt nguồn từ bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa. Đồng thời phải nghiên cứu những điều kiện bảo đảm thực hiện quyền con người trong chủ nghĩa xã hội – chế độ vì con người – bao gồm những điều kiện, nhân tố nào ?

 

Học thuyết, lý tưởng, hệ tư tưởng mong muốn thành tâm và nhiệt huyết của người cộng sản, tự nó không thể trở thành hiện thực dù cho chúng có phản ánh đúng quy luật khách quan chăng nữa. quyền con người cũng như các vấn đề khác của chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải có công cụ, phương tiện, tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động đúng đắn mới bảo đảm cho chúng trở thành hiện thực trong cuộc sống. Tôi xin nêu một số nhân tố bảo đảm thực hiện quyền con người trong chủ nghĩa xã hội.

 

Thứ nhất, chúng tôi muốn bàn đến nhân tố đường lối, chính sách và những chủ trương lớn của Đảng và Nhà Nước. Trong chủ nghĩa xã hội, đảng cộng sản là người lãnh đạo chính quyền, là đội quân tiên phong, lãnh tụ chính trị, người dẫn đường của xã hội do đó mọi thiết chế về chế độ chính trị xã hội, tổ chức hoạt động của Nhà Nước, phát triển kinh tế – văn hoá, quản lý xã hội …đều căn cứ vào đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà Nước. Những vấn đề này lại liên quan trực tiếp đến quyền con người. Như vậy, xem xét vấn đề bảo đảm thực hiện quyền con người không thể không xem xét mối quan hệ và những yêu cầu đặt ra đối với đường lối chính sách trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người. Rõ ràng, yêu cầu đặt ra là khi xây dựng đường lối, chính sách phải luôn luôn tính đến và quán triệt tinh thần vì con người, bảo đảm những quyền cơ bản của con người. Phải nhận thức rằng, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch, các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội không đơn thuần là những con số khô khan, tuỳ tiện mà gắn liền với nó, mục đích cuối cùng của nó là phục vụ con người. Không thể chỉ vì hiệu quả sản xuất, kinh doanh, vì việc thực hiện bằng được các chỉ tiêu đặt ra mà quên đi quyền lợi chính đáng, yêu cầu tối thiểu của đời sống nhân dân. thực tiễn khi xây dựng đường lối, chính sách, kế hoạch nhiều khi chúng ta quá nôn nóng, sốt ruột vì yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, bị các chỉ tiêu, các con số hấp dẫn không chú ý đầy đủ đến các yêu cầu về đời sống về quyền lợi của nhân dân. Yêu cầu đặt ra khi xây dựng đường lối, chính sách là ở chỗ phải tính đến các điều kiện bảo đảm thực hiện các nhu cầu và quyền lợi chính đáng của nhân dân. Chẳng hạn, sau giải phóng miền Nam tháng 4/1975, chúng ta đứng trước yêu cầu vừa phải ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân, hồi phục sức dân sau hàng chục năm chiến tranh ác liệt, vừa phải hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, ytế, vừa phải bảo đảm an ninh quốc phòng trong tình hình mới. Đáng lẽ ra chúng ta phải có chủ trương, chính sách đúng đắn bảo đảm giải quyết hợp lý cả ba yêu cầu đó, trong đó phải đặc biệt chú ý đến vấn đề ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Nhưng, như chúng ta đã biết trong tư tưởng chỉ đạo và chủ trương chính sách lúc đó chúng tađã đặt lên hàng đầu yêu cầu tích luỹ để xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, tập trung cao độ cho công nghiệp hoá đất nước, kết quả dẫn đến những khủng hoảng nghiêm trọng trong những năm đầu thập kỷ 80. Một ví dụ nữa là các chính sách cụ thể trong lĩnh vực nông nghiệp cũng chưa thấm nhuần tư tưởng bảo vệ quyền lợi chính đáng của giai cấp nông dân. Chính sách và nghĩa vụ giao nộp về giá hàng nông sản…cũng còn nhiều điều bất hợp lý, chưa bảo đảm công bằng so với sự đóng góp của nông dân. Trong khi Nhà Nước chưa bảo đảm thực hiện hợp đồng, trách nhiệm, nghĩa vụ đối với nông dân thì nghĩa vụ của họ đối với Nhà Nước và xã hội lại không hề giảm, nông dân còn bị thiệt thòi. Sau đại hội VI của Đảng chúng ta đã ban hành hàng loạt chủ trương, chính sách mới triển khai thực hiện cơ chế quản lý kinh tế mới song lại chưakịp thời ban hành các chính sách, chế độ bảo đảm quyền cơ bản của người lao động trong điều kiện mới. Chẳng hạn chúng ta cho phép 5 thành phần kinh tế cùng tồn tại và tự chủ mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng lại chưa kịp thời có quy định bảo đảm quyền lợi chính đáng của người lao động, nhất là trong các tổ chức kinh doanh của tư nhân, cá thể. Trong điều kiện đó, chúng ta cũng chưa hề ra các chính sách, chế độ bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, chống hàng kém chất lượng ngăn chặn sản xuất kinh doanh không bảo đảm sức khoẻ của người sản xuất, tiêu dùng, bảo vệ môi trường sống, môi trường sinh thái. Giám đốc có quyền tuyển dụng và cho thôi việc nhưng Nhà Nước phải có quy định bảo vệ người lao động chân chính bị trù dập. ức hiếp, hạn chế sự tuỳ tiện, lạm dụng của giám đốc, hơn nữa, phải có chính sách mở mang ngành nghề, tạo công ăn việc làm bảo đảm quyền làm việc của những người lao động. Trong tình hình giá cả, thị trường biến động, còn lạm phát, giá trị đồng tiền chưa ổn định (Nhà Nước phải có chính sách bảo đảm đồng lương thực tế, bảo đảm giá trị ban đầu của tiền gửi tiết kiệm, tín dụng. Chúng ta đã để tình trạng đồng tiền mất giá, lên xuống đột ngột với chênh lệch quá lớn của lãi xuất tiết kiệm và tín dụng như vừa qua là không bảo đảm quyền lợi chính đáng của người gửi. Nhà Nước, vô tình trở thành người chiếm đoạt, hoặc vô trách nhiệm để cho các tổ chức tín dụng tập thể, tư nhân chiếm đoạt thành quả lao động của nhân dân. Với cung cách làm ăn đó Nhà Nước không thể tiếp tục huy động vốn trong dân nguồn lực quan trọng trong nước để phát triển kinh tế – xã hội.

 

Như vậy, trong các chính sách kinh tế, xã hội chúng ta không nên chỉ coi trọng hiệu quả kinh tế, lời lỗ đơn thuần, không chỉ chú ý lợi ích Nhà Nước mà quên đi lợi ích chính đáng của nhân dân.

 

Các chính sách trong giáo dục, ytế hiện nay cũng cần phải được xem xét lại. Xoá bỏ bao cấp tràn lan trong giáo dục, ytế là một chủ trương đúng đắn. Nhưng phải thấy là cần xoá cái gì và những phần nào Nhà Nước phải có trách nhiệm. Quyền được học tập không những là quyền của con người mà còn là nhu cầu, là chiến lược của Nhà Nước nhằm phát triển kinh tế – xã hội. Không thể xây dựng chính sách giáo dục, đào tạo theo quan điểm ai có tiền, ai có khả năng thì học một cách đơn giản, lạnh lùng theo lối trả tiền ngay. Ngay các nước tư bản cũng thấy được lợi ích trong việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo nền tảng đã có những chính sách bảo trợ tích cực, dành cho đào tạo, giáo dục những khoản tiền không nhỏ (ở Nhật đầu tư rất lớn cho tiểu học và trung học, ở Pháp phân cấp quản lý các trường học cho các cấp chính quyền một cách dứt khoát và quy định chương trình giáo dục bắt buộc đối với công dân. ở Thuỵ điển thì Nhà Nước bao cấp cho học sinh từ mẫu giáo đến trung học…).

 

Tóm lại, trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch của Đảng và Nhà Nước định hướng cho toàn bộ tổ chức hoạt động của Nhà Nước và xã hội và trực tiếp đụng chạm đến quyền con người. Vì vậy, xây dựng đường lối, chính sách đúng đắn, phù hợp, thấm nhuần tư tưởng vì con người và quyền cơ bản chính đáng của họ là nhân tố quan trọng bảo đảm thực hiện quyền con người trong chế độ ta.

 

Nhân tố thứ hai bảo đảm thực hiện quyền con người trong chủ nghĩa xã hội liên quan đến cơ chế tổ chức, hoạt động của Nhà Nước của cán bộ viên chức Nhà Nước. Nhà Nước, đặc biệt là hệ thống cơ quan chấp hành – hành chính Nhà Nước các cấp, có chức năng tổ chức, quản lý, điều hành mọi mặt của đời sống xã hội. Hệ thống cơ quan này có quyền lập, quy định, ban hành các văn bản dưới luật, ra các mệnh lệnh, chỉ thị, quyết định trên tất cả các lĩnh vực, với số lượng rất lớn cán bộ, viên chức mà hoạt động của họ diễn ra hàng ngày, hàng giờ trực tiếp quan hệ đến công dân và các quyền cơ bản được luật pháp quy định của họ. Không có quan điểm đúng đắn về hoạt động của nó, không có cơ chế tổ chức, hoạt động phù hợp, không có quy chế viên chức chặt chẽ, không có cơ chế kiểm tra giám sát nghiêm ngặt hoạt động của họ về tính chất, đặc điểm và quy mô. phạm vi hoạt động nêu trên dễ dẫn đến sự tuỳ tiện, lạm dụng của cơ quan Nhà Nước cán bộ viên chức Nhà Nước trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, dễ vi phạm quyền con người, quyền công dân. Phải xây dựng các cơ quan quản lý Nhà Nước các cấp trở thành hệ thống bộ máy ổn định, phục vụ liên tục các nhu cầu chính đáng, hợp pháp của mọi công dân. Cán bộ, viên chức Nhà Nước là người thừa hành những nhiệm vụ quyền hạn được pháp luật quy định theo chức danh của mình. Nhiệm vụ của họ là đáp ứng những đòi hỏi, yêu cầu hợp pháp của mọi công dân, đồng thời phát hiện những nhu cầu cần thiết khác của công dân trên mọi lĩnh vực để giải quyết kịp thời trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình. Để bảo đảm những yêu cầu, nhiệm vụ đó phải xây dựng quy chế viên chức Nhà Nước quy định rõ trách nhiệm của từng cán bộ viên chức Nhà Nước trong việc phục vụ nhân dân, trách nhiệm cuối cùng của họ đối với công việc được giao. Đồng thời phải có cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý các vi phạm trong hoạt động của các cơ quan Nhà Nước và cán bộ viên chức Nhà Nước. Đã đến lúc cần có sự tài phán của toà án hành chính về trách nhiệm và sai phạm của các cơ quan, cán bộ viên chức Nhà Nước trong việc thực hiện quyền con người đã được pháp luật quy định. Không thể để kéo dài tình trạng chỉ rút kinh nghiệm, rút bài học, xử lý nội bộ là xong và không ai chịu trách nhiệm gì. Hơn nữa, các cơ quan, cán bộ viên chức Nhà Nước gây thiệt hại cho nhân dân phải bồi thường những thiệt hại đó, kể cả những thiệt hại vật chất và tinh thần của họ. Với cơ chế tổ chức, hoạt động được quy định cụ thể, kiểm tra giám sát chặt chẽ, xử lý nghiêm minh, kịp thời như trên mới bảo đảm cho các cơ quan, cán bộ viên chức Nhà Nước tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền con người của mọi công dân trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.

 

Pháp luật và chất lượng pháp luật là nhân tố thứ ba có ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền con người trong chủ nghĩa xã hội. Phải nhận thức rằng pháp luật vừa là công cụ quản lý của Nhà Nước vừa là phương tiện bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân bảo đảm cho nhân dân được sống trong tự do, công bằng, được bảo vệ về sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự và an toàn cá nhân. Muốn pháp luật thực hiện được các chức năng đó, trước hết, quyền con người phải được cụ thể hoá trong pháp luật. Đồng thời gắn liền với việc cụ thể hoá nội dung các quyền con người, ngay trong pháp luật phải có các quy định về trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ viên chức Nhà Nước bảo đảm thực hiện các quyền đó trong thực tế. Chẳng hạn, pháp luật xác nhận quyền khiếu tố của nhân dân nhưng phải quy định trách nhiệm cụ thể của cơ quan Nhà Nước không được từ chối, phải trả lời hoặc báo cho công dân biết đã giải quyết vụ việc khiếu tố đến đâu…Hơn nữa tất cả những quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan Nhà Nước và cán bộ viên chức Nhà Nước còn phải công khai để mọi người đều biết, có thể theo dõi và kiểm tra việc thực hiện.

 

Vấn đề chất lượng pháp luật cũng liên quan chặt chẽ đến việc bảo đảm thực hiện những quyền cơ bản đã được thể chế hoá. Kiểm tra lại hệ thống pháp luật của Liên xô các nhà luật học Xô viết phát hiện ra rằng rất nhiều vấn đề không được cụ thể hoá, quy định một cách chung chung, sử dụng nhiều thuật ngữ không đơn nghĩa hoặc tạo ra những đặc quyền và khoảng trống cho sự tự do, tuỳ tiện và điều kiện tham nhũng của các nhà chức trách. Chẳng hạn, có điều luật quy định rằng "Tuỳ vào khả năng, điều kiện về vật tư, tiền vốn, lao động của các hộ mà giao đất cho họ nhiều hay ít theo mức Nhà Nước đã quy định". Quy định như vậy, vô hình chúng ta đã tạo ra điều kiện để những người có quyền xét duyệt cấp đất tuỳ tiện theo ý muốn chủ quan của họ.

 

Quyền con người được cụ thể hoá trong pháp luật là yêu cầu điều kiện quan trọng để bảo đảm thực hiện quyền con người, nhưng quan trọng hơn là những điều luật đó phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi vi phạm phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời. Vì vậy, việc bảo đảm cho cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử hoạt động đúng chức năng, quyền hạn của mình là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu. Điều đặc biệt quan trọng là nghiên cứu thiết chế bảo đảm cho toà án độc lập xét xử và chỉ tiêu tuân theo pháp luật. Muốn thế, phải công phu đào tạo các thẩm phán để họ có đủ năng lực độc lập xét xử không phải thỉnh thị, xin ý kiến chỉ đạo, bảo đảm cho họ coi việc xét xử là nghề nghiệp suốt đời (trừ khi bị kỷ luật hoặc quá non kém, xử sai nhiều), các toà án quan hệ với nhau theo thủ tục tố tong, độc lập với nhau khi xét xử và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định xét xử của mình. Hơn nữa cần phải tổ chức thêm các toà án hành chính, toà án kinh tế bảo đảm cho các lĩnh vực của hoạt động xã hội và Nhà Nước đều có cơ quan tài phán xét xử công minh đúng pháp luật.

 

Nhân tố thứ tư có ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm thực hiện quyền con người trong chủ nghĩa xã hội, đó là nhân tố về các điều kiện vật chất, văn hoá. Quyền con người muốn được thực hiện ngày càng đầy đủ và với chất lượng cao phải có cơ sở vật chất bảo đảm. Điều đó có nghĩa là kinh tế càng phát triển năng suất lao động ngày càng cao, cơ sở hạ tầng ngày càng hoàn thiện và phát triển thì càng có điều kiện thực hiện tốt các quyền con người. Nhiều vấn đề về quyền con người đã được pháp luật xác định nhưng do điều kiện kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn nên chưa được thực hiện đầy đủ, hoặc có cố gắng thực hiện nhưng chất lượng chưa cao. Như vậy ở đây có vấn đề quyền con người phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội, nhưng không có nghĩa là trình độ kinh tế – xã hội kém phát triển thì không thực hiện được quyền con người. Chỉ có vấn đề là quyền đó được thực hiện như thế nào, chất lượng và trình độ ra sao. Trong vấn đề thực hiện quyền con người có yêu cầu đặt ra là phải công bằng, bình đẳng. Trình độ phát triển kinh tế chưa cao nhưng cụ thể hoá được các quyền của con người và bảo đảm cho nó thực hiện công bằng, bình đẳng trong thực tế, Nhà Nước có thiết chế bảo đảm thực hiện các quyền đó trong thực tế thì vẫn là thực hiện được quyền con người. Không phải đợi đến khi kinh tế phát triển, của cải dồi dào mới quan tâm đến thực hiện quyền con người. Không thể đem chỉ số về đôla/ đầu người, số m2 nhà ở/ đầu người…để nói rằng nước nào đó thực hiện tốt hơn hoặc chưa tốt quyền con người về nhà ở, về giáo dục…

 

Sự phát triển về văn hoá, giáo dục, khoa học kỹ thuật cũng là điều kiện vật chất góp phần bảo đảm thực hiện quyền con người. Trình độ dân trí ngày càng cao cộng với sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng, nhân dân càng có điều kiện hiểu biết pháp luật, xử sự theo pháp luật. Họ sẽ có điều kiện nhận biết các quyền hợp pháp của mình, biết sử dụng pháp luật đấu tranh đòi hỏi và bảo vệ các quyền đó. Trình độ ngày càng cao của nhân dân trở thành áp lực và thách thức đối với cơ quan Nhà Nước và cán bộ nhân viên Nhà Nước buộc các cơ quan và cán bộ nhân viên này phải làm việc tốt hơn, tôn trọng các quyền con người, tôn trọng pháp luật.

 

Như vậy việc nghiên cứu nhân tố này đã dẫn đến yêu cầu phải bảo đảm sự phát triển của kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật tạo điều kiện vật chất văn hoá cần thiết bảo đảm nâng cao trình độ chất lượng trong vấn đề thực hiện quyền con người.

 

Nhân tố thứ năm, góp phần thực hiện tốt quyền con người trong chủ nghĩa xã hội liên quan tới việc công dân thực hiện các nghĩa vụ của mình như thế nào với tư cách là thành viên của xã hội. Con người được cả Nhà Nước và xã hội chăm lo nhưng không có nghĩa là tạo hoá cho họ quyền chỉ đòi hỏi ở Nhà Nước và xã hội. Là thành viên của xã hội, mỗi người muốn được bảo đảm thực hiện các quyền của mình càng phải thực hiện tốt các nghĩa vụ và trách nhiệm với Nhà Nước và xã hội. "Mình vì mọi người để mọi người vì mình" đó là nguyên tắc, đạo đức trong chủ nghĩa xã hội. Muốn mọi người có nhà ở tốt hơn mỗi người không thể không thực hiện sinh đẻ có kế hoạch và nhiều nghĩa vụ có liên quan khác. Muốn được sống trong độc lập, tự do, an ninh trật tự không thể không làm nghĩa vụ quân sự, không tham gia dân phòng tự vệ v.v…Mỗi một người thành viên trong xã hội làm tốt nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với Nhà Nước và xã hội chính là góp phần tạo điều kiện để Nhà Nước và xã hội bảo đảm thực hiện tốt quyền con người đối với mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội.

 

Tóm lại, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người được bảo đảm thực hiện nhờ tổng thể nhiều nhân tố. Các nhân tố này liên quan chặt chẽ với nhau và cùng tác động đến việc thực hiện quyền con người. Vì vậy khi xem xét vấn đề bảo đảm quyền con người trong chủ nghĩa xã hội phải tính đến hệ thống và sự tác động lẫn nhau giữa các nhân tố đó để khắc phục những sai sót, khiếm khuyết trong từng nhân tố để có phương hướng bổ sung, hoàn chỉnh, phát triển chúng. Chỉ có xem xét một cách hệ thống như vậy chúng ta mới tạo ra điều kiện để bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người thiêng liêng và bất khả xâm phạm.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bình đẳng trước pháp luật lý luận và thực tiễn

-------

 

 

Hưng nghiêm

Tạp chí Cộng sản

 

Cách đây hơn hai trăm năm, cách mạng vĩ đại Pháp đã giương cao ngọn cờ đánh dấu sự tiến bộ của nhân loại: "tự do", "bình đẳng", "bắc ái"…Đây là kết quả của quá trình đấu tranh đầy máu và nước mắt của loài người. Song từ đấy đến nay "bình đẳng" vẫn chưa thật đạt đến đỉnh tột cùng của nó trên toàn thế giới. Vấn đề này về lý luận thì đơn giản song thực tiễn thì vô cùng khó khăn, song để cụ thể hoá khái niệm "bình đẳng" phải được gắn với pháp luật cho nên ta có khái niệm: bình đẳng trước pháp luật.

 

Về nội dung khái niệm này có lẽ rất đơn giản: mọi người như nhau hay bằng nhau trước pháp luật. ấy thế mà lại không một chút nào khi thực hiện lại giản đơn suôn sẻ.

 

Kể từ khi cách mạng Pháp đến nay xã hội luôn luôn là xã hội có giai cấp. Mà có ngớ ngẩn mới không thấy luật pháp luôn luôn là ý chỉ của giai cấp cụ thể. Vậy là mâu thuẫn thứ nhất là: bình đẳng đối với nội bộ giai cấp này, tất yếu sẽ là bất bình đẳng với giai cấp khác.

 

Thứ hai cuộc sống của một cá nhân trong xã hội là một tổng hoà quan hệ phức tạp: khi đó luật pháp thì làm sao dàn trải ra khắp các lĩnh vực phức tạp kể trên mà lại là cả những điều kiện cụ thể nếu không có điều kiện lịch sử lâu dài… Vậy phải kết hợp giữa luật pháp và hàng loạt các điều kiện khác mới khắc phục được mâu thuẫn này (như tâm lý, đạo đức, phong tục…); bên cạnh là càng ngày càng phát triển sâu rộng luật pháp, mới có bình đẳng…

 

Hai luận điểm nêu trên dẫn đến một điều là muốn có bình đẳng phải hoàn thiện luật pháp và phải đưa xã hội đến một trạng thái như nhau giữa các công dân hay là xã hội không giai cấp. Đây chính là chủ nghĩa cộng sản. ở đây chủ nghĩa Mác-Lênin lại một lần nữa được khẳng định giá trị chân chính: nhân loại muốn đến một xã hội bình đẳng (hay bình đẳng trước pháp luật) phải tiến đến chủ nghĩa cộng sản. Không thể chỉ ở chủ nghĩa tư bản được, nếu lịch sử không muốn dừng lại. Chúng ta không cần phải nghi ngờ xu hướng tiến lên của nhân loại nói chung và chủ nghĩa tư bản nói riêng: phải tiến đến chủ nghĩa cộng sản. Hay nói cách khác niềm tin này có cơ sở mặc dù còn phải phấn đấu nhiều, thậm chí có hy sinh mất mát…

 

Cần phải khẳng định thêm: bình đẳng trước pháp luật về lý luận, cần phải phát triển cụ thể thêm theo từng bước tiến của văn minh nhân loại vì Mác-Lênin mới chỉ dự đoán những nét chung nhất…Trong thực tiễn, phải xây dựng đầy đủ cơ sở vật chất và văn hoá tạo điều kiện cho sự phát triển theo hướng tiến bộ của nhân loại. Hay nói cách khác, bình đẳng trước pháp luật không phải nêu lên khẩu hiệu là song mà phải hành động trong thực tiễn. Chúng ta cũng thấy rằng, sau cách mạng Pháp, bình đẳng luôn luôn mới chỉ là hình thức. Chỉ có đến chủ nghĩa cộng sản mới thật sự thực hiện điều này. Cách mạng tháng Mười vĩ đại đã đánh dấu sự phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản lúc đó về vấn đề này. Lênin chủ trương và cho rằng đây là cuộc cách mạng tiếp theo và từng phần của cách mạng Pháp. Tiếc thay Lênin không sống lâu để làm việc đó. Chủ nghĩa xã hội sau Lênin đã bị biến dạng mặc dù có nhiều thành tích vô giá trên đường phát triển của nó. Có lẽ xin thấy rằng, không nên vội vàng nóng nảy tìm kiếm bình đẳng trước pháp luật theo đúng nghĩa của nó khi mà điều kiện kinh tế – xã hội chưa đầy đủ. Nhưng không phấn đấu theo xu hướng đó mà dừng lại bi quan thì thật là có lỗi với lịch sử.

 

Quay lại vấn đề cần giải quyết, phải làm thế nào để hoàn thiện luật pháp. Luật pháp hoàn thiện trước hết phải đủ. Nói luật đủ nghĩa là cần rất nhiều luật để bảo đảm bao quát được mọi mặt của cuộc sống xã hội. Song không phải chỉ có nhiều luật là đủ. Phải làm sao cho luật được rõ ràng chặt chẽ hợp với sự tiến bộ của xã hội. Một luật muốn đứng vững phải đảm bảo phản ánh được đầy đủ quyền lợi nghĩa vụ của công dân trong xã hội. Muốn thế luật pháp phải: chuyển ngôn ngữ của chân lý thành ngôn ngữ của pháp luật (như Ang-ghen nói)…Mà khó có thể có luật nào lại đạt đến mức như vậy. Song ở đây lý luận về chân lý đã giải đáp cho sự ách tắc này phần nào. Đó là sự phát triển của chân lý từ tương đối đến tuyệt đối theo một logic biện chứng. Điều này có nghĩa là luật pháp cần phải phát triển (sửa đổi, bổ sung cho sự phát triển của lý luận cũng như về thực tiễn). Toàn bộ vấn đề nêu trên nói đến quá trình lập pháp. chúng ta còn lâu mới đạt được cơ chế làm luật và nội dung luật để đạt được pháp luật hoàn chỉnh. Vì phải phụ thuộc chặt chẽ với văn minh vật chất và tinh thần.

 

Ngay cả chủ nghĩa tư bản hiện nay cũng không đạt được điều này vì nhiều lý do khác nhau. (ở đây không có điều kiện trình bày rõ ràng cụ thể, song tạm thời nêu lên một vài ví dụ: chủ nghĩa tư bản không thừa nhận có chân lý; xoá bỏ giai cấp, xoá bỏ tư hữu…và cơ sở xã hội không đủ điều kiện để làm việc đó: Luật pháp chỉ phản ánh cho ý chí đa số giai cấp tư sản…).

 

Có thể nói là quá trình làm luật nói chung vẫn còn rất nhiều công việc ở phía trước. Đòi hỏi phải tốn công tốn của tốn thời gian. Chúng ta không ảo tưởng…Điều kiện tiếp theo để có sự bình đẳng trước pháp luật được thực hiện trong cuộc sống là cần có bộ máy hành pháp. Muốn luật pháp được thực hiện nghiêm ngặt phải có một bộ máy hành pháp lý tưởng. Bộ máy này phải gọn nhẹ, tinh vi và cực mạnh…Cần đến con người thực hiện nó (nhân viên Nhà Nước) trong sạch và đủ năng lực, có điều kiện đủ thực hiện điều hành luật pháp. Tiếc rằng những con người đó không phải rơi từ trên trời xuống mà lại là kết quả của lịch sử xã hội. Lênin dạy còn Nhà Nước thì còn quan liêu…Chống quan liêu chỉ có bằng cách thủ tiêu bộ máy Nhà Nước…Thực hiện một xã hội không Nhà Nước. ở đâu có thể làm được như vậy nếu không phải là chủ nghĩa cộng sản mà Mác-Ang-ghen-Lênin đã phác thảo. làm thế nào để đến Nhà Nước toàn dân. Đây là quá trình xây dựng kiến thiết lâu dài. ở đây lý luận cụ thể về Nhà Nước tiên phong vẫn chưa hoàn thiện…song, trước mắt, chủ nghĩa xã hội cần phải xây dựng nền tảng kinh tế xã hội và dần dần cải tiến bộ máy theo hướng gọn nhẹ và thủ tiêu dần chế độ quan liêu…nếu thật sự muốn tìm đến "bình đẳng".

