• Thuộc tính
Tên đề tài Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tăng cường sự lãnh đạo của đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh
Nội dung tóm tắt
 
 
 
 
Nội dung toàn văn

Ban nội chính trung ương đảng

 

 

 

 

 

Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ

 

 

 

 

 

Đề tài:

"Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tăng cường sự lãnh đạo của đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh"

 

Mã số: KHBĐ (1999)-19

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hà Nội, 2000

 

Ban nội chính trung ương đảng

 

 

 

 

 

 

Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ

 

 

 

 

 

Đề tài:

"Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tăng cường sự lãnh đạo của đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh"

 

 

 

Mã số: KHBĐ (1999)-19

 

 

 

Chủ nhiệm đề tài:

T.S Lê Mạnh Luân Chánh Văn phòng

Ban Nội chính trung ương Đảng

 

Phó chủ nhiệm:

T.S Nguyễn Văn Quyền

Vụ trưởng Ban Nội chính trung ương

 

Thư ký đề tài:

Cử nhân: Nguyễn Minh Thiện

 

Ban nội chính

*

Số 76-QĐ/NCTW

 

Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2000

 

Quyết định

Về việc thành lập Hội đồng nghiệm thu đề tài khoa học

 

 

- Căn cứ Quyết định lịch số 17-QĐ/Trung ương, ngày 23-12-1991, của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Ban Nội chính Trung ương;

 

- Căn cứ quy định của Bộ khoa học, công nghệ và môi trường về thể thức đánh giá nghiệm thu các công trình nghiên cứu khoa học;

 

- Căn cứ Quyết định số 25-QĐ/KG ngày 27-6-1996 của Ban khoa giáo trung ương về quản lý hoạt động khoa học trong các Ban của Đảng;

 

- Căn cứ hợp đồng nghiên cứu khoa học của các ban Đảng (cấp Bộ) ngày 14-6-1999, mã số: KHBĐ (1999) – 19;

 

- Theo đề nghị của đồng chí Chánh văn phòng;

 

trưởng ban nội chính trung ương

Quyết định

 

Điều 1: Thành lập Hội đồng nghiệm thu đề tài khoa học: "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh" với thành phần:

 

1) Đ/c Phạm Quốc Anh – Q. Trưởng ban Nội chính Trung ương Chủ tịch Hội đồng;

 

2) T.S Lê Đình Khiên – chánh văn phòng Đảng ủy khối nội chính TW – Thư ký Hội đồng;

 

3) T.S Nguyễn Văn Hiện – Chánh án TAND TP Hà nội – phản biện I;

 

4) T.S Chu Văn Thành – Viện trưởng Viện khoa học tổ chức Nhà nước, Ban tổ chức cán bộ Chính phủ – phản biện II;

 

5) T.S Hồ phong Tư - Vụ trưởng Vụ pháp luật, Văn phòng chủ tịch nước – ủy viên;

 

6) T.S Phạm Anh Tuấn – Phó Văn phòng ban khoa giáo Trung ương – ủy viên;

 

7) Đ/c Lê Văn Lân – Phó vụ trưởng, Ban nộ chính Trung ương – ủy viên;

 

Điều 2: Hội đồng có trách nhiệm xem xét đánh giá khách quan kết quả nghiên cứu đề tài theo các thủ tục đã quy định.

 

Điều 3: Đồng chí Chánh Văn phòng Ban Nội chính Trung ương có trách nhiệm tổ chức thi hành Quyết định này.

 

Nơi nhận:

- Các thành viên Hội đồng Q. Trưởng ban

- Ban khoa giáo Trung ương

- Lưu Văn thư

 

danh sách các thành viên nghiên cứu đề tài

1- T.S Lê Mạnh luân – Chánh Văn phòng ban nội chính Trung ương

 

2- T.S Nguyễn Văn Quyền – Vụ trưởng Ban nội chính Trung ương

 

3- T.S Nguyễn Đình Đăng Lục – Phó Vụ trưởng Ban nội chính Trung ương.

 

4- Trần Văn Nho – Phó vụ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra, Công an.

 

5- Dương Xuân Khính – Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

 

6- Trần Văn Tú – Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ, Toà án nhân dân tối cao.

 

7- Nguyễn Hồng Tươi – Phó vụ trưởng vụ quản lý toà án địa phương Bộ tư pháp.

 

8- Nguyễn Khắc Hiếu - Phó cục trưởng cục quản lý thi hành án sự, Bộ tư pháp.

 

9- Trần Đại Hưng – Phó Vụ trưởng Ban Nội chính Trung ương.

 

10- Thạc sỹ Ngô Tự Nam – Phó Vụ trưởng Ban Nội chính Trung ương.

 

11- Trần Đức Hoành – Phó Văn phòng Ban Nội chính Trung ương.

 

12- Thân Minh Thiện – Chuyên viên Ban Nội chính Trung ương.

 

Mục lục

Phần thứ nhất:

Tổng thuật kết quả nghiên cứu đề tài khoa học

 

Mở đầu

 

I/ Vị trí, vai trò của cán bộ tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

 

1. Khái niệm quyền tư pháp, cơ quan tư pháp.

 

2. Vị trí, vai trò của cán bộ tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

II/ Thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp và sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp.

 

1. Khái quát về đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay.

 

2. Sự lãnh đạo của đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp

 

3. Yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp.

 

III/ Một số giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh.

 

1. Mục tiêu, yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp

 

2. Một số giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh

 

Kết luận

 

Phần thứ hai:

Các chuyên đề của đề tài

 

1. Khái niệm quyền tư pháp, các cơ quan tư pháp; đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp và vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước.

 

2. yêu cầu khách quan, tính tất yếu của việc tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với đội ngũ cán bộ trong các cơ quan tư pháp.

 

3. Một số quan điểm trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh.

 

4. Đảng lãnh đạo công tác tổ chức và cán bộ cơ quan điều tra trong ngành công an.

 

5. Đội ngũ kiểm sát viên ngành kiểm sát nhân dân: thực trạng và một số kiến nghị để xây dựng đội ngũ kiểm sát viên trong sạch, vững mạnh.

 

6. Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực của sự lãnh đạo của đảng trong xây dựng đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trong sạch vững mạnh.

 

7. Sự lãnh đạo của Đảng; mối quan hệ giữa các cơ quan trong việc quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương - thực trạng và đôi điều kiến nghị.

 

 

8. Đội ngũ chấp hành viên các cơ quan thi hành án dân sự, thực trạng và đôi điều kiến nghị.

 

9. Công tác kiểm tra của đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp.

 

10. Xây dựng, kiện toàn các tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp .

 

11. Kinh nghiệm của một số nước về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp

 

Phần thứ ba:

Phụ lục và tài liệu tham khảo

 

 

1. Phụ lục

 

 

2. Tài liệu tham khảo

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phần thứ nhất

Tổng thuật kết quả nghiên cứu đề tài khoa học:

"cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tăng cường sự lãnh đạo của đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh"

 

 

Mã số: KHBĐ (1999)-19

 

Mở đầu

 

 

 

Sau khi tuyên bố thành lập nước Việt nam dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ngày 13-9-1945 về thiết lập các Toà án quân sự trong cả nước và ký Sắc lệnh số 13/sắc lệnh ngày 24-01-1946 về tổ chức Toà án và các ngạch Thẩm phán. Tiếp sau đó các chức danh tư pháp khác ra đời và phát triển cùng với Nhà nước cách mạng.

 

Hơn nửa thế kỷ qua, đội ngũ cán bộ tư pháp ngày càng lớn mạnh, trưởng thành và đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa.

 

Trong sự nghiệp đổi mới do Đảng cộng sản Việt nam khởi xướng và lãnh đạo, đội ngũ cán bộ tư pháp luôn phấn đấu rèn luyện, học tập nâng cao nhận thức chính trị, giữ vững phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực chuyên môn để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Cán bộ tư pháp góp phần bảo đảm thực hiện quyền lực Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh phòng, chống vi phạm, tội phạm, bảo đảm an ninh, trật tự xã hội.

 

Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ cán bộ tư pháp cũng còn những hạn chế, yếu kém về năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức. Số lượng, điều kiện công tác, làm việc của cán bộ tư pháp cũng còn bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong thời ký phát triển đổi mới của đất nước.

 

Sự nghiệp đổi mới, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi đội ngũ cán bộ tư pháp phải vươn lên một tầm cao mới, đủ đức đủ tài để hoàn thành nhiệm vụ ngày càng nặng nề, phức tạp hơn. Chính vì thế mà hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII) yêu cầu: "xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức và có năng lực chuyên môn"1

Thực hiện các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương về cải cách tư pháp đã có nhiều công trình khoa học, chuyên đề nghiên cứu về tổ chức, hoạt động và cán bộ của các cơ quan điều tra, kiểm sát, Toà án … Ví dụ như: Đề tài khoa học cấp Nhà nước "cải cách hệ thống tư pháp Việt nam" do Bộ tư pháp chủ trì nghiên cứu (Mã số: 92-98-353); đề tài khoa học cấp bộ "cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án cấp huyện và việc nâng cao hiệu quả của công tác giám đốc tái thẩm (mã số: 96-98-062) được Toà án nhân dân tối cao nghiên cứu năm 1997; Đề tài khoa học cấp bộ "vị trí của điều tra viên trong tố tụng hình sự" do vụ pháp chế Bộ Công an nghiên cứu; chuyên đề về: Người thẩm phán nhân dân của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ tư pháp …

 

Các công trình khoa học, chuyên đề nghiên cứu đó tập trung chủ yếu nghiên cứu về tổ chức, bộ máy của các cơ quan tư pháp chưa có sự nghiên cứu tổng thể về đội ngũ cán bộ tư pháp, đặc biệt là chưa nghiên cứu sâu về sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp.

 

Do vậy, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của một ban tham mưu của Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị về công tác nội chính, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh"

 

Trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp và xây dựng đội ngũ cán bộ, từ thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay, đề tài sẽ nghiên cứu đề xuất với Đảng và Nhà nước một số biện pháp để xây dựng cán bộ tư pháp về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, nâng cao trình độ chuyên môn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương III, Nghị quyết Trung ương VI lần 2 (khoá VIII).

 

Đề tài tập trung nghiên cứu về xây dựng tiêu chuẩn, đào tạo, tuyển chọn, bổ nhiệm, xử dụng, quản lý, kiểm tra, chế độ chính sách đối với các chức danh: điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và chấp hành viên.

 

Các tác giả của đề tài tập trung nghiên cứu về: khái niệm quyền tư pháp, cơ quan tư pháp; khái niệm, vị trí, vai trò của cán bộ tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam; thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp và sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp; một số giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh.

 

Trong nghiên cứu đề tài, các tác giả sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp phân tích, lịch sử, so sánh, thống kê…

Ban chủ nhiệm vàg các thành viên nghiên cứu đề tài đã di khảo sát tại một số cơ quan tư pháp địa phương; trao đổi, thảo luận với nhiều cán bộ lãnh đạo viện kiểm sát, Toà án cấp tỉnh, cấp huyện ở miền núi, nông thôn, đô thị. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã tiếp thu, kế thừa nhiều nội dung của một số công trình khoa học, chuyên đề cải cách tư pháp ở Việt nam. Đồng thời đề tài cũng tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về bổ nhiệm, đào tạo, quản lý các chức danh tư pháp.

 

Những vấn đề mà đề tài trình bày, một số biện pháp mà các tác ghỉa đèe nghị có thể than khảo trong việc hoàn thiện các văn bản pháp luật về tổ chức, bộ máy, cán bộ của các cơ quan tư pháp và vận dụng trong công tác chỉ đạo, quản lý của cấp ủy Đảng và các cơ quan Nhà nước đối với cán bộ tư pháp.

 

I/ Vị trí, vai trò của cán bộ tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam.

 

1. Khái niệm quyền tư pháp, cơ quan tư pháp.

 

1.1. Quyền lực Nhà nước.

 

Quyền lực là làm chủ xã hội, chio phối xã hội. "Đó là quyền cai trị, thống trị xã hội"1. Khi Nhà nước xuất hiện, quyền lực Nhà nước được sử dụng để quản lý xã hội. Trong xã hội có giai cấp, để giành lấy quyền cai trị, thống trị xã hội thì các giai cấp đấu tranh với nhau để chiếm lấy chính quyền. Giai cấp nào giành được quyền lực Nhà nước thì trở thành giai cấp thống trị trong xã hội. Giai cấp đó sẽ sử dụng quyền lực Nhà nước đẻ cai trị xã hội vì lợi ích của giai cấp của mình. xem xét quyền lực Nhà nước trong mối quan hệ giai cấp, trong đấu tranh giai cấp để quyền thống trị xã hội thì đó là quyền lực chính trị. Như vậy quyền lực Nhà nước chính là quyền lực chính trị của giai cấp thống trị được thực hiện bằng Nhà nước.

 

ở nước ta quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Điều 2 Hiến pháp 1992 quy định: "tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức". Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam. Nhân dân làm chủ, quản lý xã hội bằng Nhà nước theo đường lối của Đảng cộng sản Việt nam. Điều đó thể hiện bản chất quyền lực Nhà nước trong chế độ ta; là sự kết hợp hài hoà giữa nguyên tắc quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng cộng sản Việt nam; thể hiện tính chất của dân, do dân, vì dân và sứ mệnh cầm quyền của đảng ta.

 

Theo các nhà sáng lập ra học thuyết tam quyền phân lập thì quyền lực Nhà nước có 3 quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. sự phân chia quyền lực Nhà nước thành 3 quyền như vậy được thừa nhận chung và đã được áp dụng với mức đọ khác nhau để tổ chức bộ máy Nhà nước của nhiều quốc gia trên thế giới.

 

ở nước ta, trong một số tài liêu chính trị, pháp lý cũng có sự thừa nhận chung về nội dung của quyền lực Nhà nước. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII ghi nhận: "quyền lực Nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp".1

 

 

1.2. Quyền tư pháp, cơ quan tư pháp.

 

Theo hiến pháp năm 1787 của Hợp chủng quốc Hoa kỳ, thì quyền tư pháp là quyền xét xử được trao cho Toà án tối cao và Toà án cấp dưới do Quốc hội lập ra.

 

Điều 76 Hiến pháp Nhật bản năm 1947 quy định quyền tư pháp thuộc về Toà án tối cao và Toà án cấp dưới.

 

Trong sách báo chính trị, pháp lý nước ta thì quyền tư pháp và cơ quan rtư pháp cũng còn có quan niệm khác nhau. Các tác giả của cuốn Từ điển Luật học nêu: "Tư pháp chỉ công việc tổ chức giữ gìn, bảo vệ pháp luật"2. Có tài liệu cho rằng "Tư pháp" là hoạt động xét xử có nhiệm vụ duy trì và bảo vệ công lý. Có tác giả nhìn nhận: "Toà án và viện kiểm sát được Quốc hội phân công trực tiếp thực hiện quyền tư pháp"3.

 

Theo chúng tôi quyền tư pháp và quyền xét xử, Toà án và cơ quan tư pháp là các khái niện không đồng nhất. Khái niệm quyền tư pháp, cơ quan tư pháp rộng hơn khái niệm xét xử Toà án theo hiến pháp 1992 và luật tổ chức Việt nam. Quyền xét xử là quyền phán quyết về các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính. Liên quan đến xét xử còn có một số hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, như quyền công tố quyền cưỡng chế thi hành các bản án của Toà án … mà nếu không có các hoạt động này thì việc xét xử của Toà án không thể thực hiện được hoặc không có hiệu quả.

 

Để tìm hiểu khái niệm quyền tư pháp, chúng ta có thể nghiên cứu quan niệm của Bộ Luật hình sự năm 1999 về hoạt động tư pháp. Theo điều 292 Bộ Luật hình sự năm 1999 về hoạt động tư pháp. Theo điều 292 Bộ Luật hình sự năm 1999, thì hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án.

 

Như vậy trong quyền tư pháp có nội dung cơ bản, hạt nhân cốt lõi là xét xử được khách quan công bằng có hiệu lực. Đó là các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, trong đó xét xử là trung tâm, hạt nhân.

Quyền tư pháp là một trong các quyền của quyền lực Nhà nước. Trong việc bảo đảm thực hiện quyền lực Nhà nước, thì mỗi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều có vị trí, vai trò quan trọng. Chỉ tổ chức thực hiện đầy đủ và tốt cả 3 quyền đó thì mới phát huy sức mạnh của quyền lực Nhà nước, trật tự, kỷ cương và hiệu quả quản lý của Nhà nước mới được đảm bảo.

 

Để thực hiện quyền tư pháp, Nhà nước tổ chức, thành lập ra một số cơ quan tương ứng. Đó là cơ quan điều tra, kiểm sát, Toà án, cơ quan thi hành án.

 

Các cơ quan tư pháp đều có nhiệm vụ chung là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.

 

Trong số các cơ quan tư pháp, Toà án có vai trò trung tâm. Toà án là nơi biểu hiện tập trung của quyền tư pháp, nơi mà kết quả của các hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa, giám định…được kiểm tra, xem xét, đánh giá công khai, khách quan, công bằng để đưa ra phán quyết cuối cùng mang tính quyền lực Nhà nước. Toà án là nơi thể hiện tập trung chất lượng hoạt động và uy tín của các cơ quan tư pháp, phản ánh đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất của nền công lý xã hội chủ nghĩa.

 

Các cơ quan tư pháp thực hiện quyền lực Nhà nước bằng phương thức đặc thù thông qua việc xử lý các vụ án cụ thể theo trình tự, thủ tục chặt chẽ trên nguyên tắc khách quan, công bằng và pháp chế.

 

Pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi can thiệp vào công việc của các cơ quan tư pháp, không một cơ quan nào, cá nhân có quyền lực chi phối, "điều khiển" các cơ quan tư pháp trong khi xử lý các vụ việc thuộc thẩm quyền.

 

Điều đó bảo đảm cho các cơ quan tư pháp hoàn thành nhiệm vụ, thực hiện đầy đủ quyền được giao.

 

2.Vị trí, vai trò của cán bộ tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam.

 

2.1 Khái niệm cán bộ tư pháp

 

theo nghĩa rộng thì cán bộ tư pháp là những người làm việc trong các cơ quan tư pháp.

 

Căn cứ vào từng nhiệm vụ của từng cán bộ thì có thể phân những người làm việc trong các cơ quan tư pháp thành 2 loại:

 

+ Cán bộ có chức danh tư pháp. Đó là những người trực tiếp thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của cơ quan tư pháp, như: điều tra viên, kiểm sát, thẩm phán, chấp hành viên…

 

+ Cán bộ hỗ trợ, giúp việc, phục vụ cho hoạt động của cơ quan tư pháp, cho cán bộ có chức danh tư pháp, như: thư ký, trợ lý, nghiên cứu viên, thẩm tra viên, nhân viên hành chính, kỹ thuật…

 

Cán bộ tư pháp theo nghĩa hẹp là chức danh tư pháp.

 

Các chức danh tư pháp gồm:

 

+ Điều tra viên;

+ Kiểm sát viên;

+ Thẩm phán và hội thẩm nhân dân;

+ Chấp hành viên và giám thị trại giam

 

Các chức danh tư pháp đều phải có tiêu chuẩn chung là trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức, có tinh thần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có kiến thức pháp luật, có sức khoẻ và kinh nghiệm công tác nghiệp vụ.

 

Điều tra viên có nhiệm vụ điều tra vụ án hình sự. Điều tra viên có 3 bậc: Cao cấp, trung cấp và sơ cấp.

 

Điều tra viên cao cấp phải có trình độ đại học an ninh, cảnh sát, pháp lý hoặc tương đương, có trình độ nghiên cứu tổng hợp đề xuất biện pháp phòng và chống tội phạm, có kinh nghiệm điều tra các vụ án thuộc loại tội nghiêm trọng, phức tạp, có năng lực chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các hoạt động điều tra.

 

Điều tra viên trung cấp phải có trình độ đại học an ninh, cảnh sát, pháp lý hoặc tương đương, có kinh nghiệm điều tra các vụ án thuộc loại tội nghiêm trọng, phức tạp, có khả năng hướng dẫn, kiểm tra các hoạt động điều tra.

 

Điều tra viên sơ cấp phải có trình độ trung học an ninh, cảnh sát, pháp lý hoặc tương đương và có khả năng điều tra các vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng.

 

Điều tra viên do thủ trưởng cơ quan quản lý từ cấp tỉnh và cấp quân khu trở lên bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan điều tra cùng cấp.

 

Kiểm sát viên có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố.

 

Kiểm sát viên gồm có:

 

+ Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao và viện kiểm sát quân sự Trung ương (gọi chung là Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao);

 

+ Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương(gọi chung là Kiểm sát viên viện kiểm sát cấp tỉnh);

 

+ Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, viện kiểm sát quân sự tỉnh và khu vực(gọi chung là Kiểm sát viên viện kiểm sát cấp huyện).

 

Ngoài tiêu chuẩn chung về chính trị, đạo đức, thì Kiểm sát viên phải tốt nghiệp cao đẳng kiểm sát hoặc đại học luật. Đối với người muốn được bổ nhiệm là Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao thì phải có thời gian công tác pháp luật từ 8 năm trở lên. Điều kiện về thời gian công tác pháp luật đối với người muốn được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên viện kiểm sát cấp tỉnh là 6 năm trở lên và đối với người muốn được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên viện kiểm sát cấp huyện là 4 năm trở lên.

 

Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Kiểm sát viên viện kiểm sát cấp tỉnh và cấp huyện do Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm.

 

Thẩm phán và hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân.

 

Thẩm phán gồm có:

 

+ Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và thẩm phán Toà án quân sự Trung ương (gọi chung là thẩm phán Toà án nhân dân tối cao);

+ Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án quân sự khu vực(gọi chung là thẩm phán cấp huyện)

 

Ngoài tiêu chuẩn chung về chính trị, đạo đức thì người muốn được bổ nhiệm làm thẩm phán phải tốt nghiệp cao đẳng Toà án hoặc đại học luật. Đối với người muốn được boỏ nhiệm làm thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì phải có thời gian công tác pháp luật từ 8 năm trở lên. thời gian công tác pháp luật đối với người muốn được bổ nhiệm làm thẩm phán Toà án cấp tỉnh là 6 năm trở lên và đối với người muốn được bổ nhiệm làm thẩm phán Toà án cấp huyện là từ 4 năm trở lên.

 

Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm với nhiệm kỳ là 5 năm.

 

Hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân tối cao do UB thường vụ Quốc hội cử. Hội thẩm Toà án nhân dân địa phương do hội thẩm nhân dân cùng cấp bầu.

 

Chấp hành viên có nhiệm vụ thi hành các bản án và quyết định của Toà án.

 

Chấp hành viên gồm có:

 

+ Chấp hành viên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

+ Chấp hành viên huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

 

Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm chấp hành viên trưởng và chấp hành viên.

 

Người muốn được bổ nhiệm là chấp hành viên, thì ngoài các tiêu chuẩn chung về chính trị, đạo đức, thì phải tốt nghiệp đại học pháp lý hoặc tương đương; đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án.

 

Giám thị trại giam có nhiệm vụ quản lý, giam giữ, giáo dục người chấp hành hình phạt tù ở trại giam theo quy định của pháp luật.

 

Giám thị trại giam phải là người đã tốt nghiệp đại học an ninh, đại học cảnh sát, đại học luật hoặc tương đương và có kinh nghiệm về công tác quản lý trại giam.

 

2.2. Vị trí vai trò của cán bộ tư pháp.

 

Các cơ quan tư pháp mà nòng cốt là các cán bộ có chức danh tư pháp có vị trí, vai trò quan trọng, to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa. Vị trí, vai trò đó của cán bộ tư pháp được thể hiện qua một số mặt sau:

 

+ Góp phần bảo đảm an ninh, trật tự xã hội

 

Thông qua việc đấu tranh với mọi hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, các cán bộ tư pháp phát hiện, khám phá, trừng trị những phần tử thù địch, phản động chống phá chế độ ta, Nhà nước ta.

 

Mọi hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm đều trực tiếp hoặc gián tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý, trật tự xã hội, ảnh hưởng đến sự ổn định, bền vững của xã hội. Do vậy công tác đấu tranh phòng chống vi phạm, tội phạm của cán bộ tư pháp nhằm duy trì trật tự, kỷ cương; không chỉ buộc người vi phạm phải hành sử theo đúng pháp luật, mà còn tạo nên một môi trường bền vững, an toàn cho mọi cá nhân sinh sống, lao động. Cải tạo tốt một con người phạm tội, không chỉ giúp họ trở thanhg người lương thiện, mà còn mang lại cho xã hội một nhân tố tích cực, có ích, để cho người đó tái hoà nhập vào với cộng đồng.

 

Trong xã hội, các tranh chấp, mâu thuẫn nảy sinh là một hiện tượng tự nhiên và việc giải quyết các xung đột, tranh chấp trong nội bộ nhân dân là việc không thể không làm. Việc các thẩm phán giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính; các chấp hành viên thi hành đúng đắn các bản án đó của Toà án không chỉ khôi phục, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự mà còn góp phần củng cố sự đoàn kết, gắn bó, yêu thương, đùm bọc trong từng gia đình, từng khối phố, thôn xóm…

 

+ Bảo đảm công bằng và duy trì công lý

 

Tư pháp có nghĩa là công bằng, công lý. Mục tiêu, nhiệm vụ của cán bộ tư pháp là bảo đảm sự công bằng, duy trì công lý.

 

Theo quy định của pháp luật, những người phạm tội đều phải bị xử lý. Cá nhân, tổ chức đều có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của mình. Do vậy, khi có tội phạm sảy ra, thì cán bộ bộ tư pháp phải áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật quy định để điều tra, phát hiện kẻ phạm tội, truy tố, xét xử người phạm tội không phân biệt người đó là ai, giữ chức vụ gì. Trước Toà án thì người dân hay cơ quan Nhà nước đều bình đẳng, đều có quyền và nghĩa vụ như nhau.

 

Trong xã hội có nhiều người dân bị thu giữ tài sản, xử phạt, bắt giam một cách vô cớ, oan uổng. Không ít người trong nhiều năm, phải bán nhà lặn lội từ xã lên huyện, tỉnh, Trung ương để khiếu lại về hành vi, quyết định trái luật của viên chức Nhà nước xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do vậy họ cần phải có "Bao công" minh oan cho họ. Các cán bộ tư pháp, bằng lương tâm, trách nhiệm, quyền hạn của mình huỷ bỏ các quyết định sai trái, khôi phục danh dự, quyền lợi, trả lại tài sản cho những ngượi bị oan trái, lập lại lẽ công bằng, bảo vệ chính nghĩa.

 

+ Phát huy dân chủ

 

Sự ra đời của các cơ quan tư pháp là sự phát triển của dân chủ, là kết quả của đấu tranh vì quyền con người. Các cơ quan tư pháp vững mạnh, cán bộ tư pháp có đức có tài thì sẽ trở thành vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.

 

Với ý nghĩa xã hội lớn lao đó, nếu cán bộ tư pháp thực hiện đầy đủ, có hiệu quả quyền tư pháp thì sẽ bảo đảm dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân rồi. Bởi vì họ đã thực hiện quyền lực Nhà nước của chính người dân.

 

Nhân dân là người chủ của quyền lực Nhà nước. Nhân dân ủy quyền cho các cơ quan Nhà nước thực hiện quyền lực của mình. Tuy nhiên, nhiều khi chính một số cán bộ, công chức Nhà nước lại dùng quyền được giao đó để nhũng nhiễu nhân dân. Do vậy các cơ quan tư pháp, cán bộ tư pháp còn làn công cụ, là chỗ dựa để người dân đấu tranh với thói vô trách nhiệm, tệ cửa quyền, hà lạm của không ít nhân viên Nhà nước.

 

II/ Thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp và sự lãnh đạo của đảng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp.

 

1. Khái quát về đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay.

 

1.1. kết quả, thành tích của đội ngũ cán bộ tư pháp.

 

Thấy rõ vị trí, vai trò của cán bộ tư pháp trong xã hội, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ tư pháp.

Sau khi có Hiến pháp 1992, Nhà nước ta hoàn thiện tiêu chuẩn, tăng cường đào tạo, bổ xung lực lượng cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Do có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cộng với nỗ lực rèn luyện, cố gắng, phấn đấu của mình, đội ngũ cán bộ tư pháp đã có bước trưởng thành, tiến bộ.

 

Đội ngũ cán bộ tư pháp không chỉ tăng về số lượng mà còn nâng cao về nhận thức chính trị, trình độ chuyên môn; kiến thức được mở rộng, phong phú, có chiều sâu.

 

Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội bị sụp đổ ở Liên xô và một số nước Đông âu, các thế lực thù địch và phản động quyết liệt chống phá Đảng và Nhà nước ta bằng nhiều hình thức; tình hình kinh tế, xã hội đất nước còn không ít khó khăn, diễn biến phức tạp, nhưng tiuyệt đậi đa số các cán bộ tư pháp có bản lĩnh chính trị rõ ràng, kiên định mục tiêu, con đường mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, trung thành với Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa.

 

Cán bộ tư pháp luôn cố gắng học tập, quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nắm vững pháp luật để vận dụng vào công tác chuyên môn, kết hợp được tính chính trị với tính pháp lý trong khi thực hiện nhiệm vụ.

 

Mặc dù đời sống có nhiều khó khăn, điều kiện làm việc còn thiếu thốn, lại bị những mặt trái của cơ chế thị trường tác đọng, nhưng đại bộ phận cán bộ tư pháp đã gìn giữ được phẩm chất đạo đức, có lối sống trong sáng, lành mạnh.

 

Trong số các điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, chấp hành viên, có nhiều người đã trải qua chiến đấu, lao động, công tác trên nhiều lĩnh vực, dầy dạn kinh nghiệm, lại được đào tạo về pháp lý, chuyên môn nghiệp vụ. Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ tư pháp luôn được bổ sung những người trẻ tuổi năng động, được đào tạo cơ bản có hệ thống ở trong nước và nước ngoài, không chỉ về pháp lý mà cả về quản lý kinh tế, tin học, ngoại ngữ.

 

Do có sự quan tâm của các tổ chức Đảng và lãnh đạo cơ quan về công tác xây dựng Đảng, phát triển Đảng, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, cho nên mấy năm qua tỷ lệ cán bộ tư pháp là Đảng viên tăng, nhiều điều tra viên, Kiểm sát viên thẩm phán, chấp hành viên được học về các lớp về lý luận chính trị.

 

Có thể thấy được sự lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ tư pháp thông qua một số số liệu sau:

 

+ Năm 1998, viện kiểm sát nhân dân các cấp mới có 6800 cán bộ. Đến nay, toàn ngành kiểm sát có 9500 người trong đó có 6019 là Kiểm sát viên (chiếm tỷ lệ 63,3%). Trong số Kiểm sát viên thì tỷ lệ tốt nghiệp đại học luật, cao đẳng kiểm sát là 84%.

 

+ Trước năm 1993, mới có 1992 thẩm phán cấp tỉnh và thẩm phán cấp huyện. Cho đến 30/10/2000 thì đã bổ nhiệm được 3217 thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện. Trong số thẩm phán Toà án nhân dân địa phương có 2718 người có trình đọ đại học và trên đại học (chiếm tỷ lệ 86%). Hiện nay Toà án nhân dân tối cao có 97 thẩm phán. tất cả các thẩm phán của Toà án nhân dân tối cao đều tốt nghiệp đại học luật. Trong đó có 20 người có trình độ trên đại học.

 

+ Năm 1993, khi chuyển công tác thi hành án từ Toà án sang cho cơ quan tư pháp thực hiện, thì mới có 700 chấp hành viên. Sau trên 6 năm xây dựng kiện toàn, hiện nay số chấp hành viên đã tăng lên đến 1703 người. Trong số chấp hành viên có 1580 người tốt nghiệp đại học và tương đương (chiếm tỷ lệ 92%).

 

Đội ngũ cán bộ tư pháp với số lượng được bổ sung, tăng cường, nhận thức về chính trị, trình độ chuyên môn được nâng cao đã đạt được nhiều kết quả, thành tích trong công tác.

 

Trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, số vụ việc mà cán bộ của các cơ quan tư pháp phát hiện, xử lý ngày càng nhiều hơn. Số vụ án mà cơ quan tư pháp khởi tố năm 1994 là 45.265; năm 1995 là 49.797; năm 1996 là 53.218; năm 1997 là 57.513; năm 1998 là 59.344; năm 1999 là 67.182.

 

Thực hiện chương trình đấu tranh phòng chống tội phạm, các cơ quan tư pháp triển khai nhiều biện pháp để tấn công, truy quét, trừng trị nhiều băng nhóm tội phạm, như các toán cướp liên tỉnh, các nhóm cướp giật, các ổ mại dâm, đường dây ma tuý…việc điều tra, khám phá các vụ trọng án, như giết người cướp của nhanh chóng đạt tỷ lệ trên 90%.

 

Một trong những thành tích của các cán bộ tư pháp là việc phát hiện, xử lý nhiều vụ án kinh tế, buôn lậu, ma tuý nghiêm trọng. Mờy năm qua dư luận xã hội xôn xao, bức bối bởi các vụ án mà kẻ phạm tội trong thời gian với sự trợ giúp cấu kết của nhiều cán bộ, nhân viên Nhà nước đã chiếm đoạt, làm thất thoát hàng chục, hàng trăm ngìn tỷ đồng. Các cán bộ tư pháp đã lôi ra trước vành móng ngựa nhiều tên trùm buôn lậu, không ít kẻ tham ô, nhận hối lộ, cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng…trong các vụ án Tamexco, Dệt Nam Định, Tân Trường Sanh, phá rừng ở Tánh linh, Bình Thuận, Epcô-Minh Phụng…Các cơ quan tiến hành tố tụng phải huy động một lực lượng rất lớn các điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán giỏi làm việc căng thẳng quyết liệt hàng năm trời để xử lý nhiều vụ án có hàng chục bị cáo, hàng vạn trang hồ sơ, với nhiều số liệu phải giám định về tài chính rất phức tạp.

 

Cán bộ tư pháp đã báo động về sự thất thoát, ăn chặn tiền của Nhà nước hỗ trợ cho đồng bào dân tộc. Nhiều điều tra viên, Kiểm sát viên lặn lội hàng tháng trời ở Lai Châu, Lào cai…để điều tra, truy tố trước Toà án nhiều kẻ bớt xén tiền trong các dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội ở miền núi.

 

Kết quả mà cán bộ tư pháp đạt được không chỉ là trừng trị kẻ phạm tội, thu lại cho Nhà nước và người dân số tài sản bị chiếm đoạt có giá trị hàng tỷ đồng, mà thông qua các vụ án họ đã phát hiện một số yếu kém, sơ hở trong công tác quản lý cán bộ, quản lý tài sản công, về công tác thanh tra, kiểm tra và đã kiến nghị với Đảng, Nhà nước những biện pháp để khắc phục, chấn chỉnh.

 

Ngoài việc xử lý các vụ án hình sự, cán bộ tư pháp, nhất lag các thẩm phán đã cố gắng giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, hành chính, kinh tế ngày càng tăng về số lượng, phức tạp về tính chất, như các tranh chấp về đất đai, nhà ở, hợp đồng kinh tế …trong việc giải quyết các vụ án dân sự các cán bộ tư pháp luôn cố gắng giải thích, thuyết phục các đương sự hoà giải. Hàng năm, Toà án các cấp hoà giải thành từ 30-40% các vụ án dân sự. Điều đó đã góp phần không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức mà còn làm giảm các mâu thuẫn, xung đột trong nội bộ nhân dân, củng cố sự đoàn kết cộng đồng.

 

Các bản án của Toà án chỉ có hiệu lực thực sự khi được thi hành. Điều đó nói lên vai trò của các chấp hành viên. Sự phức tạp của tình hình thi hành án cũng được giải quyết một phần do tính tích cực, chủ động của nhiều chấp hành viên. Năm 1995 tổng số việc mà cơ quan thi hành án phải thụ lý là 132.000. Đến năm 1998 thì con số đó đã là 252.000 việc (tăng gần gấp đôi). Trong quý IV năm 1999 và 9 tháng năm 2000, các cơ quan thi hành án thụ lý 340.319 việc. Tỷ lệ số việc có điều kiện thi hành mà chấp hành viên đã thi hành chiếm 90%. Số tiền mà chấp hành viên thu về cho người dân và Nhà nước trong năm 1998 là 417 tỷ đồng; trong quý IV năm 1999 và 9 tháng năm 2000 đã thu được 1.365 tỷ đồng.

 

1.2. Một số hạn chế, bất cập, khuyết điểm của đội ngũ cán bộ tư pháp.

 

Số lượng cán bộ tư pháp hiện nay chưa đáp ứng với nhiệm vụ ngày càng nặng nề, phức tạp hơn. Các điều tra viên, Kiểm sát viên … phải căng ra làm việc đêm ngày để giải quyết các vụ án hình sự trọng điểm. Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải chủ trì xét xử và tham gia xét xử phúc thẩm mỗi tháng bình quân trên 30 vụ án các loại. Hàng năm 3 toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao thụ lý khoảng 13.000-14.000 vụ án. Với 66 Thẩm phán thì mỗi tháng cả 3 toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao chỉ xét xử được tối đa khoảng 800 vụ. Do vậy số án tồn lại 3 toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao trong nhiều tháng là trên 3000 vụu.

 

Tại các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa, cán bộ tư pháp không đủ theo số biên chế quy định. Không ít Toà án huyện chỉ có 1 hoặc 2 thẩm phán. theo báo cáo của Chính phủ về công tác quản lý địa phương về mặy tổ chức thì hiện nay còn thiếu 680 thẩm phán của Toà án địa phương và Toà án quân sự. Bình quân 1 năm một chấp hành viên phải thi hành từ 200 đến 300 việc. Cá biệt có chấp hành viên có thể phải thi hành trên 1000 việc trong một năm. Việc quá tải này dẫn đến tình trạng tồn đọng trong công tác thi hành án hiện nay. Năm 1999 còn tồn đọng 97.505 việc, chiếm tỷ lệ 21,21% số vụ án phải thi hành. Trong quý IV năm 1999 và 9 tháng năm 2000, số việc chưa thi hành được còn là 140.249.

 

Đồng thời với số lượng còn thiếu so với nhiệm vụ, trong đội ngũ cán bộ tư pháp còn có nhiều người yếu về trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn. Do không được đào tạo có hệ thống lại thiếu bồi dưỡng thường xuyên cho nên một số cán bộ tư pháp chưa có kiến thức toàn diện, sâu về pháp luật. Do thiếu kinh nghiệm xã hội, ít hiểu biết về thực tiễn cuộc sống và chưa nhạy cảm về chính trị cho nên một số cán bộ tư pháp rất lúng túng trong việc đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật. Từ đó đưa ra quyết định, bản án thiếu cơ sở, không có sức thuyết phục. Người vay tiền đến hạn chưa trả được cũng có thể bị khởi tố, tạm giam, truy tố, phạt tù vài năm. Nhiều vụ án chứng cứ buộc tội yếu, truy tố gượng ép, cho nên Toà án tuyên bố bị cáo không phạm tội. Trong quý IV năm 1999 và 9 tháng năm 2000, các Toà án cấp sơ thẩm tuyên 109 bị cáo không phạm tội; Toà án cấp tỉnh xét xử theo trình tự phúc thẩm tuyên 56 bị cáo không phạm tội. Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao tuyên bố 37 bị cáo không phạm tội. Người dân hoang mang khi đối với cùng một bị cáo trong một vụ án, hôm trước viện kiểm sát cho là không đủ chứng cứ buộc tội nhưng hôm sau lại đề nghị hội đồng xét xử tuyên án tù chung thâm. Trong công tác xét xử dân sự, thì tỷ lệ án sơ thẩm bị sửa, hủy, còn nhiều. Không ít vụ tranh chấp về nhà ở, đất đai kéo dài nhiều năm, qua nhiều cấp xét xử nhưng vẫn không giải quyết dứt điểm được.

 

Do yếu kém về năng lực trình độ, lại còn thiếu trách nhiệm, cho nên khi thi hành nhiệm vụ, cán bộ tư pháp đã để xẩy ra nhiều vụ án oan sai. Chỉ vì không kiển tra kỹ căn cứơc người bị bắt giữ cho nên dẫn đến việc Toà án kết tội oan người vô tội. Không ít bị cáo do sự phối hợp không chặt chẽ giữa các cơ quan tư pháp mà phải nằm ở nhà tạm giam "thêm" hàng năm trời mà không có lệnh ra hạn tạm giam hoặc lệnh tạm giam. Xã hội rất bức bối vì các hành vi thiếu trách nhiệm của cán bộ điều tra, kiểm sát hiếp dâm giết người ở Đầm dơi Cà Mau; hành vi ép phải ép phải nhận tội giết người trong vụ án Bùi Minh Hải ở Đồng Nai; về việc bà Dương thị Nga chỉ vì bị tố cáo là có vay 200.000 đồng mà bị Toà án Quận Hoàn Kiếm, hà Nội phạt 4 tháng tù giam; về trường hợp Nguyễn Đăng toản ở Phú Thọ được xét giảm án rồi đặc xá tha tù khi vụ án vẫn đang bị kháng nghị để xét xử lại…

 

Mấy năm gần đây đã có một số cán bộ tư pháp phải đứng trước vành móng ngựa để chịu sự phán xử, của Toà án vừ hành vi nhận hối lộ, tham ô, thiếu tinh thần trách nhiệm… Trong 3 năm 1997 – 1999, trong ngành kiểm sát có 11 cán bộ bị truy cứu trách nhiệm hình sự; 221 cán bộ bị xử lý kỷ luật. Nhiều người dân mất công, mất của theo đuổi hàng mấy năm trời, để yêu cầu Toà án đòi lại tài sản cho mình, nhưng vẫn phải bỏ thêm tiền thì bản án mới được cơ quan thi hành án tổ chức cưỡng chế thi hành. Những bức xúc, gay gắt trong công tác thi hành án hiện nay có nguyên nhân từ sự thiếu trách nhiệm, nhũng nhiễu của không ít chấp hành viên. trong năm 2000, có 49 cán bộ thi hành án và 40 vụ Toà án địa phương bị kỷ luật. Năm 1999 và 6 tháng đầu năm 2000 có 14 cán bộ công an, 1 cán bộ Toà án và 3 cán bộ thi hành án bị khởi tố về tội chức vụ và xâm phạm hoạt động tư pháp.

 

Hiện nay dù không còn tình trạng công an phải dùng xe đạp để trở bị cáo đến toà. Nhưng những khó khăn thiếu thốn trong công tác vẫn là trở ngại cho việc hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ tư pháp. Chỉ vì không có tiền cho nên một số cơ quan điều tra, viện kiểm sát ở địa phương không thể trưng cầu giám định để vạch mặt kẻ tham nhũng. Do thiếu kinh phí cho nên cơ quan điều tra bó tay không thể bát truy nã được hết kẻ phạm tội chạy trốn. Trong thời đại công nghệ thônh tin hầu hết Toà án cấp huyện phải đánh án văn bằng máy chữ. Không ít đội thi hành án cấp huyện vẫn phải thuê trụ sở hoặc nhờ chỗ làm việc. Hầu hết các cán bộ tư pháp đều sử dụng phương tiện giao thông của cá nhân để phục vụ cho công việc. Có cơ quan công an, kiểm sát phải "nợ" tiền công tác của cán bộ trong nhiều tháng. Do sự giảm sút của tiền lương so với chi phí thực tế, cộng với chế độ phụ cấp hạn hẹp, chắp vá cho nên thu nhập của cán bộ tư pháp thấp ảnh hưởng đến chất lượng công tác, tác động đời sống, tư tưởng của họ.

 

2. Sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp.

 

Cùng với việc lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế, củng cố an ninh, quốc phòng, thời gian qua Đảng ta đã qua tâm đến công tác tư pháp nói chung và việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng thể hiện qua một số nội dung sau:

 

2.1. Xây dựng chủ trương, chính sách định hướng cho việc kiện toàn đội ngũ cán bộ tư pháp trong thời kỳ đổi mới.

 

Sau khi có Hiến pháp 1992, trên có sở lãnh đạo xác định chức năng, nhiệm vụ, xây dựng tổ chức, bộ máy của các cơ quan tư pháp, ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư (khoá VII) và Thường vụ Bộ chính trị đã đề ra mục tiêu và một số giải pháp lớn để xây dựng đội ngũ cán bộ của các cơ quan đó đủ sức gánh vác nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

 

Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 8/11/1993 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII) đã yêu cầu đối với cán bộ tư pháp phải:

 

+ Có quan điển chính trị đúng đắn;

 

+ Có trình độ chuyên môn;

 

+ Có đạo đức công minh, chính trực, liêm khiết.

 

Dựa trên các quan điểm đó, Nhà nước đã ban hành một số văn bản pháp luật về cán bộ của cơ quan tư pháp theo hướng bảo đảm về chính trị, phẩm chất đạo đức và chuẩn hoá về chuyên môn.

 

Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khoá VII) nhấn mạnh đến sự gương mẫu trong khi thi hành pháp luật của cán bộ tư pháp. Các điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên và các cán bộ tư pháp khác phải đi đầu trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng trong xã hội và trong chính các cơ quan tư pháp.

 

Định hướng về việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có phẩm chất chính trị và có năng lực chuyên môn được Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 3 (khoá VIII) tiếp tục khẳng định. Đồng thời Đảng yêu cầu trên cơ sở quy hoách tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ phải xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh tư pháp.

 

Trong hệ thống các cơ quan tư pháp thì các cơ quan điều tra, kiểm sát, Toà án, thi hành án cấp huyện có vai trò rất quan trọng, nhưng lại là khâu yếu nhất hiện nay. Do vậy, Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21-3-2000 của Bộ chính trị về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000 đã yêu cầu các ban cán sự Đảng, thủ trưởng các cơ quan tư pháp chủ động kiện toàn đội ngũ cán bộ tư pháp, mà trước hết chú trọng đến đội ngũ cán bộ ở cấp huyện.

 

2.2. Đào tạo, bỗi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ tư pháp.

 

Trước yêu cầu nhiệm vụ ngày càng to lớn hơn, phức tạp hơn đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, nhiều cấp ủy Đảng, tổ chức Đảng đã chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng các điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên. Sự lớn mạnh của đội ngũ cán bộ tư pháp như đã nêu ở phần 1 mục này có nguyên nhân từ sự quan tâm đào tạo, bồi dưỡng của cấp ủy Đảng, tổ chức Đảng.

 

Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ tư pháp, các cấp ủy Đảng, tổ chức Đảng chú trọng trước hết đến việc quán triệt các quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng ta. Công tác giáo dục tư tưởng của các cấp ủy Đảng, tổ chức Đảng trong các cơ quan tư pháp giúp cho cán bộ tư pháp có nhận thức đúng đắn, bản lĩnh vững vàng để đấu tranh với mọi âm mưu, thủ đoạn "diễm biến hoà bình" của các thế lực thù địch, phản động chống phá Đảng ta; khắc phục những lệch lạc, sai lầm về vai trò lãnh đạo của Đảng và sự độc lập của các cơ quan tư pháp.

 

Nhiều cấp ủy Đảng và tổ chức Đảng trong các cơ quan tư pháp quan lãnh đạo chặt chẽ công tác chuyển chọn các chức danh tư pháp; theo dõi, nhận xét, đánh giá cán bộ để phối hợp vởi thủ trưởng cơ quan bố trí, sử dụng đúng năng lực của cán bộ đảng viên và yêu cầu của nhiệm vụ.

 

2.3. Xây dựng các tổ chức Đảng, chú trọng công tác phát triển đảng trong các cơ quan tư pháp.

 

Ban cán sự đảng, đảng ủy, chi bộ là những tổ chức Đảng trong các cơ quan tư pháp có nhiệm vụ bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan này. Mấy năm qua, Bộ chính trị và nhiều cấp ủy Đảng địa phương đã kiện toàn các ban cán sự, đảng ủy, chi bộ trong các cơ quan công an, viện kiểm sát, Toà án, cơ quan thi hành án về tổ chức và cán bộ, chỉ đạo xây dựng quy chế làm việc, phối hợp hoạt động để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng trong các cơ quan tư pháp ở Trung ương và địa phương.

 

Các cấp ủy Đảng đã chỉ đạo các tổ chức Đảng trong các cơ quan tư pháp quán triệt đường lối, chính sách của đảng, tăng cường công tác giáo dục chính trị, công tác tư tưởng, quản lý đảng viên và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Nhiều chi bộ trong các cơ quan tư pháp đã nghiên cứu cải tiến nội dung và hình thức sinh hoạt để nâng cao chất lượng lãnh đạo của chi bộ đối với Đảng viên trong công tác chuyên môn. Các chi bộ, đảng ủy phối hợp với thủ trưởng cơ quan trong việc đánh giá, phân công, bố trí Đảng viên là cán bộ tư pháp.

 

Các chi bộ, đảng ủy trong các cơ quan tư pháp cũng đã chăm lo công tác phát triển Đảng. Trên cơ sở chú trọng tuyên truyền giáo dục về mục tiêu, lý tưởng, cương lĩnh, đường lối của đảng cộng sản Việt nam, về tiêu chuẩn, nhiệm vụ cùa người Đảng viên, các chi bộ, đảng ủy quan tâm rèn luyện thử thách, giúp đỡ cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên…để kết nạp họ vào Đảng. Hiện nay trong số Kiểm sát viên, Đảng viên chiếm tỷ lệ 92,7%. Trong 5 năm 1996-2000, Đảng bộ khối nội chính Trung ương kết nạp 198 đảng viên (chiếm tỷ lệ 10% tổng số Đảng viên hiện có của đảng bộ). Tất cả thẩm phán Toà án tối cao đều là đảng viên.

 

2.4. Kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp thực hiện Nghị quyết, chỉ thị của đảng.

 

Kiểm tra là một nội dung và là phương thức lãnh đạo của đảng. Kiểm tra giúp các cấp uỷ đảng đánh gía được tư tưởng, nhận thức chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn của đảng viên là cán bộ tư pháp.

 

Thời gian qua, Bộ chính trị, ban bí thư (khoá VII), thường vụ Bộ chính trị, các cấp uỷ đảng ở địa phương đã tăng cường kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của đảng về công tác nội chính.

 

Năm 1993, Ban bí thư trung ương đảng đã chỉ đạo kiểm tra công tác bắt, giam giữ, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

 

Năm 1994, Ban Bí thư Trung ương Đảng lại chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị số 15 – CT/TWngày 20/11/1992 của Bộ chính trị về chống tham nhũng và buôn lậu trong toàn ngành kiểm sát.

 

Trong hai năm 1996 và 1997, Bộ chính trị chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện Chì thị số 15 – CT/TWngày 20/11/1992 và Nghị quyết số 14-NQ/TWngày 15/5/1996 của Bộ Chính trị về chống tham nhũng trong lực lượng công an.

 

Ngoài các cuộc kiểm tra do Trung ương chỉ đạo thực hiện, một số cấp uỷ đảng địa phương đã chủ động tiến hành hoặc chỉ đạo tiến hành các cuộc kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của Đảng trong nhiều lĩnh vực tư pháp, như công tác thi hành án, trong công tác xét xử …

Qua các cuộc kiểm tra đó, các cấp uỷ đảng, tc đảng trong các cơ quan tư pháp thấy được những yếu kém, sai phạm của cán bộ Đảng viên để có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục, kiệm toàn về tổ chức cán bộ.

 

Tuy nhiên trong công tác lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp cũng còn một số hạn chế, thiếu sót như sau:

 

+ Chưa chú trọng chỉ đạo thực hiện cải cách tư pháp, nhất là những vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều tra, kiểm sát, toà án, thi hành án. Một số ban cán sự đảng của cơ quan tư pháp chưa chỉ đạo triển khai thực hiện chủ trương của Đảng về công tác tư pháp thuộc trách nhiệm của ngành mình, như: tổ chức lại cơ quan điều tra, phân cấp thẩm quyền xét xử cho toà án huyện; phân cấp bổ nhiệm thẩm phán; xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh tư pháp, tăng cường kiểm tra, thanh tra hoạt động của cán bộ tư pháp … Điều đó cũng hạn chế đến việc kiện toàn, xây dựng đội ngũ cán bộ điều tra viên, kiểm sát, thẩm phán, chấp hành viên.

 

+ Chưa thật sự quan tâm, chú trọng đến công tác quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là cán bộ chủ chốt của các cơ quan tư pháp và cán bộ tư pháp cấp huyện. Một số cấp uỷ đảng, tổ chức đảng chưa chủ động chuẩn bị cán bộ lãnh đạo của cơ quan toà án, thi hành án… Điều đó dẫn đến sự hẫng hụt cán bộ lãnh đạo của một số cơ quan tư pháp cả ở Trung ương và địa phương. Chính vì thế, có cấp uỷ phải điều động và đề nghị bổ nhiệm những cán bộ thiếu kinh nghiệm công tác tư pháp giữ chức vụ lãnh đạo của cơ quan điều tra, kiểm sát, toà án, thi hành án. Hiện nay vẫn còn một đồng chí giám đốc Sở tư pháp, 18 đồng chí Phó giám đốc Sở tư pháp kiêm trưởng phòng thi hành án; nhiều đồng chí trưởng phòng hoặc phó trưởng phòng tư pháp cấp huyện kiêm đội trưởng Đội thi hành án.

+ Công tác quản lý cán bộ đảng viên chưa chặt chẽ; chưa tiến hành thường xuyên công tác kiểm tra đối với tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp. Ban cán sự đảng của các cơ quan tư pháp Trung ương và tỉnh uỷ, thành uỷ mới chủ yếu theo dõi được cán bộ chủ chốt của cơ quan tư pháp địa phương. Các chi bộ, đảng uỷ chưa thật sự nắm chắc được tư tưởng, nhận thức và họat động của đảng viên là cán bộ tư pháp. Việc kiểm tra của cấp uỷ đảng, tổ chức đảng tiến hành chủ yếu khi có đơn khiếu tố hoặc yêu cầu của cấp trên. Do năng lực lãnh đạo hạn chế công tác quản lý đảng viên yếu kém cho nên nhiều chi bộ không phát hiện được sai phạm của cán bộ đảng viên. Trong tự phê bình và phê bình thì còn nể nang, bao che cho nhau, cho nên việc xử lý của một số chi bộ, đảng bộ trong cơ quan tư pháp đối với cán bộ đảng viên sai phạm không kịp thời và chưa nghiêm.

 

3. Yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp.

 

Do sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động đối với chế độ ta, do tác động của những điều kiện kinh tế, xã hội trong cơ chế thị trường tình hình vi phạm và tội phạm ở nước ta hiện nay diễn biến rất phức tạp và có nhiều động thái mới.

 

Bên cạnh sự chống phá về chính trị, tư tưởng và tiến hành các hoạt động vũ trang, phá hoại, các lực lượng thù địch còn đẩy mạnh việc móc nối thu thập tài liệu bí mật, hoạt động gián điệp, cài cắm người vào các cơ quan, tổ chức của ta để leo cao, chui sâu nhằm chuẩn bị lực lượng lâu dài.

 

Vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức Nhà nước có chiều hướng trầm trọng và nghiêm trọng hơn. Kẻ tham nhũng vẽ đường cho bọn buôn lậu gian thương trốn thuế, thu lợi bất chính, lũng đoạn thị trường, chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Nhiều băng nhóm tội phạm ngang nhiên cướp của, giết người, thanh toán lẫn nhau, tấn công chống trả công an và những người thi hành công vụ khác.

 

Kinh tế thị trường làm cho nhiều thứ trở thành có giá và tạo nên nhiều tranh chấp vì tài sản. Đất đai nhà cửa là những đối tượng của các tranh chấp ngày càng nhiều đó thì không ổn định, thiếu thống nhất. Cùng với sự phát triển của hợp tác quốc tế thì các tranh chấp dân sự, kinh tế, thương mại có yếu tố nước ngoài xảy ra nhiều hơn, đa dạng hơn, phức tạp hơn.

 

Khoa học và công nghệ phát triển tạo nên nhiều thay đổi to lớn trong kinh tế, văn hoá, xã hội. Có nhiều hình thức, phương thức kinh doanh, sản xuất mới. Do vậy kéo theo nó là các tranh chấp, tội phạm mới, như tranh chấp về trái phiếu, cổ phiếu, tội phạm trong lĩnh vực thị trường chứng khoán, tin học, tội rửa tiền…

 

Trong sự nghiệp đổi mới, cán bộ tư pháp phải có tư duy mới, tri thức sâu, kién thức rộng để không chỉ có đủ khả năng ngăn chặn, phát hiện, xử lý mọi hành vi tội phạm bảo vệ trật tự, kỷ cương xã hội, mà còn góp phần bảo vệ, khuyến khích mọi người đang đem tài sản, trí tuệ của mình ra xây dựng đất nước.

 

Như vậy trong thời gian tới công tác tư pháp rất nặng nề, phức tạp đòi hỏi đảng ta phải quan tâm lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp vững vàng về chính trị, có phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới to lớn hơn. Là một đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đảng cộng sản Việt nam cần phải tăng cường lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp để họ thực sự là cán bộ của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam.

 

III/ Một số giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh.

 

1. mục tiêu, yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp

 

Đội ngũ cán bộ tư pháp phải được kiện toàn để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ đất nước nói chung và nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp nói riêng trong thời kỳ tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

 

Sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh. Từ vị trí, vai trò của cán bộ tư pháp trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, thực hiện quyền lực Nhà nước của nhân dân Đảng phải lãnh đạo toàn diện, chặt chẽ đội ngũ cán bộ tư pháp.

 

Cũng như các cán bộ công chức khác trong hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trên cả 3 mặt: Chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống và trình độ chuyên môn.

 

Đội ngũ cán bộ tư pháp phải được tăng cường về số lượng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, được quan tâm hơn nữa về điều kiện làm việc và cuộc sống.

 

Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp phải đặt trong và gắn liền với việc kiện toàn tổ chức và cán bộ của cả hệ thống chính trị.

 

Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, được tiến hành một cách đồng bộ, toàn diện; nhưng cũng có trọng tâm, trọng điểm, có nội dung cấp bách phải làm ngay.

 

Cán bộ tư pháp là cán bộ Nhà nước, là cán bộ của Đảng, là người mà nhân dân ủy nhiệm thực hiện quyền lực Nhà nước của mình. Do vậy trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra, giám sát…cán bộ tư pháp là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, tổ chức đảng, của các cơ quan Nhà nước ở Trung ương

 

2. Một số giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh.

 

Để xây dựng đội ngũ tư pháp đáp ứng được yêu cầu nêu trên, đề nghị các cấp uỷ đảng, tổ chức đảng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một số giải pháp sau đây:

 

2.1. Xây dựng tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức, chuyên môn của cán bộ tư pháp.

 

Như ở phần trên đã trình bày, trong pháp luật hiện hành, đều có quy định tiêu chuẩn chung về chính trị, đạo đức, chuyên môn và thâm niên công tác trong lĩnh vực có liên quan của cán bộ tư pháp. Tuy nhiên một số tiêu chuẩn đó chưa thật cụ thể, chưa hợp lý và có tiêu chuẩn đã bất cập với yêu cầu nhiệm vụ.