 

Chủ nghĩa tư bản thừa nhận tư hữu nên nó không thể chống được quan liêu…dù kinh tế văn hoá nó có phát triển đến đâu thì sự tranh giành quyền lực và lũng đoạn quyền lực bằng mọi thủ đoạn của giai cấp có của là tất yếu.

 

Còn chủ nghĩa xã hội mới ra đời, trong lòng nó còn nhiều khuyết tật của quá khứ. Đã thế, kinh tế, văn hoá, kỹ thuật lại đang ở trong tình trạng lạc hậu. Cho nên còn rất nhiều việc phải làm trước mắt trên con đường tiến tới mục tiêu tốt đẹp của nhân loại.

 

Điều không thể thiếu được trong xã hội, muốn tiến gần đến bình đẳng (nói cho gọn) thì cần đến cơ quan tư pháp vừa và đủ. đây cũng cần đến những nhân viên Nhà Nước. Nó cũng mang dấu ấn của bộ máy Nhà Nước nói chung hay chúng cùng chung với số phận (lập pháp và hành pháp) hay nói gọn lại nó là phạm trù lịch sử.

 

Song ở giai đoạn còn tồn tại thì sự có mặt của cơ quan tư pháp là tất nhiên. chúng ta thừa nhận rằng đặc trưng của luật pháp là: bảo đảm quyền lợi của công dân cũng như tiền đề tồn tại bảo vệ là trừng phạt sự phạm sai lầm, cản trở, phá hoại quyền lợi đó và làm rối an ninh trật tự xã hội. Hay đặc trưng nữa của luật pháp đòi hỏi sự ngang bằng giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Cơ quan tư pháp có nghĩa vụ ngăn ngừa những mặt tiêu cực xã hội bảo vệ pháp luật. Muốn thực hiện được sứ mạng của luật pháp, làm sao cho mọi người bình đẳng trước pháp luật, không có trường hợp ngoại lệ, cần có sự độc lập giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. ở đây cần thấy rằng tính chất xã hội không phải ở sự phân chia ba khu vực này. Tính chất xã hội là ở nội dung mục đích (ý chí) của luật pháp. Chúng ta coi sự phân lập ở đây có tính chất tác nghiệp. Nếu không có sự độc lập giữa ba khu vực này sẽ dẫn đến có người (cá nhân, phe nhóm…) đứng trên pháp luật hay đứng ngoài pháp luật, vi phạm, chà đạp lên luật pháp.

 

Hơn ai hết chúng ta thấy được điều cay đắng này khi lập pháp theo chỉ đạo; hành pháp theo ý muốn; tư pháp dựa theo ý trên…Thế là một sự lộn xộn trong kinh tế, văn hoá, trật tự an ninh xảy ra ngày càng tăng, ngày càng trầm trọng…Chúng ta muốn hạn chế những tiêu cực đó dần dần thủ tiêu chúng cần có luật pháp nghiêm minh theo đúng nghĩa lập pháp, hành pháp và tư pháp.

 

Muốn thế lại phải nhắc lại một lần nữa có điều kiện cần và đủ.

 

Làm thế nào để bình đẳng pháp luật đối với nhân dân lao động sau đó.

 

Hay khi đã có luật đầy đủ bộ máy Nhà Nước thì làm gì để luật pháp được mọi người chấp hành nghiêm chỉnh…

 

Trước hết luật pháp phải phản ánh quyền lợi cho đại đa số nhân dân lao động. Hay ý chí giai cấp phải phù hợp với nguyện vọng của nhân dân lao động. Sau đó luật phải được công khai cho toàn dân góp ý, thông qua và ban hành. Điều này chỉ có thể có được ở chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản khó mà làm được, vì tính chất giai cấp của luật pháp…Nhân dân lao động cần được học hành (được có cuộc sống văn hoá vật chất và tinh thần cần và đủ). Làm sao cho luật pháp mang dấu ấn tiến bộ nhân loại vì khái niệm nhân dân luôn phát triển trong xã hội. Đây là nói đến hiện tại, còn trong tương lai thì sao ?

 

ở đây, chúng ta phải giải quyết vấn đề giai cấp trong xã hội. đó là: xoá bỏ giai cấp. Nói khác đi sự bình đẳng chỉ có thể đạt được khi không còn giai cấp.

 

Vậy quá trình xoá bỏ giai cấp như thế nào? hay làm thế nào xây dựng một xã hội không giai cấp. Vấn đề này về lý luận hầu như còn bỏ không! Nhưng sự tiến hoá của thực tiễn thì vẫn không thể tránh khỏi. Chắc chắn sẽ phải xây dựng một xã hội bình đẳng trong đó mỗi cá nhân là các thành viên như nhau trước luật pháp (công dân). Vậy chúng ta chọn công dân mẫu là gì? nếu ta tránh không dùng khái niệm của học giả tư sản "công dân" hay "xã hội công dân".

 

Hiện nay khi chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội (mà thực chất là quá độ lên chủ nghĩa xã hội) trong tình hình xã hội, còn nhiều thành phần kinh tế. Vậy có phải là còn nhiều giai cấp tầng lớp hay không? Có lẽ phải khẳng định là còn, có chăng chỉ mất đi đối kháng giai cấp mà thôi, tuy còn mâu thuẫn. Hướng tiến lên xã hội chủ nghĩa chúng ta phải chọn giai cấp, tầng lớp nào là trung tâm. giai cấp công nhân chăng! Nhưng nó đã khác khái niệm công nhân làm thuê cho chủ nghĩa tư bản trước kia; hay chúng ta chọn trí thức vô sản hay sự kết hợp giữa công nhân và trí thức? Điều này có vẻ phù hợp với Mác-Ang-ghen-Lênin khi nói đến giai cấp công nhân "cổ cồn". Nhưng nói như vậy có quá sớm không? Khi mà xã hội ta cũng như các nước xã hội chủ nghĩa công nhân và nông dân đang chiếm đa số trong xã hội. ở đây chúng ta phải có sự thay đổi quan niệm về công nhân…và cần xem xét cho chín chắn, liên minh: công nhân, nông dân, và trí thức (nhất là trí thức trong chủ nghĩa xã hội đã có sự thay đổi về chất so với trí thức tư sản trong chủ nghĩa tư bản); xác định địa vị, vai trò của từng tầng lớp này trong xã hội.

 

Có thể đặt câu hỏi: ai sẽ đại diện quyền lợi (phù hợp, gắn bó về quyền lợi) cho ai trong ba tầng lớp chủ yếu trong xã hội. lẽ dĩ nhiên ai đó phải có hệ tư tưởng tiên tiến nhất hệ tư tưởng vô sản giữ vị trí thống trị. Nếu nói đến hệ tư tưởng thì thấy rằng sự phân chia trên là tương đối. Vì sẽ có một sự thống nhất về hệ tư tưởng đôi khi không cần phụ thuộc tầng lớp giai cấp mà ai có hệ tư tưởng này sẽ đại diện cho mọi quyền lợi của nhân dân trong xã hội đấy là do tính chất của hệ tư tưởng này. (Tất nhiên nhà tư bản không bao giờ đại diện cho giai cấp bị bóc lột về quyền lợi…).

Nhưng trong chủ nghĩa xã hội thì sao ?

 

Tóm lại vấn đề đơn giản "bình đẳng trước pháp luật". Trong thực tiễn lại gay go phức tạp ở hiện thực và phải chăng cả trong tương lai.

 

Nhưng chúng ta hãy làm hết sức mình trong hiện tại làm sao cho xã hội ngày càng có bình đẳng. Còn tương lai thì Mác đã chỉ rõ: nhân loại chỉ đặt ra và giải quyết nhiệm vụ gì mà lúc đó sắp có và thậm chí đã có tiền đề, điều kiện để giải quyết nó rồi.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa

công bằng – pháp luật

-------

 

 

Nguyễn Bích Thuận

 

 

Hiện nay công bằng xã hội là một trong những vấn đề đang được đặt ra một cách gay gắt trong đời sống xã hội của mỗi nước, của cả thế giới. Công bằng là sự thể hiện mối quan hệ giữa người với người trong cuộc sống, là nguyện vọng của mỗi người dân và là động lực phát triển của xã hội.

 

Công bằng xã hội được thể hiện trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế – chính trị – xã hội. Sự công bằng xã hội gắn liền với điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Điều kiện kinh tế xã hội ngày càng cao thì thì yêu cầu về công bằng càng đa dạng và phong phú. Nhưng muốn có công bằng và công bằng có được bảo đảm không thì phải thông qua pháp luật. Chỉ với những qui định cụ thể của pháp luật và bộ máy hoạt động của Nhà Nước thì sự công bằng mới được thực hiện. C.Mác đã viết …"không phải con người tồn tại vì pháp luật mà pháp luật tồn tại vì con người"1 một trong những mục đích của pháp luật là đảm bảo sự công bằng trong quan hệ giữa người và người.

 

Mối quan hệ giữa công bằng và pháp luật không phải là mối quan hệ một chiều. Con người với những quyền vốn có của mình phải được pháp luật ghi nhận và bảo đảm, ngược lại pháp luật bổ sung cho con người những quyền đa dạng hơn phù hợp với những điều kiện nhất định.

 

Khái niệm công bằng có nội dung rất rộng, công bằng trong chính trị, trong tư tưởng, trong kinh tế và cụ thể ra là sự bình đẳng nam nữ, bình đẳng về học hành, nhà ở về phân phối phúc lợi, về nghĩa vụ…Nhưng mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì khái niệm công bằng chứa đựng những nội dung kinh tế - xã hội – chính trị, giai cấp nhất định gắn với trình độ phát triển của xã hội.

 

Trong xã hội phong kiến với nhiều đẳng cấp khác nhau: trên cùng là vua, đến các quan trong triều, tầng lớp địa chủ và cuối cùng là dân đen. Quan hệ chỉ có một chiều: dân phụng sự và có nghĩa vụ đối với các tầng lớp, đẳng cấp trên. Pháp luật trong thời kỳ phong kiến là "sự tuỳ tiện của các ông vua"2 mà thôi. Có chăng sự bình đẳng trong xã hội phong kiến là sự bình đẳng trong ban phát của vua đối với tầng lớp quan lại có công với triều đình. Còn đám dân đen "công bằng" trong sự nghèo đói bởi sưu cao thuế nặng. Còn nếu mắc tội thì vua cũng có cách xử lý rất khác nhau. Thời Trần trong dân chúng đã lưu hành câu: "Tử cái luật nam y" nghĩa là luật pháp khó lòng lọt qua được lọng tía. Trong xã hội phong kiến, công bằng xã hội không được đặt ra.

 

Cách mạng tư sản đã lật đổ chính quyền phong kiến lỗi thời, những quyền lợi của người dân lần đầu tiên được luật pháp ghi nhận. Trong tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 và tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1791 đều khẳng định quyền tự do và bình đẳng của mỗi công dân. trong hiến pháp của hầu hết các nước tư sản quyền và nghĩa vụ của người dân đều được ghi nhận trong chương II. Như vậy, về mặt luật pháp thì quyền và nghĩa vụ của công dân đều được ghi nhận khá đầy đủ. Vậy trong chủ nghĩa tư sản có công bằng hay không? Ta điểm qua một chút về công bằng thể hiện trong quyền chính trị được pháp luật tư sản thừa nhận.

 

ở Pháp sau cuộc cách mạng 1789, để bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản, giai cấp tư sản đã phân biệt hai loại công dân: công dân hoạt động và công dân thụ động. Công dân hoạt động là những người công dân có tài sản có khả năng tri thức, trên 25 tuổi. Những công dân này phải đóng thuế tuyển cử mới được bỏ phiếu.

 

Công dân thụ động là những công dân không có tài sản, thiếu khả năng tri thức, dưới 25 tuổi và người làm công. Những người này không được quyền bầu cử.

 

Đến năm 1841, do sự đấu tranh của nhân dân Pháp, do hiến pháp 1841 quy định, thuế tuyển cử hạ xuống. Do đó số cử tri đông lên rất nhiều.

 

Năm 1847, sự hạn chế tuyển cử dựa trên sự phân biệt công dân hoạt động và công dân thụ động đã bị bãi bỏ. Nhưng vẫn có nhiều hạn chế, chẳng hạn những nữ công dân Pháp không được quyền đi bỏ phiếu.

 

Năm 1944, ở Pháp, nữ công dân mới được quyền bầu cử.

Như vậy, cùng với thời gian, các quyền bình đẳng của công dân phần nào đã được pháp luật tư sản hoàn thiện dần. Vấn đề là các điều kiện để đảm bảo thực hiện các quyền đó đến đâu khi Nhà Nước và pháp luật tư sản bênh vực, bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản. Cần phải nghiên cứu tìm hiểu mới có kết luận khách quan và chính xác.

 

Khi nói về vấn đề công bằng xã hội, lý luận Mác-Lênin đã chỉ rõ, mơ ước của nhân dân lao động về một sự công bằng xã hội chỉ có thể thực hiện khi lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phát triển đúng theo quy luật, khi tư liệu sản xuất và đối tượng sản xuất đã được xã hội hoá. Nói cách khác là khi nào cơ sở vật chất và các quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội đã phát triển, không còn có sự bóc lột thì lúc đó mới có công bằng tuyệt đối. Nói như vậy không có nghĩa là trong khi xây dựng chủ nghĩa xã hội thì không có công bằng. Công bằng trong chủ nghĩa xã hội dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động, làm nhiều hưởng nhiều làm ít hưởng ít. Đó là công bằng thể hiện thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ. Từ thời Arixtốt, vào thế kỷ thứ IV trước công nguyên ông đã khẳng định: công bằng không chỉ là sự phân phối đúng đắn kết quả sản xuất và các của cải khác giữa con người với nhau, mà còn là khả năng mọi người được bình đẳng với nhau về những quyền lợi xã hội và chính trị; lý tưởng bình đẳng trước pháp luật trong khi xây dựng chủ nghĩa xã hội, tư tưởng này đã trở thành khẩu hiệu trong cuộc sống: mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

 

ở Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay khi cả nước đang xây dựng một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì bình đẳng, tự do, công bằng…là những khái niệm gắn liền với dân chủ. Công bằng là một yếu tố, một đại lượng của nền dân chủ, có dân chủ mới có công bằng. Chính vì vậy mà trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 6 đã viết "thực hiện công bằng xã hội"1 và đến Dự thảo cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ đã phát triển thành công bằng xã hội và phát triển dân chủ được bảo đảm2. công bằng xã hội là một trong những mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Từ sau năm 1975, do hậu quả của những năm dài chiến tranh cho nên nền kinh tế rất lạc hậu, mức thu nhập bình quân đầu người rất thấp, gần như thấp nhất thế giới. Với xuất phát điểm như vậy và do những sai lầm nhất định, nên hàng chục năm sau nền kinh tế không phát triển được. Trong khi đó một số chính sách xã hội đề ra nhưng không phù hợp, không tương xứng với nền kinh tế.

 

Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp thứ 3 sau Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Hiến pháp 1980 đã ghi nhận những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân khá đầy đủ và đảm bảo thực hiện bằng một hệ thống cơ quan Nhà Nước và tổ chức xã hội. Nhưng trong thực tế, một số quyền của công dân lại không có điều kiện để bảo đảm thực hiện như quyền có nhà ở, quyền học tập, chữa bệnh…Trong khi Nhà Nước không đủ kinh phí để bao cấp cho tất cả các ngành thì việc đóng góp của nhân dân là điều tất nhiên. Những quy định trên của Hiến pháp đã trở thành ảo tưởng của những nhà làm luật duy ý chí. Trong khi đó Nhà Nước lại bao cấp cho một số cán bộ được hưởng những ưu đãi vượt quá sự đóng góp công sức của họ cho xã hội. Ví dụ: trường hợp những cán bộ có nhiều căn hộ ở nhiều nơi không sử dụng hết. Trong khi đa số cán bộ nhân viên ở những căn nhà cấp 4, diện tích không được bảo đảm và mất vệ sinh. Tình trạng này không phải chỉ là ngoại lệ mà đã trở thành một nạn dịch trong xã hội mà giải quyết chưa thấu tình đạt lý.

 

Công bằng xã hội trong lĩnh vực chính trị là một trong những tiêu chuẩn của xã hội dân chủ. Sự bình đẳng về chính trị cho phép mọi người dân đều có thể tham gia vào quản lý các công việc của xã hội và của Nhà Nước. Những thời gian vừa qua còn có những biểu hiện mất dân chủ hoặc dân chủ nửa vời. Trong khi xây dựng một xã hội dân chủ thì cần phải có những người dân hiểu về dân chủ và biết sử dụng những quyền đó. Vậy mà trình độ dân trí nói chung còn thấp, đó là không kể xấp xỉ 8 vạn người dân mù chữ hiện nay. Trình độ dân trí thấp, trình độ văn hoá pháp lý lại càng thấp và sự thấp kém này cũng tuỳ thuộc vào từng vùng, vào từng địa phương cho nên khả năng thực hiện quyền chính trị ở mỗi nơi một khác. muốn khắc phục được điều này cần phải có chính sách đầu tư thích đáng để nâng cao trình độ dân trí của người dân, đặc biệt là phổ cập phổ thông ở những vùng thuộc các dân tộc và vùng xa xôi hẻo lánh.

 

Trong lĩnh vực kinh tế, các công dân cũng không được bình đẳng thật sự. Trước năm 1980, hầu như chỉ có một thành phần kinh tế độc quyền, đó là quốc doanh với những người hưởng lương của Nhà Nước. Còn các thành phần khác vẫn tồn tại nhưng mặc nhiên là không được thừa nhận. Chỉ có sau năm 1980, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mới được chính thức thừa nhận về mặt pháp lý. Bằng những văn bản luật và những văn bản dưới luật, Nhà Nước đã xoá bỏ được sự bất bình đẳng trong các thành phần kinh tế. Năm 1988, luật đầu tư của Nhà Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời là một cái mốc để cho sự nghiệp mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Nhưng sau hai năm hoạt động luật này đã được bổ sung rất kịp thời và dưới nó có tới 35 văn bản dưới luật. Bên cạnh đó còn có hàng loạt những luật mang tính chất bổ trợ như luật đất đai, luật doanh nghiệp, luật công ty cổ phần…Dựa vào đó mọi cá nhân ở trong và ngoài nước đều có thể phát huy được sự sáng tạo về vốn, về kỹ thuật, nhằm mục đích sản xuất ra nhiều hàng hoá cho xã hội. Đồng thời Nhà Nước cũng có những quy định về chế độ hợp đồng, mức lương tối thiểu của người làm thuê…, để đảm bảo quyền lợi của người lao động. Vấn đề được đặt ra: khi Nhà Nước thừa nhận ông chủ và người làm thuê, người giàu và người nghèo thì chính sách xã hội thế nào để thực sự đảm bảo công bằng? Ngay chính trong khối hành chính sự nghiệp tức là những cán bộ làm công ăn lương cũng còn có sự không công bằng. Vấn đề đảm bảo công bằng trong lương hiện nay là vấn đề cần nghiên cứu sâu hơn, có chính sách cụ thể hơn để tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất ra sức lao động đồng thời tránh được quan điểm cân bằng trong thu nhập.

 

Giai đoạn hiện nay, một trong những khía cạnh được đề cập đến nhiều là vấn đề chống tham nhũng. Quyết định 240 Hội đồng Bộ trưởng về chống tham nhũng là một văn bản pháp lý có ý nghĩa quan trọng. Chỉ khi nào chống tham nhũng một cách thường xuyên, ở mọi ngành mọi cấp và chấp hành triệt để thì mới đảm bảo được sự công bằng trong xã hội theo tư tưởng của Hồ Chủ Tịch: "Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng". Theo tôi, tư tưởng này là một sự khái quát rất đầy đủ về công bằng xã hội và là nguyện vọng của mỗi người dân trong xã hội.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ai có quyền con người, ai quy định và thực hiện các quyền con người trong cuộc sống

-------

 

Trần Ngọc Khuê

Khoa tâm lý xã hội

 

 

I- Quyền con người thực chất thuộc về ai?

 

Quyền con người xét dưới góc độ tâm lý học xã hội là một mối quan hệ xã hội được xác lập bằng pháp luật hay chuẩn mực đạo đức của một chế độ xã hội. Nó phản ánh sự tương quan giữa ước muốn, khát vọng của con người với điều kiện thực tế có thể đáp ứng được hay không, lực lượng khác có cho phép thực hiện hay không. Và xét cho cùng thì phải nói đến cả điều kiện bản thân nó có thể thực hiện được hay không?

 

Bước phát triển mới về vấn đề quyền con người trong tình hình phức tạp và tranh chấp không kém phần gay gắt giữa các thế lực trên thế giới hiện nay buộc chúng ta phải trở về trả lời ba câu hỏi gốc của nó là ai đặt ra quyền cho con người? ai được hưởng quyền con người và ai thi hành quyền con người trong thực tế cuộc sống?

 

Những câu hỏi vẫn có giá trị âm vang hành tinh chúng ta khi các cơ quan CIA của Mỹ đòi được quyền nhòm ngó và nghe trộm bất kỳ nơi nào trên trái đất và vũ trụ nếu họ thấy cần và muốn, khi Hiến pháp Mỹ có sửa đổi điều "đốt cờ Mỹ từ nay không bị coi là phạm pháp" và "chính sách cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam quy định trắng trợn cả tới "mức chi tiêu hàng ngày của người Mỹ đến Việt Nam không được quá 100 đô la v.v… Mỹ còn có một đạo luật được bọn tội phạm ưa thích đó là luật phạm nhân vào tù và ra tù "được hưởng quyền bí mật riêng tư"1. tội ác và tư cách trong tù của bọn cướp trở thành những điều bí mật. Công dân và kẻ bị nạn không được biết chúng cải tạo như thế nào và được thả lúc nào? Quyền kỳ quái này cũng đúng là kiểu Mỹ.

 

Rõ ràng người ta chỉ quy định quyền và sửa đổi quyền cho ai mà họ thấy có lợi ích. Họ không trao quyền cho người không mang lại lợi lộc cho họ. Quyền và lợi ích gắn với nhau là quan hệ có tính quy luật. Hệ thống quyền được thiết lập trên lợi ích của kẻ cầm quyền.

 

Hiến pháp của Nhà Nước Thuỵ Sĩ bảo đảm quyền bí mật nguồn tiền gửi nhà băng cho tất cả mọi đối tượng kể cả những lợi nhuận buôn bán ma tuý và tài sản trộm cướp được. Và đất nước có vẻ "dân chủ nhân quyền nhất thế giới này" đã có cả một nền công nghệ nhà băng rửa trắng những đồng đô la tội lỗi từ khắp nơi trên thế giới chảy về. Có pháp luật nào động đến được những kẻ đồng loã tích cực nhất với bọn tội phạm thế giới này? Các tội phạm trong "hào quang nhân quyền dân chủ" này trả lời trắng trợn: "Đúng vậy nhưng anh hãy chỉ cho tôi một điều luật cấm đoán điều đó" và họ kết luận dứt khoát: "Không có đối lập chính trị. Tất cả các đảng phái trừ Đảng cộng sản đến tham gia chính phủ". Hội đồng liên bang nắm quyền hành pháp nên toà án không cho phép bắt giam chồng của bà Bộ trưởng tư pháp có dính líu đến tổ chức maphia của Thổ nhĩ kỳ và Li băng"1.

 

Phát triển quyền tự do tín ngưỡng ở cuối thế kỷ này. Tiến sĩ thần học Đavít Millkan phụ trách chương trình phát thanh tôn giáo đặt ở ốt –xtrây-lia và một nhóm tín đồ thiên chúa đã nhờ phương tiện của phòng cảnh sát hình sự sở cảnh sát Sydney dựng nên hình ảnh một đức chúa Giê su riêng của họ được Nhà Nước này bảo vệ nhưng liệu trên thế giới ai sẽ chấp nhận chúa Giê su mới này. Điều đó họ không cần tính đến và cũng không ảnh hưởng gì đến quyền tự do tín ngưỡng.

 

Những hiện tượng trên đây chứng tỏ rằng quyền con người về thực chất là những nhu cầu bức thiết của một nhóm xã hội một tầng lớp, một dân tộc nào đó được một chế độ xã hội một nước hoặc luật pháp quốc tế quy định thành văn bản. Nó được ghi vào Hiến pháp, quy định thành luật pháp, chế độ, thể lệ v.v…

 

Cũng một thực tế khác đang diễn ra khắp mọi nơi, nhất là ở thế giới thứ ba và ở hai phần ba số dân thế giới sống mức nghèo khổ là nhiều quyền con người được quy định như vậy nhưng đa số nhân loại không được hưởng với lý do họ không có điều kiện tối thiểu để thực hiện hoặc người ta bỏ mặc họ với quyền con người của họ. Cũng chưa ở đâu trên thế giới này những quyền tối thiểu của con người được quan tâm và tìm cách giải quyết cho đa số như ở các nước XHCN và các nước có chế độ dân chủ nhân dân. Dù cho hiện nay có những tổn thất lớn và có cả sự bóp méo sự thật về quyền con người ở các nước XHCN thì cũng phải thừa nhận một thực tế là hàng chục triệu người lao động bình thường đã được giải phóng nhờ chế độ XHCN để ngày hôm nay họ được bình đẳng và công khai bàn về vấn đề quyền con người, để họ có thực quyền làm chủ thiên nhiên, xã hội và bản thân mình.

 

Sự khủng hoảng ở các nước XHCN và tình trạng không ổn định về nhân quyền và thiếu điều kiện để thực hiện những quyền tối thiểu của con người hiện nay ở nhiều nước một phần đáng kể (nếu không nói là nguyên nhân chính) là do tệ quan liêu xa rời quần chúng đặc quyền đặc lợi và bị tha hoá của tầng lớp cầm quyền gây ra. Việc tranh chấp về quyền con người hiện nay phản ánh rõ ràng sự tranh chấp lợi ích giữa các tập đoàn. Các hãng độc quyền siêu quốc gia có thể vi phạm quyền con người hoặc che dấu bọn tội phạm đối với quyền con người nếu việc đó có lợi cho địa vị cầm quyền hoặc túi tiền của họ.

Nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế được thành lập trong đó cũng không ít người đã tố cáo tình trạng vi phạm nhân quyền ở các nước tư bản hay nhà tù của bọn phân biệt chủng tộc. Một số trong đó cũng đòi hỏi các nước XHCN phải công khai việc thực hiện nhân quyền trong các trại giam bọn tội phạm. Họ tố cáo CNXH vi phạm quyền tự do thân thể đối với bọn tội phạm, vi phạm quyền tự do ngôn luận đối với báo chí, xuất bản, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng đối với hoạt động tôn giáo, lừa phỉnh nhân dân vi phạm quyền tự do biểu tình nói xấu chế độ dân chủ XHCN. Nói chung mục đích của chiến dịch đòi nhân quyền ở các nước XHCN chỉ nhằm làm mất ổn định về chính trị và an toàn xã hội, làm suy yếu sức mạnh cầm quyền và vai trò lãnh đạo của các Đảng cộng sản. Cùng với đa nguyên chính trị, phong trào dân chủ và nhân quyền đã trở thành những vũ khí lợi hại trong chiến lược diễn biến hoà bình của các lực lượng chống chủ nghĩa xã hội.