 

Để có những chuẩn mực mà dựa trên đó đào tạo, rèn luyện những cán bộ tư pháp có nhận thức, bản lĩnh chính trị sâu sắc, vững vàng, trong sáng, liêm khiết, có kiến thức chuyên môn cao, có kinh nghiệm thực tiễn và tinh thông nghề nghiệp, chúng tôi đề nghị Bộ chính trị lãnh đạo xây dựng nâng cao tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức, chuyên môn, nghề nghiệp của cán bộ tư pháp.

 

Cán bộ tư pháp phải kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà đảng ta, dân tộc ta đã lựa chọn; tuyệt đối trung thành với tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa; quán triệt sâu sắc và đấu tranh bảo vệ đường lối quan điểm của đảng cộng sản Việt nam; chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình" trong lĩnh vực tư pháp.

 

Cán bộ tư pháp phải học tập về lý luận chính trị. Điều tra viên cao cấp, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thẩm phán toà án nhân dân tối cao, lãnh đạo viện kiểm sát nhân dân, toà án nhân dân, chấp hành viên trưởng cấp tỉnh phải học lý luận chính trị cao cấp hoặc cử nhân chính trị. Các chức danh cap cấp khác ở địa phương phải học trung cấp lý luận chính trị.

 

Trong pháp lệnh cán bộ công chức, Pháp lệnh chống tham nhũng và các văn bản pháp luật về cán bộ tư pháp đều có các quy định thể hiện đạo đức của các điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên. Đó là tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân; đấu tranh để bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; công bằng, khách quan; không lợi dụng chức vụ quyền hạn để tư lợi; không nhận quà biếu…

 

Khi điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên thực hiện đầy đủ, đúng quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình thì đã làm trọn đạo đức của người cán bộ tư pháp. Tuy nhiên, cán bộ tư pháp thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định thì cũng chưa đủ. Bởi vì pháp luật không thể dự liệu hết những ứng xử, những việc phải làm, nên làm, những điều cần phải tránh… của cán bộ tư pháp trong khi thi hành nhiệm vụ. Lúc này, quyb phạm đạo đức sẽ phát huy vai trò để lấp đầy khoảng trống thiếu hụt đó của pháp luật. Đạo đức sẽ bổ sung, hỗ trợ cho pháp luật điều chỉnh hành vi của cán bộ tư pháp để họ thực hiện bổn phận của mình ở mức cao nhất.

 

Vai trò đầu tiên của đạo đức là đề cao trách nhiệm của cán bộ tư pháp. Người cán bộ tư pháp không chỉ thực hiện đúng, đầy đủ mà còn phải thực hiện tốt nhất quyền hạn, nghĩa vụ của mình. Nhanh chóng, kịp thời giải quyết các đề nghị, khiếu nại của người dân; xử dụng các quyền hạn mà pháp luật trao cho mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức là thể hiện đạo đức của người cán bộ tư pháp xã hội chủ nghĩa.

 

Thái độ khi tiếp xúc bảo với dân là vấn đề đạo đức của người cán bộ tư pháp. Trong khi thực thi công vụ, không ít cán bộ tư pháp ngạo mạn, thô lỗ, miệt thị, thậm trí chửi mắng đương sự. Hồ Chủ Tịch phê phán "Thậm trí có ông tư pháp khi xử kiện bắt tội nhân quỳ trước thềm đánh đập, chửi mắng tội nhân, hách dịch đúng như những "ông quan", "ông thanh tra" dưới thời Pháp thuộc, Nhật thuộc"1

 

 

Lắng nghe người dân trình bày, bình tĩnh giải thích cho đương sự về quyền và nghĩa vụ của họ, kiên trì thuyết phục người sai phạm thấy rõ khuyết điểm, thiếu sót của họ vừa thể hiện đạo đức, văn hoá của cán bộ tư pháp vừa là nghệ thuật nghề nghiệp của các điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán…

 

Đạo đức của cán bộ tư pháp không chỉ thể hiện trong quan hệ với nhân dân mà còn thấu suốt trong quan hệ với đồng nghiệp, đồng chí. Tận tình giúp đỡ đồng nghiệp, khiêm tốn học hỏi đồng chí; thẳng thắn phê bình, góp ý với anh chị em trong cơ quan; lắng nghe sự phê bình, chân thành nhận và sửat chữa những khuyết điểm của mình là phẩm chất đạo đức của cán bộ của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa. Nghiêm cấm việc sử dụng "thủ đoạn, mánh khoé" nghề nghiệp để gài bẫy, bức hại lẫn nhau.

 

Bất cứ người cán bộ nào cũng phải phấn đấu thực hiện lời dạy của Hồ Chủ Tịch về cần kiệm liêm chính chí công vô tư. Đối với cán bộ tư pháp thì đạo đức cách mạng đó lại càng có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên mà trong sáng thì mới có tâm, có thế để chống lại tham ô, hối lộ, tiêu cực.

 

Để giúp cho cán bộ tư pháp thực hiện đúng, đầy đủ, tốt các nhiệm vụ của họ cần phải xây dựng tiêu chuẩn cụ thể về đạo đức của cán bộ tư pháp. Tiêu chuẩn đạo đức của cán bộ tư pháp tập trung vào đức tính, phẩm chất sau:

 

+ Tận tuỵ phục vụ nhân dân;

 

+ Tận tâm, tận lực để hoàn thành nhiệm vụ với hiệu quả cao nhất;

 

+ Công bằng, khách quan, trung thực, nhân ái;

 

+ Liêm chính, tiết kiệm;

 

+ Khiêm tốn, trong sáng trong công việc và cuộc sống.

 

Các tiêu chuẩn về đạo đức đó vừa được quy định trong các văn bản pháp luật về cán bộ tư pháp vừa thể hiện trong các quy chế đạo đức của từng chức danh điều tra viên, Kiểm sát viên, hội thẩm nhân dân, chấp hành viên. Trên cơ sở các tiêu chuẩn đạo đức đó mà xem xét, bổ nhiệm và tiến hành giáo dục, xây dựng phẩm chất "Công minh, chính trực, thận trọng, khách quan, khiêm tốn" cho cán bộ tư pháp.

 

Về chuyên môn, cán bộ tư pháp phải tốt nghiệp đại học luật hoặc đạo học chuyên ngành phù hợp (đại học an ninh, đại học cảnh sát) và đươc đào tạo về nghiệp vụ của từng chức danh.

 

Kinh nghiệm công tác là một yếu tố của trình độ của cán bộ tư pháp. Công việc của cán bộ tư pháp đòi hỏi tính chuyên môn, nghề nghiệp cao. Cán bộ tư pháp ở mỗi cấp cần phải có thời gian để tích luỹ kinh nghiệm trong nghề nghiệp. Cán bộ làm việc cơ quan tư pháp cấp trên, cơ quan tư pháp trung ương thì kinh nghiệm công tác phải uyên thâm hơn. Do vậy đề nghị nâng cao tiêu chuẩn về thời gian công tác đối với người được bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp của cơ quan tư pháp Trung ương.

 

Các cơ quan công an, thanh tra, kiểm sát, Toà án, tư pháp là những cơ quan thực hiện nhiệm vụ cùng tính chất, liên quan, hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Do vậy cán bộ của các cơ quan này có nghề nghiệp gần gũi, rất gắn bó, có thể dễ dàng đảm nhiệm công việc của nhau.

Để đảm bảo yêu cầu về nghề nghiệp và bổ sung, luân chuyển, điều động được cán bộ cho các cơ quan tư pháp , đề nghị quy định điều kiện về kinh nghiệm ccông tác đối với những người được bổ nhiệm vào chức danh tư pháp là thời gian công tác trong các cơ quan bảo vệ pháp luật (công an, thanh tra, kiểm sát, toà án, tư pháp).

 

2.2. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ tư pháp.

 

Để đảm bảo đào tạo được đội ngũ cán bộ tư pháp có trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới, đề nghị Bộ chính trị lãnh đạo, chỉ đạo việc nghiên cứu tổ chức, sắp xếp, phân công lại việcđào tạo cán bộ tư pháp.

 

Phần lớn các môn học , khoa luật ở nước ta. Thành lập những hội đồng có sự tham gia của các cơ quan Đảng, Nhà nước ác trường đại học luật là khoa học xã hội thể hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về lĩnh vực pháp lý. Để có sự quán triệt, nhận thức sâu sắc về quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật thì cần có sự chỉ đạo xây dựng thống nhất nội dung của các giáo trình, tài liệu giảng dạy trong các trường, khao luật ở nước ta. Thành lập những hội đồng có sự tham gia của các cơ quan Đảng, Nhà nước có trách nhiệm để xem xét, đánh giá các giáo trình, các môn học về Nhà nước và pháp luật.

Phân công các trường đại học luật đào tạo kiến thức chung, cơ bản về pháp lý. Các cơ sở bồi dưỡng của các cơ quan tư pháp thì có nhiệm vụ đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ của từng ngành. Cán bộ điều tra do các trường của Bộ Công an đạo tạo, bồi dưỡng. Trường của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đào tạo Kiểm sát viên. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thì do trường của Toà án nhân dân tối cao đào tạo, bồi dưỡng. Việc đào tạo các cán bộ tư pháp khác giao cho Bộ tư pháp đảm nhiệm.

 

Các cấp ủy Đảng, tổ chức đảng phải thưởng xuyên chăm lo giáo dục nâng cao nhận thức chính trị do cán bộ tư pháp; Quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta cho điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên cũng như các cán bộ tư pháp khác. Cán bộ tư pháp phải được định kỳ học tập, bồi dưỡng, tập huấn về các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các văn bản pháp luật, các chuyên đề kinh tế, xã hội liên quan đến hoạt động của các cơ quan tư pháp.

 

Trong nhưng năm đầu của thế kỷ mới, sớm lựa chọn những cán bộ tư pháp trẻ, có bản lĩnh chính trị, có năng lực cho đi học ở nước ngoài theo một số chuyên ngành cần thiết để đào tạo lớp cán bộ pháp luật đầu ngành phục vụ cho việc hội nhập về nhiều mặt của nước ta với thế giới trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

 

2.3. Đổi mới công tác quản lý, tuyển chọn, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ tư pháp.

 

Cán bộ tư pháp thực hiện quyền lực tư pháp, có nhiệm vụ bảo đảm sự thống nhất của pháp luật; bảo đảm trật tự, kỷ cương. Với tính chất như vậy, thì việc quản lý cán bộ tư pháp theo nguyên tắc tập trung thống nhất. Cán bộ tư pháp do cơ quan Nhà nước Trung ương quản lý có sự tham gia của chính quyền địa phương. Việc bổ nhiệm cán bộ tư pháp do cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương quyết định. Chính quyền địa phương thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và hỗ trợ hoạt động của các cán bộ tư pháp.

 

Các cấp ủy đảng, tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp chủ động lãnh đạo việc xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ tư pháp; lựa chọn, bố trí đúng cán bộ chủ chốt trong các cơ quan tư pháp.

 

Để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, các cấp ủy lựa chọn, giới thiệu để đại hội đảng các cấp bầu những đồng chí lãnh đạo các cơ quan tư pháp có đức có tài vào ban chấp hành đảng bộ; đồng thời kiện toàn củng cố các cơ quan tham mưu của cấp ủy để giúp đảng lãnh đạo chặt chẽ, toàn diện đối với các cơ quan tư pháp.

 

Thực hiện chủ trương của ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3(khoá VIII) về giao cho một cơ quan quản lý tập trung thống nhất công tác thi hành án, chúng tôi đề nghị giao cho Bộ tư pháp đảm nhiệm công tác quản lý thi hành án dân sự, hình sự, hành chính. Bộ tư pháp quản lý các cán bộ có nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Toà án (chấp hành viên, giám thi trại giam).

 

Hiện nay công tác quản lý cán bộ của các Toà án địa phương (trong đó có thẩm phán) do Bộ tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ của Toà án nhân dân tối cao. Trong công tác quản lý đội ngũ cán bộ Toà án địa phương có một số bất cập, vướng mắc ảnh hưởng đến việc kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các thẩm phán Toà án địa pjương. Đó là khó khăn trong việc bổ sung, điều động, luân chuyển thẩm phán; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Toà án địa phương chưa kịp thời, đầy đủ; kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của thẩm phán thiếu thường xuyên, chặt chẽ và thống nhất… những hạn chế đó có nguyên nhân từ cơ chế quản lý Toà án địa phương hiện nay. Đây cũng là một trong những nguyên nhân của sự yếu kém hiện nay của đội ngũthẩm phán Toà án địa phương.

 

Để quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các thẩm phán Toà án địa phương chúng tôi kiến nghị đổi mới phương thức quản lý đội ngũ cán bộ Toà án địa phương như sau:

 

+ Trước mắt Bộ tư pháp bổ nhiệm cho Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh quản lý cán bộ Toà án cấp huyện;

 

+ Nghiên cứu chuyển giao cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức (bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra, giám sát, khen thưởng, kỷ luật…)

 

+ Hoạt động của cán bộ tư pháp có tính chuyên môn cao. Do vậy việc đánh giá trình độ, năng lực, sử dụng đúng khả năng cán bộ chủ yếu phải do các nàh chuyên môn, các chuyên gia đảm nhiệm. Chúng tôi đề nghị đổi mới cách đánh giá khi thi tuyển chọn cán bộ tư pháp theo hướng tôn trọng ý kiến các chuyên gia cùng nghề nghiệp, ý kiến của cơ quan chuyên môn cấp trên.

 

Hiện nay cán bộ tư pháp được bổ nhiệm từ ba nguồn chủ yếu:

 

+ Những cán bộ chuyên viên đang công tác tại cơ quan tư pháp có nhu cầu bổ nhiệm cán bộ có chức danh tư pháp;

 

+ Cán bộ có chức danh tư pháp của cơ quan tư pháp cấp dưới;

 

+ Những cán bộ làm công tác pháp luật ở các cơ quan tổ chức khác.

 

Thực tế công tác bổ nhiệm cán bộ tư pháp thời gian vừa qua cho thấy cán bộ tư pháp được bổ nhiệm phần lớn là những ngươi đang công tác ở cơ quan tư pháp có nhu cầu (chuyên viên, thư ký, trợ lý…). Sinh viên tôt nghiệp đại học luật về công tác tại Viện kiểm sát tỉnh, Toà án tỉnh sau 6 năm là có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên, thẩm phán của viện kiểm sát, Toà án cấp tỉnh. Điều đó cũng ảnh hưởng đến chất lượng công tác của đội ngũ cán bộ tư pháp. Chúng tôi đề nghị cần xác định cán bộ của cơ quan tư pháp cấp trên được bổ nhiệm chủ yếu là từ cán bộ tư pháp cấp dưới. Đồng thời với việc xác định nguồn cán bộ của cơ quan tư pháp như vậy, cần phải thường xuyên luân chuyển cán bộ tư pháp từ Trung ương về công tác tại địa phương, từ tỉnh về huyện, từ địa phương này sang địa phương khác công tác. Thay đổi môi trường công tác, lăn lộn từ dưới lên giúp cho cán bộ tư pháp tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, củng cố kiến thức, rèn luyện bản lĩnh nghề nghiệp, nghệ thuật quản lý, lãnh đạo. Đào tạo, quản lý cán bộ theo phương thức như vậy không chỉ giúp cho cán bộ tư pháp vững vàng khi đảm nhiệm cương vị cao hơn mà còn hạn chế được sức ỳ, bén rễ của cán bộ tư pháp.

 

Theo chỉ thị số 34/CT-TW ngày 18/3/1993 của Ban Bí thư (khoá VII), cấp uỷ đảng, tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp đều tham gia việc tuyển chọn thẩm phán. ở nhiều tỉnh, thành phố cấp uỷ đảng còn tham gia vào việc tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm Kiểm sát viên, chấp hành viên. Sự quan tâm đó đã giúp cho việc đánh giá, lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ tư pháp đạt kết quả. Để tăng cường trách nhiệm, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, đề nghị Bộ chính trị quy định các cấp huyện uỷ, tỉnh uỷ phải chỉ đạo chặt chẽ việc lựa chọn, có ýkiến với các cơ quan có thẩm quyền về những người được đề nghị bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp.

 

Thường xuyên theo dõi, nhận xét, đánh giá về tinh thần trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, chất lượng công tác của cán bộ là một nội dung trong công tác quản lý cán bộ tư pháp. Đó cũng là yêu cầu của nghị quyết Ban chấp hành Trung ương lần thứ 3 khoá VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện chủ trương đó của đảng, các cấp uỷ đảng, tổ chức đảng, thủ trưởng các cơ quan tư pháp phải chỉ đạo chặt chẽ, tiến hành nghiêm túc công tác đánh giá cán bộ tư pháp. Hàng năm hoặc trước khi được tái nhiệm, việc đánh giá cán bộ tư pháp do cấp uỷ đảng hoặc cơ quan quản lý cấp trên phối hợp chỉ đạo tổ chức đảng, thủ trưởng của cơ quan tư pháp tiến hành. Phải lấy ý kiến tín nhiệm về chất lượng công tác và đạo dức lối sống của những người được đề nghị bổ nhiệm hoặc tái nhiệm.

 

2.4. Đẩy mạnh giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động của cán bộ tư pháp.

 

Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương ba (khoá VIII) định hướng công tác giám sát của Quốc hội tập trung vào một số lĩnh vực trong đó có hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.

 

Để nâng cao hiệu quả công tác giám sát nói chung và giám sát tư pháp nói riêng của Quốc hội, chúng tôi kiến nghị nên nghiên cứu thành lập một cơ quan giám sát chuyên trách của Quốc hội. Cơ quan này có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của các cơ quan tư pháp; đánh giá về chất lượng, hiệu quả công tác của các cơ quan tư pháp; kiểm tra và có ý kiến kết luận về một số khiếu nại, tố cáo của công dân đối với việc xử lý của các cơ quan tư pháp Trung ương.

Hội đồng nhân dân mà ban pháp chế có vai trò chủ trì phối hợp với các ban đảng, tổ chức xã hội có liên quan tập trung giám sát, kiểm tra việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp về việc bắt, giam giữ, cải tạo ; về việc giả quyết các khiếu nại tố cáo của công dân; về công tác thi hành án dân sự. Hội đồng nhân dân xem xét lựa chọn đẻ bầu những người có phẩm chất đạo đức, có kiến thức pháp lý, kinh ngiệm xã hội, có uy tín làm hội thẩm nhân dân cùng với thẩm phán bảo vệ , duy trì công lý.

 

Các chi bộ, đảng uỷ trong các cơ quan tư pháp làm tốt công tác tự kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên. Trong sinh hoạt đảng, chi bộ nghe báo cáo và góp ý về kết quả công tác của đảng viên để kịp thời phát hiện, uốn nắn lệch lạc, sửa chữa sai phạm, xử lý người vi phạm.

 

Các cấp uỷ đảng thường xuyên kiểm tra các tổ chức đảng, đảng viên trong các cơ quan tư pháp về thực hiện đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của đảng, nhất là việc vận dụng những quan điểm, chủ trương của đảng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Ban cán sự đảng các cơ quan tư pháp ở Trung ương, cấp uỷ đảng ở địa phương chỉ đạo giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân đối với các cán bộ tư pháp; kỷ luật nghiêm cán bộ vi phạm, phạm tội, kiên quyết thay thế những người thiếu tinh thần trách nhiệm, năng lực yếu kém, tiêu cực. Nghiên cứu thành lập hội đồng xem xét kỷ luật đối với cán bộ tư pháp vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp.

 

Bố trí những đồng chí có trình độ, có bản lĩnh và phẩm chất đạo đức làm công tác thanh tra của các cơ quan tư pháp. Kiện toàn các tổ chức thanh tra của Bộ công an, viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp về nhiệm vụ và quyền hạn để nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra đối với cán bộ tư pháp.

 

Kết hợp chặt chẽ công tác kiểm tra của Đảng với công tác kiểm tra, thanh tra của các cơ quan Nhà nước đối với cán bộ đảng viên trong các cơ quan tư pháp bảo đảm sự thống nhất và hiệu quả trong công tác kiểm tra, thanh tra chung của Đảng và Nhà nước.

 

Các tổ chức xã hội thông qua mạng lưới của mình tại cơ quan tư pháp,khu dân cư để theo dõi, kiểm tra cán bộ tư pháp trong công tác và trong quan hệ xã hội. Từ đó có những ý kiến nhận xét, đánh giá khách quan, đúng đắn giúp Đảng và Nhà nước quản lý đội ngũ cán bộ tư pháp.

 

Thực hiện chủ trương lấy ý kiến nhân dân ở nơi cư trú về cán bộ khi họ được bổ nhiệm chức danh tư pháp. Thông qua tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức xã hội ở khu dân cư, các cơ quan có trách nhiệm có được những nhận xét của nhân dân về tác phong, lôi sống, quan hệ, sự gương mẫu… của các cán bộ tư pháp để bổ nhiệm cán bộ có đủ đức có tài, để tăng cường giáo dục, quản lý chặt chẽ cán bộ.

 

2.5. Tăng cường công tác xây dựng đảng trong các cơ quan tư pháp.

 

Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương (khoá VIII) nêu rõ vai trò của các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan Nhà nước. tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan Nhà nước vừa là hạt nhân lãnh đạo chính trị các tổ chức đó, vừa làm tham mưu cho đảng về chủ trương, chính sách đối với những lĩnh vực có liên quan. Vai trò đó của các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp lại càng có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì, như trên đã phân tích, cơ quan tư pháp, điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên có quyền hạn rất lớn lại được thực thi trong một phạm vi độc lập tương đối cao.

 

Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp nói chung và đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng, các cấp ủy đảng phải kiện toàn, củng cố vững chắc các chi bộ, đảng ủy, ban cán sự trong các cơ quan đó. Trước mắt tập trung kiện toàn các tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp cấp huyện. Xác định rõ nhiệm vụ của từng tổ chức đảng, giới thiệu những đảng viên có tâm huyết, năng lực, kinh nghiệm để tham gia vào chi ủy, đảng ủy cơ quan. Xây dựng quy chế làm việc trong từng tổ chức đảng; định rõ quan hệ giữa ban cán sự với đảng ủy, giữa tổ chức đảng với thủ trưởng cơ quan để phố hợp hoạt động cùng thực hiện nhiệm vụ chung là quản lý và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh.

 

Chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về Đảng cho các cán bộ tư pháp, giúp đỡ họ trở thành đảng viên. Phấn đấu để tất cả các cán bộ có chức danh tư pháp đều là đảng viên.

 

Các tổ chức đảng thường xuyên giáo dục các đảng viên phải luôn rèn luyện, học tập nêu cao tính tiên phong gương mẫu để thực hiện vai trò lanhx đạo của mình trong các cơ quan tư pháp.

 

2.6. Xây dựng chế độ chính sách đối với cán bộ tư pháp.

 

Xây dựng chính sách đối với cán bộ tư pháp cho phù hợp với tính chất lao động, đặc thù nghề nghiệp của họ. Căn cứ vị trí, vai trò, đặc điểm công vụ của các cán bộ tư pháp cần xác định các cơ quan tư pháp, cán bộ tư pháp không như các cơ quan hành chính, các công chức hành chính khác. các cơ quan tư pháp là các cơ quan bảo vệ pháp luật. Cán bộ tư pháp có nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật, các loại tội phạm để bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Với lao động đặc thù và sứ mện cao cả đó, cán bộ tư pháp phải được Đảng, Nhà nước quan tâm hơn nữa.

 

Đề nghị Nhà nước xây dựng ngạch lương của cán bộ tư pháp cao nhất trong hệ thống lương của cán bộ công chức. Trước mắt, thực hiện việc điều chỉnh mức lương khởi điểm của cán bộ trong các cơ quan tư pháp. Quy định kinh phí hoạt động của các cơ quan tư pháp theo số lượng, tính chất phức tạp của công việc mà các cơ quan đó thực hiện. Không xác định kinh phí hoạt động của các cơ quan tư pháp theo biên chế.

 

Xây dựng tiền lương của cán bộ tư pháp vừa bảo đảm sự phấn đấu lâu dài của điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên; không bị ràng buộc cứng nhắc bởi việc họ công tác ở cơ quan tư pháp cấp nào hoặc hạn chế sự điều động cán bộ xuống cơ quan tư pháp cấp dưới công tác.

 

Tự hào, gắn bó với nghề nghiệp là một yếu tố góp phần nâng cao chất lượng công tác, giữ gìn phẩm chất người cán bộ tư pháp. Do vậy đề nghị quy định về phụ cấp thâm niên cho cán bộ tư pháp để họ yên tâm công tác, đem hết khả năng phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ công lý.

 

Mấy năm qua, các cơ quan tư pháp xử lý một số vụ án rất lớn, phải huy động rất nhiều người tốn hàng tỷ đồng cho chúng tôi điều tra, xét xử, thi hành án. Trong hoạt động của các cơ quan tư pháp, các điều tra viên, Kiểm sát viên … cần phải có những phương tiện hiện đạt để phát hiện tội phạm, giám định tài liệu, tài sản. Nhưng chi phí như vậy, nhiều khi ngân sách của các cơ quan tư pháp không thể tự dự liệu từ trước được. Do vậy, đề nghị thành lập quỹ hỗ trợ tư pháp. Nguồn tài chính của quỹ hỗ trợ tư pháp do ngân sách Nhà nước cấp, từ các khoản án phí, tiền bán tang tài vật, tiền tài trợ của các tổ chức trong nước và nước ngoài… Quỹ hỗ trợ tư pháp phục vụ cho việc xử lý các vụ án lớn, trang bị phương tiện làm việc cho cán bộ tư pháp, khen thưởng cho những người có công trong công tác đấu tranh chống tội phạm.

 

Đề nghị cho áp dụng chế độ kéo dài thời gian công tác đối với một số Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã đến tuổi nghỉ hưu, nhưng có năng lực trình độ, sức khoẻ tốt như là đối với các chuyên gia cao cấp, cán bộ khoa học đầu ngành.

 

kết luận

 

 

Công tác cán bộ là vấn đề sống còn đối với đảng cầm quyền. Do vậy đảng ta phải thường xuyên chăm lo đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, trong đó có cán bộ tư pháp.

 

Từ thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay, trước yêu cầu, nhiệm vụ sắp tới của đất nước, xây dựng đôị ngũ cán bộ tư pháp là một vấn đề vừa lâu dài vừa cấp bách.

 

Trong đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp thì những cán bộ có chức danh tư pháp có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng, quyền lực Nhà nước, quyền dân chủ của người dân. Do vậy trước tiên cần phải chăm lo kiện toàn, xây dựng đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp.

 

Sau khi nêu quan niệm về tư pháp,cơ quan tư pháp; vị trí, vai trò của cán bộ tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam, Đề tài nhấn mạnh: tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp, quản lý đội ngũ cán bộ tư pháp dựa trên nguyên tắc tập trung thống nhất.

 

Các tác giả của đề tài nêu khái quát thành tích, kết quả cũng như một số hạn chế, bất cập, khuyết điểm hiện nay của đội ngũ cán bộ tư pháp; sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp; đề cập đén yêu cầu Đảng ta phải tăng cường lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh.

 

Trong Đề tài, sau khi nêu mục đích, yêu cầu, các tác giả kiến nghị 6 nhóm giải pháp có tính định hướng để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, như sau:

 

+ Xây dựng tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức, chuyên môn của cán bộ tư pháp.

 

+ Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ tư pháp.

 

+ Đổi mới công tác quản lý, tuyển chọn, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ tư pháp.

 

Đẩy mạnh giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động của cán bộ tư pháp.

 

+ Tăng cường công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan tư pháp.

 

+ Xây dựng chế độ chính sách đối với cán bộ tư pháp.

 

Những kiến nghị nêu trên là sự quán triệt, cụ thể hoá những quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ về cải cách tư pháp, về công tác cán bộ trong Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khoá VII), Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương lần thứ 3 (Khoá VIII), Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21-3-2000 của Bộ chính trị về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000.

 

Do vậy chúng tôi đề nghị Đảng và Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo việc đẩy mạnh thực hiện các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, nghiên cứu sửa đổi một số điều của Hiến pháp 1992, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Toà án nhân dân và một số pháp lệnh về tổ chức, cán bộ cơ quan tư pháp.

 

Để quán triệt sâu sắc và thực hiện đầy đủ chủ trương, định hướng của Đảng ta về công tác tư pháp, về việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh, đề nghị Bộ chính trị có Chỉ thị về công tác tư pháp để tạo ra sự chuyển biến mới trong công tác xây dựng các cơ quan tư pháp, đội ngũ cán bộ điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên.

 

phần thứ hai

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

các chuyên đề của đề tài

 

khái niệm quyền tư pháp, các cơ quan tư pháp, đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp và vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp trong

xây dựng và hoàn thiện nhà nước

T.S Nguyễn Văn Quyền

Vụ trưởng Ban Nội Chính TW

 

 

I/ Quyền tư pháp, các cơ quan tư pháp.

 

1. Quyền tư pháp:

 

Nhà nước xuất hiện thì đồng thời gắn liền với nó cũng xuất hiện phạm trù quyền lực Nhà nước. Quyền lực Nhà nước là khả năng sử dụng Nhà nước để thể hiện ý trí của giai cấp thống trị, buộc xã hội phải phục tùng ý trí và phục vụ lợi ích của giai cấp đó. Quyền lực Nhà nước chính là quyền lực chính trị của giai cấp thống trị được thực hiện bằng Nhà nước. Nhà nước là công cụ thực hiện quyền lực chính trị, đồng thời là sự biểu hiện về mặt tổ chức quyền lực đó. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt nam thì lợi ích của giai cấp công nhân (giai cấp lãnh đạo) phù hợp với lợi ích của toàn thể nhân dân lao động, do vậy quyền lực Nhà nước chính là quyền lực của nhân dân, xuất phát từ nhân dân, tập trung thống nhất ở dân.

 

Quyền lực Nhà nước ở mức độ nhất định cũng chịu ảnh hưởng từ phái các lực lượng xã hội, các tổ chức xã hội. Do đó, khi hành động vì lợi ích của giai cấp hay liên minh giai cấp thì việc sử dụng quyền lực Nhà nước cũng phải tính đến lợi ích của các tầng lớp khác, và một số chức năng Nhà nước được thực hiện như là trọng tài trong cuộc cạnh tranh giữa các lực lượng không thống nhất. Cách thực biểu hiện trên không phải là sự phân chia giữa quyền lực chính trị và quyền lực Nhà nước, mà chỉ nói lên nội dung sâu sắc về cơ chế thực hiện quyền lực Nhà nước. Điều này thể hiện rất rõ tư tưởng của V.I. Lênin cho rằng: cái cơ bản nhất trong chính trị là tổ chức quyền lực Nhà nước.

Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, quyền lực Nhà nước bao gồm 3 quyền cơ bản: quyền lập pơháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Để thực hiện quyền lực Nhà nước, ở hầu hết các nước tư bản chủ nghĩa dựa trên học thuyết tam quyền phân lập (hoặc tương đối, hoặc tuyệt đối) đã xây dựng tổ chức bộ máy Nhà nước theo nguyên tắc mỗi loại cơ quan thực hiện một quyền riêng, độc lập nhưng chế ước lẫn nhau.

Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Đó là bản chất, là nguồn gốc sức mạnh và hiệu lực quản lý của Nhà nước kiểu mới. Các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước đã được Đảng ta đề cập trong nhiều Nghị quyết, trong đó thể hiện rõ nhất qua các Nghị quyết 8 Ban chấp hành Trung ương (khoá VII), Nghị quyết 3 và 7 Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII). Nghị quyết 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) nêu rõ: "Quyền lực Nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp". Hiến pháp năm 1992 tại điều 2 cũng khẳng định: "Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân…".

Mỗi quyền lực (quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp) của quyền lực Nhà nước đều có vị trí, vai trò qua trọng, chúng hỗ trợ, thống nhất với nhau hợp thành sức mạnh quyền lực Nhà nước, nếu thiếu hoặc tổ chức thực hiện không tốt một quyền nào đó thì xã hội và Nhà nước sẽ không có kỷ cương, trật tự, sức mạnh và hiệu quả quản lý Nhà nước sẽ suy yếu.

Như vậy, quyền tư pháp là phạm vi của quyền lực Nhà nước, là 1 trong 3 quyền cơ bản của quyền lực Nhà nước được thực hiện thông qua các cơ quan có hoạt động gắn liền với quyền phán quyết, quyền xét xử, quyền bảo vệ pháp luật.

Quan niệm về quyền tư pháp cũng còn những ý kiến khác nhau. Có quan điểm cho rằng quyền tư pháp là quyền xét xử, do đó các cơ quan tư pháp chỉ bao gồm hệ thống cơ quan Toà án các cấp. Quan điểm khác lại cho rằng quyền tư pháp là quyền bảo vệ pháp luật.

Theo chúng tôi, quyền tư pháp là quyền nhân danh quyền lực Nhà nước để phán quyết nhằm khôi phục trật tự pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước và xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và tập thể khi có sự vi phạm. Quyền tư pháp là một hoạt động quyền lực Nhà nước đặc thù, luôn dựa trên những thủ tục pháp lý nhất định.

Quyền tư pháp có những đặc trưng sau:

- Quyền tư pháp là những hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước để phán quyết và khi đã có sự phán quyết thì được bảo đảm thi hành bắt buộc đối với mọi đối tượng, nếu không tự giác thực hiện thì se có những biện pháp cưỡng chế buộc thi hành.

- Quyền tư pháp là hoạt động xét xử của cơ quan thay mặt Nhà nước thực hiện. Nó không phải là hoạt động phán quyết của cấp trên đối với cấp dưới như trong quản lý hành chính, và cũng không phải là hoạt động trung gian hoà giải.

- Quyền tư pháp là hoạt động phát sinh trên cơ sở sự tranh tụng giữa các bên có quyền, lợi ích khác nhau. Sự tranh tụng này có ít nhất từ 2 chủ thể trở lên và các chủ thể này có vị trí độc lập với nhau.

Quyền tư pháp gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và quyền hành pháp trong một tổng thể quyền lực Nhà nước thống nhất. Quyền tư pháp được thực hiện thông qua hoạt động tư pháp mà một trong những phương thức thực hiện quyền lực Nhà nước được các cơ quan điều tra, kiểm sát, Toà án, thi hành án đảm nhận.

Trong mối quan hệ gắn bó, thống nhất nói trên thì mỗi quyền của quyền lực Nhà nước đều có vị trí riêng và được thực hiện bởi các cơ quan khác nhau trong hệ thống bộ máy Nhà nước.

Quyền lập pháp (trong đó có cả quyền lập hiến) là quyền ban hành Hiến pháp, quyền làm ra luật, trong đó chứa đựng những quy định thể hiện ý trí của nhân dân và có giá trị pháp lý bắt buộc cao nhất mà mọi người, mọi cơ quan, mọi tổ chức phải tuân theo. Chỉ duy nhất Quốc hội-cơ quan quyền lực,cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân mới có quyền lập pháp.

Tuy nhiên, để các quy định của Hiến pháp, của các luật đi vào cuộc sống cần phải có các cơ quan chấp hành(thực hiện quyền hành pháp) với những điều kiện vật chất nhất định để tổ chức thực hiện. Đặc điểm hoạt động của cơ quan này là tổ chức thi hành Hiến pháp và các đạo luật, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong mọi trường hợp khi ra các văn bản điều hành cũng như khi thực hiện các hoạt động hành chính khác đều phải tuân thủ nguyên tắc "bảo đảm tính tối cao của luật", không được trái với luật, mà chỉ trên cơ sở luật để thi hành.

 

Quyền tư pháp được giao cho các cơ quan tư pháp thực hiện. Vai trò của nó xuất phát từ tính chất hoạt động đặc thù đó là loại hoạt động phức tạp và nhiều mặt rất cụ thể trong việc áp dụng pháp luật để nhằm mục đích bảo vệ pháp luật khi có sự vi phạm của bất cứ đối tượng nào, kể cả các cơ quan,tổ chức đến từng cá nhân, con người cụ thể.

 

2. Cơ quan tư pháp (cơ quan thực hiện quyền tư pháp):

Như trình bày ở trên cho thấy hoạt động tư pháp là phương thức thực hiện quyền lực Nhà nước nhằm mục đích xét xử. Song để đạt được mục đích đó đòi hỏi phải thông qua những cơ quan có thẩm quyền và đủ tư cách pháp lý tiến hanhf những hoạt động "tố tụng". Hệ thống cơ quan mà hoạt động của nó quan hệ khăng khít, mật thiết, có tính quyết định đối với (việc thực hiện quyền tư pháp, nghĩa là) công tác xét xử và bảo đảm công tác xét xử đúng trình tự, đúng pháp luật được gọi là hệ thống các cơ quan tư pháp. như vậy, hệ thống các cơ quan tư pháp bao gồm: các cơ quan điều tra; các cơ quan kiểm sát; các cơ quan Toà án và các cơ quan thi hành án. Trong hệ thống các cơ quan nói trên thì Toà án là nơi biểu hiện tập trung của quyền tư pháp, nơi mà kết quả của hoạt động điều tra, công tố, bào chữa, giám định…được kiểm tra, xem xét, đánh giá công khai, công bằng để đưa ra phán quyết cuối cùng mang tính quyền lực Nhà nước. Toà án là nơi thể hiện tập trung chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống các cơ quan tư pháp, phản ánh đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất của nền công lý xã hội chủ nghĩa.

 

Trong hệ thống các cơ quan tư pháp thì Toà án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân là những khâu trọng yếu, cơ bản. Toà án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân đều có nhiệm vụ "bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân" (Điều 126 Hiến pháp năm 1992).

 

Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân laf những cơ quan thể hiện trực tiếp bản chất của Nhà nước, là những bộ phận không thể thiếu của bộ máy Nhà nước, được phân công trực tiếp thực hiện quyền tư pháp. Hệ thống các cơ quan tư pháp mà trước hết là Toà án và Viện Kiểm sát có nhiệm vụ giải quyết các vi phạm pháp luật, các tội phạm và các tranh chấp sảy ra trong đời sống của bản thân bộ máy Nhà nước và xã hội. Chúng là những bộ phận chuyển tải quyền lực Nhà nước chứa đựng trong pháp luật vào đời sống xã hội qua hoạt động giải quyết các vụ việc cụ thể.

 

Các cơ quan tư pháp tuy có tính độc lập tương đối về chức năng và nhiệm vụ, nhưng cũng là bộ phận gắn liền với các cơ quan lập pháp và hành pháp trong một tổng thể thống nhất cùng thực hiện quyền lực Nhà nước. Hoạt động của các cơ quan tư pháp không chỉ đảm bảo thực thi quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp mà còn là sự thể hiện trực tiếp bản chất của Nhà nước.

 

Các cơ quan tư pháp có chức năng, nhiệm vụ thực hiện quyền lực (quyền tư pháp)bằng hình thức, biện pháp đặc trưng là đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm quyền lực của nhân dân, vi phạm pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức và công dân đều dựa vào các cơ quan tư pháp để yêu cầu bảo vệ các quyền dân chủ, quyền làm chủ, tự do của nhân dân tất yếu phải tăng cường, củng cố các cơ quan tư pháp. Các cơ quan tư pháp không chỉ là chỗ dựa, nơi mọi người đạt niềm tin trong việc bảo vệ các quyền, tự do, nhân phẩm và lợi ích chính đáng của mình mà còn đóng vai trò qua trọng trong việc đấu tranh với những hành vi, biểu hiện qua liêu, tuỳ tiện, chuyên quyền, độc đoán và tham nhũng trong bộ máy chính quyền các cấp nhằm xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân.

 

Như vậy, các cơ quan tư pháp là 1 bộ phận quan trọng của bộ máy Nhà nước, hoạt động của chúng gắn liền với việc thực hiện và bảo vệ quyền lực Nhà nước. Hệ thống các cơ quan tư pháp là hệ thống các thiết chế bảo đảm các quyền tự do, nhân phẩm của công dân, các quyền, lợi ích của Nhà nước, của xã hội và tập thể được thực hiện có hiệu quả trên thực tế, nếu bị xâm hại thì buộc phải chấm dứt, phục hồi và người xâm hại sẽ bị trừng trị nghiêm minh theo pháp luật.

 

Việc khẳng định các cơ quan tư pháp gồm hệ thống Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án cũng được ghi nhận trong bản Hiến pháp năm 1992.

 

- Toà án nhân dân: được tổ chức theo nguyên tắc kết hợp đơn vị hành chính và cấp xét xử, bao gồm Toà án NDTC, Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án nhân dân cấp huyện và các Toà án quân sự. Toà án nhân dân các cấp là cơ quan xét xử của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam. Khi thực hiện nhiệm vụ xét xử, Toà án nhân dân các cấp nhân danh Nhà nước, căn cứ váo pháp luật của Nhà nước để đưa ra các phán quyết buộc mọi đối tượng phải tuân theo. Đây không phải là phán quyết của bản thân 1 Toà án nào đó, lại càng không phải là phán quyết của 1 cá nhân cụ thể, mà là hoạt động thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà nước (nhân danh Nhà nước) đối với các vụ việc cụ thể xảy ra khi có vi phạm pháp luật. Sai lầm trong hoạt động xét xử của Toà án chính là sai lầm của bản thân Nhà nước. Do vậy, hoạt động xét xử đòi hỏi phải chính xác, công minh, đúng pháp luật. Điểm khác căn bản của hoạt động xét xử với công tác xử lý của các cơ quan hành chính Nhà nước ở chỗ, chỉ có Toà án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng các loại chế tài hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, đặc biệt là hình phạt tù, mà cao nhất là hình phạt tử hình…Điều 75 Hiến pháp 1992 quy định: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật". Do vậy, việc xét xử không chỉ đòi hỏi đúng nội dung mà còn phải tuân thủ đầy đủ, đúng đắn về thủ tục.

Hoạt động xét xử của Toà án vừa có tác dụng trừng trị nghiêm minh các phần tử phạm tội, giáo dục cải tạo họ, đồng thời còn góp phần ngăn chặn, phòng ngừa các biểu hiện tiêu cực, các loại tội phạm bảo đảm giữ vứng trật tự, giữ vững kỷ cương của xã hội, bảo vệ quyền, tự do, nhân phẩm, an toàn cho mọi người v.v…

 

Viện Kiểm sát nhân dân: Điều 126 Hiến pháp năm 1992 đã đặt vị trí của Viện Kiểm sát nhân dân cũng giống như Toà án nhân dân là: "Trong phạm vi chức năng của mình có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân".

 

Viện Kiểm sát nhân dân được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất; hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân có ý nghĩa quan trọng là bảo đảm và tăng cường tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh và ngăn chặn có hiệu quả những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. Hệ thống tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân bao gồm: Viện Kiểm sát NDTC, Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện và Viện Kiểm sát quân sự các cấp. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Viện Kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (kiểm sát điều tra, xét xử và thi hành án). Với chức năng, nhiệm vụ trên, Viện Kiểm sát nhân dân có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống các cơ quan tư pháp nói riêng và trong hệ thống tổ chức các cơ quan Nhà nước nói chung. Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện Kiểm sát nhân dân có quyền đặc biệt mà không một cơ quan Nhà nước nàocó thể thay thế được.

 

Điều 3 luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân quy định 6 lĩnh vực công tác cụ thể của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyênf công tố là:

 

a) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các văn bản pháp quy của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ và các cơ quan chính quyền địa phương, kiểm sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan Nhà nước nói trên, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân.

 

b) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

c) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Toà án nhân dân.

 

d) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân.

 

e) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam, giữ và cải tạo.

 

f) Điều tra Thông tưội phạm trong những trường hợp do pháp luật tố tụng hình sự quy định.

 

Nhìn vào những nhiệm vụ cụ thể nêu trên được pháp luật quy định cho thấy Viện Kiểm sát là cơ quan chủ lực, góp phần quan trọng trong việc tổ chức thực hiện quyền tư pháp của quyền lực Nhà nước.

 

- Các cơ quan điều tra: Các cơ quan điều tra hình sự có nhiệm vụ đấu tranh với các loại tội phạm, điều tra đối với tất cả tội phạm sảy ra để xác định tội phạm là người phạm tội, lập hồ sơ, kết luận kết quả điều tra và đề nghị Viện Kiểm sát truy tố người phạm tội ra trước Toà án để xét xử. Hoạt động của các cơ quan điều tra là một khâu không thể thiếu trong việc tổ chức thực hiện quyền tư pháp nhằm tìm ra người tình nghi phạm tội, thu thập chứng cứ làm cơ sở vững chắc để Viện Kiểm sát truy tố, Toà án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì hiện nay coa các cơ quan điều tra: cơ quan điều tra chuyên trách và các cơ quan khác được giao một số nhiệm vụ điều tra một số vụ, việc cụ thể. Các cơ quan điều tra chuyên trách được tổ chức ở 3 hệ thống cơ quan: Cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát nhân dân các cấp, cơ quan điều tra của công an (điều tra hình sự và điều tra an ninh); cơ quan điều tra quân đội (điều tra hình sự và an ninh điều tra quân đội).

 

Các cơ quan khác được giao nhiệm vụ điều tra một số vụ án có ở Hải quan, Kiểm lâm, Thuế, Biên phòng, Trinh sát. Những cơ quan này có nhiệm vụ chính là thực hiện các công việc thuộc chuyên môn nghiệp vụ do ngành quản lý, nhưng khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì có nhiệm vụ lập hồ sơ, bảo vệ chứng cứ…ban đầu để phục vụ cho công tác đấu tranh chống tội phạm, xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật những kẻ phạm tội.

 

- Các cơ quan thi hành án: Các bản án và quyết định của Toà án có giá trị pháp lý bắt buộc đối với mọi cơ quan, tổ chức và công dân, vần được thi hành nghiêm chỉnh. Nếu như hoạt động xét xử của Toà án là khâu trung tâm thể hiện nền công lý để đưa ra các phán quyết mang tính quyền lực khi thực hiện quyền tư pháp, thì việc tổ chức thi hành các phán quyết đó có ý nghĩa quan trọng, bởi lẽ có như vậy mới thể hiện tính uy nghiêm của quyền tư pháp trên thực tế.

 

Khi đã có phán quyết của Toà án thì không phải mặc nhiên được mọi người tự giác thi hành, đặc biệt là đối với các bản án hình sự tuyên phạt án phạt tù…Do vậy, để tổ chức thi hành các phán quyết của Toà án thì rất cần có cơ quan chuyên trách quản lý và tổ chức thi hành án.

 

Theo pháp luật hiện hành, việc thi hành án được giao cho các cơ quan sau: Cơ quan thi hành án dân sự được tổ chức ở Bộ tư pháp (Cục quản lý thi hành án), ở các tỉnh và huyện, quận, thị có nhiệm vụ quản lý và tổ chức thi hành án dân sự, kinh tế, lao động …; cơ quan thi hành án phạt tù (Cục quản lý trại giam và các ban giám thị, giám thị các trại giam, trại tạm giam, trại cải tạo). Ngoài ra pháp luật còn giao nhiệm vụ cho ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm trong việc tổ chức thi hành án hình sự không giam giữ.

 

Việc tổ chức thi hành án nói chung cũng như việc xây dựng hệ thống tổ chức các cơ quan thi hành án hiện nay đang còn nhiều tồn tại.

 

 

 

 

* *

*

 

 

Tóm lại, các cơ quan tư pháp có nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp bao gồm 4 hệ thống tổ chức độc lập nhưng lại có quan hệ gắn bó, hỗ trợ nhau gồm: Viện Kiểm sát nhân dân; Toà án nhân dân; các cơ quan điều tra hình sự; các cơ quan thi hành án. Mỗi cơ quan tư pháp có vị trí, vai trò nhất định trong một tổng thể thống nhất để cùng nhau thực hiện quyền tư pháp, trong đó biểu hiện trung tâm là hoạt động xét xử của Toà án để đưa ra phán quyết mang tính chất quyền lực Nhà nước.

 

Để quền tư pháp được thực hiện có hiệu quả thì ngoài các cơ quan tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm như nói trên thì còn nhiều cơ quan, tổ chức khác cũng có vai trò nhất định trong việc tham gia, hỗ trợ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Đặc biệt trong đó là các cơ quan bổ trợ tư pháp, như: luật sư; giám định; công chứng; tư vấn pháp lý …

 

II/ Đội ngũ cán bộ tư pháp; vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam

 

Với quan niệm các cơ quan tư pháp gồm Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, các cơ quan điều tra hình sự, cơ quan thi hành án thì đội ngũ cán bộ tư pháp phải là những cán bộ, công chức, chiến sĩ, sĩ quan làm việc tại các cơ quan nói trên. Như vậy, đội ngũ cán bộ tư pháp được hiểu rộng rãi gồm tất cả những ai làm việc trong hệ thống Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, các cơ quan điều tra hình sự, cơ quan an ninh điều tra và cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, do chức danh nghiệp vụ của mỗi người trong guồng máy chung đó đều khác nhau cho nên vị trí của họ cũng khác nhau. Số thì có nhiệm vụ, quyền hạn, chức trách gắn liền với hoạt động chức năng của cơ quan mình, mà kết quả công việc của họ quyết định đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan đó. Số khác thì có nhiệm vụ giúp việc, hỗ trợ để góp phần cho cơ quan hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy vậy, dù ở vị trí nào thì đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp cũng phải là những người được đào tạo, tuyển chọn chặt chẽ mới bảo đảm về yêu cầu các mặt, đáp ứng nhiệm vụ của loại cơ quan đặc thù thực hiện quyền tư pháp.

 

Với vị trí, ý nghĩa như trình bày trên, đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp được phân biệt thành hai nhóm: Đội ngũ cán bộ tham mưu, giúp việc và đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp mà hoạt động của họ quyết định đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động đặc trưng của các cơ quan tư pháp.

 

1) Đội ngũ cán bộ tham mưu và những người giúp việc:

 

Đây là những cán bộ không thể thiếu ở mỗi cơ quan Nhà nước, trong đó có các cơ quan tư pháp. Họ gồm những cán bộ, nhân viên dưới đây:

 

- Số nhân viên nghiên cứu: là những người được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ để tham mưu, đề xuất giải quyết những công việc chuyên môn của cơ quan, đơn vị. Họ là những người được đào tạo cơ bản, hưởng lương theo ngạch chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp và đóng góp nhiều vào việc hoàn thành nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Đặc biệt trong việc xây dựng định hướng công tác, xây dựng ngành, xây dựng các thể chế, chính sách liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp thì đội ngũ chuyên viên có vai trò quan trọng, họ là những chuyên gia không thể thiếu. Mỗi cơ quan tư pháp cần phải tuyển chọn, đào tạo và xây dựng được đội ngũ chuyên viên giỏi về nghiệp vụ, vững vàng về chính trị thì mới tổ chức thực hiện tốtb các nhiệm vụ được giao.

 

- Số cán bộ trợ lý (chúng tôi tạm gọi là trợ lý): là những người được giao nhiệm vụ giúp việc đắc lực về chuyên môn nghiệp vụ cho những cán bộ có chức danh tư pháp hoanf thành tốt chức trách của mình. Họ là những cán bộ như: Thư ký phiên toà, giúp việc Kiểm sát viên, giúp việc chấp hành viên. Nhiệm vụ của họ rất rõ ràng là chuẩn bị tốt cả về nội dung và thủ tục để các cán bộ có chức danh tư pháp triển khai tốt, có hiệu quả những công việc chuyên môn, nghiệp vụ. Họ là đội ngũ kế cận và bổ sung cho những cán bộ có chức danh tư pháp (thẩm phán, Kiểm sát viên, chấp hành viên…).

 

- Số nhân viên phục vụ: là những người chăm lo điều kiện làm việc, cơ sở vật chất kỹ thuật để cơ quan, đơn vị và mọi người có điều kiện làm việc tốt nhất, góp phần hoàn thành các công việc được giao.

 

2) Đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp:

 

Đây là đội ngũ cán bộ nòng cốt, chủ lực của các cơ quan tư pháp. Họ có vị trí, vai trò đặc biệt bởi lẽ công việc của họ gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp và kết quả hoạt động của họ gắn liền đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động đặc thù của các cơ quan tư pháp là tổ chức thực hiện quyền tư pháp.

 

Đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp gồm các chức danh dưới đây:

 

- Đội ngũ thẩm phán: thẩm phán gồm có các thẩm phán Toà án NDTC, thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, thẩm phán Toà án nhân dân cấp quận, huyện, thị và thẩm phán Toà án quân sự các cấp. Các thẩm phán Toà án nhân dân đều có tiêu chuẩn chung, trước hết là phải có trình độ chuyên môn pháp lý (đại học) và qua một thời gian làm công tác thực tiễn về lĩnh vực pháp luật, phải có phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp, trung thành với chế độ v.v… Ngoài ra, tương ứng với thẩm phán Toà án nhân dân mỗi cấp thì tiêu chuẩn cũng có những yêu cầu, đòi hỏi khác nhau. thẩm phán Toà án nhân dân các cấp đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm. Việc tuyển chọn để đề nghị bổ nhiệm làm thẩm phán được tiến hành theo quy trình chặt chẽ, qua kết quả rà soát và sàng lọc kỹ từ cơ sở nơi làm việc, nơi cư trú, ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cấp uỷ và Hội đồng tuyển chọn các cấp.

 

- Bên cạnh đội ngũ thẩm phán là đội ngũ Hội thẩm nhân dân: Hội thẩm nhân dân có vị trí hết sức quan trọng. Trong thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm thì Hội thẩm nhân dân chiếm đa số, lại là thành viên độc lập và ngang quyền với thẩm phán tham gia Hội đồng xét xử. Do vậy, Hội thẩm nhân dân cần phải được lựa chọn từ những người thật tiêu biểu, đại diện xứng đáng trong số những nhà tuyên ngôn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo quy định của pháp luật hiện hành, Hội thẩm nhân dân có ở Toà án các cấp. Hội thẩm nhân dân Toà án NDTC và Hội thẩm quân nhân toà án quân sự Trung ương do Uỷ ban thường vụ Quốc hội cử và miễn nhiệm, bãi nhiệm; Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương do HĐND cùng cấp bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm; Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự quân khu và tương đương do Chủ nhiệm tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt nam cử và miễn nhiệm, bãi nhiệm; Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự khu vực do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương cử, miễn nhiệm và bãi nhiệm.

 

- Đội ngũ Kiểm sát viên: Kiểm sát viên gồm Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp quận, huyện, thị và Kiểm sát viên Viện Kiểm sát quân sự các cấp. Tiêu chuẩn của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân các cấp cũng gần như tiêu chuẩn của thẩm phán nhân dân các cấp. Đặc thù tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân các cấp là theo ngành dọc, với sự chỉ đạo tập trung thống nhất của đồng chí viện trưởng Viện Kiểm sát NDTC. Do vậy việc bổ nhiệm Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân các cấp cũng theo quy trình khác với việc bổ nhiệm thẩm phán. Đồng chí viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu; Kiểm sát viên Viện Kiểm sát NDTC, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát quân sự Trung ương do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của viện trưởng Viện Kiểm sát NDTC; Kiểm sát viên Viện Kiểm sát các cấp (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thị; quân khu và tương đương; quân sự tỉnh và khu vực) do viện trưởng Viện Kiểm sát NDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức.

 

- Đội ngũ điều tra viên: điều tra viên cũng là cán bộ có chức danh tư pháp, được giao nhiệm vụ điều tra các vụ án hình sự. Đặc thù trong công tác của họ là chịu sự quản lý và điều hành của Thủ trưởng cơ quan điều tra (cơ quan quản lý) và sự kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên trong quá trình điều tra vụ án, điều tra viên cũng có thẩm quyền độc lập tương đối để có thể chủ động điều tra phòng ngừa và khám phá các vụ án xảy ra. Do công việc điều tra án liên quan đến quyền, sinh mạng chính trị và nhân phẩm của công dân, cho nên hoạt động điều tra và các hành vi cụ thể các điều tra viên được làm đều phải theo quy trình, thủ tục nhất định và được pháp luật tố tụng hình sự quy định rất chặt chẽ. Điều tra viên phải là những người không chỉ có chuyên môn, nghiệp vụ để khám phá ra các vụ án, mà còn phải là những người có phẩm chất chính trị, công tâm, am hiểu và tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật.

 

Hiện nay lực lượng điều tra viên được bố trí ở các cơ quan điều tra hình sự, cơ quan an ninh điều tra của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Công an tỉnh, Công an huyện, các quân khu và tương đương, Ban chỉ huy quân sự tỉnh, khu vực và các cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát NDTC, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh.

 

Ngoài ra đội ngũ điều tra viên kể trên, một phần nhiệm vụ điều tra còn được giao cho các cán bộ thuộc ngành Hải quan, Kiểm lâm, Biên phòng và các trinh sát v.v…

 

- Đội ngũ chấp hành viên, giám thị, phó giám thị trại giam và quản giáo:

 

Chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật về dân sự. Để thực hiện được trách nhiệm này, chấp hành viên có những nhiệm vụ, quyền hạn mạng tính chất quyền lực, như: quyền triệu tập những người có liên quan đến để thực hiện việc thi hành án; định cho người phải thi hành án thời hạn tự nguyện thi hành, nếu không thì có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế; quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức phối hợp trong việc thi hành án v.v…Với vị trí pháp lý như vậy, cho nên chấp hành viên không những bảo đảm tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức mà còn phải có kiến thức pháp lý cần thiết, nắm vững nghiệp vụ thi hành án và có tinh thần bảo vệ pháp chế XHCN. Đội ngũ chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.