 

Có thể nói không có chế độ xã hội nào tôn trọng và bảo vệ quyền con người hơn CNXH và cũng chưa có chế độ xã hội nào chà đạp lên quyền con người hơn CNTB và các chế độ xã hội phân biệt chủng tộc, các chế độ người bóc lột người. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng giữa lúc có những "chuyện thật như bịa" và "những chuyện bịa như thật" hiện nay thì việc phân biệt cho được đâu là "nhân quyền thật" đâu là nhân quyền giả cũng không dễ dàng gì.

 

Người dân lao động không có đặc quyền đặc lợi, không có con đường thăng quan tiến chức, phải sống bằng mồ hôi nước mắt của mình và nuôi sống toàn xã hội luôn mơ ước khát vọng hàng ngày về quyền tối thiểu của con người.

 

Dù được quy định vào Hiến pháp hay dư luận xã hội và nếp sống đạo đức hàng ngày chấp nhận thì quyền con người luôn gắn với trạng thái tâm lý của họ trong cuộc sống hàng ngày. ở mức độ nhất định đó chính là sự thoả mãn nhu cầu người lao động, là sự cảm nhận cân bằng tích cực trong tâm lý của họ để phấn khởi làm việc và tái tạo cuộc sống. Chế độ nào bảo đảm cho con người có hoà bình, độc lập, hoà hợp dân tộc, an ninh, dân chủ, tự do, ấm no, hạnh phúc, con người có quyền sống, lao động, thương yêu, tín ngưỡng mà không xâm phạm hay chà đạp lên quyền của người khác thì mới đích thực là chế độ có nhân quyền thực sự. Đó chỉ có thể là chế độ xã hội dân chủ và nhân đạo đích thực. Nếu xét nó là một phạm trù của tính nhân loại như định hướng giá trị tiến bộ cao nhất của loài người thì nó vẫn luôn luôn có giới hạn bởi những giai đoạn phát triển của lịch sử và mang bản sắc của giai cấp thống trị nắm pháp luật cả việc ban bố, thi hành và xử phạt kẻ vi phạm.

 

Như vậy xét cho cùng thì ai được hưởng quyền con người thực sự. Trước hết là những kẻ ban hành quyền con người được pháp chế hoá và khát vọng có thêm những quy ước để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của họ. Những người dân không có điều kiện tham gia vào việc ban bố pháp luật, không có đại diện tham gia thì họ có nhu cầu và thực hiện nó theo nhận thức và thực tế cuộc sống của họ. ở đây có khoảng cách giữa luật pháp của chế độ xã hội và cuộc sống. để rút ngắn khoảng cách đó vai trò của chế độ xã hội quyết định thuộc về đội ngũ cán bộ cầm quyền mà trước hết là lực lượng lập pháp, hành pháp và tư pháp. không có một đội ngũ cán bộ ngành chủ quản nào thực sự đứng trên lập trường quyền con người lao động bị áp bức là trên hết thì mọi quy định về quyền con người sẽ chỉ là mớ giấy lộn. Nếu đại đa số nhân dân không cảm nhận và thực hiện tự giác quyền con người của họ trong cuộc sống hàng ngày thì quyền con người dù quy định rộng rãi, cao siêu và đầy đủ đến đâu cũng không đáng giá một xu.

 

Quyền con người xét cho cùng vẫn chứa đựng ở bên trong tính giai cấp và lợi ích giai cấp. Mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp bao giờ cũng được thể hiện thông qua việc quy định quyền con người và việc thực hiện các quyền đó.

 

II- Làm thế nào để con người có thực quyền và biết sử

 

dụng có hiệu quả quyền của mình trong cuộc sống

 

Đây là một mục tiêu chiến lược của chủ nghĩa xã hội để thực hiện lý tưởng vì con người và cho con người.

 

Từ tuyên ngôn mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc đến việc biến nó thành hiện thực là cả một quá trình phấn đấu lâu dài và đau khổ của nhân loại. có khi nào mục tiêu đó của giai cấp thống trị lại trùng hợp và thống nhất với giai cấp bị trị. Trước đây chúng ta đã thừa nhận là chỉ có dưới chủ nghĩa xã hội mới có sự thống nhất đó nhưng bây giờ thực tế đang bị không ít người phê phán và phủ nhận. Trước đây chúng ta coi nguyên tắc tập trung dân chủ là sức mạnh của chế độ dân chủ XHCN, của tổ chức Đảng và quần chúng, là sự vận động trong thực tế của quyền con người thì bây giờ có không ít nhà lý luận và lãnh đạo đòi bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, đòi phải tập trung hoá, đòi tách dân chủ khỏi tập trung, tách nhân dân khỏi Nhà Nước.

 

Mục tiêu của phong trào dân chủ đòi quyền con người là thực hiện cho được 4 tách rời:

Tách rời quần chúng khỏi Đảng cộng sản.

Tách rời quân đội và công an khỏi Nhà Nước.

Tách rời Địa phương với Trung ương, dân tộc khỏi Liên bang.

Tách rời quyền khỏi nghĩa vụ và trách nhiệm.

 

Đồng thời những kẻ đề xướng và thực hiện phong trào nhân quyền cũng cố

gắng thực hiện 4 hoà nhập:

Hoà nhập chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.

Hoà nhập dân chủ tự do của mọi người với dân chủ tư sản.

Hoà nhập tôn giáo và các Đảng tư sản. (Dân chủ – Thiên chúa giáo ở Đức, Dân chủ – Hồi giáo ở Pa-ki-stăng, Dân chủ – Tin lành ở Mỹ v.v…).

Hoà nhập chính trị vào kinh tế, giai cấp vào nhân loại, quyền lợi và trách nhiệm của các nước lớn, các tập đoàn thống trị…Xét cho cùng thì học thuyết "Vượt trên ngăn chặn" của Buha, các trung tâm thế giới mới với các vùng trung gian và ngoại vi của Mít tơ răng cùng với làn sang văn minh thứ 3 của Alvin Tolfer (do Tiến sĩ Tôn Nữ Thị Ninh giới thiệu). Về thực chất vẫn là đề cao 3 loại quyền lực tối cao hiện nay có lợi cho các tập đoàn giàu có đó là quyền lực sức mạnh tối đa, quyền lực đồng tiền và quyền lực khoa học kỹ thuật. Họ sợ ba loại quyền lực khác có thể đe doạ quyền lực của họ đó là sự giác ngộ cách mạng của quần chúng (họ gọi là lực lượng khủng bố thế giới), sợ mọi người biết rõ sự thật về quyền lực của họ và sợ phải thực hiện công bằng xã hội v.v… Tất cả đều chứng tỏ họ sợ phải thực hiện quyền con người đúng với nghĩa của nó và bảo vệ thứ quyền con người chỉ có lợi cho họ là tầng lớp đang cầm quyền.

 

Lịch sử cũng đã chứng minh rằng không bao giờ giai cấp thống trị tự nguyện

rời bỏ địa vị của mình, do đó muốn con người có thực quyền và đủ điều kiện để thực hiện quyền đó thì trước hết người dân lao động phải giành cho được quyền chính trị, quyền có đại biểu của mình trong các tổ chức lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chính vì vậy mà điều kiện tiên quyết để mọi người dân có thực quyền con người và biết sử dụng có hiệu quả các quyền đó là phải có một chính quyền thực sự của dân do dân và vì dân.

 

Nếu Đảng cộng sản không xây dựng và kiểm soát được hoạt động của một

chính quyền thực sự như thế thì cũng mất luôn cả vai trò lãnh đạo, vị trí cầm quyền và để mất chính quyền của nhân dân vào tay các đảng phái khác, tầng lớp khác.

 

Tiếp theo là phải có luật pháp nghiêm minh, dân chủ và lực lượng thi hành pháp luật đáng tin cậy. Lời dân gian nói rằng "công an không công thì bất an". Điều đó được hiểu theo nghĩa đó là chỗ dựa của dân để thực hiện các quyền con người nói riêng và luật pháp nói chung. Nếu không tấn công bọn tội phạm hình sự thì không có an ninh, không công minh thì cũng không có an ninh, không công phu điều tra nghiên cứu thì cũng không có an ninh và cuối cùng nếu công lao của họ không được đánh giá đúng và đãi ngộ xứng đáng thì cũng không thể duy trì an ninh được. Quyền của con người phải được thực hiện và bảo đảm thông qua những công cụ do người khác đảm nhận. Nếu lực lượng đó bị tha hoá thì quyền con người sẽ biến chất và mất hết ý nghĩa.

 

Ngày xưa chưa có chính quyền của dân, do dân, mọi người mơ ước có một minh quân và một bao công để quyền con người được thực thi trong cuộc sống. Ngày nay yêu cầu về một minh quân và một bao công ấy thuộc về trách nhiệm của Đảng lãnh đạo và Nhà Nước XHCN. Những quy định về quyền con người dưới chế độ XHCN không thể dừng lại trên giấy tờ pháp lệnh mà phải đi vào cuộc sống hàng ngày. Sự gương mẫu thực hiện bao giờ cũng có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người khác. nếu cán bộ, đảng viên không gương mẫu thực hiện những quy định để mọi người thực sưk được hưởng quyền con người thì chính họ đã chà đạp lên quyền con người hoặc do vụ lợi mà bất chấp cả pháp luật, kỷ cương.

 

Việc nâng cao dân trí về quyền con người phải làm từng bước và thiết thực. Cũng như mù chữ thì đứng ngoài chính trị, mù luật thì cũng đứng ngoài nhân quyền và dân chủ. Thế nhưng một thể chế chính trị thật sự dân chủ và nhân đạo lại không được phép coi người mù chữ và mù luật không phải là con người và không được hưởng quyền con người. hướng dẫn họ thực hiện quyền con người ở trình độ thấp là một việc làm khó khăn, nhưng lại hết sức cần thiết hiện nay. Nhiều vùng xa xôi hẻo lánh đang có nguy cơ bị bỏ rơi hoặc để trống. 70 đến 80% dân vùng cao mù chữ hoặc tái mù chữ. Luật pháp cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định cho họ những quyền gì chắc là họ cũng không hiểu hết. Vấn đề trước mắt là phải bảo đảm cho họ quyền sống, quyền lao động sản xuất, tồn tại và phát triển giống nòi. Có sự giúp đỡ thiết thực cho đời sống và phát triển quan hệ kinh tế hàng hoá. Sự thiệt thòi luôn nghêng về phía họ cho nên người lãnh đạo quản lý và thi hành luật pháp phải chú ý điều chỉnh và ngăn chặn những chính sách, những hành vi lợi dụng, những hoạt động phá hoại.

 

Vừa qua chính kẻ thù và bọn lừa đảo đã lợi dụng trạng thái mất niềm tin và khát vọng no ấm của con người để đoạt chính quyền ở các nước Đông Âu và lôi kéo dân vùng cao nước ta đi theo chúa Trời, vua mới mà bỏ cả tổ tiên, ruộng vườn, nhà cửa. Rõ ràng nếu dân trí không được nâng cao và chính quyền ở xa dân không gắn với dân thì thực tế quyền con người vẫn không được thi hành dù ở mức tối thiểu. Khi đó không chỉ bản thân quần chúng nhân dân không được hưởng quyền con người thực sự mà ngay cả những người cầm quyền cũng rơi vào tình trạng làm tay sai và kẻ ủng hộ không công cho quyền con người của một tầng lớp khác, một thế lực khác giàu mạnh hơn.

 

Chính vì vậy mà điều cuối cùng để dân có thực quyền và thực hiện có hiệu quả những quyền đã quy định là các nhà lý luận về nhân quyền cũng như các lực lượng liên quan đến vấn đề quyền con người ở các nước XHCN phải kiên định lập trường nhân quyền của người lao động chân chính, của giai cấp công nhân và nông dân trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất nuôi sống xã hội, tỉnh táo trước mọi mưu toan dùng vũ khí đòi nhân quyền để làm mất ổn định chính trị của chủ nghĩa xã hội. Liên kết lại với nhau để rút kinh nghiệm về những quy định và thực thi quyền dưới chủ nghĩa xã hội. Đổi mới khâu làm luật, ban bố luật, thi hành pháp luật và xét xử hành vi phạm pháp để đưa vấn đề quyền con người từng bước vào cuộc sống hàng ngày dưới chủ nghĩa xã hội, góp phần ổn định kinh tế – xã hội và thúc đẩy con người tích cực xây dựng cuộc sống mới.

 

 

11 - 1990.

 

 

 

 

 

 

Từ thực trạng của tình hình thế giới nghĩ về

vấn đề nhân quyền

-------

 

Nguyễn Trọng Thu

 

 

 

ở đây, có những tập đoàn tư bản kếch sù, nắm hầu hết của cải trong nước, sống trong sự xa hoa tột đỉnh trong khi hàng chục triệu người sống dưới mức nghèo khổ. ở Mỹ, người da đen vẫn bị coi khinh, người da đỏ đang trên đà bị diệt chủng. ở Mỹ Đảng cộng hoà và Đảng dân chủ thay nhau cầm quyền, cả hai đảng đều bảo vệ quyền lợi cho các tập đoàn tư bản khác nhau. Còn Đảng cộng sản, sau nhiều năm bị đặt ngoài vòng pháp luật, nay tuy được hoạt động nhưng bị o ép, bị rằng buộc, bị gây khó khăn về nhiều mặt. Những người tham gia phong trào chống đối chính phủ bị khủng bố, bị bỏ tù. Báo chí nằm trong tay các công ty, các ông chủ tư bản, và chính các công ty, các ông chủ đó dùng tiền tài để nắm quyền "tự do ngôn luận". ở Mỹ, tình trạng tội phạm ngày càng gia tăng, có những vùng hầu như bọn "găngxtơ" làm chủ đến mức các gia đình lương dân phải tự trang bị súng để tự vệ.

 

Mỹ đã ném bom nguyên tử huỷ diệt hai thành phố Hirôsima và Nagađaki, đã định ném bom nguyên tử xuống nhiều nơi ở Liên Xô, đã đưa hơn 50 vạn quân xâm lược Việt Nam, tiến hành một cuộc chiến tranh tàn khốc hiếm thấy trong lịch sử. Mỹ đã xâm lược Grênađa, Panama. Theo lời Côn-bai, một trùm CIA của Mỹ, thì trong những năm giữa thập kỷ 50, khi các lực lượng cộng sản và tiến bộ có cơ giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản ở Italia, thì chính phủ Mỹ đã ra lệnh cho CIA bằng mọi giá phải can thiệp vào tình hình Italia bằng mọi giá giữ vững chủ nghĩa tư bản ở nước đó. Hiện nay, Mỹ đang dùng nhiều biện pháp kinh tế, chính trị buộc Đông Âu, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đi theo quỹ đạo của Mỹ v.v…

 

Thế nhưng Mỹ đang ra sức làm cho nhân dân thế giới hiểu lầm rằng hơn ai hết, Mỹ rất thiết tha với nhân quyền. Và càng trớ trêu hơn, Mỹ đang dùng nhân quyền làm một nhóm đòn đánh vào các nước xã hội chủ nghĩa.

 

ấy thế mà mấy năm gần nay xem chừng Mỹ đã thắng điểm. Đã có những người bị luận điểm nhân quyền của Mỹ lôi cuốn. Dĩ nhiên cũng có không ít người tuy không tin ở Mỹ nhưng tự thấy chưa đủ cơ sở lý luận để bác bỏ. Báo chí của nước ta và nhiều nước trên thế giới đã phanh phui khá nhiều nghịch cảnh, nghịch lý ở Mỹ, đã bình luận khá nhiều về thực chất nhân quyền ở Mỹ, nhưng xem chừng tác động tư tưởng của nó có nơi có lúc chưa thật mạnh. Những tin tức từ Mỹ vọng đi, những câu chuyện về nước Mỹ xuất phát từ bộ máy tuyên truyền khổng lồ của Mỹ đôi khi hình như đã phủ định những bài báo nói trên.

 

Tại sao với thực chất méo mó, phiến diện, với nội dung còn nhiều mặt xấu, mặt hạn chế, nhân quyền kiểu Mỹ vẫn hấp dẫn, lừa mị được không ít người. Theo chúng tôi, ấy là nhờ các điểm "lợi thế" chủ yếu sau đây:

 

Mỹ là một nước tư bản phát triển có nền kinh tế giàu mạnh. Mấy thập kỷ qua, nắm bắt được cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại. Mỹ càng đẩy nhanh sự phát triển kinh tế. Giai cấp tư sản Mỹ giàu lên vượt bậc, những người lao động Mỹ nhờ đó cũng được cải thiện đời sống. Các tầng lớp trung gian, đặc biệt là các tầng lớp trí thức được các tập đoàn tư bản Mỹ chia sẻ cho một phần nhỏ quyền lợi để làm chỗ dựa vững bền. "Phú quý sinh lễ nghĩa", đời sống vật chất của nhân dân được nâng lên tất nhiên có ảnh hưởng tích cực đến các mặt văn hoá, xã hội. Các mâu thuẫn giai cấp do vậy hình như bớt gay gắt hơn, mâu thuẫn giữa nhân dân và những kẻ cầm quyền thống trị cũng vậy. Có thể có những người lao động cảm thấy đã thoả mãn với những gì mà bọn chủ đã ban cho mình.

Là một nước tư bản, Mỹ kích thích tự do cạnh tranh dĩ nhiên dẫn đến cảnh cá lớn nuốt cá bé, khôn sống, vống chết, những người bị tước đoạt lâm vào cảnh cùng cực. Mấy thập kỷ nay, tiềm lực kinh tế của Mỹ đã mạnh lên, với tự do cạnh tranh, những kẻ lắm vốn và "khôn ngoan", những người có "tài làm ăn" dĩ nhiên phất lên được, còn những "cá bé", những kẻ "thất cơ lỡ vận" thì được Mỹ an ủi bằng những chính sách xã hội. thêm vào đó, bằng nhiều biện pháp điều chỉnh như bán cổ phần, xây dựng các hợp tác xã nhân dân, thuê người quản lý các xí nghiệp, các công ty v.v… Mỹ đã tìm cách làm cho người ta có ấn tượng rằng ở Mỹ mọi người có quyền phát huy hết tài năng, ai có tài thì cứ tự do vươn lên, còn kẻ nghèo là do tại số phận, tại sự kém cỏi của bản thân, chứ không phải tại chế độ chính trị – xã hội, tại Nhà Nước Mỹ.

Thể chế chính trị của Mỹ được hình thành đã trên 200 năm. Trong quá trình đó, giai cấp tư sản Mỹ đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, đã xây dựng được Nhà Nước pháp quyền với những thể thức, những cơ chế có lợi cho những kẻ có tiền, những người giàu, thoả mãn những đòi hỏi của cá nhân trong khuôn khổ không làm hại chế độ tư bản. Đồng thời các thế hệ giai cấp tư sản Mỹ cũng đã khắc tô vẽ cho Nhà Nước Mỹ, cho luật pháp Mỹ có bộ mặt dân chủ, dường như đứng trên mọi mâu thuẫn giai cấp, dường như dung hoà và bảo vệ quyền lợi các tầng lớp công dân. Cùng với các biện pháp điều chỉnh kinh tế, giai cấp tư sản Mỹ cũng đã có những biện pháp điều chỉnh hệ thống chính trị, làm cho nó thích nghi với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại.

 

Tuy có những "lợi thế" nói trên, nhưng với chủ nghĩa tư bản, nước Mỹ nói

riêng và các nước phương Tây nói chung không thể nào giải quyết được vấn đề nhân quyền. Chủ nghĩa tư bản tuy hiện đang thu hút được những thành tựu kinh tế, hiện đang thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển, nhưng do tồn tại trên nguyên tắc tự do cạnh tranh, tự do bóc lột lợi nhuận và siêu lợi nhuận cho nên tất yếu phải duy trì áp bức giai cấp. Vòi bạch tuộc của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày càng vươn dài, vươn rộng hút lợi nhuận ở các nước kém phát triển (chỉ riêng ở các nước châu Phi, chúng bỏ ra một vốn thì hiện đang thu được 4 lời) cho nên lỗ hổng của chủ nghĩa tư bản là phải duy trì bóc lột, áp bức dân tộc, tuy hình thức ngày càng tinh vi hơn. Cơ sở tồn tại của chủ nghĩa tư bản là bóc lột, áp bức giai cấp và bóc lột, áp bức dân tộc, vậy thì làm sao có thể giải quyết được vấn đề nhân quyền? Trước câu hỏi này, đã hàng mấy thế kỷ nay, các nhà lý luận của chủ nghĩa tư bản không ai giải đáp được.

 

ở các nước XHCN, điều không thể phủ nhận là hơn ai hết, những người cộng

sản chân chính coi trọng vấn đề nhân quyền, ra sức đấu tranh cho nhân quyền, và hàng triệu người đã hy sinh cả cuộc đời mình cho lý tưởng đẹp đẽ đó. Hàng chục triệu người Xô Viết, bao gồm đảng viên cộng sản và những người dân thiết tha với chủ nghĩa xã hội, đã hy sinh trong chiến tranh thế giới thứ hai cũng vì mục tiêu bảo vệ cuộc sống cho nhân loại, chống thảm hoạ phát xít. ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, cải cách ruộng đất đã đem lại lợi ích kinh tế và chính trị cho nông dân, một bộ phận rất lớn của cư dân. việc quốc hữu hoá đã biến giai cấp công nhân thành những người chủ của các nhà máy, xí nghiệp. Mức sống của nhân dân lao động tuy chưa cao nhưng ở khá nhiều nước xã hội chủ nghĩa nạn thất nghiệp hầu như không có. Tệ đặc quyền đặc lợi vẫn còn, có nơi, có lúc nặng nề nhưng sự phân hoá giai cấp không lớn, nạn người bóc lột, áp bức người không diễn ra trắng trợn, quan hệ giữa người với người diễn biến theo chiều tốt đẹp. Đảng cộng sản - đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nắm độc quyền lãnh đạo nhưng lấy việc liên hệ chặt chẽ với quần chúng làm lẽ tồn tại của mình. Trong các cơ quan Nhà Nước, tệ tham nhũng, tệ quan liêu dĩ nhiên chưa thể quét sạch, có nơi còn nặng nề, nhưng các lực lượng chống tham nhũng, quan liêu đều ở thế mạnh. Còn về sự xa hoa, lãng phí thì chỉ xin lấy một ví dụ để tiện so sánh: ở trong các nước xã hội chủ nghĩa, chưa có một ai chi tiêu 60 triệu đô la như Ních-xơn và 40 triệu đô la như Mác Ga vơn chỉ trong cuộc vận động bầu cử năm 1972 ở Mỹ.

 

Cho nên tỉnh táo trong suy nghĩ, khách quan trong đánh giá, mọi người có thiện chí chắc đều khẳng định rằng ở các nước xã hội chủ nghĩa, mặc dù còn những hạn chế, những non nớt, yếu kém, những vi phạm có lúc nghiêm trọng, nhưng rõ ràng là nhân quyền được tôn trọng.

 

Thế nhưng tại sao ngón đòn nhân quyền do Mỹ và phương Tây tung ra đã thắng điểm ở Đông Âu và cả ở Liên Xô. Theo ý chúng tôi, bên cạnh nhiều lý do đã được nói đến, phải thừa nhận rằng ba điểm "lợi thế" nói ở trên đây của Mỹ lại là ba điểm "bất lợi" lâu nay của các nước xã hội chủ nghĩa.

 

1/ Do không nắm bắt kịp thời cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại, mấy thập kỷ nay kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa phát triển chậm. Tiềm lực kinh tế không mạnh, mức sống của nhân dân nhìn chung thấy hơn các nước tư bản phát triển. "Mạnh vì gạo, bạo vì tiền", kinh tế chưa mạnh thì khó mà nói đến việc bảo đảm nhân quyền ở mức tối đa. Với mức sống thấp, con người chưa thể nghĩ tới việc phát triển toàn diện. Từ khi bùng nổ thông tin, mở rộng quan hệ quốc tế, người dân các nước xã hội chủ nghĩa thấy rõ sự chênh lệch đáng kể so với cuộc sống các nước tư bản phát triển, dĩ nhiên nảy sinh những so sánh, những thắc mắc. (Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng hiện nay số nước tư bản phát triển có mức sống cao chưa nhiều, chỉ mới chiếm khoảng 1/10 số nước trên thế giới. Trên một trăm nước còn lại không phải là xã hội chủ nghĩa vẫn có mức sống thấp, gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế).

 

2/ ở các nước xã hội chủ nghĩa, chưa chú ý đến sự cạnh tranh cần thiết. Không ít nước đã phủ nhận quy luật giá trị, phủ nhận cơ chế thị trường, coi nhẹ việc dùng lợi ích kinh tế kích thích người lao động. Với cơ chế quan liêu bao cấp, chủ nghĩa bình quân biểu hiện nặng nề, người giỏi, người kém nhiều lúc được đối xử ngang nhau. Có nơi, có lúc, có học có tài chưa hẳn được trọng dụng, ngược lại có "ô, dù" là có tất cả, có chức có quyền là có tất cả, thậm chí là đảng viên thì có tất cả. không ít tài năng bị kìm hãm, bị mai một do những nhận thức biệt phái, nông cạn. Chính những điều đó đã gây không ít suy tư, dằn vặt trong các tầng lớp trung gian, đặc biệt là trong trí thức.

 

3/ Chủ nghĩa xã hội mới ra đời ở Liên Xô được hơn 70 năm, ở nhiều nước khác chưa đầy 50 năm. Sự tìm tòi để thường xuyên cải tiến và hoàn thiện thể chế chính trị phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử không được khuyến khích, các nước hầu như rập khuôn nhau theo một mô hình. Đảng cộng sản bao biện, nhiều lúc làm thay công việc Nhà Nước; Nhà Nước pháp quyền không được coi trọng. Cách quản lý đất nước nhiều lúc lý, tình lẫn lộn, luật pháp không được tôn trọng, công bằng xã hội bị vi phạm. Thêm vào đó, cần phải kể đến sự tha hoá của không ít đảng viên cộng sản. Khi đã có chức có quyền, những người này chạy theo những ham muốn cá nhân, quay lưng lại với quần chúng, vi phạm thậm chí phản bội lý tưởng của Đảng. Khi trong bộ máy Nhà Nước, những đảng viên cộng sản chiếm một tỷ lệ cao thì sự tha hoá này gây ra tác hại rất lớn và tất yếu dẫn đến vi phạm nhân quyền.

 

Tình hình nói trên góp phần tạo mảnh đất tốt cho ngón đòn nhân quyền của Mỹ và phương Tây phát huy tác hại. Tuy nhiên, ngón đòn đó áp dụng vào các nước Đông Âu, bên cạnh một số "kết quả" bước đầu, tạo nên những biến động trong hơn một năm qua, hiện đã ngày càng bộc lộ những mặt tiêu cực mà những ai có thiện chí đều phải lo ngại. Đã vang lên ở Đông Âu những nhận xét rằng chính quyền đang chuyển vào tay những nhà độc tài kiểu mới. Hàng triệu người đã lâm vào cảnh thất nghiệp, nghĩa là mất quyền có việc làm. Cũng đã có không ít người vốn dĩ không có thiện cảm với các Đảng cộng sản, đã từng hăng hái tham gia các cuộc biểu tình trong những ngày xảy ra biến động, nay đã nói thẳng rằng với sự cai trị của các thế lực chính trị mới, họ đã bị vỡ mộng. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhiều người đã than phiền, đã phẫn nộ vì đã buộc phải quay về với chủ nghĩa tư bản, mất quyền lựa chọn thể chế chính trị mà họ muốn. Qua các đợt bầu cử tổ chức gần đây ở các nước Đông Âu, nhân dân tỏ ra thờ ơ với việc đi bỏ phiếu vì họ mất lòng tin ở quyền tự do bầu cử, tự do ứng cử. điều rất đáng nói là ở hầu hết các nước Đông Âu, những người cộng sản đang bị phân biệt đối xử, bị miệt thị, bị lăng nhục, bị khủng bố, bị tước việc làm, bị xúc phạm quyền công dân. Đã có những thế lực mưu toan đặt Đảng cộng sản và các phong trào xã hội có xu hướng xã hội chủ nghĩa ra ngoài vòng pháp luật. Nhiều người lương thiện, thực sự trung thành với những tư tưởng tiến bộ đã bị đả kích, bị truy nã về chính kiến, bị đuổi ra khỏi các công sở. Sự mất ổn định bao trùm lên nhiều nước, tội phạm tăng nhanh, các vụ xích mích dân tộc xảy ra phổ biến, quyền được sống bình yên của con người bị đe doạ…

 

Tình trạng trên đã được chính các phương tiện thông tin đại chúng ở các nước Đông Âu và cả của Mỹ và phương Tây thừa nhận. Vậy thì, qua thực tế nói trên, rõ ràng là vấn đề nhân quyền, nếu được nhận thức và xử lý không đúng, sẽ trở thành một vũ khí đánh ngay vào quyền con người.

 

Đã đến lúc cần nhận thức rõ hơn về vấn đề nhân quyền. Không thể hiểu nhân quyền một cách chung chung, càng không thể hiểu nhân quyền theo lối mị dân.

 

Theo Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ thì nội dung nhân quyền gồm quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Theo Tuyên ngôn về nhân quyền và quyền công dân của nước Pháp ban bố sau Tuyên ngôn độc lập của Mỹ khoảng 13 năm thì nhân quyền gồm quyền tự do, quyền tư hữu tài sản, quyền được bảo đảm an ninh, chống áp bức. Bản tuyên ngôn nói trên của nước Pháp cũng ghi rõ: "Tự do có nghĩa là được làm những gì không hại đến người khác. vì vậy, thực thi quyền của từng người bị giới hạn ở chỗ bảo đảm cho các thành viên khác cũng được hưởng các quyền ấy. Các giới hạn đó do luật pháp quy định".

 

Từ những định nghĩa đầu tiên về nhân quyền, khi khái niệm đó chưa bị giai cấp tư sản bóp méo, chúng ta có thể xác định những quan điểm cần thiết về vấn đề nhân quyền.

 

Trước hết cần nhận thức thấy rằng nhân quyền, với đúng nghĩa của nó, chỉ áp dụng đối với những ai mang bản chất của con người. Điều đó có nghĩa rằng đối với những kẻ chà đạp lên con người, phá hoại con người, gây chết chóc đau thương cho con người, những kẻ tuy mang mặt người nhưng hành động như thú vật v.v…thì không thể nói đến nhân quyền.

 

Vấn đề quyền con người phải được xem xét trong mối liên hệ chặt chẽ với những điều kiện cụ thể của đời sống xã hội. quyền con người được quyết định bởi chế độ kinh tế – xã hội và chế độ chính trị. Trong xã hội còn có giai cấp, không thể nói đến nhân quyền chung chung, càng không thể chỉ nói đến nhân quyền cho những kẻ, những thế lực chuyên áp bức giai cấp, áp bức dân tộc. Mọi hành động bóc lột, áp bức những người lao động cần được coi là những biểu hiện vi phạm nhân quyền. Và ngược lại, đấu tranh cho lợi ích chân chính của những người lao động, về thực chất là cuộc đấu tranh cho nhân quyền.

 

Trong từng nước, nhân quyền phải được áp dụng trước hết đối với đông đảo nhân dân lao động, bao gồm công nhân, nông dân và lao động trí óc. ở đâu lãng quên quyền lợi của lợi của số đông, chỉ chạy theo những đòi hỏi của một bộ phận nhỏ trong cư dân, ở đó chưa thể nói đến nhân quyền đúng đắn. Chăm lo cho đời sống của công nhân và nông dân, đưa họ lên con đường văn minh tiến bộ, đó là cách bảo đảm nhân quyền thiết thực.

 

Nhân dân mỗi nước có quyền quyết định số phận của mình, có quyền lựa chọn thể chế xã hội, lối sống riêng, thì nhân dân mỗi nước cũng có toàn quyền quyết định luật pháp của mình, quyết định nội dung và những giới hạn của khái niệm nhân quyền hợp với tình hình thực tế của từng nước. Những đòi hỏi về nhân quyền không thể vượt quá khả năng và tình hình cụ thể của đất nước một khi sự vượt quá đó có cơ gây nên tình trạng hỗn loạn, mất ổn định. Giải quyết vấn đề nhân quyền thoát ly hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước thì sẽ rơi vào chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa hư vô. đặc biệt khi đất nước đang đối mặt với những khó khăn và căng thẳng, vấn đề nhân quyền sẽ gây ra một sự nhạy cảm, và nếu không được định hướng để giải quyết đúng, nó sẽ gây tai hại.

 

Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải quyết được triệt để vấn đề nhân quyền, bởi vì chỉ có chủ nghĩa xã hội mới hy vọng xoá được triệt để nạn áp bức giai cấp và áp bức dân tộc. Tuy nhiên, việc giải quyết tốt vấn đề nhân quyền là cả một quá trình khó khăn, phức tạp và lâu dài. các nước xã hội chủ nghĩa phải nhanh chóng khắc phục những mặt yếu kém, những lệch lạc đã xuất hiện trong quá trình lịch sử và đang tồn tại. Phải đặt lên hàng đầu việc phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân. Đẩy mạnh cạnh tranh xã hội chủ nghĩa, chống chủ nghĩa bình quân, ra sức kích thích và mở đường cho các tài năng phát triển. Xây dựng Nhà Nước pháp quyền, trả lại cho pháp luật tính nghiêm minh và tính hiệu nghiệm của nó. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, khắc phục mọi biểu hiện bao biện, biệt phái, mọi biểu hiện tha hoá của các đảng viên, làm cho Đảng thực sự là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân v.v…

 

Đó cũng là những điều mà Đảng cộng sản Việt Nam đang tiến hành và đã đưa lại cho đất nước những thành quả bước đầu, trong đó có những thành quả về quyền con người…

 

 

 

 

Địa chỉ người viết Hà nội, ngày 6 tháng 1 năm 1991.

Nguyễn Trọng Thu

Tạp chí cộng sản

1 Nguyễn Thượng Hiền

Hà nội.

 

 

 

 

Những biến động quốc tế và hoạt động đối ngoại của ta trong lĩnh vực nhân quyền

-------

 

 

Phạm Ngọc

Vụ trưởng – Bộ Ngoại giao

 

I- Những biến động sâu sắc và mạnh mẽ

 

 

1/ Cách mạng khoa học kỹ thuật đẩy nhanh những thay đổi cơ cấu kinh tế của tất cả các nước. Thế giới bước vào thời kỳ chạy đua về kinh tế gay gắt.

 

Quan hệ quốc tế đang chuyển từ đối đầu trong chiến tranh lạnh sang vừa đấu tranh vừa hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình. Các nước lớn tăng cường hợp tác với nhau nhất là qua cơ chế 5 nước thường trực Hội đồng bảo an liên hợp quốc để giải quyết các vấn đề toàn cầu và khu vực.

Nhân loại đứng trước những thách thức toàn cầu mới trong đó có nhiều vấn đề liên quan đến nhân quyền – xã hội như môi trường, ma tuý, tội phạm xã hội…

 

2/ Các nước xã hội chủ nghĩa đi vào khủng hoảng nghiêm trọng, đang tiến

hành các biện pháp cải tổ kinh tế, chính trị, xã hội.

 

Sự bùng nổ về thông tin đã thúc đẩy nhanh tiến trình dân chủ hoá ở các nước. Sự ra đời của những phương tiện thông tin hiện đại nằm ngoài tầm kiểm soát của các Chính phủ. Tại các diễn đàn quốc tế xu hướng đại đa số các nghị quyết về nhân quyền thông qua bằng consensus cho thấy xu thế các nước, mặc dù trên thực tế có những hành động các khâu đang tiến tới công nhận hoặc phải chấp nhận những khái niệm đồng nhất về nhân quyền.

Trong khi Liên Xô và Đông Âu ca ngợi cải tổ và những biến đổi đang diễn ra và coi đó chính là tiến tới bảo vệ nhân quyền trọn vẹn và đề nghị các nước tích cực tham gia vào thoả thuận quốc tế thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn về nhân quyền đồng thời bổ sung các giá trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nói nhiều về tôn trọng quyền cá nhân trong xã hội thì Cuba tránh bày tỏ quan điểm về quá trình đang diễn ra ở Đông Âu, Liên Xô và khẳng định các nước xã hội chủ nghĩa không có nghĩa vụ phải tự phê bình trước các nước tư bản hoặc kiên quyết chống đế quốc dùng vấn đề nhân quyền can thiệp vào nội bộ.

Tại các diễn đàn quốc tế, tập hợp lực lượng đã khác trước. Việc bỏ phiếu theo khối đã bị phá vỡ. Tập hợp lực lượng ngày nay không theo các liên minh chính trị, quân sự như trước kia mà theo từng vấn đề và lợi ích của mỗi nước. Cơ chế phối hợp xã hội chủ nghĩa hoàn toàn tan rã một năm sau khi sự rạn nứt giữa các nước xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên được bộc lộ trong diễn đàn quốc tế (tại UBNQ 1989). Tại UBNQ năm nay 1990, Ba Lan, Tiệp Khắc đồng tác giả nghị quyết của Mỹ chống Cuba, Bungari và Hungari bỏ phiếu ủng hộ nghị quyết này.

Các nước đế quốc và phản động lợi dụng các nhược điểm, thiếu sót của các nước xã hội chủ nghĩa, tố cáo các nước xã hội chủ nghĩa vi phạm các quyền tự do cơ bản (ngôn luận báo chí, lập hội…) và các quyền chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. qua đó can thiệp vào công việc nội bộ của các nước này, thúc đẩy nhanh quá trình dân chủ hoá mà thực chất là nhằm xoá sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, đòi đa nguyên đa đảng tiến tới xoá bỏ những thành quả xã hội chủ nghĩa ở một số nước. ở những nước Đảng cộng sản còn nắm quyền như Liên Xô, Trung Quốc, Cu Ba, Mông cổ, Nam Tư, Anbani. Các Đảng cộng sản đang đứng trước những thách thức khó khăn, phức tạp. Các nước đế quốc tiếp tục dùng vấn đề nhân quyền cùng với sức ép về kinh tế để thực hiện diễn biến hoà bình.

 

3/ Khái niệm về nhân quyền ngày càng được mở rộng không chỉ bó hẹp

trong các khái niệm về các quyền tự do cơ bản, các quyền liên quan đến chính trị, kinh tế. Thế hệ nhân quyền thứ 3, thứ 4 ngày càng được công nhận rộng rãi. Song song với quyền tự do cá nhân là quyền tập thể, quyền dân tộc tự quyết, được sống trong hoà bình, được hưởng các tiến bộ về khoa học kỹ thuật, được sống trong môi trường trong lành, quyền phát biểu…Sự bùng nổ về thông tin, giai đoạn phát triển mới của cách mạng khoa học kỹ thuật, tính lệ thuộc lẫn nhau, đan chéo và quốc tế hoá ngày càng cao của nền kinh tế đã có ảnh hưởng sâu sắc đến nội dung về nhân quyền làm cho vấn đề này ngày càng mang tính "toàn cầu".

 

II- HOạT độNG đối ngoại

 

 

Trong khi các nước xã hội chủ nghĩa và một số nước khác ít nhiều bị phê phán trên lĩnh vực vi phạm nhân quyền thì ta ít bị đụng chạm nhất. Một mặt các sự kiện vi phạm nhân quyền lớn như Mỹ xâm lược Panama, vụ Thiên An Môn ở Trung Quốc, đàn áp người Palestin ở khu vực Israel chiếm đóng, cuộc khủng hoảng vùng vịnh…đang thu hút sự quan tâm của dư luận quốc tế; mặt khác ta đã giải toả được phần nào các vấn đề của ta như Campuchia, cải tạo ân xá, người ra đi, quan hệ từng bước với Vatican. Nhiều chính phủ Phương Tây, tổ chức phi chính phủ đã thừa nhận những thành tích của ta trong việc bảo đảm quyền lực thực sự của nhân dân.

Quá trình dân chủ hoá ở Việt Nam là do nhu cầu phát triển đất nước và xuất phát từ bài học lớn của Đảng là "sự nghiệp cách mạng là vì dân, do dân".

Cùng với những thắng lợi bước đầu về kinh tế từng bước ổn định đời sống nhân dân ta đã thu được nhiều thành tích trong lĩnh vực nhân quyền trong thời gian qua: Ta có nhiều cố gắng trong việc xây dựng Nhà Nước pháp quyền, ban hành nhiều luật mới nhằm bảo đảm quyền con người, phấn đấu để mọi cá nhân mọi tổ chức sống và hành động theo pháp luật, mở rộng và khuyến khích các quyền tự do dân chủ, tiến hành đổi mới mọi mặt đời sống xã hội.

Vấn đề cải tạo tị nạn, tôn giáo là những vấn đề mà các nước Phương Tây từ trước tới nay thường tập trung mũi nhọn chống ta đã được giải toả ít nhiều ở các mức độ khác nhau. Ta đã thả gần hết số nguỵ quân, nguỵ quyền phải tập trung cải tạo. Ta đang xem xét thả và cho đi Mỹ số còn lại. Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký thoả thuận cho phép số lớn trong số họ sang định cư tại Hoa Kỳ nếu họ muốn.

Ta đã có nhiều cố gắng trong việc phối hợp với HCR và các nước có liên quan để giải quyết vấn đề tị nạn. để thúc đẩy việc giải quyết thực chất vấn đề tị nạn, ta đồng ý chấp nhận cho trở về nước những người hồi hương tự nguyện và cả những người không phản đối hồi hương. Song ta không chấp nhận việc cưỡng bức hồi hương. Nhiều nước, tổ chức quốc tế hoan nghênh chính sách của ta không phân biệt đối xử với người tự nguyện trở về nhưng vẫn bày tỏ lo ngại vì luật của ta vẫn coi việc công dân ra khỏi đất nước là bất hợp pháp.

Về tôn giáo, Nhà Nước ta nhiều lần nêu rõ lập trường của chúng ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng. Việc ta xét xử kịp thời một số vụ án tôn giáo trước đây đã góp phần dẹp bỏ dư luận chống ta về vấn đề này. tuy nhiên còn một số vụ án ta chưa dẹp và xử kịp thời hoặc hiện nay vẫn đang trong quá trình điều tra thường tạo cớ cho bọn phản động nói ta giam giữ tù chính trị, không có tự do dân chủ.

Trong quá trình đổi mới và dân chủ hoá, báo chí phương tiện thông tin đại chúng phát huy vi trò tích cực trong việc đưa ra ánh sáng các trường hợp lạm dụng chức quyền của các viên chức trong các cơ quan hành pháp về các cơ quan thi hành pháp luật, kiên quyết ngăn chặn và trừng trị những hành động lạm dụng quyền hành vi phạm pháp luật đặc biệt là vi phạm quyền công dân.

Về phương diện quốc tế, Việt Nam tham gia 8 Công ước quốc tế về nhân quyền, mới đây nhất là Công ước về quyền trẻ em. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu á và thứ hai trên thế giới gia nhập Công ước này vì chúng ta đặc biệt quan tâm và ưu tiên chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Điều đó vừa thể hiện truyền thống của dân tộc ta vừa nhất quán với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà Nước ta từ trước tới nay. Chúng ta có đầy đủ cơ chế để bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế đối với trẻ em ở nước ta.

Trong năm qua ta cũng đã bảo vệ báo cáo đầu tiên về công ước quyền dân sự, chính trị. Phá vỡ âm mưu của các lực lượng quốc tế phản động muốn lợi dụng lần bảo vệ đầu tiên này của ta để dựng lên một phiên toà quốc tế buộc tội ta vi phạm nhân quyền, lợi dụng nghĩa vụ thành viên công ước nhân quyền của Việt Nam để buộc Việt Nam thay đổi chính sách đối nội và đối ngoại, thay đổi những thể chế chính trị và pháp lý, kích động đa nguyên chính trị, tự do ngôn luận tiến tới thực hiện "diễn biến hoà bình" như ở Đông Âu. Thông qua lần bảo vệ báo cáo này chúng ta tranh thủ giới thiệu được chủ trương và luật pháp của ta, quyết tâm đổi mới toàn diện của ta, kể cả đổi mới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xây dựng một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chân chính, Nhà Nước thực sự là của dân, do dân và vì dân trong khuôn khổ các nguyên tắc pháp chế.

 

III- nhận xét chung

 

 

1/ Trong hoạt động đối ngoại vừa qua và đặc biệt trong bối cảnh thế giới thay đổi sâu sắc, phức tạp, nổi lên các vấn đề ta cần tiếp tục nghiên cứu để xác định thái độ, lập trường đặc biệt về những khác biệt cơ bản giữa các khoản công ước quốc tế về nhân quyền mà ta tham gia với các quy định trong luật pháp Việt Nam, nói cách khác là mối quan hệ giữa luật quốc gia và công ước quốc tế mà ta tham gia.

 

2/ Vấn đề tổ chức thực hiện các cam kết của ta đối với các công ước quốc tế ngày càng trở nên phức tạp. Tình hình biến đổi nhanh và phức tạp đòi hỏi có sự nhạy bén cao, sự bình tĩnh và xử lý quan hệ quốc tế một cách tỉnh táo khôn khéo nhất là trong đấu tranh đối ngoại về nhân quyền vì đây là vấn đề tế nhị, xúc cảm, dễ gây tác động mạnh đến dư luận thế giới, tránh bị cô lập trong khi thế giới đang có chiều hướng tăng hợp tác giải quyết những vấn đề nhân quyền, nhân đạo xã hội.

 

3/ Ta cần nghiên cứu hợp tác tích cực hơn với các nước về các lĩnh vực nhân quyền có tính toàn cầu: bảo vệ môi trường sống, chống ma tuý, tội phạm. Vừa qua ta chưa tham gia thực chất trong Hội nghị chống tội phạm ở Cu Ba và Hội nghị chống ma tuý ở Bắc Kinh.

 

4/ Trong khi các nước xã hội chủ nghĩa khác bị khủng hoảng nghiêm trọng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đầu tiên trong công cuộc đổi mới. Tình hình đó đặt cho ta có một vị trí đặc biệt trong sự nghiệp đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bảo đảm quyền có nhà ở của con người trong quá trình đô thị hoá ở Việt Nam hiện nay

-------

 

 

Chu Hồng Thanh.

 

Xây dựng, phát triển nhà ở và trình độ đô thị hoá phản ánh thực trạng kinh tế xã hội của một quốc gia, phản ánh mức sống thực tế của một nước, và thể hiện trònh độ phát triển của quyền con người. Dẫu quá trình xây dựng nhà ở và đô thị hoá phát triển giả tạo, không đúng quy luật sẽ gây nhiều rối loạn trong kinh tế và đời sống, phá hoại môi trường sinh thái, đình trệ sản xuất, vi phạm nghiêm trọng đến những vấn đề cơ bản của quyền con người.

 

Nhà ở và đô thị hoá là vấn đề nhân quyền có tính chất quốc tế. Hiện nay dân số thế giới là 5,3 tỉ người, trong đó số dân đô thị hoá khoảng 1 tỉ, chiếm 18,8%. Theo thống kê và dự báo của Liên Hiệp quốc, năm 1960 trên thế giới có 4 thành phố có quy mô dân số lớn hơn 10 triệu người (lớn nhất là Niu-Ước có 14,2 triệu dân). Nhưng năm 1980 đã có 7 thành phố lớn hơn 10 triệu người (lớn nhất là Tokyo 17,7 triệu). Dự báo đến năm 2000 sẽ có 22 thành phố số dân lớn hơn 10 triệu người (lớn nhất sẽ là Mexico 25,8 triệu người). hiện nay đã xuất hiện khái niệm về thành phố cực lớn. Dự báo năm 2000 sẽ có 20 thành phố cực lớn trong thuộc các nước đang phát triển, trong đó có 16 thành phố thuộc Châu á. Người ta đang quan tâm nhiều đến vấn đề nhà ở, chất lượng sống và môi trường bảo đảm những quyền cơ bản của con người.

 

ở Việt Nam, Đảng, Nhà Nước và nhân dân ta có nhiều cố gắng đầu tư xây dựng nhà ở và phát triển đô thị. Trong khoảng 30 năm qua, hàng năm Nhà Nước giành 10% ngân sách cho xây dựng nhà ở, năm cao nhất là 12%. Trong hoàn cảnh kinh tế nghèo nàn lạc hậu, đời sống gặp nhiều khó khăn, cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém, tỷ lệ đầu tư trên đây chứng tỏ một sự quan tâm hết sức lớn. Đến nay quỹ nhà ở cũng tăng lên hơn trước rất nhiều. Vài năm gần đây tốc độ xây dựng và cải tạo nhà ở trong các đô thị tăng lên một cách không ngờ. Trong hơn 30 năm qua, Nhà Nước và các Bộ, ngành đã ban hành hơn 100 văn bản pháp lý các loại thuộc các quan hệ khác nhau của vấn đề nhà ở: đầu tư xây dựng, quản lý, phân phối, sử dụng…Những cố gắng của Nhà Nước và nhân dân ta đã góp phần cải thiện một phần những khó khăn về nhà ở, đáp ứng một trong những nhu cầu trọng yếu của quyền con người. Hiện nay ở nước ta có khoảng 500 điểm dân cư đô thị hoá với số dân 19 triệu người, chiếm 19,77% dân số toàn quốc. Cùng với việc mở rộng và cải tạo các đô thị mới, trở thành những trung tâm công nghiệp, dịch vụ thu hút hàng triệu người lao động vào các trung tâm ấy.

 

Tuy nhiên vấn đề quyền có nhà ở trong các đô thị ở Việt Nam hiện nay vẫn đang là vấn đề cực kỳ gay gắt, căng thẳng nhưng chưa có biện pháp và phương sách giải quyết hữu hiệu. Ngoài 5 thành phố có tiềm năng đáng kể để phát triển kinh tế và đời sống, các đô thị ở Việt Nam hầu hết có chất lượng sống thấp, công trình kiến trúc đô thị và nhà ở kém cả về chất lượng và số lượng, xây dựng tuỳ tiện, đơn điệu, đường phố hẹp và ngập úng, tiêu chuẩn cấp nước và tiện nghi sinh hoạt kém…đặc biệt vệ sinh môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi khói bụi, nước thải, rác thải ứ đọng…theo số liệu điều tra đến nay có khoảng 50 loại chất thải vào môi trường có hàm lượng độc hại làm tồn hại đến nghiêm trọng đến sức khoẻ con người. chỉ riêng ở khu vực nhỏ quanh nhà máy điện Ninh Bình, với khói và bụi than, trong 3312 người khám sức khoẻ thí nghiệm có 319 mắc bệnh phế quản, 42 bệnh phổi, 311 mắc các bệnh hô hấp khác, 407 …tự sửa chữa lớn và đồng bộ. Tình trạng thiếu nước, mất điện, ngập úng, bụi bặm, ồn ào, bẩn thỉu…còn phổ biến và thường xuyên diễn ra. Trị an xã hội phức tạp đe doạ an ninh cá nhân…Tất cả những yếu tố đó ảnh hưởng nghiêm trọng và trực tiếp đến quyền con người.

 

Từ thực tế tình hình phát triển nhà ở và xây dựng đô thị có thể sơ bộ rút ra một số nhận xét sau đây:

Tốc độ đô thị hoá và xây dựng nhà ở không kịp với tốc độ tăng dân số đô thị tất yếu sẽ dẫn tới sự xuống cấp chất lượng sống của con người ở các đô thị. Tình hình nhà ở đô thị gay gắt do sự tăng dân số tự nhiên và cơ học với tỷ lệ quá cao. Tình trạng cư trú bất hợp pháp, không có công ăn việc làm, và các tệ nạn xã hội ngày càng phát triển ảnh hưởng nghiêm trọng tới an toàn xã hội và an ninh cá nhân. Số lượng người không có công ăn việc làm ở các đô thị diễn ra trên quy mô khá lớn, ở thành phố Hồ Chí Minh có đến 50.000 người, Hà nội 39.000 người, Hải Phòng 10.000 người, Cần Thơ 18.000 người. Trong nhiều thành phố, số hộ thiếu nhà ở lên tới 20-30%, thiếu nghiêm trọng là 10%. Số nhà ổ chuột, nhà trên kênh rạch, bờ đê, chân cầu, nhà tạm bằng vật liệu dễ cháy…chiếm tỷ lệ 10-11%.

Nhà ở được đầu tư xây dựng bằng ngân sách Nhà Nước phát huy hiệu quả không cao. Nhà ở xây dựng kích thước nhỏ và xấu, công trình phụ chật hẹp, không có chỗ để xe, phơi quần áo, chỗ học và chơi cho trẻ em, chất lượng xây dựng không bảo đảm, nhất là chất lượng hoàn thiện. Tình trạng thấm, dột làm hư hại công trình và vi phạm các tiêu chuẩn, sử dụng công trình gây bất tiện và thậm chí đe doạ nguy hiểm cho con người. các khu nhà ở xuống cấp rất nhanh, ngân sách Nhà Nước không đủ để sửa chữa, cải tạo, nhiều công trình mới xây dựng đã hỏng.

Đối tượng được Nhà Nước cung cấp nhà ở rất hạn hẹp và hết sức không công bằng. ở đô thị chỉ có cán bộ công nhân viên Nhà Nước mới thuộc diện có khả năng được cung cấp nhà ở. Trong thực tế nhiều nhu cầu nhà ở thực sự là chính đáng đã không được đáp ứng. Để có một căn họ có khi phải mất 10 năm-20 năm. Thậm chí có những trường hợp về hưu vẫn không có nhà ở vì những lý do nào đó, như xáo trộn về tổ chức chẳng hạn. Khoảng 90% dân số đô thị không được Nhà Nước cung cấp hoặc tài trợ về nhà ở. Việc dùng vốn ngân sách để xây dựng nhà ở và phân phối theo kiểu "ban ơn" đã tạo ra sự không công bằng trong xã hội, tạo ra sự căng thẳng trong chế độ phân phối nhà ở, cuộc "chiến tranh nhà ở" diễn ra gay gắt ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền có nhà ở của con người.