 

Giám thị, các phó giám thị và quản giáo là những người được giao trọng trách thi hành án phạt tù đối với những người bị kêt án tù tại trại giam và phó giám thị, quản giáo ở phân trại trong các trại tạm giam. Theo pháp luật hiện hành thì các trại giam được thành lập ở Bộ Công an và Bộ quốc phòng. Do vậy, giám thị, phó giám thị và các quản giáo là những người thuộc lực lượng vũ trang, ngoài tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật, sự hiểu biết về chính sách, pháp luật, họ còn phải có kiến thức, nghiệp vụ về công tác an ninh, công tác cảnh sát, công tác quân sự.v.v…

 

 

 

* *

*

 

 

 

Đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp, đặc biệt là đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp là bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức có vị trí pháp lý quan trọng trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước. Nhiệm vụ trung tâm của họ là tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp của quyền lực Nhà nước. Trong khi thực hiện quyền tư pháp, họ còn có nhiệm vụ duy trì, bảo vệ kỷ cương pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; đấu tranh và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm; bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức và công dân; duy trì và xây dựng nền công lý xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

 

Ngoài nhiệm vụ trung tâm và các nhiệm vụ nêu trên, đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp còn tham gia tích cực vào nhiều hoạt động khác của Nhà nước và xã hội; hoạt động lập pháp; hoạt động điều hành và quản lý của các cấp chính quyền; tham gia xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa v.v…

 

Hiện nay, đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp đã được xây dựng và trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Hoạt động của đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp từ khi thành lập nước đến nay, đặc biệt trong mười năm trở lại đây đã đạt được những thành tựu trong việc giữ vững ổn định chính trị, trật tự kỷ cương, làm nền tảng vững chắc để cả nước thực hiện thắng lợi chủ trương đổi mới, cải cách trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội , trước hết là trên lĩnh vực kinh tế. Họ thực sự là lực lượng tin cậy của Đảng và nhân dân trên mặt trận đấu tranh chống vi phạm, tội phạm, đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

 

III/ Một số kiến nghị tổng quát về xây dựng đội ngũ cán bộ cơ quan tư pháp

 

Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã quan tâm nhiều đến việcxd đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp, đã có nhiều giải pháp trong công tác đào tạo, tuyển chọn và bổ nhiệm những cán bộ có chức danh tư pháp (Kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, điều tra viên, chấp hành viên v.v…). Trong qúa trình đào tạo, tuyển chọn không chỉ chú ý đến tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức mà còn từng bước đặc yêu cầu ngày càng cao về trình độ chuyên môn, pháp lý, nghiệp vụ nghề nghiệp. Do vậy, đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp nói chung, đặc biệt đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp ngày càng trưởng thành và được nâng cao về trình độ chuyên môn rõ rệt, đáp ứng yêu cầu công tác hiện nay.

 

Tuy nhiên, trong bối cảnh và tình hình vi phạm, tội phạm diễn biến phức tạp, yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật và việc bảo đảm pháp luật được tuân thủ nghiêm ngặt đang đặt ra những nhiệm vụ nặng nề đối với các cơ quan tư pháp. Với đội ngũ cán bộ hiện nay của các cơ quan tư pháp thì chưa thể đáp ứng đầy đủ để giải quyết trọn vẹn các vấn đề đặt ra. Số lượng cán bộ các chức danh tư pháp nhất là thẩm phán hiện nay đang còn thiếu rất nhiều; việc phân bổ chưa hợp lý, nơi thừa, nơi thiếu; một số không ít cán bộ có chức danh tư pháp còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ, một số thì sa sút về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp; công tác đào tạo cán bộ các cơ quan tư pháp, đặc biệt là cán bộ có chức danh tư pháp còn chậm chễ phân tán v.v…

 

Để góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp đủ về số lượng, tinh về chất lượng, thực sự trong sạch vững mạnh, xin đề xuất một số giải pháp tổng hợp dưới đây:

 

1. Quy định và xây dựng hệ thống chức danh tư pháp ổn định với tiêu chuẩn cụ thể và quy trình, thẩm quyền tuyển chọn, bổ nhiệm rõ ràng, chặt chẽ và khoa học.

 

Hiện nay, việc quy định tiêu chuẩn và quy trình bổ nhiệm một số chức danh như Kiểm sát viên, thẩm phán toà án các cấp, chấp hành viên cũng đã được tiến hành một số năm. Tuy nhiên, trong qúa trình thực hiện cũng còn nhiều vấn đề chưa hợp lý, cần được sửa đổi như: về tiêu chuẩn, về thẩm quyền tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm, về luân chuyển cán bộ v.v… Do vậy, cần nghiên cứu và rút kinh nghiệm để hoàn thiện các quy định hiện hành về các vấn đề nêu trên.

 

2. Xây dựng một mô hình đào tạo cán bộ các cơ quan tư pháp phù hợp, có phương thức đào tạo phù hợp với từng loại chức danh cán bộ tư pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp đủ về số lượng và có phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ chuyên môn và kỹ năng thực hành đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Tuy nhiên, trước hết cần biên soạn nội dung đào tạo thống nhất về những lý luận cơ bản chung, trên có sở đó tiếp tục hình thức đào tạo chuyên sâu đối với từng loại chức danh cán bộ tư pháp. Để giải quyết tình trạng thiếu cán bộ hiện nay, cần có chủ trương tập hợp số sinh viên đã tốt nghiệp đại học luật đang dư thừa, chưa có việc làm để tuyển chọn có điều kiện vào Trường đào tạo các chức danh tư pháp để sau đó bổ nhiẹem thẩm phán, thư ký phiên toà, chấp hành viên v.v…bổ sung cho các cơ quan tư pháp quận, huyện, thị, các tỉnh vùng sâu vùng xa với chế độ ưu đãi có điều kiện.

 

3. Thực hiện chính sách bồi dưỡng, phụ cấp thoả đáng đối với đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp (Kiểm sát viên, thẩm phán, điều tra viên, chấp hành viên) theo phương thức kết hợp giữa thưởng thành tích do chất lượng, khối lượng công việc hoàn thành và thâm niên công tác, địa bàn nơi công tác v.v…Mục đích, chính sách này nhằm để đội ngũ công chức này có khoản thu nhập bảo đảm cuộc sống, ổn định cho gia đình, để họ yên tâm công tác với tính thanh liêm trong xử lý các vụ việc.

 

4. Cần thường xuyên thực hiện kiểm tra, thanh tra, rà soát đánh giá đội ngũ cán bộ và những người có chức danh tư pháp để không ngừng nâng cao chất lượng cả về phẩm chất chính trị, đạo đức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, sàng lọc và loại ra khỏi đội ngũ cán bộ những người đã sa sút về phẩm chất, yếu về chuyên môn. Đồng thời cũng cần thường xuyên bồi dưỡng và cập nhật cho họ những nội dung, liến thức mới về chuyên môn, nghiệp vụ, về yêu cầu chính trị và tình hình chung trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Có như vậy, họ mới nắm bắt được những vấn đề mới, không bị tụt hậu trước những đòi hỏi ngày càng cao trong xử lý và giải quyết các vụ việc sảy ra./.

 

yêu cầu khách quan, tính tất yếu của việc tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với đội ngũ cán bộ trong cơ quan tư pháp

T.S Nguyễn Đình Đặng Lục

Phó vụ trưởng, Ban Nội chính TW

 

I/ Đặt vấn đề

 

Quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng từ Đại hội VI của Đảng đến nay, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lờn trên mọi mặt của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng và an ninh.

 

Quá trình phấn đấu, xây dựng một nước Việt nam giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh cũng là quá trình toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải đương đầu với sự chống phá của các thế lực thù địch của CNXH trong và ngoài nước đang tìm mọi cách phá hoại tiến trình cách mạng đó của chúnh ta. Quyết tâm theo đuổi ý đò xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thế lực thù địch đã và đang tìm mọi cách thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình trên mọi lĩnh vực, đặc biệt đã lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền" và những sơ hở yếu kém trong hoạt động quản lý của ta cũng như sự thái hoá về đạo đức của của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ nhằm xuyên tạc, kích động các thế lực phản động và một bộ phận quần chúng lạc hậu, các phần tử bất mãn trong nước để chống phá nhằm gây rối mất ổn định tình hình. Bên cạnh đó trong thời gian qua, tình hình hoạt động của bọn tội phạm hình sự và các tệ nạn xã hội cũng diễn biến hết sức phức tạp và đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình phát triển của xã hội chúng ta. Trong mối liên hệ đó, Đảng đã chỉ rõ: Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tổ quốc và thành quả cách mạng. Từ quan điểm đó, chúng ta thấy rằng vấn đề củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp đặt ra như một tất yếu khách quan cả trên bình diện cơ cấu tổ chức, cả trên bình diện con người cụ thể hoạt động trong hệ thống cơ quan đó. Và do vậy, Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 7 (khoá VII) đã xác định: phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật với các đoàn thể nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng trong phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và những hành vi vi phạm pháp luật. Kiện toàn tổ chức, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, bổ sung phương tiện hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Xử phạt nghiêm cán bộ, công chức cơ quan bảo vệ pháp luật lợi dụng chức quyền vi phạm pháp luật. Tổ chức tốt sự phân công phối hợp giữa các cơ quan hành chính với Viện Kiểm sát và Toà án trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Đây là những vấn đề trở nên rất bức thiết khi chúng ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới. Chính vì vậy, chiến lược công tác cán bộ của Đảng ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó xác định rõ ngoài những tiêu chuẩn chung của người cán bộ trong thời kỳ mới là tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; có trình độ hiểu biết về íy luận chính trị, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước …

 

Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng công tác cán bộ, là khâu then chốt để thực hiện nhiệm vụ chiến lược cách mạng. Bác Hồ đã từng chỉ ra rằng: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc và công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Có thể nói trong thời gian qua, bên cạnh những thành tựu chúng ta đạt được trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá-xã hội còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém trong hoạt động quản lý xã hội. Sự yếu kém đó thể hiện trước hết trật tự, kỷ cương của xã hội trong thời gian qua ở nhiều nơi, nhiều lúc chưa được bảo đảm, hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi chung. Do đó, Nghị quyết Hội nghị TW 3 (khoá VIII) đã chỉ rõ: tiếp tục cải cách tư pháp là một yêu cầu cấp bách. Nhân dân đòi hỏi các cơ quan tư pháp và nhân viên tư pháp phải mẫu mực tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, thể hiện tính dân chủ, công khai, đại diện cho công lý của chế độ phải thực sự trong sạch, công minh; xây dựng cơ chế tuyển chọn, bồi dưỡng cán bộ tư pháp theo chức danh; đặc biệt quan tâm coi trọng đạo đức nghề nghiệp, trong tình hình hiện nay cần phải nhấn mạnh đạo đức nghề nghiệp coi đó như một điều kiện tiên quyết để cán bộ tư pháp hoàn thành được nhiệm vụ chuyên môn của mình.

 

Qua trình cải cách hệ thống cơ quan tư pháp - đương nhiên phải đặt trong mối quan hệ với việc cải cách bộ máy Nhà nước – bao gồm cả vấn đề bồi dưỡng, gáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp cả về phẩm chất đạo đức, cả về năng lực chuyên môn để đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới đang đặt ra. Cải cách hệ thống tư pháp là một công việc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó liên quan đến hiệu quả quản lý xã hội trên lĩnh vực an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Do đó, bên cạnh sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Đảng, đòi hỏi sự nỗ lực, đồng bộ của hệ thống cơ quan tư pháp. Từ cách đặt vấn đề đó, chúng ta thấy rằng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ cán bộ trong các cơ quan tư pháp là một vấn đề có tính nguyên tắc, là một yêu cầu tất yếu khách quan và coi đó như một nhân tố quyết định để nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp trong tình hình hiện nay.

 

II/ Thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp và quá trình lãnh đạo của đảng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp.

 

Để có cơ sở cho việc xác định phương thức tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống cơ quan tư pháp; đòi hỏi chúng ta phải xem xét một cách toàn diện đội ngũ cán bộ tư pháp trong hệ thống các cơ quan tư pháp, qua đó xác định một phương thức đúng đắn bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ trong hệ thống các cơ quan tư pháp.

 

1. Thực trạng đội ngũ cán bộ trong cơ quan tư pháp:

 

Ngay sau khi giành độc lập, Đảng và Bác Hồ đã rất quan tâm đến việc xây dựng hệ thống các cơ quan tư pháp coi đó như một công cụ tham gia trực tiếp vào qúa trình củng cố và bảo vệ nền độc lập, bảo vệ Nhà nước công nông non trẻ của mình. Chính vì vậy, chỉ sau hơn một tháng tuyên bố độc lập, ngày 10-10-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46 về việc quy định cách tổ chức đoàn thể luật sư trong nước Việt nam dân chủ cộng hoà. Tạm giữ như cũ với một số sửa đổi và quy định tiêu chuẩn mới cho luật sư được liệt danh vào toà thượng thẩm Hà nội và sài gòn. Tiếp đó, ngày 24-1-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 13 ấn định cách tổ chức các Toà án và các ngạch thẩm phán trong nước Việt nam dân chủ cộng hoà và đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho tổ chức thi hành án dân sự ở nước ta.

 

Vấn đề này được quy định cụ thể tại Sắc lệnh 51 ngày 17-4-1946 trong đó xác định rõ thẩm quyền của các Toà án và sự phân công giữa các nhân viên của Toà án trong quá trinhf thực thi chức trách.

 

Có thể nói ngay từ khi Nhà nước mới ra đời, cùng với việc xây dựng hệ thống các cơ quan tư pháp, Đảng, Nhà nước và Hồ Chủ Tịch rất quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp cả về đức và tài nhằm đáp ứng yêu cầu củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng. Với sự quan tâm đó, đến nay đội ngũ cán bộ trong hệ thống cơ quan tư pháp đều không ngừng phát triển cả về chất lượng và số lượng.

 

Ngành kiểm sát hiện có 6.019 là Kiểm sát viên, chiếm tỷ lệ 64% trong tổng số cán bộ nhân viên của toàn ngành; 79% trong tổng số cán bộ nhân viên của toàn ngành kiểm sát có trình độ đại học luật và cao đẳng kiểm sát. Chỉ riêng đội ngũ Kiểm sát viên đã có 84% có trình độ đại học luật, cao đẳng kiểm sát và trên đại học, trong đó cả tiến sỹ và thạc sỹ luật và tỷ lệ đảng viên chiếm 92,7% trong tổng số nhân viên.

 

Đối với Toà án nhân dân, chỉ tính riêng ở Toà án NDTC, đến nay 100% thẩm phán có trình độ đại học luật và trên đại học trong đó Tiến sỹ, Thạc sỹ chiếm tỷ lệ 3,7%. Trong số thẩm phán của Toà án NDTC, tỷ lệ đảng viên chiếm 61,1%.

 

Đối với cơ quan thi hành án, tính đến cuối năm 1999, cả nước có 1.703 chấp hành viên, trong đó số có trình độ đại học và cao đẳng luật là 1608 người và 86 người có trình độ trung cấp. Như vậy, có thể nói về cơ bản, đội ngũ cán bộ trong các cơ quan tư pháp đã được đào tạo một cách cơ bản, được trang bị kiến thức lý luận và nghiệp vụh một cách có hệ thống.

 

Thực tiễn cách mạng cho chúng ta thấy rằng đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước nói chung, đội ngũ cán bộ công chức trong hệ thống cơ quan tư pháp có một vị trí đặc biệt quan trọng vì hoạt động của đội ngũ cán bộ công chức này trực tiếp liên quan đến quyền năng pháp lý được xác lập dựa trên cơ sở quy định của Hiến pháp và luật. Tính chất đặc biệt trong hoạt động của đội ngũ cán bộ này thể hiện trước hết ở chỗ mỗi một cán bộ công chức trong hệ thống cơ quan này hoạt động trong những lĩnh vực cụ thể luôn biết được xác định dựa trên một chức danh và quyền năng pháp lý nhất định. Và sự phán quyết của họ hoàn toàn không chỉ liên quan trực tiếp đến tính mạng, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân mà nó còn phản ánh một cách cụ thể nền công lý của Nhà nước CHXHCN Việt nam; nó phản ánh một cách cụ thể bản chất của Nhà nước chúng ta-Nhà nước của nhân dân , do dân và vì nhân dân; một Nhà nước mà mọi hoạt động của nó đều được dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra. Và vì vậy, ngay từ khi giành chính quyền và trong một quá trình đấu tranh cách mạng cho đến nay. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến công tác giáo dục đào tạo và lãnh đạo một cách toàn diện đối với đội ngũ cán bộ công chức đó. Do đó, cùng với sự phát triển của quá trình đấu tranh và bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa, đội ngũ cán bộ công chức trong hệ thống cơ quan tư pháp không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao trong cuộc đấu tranh bảo vệ trật tự pháp luật, trực tiếp góp phần vào quá trình xây dựng, củng cố và phát triển nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở cho quá trình hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

 

Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ công chức trong hệ thống cơ quan tư pháp chúng ta thấy rằng:

- Về ưu điểm:

 

+ Tuyệt đại đa số đội ngũ cán bộ công chức trong hệ thống các cơ quan tư pháp có bản lĩnh chính trị vững vàng. Có thể nói thời gian qua tình hình cách mạng trong nước và trên thế giới có nhiều diễn biến hết sức phức tạp, xã hội bị khủng hoảng trên nhiều lĩnh vực, song đội ngũ cán bộ trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật vẫn tỏ ra vững vàng kiên định quan điểm cách mạng. Khẳng định sự trung thành tuyệt đối với lợi ích của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân.

 

Để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của mình, đội ngũ cán bộ công chức trong hệ thống cơ quan tư pháp đã không ngừng trau dồi trình độ về mọi mặt, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao sự hiểu biết và nắm vững mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, đồng thời vận dụng một cách đúng đắn vào quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình trong từng lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ cụ thể.

 

Trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình, đội ngũ cán bộ tư pháp đã có ý thức kiên quyết đấu tranh chống mọi hành vi vi phạm pháp luật trên tinh thần ‘Công minh, chính trực, thận trọng, khách quan, khiêm tốn". Chính vì vậy đã trực tiếp góp phần đấu tranh xây dựng và bảo vệ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa của chúng ta.

 

+ Về năng lực chuyên môn nghiệp vụ: Nhìn chung đội ngũ cán bộ công chức trong hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật đã được đào tạo cơ bản, được trang bị kiến thức tương đối toàn diện cả về pháp luật nghiệp vụ và lý luận chính trị. Do vậy trong quá trình thực thi nhiệm vụ, cán bộ trong các cơ quan tư pháp đã tỏ rõ năng lực chuyên môn nghiệp vụ của mình. Tuyệt đại đa số cán bộ đã nắm vững pháp luật và vận dụng pháp luật một cách nhuần nhuyễn trong khi giải quyết những vụ việc cụ thể nhằm đề cao tính nghiêm minh của pháp luật, phản ánh sự ưu việt của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, vừa vận dụng một cách linh hoạt và đúng đắn đường lối chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.

 

Mặt khác, ở mỗi lĩnh vực hoạt động của mình, cán bộ công chức trong các cơ quan tư pháp đã không ngừng học tập trau dồi kiến thức nghiệp vụ, nắm vững mọi diễn biến của tình hình vi phạm pháp luật, các thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm; nắm vững chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền của mình nhằm đấu tranh, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, chính sách của Nhà nước.

 

Do điều kiện khách quan, vừa qua ở một số đơn vị nghiệp vụ, số lượng biên chế chưa đảm bảo chỉ tiêu; mặt khác do xuất phát từ tình hình diễn biến ở địa bàn cụ thể, nên cường độ lao động của cán bộ rất cao. Chỉ tính riêng lực lượng thi hành án dân sự, trung bình mỗi chấp hành viên trong cả nước, trong mỗi năm phải thụ lý 200 vụ việc, thậm chí có nơi mỗi chấp hành viên phải thụ lý 1.000 vụ việc; song tuyệt đại đa số cán bộ trong cơ quan tư pháp đã cố gắng phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn của mình.

 

+ Về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp: Qua xem xét đánh giá đội ngũ cán bộ công chức trong các cơ quan tư pháp, chúng ta thấy rằng tuyệt đại đa số cán bộ công chức, mặc dầu công tác trong môi trường công tác rất phức tạp, song vẫn giữ vững phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, có lối sống trong sạch, lành mạnh, không bị sa ngã trước các hiện tượng tiêu cực của xã hội. Thực sự là người trực tiếp thực hiện nền công lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta.

 

- Bên cạnh những ưu điểm, tích cực trên, trong thời gian qua, trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, cán bộ công chức hoạt động trong các cơ quan tư pháp đã bộc lộ một số tồn tại, khuyết điểm cần phải khẩn trương khắc phục:

 

+ Trước hết, một bộ phận cán bộ công chức công tác trong các cơ quan tư pháp có trình độ năng lực chuyên môn còn bị hạn chế, thậm trí một số cán bộ có trình độ chuyên môn thấp dẫn đến việc vận dụng pháp luật, vận dụng đường lối chính sách của Nhà nước trong công tác xét xử, xử lý vi phạm pháp luật còn tuỳ tiện, thiếu chính xác, gây hậu quả tiêu cực, làm giảm lòng tin của quần chúng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật.

 

+ Về phẩm chất chính trị, có thể nói, trong thời gian qua, các thế lực thù địch hoạt động chống phá cách mạng nước ta một cách điên cuồng dưới nhiều hình thức thâm độc, hoạt động của bọn tội phạm hình sự diễn biến hết sức phức tạp song một số cán bộ trong lĩnh vực công tác này thieéu sự nhạy bén về chính trị, thiếu những biện pháp đấu tranh, giải quyết một cách khôn khéo, làm cho hiệu quả công tác đấu tranh chống các biểu hiện vi phạm pháp luật của chúng ta chưa cao, gây ảnh hưởng xấu, tạo cớ cho các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá ta.

 

Mặt khác, một bộ phận cán bộ có biểu hiện giảm sút ý trí chiến đấu, thoái hoá biến chất về đạo đức lối sống, lợi dụng chức vụ quyền hạn để tiếp tay cho bọn tội phạm. Thậm chí một số cán bộ đã lợi dụng quyền năng pháp lý của mình để làm sai lệch hồ sơ, làm thay đổi tính chất vụ việc vì động cơ vụ lợi của cá nhân, dẫn đến lamg oan, làm sai, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Những mặt yếu kém trên đây đã dẫn đến một số cán bộ công chức trong các cơ quan bảo vệ pháp luật đã bị xử lý kỷ luật, thậm chí bị truy tố trước pháp luật.

 

Từ thực tế trên đây cho chúng ta thấy rằng tăng cường giáo dục bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp cả về năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức là một vấn đề đặt ra rất bức xúc và quá trình đó phải được đặt dưới sự lĩnh đạo của Đảng; đó chính là cơ sở, là điều kiện để xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có đủ năng lực phẩm chất cần thiết đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới.

 

2. Sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ cán bộ trong cơ quan tư pháp trong thời gian qua:

 

Có thể nói, ngay sau khi giành chính quyền và bắt tay vào xây dựng Nhà nước kiểu mới-Nhà nước của nhân dân, do dân, vì nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến việc đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước nói chung, trong đó hết sức quan tâm đến đội ngũ cán bộ trong các cơ quan tư pháp, vì đây chính là những người trực tiếp thực hiện và bảo đảm nền công lý của một thể chế chính trị mà ở đó quyền lực Nhà nước hoàn toàn thuộc về nhân dân lao động.

 

Cán bộ trong các cơ quan tư pháp là một lực lượng trực tiếp xây dựng và bảo đảm trật tự pháp luật, là lực lượng trực tiếp xây dựng và bảo vệ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Có thể nói nền chuyên chính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta có được củng cố và phát huy sức mạnh của nó nhằm trấn áp một cách kịp thời, mạnh mẽ đối với các thế lực thù địch của CNXH hay không? Nền dân chủ XHCN có được bảo đảm hay không? Các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân có được tôn trọng và bảo đảm hay không, điều đó tuỳ thuộc rất nhiều vào năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ công chức trong các cơ quan tư pháp. Nhận thức rõ vai trò đó, Đảng ta đã luôn luôn dành sự quan tâm và trực tiếp lãnh đạo về mọi mặt đối với đội ngũ cán bộ trong các cơ quan tư pháp.

 

Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng CNXH và bc Tổ quốc XHCN trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với mọi ngành, mọi cấp, mọi lực lượng, nhất là đối với đội ngũ cán bộ trong các cơ quan bảo vệ pháp luật. Đặc biệt trong bối cảnh thế giới hiện nay, khi các thế lực thù địch đang tìm mọi cách và dùng mọi thủ đoạn nhằm chống phá công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta; mặt khác nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu làm phát sinh nhiều lợi ích khác nhau đan xen-lợi ích cá nhân, lợi ích bộ phận, lợi ích địa phương, lợi ích ngành, lợi ích Nhà nước – làm xuất hiện những mâu thuẫn mới, những tiêu cực mới. Trong mối liên hệ đó, cuộc đấu tranh để bảo đảm sự công bằng xã hội, bảo đảm trật tự pháp luật càng trở nên phức tạp. Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3(khoá VIII) đã chỉ rõ: "Phương hướng vừa cơ bản vừa cấp bách hàng đầu lúc này là giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp cuả Nhà nước ta, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái đạo đức, tham nhũng, lãng phí, qua liêu, sách nhiễu nhân dân trong bộ máy Nhà nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta". Và do vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp nói chung và đội ngũ cán bộ trong hệ thống cơ quan tư pháp nói riêng càng trở nên hết sức cần thiết. Và chính điều này đã lý giải vì sao trong thời gian gần đây Đảng đã hết sức quan tâm lãnh đạo một cách toàn diện đối với đội ngũ cán bộ trong các cơ quan tư pháp.

 

Có thể nói yêu cầu khách quan về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ cán bộ công chức trong cacs cơ quan tư pháp trong mấy năm qua đã thực sự trở thành nhận thức chung và sâu sắc trong toàn Đảng từ Trung ương đéen địa phương.

 

Sự tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp nói chung và đội ngũ cán bộ công chức trong các cơ quan tư pháp nói riêng đã được thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau.

 

Trước hết, trong thời gian qua, Đảng ta đã xác định những quan điểm đường lối cụ thể và rõ ràng về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp bao gồm cả về công tác tổ chức và cả về đào tạo, lãnh đạo đội ngũ cán bộ công chức hoạt động trong các lĩnh vực đó. Đã hình thành một hệ thống quan điểm về sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực công tác này trong bối cảnh của tình hình mới, như:

 

Chỉ thị 29-CT/TW ngày 8-11-1993, của Ban Bí thư (khoá VII) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật; Chỉ thị 34-CT/TW ngày 18-3-1994 của ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII) về sự lãnh đạo của Đảng đối với việc tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán các cấp; Các quan điểm được xác định trong các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khoá VII), Trung ương 8 (khoá VII), Trung ương 3 (khoá VIII) v.v…

 

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khoá VIII) đã khẳng định rõ: "Tiếp tục cải cách tư pháp là một yêu cầu cấp bách. Nhân dân đòi hỏi các cơ quan tư pháp và nhân viên tư pháp phải mẫu mực tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, thể hiện tính dân chủ công khai, đại diện cho công lý của chế độ, phaie thực sự trong sạch, công minh".

 

Đặc biệt là Đảng đã thực sự coi trọng chất lượng đội ngũ cán bộ hoạt động trong các cơ quan tư pháp. Coi đây là vấn đề then chốt để nâng cao năng lực hoạt động và bảo đảm hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp. Trong vấn đề này, Hội nghị Trung ương 3 (khoá VIII) đã nhấn mạnh quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, coi "cán bộ là cái gốc của mọi công việc", và "công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Thấm nhuần sâu sắc quan điểm đó mà Hội nghị Trung ương 3 (khoá VIII) trong khi khẳng định sự cấp bách cuả công tác cải cách tư pháp đã chỉ rõ vấn đề cốt lõi của công tác này là công tác cán bộ. Và cải cách hệ thống cơ quan tư pháp phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với việc đào tạo bồi dưỡng nâng cao chất lươngj cán bộ công chức trong hệ thống cơ quan này. Và chính vì vậy, Nghị quyết của Trung ương lần này đã xác định rõ: Xây dựng cơ chế tuyển chọn, bồi dưỡng cán bộ tư pháp theo chức danh, quan tâm giáo dục phẩm chất đạo đức và đào tạo nghề nghiệp, kiện toàn các toà chuyên môn cả về thẩm quyền và về tổ chức, nhân sự, bảo đảm phục vụ tốt nhu cầu đổi mới tư pháp. Kiện toàn các Viện Kiểm sát theo hướng tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Chấn chỉnh công tác thi hành án theo hướng tập trung vào một đầu mối. Sớm kiện toàn các tổ chức hỗ trợ tư pháp như tổ chức luật sư, tư vấn pháp luật, công chứng, giám định tư pháp …làm cho các hoạt động này thực sự trở thành những trợ thủ đắc lực cho nền tư pháp trong điều kiện dân chủ hoá sinh hoạt mọi mặt của đời sống xã hội ta.

 

Cùng với việc xác định nội dung, mục tiêu của quá trình cải cách tư pháp gắn liền với việc giải quyết những vấn đề bức xúc của đời sống xã hội hiện nay như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khoá VIII) đặt ra đó là ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái đạo đức, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu dân trong bộ máy Nhà nước. Trng mối liên hệ đó, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tăng cường và củng cố hệ thống các cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luật. Chính điều này đã lý giải vì sao trong thời gian qua Ban chấp hành Trung ương Đảng và Bộ chính trị đã quan tâm và trực tiếp lãnh đạo việc xây dựng hệ thống pháp luật về bộ máy tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và các chức danh trong hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật như: Luật tổ chức Toà án nhân dân (1992); Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật tổ chức Toà án nhân dân (1994); Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân; pháp lệnh về thẩm phán và hội thẩm Toà án nhân dân; pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân; pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; pháp lệnh thi hành án dân sự v.v…

 

Để tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng đối với hệ thống các cơ quan tư pháp, bên cạnh việc xác định và hoàn thiện hệ thống quan điểm, đường lối chính sách cụ thể, bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan trong hệ thống cơ quan tư pháp, trong thời gian qua Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ chính trị đã thực sự quan tâm và trực tiếp việc chỉ đạo việc kiện toàn ban cán sự đảng của các cơ quan tư pháp. Thông qua đó một mặt nhằm đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp của Ban chấp hành Trung ương, của Bộ chính trị, mặt khác xác định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của ban cán sự đảng trong qua strính tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị-nhiệm vụ chuyên môn-của ngành mình. Cùng với việc kiện toàn ban cán sự đảng của các cơ quan tư pháp, Đảng cũng đã chỉ đạo quá trình củng cố, xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trong các cơ quan tư pháp; coi đó như một biện pháp nhằm bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng trong các cơ quan tư pháp; bảo đảm sự thống nhất của quá trình lãnh đạo của Đảng từ ban cán sự đến tận cấp vùng của đơn vị nghiệp vụ. Do hệ thống tổ chức Đảng trong các cơ quan tư pháp được củng cố nên trong thời gian qua, sự lãnh đạo của Đảng trong các cơ quan tư pháp đã có một bước phát triển mới về chất lượng. Sự phát triển đó được phản ánh trên nhiều khía cạnh. Trước hết nó đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa cấp ủy và thủ trưởng chuyên môn, gắn công tác Đảng với công tác chuyên môn, bảo đảm tính thống nhất cao là hướng tới việc thực hiện nhiệm vụ chính trị trong lĩnh vực hoạt động tư pháp ở mỗi lĩnh vực cụ thể cũng chính là nhằm phục vụ mục tiêu chung của quá trình đổi mới của Đảng, cùng nhằm tới quá trình thiết lập trật tự pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam. Mặt khác thông qua ban cán sự đảng của các cơ quan tư pháp để hướng dẫn chỉ đạo hệ thống tổ chức Đảng trong cơ quan nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý đảng viên làm cho các tổ chức Đảng trong các cơ quan tư pháp thực sự trong sạch, vững mạnh làm cơ sở cho các đơn vị nghiệp vụ hoàn thành tốt công tác chuyên môn.

 

Trong quá trình lãnh đạo các cơ quan tư pháp – thông qua ban cán sự – có thể nói Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ chính trị đã quan tâm thích đáng đến đội ngũ cán bộ tư pháp. Và coi đây là nhân tố quyết định đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp. Vì vậy, trong khi đề cập đến nội dung cải cách tư pháp, một trong những nội dung quan trọng mà Hội nghị Trung ương 3 (khoá VIII) đã xác định rõ là: xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức và có năng lực chuyên môn cao.

 

Để có được đội ngũ cán bộ "vừa hồng vừa chuyên" đó, đòi hỏi các cơ quan tư pháp trước hết là ban cán sự Đảng phải có chiến lược cán bộ cho ngành mình, phải lập quy hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể; phải tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động của cán bộ tư pháp để có thể đánh giá và sử dụng tốt cán bộ; xử lý nghiêm minh những cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức, tham nhũng, bao che và để lọt tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chung, làm giảm lòng tin của quần chúng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật.

 

III/ Nội dung và phương thức tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp trong tình hình hiện nay.

 

1. Yêu cầu khách quan của việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ cán bộ cơ quan tư pháp:

 

Đường lối đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo đã tạo ra một khả năng đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mạnh mẽ và toàn diện. Công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta không ngừng được củng cố và phát triển trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá-xã hội, an ninh và quốc phòng. Có thể nói trong hơn 10 năm qua, với đường lối đổi mới của đảng trong đó đổi mới chính trị gắn liền và trên cơ sở đổi mới kinh tế mà coót lõi của nó là chuyển đổi nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự tạo ra khả năng to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời quá trình chuyển đổi đó đã bộc lộ những mặt trái của nền kinh tế thị trường, làm cho bộ máy Nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lý điều hành chưa nghiêm; kỷ cương xã hội bị buông lỏng làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta. Chính vì vậy Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khoá VIII) đã chỉ rõ: phương hướng vừa cơ bản, vừa cấp bách hàng đầu lúc này là giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái đạo đức, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu nhân dân trong bộ máy Nhà nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta. Đối với cơ quan tư pháp, tuy có sự nỗ lực song cũng không tránh khỏi sự bộc lộ những tồn tại cả về năng lực chuyên môn, cả về sự sa sút phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ tư pháp; những tồn tại đó đã ảnh hưởng phần lớn đến hiệu quả và chất lượng công tác chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan tư pháp, làm chi tình hình trật tự an toàn xã hội nhiều nơi, nhiều lúc không được bảo đảm. Tình trạng phạm tộih và tái phạm trong thời gian qua diễn biến rất phức tạp, gây sự bất ổn trong xã hội. Thống kê tội phạm trong khoảng thời gian của thập kỷ 90 đã cho thấy nổi lên nhiều vấn đề rất đáng lo ngại đối với chúng ta. Trong số hơn 80.000 vụ phạm pháp hình sự trung bình hàng năm từ 1990 đến nay, có tới hơn 60.000 vụ phạm tội xâm phạm trật tự an toàn xã hội và gần 17.000 vụ phạm tội buôn lậu, gian lận thương mại và buôn bán ma tuý. Công tác phòng ngừa tội phạm đã được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, các ngành chức năng đã có nhiều giải pháp tích cực, song hiệu quả công tác phòng ngừa chưa cao, tình trạng vi phạm pháp luật, phạm tội xảy ra còn nghiêm trọng. Thống kê gần đây cho thấy trong số đối tượng phạm pháp thì đối tượng phạm tội lần đầu chiếm tới 70%, điều đó cho thấy hiệu quả công tác phòng ngừa còn rất thấp. Mặt khác công tác đấu tranh xử lý tội phạm của các ngành chức năng, trong thời gian qua cũng còn nhiều vấn đề bất cập. Chỉ tính riêng 19 tháng của 2 năm 1998-1999, Viện Kiểm sát nhân dân và cơ quan điều tra các cấp đã phải đình chỉ tới 6804 vụ. Tình trạng bắt oan, bắt sai có nơi có lúc còn sảy ra rất nghiêm trọng. Theo báo cáo của Toà án NDTC, trong quý IV năm 1998 và 9 tháng đầu năm 1999, Toà án nhân dân cấp tỉnh xử phúc thẩm đã tuyên số người không phạm tội chiếm 0.3% tổng số người xét xử phúc thẩm. Toà án cấp tỉnh xử giám đốc thẩm đã tuyên số người không phạm tội chiếm 1,7% tổng số người đã xét xử giám đốc thẩm. Toà hình sự Toà án NDTC xử giám đốc thẩm đã tuyên số người không phạm tội chiếm 34% tổng số người đã xét xử giám đốc thẩm. ủy ban thẩm phán Toà án NDTC xử giám đốc thẩm đã tuyên số người không phạm tội chiếm 6,9% tổng số người đã xét xử giám đốc thẩm. Trong các vụ oan sai do vi phạm hoạt động tố tụng gây ra đã xâm phạm nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự của công dân. Có thể nói tình trạng xử lý oan, sai trong hoạt động điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử các vụ án hình sự là vấn đề rất bức xúc, làm giảm lòng tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà nước ta. Đánh giá về nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên chúng ta thấy có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng là sự yếu kém của một bộ phận cán bộ trong các cơ quan tư pháp cả về năng lực trình độ chuyên môn, cả về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp.

 

Bên cạnh sự yếu kém của một bộ phận cán bộ cơ quan tư pháp, sự lỏng lẻo, sơ hở trong hoạt động quản lý của các cơ quan, các cấp, các ngành trên các lĩnh vực kinh tế, văn háo-xã hội, trật tự an toàn xã hội. Và qua trọng hơn hết như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khoá VII) đã chỉ rõ: hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chưa tạo đủ khuôn khổ pháp lý cần thiết; việc thi hành pháp luật chưa nghiêm, kỷ cương, kỷ luật lỏng lẻo. Một bộ phận những người có trách nhiệm gìn giữ pháp luật lại là những người làm sai pháp luật …Trong nhiều lĩnh vực thuộc đời sống xã hội có tình trạng vừa thiếu dân chủ, vừa lỏng lẻo kỷ cương, ở nhiều nơi quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm…, nạn quan liêu, lãng phí, tham nhũng nghiêm trọng, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ còn yếu. Đội ngũ cán bộ, công chức nhìn chung chưa ngang tầm nhiệm vụ, một bộ phận không nhỏ thoái hoá, biến chất. Về vấn đề này, Hội nghị Trung ương 3 (khoá VIII) nhấn mạnh chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận còn không ít khuyết điểm và những vấn đề tồn tại khiến mọi người đang băn khoăn, lo lắng; nhất là tình trạng tham ô, lãng phí, quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, ức hiếp dân không những không bị ngăn chặn, giảm bớt mà ngược lại, có nơi, có lúc, có việc còn trở nên trầm trọng hơn, gây bất bình trong dư luận, làm giảm lòng tin của nhân dân … Và chính những tồn tại yếu đó cùng với những sơ hở trong hoạt động quản lý Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá-xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội đã tạo điều kiện cho các thế lực thù địch trong nước và quốc tế lợi dụng chống phá ta. Trước tình hình đó, Đảng ta xác định quan điểm xây dựng Nhà nước trong tình hình mới là: tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa. Trong mối quan hệ đó, vấn đề tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp là một yêu cầu khách quan và bức thiết, và coi đó như là cơ sở, là điều kiện để nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác của cơ quan tư pháp nói chung và đội ngũ cán bộ công chức trong cơ quan tư pháp nói riêng nhằm đáp ứng với yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn mọi hành vi vi phạm pháp luật, củng cố và thiết lập trật tự kỷ cương của xã hội nhằm đáp ứng với yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới.

 

2. Nội dung tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp trong tình hình hiện nay:

 

- Thứ nhất, cần phải hoàn thiện hệ thống quan điểm về sự lãnh đạo của Đảng đối với sự hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp nói chung và đội ngũ cán bộ công chức trong cơ quan tư pháp nói riêng, làm cơ sở cho sự thống nhất chung về mặt nhận thức lý luận đối với lĩnh vực công tác này trong toang Đảng.

 

Thông qua nội dung này giúp cho chúng ta có sự đánh giá một cáhành chính toàn diện về quá trình lãnh đạo của Đảng, của các cấp uỷ đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp và đội ngũ cán bộ trong ca tư pháp. Mặt khác, xuất phát từ tình hình phát triển mới của đất nước trên mọi lĩnh vực trong đó bao gồm cả hoạt động đối ngoại, các hoạt động hợp tác tương trợ tư pháp giữa ta và nhiều nước trên thế giới; thực tế đó đặt ra đòi hỏi phải có sự tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ cán bộ công chức tư pháp trong xu thế hoà nhập mới.

 

- Thứ hai, đi đôi với việc hoàn thiện hệ thống quan điểm trên, đòi hỏi phải củng cố hệ thống tổ chức và nâng cao năng lực, chất lượng lãnh đạo và quản lý cán bộ đảng viên của các tổ chức Đảng trong cơ quan tư pháp. Có thể nói trong một thời gian khá dài và ở một vài cơ quan tư pháp gần như có sự đồng nhất giữa công tác chuyên môn và công tác Đảng, thậm trí có lúc coi nhẹ công tác quản lý đảng viên, coi nhẹ công tác giáo dục chính trị tư tưởng dối với đảng viên dẫn đến một bộ phận cán bộ đảng viên đã phai nhạt lý tưởng của Đảng, chạy theo lợi ích cá nhân, vi phạm nghiêm trọng phẩm chất tư cách đảng viên, vi phạm đạo đức nghề nghiệp song do quản lý lỏng lẻo nên tổ chức Đảng không phát hiện kịp thời dẫn đến một số cán bộ đảng viên vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật đảng nghiêm trọng và bị xử lý. Từ thực tế đó cho chúng ta thấy rằng một trong những nội dung rất quan trọng của việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ cán bộ công chức trong cơ quan tư pháp đó là nâng cao chất lượngcông tác quản lý đảng viên, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng. Đồng thời các cấp ủy đảng trong cơ quan tư pháp phải chú trọng đúng mức công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên. Và công tác giáo dục chính trị tư tưởng ở đây phải đặt trong mối quan hệ với việc nâng cao ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của ngươì cán bộ công chức trong môi trường công tác mang tính đặc thù của cơ quan tư pháp.

 

Đối với công tác quản lý cán bộ đảng viên là cán bộ công chức trong cơ quan tư pháp, đỏi hỏi các cấp uỷ đảng phải có sự kết hợp chặt chẽ với thủ trưởng chuyên môn. Nội dung công tác quản lý cán bộ đảng viên trong cơ quan tư pháp phải bao gồm cả việc quản lý chất lượng công tác chuyên môn, nghiệp vụ và việc tuân thủ các quy định cụ thể trong hoạt động nghiệp vụ của ngành. Đồng thời có những hình thức, biện pháp thích hợp nhằm quản lý kịp thời, phát hiện những biểu hiện không bình thường trong sinh hoạt của cán bộ đảng viên để có sự giáo dục uốn nắn giúp cán bộ đảng viên tránh được sự mua chuộc sa ngã trước những tiêu cực của cơ chế thị trường.

 

-Thứ ba, củng cố hệ thống tổ chức Đảng trong cơ quan tư pháp, bảo đảm đủ khả năng lãnh đạo toàn diện về tư tưởng chính trị, chuyên môn nghiệp vụ trong các lĩnh vực công tác tư pháp. Công tác củng cố tổ chức đảng trong cơ quan tư pháp phải đặt trong mối quan hệ với việc củng cố tổ chức bộ máy và nâng cao hiêụ quả hoạt động của nó. Trong mối liên hệ này đòi hỏi phải khắc phục khuynh hướng đồng nhất hoá hoạt động của tổ chức Đảng và hoạt động chuyên môn và từ đó làm giảm vai trò lãnh đạo của Đảng.

 

-Thứ tư, nghiên cứu và xác định những tiêu chuẩn, điều kiện để trở thành cán bộ công chức trong các cơ quan tư pháp. Do đặc điểm , tính chất của hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan tư pháp, nên ngoài những tiêu chuẩn, điều kiện để trở thành cán bộ công chức được xác định trong pháp lệnh cán bộ công chức, đối với cán bộ công chức hoạt động trong cơ quan tư pháp cần có những quy định thêm về tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể. Mặt khác thông qua ban cán sự đảng của cơ quan tư pháp để xây dựng và hoàn thiện quy chế tuyển dụng, bổ nhiệm các chức danh trong các cơ quan tư pháp. Đây là một vấn đề rất quan trọng liên quan trực tiếp đến chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, liên quan đến khả năng thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của ngành.

 

- Thứ năm, xây dựng quy hoạch tuyển chọn, đào tạo đội ngũ cán bộ với các chức danh tư pháp theo một quy hoạch tổng thể mang tính chiến lược lâu dài.

 

Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác của cơ quan tư pháp, trực tiếp phục vụ cho quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng cần phải thông qua Nhà nước xây dựng một quy trình tuyển chọn, đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp một cách toàn diện theo một chương trình chuẩn nhằm đạt được một trình độ đủ hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn theo hướng chất lượng ngày càng được nâng cao. Mặt khác xuất phát từ điều kiện hoàn cảnh thực tế hiện nay là đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay không đồng đều về trình độ do được đào tạo từ nhiều hình thức khác nhau (đào tạo chính quy, tại chức, chuyên tu) và chất lượng đào tạo chưa cao nên dẫn đến một bộ phận cán bộ tư pháp hiện nay có trình độ chuyên môn nghiệp vụ non kém nên không hoàn thành được nhiệm vụ theo yêu cầu đòi hỏi của tình hình. Từ thực tế đó một vấn đề đặt ra rất cấp bách hiện nay là cần phải có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại số cán bộ tư pháp vốn chưa được đào tạo hoàn chỉnh trên đây nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ tư pháp thực sự vững về tay nghề và trong sạch về phẩm chất đạo đức. Trong mối liên hệ đó, vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là phải xây dựng một chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp một cách toàn diện trên cơ sở chuẩn hoá kiến thức, trong chương trình đó bao gồm có cả nội dung bổ túc nghề hàng năn cho cán bộ tư pháp.

 

- Thứ sáu, nghiên cứu và xác định chế độ chính sách đãi ngộ cán bộ công chức tư pháp cho phù hợp với tính chất công việc.

 

Đây là một vấn đề mà thực tế đang đặt ra đòi hỏi phải được nghiên cứu xem xét để nhằm giải quyết cả về đời sống vật chất và nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ công chức tư pháp.

 

Hiện nay chế độ tiền lương của cán bộ công chức của chúng ta nói chung còn nhiều vấn đề bất cập chưa đảm bảo được cuộc sống bình thường của cán bộ công chức, bên cạnh đó sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường càng làm cho đội ngũ công chức trong cơ quan Nhà nước nảy sinh tư tưởng tiêu cực. Đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ công chức tư pháp làm việc trong môi trường luôn luôn chịu sự tác động của yếu tố tiêu cực của xã hội, của bọn tội phạm, trong đó việc sử dụng vật chất để lôi kéo mua chuộc cán bộ tư pháp đã trở nên một phương thức thông dụng dưới nhiều hình thức và thủ đoạn tinh vi dễ làm cho cán bộ sa ngã. Do đó việc nghiên cứu và xác định một chế độ đãi ngộ thích hợp đối với cán bộ công chức tư pháp phải được xem xét như là một biện pháp đấu tranh chống tiêu cực trong cơ quan tư pháp. ở đây còn nhấn mạnh thêm rằng: Việc xác định chế độ đãi ngộ đặc biệt dành cho cán bộ công chức tư pháp phải đặt trong mối quan hệ với mặt bằng chế độ chính sách chung. Đồng thời với chế độ chính sách theo hướng ưu đãi, đòi hỏi phải tăng cường công tác quản lý, giáo dục chính trị tư tưởng nhất là bảo đảm chế độ quản lý đảng viên của các cấp này và chế độ sinh hoạt đảng thường xuyên với nội dung sát hợp và giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh trong đời sống của cán bộ đảng viên là vấn đề cần được duy trì bảo đảm thường xuyên.

 

3. Phương thức tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay:

 

Như trên đã trình bày, tăng cương sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp là một yêu cầu khách quan và hết sức bức thiết nhằm đáp ứng với tình hình hiện nay của chúng ta. Bên cạnh việc xác định những nội dung cụ thể nhằm đảm bảo tăng cường sự lãnh đạo của đảng như đã trình bày ở trên, việc xác định phương thức lãnh đạo của đảng có một ý nghĩa to lớn. Và vấn đề đó được nhìn nhận như là một trong những điều kiện cơ bản để bảo đảm sự tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Quá trình tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp với những nội dung cụ thể trên đây, đòi hỏi phải được tiến hành với những phương thức cơ bản sau đây:

 

- Thứ nhất, xuất phát từ tình hình thực tiễn, Bộ chính trị phải ban hành các chỉ thị, nghị quyết nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể trong từng lĩnh vực hoạt động của cơ quan tư pháp.

 

Đây là một phương thức thể hiện sự nhạy bén nắm bắt những vấn đề cấp thiết do thực tế cho hoạt động tư pháp đặt ra. Các chỉ thị, nghị quyết được ban hành phải nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề bức xúc ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các chỉ thị, nghị quyết đó phải được nghiên cứu, tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc. Và qua việc tổ chức thực hiện của cơ quan tư pháp, Bô Chính trị cần có sự chỉ đạo tổng kết rút ra những vấn đề cần bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện văn bản làm cơ sở cho việc vận dụng lâu dài.

 

- Thứ hai: xác định những quan điểm, đường lối chính sách cụ thể về các lĩnh vực của công tác tư pháp và giao trách nhiệm cho các ban cán sự đảng của các ngành tổ chức triển khai thực hiện. Quá trình đó phải bảo đảm theo dõi chỉ đạo của Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng nhằm bảo đảm các quan điểm, đường lối, chính sách đó được tổ chức thực hiện nghiêm túc.

 

- Thứ ba: Chỉ đạo ban cán sự đảng của các cơ quan tư pháp thường xuyên có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành chức năng nhằm kịp thời giải quyết những vấn đề thực tế mới nảy sinh trong các lĩnh vực của hoạt động tư pháp.

 

Với phương thức này, nhằm giúp cho ban cán sự của các ngành hoạt động trong lĩnh vực tư pháp chủ động phối hợp chặt chẽ với nhau để giải quyết các vấn đề; khắc phục tình trạng các ngành né tránh đùn đẩy nhau trước những vấn đề bức xúc của đời sống xã hội. Vấn đề đặt ra ở đây là để bảo đảm hiệu quả của sự phối hợp này, Bộ chính trị, Ban chấp hành trung ương cần xác định rõ cơ chế phối hợp giữa ban cán sự của các ngành sao cho kịp thời và có hiệu quả, phát huy tính chủ động và trách nhiệm của các ban cán sự đảng của các cơ quan tư pháp trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.

 

- Thứ tư: Quá trình thực hiện sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của mình đối với công tác cán bộ của cơ quan tư pháp, Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương đảng yêu cầu ban cán sự đảng của các ngành thực hiện tốt chế độ báo cáo, kiểm tra đảng để kịp thời có ý kiến chỉ đạo đối với những vấn đề mới nảy sinh làm ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan tư pháp. Có thể nói thông qua công tác kiểm tra để kịp thời uốn nắn những yếu kém trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chức năng trong hệ thống các cơ quan tư pháp

 

 

một số quan điểm trong xây dựng đội ngũ

cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh

 

T.S Lê Mạnh Luân

Chánh văn phòng Ban Nội chính Trung ương

 

I/ Đặt vấn đề

 

Ra đời và phát triển cùng với Nhà nước cách mạng, đội ngũ cán bộ tư pháp ngày càng lớn mạnh, trưởng thành góp phần vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.

 

Trong sự nghiệp đổi mới, cán bộ tư pháp cùng với đội ngũ cán bộ công chức nói chung đã luôn luôn cố gắng nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị, rèn luyện về đạo đức, lối sống, có bước chuyển biến về tư duy, nâng cao năng lực chuyên môn để hoàn thành nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao cho.

 

Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, cán bộ tư pháp góp phần bảo đảm thực hiện quyền lực Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đấu tranh phòng chống vi phạm, tội phạm, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự xã hội.

 

Tuy nhiên trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, đội ngũ cán bộ tư pháp cũng bộ lộ những yếu kém về trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức, còn hạn chế về số lượng cán bộ cả về điều kiện công tác, hoạt động.

 

Thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế XHCN đòi hỏi đội ngũ cán bộ tư pháp phải vươn lên một tầm cao mới, đủ đức và tài để gánh vác nhiệm vụ ngày càng nặng nề, phức tạp hơn. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII) yêu cầu: "Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức và có năng lực chuyên môn"1

 

 

Cán bộ tư pháp là công chức Nhà nước, do vậy việc xây dựng đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên cũng phải quán triệt những quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ do Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII) đề ra. Đó là các quan điểm:

1. Phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

 

2. Quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc.

 

3. Gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với việc xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế, chính sách.

 

4. Thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ.

 

5. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.

 

Cũng như các công chức Nhà nước khác, cán bộ tư pháp đều được phân công thực hiện những nhiệm vụ nhất định, có quyền hạn cụ thể để thực thi chức trách được giao. Tuy nhiên trọng nhiệm vụ, quyền hạn, việc bổ nhiệm cán bộ tư pháp cũng có đặc điểm như sau:

 

+ Cán bộ tư pháp là lực lượng nòng cốt bảo vệ chế độ XHCN, có nhiệm vụ liên quan trực tiếp đến bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội.

 

+ Cán bộ tư pháp là những công chức thực hiện quyền lực tư pháp. Họ có những quyền hạn liên quan đến sinh mạng, uy tín, danh dự, tự do, tài sản của người dân.

 

+ Cán bộ tư pháp do các cơ quan Nhà nước Trung ương bổ nhiệm, nhưng phần lớn cán bộ tư pháp lại thực thi nhiệm vụ ở địa phương phục vụ cho sự lãnh đạo, quản lý của tổ chức đảng, chính quyền nơi họ công tác. Cán bộ tư pháp chịu sự quản lý, chỉ đạo của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương và cấp uỷ, chính quyền địa phương.

 

Do vậy, cần cụ thể hoá những quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

 

II/ Một số quan điểm trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh.

1/ Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp về tư tưởng chính, đạo đức và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

 

1.1. Nâng cao nhận thức tư tưởng, chính trị của cán bộ tư pháp:

 

Hiện nay các thế lực thù địch, phản động ráo riết tăng cường các hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước ta. Với các luận điệu đa nguyên, đa đảng, dân chủ tư sản, nhân quyền theo quan niệm và tiêu chuẩn đa phương Tây, phi chính trị nền tư pháp … kẻ thù của chế độ tư đẩy mạn việc thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình" trên cả lĩnh vực Nhà nước và pháp luật.

 

Trong điều kiện đấu tranh tư tưởng, chính trị như vậy, cán bộ tư pháp phải quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam nói chung và về Nhà nước và pháp luật, về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng.

 

Là những cán bộ của Đảng, là công chức của Nhà nước Việt Nam XHCN, cán bộ tư pháp thông qua việc thực thi nhiệm vụ phòng chống tội phạm kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu, thủ đoạn, hành vi chống phá chế độ ta cảu các thế lực thù địch, phản cách mạng. Cán bộ tư pháp luôn nâng cao ý thức cảch giác cách mạng, có sự nhạy bén về chính trị và sự tinh thông về nghiệp vụ để kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi chống lại chế độ ta, Nhà nước ta, bảo vệ an ninh chủ quyền quốc gia.

 

1.2. Xây dựng đạo đức Hồ Chí Minh cho cán bộ tư pháp:

 

Cán bộ tư pháp phải rèn luyện, phấn đấu theo các chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh. Ngoài các nội dung đạo đức cách mạng mà mọi cán bộ, đảng viên, công chức Nhà nước phải thấm nhuần, như: yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư; tận tuỵ phục vụ nhân dân … thì cán bộ tư pháp phải quán triệt sâu sắc những yêu cầu, tiêu chuẩn về đạo đức của người cán bộ tư pháp XHCN.

 

Được nhân dân, Nhà nước giao cho thực hiện quyền tư pháp, cán bộ điều tra, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên phải là người đi đầu, tiên phong trong đấu tranh bảo vệ công lý, vì công bằng xã hội. Cán bộ tư pháp phải dũng cảm, có bản lĩnh trong việc chống lại các hành vi tham nhũng, quan liêu, xa hoa, lãng phí.

 

Trong cuộc đấu tranh chống lại vi phạm pháp luật, tội phạm, người cán bộ tư pháp không chỉ phải có phẩm chất, nghị lực để thắng được những cám dỗ vật chất, tránh được ma lực của đồng tiền, mà còn để vượt qua những hành vi cản chở, bao che, can thiệp, đe doạ.

 

Mỗi quyết định của cán bộ tư pháp đều liên quan đến cuộc sống, sự nghiệp, hạnh phúc… của không ít con người. Với tính khách quan, trung thực, thận trọng cán bộ điều tra, kiểm sát viên, thẩm phán có thể minh oan cho người vô tội. Ngược lại sự thiếu trách nhiệm, quan liêu thậm chí lạm quyền của cán bộ tư pháp cũng có thể đẩy một số người lương thiện xuống bùn đen, phá hoại hạnh phúc gia đình, làm tan nát tài sản của họ. Quyền hạn khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét… là biện pháp mà luật giao cho cán bộ tư pháp để điều tra, ngăn chặn tội phạm, bảo vệ nhân dân chứ không phải là đặc quyền để cán bộ tư pháp lạm dụng hoặc lợi dụng trả thù, hù doạ, vòi vĩnh người dân.

 

Trong số những người sai phạm, lầm lỡ, không ít người là người lao động, có người lần đầu phạm tội, có người phạm tội do cuộc sống quá khó khăn, không có việc làm… Hồ Chủ Tịch nhấn mạnh rằng vấn đề tư pháp là vấn đề ở và làm người. Do vậy khi xử lý những người vi phạm, phạm tội, cán bộ tư pháp phải quán triệt nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, xem xét đầy đủ hoàn cảnh phạm tội, vi phạm, nhân thân của người sai phạm để có những quyết định, phán quyết đúng đắn.

 

Đạo đức cách mạng của người cán bộ tư pháp còn thể hiện trong quan hệ đồng chí, đồng nghiệp, trong xây dựng Đảng, xây dựng cơ quan, đơn vị. Cán bộ, Đảng viên, công chức trong các cơ quan tư pháp đấu tranh tự phê bình, phê bình trên nguyên tắc tập trung dân chủ, với tinh thần đồng chí, đồng nghiệp để cho người có sai phạm thấy rõ khuyết điểm, thiếu sót, kịp thời sửa chữa và công tác tốt hơn, tiến bộ hơn. Phải phê phán và xử lý nghiêm những người không trung thực, ném đá dấu tay, bè phái thậm trí dùng "nghiệp vụ để gài bẫy" đồng nghiệp tranh giành chức tước, quyền lợi.

 

1.3. Nâng cao trình độ, năng lực công tác của cán bộ tư pháp:

 

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII xác định mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phấn đấu đến năm 2002 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp và khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

 

Công cuộc xây dựng đất nước sẽ tạo tiền đề, cơ sở cho sự phát triển của các cơ quan tư pháp, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên. Tuy nhiên sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của nước ta trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ trong điều kiện hội nhập khu vực và thế giới cũng đặt ra cho cán bộ tư pháp những đòi hỏi mới cao hơn về trình độ, năng lực để hoàn thành nhiệm vụ, góp phần vào sự nghiệp chấn hưng đất nước.

 

Mặt khác, sự nghiệp đổi mới, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN cũng đẻ ra nhiều vấn đề phức tạp, khó khăn trong nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Tội phạm phát triển với tính chất phức tạp hơn, có hình thức, thủ đoạn phạm tội tinh vi, xảo quyệt hơn. Các tranh chấp dân sự, kinh tế … phát triển rất đa dạng, phức tạp, nhiều khi rất nóng bỏng, căng thẳng.