Hệ thống sinh thái, vấn đề môi trường và hình thức kiến trúc nhà ở đô thị không bảo đảm đầy đủ quyền con người và đời sống dân cư. Giao thông quốc gia và mạng lưới giao thông đô thị không đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của kinh tế đời sống. Đường sá chật hẹp, hư hỏng chậm được sửa chữa, tốc độ xây dựng đường sá và giao thông công cộng không đáng kể so với tốc độ tăng lên của dân số, của ôtô, xe máy, xe đạp… Tình trạng đó đã gây nhiều ách tắc, tai nạn cho con người. Hệ thống cung cấp năng lượng thấp nhưng lại không ổn định và quản lý không chặt chẽ gây thất thoát nghiêm trọng. Hiện tượng lãng phí và tổn thất điện lên tới 40%. Tổng sản lượng điện bình quân cung cấp là 80kw/ giờ một người, trong khi đó ở các nước đang phát triển là 2000-5000kw. Điện dùng cho sinh hoạt đun nấu trong gia đình mới chỉ bảo đảm 30% dân số thành phố lớn, còn đại bộ phận vẫn dùng dầu lửa, củi gỗ và những chất đốt truyền thống, ảnh hưởng nghiêm trọng đến xinh thái và ô nhiễm môi trường. Hiện nay nước ta có 15 loại rừng nhiệt đới có giá trị cảnh quan và môi trường. Theo tính toán, hàng năm các đô thị khai thác khoảng 40 triệu m3 gỗ để xây dựng và làm chất đốt. Cứ tốc độ ấy thì năm 2000 ở Việt Nam sẽ không còn rừng nữa. Hệ thống thoát nước và vệ sinh môi trường cũng là vấn đề cấp bách hàng đầu cho con người ở đô thị. Hệ thống thoát nước hiện nay là hệ thống cống chung, không hoàn chỉnh và nước bẩn không được xử lý. Nhiều kêch rạch ở đô thị như Tham Luông, kênh đôi (thành phố Hồ Chí Minh), Tô lịch, Kim ngưu, Lừ (Hà nội) bị ô nhiễm nghiêm trọng. Tình trạng nhà dân tự xây dựng những cống rãnh và công trình vệ sinh không bảo đảm cũng là nguyên nhân gây mất vệ sinh đô thị nghiêm trọng. Tỷ lệ dân số có hố xí tự hoại ở Hà nội là 74%, thành phố Hồ Chí Minh 64%, Hải phòng 15%, Đà Nẵng 62%…Đó cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường và mất vệ sinh đô thị đáng kể. Về thẩm mỹ đô thị và khu dân cư, trừ các biệt thự dành cho người nước ngoài, đại sứ quán và một số người có địa vị xã hội cao, các khu nhà tập thể chưa khu nào hoàn thiện và đạt yêu cầu về mỹ quan. Tình trạng lấn chiếm, cơi nới chung đụng các công trình phụ, lối đi chật hẹp…gây tình trạng mất đoàn kết, cuộc sống xã hội phức tạp, ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của con người ở đô thị

 

Từ những nhận xét trên đây về quyền con người trong quá trình đô thị

hoá và phát triển nhà ở, chúng tôi đề nghị:

 

Một là: cần đánh giá lại toàn bộ hệ thống nhà ở đô thị toàn quốc một cách

tổng quát, bao gồm cả điều kiện tự nhiên cơ sở hình thành và phát triển, hạ tầng kỹ thuật, các công trình kiến trúc và công nghiệp, hệ sinh thái, môi trường, điều kiện sinh hoạt dân cư…Từ đó có cơ sở để quy hoạch và phát triển đô thị, xây dựng nhà ở đô thị một cách hợp lý nhất. Xem xét điều chỉnh và xác lập các quy hoạch tổng thể, dài hạn và ngắn hạn về đô thị và phân bố dân cư.

 

Hai là, xoá bỏ nhận thức cũ trước đây cho rằng phát triển nhà ở đô thị, chỉ là

trách nhiệm của Nhà Nước và chủ yếu được thực hiện bằng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách. Tuy nhiên Nhà Nước phải tạo mọi điều kiện thuận lợi về luật pháp, chính sách và vật chất để con người trong xã hội Việt Nam có thể thực hiện được quyền có nhà ở của mình. Xoá bỏ quan liêu bao cấp trong lĩnh vực nhà ở và quản lý đô thị, chuyển phương thức quản lý nhà ở theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa có nghĩa là phải coi nhà ở là một loại hàng hoá đặc biệt, được mua bán, chuyển nhượng và cho thuê theo giá trị của nó. Muốn vậy, phải xoá bỏ tình trạng phân phối theo đặc quyền, cho thuê nhà bao cấp giá rẻ thiếu công bằng trong vấn đề nhà ở.

 

Ba là: bảo đảm sự quản lý thống nhất của Nhà Nước và tăng cường pháp chế

trong việc điều chỉnh các quan hệ về nhà ở đô thị. Nhà Nước cần thực thi pháp luật thống nhất để quản lý nhà ở, quản lý đô thị và môi trường, sinh thái, coi trọng xây dựng hệ thống luật lệ quy tắc, tạo các cơ sở pháp lý để quản lý, điều chỉnh và xử lý các quan hệ về quy hoạch, đầu tư xây dựng, phát triển, nâng cấp, sửa chữa, mua bán nhà ở, giải quyết đúng đắn và kịp thời các tranh chấp về nhà ở, bảo đảm công bằng về nhà ở trên cơ sở pháp luật.

 

Bốn là: để bảo đảm quyền con người về vấn đề nhà ở, Nhà Nước cần có

chính sách thích hợp để giải quyết nhà ở cho những người có thu nhập thấp, các gia đình thương binh, liệt sĩ, khó khăn về nhà ở, nạn nhân chiến tranh và những người thuộc diện hưởng các chính sách bảo trợ xã hội khác. hiện nay trong số 15.000 thương binh nặng thì khoảng 9.000 chưa có chỗ ở vững chắc, trong đó khoảng 2.000 người phải cấp bách sửa chữa nhà cửa để có chỗ ở thực sự. Có những thương binh nặng sau khi đã điều trị, ổn định vết thương có nguyện vọng muốn về ở với vợ, con, gia đình, nhưng cũng chỉ vì lý do nhà cửa tồi tàn nên không về được. Nguồn tài chính Nhà Nước dùng để trợ giúp có thể được huy động từ nhiều nguồn vốn khác nhau: vốn đầu tư tập trung của Nhà Nước, nguồn lãi do kinh doanh nhà, trợ giúp của các tổ chức quốc tế, xổ số kiến thiết, liên doanh chia lãi, điều tiết giữa người giàu và người nghèo, sự giúp đỡ của các tổ chức từ thiện, phát triển sản xuất vật liệu xây dựng cho nhà ở rẻ tiền v.v…

 

Năm là: đổi mới quy trình quy phạm, tiêu chuẩn, nội dung và phương pháp

thiết kế, quy hoạch nhà ở, chú ý xây dựng hạ tầng kỹ thuật. Lập các dự án đầu tư hợp lý để gọi vốn xây dựng nhà ở từ trong và ngoài nước. Nhà Nước cần pháp luật hoá các quan hệ về quyền và trách nhiệm với các tổ chức và cá nhân nước ngoài có quan hệ đầu tư để xây dựng kết cấu hạ tầng và nhà ở đô thị, bảo đảm thực hiện các quan hệ lợi ích.

 

Sáu là: xây dựng hệ thống cơ quan quản lý đô thị và nhà ở đô thị từ trung

ương đến địa phương, xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà Nước về nhà ở đô thị, bảo đảm công bằng và quyền con người về nhà ở, phát triển sự nghiệp xây dựng nhà ở đô thị.

 

12.1990

bảo đảm quyền con người trong đấu tranh

Chống tội phạm

-------

 

 

Vũ Đức Khiển

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân

thành phố Hà nội

 

 

Khi nói về đấu tranh chống tội phạm trong tất cả các quốc gia văn minh hiện nay không thể không đề cập đến việc bảo đảm quyền con người. Khẳng định điều đó là hoàn toàn đúng đắn vì hai lẽ sau đây:

 

Một là, trong tổng số tội phạm xảy ra ở các nước có nhiều vụ xâm phạm đến quyền con người. Đấu tranh với tội phạm ấy là bảo vệ quyền con người. Tuy pháp luật xã hội chủ nghĩa pháp luật của các giai cấp bóc lột có bản chất giai cấp khác hẳn nhau nhưng cả hai loại ấy đều có một số quy định giống nhau trong luật hình sự về bảo đảm quyền con người trong khi tiến hành tố tụng hình sự.

 

Hai là, trong bất kỳ Nhà Nước nào khi tiến hành tố tụng hình sự người ta không thể không quan tâm đến bảo đảm quyền con người. Các Mác đã từng nhắc nhở rằng, không thể vì một người nào đó đã cắt đứt một mối quan hệ với Nhà Nước mà Nhà Nước có thể cắt đứt tất cả mối quan hệ với người đó, Nhà Nước phải coi người phạm tội là một công dân của mình, là một thành viên của gia đình và sự tồn tại của gia đình là sự thiêng liêng đối với mỗi người1. Đương nhiên cũng cần…người dân nào ở nước ta cũng đã được bảo đảm về mặt luật pháp là không bị truy tố trước pháp luật về hành vi mà Bộ luật hình sự không quy định thành tội phạm. tìm hiểu công tác điều tra, truy tố và xét xử trước khi có Bộ luật hình sự sẽ càng thấy rõ ý nghĩa to lớn của những quy định trên đây đối với việc bảo đảm quyền con người trong đấu tranh chống tội phạm ở nước ta.

 

Theo số liệu thống kê, trong những năm đầu của những năm 80 hàng năm có đến 20% trong tổng số người đã bị khởi tố bị can nhưng sau đó cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát lại ra quyết định miễn tố đối với họ. nhiều người bị bắt tạm giam sau đó được tạm tha rồi bỏ quên luôn. trong số những người được miễn tố hay tạm tha ấy đã có không ít những người bị hạn chế các quyền tự do dân chủ một cách trái pháp luật, hay nói cách khác là quyền con người của họ đã bị xâm phạm. có thể khẳng định rằng, chừng nào chưa có Bộ luật hình sự và Bộ luật ấy chưa được thực hiện nghiêm chỉnh thì cũng chưa bảo đảm một cách chắc chắn quyền con người trong đấu tranh tội phạm. Đề cập đến việc thực hiện nghiêm chỉnh Bộ luật hình sự không thể không nói về Bộ luật tố tụng hình sự. Hai năm thi hành Bộ luật tố tụng hình sự ở nước ta đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trên lĩnh vực bảo đảm quyền con người trong đấu tranh tội phạm. Trước hết phải nói đến những quy định hết sức tiến bộ trong Bộ luật tố tụng hình sự mà Nhà Nước ta đã tiếp nhận thành tựu của nền khoa học pháp lý văn minh của nhân loại về bảo đảm quyền con người trong đấu tranh chống tội phạm. Trong số những điều ấy phải kể đến một số điều rất quan trọng dưới đây trong Bộ luật tố tụng hình sự của nước ta.

 

1- Điều 10 với nội dung ghi rõ "Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật". Thực hiện nghiêm chỉnh điều luật này sẽ làm cho nhiều người chẳng may "rơi" vào "vòng quay" tố tụng hình sự bớt đau khổ. Theo điều luật này thì cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không có quyền coi người nào đó là có tội rồi miễn tố cho họ nữa. hiện nay trong các cơ quan tiến hành tố tụng chưa có sự nhận thức thống nhất về điều luật trên đây. So sánh tình trạng và điều kiện giam giữ của người bị tạm giữ, tạm giam với người đang thi hành án phạt tù giam sẽ thấy rõ điều đó. Chế độ ăn uống quá thấp kém dẫn đến nhiều người bị tạm giam đã suy kiệt, buồng giam giữ quá chật chội, mất vệ sinh dẫn đến tình trạng nhiều người bị tạm giam ốm yếu, bệnh tật. Mặc dù những người bị tạm giữ, tạm giam chưa bị coi là có tội nhưng mọi chế độ, chính sách đối với họ lại khắt khe, nghiêm ngặt hơn là những người đã mang bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Phải thẳng thắn nói rằng, để tồn tại sự bất công, không hợp lý này là vi phạm quyền con người. Bởi vì đã có nhiều người bị giam giữ nhưng sau đó lại được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án tuyên bố là không có tội. Trong tổng số người bị đưa ra xét xử thì số người được Toà án tuyên bố không có tội năm 1988 chiếm tỷ lệ 1,6%, năm 1989 chiếm tỷ lệ 1,2% và tháng đầu năm 1990 chiếm tỷ lệ 1,1%.

 

2- Điều 11 quy định: Các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Điều luật này có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo đảm quyền con người trong đấu tranh chống tội phạm. về nguyên tắc nó nghiêm cấm những hành vi xâm phạm quyền con người như truy ép, bức cung, tra tấn dùng nhục hình đối với bị can. Trong thực tế đã có không ít người bị coi là "ngoan cố", "thiếu thành khẩn" và do đó đã bị hạn chế quyền tự do dân chủ một cách hết sức nghiêm ngặt, thật là một điều vô cùng phi lý và vi phạm quyền con người một cách cực kỳ thô bạo khi đã bắt giam một người nào đó rồi lại còn buộc họ chứng minh là mình vô tội hoặc làm rõ tội phạm. nhiều người đã có hành động tiêu cực khi lâm vào tình cảnh bi cực ấy. Chính vì thế mà điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự quy định dứt khoát là: "Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết giảm nhẹ của bị can, bị cáo". ở đây xin lưu ý thêm là điều luật này còn nói rõ chỉ được áp dụng các biện pháp hợp pháp chứ không phải là mọi biện pháp.

 

3- Các điều 62, 63 và 64 quy định cụ thể về việc bắt giam người trong các trường hợp bình thường, khẩn cấp và quả tang cũng có tác dụng rất lớn trong việc hạn chế bắt giam người một cách tràn lan, việc lạm dụng tình trạng khẩn cấp để bắt giam người dẫn đến vi phạm quyền tự do dân chủ của họ. Số liệu thống kê cho thấy, trong những năm trước khi thi hành Bộ luật tố tụng hình sự trong tổng số người bị bắt quả tang và khẩn cấp chiếm tỷ lệ hơn 90%. Trong khi đó ở các nước anh em tỉ lệ này khoảng 25%. Điều đáng quan tâm nữa là trong số người bị bắt giam chỉ có chừng 30% bị đưa ra xét xử, phần đáng kể trong số còn lại bị bắt oan. Rõ ràng đây là hiện tượng vi phạm quyền con người cần được nhanh chóng khắc phục. Tình trạng bắt giam người trong năm 1989 và 1990 sau khi thi hành Bộ luật tố tụng hình sự có khá hơn trước, do có điều 63 quy định chặt chẽ các trường hợp bắt khẩn cấp nên trong tổng số người bị bắt giam thì số người bị bắt khẩn cấp năm 1989 chiếm tỷ lệ 22,1%, trong 9 tháng đầu năm 1990 là 23,4%. Tỷ lệ này tuy có giảm so với mấy năm trước đây nhưng vẫn chưa phải là thấp. Những vụ lạm dụng trường hợp khẩn cấp để bắt giam người vẫn xảy ra.

 

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tội phạm tất nhiên phải có việc bắt giam người, việc khám xét người và nhà ở, thư tín…Nhưng Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định cụ thể, chi tiết những căn cứ để các cơ quan và những người tiến hành tố tụng được phép thực hiện các biện pháp trên. chỉ có thể thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh những quy định ấy mới bảo đảm chắc chắn quyền con người trong đấu tranh chống tội phạm ở nước ta.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Vấn đề bảo đảm quyền con người trong đấu tranh

Chống tội phạm

-------

 

 

Đại tá Tô Quyền

Cục trưởng Cục cảnh sát QLCTPN

 

 

Dưới chế độ ta con người sinh ra được hưởng quyền tự do, bình đẳng, được tôn trọng, được bảo vệ, được phát triển tự do với tư cách là chủ thể của xã hội, được cống hiến tài năng, trí tuệ của mình cho xã hội, cho đất nước và nhân loại v.v…Nhà Nước, xã hội, đoàn thể gia đình và các cá nhân khác trong cộng đồng phải có trách nhiệm tôn trọng tạo mọi điều kiện để con người được hưởng quyền năng đó.

 

Ngăn cản, chống đối thô bạo không cho con người được thừa hưởng quyền của con người là tội phạm. tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự của Nhà Nước ta, do con người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm chế độ Nhà Nước xã hội chủ nghĩa, chế độ kinh tế và sở hữu xã hội chủ nghĩa, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự xã hội chủ nghĩa.

 

Cuộc đấu tranh chống tội phạm cực kỳ phức tạp và có quan hệ đến sự mất còn của chế độ ta: luôn luôn phải tìm rõ bản chất của sự vật, không được lẫn lộn giữa bản chất và hiện tượng của mỗi hành động tội phạm xấu xa đó là việc làm thể hiện tôn trọng con người. Bảo đảm quyền con người là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình đấu tranh chống tội phạm.

 

Đấu tranh chống tội phạm là trách nhiệm của các cơ quan Nhà Nước, các tổ chức xã hội và tất cả mọi công dân. Công an là lực lượng vũ trang, là công cụ chuyên chính trọng yếu của Nhà Nước trong cuộc đấu tranh chống tội phạm bảo vệ nền an ninh chính trị và trật tự xã hội của chế độ ta.

 

Trong đấu tranh chống tội phạm ngành Công an luôn luôn coi trọng công tác phòng ngừa tội phạm. Phòng ngừa tội phạm là xoá bỏ những sơ hở, những điều kiện mà kẻ phạm tội có thể lợi dụng thực hiện hành vi phạm tội của mình.

 

Phòng ngừa tốt là không để xảy ra phạm tội, chủ động tấn công tội phạm, điều tra, khám phá, kết luận xử lý nhanh là tạo điều kiện cho công tác phòng ngừa tội phạm.

 

Phòng ngừa tội phạm được làm tốt là sự yên ổn của trật tự xã hội, là hạnh phúc của từng gia đình, chủ động ngăn ngừa không để hành vi thô bạo xâm phạm đến tự do, mưu cầu hạnh phúc của từng cá nhân trong cộng đồng.

 

Phòng ngừa tội phạm trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng nhiều biện pháp. phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc trong từng cơ quan, từng xí nghiệp, từng khu phố thu hút quần chúng tham gia đấu tranh chống tội phạm. Bằng các hệ thống thông tin, tuyên truyền trong nhân dân ý thức chấp hành pháp luật, tuân thủ quy tắc trật tự an toàn xã hội v.v…

 

Bằng tổng hợp các biện pháp làm cho mỗi người thấy vị trí của mình, xác định trách nhiệm của mình trong việc phòng ngừa tội phạm. Đó cũng là chủ động bảo đảm quyền của mỗi con người trong xã hội, bảo đảm quyền con người trong đấu tranh chống tội phạm.

 

Bảo đảm quyền con người còn được thể hiện trong điều tra, khám phá, phát hiện tội phạm. Quá trình điều tra, khám phá, phát hiện tội phạm ngành Công an thực hiện với phương châm không được làm oan một người ngay không được để lọt kẻ phạm tội. nếu bắt oan người không có tội là xúc phạm đến quyền được tôn trọng thân thể, tự do của con người. Nếu để lọt kẻ phạm tội vô tình đã tiếp tay cho kẻ phạm tội sống ngoài vòng pháp luật, tiếp tục gây tội ác cho xã hội, như vậy là chưa bảo đảm được đầy đủ quyền của con người. bất cứ hành vi phạm tội nào cũng phải được điều tra khám phá kết luận ai là tội phạm và ai không phải là tội phạm. Từ khâu điều tra, khám phá đúng người đúng tội, đúng pháp luật là yêu cầu tất yếu nhằm bảo đảm cho mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội được tôn trọng về quyền năng pháp lý của mình. Chỉ điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật mới làm căn cứ đúng đắn cho việc xác định biện pháp cưỡng chế cần thiết.

 

Khi có hành vi phạm tội xảy ra, cơ quan điều tra phải nhanh chóng thu thập tất cả các tài liệu có liên quan theo phương pháp đã được pháp luật cho phép. Tài liệu làm chứng cứ chứng minh tính chất gỡ tội, và buộc tội cho người có hành vi nguy hiểm cho xã hội. Quá trình điều tra còn cho phép họ được đưa ra những chứng cứ chứng minh nhằm bảo vệ quyền lợi của mình. Quá trình điều tra cơ quan Công an không được phép có những hành vi thô bạo vi phạm pháp luật, xúc phạm đến tự do thân thể như nhục hình, nhục hình biến tướng, mớm cung, dụ cung của người có hành vi phạm tội, đó cũng là một phần của sự tôn trọng con người, bảo đảm quyền con người trong đấu tranh chống tội phạm.

 

Bảo đảm tính khách quan là yêu cầu tất yếu của quá trình điều tra. Quá trình điều tra thu thập chứng cứ và kết luận đúng là cơ sở cho việc đưa người phạm tội ra truy tố, xét xử đúng người, đúng tội và ngược lại.

 

Do đó, điều tra, khám phá, kết luận nhanh vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật là bảo đảm quyền con người trong đấu tranh chống tội phạm.

 

Trong đấu tranh chống tội phạm Nhà Nước ta đã có chính sách đúng đắn, kết hợp hai mặt: nghiêm khắc trừng trị những kẻ ngoan cố, bọn cầm đầu, khoan hồng đối với những người phạm tội nhẹ hoặc mới phạm tội lần đầu, thực sự hối cải. Có chính sách đúng mở ra lối thoát cho họ. Thông tư liên Bộ, Toà án-Tư pháp-Kiểm sát-Nội vụ về việc xử lý những người phạm tội ra tự thú là một chính sách đúng đắn, sáng tạo, thể hiện tính nhân đạo cách mạng cao của Nhà Nước ta, phù hợp với tình hình hiện nay, đã có tác động lớn trong những người có hành vi phạm tội còn đang trốn tránh trách nhiệm hình sự. Chính sách này đã mang đầy đủ ý nghĩa nhân bản – Tôn trọng con người – mặc dù họ là tội phạm. Chính sách này biểu hiện sự mềm dẻo, tạo điều kiện cho những người có hành vi phạm tội còn đang lẩn trốn suy nghĩ, hối hận tự tìm con đường chuộc lại lỗi lầm của mình, do đó đã có tác dụng số lượng đối tượng ra tự thú ngày càng nhiều, đợt một có 400 tên, đợt hai có 600 tên và gần đây số lượng tội phạm ra tự thú đã tăng vọt lên tới hàng nghìn.

 

Tóm lại: Tất cả vì con người, vì sự yên ổn của toàn xã hội, kiên quyết không làm oan người không có tội và nhanh chóng làm rõ bản chất của tội phạm, ngành Công an đã thực sự góp phần đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đấu tranh chống tội phạm.

 

Thi hành hình phạt tù ở trại giam là bộ phận của quá trình đấu tranh chống tội phạm. Nếu không làm tốt công tác quản lý cải tạo phạm nhân thì quá trình phòng ngừa, điều tra, khám phá tội phạm ở ngoài xã hội mất ý nghĩa tác dụng phòng ngừa và chủ động tấn công tội phạm. Quản lý cải tạo phạm nhân là nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang, đón nhận họ vào là một tội phạm nhưng khi ra trại họ thành công dân có ích cho xã hội, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta. Biến phạm nhân trong đó không ít người đã coi tội ác là lẽ sống của họ thành những người lương thiện, người công dân tốt. Đó là việc làm cực kỳ khó khăn, tế nhị lâu dài. Nhưng do làm tốt nên đã trả lại cho xã hội trả về đời thường nhiều người con có ích cho xã hội. Làm được việc này là do cơ quan thi hành hình phạt tù luôn luôn quán triệt tư tưởng tôn trọng nhân cách con người, đối xử nhân đạo với họ, luôn luôn coi họ là con người, có tình thương giữa con người với con người, coi họ khác con người thì sẽ không cải tạo được họ và với bản thân cán bộ chiến sĩ Công an làm nhiệm vụ thi hành hình phạt tù ở trại giam cũng không thể trở thành con người chân chính với đầy đủ ý nghĩa của nó.

 

Tôn trọng con người, tôn trọng quyền của con người trong lĩnh vực quản lý cải tạo phạm nhân là tôn trọng tính mạng, danh dự, nhân phẩm của con người dù họ là phạm nhân – là tội phạm cũng không được xâm phạm đến thân thể, nhân phẩm, danh dự của họ, mọi hành vi xâm hại đều bị nghiêm trị theo luật pháp.

 

Họ được hưởng quyền được ăn. Việc ăn của phạm nhân được Nhà Nước cung cấp cho hàng tháng theo định lượng, không những thế các trại cải tạo còn bổ sung thêm số lượng lương thực theo ngành nghề lao động sản xuất có hiệu quả kinh tế thì tuỳ mức độ được cấp thêm ngoài tiêu chuẩn, không những thế các trại cải tạo còn giành đất cho các đội phạm nhân để phát triển kinh tế phụ cải thiện đời sống. Trại viên được phát chăn, màn, quần áo, bảo đảm đủ ấm về mùa đông. Họ được ở theo phòng có chăn hoặc chiếu. Trường hợp ốm đau được chữa bệnh, bình thường 6 tháng họ được khám bệnh một lần.

 

Tuy là người tù nhưng Nhà Nước ta vẫn cho họ được hưởng quyền khiếu nại và tố cáo những việc làm trái pháp luật của các cơ quan Nhà Nước, tổ chức xã hội, những cá nhân ở trong trại hoặc ngoài xã hội. Họ có thể yêu cầu người đại diện thay mình giải quyết những việc có liên quan đến vụ án xét xử dân sự và hôn nhân gia đình. Họ vẫn được lao động, được phát minh sáng kiến, cải tiến khoa học-kỹ thuật đem lại lợi ích cho họ và trại. Trại viên được gặp và được nhận quà của thân nhân đến thăm, được nhận và gửi thư cho thân nhân. Tóm lại họ vẫn được sống, được tôn trọng, được phát triển nhân cách theo hướng tốt của xã hội.

 

Quản lý và cải tạo phạm nhân là quản lý một thế giới nhỏ của tội ác, đòi hỏi cơ quan thi hành hình phạt tù phải đưa họ vào nếp sống có kỷ luật và rèn luật kỷ luật cho họ. Nếp sống kỷ luật của phạm nhân thể hiện sự chuyên chính của Nhà Nước ta buộc họ phải tuân thủ kỷ luật một cách nghiêm túc thành thói quen của người công dân lương thiện và dần dần trở thành tự giác. Giam giữ không tốt phạm nhân trốn trại vừa không thể hiện được chuyên chính vừa phát triển tội ác vừa lamf trở ngại cho công tác cải tạo sau này. Quản lý cải tạo tốt đồng thời cũng là biểu hiện của chủ động phòng ngừa tội phạm, là tôn trọng các cá nhân khác trong xã hội, là tạo điều kiện cho họ cải tạo, để trả lại những người có ích cho xã hội.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Vài suy nghĩ về vấn đề đảm bảo quyền con người

Trong công tác bắt, giam giữ, điều tra,

Xử lý người phạm tội

-------

 

Phùng Xuân Thành

Nghiên cứu sinh-Học viện Nguyễn ái Quốc

 

Bắt, giam, giữ, điều tra, xử lý người phạm tội là những hoạt động tố tụng hình sự của Nhà Nước; là những công tác nghiệp vụ quan trọng của cơ quan điều tra nhằm phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm. Đồng thời bắt, giam, giữ, điều tra và xử lý người phạm tội lại có quan hệ trực tiếp đến sinh mạng chính trị, danh dự, tình cảm, nhân phẩm, quyền lợi kinh tế của người dân và vấn đề bảo đảm quyền con người trong công tác này.

 

Trong những năm gần đây và hiện nay tình hình tội phạm ở nước ta có những diễn biến phức tạp. tính chất tội phạm rất nguy hiểm. Các loại tội phạm xảy ra ở khắp các địa bàn và có chiều hướng phát triển. Hoạt động của bọn tội phạm đã làm cho an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội nước ta bị xâm phạm gay gắt và chứa đựng những yếu tố nguy hiểm. Để bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội những cơ quan trực tiếp đấu tranh chống tội phạm đồng thời với việc áp dụng những biện pháp đấu tranh và phòng ngừa khác còn phải tiến hành bắt, giam, giữ, điều tra, xử lý người phạm tội. ý nghĩa pháp lý của vấn đề không chỉ dừng lại trong giới hạn của khoa học tố tụng hình sự mà còn bao trùm hơn, rộng lớn hơn đó là vấn đề bảo đảm quyền con người.

 

Đảm bảo quyền con người trong công tác bắt, giam, giữ, điều tra, xử lý người phạm tội ở nước ta hiện nay được đặt ra là một yêu cầu tất yếu và cấp bách. Con đường đi lên mà nhân dân ta, Đảng ta lựa chọn trước đây cũng như từ nay về sau là con đường xã hội chủ nghĩa. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta hướng đến và xây dựng là xã hội mà ở đó "con người được giải phóng, nhân dân lao động làm chủ đất nước; có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; mọi người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; công bằng xã hội và dân chủ được bảo đảm; các dân tộc trong nước đoàn kết bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau, có quan hệ hữu nghị với các dân tộc khác trên thế giới" (Dự thảo cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ). Trong thực chất hướng dẫn và xây dựng một chế độ xã hội với những đặc trưng như vậy chính là hướng đến và xây dựng một chế độ xã hội mà ở đó đảm bảo một cách hoàn chỉnh nhất quyền con người; là hướng đến và xây dựng một xã hội nhân đạo nhất trong lịch sử – nhân đạo cộng sản.

 

xây dựng một chế độ xã hội như đề cập ở trên thì một trong những vấn đề có tính nguyên tắc cần nắm vững là "xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, chúng ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng"1. Bởi vì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài phức tạp. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc và nham hiểm, luôn tìm mọi cách tạo ra những lực lượng chống đối hòng gây mất sự ổn định trong xã hội. Vì vậy, đối với bon phản cách mạng và tội phạm khác phải "trấn áp kiên quyết, tiến công liên tục để bảo vệ quyền làm chủ, tính mạng và tài sản của nhân dân". Chính sách trong quản lý xã hội của Đảng ta là "lấy phòng ngừa và giáo dục, cải tạo là biện pháp cơ bản; mặt khác, việc trừng trị tội phạm phải được xem là biện pháp tích cực, thường xuyên để đẩy lùi tội ác tạo điều kiện tốt cho phòng ngừa"2. Đối với người phạm tội, cách mạng phải ngăn chặn, tẩy trừ mặt xấu, mặt tội phạm trong con người họ chứ không loại bỏ họ, phải luôn luôn đặt họ trong mối quan hệ người với người mà chuyên chính với mặt ác, mặt tội phạm của họ còn con người thì chúng ta phải tôn trọng phẩm giá. Bởi vì dù là con người phạm tội thì quyền được sống, được trở lại làm người là những điều căn bản của nhân quyền. Chính vì vậy mà "phải kiên quyết tránh bắt bừa, mớm cung, dùng nhục hình"3. Phải thấy rằng "dùng nhục hình là dã man" là "tỏ rõ cái yếu, cái dốt, cái vụng của mình"4.

 

Cần phải "Điều tra nghiên cứu kỹ càng, cẩn thận",5 "Có chứng cứ đầy đủ rõ ràng thì chúng phải nhận tội"6. Cũng cần phải thấy rằng ở con người phạm tội họ là những người đáng trách, song cũng không vì thế mà xã hội chối bỏ họ trái lại xã hội cần cứu vớt họ, đưa họ ra khỏi vũng bùn tội lỗi, tạo những điều kiện thuận lợi để cho phần thiện trong con người họ nẩy nở, đẩy lùi cái ác - Đó là thái độ nhân đạo, là thể hiện trách nhiệm trong việc bảo đảm quyền con người đối với người phạm tội.

 

Hiện nay các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội ở trong và ngoài nước đang tìm mọi cách tấn công vào Đảng ta, hòng gạt bỏ vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng, đòi chia quyền lãnh đạo, đòi dân chủ không cần sự lãnh đạo. Đã có những mầm mống của âm mưu hòng tạo nên những lực lượng làm đối trọng với sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chống lại sự nghiệp đổi mới. Chúng đưa ra nhiều luận điệu để kích động, lôi kéo quần chúng, hòng đưa quần chúng đối lập và đấu tranh chống lại Đảng. Vấn đề dân chủ và quyền con người là một trong những vấn đề mà kẻ địch lợi dụng xuyên tạc. Chúng cho rằng tình trạng mất dân chủ, vi phạm quyền con người trong xã hội hiện nay là do sự độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Và, muốn cho xã hội phát triển lành mạnh, có dân chủ, quyền con người được đảm bảo thì Đảng cộng sản Việt nam phải từ bỏ vai trò độc quyền lãnh đạo của mình. Thực hiện đang nguyên chính trị, đa Đảng. Vì vậy nếu để cho tình trạng mất dân chủ và hiện tượng vi phạm quyền con người tồn tại , không kiên quyết đấu tranh gạt bỏ nó ra khỏi đời sống xã hội thì vô tình chúng ta đã phụ hoạ cho âm mưu và thủ đạo của kẻ thù. Và, chính Đảng ta đã từ bỏ vai trò lãnh đạo của một mình một cách không tự giác, làm cho Đảng suy yếu không còn đủ sức đảm đương sứ mệnh lãnh đạo nhân dân ta tiến lên chủ nghĩa xã hội.

 

Một trong những hướng tấn công của kẻ thù đối với chúng ta về vấn đề quyền con người là bóp méo, xuyên tạc công tác bắt, giam, giữ người phạm tội. Thổi phồng những thiếu sót, khuyết điểm sai lầm của chúng ta trong công tác này. Đã có những thời kỳ bọn đế quốc và phản động quốc tế cấu kết với nhau tạo ra những chiến dịch vu khống chúng ta vi phạm nhân quyền trong công tác bắt, giam, giữ cũng như vấn đề người di tản.

 

Trong những năm qua trước yều cầu nâng cao tính hiệu quả của công tác đấu tranh chống tội phạm, trước yêu cầu bảo đảm quyền con người cho công dân, công tác bắt, giam, giữ điều tra xử lý người phạm tội đã từng bước được chấn chính và đã có những tiến bộ đáng kể. Nhưng với ý thức trách nhiệm cao trước việc bảo đảm quyền con người trong công tác này thì thấy còn nhiều điều chúng ta chưa hài lòng. Đúng như đánh giá của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ta: "Chính sách trấn áp, luật pháp của Nhà Nước bị vi phạm trong công tác bắt, giam, xét xử và cải tạo phạm nhân, dẫn đến ảnh hưởng xấu về chính trị, không được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân"1. Vấn đề quyền con người trong công tác này vẫn còn bị vi phạm, có nơi, có lúc còn vi phạm một cách nghiêm trọng. Nổi lên ở một số dạng chủ yếu sau: Người vô tội bị cơ quan điều tra bắt oan. Bắt và giam giữ những người phạm tội hoặc vi phạm pháp luật nhưng chưa đáng bắt giữ. Lạm dụng những quy định của pháp luật để bắt giữ người. Giam giữ người không đúng chính sách và thủ tục pháp luật. Tra tấn, tra tấn biến tướng, đánh đập, nhục hình người bị bắt giam, giữ. Xâm phạm tang vật và vi phạm chế độ quản lý tang vật. Người bị giam giữ phải sống trong điều kiện vật chất và tinh thần ở dưới mức tối thiểu. Trong các trại giam, nơi tạm giữ còn để cho người phạm tội đối xử với nhau theo "luật rừng". Người phạm tội bị tạm giam, tạm giữ kéo dài v.v…

 

Để bảo đảm quyền con người trong công tác bắt, giam, giữ, điều tra, xử lý người phạm tội cần phải có một giải pháp tổng hợp và đồng bộ của các ngành, các lực lượng liên quan trực tiếp và gián tiếp đến công tác này. Từ việc hoàn chỉnh bộ luật và các văn bản dưới luật đến việc giáo dục, tuyên truyền pháp luật cho người dân và những người làm công tác điều tra hình sự để hình thành ý thức pháp chế xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi người trong xã hội "sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật". Từ việc phối hợp chặt chẽ giữa các ngành kiểm sát, Nội vụ, Thanh tra để làm tốt việc kiểm tra giám sát thi hành pháp luật trong công tác bắt, giam, giữ, xử lý người phạm tội đến việc quan tâm tới những điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần.

 

Và, một trong những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm bảo đảm quyền con người ở đây là phải có một đội ngũ cán bộ điều tra hình sự có phẩm chất, đạo đức cách mạng trong sáng.

 

Người cán bộ cách mạng "là cái gốc của mọi công việc"1. "Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém"2. Người cán bộ phải là người vừa có tài vừa có đức. Trong sự thống nhất giữa đức và tài thì đạo đức cách mạng là cái gốc, cái căn bản. "Cây phải có gốc, không có gốc thì cấy héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân"3.

 

Người cán bộ điều tra hình sự được Nhà Nước giao quyền điều tra tội phạm. Đối tượng của hoạt động điều tra hình sự "Đại diện" cho hầu hết mọi loại người trong xã hội. Người điều tra viên có quyền bắt người, khám xét, giam giữ, hỏi cung và lập hồ sơ đề nghị truy tố người phạm tội. Nhưng hoạt động này dễ đụng chạm đến những quyền lợi hợp pháp của con người. Giới hạn giữa vấn đề đảm bảo quyền con người và vi phạm quyền con người ở trong hoạt động của người điều tra viên là tức thì và trực tiếp. Quyền con người bị vi phạm do hoạt động điều tra hình sự vừa qua chứng minh rất rõ rằng người phạm tội bị tra tấn, đánh đập, bắt cóc v.v… tuyệt nhiên không phải chỉ do ta thiếu các văn bản pháp luật, không phải chỉ do cán bộ điều tra không hiểu biết pháp luật hoặc không có năng lực mà còn một nguyên nhân rất quan trọng là người cán bộ điều tra hình sự thiếu lập trường giai cấp công nhân trong hoạt động điều tra chống tội phạm, vô nhân đạo, chai sạn, xơ cứng trước những oan ức của quần chúng, ý thức tổ chức kỷ luật kém, không chấp hành những quy định pháp luật v.v… gây ra.

 

Người cán bộ điều tra hình sự phải là những người tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân; có lập trường quan điểm giai cấp công nhân vững vàng; có ý thức tổ chức kỷ luật chặt chẽ, có tinh thần cách mạng tiến công cao trong đấu tranh chống tội phạm để bảo vệ quyền con người của nhân dân; có lòng nhân đạo, quý trọng sự sống, quý trọng con người, tôn trọng những quyền lợi hợp pháp, nhân cách của người phạm tội cũng như thân nhân và tài sản của họ; sống trung thực, ngay thẳng; không bị xơ cứng, chai sạn trước những oan ức, đau khổ của nhân dân. Một đội ngũ cán bộ trong hoạt động chuyên môn của mình không bị giới hạn ở nhận thức đây chỉ là những hoạt động tố tụng hình sự đơn thuần mà phải ý thức rằng hoạt động của mình là hoạt động vì con người, hoạt động bảo vệ con người.

 

Đảm bảo quyền con người trong công tác bắt, giam, giữ, điều tra, xử lý người phạm tội và vấn đề có ý nghĩa nhân văn, đạo đức, chính trị, pháp lý. Giải quyết nó là một quá trình thường xuyên, liên tục, lâu dài. Trước mắt để đảm bảo quyền con người trong công tác này cần làm tốt một số việc sau:

 

Đặc biệt quan tâm đến giáo dục chính trị, rèn luyện nghiêm ngặt phẩm chất, đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật, tính trung thực, ý thức trách nhiệm trước sinh mệnh chính trị của người dân cho đội ngũ cán bộ điều tra hình sự. Xem đó như là một trong những nội dung hàng đầu của việc xây dựng đội ngũ cán bộ điều tra hình sự trong sạch, vững mạnh. Khuynh hướng chỉ chú đến năng lực, nhấn mạnh năng lực, coi trọng bồi dưỡng năng lực hơn rèn luyện phẩm chất, đạo đức, giáo dục lý tưởng, giáo dục quan điểm quần chúng cho cán bộ là khuynh hướng cần phê phán. Cần ban hành điều lệ hoặc những quy định cụ thể mới về quản lý cán bộ điều tra hình sự. Đây là điều kiện hết sức quan trọng trong cơ chế giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ điều tra.

Các cơ quan có chức năng cần phối hợp tiến hành tổng kiểm tra tất cả các trại giam, nhà tạm giữ, trại cải tạo để rà soát lại và áp dụng mọi biện pháp có thể áp dụng được để xử lý theo luật định những oan, sai trong bắt và giam giữ.

Các đơn từ khiếu tố về việc bắt, giam, giữ và xử lý của cơ quan điều tra cần được khẩn trương xác minh và có kết luận để trả lời cho người có đơn, thư khiếu tố và cơ quan có trách nhiệm.

 

 

30 tháng 11 năm 1990.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đổi mới hệ thống quyền và nghĩa vụ pháp lý của phạm nhân ở các trại cải tạo, giáo dục

-----

 

Nguyễn Cảnh Quý

 

 

Mục đích cao cả của chế độ giam giữ dưới chủ nghĩa xã hội là cải tạo giáo dục người phạm tội trở thành người lao động chân chính. Mục đích ấy chỉ có thể thực hiện được bằng tổ hợp của nhiều phương tiện, phương pháp khác nhau, trong đó không thể thiếu được hệ thống các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà nội dung của nó là kết hợp chặt chẽ các yếu tố nhân đạo với cưỡng bức, dân chủ, với chuyên chính, giáo dục thuyết phục với kỷ luật nghiêm khắc, giữa quyền và nghĩa vụ.

 

Tiếc thay, ở nước ta hệ thống các chế định pháp luật về lĩnh vực cải tạo giáo dục phạm nhân còn thiếu nhiều, chưa trở thành phương tiện có hiệu lực tạo nên tổ hợp cải tạo giáo dục người phạm tội. Có thể nói rằng trong lĩnh vực này Nhà Nước ta chưa có sự quan tâm đúng mực. Hiện nay chế độ giam giữ còn dựa trên những quy chế pháp lý cũ, lạc hậu? Phần lớn các quy chế chắp vá rời rạc của bộ nội vụ. Nghị quyết 49 NQ/TW ngày 20/6/1961 của Uỷ ban thường vụ quốc hội và thông tư số 121CP ngày 9/8/1961 của Hội đồng chính phủ là hai văn bản pháp lý cao nhất ban hành cách đây 30 năm vẫn là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chế độ giam giữ. Gần đây bộ nội vụ ban hành quyết định số 161QĐ/ BNV ngày 27/11/1979 về tập trung giáo dục cải tạo, nhưng cũng chỉ là một văn bản dưới luật mang tính chất tạm thời. Vì thế sớm xây dựng một hệ thống các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao trong lĩnh vực giáo dục cải tạo phạm nhân là một yêu cầu cấp bách của sự nghiệp giải phóng con người. Dưới đây chúng tôi nêu một số suy nghĩ về việc hoàn thiện và đổi mới hệ thống các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này.

 

1. Trước hết hệ thống các văn bản pháp luật về cải tạo giáo dục phạm nhân phải thấm đượm tư tưởng nhân đạo. nội dung nhân đạo chứa đựng trong các quy phạm pháp luật. Trên lĩnh vực nàyđó là nội dung về quyền con người. Mặc dầu các phạm nhân bị tước một số quyền công dân nhưng họ vẫn là con người, trước hết họ vẫn cần quyền sống, quyền lao động…Vì thế trong các mối quan hệ pháp luật họ phải được sử sự như một con người. điều đó có nghĩa là giữa phạm nhân với nhau và với các cán bộ có trách nhiệm ở trại giam phải được điều chỉnh bằng các quan hệ pháp luật. Các chủ thể đều có quyền và nghĩa vụ pháp lý. Chống quan niệm một chiều trong các mối quan hệ, một bên hoàn toàn là quyền (cán bộ trại), còn bên kia (phạm nhân) chỉ có nghĩa vụ.

 

Quan hệ phụ thuộc một chiều với quan niệm phạm nhân là chủ thể "vô quyền" chủ thể "nghĩa vụ" hoàn toàn trái với tư tưởng nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Như vậy rõ ràng rằng nhân đạo hoàn toàn đối lập, tuỳ tiện với sự lộng quyền và phụ thuộc một chiều. Hệ thống các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa một bên là phạm nhân và bên kia là Nhà Nước mà đại diện là các cán bộ cải huấn càng cụ thể, rõ ràng và chính xác bao nhiêu càng biểu hiện tinh thần nhân đạo bấy nhiêu trong việc cải tạo giáo dục phạm nhân thành người lao động lưong thiện. Vì thế đổi mới hệ thống các văn bản pháp luật về cải tạo giáo dục phạm nhân, trước hết phải thể hiện đúng đắn hệ thống quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với nội dung nhân đạo trong các quan hệ về cải tạo và giam giữ giữa các chủ thể khác nhau.

 

2. Sự kết hợp hài hoà mối quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính trong quá trình cải tạo giáo dục phạm nhân là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của quá trình ấy. Vì thế các chế định pháp lý làm cơ sở cho việc tổ chức quản lý, giáo dục cải tạo phải thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn cả hai yếu tố dân chủ và chuyên chính.

 

Hiện nay còn phổ biến quan niệm cho rằng nhà tù của bất cứ chế độ nào, xã hội nào cũng thể hiện trực tiếp chuyên chính và cưỡng bức. Vì vậy, trước tình hình trốn trại phổ biến của phạm nhân người ta quy cho hữu khuynh, buông lỏng chuyên chính xem nhẹ cưỡng bức…(theo kết quả điều tra ở sáu trại cải tạo do Bộ nội vụ quản lý và hai trại cải tạo do địa phương quản lý cho thấy riêng quý I năm 1990 có 47 tên trốn trại và năm 1989 có 167 tên chưa bắt lại được. Theo số liệu thống kê của Bộ nội vụ từ đầu năm 1989 đến cuối tháng 6/1990 có 1200 phạm nhân trốn trại). Tình trạng trốn trại phổ biến ấy, theo chúng tôi không phải chỉ là buông lỏng chuyên chính mà còn do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự kết hợp không đúng đắn mối quan hệ giữa chuyên chính và dân chủ trong quá trình cải tạo giáo dục họ. Thực tiễn chỉ ra rằng ở các trại với chế độ giam cầm hà khắc, nặng cưỡng bức nhẹ dân chủ hoặc ngược lại buông lỏng kỷ luật, quản lý lỏng lẻo thì ở những nơi đó số phạm nhân trốn trại nhiều. Như vậy hiện tượng trốn trại có nguyên nhân từ sự nhấn mạnh một chiều mối quan hệ giữa chuyên chính và dân chủ trong quá trình cải tạo và giáo dục phạm nhân. Đổi mới hệ thống các chế định pháp luật về cải tạo và giáo dục phạm nhân chính là đổi mới quan niệm về phương pháp điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ giữa phạm nhân với người trực tiếp cải tạo giáo dục: Trong pháp luật hiện hành chủ yếu sử dụng phương pháp mệnh lệnh cưỡng chế điều chỉnh mối quan hệ trong quá trình cải tạo giáo dục phạm nhân. Dưới ánh sáng của tư duy pháp lý mới, chúng tôi cho rằng điều chỉnh các mối quan hệ trên phải sử dụng phương pháp kết hợp giữa giáo dục thuyết phục với mệnh lệnh cưỡng chế. Không sử dụng độc lập, riêng rẽ từng phương pháp trong việc điều chỉnh các mối quan hệ ấy.

 

3. Thực tiễn đổi mới bước đầu ở một số trại cải tạo giam giữ chỉ ra rằng, lao động, sản xuất làm ra của cải vật chất là một trong những hình thức cải tạo giáo dục phạm nhân tốt nhất để giúp họ sớm trở thành người lao động chân chính. Vì thế hệ thống các văn bản pháp luật trong lĩnh vực cải tạo phạm nhân đã sớm thể chế quyền và nghĩa vụ của phạm nhân trong lao động sản xuất.

 

Cần phải thống nhất nhận thức rằng trong quan hệ lao động mà họ là người phạm tội thì lợi ích, trước hết là lợi ích vật chất, quan hệ trực tiếp hàng ngày đối với họ là vấn đề nhạy cảm nhất với chân lý giản đơn trước hết con người cần phải ăn, uống, ở. Lợi ích chính là động lực trực tiếp mạnh mẽ thúc đẩy họ cải tạo giáo dục và nâng cao năng suất lao động. Mác đã từng nói "Tất cả những gì con người đấu tranh để giành lấy đều gắn liền với lợi ích của họ"1. Vì thế mà trong mối quan hệ lao động mà phạm nhân là chủ thể trực tiếp, pháp luật phải chú trọng thể chế các quyền lợi vật chất mà do kết quả lao động của họ đưa lại. Một loạt các chế độ pháp lý về ăn ở hoặc thăm viếng, khen thưởng kỷ luật phải sớm thay đổi theo hướng mở rộng quyền của phạm nhân để vừa đạt mục đích giáo dục cải tạo lại vừa kích thích năng suất lao động tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Cùng với điều đó, phải ban hành những chế định pháp luật dân chủ công khai trong việc tổ chức, điều hành phân phối sản phẩm, khen thưởng kỷ luật…để phát huy năng lực sáng tạo tích cực của họ đối với tư cách là chủ thể của quá trình lao động.

 

Một lý tưởng dù tốt đẹp đến mấy nếu không được dựa trên điều kiện vật chất nhất định thì chỉ là không tưởng. Vì vậy chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho phạm nhân, mở rộng phúc lợi xã hội bằng chính kết quả lao động của họ là nội dung không thể thiếu của các quy định pháp luật.

 

Một lý tưởng cao đẹp được coi là khách quan cũng sẽ bị xuyên tạc, thậm chí mất đi tính nhân đạo cao cả của nó và trở thành một loại không tưởng, nếu người tổ chức, quản lý, giáo dục cải tạo mà trực tiếp là các giám thị, các cán bộ cải huấn ở các trại không tuân thủ đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của phạm nhân do pháp luật quy định. Vì thế trong hệ thống các văn bản pháp luật về giáo dục cải tạo phạm nhân phải đưa lên hàng đầu các chế định pháp lý và trách nhiệm của giám thị và cán bộ cải huấn trong quá trình cải tạo giáo dục phạm nhân thành người lao động. Để từ đó đạt được mục đích cao cả là biến những phạm nhân trở thành những người có ích cho xã hội.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Pháp luật, chính sách với vấn đề quyền trẻ em ở nước ta

-----

 

 

Lê Quý Đình – KCS khoa học pháp lý

Học viện Nguyễn ái Quốc

 

"Hôm nay là trẻ em, ngày mai là thế giới". Khẩu hiểu này của UNICEF không chỉ đề cao địa vị mà là lời kêu gọi trách nhiệm của cộng đồng thế giới, của các quốc gia đối với trẻ em.

 

Bản tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền được thông qua tại Liên hợp quốc ngày 10-12-1948 điều 25 viết:

 

"Phụ nữ có con nhỏ và các ấu nhi phải được đặc biệt chăm sóc và cấp dưỡng. Mỗi trẻ em có gia đình hoặc không có gia đình đều được hưởng sự chăm sóc xã hội ngang nhau". Bản công ước Quốc tế về trẻ em đã được 39 quốc gia trên thế giới phê chuẩn và có hiệu lực như một văn kiện luật pháp quốc tế kể từ ngày 2-9-1990. Trên thế giới ngày nay, bức tranh về trẻ em thật là ảm đạm nếu không muốn nói đó là thảm kịch và có nguy cơ ngày càng trầm trọng:

 

150 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng trong đó có 25 triệu đang ở trong tình trạng trầm trọng.

100 triệu trẻ em trong đó có 60% là em gái đến tuổi đi học nhưng không được cấp sách đến trường.

20 triệu trẻ em lang thang bụi đời trên các hè phố.

7 triệu trẻem phải di tản về chiến tranh hay vì nạn đói.

Mỗi ngày có 4 vạn trẻ em dưới 5 tuổi bị chết vì những căn bệnh mà có thể ngăn ngừa được. Theo dự báo của tổ chức ytế thế giới, những năm 90 của thập kỷ này mỗi ngày có tới 4,4 vạn trẻ em dưới 5 tuổi bị chết và 1 năm con số đó sẽ là 16 triệu. 40 vạn trẻ em dưới 5 tuổi bị mắc SIDA (90% số này ở Trung Phi) dự tính đến năm 2000 sẽ là 10 triệu em…+

 

 

Trước thảm kịch đó, ngày 29 và 30 tháng 9 năm 1990, lần đầu tiên trong lịch

sử một cuộc hội nghị cấp cao thế giới đã được triệu tập tại Niu-oóc, 41 vị đứng đầu Nhà Nước, 29 vị đứng đầu Chính phủ, các vị bộ trưởng của 75 nước đã đến dự và thông qua bản Tuyên bố 25 điểm thể hiện sự cam kết của các quốc gia đối với bảo vệ, chăm sóc, giáo dục các em trên hành tinh này.

 

Là thành viên của Liên hợp quốc và là nước thứ 2 trên thế giới tham gia vào việc phê chuẩn công ước quốc tế về trẻ em, nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Theo ông Ta-ri-kê, Pha-rô-ki đại diện quỹ nhi đồng Liên hợp quốc tại Hà nội cho biết: Trong 160 nước thì Việt Nam đứng hàng thứ 137 xét về mặt kinh tế. Nhưng xét thêm các tiêu chuẩn về nhân quyền, tuổi thọ, giáo dục…thì theo thứ tự lên hàng 99 về vấn đề này. Điều đó thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà Nước và trong hoạt động thực tiễn của toàn xã hội, của các cấp, các ngành trong suốt mấy chục năm qua. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người"1, đã chỉ rõ: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết"2.

 

Nhà Nước ta cũng đã ban hành một số đạo luật hoặc đưa nội dung của một

số đạo luật khác trong đó có một số chương, điều nói về nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng, vào năm Quốc tế thiếu nhi 1979 Nhà Nước ta ban hành pháp lệnh "Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em" ngày 14 tháng 11 năm 1979. Theo tinh thần của pháp lệnh những quyền cơ bản của trẻ em đã được khẳng định về mặt pháp lý. Đó là các quyền: Được chăm sóc, nuôi dưỡng (điều 5); được khám chữa bệnh không phải trả tiền (Điều 6); quyền được học hành (điều 7); được vui chơi giải trí lành mạnh (điều 8); được tôn trọng về nhân phẩm (điều 10)…Pháp lệnh còn qui định nghĩa vụ của gia đình, Nhà Nước và các tổ chức xã hội trong việc đảm bảo, thực hiện các quyền nghĩa vụ của trẻ em và ghi rõ:

 

"Mọi vi phạm có thể xử lý bằng biện pháp hành chính, nếu nghiêm trọng có thể bị truy tố theo một tội tương ứng trong bộ luật hình sự".