 

Trước tình hình kinh tế, xã hội đó, nhiệm vụ của cán bộ tư pháp vừa quan trọng hơn, lại vừa nặng nề, phức tạp, khó khăn hơn. Do vậy cán bộ tư pháp phải được đào tạo có kiến thức sâu rộng về pháp lý, nắm vững lý luận chính trị, có hiểu biết về kinh tế, văn hoá, ngoại ngữ, tin học để có năng lực, trình độ để hoàn thành nhiệm vụ và góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

 

Nâng cao tiêu chuẩn chuyên môn của các chức danh tư pháp theo hướng các điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên phải tốt nghiệp đại học luật hoặc đại học khác có chuyên ngành phù hợp, được thường xuyên bồi dưỡng về chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ. Cán bộ tư pháp phải trưởng thành, phát triển qua thực tiễn công tác. Phấn đấu tạo điều kiện cho cán bộ tư pháp học tập và sử dụng công nghệ tin học trong công tác và có hiểu biết về ngoại ngữ để có thể mở rộng kiến thức, chủ động hơn trong công tác.

 

2/ Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tuyển chọn, bổ nhiệm, quản lý cán bộ tư pháp.

 

Cán bộ tư pháp là người có quyền hạn rất lớn. Do vậy, ngoài việc đào tạo, bồi dưỡng toàn diện, vững chắc về chính trị, chuyên môn, thì phải chú trọng đến việc tuyển chọn, bổ nhiệm và quản lý cán bộ tư pháp.

 

Bên cạnh kiến thức được trang bị qua trường lớp, cán bộ tư pháp phải thông qua thực tiễn công tác thì mới tinh thông về nghề nghiệp. Cán bộ tư pháp nếu trải qua nhiều môi trường công tác có phạm vi, tính chất khác nhau, thì không chỉ tích luỹ được nhiều kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, mà còn có được nhiều bài học phong phú về phương pháp công tác, có được nhiều kinh nghiệm quản lý, lãnh đạo.

 

Hơn nửa thế kỷ qua, nhất là khi đảng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, thì đội ngũ cán bộ pháp lý ngày càng lớn mạnh, trưởng thành gánh vác các trọng trách ở nhiều cơ quan, tổ chức. Ngoài khoa học pháp lý, các cán bộ đó lại có kiến thức về chuyên ngành thuộc nhiệm vụ của cơ quan nơi họ công tác hoặc có kiến thức về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Đây cũng là nguồn cán bộ có thể bổ sung cho các cơ quan tư pháp.

 

Do vậy, việc tuyển chọn cán bộ tư pháp theo hướng chủ yếu từ dưới lên, nguồn tại chỗ là chính và kết hợp điều động từ trên xuống, bổ sung từ bên ngoài vào.

 

Cán bộ tư pháp đều làm việc ở một cơ quan, đơn vị nhất định, sống ở một khu vực dân cư cụ thể. Khó có ai gắn bó, hiểu biết họ hơn đồng nghiệp, đồng chí cùng công tác. Tư cách, lối sống của họ cũng thể hiện qua quan hệ với hàng xóm láng giềng. Cán bộ tư pháp trong khi thực hiện nhiệm vụ chuyên môn luôn phải quán triệt và phục vụ yêu cầu chính trị cuả địa phương nơi họ công tác. Cho nên cần đổi mới công tác tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ tư pháp theo hướng dân chủ, bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ của các tổ chức đảng, quyền quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, kết hợp ý kiến đánh giá của những nhà chuyên môn và ý kiến nhận xét của nhân dân. Trong công tác tuyển chọn, quản lý cán bộ tư pháp cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương với cơ quan Nhà nước cấp trên, giữa các cơ quan quản lý cấp trên với nhau.

 

3/ Tăng cường sự lãnh đạo của của Đảng, công tác giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với hoạt động của cán bộ tư pháp.

 

3.1. Tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng:

 

Để xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, các cấp uỷ, tổ chức đảng cần chú trọng xây dựng, quy hoạch đội ngũ cán bộ tư pháp. Căn cứ vào quy hoạch cán bộ tư pháp, các cấp uỷ, tổ chức đảng chủ động tạo nguồn cán bộ thông qua việc đào tạo ở trường, lớp và thực tiễn công tác. Tăng cường quản lý đảng viên là cán bộ tư pháp trong công tác và trong cuộc sống hàng ngày. Thực hiện chủ trương của Đảng về sự phối hợp quản lý đảng viên giữa các tổ chức đảng ở cơ quan, đơn vị công tác với tổ chức đảng ở nơi cán bộ tư pháp cư trú.

 

Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ tư pháp theo hướng khi bổ nhiệm các chức danh điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên đều phải báo cáo, xin ý kiến của các cấp uỷ và tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp.

 

Các cấp uỷ đảng chú trọng thường xuyên xây dựng, củng cố, kiện toàn các chi bộ, đảng uỷ, ban cán sự đảng của các cơ quan tư pháp. Các tổ chức đảng trong các cơ quan công an, kiểm sát, toà án… vững mạnh không chỉ có đủ năng lực để lãnh đạo cơ quan, đơn vị mình mà còn cùng với các tổ chức đảng khác tham mưu cho cấp uỷ lãnh đạo hoạt động, tổ chức của các cơ quan tư pháp.

 

Tăng cường kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp. Các cấp uỷ đảng thường xuyên kiểm tra và chỉ đạo các tổ chức đảng của các cơ quan tư pháp tự kiểm tra đảng viên của mình để chủ động phát hiện lệch lạc, sai phạm, kịp thời ngăn chặn, sửa chữa thiếu sót, khuyết điểm, xử lý nghiêm những cá nhân và tổ chức vi phạm.

 

Tổ chức đảng của các cơ quan tư pháp cấp trên phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ đảng địa phương trong việc quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, thuyên chuyển cán bộ tư pháp; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên là cán bộ tư pháp ở địa phương, kiểm tra hoạt động tổ chức đảng của các cơ quan tư pháp địa phương.

 

3.2. Nâng cao hiệu quả công tác giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân đối với hoạt động của cán bộ tư pháp:

 

Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khoá VII) và Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 3 (khoá VIII) đều nhấn mạnh việc tăng cường công tác giám sát của Quốc hội đối với hoạt động tư pháp theo hướng hiệu quả, thiết thực.

 

Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất có quyền giám sát tối cao. Quốc hội thành lập ra các cơ quan Nhà nước khác để thực hiện quyền lực Nhà nước và giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước đó. Quốc hội xét báo cáo của các cơ quan tư pháp Trung ương và yêu cầu các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra hoạt động của các cơ quan tư pháp, việc thực thi nhiệm vụ của cán bộ tư pháp. Một hướng để nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của cán bộ tư pháp là xây dựng cơ quan giám sát chuyên trách có thực quyền của Quốc hội. Cơ quan này có quyền kiểm tra việc thực thi trách nhiệm, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp.

Các cán bộ tư pháp do cơ quan Nhà nước cấp trên, cơ quan Nhà nước Trung ương bổ nhiệm. Hoạt động của cán bộ tư pháp chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân địa phương. Hội đồng nhân dân nghe báo cáo của Chánh án Toà án và Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp, bầu hội thẩm nhân dân của Toà án cùng cấp.

 

Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện, phản ánh ý chí và nguyện vọng của nhân dân địa phương. Với tính chất ấy, Hội đồng nhân dân có vai trò quan trọng trong việc nhận xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và việc thực hiện nhiệm vụ của các cán bộ tư pháp nói riêng. Do vậy cần nâng cao hơn nữa hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân theo hướng việc bổ nhiệm một số cán bộ có chức danh tư pháp phải có ý kiến của cơ quan dân cử địa phương (thông qua các cơ quan của Hội đồng nhân dân).

 

4/ Xây dựng, hoàn thiện chính sách đối với cán bộ tư pháp.

 

Cán bộ tư pháp thực hiện quyền tư pháp. Công việc của cán bộ tư pháp đòi hỏi họ phải có trí tuệ, hiểu, hiểu biết rộng và phải rất nhạy cảm, tinh tế. Nhiệm vụ của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên đòi hỏi họ phải làm việc với cường độ và sự căng thẳng về tinh thần rất cao. Cán bộ tư pháp khi thi hành chức trách, nhiệm vụ không chỉ đối mặt với sự nguy hiểm về tính mạng, gặp nhiều khó khăn, gian khổ, mà còn phải chống lại mọi sự cám dỗ về vật chất, sự đe doạ, khủng bố của bọn phạm tội và sự can thiệp, tác động từ không ít người có chức quyền có quyền.

 

Nghề nghiệp của cán bộ tư pháp đối với xã hội là góp phần bảo đảm công bằng, công lý. Còn đối với cá nhân, tổ chức cụ thể thì cán bộ tư pháp là người bảo vệ tính mạng, nhân phẩm, hạnh phúc, tài sản của họ, bảo đảm cho họ được sống, lao động, học tập trong an toàn, tự do trong khuôn khổ pháp luật.

 

Đề cao vai trò, quan tâm đến cán bộ tư pháp không phải chỉ vì chính họ mà còn vì lợi ích của Nhà nước và xã hội, vì mỗi cá nhân, tổ chức cụ thể. Do vậy cần tuyên truyền để cho xã hội hiểu được giá trị nghề nghiệp và tôn trọng cán bộ tư pháp, ủng hộ họ hoàn thành nhiệm vụ.

 

Mặt khác cũng phải giáo dục cho cán bộ tư pháp nhận thức sâu sắc về vị trí, trách nhiệm của họ trước nhân dân, trước Đảng, Nhà nước để tự rèn luyện, phấn đấu vươn lên. Cán bộ tư pháp phải xác định đúng đắn về quyền hạn, nhiệm vụ của họ. Những quyền mà cán bộ tư pháp được giao là do Nhà nước uỷ nhiệm cho họ thực hiện vì hạnh phúc của nhân dân.

Nhận thức về vị trí, vai trò cũng như trách nhiệm của cán bộ tư pháp như vậy sẽ là cơ sở không chỉ cho việc giáo dục, quản lý, giám sát cán bộ tư pháp mà còn để xây dựng chính sách, chế độ đối với họ sao cho tương xứng với sứ mệnh thực thi cho quyền tư pháp.

 

Cần phải sửa đổi chế độ lương và phụ cấp cho cán bộ tư pháp theo hướng họ được hưởng mức cao nhất trong đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay. Chế độ chính sách đối với cán bộ tư pháp được xây dựng sao cho họ yên tâm công tác lâu dài, gắn bó với nghề nghiệp. Bên cạnh việc giáo dục về phẩm chất đạo đức, thì việc xây dựng chính sách đối với cán bộ tư pháp cần tạo nên những điều kiện, khả năng để họ chống lại, vượt qua mọi cám dỗ, mua chuộc.

 

Tiền lương, phụ cấp của cán bộ tư pháp pháp không là cái duy nhất để nói lên vinh dự nghề nghiệp, giá trị của họ trong xã hội. Tuy nhiên những ưu đãi vật chất cũng rất quan trọng để bảo đảm cho cán bộ tư pháp lao động trung thực, chân chính. Đó cũng vừa là trách nhiệm, vừa thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với cán bộ tư pháp để giúp họ thực hiện tốt sứ mệnh của mình trước xã hội.

 

Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp. Đó là trách nhiệm của các tổ chức đảng, của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và của chính người dân. Cán bộ tư pháp phải vững về tư tưởng chính trị, giỏi về chuyên môn; không chỉ không tham nhũng, quan liêu mà còn phải đi đầu trong đấu tranh với tệ nạn tham ô, hối lộ, vô trách nhiệm; phải thực sự là công bộc, đầy tớ của nhân dân. Như Bác Hồ dạy cán bộ là công tác tư pháp là phải công bằng, liêm khiết, trong sạch, gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân./.

 

đảng lãnh đạo công tác tổ chức và cán bộ của cơ quan điều tra trong ngành công an

Trần Văn Nho - Phó thủ trưởng

Cơ quan CSĐT - Bộ Công An

 

 

I/ Thực trạng hoạt động của cơ quan điều tra và vấn đề tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với hoạt động điều tra.

 

1. Mô hình tổ chức, địa vị pháp lý của cơ quan điều tra:

 

- Trước năm 1982, chưa hình thành cơ quan điều tra chuyên trách. Khi đó bao gồm hệ chấp pháp và các đơn vị trinh sát hình sự; kinh tế và bảo vệ chính trị. Ngoài lãnh đạo của đơn vị chấp pháp thì các lực lượng khác vẫn có quyền thực hiện việc điều tra, đề nghị truy tố đối với toàn bộ vụ án. Chỉ các vụ án phức tạp, mất nhiều thời gian điều tra về tố tụng thì mới chuyển cho hệ chấp pháp (chuyên sâu về tố tụng).

 

Do bị phân tán về thẩm quyền tố tụng như vậy, nên cũng rất trở ngại cho công tác lãnh đạo của Đảng (cấp uỷ Đảng trong ngành hoặc cấp uỷ địa phương). Hơn nữa, lại có sự đan xen hoạt động trinh sát (bí mật) và hoạt động tố tụng (công khai theo pháp luật). Do đó không phải việc gì cũng báo cáo cho cấp uỷ biết.

 

- Từ năm 1982 (đặc biệt là từ khi có Bộ luật TTHS và pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự thì vấn đề tổ chức hoạt động điều tra được rõ ràng hơn; cụ thể là:

 

+ Các lực lượng trinh sát (gồm cả an ninh và cảnh sát) và một lực lượng quản lý trật tự hành chính chủ yếu tập trung vào các hoạt động nghiệp vụ để phòng ngừa và phát hiện tội phạm khi cần chuyển sang hoạt động điều tra tội phạm theo luật TTHS thì chuyển giao cho cơ quan điều tra (an ninh hoặc cảnh sát). Các lực lượng này chỉ áp dụng các biện pháp tố tụng mang tính khẩn cấp như: bắt, khám xét khẩn cấp, tạm giữ đối tượng hoặc khởi tố vụ án, sau 6 ngày thì chuyển cơ quan điều tra giải quyết tiếp.

 

+ Còn cơ quan điều tra thì phải tiếp nhận điều tra tội phạm từ khi có dấu hiệu tội phạm (kể cả các vụ án chưa rõ thủ phạm). Như vậy đã phân biệt rõ ràng hơn về thẩm quyền pháp lý; tập trung quyền tố tụng cho cơ quan điều tra . Điều này không chỉ thuận lợi cho công tác giám sát điều tra của Viện kiểm sát cùng cấp, mà vấn đề tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với từng lực lượng trong ngành công an cũng rõ ràng và phù hợp hơn. Vì trinh sát, quản lý hành chính và điều tra có đặc thù riêng về tổ chức, về tính cách nghề nghiệp và đặc điểm hoạt động.

 

Từ khi có quyết định số 77/QĐ-TW ngày 13/8/1993 của Ban chấp hành TW về tổ chức Đảng trong cơ quan trinh sát và điều tra, cho thấy cơ bản là thuận lợi. Hầu hết trong cấp uỷ là lãnh đạo cơ quan điều tra; chỉ một số ít là các đồng chí có chức vụ thấp hơn. Như vậy với vai trò là cấp uỷ, đồng thời phụ trách các bộ phận điều tra và theo dõi cho bộ ở đơn vị đó nên đã gắn kết tốt vai trò cuả Đảng với công tác chuyên môn. Không phát sinh mâu thuẫn về công tác Đảng với công tác chuyên môn. Không phát sinh mâu thuẫn về công tác Đảng với công tác chuyên môn trong từng đơn vị. Mặt khác, trong từng cấp phòng (ở Cục) và đội (ở PC16 công an tỉnh) thì các chi uỷ viên cũng hầu hết được bầu vào cấp uỷ. Những đồng chí lãnh đạo nào mà nhiều lần không được bầu vào cấp uỷ thì có thể bị miễn nhiệm hoặc thay đôỉ vì không đủ tín nhiệm làm lãnh đạo đơn vị. Điều đó đòi hỏi người lãnh đạo trong cơ quan điều tra phải gương mẫu và có uy tín với đảng viên và với điều tra viên trong đơn vị.

 

2/ Diễn biến tình hình tội phạm đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác điều tra:

 

Trừ các vụ án về an ninh chính trị (với số lượng rất ít hoặc được xử lý theo 1 tội danh khác) thì nổi lên vẫn là các loại án về kinh tế, trị an xã hội (ngành công an thường gọi là án hình sự) và loại án về ma tuý.

 

a/ Về án kinh tế:

 

- Đối tượng là cán bộ, đảng viên tăng hàng năm:

+ 1993: 27,6%

+ 1994: 28,1%

+ 1995: 30,5%

+ 1996: 32%

 

- Năm 1997 - 1998 tuy tỷ lệ có giảm song số người bị bắt lên trên 600 người.

 

Trong đó đáng lưu ý: nếu những năm 1980 số bị can là cấp phòng, cấp giám đốc rất ít thì đến những năm 1990 số bị can là giám đốc, tổng giám đốc và số do cấp uỷ của tỉnh, thành phố quản lý hoặc do Trung ương quản lý tăng khá nhanh.

 

Điều đáng quan tâm là: do rất nhiều mối quan hệ, uy tín cá nhân hoặc cấp lãnh đạo do đó các vụ án thường bị tác động rất phức tạp từ rất nhiều phía, làm cho vụ án bị trở ngại; kéo dài và thường là để lọt tội phạm hoặc để lọt sự việc phạm tội.

 

Lãnh đạo cơ quan điều tra và điều tra viên sẽ rất dễ bị "trả giá" nếu cứ kiên quyết làm theo đúng pháp luật. Trong bối cảnh như vậy người điều tra rất dễ bị giảm sút ý chí tấn công tội phạm; "buông xuôi" cho xong chuyện mặc dù bị tổn thương lòng tự trọng nghề nghiệp.

 

- Số đối tượng trong vụ án và hậu quả tác hại tăng rất nhanh:

 

+ Trước năm 1989 loại án kinh tế gây thiệt hại dưới 50 triệu đồng thì giao cho cấp huyện thụ lý, sau đó các vụ án hàng trăm triệu vẫn phải giao cấp huyện vì cấp tỉnh bị tồn đọng quá nhiều. Thậm trí gần đây công an cấp quận, huyện vẫn phải thụ lý các vụ án kinh tế gây thiệt hại hàng trăm tỷ đồng.

 

- Năm 1989: vụ Nguyễn Văn Mười Hai lừa đảo 102 tỷ đã là rất lớn.

 

- Sau đó vụ Ngân hàng Sóc Trăng; vụ Trần Xuân Hoa… thiệt hại lên tới hàng trăm tỷ đồng.

 

- Đến vụ Minh Phụng thì thiệt hại lên tới 4000 tỷ.

 

+ Về số cán bộ trong một vụ án cũng tăng rất nhanh:

 

- Năm 1987: vụ án ở Tiên Lãng, Hải Phòng có tới 33 bị cáo, trong đó có cả chủ tịch huyện và cán bộ chủ chốt của các công ty của huyện.

 

- Năm 1989: vụ buôn lậu ở Thạch Phú, Bến Tre 27 bị cáo (gồm chủ tịch và hầu hết cán bộ chủ chốt ở các ban, ngành) chưa kể gần 20 sỹ quan quân đội của 2 tầu Hải quân Bến Tre tham giam gia dẫn đường cho tâù buôn lậu nước ngoài.

 

- Vụ Quán Hầu 30 bị can.

 

- Vụ Đồng Bành I: 40 bị can

 

- Vụ Minh Phụng, Tân Trường Sanh có tới gần 1000 bị can.

 

Các vụ án trên đều có tới 40 - 50 sự việc phạm tội và kết luận điều tra từ 100 đến 600 trang. Đòi hỏi cơ quan điều tra và các điều tra viên phải thực sự tâm huyết, nêu cao ý thức trách nhiệm, say sưa với công việc và đặc biệt phải hết sức khách quan, trung thực, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Nói cách khác là phải nâng cao tính Đảng trong hoạt động điều tra vụ án.

 

b/ Về án hình sự và ma tuý:

 

Nhìn chung vẫn có xu hướng tăng cả về số lượng, số đối tượng và tính chất nghiêm trọng. Song đáng chú ý có một số vấn đề sau:

 

- Quy mô tổ chức tội phạm phát triển theo hướng: bọn cầm đầu dần dần tạo vỏ bọc công khai và đi vào làm giàu rất nhanh như: băng Phạm Chí Tin ở Khánh Hoà; băng Khánh trắng ở Hà Nội; băng Minh SAMASA ở Vũng Tàu; băng lâm, Dung Hà ở Hải Phòng…

 

Bọn này tìm mọi cách tấn công, mua chuộc đối với nhân viên trong các cơ quan bảo vệ pháp luật. Thực sự bọn chúng đã làm có hiệu quả như anh em Khánh trắng đã 2 lần thoát tội chết. Ngoài ra chúng thực sự dùng bạo lực để đe doạ cán bộ điều tra (có đồng chí trưởng phòng điều tra đã bị đặt mìn ở cổng nhà riêng) v.v…

 

Tuy chưa thật rõ nét, song nếu cứ để phát triển theo xu thế này thì tội phạm dưới dạng Mafia ở Việt Nam rất có thể sẽ hình thành. Song qua các chuyên án trên xu thế này đã bị chặn lại, hầu hết các băng nhóm tội phạm không dám ngang nhiên hoành hành như trước mà hoạt động tinh vi, kín đáo hơn.

 

- Xu thế quốc tế hoá tội phạm, nhất là về ma tuý đã và đang phát triển. Điều nguy hiểm là tội phạm này đang có sự đan xen với tội phạm kinh tế. Không loại trừ các đối tượng chính trị lợi dụng tội phạm hình sự, ma tuý để hoạt động phục vụ mưu đồ chính trị của chúng.

 

Điều này đòi hỏi lãnh đạo và điều tra viên phải nâng cao trình độ nghiệp vụ, kiến thức khoa học kỹ thuật; các quy định về quản lý kinh tế … thì mới hoàn thành tốt nhiệm vụ.

 

c/ Vấn đề Đảng lãnh đạo giải quyết tình hình khiếu kiện liên quan đến an ninh nông thôn:

 

- Vấn đề chống tham nhũng hiện vẫn đang là vấn đề nóng bỏng mà Đảng, Chính phủ và dư luận quần chúng đặc biệt quan tâm. Song nhiều năm qua, đặc biệt là ở vùng nông thôn việc giải quyết các khiếu kiện của dân còn chậm trễ, có nhiều biểu hiện bao che cho nhau, cho cấp dưới hoặc không giải quyết triệt để, khắc phục hậu quả v.v… vì vậy dần dần tích tụ sự phản ứng dẫn đến các hành vi quá khích: bắt giữ cán bộ, đốt phá tài sản, gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ; có vụ tới hàng trăm, hàng nghìn lượt người tham gia, khiếu kiện nhiều cấp trong nhiều năm.

 

- Rất nhiều nơi, trước tình huống này chỉ muốn thúc ép các cơ quan bảo vệ pháp luật khởi tố, bắt, xử lý số quá khích. Nhiều cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền ở địa phương cho là "có như vậy mới dẹp được việc khiếu kiện phức tạp" đến mức bị đánh giá là "mất chính quyền", "vô Chính phủ" v.v…

 

- Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị và lãnh đạo bộ Công an, các đơn vị chức năng ở Bộ Công an đã trực tiếp chỉ đạo, phối hợp với công an các địa phương giải quyết tốt các "điểm nóng". Nhiều trường hợp phải rất kiên trì thuyết phục cấp uỷ, Uỷ ban và các ban ngành cần có sự kiềm chế. Phải giải quyết nguyên nhân gốc rễ của sự việc, xử lý thật nghiêm túc số cán bộ tham nhũng, sau đó mới xử lý số quá khích. Có một số địa phương, một số vụ làm ngược lại do đó sự việc càng thêm phức tạp, nhân dân nơi đó liên tiếp có các đoàn kéo về Hà Nội khiếu kiện.

 

Qua thực tế cho thấy trong các tình huống như vậy, hầu hết các ban, ngành chức năng chưa thực sự vào cuộc, hoặc tham gia cho có mặt: hầu như phó mặc cho công an giải quyết, thậm trí có đồng chí còn kêu công an phàn nàn cho là công an hữu khuynh. Trong khi đó nếu có đụng độ thì việc bị thương vong, bị chỉ trích v.v… hầu như chỉ có công an gánh chịu.

 

Vì vậy, có một số vụ ở Thái Bình; ở Hải Dương cấp uỷ địa phương thực sự tin tưởng và chỉ đạo chặt chẽ tất cả các ban ngành như các biện pháp do công an tham mưu thì tình hình giải quyết tốt; hoạt động của chính quyền cơ sở nhanh chóng ổn định và củng cố.

 

3/ Khó khăn, thuận lợi trong việc chỉ đạo của Đảng đối với cơ quan điều tra:

 

a) Đối với các tổ chức Đảng trong ngành công an:

 

Qua gần 10 năm thực hiện quyết định 77 của Trung ương về công tác Đảng trong lực lượng công an nói chung và với cơ quan điều tra nói riêng, chúng tôi thấy cơ bản là phù hợp. Tuy thời gian đầu có phần lúng túng, lẫn lộn giữa công tác đảng với công tác chuyên môn, song sau đó dần dần đi vào nề nếp, Công tác củng cố xã hội Đảng thực sự ảnh hưởng trực tiếp đối với ý thức trách nhiệm, phẩm chất đạo đức của điều tra viên.

 

Những định hướng chỉ đạo chung về đấu tranh phòng chống tội phạm, cũng như với một số vụ việc đặc biệt là Đảng uỷ công an TW và Đảng uỷ công an các tỉnh đặt ra là chính xác, giúp cho cơ quan điều tra giải quyết công việc có hiệu quả.

 

Xin nêu một vài dẫn chứng:

 

- Số án thụ lý hàng năm chiếm 90,6% số vụ đã phát hiện.

 

- Hoàn thành điều tra 81,3% về số vụ và 82,8% số bị can; tạm đình chỉ điều tra 3,1%; đình chỉ điều tra (gồm miễn truy tố; không đủ cơ sở buộc tội hoặc oan…) 5%, còn lại là chuyển các ngành xử lý hành chính hoặc dân sự.

 

- Về điều tra các vụ án chưa rõ thủ phạm ngày càng được nâng lên từ dưới 5% lên 54%, đến nay có năm đạt tới 65,8%. Riêng trọng án đạt 72,4%. Nhiều nơi các vụ trọng án nhất là loại giết người điều tra đạt kết quả rất cao như: Hải Phòng 91%, Ninh Bình 95,5%, Nghệ An 96,5%, Hải Dương 95,1%, Hà Nam 88,5%, Bắc Kạn 91,3%, An Giang 92,3%, Phú Thọ 91,4%, Hà Nội 82,1%, Kiêng Giang 90% v.v…

 

- Chất lượng bắt khẩn cấp: hầu hết các vụ bắt khẩn cấp đều đưa xử lý được về hình sự, đây là sự cố gắng rất lớn của công tác trinh sát và điều tra.

 

Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại chưa giải quyết được là vai trò lãnh đạo của Đảng với công tác đề bạt lãnh đạo cơ quan điều tra các cấp. Việc này tuy luật quy định việc bổ nhiệm thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra cấp dưới phải có ý kiến thủ trưởng cơ quan điều tra cấp trên ; song thực tế khi đề bạt phó giám đốc công an tỉnh (thủ trưởng cơ quan điều tra an ninh hoặc cảnh sát); trưởng phó phòng điều tra (phó thủ trưởng cơ quan điều tra) hoặc trưởng, phó công an cấp quận, huyện lại đi theo hệ tổ chức cán bộ. Sau khi bổ nhiệm chức vụ chuyên môn như trên, đến khi làm thủ tục bổ nhiệm thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra thì mới hỏi cơ quan điều tra cấp trên. lúc đó thực tế hỏi lấy lệ vì muốn hay không cũng phải bổ nhiệm về tư cách tố tụng.

 

Sự bất cập nói trên sẽ dần dần được tháo gỡ trong các năm tới.

 

b) Đối với sự chỉ đạo của cấp uỷ Đảng cấp trên:

Tuy không nắm trực tiếp về công tác tổ chức và cán bộ của cơ quan điều tra, song qua việc điều tra giải quyết án nói chung; qua các thông tin từ các ngành, các cấp và qua chỉ đạo một số vụ án cụ thể thì cấp uỷ cấp trên (nhất là Ban Nội chính, Ban Kiểm tra) sẽ đánh giá được về cơ bản chất lượng cán bộ cơ quan điều tra do cấp mình phụ trách. Từ đó có ý kiến chỉ đạo cho cấp uỷ của công an củng cố, tăng cường… cho cơ quan điều tra là rất tốt. Đó là xét về mặt tích cực.

 

- Tuy nhiên, với hoạt động điều tra hiện nay ngày càng có liên quan đến các cán bộ có chức, có quyền ở địa phương và một số ban, ngành trung ương (như liên quan trực tiếp đến vụ án; có mối quan hệ thân quen trên nhiều lĩnh vực; vì uy tín cán nhân, thậm chí có thể vì lợi ích vật chất, vì phe cánh v.v…). Một số đồng chí lạm dụng danh nghĩa cấp uỷ gây trở ngại cho việc điều tra hoặc đẩy điều tra sang hướng khác. Việc tác động không bao giờ công khai, lộ liễu mà rất kín đáo, tế nhị song lại rất hiệu nghiệm. Nhất là hiện nay bắt đầu thực hiện Chỉ thị 52-CôNG TáC/TW ngày 16/3/2000 của Trung ương về vấn đề khởi tố bị can là đảng viên, không cẩn thận rất dễ dàng bị lạm dụng.

 

Chính vì vậy một số cơ quan điều tra đã kín đáo báo cáo vượt cấp để cơ quan điều tra cấp trên "ép xuống" hoặc làm cách nào đó để dư luận lên tiếng buộc cơ quan điều tra phải làm triệt đổ, khách quan.

 

- Bên cạnh đó vẫn có nơi, có lúc, có việc hoạt động điều tra thoát ly sự lãnh đạo của đảng (có thể cố ý, có thể do chủ quan với vụ việc…) dẫn đến hậu quả rất xấu như: phát sinh khiếu kiện phức tạp; làm oan người vô tội, tiếp tay cho tội phạm, sách nhiễu v.v… cuối cùng hậu quả về chính trị, xã hội thì cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương vẫn phải chỉ đạo giải quyết. Tình trạng này tuy ít, song không phải là cá biệt.

 

II/ Một số ý kiến đề xuất.

 

1. Cần tiếp tục duy trì và đẩy mạng việc thực hiện quyết định 77, vì chủ trương "nhất nguyên hoá" vai trò của cấp uỷ và vai trò lãnh đạo công tác chuyên môn trong cơ quan điều tra của ngành công an là phù hợp, phát huy tác dụng. Vì đặc thù của điều tra gắn quyền năng tố tụng với trách nhiệm cánhân. Không thể xảy ra tình trạng giữa công tác chỉ đạo của Đảng với công tác chuyên môn trái ngược nhau. Hơn nữa điều tra viên hầu hết là đảng viên hoặc đoàn viên phấn đấu tốt, do đó lại càng phải gắn chặt công tác Đảng trong việc củng cố tổ chức và quản lý giáo dục điều tra viên.

 

2. Trong các tiêu chuẩn bổ nhiệm thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra và điều tra viên thì quan trọng là sự trung thực, can đảm bảo vệ chân lý. Tiêu chuẩn thứ hai là vừa có kiến thức sâu sắc về pháp lý, đồng thời phải là người coi trọng đạo lý. Đạo lý ở đây chính là tình người trong hoạt động điều tra. Nếu coi nhẹ việc này chắc chắn sẽ dẫn đến tư tưởng và hành động tiêu cực, vô trách nhiệm với sinh mạng chính trị, quyền lợi hợp pháp của đối tượng điều tra hoặc người bị hại.

 

Người điều tra mà nhẫn tâm thì trước sau sẽ làm việc ác.

 

Tiêu chuẩn thứ ba là sự say mê nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm cao, tỉ mỉ, thận trọng trong công việc. Tính chất tội phạm, thủ đoạn tội càng tinh vi xảo quyệt, mặt khác trong bối cảnh các văn bản pháp lý của ta còn nhiều kẽ hở lại dễ bị thay đổi, thậm trí trái ngược nhau… thì tác phong làm việc đơn giản, thiếu thận trọng của điều tra viên chắc chắn sẽ dẫn đến hậu quả sai lầm. Thậm trí sai lầm rất tai hại.

 

Vấn đề cuối cùng năng lực nghề nghiệp đòi hỏi người lãnh đạo cơ quan điều tra và điều tra việ phải nhạy bén, linh hoạt, sáng tạo trong tổ chức và thực hiện các biện pháp điều tra. Quy định của pháp luật và hướng dẫn việc điều tra chỉ có thể nêu được các quy định, hướng dẫn chung nhất không thể có "cẩm nang bách khoa" cho từng vụ án, từng tình huống nghiệp vụ.

 

3. Để tăng cường vai trò của Đảng đối với tổ chức và công tác cán bộ trong cơ quan điều tra thì điều quan trọng là sự gương mẫu, trong sạch và năng lực lãnh đạo, điều hành của lãnh đạo đơn vị. Vì những đồng chí này vừa là thủ trưởng chuyên môn lại vừa giữ cương vị trong cấp uỷ. Lãnh đạo tiêu cực một thì cán bộ sẽ tiêu cực gấp nhiều lần; tất yếu sẽ hình thành bè phái "ăn cánh" với nhau. Đồng thời tìm cách "trị" số trung thực. Khi đó tổ chức sẽ mất tính chiến đấu.

 

Người lãnh đạo phải dám chịu trách nhiệm, dám quyết đoán, vững vàng trong mọi tình huống thì mới tạo cho anh em tư tưởng yên tâm điều tra. Đó chính là thế hệ kế cận xứng đáng, điều đó chỉ có thể đạt được khi họ được ở trong môi trường quản lý, giáo dục tốt, mà giáo dục tốt nhất là "thân giáo" của người lãnh đạo.

 

4. Muốn thực sự phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác điều tra thì cấp uỷ đảng cũng phải khách quan, biết thu thập thông tin nhiều chiều; không được để cho tư tưởng cá nhân, cục bộ địa phương v.v… làm sai lệch việc chỉ đạo, nhất là trong từng vụ án cụ thể. Nếu cá nhân các đồng chí lại nhờ cơ quan điều tra "điều chỉnh" giúp cho việc nào đó, thì kho cần lại không dám chỉ đạo kiên quyết; ngược lại nếu nhờ không được rồi tỏ ra bực bội, khó chịu… dẫn đến nhận xét không đúng về lãnh đạo và điều tra viên của cơ quan điều tra thì lại càng tai hại.

 

Khi chỉ đạo bằng văn bản; nêu rõ ý kiến của cá nhân hay tập thể cấp uỷ hoặc thường vụ? Hiện tại điều này chưa rõ ràng. Hầu hết là danh nghĩa tập thể, song thực tế là ý kiến cá nhân hoặc một vài đồng chí trong cấp uỷ.

 

5. Khi đã có ý kiến chỉ đạo cụ thể đối với hoạt động điều tra thì cũng phải chỉ đạo chặt chẽ với hoạt động của Viện kiểm sát và Toà án, hết sứ tránh để xảy ra tình trạng ngành nào làm theo thẩm quyền và ý kiến riêng của mình. Độc lập về tố tụng, song nếu đã có sự chỉ đạo mà vẫn làm khác nhau thì sự chỉ đạo đó trở nên vô nghĩa và sẽ càng làm tình hình phức tạp thêm (đã và đang xảy ra tình trạng này nhất là cấp tỉnh, huyện).

 

Mặt khác ý kiến chỉ đạo phải rõ ràng, dứt khoát và khẩn trương; không nên để thời gian chờ ý kiến chỉ đạo gần ngang với tổng thời gian điều tra.

 

Tóm lại: Việc tăng cường sự chỉ đạo của Đảng đối với công tác tổ chức và cán bộ của cơ quan điều tra là tất yếu và ngày càng cấp thiết. Song điều này chỉ phát huy tác dụng khi cả người "lãnh đạo" và người "bị lãnh đạo" đều làm đúng, làm tốt vai trò của mình.

 

đội ngũ kiểm sát viên ngành kiểm sát nhân dân: thực trạng và một số kiến nghị để xây dựng đội ngũ kiểm sát trong sạch, vững mạnh

Dương Xuân Khính

Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ

Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

 

I/ Đặt vấn đề.

 

Trong lịch sử Nhà nước và pháp luật, Nhà nước nào cũng tổ chức ra bộ máy để kiểm tra, giám sát hoạt động của chính mình và của công dân nhằm đảm bảo cho pháp luật Nhà nước đặt ra được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.

 

Lênin đã phát hiện vấn đề có tính quy luật: trong xây dựng XHCN và để đảm bảo sự thắng lợi của cách mạng XHCN, cần thiết phải thiết lập được nền pháp chế thống nhất, trật tự kỷ cương phép nước phải nghiêm minh. Cơ quan chuyên trách làm việc đó trong bộ máy Nhà nước XHCN theo Lênin là Viện kiểm sát.

 

Đảng và Nhà nước ta khi bắt tay vào sự nghiệp xây dựng CNXH đã vận dụng sáng tạo nguyên lý của Lênin vào điều kiện cụ thẻe ở nước ta về việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân. Hiến pháp 1959 của ta đã khẳng định hệ thống các cơ quan Nhà nước bao gồm: Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Trên cơ sở Hiến pháp 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, ngày 26/7/1960, Viện kiểm sát đã được thành lập trong bộ máy của Nhà nước ta. Từ khi được thành lập đến nay, dưới sự lãnh đạo của đảng, cơ quan viện kiểm sát nhân dân đã nhanh chóng xác định phương hướng và nội dung hoạt động, tập trung thực hiện chức năng nhiệm vụ, phục vụ các nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng, khẳng định được vị trí, vai trò và tác dụng của mình trong hoạt động của Bộ máy Nhà nước và đời sống xã hội.

 

- Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống bộ máy Nhà nước XHCN Việt Nam.

 

Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập quyền. Quyền lực Nhà nước là thống nhất và tập trung vào cơ quan duy nhất là Quốc hội, đại diện cho nhân dân toàn quốc. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa 3 quyền: quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quốc hội thành lập ra các cơ quan: Chính phủ, Toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân để giao cho các cơ quan này thực hiện các chức năng. Trong đó có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật (TTPL), thực hành quyền công tố (VKSND). Như vậy Viện kiểm sát nhân dân là một trong 4 hệ thống cơ quan Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân là một hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước. Quyền giám sát tối cao do Quốc hội giao. Viện kiểm sát nhân dân độc lập với Chính phủ, Toà án nhân dân và chính quyền địa phương, chỉ trực thuộc Quốc hội, chịu sự giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân cùng cấp. Vị trí đó bảo đảm cho Viện kiểm sát nhân dân hoạt động bảo vệ pháp chế thống nhất.

 

- Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân:

 

Theo quy định tại điều 137 Hiến pháp năm 1992 và điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân thì Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc TTPL, thực hành quyền công tố theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Cụ thể là: "Viện kiểm sát NDTC thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cán bộ cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân, thực hành quyền công tố đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

 

Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân, thực hành quyền công tố ở địa phương mình.

 

Các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố theo quy định của pháp luật.

 

Như vậy, kiểm sát tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố là hình thức hoạt động thể hiện quyền lực của Nhà nước do Quốc hội giao cho Viện kiểm sát nhân dân".

 

- Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân:

 

Với vị trí, chức năng như vậy, đòi hỏi viện kiểm sát phải thực hiện tốt những nhiệm vụ của mình theo quy định tại điều 126 Hiến pháp 1992 và điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 đó là: "Góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân. Bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của công dân."

 

- Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân:

 

+ Các Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành.

 

Đó là nguyên tắc xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm tính thống nhất của pháp chế XHCN và bắt nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta.

 

Theo nguyên tắc này thì tất cả các viện kiểm sát nhân dân tạo thành một hệ thống thống nhất. Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự chịu sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

 

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm cá nhân về toàn bộ hoạt động của ngành kiểm sát nhân dân trước Quốc hội, UBTV Quốc hội và Chủ tịch nước.

 

Viện trưởng, các Phó viện trưởng, các kiểm sát viên, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, các viện kiểm sát quân sự khu vực đều do Viện trưởng Viện kiểm sát NDTC bổ nhiệm và miễn nhiệm, cách chức. ở các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, Viện kiểm sát quân sự đều đặt dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Viện trưởng.

 

+ Nguyên tắc độc lập:

 

Theo nguyên tắc này Viện kiểm sát nhân dân không phụ thuộc vào bất cứ cơ quan nào của Nhà nước ở địa phương, nguyên tắc đó bắt nguồn từ nguyên tắc pháp chế XHCN và có liên quan chặt chẽ với nguyên tắc tập trung thống nhất của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân.

 

Nó thể hiện ở chỗ: Viện trưởng, các phó viện trưởng, các kiểm sát viên của viện kiểm sát nhân dân địa phương không do cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương bầu ra và bãi miễn. Biên chế của Viện kiểm sát nhân dân địa phương cũng do Viện trưởng viện kiểm sát NDTC quyết định. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương không chịu sự lãnh đạo chỉ đạo của HĐND và UBND cùng cấp. Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm sát chỉ tuân thủ Hiến pháp, các đạo luật, các pháp lệnh, văn bản pháp luật khác của Quốc hội, UBTV Quốc hội, chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ và chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát NDTC.

 

Tuy nhiên, theo quy định của điều 140 Hiến pháp 1992 và điều 7 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân thì giữa Viện kiểm sát và hội đồng nhân dân địa phương đã xuất hiện cơ chế giám sát lẫn nhau. Viện kiểm sát nhân dân địa phương kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các Nghị quyết của HĐND, ngược lại Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự giám sát của HĐN D thông qua các kỳ họp của HĐND.

 

+ Nguyên tắc chế độ thủ trưởng:

 

Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo là nguyên tắc đề cao trách nhiệm của cá nhân viện trưởng. Nhưng bên cạnh đó luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đã trao cho Uỷ ban kiểm sát (UBKS) thẩm quyền thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng (điều 28 và 30 luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1992).

 

Kết hợp giữa chế độ thủ trưởng và tập thể, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ thông qua cơ chế làm việc của UBKS. Cơ chế này chính là phát huy trí tuệ tập thể đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân trong cơ quan Viện kiểm sát nhân dân, một yếu tố tạo điều kiện cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng và nhiệm vụ đạt hiệu quả cao hơn.

 

Như vậy, sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân là tất yếu khách quan trong quá trình xây dựng CNXH. Sự tồn tại của Viện kiểm sát nhân dân không phải là vì chính bản thân Viện kiểm sát nhân dân mà do đòi hỏi của cách mạng, của bản chất chế độ xã hội và của Nhà nước. Thời gian qua, ngành kiểm sát đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật, trên tất cả các lĩnh vực nhiệm vụ được giao thông qua lực lượng nòng cốt của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân, đó là đội ngũ kiểm sát viên các cấp.

 

Thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta lãnh đạo Nhà nước tiến hành cải cách tư pháp, nhiều nội dung liên quan đến vấn đề cán bộ được nhấn mạnh trong các Nghị quyết của Đảng. Đặc biệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TW Đảng khoá VIII về "Chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước" và Nghị quyết về "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xã hội Nhà nước CHXHCN Việt Nam trong sạch vững mạnh". Do vậy, việc nghiên cứu và thực hiện cải cách tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, xây dựng đội ngũ kiểm sát viên trong sạch vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành kiểm sát trong tình hình mới cũng là vấn đề đòi hỏi cấp thiết hiện nay.

 

II/ Thực trạng đội ngũ kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân hiện nay.

 

Cùng với sự phát triển của đất nước qua các thời kỳ, giai đoạn cách mạng, đội ngũ kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân từng bước trưởng thành và lớn mạnh cả về chất lượng và số lượng. Là lực lượng nòng cốt, chủ yếu thực hiện chức năng nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho ngành kiểm sát nhân dân.

 

1. Về số lượng kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân:

 

Toàn ngành kiểm sát nhân dân hiện nay có 6019/9500 là kiểm sát viên các cấp chiếm 64% so với tổng biên chế, trong đó có:

 

+ Kiểm sát viên cao cấp 163, trong đó có 53 người là lãnh đạo, quản lý (tính đến quý I năm 2000).

 

+ Kiểm sát viên trung cấp 2084 người, trong đó 964 người lãnh đạo quản lý (kiểm sát viên VKSDNtỉnh thành phố trực thuộc Trung ương).

 

+ Kiểm sát viên sơ cấp 3.772 người kể cả Viện trưởng, các Phó viện trưởng. (kiểm sát viên quận huyện và tương đương).

 

2. Chất lượng đội ngũ kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân:

 

- Về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng của đội ngũ kiểm sát viên:

 

Phần lớn đội ngũ kiểm sát viên các cấp trong ngành kiểm sát nhân dân được rèn luyện thử thách trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài của dân tộc; nhất là đội ngũ kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh. Toàn ngành kiểm sát nhân dân có 5.428/5.850 kiểm sát viên các cấp là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam chiếp 92,7% (số liệu tính đến tháng 10/1998). Tuyệt đại đa số kiểm sát viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, có ý chí đấu tranh với những biểu hiện, quan điểm sai trái đối với đường lối, chính sách, nguyên tắc và cương lĩnh của đảng, có ý thức đấu tranh và bảo vệ pháp chế thống nhất. Có tinh thần khắc phục khó khăn, giữ gìn và phát huy đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh, giản dị rèn luyện tốt theo 5 đức tính của người cán bộ kiểm sát mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "công minh, chính trực, thận trọng, khách quan, khiêm tốn".

 

- Về trình độ lý luận chính trị và trình độ pháp lý của đội ngũ kiểm sát viên: (thời điểm tính đến tháng 10/1998).

 

Trong tổng số kiểm sát viên các cấp có: 338 kiểm sát viên có trình độ lý luận cao cấp, 4.581 kiểm sát viên có trình độ lý luận trung cấp, 1.271 kiểm sát viên có trình độ lý luận sơ cấp.

 

+ Toàn ngành kiểm sát đã có 7414/9424 người tốt nghiệp đại học luật, cao đẳng kiểm sát bằng 79% tổng biên chế toàn ngành. Riêng đội ngũ kiểm sát viên các cấp đã có 4.928/6019 kiểm sát viên có trình độ đại học luật, cao đẳng kiểm sát bằng 84%. Trong đó có: số có trình độ sau đại học là 43 người, số tốt nghiệp đại học luật là 2534 người chiếm 42,1%, số có trình độ cao đẳng kiểm sát là 4599/5850 kiểm sát viên chiếm 78,6% so với tổng số KSV các cấp, đại học khác 238 người chiếm 4,06%.

 

Ngoài ra còn có hàng ngàn Kiểm sát viên các cấp được đào tạo về quản lý Nhà nước, kinh tế tin học, ngoại ngữ…góp phần nâng cao trình độ nhận thức của đội ngũ cán bộ kiểm sát viên. Có được đội ngũ kiểm sát viên trưởng thành như hiện nay là kết quả của quá trình phấn đấu thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành, vừa thường xuyên quan tâm xây dựng đội ngũ Kát viên của ngành Kiểm sát nhân dân. Là thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với ngành Kiểm sát nhân dân. Đặc biệt từ khi Nhà nước ban hành Pháp lệnh về Kiểm sát Viện Kiểm sát nhân dân năm 1993 thì đội ngũ kiểm sát viên có bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng (xem biểu mẫu thống kê kèm theo).

 

3. Nhận xét đánh giá chất lượng hoạt động kiểm sát của đội ngũ KSV các cấp:

 

Ưu điểm: Chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên các cấp được tăng lên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thành chức năng nhiệm vụ của ngành. Chỉ tính từ năm 1993 đến năm 1998, qua từng năm khối lượng các vụ án thuộc một số lĩnh vực như: Kiểm sát điều tra, Kiểm sát xét xử hình sự, Kiểm sát xét xử dân sự mà Viện Kiểm sát các cấp đã thụ lý được và giải quyết tăng nhiều trong khi đó số lượng Kiểm sát viên các cấp tăng không đáng kể, hoặc có lĩnh vực số lượng Kiểm sát viên chủ tương đương năm 1993 nhưng hiệu quả công tác sát của ngành vẫn được nâng lên (xem biểu thống kê kèm theo).

 

Qua so sánh về khối lượng công việc và tỷ lệ giải quyết các vụ việc trong biểu thống kê thấy rằng về số lượng và chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên các cấp hiện nay cơ bản đã đáp ứng nhu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành theo luật định.

 

Cụ thể: năm 1998 toàn ngành thụ lý Kiểm sát điều tra tăng 20.338 vụ (40%) so với năm 1993 (71.672/51.334 vụ). Số vụ mà Viện Kiểm sát nhân dân đã giải quyết năm 1998 tăng 18.064 vụ (51%) so với năm 1993.

 

+ Về công tác Kiểm sát xét xử hình sự số vụ án Viện Kiểm sát nhân dân thụ lý kiểm sát xét xử năm 1998 tăng 27.932 tăng 27.932 vụ (60%) so với năm 1993 (73.474/46.542). Số vụ án Viện Kiểm sát nhân dân đã kiểm sát xét xử năm 1998 tăng 22.955 vụ (60%) so với năm 1993 (61.364/38.409 vụ) tỷ lệ giải quyết đạt 82.4%. Trong khi số Kiểm sát viên các cấp trong toàn ngành kiểm sát năm 1998 chỉ tăng hơn so với năm 1993 là 9.4% (5850/5349 Kiểm sát viên) mà đã giải quyết một lượng án trong lĩnh vực Kiểm sát điều tra tăng 18.064 vụ (51%) so với năm 1993 và số vụ đã kiểm sát xét xử năm 1998 tăng 22.955 vụ (60%) so với năm 1993.

 

+ Về kiểm sát xét xử dân sự: số lượng án dân sự mà Viện Kiểm sát nhân dân các cấp thụ lý hàng năm là rất lớn và tăng dần theo tỷ lệ năm sau cao hơn năm trước từ 10 đến 25.6%. Năm 1998 số án dân sự toàn ngành kiểm sát thụ lý tăng gấp 2 lần so với năm 1993 (72.765/32.235 vụ). Trong khi đó năm 1993 toàn ngành mới giải quyết được 16.054/32.235 vụ án dân sự (49.8%). Đến năm 1998 đã giải quyết được 27.498 vụ, tăng 113435 vụ (71%) so với năm 1993. Đặc biệt đáng lưu ý là số vụ án kiểm sát viên trực tiếp kiểm sát tại phiên toà ngày một tăng, chất lượng kết luận cũng như tỷ lệ giải quyết án dân sự từng bước được nâng lên góp phần quan trọng vào việc bảo đảm trật tự pháp luật trong lĩnh vực giải quyết án dân sự.

 

Việc hoàn thành một khối lượng lớn công tác Kiểm sát tuân theo pháp luật trong một số lĩnh vực công tác đó có sự đóng góp quan trọng, chủ yếu của đội ngũ Kiểm sát viên các cấp và do chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên các cấp được nâng lên một cách đáng kể trong những năm qua.

 

* Tồn tại hạn chế:

 

- Tuy nhiên, cũng qua so sánh số liệu thể hiện trên biểu thống kê kể trên thì thấy trong một số lĩnh vực như kiểm sát xét xử hình sự, đặc biệt là kiểm sát xét xử dân sự thì tỷ lệ giải quyết các vụ án so với tổng số vụ án thụ lý không tăng. Năm 1993 tỷ lệ giải quyết so với thụ lý án dân sự trong toàn ngành Kiểm sát nhân dân là 49.8%, năm 1998 tỷ lệ trên là 33.6% giảm 16.2% so với năm 1993 điều đó nói lên rằng trong điều kiện nền kinh tế thị trường các vụ việc kinh tế, dân sự xảy ra nhiều tranh chấp phải giải quyết. Song năng lực trình độ của đội ngũ Kiểm sát viên trong lĩnh vực này còn nhiều hạn chế, bất cập.

 

- Về số lượng Kiểm sát viên nói riêng cũng như đội ngũ cán bộ toàn ngành nói chung tuy cơ bản đáp ứng đựoc việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo luật định. Song, đứng trước tình hình vi phạm và tội phạm còn diễn biến phức tạp, số lượng các vụ việc tăng cao ở một số lĩnh vực như: kinh tế, dân sự. Bên cạnh đó một số địa phương được chia tách tỉnh, huyện đòi hỏi phải tăng cán bộ, kiểm sát viên. Hiện tại đội ngũ kiểm sát viên trong ngành thiếu ở những địa phương mới được chia tách và những tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có khối lượng công việc lớn như TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, nhiều Viện Kiểm sát nhân dân địa phương nhất là ở cấp tỉnh và huyện, Kiểm sát viên phải kiêm nhiệm nhiều khâu công tác, do vậy hạn chế công tác chuyên sâu của Kiểm sát viên, làm ảnh hưởng tới hiệu quả công tác của Viện Kiểm sát nhân dân.

 

- Còn một số cán bộ kiểm sát viên có biểu hiện giảm sút ý chí chiến đấu, thoái hoá, biến chất về đạo đức, lối sống, lợi dụng chức vụ quyền hạn để tham nhũng, buôn lậu, vi phạm pháp luâthừa kế và kỷ luật nghiệp vụ của ngành. Hàng năm toàn ngành có trên 1% cán bộ bị xử lý kỷ luật, trong đó có một số bị truy tốt trước pháp luật. Một số kém ý thức kỷ luật, cơ hội, có tham vọng cá nhân, cục bộ, bè phái gây mất đoàn kết nội bộ ở một số Viện kiểm sát nhân dân địa phương, đơn vị.

 

4. Thực trạn công tác xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

 

4.1 Vấn đề xác định tiêu chuẩn Kiểm sát viên:

 

Tiêu chuẩn Kiểm sát viên, đó là tiêu chí để căn cứ vào đó để xem xét tuyển chọn bổ nhiệm Kiểm sát viên, là mục tiêu để cán bộ, chuyên viên trong ngành phấn đấu.

 

Xuất phát từ tính đặc thù của cơ quan tư pháp nói chung, cơ quan Viện kiểm sát nhân dân nói riêng đòi hỏi người Kiểm sát viên phải có những tiêu chuẩn đặc thù so với tiêu chuẩn chung của cán bộ, công chức. Nghị quyết Hội nghị TW 3 khoá VIII của Đảng đã khẳng định: "Tiếp tục cải cách tư pháp là một yêu cầu cấp bách. Nhân dân đòi hỏi các cơ quan tư pháp phải mẫu mực tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, thể hiện tính dân chủ công khai, đại diện cho công lý của chế độ, phải thực sự trong sạch, công minh".

 

Được sự lãnh đạo của Đảng, Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân năm 1993 ra đời, tại điều 2 Pháp lệnh này quy định tiều chuẩn của kiểm sát viên: "công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có kiến thức pháp lý và nghiệp vụ kiểm sát, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN, có sức khỏe đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm và bổ nhiệm làm kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân".

 

Để thể chế Nghị quyết TW3 khoá VIII của Đảng và Pháp lệnh về kiểm sát viên nhân dân năm 1993 về vấn đề xác định tiêu chuẩn của kiểm sat viên. Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã quy định tiêu chuẩn của cán bộ, kiểm sát viên, nhân viên ngành kiểm sát nhân dân trong thời kỳ đổi mới ngoài tiêu chuẩn chung quy định tại Nghị quyết TW3 còn phải có:

 

- Có lập trường chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Phấn đấu thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của ngành nhằm mục tiêu bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ Nhà nước XHCN, bảo vệ pháp chế XHCN, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

 

Thực hiện nghiêm chỉnh 5 điều Bác Hồ dạy người cán bộ kiểm sát là: "công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn". Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, có ý thức tổ chức kỷ luật, nói và làm theo chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của ngành.

 

- Được đào tạo cơ bản về lý luận chính trị, trình độ pháp lý, nghiệp vụ kiểm sát, đủ năng lực và sức khoẻ để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

 

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các quy định của Đảng và Nhà nước về tiêu chuẩn kiểm sát viên thấy còn nổi lên một số vướng mắc hạn chế. Điều đó thể hiện tập trung ở một số quy định trong pháp lệnh về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 1993. Trong khi đó đây là cơ sở pháp lý cơ bản chủ yếu quy định về tiêu chuẩn kiểm sát viên.

 

Một là: Tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức của kiểm sát viên có quy định trong điều 2 pháp lệnh kiểm sát viên song còn thiếu những tiêu chí cụ thể cho từng cấp kiểm sát viên đảm bảo phù hợp tính đặc thù của hoạt động kiểm sát như kiểm sát viên cao cấp, kiểm sát viên trung cấp nhất thiết phải là đảng viên đảng cộng sản Việt Nam, về trình độ lý luận chính trị đối với kiểm sát viên cao cấp phải tốt nghiệp cao cấp hoặc cử nhân chính trị, kiểm sát viên trung cấp phải có trình độ trung cấp lý luận chính trị…

 

Hai là: các quy định tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn pháp lý được đào tạo còn bất cập, chưa hợp lý, chưa cụ thể cho từng cấp kiểm sát viên.

 

Pháp lệnh về cán bộ, công chức và nghị định 95/CPngày 17/11/1998 của Chính phủ đã phân thành 4 loại: A,B,C,D. Việc quy định cán bộ, công chức theo trình độ đào tạo như nhau (Đại học luật, Cao đẳng kiểm sát) đều được xem xét để bổ nhiệm làm kiểm sát viên ở cả 3 lớp là không hợp lý (với pháp lệnh về cán bộ, công chức) cả về lý luận và thực tiễn. Bởi lẽ trình độ cán bộ được đào tạo phải tương xứng với chế độ tiền lương và ngạch chuyên môn nghiệp vụ mà công chức được bổ nhiệm. Đối với kiểm sát viên Viện kiểm sát NDTC, kiểm sát viên tỉnh có tính chất và khối lượng công việc thì nhất thiết phải có trình độ cử nhân luật trở lên mới có đủ điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới hiện nay.

 

Đồng thời tuyệt đối hoá tiêu chuẩn trình độ chuyên môn đại học luật, cao đẳng kiểm sát áp dụng đối với kiểm sát viên cấp huyện là chưa phù hợp với thực tế, nhất là với những đơn vị ở vùng sâu, vùng xa.

 

Ba là: tiêu chuẩn thời gian làm công tác pháp luật, hay thời hạn để xem xét bổ nhiệm kiểm sát viên được quy định tại các điều 14,15,16 của Pháp lệnh kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân 1993 đã bộc lộ những hạn chế những hạn chế, vướng mắc cơ bản sau đây:

 

+ Việc quy định tiêu chuẩn về thời gian làm công tác pháp luật 8 năm, 6 năm, 4năm để xem xét bổ nhiệm kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện chỉ là những con số "số học" chưa thể hiện đầy đủ được sự thay đổi về chất và năng lực của kiểm sát viên nên không phù hợp với thực tiễn công tác cán bộ.

 

Thời gian 8 năm làm công tác pháp luật để xem xét bổ nhiệm kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao là quá ngắn, không đảm bảo chất lượng cán bộ. Vì tính chất khối lượng công việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là phức tạp và rất lớn đòi hỏi kiểm sát viên không những chỉ có trình độ đào tạo pháp lý, chuyên môn mà còn phải có kinh nghiệm thực tiễn công tác mới đảm đương được.

 

Thời gian 4 năm làm công tác pháp luật để xem xét bổ nhiệm là kiểm sát viên cấp huyện, như vậy không phù hợp với xu thế chung của các ngành trong bộ máy Nhà nước, là quá dài không khuyến khích được cán bộ công tác tại đơn vị cơ sở.

 

+ Việc quy định tiêu chuẩn về thời gian công tác pháp luật để xem xét bổ nhiệm là kiểm sát viên như trong pháp lệnh về kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân năm 1993 đã không thể hiện được tính kế thừa liên tục và phát triển trong xây dựng đội ngũ kiểm sát viên.

 

Thực tế trong những năm qua (từ khi có pháp lệnh về KSV năm 1993) đã chứng minh rằng, việc bổ nhiệm kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh đều tuyển chọn từ kiểm sát viên cấp huyện bậc 3 trở lên để bổ nhiệm làm kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao.

 

4.2. Công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên:

 

Đây là khâu quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân. Muốn xây dựng được đội ngũ Kiểm sát viên trong sạch vững mạnh thì vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tuyển trọn, bổ nhiệm được những Kiểm sát viên có đủ phẩm chất, năng lực hay nói cách khác đi là có đủ đức và tài để gánh vác được trọng trách mà Đảng và Nhà nước giao cho ngành kiểm sát nhân dân.

 

Việc tuỷên chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên phải căn cứ vào các tiêu chuẩn của kiểm sát viên mà Đảng và Nhà nước quy định và được thực hiện theo một cơ chế, quy trình hợp pháp, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức và cán bộ.

 

Công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên các cấp thời gian qua đã được Ban cán sự Đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Ban cán sự Đảng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chỉ đạo thực hiện có chất lượng, hiệu quả, đảm bảo thực hiện nghiêm túc các quy định của Đảng và Nhà nước về tuyển chọn, bổ nhiệm kiểm sát viên. Thể hiện ở cơ chế tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm đó là:

 

Mỗi cán bộ được tuyển chọn để bổ nhiệm làm Kiểm sát viên các cấp đều được tổ chức cơ sở đảng nhận xét đánh giá trên cơ sở kết quả các mặt rèn luyện, công tác, năng lực, trình độ… của cán bộ và ý kiến phê bình góp ý của tổ chức đoàn thể quần chúng nơi cán bộ đó sinh hoạt. Đề nghị của cấp uỷ cơ sở được Ban chấp hành đảng uỷ bà Ban cán sự xem xét, đánh giá và kết luận có thể tuyển chọn bổ nhiệm Kiểm sát viên được hay không. Sau đó mới đưa ra Uỷ ban kiểm sát để thực hiện tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm Kiểm sát viên theo quy định của Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.

 

Tại các điều 18,19,20 Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 1993 đã quy định cơ chế tuyển chọn Kiểm sát viên mà hội đồng tuyển chọn là Uỷ ban kiểm sát. Cơ chế đó đã thể chế hoá đúng chủ trương mở rộng dân chủ của Đảng và nội dung thực hiện dân chủ trong việc thành lập hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên.

 

Có quan điểm cho rằng cần mở rộng thành phần hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên, bao gồm cả đại diện các tổ chức chính trị như đảng uỷ, công đoàn… của cơ quan viện kiểm sát. Chúng tôi cho rằng trong quy trình tuyển chọn để bổ nhiệm Kiểm sát viên đều được triển khai từ cơ sở; đều báo cáo tập thể đảng uỷ và chỉ sau khi đảng uỷ, ban cán sự đảng viện kiểm sát nhân dân nhất trí mới đưa ra Uỷ ban kiểm sát tuyển chọn theo quy định của Pháp lệnh. Do đó việc mở rộng thành phần Hội đồng tuyển chọn là không cần thiết. Mà cơ chế tuyển chọn Kiểm sát viên với hội đồng tuyển chọn là Uỷ ban kiểm sát đã thể chế hoá được đúng chủ trương của Đảng về mở rộng dân chủ. Đồng thời phù hợp với Nghị quyết TW3 khoá VIII của Đảng đã quy định: "Đảng thống nhất lãnh đạo, quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ".

 

Cũng có quan điểm thứ hai cho rằng cần tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên có thời hạn, theo nhiệm kỳ nhằm nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên trong rèn luyện, công tác và việc tự giác nghiên cứu học tập không ngừng nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành. Theo chúng tôi quan điểm đó có những điểm đúng nhưng chưa thật phù hợp trong điều kiện thực hiện nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân và thực tiễn công tác của ngành kiểm sát từ khi thành lập đến nay…

 

4.3. Công tác quản lý, sử dụng đội ngũ kiểm sát viên:

Theo nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thì trách nhiệm quản lý, sử dụng đội ngũ Kiểm sát viên tập trung ở Viện trưởng viện kiểm sát NDTC và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp theo phân cấp quản lý cán bộ trong ngành. Song thực tế công tác này đã thể hiện, để thực hiện nghị quyết của đảng về cán bộ và công tác cán bộ thì việc đánh giá, quản lý, sử dụng đội ngũ Kiểm sát viên đã kết hợp vận dụng đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, trong hoạt động của Uỷ ban kiểm sát với nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng, trong hoạt động của Uỷ ban kiểm sát với nguyên tắc tập trung thống nhất Viện trưởng lãnh đạo. Căn cứ vào quy định của Bộ chính trị về quản lý cán bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành quy chế phân cấp quản lý cán bộ trong ngành. Việc bố trí cán bộ đảm bảo dân chủ, khách quan, đúng sở trường cán bộ; căn cứ vào từng chức danh, từng cấp Kiểm sát viên để bố trí sử dụng hợp lý nhằm phát huy đội ngũ cán bộ. Công tác kiểm tra định kỳ và khi có yêu cầu đặt ra có ý nghĩa quan trọng đến kết quả công tác quản lý, sử dụng cán bộ. Thực hiện việc kết hợp kiểm tra giữa tổ chức chính quyền (Viện kiểm sát nhân dân cấp trên kiểm tra Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới) với kiểm tra của tổ chức đảng trong ngành và của cấp uỷ địa phương, đồng thời xử lý kịp thời nghiêm minh đối với cán bộ, kiểm sát viên mắc sai phạm đã phát huy hiệu quả công tác kiểm tra góp phần quan trọng nâng cao chất lượng hiệu quả công tác quản lý, sử dụng đội ngũ Kiểm sát viên thời gian qua.

 

Tuy nhiên, công tác quản lý cán bộ, kiểm tra, bảo vệ chính trị nội bộ ở một số Viện kiểm sát nhân dân địa phương, đơn vị chưa chặt chẽ. Chưa sửa đổi, bổ sung kịp thời các quy chế về quản lý cán bộ. Một số cán bộ mắc vi phạm, tội phạm, có nơi, có lúc, có vụ việc xảy ra nghiêm trọng chưa xử lý kịp thời nghiêm minh.

 

Tồn tại trên xuất phát từ một trong những nguyên nhân cơ bản đó là:

 

Về căn cứ pháp lý để thực hiện công tác quản lý Kiểm sát viên chưa được quy định rõ ràng, cụ thể, mà trước hết là các quy định trong pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 1993.

 

Điều 7 pháp lệnh Viện kiểm sát quy định: "Viện kiểm sát thực hiện nhiệm vụ do Viện trưởng phân công và chịu trách nhiệm trước Viện trưởng. Khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên chỉ tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp mình, sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát NDTC".

 

Quy định trên chỉ phù hợp với Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, còn ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh thì do tính chất phức tạp của công việc và cơ câú bộ máy làm việc mà Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân không thể giao nhiệm vụ, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, quản lý trực tiếp đối với Kiểm sát viên.

 

Quy định tại điều 7 nêu trên còn thiếu những quy định như: uỷ quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát NDTC đối với kiểm sát viên vì đây sẽ là căn cứ để Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành các văn bản phân cấp quản lý cán bộ, đảm bảo thực hiện quy định của Bộ chính trị Trung ương Đảng, Cần quy định kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

 

Tại điều 10 pháp lệnh về Kiểm sát viên quy định: "Kiểm sát viên không được tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật". Việc quy định như vậy vừa quá rộng, vừa không cụ thể và không phù hợp với quy định trong pháp lệnh về cán bộ, công chức. Do đó tạo kẽ hở trong công tác quản lý kiểm sát viên có những hoạt động sai trái. Đồng thời chậm thể chế các văn bản của đảng và Nhà nước về trách nhiệm của Kiểm sát viên viên, những việc Kiểm sát viên không được làm.

 

Thứ là việc xây dựng quy chế, chế độ kiểm tra hoạt động của Kiểm sát viên các cấp để quản lý, nắm chắc cả về phẩm chất và năng lực của Kiểm sát viên chưa được thực hiện tốt, chậm tổng kết rút kinh nghiệm việc xử lý Kiểm sát viên mắc sai phạm có trường hợp chưa kịp thời nhằm phát huy tác dụng giáo dục đối với cán bộ, Kiểm sát viên.

 

4.4. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ Kiểm sát viên:

 

Đảng ta luôn luôn quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Nghị quyết TW3 khoá VII của Đảng đã xác định rất rõ nhiệm vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trong đó bao gồm các nội dung quan trọng đó là: xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối với từng loại cán bộ; các nội dung, phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và việc kiện toàn hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

 

Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải được đào tạo, bồi dưỡng trình độ các mặt, lĩnh vực liên quan đến công tác chuyên môn nghiệp vụ được giao. Đối với Kiểm sát viên cần phải được đào tạo, bồi dưỡng đầy đủ cả về lý luận chính trị, kiến thức pháp lý và trình độ năng lực nghiệp vụ kiểm sát. Trong những năm qua, Ban cán sự Đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân địa phương đã chủ động lập kế hoạch, phối hợp với cấp uỷ và các ngành hữu quan đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với kiểm sát viên bằng nhiều hình thức, với nhiều lĩnh vực. Chính vì vậy chất lượng về mặt trình độ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ Kiểm sát viên không ngừng nâng cao.

 

Tuy nhiên, công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với Kiểm sát viên còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế đó là: công tác đào tạo dừng lại quá lâu ở mô hình đào tạo bậc trung học và cao đẳng kiểm sát, chưa thực sự đổi mới công tác đạo tạo, chất lượng đào tạo còn hạn chế. Công tác đào tạo chưa có chiều sâu, chủ yếu đào tạo theo chiều rộng, phổ cập kiến thức pháp lý, chưa quan tâm đúng mức đến bồi dưỡng các chuyê đề khoa học và tập huấn nghiệp vụ công tác kiểm sát đối với Kiểm sát viên.

 

Nội dung đào tạo Kiểm sát viên chưa lấy tiêu chuẩn Kiểm sát viên làm căn cứ xây dựng chương trình đào tạo. Việc bồi dưỡng kiến thức về quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, khoa học, công nghệ chưa được quy định mang tính bắt buộc trong công tác đào tạo Kiểm sát viên.

 

Hiện nay, pháp lệnh về cán bộ, công chức đã quy định rõ về tiêu chuẩn trình độ đào tạo đối với 4 loại cán bộ, công chức thì mô hình đào tạo cao đẳng và trung học kiểm sát đã không còn phù hợp với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Kiểm sát viên.

 

4.5. Công tác xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ đối với đội ngũ Kiểm sát viên:

 

Xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ về cả vật chấp và tinh thần đối với đội ngũ công chức các cơ quan tư pháp nói chung và đối với đội ngũ Kiểm sát viên viên Viện kiểm sát nhân dân nói riêng đang là vấn đề đặt ra cần quan tâm nghiên cứu giải quyết. Nghị quyết Hội nghị BCH TW3 khoá VIII của Đảng đã xác định: "… đổi mới chế độ tiền lương, nhà ở và phương tiện đi lại. Tiền lương phải thực sự trở thành bộ phận cơ bản trong thu nhập của cán bộ, đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động. Thực hiện tiếp việc tiền hoá tiền lương".

 

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm đến chính sách cán bộ đối với đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân. Thể hiện ở việc Nhà nước ban hành một số chính sách, chế độ như: chế độ tiền lương của Kiểm sát viên được quan tâm với mức lương ở ngạch, bậc cao hơn bảng lương của công chức ở một số ngành khác trong khối hành chính sự nghiệp và chỉ xếp sau ngạch lương của lực lượng vũ trang. Đã ban hành chế độ sử dụng trang phục thống nhất trong ngành; đã ban hành quy định về thưởng Huy chương bảo vệ pháp chế XHCN đối với cán bộ ngành kiểm sát.

 

Tuy nhiên, việc xây dựng và thực hiện chính sách đối với đội ngũ Kiểm sát viên còn những tồn tại, hạn chế, nhất là chính sách tiền lương, nhà ở, điều kiện làm việc còn nhiều khó khăn.

 

Một là: chế độ tiền lương đối với chức danh Kiểm sát viên; ngành kiểm sát nhân dân là quá thấp không tương ứng với tính chất lao động kiểm sát.

 

Hai là: thu thập thực tế của cán bộ, Kiểm sát viên các cấp: do sự ước chế bởi những quy tắc nghề nghiệp, không được làm những việc như Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 1993 quy định, nên hạn chế điều kiện thu nhập ngoài lương. Vì vậy mức thu nhập thực tế của cán bộ, Kiểm sát viên thấp hơn nhiều so với cán bộ, công chức các ngành hành chính sự nghiệp khác như ngành giáo dục, y tế, bưu điện…

 

Mặt khác, ngay trong đội ngũ Kiểm sát viên thì sự chệnh lệch quá xa về mức lương giữa các cấp Kiểm sát viên đang là một bât hợp lý về thực hiện chính sách cán bộ. Cụ thể là: những cán bộ công tác ở Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện khi được bổ nhiệm Kiểm sát viên huyện xếp lương 2,16. Những cán bộ công tác ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh 6 năm khi được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên cấp tỉnh xếp lương 3,62… Như vậy, tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức như nhau, có cùng trình độ đào tạo nhưng chỉ khác nhau về nơi công tác và chênh lệch nhau 2 năm công tác thì tiền lương khởi điểm của Kiểm sát viên tỉnh cách xa mức lương khởi điểm của Kiểm sát viên huyện 12 năm đang là bất hợp lý.

 

Ba là: vấn đề phụ cấp trách nhiệm và phụ cấp thâm niên đối với Kiểm sát viên, cán bộ ngành khác đã được Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định nhưng đến nay vẫn chưa được thể chế thực hiện trong thực tế.

 

III/ Một số giải pháp kiến nghị để xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh.

 

1. Quan điểm xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.

 

1.1. Việc xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân phải quán triệt đầy đủ những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy Nhà nước XHCN và nền pháp chế thống nhất:

 

Tuân theo nguyên lý của V.I Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức bộ máy Nhà nước XHCN nhằm thực hiện đầy đủ quyền lực của nhân dân, và do nhu cầu của cuộc cách mạng XHCN phải đảm bảo pháp chế thống nhất là một trong những điều kiện tiên quyết để xây dựng thắng lợi chế độ mới, chế định Viện kiểm sát nhân dân ra đời. Hiến pháp 1959, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, Hiến pháp 1980; Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 là những văn bản luật của Nhà nước có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố nhằm đảm bảo cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.

 

Xuất phát từ chức năng đó, Viện kiểm sát nhân dân "có nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm mọi hành vi xâm hại lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải xử lý theo pháp luật".

 

Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ nặng nề đó, đòi hỏi viện kiểm sát nhân dân phải xây dựng cho được đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên thực sự trong sạch, vững mạnh, đặc biệt là đội ngũ Kiểm sát viên các cấp lực lượng nòng cốt thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân. Một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất trong xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên là ngành kiểm sát phải có được một cơ sở pháp lý vững chắc về tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế độ và thẩm quyền … để mỗi Kiểm sát viên dù công tác ở đâu, ở cấp nào, khi đã đặt vào vị trí phải thực hiện đúng và có hiệu quả đối với chức trách nhiệm vụ được giao.

 

1.2. Việc xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân phải trên cơ sở quán triệt và thực hiện đúng đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về cán bộ và công tác cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, khắc phục được những hạn chế trong công tác xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên thời gian qua:

 

Một là: phải quán triệt thực hiện nghị quyết hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII về "chiến lược cán bộ thời kỳ CNH, HĐH đất nước", và Nghị quyết về "phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục dx Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh" xây dựng cho được đội ngũ Kiểm sát viên đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát, tập trung thực hiện tốt quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi công cuộc cải cách nền tư pháp.

 

Hai là: xây dựng được cơ sở pháp lý đồng bộ chắc chắn bảo đảm xây dựng và quản lý tốt đội ngũ kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân. Hiện tạo, việc xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên đang được căn cứ chủ yếu vào pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 1993, trong quá trình thực hiện, pháp lệnh Kiểm sát viên đã bộc lộ những hạn chế vướng mắc ảnh hưởng tới công tác xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên như đã phân tích ở treen cần được tổng kết, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các quy định của pháp luật. Đồng thời phù hợp với pháp lệnh về cán bộ công chức năm 1998 của Chính phủ về "tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức". Kể cả việc nghiên cứu nghiêm túc về cơ cấu Kiểm sát viên theo cấp hành chính như hiện nay để đề xuất với Đảng, Nhà nước cho ra một cơ chế thích hợp, tinh gọn, phát huy được cán bộ và hiệu quả công tác của Viện kiểm sát nhân dân.

 

Ba là: xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên phải gắn liền với tổ chức, căn cứ vào nhiệm vụ chính trị và khối lượng công việc mà định ra tổ chức, khi có tổ chức mới bố trí cán bộ thực hiện tiêu chuẩn hoá chức danh, xác định rõ biên chế và cơ cấu từng cấp Kiểm sát viên ở mỗi đơn vị để bố trí cho thích hợp, trên cơ sở đó xây dựng quy chế, lề lối làm việc để phân định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của từng chức danh và các mối quan hệ quản lý, sử dụng Kiểm sát viên.

 

2. Một số giải pháp kiến nghị cụ thể để xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh.

 

2.1. Xây dựng và thực hiện tiêu chuẩn của Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân:

 

Việc xây dựng tiêu chuẩn Kiểm sát viên phải trên cơ sở xác định đúng tiêu chí về xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong giai đoạn đổi mới, phát triển đất nước hiện nay. Quán triệt Nghị quyết TW3 khoá VIII của Đảng về "Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước". Đòi hỏi ngành kiểm sát nhân dân phải xây dựng được đội ngũ Kiểm sát viên có đủ phẩm chất, năng lực, khách quan, một lòng một dạ vì nhân dân mà phục vụ, có tình thần kiên quyết đấu tranh bảo vệ pháp chế, không dung thứ những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm, không làm điều oan cho một ai.

 

Lòng trung thành với đường lối chính sách của Đảng, tính nguyên tắc, phong cách làm việc dân chủ đoàn kết, có kiến thức nghiệp vụ và năng lực thực tiễn, có ý thức tổ chức kỷ luật, có lối sống trong sạch, công tâm, trung thực, dũng cảm đấu tranh bảo vệ pháp chế, pháp luật. Tất cả những tiêu chuẩn về đức, tài đó là đòi hỏi tất yếu đối với mỗi Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân. Trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước hiện nay còn đòi hỏi Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân phải có trí tuệ cao hơn, lối sống gương mẫu theo tinh thần Nghị quyết TW3 khoá VIII của Đảng đã xác định "nhân dân đòi hỏi các cơ quan tư pháp và nhân viên tư pháp phải mẫu mực tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, thể hiện tính dân chủ công khai, đại diện cho công lý của chế độ, phải thực sự trong sạch, công minh".

 

Các tiêu chuẩn đối với Kiểm sát viên nêu trên phải được thể chế cụ thể trong các quy định của pháp luật thực hiện thống nhất. Trước tiên phải nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để sửa đổi Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 1993, trong đó các điều 2,14,15,16 quy định về tiêu chuẩn của kiểm sát viên các cấp.

 

Về tiêu chuẩn phẩm chất chính trị và trình độ lý luận chính trị của Kiểm sát viên hiện nay chưa được quy định cụ thể trong pháp lệnh. Vấn đề này Ban cán sự đảng Viện kiểm sát NDTC chỉ đạo nghiên cứu ban hành hướng dẫn phù hợp với các quy định của Đảng để thực hiện thống nhất trong toàn ngành. Nên quy định cụ thể tiêu chuẩn chính trị cụ thể cho từng cấp Kiểm sát viên, như Kiểm sát viên cao cấp phải là đảng viên, có trình độ lý luận chính trị cao cấp trở lên…, Kiểm sát viên sơ cấp (Kiểm sát viên cấp huyện) bắt buộc phải là đảng viên…

 

2.2. Nghiên cứu, xác định cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân đảm bảo đúng quy định của đảng, sửa đổi bổ sung những hạn chế trong quy định của Pháp lệnh về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 1993.

 

Giữ nguyên cơ chế tuyển chọn Kiểm sát viên với phương thức thành lập Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên là Uỷ ban kiểm sát như hiện nay đang thực hiện.

 

Ban cán sự đảng Viện kiểm sát NDTC phối hợp với cấp uỷ đảng nghiên cứu, ban hành quy định về việc đánh giá, tuyển chọn để bổ nhiệm Kiểm sát viên các cấp theo phân cấp quản lý cán bộ đảng viên, đảm bảo tính dân chủ, khách quan theo đúng quy định của Đảng về công tác cán bộ.

 

Đề nghị sửa đổi điều 18 Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 1993 theo hướng: Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thêm nhiệm vụ tuyển chọn và đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát NDTC bổ nhiệm chức danh kiểm sát viên trung cấp và kiểm sát viên sơ cấp.

 

2.3. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên toàn diện cả về lý luận chính trị, kiến thức pháp lý và trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, vừa đảm bảo mặt bằng trình độ chuẩn theo quy định của Nhà nước, vừa đảm bảo tính chuyên sâu, tinh thông về lĩnh vực chuyên môn mà Kiểm sát viên đảm nhận.

 

Đề nghị Đảng và Nhà nước quan tâm tạo điều kiện cho ngành kiểm sát kiện toàn tổ chức bộ máy và hoạt động của hai trường theo hươngs: nâng trường trung cấp kiểm sát (tại TP Hồ Chí Minh) thành trường Cao đẳng kiểm sát, nâng trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội thành Học viện kiểm sát trong đó có chức năng đào tạo bồi dưỡng Kiểm sát viên các cấp.

 

Nghiên cứu nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Bổ sung bộ môn giáo dục đạo đức nghề nghiệp vào chương trình đào tạo của nhà trường. Đồng thời có chính sách thu hút và đào tạo những giáo viên giỏi; đầu tư cơ sở vật chất cho công tác đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên trước hết cần đầu tư cho hai trường của ngành tạo điều kiện nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên.

 

2.4. Tăng cường công tác quản lý, sử dụng đội ngũ Kiểm sát viên, đảm bảo nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, phát huy tốt đội ngũ Kiểm sát viên trong điều kiện tiếp tục tiến trình cải cách đổi mới tư pháp.

 

Trước tiên, phải nghiên cứu ban hành và thực hiện được quy chế quy định về sự phối kết hợp giữa tổ chức đảng và thủ trưởng chuyên môn của ngành trong việc quản lý, sử dụng đội ngũ Kiểm sát viên. Nội dung công tác quản lý phải bao gồm các mục cả về quan điểm tư tưởng, chất lượng công tác chuyên môn và sự tuân thủ pháp luật, quy chế kỷ luật nghiệp vụ.

 

Hai là, căn cứ vào các quy định của Đảng và Nhà nước về quản lý , sử dụng cán bộ, đảng viên để cụ thể hoá thành những quy định áp dụng thực hiện đối với Kiểm sát viên, như thể chế quy định số 55 của Bộ Chính trị về những điều Đảng viên không được làm, các quy định trong pháp lệnh về cán bộ công chức, pháp lệnh về chống tham nhũng… nghiên cứu để sửa đổi Pháp lệnh về Kiểm sát viên viên Viện kiểm sát nhân dân năm 1993 cho phù hợp với các quy định nêu trên của Đảng và Nhà nước.

 

Ba là, ngành kiểm sát tiếp tục nghiên cứu sửa đổi bổ sung cho hoàn thiện việc xây dựng quy chế và thực hiện cho được các quy chế về quản lý cán bộ, như:

 

+ Quy chế về đánh giá cán bộ.

 

+ Quy chế về tuyển chọn, bổ nhiệm, bố trí cán bộ; bao gồm tuyển chọn cán bộ vào ngành, tuyển chọn để bổ nhiệm Kiểm sát viên các cấp, tuyển chọn để bổ nhiệm các chức năng lãnh đạo quản lý.

 

Đối với đội ngũ Kiểm sát viên các cấp thì bố trí theo hướng chuyên sâu để tạo ra những chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực công tác.

 

+ Thực hiện chế độ học tập bắt buộc đối với Kiểm sát viên các cấp theo tiêu chuẩn từng chức danh…

 

+ Về chế độ kiểm tra và nhân dân tham gia xây dựng và giám sát cán bộ, Kiểm sát viên.

 

+ Thực hiện tốt kế hoạch bảo vệ chính trị nội bộ, chống diễn biến hoà bình trong ngành kiểm sát.

 

+ Quy chế về phân cấp quản lý trong ngành.

 

2.5. Đề nghị Đảng và Nhà nước quan tâm hơn nữa về chính sách cán bộ đối với đội ngũ Kiểm sát viên, đảm bảo có sự ưu đãi về chế độ tiền lương, phụ cấp, chế độ nhà ở và phương tiện đi lại của Kiểm sát viên.

 

Trước tiên, đề nghị Đảng và Nhà nước quan tâm giải quyết cho đội ngũ Kiểm sát viên được hưởng một khoản bồi dưỡng ngoài lương theo xu hướng nâng tổng thu nhập của Kiểm sát viên tương xứng với thu thập thực tế của công chức một số cơ quan hành chính sự nghiệp khác, tạo điều kiện khắc phục khó khăn trong đời sống sinh hoạt của đội ngũ công chức tư pháp hiện nay…

 

Hai là, nghiên cứu sửa đổi bổ sung các quy định của Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 1993 về chính sách đối với Kiểm sát viên, như cần đưa vào điều 11 của Pháp lệnh đó quy định về chế độ tiền lương, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thâm niên đối với Kiểm sát viên.

 

thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực của sự lãnh đạo của đảng trong việc xây dựng đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

trong sạch vững mạnh

 

Trần Văn Tú

Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ

Toà án nhân dân tối cao

 

I/ Đặt vấn đề:

 

Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ cao cả đó của Toà án NDTC thì đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có vị trí đặc biệt quan trọng. Bở lẽ, các phán quyết của họ không những liên quan đến tính mạng, tài sản, danh dự, giá trị nhân phẩm của công dân, mà còn thể hiện nền công lý của Nhà nước.

 

Chính vì vậy, ngay từ khi Toà án NDTC được thành lập (năm 1958), Đảng và Nhà nước rất coi trọng việc xây dựng đội ngũ thẩm phán Toà án NDTC cả về số lượng và chất lượng.

 

Cùng với sự phát triển của ngành Toà án, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là sự chỉ đạo, lãnh đạo của Ban cán sự Đảng, Đảng uỷ cơ quan Toà án NDTC, đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã không ngừng trưởng thành. Tuy nhiên, trước yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm và các vi phạm, thì đội ngũ thẩm phán nói chung, thẩm phán Toà án nhân dân tối cao nói riêng còn nhiều bất cập. Bên cạnh những kết quả đáng trân trọng của Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trong việc góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, phục vụ cho công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo và khởi xướng, thì đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao còn có những hạn chế cả về năng lực chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức. Những hạn chế đó làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của ngành Toà án, cơ quan Toà án nhân dân tối cao. Chính vì vậy, vấn đề xây dựng đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trong sạch vững mạnh, vừa là yêu cầu bức thiết của thực tế khách quan, vừa là đáp ứng mong muốn chủ quan của ngành Toà án. Một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu của việc xây dựng đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trong sạch vững mạnh, là nâng cao hiệu lực của sự lãnh đạo của Đảng, mà cụ thể là sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao, của đảng uỷ cơ quan Toà án nhân dân tối cao trong việc xây dựng đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trong sạch vững mạnh.

 

II/ Thực trạng cán bộ, công chức và đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:

 

1. Thực trạng cán bộ, công chức của Toà án nhân dân tối cao.

 

Về cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao hiện nay có 3 toà phúc thẩm, 5 toà chuyên trách (không kể Toà án quân sự Trung ương).

 

Về bộ máy giúp việc của Toà án nhân dân tối cao: có 8 đơn vị giúp việc.

 

Tổng số biên chế của cơ quan Toà án NDTC được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê duyệt là 450 người, hiện có 433 người. Trong số biên chế 450 người được duyệt có 120 biên chế là thẩm phán Toà án nhân dân tối cao nhân dân (không kể thẩm phán Toà án quân sự Trung ương).

 

Cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức của Toà án nhân dân tối cao được thể hiện như sau:

 

- Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao: 97 người (không kể chánh án Toà án nhân dân tối cao).

 

- Thẩm tra viên: 94 người

 

- Chuyên viên (kể cả thư ký): 117 người

 

- Nghiên cứu viên: 08 người

 

- Nhân viên khác: 117 người.

 

Nhìn chung cơ cấu tổ chức và biên chế của cơ quan Toà án NDTC như hiện nay là hợp lý. Tuy đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao còn thiếu so với biên chế là 23 người, nhưng vẫn bảo đảm được việc hoàn thành kế hoạch công tác hàng năm. Trong các năm tới cố gắng tạo nguồn để bổ sung đủ số lượng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

 

Đối với đội ngũ thẩm tra viên, chuyên viên và nhân viên các loại, trước khi tuyển dụng đều qua thi tuyển và thẩm tra xác minh về lịch sử chính trị gia đình, bản thân. Nên nhìn chung số cán bộ, nhân viên đó đảm bảo về tiêu chuẩn nghiệp vụ. Đồng thời, đội ngũ thẩm tra viên, chuyên viên cũng là nguồn quan trọng để bổ sung cho đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

 

Vấn đề hạn chế cơ bản của đội ngũ thẩm tra viên, chuyên viên của Toà án nhân dân tối cao hiện nay là thiếu những chuyên gia giỏi trên từng lĩnh vực cụ thể. Thẩm tra viên, chuyên viên của Toà án nhân dân tối cao tuy được đào tạo cơ bản có hệ thống, nhưng khả năng nghiên cứu chuyên sâu từng lĩnh vực còn hạn chế, đặc biệt là cán bộ chuyên gia đầu ngành rất ít.

 

2. Thực trạng đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

 

* Đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hiện nay có 97 người (còn thiếu so với biên chế 23 người). Cơ cấu đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao như sau:

 

- Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao: 3

 

- Chánh toà: 7

 

(Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại TP Hồ Chí Minh chưa có Chánh toà, đồng chí Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao kiêm Chánh toà)

 

- Vụ trưởng (là thẩm phán Toà án nhân dân tối cao): 5

 

- Phó Chánh toà: 13

 

- Thẩm phán không giữ chức vụ quản lý: 69

 

Về cơ cấu thẩm phán Toà án nhân dân tối cao như hiện nay là tương đối hợp lý, phần đông các thẩm phán được phân công làm công tác xét xử tại các toà phúc thẩm và các toà chuyên trách có số lượng việc giải quyết lớn như Toà hình sự, Toà dân sự. Tuy Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại TP Hồ Chí Minh và tại Đà Nẵng còn thiếu Thẩm phán, song Toà án nhân dân tối cao áp dụng biện phán cử thẩm phán luân phiên tăng cường cho 2 toà này nên đảm bảo được kế hoạch xét xử.

 

* Về trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ của thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:

 

- Về lý luận chính trị: 30 đồng chí có bằng cao cấp chính trị hoặc cử nhân chính trị (chiếm tỷ lệ 30%). Hiện nay có 18 đồng chí đang theo học chương trình cao cấp lý luận chính trị tại chức (chiếm tỷ lệ 18%). Như vậy còn khoảng 52% thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chưa có trình độ cao cấp lý luận chính trị.

 

- Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ:

 

+ Tiến sỹ luật: 4 đồng chí

 

+ Thạc sĩ luật: 15 đồng chí

 

+ Cử nhân luật: 78 đồng chí.

 

Như vậy về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, 100% thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã có trình độ cử nhân luật, đã có 15 thạc sĩ, 4 tiến sĩ.

 

- Về trình độ ngoại ngữ: 26 đồng chí thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có ngoại ngữ (chiếm tỷ lệ 26%) ở mức độ giao dịch được, chủ yếu là Nga văn, Anh văn.

 

Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, nhìn chung là đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Nhưng về trình độ chính trị lý luận thì cần phải phấn đấu nhiều, bởi vì trong các năm tới mục tiêu phải đạt là 100% thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có trình độ cao cấp lý luận chính trị trở lên. Về ngoại ngữ của thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cũng là điểm hạn chế. Hầu hết các thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trước khi bổ nhiệm làm thẩm phán được đào tạo trong nước thì trình độ ngoại ngữ thấp. Sau kho được bổ nhiệm thẩm phán, thời gian tự học, hoặc đi học ngoại ngữ rất hạn chế, Nên đó là nguyên nhân chính của việc trình độ ngoại ngữ của thẩm phán Toà án nhân dân tối cao còn thấp so với yêu cầu.

 

* Về độ tuổi, thâm niên công tác trong ngành của đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:

 

- Về độ tuổi:

 

+ Tuổi từ 50 đến dưới 60 tuổi: 33 đồng chí (chiếm tỷ lệ 30%)

 

+ Tuổi từ 40 đến dưới 50 tuổi: 55 đồng chí (chiếm tỷ lệ 56%)

 

+ Tuổi từ 30 đến dưới 40 tuổi: 9 đồng chí (chiếm tỷ lệ 14%).

 

- Về thâm niên công tác: hầu hết thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có thâm niên công tác trong ngành Toà án từ 15 năm trở lên. Đa số các thẩm phán đã qua 2 nhiệm kỳ thẩm phán (khoảng 55%), có đồng chí đã sang nhiệm kỳ thứ 4 (khoảng 7%). Số thẩm phán đang ở nhiệm kỳ đầu tiên (mới bổ nhiệm) là: 37 đồng chí (chiếm tỷ lệ 38%).

 

Như vậy về độ tuổi và thâm niên công tác của đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cho thấy có sự kế tục của các thế hệ cán bộ, phần đông số thẩm phán hiện nay có thể công tác liên tục được 2 nhiệm kỳ (khoảng 10 năm trở lên0. Số thẩm phán đến tuổi nghỉ hưu từ nay đến năm 2004 khoảng 10 người và rải rác trong từng năm. Nên việc bổ sung cũng không khó khăn.

 

Đánh giá về đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:

 

* Về ưu điểm:

 

Về lập trường tư tưởng chính trị của đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, nói chung là vững vàng, 100% là đảng viên, số đông thẩm phán đã qua rèn luyện thử thách của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong công tác, trong học tập, rèn luyện của các thẩm phán tỏ rõ sự trung thành đối với tổ quốc, đối với đảng. Sự vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng trong việc giải quyết các vụ án cụ thể có sự nhuần nhuyễn. Chưa phát hiện có biểu hiện pháp lý đơn thuần.

 

Về năng lực chuyên môn nghiệp vụ, tuy khối lượng công việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân tối cao trong các năm vừa qua là rất lớn, bình quân mỗi thẩm phán mỗi năm giải quyết hơn 100 vụ án (xét xử phúc thẩm), cường độ làm việc cao, song về cơ bản chất lượng xét xử phúc thẩm được bảo đảm. Việc áp dụng pháp luật trong công tác xét xử vừa bảo đảm tính thống nhất, vừa bảo đảm đường lối xử lý đối với từng loại tội phạm cụ thể. Chất lượng xét xử giám đốc thẩm của các toà chuyên trách cũng đã được nâng cao, giữ được vai trò chỉ đạo các cấp Toà án áp dụng pháp luật, vận dụng đường lối xét xử. Về cơ bản, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của các thẩm phán đáp ứng được yêu cầu của công tác xét xử trong tình hình hiện nay.

 

Về phẩm chất đạo đức của thẩm phán, đây là lĩnh vực dư luận xã hội, nhân dân rất quan tâm. Phần lớn các thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giữ vững phẩm chất đạo đức, có cuộc sống bản thân và cuộc sống gia đình trong sáng, lành mạnh, giản dị, liêm khiết. Tuy chế độ tiền lương và các khoản phụ cấp khác đối với thẩm phán Toà án nhân dân tối cao được cải thiện thêm một bước đáng kể đã bảo đảm cho đời sống vật chất của bản thân gia đình thẩm phán, nhưng so với mức sống chung thì thu nhập của thẩm phán cũng còn khó khăn, mặt khác trong hoàn cảnh nền kinh tế thị trường và sự tác động của các hiện tượng tiêu cực, trước các điều kiện đó, phần lớn các thẩm phán đã vững vàng không bị sa ngã. Thông qua việc lấy ý kiến nhận xét của nhân dân nơi cư trú của thẩm phán, các thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đều được nhân dân ở nơi họ cư trú đánh giá về phẩm chất đạo đức của bản thân và gia đình là tốt.

 

* Về khuyết điểm:

 

- Về năng lực chuyên môn nghiệp vụ của thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chưa đồng đều. Có số ít thẩm phán trình độ nghiệp vụ còn yếu. Điều này được thể hiện ở việc áp dụng pháp luật, vận dụng đường lối xét xử và khả năng điều khiển phiên toà. Trong nhiệm kỳ 1994 - 1999, Toà án nhân dân tối cao đã xử lý kỷ luật với hình thức cảnh cáo: 4 thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; hình thức khiển trách: 3 thẩm phán Toà án nhân dân tối cao vì các thẩm phán đó đã mắc sai lầm trong quá trình xét xử phúc thẩm, mà nguyên nhân chủ yếu là do năng lực chuyên môn nghiệp vụ yếu.

 

- Năng lực chuyên môn nghiệp vụ chủ yếu của số ít thẩm phán còn dẫn tới hiện trạng việc vận dụng quan điểm đường lối của đảng trong công tác xét xử thiếu nhuần nhuyễn, không nhạy bén về chính trị, thiếu sức thuyết phục, gây ảnh hưởng xấu tới lòng tin của quần chúng nhân dân đối với cơ quan Toà án nhân dân tối cao.

 

- Về phẩm chất đạo đức thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, cũng có biểu hiện để dư luận xã hội, quần chúng nhân dân quan tâm đòi hỏi thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải tu dưỡng rèn luyện ở mức cao hơn nữa. Trong nhiệm kỳ 1994 - 1999, tuy có 1 thẩm phán Toà án nhân dân tối cao vi phạm pháp luật nghiêm trọng bị truy tố xét xử với hình phạt 2 năm tù, nhưng đã làm ảnh hưởng tới uy tín, danh dự của đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Mặt khác, cá biệt có trường hợp tư thế, tác phong của thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chưa thực sự nghiêm túc, đúng mực mà báo chí có nêu, đây cũng là những tồn tại yếu kém cần được khắc phục.

 

- Về kiến thức xã hội, đặc biệt là trình độ ngoại ngữ, hiểu biết về tin học của thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cũng là điểm yếu đáng lo ngại. Trong bối cảnh phát triển của nền kinh tế, sự giao lưu quốc tế, phát triển của công nghệ khoa học tin học, thì các điểm yếu nêu trên của các thẩm phán cũng ảnh hưởng đến chất lượng công tác, đòi hỏi của sự phát triển. Trong những năm gần đây, Toà án nhân dân tối cao đã cố gắng khắc phục tình trạng này song cũng chưa đáp ứng được nhu cầu.

 

Tóm lại, những yếu điểm của đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao cũng đã thấy được, song biện pháp khắc phục thì đang trong quá trình từng bước thực hiện. Cùng với sự phấn đấu nỗ lực của các thẩm phán, chúng ta mong sao sớm khắc phục các điểm yếu đó.

 

3. Sự lãnh đạo của Đảng trong việc lựa chọn, bổ nhiệm và quản lý đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:

 

Đảng ta luôn luôn quan tâm tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, trong đó có cán bộ ngành Toà án mà trọng tâm là đội ngũ thẩm phán. Từ năm 1990 đến nay, Đảng ta đã có 2 chỉ thị quan trọng về vấn đề này. Đó là Chỉ thị số 29-CT/TW, ngày 8/11/1993 của Ban Bí thư Trung ương đảng (khoá VII) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật và Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 18/3/1994, của Ban Bí thư trung ương đảng (khoá VII) về sự lãnh đạo của đảng đối với việc tuyển chọn bổ nhiệm thẩm phán các cấp. Quán triệt và vận dụng các nguyên tắc của 2 chỉ thị nêu trên, Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao, Đảng uỷ cơ quan Toà án nhân dân tối cao đã đề ra nhiều biện pháp quan trọng trong việc lựa chọn, đề nghị bổ nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Cụ thể là:

 

3.1. Đối với việc lựa chọn, đề nghị bổ nhiệm thẩm phán Toà án NDTC:

 

Do tình hình đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thiếu kéo dài nhiều năm, Ban cán sự đảng, Đảng uỷ cơ quan Toà án nhân dân tối cao tuy chưa có nghị quyết chuyên đề về các biện pháp khắc phục tình trạng này, song đã có nhiều cố gắng trong công tác quy hoạch cán bộ để tạo nguồn bổ sung. Ban cán sự đảng xác định nguồn bổ sung gồm 2 đối tượng chính là:

 

+ Cán bộ đang công tác tại các đơn vị của Toà án Toà án nhân dân tối cao đảm bảo tiêu chuẩn thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

 

+ Thẩm phán đang công tác tại các Toà án địa phương (chủ yếu là thẩm phán cấp tỉnh), cá biệt là chánh án Toà án cấp huyện, quận.

Đối với nguồn cán bộ đang công tác tại Toà án nhân dân tối cao, có thuận lợi là được đào tạo chính quy, có hệ thống, có kiến thức lý luận sâu về nghiệp vụ, nhưng lại thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Nên Ban cán sự đảng đã có chủ trương đưa một số cán bộ xuống các Toà án địa phương để làm thẩm phán như ở Toà án nhân dân TP Hà Nội, Toà án nhân dân tỉnh Hà Tây. Sau đó khoảng một nhiệm kỳ sẽ rút lên làm thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Biện pháp này rất công phu nhưng hiệu quả rất tốt.

 

Đối với nguồn cán bộ là thẩm phán các Toà án địa phương, trong các năm vừa qua và hiện nay, tuy gặp một số khó khăn như thẩm phán các Toà án địa phương hiện còn thiếu và cơ chế chính sách đãi ngộ cũng chưa thật sự khuyến khích các thẩm phán có năng lực về Toà án nhân dân tối cao công tác. Nhưng với sự cố gắng tạo nguồn và hỗ trợ của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao cũng đã điều động được một số thẩm phán, chánh án, phó chánh án cấp tỉnh và chánh án cấp huyện về làm thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

 

Kế tiếp bước tạo nguồn (công tác quy hoạch cán bộ) là bước lựa chọn, đề nghị bổ nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Mà trọng tâm của bước này là khâu đánh giá cán bộ theo các nội dung: phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức. Trong việc đánh giá cán bộ, Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao luôn tuân thủ theo các nguyên tắc tập thể, dân chủ, công khai. Và để có được sự đánh giá cán bộ sát đúng theo các nội dung trên. Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao thường dựa vào các cơ quan chức năng như: Ban bảo vệ chính trị nội bộ trung ương, Ban nội chính trung ương, Đảng uỷ khối và chính quyền, cấp uỷ địa phương, đại diện dân cư nơi cán bộ cư trú. ý kiến đánh giá cán bộ trước khi đưa ra hội đồng tuyển chọn thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, mà còn là những căn cứ để đảm bảo độ tin cậy Chủ tịch nước mới ra quyết định bổ nhiệm.

 

Như vậy việc đánh giá cán bộ đúng sẽ là khâu quyết định nhất trong quá trình lựa chọn đề nghị bổ nhiệm thẩm phán. Chính vì vậy phương châm của công tác này là thận trọng. Có trường hợp có ý kiến khác nhau, chưa thống nhất thì kiên quyết chưa đưa ra Hội đồng xét, hoặc chưa trình lên chủ tịch nước xét.

 

Tóm lại: Về mặt pháp luật quy định thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền đưa các cán bộ có đủ tiêu chuẩn để Hội đồng tuyển chọn thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, nhưng trên thực tế, toàn bộ quá trình tạo nguồn, lựa chọn, giới thiệu đều thuộc trách nhiệm của tập thể Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao thực hiện thẩm quyền theo quy định của pháp luật trên cơ sở có sự thống nhất của tập thể Ban cán sự đảng. Đây là thể hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ nói chung và trong sự lựa chọn, đề nghị bổ nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân tối cao nói riêng. Và trên thực tế, cơ chế này phát huy tác dụng tốt, tránh được sự cảm tính cá nhân, tránh được sự thắc mắc trong nội bộ.

 

3.2. Đối với việc quản lý thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:

 

Quản lý đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao theo quy định của pháp luật thuộc về chức trách của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, từ khâu phân công công tác, bổ nhiệm chánh án, phó chánh toà, nâng bậc lương, cho nghỉ hưu… Song theo sự phân cấp quản lý cán bộ, thì quản lý đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thuộc trách nhiệm của Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao, có sự phối hợp với đảng uỷ cơ quan.

 

Trong thực tiễn công tác vài năm qua, Toà án nhân dân tối cao thực hiện cơ chế quản lý thẩm phán như trên là nghiêm túc và phát huy tác dụng tốt. Từ việc phân công công tác, bổ nhiệm chức vụ quản lý các toà thuộc Toà án nhân dân tối cao, nâng bậc lương, cho nghỉ hưu… tập thể Ban cán sự đảng bàn bạc thống nhất, sau đó tham khảo ý kiến Đảng uỷ cơ quan, trên cơ sở đó Chánh án Toà án nhân dân tối cao mới ra các quyết định. Cơ chế này cũng là thể hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác cơ bản. Và hầu như mọi trường hợp, chưa có trường hợp mà ý kiến của Chánh án Toà án nhân dân tối cao khác ý kiến của Ban cán sự đảng, khác ý kiến của đảng uỷ cơ quan. Cơ chế này còn tạo đà thuận lợi trong việc dân chủ hoá, công khai hoá công tác cán bộ trong cơ quan, nên được đảng viên, quần chúng trong cơ quan đồng tình.

 

Việc quản lý thẩm phán Toà án nhân dân tối cao còn được thể hiện ở nội dung xem xét kết luận các đơn thư tố cáo và xem xét kỷ luật các thẩm phán vi phạm kỷ luật. Các nội dung này, Ban cán sự đảng đều có sự bàn bạc thống nhất về nội dung kết luận, hoặc hình thức kỷ luật cần áp dụng. Trên cơ sở đó về mặt chính quyền sẽ thi hành theo các bước do pháp luật quy định; hoặc về Đảng theo quy định của Điều lệ đảng.

 

Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là của Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao, đảng uỷ cơ quan Toà án nhân dân tối cao đối với việc xây dựng đội ngũ thẩm phán Toà án NDTC là trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện, từ bước lựa chọn đề nghị bổ nhiệm, cho đến quản lý bố trí sắp xếp thẩm phán Toà án NDTC. Trong thực tiễn hoạt động của Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao, của đảng uỷ cơ quan Toà án nhân dân tối cao thì các nội dung về công tác cán bộ nói chung, về đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao nói riêng chiếm phần lớn thời gian trao đổi bàn bạc của Ban cán sự đảng, của đảng uỷ cơ quan. Mặt khác, chính cơ chế tuyển chọn bổ nhiệm, quản lý thẩm phán Toà án nhân dân tối cao như hiện nay, càng đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban cán sự đảng, Đảng uỷ cơ quan sát sao, sâu sắc hơn. Có như vậy càng làm cho không khí dân chủ trong cơ quan được phát huy.

 

III/ Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực của sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trong sạch, vững mạnh.

 

1. Một số kiến nghị về giải pháp trong quá trình lựa chọn, đề nghị bổ nhiệm thẩm pháp Toà án nhân dân tối cao:

 

Hiện nay pháp luật đã quy định rõ tiêu chuẩn thẩm phán Toà án nhân dân tối cao theo các nội dung: phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức.

 

Tuy nhiên để việc chiếu vận tiêu chuẩn đó được thống nhất, và đồng thời xác định đó cũng là mục tiêu chuẩn từng mặt cần phải cụ thể hoá hơn, và phương thức đánh giá từng tiêu chuẩn đó cũng cần được nghiên cứu cải cách để sát với tình hình hơn. Cụ thể là:

 

1.1. Tiêu chuẩn phẩm chất chính trị:

 

Đây là tiêu chuẩn xác định lòng trung thành của thẩm phán đối với tổ quốc, đối với nhân dân, đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, để đảm bảo tiêu chuẩn này, phương thức chủ yếu là rà soát kỹ về lịch sử chính trị gia đình và bản thân. Trên cơ sở sự phối hợp giữa cơ quan Toà án NDTC với Ban bảo vệ chính trị nội bộ của các cấp uỷ đảng. Đặc biệt là trong tình hình các thế lực thù địch đã đang thực hiện "diễn biến hoà bình" thì tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị của thẩm phán càng được quan tâm. Đồng thời về quan điểm lập trường tư tưởng của thẩm phán phải luôn luôn vững vàng, không dao động ngả nghiêng, đặc biệt là trong hoạt động xét xử phải biết vận dụng các quan điểm của đảng trong xét xử từng vụ án cụ thể.

 

1.2. Tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ:

 

Thẩm phán là công chức đặc biệt, hoạt động của họ đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ phụ thuộc vào hai yếu tố: đào tạo và kinh nghiệm thực tiễn công tác. Đối với đào tạo, không những được thể hiện ở bằng cấp, học vị trước khi được bổ nhiệm thẩm phán mà còn phải quan tâm đến cả quá trình bồi dưỡng nghiệp vụ sau khi đã là thẩm phán. Đối với kinh nghiệm thực tiễn công tác, là quá trình tích luỹ tự học của cán bộ, vấn đề này tuỳ thuộc vào thời gian công tác trong ngành nhưng chủ yếu là khả năng tự học tập, rèn luyện của cán bộ . Hiện nay pháp luật đã quy định về tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ của thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là: tốt nghiệp đại học luật (cử nhân luật trở lên), có ít nhất 8 năm làm công tác pháp luật. Theo tôi, quy định về tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ của thẩm phán Toà án nhân dân tối cao như hiện nay là thấp so với tiêu chuẩn thẩm phán của một số nước trong khu vực. Do vậy, cần thiết phải có quy định cao hơn nữa. Ví dụ về tiêu chuẩn về thời gian làm công tác pháp luật, có thể đưa lên ít nhất là 12 năm trong đó có 5 năm làm thẩm phán cấp tỉnh.

 

Mặt khác, pháp luật còn quy định về tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ của thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là: "Có năng lực xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao theo quy định của pháp luật tố tụng". Quy định này rất trìu tượng. Trong thực tiễn xem xét đánh giá, thì hội đồng tuyển chọn thẩm phán cũng đang lúng túng về vận dụng tiêu chuẩn này. Để giải quyết vấn đề này, đảm bảo sự đánh giá khách quan vô tư, đúng năng lực cán bộ, thì những người trước khi được đưa ra hội đồng tuyển chọn thẩm phán xét phải qua một kỳ thi kiểm tra về năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Nội dung thi sẽ gồm: kiến thức pháp luật (cả kiến thức pháp luật tố tụng), kiến thức về điều khiển một phiên toà và các kiến thức bổ trợ khác. Việc thực hiện chế độ thi tuyển thẩm phán đã được một số nước áp dụng, ví dụ như ở Trung quốc. Tuy nhiên ý kiến này có thể được thực hiện trong khoảng 5 - 10 năm tới. Hiện nay, chúng ta chưa có kinh nghiệm về việc thi tuyển thẩm phán.

 

1.3. Về tiêu chuẩn đạo đức, lối sống:

 

Đây là yêu cầu đòi hỏi rất cao, và trong các tiêu chuẩn về thẩm phán, thì tiêu chuẩn đạo đức lối sống của thẩm phán là hàng đầu, đạo đức là gốc. Tuy nhiên, các căn cứ, thông tin tư liệu để xem xét đánh giá đạo đức lối sống thẩm phán cũng là vấn đề còn lúng túng. Ví dụ như cách giải thích về một số trường hợp vi phạm về đạo đức lối sống tại Thông tư liên ngành của Bộ Tư pháp với Toà án nhân dân tối cao (Thông tư số 05 ngày 15/10/1993) cũng chưa thật sát tình hình và có nhiều điểm khi vận dụng còn có ý kiến khác.

Do vậy để có căn cứ pháp lý làm chuẩn mực khi đánh giá về đạo đức của thẩm phán, thì nhất thiết phải có quy chế về đạo đức lối sống của thẩm phán. Quy chế đó phải căn cứ vào 19 điều cấm đảng viên không được làm đã được ban hành tại quyết định số 55 cuả Bộ chính trị và phải căn cứ vào đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của thẩm phán.

 

Hiện nay Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao đang trong quá trình soạn thảo quy chế đó.

 

2. Một số kiến nghị về giải pháp trong quá trình quản lý thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:

 

Quản lý thẩm phán Toà án nhân dân tối cao không những bao hàm các nội dung quản lý cán bộ, công chức theo các quy định của Nhà nước đã ban hành (pháp lệnh về cán bộ công chức), mà còn có các nội dung đặc thù xuất phát từ hoạt động xét xử. Đó là vừa chứa đựng nguyên tắc tập thể, vừa có nguyên tắc độc lập khi xét xử. Chính đặc điểm này ảnh hưởng tới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử nói chung, đối với thẩm phán nói riêng. Bởi lẽ, rất dễ xảy ra hai khuynh hướng là: nếu quá nhấn mạnh đến sự lãnh đạo của Đảng dẫn tới Đảng bao biện làm thay, áp đặt; nếu buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng dẫn tới khuynh hướng chuyên môn đơn thuần, pháp lý máy móc. Vì vậy, để tránh các khuynh hướng chuyên môn đơn thuần, pháp lý máy móc. Vì vậy, để tránh các khuynh hướng tiêu cực vừa nêu, đồng thời đảm bảo sự lãnh đạo của Ban cán sự đảng, Đảng uỷ cơ quan trong việc quản lý thẩm phán, mà chủ yếu là hoạt động xét xử, thì cần tiến hành các giải pháp là:

 

2.1. Tăng cường, thường xuyên bồi dưỡng về quan điểm đường lối của Đảng, kiến thức pháp luật cho đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

 

Thực tiễn công tác trong các năm vừa qua, việc bồi dưỡng về đường lối, quan điểm của Đảng cho thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chưa thực hiện được. Có chăng chỉ là những đợt sinh hoạt chính trị, quán triệt Nghị quyết của Đảng như các đồng chí khác. Cho nên việc tăng cường, thường xuyên bồi dưỡng về quan điểm, đường lối của Đảng có thể theo định kỳ hàng năm, hàng quý sẽ giúp cho thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thấm nhuần các quan điểm đường lối của Đảng, để vận dụng trong công tác xét xử. Chính các thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cũng có đề xuất vấn đề này.

 

Bồi dưỡng về quan điểm đường lối của đảng cũng là nội dung quan trọng, đồng thời phải bồi dưỡng cả về kiến thức pháp luật, dưới hình thức tập huấn cho các thẩm phán cũng là cần thiết. Nhất là khi có bộ luật hoặc luật mới liên quan đến hoạt động xét xử được Quốc hội thông qua. Nội dung này, tuy Toà án nhân dân tối cao đã tiến hành trong các năm qua, nhưng cần đi sâu cải tiến về nội dung và hình thức tập huấn bồi dưỡng. Đồng thời cũng phải có quy định về định kỳ hàng năm nhất thiết các thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được bồi dưỡng về nghiệp vụ trong khoảng thời gian cần thiết.

 

2.2. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra công tác xét xử của các thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

 

Giải pháp này Toà án nhân dân tối cao đã thực hiện nhiều năm nay và có tác dụng tích cực. Tuy nhiên, do lực lượng của Ban thanh tra Toà án nhân dân tối cao còn mỏng, nên phạm vi, nội dung kiểm tra thanh tra công tác xét xử trong ngành nói chung, của các toà phúc thẩm thuộc Toà án nhân dân tối cao nói riêng còn hạn chế. Ví dụ, đối với các Toà phúc phẩm Toà án nhân dân tối cao mới chỉ kiểm tra thanh tra các bản án phúc thẩm có cải sửa án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ.

 

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra công tác xét xử của các thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, không những giúp cho sự chỉ đạo của Ban cán sự đảng trong việc uốn nắn các lệch lạc, sai lầm trong công tác xét xử, mà còn có những tư liệu về đánh giá năng lực, đạo đức của thẩm phán. Do vậy, cùng với định kỳ về việc bồi dưỡng nghiệp vụ, thì cũng cần thiết phải có định kỳ kiểm tra, thanh tra công tác xét xử của các thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

 

2.3. áp dụng chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với thẩm phán.

 

Trong thời gian qua, Toà án nhân dân tối cao mới chỉ chú trọng xem xét vấn đề kỷ luật đối với các thẩm phán Toà án nhân dân tối cao vi phạm pháp luật hoặc vi phạm kỷ luật công tác, còn việc áp dụng các hình thức khen thưởng đối với thẩm phán có thành tích thì chưa được xem xét đầy đủ.

 

Việc thực hiện chế độ khen thưởng đối với thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có thành tích trong hoạt động xét xử một cách kịp thời, công bằng sẽ có tác dụng tốt về động viên, khuyến khích công tác đối với cán bộ nói chung, thẩm phán nói riêng. Cho nên việc nghiên cứu để có chế độ khen thưởng đối với thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là cần thiết không phải trước mắt mà còn có tác dụng lâu dài. Theo tôi, đây là giải pháp rất quan trọng nhằm nâng cao hiệu lực của sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của thẩm phán. Bởi vì, đó là thể hiện của sự đánh giá của đảng, của Nhà nước về sự đóng góp của thẩm phán.