 

Trong luật Hôn nhân và gia đình ban hành theo pháp lệnh của Hội đồng Nhà Nước ngày 3-11-1987 đã ghi rõ trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái tại các điều 3, 21, 26. Từ điều 28 đến 33 qui định các nguyên tắc xác định bảo vệ quyền lợi trẻ em ngoài giã thú. Từ điều 34 đến 39 qui định những điều kiện và quyền lợi trẻ em được nhận làm con nuôi. Các điều 41, 42, 44, 45 qui định những biện pháp bảo vệ thai nhi, bảo vệ quyền được chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đối với trẻ em khi cha mẹ chúng ly hôn. Điều 46 đến 51 qui định chế độ đỡ đầu nhằm bảo vệ trẻ mồ côi.

 

Bộ luật hình sự đã dành hẳn chương VII gồm 11 điều từ điều 57 đến 67 ghi rõ "Những qui định đối với những người chưa thành niên phạm tội". Nội dung cơ bản của những qui định này thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà Nước ta đối với người chưa thành niên phạm tội là: giáo dục, cải tạo giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm khuyết điểm để trở thành người công dân có ích cho xã hội.

 

Ngoài ra các quyền của trẻ em cũng được pháp luật ghi nhận trong các pháp lệnh vì xử phạt vi phạm hành chính, pháp lệnh về thừa kế, pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và các văn bản pháp qui khác do các cơ quan quản lý Nhà Nước và các cấp có thẩm quyền ban hành.

 

Hơn 10 năm qua kể từ ngày ban hành Pháp lệnh "Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em" đất nước ta trải qua những biến động to lớn, sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chúng ta còn phải tiếp tục khắc phục những hậu quả nặng nề của mấy chục năm chiến tranh để lại. Theo tài liệu của Uỷ ban điều tra tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam thì có hàng chục triệu người bị chết, bị tàn phế trong chiến tranh trong đó có 20.000 bị tàn phế trong các nhà tù của Mỹ nguỵ; hàng triệu gia đình bị nghèo khổ; 80 vạn trẻ mồ côi.

 

Nền kinh tế nước ta, sản xuất còn trong tình trạng thấp kém, là một trong những nước nghèo nhất thế giới nhưng dân số lại đứng ở hàng thứ 12 trên thế giới, kinh tế đang chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá, hạch toán kinh doanh. Việc xóa bỏ bao cấp nói chung và bao cấp trên một số lĩnh vực: ytế, văn hoá, giáo dục…bên cạnh những nhân tố tích cực cũng đã nảy sinh ra những nhận thức và việc làm lệch lạc hạn chế đến việc thực hiện các quyền của trẻ em.

 

Việc thực hiện các quyền của trẻ em trong điều kiện đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, bước đầu thực hành dân chủ, đổi mới tư duy pháp lý, xây dựng và ban hành pháp luật mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn.

 

Các quyền của trẻ em ở nước ta được thực hiện trong điều kiện tình hình thế giới có những biến động sâu sắc. Những vấn đề có tính toàn cầu như môi trường, sinh thái, sự bùng nổ dân số, bệnh dịch, nạn đói nghèo ở các nước thế giới thứ 3. Việc mở rộng giao lưu quan hệ kinh tế với thế giới với nội dung mới và hình thức mới, việc tăng cường hoạt động của các tổ chức nhân đạo và cứu trợ thế giới ở nước ta (UNICEF, UNESCO, UNDP…) đã tạo ra những điều kiện nhất định cho việc thực hiện các quyền trẻ em ở Việt Nam.

 

Trong điều kiện đó, Đảng, Nhà Nước và toàn xã hội đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện các quyền của trẻ em. Trước hết trên lĩnh vực giáo dục, văn hoá đảm bảo quyền được học hành vui chơi, giải trí. Cả nước có 28 triệu trẻ em, 25% số cháu trong độ tuổi được đến nhà trẻ; 35% ở mẫu giáo. Vào cấp 1 là 75% độ tuổi, cấp 2 là 51%. (ở Trung Quốc chỉ số này là 97% năm 1987 đối với bậc tiểu học và Trung Quốc đã ban hành luật về giáo dục cưỡng bức 9 năm). Ngoài ra còn có 200 nghìn em nhỏ do những hoàn cảnh khác nhau không thể tới trường đã được thu hút vào trong các "lớp học tình thương" một hình thức rất thu phục lòng người từ cấp phường xã trở lên ở các địa phương. Các trường dành riêng cho trẻ em tàn tật như trường dành cho trẻ em câm điếc Xã đàn; trường học sinh mù Nguyễn Đình Chiểu, trường Nguyễn Viết Xuân ở Hà nội, trường 19-5 ở thành phố Hồ Chí Minh dành cho các trẻ nghèo. Phong trào "đền ơn đáp nghĩa" chăm sóc nuôi dạy con thương binh, liệt sĩ được duy trì thường xuyên.

 

Cả nước có 89 cung và nhà thiếu nhi, hàng nghìn điểm vui chơi, nuôi dưỡng những tài năng cho các em, hàng năm có 6,5 triệu thiếu nhi trở thành "Cháu ngoan Bác Hồ". Được sự tài trợ của các tổ chức nhân đạo thế giới và sự cố gắng của các địa phương và ngành các làng SOS trẻ em ở Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt thực sự là nơi che chở cho tuổi thơ bất hạnh, các em được sống trong tình thương của xã hội, trong vòng tay của các "bà mẹ, bà dì" mà bản thân họ chưa một lần sinh nở. Họ là những con người nhân hậu tự nguyện trọn đời mình cho việc nuôi dạy những tâm hồn trẻ thơ bất hạnh.

 

Một điểm đáng quan tâm là gần đây không chỉ có Nhà Nước, các tổ chức xã hội mà cả các tổ chức tư nhân, các tổ chức tôn giáo, từ thiện Quốc tế cũng lập ra các quỹ từ thiện hoặc tổ chức nuôi dạy các em nhỏ hoàn cảnh khó khăn, không nơi nương tựa.

 

Trên lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ trẻ em, các chương trình chống suy dinh dưỡng, chương trình tiêm chủng mở rộng đã được triển khai, bước đầu đạt kết quả. Các bệnh viện dành riêng cho trẻ em như bệnh viện Ôlốt Pammơ ở Hà nội; bệnh viện nhi đồng 1 và 2 ở thành phố Hồ Chí Minh, các chuyên khoa nhi thuộc bệnh viện các cấp có nhiều cố gắng trong việc khám và điều trị cho trẻ em. Các cấp hội phụ nữ tuyên truyền cho các bà mẹ biết cách nuôi con theo khoa học, phòng ngừa và chữa các bệnh thông thường cho trẻ nhỏ. Thành phố Hồ Chí Minh đầu tư xây dựng Trung tâm dinh dưỡng và Trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật, Trung tâm kế hoạch hoá gia đình và chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ phụ nữ, trẻ em được thành lập ở Hà nội vào tháng 10 năm 1990 do hai bệnh viện phụ sản và Xanh pôn đỡ đầu. Những nỗ lực và cố gắng trên đây của Đảng, Nhà Nước và của toàn xã hội trong điều kiện đất nước ta chưa thoát ra khỏi những khủng hoảng kinh tế – xã hội vì vậy quyền của trẻ em tất yếu chưa được hoàn toàn đảm bảo, chưa được hưởng một cuộc sống hạnh phúc hoàn toàn. Thật vậy, trên lĩnh vực giáo dục tình trạng thất học, bỏ học trong các em nhất là ở miền núi vẫn là điều đáng lo ngại, nhiều nhà trẻ, mẫu giáo bị "xoá" cùng với xoá bao cấp. Còn 75% các cháu ở độ tuổi nhà trẻ; 65% các cháu ở tuổi mẫu giáo; 25% ở độ tuổi cấp 1 chưa được đến lớp, đến trường. Tỉ lệ học sinh bỏ học ngày càng tăng, trong cả nước là 27%; vùng núi là 40 đến 50%. Riêng ở Hà nội theo báo cáo của Uỷ ban nhân dân thành phố trong kỳ họp thứ 5 của Hội đồng nhân dân thành phố ngày 29-9-1990 số học sinh bỏ học các cấp là 1,5 vạn hàng năm.

 

Việc đầu tư cho sự nghiệp giáo dục còn thấp mới chỉ đạt 1,3 đến 2 đô la/năm cho một học sinh trong khi đó ở một số nước như Mađa-gát-xca là 19; Băng la đét là 20; Mê-hi-cô là 79; Nam Triều Tiên là 278; Cu Ba là 409; Ca-na-da là 6243 đô la cho một học sinh/ 1 năm.

 

Cả nước ta có 850 nghìn giáo viên ở các cấp học, ngành học nhưng vị trí xã hội, sự đãi ngộ đối với đội ngũ thầy cô giáo chưa tương xứng với nhiệm vụ mà xã hội giao cho. Nợ lương giáo viên, nợ phụ cấp thâm niên giáo viên đến hè 1990 tính riêng ở 18 tỉnh thành phía Bắc đã lên tới 7 tỉ 253 triệu đồng. Theo số liệu tổng kết năm học 1989-1990 của Bộ giáo dục đào tạo tính trong 22 tỉnh thành đã có 24.020 giáo viên bỏ dạy vì những lý do khác nhau. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ hiện nay.

 

Việc nuôi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em cũng cho ta những số liệu:

 

Kết quả tiêm chủng mở rộng tính đến tháng 8/1990 mới đạt 59,13%; tiêm phòng cho phụ nữ có thai đạt 8,3%, tỷ lệ này ở miền Nam và Tây nguyên còn thấp hơn nữa+.

Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em cũng rất đáng lo ngại. Tỷ lệ suy dinh dưỡng độ I, II ở trẻ em độ tuổi mẫu giáo nông thôn là 70,4%, bệnh mắt hột 25%; Bệnh đường hô hấp 31,3% ở thành phố, 47,6% ở nông thôn; Bệnh sâu sún răng 8,8% ở thành phố, 29,6% ở nông thôn.

 

Theo số liệu công bố tại hội nghị tổng kết năm (1982-1990) nghiên cứu đề

tài "Phân tích đặc tính phát triển cơ thể và tình trạng sức khoẻ học sinh phổ thông cơ sở" do Viện khoa học giáo dục Việt Nam và Viện bảo vệ sức khoẻ trẻ em phối hợp tổ chức tại Hà nội cho thấy các bệnh thường gặp của lứa tuổi học đường với tỷ lệ cao như: bệnh kí sinh trùng đường ruột 78,6%; sâu răng 53,9%, viêm lợi 47,5%, mắt hột 20% (thành phố); 87% ở nông thôn, cận thị 4,6 – 20,8%; rối loạn thần kinh chức năng (18,62 – 25,59%) đặc biệt ở tuổi dậy thì và trước dậy thì cong vẹo cột sống 31,67 – 38,90% ++v.v…Tỉ lệ bác sĩ nhi khoa và số giường bệnh dành cho trẻ em còn thấp mới đạt 0,46 bác sĩ/ 10.000 em và 2,4% số giường bệnh.

 

Việc bảo vệ tính mạng danh dự, nhân phẩm cho trẻ em cũng chưa được đảm bảo, trẻ em còn bị hành hạ, đánh đập, bị hãm hiếp, thậm chí còn bị tước đi quyền sống bởi hành vi bạo ngược vi phạm pháp luật của những người lớn tuổi.

 

Những năm trước, pháp luật đã xử lý một số vụ điển hình về tội hành hạ đánh đập trẻ em như vụ Nguyễn Công Tuần ở Vĩnh Phúc, Đào Đức Tiễn ở Hải Hưng. Gần đây số vụ việc vi phạm đến sức khoẻ, tính mạng, nhân phẩm của trẻ em mà báo chí, công luận đã lên tiếng khá nhiều. Có thể dẫn ra đây một số vụ:

 

Vụ Lê Văn Bảo đâm chết cháu Mai Hương học sinh lớp 12B Trường phổ thông trung học Thanh Oai B Hà Sơn Bình ngày 9/1/1990.

Vụ cháu Trần Thuý Hạnh 12 tuổi số nhà 125/10B phố Phạm Hồng Thái, phường 7 Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo bị hắt một lượng axít lớn vào mặt chỉ vì người khác tư thù với mẹ cháu.

Vụ Ngô Thảo xã Phú Cường, Sóc Sơn, Hà nội dùng dao chém đứt bàn chân trái, chém cụt các ngón 2, 3, 4 bàn tay trái cháu Nguyễn Văn Hà 12 tuổi chỉ vì cháu bẻ trộm 3 cây mía ngày 11/9/1990.

Cái chết thương tâm tự thiêu của cháu gái 15 tuổi tên là Hiền ở 128C Đại La, quận Hai Bà Trưng, Hà nội chỉ vì bị dì ghẻ vu cho ăn cắp tiền ngày 30/10/1990 v.v…

 

Còn nhiều trẻ em bị tước đi mạng sống, bị tàn tật suốt đời do mâu thuẫn giữa

người lớn với nhau, hoặc vì vô trách nhiệm của người lớn trong việc điều khiển các phương tiện giao thông, trong lao động sản xuất, thậm chí để họ che dấu hành vi tội phạm, hành vi vô đạo đức của những kẻ xấu là người lớn.

 

Thế hệ trẻ em ngày nay sinh ra và lớn lên trong môi trường bên cạnh những thuận lợi còn có nhiều điều ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ, trí tuệ và sự hình thành nhân cách của các em. đó là môi trường sống bị ô nhiễm bởi sự tắc nghẽn của cống, rãnh thoát nước trong các khu dân cư, nhà cửa chật chội, trường học nhiều nơi bị bao vây bởi hàng quán, chợ búa, bởi tiếng ồn ào của các cơ sở sản xuất, bị ô nhiễm bởi khí thải lò gạch, lò gốm, của cơ sở sản xuất cao su, của các tổ hợp và tư nhân v.v…Sự phối hợp giữa các môi trường giáo dục, giữa gia đình, nhà trường, xã hội còn thiếu chặt chẽ và đồng bộ. Trong khi từng gia đình lo làm ăn kinh tế đảm bảo cuộc sống, ít có điều kiện chăm sóc giáo dục con cái mình phó mặc cho nhà trường, xã hội. Số đông trong các bậc cha mẹ trẻ chưa đủ những kiến thức tối thiểu về chăm sóc, nuôi dạy con cái trước khi họ trở thành người cha, người mẹ. Trong khi đó Nhà Nước nhất là ở một số ngành còn coi việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em chưa phải là của mình, coi đó chỉ là phúc lợi công cộng, của ngành ytế, giáo dục, của Đoàn, của Đội. Tính đến nay mới chỉ có 22/40 tỉnh, thành có Uỷ ban thiếu niên nhi đồng nhưng hoạt động chậm và chưa thường xuyên+. Trong khi sách giáo khoa, giấy và các đồ dùng học tập cho trẻ em còn rất thiếu thì ngoài xã hội có tình trạng "loạn sách", trong đó có nhiều loại sách "đen" có hại cho lứa tuổi học trò đó là loại sách tử vi, sách phổ biến và khuyến khích tình dục, kích động bạo lực, nạn phim "đen", video "đen" đã gây ra những hậu quả về nhiều mặt cho trẻ em. Trong một môi trường không thuận lợi như vậy, cộng với sự thất học, không có việc làm lại bị bọn người xấu rủ rê lôi kéo không ít em đã dấn thân vào con đường phạm tội. Theo thống kê của Bộ Nội vụ tỉ lệ thanh thiếu niên phạm tội chiếm 73,5% trong tổng số tội phạm năm 1988, năm 1989 con số này lên tới 77% - trong đó 11% là thiếu nhi+. Tình trạng trẻ em hư phạm pháp ngày càng gia tăng là mối quan tâm, lo ngại của toàn xã hội, cần phải có những biện pháp đồng bộ, tích cực và chủ động trong việc phòng ngừa và chống phạm pháp ở lứa tuổi vị thành niên.

 

Thực tiễn hơn 10 năm qua cho thấy rằng, có pháp luật và chính sách chưa đủ mà cần có toàn bộ hoạt động thực tiễn của toàn Đảng, toàn dân đối với sự nghiệp chăm sóc, giáo dục bảo vệ trẻ em bằng những biện pháp thiết thực, cụ thể và đồng bộ với sự nghiệp trồng người – một trong những nội dung trong chiến lược con người – trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ta. Điều đáng lưu ý trong việc thực hiện các quyền của trẻ em trong điều kiện cụ thể lẽ ra chúng ta có thể làm tốt hơn nữa như: thống nhất về mặt nhận thức, tư tưởng, tình cảm trong toàn xã hội, đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng tổ chức bộ máy cán bộ…cho sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Bởi vì đầu tư con em không chỉ là tiền bạc mà còn là thời gian, công sức, trí tuệ và tình cảm của các thế hệ người lớn.

 

Vì vậy để làm tốt hơn nữa nhiệm vụ chiến lược quan trọng này, theo chúng tôi cần giải quyết một số vấn đề cơ bản sau đây:

 

Thứ nhất cần thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn xã hội, ở mọi cấp, mọi ngành về tầm quan trọng của sự nghiệp xây dung, bồi dưỡng thế hệ trẻ – những công dân tương lai của đất nước nói chung và thực hiện những quyền của trẻ em nói riêng. Sự thống nhất đó không chỉ trong nhận thức, trong các văn kiện, nghị quyết mà đi đôi với việc làm, với công tác tổ chức thực tiễn. Phải coi đây là một trong những vấn đề trung tâm của chiến lược kinh tế – xã hội chứ không phải là vấn đề phúc lợi công cộng hoặc của riêng một số ngành.

 

Hai là, Đảng và Nhà Nước sớm ban hành các chính sách, chế độ đãi ngộ thích đáng phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước, tạo mọi điều kiện cho đội ngũ những người làm công tác chăm sóc, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ nước nhà để họ vươn lên hoàn thành trọng trách mà xã hội giao phó.

 

Ba là, Nhà Nước cần ban hành những luật có liên quan như luật về lao động, luật giáo dục, sửa đổi những điều không phù hợp trong pháp luật hiện hành ở nước ta kể cả pháp lệnh về "chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em", các văn bản dưới luật của các cơ quan quản lý Nhà Nước của các ngành, các địa phương không được trái với Luật mà cơ quan quyền lực cao nhất đã ban hành bảo đảm tính tối cao của pháp luật. Mặt khác pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh, những tổ chức và cá nhân vi phạm đều phải xử lý nghiêm minh theo pháp luật.

 

***

 

Trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc, những công dân tương lai của đất nước có đảm đương, kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa khi đất nước ta bước vào thế kỷ XXI được hay không? Điềuđó phụ thuộc rất lớn vào sự quan tâm chăm sóc, giáo dục và bảo vệ của các thế hệ người lớn đối với họ ngay từ bây giờ. Đường lối, chính sách, pháp luật và toàn bộ hoạt động thực tiễn là thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau đối với sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Bởi vì:

 

"Thiếu niên nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, công tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ"1.

 

 

 

Suy nghĩ về quyền con người trong điều kiện đổi mới

cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta.

-------

 

Phó tiến sĩ Hoàng Văn Hảo

 

 

Thực hiện quyền con người trong thực tế là một quá trình đấu tranh phức tạp kể cả trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Bởi vì nó phụ thuộc vào trạng thái kinh tế của mỗi nước, vào trình độ dân số của bộ máy Nhà Nước; vào văn hoá dân chủ, văn hoá pháp lý và truyền thống đấu tranh của nhân dân, và được bảo đảm bằng một cơ chế tự bảo vệ, tự điều chỉnh (thiết chế bộ máy Nhà Nước và pháp luật, pháp chế).

 

1/ Trước đây do nhận thức giản đơn về chủ nghĩa xã hội, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chúng ta đã muốn dùng bao cấp từ phía Nhà Nước để giải quyết vấn đề nhân quyền. Đặc trưng của nhân quyền trong thời bao cấp là gì?

 

Tính chất chủ quan duy ý trí, xa thực tế. Những quyền có việc làm, đi học chữa bệnh không mất tiền…được ghi nhận trong hiến pháp các nước xã hội chủ nghĩa đã không được thực hiện trong thực tế.

Tính chất ban ơn từ phía Nhà Nước, cơ quan Nhà Nước thì tuỳ tiện, người được hưởng quyền thì không dám đấu tranh.

Tính chất nguỵ biện trong quan liêu về quyền con người, đề cao các quyền kinh tế xã hội (cho gắn với bao cấp của Nhà Nước), coi nhẹ các quyền về chính trị, dân sự như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. (Gắn với quan niệm chủ nghĩa xã hội là thống nhất, không mâu thuẫn).

 

Tình hình đó làm cho quan hệ giữa Nhà Nước và nhân dân giống như cha đối

với con, cha lo cho con tất cả (ăn mặc, học hành, chữa bệnh…) nhưng tuyệt đối con không được có ý kiến đối với cha (tự do ngôn luận…).

 

Thực tế đó kéo dài, khó nảy sinh được ý thức về quyền tự do cá nhân, lấy ý

thức tập thể lấn át ý thức cá nhân về quyền, quyền con người bao gồm quyền công dân và quyền tự do cá nhân. Thực tế là tập thể quyết định tất cả. Từ đề bạt, tăng lương, nhà ở… cá nhân không có vai trò gì. Cơ chế bao cấp ấy được thực hiện trong điều kiện kinh tế thấp kém thì dẫn tới chủ nghĩa bình quân, chế độ hợp, chế độ phân phối ở các đơn vị kinh tế cũng vậy, thường nhấn mạnh câu: "bất loạn bần nhi hoạn bất quân". Và, chủ nghĩa bình quân ấy đã không kích thích sự sáng tạo, làm lu mờ vai trò cá nhân. Rút cuộc sản xuất không phát triển được, dẫn tới khủng hoảng kinh tế, xã hội.

 

Vấn đề đặt ra là cùng với đổi mới quan niệm về chủ nghĩa xã hội, phải đổi mới quan niệm về nhân quyền dưới chủ nghĩa xã hội trong đó, Nhà Nước bảo đảm cho mọi người tự do lo cho mình được hành động tự do như một con người, mà vấn đề then chốt là bảo đảm cho con người làm chủ tư liệu sản xuất.

 

2/ Từ đại hội lần thứ VI Đảng cộng sản Việt Nam đến nay được ghi rõ trong dự thảo cương lĩnh và chiến lược kinh tế xã hội quan điểm phát triển một nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần. Theo tôi, đó là điểm xuất phát cho một quan niệm mới mẻ về nhân quyền dưới chủ nghĩa xã hội, tức là từ một nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều loại sở hữu, nhiều hình thức thu nhập, từ sự phát triển năng động nền kinh tế mà mở rộng quyền tự do cá nhân của con người.

 

Vậy một nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch phát triển đa dạng sẽ ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển nhân quyền? Có thể có hai loại ảnh hưởng:

 

ảnh hưởng tích cực đối với sự phát triển nhân quyền.

 

Từ chỗ xoá bao cấp, chuyển sang sản xuất hàng hoá sẽ tạo ra cơ sở kinh tế xã hội cho sự phát triển ý thức về bình đẳng, tự do, quyền con người, mà ở ta ý thức này kém do ảnh hưởng của phong kiến, do chưa qua dân chủ tư sản. Và, khi ý thức về bình đẳng, tự do được nâng cao sẽ góp phần quan trọng khắc phục những tư tưởng đẳng cấp, đặc quyền, đặc lợi.

Sản xuất hàng hoá phát triển, một mặt tạo ra việc làm, thay đổi ngay cả quan niệm về việc làm (không nhất thiết vào biên chế), có điều kiện để thực hiện quyền con người, trước hết là quyền sống…Mặt khác, sự giao lưu hàng hoá tất yếu sẽ xoá bỏ được những hàng rào, những quan niệm hẹp hòi, tạo ra cơ chế kinh tế xã hội để khẳng định quyền tự do đi lại, cư trú và xa hơn nữa là dần dần làm cho các quyền ở nước ta phù hợp với các công ước quốc tế.

 

B. Khi chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần

giải quyết, mỗi người có thể bảo đảm được nhân quyền trong điều kiện mới.

 

Trước hết, vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất về lý luận: khẳng định tồn tại 5

 

thành phần kinh tế, nói dân chủ nhân quyền gắn với làm chủ tư liệu sản xuất, điều đó không phủ nhận nhân quyền được phát triển cao trong chế độ công hữu, như tuyên ngôn Đảng cộng sản đã nói là công hữu hoá tư liệu sản xuất chủ yếu và trong điều kiện đó, thì con người được phát triển tự do toàn diện. Đó là sự phác hoạ về đặc trưng của một hình thái xã hội điển hình. Và ở đỉnh cao xã hội ấy, thì con người có được nhiều quyền hơn, có điều kiện phát triển tự do và toàn diện.

 

Nhưng hiện nay thì chưa, vì chưa đạt được trình độ ấy. Trong điều kiện nước

ta hiện nay, vấn đề lại phải bắt đầu từ sản xuất hàng hoá mới bảo đảm lợi ích cá nhân, nhân quyền… do đó, đòi hỏi phải giải quyết vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất.

 

- Về thực tiễn: sở hữu tư liệu sản xuất đang đặt ra hàng loạt vấn đề (quyền sử dụng theo quyết định 217, quyền sử dụng trong luật đất đai). Theo tôi, cần phải chia làm nhiều loại để xác định quyền sở hữu hay quyền sử dụng.

 

Thực tế, không giải quyết vấn đề sở hữu để người lao động gắn bó với tư liệu sản xuất thì tức là cái gốc của nhân quyền chưa được giải quyết.

 

Thứ hai, chính sách kinh tế gắn với chính sách xã hội, cơ chế quản lý kinh tế mới đặt ra hàng loạt vấn đề về mặt xã hội.

 

Một vài thí dụ:

 

Sự phân hoá giàu nghèo là điều không tránh khỏi trong quá trình thực hiện

cơ chế quản lý kinh tế mới. Nhà Nước phải có chính sách và pháp luật để bảo đảm công bằng xã hội trong điều kiện đó. Nhà Nước cho phép làm giàu, nhưng lại phải có sự điều chỉnh bảo đảm cuộc sống bình thường cho những người khó khăn, nhất là trong điều kiện sau chiến tranh.

Sự bóc lột lao động trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần cũng là điều không tránh khỏi, Nhà Nước cần có chính sách và pháp luật để vừa khuyến khích làm giàu lại vừa bảo đảm được quyền của người lao động trong các xí nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau (sau quyết định 217, vai trò của tổ chức công đoàn xí nghiệp đang bị lung lay).

Số lượng người thất nghiệp sẽ tăng lên trong quá trình chuyển sang hạch toán kinh doanh. Hiện nay là hơn 3 triệu cùng với người lao động ở nước ngoài trở về, số lao động dôi ra do xí nghiệp không đứng vững trước cơ chế mới, số học sinh sinh viên ra trường không có việc làm, số biên chế Nhà Nước đang cần giải toả… tất cả những điều đó đòi hỏi có biện pháp đồng bộ, trong đó cần những đạo luật bảo đảm về mặt xã hội, như luật bảo hiểm thất nghiệp và những luật pháp khác.

 

Cùng với tình hình trên là những vấn đề về bình đẳng dân tộc, tôn giáo trong

điều kiện hiện nay (hiện có hơn 8 triệu người thất nghiệp), cần có những bảo đảm cơ bản về ytế, giáo dục trong điều kiện mới.

 

Quá trình giải quyết những vấn đề xã hội có thể kết hợp Nhà Nước và nhân

dân cùng làm, phát triển các hội tương kế, từ thiện… nhưng theo tộc, về nguyên tắc là phải phân biệt những vấn đề nhân đạo, từ thiện với quyền con người mà phía Nhà Nước có trách nhiệm bảo đảm như là nghĩa vụ của mình.

Thứ ba, cần xây dựng một cơ chế bảo đảm nhân quyền, tạo ra khả năng tự vệ.

ở đây, cần làm rõ những vấn đề về tự do, về dân chủ, về quyền là thế nào, nhất là trong điều kiện của thời kỳ quá độ ở nước ta, ngay trong pháp luật tư sản, tự do vẫn có giới hạn. tự do là có thể làm mọi cái không hại cho người khác. Việc thực hiện quyền tự nhiên của mỗi người chỉ có giới hạn là cái bảo đảm cho những thành viên khác của xã hội cũng được hưởng, chính những quyền ấy, những giới hạn này chỉ có pháp luật mới quy định được. (Điều 4, tuyên ngôn nhân quyền và quyền (HP.1791)

Mọi giới hạn này phải được quy định thành pháp luật. Tiêu chuẩn đánh giá nhân quyền là tổng số khối lượng quyền con người được quy định trong hiến pháp và luật. ở nước ta, cần đặc biệt chú ý đến pháp chế nhất là trách nhiệm của cơ quan Nhà Nước đối với việc bảo đảm nhân quyền; quy định quyền đấu tranh cho nhân quyền trong chế độ xã hội mới; nâng cao văn hoá dân chủ văn hoá pháp lý cho nhân dân; pháp luật phải quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan bảo vệ pháp luật của các cơ quan thông tin đại chúng trên lĩnh vực bảo vệ quyền con người.

 

Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, nhân quyền là sản phẩm của một cuộc đấu tranh phức tạp, ngay dưới chủ nghĩa xã hội cũng phải đấu tranh mới có. Cuộc đấu tranh ấy nằm trong khuôn khổ pháp chế xã hội chủ nghĩa và bằng một cơ chế hữu hiệu: cơ chế ấy vận động trong thực tế, lặp đi lặp lại nhiều lần cũng sẽ góp phần xây dựng ý thức nhân quyền dưới chủ nghĩa xã hội./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tư cách cá NHân của NHân tố con người

Trong sản xuất

-------

 

Trần Ngọc San

Quan điểm số một trong dự thảo chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội của nước ta đến năm 2000 đặt con người – với hai tư cách: tư cách cá nhân và tư cách cộng đồng – vào vị trí trung tâm. đây là điều mới bổ sung về nhận thức đối với nhân tố con người. Trong bài viết này chỉ đề cập đến một khía cạnh nhỏ trong việc phát huy nhân tố con người trong nền sản xuất với tư cách cá nhân.

 

Một trong các bài học lớn Đảng ta đã tổng kết từ thực tiễn cách mạng nước ta: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Có được những thắng lợi cách mạng 45 năm qua là Đảng ta đã dựa vào dân, phát huy được sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc.

 

Lịch sử là nhân chứng hùng hồn nhất và không ai chối cãi được. Trong những năm tháng tiến hành cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, nếu không phát huy được sức mạnh cộng đồng – sức mạnh của tập thể từng thôn xã, từng hợp tác, từng tổ chức quần chúng – thì chúng ta không thể đánh thắng được những tên đế quốc có tiếng là tinh nhuệ và hung hãn của thời đại. Sức mạnh cộng đồng trong giai đoạn cách mạng quyết liệt này có ý nghĩa thật to lớn.

 

Nhưng lịch sử lại cũng chứng kiến một điều ngược lại là trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, nếu chỉ phát huy một chiều sức mạnh cộng đồng rõ ràng là không đủ và dẫn đến không ít sai lầm.

 

Do những hạn chế về lịch sử và nhận thức, đã có một thời gian, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta quan niệm con người một cách giản đơn. Chúng ta đề cao hình mẫu một con người chỉ biết hy sinh vì lý tưởng, luôn luôn phải biết sống vì mọi người. Những ước vọng cá nhân, những ham muốn – dù là chính đáng – không được coi trọng, thậm chí có thể bị coi là tư cách thấp hèn. Đứng giữa cuộc đời, con người chỉ biết "chúng ta" mà không thấy cái "tôi". Cái "tôi" trở thành một thứ lạc điệu, cá nhân chủ nghĩa. Cũng từ đó, mỗi con người chỉ thấy mình là "một thành viên nhỏ bé – có ý nghĩa về số lượng" trong một số đông. Cá nhân mỗi con người trở nên mờ nhạt, không hình dáng, không có cá tính, không có đặc điểm. Một con người thụ động, thiếu bản lĩnh, không phát huy được khả năng.

 

Do nhấn mạnh yếu tố cộng đồng tạo nên phong cách thích làm ăn theo qui mô lớn ham về số lượng. Tổ chức lao động xã hội là những bộ máy cồng kềnh cùng với chế độ trả công mang tính bình quân. Trong quan hệ điều hoà lợi ích, lợi ích xã hội, lợi ích tập thể thường lấn át lợi ích cá nhân. Điều đó đã tạo ra một cơ cấu lao động nặng nề với năng suất thấp kém hiệu quả, ngày nay đang là một gánh nặng đối với nền kinh tế.

 

Chúng ta ca ngợi con người, nhưng lại là con người trừu tượng. Về lý thuyết ta nói: con người là chủ thể cải tạo xây dựng và sáng tạo, nhưng trong thực tiễn ta lại tạo ra những con người ỷ lại, kém năng động. Người trong bộ máy càng đông sức ỳ càng lớn. Thiếu sót đó đã dẫn đến sự xói mòn niềm tin vào sự nhất quán giữa lời nói với việc làm của nhân dân đối với các cấp bộ Đảng, chính quyền. Đồng thời đã hạn chế sự phát huy tiềm năng sáng tạo của con người.

 

Ngày nay, trên nền tảng tư duy mới, nhận thức lại con người và phát huy nhân tố con người đang là vấn đề nổi bật.

 

***

 

Con người – một khái niệm rộng lớn và phong phú. Con người là sự tổng hoà các phẩm chất tự nhiên và xã hội. Mỗi con người lại có "bản tính" người. Con người có những "Đặc điểm chung cho mọi con người", nhưng cũng có những nét đặc thù riêng biệt của mỗi cá nhân. Chính những nét đặc thù riêng biệt ấy lại tạo ra sự phong phú, đa dạng nhiều vẻ của con người. Nói đến nhân tố con người không thể chỉ nói đến yếu tố cộng đồng mà điều quan trọng phải khai thác tiềm năng sáng tạo cá nhân của mỗi con người.

 

Tư cách cộng đồng và tư cách cá nhân là những yếu tố xoắn xuýt đan xen trong mỗi con người của mọi thời đại. Do nhu cầu sống của bản thân mình, con người phải luôn luôn gắn mình với một tổ chức nhất định, mỗi người tìm thấy sức mạnh của mình trong sức mạnh cộng đồng và ngược lại sức mạnh mỗi cộng đồng lại chính là sự tổ chức tổng hợp sức mạnh của các cá nhân. Trong những điều kiện nhất định của lịch sử, có thể yếu tố này hay yếu tố kia được bộc lộ phát huy nhiều hay ít, nhưng không bao giờ nó triệt tiêu nhau.

 

Trong các xã hội tiền tư bản, trình độ lực lượng sản xuất xã hội còn thấp kém, con người chủ yếu dựa vào lao động chân tay, các hoạt động sản xuất đa số nhờ vào sức mạnh cơ bắp, yếu tố cộng đồng thường chiếm ưu thế trội. Xã hội nô lệ có được những kỳ quan của thế giới chính nhờ sức mạnh cộng đồng.

 

Thế kỷ thứ 18, sau khi hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp, nền đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa ra đời. Phương tiện lao động từ những công cụ thô sơ được thay thế bằng máy móc. Người lao động làm thuê được "tự do về thân thể" bị cột chặt vào dây chuyền sản xuất tư bản. Giai đoạn lịch sử này chủ nghĩa tư bản tập trung sự chú ý của mình khai thác yếu tố cá nhân. Phương án quản lý sản xuất nổi tiếng một thời là lý thuyết Taylo – lý thuyết Taylo đã khai thác triệt để yếu tố cá nhân trong con người tạo ra hiệu quả cao trong sản xuất tư bản. Yếu tố cộng đồng với tư cách là một phân nhánh của nhân tố sản xuất – người lao động – lúc này so với giai đoạn lịch sử trước nó đã ở vị trí thứ yếu hơn.

 

Ngày nay, chúng ta đang sống trong giai đoạn mà nền sản xuất xã hội đang có những bước phát triển mới với những thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại. Tư cách cá nhân trong nhân tố người lao động lại càng có ý nghĩa quan trọng. Trước kia với nền sản xuất công nghiệp cổ điển, người lao động là vật phụ thuộc vào máy thì ngày nay với nền sản xuất công nghiệp hiện đại; máy là vật phụ thuộc vào sự điều khiển của con người. Con người lập chương trình tính toán và điều hành máy thực hiện phương án của mình. Người lao động trong nền sản xuất hiện đại phải là con người có kiến thức, con người năng động và sáng tạo. Mỗi con người với tư cách cá nhân có vai trò quyết định trong sản xuất và cũng do đó có vai trò lớn tác động đến sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội.

 

Chủ nghĩa tư bản trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21 đã khẳng định tương lai của nó phụ thuộc vào nhân tố con người. Sự khắc biệt giữa các nước không đo bằng sự khác biệt về kinh tế, kỹ thuật mà là sự khác biệt về con người.

 

Qua rất nhiều điều tra xã hội học để tìm hiểu các yếu tố làm tăng năng suất lao động, nhiều nhà khoa học cũng đã có kết luận: tăng những yếu tố về con người làm năng suất tăng 50%. Số 50% còn lại là thuộc về các yếu tố vật chất kỹ thuật và qui trình công nghệ.

 

Con người trong nền sản xuất mà chúng ta nói trong điều kiện hiện nay lẽ tất nhiên phải là con người được bồi dưỡng đào tạo, con người có những tư chất cá nhân, có sở trường và năng khiếu. Đó là con người luôn luôn đóng vai trò chủ động sáng tạo, có tâm lý và sự phản ứng nhanh nhậy đáp ứng được những sự thay đổi nhanh chóng kỹ thuật và các qui trình công nghệ. Con người đó đứng trong guồng máy sản xuất biết sức mạnh của cộng đồng, gắn với cộng đồng nhưng đồng thời cũng biết rõ trách nhiệm cá nhân mình.

 

 

25/12/1990

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

công ty cổ phần – một hình thức kinh tế thực hiện quyền con người về mặt lợi ích kinh tế

-------

 

 

Nguyễn Văn Kỷ

Học viện Nguyễn ái Quốc

 

 

Con người sinh ra phải có một số quyền nhất định. Trong các quyền đó, quyền đầu tiên và cơ bản nhất của con người là quyền được sống.

 

Muốn được sống con người phải có cơm ăn, áo mặc và các phương tiện khác. Vì thế ý thức số một đối với con người là ý thức "kiếm sống".

 

"Kiếm sống" chính là tính cách thoả mãn các nhu cầu đầu tiên là ăn, mặc, ở, đi lại v.v… Mác khẳng định: con người sinh ra trước hết phải lo cơm ăn, áo mặc, nhà ở…rồi sau mới nghĩ đến chuyện học hành, làm chính trị và các hoạt động khác.

 

Bác Hồ trước khi đi xa đã để lại lời di chúc vô vàn thương mến cho đất nước: phải làm sao cho nhân dân ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc…

 

Có thể có một sơ đồ về mối liên hệ giữa các khâu hình thành quyền con người:

 

Quyền số 1 là quyền được sống – muốn sống trước hết con người phải được thoả mãn các nhu cầu tối cần thiết như ăn, mặc, ở…

Muốn thoả mãn các nhu cầu trên con người phải ý thức về nó, nhận thức nó, hành động để thực hiện các nhu cầu đó, như chiếm lĩnh các tư liệu sản xuất, kết hợp tư liệu sản xuất với sức lao động của mình để thoả mãn các nhu cầu trên; tất cả các vấn đề đó được khái quát lại chính là lợi ích kinh tế.

 

Vậy là từ quyền được sống đưa về quyền được hình thành các lợi ích kinh tế

chính đáng, quyền đòi hỏi xã hội phải bảo đảm các lợi ích kinh tế chính đáng đó, quyền được pháp luật thừa nhận thực hiện các lợi ích kinh tế đó.

 

Lợi ích kinh tế được xã hội công nhận đến đâu? Bảo vệ như thế nào và tổ chức thực hiện bằng những hình thức kinh tế gì đó chính là quyền được sống của con người được thực hiện trong thực tiễn.

 

Lợi ích kinh tế làm thành quyền cơ bản số một của con người không chỉ là quyền mà còn là một động lực to lớn thúc đẩy xã hội phát triển. Vì sao vậy? Vì khi con người ý thức được quyền sống của mình, tức là ý thức được các nhu cầu sống…thì họ không chỉ quan tâm đến hàng ngày mà điều quan trọng là con người đem hết tinh lực, trí lực của mình ra thực hiện bằng được các lợi ích kinh tế đó. Họ thực hiện lợi ích kinh tế của mình để chính họ được sống, được thoả mãn các nhu cầu tối cần thiểu. Vì thế đấu tranh để có lợi ích kinh tế trở thành một động lực to lớn thúc đẩy cá nhân và xã hội cùng phát triển.

 

***

 

Có nhiều cách và nhiều hình thức kinh tế để thực hiện lợi ích kinh tế của con người. Lợi ích kinh tế người ta phụ thuộc vào hai nhân tố chủ yếu là: một là địa vị của anh ta trong quá trình tái sản xuất xã hội như thế nào? nếu anh ta là chủ tư liệu sản xuất thực sự do đó làm chủ quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm làm ra thì lợi ích anh ta được bảo đảm thực sự giống như lợi ích kinh tế các ông chủ bà chủ nhà máy, công ty, nhà băng… dưới chủ nghĩa tư bản. Hai là tuỳ thuộc vào tay nghề trình độ chuyên môn và sự bố trí việc làm của xã hội. Người ta thấy rõ có hai người cùng ra chợ: bà chủ và người lao động làm thuê, hai người đó sẽ mua những thứ tư liệu sinh hoạt rất khác xa nhau thậm chí còn cách xa nhau một trời một vực. Vì sao vậy? Vì hai con người đó có hai quyền sống khác nhau, hai lợi ích kinh tế khác nhau, hai cách thoả mãn nhu cầu sống không giống nhau do chỗ họ có địa vị khác nhau trong hệ thống sản xuất xã hội.

 

Sự khác nhau về lợi ích kinh tế đó phát triển đến một độ nhất định sẽ mâu thuẫn gay gắt thậm chí mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế. Để giải quyết mâu thuẫn đối kháng đó xã hội đã chọn con đường cách mạng xã hội, con đường đấu tranh giai cấp. Chính Ang-ghen đã đưa ra chân lý: mọi sự biến của xã hội đều có nguồn gốc từ kinh tế, từ mâu thuẫn kinh tế. Hay nói khác đi quyền con người bị vi phạm hay được thực hiện chủ yếu và trước hết ở lợi ích kinh tế.

 

Trong quá trình xã hội hoá sản xuất chủ nghĩa tư bản vì động lực lợi nhuận đã đưa ra nhiều hình thức kinh tế. Ví dụ kiểu kinh tế chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa một cách cô lập và riêng rẽ. Dần dần, cùng với sự phát triển xã hội hoá sản xuất chủ nghĩa tư bản đã không thể đóng khung các hình thức kinh tế thực hiện lợi ích kinh tế không chỉ không chỉ bằng chiếm hữu tư nhân riêng rẽ nữa mà một hình thức mới công ty cổ phần đã ra đời.

 

Công ty cổ phần thay thế hình thức chiếm hữu tư nhân bằng hình thức chiếm hữu tập thể tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Ngày nay hình thức cổ phần trở thành sở hữu hỗn hợp của nhà tư bản và người lao động làm thuê.

Từ đây tuy sự nhảy vọt thay đổi sở hữu chưa triệt để, song những hình thức sở hữu kiểu các công ty đan chéo nhau kiểu người lao động và nhà tư bản cùng nhau sở hữu. Tức là một kiểu sở hữu tập thể hơn nữa là một sở hữu tập thể chéo.

 

Những hình thức sở hữu kiểu công ty cổ phần ngày một nhiều, điển hình là các công ty cổ phần ở Mỹ đi theo nó là thị trường vốn, thị trường chứng khoán ra đời. Ngày xưa công ty cổ phần như là những hạt cát giữa xa mạc mênh mông thì ngày nay công ty cổ phần kiểu công ty siêu quốc gia, xuyên quốc gia đang trở thành những hình thức thống trị mới về mặt kinh tế.

 

Đứng về quyền con người xét về mặt kinh tế tức là việc thực hiện lợi ích kinh tế của con người thì công ty cổ phần có nhứng tiến bộ nhất định.

 

Về phía nhà tư bản đã có bước nhảy vọt từ chỗ họ chỉ có quyền sở hữu tư bản cá thể, tư nhân riêng rẽ đến chỗ họ có thể sở hữu và sử dụng cả tư bản xã hội do vậy quyền của họ trong hệ thống sản xuất xã hội được nhân lên gấp bội.

 

Những quĩ tiền tệ thế giới mà vốn cấu thành bởi các đóng góp cổ phần, riêng Mỹ đã có 75% cổ phiếu theo luật tiền tệ quốc tế, mọi quyết định chỉ có giá trị khi quá 35% số phiếu. Vậy là chỉ cần Mỹ đồng ý hay không là toàn bộ quyết định được thi hành hay bị đổ nhào. ở đây cái đúng của công ty cổ phần thực hiện quyền con người là ai góp vốn đều có quyền sở hữu, quyền làm chủ về kinh tế. Nhưng cái sai là ở chỗ quy định mọi quyết định phải quá 85% số phiếu. Nhưng dù sao đó vẫn là một sở hữu hỗn hợp người có vốn được làm chủ thực sự.

 

Người công nhân dưới chủ nghĩa tư bản họ là người lao động làm thuê. Nhưng do trình độ phát triển xã hội ngày một cao nên công nhân trở thành thị trường rộng lớn cho chính chủ nghĩa tư bản. Mọi nhu cầu ăn mặc, ở, đi lại của công nhân được nâng lên ở mức có ti vi, tủ lạnh, xe hơi, nhà lầu, máy giặt v.v… Đó chính là nhu cầu sống, là lợi ích kinh tế của tầng lớp công nhân mà cả công nhân và nhà tư bản đều cần như thế; chính chủ nghĩa tư bản đã tìm mọi cách để thoả mãn nhu cầu sống tức là thoả mãn lợi ích kinh tế, thoả mãn quyền sống con người về mặt kinh tế. Vấn đề là thoả mãn bằng cách nào? để công nhân chấp nhận được và nhà tư bản thu lợi nhuận tối đa. chủ nghĩa tư bản đã tìm ra hình thức kinh tế đó chính là quan hệ tín dụng thương mại, chính là sự mua bán chịu giữa nhà tư bản và công nhân. Nhà tư bản trong lúc đang thừa kế hàng, thiếu thị trường tiêu thụ và thiếu sức mua của công nhân, công nhân có nhu cầu nhưng lại không có tiền. Nhà tư bản bằng nhiều cách bán chịu cho công nhân trả tiền dần với các điều kiện như phải mua một số cổ phần của công ty, phải có một số tiền gửi lại tại nhà băng v.v… thế là mũi tên nhà tư bản đã bắn trúng hai đích: một đích là nhà tư bản kéo được công nhân vào các công ty cổ phần để có thêm vốn, để biến tiền thành tư bản, biến tư bản cá biệt thành tư bản xã hội. Đích thứ hai là quan hệ tín dụng làm thoả mãn lợi ích kinh tế cho nhà tư bản và cho cả công nhân buộc công nhân phải lao động tự nguyện suốt đời cho nhà tư bản. Thế là một cơ chế mới mà công nhân vừa là chủ vừa là đầy tớ, một cơ chế cả nhà tư bản và công nhân đều được thoả mãn lợi ích kinh tế. Người công nhân vừa phải làm việc cho chính lợi ích kinh tế của mình lại vừa phải làm việc cho lợi nhuận tối đa của nhà tư bản một cách rất tự nguyện, rất nhiệt tình, đến mức đó là niềm say mê và lòng khát vọng. Đó chính là động lực kinh tế mạnh mẽ mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra. Đó chính là một cách thoả mãn nhu cầu sống, bảo đảm quyền con người. Đó chính là cơ chế làm việc cho mình và cho người khác cùng kết hợp một cách tự nguyện và hài hoà.

 

Chúng ta có ý đồ tốt, có lý tưởng cao cả muốn thực hiện quyền con người một cách đầy đủ và trọn vẹn nhất. Muốn giải phóng con người một cách triệt để v.v…Song tự ý đồ tốt đó lại mang tính chủ quan ước muốn hơn và tính khoa học, tính hiện thực. Chúng ta nóng vội chủ quan thoát ly trình độ xã hội hoá sản xuất, thoát ly trình độ nhận thức và quản lý của con người. Chúng ta đã đưa chế độ công hữu dưới các hình thức sở hữu quốc doanh kinh tế quốc doanh chiếm đến hàng 50 ngàn tỷ tài sản cố định và tài sản lưu động. Nhưng kết quả là quần chúng lao động càng mất quyền làm chủ. Lợi ích kinh tế của họ và của Nhà Nước, của xã hội không bảo đảm kết quả là Nhà Nước chẳng những không thu được lợi nhuận mà còn bù lỗ hàng trăm tỷ đồng. Còn người lao động chán ngán, không muốn làm việc cho ngay cả bản thân mình và cả xã hội.

 

Trên thực tế chúng ta đã tạo ra những hình thức kinh tế mà quyền con người lao động và quyền sở hữu Nhà Nước không được thực hiện.

 

Để thực hiện quyền con người về mặt kinh tế, chúng ta đang từng bước phát triển công ty cổ phần.

 

Vì sao vậy?

Trước hết là vì ta thiếu vốn mà vốn trong dân, vốn nước ngoài thì khá phong phú.

Sau đó vì thực trạng nước ta, trải qua 15 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội cả nước ta đã trả giá quá đắt về cái gọi là sở hữu quốc doanh và sở hữu hợp tác xã.

 

Đó là những hình thức kinh tế thực hiện xã hội hoá về mặt hình thức kết quả

là kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển về hình thức kinh tế, hình thức sở hữu đã bỏ xa thực trạng lực lượng sản xuất và trình độ quản lý. Văn kiện đại hội VI của Đảng đã khẳng định: "Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất"1.

 

Xét về mặt nhân quyền thực hiện lợi ích kinh tế có những hậu quả nặng nề như sau:

Quốc doanh và hợp tác xã hình thức đã biến sở hữu Nhà Nước, sở hữu tập thể và sở hữu người lao động thành vô sở hữu, đến vi phạm lợi ích kinh tế người lao động.

Quần chúng lao động chỉ đóng vai trò làm chủ và sở hữu một cách hình thức, trên thực tế họ đã mất quyền sở hữu, mất quyền quản lý, mất quyền phân phối sản phẩm do chính họ làm ra nên họ từ địa vị làm chủ rơi xuống địa vị làm thuê.

Họ đã phải làm thuê cho một đội ngũ dốt nát, không chịu trách nhiệm gì về tài sản Nhà Nước và lợi ích kinh tế người lao động, còn kém xa trình độ văn minh làm thuê cho nhà tư bản thực thụ.

Tài sản tập thể, tài sản Nhà Nước rơi vào tay một số người mà dù có mất mát hư hao thế nào thì họ cũng không chịu trách nhiệm gì.

Họ sử dụng hàng trăm triệu tài sản của Nhà Nước, của tập thể người lao động mà chính họ không có một tài sản thế chấp nào? không có một luật lệ rằng buộc nào?

Tạo ra một sự phân phối đặc quyền đặc lợi cao độ.

Giám đốc chỉ cần 3 tiêu chuẩn: đi xe hơi không say, đọc được báo cáo tổng kết, đi họp và dự liên hoan tài, còn kinh doanh lỗ lãi, đời sống công nhân ra sao họ ít liên quan ít chịu trách nhiệm, đã có hiện tượng giám đốc giàu lên một cách nhanh chóng còn công nhân thì không có việc làm, không có thu nhập do đó không có lợi ích kinh tế quyền về thực hiện lợi ích kinh tế không được bảo đảm.

Còn chủ nhiệm hợp tác xã thì sao?

Một người làm việc bằng hai để cho chủ nhiệm mua đài mua xe.

Một người làm việc bằng ba để cho chủ nhiệm xây nhà xây sân.

Nhân danh quốc doanh, hợp tác xã tạo ra một sự tham ô, móc ngoặc, buôn lậu, đầu cơ tích trữ ăn chênh lệch giá quá lớn, quá phổ biến hiện nay.

Kinh doanh lương thực để vi phạm quyền người tiêu dùng lương thực.

Tất cả tình hình trên làm cho nhân quyền về mặt lợi ích kinh tế của người lao động của tập thể và của Nhà Nước bị vi phạm một cách thô bạo, nặng nề.

 

 

Một trong những hình thức kinh tế (chứ không phải là hình thức duy nhất) để thực hiện quyền con người về lợi ích kinh tế là công ty cổ phần vì sao vậy?

 

Vì vốn của dân họ có quyền tự chọn tự mua cổ phần ở đâu tuỳ họ.

Họ biến tiền cá biệt thành vốn xã hội. Nhưng họ không mất quyền làm chủ quyền sở hữu, quyền quản lý chi phối và quyền được hưởng lợi tức do tiền vốn của họ làm tiền đề tạo ra lợi nhuận.

Giám đốc là người làm thuê cho họ chứ không phải người đặc quyền đặc lợi làm thiệt hại đến lợi ích của họ.

Muốn được thuê giám đốc phải được tuyển chọn có năng lực kinh doanh thực sự chứ không có quyết định hoàn chỉnh từ trên bổ về.

Giám đốc phải có trách nhiệm cao trách nhiệm làm ra lợi nhuận cho họ do đó bảo đảm thực hiện lợi ích kinh tế cho họ do đó nhân quyền về lợi ích kinh tế của họ được thực hiện.

Giám đốc muốn được thuê: muốn làm giám đốc phải có tài sản thế chấp, phải được họ giám sát thực sự.

Có thể có phá sản, họ có biện pháp chống phá sản đảm bảo lợi ích kinh tế cho cổ đông.

Họ có quyền mua, quyền bán, quyền cầm cố thế chấp các cổ phiếu của họ do đó quyền con người về sở hữu được thực hiện triệt để.

Công ty cổ phần bảo đảm tính tự nguyện, tự chịu trách nhiệm cao để cho người mua cổ phiếu, người bán và người vận hành công ty cổ phần.

 

Trên ý nghĩa đó công ty cổ phần là một hình thức kinh tế thực hiện nhân

quyền về mặt lợi ích kinh tế của nước ta hiện nay.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

File đính kèm downloadTải về