 

2.4. Cải tiến và nâng cao một số chế độ đãi ngộ đối với thẩm phán.

 

Đây là vấn đề lớn liên quan đến nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước ta đã có một số chế độ đãi ngộ đối với thẩm phán nói chung trong đó có thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, nhưng trong phạm vi cho phép thì một số chế độ đãi ngộ có thể được nâng lên hoặc sửa đổi cho phù hợp. Ví dụ như về chế độ trang phục, chế độ "dưỡng liêm", về "thẻ thẩm phán",….

 

Thực hiện được điều đó sẽ có tác dụng để các thẩm phán yên tâm công tác, tận tuỵ với công việc, trung thành với tổ quốc, với đảng.

 

 

 

 

 

 

*

* *

 

 

Tóm lại: trên cơ sở thực trạng đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hiện tại, việc xây dựng đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trong sạch vững mạnh là yêu càu bức thiết, mà biện pháp hàng đầu là nâng cao hiệu quả của sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban cán sự đảng, Đảng uỷ cơ quan. Để đảm bảo nâng cao hiệu quả đó, thì cần phải có một số giải pháp như đã trình bày nêu trên. Đồng thời việc thực hiện các giải pháp đó phải đồng bộ, không thể coi nhẹ giải pháp nào./.

 

sự lãnh đạo của đảng; mối quan hệ giữa các cơ quan trong việc quản lý thẩm phán Toà án nhân dân địa phương - thực trạng và đôi điều kiến nghị

 

Nguyễn Hồng Tươi - Phó vụ trưởng

Vụ quản lý Toà án địa phương - Bộ Tư pháp

 

 

Đảng ta luôn coi trọng công tác tổ chức cán bộ, vì nó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, nó quyết định đến thành công hay thất bại của cách mạng, đến sự sống còn của đất nước. Với ý nghĩa như vậy, Đảng đã sớm hình thành những quan điểm, đường lối chính sách về tổ chức cán bộ và được bổ sung hoàn thiện qua những giai đoạn lịch sử nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong từng giai đoạn cách mạng của đất nước ta.

 

Những năm gần đây Đảng ta có nhiều nghị quyết quan trọng nói về công tác tổ chức và cán bộ như Nghị quyết Ban chấp hành trung ương 8 (khoá V) và Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương 3 (khoá VIII). Để xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh, với quan điểm là xác định và phân biệt rõ hơn vai trò, chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng trong công tác cán bộ. Đó là những quan điểm mới về việc xác định các tiêu chuẩn đánh giá cán bộ và việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ.

 

Như vậy có thể nói rằng, công tác tổ chức - cán bộ được đổi mới một cách tương đối cơ bản, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở và nó được tiến hành ở cả tổ chức bộ máy Đảng và các cơ quan Nhà nước. Toà án nhân dân với tư cách là một cơ quan trong bộ máy Nhà nước cũng không nằm ngoài phạm vi ấy, hơn nữa Toà án lại là cơ quan tư pháp có chức năng duy nhất là xét xử các vụ án. "Toà án và thẩm phán là động cơ của nền tư pháp". Mỗi phán quyết của Toà án có ảnh hưởng đến tính công minh của pháp luật và nền công lý quốc gia. Xuất phát từ yêu cầu nghề nghiệp có tính đặc thù cao như vậy, vị trí của người thẩm phán ngày càng được đảng và Nhà nước xã hội quan tâm. Tại báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng ta đã khẳng định: "Củng cố kiện toàn các cơ quan tư pháp… xây dựng đội ngũ Thẩm phán, thư ký Toà án có phẩm chất chính trị và đạo đức chí công vô tư, có nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạch, vững mạnh là yêu cầu bức thiết trong việc đổi mới hệ thống các cơ quan Tư pháp và kiện toàn đội ngũ cán bộ của ngành".

 

Trong bài viết này chúng tôi xin đề cập đến thực trạng và một số kiến nghị để tăng cường sự lãnh đạo cuả Đảng và mối quan hệ phối hợp giữa một số cơ quan trong việc quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương, mà nội dung chủ yếu là công tác bổ nhiệm - miễn nhiệm thuyên chuyển, kỷ luật Thẩm phán…

 

I/ Thực trạng đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân địa phương - mối quan hệ giữa cấp uỷ đảng các cấp và các cơ quan trong việc thực hiện chế định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển thẩm phán.

 

1. Thực trạng đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương:

 

Nhiệm kỳ đầu tiên thực hiện chế định bổ nhiệm Thẩm phán (1994-1999). Với các tiêu chuẩn Thẩm phán và quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm được quy định rất cụ thể, chặt chẽ trong pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, đội ngũ Thẩm phán hiện nay của Toà án nhân dân địa phương đã có một bước phát triển đáng khích lệ. So sánh số lượng thẩm phán Toà án nhân dân địa phương trước đây thực hiện theo chế độ bầu cử với đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương không chỉ dừng lại ở số lượng mà cả trình độ chuyên môn cũng nâng lên rõ rệt (xem thống kê kèm theo).

 

2. Mối quan hệ giữa cấp uỷ đảng các cấp và các cơ quan trong việc thực hiện chế định bổ nhiệm, miễn nhiệm, thuyên chuyển, kỷ luật Thẩm phán:

 

Theo quy định tại Điều 16 của Luật tổ chức Toà án nhân dân thì việc quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Cụ thể hoá quy định này, ngày 29/9/1993, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 46/UBTVQH9 ban hành quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực. Trên cơ sở nghị quyết này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã ban hành quy chế số 91/TP-TA, ngày 19/1/1994 về phối hợp giữa giám đốc Sở tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc quản lý Toà án nhân dân cấp huyện về tổ chức. Ngoài ra, Bộ trưởng Bộ tư pháp cũng đã ra quyết định phân cấp quản lý về tổ chức các Toà án nhân dân cấp huyện đối với giám đốc sở tư pháp và quyết định uỷ quyền cho Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh. Một trong những văn bản có tính quan trọng đó là Pháp lệnh về Thẩm phán và bầu Hội thẩm nhân dân.

 

Những văn bản trên đây là những căn cứ pháp lý cơ bản nhằm thực hiện việc quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức có hiệu quả và đi vào nề nếp mà trong đó các quy định về mối quan hệ giữa các cơ quan trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương. Và qua những văn bản này chúng ta có thể thấy rằng Bộ Tư pháp là cơ quan chủ quản, quản lý có trách nhiệm chính trong mối quan hệ phối hợp với các cơ quan khác như với Quốc hội với Chủ tịch nước, với Toà án nhân dân tối cao, với tỉnh uỷ, thành uỷ đối với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và giám đốc sở tư pháp, với quận uỷ, thị uỷ, huyện uỷ đối với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác đối với thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện. Cơ chế phối hợp đó được thực hiện cụ thể như sau:

 

2.1. Trong việc thực hiện chế định bổ nhiệm Thẩm phán.

 

Chế định bổ nhiệm Thẩm phán ở nước ta đã được xác định ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Theo Sắc lệnh số 13/SL ngày 21/11/1946, quy định thành lập hệ thống Toà án tư pháp, trong đó quy định rõ việc thực hiện chế định bổ nhiệm thẩm phán và đồng thời xác định tích chất độc ạp của người thẩm phán. Cũng theo sắc lệnh số 13/SL thì Thẩm phán toà sơ cấp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Tuy nhiên, chế định này cũng chỉ được thực hiện trong khoảng hơn 10 năm.

 

Từ năm 1960 đến trước khi có Hiến pháp 1992, chế định bầu cử Thẩm phán đã được thực hiện ở các cấp Toà án. Theo chế định bầu cử Thẩm phán có ưu điểm là bảo đảm cho nhân dân lao động trực tiếp thực hiện quyền dân chủ trong việc lựa chọn những người thay mặt mình thực hiện hoạt động xét xử. Tuy nhiên, trong hơn 30 năm thực hiện chế định bầu cử Thẩm phán đã bộc lộ những nhược điểm như: Việc thực hiện chế định bầu cử Thẩm phán Toà án nhân dân ở nhiều nơi còn rất hình thức, chưa lựa chọn được những người có trình độ chuyên môn pháp lý, phẩm chất đạo đức tốt để thực hiện các nhiệm vụ của người thẩm phán. Một nhược điểm nữa của chế định bầu cử Thẩm phán là nhiệm kỳ ngắn, phụ thuộc vào nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân làm cho Thẩm phán không yên tâm công tác dẫn đến việc thẩm phán không tập trung trí tuệ và sức sáng tạo của mình vào công tác xét xử. Cũng do chế định này mà hoạt động xét er của Toà án thực sự không được độc lập vì lệ thuộc vào chính quyền địa phương. Vì những lý do trên mà điều 128 Hiến pháp 1992, Điều 3 luật tổ chức Toà án quy định chế độ bổ nhiệm thẩm phán thay thế chế định bầu cử. Tất cả các thẩm phán Toà án nhân dân các cấp là 5 năm. Riêng Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi miễn, nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.

 

Pháp lệnh về thẩm phán và hội thẩm Toà án nhân dân quy định rõ các tiêu chuẩn cụ thể về phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, qúa trình và thời gian công tác trong ngành pháp luật… của người thẩm phán và trước khi được chủ tịch nước ra quyết định bổ nhiệm làm thẩm phán người đó phải được Hội đồng tuyển chọn thẩm phán xét chọn và đề nghị. Để có được một đội ngũ thẩm phán có năng lực, có trình độ chuyên môn vững vàng, có đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, có kinh nghiệm sống phong phú, phẩm chất đạo đức, chính trị tốt nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc Hiến định:"Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" và các phán quyết của thẩm phán đảm bảo sự công minh, khách quan, toàn diện và đúng pháp luật thì việc xét chọn và đề nghị bổ nhiệm thẩm phán phải tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, phải được sàng lọc một cách kỹ lưỡng và phải được nhiều ngành, nhiều cấp tham gia, giám sát.

 

Để giúp Chủ tịch nước trong việc bổ nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân, ở mỗi cấp đều có Hội đồng tuyển chọn thẩm phán nhân dân tối cao, Toà án quân sự Trung ương và Hội đồng tuyển chọn thẩm phán Toà án nhân dân, thành phố trực thuộc trung ương, thẩm phán toà án quân sự quân khu và tương đương, thẩm phán Toà án quân sự khu vực; ở các tỉnh, thành phố thuộc tỉnh thành lập Hội đồng tuyển chọn thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã. Thành phần chức năng , nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán Toà án nhân dân các cấp được quy định tại các điều 21, 23 của Pháp lệnh về thẩm phán và hội thẩm Toà án nhân dân. Thành phần của hội đồng tuyển chọn thẩm phán cũng đã quy định cụ thê tại Thông tư số 05/TTLN của Liên ngành Toà án NDTC, Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh về thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Việc quy định thành phần như vậy nó thể hiện tính dân chủ, khách quan sự tham gia của các cơ quan, tổ chức xã hội, đoàn thể và của tầng lớp nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua người đại diện trong việc tuyển chọn ra người xứng đáng giữ cán cân công lý. Mặt khác, quy định việc này cũng xác định vai trò và trách nhiệm của các cơ quan tham gia Hội đồng tuyển chọn thẩm phán, cụ thể là Toà án nhân dân tối cao, Toà án quân sự trung ương, Uỷ ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hội luật gia Việt Nam đối với thẩm phán cấp tỉnh; Toà án nhân dân tỉnh, Hội đồng nhân dân tỉnh, Hội luật gia tỉnh, Uỷ ban mặt trận tổ quốc tỉnh đối với thẩm phán cấp huyện.

 

Công tác bổ nhiệm thẩm phán không nằm ngoài cán bộ của đảng, theo phân cấp quản lý cán bộ của đảng hiện nay thì tỉnh uỷ và thành uỷ chỉ có ý kiến đối với chánh án, phó chánh án cấp tỉnh nhưng đối với cán bộ cơ quan Toà án mang tính đặc thù là chỉ có thẩm phán mới được xét xử các vụ án, do vậy không chỉ chánh án, phó chánh án mà cả thẩm phán đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm nên việc chuẩn bị nhân sự để đưa ra Hội đồng tuyển chọn thẩm phán cần được sự lãnh đạo chặt chẽ của đảng. Ngày 18/3/1994, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 34/CT-TW về sự lãnh đạo của Đảng đối với việc tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân, thẩm phán toà quân sự các cấp. Theo yêu cầu của Chỉ thị thì hồ sơ đề nghị bổ nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện phải do huyện uỷ, quận uỷ… chỉ đạo lập và có ý kiến; đối với thẩm phán Toà án nhân dân cáp tỉnh phải có ý kiến của tỉnh uỷ, thành uỷ; ý kiến của Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao, Đảng uỷ quân sự Trung ương đối với Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, thẩm phán Toà án quân sự trung ương.

 

Thông tư 02/MTTW ngày 19/6/1998 của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ đạo Uỷ ban mặt trận tổ quốc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tham gia vào quá trình tuyển chọn thẩm phán.

 

Có thể tóm tắt quy trình bổ nhiệm thẩm phán theo quy định hiện hành như sau:

 

- Đối với thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, Ban cán sự đảng, Sở tư pháp , Toà án nhân dân tỉnh cùng huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ thống nhất danh sách, hồ sơ đề nghị trình hội đồng tuyển chọn thẩm phán cấp huyện. Đối với thẩm phán cấp tỉnh, Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao cùng tỉnh uỷ, thành uỷ thống nhất danh sách, hồ sơ trình Hội đồng tuyển chọn thẩm phán cấp tỉnh xét chọn.

 

- Hội đồng tuyển chọn thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Hội đồng tuyển chọn thẩm phán cấp tỉnh trên cơ sở các quy định của pháp luật đối với tiêu chuẩn của thẩm phán, xét chọn những người có đủ năng lực, trình độ chuyên môn đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán đối với với các thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quân sự quân khu và tương đương, thẩm phán Toà án quân sự khu vực . Đối với thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố tỉnh do Hội đồng tuyển chọn thẩm phán cấp huyện xét chọn, đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp thống nhất Chánh án Toà án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm.

 

- Chủ tịch nước xem xét đề nghị bổ nhiệm thẩm phán, ra quyết định bổ nhiệm.

 

Chế định bổ nhiệm thẩm phán đảm bảo cho Nhà nước lựa chọn được người có đủ điều kiện về trình độ chuyên môn nghẹp vụ pháp lý thực hiện chức năng xét xử của Toà án. Mặt khác thẩm phán được bổ nhiệm sẽ yên tâm công tác, có điều kiện tích luỹ kinh nghiệm xét xử, nâng cao trình độ chuyên môn và trách nhiệm cá nhân, đồng thời xác định các cơ quan đảng, Nhà nước có trách nhiệm trong việc thực hiện chế định này.

 

2.2. Trong việc thực hiện miễn nhiệm và cách chức thẩm phán:

 

Song song với chế định bổ nhiệm là chế định miễn nhiệm, cách chức thẩm phán cũng được luật tổ chức Toà án nhân dân và Pháp lệnh về thẩm phán quy định cụ thể. Việc miễn nhiệm, cách chức thẩm phán do Chủ tịch nước quyết định và cũng phải qua một trình tự, thủ tục giống như trình tự, thủ tục bổ nhiệm thẩm phán (điều này cũng có ý nghĩa đều phải có ý kiến của cấp uỷ đảng và các cơ quan như nêu ở phần bổ nhiệm).

 

2.3. Trong việc thuyên chuyển thẩm phán:

 

Theo quy định tại Điều 15 Pháp lệnh thẩm phán thì việc thuyên chuyển thẩm phán từ Toà án này đến Toà án khác cùng cấp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện sau khi thống nhất với Chánh ans Toà án nhân dân tối cao. Quy định là như vậy nhưng trên thực tế thì việc thuyên chuyển thẩm phán cũng phải theo trình tự chặt chẽ và phân biệt 2 trường hợp sau:

 

- Thuyên chuyển tạm thời có thời hạn do yêu cầu tăng cường hỗ trợ xét xử giữa Toà án cùng cấp thì thủ tục cần có tờ trình của Giám đốc Sở tư pháp có sự thống nhất của Chánh án Toà án tỉnh trên cơ sở ý kiến đồng ý của cấp uỷ nơi đi, nơi đến.

 

- Thuyên chuyển hẳn (không thời hạn) do yêu cầu tổ chức hoặc theo nguyện vọng của của thẩm phán thì ngoài thủ tục trên còn phải có đơn của thẩm phán (nếu xin chuyển theo nguyện vọng); phải có sự thống nhất của Chánh án Toà án tối cao.

 

II/ Một số kiến nghị để nâng cao hiệu lực quản lý - xây dựng đội ngũ thẩm phán Toà án địa phương trong sạch vững mạnh.

 

Pháp lệnh về thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân (Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm nhân dân), ban hành ngày 14/5/1993 với những quy định rất cụ thể và chặt chẽ về tiêu chuẩn thẩm phán và quy trình bổ nhiệm thẩm phán đã thể hiện rõ rệt so với chế định bầu cử thẩm phán trước đây. Với những kết quả tuyển chọn bổ nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân địa phương như phân tích ở trên cho thấy đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân địa phương chẳng những được tăng lên về số lượng mà về trình độ chuyên môn, học vấn cũng được nâng lên, từng bước tiêu chuẩn hoá, chính quy hoá đội ngũ thẩm phán. Việc đảng và Nhà nước phân cấp trách nhiệm cho các cơ quan đảng và Nhà nước phối hợp trong việc quản lý thẩm phán là điều rất cần thiết, nhằm đảm bảo chặt chẽ, với mục đích cuối cùng là xây dựng đội ngũ thẩm phán trong sạch, vững mạnh. Tuy nhiên, qúa trình thực hiện vẫn còn nhiều vướng mắc chưa phù hợp, thậm trí có nơi, có lúc thiếu tính nhanh nhạy gây nên sự chậm chễ không đáng có trong công tác tổ chức cán bộ, không đáp ứng được yêu cầu quản lý trong tình hình mới. Để nâng cao hiệu lực của công tác này chúng tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau:

 

1. Về phân cấp quản lý thẩm phán

 

Nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, cũng như việc cấp uỷ Đảng tham gia trong quá trình quản lý thẩm phán là hoàn toàn đúng đường lối công tác tổ chức cán bộ của Đảng ta nhưng cần phải có sự phân định ranh giới để tránh trùng lặp hoặc cản trở công việc chung. Thực tiễn nhiệm kỳ đầu tiên thực hiện chế định bổ nhiệm thẩm phán cho thấy: so với chế định bầu cử thẩm phán trước đây thì chế định bổ nhiệm thẩm phán là một bước tiến bộ đáng kể, tiêu chuẩn thẩm phán được quy định cụ thể, sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng các cấp và sự phối hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm được quy định chặt chẽ, nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều bất cập chồng chéo, thiếu thông thoáng. Đặc biệt là ý kiến của cấp uỷ được đặt lên vị trí hàng đầu, nếu không có sự giới thiệu hay sự đồng ý của cấp uỷ sở tại, cơ quan quản lý cũng phải bó tay không thể quyết định theo ý chí của mình được. Theo chúng tôi Đảng lãnh đạo bằng quan điểm, đường lối cán bộ trên cơ sở chức danh tiêu chuẩn đã quy định còn con người cụ thể nên để cho cơ quan quản lý chịu trách nhiệm, làm như vậy vừa đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng vừa đúng nguyên tắc quản lý cán bộ.

 

Về sự tham gia của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc trong quá trình bổ nhiệm thẩm phán như hướng dẫn tại Thông tư 02/MTTW ngày 10/6/1998 có những điểm chưa phù hợp. Tại công văn số 544/TP-QLTA, ngày 21/4/1999 Bộ tư pháp đã trả lời ý kiến hỏi của các địa phương về vấn đề này như sau: Việc Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xuống tìm hiểu sự tín nhiệm đối với người được giới thiệu bổ nhiệm làm thẩm phán là ót, để khi tham gia tuyển chọn được chính xác song pháp luật hiện hành không quy định việc gửi hồ sơ bổ nhiệm thẩm phán cho Uỷ ban mặt trận tổ quốc. (Hồ sơ chỉ gửi cho các thành viên Hội đồng tuyển chọn trước phiên họp của hội đồng).

 

Việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm ở tổ dân cư, nơi người được giới thiệu bổ nhiệm thẩm phán cư trú hướng dẫn của Thông tư trên cũng chưa phù hợp và cũng mới chỉ thực hiện đối với Thẩm phán tối cao và thẩm phán tỉnh ở một vài địa phương chưa thực hiện được đối với Thẩm phán huyện. Theo chúng tôi không nên tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với tất cả những người được giới thiệu bổ nhiệm thẩm phán tối cao và thẩm phán tỉnh ở một vài địa phương chưa thực hiện được đối với thẩm phán huyện. Theo chúng tôi không nên tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với tất cả những người được giới thiệu bổ nhiệm thẩm phán và với chức năng nhiệm vụ của mình thông qua các kênh thông tin của quần chúng, với tư cách là thành viên của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán, Mặt trận Tổ quốc phát hiện những vấn đề vẫn phải xác minh làm rõ đối với những người được giới thiệu thì phản ánh với Hội đồng tuyển chọn. (người tham mưu giúp việc là cơ quan quản lý trực tiếp) để kiểm tra xác minh và có kết luận cụ thể từng trường hợp…

 

2. Về Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán:

 

Thành phần Hội đồng tuyển chọn bổ nhiệm thẩm phán hiện nay chưa phù hợp, theo chúng tôi thì cần quy định có thêm đại diện cơ quan tổ chức Đảng - chính quyền và một số thẩm phán cấp trên. Những thành phần này đều hiểu biết về hoạt động xét xử của thẩm phán và tiêu chuẩn của thẩm phán. Không nên có thành phần Hội luật gia vì thực chất hoạt động của Hội không liên quan nhiều đến công tác Toà án, ít am hiểu về thẩm phán.

 

3. Về tiêu chuẩn thẩm phán:

 

Tại điều 4 Pháp lệnh về thẩm phán và Hội thẩm nhân dân quy định về tiêu chuẩn chung cho thẩm phán "có trình độ cao đẳng Toà án hoặc đại học luật" đến nay là không phù hợp vì thẩm phán có bằng "cao đẳng Toà án" hiện nay hầu như không còn nữa. Số thẩm phán này đã học và đổi bằng cao đẳng Toà án lấy bằng đại học luật chính quy. Nhiều người có bằng chính quy trên đại học. Do vậy nên quy định tiêu chuẩn chung là "có bằng đại học luật trở lên". Về tiêu chuẩn cụ thể của thẩm phán Toà án nhân dân các cấp nên quy định theo hướng đã có thâm niên làm thẩm phán cấp dưới, có kinh nghiệm và xét xử tốt mới được bổ nhiệm thẩm phán cấp trên, chẳng hạn: "đã là thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện ít nhất 5 năm, có năng lực xét xử tốt… thì có thể bổ nhiệm thẩm phán cấp tỉnh; đã là thẩm phán cấp tỉnh ít nhất 5 năm có thể được bổ nhiệm thẩm phán tối cao". Quy định như vậy phù hợp với Nghị quyết Hội nghị trung ương Đảng lần thứ III (khoá VIII) về công tác cán bộ đồng thời nâng cao uy tín nghề nghiệp của thẩm phán, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ xét xử đối với thẩm phán, là phương thức củng cố niềm tin giữa đội ngũ thẩm phán với nhau trong quan hệ tố tụng.

 

4. Nhiệm kỳ của thẩm phán:

 

Theo Pháp lệnh về cán bộ công chức thì thẩm phán là một chức danh nghề nghiệp chứ không phải chức vụ và đã là chức danh công chức thì chức danh đó gắn bó suốt cuộc đời người công chức. Với các tiêu chuẩn cụ thể và những quy trình thủ tục bổ nhiệm chặt chẽ được quy định tại Pháp lệnh về thẩm phán và Hội thẩm nhân dân nên chăng chỉ cần bổ nhiệm một lần đối với chức danh này (có thể so sánh thẩm phán với Kiểm sát viên, chấp hành viên. Những chức danh chỉ bổ nhiệm một lần với các thủ tục trình tự đơn giản hơn nhiều). Trong quá trình tác nghiệp nếu thẩm phán nào không chịu rèn luyện sẽ bị đào thải bằng các hình thức kỷ luật hành chính Nhà nước đã được quy định trong pháp lệnh về cán bộ công chức. Còn nếu vẫn giữ nguyên nhiệm kỳ thẩm phán như hiện nay thì cần có sự phân cấp trong việc bổ nhiệm thẩm phán. Hiện nay Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán cấp huyện; thẩm phán cấp tỉnh; thẩm phán Toà án nhân dân. Thực tế cho thấy quy trình chuẩn bị hồ sơ, tuyển chọn các Hội đồng tuyển chọn đã làm kỹ, chặt chẽ trước khi trình Chủ tịch nước đã ra quyết định, vì tất cả hồ sơ dồn về Văn phòng Chủ tịch nước nên công việc quá nhiều. Nên chăng cần nghiên cứu khả năng phân cấp trong việc bổ nhiệm thẩm phán theo hướng Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán cấp tỉnh trở lên; uỷ quyền cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện và tương đương.

 

5. Về xử lý kỷ luật thẩm phán:

 

Là một công chức, nhưng khi xử lý kỷ luật thẩm phán thì lại phải vận dung hai Pháp lệnh, mà quy định của hai Pháp lệnh này lại chồng chéo, rất khó cho người vận dụng. Cụ thể là tại các điều từ 20-23 Pháp lệnh về thẩm phán và hội thẩm nhân dân quy định về việc cách chức thẩm phán. Tại điều 39 Pháp lệnh cán bộ, công chức thì các hình thức kỷ luật công chức gồm: khiển trách, cảnh cáo hạ bậc lương, hạ ngạch lương; cách chức; buộc thôi việc. Ngoài ra, tại Điều 9 Nghị định 97/NĐ-CP, ngày 17/11/1998 thì: "Đối với mỗi hành vi vi phạm kỷ luật chỉ bị xử lý một cách hình thức kỷ luật". Bởi vậy trên thực tế nhiều trường hợp sai phạm của thẩm phán đến mức không còn đủ tư cách trong ngành Toà án nhưng trước khi xử lý kỷ luật thì phải làm thủ tục cách chức thẩm phán, mà đã cách chức rồi thì không được xử lý hình thức kỷ luật nào nữa theo Pháp lệnh cán bộ công chức. Do vậy, chúng tôi đề nghị không nên quy định hình thức cách chức thẩm phán mà nên quy định hình thức bãi nhiệm hay một hình thức miễn nhiệm nào đó để xử lý trường hợp thẩm phán vi phạm để phân biệt với hình thức miễn nhiệm vì các lý do khác. Sau khi bãi nhiệm sẽ xét kỷ luật hành chính theo Điều 39 Pháp lệnh công chức.

 

Một vấn đề nữa, trong khi xem xét kỷ luật thẩm phán là việc tạm đình chỉ công tác đối với người vi phạm kỷ luật. Hiện nay mới chỉ có hướng dẫn về việc tạm đình chỉ công tác đối với chánh án, Phó chánh án, thẩm phán có hành vi vi phạm pháp luật, đang bị điều tra để tạo điều kiện cho cơ quan điều tra tiến hành xác minh làm rõ hành vi vi phạm pháp luật. Còn đối với các trường hợp vi phạm đã rõ, không đủ tiêu chuẩn thẩm phán cần phải cách chức thẩm phán ngay. Nhưng để ra được quyết định cách chức thẩm phán phải có thời gian để tiến hành các thủ tục để thẩm phán tự kiểm điểm. Hội đồng kỷ luật xem xét, Hội đồng tuyển chọn thẩm phán làm thủ tục trình hồ sơ đề nghị lên Chủ tịch nước… những trường hợp này cần được hướng dẫn cụ thể hơn và cần thiết ra quyết định tạm đình chỉ công tác xét xử.

 

6. Về việc miễn nhiệm thẩm phán:

 

Hiện nay, trong mọi trường hợp khi Thẩm phán có nguyện vọng xin chuyển ngành vì lý do cá nhân hoặc khi có nhu cầu điều động của tổ chức đều phải làm thủ tục miễn nhiệm. Trên thực tế có những trường hợp do yêu cầu của công tác tổ chức cán bộ, Thẩm phán (thường là Chánh án, Phó chánh án) được điều động hoặc bầu cử giữ chức vụ cao trong các cơ quan Đảng và chính quyền (ví dụ như bầu cử Bí thư; Chủ tịch UBND; Chủ tịch HĐND…). Khi đã trúng cử và sang nhận nhiệm vụ mới có quyết định miễn nhiệm. Như vậy miễn nhiệm là hình thức và không phù hợp. Chúng tôi đề nghị ngoài hình thức miễn nhiệm như hiện nay cần quy định thêm hình thức đương nhiên miễn nhiệm đối với những trường hợp do yêu cầu của tổ chức cần điều động hoặc do trúng cử giữ chức vụ cao hơn.

 

7. Về việc thuyên chuyển Thẩm phán:

 

Tại điểm D công văn 391/TP-QLTA, ngày 25/3/1999 của Bộ Tư pháp đã phân biệt 2 trường hợp thuyên chuyển Thẩm phán có thời hạn (thuyên chuyển tạm thời) và thuyên chuyển Thẩm phán không thời hạn (thuyên chuyển hẳn) với các thủ tục đơn giản hơn nhiều so với các hướng dẫn trước đây nhưng vẫn phải trải qua nhiều công đoạn trao đổi thống nhất bằng văn bản. ít nhất là có 6 dấu đối với trường hợp thuyên chuyển tạm thời và 8 dấu đối với thuyên chuyển hẳn, phải mất thời gian nhất định mới có được quyết định, bởi vậy không đáp ứng được yêu cầu tăng cường hỗ trợ cho công tác xét xử. Chúng tôi đề nghị cần rút gọn những thủ tục không cần thiết, có thể áp dụng như việc thuyên chuyển Thẩm phán Toà án tối cao tăng cường hỗ trợ xét xử giữa 3 toà phúc thẩm hiện nay, nghĩa là căn cứ vào yêu cầu xét xử giữa 3 toà phúc thẩm hiện nay, nghĩa là căn cứ vào yêu cầu xét xử giữa các Toà án địa phương, đặc biệt là những nơi thiếu nhiều Thẩm phán. Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định thuyên chuyển Thẩm phán cùng cấp theo quy định tại Điều 15 Pháp lệnh đồng thời gửi quyết định đó tới cấp uỷ địa phương nơi đi và nơi đến để phối hợp thực hiện.

 

8. Vấn đề nhận chức, thuyên chuyển của Thẩm phán:

 

Ngay từ những năm đầu mới giành được chính quyền, ở nước ta đã có quyết định về vấn đề này. Tại Sắc lệnh 13/SL, ngày 24/1/1946 thì khi được bổ nhiệm Thẩm phán, khi chuyển ngạch từ Thẩm phán cấp dưới lên cấp trên, khi nhận chức chánh án, Chưởng lý thì các Thẩm phán phải tuyên thệ.

 

Hiện nay, do chưa quy định về nhậm chức và tuyên thệ của Thẩm phán, do vậy mà khi có quyết định bổ nhiệm Thẩm phán thì mỗi địa phương tuỳ theo điều kiện của mình, tổ chức buổi lễ trao quyết định với những hình thức rất khác nhau. Theo chúng tôi cần có quy định về nhậm chức và tuyên thệ đối với Thẩm phán. Điều này không chỉ biểu hiện sự trang trọng khi được trao quyết định bổ nhiệm của Chủ tịch nước đối với Thẩm phán mà còn là một sự kiện pháp lý quan trọng của người Thẩm phán, họ được trao trọng trách cao quý: nhân danh Nhà nước cầm cân nảy mực. Trong đời công cũng như đời tư, các Thẩm phán phải xét xử đúng mức, biết tự trọng để giữ thanh danh và phẩm chất của một vị quan toà.

 

9. Về chế độ chính sách đối với Thẩm phán:

 

Do đặc thù của công tác xét xử nên ngoài các chế độ như đối với các công chức Nhà nước nói chung, Thẩm phán còn được hưởng một chế độ chính sách riêng như được cấp trang phục xét xử, được hưởng chế độ phụ cấp phiên toà… Nhưng các chế độ này không giải quyết được căn bản đời sống khó khăn của Thẩm phán cũng như đặc thù nghề nghiệp xét xử. Thang bảng lương Thẩm phán có cao hơn một số ngạch hành chính tương đương, nhưng điều này cũng chỉ đúng với Thẩm phán tối cao, Thẩm phán cấp tỉnh, còn đối với Thẩm phán cấp huyện thì hệ số lương còn qúa thấp, thậm trí còn thấp hơn cả ngạch lương chuyên viên (vì nguồn bổ nhiệm Thẩm phán cấp huyện là thư ký, chuyên viên có thâm niên công tác pháp luật là 4 năm mà hệ số khởi điểm chỉ là 2,16). Đồng lương trên thực tế không đủ nuôi Thẩm phán và gia đình. Thẩm phán lại bị cấm không được làm dịch vụ, buôn bán… Điều này dễ làm phát sinh tiêu cực đối với người không vững vàng. Hiện tượng Thẩm phán xin thôi việc do hoàn cảnh kinh tế khó khăn không còn là cá biệt. phân tích như vậy, không phải là không đặt Thẩm phán trong hoàn cảnh chung của đất nước, nhưng qua tham khảo, tìm hiểu về lương của Thẩm phán ở một số nước trên thế giới thì lương của Thẩm phán so với các công chức khác là khá cao, ít nhất là gấp 3-5 lần thu nhập bình quân tối thiểu của công dân nước đó. Chúng tôi đề nghị trong quá trình nghiên cứu cải tiến tiền lương cần có thang bảng lương riêng với mức cao cho phép đối với Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp, trong đó đặc biệt lưu ý tới việc nâng hệ số mức lương đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện. Người trực tiếp giải quyết hầu hết các loại án, nhất là án dân sự, hôn nhân gia đình và sắp tới theo hướng tăng thẩm quyền xét xử án hình sự đối với cấp huyện.

 

Gần đây Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến vấn đề "dưỡng liêm" đối với Thẩm phán và một số chức danh Thẩm phán khác. Trong khi chờ đợi có thang bảng lương đối với Thẩm phán. Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ chủ trì dự thảo quyết định trình Thủ tướng về chế độ phụ cấp đối với Thẩm phán, điều tra viên, thư ký Toà án … chế độ phụ cấp này được ban hành sẽ có tác dụng động viên rất lớn đối với Thẩm phán, thư ký yên tâm phấn khởi công tác đồng thời nêu cao tinh thần trách nhiệm của mình trước nhiệm vụ được giao.

 

10. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với đội ngũ Thẩm phán:

 

Cần được tiến hành thường xuyên: sau nhiệm kỳ đầu tiên đa số Thẩm phán "nợ" tiêu chuẩn chuyên môn đã được học tập trả "nợ". Số còn lại không nhiều và chủ yếu là Thẩm phán cấp huyện đang học năm thứ 4 Đại học tại chức, có điều kiện để thanh toán "nợ" trong thời gian ngắn tới. Vấn đề còn lại là cần có kế hoạch đào tạo cụ thể chuyên sâu đối với Thẩm phán xét xử từng loại án: hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động, hôn nhân, gia đình… khuyến khích Thẩm phán học ngoại ngữ, vi tính, trên đại học…

 

Việc đào tạo nguồn Thẩm phán, tuy mới được triển khai, nhưng với kết quả đào tạo 2 khoá Thẩm phán đầu tiên với hơn 200 học viên (đã tốt nghiệp) và khoá III vưà khai giảng với hơn 100 học viên đã khẳng định mô hình đào tạo và là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp. Các học viên tốt nghiệp các khoá đào tạo này là nguồn bổ sung chủ yếu cho đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương còn thiếu hiện nay.

 

11. Thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức và sự phấn đấu tu dưỡng của Thẩm phán:

 

Tiếp tục nghiên cứu và đưa ra được quy chế đạo đức nghề nghiệp của người Thẩm phán. Đấu tranh chống tham nhũng, chống các biểu hiện tiêu cực, xây dựng đội ngũ Thẩm phán trong sạch vững mạnh là yêu cầu bức thiết trong việc đổi mới hệ thống các cơ quan tư pháp, củng cố kiện toàn đội ngũ cán bộ của ngành.

 

đội ngũ Chấp hành viên các cơ quan thi hành án

dân sự, thực trạng và kiến nghị

Nguyễn Khắc Hiếu- Phó cục trưởng

Cục quản lý thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp

 

I/ Đặc vấn đề:

 

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, cùng với việc quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức các cơ quan tư pháp, Sắc lệnh số 13, ngày 24/1/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà quy định Ban tư pháp xã có quyền "thi hành những mệnh lệnh của Thẩm phán cấp trên" bao gồm các Bản án, quyết định của Toà án. Sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà quy định: "trong các xã, thị xã, hoặc khu phố, Chủ tịch, Phó chủ tịch và thư ký đều chịu trách nhiệm thi hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của các Toà án. Bản án ấy sẽ tuỳ từng việc, chỉ định một nhân viên để giao cho việc thi hành lệnh, mệnh lệnh hoặc án"; "ở những nơi nào đã có Thừa phát lại riêng thì đương sự có quyền nhờ Thừa phát lại riêng thi hành mệnh lệnh".

 

Có thể nói, ngay từ đầu những năm đầu của chính quyền cách mạng, mặc dù phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, song trong các hoạt động của cơ quan tư pháp Chính phủ vẫn không ngừng quan tâm đến việc xây dựng, kiện toàn tổ chức thi hành án dân sự.

 

Đến năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về "cải cách bộ máy tư pháp và tố tụng", theo đó:"Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bôì hoàn các án hộ, mà chính Toà án huyện hay Toà án trên đã tuyên" (Việt Nam quốc dân công báo năm 1950).

 

Năm 1960, Luật tổ chức Toà án được ban hành, theo đó quy định: "Tại các Toà án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án, quyết định hình sự". Ngày 13/10/1972, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã ra quyết định số 186/TC về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên. Tên gọi Chấp hành viên ra đời và tồn tại từ đó cho đến nay.

 

Đến năm 1989, pháp lệnh thi hành án dân sự được ban hành. Đây là văn bản pháp lý quan trọng tạo cơ sở cho việc tăng cường, hoàn thiện về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, Quy chế Chấp hành viên đã được ban hành kèm theo Nghị định số 68/HĐBÅI THưấNG ngày 06/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo pháp lệnh thi hành án và quy chế Chấp hành viên, thì chỉ có Chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Toà án. Với việc ban hành pháp lệnh thi hành án, cơ chế thi hành án đã có bước thay đổi cơ bản.

 

Tuy nhiên, mặc dù cơ chế thi hành án đã từng bước được hoàn thiện, đội ngũ cán bộ thi hành án ngày càng được củng cố và tăng cường, nhưng sự chỉ đạo về thi hành án vẫn chưa được sự thay đổi phù hợp. Chính vì vây, pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 được ban hành thay thế Pháp lệnh thi hành án năm 1989 là một yêu cầu khách quan, phù hợp với quá trình thay đổi mới đất nước và quá trình cải cách tư pháp. Đến giai đoạn này công tác thi hành án đã được Nhà nước quan tâm và đánh giá cao vai trò quan trọng của công tác thi hành án dân sự. Nhờ đó đã tạo ra những sự chuyển biến rõ rệt cả về tổ chức, cũng như hoạt động thi hành án dân sự. Theo thống kê chưa đầy đủ, chỉ tích từ năm 1995, số lượng các vụ việc mà các cơ quan thi hành án thụ lý giải quyết ngày càng tăng (lấy số tròn):

 

- Năm 1995, tổng số việc các cơ quan thi hành án phải thụ lý thi hành là 132.000 việc, trong đó có 104.000 việc có điều kiện thi hành, chiếm tỷ lệ 79%, đã thi hành được 91.000 việc, đạt tỷ lệ 90%, số việc không có điều kiện thi hành là 28.000 việc, chiếm 21%.

 

- Năm 1996, tổng số việc phải 153.000, trong đó có 109.000 việc có điều kiện thi hành, chiếm tỷ lệ 76%, đã thi hành được 165.000 việc, đạt tỷ lệ 90%.

 

- Năm 1998, tổng số việc phải thi hành là 252.000 việc, trong đó có 182.000 việc có điều kiện thi hành, chiếm tỷ lệ 72,22%, đã thi hành được 160.000 việc, đạt tỷ lệ 90%, về tiền đã thu được 417 tỷ đồng, tăng hơn so với năm 1997 là 148 tỷ đồng…

 

Kết quả trên đây cho thấy trong những năm gần đây số vụ việc phải thi hành ngày càng gia tăng, đồng thời kết quả cơ quan thi hành án đã giải quyết được cũng ngày càng cao hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì hiện nay tổ chức và hoạt động thi hành còn rất nhiều vấn đề bất cập, nhất là những quy định có liên quan đến đội ngũ Chấp hành viên.

 

II/ Thực trạng về đội ngũ Chấp hành viên.

 

1. Tính đặc thù nghề nghiệp trong hoạt động thi hành án dân sự:

 

Qua thực tiễn cho thấy, hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động mang tính đặc thù nghề nghiệp rất cao. Tính đặc thù này được thể hiện ở chỗ - thông qua hoạt động thi hành án, các bản án, quyết định của Toà án được thi hành trên thực tế, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện các yêu cầu trên, hàng năm cơ quan thi hành án có nhiệm vụ phải đưa ra và thi hành các bản án, quyết định của Toà án về dân sự, kinh tế, hành chính, lao động, phá sản doanh nghiệp, quyết định của trọng tài quốc tế Việt Nam… Ngoài việc hàng năm các cơ quan thi hành án phải thu và thu được cho Nhà nước, tập thê, cá nhân công dân hàng nghìn tỷ đồng thì một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các cơ quan này là đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, vì hoạt động thi hành án là một trong những giai đoạn hết sức quan trọng quyết định một bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực có được thi hành trên thực tế hay không? Thực tiễn cho thấy có nhiều trường hợp khi Toà án xét xử, đương sự không phản đối nhưng đến giai đoạn thi hành án thì đương sự chống đối hết sức quyết liệt (không thi hành án). Điển hình có những vụ đương sự tự thiêu để chống đối việc thi hành án (vụ ở Kim Sơn - Ninh Bình); hoặc có vụ đương sự đặt mìn để phá huỷ tài sản, xuyên tạc sự thật làm mất uy tín của cơ quan thi hành án, đe doạ tính mạng của cán bộ thi hành án, hoặc nhân thân của những người trực tiếp thi hành công vụ; dùng vũ lực để tấn công người thi hành công vụ, như vụ thi hành án ở Đồng Phú tỉnh Sông Bé (nay là tỉnh Bình Phước); vụ Tân Thành - tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu… Theo số liệu thống kê thì chỉ riêng năm 1996 cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế 2.334 vụ việc. Lý giải cho những trường hợp chống đối của người phải thi hành án có thể thấy hoạt động thi hành án trực tiếp đụng chạm đến tài sản, quyền lợi của các bên đương sự. Bên cạnh đó, đặc thù khá rõ nét của hoạt động thi hành án dân sự là mặc dù bản án tuyên đúng, nhưng do người phải thi hành án không có điều kiện thi hành nên việc thi hành án thường kéo dài trong nhiều tháng, thậm trí trong nhiều năm.

 

Về phía cơ quan thi hành án để hoàn thành nhiệm vụ thì cán bộ thi hành án phải thường xuyên kiểm tra theo doĩ để nắm bắt tình hình, khả năng, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, buộc họ phải thi hành. Chính trong quá trình thi hành công vụ, đã không ít trường hợp cán bộ thi hành án khi đi điều tra, xác minh, lập kế hoạch thi hành án, hoặc khi tổ chức cưỡng chế thi hành án thì gặp phải sự chống đối của đương sự, trong khi đó phương tiện bảo vệ hầu như không có gì, nhiều trường hợp cán bộ, Chấp hành viên bị đương sự hành hung, gây thương tích phải đi cấp cứu…

 

Bên cạnh đó trong hoạt động thi hành án dân sự không cho phép các cơ quan thi hành án có sai sót, vì nếu sai sót sẽ rất khó, thậm chí có nhiều trường hợp không thể khắc phục được.

 

Với những đặc thù như vậy, đòi hỏi Chấp hành viên không chỉ phải được đào tạo cơ bản về lý luận pháp lý mà còn phải được đào tạo chuyên sâu về kỹ năng nghề nghiệp, kinh nghiệm thực tiễn…

 

Chính với tính chất đặc thù nghề nghiệp như vậy nên hoạt động thi hành án có tác động rất lớn đến mọi mặt tổ chức cũng như hoạt động của cán bộ thi hành án nói chung và đội ngũ Chấp hành viên nói riêng. Những yếu tố đó là cho cán bộ ngại (sợ) vào làm việc ở cơ quan thi hành án, hoặc nếu họ đã vào cơ quan thi hành án thì rất nhiều trường hợp tìm cách xin thuyên chuyển công tác sang các cơ quan khác. Theo thống kê, chỉ riêng 9 tháng đầu năm 1996 có 76 trường hợp giảm biên chế ở cơ quan thi hành án thì hầu hết là cán bộ xin chuyển công tác khác. Trước tình trạng Bộ Tư pháp đã phải có công văn không cho phép cán bộ thuyên chuyển công tác mà không có lý do chính đáng. Sau khi có công văn của Bộ Tư pháp về việc này thì cán bộ lại chuyển sang hình thức xin thôi việc để có điều kiện chuyển công tác khác. 9 tháng đầu năm 1998 có 88 trường hợp giảm biên chế thì có 34 trường hợp cán bộ xin nghỉ thôi việc và chuyển công tác; năm 1999 có 101 trường hợp giảm biên chế thì có 68 trường hợp xin thôi việc và chuyển công tác . Một số cán bộ khác thì sa sút phẩm chất đạo đức dẫn đến vi phạm kỷ luật làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước …

 

2. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên:

 

Là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Toà án, thi hành nhiệm vụ, Chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ, nên Chấp hành viên có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo tính thực thi của pháp luật. Bởi vì, phán quyết của Toà án nhân danh Nhà nước sẽ chỉ là những quyết định trên giấy nếu không được tổ chức thi hành hoặc thi hành không đâỳ đủ trên thực tế. Hoạt động thi hành án kém hiệu quả sẽ gây dư luận xấu, ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, theo quy định tại điều 13 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, Chấp hành viên có nhiệm vụ, quyền hạn như: triệu tập đương sự người có liên quan để thực hiện việc thi hành án; quy định cho người phải thi hành án một thời hạn để tự nguyện thi hành án; áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật; yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp lý tang vật, tài sản và những việc khác có liên quan đến thi hành án; đề nghị thủ trưởng cơ quan thi hành án ra các quyết định về thi hành án; trực tiếp phạt tiền những người cố tình không thi hành án; yêu cầu Toà án đã ra bản án, quyết định giải thích những điểm chưa rõ để thi hành án; lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành án và đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm. Mặt khác, trong qúa trình thi hành công vụ Chấp hành viên có quyền kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định của Toà án nếu thấy có sai lầm.

 

Mặt khác, để nâng cao vai trò, trách nhiệm, Chấp hành viên được cấp trang phục, phù hiệu, thể Chấp hành viên để sử dụng làm nhiệm vụ và được hưởng thang bậc lương riêng. Về trách nhiệm của Chấp hành viên, pháp luật cũng quy định rõ: Chấp hành viên không thi hành đúng bản án, quyết định của Toà án, trì hoãn việc thi hành án, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án trái pháp luật; vi phạm phẩm chất đạo đức của người Chấp hành viên, thì bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chấp hành viên, Chấp hành viên trưởng làm nhiệm vụ trong quân đội do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ quốc phòng.

 

Việc quy định chặt chẽ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Chấp hành viên và quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và chức danh này đã khẳng định được địa vi pháp lý của đội ngũ Chấp hành viên trong tổ chức bộ máy Nhà nước tương xứng với nhiệm vụ được Nhà nước giao phó là: "Bảo đảm thi hành các bản án, quyết định của Toà án".

 

Bên cạnh đó, vấn đề thi hành án dân sự không chỉ là công tác chuyên môn, nghiệp vụ đơn thuần của Chấp hành viên mà còn mang ý nghĩa chính trị - xã hội rộng lớn nhằm đảm bảo cho việc thực hiện tốt công tác thi hành án dân sự. Cùng với việc nỗ lực cố gắng của đội ngũ Chấp hành viên, cán bộ thi hành án, còn đòi hỏi phải có sự quan tâm chỉ đạo của chính quyền địa phương, sự hỗ trợ, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, đơn vị có liên quan và của mỗi công dân. Vì vậy, tại Điều 7 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 quy định:

 

- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện việc tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc thi hành án ở địa phương mình;

 

- Lực lượng cảnh sát nhân dân có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, kịp thời ngăn chặn những hành vi cản trở, chống đối việc cưỡng chế thi hành án theo yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan thi hành án hoặc của Chấp hành viên.

 

- Cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình và công dân có trách nhiệm giúp đỡ, thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên trong việc thi hành án.

 

Đây là những cơ sở pháp lý hết sức quan trọng trong hoạt động của các cơ quan thi hành án, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động của các cơ quan thi hành án nói chung, Chấp hành viên nói riêng còn có rất nhiều bất cập nhất là trong việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên. Ví dụ như: theo quy định tại thông tư 981/TTLN ngày 21/9/1993 của Bộ Tư pháp - Toà án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh thi hành án năm 1993, thế nhưng nếu xét theo quy định của luật thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm thì thẩm quyền này chưa phù hợp và tính hiệu lực pháp lý chưa cao. Vì vậy, cần phải quy định là Thủ trưởng cơ quan thi hành án có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét lại bản án khi có căn cứ xác định bản án, quyết định có sai lầm, trong đó Chấp hành viên chỉ là người phát hiện. Ngoài ra trên thực tế do thẩm quyền của Chấp hành viên bị hạn chế nên trong các hoạt động gặp nhiều khó khăn, nhất là trong việc kiểm tra, xác minh điều kiện về tài sản của người phải thi hành án (có nhiều trường hợp mặc dù Chấp hành viên biết người phải thi hành án có tài sản để thi hành nhưng không có quyền khám xét thân thể, chỗ ở… Đối với Thủ trưởng cơ quan thi hành án, hiện nay theo quy định của pháp luật thhì Phòng thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội thi hành án thuộc Phòng tư pháp, dẫn đến tình trạng, các cơ quan Nhà nước khác thường chỉ xem Phòng thi hành án là một đơn vị thuộc Sở tư pháp, Đội thi hành án là một đơn vị thuộc Phòng tư pháp, nên trong quá trình hoạt động Phòng thi hành án phải thông qua Sở tư pháp, hoạt động của Đội thi hành án phải thông qua Phòng tư pháp. Vì vậy, gây ra nhiều thủ tục lòng vòng khó khăn cho các cơ quan thi hành án, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của các cơ quan này (chưa kể đến việc nhiều nơi cơ quan quản lý can thiệp cả vào công việc nghiệp của cơ quan thi hành án…), vai trò của Thủ trưởng cơ quan thi hành án rất bị hạn chế.

 

3. Số lượng và chất lượng đội ngũ Chấp hành viên cơ quan thi hành án hiện nay:

 

3.1. Số lượng và chất lượng đội ngũ Chấp hành viên cơ quan thi hành án hiện nay.

 

Tính đến ngày 31/12/1999, cả nước có 1.703 Chấp hành viên, Chấp hành viên trưởng (chưa kể số Chấp hành viên của quân đội), trong số đó Chấp hành viên, Chấp hành viên trưởng của các Phòng thi hành án là 284 người; Chấp hành viên, Chấp hành viên trưởng các Đội thi hành án là 1409 người, nếu so với yêu cầu về cơ cấu cán bộ và Chấp hành viên đã được đề ra thì số Chấp hành viên hiện còn thiếu 476 người. Tuy nhiên, nếu so sánh với số Chấp hành viên, Chấp hành viên trưởng khi bàn giao công tác thi hành án của năm 1993 thì số Chấp hành viên hiện nay tăng 1003 người (1703/700); so với năm 1994 số Chấp hành viên tăng 367 người (năm 1994 có 1.336 Chấp hành viên, Chấp hành viên trưởng); so với năm 1995 tăng 188 người (năm 1995 có 1.515 Chấp hành viên, Chấp hành viên trưởng)…

 

Đánh giá về số lượng Chấp hành viên hiện nay cho thấy so với trước đây (khi bàn giao công tác thi hành án) số lượng Chấp hành viên đã tăng lên nhiều, nhưng nếu căn cứ vào yêu cầu thực tế công việc thì số lượng Chấp hành viên vẫn còn có sự bất cập rất lớn. Nếu tính số lượng Chấp hành viên và cán bộ thi hành án như hiện nay thì bình quân một năm mỗi cán bộ phải đảm nhiệm gần 100 việc, còn chỉ tính riêng đối với Chấp hành viên thì một năm bình quân mỗi Chấp hành viên phải thi hành khoảng 200 việc (có nơi 01 Chấp hành viên trong 01 năm có thể phải đảm nhiệm hơn 1000 việc) nên đã dẫn đến tình trạng quá tải công việc ở các cơ quan thi hành án. Việc quá tải này là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng án dân sự tồn đọng như hiện nay (đến năm 1999 tồn đọng là 97.505 việc, chiếm 21,21% lượng án phải thi hành). Mặt khác, nếu so sánh khối lượng công việc của cơ quan thi hành án dân sự với cơ quan Toà án thì mỗi bản án, quyết định của Toà án cũng tương ứng với 01 hoặc nhiều việc của cơ quan thi hành án và công việc ở cơ quan thi hành án không chỉ thi hành trong một tháng, một năm mà có những vụ việc phải thi hành kéo dài trong nhiều năm. Thế nhưng, về số lượng biên chế cán bộ ở cơ quan Toà án nhiều gấp đôi biên chế của cơ quan thi hành án. Điều này thể hiện rõ sự bất cập giữa khối lượng công việc và thực tế biên chế hiện có ở cơ quan thi hành án.

 

3.2. Về đánh giá chất lượng đội ngũ Chấp hành viên:

 

+ Chất lượng về trình độ, chuyên môn nghiệp vụ: trong số 1703 Chấp hành viên thì có 1189 người có trình độ đại học và trên đại học luật (có 02 người có trình độ thạc sỹ luật học); 202 người đang học Đại học luật tại chức (chưa tốt nghiệp, hoặc đã thi tốt nghiệp đại học nhưng đang chờ cấp bằng); 28 người có trình độ Cao đẳng Toà án, Cao đẳng kiểm sát; 104 người có trình độ Trung cấp luật; 09 người có trình độ sơ cấp; 156 người có trình độ Luân huấn đại học luật; 15 người chưa có trình độ nghiệp vụ. Căn cứ vào các số liệu nêu trên cho thấy, đến nay đa số Chấp hành viên, Chấp hành viên trưởng có trình độ đại học và trên đại học đã chiếm một tỷ lệ khá cao; tuy nhiên, so với yêu cầu và tiêu chuẩn, nghiệp vụ Chấp hành viên, thì số cán bộ có trình độ trung cấp pháp lý, sơ cấp pháp lý, chưa có nghiệp vụ vẫn còn nhiều (mặc dù số Chấp hành viên, Chấp hành viên trưởng còn thiếu tiêu chuẩn có trình độ đại học luật chủ yếu tập trung ở các đơn vị thuộc miền núi, vùng sâu, vùng xa và một số đơn vị thuộc đồng bằng Nam bộ).

 

Có thể thấy so với yêu cầu hiện nay và xu thế phát triển và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ Chấp hành viên các cơ quan thi hành án ở nước ta còn thấp. Vì đội ngũ Chấp hành viên chưa đáp ứng đủ, thậm trí có những mặt chưa đáp ứng được các yêu cầu sau:

 

- Do yêu cầu phát triển của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì đòi hỏi đội ngũ công chức nói chung và đội ngũ Chấp hành viên ngày càng phải được tiêu chuẩn hoá theo hướng ngày càng cao.

 

- Đa số đội ngũ Chấp hành viên hiện nay làm việc chủ yếu bằng kinh nghiệm mà chưa thực sự trên cơ sở lý luận, khoa học.

 

- Theo xu thế phát triển thì đội ngũ luật sư không chỉ ngày càng đông về số lượng mà còn cả về chất lượng. Đây thực sự được xem là lực lượng đối nghịch với Chấp hành viên khi họ trở thành người tư vấn pháp lý cho các bên đương sự trong quá trình thi hành án. Mặt khác, trình độ dân trí ngày càng cao, mức độ hiểu biết pháp luật ngày càng sâu sắc, vì vậy dù chỉ có sai sót nhỏ trong quá trình thi hành án cũng sẽ trở thành hết sức phức tạp.

 

- Tính chất của các vụ việc thi hành án ngày càng phức tạp, số tiền, tài sản mà cơ quan thi hành án phải thi hành ngày càng nhiều.

 

- Xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi đội ngũ Chấp hành viên không chỉ nắm được pháp luật trong nước mà còn phải nắm được các nguyên tắc cơ bản trong các quy định của pháp luật quốc tế, cũng như pháp luật của các nước có liên quan.

 

- Nhà nước ta cũng như các nước khác trên thế giới hêt sức coi trọng và đề cao vấn đề quyền con người. Vì vậy, việc Chấp hành viên kho nhân danh Nhà nước để thi hành án đòi hỏi phải hạn chế đến mức tối đa những sai phạm có thể xâm phạm đến quyền và lợi ích của mỗi cá nhân, công dân.

 

+ Chất lượng về tư tưởng, đạo đức, lối sống: với vị trí, chức năng, nhiệm vụ được giao, Chấp hành viên có vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ Pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thế nhưng trên thực tế bên cạnh những Chấp hành viên đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao thì cũng có rất nhiều Chấp hành viên có biểu hiện nhũng nhiễu, gây phiền hà cho đương sự như gợi ý xin tiền bồi dưỡng, tự định ra thời hạn thi hành án trái pháp luật, tiếp đương sự tại nhà riêng, ăn nhậu cùng với đương sự… làm giảm uy tín của nhân dân đối với các cơ quan Nhà nước. Trong năm 1996 ở các cơ quan thi hành án đã xử lý kỷ luật 38 trường hợp (trong đó có 2 trường hợp bị Toà án đưa ra xét xử, cách chức 5 cảnh cáo 22, số còn lại là khiển trách); năm 1997 xử lý kỷ luật 45 trường hợp (trong đó buộc thôi việc 8 người, cách chức 14 Chấp hành viên, số còn lại là cảnh cáo và khiển trách). 9 tháng đầu năm 1998, xử lý 56 trường hợp cán bộ vi phạm kỷ luật (trong đó buộc thôi việc 6, cách chức 18, số còn lại là khiển trách và cảnh cáo)…Qua việc xử lý vi phạm cho thấy từ năm 1996 đến nay tình trạng cán bộ thi hành án nói chung và đội ngũ Chấp hành viên nói riêng vi phạm kỷ luật không có xu hướng giảm mà có phần gia tăng. Việc vi phạm một phần do công tác kiểm tra của cơ quan quản lý chưa thường xuyên; một số Chấp hành viên do năng lực nghiệp vụ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu nên trong qúa trình thực hiện nhiệm vụ đã có những vi phạm, hoặc do điều kiện kinh tế gia đình quá khó khăn, đồng lương không đảm bảo mức sống tối thiểu dẫn đến sa sút về phẩm chất, đạo đức, nảy sinh tiêu cực, vi phạm kỷ luật, pháp luật …

 

Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là không chỉ dừng lại ở việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ Chấp hành viên mà còn phải nâng cao về tư tưởng, ý thức, đạo đức, lối sống.

 

Để hạn chế số lượng Chấp hành viên vi phạm kỷ luật, vi phạm lối sống đạo đức, Bộ Tư pháp đang chỉ đạo việc ban hành quy chế về đạo đức nghề nghiệp của Chấp hành viên. Quy chế được xây dựng nhằm định hướng các hành vi của Chấp hành viên từ góc độ đạo đức, tạo cơ sở để Chấp hành viên phấn đấu, tu dưỡng để xứng đáng là người đang đảm nhiệm sứ mệnh quan trọng là bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp phán của công dân và công bằng xã hội. Bên cạnh những đặc thù chi phối hành vi của Chấp hành viên thì đòi hỏi có những điểm Chấp hành viên phải tuân thủ khi hành nghề cũng như trong việc ứng xử trong cuộc sống hàng ngày.

 

3.3. Tiêu chuẩn Chấp hành viên:

 

Theo quy định của pháp luật thì để được bổ nhiệm là Chấp hành viên, phải là công dân Việt Nam: trung thành với tổ quốc, trung thực, liêm khiết, khách quan, có phẩm chất đạo đức tốt; có kiến thức pháp lý cần thiết; nắm vững nghiệp vụ thi hành án; có sức khoẻ tốt để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ngoài những tiêu chuẩn nói trên, Chấp hành viên quận huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh còn phải có các các tiêu chuẩn cụ thể là: Có trình độ đại học pháp lý (đại học luật) hoặc tương đương và đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án; Chấp hành viên trưởng quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh phải có năng lực quản lý, điều hành công việc thi hành án và đã làm Chấp hành viên quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ít nhất là hai năm.

 

Đối với Chấp hành viên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải có trình độ đại học pháp lý hoặc tương đương, đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án và có thâm niên công tác pháp luật từ 03 năm trở lên hoặc đã làm Chấp hành viên quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ít nhất là 02 năm; Chấp hành viên trưởng tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương phải có năng lực quản lý, điều hành công việc thi hành án và đã làm Chấp hành viên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ 03 năm trở lên hoặc đã làm Chấp hành viên trưởng quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh từ 02 năm trở lên.

 

Căn cứ vào các tiêu chuẩn nêu trên, trong những năm qua, Bộ Tư pháp đã lựa chọn, bổ nhiệm được nhiều Chấp hành viên, Chấp hành viên trưởng có năng lực vào hoạt động ở các cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, trên thực tế việc quy định các tiêu chuản nêu trên đã dẫn đến tình trạng một số nơi gặp rất nhiều khó khăn về nguồn cán bộ có đủ tiêu chuẩn theo quy định (mặc dù hầu hết Chấp hành viên hiện nay mới được bổ nhiệm, Bộ đã châm trước tiêu chuẩn- đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án). Qua thực tiễn quản lý hoạt động của các cơ quan thi hành án, chúng tôi có thể nêu ra một số nguyên nhân sau: hiện nay, ở nhiều nơi nguồn cán bộ có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ rất thiếu nhưng chưa có một cơ chế cụ thể cho việc tạo nguồn bổ sung cán bộ, nên rất khó khăn cho việc khắc phục tình trạng thiếu nguồn cán bộ. Mặt khác, hiện nay có sự chênh lệch rất lớn về trình độ giữa miền núi với các tỉnh đồng bằng, thành phố.

 

Vì vậy, đối với nước ta muốn tạo ra cho được đội ngũ Chấp hành viên đáp ứng đủ các yêu cầu theo quy định thì một vấn đề hết sức quan trọng là vấn đề tạo nguồn, bên cạnh đó kết hợp với việc đào tạo hoàn thiện bổ sung cho những Chấp hành viên chưa đáp ứng đủ tiêu chuẩn.

3.4. Về chế độ chính sách, tiền lương của Chấp hành viên, cán bộ thi hành án:

 

Để đảm bảo nguyên tắc làm công việc gì thì hưởng lương theo công việc đó, khi xây dựng chế độ tiền lương đối với Chấp hành viên, Nhà nước đã có quy định ngạch lương riêng cho Chấp hành viên. Thế nhưng do tính chất đặc thù nghề nghiệp nên ngoài lương Chấp hành viên không có khoản thu nhập nào khác, chính vì vậy cuộc sống và sinh hoạt gặp rất nhiều khó khăn. Mặt khác theo quy định của pháp luật thì ở cơ quan thi hành án có Chấp hành viên trưởng, Chấp hành viên và cán bộ thi hành án. Cán bộ thi hành án có trách nhiệm giúp Chấp hành viên trưởng, Chấp hành viên trong việc điều tra xác minh nắm tình hình, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, đề xuất phương thức, kế hoạch tổ chức thi hành có hiệu quả bản án… thế nhưng thực tế Nhà nước không xây dựng thang bảng lương riêng cho cán bộ thi hành án mà phải vận dụng theo các quy định của chức danh cán bộ thuộc khối cơ quan quản lý hành chính, sự nghiệp như chuyên viên, cán sự… để xếp lương bà bổ nhiệm vào ngạch cho cán bộ thi hành án, trong khi tính chất và yêu cầu công việc hoàn toàn khác nhau (vì hoạt động thi hành án là hoạt động có tính chất đặc thù nghề nghiệp rất cao). Đây cũng chính là yếu tố dẫn đến tình trạng hiện nay có nhiều cán bộ thi hành án mặc dù có đủ tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên, nhưng do mức lương quá thấp so với lương khởi điểm của ngạch Chấp hành viên tỉnh nê cũng không được xem xét bổ nhiệm…

 

Để thực hiện nguyên tắc làm công việc gì thì hưởng lương theo công việc đó, trong những năm qua Nhà nước ta đã xây dựng ngạch lương cho từng ngành, nghề công tác trên cơ sở kết hợp với việc quy định các chế độ chính sách ưu đãi đối với cán bộ trong từng lĩnh vực hoạt động nhằm bù đắp công sức đóng góp của người lao động, đồng thời khuyến khích và thu hút những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vào làm việc ở những lĩnh vực mà yêu cầu đòi hỏi công tác phức tạp, nặng nhọc, độc hại… Cụ thể như việc quy định các chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ thuộc các lực lượng vũ trang, chế độ chính sách đối với giáo viên… và trên thực tế chế độ chính sách đó đã phát huy hiệu quả trên từng lĩnh vực.

 

Đối với hoạt động thi hành án dân sự cũng vậy, trong những năm qua Bộ Tư pháp đã phối hợp với các bộ ngành chức năng có liên quan trình Chính phủ quy định một số chế độ chính sách đối với cán bộ, Chấp hành viên cơ quan thi hành án nhằm động viên khuyến khích cán bộ thi hành án hoàn thành nhiệm vụ (ví dụ như chế độ bồi dưỡng đối với cán bộ, viên chức trực tiếp tham gia cưỡng chế thi hành án, chế độ cấp phát trang phục cho cán bộ, nhân viên cơ quan thi hành án…). Tuy nhiên, trên thực tế do chưa đánh giá đúng mức tính chất phức tạp cũng như các yêu cầu về hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án nên trong việc quy định chế độ chính sách đối với cán bộ, Chấp hành viên các cơ quan thi hành án vẫn còn nhiều yếu tố bất hợp lý . Dẫn đến tình trạng cán bộ thi hành án không thiết tha và gắn bó với nghề, cá biệt có trường hợp cán bộ thi hành án có biểu hiện tiêu cực, gây phiền hà cho người được thi hành án … Những vấn đề đó phần nào đã làm ảnh hưởng đến uy tín, hiệu quả công tác của cơ quan thi hành án.

 

Để từng bước khắc phục khó khăn cho Chấp hành viên, cán bộ làm công tác thi hành án dân sự, trong kết luận tại buổi làm việc với Bộ Tư pháp ngày 08/10/1998, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tư pháp phối hợp với Ban tổ chức cán bộ Chính phủ đề xuất chế độ bồi dưỡng cho Chấp hành viên, cán bộ thi hành án dân sự sao cho tương xứng với đặc thù công việc của đội ngũ cán bộ Chấp hành viên là công tác thi hành án dân sự; nhiều địa phương đã đưa ra những kiến nghị hết sức thiết thực về các chế độ chính sách đối với cán bộ, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự. Ví dụ như ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Hội đồng nhân dân tỉnh đề nghị trích một khoản hợp lý từ các khoản thi hành án thu nộp cho Ngân sách Nhà nước để thưởng và hỗ trợ cho cơ quan thi hành án.

 

3.5. Về việc bổ nhiệm, điều động, cơ cấu Chấp hành viên:

 

Công tác bổ nhiệm Chấp hành viên có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo ra đội ngũ Chấp hành viên đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng. Để thực hiện tốt công tác này, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo các địa phương thực hện nghiêm túc từ các khâu chuẩn bị nhân sự đến khâu đề bạt bổ nhiệm. Nhờ đó số Chấp hành viên được bổ nhiệm đều được lựa chọn theo một quy trình chặt chẽ có quá trình thực tiễn công tác và có trình độ đại học luật. Cá biệt, ở một số địa phương thuộc miền núi vùng sâu, vùng xa do quá khó khăn về nguồn cán bộ đã xem xét để bổ nhiệm một số trường hợp có trình độ trung cấp pháp lý, có thời gian công tác trong ngành lâu năm… Đối với một số địa phương do chia tách địa giới hành chính hoặc do nguồn cán bộ lãnh đạo thiếu nên giám đốc hoặc phó giám đốc Sở tư pháp kiêm chức vụ Chấp hành viên Trưởng Phòng thi hành án. Hiện cả nước có 01 đồng chí Giám đốc Sở Tư pháp, 18 đồng chí Phó giám đốc Sở Tư pháp kiêm trưởng phòng thi hành án; ở một số huyện Trưởng phòng Tư pháp, Phó trưởng phòng tư pháp phải kiêm nhiệm Đội trưởng đội thi hành án. Việc kiêm nhiệm này tuy có thuận lợi trong việc quản lý tổ chức thi hành án dân sự, nhưng có những khó khăn trong tổ chức quản lý và điều hành công việc (vì cùng một lúc các đồng chí lãnh đạo phải kiêm nhiệm nhiều công việc…). Để khắc phục tình trạng này, vừa qua Bộ Tư pháp đã đưa ra chủ trương kể từ năm 2000 sẽ không bổ nhiệm Phó giám đốc Sở tư pháp kiêm trưởng phòng thi hành án, Phó phòng tư pháp kiêm Đội trưởng Đội thi hành án. Đối với những trường hợp hiện Giám đốc Sở tư pháp, phó giám đốc Sở tư pháp kiêm trưởng phòng thi hành án, trưởng phòng tư pháp, phó trưởng phòng tư pháp kiêm Đội trưởng đội thi hành án thì từng bước sẽ tìm nguồn để thay thế hoặc chuyển hẳn sang cơ quan thi hành án mà không để kiêm nhiệm như hiện nay.

 

Ngoài những vấn đề đã nêu ở trên, khó khăn hiện nay trong việc bổ nhiệm Chấp hành viên là sự chênh lệch về lương giữa Chấp hành viên và cán bộ thi hành án (đặc biệt là đối với lương của Chấp hành viên tỉnh). Có nhiều trường hợp, cán bộ thi hành án tuy đủ các tiêu chuẩn để bổ nhiệm Chấp hành viên nhưng do hệ số lương quá thấp so với mức khởi điểm hệ số của Chấp hành viên nên không thể xem xét để bổ nhiệm Chấp hành viên… trong khi đó nguồn cán bộ này vẫn còn rất thiếu. Đây chính là điểm bất hợp lý trong việc quy định chế độ chính sách đối với cán bộ thi hành án. Bởi vì theo quy định của pháp luật thì ở cơ quan thi hành án có Chấp hành viên trưởng, Chấp hành viên và cán bộ thi hành án. Cán bộ thi hành án có trách nhiệm giúp Chấp hành viên trưởng, Chấp hành viên trong việc điều tra xác minh nắm tình hình, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, đề xuất phương thức kế hoạch tổ chức thi hành có hiệu quả bản án… Thế nhưng thực tế việc quy định chính sách về lương chỉ chú trọng ưu tiên đối với Chấp hành viên mà không hề đề cập tơí chính sách về lương tương xứng cho đội ngũ cán bộ thi hành án. Hiện nay, do không có thang bảng lương riêng nên phải vận dụng các quy định của các chức danh cán bộ của cơ quan quản lý hành chính sự nghiệp như chuyên viên, cán sự… để xếp lương và bổ nhiệm vào ngạch cho cán bộ thi hành án, trong khi tính chất và yêu cầu công việc hoàn toàn khác nhau. Điều này đã gây ra sự bất hợp lý về lương giữa cán bộ thi hành án với Chấp hành viên ngay trong nội bộ cơ quan thi hành án (đặc biệt là ở Phòng thi hành án cấp tỉnh).

 

Đối với việc điều động Chấp hành viên: Theo quy định của pháp luật thì ở các cơ quan thi hành án Chấp hành viên được xây dựng theo hai cấp - Chấp hành viên cấp tỉnh và Chấp hành viên cấp huyện (ở mỗi cấp Chấp hành viên được xây dựng theo ngạch bậc lương khác nhau). Việc xây dựng Chấp hành viên chỉ có hai cấp đã dẫn đến tình trạng - khi điều động Chấp hành viên gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là việc điều động Chấp hành viên từ cấp tỉnh xuống cấp huyện, từ cấp huyện lên cấp tỉnh vì mức lương giữa Chấp hành viên tỉnh và Chấp hành viên huyện chênh lệnh nhau qúa lớn. Do đó nếu điều động Chấp hành viên tỉnh để tăng cường xuống huyện và đương nhiên theo quy định đồng chí này phải hưởng lương của Chấp hành viên (điều chỉnh lương thấp hơn) thì không thể điều động được, còn nếu điều động mà giữ nguyên lương thì sẽ dẫn đến mất cân đối về lương của cán bộ trong cùng một đơn vị, sai chế độ … Vì vậy, để tạo điều kiện cho việc thực hiện tốt công tác cán bộ thi hành án, cần phải quy định lại hệ số lương và chế độ chính sách đối với đội ngũ Chấp hành viên.

 

Về cơ cấu Chấp hành viên: hiện nay theo quy định của pháp luật thì Chấp hành viên chỉ có ở hai cấp là Đội thi hành án và các Phòng thi hành án. Chính việc quy định chấp hành viên chỉ có hai cấp nên ở Cục quản lý thi hành án không có Chấp hành viên. Điều này gây ra rất nhiều khó khăn trong công tác chỉ đạo cũng như việc tổ chức thi hành án. Vấn đề này, hiện nay Ban soạn thảo Pháp lệnh thi hành án dân sự sửa đổi đã đưa vào quy định mới theo đó ở Cục quản lý thi hành án dân sự cũng có Chấp hành viên.

 

3.6. Vấn đề tạo nguồn Chấp hành viên:

 

Việc tạo nguồn Chấp hành viên có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ Chấp hành viên, đồng thời từng bước thực hiện tốt công tác tiêu chuẩn hoá đội ngũ công chức các cơ quan thi hành án. Chính vì vậy, trong thời gian qua nhiều địa phương đã rất chú trọng tới công tác này, nhờ đó số Chấp hành viên mới được bổ nhiệm ngày càng đáp ứng được tiêu chuẩn đề ra. Tuy nhiên, nếu nhìn toàn diện thì công tác tạo nguồn Chấp hành viên còn chưa có sự đồng bộ . Việc tạo nguồn chủ yếu bằng các hình thức như cho cán bộ thi hành án không có trình độ đại học luật đi học đại học luật tại chức, hoặc một số nơi chỉ cho phép tuyển dụng cán bộ có trình độ đại học luật… thế nhưng ở các cơ quan thi hành án chưa có một biện pháp hữu hiệu trong việc tạo nguồn Chấp hành viên như tuyển cán bộ khi họ đã được đào tạo nghề về Chấp hành viên, vì hiện nay chúng ta chưa có trường đào tạo về vấn đề này. Dẫn đến một thực trạng nguồn cán bộ thì vẫn thiếu nhưng sinh viên tốt nghiệp đại học luật chính quy ra trường không tìm được việc làm (vì chưa hẳn đã có điều kiện để được tuyển dụng vào các cơ quan thi hành án), trong khi có rất nhiều trường hợp chỉ mới qua trình độ trung cấp… lại được tuyển vào sau đó cho đi học đại học tại chức. Vấn đề này, qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới - lấy sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy ra trường sau đó tổ chức thi tuyển vào đào tạo tiếp một thời gian nữa về nghề nghiệp. Nhờ có việc đào tạo này nên họ rất ít khi để xảy ra tình trạng thiếu nguồn cán bộ, vì nguồn cán bộ đã được xác định rõ ngay từ khi tuyển dụng cán bộ. Hơn nữa những trường hợp đã qua đào tạo nghề thì sau khi nhận công tác có thể thích nghi ngay được với công việc.

 

3.7. Vấn đề đào tạo Chấp hành viên:

 

Trong những năm qua, Bộ Tư pháp, các cơ quan tư pháp địa phương đã hết sức chú trọng đến công tác đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho Chấp hành viên. Cụ thể tổ chức nhiều lớp Luân huấn đại học luật, tạo điều kiện cho Chấp hành viên theo học các lớp đại học luật tại chức và nhiều hình thức đào tạo khác. Ví dụ năm 1997 tổ chức cho 169 lượt Chấp hành viên tham gia học luân huấn; năm 1998 tổ chức cho 194 lượt Chấp hành viên tham gia các lớp học luân huấn; năm 1999 tổ chức 107 Chấp hành viên theo học các lớp nâng cao trình độ dự án VIE…nhờ đó trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của Chấp hành viên ngày càng được nâng cao.

 

Tuy nhiên, qua thực tiễn cho thấy, đến nay Bộ Tư pháp vẫn chưa có được một biện pháp hữu hiệu cho việc đào tạo đối với đội ngũ Chấp hành viên. Bởi trên thực tế, lâu nay việc đào tạo còn mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ và chủ yếu mới dừng lại ở việc đào tạo lý luận cơ bản mà chưa đi vào việc đào tạo nghề. Do vậy, nhiều Chấp hành viên sau khi được bổ nhiệm còn gặp rất nhiều lúng túng về các kỹ năng nghiệp vụ cơ bản của hoạt động thi hành án dân sự như: các yêu cầu của việc tống đạt giấy tờ, yêu cầu của quá trình xác minh, yêu cầu của việc cưỡng chế… Trong khi đó, các kỹ năng nghề nghiệp lại hết sức quan trọng để một Chấp hành viên có thể hoàn thành nhiệm vụ hay không.

 

3.8. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của đội ngũ Chấp hành viên:

 

Cũng như các cơ quan khác, vai trò lãnh đạo của Đảng hết sức quan trọng đối với hoạt động của Chấp hành viên nói riêng và đối với các cơ quan thi hành án nói chung. Bởi vì do đặc thù của thi hành án dân sự nên trong hoạt động, cơ quan thi hành án cần phải có sự phối hợp, hỗ trợ nhiều mặt của các cơ quan chức năng Nhà nước như công an, Viện kiểm sát, cơ quan Toà án, Uỷ ban nhân dân … Qua thực tiễn cho thấy địa phương nào được sự quan tâm của các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương và sự phối kết hợp chặt chẽ của các cơ quan ban ngành hữu quan, thì ở đó kết quả thi hành án thu được cao. ngược lại, nơi nào không coi trọng đúng đắn về hoạt động thi hành án dân sự, khoán trắng công việc cho cơ quan thi hành án thì nơi đó cơ quan thi hành án gặp rất nhiều khó khăn, hiệu quả công tác thi hành án không cao… Tình hình trên xuất phát từ thực tế chưa có văn bản nào, hoặc văn kiện nào quy định, xác định rõ trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc lãnh đạo, quản lý đối với đội ngũ Chấp hành viên. Vì vậy, đã dẫn đến tình trạng ở mỗi địa phương khác nhau thì có cách hiểu khác nhau về vai trò trách nhiệm của cấp uỷ Đảng đối với hoạt động của Chấp hành viên và cơ quan thi hành án.

 

III/ Một số kiến nghị

 

Từ thực tiễn những vấn đề đã nêu ở trên, chúng tôi mạnh dạn kiến nghị một số vấn đề như sau:

 

1. Cần phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên, cụ thể trong việc tổ chức, chỉ đạo phối hợp hoạt động của các cơ quan trong công tác thi hành án, việc chỉ đạo việc tham gia cưỡng chế thi hành án; chỉ đạo phối hợp trong việc giải quyết các vụ án điểm, phức tạp…

 

2. Cần phải thống nhất quản lý công tác thi hành án vào một đầu mối.

 

3. Cần phải nâng cao hơn nữa vai trò vị trí của Chấp hành viên. Chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm tổ chức việc thi hành án, tuy nhiên hiện nay vai trò của Chấp hành viên chưa được thể hiện một cách rõ nét- nhất là tư cách của Thủ trưởng cơ quan thi hành án trong việc tham gia các quan hệ phối hợp hoạt động (còn phải thông qua Sở tư pháp và Phòng Tư pháp), dẫn đến hiệu quả không cao. Vì vậy, cần phải quy định cơ quan thi hành án là một cơ quan có tính chất độc lập như cơ quan Toà án, Viện kiểm sát.

 

4. Cần phải củng cố, tăng cường hơn nữa về số lượng Chấp hành viên. Hiện nay, tình trạng quá tải về công việc của Chấp hành viên đang là một vấn đề hết sức khó khăn. Để khắc phục tình trạng này cần phải quy định tăng cả về số lượng Chấp hành viên và số lượng cán bộ ở các cơ quan thi hành án.

 

5. Phải xác định rõ chiến lược đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho Chấp hành viên, và đội ngũ cán bộ nguồn dự kiến để bổ nhiệm Chấp hành viên, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đào tạo nghề. Kết hợp việc tuyển dụng với vấn đề đào tạo nghề như tuyển sinh sinh viên mới tốt nghiệp đại học vào học nghề tại trường đạo tạo các chức danh tư pháp, qua đó để bổ sung nguồn cán bộ cho các cơ quan tư pháp.

 

6. Bổ sung tiêu chuẩn của Chấp hành viên: phải qua khoá đào tạo nghề của trường đào tạo các chức danh tư pháp.

 

7. Xây dựng chế độ chính sách, tiền lương của Chấp hành viên, cán bộ thi hành án hoàn chỉnh phù hợp hơn.

 

Chấp hành viên và cán bộ thi hành án có quan hệ chặt chẽ trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ cũng như việc bổ nhiệm. Chính vì vậy cần phải xây dựng ngạch riêng cho cán bộ thi hành án, tránh tình trạng phải vận dụng các ngạch chuyên môn của cơ quan hành chính sự nghiệp đơn thuần vào việc xếp ngạch, bậc lương cho cán bộ thi hành án như hiện nay.

 

Mặt khác, hoạt động thi hành án là một hoạt động có tính chất đặc thù nghề nghiệp, chính vì vậy, Nhà nước cần phải có chế độ đãi ngộ một cách hợp lý đối với Chấp hành viên, một mặt đạo điều kiện khuyến khích những người có năng lực trình độ vào hoạt động ở các cơ quan thi hành án, hạn chế tình trạng tiêu cực của đội ngũ cán bộ này, đồng thời thực hiện có hiệu quả nguyên tắc làm việc gì thì hưởng lương theo công việc đó.

 

8. Về điều động, thuyên chuyển, cơ cấu Chấp hành viên. Hiện nay do có sự chênh lệch quá lớn về lương giữa Chấp hành viên cấp huyện và Chấp hành viên cấp tỉnh. Do vậy, rất khó khăn cho việc điều động Chấp hành viên (nhất là những trường hợp điều động Chấp hành viên từ tỉnh xuống huyện thì việc giải quyết như thế nào chính sách về lương). Để khắc phục tình trạng này, theo chúng tôi cần xây dựng cơ cấu Chấp hành viên theo Chấp hành viên sơ cấp, trung cấp và cao cấp. Việc quy định này sẽ khắc phục được những khó khăn hiện nay Chấp hành viên chỉ có ở cấp tỉnh và cấp huyện.

 

công tác kiểm tra của đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp

 

Trần Đại Hưng

Phó Trưởng Ban Nội chính Trung ương

 

 

Công tác kiểm tra của Đảng là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng. Công tác kiểm tra gắn liền một cách tất yếu với sự lãnh đạo của Đảng vì lãnh đạo không chỉ là xây dựng cương lĩnh chiến lược kinh tế - xã hội, các định hướng về đường lối, chính sách mà lãnh đạo còn có ý nghĩa kiểm tra, không những kiểm tra việc thực hiện đường lối chính sách nghị quyết,chỉ thị của Đảng mà còn kiểm tra ngay bản thân đường lối, chính sach, nghị quyết, chỉ thị ấy có phù hợp với thực tiễn không. Để nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác kiểm tra của Đảng, các đồng chí lãnh đạo thường nói: "Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo". Việc kiểm tra của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp cũng xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác kiểm tra của Đảng nêu trên.

 

I/ Tình hình sai phạm và công tác kiểm tra của Đảng đối với tổ chức Đảng và Đảng viên trong cơ quan tư pháp trong thời gian gần đây.

 

1. Tình hình sai phạm trong các cơ quan tư pháp

 

Trong thời gian qua hoạt động của các cơ quan tư pháp đã có nhiều cố gắng bảo đảm giữ vững an ninh trật tự xã hội, tăng cường xây dựng pháp luật góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và thực hiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong gian đoạn cách mạng mới. Tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các cơ quan tư pháp đã không ngừng tăng cường ở các cấp đã thể hiện vai trò lãnh đạo toàn diện, chặt chẽ đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, trước những khó khăn thử thách quyết liệt khi nền kinh tế nước ta hoạt động trong cơ chế thị trường, từng bước hoà nhập với các nước trên thế giới thì các hoạt động tư pháp cũng bộc lộ những yếu kém, bất cập đặc biệt là đã phát sinh nhiều biểu hiện tiêu cực ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trong các cơ quan tư pháp. Tình trạng "hình sự hoá" hoặc "phi hình sự hoá" trong hoạt động tố tụng dẫn đến oan sai, lọt tội đã gây lên những bất bình trong quần chúng nhân dân. Việc bắt người, tạm giữ, tạm giam không đúng sau đó phải trả tự do hoặc chỉ xử lý hành chính còn chiếm tỷ lệ cao ở các địa phương như: Cần Thơ 38,6%, Cà Mau 30%, Bạc Liêu 25%, TP Hồ Chí Minh 20%, Thanh Hoá 24,5%. Trong tháng 6/2001 qua kiểm tra ở Thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho thấy mức độ bắt, tạm giam, tạm giữ đã có giảm trên 30% so với trước nhưng tình trạng bắt không thật cần thiết vẫn còn, để quá hạn tạm giữ, tạm giam còn nhiều. ở thành phố Hồ Chí Minh khi kiểm tra có trường hợp đã xét xử nhưng Toà án chưa chuyển thủ tục thi hành án, trong đó có nhiều trường hợp để kéo dài. Tại trại tạm giam Chí Hoà còn 291 trường hợp tạm giam từ năm 1994, 1995,1996,1997,1998 đến nay các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn chưa truy tố xét xử được (thời điểm 25/5/2000). Những dẫn chứng điển hình nêu trên cho thấy tình hình sai phạm trong hoạt động của các cơ quan tư pháp còn nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và lòng tin của quần chúng nhân dân. Theo báo cáo tổng kết của ngành kiểm sát thì trong 5 năm (1993-1999) những sai phạm trong hoạt động tố tụng phải xử lý trách nhiệm hình sự về tội vi phạm hoạt động tư pháp chiếm tỷ lệ 1,5% số vụ và 1,5% số bị can. Ngoài tỷ lệ trên còn số cán bộ, đảng viên trong các cơ quan tư pháp có sai phạm hàng năm phải xử lý kỷ luật hành chính, kỷ luật đảng cũng chiếm tỷ lệ nhất định đáng quan tâm. Rõ ràng tình hình trên đã phản ánh những biểu hiện lệch lạc trong thực hiện quan điểm, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước; những biểu hiện vi phạm về phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các cơ quan tư pháp.

 

2. Tình hình công tác kiểm tra của Đảng trong các cơ quan tư pháp:

 

Công tác kiểm tra của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp thuộc trách nhiệm của cấp uỷ đảng, Uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ đảng ở từng cơ quan, đơn vị trong các cơ quan tư pháp. Ví dụ ở Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Đảng uỷ cơ quan và Uỷ ban kiểm tra của Đảng uỷ cơ quan có trách nhiệm kiểm tra; ngoài ra còn có cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra cấp trên có trách nhiệm kiểm tra. Ví dụ ở cấp trung ương còn có Đảng uỷ khối các cơ quan nội chính, Uỷ ban kiểm tra của Đảng uỷ khối có trách nhiệm kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan BộTư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. ở cấp tỉnh, thành phố và cấp quận, huyện công tác kiểm tra của đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp thuộc trách nhiệm của cấp uỷ đảng, Uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ từng cơ quan, đơn vị trong các cơ quan tư pháp đồng thời còn thuộc trách nhiệm của cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra cấp trên trực tiếp tiến hành. Trong phạm vi toàn quốc thì công tác kiểm tra của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp ở các cấp còn thuộc trách nhiệm của Bộ Chính trị và Uỷ ban kiểm tra Trung ương. Bộ Chính trị có thể thành lập các tổ công tác đặc biệt để tiến hành kiểm tra hoặc uỷ quyền cho Ban Đảng (Ban Nội chính Trung ương) trực tiếp kiểm tra hoặc phối hợp với Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và các cấp uỷ tỉnh, thành phố tiến hành kiểm tra.

Thời gian vừa qua nhất là từ khi có chỉ thị 29-CT/TW, ngày 8/11/1993 của Ban Bí thư trung ương Đảng (khoá VII) công tác kiểm tra của Đảng đối với tổ chức Đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp đã được tăng cường. Năm 1993, Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ đạo "kiểm tra công tác bắt, giam, giữ, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án" ở cả ba ngành công an, kiểm sát, Toà án. Năm 1994, Ban Bí thư chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị số 15 CT/TW của Bộ Chính trị về "chống tham nhũng, buôn lậu" trong ngành kiểm sát trên phạm vi toàn quốc. Năm 1996-1997, Bộ Chính trị chỉ đạo kiểm tra tiếp về "chống tham nhũng, buôn lậu" theo tinh thần Nghị quyết 14-NQ/TW của Bộ chính trị trong ngành công an. Ban Nội chính Trung ương và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã phối hợp chặt chẽ với các tỉnh, thành uỷ và Ban cán sự đảng các cơ quan tư pháp để thực hiện công tác kiểm tra. Ngoài các kế hoạch kiểm tra theo quy mô tập trung nêu trên, ở cấp trung ương cũng như ở cấp địa phương, Ban nội chính và Uỷ ban kiểm tra đã giúp cấp uỷ kiểm tra việc thực hiện quan điểm, đường lối, chính sách ở từng cơ quan, đơn vị hoặc từng vụ việc điển hình có liên quan đến trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên. Nhiều địa phương đã kiểm tra đạt hiệu quả tốt, phát hiện được sai phạm giúp các cơ quan tư pháp xây dựng củng cố nội bộ. Công tác kiểm tra của Đảng đối với các cơ quan tư pháp đã có tác dụng rõ rệt không chỉ giúp phát hiện, xử lý sai phạm của một số cán bộ, đảng viên (có trường hợp là cán bộ lãnh đạo của ngành ở cấp Trung ương và địa phương) mà còn giúp cho công tác lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của các ngành tư pháp có biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đặc biệt là các cán bộ có chức danh pháp lý, khắc phục một bước tình trạng để oan sai, lọt tội trong hoạt động tư pháp…

 

Tuy nhiên, công tác kiểm tra của cấp uỷ đảng các cấp và tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp còn nhiều mặt hạn chế, nhiều nơi cấp uỷ đảng chưa tổ chức tốt công tác theo dõi nắm tình hình tư tưởng và hoạt động của các cơ quan tư pháp; chưa thường xuyên chủ động tiến hành kiểm tra cán bộ, đảng viên để ngăn chặn, phòng ngừa các biểu hiện tiêu cực, sai phạm trong vận dụng quan điểm chính sách hình sự, dân sự, kinh tế khi tiến hành các hoạt động nghiệp vụ; sự phối kết hợp giữa các tổ chức đảng với lãnh đạo chuyên môn cũng chưa chặt chẽ, kịp thời nên hiệu quả công tác kiểm tra của đảng chưa đạt chất lượng cao; ở một số nơi khi kiểm tra phát hiện sai phạm được nhiều nhưng khi xem xét xử lý những cá nhân chưa kiên quyết, nghiêm minh, cá biệt còn hữu khuynh, bao che cho nhau hoặc lợi dụng công tác kiểm tra để gây mất đoàn kết giữa cá nhân với nhau. Về nội dung và phương thức kiểm tra có nơi cũng còn lúng túng dẫn tới tình trạng lẫn lộn, chồng chéo giữa công tác kiểm tra của đảng với công tác kiểm tra của chính quyền. Đáng chú ý là sự chồng chéo đó dẫn đến kéo dài thời gian việc kiểm tra xem xét, lãng phí công sức, thời gian mà hiệu quả không cao. Ví dụ nhiều trường hợp cơ quan chuyên môn qua thanh tra, điều tra đã làm rõ rồi nhưng tổ chức Đảng còn kiểm tra lại quá cụ thể, tỷ mỷ một cách không cần thiết. Ngược lại cũng có trường hợp công tác kiểm tra của Nhà nước, của chính quyền không đi sâu làm rõ sự việc, hữu khuynh, tránh né khi công tác kiểm tra của Đảng tập trung làm rõ thì mới có điều kiện kết luận, xử lý một cách chính xác, khách quan.

 

II/ Một số kiến nghị, đề xuất.

 

Tình hình sai phạm trong các cơ quan tư pháp và công tác kiểm tra của Đảng đối với tổ chức Đảng và đảng viên còn tồn tại một số vấn đề như đã nêu trên đòi hỏi sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng phải chú ý tăng cường, đổi mới công tác kiểm tra của Đảng đối với tổ chức Đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp. Mặt khác như chúng ta đã biết nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp đang trong tình hình mới trước diễn biến phức tạp của quá trình hội nhập, phát triển kinh tế ở nước ta vừa có thời cơ thuận lợi, vừa có nguy cơ khó khăn cản trở (như Nghị quyết Đại hội VIII và các Nghị quyết tiếp theo của Trung ương đã khẳng định) càng đòi hỏi nặng nề hơn. Công tác kiểm tra của Đảng trong thời gian tới có ý nghĩa quan trọng góp phần xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch vững mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ, bảo đảm định hướng XHCN trong mọi hoạt động của mình.

 

Từ thực tiễn vừa qua chúng tôi có một số kiến nghị đề xuất như sau:

 

1. Kiểm tra việc chấp hành quan điểm, đường lối của Đảng, kiểm tra trách nhiệm của tổ chức đảng, đảng viên trong các cơ quan tư pháp khi có dấu hiệu sai phạm là nhiệm vụ của cấp uỷ đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp cần được thực hiện thường xuyên nhưng tránh trùng lặp với kiểm tra về chuyên môn của cơ quan Nhà nước.

 

Để từng bước thực hiện tốt vấn đề này đề nghị thực hiện một số quy định cho một cuộc kiểm tra của Đảng như sau:

 

- Trước khi quyết định kiểm tra, cấp ủy, Uỷ ban kiểm tra phải nắm chắc tình hình về dấu hiệu sai phạm của tổ chức đảng, đảng viên.

 

- Phải xây dựng kế hoạch kiểm tra cụ thể, nêu rõ mục đích, yêu cầu, biện pháp tiến hành kiểm tra. Tránh tình trạng có nơi cấp uỷ chỉ đạo miệng dẫn đến tuỳ tiện thay đổi các nội dung cần thực hiện của một cuộc kiểm tra.

 

- Đoàn kiểm tra của cấp uỷ phải phối hợp chặt chẽ với tổ chức đảng ở đơn vị được kiểm tra nhằm thống nhất lãnh đạo về nội dung và phương pháp tiến hành kiểm tra.

 

- Xác định rõ những vấn đề có liên quan đến công tác chuyên môn để đặt ra yêu cầu với cơ quan chức năng có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, kết luận đáp ứng cho công tác kiểm tra của Đảng. Đoàn kiểm tra của cấp uỷ giữ vai trò giám sát phối hợp, không trực tiếp kết luận thay cho cơ quan chuyên môn.

 

- Sau khi kiểm tra, kết luận, cấp uỷ có biện pháp chỉ đạo xử lý nghiêm và triệt để những khuyết điểm, sai phạm đã được kết luận qua kiểm tra. Tuỳ theo tính chất, mức độ của các sai phạm mà tiến hành các biện pháp xử lý kỷ luật về đảng hoặc yêu cầu chính quyền xử lý kỷ luật về đảng hoặc yêu cầu chính quyền xử lý kỷ luật hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự v.v…

 

2. Công tác kiểm tra của Đảng cần được tiến hành có trọng tâm, trọng điểm.

 

Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng được thể hiện ở sự quan tâm lãnh đạo, kiểm tra một cách thường xuyên của các cấp uỷ đảng được tổ chức đảng, đảng viên cùng cấp và cấp dưới trong các cơ quan tư pháp, đồng thời công tác kiểm tra của đảng được thực hiện ngay trong tổ chức cơ sở đảng với chi bộ, đảng viên trong cơ quan đơn vị của mình. Điều quan trọng không chỉ tiến hành kiểm tra nhiều mà phải kiểm tra đúng cả về nội dung và phương pháp kiểm như đã nêu ở phần trên thì tác dụng về xây dựng đảng mới thực sự được tăng cường. Theo chúng tôi công tác kiểm tra của đảng phải được tiến hành có trọng tâm, trọng điểm để nêu các bài học điển hình có tác dụng thúc đẩy chung. Muốn thực hiện được điều đó đề nghị cấp uỷ phải xác định, lựa chọn nội dung, đối tượng cần kiểm tra để cân nhắc phương thức kiểm tra cho phù hợp. Nếu nội dung kiểm tra không lớn, không phức tạp thì giao cho tổ chức đảng tự kiểm tra nhưng có sự giám sát chặt chẽ của cấp uỷ đảng cấp trên; nếu nội dung kiểm tra có nhiều vấn đề quan trọng, có phạm vi rộng thì cấp uỷ phải lãnh đạo cụ thể việc lập kế hoạch kiểm tra, phân công trách nhiệm cấp uỷ viên chỉ đạo, sử dụng lực lượng tiến hành kiểm tra… Nếu nội dung kiểm tra có nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động chuyên môn thì cấp uỷ phải lãnh đạo kết hợp giữa kiểm tra của Đảng với kiểm tra của Nhà nước để tiến hành.

 

3. Cần kết hợp tốt việc giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo trong quá trình thực hiện công tác của Đảng đối với các cơ quan tư pháp.

 

Hiện tượng đơn thư khiếu nại, tố cáo của quần chúng đối với cán bộ, đảng viên trong các cơ quan tư pháp trong thời gian gần đây có chiều hướng gia tăng, tính chất phức tạp, có nhiều trường hợp kéo dài không được giải quyết dứt điểm. Khi tiến hành kiểm tra ở một tổ chức đảng hoặc kiểm tra cá nhân cán bộ, đảng viên trong các cơ quan tư pháp cần kết hợp xem xét có đơn thư khiếu nại tố cáo liên quan đến tổ chức, cá nhân đang được kiểm tra không, để đưa nội dung xem xét đơn thư vào kế hoạch kiểm tra. Trong trường hợp có đơn thư thì phân loại đơn thư đó đã được xem xét hoặc chưa được xem xét, quy trình giải quyết của cấp uỷ có thẩm quyền trước đó đã bảo đảm thận trọng, khách quan chưa, vấn đề nào chưa được làm rõ và giải quyết dứt điểm thì đoàn kiểm tra yêu cầu cấp uỷ có thẩm quyền xem xét bổ sung và giải quyết dứt điểm.

 

Kết luận:

 

Các cơ quan tư pháp có vị trí, vai trò rất quan trọng trong bộ máy Nhà nước, hoạt động của các cơ quan tư pháp góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp có trách nhiệm trực tiếp bảo đảm thực hiện nhiều chính trị của cơ quan, đơn vị mình. Tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp là một yêu cầu tất yếu khách quan. Một trong các nội dung lãnh đạo của đảng là công tác kiểm tra. Kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp là nhiệm vụ của cấp uỷ đảng các cấp mà trực tiếp là Uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ.

 

Công tác kiểm tra của đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp cần được tăng cường trên cơ sở phát huy vai trò trách nhiệm, tính chủ động của cấp uỷ đảng các cấp, đồng thời có sự đổi mới về nội dung và phương thức tiến hành kiểm tra để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, nâng cao sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp./.

 

xây dựng, kiện toàn các tổ chức đảng

trong các cơ quan tư pháp

Th.S Ngô Tự Nam

Phó vụ trưởng Ban Nội chính TW

 

I/ Đặt vấn đề

 

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

Bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan Nhà nước, trong đó có cơ quan tư pháp là một tất yếu khách quan.

 

Muốn bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng thì phải xây dựng, kiện toàn các tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp trong sạch vững mạnh.

 

Trong giai đoạn cách mạng mới, yêu cầu nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp càng khó khăn và phức tạp. Do đó, việc tăng cường sự lãnh đạo của đảng mà trong đó có nội dung: "Xây dựng, kiện toàn các tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp" lại càng quan trọng và cần thiết để các cơ quan tư pháp hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

 

II/ Tình hình tổ chức và hoạt động của các tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp.

 

(Các cơ quan tư pháp nêu trong đề tài nghiên cứu này chỉ giới hạn ở 4 cơ quan: cơ quan công an, cơ quan Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan Toà án nhân dân, cơ quan Bộ Tư pháp)

 

1. Tình hình tổ chức:

 

Trong các cơ quan tư pháp số lượng cán bộ, viên chức là đảng viên chiếm tỷ lệ cao so với tổng số cán bộ, viên chức. Đội ngũ đảng viên hầu hết có trình độ văn hoá, có nghiệp vụ chuyên môn, có kinh nghiệm, hiểu biết. Số đông đảng viên đã được rèn luyện thử thách, có ý thức chính trị, có ý thức giữ gìn đạo đức phẩm chất cách mạng.

 

Tuyệt đại bộ phận đảng viên kiên định, vững vàng, có tinh thần quyết tâm đấu tranh chống vi phạm, tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

 

Quyền hạn, trách nhiệm của đảng viên là điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên là rất nặng nề, công việc có liên quan nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội; có thẩm quyền ký các quyết định mang tính pháp lý với tư cách độc lập và chịu trách nhiệm cá nhân.

 

Các tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp có những đặc điểm: không thống nhất từ trung ương xuống địa phương; địa bàn rộng, không chỉ Hà Nội mà khắp cả nước; nhiều đầu mối…

 

1.1. Tổ chức đảng trong cơ quan công an:

 

- Đảng uỷ Công an trung ương do Bộ Chính trị chỉ định, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành trung ương mà trực tiếp, thường xuyên của Bộ Chính trị. Đảng uỷ Công an trung ương nghiên cứu đề xuất để Ban Chấp hành trung ương quyết định những vấn đề về đường lối, chính sách, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; lãnh đạo mọi mặt công tác trong công an.

 

- Đảng uỷ công an tỉnh, thành phố dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của tỉnh, thành uỷ, đồng thời chấp hành nghị quyết của Đảng uỷ công an Trung ương về giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng đảng bộ trong sạch vững mạnh.

 

- Lực lượng an ninh điều tra có từ cấp Bộ (Cục an ninh điều tra) đến công an tỉnh, thành phố (Phòng an ninh điều tra), đến công an tỉnh, thành phố (Phòng cảnh sát điều tra), và cấp huyện (đội cảnh sát điều tra). Trong các cơ quan điều tra đều có tổ chức đảng cơ sở.

 

1.2. Tổ chức đảng trong cơ quan Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, Bộ Tư pháp:

 

- Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao, Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp, do cấp uỷ cùng cấp chỉ định. Ban cán sự đảng làm việc theo chế độ tập thể và chịu trách nhiệm trước cấp uỷ.

 

- Ban cán sự đảng. Viện kiểm sát nhân dân tối cao được thành lập theo quyết định số 47-QĐ/TW, ngày 14/11/1992 của Bộ Chính trị.

 

Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được quy định như sau:

+ Lãnh đạo ngành kiểm sát thực hiện đúng đắn đường lối, chủ trương, nghị quyết của đảng.

 

+ Thực hiện các nghị quyết của đảng về tổ chức, cán bộ; quyết định những vấn đề về tổ chức, cán bộ theo sự phân công, phân cấp của Bộ chính trị

 

+ Kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của đảng trong hoạt động của ngành kiểm sát.

 

+ Chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban bí thư vê những đề xuất và quyết định của Ban cán sự đảng.

 

+ Phối hợp với đảng uỷ khối và Đảng uỷ cơ quan xây dựng đảng bộ cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong sạch, vững mạnh.

 

Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ chính trị, Ban bí thư.

 

Căn cứ quyết định số 47/QĐ, ngày 14/11/1992, Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Quy chế 03 ngày 20/4/1993. Qua 3 năm thực hiện quy chế 03, trên cơ sở đánh giá những kết quả đã đạt được và những nội dung cần bổ sung, để hoàn chỉnh bản quy chế, ngày 25/04/1996 Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành quy chế làm việc của Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 80/QC-CS.

 

- Ban cán sự Đảng Toà án nhân dân tối cao được thành lập theo quyết định số 45-QĐ/TW, ngày 14/11/1992 của Bộ chính trị.

 

Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao được quy định như sau:

 

+ Lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao thực hiện đúng đắn đường lối, chủ trương, nghị quyết của đảng.

 

+ Thực hiện các nghị quyết của đảng về tổ chức, cán bộ; quyết định những vấn đề về tổ chức, cán bộ theo sự phân công, phân cấp của Bộ Chính trị.

 

+Kiểm tra việc thực hiện đường lối chủ trương, nghị quyết của đảng trong hoạt động của Toà án nhân dân tối cao.

 

+ Chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban bí thư về những đề xuất và quyết định của Ban cán sự đảng.

 

+ Phối hợp với đảng uỷ khối và đảng ủy cơ quan xây dựng đảng bộ cơ quan Toà án nhân dân tối cao trong sạch, vững mạnh.

 

Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ chính trị, Ban Bí thư.

 

Căn cứ quyết định số 45/QĐ, ngày 14/11/1992, Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao đã ban hành quy chế 19/BCS, ngày 15/4/1996 "Quy chế làm việc của Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao".

 

- Ban cán sự đảng bộ Bộ Tư pháp được thành lập căn cứ quyết định số 48-QĐ/TW, ngày 14/11/1992 của Bộ chính trị về việc thành lập Ban cán sự đảng ở các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.

 

Căn cứ quyết định số 48-QĐ/TW, ngày 14/11/1992, Ban cán sự đảng bộ Bộ Tư pháp đã ban hành quy chế số 65/1998/QC-BCS, ngày 21/12/1998 "Quy chế làm việc của Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp".

 

Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban cán sự Đảng:

 

+ Quán triệt và thực hiện đúng đắn quan điểm, đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong công tác của Bộ Tư pháp.

 

+ Thực hiện các nghị quyết của Đảng về tổ chức, cán bộ; quyết nghị những vấn đề về tổ chức, cán bộ theo sự phân công, phân cấp của Bộ Chính trị, Thường vụ Bộ Chính trị.

 

+ Kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong hoạt động của Bộ Tư pháp.

 

+ Chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Thường vụ Bộ Chính trị về những đề xuất và quyết định của Ban cán sự đảng.

 

+ Phối hợp với Đảng uỷ khối các cơ quan nội chính trung ương và Đảng uỷ cơ quan Bộ, xây dựng đảng bộ cơ quan trong sạch vững mạnh.

 

- Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, Sở tư pháp tỉnh, thành do cấp uỷ tỉnh, thành quyết định thành lập và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của tỉnh, thành uỷ.

 

- Đảng bộ cơ quan Toà án NDTC, Đảng bộ cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Đảng bộ cơ quan Bộ Tư pháp sinh hoạt trong đảng bộ khối cơ quan nội chính trung ương; Đảng bộ cơ quan công an không sinh hoạt trong đảng bộ Khối cơ quan nội chính trung ương.

 

- Đảng uỷ cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp là tổ chức lãnh đạo của đảng bộ, tham gia lãnh đạo công tác tư tưởng và công tác tổ chức cán bộ trong cơ quan như việc kiện toàn bộ máy, công tác đánh giá cán bộ, nghe báo cáo, xem xét và cho ý kiến để lãnh đạo việc tổ chức thực hiện công tác chính trị, tư tưởng, công tác tổ chức cán bộ.

 

- Đảng bộ (nơi đông đảng viên) hoặc chi bộ viện kiểm sát nhân dân tỉnh, Toà án nhân dân tỉnh, Sở tư pháp sinh hoạt trong đảng uỷ khối an ninh nội chính hoặc khối dân chính đảng.

 

- ở các cơ quan này, chi bộ đảng được tổ chức theo đơn vị chuyên môn như: vụ, toà, phòng…

 

2. Tình hình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp:

 

Nhận thức được tầm quan trọng và tính chất phức tạp của nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước trao cho các cơ quan tư pháp, trong những năm qua các cấp uỷ, các tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp đã có nhiều cố gắng đẩy mạnh công tác xây dựng đảng bộ, chi bộ; chú trọng nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức đảng, ý thức chính trị, thái độ phục vụ nhân dân, tu dưỡng đạo đức để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của đảng viên, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của ngành.

 

Có thể nói nhận thức của các tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp về chức năng nhiệm vụ của các tổ chức đảng ngày càng rõ và đâỳ đủ.

 

2.1. Về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng:

 

Các cấp uỷ đảng đã chú trọng việc quán triệt các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng; đặc biệt là các quan điểm đường lối có liên quan đến công tác tư pháp. Việc chú trọng lãnh đạo công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đã giúp cho cán bộ, đảng viên nhất là những đảng viên có chức danh tư pháp như điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên nắm vững quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh chống mọi quan điểm, tư tưởng thù địch và nhận thức sai lầm, lệch lạc, khắc phục nhận thức không đúng đắn về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp như quan điểm cho rằng các cơ quan tư pháp là những cơ quan "độc lập", "chỉ tuân theo luật"; để bảo vệ và thực hiện đúng đắn đường lối quan điểm của đảng và pháp luật của Nhà nước.

 

Bên cạnh những ưu điểm về công tác giáo dục chính trị tư tưởng nêu trên công tác này còn có những khuyết điểm, hạn chế là:

 

Điều đáng lo ngại là niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật bị giảm sút, dư luận xã hội nghi ngờ có tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của các cơ quan tư pháp. Tình hình đảng viên trong các cơ quan tư pháp bị vi phạm có chiều hướng tăng. Trước tình hình đó, Ban cán sự đảng, đảng uỷ các cơ quan chưa thật sự quan tâm đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng; chưa chủ động đề ra giải pháp đồng bộ, toàn diện để phòng ngừa, khắc phục những thiếu sót khuyết điểm.

 

Một số nơi sinh hoạt của cấp uỷ mới chỉ tập trung vào việc lãnh đạo và thực hiện công tác phát triển đảng hoặc tham gia công tác tổ chức cán bộ theo yêu cầu của Ban cán sự đảng, chưa thật sự quan tâm đến công tác lãnh đạo về chính trị tư tưởng nhằm thực hiện tốt vai trò lãnh đạo về chính trị tư tưởng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

 

2.2. Về công tác cán bộ:

 

Đảng uỷ, Ban cán sự đảng các ngành đã chú trọng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, điều đó được thể hiện trong việc quy định nhiệm vụ, quy chế làm việc của tổ chức đảng đối với công tác cán bộ như việc trực tiếp nhận xét đánh giá, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm, quy hoạch, đào tạo…

 

Một số tổ chức đảng đã chủ động tham gia với thủ trưởng đơn vị để phân công công việc hợp lý cho đảng viên giúp đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ.

 

Đảng uỷ công an Trung ương, Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao, Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp đã có sự phối hợp chặt chẽ với các tỉnh, thành uỷ trong việc lựa chọn danh sách đề bạt, bổ nhiệm, quy hoạch cán bộ và chỉ đạo kế hoạch bồi dưỡng về chính trị, nghiệp vụ cho cán bộ sau khi được bổ nhiệm.

 

Điểm hạn chế của công tác này là: sự phối hợp giữa Đảng uỷ cơ quan với thủ trưởng cơ quan, giữa ban chi uỷ với thủ trưởng đơn vị nơi chưa chặt chẽ, thường xuyên, nên việc phát huy còn hạn chế, do đó chưa tìm ra các biện pháp nâng cao chất lượng hiệu quả công tác cho các điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên.

 

2.3. Công tác quản lý đảng viên:

 

Một số tổ chức đảng sinh hoạt đã đi sâu kiểm điểm tinh thần tiền phong gương mẫu của đảng viên, ý thức quán triệt đường lối quan điểm của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Mặt khác tăng cường giáo dục ý thức trách nhiệm, nêu cao đạo đức, lối sống của đảng viên công tác trong cơ quan tư pháp để đảng viên tự giác tu dưỡng rèn luyện, đồng thời xây dựng các quy chế làm việc, nội quy, kỷ luật của cơ quan, của ngành, tăng cường công tác kiểm tra, quản lý đảng viên.

 

Tuy nhiên, công tác quản lý giáo dục cán bộ, đảng viên chưa được tiến hành thường xuyên, có nơi, có lúc còn buông lỏng.

 

2.4. Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chuyên môn:

 

Qua kiểm tra công tác trong từng thời gian thấy nhiều chi bộ trong các Đảng bộ đã có nghiên cứu đổi mới phương thức, nội dung sinh hoạt để đảm bảo lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chuyên môn như: có chi bộ để đảng viên báo cáo công việc của mình đã làm trong tháng qua trước chi bộ, tự nhận xét đánh giá sau đó chi bộ tham gia ý kiến; cũng có chi bộ đưa ra thảo luận từng chuyên đề đang có những ý kiến khác nhau để tìm cách giải đáp. Để tránh trùng lắp với các hoạt động của chính quyền, các chi bộ đã chú trọng kiểm điểm tinh thần phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, ý thức trách nhiệm của đảng viên đối với nhiệm vụ được giao.

 

Đảng uỷ Công an, Ban cán sự đảng viên kiểm sát, Ban cán sự đảng Toà án còn nghiên cứu chỉ đạo một số vụ án cụ thể. Đây là một việc làm giúp cho đảng uỷ, Ban cán sự đảng nắm được tình hình tội phạm, nắm được chất lượng công tác điều tra, truy tố, xem xét, những vướng mắc cần phải giải quyết.

 

Qua nghe các vụ án, Đảng uỷ, Ban cán sự đảng đã có ý kiến về chủ trương đẩy mạnh tiến độ điều tra, truy tố, xem xét, chỉ đạo việc giải quyết vụ án phục vụ yêu cầu chính trị của đảng, yêu cầu của pháp luật.

 

Điểm hạn chế của công tác này là: Đảng uỷ, Ban cán sự chưa có quy chế cụ thể về chế độ báo cáo, chưa xác định rõ gianh giới chỉ đạo của Đảng uỷ, ban cán sự với lãnh đạo chuyên môn nên trong lãnh đạo, chỉ đạo có vụ việc còn thiếu thống nhất, trong chừng mực nào đó ảnh hưởng đến kết quả công việc.

 

2.5. Công tác kiểm tra:

 

Đây là một công việc rất quan trọng thuộc chức năng lãnh đạo của cấp uỷ đảng. Thời gian qua nhiều cấp uỷ đã tập trung kiểm tra việc chấp hành chỉ thị, nghị quyết của đảng, xem xét việc quán triệt đường lối quan điểm của đảng trên cơ sở đó đã rút ra được một số kinh nghiệm, phát hiện được những lệch lạc cần uốn nắn.

 

Tuy nhiên, công tác kiểm tra đôi khi còn hình thức chưa phát hiện kịp thời thời những tiêu cực trong nội bộ. Ban cán sự đảng còn thiếu kiểm tra, đôn đốc thường xuyên việc thực hiện các chủ trương đã đề ra.

 

2.6. Công tác phối hợp giữa các tổ chức Đảng:

 

Có nơi công tác phối hợp giữa Ban cán sự đảng với đảng uỷ cơ quan để thực hiện công tác xây dựng đảng chưa được thường xuyên, chưa nắm chắc các khó khăn vướng mắc của Đảng bộ để có biện pháp giải quyết kịp thời.

 

Từ sau khi có quyết định lập Ban cán sự đảng, bên cạnh nhiều mặt tốt, có tác dụng tích cực thì cũng còn có lúng túng, hạn chế do mối quan hệ giữa các tổ chức: Ban cán sự đảng, đảng uỷ, chi uỷ chậm được làm rõ cả về lý luận và thực tiễn, chưa có văn bản quy định rõ nội dung, phạm vi trách nhiệm giữa các tổ chức nên vẫn xảy ra tình trạng có việc thì chồng chéo, có việc thì buông lỏng.

 

Các cấp uỷ đảng chưa mạnh còn có nguyên nhân các đồng chí bí thư đảng uỷ, đảng uỷ viên, bí thư chi bộ, chi uỷ viên phần lớn giành thời gian lo hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn trước; được đảng viên tín nhiệm bầu tham gia cấp uỷ coi như việc "làm thêm", "làm nghĩa vu" hoặc do trách nhiệm đảng viên mà làm chứ chưa thật sự phấn khởi.

 

III/ Phương hướng xây dựng kiện toàn các tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp.

 

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, tăng cường sự lãnh đạo của đảng trong đó có công tác xây dựng kiện toàn các tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp là rất quan trọng và cần thiết.

 

1. Về tổ chức của các tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp:

 

Tổ chức Đảng trong các cơ quan tư pháp như hiện nay theo chúng tôi là phù hợp, đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo các cơ quan tư pháp.

 

Tuy nhiên, cần xác định rõ hơn quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ giữa các tổ chức trong các cơ quan (ban cán sự đảng - đảng uỷ - lãnh đạo - ban chấp hành các đoàn thể quần chúng); giữa cá nhân với tổ chức (thủ trưởng cơ quan - Ban cán sự đảng - Ban chấp hành các đoàn thể); giữa cá nhân với cá nhân (Bí thư Ban cán sự đảng - Bí thư đảng uỷ - thủ trưởng cơ quan ) bằng những văn bản có tính pháp lý để chấp hành, thực hiện thống nhất.

 

- Cần làm rõ phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của Đảng uỷ công an, Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân, Ban cán sự đảng Toà án nhân dân trong công tác xử lý tội phạm liên quan đến cán bộ, đảng viên. (Theo tinh thần Chỉ thị 52-CT/TW).

 

Đề nghị nghiên cứu bổ sung sửa đổi quy chế để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Toà án NDTC, Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp theo hướng:

 

- Quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao tại điểm a, điều 2, quyết định 45-QĐ/TW là:

 

"a- Lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao và Toà án nhân dân, Toà án quân sự các cấp thực hiện đúng đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng."

 

- Quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao tại điểm c, điều 2, quyết định 45-QĐ/TW là:

 

"c- Kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong hoạt động của Toà án NDTC, Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp".

 

2. Một số công việc cụ thể về việc thực hiện nhiệm vụ của các tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp:

 

2.1. Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng:

 

- Tăng cường và đổi mới phương pháp giáo dục đảng viên, trước mắt là đối với đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

 

- Các cấp uỷ đảng và lãnh đạo cơ quan đơn vị cần có sự lãnh đạo thống nhất chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên, trong sạch, có đủ năng lực và phẩm chất chính trị để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đề nghị bổ sung tiêu chuẩn để bổ nhiệm điều tra viên cao cấp, kiểm sát viên cao cấp, Thẩm phán TAND tối cao theo hướng: ngoài các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, trình độ nghiên cứu tổng hợp, kinh nghiệm công tác, năng lực chỉ đạo người được xem xét bổ nhiệm phải có trình độ lý luận chính trị cao cấp. Điều tra viên trung cấp và sơ cấp; kiểm sát viên trung cấp và sơ cấp; Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành và quận, huyện; Chấp hành viên ở các phòng thi hành án và đội thi hành án; phải có trình độ lý luận chính trị trung cấp.

 

2.2. Công tác xây dựng đảng:

 

- Cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng theo hướng nâng cao vai trò trách nhiệm của cấp uỷ và bí thư cấp uỷ. Cần gắn chặt trách nhiệm của cấp uỷ với những hiện tượng tiêu cực xảy ra trong cơ quan.

 

- Nghiên cứu xây dựng quy định về việc đảng viên phải có trách nhiệm gìn giữ bí mật thông tin trong quá trình điều tra, truy tố, xem xét vụ án. Các cấp uỷ phải chú trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo đối với điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên.

 

- Các cấp uỷ cần nắm vững nội dung Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII), Nghị quyết Trung ương 5, Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Nghị quyết Trung ương 7, gắn công tác xây dựng đảng về tổ chức với xây dựng cơ quan văn hoá, xây dựng con người, xây dựng đội ngũ cán bộ với việc nâng cao chất lượng đảng viên quản lý đảng viên.

 

2.3. Công tác kiểm tra:

 

Tăng cường công tác kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên để chủ động phát hiện sai phạm, kịp thời ngăn ngừa và khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, xử lý nghiêm đảng viên và tổ chức đảng có vi phạm.

 

2.4. Công tác cán bộ:

 

- Mỗi Đảng uỷ cơ quan cần có tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện quy chế 54-QĐ/TW của Bộ Chính trị (khoá VII) về việc đảng uỷ cơ quan lãnh đạo bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chính trị và lãnh đaọ công tác cán bộ.

 

- Quản lý cán bộ, đảng viên là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng. Các cấp uỷ, nhất là chi bộ phải thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức cho đảng viên, đồng thời cần có biện pháp quản lý bằng tổ chức, bằng quy chế, bằng công việc nhằm phát huy tinh thần trách nhiệm của đảng viên, ngăn ngừa các biểu hiện tiêu cực. Quan tâm chăm sóc đảng viên về mọi mặt, chi uỷ và bí thư chi bộ cần nắm vững chương trình công tác của Đảng uỷ cơ quan, của đơn vị trong từng thời gian, nắm được tình hình tư tưởng và các vấn đề đảng viên quan tâm. Sinh hoạt chi bộ phải là nơi bàn bạc những vấn đề sát với nhiệm vụ lãnh đạo của chi bộ và phải có nghị quyết để đảng viên thực hiện.

 

- Cần nghiên cứu xây dựng quy chế công tác của Đảng uỷ Công an Trung ương, Ban cán sự đảng các cơ quan tư pháp với cấp uỷ địa phương trong lãnh đạo các cơ quan tư pháp ở địa phương về công tác quản lý đảng viên, bổ nhiệm, đề bạt, đào tạo cán bộ.

 

Tóm lại, để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, Đảng uỷ Công an trung ương, Ban cán sự đảng: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp thực hiện theo đúng tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương đảng (khoá VIII): "Sắp xếp hợp lý tổ chức của 2 ngành kiểm sát và Toà án; sắp xếp các cơ quan điều tra, kiện toàn cơ quan thi hành án; tổ chức nghiên cứu, xây dựng đề án cụ thể về tổ chức, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan kiểm sát, Toà án…".

 

Trước mắt các cấp uỷ đảng, Ban cán sự đảng, đảng uỷ các cơ quan tư pháp cần tổ chức thực hiện ngay những công việc đã được nêu trong Chỉ thị 53-CT/TW, ngày 21-3-2000 của Bộ Chính trị "Về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000".

 

kinh nghiệm của một số nước

về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp

Trần Đức Hoành

Phó văn phòng Ban Nội chính Trung ương

 

 

 

Trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp của nước ta, việc tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới là rất cần thiết. Nó giúp chúng ta tiếp cận được những thành tựu văn minh của nhân loại, tránh được sự mò mẫm, thử nghiệm không cần thiết.

 

Tuy nhiên, do sự khác biệt về điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, lịch sử…, nên những quy định về tiêu chuẩn, đào tạo, tuyển chọn, bổ nhiệm, đãi ngộ… cán bộ tư pháp và cách thức thực hiện những quy định đó của các nước cũng không giống nhau. Hơn nữa, ở bất kỳ nước nào, những quy định và cách thức thực hiện những quy định nói trên luôn luôn phụ thuộc vào chế độ chính trị - xã hội của nước đó.

 

Vì vậy, khi nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp của nước nào, cần chú ý đến chế độ chính trị-xã hội, trình độ phát triển kinh tế, truyền thống lịch sử, phong tục tập quán… của nước đó. Đồng thời, cần có ý thức tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm tốt để vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta, không rập khuôn, máy móc và cũng không phủ định sạch trơn.

 

Với nhận thức như trên, trong đề tài này, chúng tôi chọn lọc giới thiệu kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp của một số nước. Nhưng do hạn chế về tài liệu tham khảo, nên chúng tôi mới chỉ tập trung vào hai loại cán bộ tư pháp là: kiểm sát viên và Thẩm phán. Mặt khác, cũng do mới tìm hiểu được kinh nghiệm của một số ít nước, nên khó có thể giới thiệu một cách khái quát theo từng khâu công tác (đào tạo, tuyển chọn, bổ nhiệm…) và có sự so sánh giữa các nước, mà chỉ dừng lại ở mức giới thiệu kinh nghiệm của từng nước về từng loại cán bộ tư pháp.

 

I/ Về kiểm sát viên:

 

1. ở Trung Quốc:

 

Theo quy định của Luật cán bộ kiểm sát Trung Quốc, kiểm sát viên phải có đủ các điều kiện: có quốc tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa; từ 23 tuổi trở lên; bảo vệ Hiến pháp nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa; có tố chất chính trị, trình độ nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức tốt; khoẻ mạnh; có trình độ cao đẳng luật với ít nhất 2 năm kinh nghiệm công tác, hoặc có bằng thạc sỹ, tiến sỹ luật.

 

Những người đã là kiểm sát viên trước khi Luật cán bộ kiểm sát có hiệu lực, nếu so với quy định trên mà không đủ tiêu chuẩn về bằng cấp thì được đào tạo, bồi dưỡng trong một thời gian nhất định. Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm đề ra những biện pháp cụ thể nhằm đào tạo, bồi dưỡng những kiểm sát viên này.

 

Những người đã từng phạm tội và bị xử lý bằng biện pháp hình sự hoặc đã từng bị kỷ luật hành chính về chức vụ đều không được làm kiểm sát viên.

 

Trường cán bộ kiểm sát quốc gia và một số cơ quan khác có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng kiểm sát viên. Kết quả học tập trong thời gian đào tạo, bồi dưỡng là một trong những căn cứ để bổ nhiệm kiểm sát viên và đề bạt cán bộ quản lý trong ngành kiểm sát.

 

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc (Quốc hội) bầu và bãi miễn. Phó viện trưởng, uỷ viên Uỷ ban kiểm sát và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị, Uỷ ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bầu và bãi miễn.

 

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp do đại hội đại biểu nhân dân (hội đồng nhân dân) cùng cấp bầu và bãi miễn; nhưng phải báo cáo với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên một cấp để đề nghị Uỷ ban Thường vụ đại hội đại biêủ nhân dân cấp đó phê chuẩn. Phó viện trưởng, uỷ viên Uỷ ban kiểm sát và kiểm sát viên các cấp do Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cùng cấp đề nghị, Uỷ ban thường vụ đại hội đại biểu nhân dân cấp đó bổ nhiệm và bãi miễn.

 

Nhiệm kỳ cả viện trưởng viện kiểm sát nhân dân các cấp tương đương với nhiệm kỳ của mỗi khoá đại hội đại biểu nhân dân cùng cấp.

 

Trợ lý kiểm sát viên và thư ký ở cấp nào do viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp đó bổ nhiệm và bãi miễn.

 

Kiểm sát viên bị buộc thôi việc khi có một trong những lý do sau đây: liên tục trong 2 năm không đạt yêu cầu trong các cuộc kiểm tra sát hạch hàng năm; không hoàn thành nhiệm vụ đang đảm trách nhưng lại không chấp nhận việc bố trí sang công tác khác; do tổ chức lại cơ quan kiểm sát hoặc do giảm biên chế nên phải điều chỉnh công tác, nhưng kiểm sát viên đó không chấp nhận việc sắp xếp hợp lý của cơ quan; nghỉ việc không có lý do chính đáng trong thời gian qúa 15 ngày liên tiếp hoặc tính tổng cộng trong một năm vượt quá 30 ngày; không thực hiện nghĩa vụ của kiểm sát viên và đã được giáo dục nhưng vẫn không sửa chữa… Trước khi quyết định cho kiểm sát viên thôi việc phải thực hiện việc miễn trừ chức vụ kiểm sát viên theo trình tự do pháp luật quy định.

 

Chế độ lương của cán bộ kiểm sát do Nhà nước quy định, căn cứ vào đặc điểm của công tác kiểm sát. Điều 38 Luật cán bộ kiểm sát quy định: "Thực hiện chế độ tăng lương định kỳ cho cán bộ kiểm sát. Sau khi kiểm tra sát hạch nếu xác định là xuất sắc hoặc đạt yêu cầu thì có thể tăng lương theo quy định; người có cống hiến đặc biệt có thể được tăng lương trước kỳ hạn theo quy định".

 

Kiểm sát viên được hưởng phụ cấp kiểm sát, phụ cấp khu vực, phụ cấp khác và bảo hiểm, phúc lợi theo quy định của Nhà nước (điều 39 Luật cán bộ kiểm sát).

 

2. ở Nhật Bản:

 

Sau chiến tranh thế giới lần II, Nhật Bản tiến hành cải cách cơ bản nền tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc hiến định. Cuộc cải cách này đã tạo cho nền tư pháp Nhật Bản sự phát triển ổn định. Một trong những niềm tự hào của nhân dân Nhật Bản đối với nền tư pháp của nước họ chính là đội ngũ công tố viên, Thẩm phán, luật sự - đội ngũ những người được mệnh danh là "không thể mua chuộc". ở Nhật Bản không có quy chế đạo đức nghề nghiệp của công tố viên, Thẩm phán và luật sự, nhưng Bộ Tư pháp ban hành quy chế đạo đức của các cán bộ tư pháp.

 

Đội ngũ cán bộ tư pháp được tuyển chọn kỹ lưỡng, đào tạo công phu cả về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. Hàng năm, Bộ Tư pháp tổ chức kỳ thi quốc gia chung để tuyển chọn công tố viên, Thẩm phán và luật sư. Kỳ thi này gồm 3 vòng, thí sinh đỗ vòng trước mới được dự thi vòng sau.

 

- Vòng I (vòng thi trắc nghiệm): thí sinh phải trả lời 60 câu hỏi về Hiến pháp, luật hình sự, luật dân sự (vòng thi này thường được tổ chức vào tháng 4 hàng năm).

 

- Vòng II (vòng thi viết): Trong 3 ngày thí sinh phải viết tiểu luận về các môn Hiến pháp, luật hình sự, luật dân sự, luật thương mại.

 

- Vòng III (vòng thi vấn đáp): thí sinh phải thi 6 môn trong trong 6 ngày. Thí sinh trượt vòng thi này có quyền thi lại một lần nữa.

 

Trung bình mỗi năm có khoảng từ 25.000 đến 30.000 người dự vòng I, nhưng vào vòng III chỉ còn lại từ 800 đến 1.000 người và số người thi đỗ chỉ chiếm 2,5% đến 3% tổng số người dự thi. Thực tế cho thấy, rất ít người thi một lần đỗ ngay, mà phần lớn phải thi đến lần thứ tư, thứ năm mới đỗ. Chính vì vậy, tuổi trung bình của những người thi đỗ khá cao (27 tuổi).

 

Những người trúng tuyển kỳ thi trên cón phải học ở trường đào tại các chức danh tư pháp trong 2 năm. Tất cả các học viên đều được học theo một chương trình thống nhất. Sau khi họ tốt nghiệp, Chính phủ căn cứ vào kết quả học tập, nhu cầu của các cơ quan tư pháp và nguyện vọng của cá nhân để quyết định ai về công tác tại viện công tố để trở thành công tố viên, ai về công tác ở Toà án để trở thành Thẩm phán và ai làm luật sư.

 

Ngoài ra, công tố viên còn được bổ nhiệm từ những phó công tố viên đã có trên 3 năm kinh nghiệm công tác và đã kỳ thi đặc biệt.

 

Phó công tố viên được bổ nhiệm từ các công chức đã có một thời gian công tác nhất định ở viện công tố, Toà án, cơ quan điều tra và đỗ kỳ thi đặc biệt. Phó công tố viên chỉ được công tác ở viện công tố cấp huyện và cũng chỉ được giải quyết các vụ án đơn giản.

 

Cứ vài năm một lần, các công tố viên trẻ được thuyên chuyển qua lại giữa các viện công tố quy mô lớn, quy mô vừa và quy mô nhỏ. Trong thời gian đó, dựa vào kinh nghiệm nghề nghiệp, các tố viên lâu năm giúp đỡ, hướng dẫn các công tố viên trẻ giải quyết bồi thường những vụ án đơn giản dần dần đến những vụ án phức tạp. Cùng với việc học hỏi tại chỗ, công tố viên và phó công tố viên phải qua các khoá đào tạo lại theo những chương trình khác nhau, tương ứng với số năm công tác. Chương trình đào tạo lại các công tố viên và phó công tố viên do viện nghiên cứu đào tạo pháp vụ phụ trách.

 

ở Nhật Bản có các loại hình đào tạo công tố viên sau đây:

 

- Đào tạo nghiệp vụ cho công tố viên mới bổ nhiệm. Chương trình đào tạo có hai phần. Phần thứ nhất là, các cán bộ cao cấp ngành công tố, các giáo sư đại học và các cán bộ Viện nghiên cứu đào tạo pháp vụ giảng về một số vấn đề (giám định chất ma tuý, khám nghiệm hiện trường, giám định pháp y, chính sách hình sự, tình hình quốc tế…) và hướng dẫn học viên nghiên cứu một số vụ án đã xảy ra. Phần thứ hai là, học viên trực tiếp tham gia điều tra và tham gia phiên toà, dưới sự hướng dẫn của các công tố viên có kinh nghiệm (một người hướng dẫn một người).

 

- Đào tạo lại một cách phổ cập cho các công tố viên đã có từ 2 đến 3 năm công tác. Mỗi năm tổ chức họp hai đợt, mỗi đợt 8 ngày. Mục đích của việc đào tạo lại này là bồi dưỡng thêm những kiến thức, kỹ năng cơ bản cần thiết cho nghiệp vụ công tố. Hình thức đào tạo là giảng bài, thảo luận, nghiên cứu một số vụ án cụ thể, với sự tham gia của các chuyên gia, giáo sư đại học, cán bộ của Viện nghiên cứu đào tạo pháp vụ.

 

- Đào tạo lại một cách chuyên sâu cho các công tố viên có từ 7 đến 10 năm công tác. Mỗi năm tổ chức học hai đợt, mỗi đợt 10 ngày. Nội dung đào tạo là những kiến thức, kỹ năng chuyên môn chuyên sâu cần thiết chô công tố trong việc chỉ đạo việc điều tra, truy tố. Thí dụ như tổ chức nghiên cứu các vụ án liên quan đến tội phạm trí tuệ, các vụ án tham nhũng, các vụ án liên quan đến an ninh công cộng và lao động…Hình thức đào tạo cũng giống như đào tạo phổ cập nói trên.

 

- Đào tạo về quản lý hoạt động công tố. Đối tượng của loại hình đào tạo này là những công tố viên được dự định bổ nhiệm vào chức vụ quản lý, thường là những người có từ 12 đến 13 năm làm công tác công tố (việc gửi đi đào tạo do Viện công tố tối cao quyết định). Mỗi đợt đào tạo diễn ra trong năm ngày liên tục. Hình thức đào tạo là, các học viên nghe giảng và nghiên cứu, thảo luận theo đề tài.

 

Nhật Bản có một cơ chế kiểm soát hoạt động của công tố viên, thẩm phán và luật sư rất chặt chẽ. Mặt khác, trong xã hội không có tâm lý là phải hối lộ mỗi khi cần sự can thiệp, giúp đỡ của công tố viên, thẩm phán, luật sư.

 

Trong những điều kiện như trên, thẩm phán, công tố viên, luật sư có điều kiện cống hiến hết sức mình cho công việc và giữ gìn đạo đức nghề nghiệp.

 

II/ Về Thẩm phán:

 

1. ở Trung Quốc:

 

Theo Bộ luật thẩm phán Trung Quốc, những người được xem xét cho giữ chức vụ thẩm phán phải có đủ các điều kiện sau đây: có quốc tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa; có tố chất chính trị, trình độ nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức tốt; có trình độ cao đẳng luật với ít nhất 2 năm kinh nghiệm công tác, hoặc có trình độ đại học luật với ít nhất 1 năm kinh nghiệm công tác, hoặc có bằng thạc sỹ, tiến sỹ luật. Ngoài ra, còn có điều kiện về sức khoẻ: Những thẩm phán do nguyên nhân sức khoẻ mà không thường xuyên thực hiện được nhiệm vụ thì bãi miễn chức vụ, theo quy định khoản 5, điều 13 của Bộ luật thẩm phán.

 

Theo quy định tại điều 10 của Bộ luật thẩm phán thì những người từng phạm tội bị xử phạt về hình sự, công chức đã bị buộc thôi việc không được làm thẩm phán.

 

Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bổ nhiệm và bãi miễn. Thẩm phán toà án nhân dân địa phương do đại hội đại biểu nhân dân cùng cấp bổ nhiệm và bãi miễn.

 

Thẩm phán giữ chức vụ suốt đời. Các chánh án, phó chánh áNhà nước có nhiệm kỳ 5 năm.

 

Trợ lý thẩm phán do chánh án toà án các cấp bổ nhiệm. Trợ lý thẩm phán có nhiệm vụ, quyền hạn như thẩm phán, nhưng chỉ được giao giải quyết những vụ án ít phức tạp.

 

Để được bổ nhiệm làm thẩm phán, trợ lý thảm phán phải trải qua một cuộc thi (nếu đỗ mới được bổ nhiệm). Nội dung thi bao gồm các kiến thức cơ sở (lý luận chính trị, thời sự, chính sách, kinh tế thị trường…), Kiến thức chuyên môn (về luật pháp và về nghiẹp vụ thẩm phán), khả năng vận dụng (trắc nghiệm khả năng quan sát và phân tích, khả năng tổng hợp, phán đoán và khả năng xử lý vấn đề thực tế; khả năng vận dụng kiến thức; khả năng thể hiện qua viết và nói).

 

Những thẩm phán, trợ lý thẩm phán mới được bỏ nhiệm đều phải trải qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ; sau đó ít nhất là mỗi năm được bồi dưỡng nghiệp vụ một lần. Ngoài ra, các thẩm phán cao cấp còn đợc bồi dưỡng những kiến thức, nghiệp vụ xét xử liên quan đến những vấn đề mới nảy sinh hoặc hay gặp vướng mắc trong xét xử.

 

Trường bồi dưỡng thẩm phán bồi dưỡng về: lý luận chung, kinh nghiệm xét xử, chuyên đề pháp luạt và một số kiến thức về các lĩnh vực khác.

 

Tuỳ theo chương trình mà thời gian học là 1 năm, 6 tháng, 3 tháng hoặc một tuần.

 

Những người tham gia giảng dạy bao gồm: giáo viên trường đại học luật, giáo viên của trường bồi dưỡng thẩm phán, thẩm phán có kinh nghiệm. Người giảng dạy tự soạn lấy bài giảng của mình.

 

Ngoài Trung tâm bồi dưỡng thẩm phán thuộc Toà án nhân dân tối cao, các toàn án cấp cao cũng có trung tâm bồi dưỡng thẩm phán (thực hiện bồi dưỡng cho các thẩm phán toà án địa phương, theo quy hoạch và chương trình của Trung tâm bồi dưỡng thẩm phán thuộc Toà án nhân dân tối cao).

 

Cùng với hình thức đào tạo tập trung tại trường, các trung tâm bồi dưỡng thẩm phán còn tổ chức bồi dưỡng từ xa (soạn các băng video, thường là để truyền đạt những quan điểm mới, đường lối xét xử mới).

 

Do hoàn cảnhh lịch sử nên ở Trung Quốc không phải tất cả cán bộ, thẩm phán (được bổ nhiệm trước khi ban hành Bộ luật thẩm phán) đều jcó trình độ đại học, cao đẳng luật. Vì vậy, ngoài việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho thẩm phán, các trung tâm bồi dưỡng thẩm phán ở Trung Quốc còn có nhiệm vụ đào tạo trình độ đại học, cao đẳng luật cho những cán bộ, thẩm phán chưa có trình độ này.

 

Về tiền lương của các thẩm phán, điều 35 Bộ luật Thẩm phán quy định: "Thẩm phán thực hiện chế độ tăng lương định kỳ. Thông qua sát hạch xác định ra thẩm phán ưu tú, thẩm phán xứng đáng với chức vụ để có thể tăng tiền lương theo quy định. Đối với những thẩm phán có những cống hiến đặc biệt có thể tăng tiền lương trước so với quy định".

 

Về tiền trợ cấp cho thẩm phán, điều 36 Bộ luật thẩm phán quy định:"Thẩm phán được hưởng tiền trợ cấp xét xử, trợ cấp khu vực và trợ cấp khác theo quy định của Nhà nước".

 

2. ở Mỹ:

 

ở Mỹ có hai hệ thống toà án: Hệ thống toà án liên bang và hệ thống toà án bang. Đồng thời, cũng có những quy định khác nhau về tuyển chọn, đào tạo, bổ nhiệm, tiền lương…thẩm phán, giữa cấp liên bang với cáp bang và giữa các bang với nhau.

 

Tuy không phải thi tuyển thẩm phán, nhưng một người muốn trở thành thẩm phán phải có nhiều tiêu chuẩn, trong đó có tiêu chuẩn đã hành nghề luật sư ít nhất là 6 năm, mà để được nhận chức danh luật sư, phải qua kỳ thi rất nghiêm ngặt.

 

Nội dung đào tạo thẩm phán rất thiết thực. Nhìn chung, chương trình đào tạo đều nhằm mục đích: truyền đạt kiến thức chuyên ngành npháp luật; nâng cao kỹ năng và nghệ thuật ứng dụng pháp luật; tăng cường ý thức trách nhiệm cho thẩm phán…

 

Chương trình đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán được xây dựng phù hợp với từng loại đối tượng, như:

 

- Đối với các thẩm phán mới, chủ yếu đào tạo những kiến thức cơ bản về nghiệp vụ thẩm phán. Trong mấy năm đầu công tác, các thẩm phán mới thường xuyên phải dự những khoá đào tạo về nghề nghiệp của họ.

 

- Đối với các thẩm phán đã có kinh nghiệm, chủ yếu bồi dưỡng những kiến thức mới về pháp luật, những kỹ năng mới về hoạt động của toà án và nghệ thuật xét xử.

 

- Ngoài ra, còn có chương trình đào tạo cập nhật để giúp thẩm phán nắm bắt kịp thời những kiến thức, kỹ năng mới về nghề nghiệp. Thí dụ như giới thiệu quy tắc tố tụng mới nào đó…

 

Thời gian cho một đợt đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán thường là từ vài ngày đến vài tuần lễ. Đội ngũ giảng viên là những thẩm phán, giáo sư, luật sư có kinh nghiệm và các chuyên gia trong lĩnh vực có liên quan. Hình thức đào tạo thường được áp dụng là thành lập những tổ, nhóm nghiên cứu, thảo luận.

 

ở Mỹ, thẩm phán phải tuân thủ các quy định sau đây:

 

- ủng hộ sự độc lập của cơ quan tư pháp.

 

- Tôn trọng và phục tùng pháp luật, không được để cho gia đình, xã hội và bạn bè thân thích làm ảnh hưởng đến hành vi tư pháp và phán quyết của mình.

 

- Thực hiệnh chức trách thẩm p hán một cách công bằng và mẫn cán.

 

- Tham gia sửa đổi pháp luật và cải tiến những quy định về kỷ luật, về hành chính tư pháp.

 

- Hạn chế tham gia các hoạt động ngoài chức trách tư pháp của mình, để làm giảm đến mức thấp nhất những xung đột có thể có với chức trách tư pháp đó, như: tránh tham dự và các hoạt động tiền tệ và thương mại; thẩm phán và các thành viên khác trong gia đình không được nhận quà biếu, vật kỷ niệm, tiền cho vay nggoài phạm vi pháp luật cho phép; không được tiết lộ hay lợi dụng những tin tức mà bản thân có được trong hoạt động tư pháp vào bát kỳ một mục đích nào khác không liên quan đến chức trách tư pháp của mình; không được làm trọng tài viên hay hoà giải viên; không được hành nghề luật sư, không được nhận chức vụ hành chính có thể ảnh hưởng tới việc thực hiện chức trách tư pháp của mình…

 

- Khai báo định kỳ mức thu nhập từ hoạt động tư pháp và các hoạt động khác; hàng năm tập hợp các khai báo đó giao cho phòng thư ký của toà án mà mình công tác hoặc cơ quan khác theo chỉ định của toà án.

 

- Không được tham gia các hoạt động chính trị không thích hợp với chức trách tư pháp của mình.

 

Tiền lương của thẩm phán phụ thuộc vào cấp của toà án mà thẩm phán làm việc. Tuy nhiên, sự khác biệt về tiền lương của thẩm phán toà án các cấp là không lớn. Thí dụ: tiền lương trong một năm của thẩm phán toà án địa phương là 90.000 USD, của thẩm phán toà án cấp cao lưu động là 95.000 USD, của Thẩm phán Toà án tối cao liên bang là 110.000 USD, của Thẩm phán cấp cao nhất của Toà án tối cao liên bang là 115.000 USD.

 

- ở cấp liên bang

 

Tất cả Thẩm phán của các Toà án liên bang đều do Tổng thống đề cử và Thượng nghị viện phê chuẩn. Sau khi được Thượng nghị viện phê chuẩn thì Tổng thống ra quyết định bổ nhiệm.

 

Việc đào tạo Thẩm phán liên bang thường do nhiều tập đoàn tài chính lớn tài trợ. Giáo trình đào tạo được biên soạn rất phong phú nên đáp ứng nhu cầu của các Thẩm phán có đẳng cấp khác nhau. Một số cơ sở nổi tiếng trong việc đào tạo Thẩm phán là: Học viện Thẩm phán Mỹ, Trung tâm Thẩm phán liên bang, học viện giáo dục tư pháp Mỹ…

 

Hiến pháp liên bang quy định, Thẩm phán các Toà án liên bang giữ chức vụ suốt đời, trừ khi họ vi phạm pháp luật bị phế truất hoặc từ chức. Việc nghỉ hưu của Thẩm phán trước hết tuỳ thuộc vào ý nguyện của Thẩm phán đó. Đối với những Thẩm phán khi nghỉ hưu có đủ hoặc nhiều hơn 65 tuổi và 15 năm làm Thẩm phán hoặc 70 tuổi và 10 năm là Thẩm phán thì có thể được hưởng nguyên lương. Sau khi nghỉ hưu, nếu bản thân Thẩm phán tự nguyện và được phê chuẩn thì có thể tiếp tục hành nghề Thẩm phán ở một Toà án khác, trừ Toà án tối cao của liên bang và được hưởng tất cả quyền lợi của một Thẩm phán.

 

Việc phế truất chức vụ Thẩm phán liên bang phải thông qua Thượng nghị viện và Hạ nghị viện theo trình tự nhất định.

 

- ở cấp bang:

 

Hệ thống Toà án ở tất cả các bang đều được tổ chức theo cấp xét xử, bao gồm: Toà án sơ thẩm, toà án phúc thẩm, Toà án tối cao (một số bang nhỏ không có Toà án phúc thẩm mà Toà án tối cao đảm nhiệm cả việc xét xử phúc thẩm). Tuy nhiên, số lượng, chế độ tuyển chọn, nhiệm kỳ của Thẩm phán thì có sự khác nhau giữa các bang.

 

Có bang thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán, có bang thực hiện chế độ bầu Thẩm phán. Hiện nay, ở cấp bang xu hướng tuyển chọn Thẩm phán theo phương án "Mitsulin". Theo phương án này, thống đốc bang bổ nhiệm tạm thời nhiều Thẩm phán; những Thẩm phán đó phải trải qua một thời gian thử việc nhất định, hết thời gian đó, căn cứ vào kết quả công tác mà nhân dân lựa chọn cho lưu nhiệm hay không lưu nhiệm chức vụ Thẩm phán.

 

Công tác đào tạo Thẩm phán ở các bang phát triển rất mạnh mẽ. Đến năm 1998, toàn nước Mỹ có 27 bang quy định Thẩm phán của bang phải tham gia đào tạo "tại chỗ"; gần 10 bang quy định tất cả các Thẩm phán của bang đều phải tham gia đào tạo bằng các hình thức khác nhau. Có bang còn quy định, những Thẩm phán không tham gia đào tạo hoặc tham gia đào tạo không đạt yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì bị xem xét kỷ luật hoặc yêu cầu từ chức.

 

Cơ quan đào tạo Thẩm phán cấp bang chỉ đào tạo Thẩm phán trong bang và tuyệt đại đa số các cơ quan đào tạo này chỉ đào taọ Thẩm phán (không kết hợp đào tạo loại cán bộ khác). Cơ quan đào tạo Thẩm phán của bang nào chủ yếu đào tạo và pháp luật của bang đó. Vì vậy, nếu Thẩm phán ở bang muốn nghiên cứu, tìm hiểu những kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn ở phạm vi lớn hơn thì phải học tại cơ quan đào tạo Thẩm phán cấp liên bang.

 

Hiệp hội luật sự toàn nước Mỹ và các tổ chức hành nghề có liên quan còn đưa ra những quy định thống nhất để các Toà án tham khảo, như :"tiêu chuẩn giáo dục Thẩm phán", "xét duyệt tư cách Thẩm phán"…

 

Nhiệm kỳ của Thẩm phán các bang cũng rất khác nhau: 4 năm (các bang arizona, Georgia…), 6 năm (các bang Alaska, Colorado…), 8 năm (các bang Conn, Kentucky…), 10 năm (bang Hawaii…), 14 năm (bang New York), đến 70 tuổi (bang NewJersey) hoặc suốt đời (các bang Mass, Rhode Is.).

 

Lý do để xử phạt và bãi miễn Thẩm phán ở các bang không thống nhất. Thẩm phán bị xử phạt và bãi miễn nếu phạm phải những khuyết điểm sau: cố ý không thực hiện [BNCTU1} hoặc trong một thời gian dài không thực hiện chức trách của mình (43 bang quy định), cố ý gây ra những hành vi bất hợp pháp (34 bang quy định), say rượu (34 bang quy định), gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cơ quan sở tại (27 bang quy định), làm tổn hại đến đạo đức (20 bang quy định). Ngoài ra, những Thẩm phán vi phạm điều lệ Thẩm phán, tham ô, hối lộ hoặc tham gia hoạt động chính trị cũng bị xử phạt hoặc bãi miễn.

 

3. ở Đức:

 

Đức quy định rất chặt chẽ về vấn đề thi tuyển Thẩm phán. Thí sinh dự thi được thông báo chi tiết về điều kiện tuyển dụng, trình tự thi tuyển, nguyên tắc lựa chọn… Muốn được nhận chức danh Thẩm phán, thí sinh cần phải đỗ trong hai kỳ thi. Để được sự kỳ thi thứ nhất, thí sinh phải học ít nhất 3 năm 6 tháng về luật tại trường đại học. Những thí sinh đã đỗ trong kỳ thi thứ nhất còn phải thực tập hai năm nữa mới có thể được tham dự kỳ thi thứ hai.

 

Những thí sinh không đỗ trong kỳ thi thứ nhất thì không những toàn bộ quá trình thi thất bại mà trong một khoảng thời gian nhất định sau đó còn không được phép dự thi. Những người ba lần thi không đạt thì vĩnh viễn không được dự thi nữa.

 

Tổng thống liên bang bổ nhiệm Thẩm phán liên bang trong số những người do Bộ trưởng Bộ Tư pháp liên bang cùng với Uỷ ban tuyển chọn Thẩm phán liên bang đề cử. Việc cử Thẩm phán các bang do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bang cùng với Uỷ ban tuyển chọn Thẩm phán bang quyết định.

 

ở Đức có 3 hệ thống tiền lương: hệ thống tiền lương của quân nhân và công nhân viên chức các đơn vị hành chính (16 bậc biểu A và 11 bậc biểu B); hệ thống tiền lương của giáo sư và trợ giáo các trường đại học (biểu C); hệ thống tiền lương của công tố viên và Thẩm phán (biểu R).

 

Nói chung, tiền lương của Thẩm phán rất cao so với tiền lương của công nhân viên chức khác. Thí dụ, tiền lương của Thẩm phán được áp dụng theo 10 bậc thuộc biểu R. Trong đó, bậc 1 và bậc 2 được áp dụng đối với Thẩm phán ở toà á sơ cấp, Toà án vùng và tương đương với 2 bậc lương cao nhất của biểu A; bậc lương cao nhất của Thẩm phán ở Toà án sơ cấp và Toà án vùng tương đương với bậc 1 và bậc 2 của biểu B; mức lương các bậc từ bậc 3 đến bậc 9 của biểu B; mức lương bậc 10 của Thẩm phán tương đương với mức lương bình quân của bậc 10 và bậc 11 của biểu B.

 

ở Đức có Toà án chức vụ Thẩm phán (cả ở cấp bang và cấp liên bang) với chức năng chính là xét xử những Thẩm phán có vi phạm. Các hình thức xử phạt Thẩm phán có vi phạm bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, giảm lương, hạ cấp bậc, buộc thôi chức vụ… Ngoài các hình thức cảnh cáo ra, tất cả các hình thức xử phạt khác đều do Toà án chức vụ Thẩm phán quyết định.

 

4. ở Anh:

 

Một trong những điều kiện để được đảm nhiệm chức vụ Thẩm phán là phải có ít nất 7 năm làm luật sự. Muốn đảm nhiệm chức vụ Thẩm phán của Toà án cấp cao phải có tư cách luật sư tại toà từ 10 năm trở lên và tuổi đời phải trên 50 tuổi; đảm nhiệm chức Thẩm phán toà phúc thẩm phải có trên 15 năm làm luật sư hoặc có quá trình làm Thẩm phán Toà án cấp cao từ 2 năm trở lên.

 

Theo quy định của pháp luật, đại Thẩm phán và Thẩm phán Toà án phúc thẩm do Thủ tướng đề cử, Nữ hoàng Anh bổ nhiệm; Thẩm phán Toà án cấp cao do Nữ hoàng Anh bổ nhiệm theo đề cử của đại Thẩm phán; Thẩm phán các toà án địa phương do đại Thẩm phán bổ nhiệm.

 

Các Thẩm phán Toà án cấp cao, chỉ khi phạm tội nghiêm trọng mới có thể bị cho thôi chức vụ. Việc bãi chức Thẩm phán Toà án cấp cao phải được sự nhất trí của Thượng nghị viện và Hạ nghị viện.

 

5. ở Nhật Bản:

 

Giống như công tố viên và luật sư, Thẩm phán là người được bổ nhiệm từ số người đã đỗ kỳ thi tư pháp quốc gia được tổ chức mỗi năm một lần và qua khoá đào tạo các chức danh tư pháp (xem phần nói về kiểm sát viên ở Trung Quốc).

 

Thẩm phán không thể bị bãi chức, đình chỉ chức vụ, giảm thù lao, trừ khi bị phế truất công khai, bị xét xử hoặc vì lý do sức khoẻ không thể đảm nhiệm chức vụ.

 

Pháp luật Nhật Bản quy định, Thẩm phán đương chức không được đảm nhiệm chức vụ nghị sỹ hoặc tham gia đoàn thể quần chúng ở địa phương; không được đảm nhiệm chức vụ có thù lao khác mà không được sự cho phép của Toà án tối cao; không được kinh doanh thương mại hoặc tiến hành các hoạt động khác vì mục đích kinh tế.

 

Toà án tối cao Nhật Bản gồm có Thẩm phán là Chánh án và 14 Thẩm phán khác. Chánh án Toà án tối cao do Nhật Hoàng bổ nhiệm, trên cơ sở đề cử của Chính phủ. Các Thẩm phán khác của Toà án tối cao do Chánh án đề cử, Chính phủ bổ nhiệm, Nhật hoàng phê chuẩn.

 

ở Nhật bản, Thẩm phán Toà án tối cao phải là người có tầm nhìn chiến lược, có kiến thức pháp lý sâu rộng,ở độ tuổi trên 40. Trong số 15 Thẩm phán của Toà án tối cao phải có ít nhất 10 người đã từng đảm nhiệm các chức chánh án, Thẩm phán Toà án cấp cap (Toà án vùng) trong thời gian ít nhất là 10 năm, hoặc các chức vụ Thẩm phán Toà án giản lược (Toà án hoà giải), công tố viên, luật sư trong thời gian ít nhất là 20 năm.

 

Tất cả Thẩm phán các Toà án cấp dưới đều do Chánh án Toà án tối cao đề cử, Chính phủ bổ nhiệm; nhưng việc bổ nhiệm Chánh án Toà án cấp cao vẫn phải có sự phê chuẩn của Nhật Hoàng.

 

Tuổi về hưu của Thẩm phán được áp dụng khác nhau đối với các cấp Toà án. Đối với Thẩm phán Toà án tối cao thì tuổi nghỉ hưu là 70, đối với Thẩm phán Toà án cấp cao là 65, đối với Thẩm phán Toà án quận, huyện là 60 và đối với Thẩm phán Toà án giản lược là 75. Như vậy, Thẩm phán Toà án tối cao, Thẩm phán Toà án cấp cao và Thẩm phán Toà án quận, huyện đến tuổi nghỉ hưu vẫn có thể được bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án giản lược.

 

Thẩm phán Toà án tối cao được bổ nhiệm không theo nhiệm kỳ (vô thời hạn), nhưng cứ 10 năm lại được đưa ra trưng cầu dân ý một lần. Nếu trên 50% ý kiến thể hiện sự bất tín nhiệm thì Thẩm phán Toà án tối cao bị buộc phải từ chức. Các Thẩm phán Toà án cấp dưới đều có nhiệm kỳ 10 năm; sau mỗi nhiệm kỳ, nếu không có sai phạm gì thì có thể được tái bổ nhiệm.

 

Nhật bản rất chú ý đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán. Phương pháp chủ yếu là tiến hành nghiên cứu, thảo luận về những vấn đề khó khăn trong thực tiễn xét xử. Thí dụ như: nghiên cứu, thảo luận chuyên đề về những vụ án hình sự, dân sự, gia đình; nghiên cứu, thảo luận xem làm thế nào để nhận định chính xác vụ án, xét xử nhanh, nâng cao hiệu quả giải quyết án. Ngoài ra, còn tiến hành thảo luận chuyên đề nhằm nâng cao năng lực tổ chức, mở rộng tầm hiểu biết cho Thẩm phán, như về những vấn đề: động thái kinh tế thế giới, bảo vệ môi trường, cải cách giáo dục…

 

ở Nhật bản, Thẩm phán và công tố viên được đãi ngộ thoả đáng. Ngạch Thẩm phán, công tố viên có mức lương bằng 1,7 lần so với mức lương của ngạch công chức khác.

 

Lương của Chánh án Toà án tối cao tương đương với lương của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch thượng nghị viện và Chủ tịch Hạ nghị viện. Lương các Thẩm phán khác của Toà án tối cao tương đương với lương của bộ trưởng.

 

Lương của Chánh Toà án cấp cao Tokyo tương đương với lương của Tổng cục trưởng Tổng cục pháp chế thuộc Chính phủ; lương của các chánh án Toà án cấp cao khác cao hơn lương của thứ trưởng và nghị sỹ. Hệ thống lương của các Thẩm phán khác gồm 9 bậc: bậc đặc biệt và các bậc từ bậc 1 đến bậc 8 (từ cao xuống thấp). Lương của Thẩm phán bậc đặc biệt tương đương với lương của Chánh Văn phòng Chính phủ; lương Thẩm phán bậc 3 tương đương với lương của cục trưởng ở một số cục quan trọng; lương Thẩm phán bậc 6 tương đương với lương của phó cục trưởng; lương Thẩm phán bậc 8 thấp hơn lương phó cục trưởng nhưng cao hơn lương của trưởng phòng ở bộ. Hệ thống lương của trợ lý Thẩm phán gồm 12 bậc.

 

Hệ thống lương của Thẩm phán Toà án giản lược gồm 18 bậc, trong đó có 1 bậc lương đặc biệt, còn lại là các bậc từ bậc 1 đến bậc 17 (từ cao xuống thấp). Lương Thẩm phán đặc biệt tương đương với lương của cục trưởng ở một số cục quan trọng; lương của Thẩm phán bậc 3 tương đương với lương phó cục trưởng; lương Thẩm phán bậc 6 và bậc 10 tương đương với lương cao nhất và lương thấp nhất của trưởng phòng ở các bộ; lương Thẩm phán bậc 14 tương đương với lương phó phòng ở các bộ.

 

6. ở Thái lan:

 

Thái Lan thực hiện chế độ Thẩm phán suốt đời và tất cả các Thẩm phán đều do Quốc vương bổ nhiệm, bãi miễn hoặc quyết định cho nghỉ hưu.

 

Quốc vương chỉ xem xét bổ nhiệm Thẩm phán đối với những người trúng tuyển trong kỳ thi chọn Thẩm phán và được Uỷ ban Thẩm phán đề cử.

 

Những người dự thi tuyển Thẩm phán phải có đủ các điều kiện: là công dân Thái Lan; tuổi đời trên 25; có trình độ pháp luật từ cử nhân trở lên; đã hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật (như làm luật sư, thanh tra viên…) từ 2 năm trở lên; có phẩm chất đạo đức tốt.

 

Những người trúng tuyển kỳ thi nói trên còn phải trải qua 1 năm thực tập giải quyết các vụ án và sau đó tiếp tục học tập tại Học viện pháp luật trong thời gian 1 năm 4 tháng; sau khi hoàn thành các công việc trên mới được Uỷ ban Thẩm phán xem xét đề cử Quốc vương bổ nhiệm làm Thẩm phán.

 

Trong quá trình công tác, các Thẩm phán ở mọi cấp xét xử được tiếp tục bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ tại Học viện đào tạo thẩm phán. Ngoài việc bồi dưỡng, đào tạo về lý luận và nghiệp vụ, thẩm phán còn được nghiên cức, khảo sát thực tiễn ở trong, ngoài nước và học môn thể dục nhầm nâng cao thể lực. Mặt khác, việc thăng chức của thẩm phán cũng phụ thuộc nhiều vào kết quả đào tạo tại học viện này.

 

ở Thái Lan, hệ thống tiền lương của các thẩm phán khác với hệ thống tiền lương của các công chức Nhà nước khác và có 9 bậc. Dưới đây là thí dụ về việc áp dụng các bậc lương đối với một số chức vụ trong hệ thống toà án và so sánh với lương một số chức vụ trong các cơ quan khác của Nhà nước:

 

- Bậc cao nhất (bậc 9) áp dụng đối với Chánh án Toà án tối cao và tương đương với lương của Thủ tướng, Chủ tịch Thượng nghị viện, Hạ nghị viện;

 

- Bậc 8 áp dụng đối với phó chánh án Toà án tối cao, Chánh án toà án cấp cấp cao (toà án phúc thẩm) và tương đương với lương của phó thủ tướng, phó chủ tịch Thượng nghị viện, phó chủ tịch Hạ nghị viện;

 

- Bậc 7 áp dụng đối với thẩm phán cấp cao thuộc Toà án tối cao, phó chánh án toà án cấp cao, chánh án toà án dân sự, chánh án toà án hình sự và tương đương với lương của thứ trưởng;

 

- Bậc 6 áp dụng đối với thẩm phán thường của Toà án tối cao, phó chánh án toà án dân sự, chánh án toà án dân sự, chánh án toà án hình sự, chánh án toà án khu vực và tưiơng đương với lương Thị trưởng Băng cốc;

 

- Bậc 5 áp dụng đối với thẩm phán cấp cao của toà án cấp cao và tương đương lương vụ trưởng, cục trưởng;

 

- Bậc 4 áp dụng đối với trợ lý thấm phán Toà án tối cao, thẩm phán thường của toà án cấp cao và hơn lương giám đốc sở;

 

- Bậc 3 áp dụng đối với thư ký Toà án tối cao, thẩm phán toà án dân sự, thẩm phán toà án hình sự, chánh án toà án tỉnh, chánh án toà án phủ (cao hơn huyện một cấp) và tương đương với giám đốc sở;

 

- Bậc 2 áp dụng đối với thấm phán toà án tỉnh, thẩm phàn toà án phủ, thư ký án cấp cao và tương đương với lương trưởng huyện;

 

- Bậc 1 áp dụng đối với trợ lý thấm phán của một số toà án cao thấp và cao hơn lương công chức bậc 1 trong các cơ quan khác của Nhà nước.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHầN THứ BA

 

 

 

 

PHụ LụC Và TàI LIệU THAM KHảO

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

I/ Phụ lục:

 

TìNH HìNH XéT Xử CủA THảM PHáN TOà áN Thẩm phán Hà NộI TRONG NĂM 1999 Và 6 THáNG ĐầU NĂM 2000

 

Năm 1999

6 tháng đầu năm 2000

Trình độ

 

Số vụ án xét xử

Số vụ án mà một thẩm phán xét xử

 

Số vụ án xét xử

Số vụ án mà một thẩm phán xét xử

 

Đại học Luật

 

Trên đại học

1.

Toà án TP Hà Nội

 

59

4.255

72.11

1.731

30.00

50

9

2.

Toà án Q Hoàn Kiếm

 

12

1.037

86.41

381

31.75

11

1

3.

Toà án Q Ba Đình

 

15

890

59.33

338

22.53

15

 

4.

Toà án Q Đống Đa

 

18

1.444

80.22

314

17.44

18

 

5.

Toà án Q Hai Bà Trưng

16

1.555

97.18

639

39.93

16

 

6.

Toà án Q Thanh Xuân

 

7

559

79.85

165

23.57

6

1

7.

Toà án Q Cầu Giấy

 

6

329

54.83

114

19.00

6

 

8.

Toà án Q Tây Hồ

 

7

329

47.00

147

21.00

7

 

9.

Toà án huyện Thanh Trì

10

497

49.70

249

24.90

10

 

10.

Toà án huyện Từ Liêm

 

5

306

61.20

159

31.80

4

1

11.

Toà án huyện Gia Lâm

7

639

91.28

270

31.57

7

 

12.

Toà án huyện Đông Anh

8

448

56.00

190

23.75

8

 

13.

Toà án huyện Sóc Sơn

 

6

295

49.1

87

14.50

6

 

 

 

tình hình xét xử của thẩm phán ngành toà án tỉnh tuyên quang trong năm 1999 và 6 tháng đầu năm 2000

 

 

 

Tổng số thẩm phán

 

Tổng số vụ án xét xử năm 1999

Tổng số vụ án xét xử 6 tháng đầu năm 2000

Hiện có

Đánh giá thừa, thiếu

Số vụ án xét xử

Số vụ án mà một thẩm phán xét xử

Số vụ án xét xử

Số vụ án mà một thẩm phán xét xử

1.

TAND tỉnh

7

Thiếu 1

416

59.43

167

23.85

2.

TAND thị xã Tuyên Quang

3

Thiếu 2

259

86.33

113

37.66

3.

TAND huyện Chiêm Hoá

4

Đủ

194

48.5

100

25

4.

TAND huyện Hàm Yên

2

Thiếu 1

120

60

55

27.5

5.

TAND huyện Yên Sơn

2

Thiếu 3

248

124

73

36.5

6.

TAND huyện Sơn Dương

4

Thiếu 1

268

67

90

22.5

7.

TAND huyện Nà Hang

 

3

Đủ

110

36.66

41

13.66

 

 

 

 

 

 

Thống kê cán bộ cảnh sát điều tra *

 

 

 

Theo báo cáo của 54 địa phương thì cán bộ cảnh sát điều tr (gồm cả tỉnh và huyện) hiện có 10.300 người; trong đó cấp tỉnh có 2.656 người, cấp huyện có 7.644 người, cụ thể như sau:

 

- Điều tra viên cao cấp có 30 người; trong đó, cấp tỉnh có 28 người, cấp huyện có 2 người.

 

- Điều tra viên trung cấp có 1.505 người; trong đó, cấp tỉnh có 875 người, cấp huyện có 630 người.

 

- Điều tra viên sơ cấp có 3.821 người; trong đó, cấp tỉnh có 868 người, cấp huyện có 2.953 người.

 

- Trợ lý điều tra viên có 2.450 người; trong đó, cấp tỉnh có 589 người, cấp huyện có 1.861 người.

 

- Thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan cảnh sát điều tra có 127 người.

 

- Thủ trưởng, phó thủ trưởng Đội cảnh sát điều tra có 1.050 người.

 

- Lãnh đạo Phòng cảnh sát điều tra có 178 người.

 

- Cán bộ quản lý giam giữ có 1.443 người.

 

- Tổng số cán bộ của Cục cảnh sát điều tra ( theo số liệu tính đến tháng 12- 1999) có 235 người; trong đó, điều tra viên cao cấp có 25 người, điều tra viên trung cấp có 101 người, lãnh đạo có 5 người.

 

 

 

 

 

 

 

 

chất lượng đội ngũ kiểm sát viên các cấp

(Năm 1993 so với năm 1998)

 

 

 

 

Chính trị

 

 

Trình độ nghiệp vụ

Sơ cấp

T.cấp

Cao cấp

Trên ĐH

ĐH luật

CĐKS

TCPL + TCK

 

1

KSV cao cấp

125

125

8

80

37

 

20

70

1

2

KSV T. cấp

1530

1485

295

1060

107

 

236435

807

26

3

KSV sơ cấp

3694

2900

872

2001

26

   

1500

80

 

Tổng

5349

4483

1175

3141

170

 

691

2377

107

Năm 1998

1

KSV cao cấp

151

151

 

107

44

8

59

83

 

2

KSV T.cấp

2040

2031

569

1606

206

11

644

1166

10

3

KSV sơ cấp

3659

3246

702

2868

88

2

924

2023

39

 

Tổng

5850

5428

1271

4581

338

21

1627

3272

49

So sánh năm 1993 với năm 1998

+501

+945

+96

+1440

+168

+21

+936

+895

-58

 

Ghi chú: Số KSV các cấp gồm cả lãnh đạo, quản lý các cấp.

 

Công tác kiểm sát điều tra

thụ lý KSDT

 

án kết thúc điều tra chuyển viện kiểm sát xử lý

án phải xử lý

án đã xử lý

Thụ lý

Tăng giảm so với năm trước

Số vụ

Tăng giảm so với năm trước

Tỷ lệ giải quyết

1993

51.334

 

38.053

 

35.493

 

93,2

1994

54.891

3.485 = 6,8%

41.174

3.121 = 8,2%

38.425

2.932 = 8,2%

93,3

1995

60.070

5.251 = 9,6%

45.476

4.302 = 10,4%

42.688

4.263 = 11%

93,8

1996

63.714

3.664 = 6%

50.063

4.587 = 10%

47.144

4.456 = 10,4%

94,1

1997

67.836

4.122 = 6,5%

52.534

2.471 = 5%

49.619

2.475 = 5,2%

94,4

1998

71.672

3.836 = 5,6 %

56.265

3.731 = 7,1%

53.557

3.938 = 8%

95,1

So sánh giữa năn 98 với 93

20.338 = 40%

 

18.212 = 48%

 

18.064 = 51%

 

 

Công tác kiểm sát xét xử hình sự

Thụ lý xét xử

Số vụ án đã xét xử

Số vụ án

Tăng giảm so với năm trước

Số vụ án

Tăng giảm so với năm trước

Tỷ lệ giải quyết

1993

46.542

 

38.409

 

82,5%

 

1994

51.266

4.724 = 10,1%

41.963

3.554=9,2%

82%

1995

57.791

6.525 = 12,7%

48.319

6.356=15,1%

83,6%

1996

64.177

6.380 = 11%

54.441

6.122=12,7%

84,8%

1997

70.008

5.831 = 9,1%

59.483

5.042=9,3%

85%

1998

74.474

4.466 = 6,4%

61.364

1.881=3,1%

82,4%

So sánh giữa năm 1998 với năm 1993

27.932 = 60%

 

22.955 = 60%

 

 

 

Công tác kiểm sát xét xử dân sự (sơ thẩm+ phúc thẩm+ giám đốc thẩm)

 

 

thụ lý xét xử

số vụ án đã xét xử

Số vụ án

tăng giảm so với năm trước

số vụ án

tăng giảm so với năm trước

tỷ lệ giải quyết

1993

32.235

 

16.054

 

49,80%

1994

36.810

4.575=14%

16.725

671=4,2%

45,4%

1995

43.754

6.944=18,8%

18.372

1.647=9,8%

42%

1996

54.977

11.223=25,6%

22.414

4.042=22%

40,7%

1997

66.103

11.126=20,2%

27.552

5.138=23%

41,7%

1998

72.765

6.662=10%

24.489

-3.063=-11%

33,6%

So sánh giữa năm 1998 với năm 1993

40.530=126%

8435

52372=33%

 

 

 

Bảng so sánh

 

Thẩm phán cấp huyện

Thẩm phán cấp tỉnh

 

Tổng số

Trên đại học

 

Đại học

 

Trung cấp

 

Luân huấn

 

Sơ cấp

Đang học ĐHL

 

Tổng số

Trên đại học

 

Đại học

 

Trung cấp

 

Luân huấn

 

Sơ cấp

Trước năm 1993 do chế định bầu cử

1.373

 

25

604

227

292

 

619

 

438

53

118

10

Hiện nay theo chế định bổ nhiệm tính đến (31/12/99)

2.227

14

1861

46

279

 

279

925

21

822

 

72

 

Thẩm phán Toà án quân sự cấp quân khu 54; Thẩm phán toà án cấp khu vực 54; tổng cộng 108 người.

Trình độ chuyên môn của Thẩm phán toà án quân sự khá đồng đều, không có trường hợp nào phải nợ tiêu chuẩn chuyên

 

TàI LIệU THAM KHảO

 

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4. Nhà xuất bản chính trị quốc gia; Hà Nội-1995.

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nhà xuất bản chính trị quốc gia; Hà Nội-1996.

Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khoá VII. Nhà xuất bản chính trị quốc gia; Hà Nội-1995.

Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII. Nhà xuất bản chính trị quốc gia; Hà Nội-1997.

Văn kiện hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII. Nhà xuất bản chính trị quốc gia; Hà Nội-1999.

Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa, tập II. Nhà xuất bản chính trị quốc gia; Hà Nội-1995.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân. PTS Nguyễn Đình Lộc. Nhà xuất bản chính trị quốc gia; Hà Nội-1998.

Từ điển Luật học. Nhà xuất bản Từ điển bách khoa; Hà Nội-1999.

Tìm hiểu nội dung Hiến pháp 1992. Nhà xuất bản Sự thật; Hà Nội 1992.

Tìm hiểu về Nhà nước pháp quyền. Nhà xuất bản Pháp lý-1992.

Thuyết "Tam quyền phân lập" và bộ máy nhà nước tư sản hiện đại. Viện thông tin khoa học xã hội;Hà Nội-1992.

Thông tin khoa học pháp lý. Chuyên đề về: Tư pháp hình sự so sánh. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp, 1999.

Thông tin khoa học pháp lý. Chuyên đề về: Người Thẩm phán nhân dân. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý-Bộ Tư pháp, năm-2000.

Báo cáo tổng kết công tác của Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 1997, 1998, 1999.

Báo cáo công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa X.

Báo cáo của Ban cán sự đảng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về công tác tư pháp, ngày 28-11-2000.

Báo cáo tổng kết công tác của Toà án nhân dân tối cao năm 1997, 1998, 1999.

Báo cáo cuả Chánh án Toà án nhân dân tối cao tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá X về công tác toà án.

Báo cáo tổng kết công tác của Bộ Tư pháp năm 1997, 1998, 1999.

Báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện công tác quản lý toà án nhân dân về mặt tổ chức và công tác thi hành án dân sự tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá X.

Sơ thảo lich sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam, Viện Luật học. Nhà xuất bản Khoa học xã hội; Hà Nội-1983.

Các báo cáo khoa học về chuyên đề: Xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý-Bộ Tư pháp, tháng 9-1993.

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tăng thẩm quyền xét xử cho toà án cấp huyenẹ và việc nâng cao hiệu quả của công tác giám đốc tái thẩm; số đăng ký: 96-98-062/ĐT.

Đề tài gnhiên cứu khoa học cấp bộ: Vị trí pháp lý của Điều tra viên trong tố tụng hình sự. Vụ pháp chế-Bộ Nội vụ.

Tạp chí Dân chủ và pháp luật; số 1-2000.

Tạp chí Toà án nhân dân; số 2, 10-2000.

 

 

File đính kèm downloadTải về